You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

VIỆN KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ


( Foreign Trade University )

-----------------o0o-----------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ

Sinh viên thực hiện: Hoàng Việt Anh


Mã sinh viên : 2214518005
Số thứ tự : 05
Lớp tín chỉ : Anh 30
Giảng viên giảng dạy: Trần Huy Quang

Quảng Ninh, 2023


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật
2. Khái niệm kinh tế đối ngoại, vai trò và tính tất yếu khách
quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Hiện trạng hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU

Hơn mười năm gia nhập WTO là một chặng đường đủ dài để chúng ta nhận ra
những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình hội nhập kinh tế. Sự phát triển kinh tế
đối ngoại trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là
quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Lợi ích kinh tế xã hội mà
kinh tế đối ngoại mang lại cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội được thể
hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội như phát
triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, tích luỹ ngoại tệ,
tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước giải quyết việc làm cải thiện đời sống nhân
dân...Tuy nhiên, hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế. Vì
vậy việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là vấn đề cấp bách và cần
thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung
và phát triển năm 2011) của Đảng đã ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của mình. Xuất phát từ nhận thức, những kiến thức được học nên em
lựa chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật trong
hoạt động kinh tế đối ngoại”.
Bằng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, phân và tích tổng
hợp, tiểu luận này giúp bạn đọc hiểu thêm về thành tựu cũng như hạn chế, nguyên
nhân cũng như giải pháp cho hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay.
Do sự hiểu biết và vận dụng lý luận của Mác – Lê-nin còn hạn chế nên bài tiểu
luận này của em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô giúp đỡ,
góp ý để em hoàn thành bài tiểu luận này.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật
Trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt quan điểm toàn diện. Với tư cách là
một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan
điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét sự vật như một chỉnh thể của tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng trong bản
thân sự vật; mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác và với môi trường xung
quanh, kể cả các mặt các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
Trong nhận thức, tính toàn diện là yêu cầu tất yếu của cách tiếp cận khoa học, cho
phép tính đến mọi khả năng của vận động có thể có của đối tượng nghiên cứu trong
tính toàn vẹn của nó. V.I.Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiêm cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó”; phải tính đến “tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy
với những sự vật khác”. Nghĩa là phải xem xét khách thể trong tất cả những mối
liên hệ và quan hệ của nó với khách thể khác. Tuy nhiên, theo V.I.Lênin: “Chúng
ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải
xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phòng cho chúng ta không phạm sai lầm và sự cứng
nhắc”. Sở dĩ chúng ta không làm được điều đó một cách đầy đủ là với hai lý do:
Một là, sự vật trong quá trình tồn tại phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau,
trong mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển không phải bao giờ sự vật cũng bộc lộ tất
cả các mối quan hệ và liên hệ của nó cũng như các quan hệ của sự vật với các sự
vật khác, hơn nữa tất cả những mối quan hệ và liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra
trong những điều kiện nhất định.
Hai là, bản thân chúng ta -những chủ thể nhận thức -những phẩm chất và năng lực
của chúng ta luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó không bao
giờ có thể bao quát được hết những mối liên hệ và quan hệ của sự vật với các sự
vật khác. Ví dụ, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang thực hiện còn sơ khai, các yếu tố của thị trường mới được tạo lập chưa đồng
bộ, các quan hệ thị trường đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, còn
đang biến động, do đó, nhận thức về kinh tế thị trường của chúng ta còn chưa đầy
đủ. Do đó quan điểm toàn diện gắn chặt với quan điểm lịch sử -cụ thể. Tuy nhiên
về mặt nguyên tắc, trong những điều kiện cho phép, cần phải nắm được thông tin
đầy đủ nhất về sự vật để có nhận thức toàn diện nhất và đúng đắn nhất về sự vật.
Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật chúng ta cần xem xét
nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Cùng một sự vật, xuất
phát từ nhu cầu khác nhau chủ thể sẽ phản ánh những mặt khác nhau của sự vật và
do vậy, nó biểu hiện ra là những cái khác nhau. Mối liên hệ giữa sự vật với nhu cầu
của chủ thể rất đa dạng, trong một hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh
một số mối liên hệ xác định của sự vật với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận
thức về sự vật cũng mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được
điều đó chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật và
tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự vật, không thể bổ
sung, không thể phát triển.
Xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật đòi hỏi phải
chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới
thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình
vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật. V.I.Lênin viết: “Phép
biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ
trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu
ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”. Như vậy xem xét toàn diện nhưng không bình
quân dàn đều mà có trọng tâm, trọng điểm; phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố,
từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng; phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái chủ yếu nhất, bản chất nhất,
quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến diện chỉ
thấy một mặt mà không thấy mặt khác, hoặc giả chú ý đến nhiều mặt nhưng lại
xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được bản chất của sự vật. Quan điểm này
cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung. Chủ nghĩa chiết trung
cũng tỏ ra chú đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng lại không biết
cách rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản của sự vật, xem xét mộtcách bình
quân, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, tạo thành một mớ
hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng và bất lực trước
chúng.
Trong tác phẩm “Lại bàn về công đoàn...”, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sai lầm của
Bukharin về mặt lý luận -trong trường hợp này về mặt nhận thức luận -là đã thay
thế phép biện chứng bằng chủ nghĩa chiết trung”. Điều đó làm cho Bukharin lúng
túng mất phương hướng và rơi vào chủ nghĩa công đoàn. Còn “Sai lầm của Trốtxki
là tính phiến diện, sự thiên lệch, thổi phồng, ngoan cố”. V.I.Lênin cho rằng: “Nếu
cứ giữ mãi sai lầm đó, thì kết quả không phải là cái gì khác hơn là một thiên hướng
công đoàn chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa cộng sản”.
Thuật nguỵ biện cũng để ý đến nhiều mặt nhiều mối liên hệ khác nhau của sự vật
nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản
chất. Cả chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện của
phương pháp luận sai lầm trong xem xét các sự vật, hiện tượng. Vạch rõ đặc điểm
của chủ nghĩa chiết trung và phép nguỵ biện khác với phép biện chứng, V.I.Lênin
viết: “Tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái niệm, áp dụng một cách chủ
quan bằng chủ nghĩa chiết trung và nguỵ biện. Tính linh hoạt áp dụng một cách
khách quan nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất
của quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác sự phát triển
vĩnh viễn của thế giới ”.
Trong bối cảnh quốc tế cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 của thế kỉ XX,
khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và tan vỡ, chủ nghĩa
xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng và thoái trào, một số nước tư bản lại có bước
phát triển mới về lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, lối xem xét phiến diện,
một chiều sẽ làm người ta dễ hoang mang dao động, phủ nhận tính tất yếu diệt
vong của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Rõ ràng nguyên tắc toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn đều, liệt kê
những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó; nó đòi hỏi phải làm
nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. Từ những
phân tích trên cho thấy, lôgíc của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong
nhận thức, xem xét sự vật sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm
ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ cụ thể của sự vật
rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó, và cuối cùng đi tới
khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
Từ nguyên tắc toàn diện trong nhận thức, chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ trong
hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải
áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác
động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật. Song trong từng
bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt. Nghĩa là phải kết
hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” trong cải
tạo sự vật.

