Professional Documents
Culture Documents
Nghiencuu - Phathoc - PhapLuan 2
Nghiencuu - Phathoc - PhapLuan 2
PHÁP LUÂN
Số 2
VU LAN 2551
(*)
Selected papers on Buddhist Contributions to Good Governance and
Development, the 4th International Buddhist Conference on the United Nations
Day of Vesak and the Auspicious Occasion of His Majesty the King’s 80th
Birthday Anniversary at Buddhamonthon, Nakhon Pathom and United Nations
Conference Center, Bangkok, Thailand 26-29 May 2550/2007.
1
Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Mâu Tử, Tổng hợp Publishing House of
Hochiminh city, 2006, p. 414.
Pháp Thuận’s theory
The first case is the theory of good state governance and
development proposed by Zen Master Pháp Thuận (915-990). In a
poem entitled Quốc tộ (National destiny 國祚), in response to the
question by Emperor Lê Đại Hành (reigned 980-1005) about the
destiny of the Vietnamese nation, recorded in Thiền uyển tập anh
(Collection of Outstanding Figures in Zen Garden 禪苑集英 ),
Pháp Thuận said:2
Quốc tộ như đằng lạc 國祚如藤絡
Nam thiên lý thái bình 南天裏太平
Vô vi cư điện các 無為居殿閣
Xứ xứ tức đao binh 處處息刀兵
Nation’s destiny is just like a bunch of intertwined rattan
Peace reigns over the southern sky
No-action stays in the palace
War will be stopped everywhere
In this poem, Pháp Thuận discusses war and peace and the method
for stopping war, enabling peace to be maintained - forever in
Vietnam. These are the words that the Vietnamese people of Pháp
Thuận’s time aspired towards and fervently desired to be present
in their country after the resistance war for national independence
in 939 A.D., and during the war between the warlords from 944 to
968. The key issue here is how to stop war and bring peace to the
people and the Nation’s destiny depends upon the answer to that
question. In Pháp Thuận’s views, for the war to be stopped, the
first and foremost requirement is to have “no-action staying in the
palace”. What does the word no-action in this context mean? In
Buddhist terminology, the Chinese word no-action (wu wei 無為)
is used to translate the Sanskrit asamkṛta which means “the
2
Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Phương Đông Publishing
House, 2005, p.289&823. Cf. Cuong Tu Nguyen, Zen in Medieval Vietnam,
Honolulu: University of Hawai’i Press, 1997, p.171; Nguyễn Duy, Kevin
Bowen, Nguyễn Bá Chung, Zen Poems from Early Vietnam, Saigon Cultural
Publishing House, 2005, p.17.
3
Lê Mạnh Thát, Khương Tăng Hội toàn tập 1, Saigon: Vạn Hạnh University
Press, 1975, p. 516.
4
Ellen M. Chen, The Tao Te Ching, New York: Paragon House, 1989: 54-58.
5
Lun yu 15. 2a5-6, Ssu pu pi yao.
6
Li chi 16. 2a5-6, Ssu pu pi yao (Cheng’s Annotations)
7
Li chi 16. 5b2-10, Ssu pu pi yao (Cheng’s Annotations)
8
Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Phương Đông Publishing
House, 2005, pp. 329-330. Cf. Cuong Tu Nguyen, Zen in Medieval Vietnam,
Honolulu: University of Hawaii Press, 1997, p. 201.
9
Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Phương Đông Publishing
House, 2005, p. 330. Cf. Cuong Tu Nguyen, Zen in Medieval Vietnam,
Honolulu: University of Hawaii Press, 1997, p. 201.
Some Observations
We hope, in the discussion of the three case studies of buddhists
contribution to the theory of state governance and development in
10
Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Thái Tông, Tổng hợp Publishing House of
Hochiminh city, 2004, pp. 376&588.
II.
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thầm trong áng gió băn khoăn
III.
Anh đã ngâm và đã thuộc làu
Cả người rung động bởi thương đau
Bởi vì mê mẩn vì khoan khoái
Anh cắn lời thơ để máu trào
IV.
Lời thơ ngậm cứng không rền rĩ
Mà máu tim anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng vang tha thiết dội khắp nơi
V.
Em đã nghe qua em đã hay
Tình anh sao phải chứng mê say
Anh điên anh nói như người dại
Vạn lạy không gian xóa những ngày
VI.
Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu
VII.
Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn hồn em đã tới nơi
(Hàn Mặc Tử, Lưu Luyến)
*
Ở phần đầu, tôi đã trích dẫn câu của Hàn Mặc Tử:
Con sông này đã đi qua
Suốt đời ta thề không trở lại
Đoạn văn của Hàn Mặc Tử trước hai câu trên là: “Nhà nghệ sĩ bao
giờ cũng điên. Tài năng thì có giới hạn. Dám đem tài mọn làm rộn
nước mây. Sẽ bị mạng trời đánh ngã. Than ôi! Tài hoa là một điều
tai hại.” Hàn Mặc Tử gặp lại Nguyễn Du: “Trăm năm trong cõi
người ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc
bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Hồi quang của
Thơ là thế, nhưng xuyên quang vẫn là Nguyễn Du: “Tưởng bây giờ
là bao giờ, rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao” hay thấu quang
qua “nguồn trong trẻo” (source diaphane) như Hàn Mặc Tử: “Anh
đứng cách xa hàng thế giới, lặng nhìn trong mộng miệng em
cười”.
