Professional Documents
Culture Documents
A.Mở đầu:
Tình hình thế giới từ những thế kỉ trước đến nay diễn ra liên tục với rất nhiều sự biến đổi phức tạp,
rắc rối và khó lường trước được, biết bao sự kiện diễn ra một cách nhanh chóng và bất ngờ, điều
này có thể mở ra những thời cơ và cơ hội để nắm bắt hoặc cũng có thể là những cạnh tranh và
thách thức đáng ghờm đối với mỗi quốc gia. Bởi thế nên sự hội nhập quốc tế ngày càng được chú ý
hơn và trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động tới quan hệ giữa các quốc gia, dân
tộc trong quá trình ổn định, xây dựng và phát triển… mối quan hệ giữa con người với con người
được đề cao một cách mạnh mẽ, con người muốn tồn tại và phát triển phải có mối liên kết chặt chẽ
với nhau, cũng như một quốc gia muốn phát triển cần phải có những mối quan hệ gắn kết, hợp tác
với các quốc gia khác. Tuy nhiên vẫn còn xuất hiện các vấn đề tiêu cực của tình hình thế giới như
nạn phân biệt chủng tộc, chiến tranh hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, xung đột tôn giáo,
xung đột vũ trang, tội phạm thế giới,..v..v, các vấn đề này không những không thuyên giảm mà
còn xảy ra với nhiều hình thức phức tạp và đáng báo động hơn. Những vấn nạn này đặt ra cho mỗi
quốc gia và các chủ thể quốc tế rằng cần có những góc nhìn khoa học và bao quát hơn về tình hình
thế giới hiện nay, bên cạnh đó đưa ra những giải pháp, những chủ trương, đường lối đúng đắn để
tiếp nhận và nắm bắt các cơ hội cũng như giải quyết triệt để các vấn nạn này và vượt qua mọi
thách thức. Nhìn lại 35 năm sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ và toàn
diện. Sự phát triển ngày càng hoàn thiện về hội nhập quốc tế đã giúp đất nước ta tiến nhanh và gần
nhất để đạt được nhiều thành tựu to lớn ấy, ngày càng khẳng định vị thế của mình trên trường quốc
tế đặc biệt là trong khu vực.
Với những điều trên có thể thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu về quan hệ quốc tế trong thời
buổi hiện đại hiện nay, các vấn đề về chính trị - quân sự, xã hội, an ninh,.. các hoạt động của hệ
thống quan hệ quốc tế vẫn còn diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi cần có những góc nhìn
và ý tưởng mang tính khoa học khái quát và bao quát nhất nhằm giải thích cho các hoạt động này
của hệ thống quốc tế. Vì vậy nên các lý thuyết trong chủ nghĩa quốc tế đóng vai trò rất quan trọng
trong việc diễn giải và phân tích thực tiễn các mối quan hệ quốc tế, tìm hiểu bản chất của quan hệ
quốc tế và bên cạnh đó cũng có thể định hướng và dự đoán tương lai. Việc ứng dụng lý thuyết
quan hệ quốc tế khá phổ biến ở các nước phát triển trong khi lại có phần hạn chế hơn ở các nước
đang phát triển. Nước ta cũng là một nước đang phát triển nên việc nghiên cứu các đề tài về lý
thuyết quan hệ quốc tế là rất cần thiết để hiểu rõ hơn về mọi mặt tình hình thế giới và khu vực,
củng cố môi trường ổn định, hòa bình nhờ đó phục vụ hiệu quả hơn cho công cuộc xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới đặc biệt là trong khu
vực. Bởi thế nên việc nghiên cứu đề tài về ba chủ nghĩa hiện thực, tự do và kiến tạo trong quan hệ
quốc tế cũng góp phần giúp chúng ta hiểu hơn về lý luận và thực tiễn, chính sách đối ngoại của thế
giới trong thời buổi hiện nay.