2. Khái niệm kinh tế đối ngoại, vai trò và tính tất yếu khách quan
của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
a, Khái niệm
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể
các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với
quốc gia khác còn lại hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới
nhiều hình thức, hình thành và cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân
công lao động quốc tế.
b, Vai trò
Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các các mặt sau đây:
-Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế;
nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực.
-Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn
viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa
học, kỹ thuật, công nghệ; khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và
quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
- Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện
đại.
-Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ
thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tất nhiên, những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động
kinh tế đối ngoại vượt qua được những thách thức (mặt trái) của toàn cầu hoá và
giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
c, Tính tất yếu của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc
lập, tự chủ, nhưng phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ
thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ những yếu tố khách quan. Do điều kiện địa
lý, sự phân bố không đều của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không một quốc
gia nào có khả năng đảm bảo tất cả những sản phẩm cơ bản. Mọi quốc gia đều phụ
thuộc nước ngoài với mức độ khác nhau về các sản phẩm đó. Chính vì vậy mở
rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu đối với hầu hết
các nước. Tính khách quan và phổ biến của nó bắt đầu từ yêu cầu của quy luật về
sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố tài nguyên thiên
nhiên và sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế -kỹ thuật giữa
nước này với nước khác, dẫn đến nhu cầu sử dụng sao cho có hiệu quả nguồn lực
mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng
trở nên sôi động.
Mặt khác, sự phụ thuộc giữa các quốc gia còn bắt nguồn từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất và cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới. Lịch sử thế
giới đã chứng minh rằng không có một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển
nếu thực hiện chính sách tự cấp, tụ túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng
trưởng cao đều là những nước dựa vào chiến lược KTĐN để thúc đẩy kinh tế trong
nước phát triển; biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-công
nghệ để hiện đại hoá nền sản xuất, biết khai thác những nguồn lực ngoài nước để
phát huy các nguồn lực trong nước.
Đối vối nước ta, vốn là một nước nghèo và kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu,
trang bị kỹ thuật và cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội thấp kém, song có nhiều tiềm năng
chưa được khai thác, việc phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa
học công nghệ với bên ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp
bách.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Hiện trạng hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay

a, Những thành tựu đã đạt được


Sau chặng đường hơn 10 năm gia nhập WTO, kết quả đáng ghi nhận là kinh tế
nước ta đã phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong thương mại, dịch
vụ, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI). Trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch.
Tổng số vốn FDI đăng ký mới và bổ sung đạt 146 tỉ USD, gấp 7 lần so với giai
đoạn 2001-2005. Hội nhập, đã phá được thế bao vây cấm vận, tạo được sự bình
đẳng trong thương mại quốc tế. Hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó nòng cốt là
ngoại thương tiến bộ rõ rệt. Thị trường được rộng mở tới 149 nền kinh tế thành
viên. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9
tháng năm 2018 ước tính đạt 178,91 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2017
(quý III đạt 64,73 tỷ USD, tăng 13,9%). Chỉ tính riêng tháng 9 năm 2018 có 26 mặt
hàng có kim ngạch uất khẩu trên 1 tỉ USD , chiếm tới 90,3% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước, trong đó có 5 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD, chiếm 58,2%.
Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách du lịch quốc tế
vào Việt Nam năm 2017 đã đạt 12,9 triệu và hiện có hàng trăm ngàn lao động Việt
Nam đang làm việc ở nước ngoài, đem lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng nam
cho đất nước.
Các doanh nghiệp trong nước đã được quyền bình đẳng với doanh nghiệp nước
ngoài trong xuất khẩu, giảm thiểu sự phân biệt hoặc rào cản thương mại bất hợp lý.
Điều đó thể hiện rõ đối với doanh nghiệp dệt may khi đón nhận cơ hội chuyển dịch
sản xuất từ các nước phát triển sang những nước đang phát triển thông qua làn
song chuyển giao công nghệ, mẫu mã. Đặc biệt, vấn đề hạn ngạch – vốn là rào cản,
gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nhiều năm, được dỡ bỏ bên cạnh việc doanh
nghiệp được bình đẳng về thuế quan với doanh nghiệp các nước. Một sân chơi
mới, rộng lớn và song phẳng đã mở ra, tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp
huy động, sử dụng các nguồn lực một cách chủ động để phục vụ mục tiêu phát
triển bền vững. Quá trình hiện đại hóa trang bị, dây chuyền sản xuất đã diễn ra với
tốc độ cao ở hầu hết doanh nghiệp. Doanh nghiệp đang kết hợp cả hoạt động gia
công với việc tự sáng tạo mẫu mà, tự tìm thị trường xuất khẩu và cạnh tranh có
hiệu quả. Tác dụng to lớn về mặt xã hội từ xuất khẩu hàng dệt may được xác nhận
vì cứ một tỷ USD xuất khẩu bảo đảm cho 150 ngàn người có việc làm ổn định.
Việt Nam đang đứng trong số 10 nước dẫn đầu về xuất khẩu dệt may, với tốc độ
tăng trưởng bình quân 25%/ năm.
b, Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước ta ở cả 3 cấp quốc gia, ngành
hàng, doanh nghiệp còn kém, thể hiện là giá thành còn cao, phẩm cấp thấp so với
chuẩn quốc tế, chất lượng phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Nguyên nhân của vấn
đề này do chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc gia trong khu
vực: tuy chí phí lao động thấp nhưng giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng
không, điện nước,… đều cao, công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp
Việt Nam thì chưa được gọi là tiên tiến.
Thứ hai, đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Buôn bán
quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các
nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ
tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết
hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải
xin phép ngân hàng cấp. Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong các yếu tố
quyết định sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước ta việc cung cấp các tín
dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở
ngại. Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay vốn phiền hà, những quy
chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong điều kiện thị trường bất động sản hoạt động

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lê-nin”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. PGS-TSKH Võ Đại Lược, “Kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay: tình hình và
giải pháp”
3. Tổng cục thống kê: https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?
tabid=382&ItemID=18956
4. Tổng cục du lịch: http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/25583

You might also like