Nguyễn Du và Hàn Mặc Tử hai người “khách lạ” chỉ cần để lại đời
hai câu thơ giản dị như trên thôi thì chúng ta cũng sẳn sàng van lạy
thời gian xóa hết tất cả những bài thơ khác trên mặt đất. ❒
Long Beach, California
P.C.T.
Bài tụng Trung luận XVIII. 5 xác nhận: “ Một khi thâm nhập tánh
Không thời mọi hý luận đều bị tận diệt.” Sau đó, bài tụng XXII.15
nói rõ: “Đức Như Lai đã siêu việt qua mọi hý luận, thế nhưng con
người cứ sanh khởi ra hý luận. Vì hý luận phá hủy tuệ nhãn nên
không thể thấy Phật.” Như vậy, theo chủ trương của Trung quán,
tiêu diệt hý luận là cốt để đoạn trừ nguồn gốc của mê hoặc phiền
não, và cứu cánh “vô hý luận, ngôn vong lự tuyệt” hay chân lý chỉ
có thể thấu đạt bằng phủ định hay phá bỏ các tà kiến và sai lầm.
Các học phái như Duy thức, Như Lai tạng, và Hoa nghiêm đồng ý
với Bồ tát Long Thọ về sự cần thiết tiêu diệt hý luận. Nhưng họ
cho rằng ngôn ngữ già thuyên của biện chứng phủ định Trung
quán chỉ có thể bác bỏ những tà kiến và sai lầm, chứ không đủ khả
năng làm sôi động tâm linh của hành giả đến độ đột nhiên nhảy vọt
lên khía cạnh khác của luận lý và bắt đầu một thủ thuật biện chứng
riêng biệt của mình để tiến tới giác ngộ. Hơn nữa, biện chứng phủ
định có thể gây ra những sai lầm vi tế hơn và ngăn chận tâm từ bi
phát khởi.
Một thí dụ về sự biến chuyển trong cách thuyết giảng giáo lý, thay
thế ngôn ngữ già thuyên của Không tông bằng ngôn ngữ biểu
thuyên của Hoa nghiêm, có thể tìm thấy trong tập văn Hoa nghiêm
Pháp giới quán môn của Đỗ Thuận (557-640), khai tổ của Hoa
nghiêm tông. Đây là tập sách căn bản thiết lập cơ sở biện chứng
Hoa nghiêm, từ đó bắt nguồn nhiều thuyết chủ yếu của tông như
Bốn pháp giới và Mười huyền môn. Ý niệm về bốn cách nhìn Pháp
giới Hoa nghiêm khởi sáng với tập sách này, về sau được quảng
diễn bởi Trí Nghiễm và Pháp Tạng, và do sự thiết định cuối cùng
của Trừng Quán mà triết lý Hoa nghiêm được đồng nhất với thuyết
Bốn pháp giới. Pháp giới quán được Pháp Tạng thuật lại trong
phần Biểu đức của Hoa nghiêm phát Bồ đề tâm chương (T45n1878
_p652b09-_p654a28), được Trừng Quán chú giải trong Hoa
nghiêm Pháp giới huyền kính (T45n1883 _p672a15- _p683a14) và
Tông Mật trong Chú Hoa nghiêm Pháp giới quán môn (T45n1884
_p684b18-_p692b06).
Hoa nghiêm Pháp giới quán môn gồm ba phép quán: Chân không
quán, Lý sự vô ngại quán, và Châu biến hàm dung quán. Thể sở y
của ba phép quán này là tổng ba pháp giới: Lý pháp giới, Lý Sự vô
ngại pháp giới, và Sự sự vô ngại pháp giới. Phép quán đầu, Chân
không quán, thuyết giải tánh đồng nhất của Sắc và Không, chia
làm bốn phạm trù: 1. Hội Sắc quy Không quán; 2. Minh Không tức
Sắc quán; 3. Không Sắc vô ngại quán; 4. Dẫn tuyệt vô ký quán.
Hai phạm trù đầu mỗi phạm trù gồm bốn môn. Bốn môn của phạm
trù thứ nhất, Hội Sắc quy Không quán, được giải thích:
1. Sắc không phải là đoạn Không, thể của nó là Chân Không.
2. Các tướng của Sắc không phải là lý của Chân Không. Nhưng
theo Chân đế, sắc tướng vô thể nên Không. Mặt khác, tánh Không
của sắc tướng khác với sắc tướng, bởi vậy nói là Sắc bất tức
Không.
3. Không có Sắc trong Không nên nói bất tức Không. Nhưng toàn
bộ của Sắc là vô thể nên nói Sắc tức Không. Vậy Chân Không và
Sắc phi nhất phi dị.
4. Sắc tức là Không, vì hết thảy sắc pháp đều do duyên sinh nên vô
tự tính tức Không.
Bốn môn của phạm trù thứ hai, Minh Không tức Sắc quán, được
giải thích:
1. Chân Không tất không khác Sắc cho nên đoạn Không không
phải là Sắc.
2. Lý của chân Không không phải là sắc tướng nên Không bất tức
Sắc. Chân Không không đồng nhất với Sắc cũng không hoàn toàn
ngoài Sắc, nên nói tức Sắc.
