You are on page 1of 22

TRƯỜNG……..

KHOA……

logo

Tên đề tài

Sinh viên:

Lớp:

Ngành:

….., tháng ….. năm 2021

1
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ VÀO QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………2

B. NÔI DUNG……………………………………………………………………………3

1. Cơ sở lý luận về quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong phép biện chứng
duy vật

1.1. Lý luận chung về quan điểm toàn diện trong phép biện chứng duy
vật…………….....3

1.1.1. Khái quát chung về nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy
vật…3

1.1.2. Nội dung cơ bản nguyên tắc toàn diện trong phép biện chứng duy
vật……………..5

1.2. Những nội dung cơ bản của quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật………
7

2. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy
vật vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội vào quá trình đổi mới ở nước
ta………..9

2.1. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử vào phát triển kinh tế xã hội ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay………………………………………………………….9

2
2.2. Những thành quả và hạn chế đạt được trong 35 năm đổi mới của Đảng ta trên lĩnh
vực kinh tế - xã hội………………..
…………………………………………………………..11

3. Giải pháp về việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử nhằm phát
triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện
nay………………………………………….14

C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………….…….15

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….…….……16

A. MỞ ĐẦU

Trước thời điểm đổi mới (năm 1986), việc vận dụng quan điểm toàn diện và
quan điểm lịch sử đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội, bảo thủ và trì trệ;
không tuân theo các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong xác lập quan hệ sản xuất,
chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại
giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành
phần kinh tế khác, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá
bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển,
tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.
Nền kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển.

3
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định phải đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đưa ra nhận định nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế – xã hội, chỉ rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng
đường tiếp theo của thời kì quá độ, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Xác
định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân coi phát triển
giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đại hội lần thứ 10
của Đảng (4-2006) một lần nữa rút ra bài học “đổi mới toàn diện toàn bộ, có kế thừa,
có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt
động thực tiễn, từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước đối với hoạt động cụ thể
trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội
nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm và có những bước đi thích hợp, bảo đảm sự gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ giữa 3 nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt và phát triển văn hóa – nề tảng tinh thần của xã hội.

Qua 35 năm đổi mới việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sự
cụ thể vào công cuộc đổi mới ở nước ta đã có nhiều thành công đáng kể trong việc
phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiên nay. Ngày nay với nền kinh tế hội nhập
kinh tế quốc tế, đã cho thấy được việc vận dụng đúng đắn và hợp lý về quan điểm
toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể trong cuông cuộc đổi mới kinh tế - xã hội hiện
nay có vai trò đặt biệt quan trong trong công cuộc đổi mới hiện nay.

B. NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận về quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong phép biện
chứng duy vật

4
1.1. lý luận chung về quan điểm toàn diện trong phép biện chứng duy vật

1.1.1. Khái quát chung về nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng
duy vật

a. Khái niệm liên hệ, mối liên hệ

Khái niệm liên hệ. Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác với
nhau, qua đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là
những đối tượng thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối trượng, các thuộc
tính của nó thay đổi, và trong một số trường hợp có thể làm nó biến mất, chuyển hóa
thành đối tượng khác. Sự tồn tạo của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ
thuộc vào các tương tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có
liên hệ với các tối tượng khác. Vậy mối liên hệ là gì?

“Mối liên hệ” là một phạm trù của triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc
tương hỗ, quy định và các yếu tố ảnh hưởng lần nhau với các yếu tố, bộ phận trong
một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Cũng có thể quan hệ dùng để chỉu
khái niệm “quan hệ”, nhưng khái niệm quan hệ rông hơn “liên hệ”. Liên hệ chỉ quan
hệ giữa hai đối tượng nếu thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối ttượng
kia thay đổi. Chẳng hạn, vậ động của vật thể có liê hệ hữu cơ với khối lượng của nó,
bởi sự thay đổi vận tốc vận động tất yếu làm khối lượng của nó thay đổi; các sinh vâth
đều có liên hệ với môi trường bên ngoài: những thay đổi của môi trường làm tất yếu
làm cơ thể có sự thay đổi tương ứng; công cụ lao động có mối liên hệ với đối tượng
lao động: những thay đổi của công cụ lao động gây ra những thay đổi xác định trong
đối tượng lao động mà các công cụ đó tác động nên, đến lượt mình biến đổi của đối
tượng lao động tất yếu gây ra những biến đổi ở các công cụ lao động…

b. Các tính chất của mối liên hệ

Tính khách quan của mối liên hệ. Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối
liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm
5
đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyên hóa lẫn nhau của các sự
vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng
các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Tính phổ biến của mối liên hệ.
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào
tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời,
cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao
gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ
một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên
hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Tính đa dạng của các mối
liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật,
hiện tượng đều có nhiều mối liên hệ khác nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và
crián tiếp, cơ bản và không cơ bản… chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn
tại, phát triển của sự vật đó; đồng thời, mỗi mối liên hệ đó lại có những biểu hiện
phong phú khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau…

c. Bài học phương pháp luận rút ra từ nguyên lý mối liên hệ phổ biến

Bài học phương pháp luận của nguyên lí mối liên hệ phổ biến: Quan điểm toàn
diện. Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể
thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ
của chỉnh thể đó. Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu
của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có
như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều
thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ tác động qua lại của các đối tượng. Thứ ba, cần
xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung
quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời
gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ,
hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với

6
quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú
ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng
nên dễ rơi vào thuật ngụy biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản
và ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái
ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).