B. Nội dung:
I.Giới thiệu:
1.Khái quát chung:
Quan hệ quốc tế là một môn khoa học đa lĩnh vực, không chỉ nghiên cứu về chính trị mà còn ở
nhiều lĩnh vực như sự giao lưu về kinh tế - xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục,…của các quốc gia hoặc
giải quyết những vấn đề chung trên thế giới. Các lý thuyết quan hệ quốc tế cũng được hình thành
để lý giải cho những vấn đề chung đó. Lý thuyết quan hệ quốc tế là tập hợp quan điểm tương đối
bao quát, cách tiếp cận và góc nhìn riêng về quan hệ quốc tế trên cơ sở lý luận chung. Hệ thống
Quan hệ quốc tế là một trong những vấn đề nghiên cứu quan trọng bậc nhất của lý thuyết quan hệ
quốc tế. Chủ thể chính tham gia quan hệ quốc tế trước hết là các quốc gia, căn cứ vào những lợi
ích của quốc gia, dân tộc để xác định hành vi của mình trên vũ đài quốc tế... Ngoài ra, khi những
vấn đề chính trị xảy ra ngày một đa dạng và phức tạp, để đối phó với sự thách thức về tư duy này
các nhà lãnh đạo có xu hướng tìm hiểu về các lý thuyết kết hợp với việc tính đến các đặc điểm,
cấu trúc của hệ thống quan hệ quốc tế để xây dựng chính sách đối ngoại của mình.Tuy nhiên các
lý thuyết này xuất hiện không theo một trật tự nhất định mà dần được hình thành trên những quan
điểm riêng của các nhà nghiên cứu quốc tế, tiêu biểu là sự ra đời của ba chủ nghĩa quốc tế là chủ
nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do ở những thời kì đầu tiên và sau này là chủ nghĩa kiến tạo. (Đào
Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa
QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
2.Mục đích:
Mặc dù hoàn cảnh ra đời và quan điểm lý luận của từng chủ nghĩa khác nhau và đôi khi có cả sự
đối lập nhưng chung quy lại cũng có chung những mục đích. Thứ nhất là mục đích khát quát, mô
tả thực tiễn tình trạng quan hệ quốc tế và thông qua thực tiễn tìm hiểu bản chất của quan hệ quốc
tế, coi lý thuyết là một phần thiết yếu không thể thiếu để cấu thành thực tế quan hệ quốc tế và
ngược lại thực tiễn cũng là cơ sở để hình thành nên các lý thuyết, nếu các lý thuyết đưa ra không
phù hợp với tình hình thực tiễn thì cũng không được công nhận mà bị xem là phi thực tiễn. Thứ
hai đó là mục đích giải thích các vấn đề xảy ra trong hệ thống quốc tế và dự đoán về tương lai của
các mối quan hệ, mỗi chủ nghĩa có một quan điểm khác nhau vì vậy việc giải thích các vấn đề này
cũng mang những chiều hướng trái ngược nhau nhưng mỗi lý thuyết lại có những mặt đúng riêng.
Bên cạnh đó việc phát hiện ra những quy luật không chỉ giúp giải thích mà còn giúp dự báo và
tiên đoán trước tương lai tình hình quan hệ quốc tế, đây là việc các nhà nghiên cứu lý thuyết cố
gắng hoàn thành . Tất cả các lý thuyết đều đưa ra dự báo về tương lai của các mối quan hệ thế
giới dựa trên góc nhìn của mình. Nhìn chung, tất cả các mục đích trên đều phục vụ cho một mục
đích cuối cùng đó là giúp các nhà lãnh đạo hay các quốc gia hoạch định ra những tư duy đúng đắn
, chính sách phù hợp để quyết định hành vi của mình một cách tối ưu nhất với tình hình quốc tế và
đem lại những cơ hội hay lợi ích cho quốc gia, dân tộc.