M ỗi khi gặp nhau, những người Phật tử Việt Nam thường chào
hỏi với nhau bằng cách chắp tay trước ngực và niệm danh
hiệu Đức Phật Di Đà, và khóa tụng kinh buổi tối thì gần như hầu
hết các chùa, nhất là các chùa ở miệt nhà quê không gọi là đi tụng
kinh mà gọi là đi Tịnh Độ. Điều ấy chứng tỏ rằng tín ngưỡng Di
Đà đã gần như được tuyệt đại đa số xuất gia cũng như tại gia, trí
thức cũng như bình dân đều hết lòng tin theo và thọ trì.
Tất nhiên, không phải chỉ tại Việt Nam thôi mà hầu hết các nước
theo Đại Thừa như Trung Quốc, Đài Loan, Tây Tạng, Mông Cổ,
Hàn Quốc, đều cũng như vậy, ngay cả Nhật Bản, một nước được
xem như là mảnh đất của Thiền (Zen), nhưng theo giáo sư Junjro
Takakusu, một học giả nổi tiếng của Nhật cũng xác nhận rằng Tịnh
Độ tông mới là hưng thịnh nhất trong số các tông phái của Phật
giáo, vì hơn phần nữa dân Nhật đã tin theo.1
Nhưng ở đây chỉ giới hạn về tín ngưỡng Di Đà tại Việt Nam và đặt
biệt là những đóng góp của Thiền sư Chân Nguyên đối với tín
ngưỡng Di Đà hay Tịnh Độ tông mà thôi.
Vậy bây giờ, ta xem thử tín ngưỡng Di Đà đã được truyền đến tại
Việt Nam tự bao giờ?
1
Các Tông Phái của Đạo Phật, Tuệ Sỹ dịch, Tu thư Đại học Vạn Hạnh 1973,
tr.19.
Trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, trang 750, giáo sư Lê
Mạnh Thát đã cho biết là trong tác phẩm Vãng sanh tịnh độ truyện,
do Giới Chân viết khoảng những năm 1068 – 1077 có ghi lại một
câu chuyện về nhà sư có tên là Đàm Hoằng đã sống và chết tại
Việt Nam như thế này:
“Thích Đàm Hoằng, người Hoàng Long, hoặc nói là người Cao
Bưu của Quảng Lăng, trong khoảng Tống Vĩnh Sơ, nam du Phiên
Ngung, dừng ở Chùa Đài. Sau đến chùa Tiên Sơn của Giao Chỉ.
Ngoài việc đèn nhang, hoàn toàn không làm việc gì khác, chỉ tụng
kinh Vô lượng thọ và Quán Kinh, không biết bao nhiêu lần. Đàm
Hoằng mỗi lần niệm đều nói: “Một thân muôn mối, niệm chính
khó giữ, có thể nương niệm chính, mới sớm thấy Di Đà”. Do đó, ở
tại Sơn Am, bèn chất củi thành đống, một hôm lén vào trong đống
củi, miệng tự nói rằng: “Xin bỏ thân này, mau gặp kim nhan,
không còn ở trong ba cõi, để rơi vào các hữu”. Nhân thế, bèn
phóng lửa đốt; đệ tử đuổi kịp, bồng đem về chùa, nhưng nửa người
đã bị đốt cháy. Chữa hơn cả tháng, những nơi bị cháy đã lành.
Sáng hôm sau, xóm làng tổ chức hội lớn, cả làng đều đến, Đàm
Hoằng vào ngày ấy, lại vào trong núi, nhóm củi thiêu mình. Dân
làng chạy đến cứu thì Đàm Hoằng đã mất. Do đó, họ chất củi
thêm, đốt lửa, cháy đến hôm sau mới tắt. Đệ tử thu lấy di cốt, được
xá lợi vài trăm, đánh vào đá, ánh lửa xẹt ra, rốt cuộc không sứt mẻ.
Ngày hôm sau, họ thấy Đàm Hoằng thân vàng sắc vàng, cỡi một
con nai vàng đi về phía Tây rất gấp. Có ai hỏi cũng không đáp.
Nếu hỏi nữa thì Đàm Hoằng chỉ đưa một tay về phía Tây mà thôi.
Có người đuổi theo, thì cách nhau càng xa, cuối cùng cũng không
thể nào đuổi kịp.
Và giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, có thể Đàm Hoằng đã đến
chùa Tiên Sơn ở Bắc Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh bây giờ vào khoảng
năm 422 và Tịnh Độ tông đã bắt đầu phổ biến tại Việt Nam từ thế
kỷ thứ 5, cho đến đầu thế kỷ 12, thì Tịnh Độ tông đã trở thành một
truyền thống khá vững chắc, mà tiêu biểu là thiền sư Tĩnh Lực
(1112 – 1175) thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông. Tĩnh Lực đã vâng
lời thầy là Đạo Huệ, lên núi cất một cái am, ngày đêm ngồi niệm
Phật khoảng 12 tiếng. Tương truyền sư đã đạt được niệm Phật Tam
2
Trần Thái Tông toàn tập của Lê Mạnh Thát, NXB TP.HCM 2004, tr. 366-367.
3
Tuệ Sỹ dịch, sđd tr.334.
4
Chân Nguyên thiền sư toàn tập, tập 1, tác giả Lê Mạnh Thát, Tu thư Vạn Hạnh
1980.
5
Tuệ sĩ dịch, sđd, tr.315-316.
6
Nguyễn Hiến Lê dịch.