1.1.2. Nội dung của nguyên tắc toàn diện trong phép biện chứng duy vật

Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của
phép biện chứng duy vật. Cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lí về mối
liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự
vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa
các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tương
ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện trong khác,
tránh cách xem xét phiến diện, một chiều. Nguyên tắc toàn diện đồi hỏi phải xem xét,
đánh giá tìmg mặt, tùng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu,
bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện trong tránh chủ nghĩa chiết
trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật nguy biện, coi
cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn
đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.

Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp
cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có của
sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tượng trong một
chính thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng
các mối liên hệ của chúng. Muốn thực sự hiểu được sự vật, cân phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp của sự vật đó,
phải tính đến “tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác.
Tuy nhiên, cũng theo VI. Lênin, chúng ta không thể làm được điều đó hoàn toàn đầy
7
đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ để phòng không phạm sai lầm
và cứng nhắc. Sở dĩ chúng ta không làm được điều đó hoàn toàn đầy đủ bởi trong quá
trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng phải trải qua nhiều giai đoạn tồn tại, phát
triển khác nhau, trong mỗi giai đoạn đó không phải lúc nào sự vật, hiện tượng cũng
bộc lộ tất cả các mối liên hệ bến trong và bên ngoài của nó. Hơn nữa, tất cả những
mối liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định. Và bản thân con
người, những chủ thể nhận thức với những phẩm chất và năng lực của mình luôn bị
chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó không thể bao quát được hết những
mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, hiện tượng.

Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng
ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ
giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng. Trong mỗi hoàn cảnh
nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng
phù hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con người về sự vật, hiện
tượng mang tính tương đối, không đầy đủ, trọn vẹn. Nắm được điều đó sẽ tránh tuyệt
đối hoá những tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và tránh coi những tri thức đã có là
những chân lí bất biến, tuyệt đối, cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không bổ sung,
phát triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của
sự vật, hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như
vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá
trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng. Theo
VI, Lênin, phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tấ cả các mặt của những
mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy
một mẩu ở chỗ này, mộtmẩu ở chỗ kia. Như vậy, xem xét toàn diện nhưng không bình
quân, dàn đểu" mà có trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố,
từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối

8
liên hệ của sự vật, hiện tượng để khái quát, rút ra mối liên hệ chủ yếu nhất, bản chất
nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của chúng.

1.2. Những nội dung cơ bản của quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy
vật

Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cung là một trong những nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản, trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của
nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
trong điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điểm xuất phát của
ngiuyên tắc lịch sử cụ thể là sự tồn tại vận động, phát triển của sự vật hiện tượng trong
không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác
nhau thì có mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau.
Bởi vậy, không chỉ nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn
cảnh- cụ thể khác nhau.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mỗi sự vật hiện tượng đều
có quá trình, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ
thể, ao gồm mọi sự vật thay đổi và phát triển diễn ra trog điều kiện, hoàn cảnh khách
nhau trog không gian và thời gian khác nhau. Bởi vậy, nghiên tắc lịch sử cụ thể đòi
hỏi để nhận thức đầu đủ về sự vật hiện tượng, chúng ta cần phải xem xét sự vật hiện
tượng đó trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyền hóa trong các hình thức biểu
hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn
tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn liền với điều kiện
hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các sự vật, hiện tượng tồn tại. Nghiên cứu sự vật, hiện
tượng trong sự vật động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân
tích tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan
trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Nguyên tắc lịch
sử cụ thể được Lênin nêu rõ và cô đọng, “xem xét mỗi vần đề theo quan điểm sau đây:
một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó trải
9
qua những giai đoạn chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem
xét hiện nay nó trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chổ, trong
quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại
của nó, phải tái tạo lại được những sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận
động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là
tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những
bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng
nhất của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt
của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà
có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức
biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức, được bản chất của nó.

Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ
biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động,
làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật như định và hình
thức của vận động quyết định bản chất của nó, phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ
thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mối tình
hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiền thì mới có thể hiểu, giải
thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và
lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.

Nguyên tắc lịch sử – cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra
trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn
yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật,
hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ
định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật,
hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng
mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái

10
chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên
cứu, tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hoá của nó, quy định giai đoạn
phát triển này sang giai đoạn pháttriển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển
hoá thành trạng thái khác, hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích
các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của nó, nhận thức được bản chất của nó.

Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng
trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ vong
của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất của các sự vật, hiện tượng thể của
sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt và từ đó mới có
định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người. Đối với việc nghiên cứu quá
trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc
của quá trình đó vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và
các thành tựu khoa học trước đó.

Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử – cụ thể và đối với
các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử – cụ thể không kết hợp các
sự kiện đơn lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chi ra mối liên hệ nhân quả giữa
các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng tạo
nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử.

Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các
mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian
tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng, tránh
khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần
đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hoá tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong
cả quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là
điều tất yếu.

11
2. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong phép biện chứng
duy vật vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội vào quá trình đổi mới ở nước ta.

2.1. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử vào phát triển kinh tế
xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bước vào thời kì đổi mới (từ đại hội VI năm 1986) Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nhận ra được nhiều hạn chế trong các hoạt động nhận thức và chỉ đạo trước đó của
mình. Nguyên nhân là chưa biệt vận dụng, hoặc là vận dụng một cách giáo điều máy
móc học thuyết Mác – Lênin, tư tường Hồ Chí Minh và các quan điểm trên (quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử). Thay đổi đầu tiên diễn ra từ trong nhận thức,
Đảng ta đã ý thức được sâu sắc rằng, cách mạng là sáng tạo, chân lý cụ thể. Nguyên
tắc “phân tích cụ thể trong một tình hình cụ thể” như là bản chất là kinh hồn của chủ
nghĩa Mác đã được tích cực vận dụng như một nguyên tắc phương pháp luận khoa học
trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Đảng. Đảng nhấn mạnh hơn nhiều đến sự cần
thiết phải nắm vững các nguyên tắc và phương pháp luận biện chứng duy vật vào
phân tích, đánh giá thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch
sử cụ thể trong nghiên cứu, nhận định tính hình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, công tác lý luận, khoa học, giáo dục, để vận dụng tốt hơn vào xây dựng đấy
nước.

Vận dụng nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể của trong phép
biện chứng duy vật đã giúp đất nước chúng ta đạt được những thành tựu trong quá
trình đổi mới kinh tế - xã hội. Vận dụng phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa
duy vật về quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể Đảng đã đổi mới tư duy lý
luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bắt đầu từ đại hội VI (1986)
Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới toàn diện và dần hoàn thiện qua các kì đại hội
đại hội đổi đường lối đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, cho
phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển, chủ ý đảm bảo hợp lý lợi ích
cá nhân làm động lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô,
12
sắp xếp lại các lĩnh vực và khu vực sản xuất chính, có chính sách biến đổi dịch vụ sản
xuất kinh doanh và đời sống là đời sống thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu
kinh tế, do đất nước đã xây dựng được nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp - nông
nghiệp – dịch vụ tương đối hợp lý, gắn liền với trong nước và thị trường quốc tế.

Từ những yếu kém, không thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau của
nền công nghiệp hóa trước khi đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về tính tất yếu,
mô hình, mục tiêu, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa là sự
chuyển đổi cản bản, toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng công cụ lao
động đơn giản là chính sang dùng công nghệ lao động có công nghệ cao với phương
tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại có khả năng vượt trội. Đó là quá trình
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến xã hội nông nghiệp lạc
hậu nước ta thành xã hội công nghiệp, hiện đại hoá.

Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay để xây dựng thành công chủ nghĩ xã hội,
Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, hiệu quả và bên vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế
xã hội tăng cường quốc phòng an ninh; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh.

Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh mối quan hệ “giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”
là một trong tám mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt. Mục tiêu tổng quát
13
khi kết thúc thời kì quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo
cơ sở để nước ta trở thành một đất nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh hạnh
phúc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội cũng nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ; Khoa học công nghệ giữ vai trò
then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nên kinh tế. Phát triển khoa
học công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát
triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển nền kinh tế thị
trường trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta , trong cương lĩnh này
khẳng định; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thưc sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh, và hình thức tổ
chức phân phối; các thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh. Kinh tế tập thể không ngững củng cố và phát triển.

  Đại hội XII tiếp tục xác định “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh
tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị
trường”.

Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, Đảng đã từng bước áp dụng các nguyên tắc biện chứng duy vật cơ bản vào phân
tích nguyên nhân yếu kém trong công tác này, nêu một số vấn đề có tính phương pháp
luận là: việc xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải gắn

14
với củng cố chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ phù hợp với các điều
kiện chuyển đổi nến kinh tế. Phải luôn chăm lo phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam ở mọi cấp chính quyền, bởi vì Đảng là của giai cấp công nhân,
đồng thời của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Do vậy, vấn đề xây dựng Đảng
vững mạnh về tư tưởng luôn được đặt lên vị trí hàng đầu trong bất kì hoàn cảnh nào
Đảng cũng phải kiên định những nguyên tắc lí luận phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích tình hình, vận dụng sáng tạo để ra
chủ trương, đường lối, chính sách sát hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong
giai đoạn hiện nay.

Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể để giải quyết thoả đáng vấn đề đảng viên
làm kinh tế tư nhân và kết nạp người làm kinh tế tư nhân vào Đảng. Ở đây rõ ràng là
phải có cách tiếp cận toàn diện. Một mặt, Đảng kiên trì nguyên tắc đảng viên phải là
người lao động, không bóc lột, một khác, Đảng đã xem xét các điều kiện cụ thể, tính
đến những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn để cho phép và hướng dẫn, tạo điều kiện cho
đảng viên làm người làm kinh tế tư nhân giỏi, giải quyết việc làm cho người lao động,
mang lại lợi ích cho xã hội, làm giàu chính đáng cho bản thân, tuân thủ pháp luật, gia
nhập Đảng Cộng sản.

2.2. Những thành quả và hạn chế đạt được trong 35 năm đổi mới của Đảng ta
trên lĩnh vực kinh tế xã hội

2.2.1. Những thành quả đạt được

Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã
đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 -
1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 -
1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có
mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù
năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng

15
GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả
về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người
mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Những nỗ lực
đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ
đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019,
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ
đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong
vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là
một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra,
tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát
triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập
trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn
hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh
vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.

Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội. Trong suốt quá trình
35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn
hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi
trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết
việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần
kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự
phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi
với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được
những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993
xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020

16
(theo chuẩn nghèo đa chiều). Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật
chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu
vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực
ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau
5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN. Vị thế các trường đại học của
Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp
thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt
Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới.
Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những
năm gần đây. Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ
đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất,
trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa
bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn
chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ
cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch
bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin
phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng Covid-19...Bên cạnh đó, công tác bảo đảm
an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ
hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời
sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số.

Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao. Trong35 năm đổi
mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa
dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về
kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong
nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh

17
tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt
Nam. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song
phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham
gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm
gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế -
thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc
Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những
cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...

Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong
các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức
của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò
ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam
đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng
Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ
2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016
– 2018. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên
không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch
AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại
nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

2.3. Những hạn chế còn tồn đọng

Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu
nhất quán và những bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do
18
vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch. Thứ hai, tăng
trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực lượng sản
xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh quốc
tế chưa cao. Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí,
chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình
đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của
một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải
thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật
chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất
hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường
truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.

3. Giải pháp về việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử nhằm
phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay

Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng bộ
trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng
đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay
đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước,
từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải
quyết. Trước đây, trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ, trên cơ sở phân tích
toàn diện bản chất xã hội Việt Nam là thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng ta chỉ rõ hai
mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc xâm
lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ,
phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân với để quốc xâm lược và bọn tay sai
phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần tập trung lực lượng giải quyết, sau đó giải
quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn vẹn. Ngày nay, trong quá trình lãnh đạo
19
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi
mới cả lĩnh vực kinh tế và linh vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình đổi mới vừa qua đã
chứng minh tính đúng đắn của những quan điểm đó.

Trong mọi hoạt động cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Việc nghiên cứu
trong các ngành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại phải trong môi liên
hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có nhiều sự vật, hiện tượng đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh vực xã hội, nguyên tắc toàn diện
cũng có vai trò quan trọng. Chúng ta không thể hiểu được bản chất một hiện tượng xã
hội nếu tách nó ra khỏi những mối liên hệ, những sự tác động quả lại với các hiện
tượng xã hội khác. Trong thời kì đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay,
nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ tác động sẽ không đánh giá đúng
tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể, và do vậy sẽ
không đánh giá hết những khó khăn, những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.

Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (14). Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố,
phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước

20
ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội.

Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng
khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới
sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt
động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy
định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.

C. KẾT LUẬN

Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong đó việc vận dụng quan điểm
toàn diện và quan điểm lịch sử trong giai đoạn hiện nay có vai trò đặt biệt quan trong
trong thời kì cách mạng công nghiệp 4.0, với nền kinh tế hội nhập quốc tế cùng nhau
phát triển hiện nay. Có thể thấy được sự phát triển của đất nước trong 35 năm đổi mới
nhất là đại hội VI (1986) về đổi mới toàn diện đánh dấu về sự cải cách toàn diện trên
mọi mặt của đời sống con người với việc lấy phát triển kinh tế - xã hội là trong tâm thì
trong những năm qua cho ta thấy được những thành công đáng kể.

21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Giáo trình Triết học Mác – Lênin

[2]. Tạp chí kinh tế - xã hội, bài báo về tăng trưởng kinh tế trong hơn 30 năm

[3]. Tạp chí kinh tế, bài báo phát triển xã hội trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại
hóa

22

You might also like