II. Các chủ nghĩa quan hệ quốc tế:
Bởi các mối quan hệ quốc tế tác động và chi phối quá lớn đối với cuộc sống và vận mệnh quốc
gia nên việc nghiên cứu về quan hệ quốc tế đã xuất hiện từ lâu. Những quan niệm lý luận và ý
tưởng đầu tiên được thành văn liên quan đến quan hệ quốc tế xuất hiện ở cả phương Tây và
phương Đông từ 400 - 500 năm trước Công nguyên. Tuy nhiên trước thế kỉ XX các lý thuyết chỉ
là những quan điểm mang tính riêng biệt chứ chưa có một lý thuyết quan hệ quốc tế nào được
hình thành một cách hệ thống có trật tự hay được công nhận, dù vậy nhưng đây cũng là tiền đề
cho sự ra đời của các chủ nghĩa và các lý thuyết quan hệ quốc tế sau này. Vậy bản chất và hình
thức hoạt động của các chủ nghĩa này ra sao và nó mang ý nghĩa như thế nào? Phần này sẽ đi vào
làm rõ các khía cạnh của ba chủ nghĩa tiêu biểu nhất trong quan hệ quốc tế: chủ nghĩa hiện thực,
tự do và kiến tạo.
1.Chủ nghĩa hiện thực: (Realism)
1.1 Khái quát: đây là một chủ nghĩa có lịch sử lâu đời nhất, là trào lưu nghệ thuật lấy hiện thực xã
hội và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng trọng tâm để hình thành quan điểm lý
thuyết . Chủ nghĩa hiện thực hướng tới cung cấp cho con người những bức tranh chân thực, sống
động nhất về tình hình chính trị quốc tế, cuộc sống cũng như môi trường xã hội xung quanh.
Trường phái này xuất phát từ các tài liệu của Thucydides về cuộc chiến tranh Peloponnese.
Những nhân vật khác ảnh hưởng đến suy nghĩ hiện thực là nhà triết học người Ý Nicolo
Machiavelli vào thế kỷ XVI và nhà triết học người Anh Thomas Hobbles vào thế kỷ XVII. Chủ
nghĩa hiện thực xứng đáng có một sự xem xét cẩn thận vì thế giới quan của nó tiếp tục chỉ dẫn
nhiều tư duy về chính trị quốc tế.( Trương Minh Huy Vũ, 18/02/2015)
1.2. Các quan điểm lý thuyết:
Chủ nghĩa hiện thực xoay quanh những giả định chính sau: thứ nhất, hệ thống quốc tế là vô chính
phủ, không có một siêu chính phủ hay một thẩm quyền chính trị nào cao nhất đứng đầu các quốc
gia và có quyền quyết định các hoạt động trong quan hệ giữa các nước mà mỗi Nhà nước phải tự
xem xét và đưa ra những chính sách phù hợp để ổn định tình hình trong và ngoài nước, do đó
quốc gia, dân tộc được xem là chủ thể chính và gần như là duy nhất trong lý thuyết chủ nghĩa hiện
thực trong khi các chủ thể khác như các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các công ty đa
quốc gia, các nhóm hay các cá nhân không có vai trò đáng kể., các quốc gia coi sự hợp tác chỉ
mang tính tương đối chứ không tuyệt đối, không có một liên minh nào tồn tại bền vững, đây cũng
là một hạn chế của trường phái này. Thứ hai, vấn đề quyền lực được đề cao hơn bao giờ hết, chủ
nghĩa hiện thực quan niệm quyền lực là công cụ thiết yếu để đảm bảo an ninh và sự tồn tại của
mỗi quốc gia trong hệ thống thông qua việc cố gắng giành được càng nhiều nguồn lực càng tốt, và
sức mạnh quân sự được xem là chìa khóa tối ưu, mạnh mẽ và đáng tin cậy nhất. Các quốc gia đặc
biệt là các nước lớn có xu hướng muốn theo đuổi, phát triển lợi ích riêng của họ nên mục tiêu to
lớn là nâng cao quyền lực cho đất nước, biểu trưng qua sức mạnh quân sự, từ đó tình hình thế giới
luôn trong tình thế cạnh tranh, đối đầu căng thẳng (nhiều trường hợp dưới hình thức chiến tranh,
xâm lược, xung đột vũ trang). Bên cạnh những nước lớn thì các nước yếu hơn cũng nhận ra được
những bất an, các mối nguy hiểm tiềm tàng khi các nước lớn phát triển và bành trướng như vậy
nên buộc họ cũng phải chạy đua nâng cao quyền lực nhằm đảm bảo an ninh của mình không bị đe
dọa. Tuy nhiên cuộc chạy đua tranh giành quyền lực dẫn tới việc các quốc gia đối mặt với một
"thế lưỡng nan về an ninh”.