MỘ HOA
Từ hoang tưởng
Chập chùng ký ức
Tôi trở về thăm lại mái nhà xưa
Mây vẫn là mây – du tử bốn mùa
Trăng vẫn là con trăng
Soi giữa khoảng đời tri ngộ
Lạ lùng quá
Chân dung của ai trên khung tường ám khói
Tơ nhện tháng năm
Giăng lưới kín song thưa
Có một góc tâm hồn
Chưa hiểu chuyện nắng mưa
Nay chữ nghĩa ngu nghếch bám đầy mực sơn dấu cọ
Được và mất
Trí và ngu
Sống chung niềm ẩn nhục
Lê lất nhân luân, đi mãi, bóng mù phương
Réo gọi trên dòng, bèo cau mặt tang thương
MƠ MÀNG CUỘC LỮ
Bốn Thánh quả Thanh văn, trong đôi mắt Kim Cang Bát-nhã, ta
thấy có những ý nghĩa độc đáo như sau:
1. Thánh quả Tu-đà-hoàn trong đôi mắt Bát-nhã:
Kinh văn:
“Hỡi Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ như thế nào? Một vị Tu-đà-hoàn có thể
nghĩ rằng: Ta đã đắc quả Tu-đà-hoàn không?
Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao? Tu-đà-hoàn có
nghĩa là đi vào dòng, nhưng thực ra không có dòng nào để đi vào
cả. Vì không đi vào các dòng sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp,
nên gọi là Tu-đà-hoàn”.1
Tu-đà-hoàn quả = 須 陀 洹 果 là phiên âm từ tiếng Phạn là:
Srotāpattiphalaṃ.
Hán dịch là 預 流果 = Dự lưu quả hay 入 流 果 = Nhập lưu quả
hoặc 七 來 果 = Thất lai quả.
Dự lưu hay Nhập lưu là dự phần vào dòng dõi bậc Thánh hay gia
nhập dòng dõi của bậc Thánh.
Dự lưu quả là quả vị đầu tiên trong Bốn Thánh quả thuộc Thanh
Văn.
1
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, La Thập, tr. 749b26, Đại Chính 8.
Thất lai quả là vị Thánh đạt tới quả vị nầy, tâm thức còn có khả
năng biểu hiện chất liệu sinh tử bảy lần ở trong Dục giới.
Do tu tập Tứ Thánh Đế hiện quán vị Thánh giả nầy loại trừ ba hạ
phần kiết sử, gồm:
- Loại trừ thân kiến thủ:
Do quán chiếu mà thấy rõ sự thật về khổ, về vô thường, về duyên
khởi vô tự tính và vô ngã của vạn hữu trong từng sát na sinh diệt
của hiện tiền mà hành giả buông bỏ những nhận thức sai lầm về tự
ngã, không còn cho rằng:
“Thân năm uẩn này là tôi, là của tôi. Tôi là như thế này, là như thế
kia,… Nên, gọi là buông bỏ thân kiến thủ”.
- Loại trừ nghi:
Do quán chiếu thấy rõ sự thật của Khổ, Tập, Diệt và Đạo, đúng
như lời Phật dạy, nên hành giả đoạn trừ hết thảy tâm nghi ngờ đối
với Phật, Pháp, Tăng, không còn có sự do dự đối với các pháp
hành của Đức Phật đã dạy.
- Loại trừ giới cấm thủ:
Do quán chiếu thấy rõ sự thật của Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nên hành
giả buông bỏ mọi điều răn dạy và tin tưởng không phù hợp với
Thánh đạo. Nên, gọi là buông bỏ giới cấm thủ.
Do quán chiếu Tứ Thánh Đế hiện tiền và hành giả loại trừ vĩnh
viễn ba loại kiết sử này, nên được tham sự vào dòng dõi của bậc
Thánh, vững chãi tiến tới đời sống giải thoát và địa vị Toàn Giác.
Bằng cách nhìn của nhục nhãn (mắt phàm), ta có hai dòng sống:
Một dòng sống chảy theo sinh tử hay dòng đời. Và một dòng sống
chảy theo Thánh đạo.
Không đi theo dòng đời mà quay sang sống theo dòng sống của
Thánh đạo, gọi là Dự lưu hay Nhập lưu.
Nhưng, bằng con mắt của Bát-nhã, Ngài Tu-bồ-đề nói rằng: “Tu-
đà-hoàn có nghĩa là đi vào dòng, nhưng thực ra không có dòng nào
để vào cả. Vì không đi vào các dòng sắc, thanh, hương, vị, xúc và
pháp, nên gọi là Tu-đà-hoàn”.
2
Kinh đã dẫn.
3
Kinh đã dẫn.
4
Buddhist Sanskrit Texts - n 17, p.78
5
A La Hán Đạo = Arhattvaṃ ( Buddhist Sanskrit Texts-n17p78).
6
Tên A La Hán = Arahannāma
7
Thiền định bất tranh = Hán: 無 諍 三 昧 = Vô tránh tam muội. Phạn:
Araṇāvihāriṇāma: Nghĩa là sống an tịnh không tranh chấp, sống với tâm an tịnh
hoặc sống với cảnh giới an tịnh .
8
Kinh đã dẫn.
9
Buddhist Sanskrit Texts – n17p78. Bản La Thập đã lược, không dịch
Tenoeyate – arhanniti (tr. 749c - Đại Chính 8).
T.T.H.
1
以心傳心。不立文字 (Đ.T. 48, trang 03713b13 Huyết mạch luận, Thiếu thất
lục môn).
2
為說金剛經。至應無所住而生其心。惠能言下大悟 Đ.T. 48, Pháp Bảo
Đàn Kinh, phẩm hành do trang 0349a
3
Đ. 48, Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm hành do trang 0349a
4
Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 650 phần chú thích.
5
Tổng tập Văn Học Việt nam, trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 649.
6
Tổng tập Văn Học Việt nam, trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 622.
7
Tử ở đây mang ý nghĩa sống chết trong từng sát-na một. Chỉ cho sự sống chết
thay đổi nhau của những tế bào để tạo nên sự tiến hóa, kể cả tâm lý thay đổi. Sự
thay đổi này chính là sự sống chết thay nhau trong từng giây từng khắc. Nếu
không có sự thay đổi này thì con người sinh ra lúc nào cũng vẫn là một giọt
máu, không có những hiện tượng trẻ lên ba, trẻ lên mười, để trở thành thiếu
niên, thanh niên và cuối cùng già yếu và chết đi. Ở đây nói đến tính hiện hữu
của Duyên khởi tánh không của cuộc sống.
8
Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973. trang 170.
9
Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.
10
Đ. 17, No. 0842, Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-đa-la liễu nghĩa, trang
0912c22.
11
Linh Sơn: gọi cho đủ là Linh Thứu sơn, là chỉ cho núi Linh Thứu nơi đức Đạo
sư nói pháp độ sinh khi Ngài còn tại thế. Có hai thời kỳ đức Đạo sư nói pháp ở
nơi đây: Một, thời kỳ đức Đạo sư thuyết Kinh Pháp Hoa. Hai, thời đức Đạo sư
phó pháp cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp (theo Thiền tông) “Dĩ tâm truyền tâm”.
Tâm Tịnh
1
Thắng Man Giảng Luận, Tuệ Sỹ, trang 119.
tánh, tức vô tự tánh trên nền tảng duyên khởi, nên sự đồng thời
hiện khởi và cộng đồng hiện hữu của chúng (các pháp), hợp thành
một nhất thể hỗ tương, giao thiệp, y trên duyên sinh, nhưng hoàn
toàn không ngăn ngại với tánh không của chúng. Nghĩa là sự
tương duyên tương hữu hay từ duyên khởi đến sự tồn sinh của hiện
thể tức tánh không và pháp hữu. Pháp Tạng đã y cứ vào nghĩa nầy
xây dựng cơ sở cho lý tắc “Lý Sự Vô ngại”, tại đó, Lý, Sự chính là
hai mặt của hiện thể hiện hữu trong thế giới trần tục, phi mâu
thuẫn trên mọi mặt, dù là hữu hạn hay vô hạn, dù là một hay tất cả
nhưng vẫn xu hướng về Đệ Nhất Nghĩa Đế. Ý nầy cũng đã được
kinh Thắng Man dẫn trên Không Tánh và quy về trí Như Lai rằng
“Trí của Như Lai Tạng2 là Trí của Như lai về Không tính. Nói cho
gọn theo Bát Nhã, tướng không của các pháp ấy vốn không sinh,
không diệt, không dơ, không sạch, không tăng không giảm...”
(Hrdaya: ... Sarvadharmāh, sânyatā laksanā, anutpanannā
anirudhā amalā na vimalānonā paripârnāh).3
Nhất Tâm hay Pháp giới hay Như lai tạng, theo minh họa của giáo
lý luận Đại Thừa Khởi Tín, thời có hai tướng: Chân Như (thể tánh
Chân tâm thanh tịnh) và tướng Nhân duyên sinh diệt, nêu biểu cho
thể, tướng, dụng của chơn vọng hòa hợp. Như vậy, cứ vào quan
2
Như hiểu là Như Như, Chân Như. Như Lai Tạng có nhĩa là cái phôi đang phát
triển trở thành “Như Vậy” hay Như Như.. Tạng tức ẩn phú, nghĩa là bao phủ,
che dấu., còn có nghĩa là sở nhiếp Như lai là không từ đâu đến, không đi về đâu.
Như vậy Như lai tạng mang ý nghĩa đặc biệt là chúng sinh đều là cái phôi được
chứa đựng bên trong trí tuệ của Như lai. Có 9 dẫn dụ về Như Lai Tạng:1- Dụ
như là Hóa Phật ngự trên hoa sen héo, do tham dục phiền não che lấp nhưng
Hóa Phật vẫn thanh tịnh sáng ngời. 2- Dụ như là một đàn ong và tổ mật do sân
phiền não khống chế. Muốn lấy mật ong, phải diệt dàn ong. Như muốn làm xuất
hiện Hóa Phật phải diện tận phiền não. 3. Dụ như là vỏ trấu và hạt gạo, do si
phiền não (hay vô minh hoặc). Hóa Phật bộc trong vỏ cứng, phải chà sát kỷ để
được hạt gạo thơm. 4- Dụ như thỏi vàng và hầm xí, do vô minh thượng tâm
phiền não khống chế, là tăng thượng cho tham sân si kết sử,bao gồm ba độc tố
tham sân si ở mức độ độc hại. 5- Dụ như kho báu trong nhà nghèo: Do vô minh
trụ địa khống chế, là vi tế phiền não còn tàng dư. Phiền não nầy dẫn đến quả báo
“ý sanh thân”. 6- Dụ như mầm giống và hột xoài. 7- Dụ như bảo vật bọc trong
giẻ rách. 8- Dụ như đàn bà xấu xí mang thai vua. 9-Dụ như pho tượng trong
khuôn đúc.