Tiêu chí Chủ nghĩa hiện thực Chủ nghĩa tự do Chủ nghĩa kiến tạo
Chủ thể Quốc gia Quốc gia, các tổ chức Cá nhân, tổ chức,
phi quốc gia, tổ chức quốc gia, giới tinh
quốc tế, công ti xuyên hoa…
quốc gia,..
Bản chất Bản chất con người là Bản chất con người là Chính trị, quyền lực
ích kỉ vị tha không phải tự nhiên
có mà có thể thay đổi
bởi con người qua
thực tiễn
Động cơ dẫn đến Tối đa hóa quyền lực, Các chủ thể coi trọng Nhấn mạnh ý thức,
hành vi coi trọng lợi ích quốc lợi ích chung của suy nghĩ, bản sắc
gia nhau, có thể diễn ra riêng của từng chủ thể
sự hợp tác, hòa bình
Quan niệm về môi Tình trạng vô chính Có các thể chế về Không đề cao hợp tác
trường an ninh, hợp phủ, nâng cao quyền kinh tế, thương mại, nhưng nhấn mạnh về
tác lực bằng quân sự vì … coi trọng sự hợp an ninh toàn cầu, chia
lợi ích riêng, hợp tác tác phát triển hòa bình sẻ lợi ích, bản sắc văn
liên minh chỉ là tạm trên mọi lĩnh vực hóa.
thời không chỉ quân sự
Học thuyết gia Thomas Hobbes Moravcsik Alexander Wendt
Niccolò Machiavelli Imanuel Kant Richard K. Ashley
Thucydides Woodrow Wilson Friedrich Kratochwil
Machiavelli David Mytrany John Ruggie
3. 'Miếng thịt kẹp' Bhutan giữa hai ông lớn Ấn Độ và Trung Quốc:
Bhutan là một quốc gia có diện tích bé hơn rất nhiều so với hai “anh hàng xóm” Ấn Độ và Trung
Quốc. Nổi tiếng với tên gọi “quốc gia hạnh phúc nhất thế giới” nhưng sự thật là họ luôn phải đối
mặt với những nguy hiểm gây nên bởi hai cường quốc lớn bên cạnh, vì là quốc gia nhỏ kẹp giữa
nên nghiễm nhiên lại trở thành đồ chơi trong cuộc đấu tranh chính trị giữa một bên là Ấn Độ, bên
còn lại chính là Trung Quốc, họ luôn phải ở trong tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Bên cạnh đó,
Trung Quốc luôn có mong muốn biến Bhutan thành một phần lãnh thổ nên liên tục có những hành
động bành trướng quyền lực của mình, can thiệp quân sự đến lãnh thổ Bhutan cụ thể như việc
công binh Trung Quốc đổ dồn về Doklam, vốn đang là đối tượng tranh chấp giữa Bhutan và
Trung Quốc vào năm 2017,… đây là một minh chứng cho quan điểm lòng tham của các quốc gia
muốn giành nhiều quyền lực về tay mình bằng xung đột về quân sự của chủ nghĩa hiện thực. Điều
này khiến Bhutan là một nước nhỏ muốn tồn tại một cách ổn định bắt buộc phải liên minh với một
quốc gia khác, và sự lựa chọn tối ưu nhất ở đây chính là Ấn Độ. Từ đây lại xuất hiện các quan
điểm của hai chủ nghĩa tự do và kiến tạo, cũng bởi có sự tương đồng và gần gũi về tôn giáo, dân
tộc và văn hóa với nhau và đều có chung một kẻ thù là Trung Quốc nên hai nước này rất dễ dàng
đi đến hợp tác và trở thành liên minh chặt chẽ. Ấn Độ luôn là đối tượng hợp tác bền vững và tin
cậy của Bhutan trong khi đó lại không có bất kì sự hợp tác nào giữa Bhutan và Trung Quốc,
“quốc gia hạnh phúc nhất thế giới” này luôn phải dè chừng và đối phó với mọi thủ đoạn của
Trung Quốc.