3
Sđd trang 122.
4
Đọc Tập san nghiên cứu Phật Học - Thừa Thiên Huế, số 3- Bốn Pháp Giới-
Hồng Dương, trang 9-11.
5
Sđd, tr. 14.
6
Tham chiếu “Entry Into The inconceivable”, Thomas Cleary – Page 26-42.
Đọc Tập san nghiên cứu Phật Học - Thừa Thiên-Huế, số 3, Bốn Pháp Giới -
Hồng Dương, trang 15-17.
7
Đây là cơ sở của Lý-Sự và Sự-Sự vô ngại. Đọc và nghiêm cứu thêm phẩm
Nhập Pháp giới, kinh Hoa Nghiêm.
8
Mười pháp môn vô ngại là: 1- Bản thể và sắc tướng vô ngại.2- Vi tiểu và vô
lượng vô ngại. 3- Một và nhiều vô ngại. 4- Hỗ nhập vô ngại. 5- Hỗ tức vô ngại.
6- Hiển và ẩn vô ngại. 7-Vi tế vô ngại. 8- Lưới thiên đế vô ngại. 9- Mười thời vô
ngại.10- Khách và chủ vô ngại.
9
Hữu Lực, Vô Lực: Có thể hiểu qua dẫn dụ đơn giản về rui và nhà. Rui là sở
hữu năng lực nguyên nhân để
hoàn thành kết quả. Trong quá trình hình thành cái nhà, năng lực nguyên nhân
hay rui là hữu lực, còn các điều kiện bổ trợ khác như đinh, ván, coat, ngói,
gạch, thợ... sẽ không có năng lực tức là vô lực. Sự vô lực nầy vốn phát sinh sự
thu hút các tính chất khác từ các pháp bổ trợ vào cái rui nguyên nhân để làm nổi
bậc chức năng của cái rui. Nhưng nếu tập trung trên chức năng coat yếu của cây
cột thì cái rui bay giờ trở thành vô lực. Tóm lại do vô lực hữu lực mà sự tương
nhập được hiện thực như là nhân tố thiết yếu cho sự thành tựu kết quả.
10
>< dấu hiệu biểu thị cho sự xung đột.
11
Đọc Lưới Trời Đế Thích, Francis H Cook, Thích Thiện Sáng dịch, trang 170-
173.
∆nà 0
Trong đó f(n). ∆n dữ kiện biểu thị một biến cố cực vi hay
một Sự; Số ð là hằng số tùy thuộc chân lý tục đế; Còn ∆n
à 0 ký hiệu được dùng để dụ cho nền tảng Không Tánh.
b
Và Ký hiệu { Lim å
n=a
ð f(n).∆n}, dụ như là năng lực
nguyên nhân, bao gồm cả hữu lực, vô lực, biểu thị cho khả
năng hợp nhất, thành tựu kết quả về một tổng thể nhìn từ
mặt phản diện của chân đế. Nếu quy chiếu về ∆n à0 hay
tánh không, thời toàn bộ các biến cố, do đó, quy về một
∆nà 0
Nếu không có f(n) và nà0 (tức là vô hạn các số thực tiến
b
dần tới 0 mà n ª {0,+∞ }), thời không có Lim å
n=a
ð
f(n).∆n , do đó không có sự
∆nà 0
b
thành tựu nào của V= ð ò f ( n ) dn. trong tương quan hiện
a
hữu.
Ngay trong nội dung của sự thành tựu, chúng ta có thể thấy được
khái niệm về một tổng thể ∑ (gọi là năng lực toàn thể hay khả
năng vận hành chức năng tạo ra kết quả). Nó bao hàm một tiến
trình của các biến cố bên trong một chuỗi biến cố quy về cái “toàn
thể” trên mặt hiện tượng (Phenomenon) hay duyên sinh
(Pratĩtyasamutpãda), nó bao gồm vô số phần tử cực vi, mỗi phần
tử gọi là pháp (hay Sự ), hay pháp nhân cơ bản vô cùng thiết yếu
ngay khi ∆nà 0 (ký hiệu dụ cho Không tính) có hiệu lực tác dụng
để tiến tới cái gọi là toàn thể (Lý hay cái Tất cả ):
b
V= ð ò f ( n ) dn.
a
Chỗ nầy, theo Pháp Tạng, thời mỗi một phần tử cực vi hay một
pháp đơn lẻ, được coi là có tương hệ với một chuỗi vô tận các
pháp đơn lẻ khác xét trên cả hai mặt: Tồn tại và tác dụng. Trong
đó, nếu chiếu cái “Một” (hay phần tử cực vi hay pháp 1) vào 2,
chiếu pháp 2 vào 3... và tương tục cho đến một chuỗi vô tận các
phần tử cực vi và tới chỗ thành tựu cái “Tất cả” tức là cái nhiều.
Như vậy tạo thành một huân tập tất cả các pháp đơn lẽ nhập vào
cái một, tức “Tất cả” dung chứa “Một” và cái “Một” đồng nhất với
cái “Tất cả”. Xa hơn, nếu tiếp diễn tương tự, lấy cái tất cả nầy làm
12
Trụ địa: Là mảnh đất tâm thức được xông ướp. Nhưng ngoài mảnh đất tâm
ấy, không có tự thể tâm thức nào khác. Khi mê gọi là thức. Khi ngộ, gọi là trí.
Mảnh đất tâm nếu được cải tạo tốt, được chăm bón can thận, sẽ sản xuất những
thứ hoa trái tốt, không độc hại. Chuyển mê thành ngộ, chuyển thưc thành trí,đó
là công phu tu tập cho quá trình chuyển y được minh giải rất chi tiết trong duy
thức học về sau nầy. Kiến nhất xứ trụ địa là tập hợp tất cả các yếu tố hoạt động
dưới sự chỉ đạo của tri kiến. Giống như một y sĩ nếu nhận định sai các triệu
chứng bệnh và có chẩn đoán sai về nguyên nhân gây bệnh, phương thức điều trí
bấy giờ thường nguy hiểm đe dọa tính mênh cho bệnh nhân. Thứ tri kiến nầy
xuất sinh từ vô minh nên sai lầm, hậu quả là phiền não, khổ đau. Nhưng một khi
thấy được thực tính của vạn pháp, nói rõ hơn, một khi nhãn kiến có cơ sở trên
đại bi, thời cái thấy bay giờ gọi là kiến đế và tất cả mọi sai lầm dị biệt đều tận
diệt.
KẾT LUẬN:
Để có thể truy nghiệm được chân lý nầy, lộ trình đơn giản nhất,
không gì khác hơn là con đường A Di Đà Phật, được vạch ra từ
trong nội dung của Hoa Nghiêm. Bởi tại đó, xuất sinh một pháp
giới Vô Tranh, vô ngại, không xung đột tức là pháp giới của “Lý-
Lý vô ngại” ẩn kín đằng sau 4 tầng pháp giới. Dù sao, cũng cần
phải xác minh vấn đề “Lý đối đầu với Lý” (tức Lý><Lý) ngay
trong tục đế: Vì mọi pháp đều là nhân duyên sở sinh mà bản chất
của tự thân của chúng cũng là tuyệt đối (như kinh Pháp Hoa nói
“Thi pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”), cho nên có thể
vô ngại quy chiếu chúng vào cả hai mặt Chân Đế và Tục Đế, mà
không ra ngoài tính viên dung của pháp giới Hoa Nghiêm.
Tóm lại, trên cơ sở của “biểu hiện và ẩn kín vô ngại”, một trong 10
pháp môn vô ngại của Pháp Tạng, tầng pháp giới Lý-Lý vô ngại
giới thiệu trong bài viết nầy không phải được thi thiết từ trên nhãn
kiến Tuyệt đối (hay Chân đế) mà sở y của nó phải ở trên tính thể
đại bi, thuộc mặt dụng của Tánh không, từ hướng Tục đế nhìn lên:
Có nghĩa rằng từ thực trạng khổ đau (như được biểu hiện tại rừng
13
Đọc Tập san nghiên cứu Phật Học - Thừa Thiên Huế, số 10 – Cửa vào tuyệt
đối – Tuệ Sỹ, trang 66-67.
by Collett Cox
T rong những thế kỷ sau Phật diệt độ, với sự hiện diện của
những cộng đồng tu sỹ [tăng đoàn] đã ổn định này, từ nơi đây,
các hành nghi mới về tu tập [praxis] tôn giáo, những phương pháp
về sự truyền đạt và chú giải giáo lý được khởi sinh. Trong bối cảnh
có tổ chức nhiều ấy, những vị đệ tử Phật bắt đầu kiểm tra trở lại
các truyền thống được truyền thừa và phát triển những phương
thức tổ chức mới, mà nó hẳn đã làm hiển ngôn ý nghĩa nền tảng
của mình và tạo thuận duyên cho sự truyền đạt trung thực của
mình nữa. Tuy bắt đầu bằng một phương thức soạn thảo dựa vào
sự thật những giáo thuyết được thừa nhận rộng rãi, thế nhưng sự
nghiệp học thuật này ngay sau đó đã dẫn đến các phát triển giáo
nghĩa theo phương hướng mới và các phát triển theo chính văn,
với lại sự nghiệp này đã trở thành trung tâm điểm cho một hành
nghi mới của đời sống tu viện học thuật. Những thành quả học
thuật này, đã thành là truyền thống đáng trân trọng bằng thẩm
quyền của chính họ, rốt lại, Abhidharma, có thể làm mờ đi những
pháp thoại của Phật-đà, của chư đệ tử Ngài, như là vị trọng tài [vô
tư] của thánh giáo và minh định cả phương pháp chú giải lẫn các
thể tài quan yếu, sở y cho những nghiên cứu Phật giáo Ấn-độ hậu
kỳ.
A-TỲ-ĐÀM, ý nghĩa và nguồn gốc.