Hệ thống thế giới và các mối quan hệ quốc tế luôn là những vấn đề nóng hổi khi nói đến vai trò
của các chủ thể quốc gia, Nhà nước. Trước các thách thức đặt ra ngày càng phức tạp của tình hình
thế giới, nếu chỉ nhìn nhận theo góc độ của một chủ nghĩa hiện thực, tự do hay kiến tạo đều không
thể lý giải đầy đủ được các vấn đề trong quan hệ quốc tế. Có thể thấy ở mỗi ví dụ lý thuyết của cả
ba chủ nghĩa này đều phân tích được thực tiễn một cách có lý, mỗi chủ nghĩa chỉ giải thích đúng
một phần của quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó khi trải qua các cuộc tranh luận giữa Chủ nghĩa Hiện
thực và Chủ nghĩa Tự do những khiếm khuyết đã dần được chỉ ra đã góp phần đóng góp đáng kể
cho sự phát triển lý thuyết quan hệ quốc tế thúc đẩy sự thay đổi giữa hai lý thuyết này , điều chỉnh
và bổ sung để hình thành hai trường phái mới là Chủ nghĩa Hiện thực Mới và Chủ nghĩa Tự do
Mới. Chủ nghĩa hiện thực, giả định cuộc đấu tranh liên tục giữa các quốc gia là quan trọng nhất
và chủ nghĩa tự do lại kết luận một điều rất ngược lại là khả năng của các mối quan hệ hòa bình
và công bằng là rất có thể. Cho đến nay, hai trường phái này đã trở thành các trường phái chính
trong quan hệ quốc tế và vẫn tiếp tục có ảnh hưởng nhiều trong thực tiễn. Một đóng góp quan
trọng khác là cuộc tranh luận đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều lý thuyết quan hệ quốc tế mới và sự
xuất hiện của chủ nghĩa kiến tạo. Về lý thuyết, thuyết kiến tạo xã hội đưa ra lời giải thích chi tiết
và chính xác hơn về chiến tranh không chỉ so với chủ nghĩa hiện thực mà còn với chủ nghĩa tự do.
Chủ nghĩa kiến tạo tập trung vào các yếu tố xã hội và tầm quan trọng của các ý tưởng cho phép nó
giải quyết các vấn đề thậm chí không thuộc phạm vi của chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa tự do.
Tính ưu việt của chủ nghĩa kiến tạo được biểu hiện qua việc bằng những ý tưởng và quan niệm có
thể nhìn bao quát và có thể giải thích chủ nghĩa hiện thực, trong khi chủ nghĩa hiện thực không có
khả năng ngược lại. Và những lý thuyết đúng đắn của cả ba chủ nghĩa này bên cạnh những
khuyết điểm của từng chủ nghĩa đã chứng minh ba chủ nghĩa này là các mảnh ghép hoàn hảo cho
nhau và có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Khi có sự phối hợp của cả ba trường phái này sẽ khiến
việc phân tích và giải thích các vấn đề quan hệ quốc tế không còn là những thách thức lớn nữa.
(Phạm Văn Min - Nghiên cứu Quốc tế số 3 (90) 9/2012)