Sự nghiệp học thuật này được gọi là A-TỲ-ĐÀM, (Pāli:
Abhidhamma), đây là một thuật ngữ đa nghĩa quen dùng để chỉ cho
những kỹ thuật mới về chú giải giáo lý, chỉ cho bộ phận hay thân
của các bản văn mà sự chú giải này đã sinh trưởng, sau rốt là chỉ
cho [trạng thái] khảo sát lấy phân tích làm trọng tâm [the crucial
discriminating insight, tuệ minh sát / tuệ quyết trạch] đã được tinh
luyện qua sự chú giải giáo lý và đem ra ứng dụng trong các thực
hành tôn giáo của mình. Theo các nguồn truyền thống, thuật ngữ
Abhidharma có hai cách hiểu: “Tương ưng với (abi) Pháp
(dharma) hoặc là tột bậc [vi diệu] hay vượt trội (abhi) Pháp
(dharma)-Pháp siêu việt. Đương nhiên, đối tượng phân tích
Abhidharma là Pháp (dharma) như đã hiện thân trong những pháp
thoại của Phật đà và chư đệ tử của Ngài. Tuy nhiên, Abhidharma
không chỉ quy kết hay tóm tắt giáo pháp của các kinh (sūtra), mà
hơn thế, nó còn cải tổ nội dung và hiển đạt hàm ngôn của Kinh
bằng luận giải nữa. Trong Abhidharma, nội dung đặc trưng của
những bản kinh riêng lẻ khác nhau đã được tách ra và tái tổ chức
cho phù hợp với tiêu chuẩn phân tích mới, nhờ vậy mà nó có thể
cho phép ta nhận thức được thông điệp chân thật của các Kinh điển
cá biệt ấy. Thông điệp chân thật như vậy, như ta thấy ghi lại trong
Tạng luận này, bao hàm những dữ kiện và các bộ phận cấu thành
nối kết lại để thiết lập tất cả thẩm nghiệm. Sự phân tích này, lần
lượt giúp ta nhận ra được giữa các tâm tố nhiễm ô [phiền não-vô
minh] là cạm bẩy gài ta vào tiến trình tái sinh [luân hồi] và các tâm
tố giải thoát [pháp vô lậu] dẫn ta vào Phật tuệ. Cuối cùng, những
tâm tố nhiễm ô và giải thoát đã được nhận thức rõ ràng rồi, thì lộ
trình tu hành chính xác hẳn sẽ hiển lộ. Do vậy, Abhidharma không
chỉ là sự chú giải mang tính học thuật đơn thuần mà nó còn là tạng
luận chứa đựng huyền nghĩa cứu độ chúng sinh [những chú giải
thuộc về thần học cứu rổi thế gian, soteriological exegesis], rất cần
cho lộ trình tu tập đem lại tính hiệu quả rõ ràng.
Các nguồn truyền thống không nêu ra cho ta biết những mô tả nhất
quán nào về lai lịch của phương pháp Abhidharma hoặc sự tập
thành của những bản văn thuộc về nó cả. Một vài mô tả thuộc về
truyền thống cho rằng sự tạo thành của các văn bản Abhidharma
có thể vào thời điểm của cuộc kết tập [hội đồng trưởng lão] lần thứ
nhất ngay sau khi đức Phật diệt độ, lúc bấy giờ, giáo thuyết của
Ngài được trùng tuyên và ghi lại thành Tam tạng thánh điển: Kinh
(sūtra), Luật (vinaya), Luận (mātṛkā hay Abhidharma). Bởi vậy,
các nguồn truyền thống dứt khoát cho rằng, Abhidharma là của
chính Phật. Qua những luận tạng Abhidharma độc lập này, câu hỏi
về tác giả và tác quyền là ai, vẫn luôn là một thể tài đáng tranh
luận trong thời gian tới, bằng tính chính xác nhất. Mặc dù, nhiều
1
1. Tập dị môn túc luận (zh. 集異門足論, sa. saṅgītiparyāya): bao gồm những
bài giảng theo hệ thống số, tương tự như Tăng chi bộ kinh;
2. Pháp uẩn túc luận (zh. 法蘊足論, sa. dharmaskandha): gần giống như Phân
biệt luận trong A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
3. Thi thiết túc luận (zh. 施設足論, sa. prajñaptiśāstra): trình bày dưới dạng
Kệ những bằng chứng cho những sự việc siêu nhiên, thần bí;
4. Thức thân túc luận (zh. 識身足論, sa. vijñānakāya): nói về các vấn đề nhận
thức. Có vài chương nói về những điểm tranh luận giống Luận sự (pi.
kathāvatthu), Giới luận (pi. dhātukathā) và Phát thú luận (zh. paṭṭhāna) trong
A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
5. Giới thân túc luận (zh. 界身足論, sa. dhātukāya): gần giống Giới thuyết
luận (pi. dhātukathā) của Thượng toạ bộ;
6. Phẩm loại túc luận (zh. 品類足論, sa. prakaraṇa): bao gồm cách xác định
những thành phần được giảng dạy và sự phân loại của chúng;
7. Phát trí luận (zh. 發智論, sa. jñānaprasthāna): xử lí những khía cạnh tâm lí
của Phật pháp như Tùy miên (zh. 隨眠, sa. anuśaya), Trí (智, sa. jñāna), Thiền (
禪, sa. dhyāna) v.v… (xem thêm Tâm sở) (theo CHÂN NGUYÊN / bản điện
tử). - N.D.
2
cittaviprayuktasaṃkāra : Hành không tương ưng với tâm. Tức là các căn,
tuy nằm trong tâm sở, nhưng có khuynh hướng tăng thượng, không bị sắc pháp
ô nhiễm. Như: tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ (Lớp Câu-xá / Phạn-Hán-Anh-Pháp
đối chiếu do thầy TUỆ SỸ dạy).