You are on page 1of 226

Lịch sử dẫn đường Không quân (1959-2004)

Chương 1

NGÀNH DẪN ĐƯỜNG KHÔNG QUÂN RA ĐỜI

1. Hình thành đội ngũ và các tổ chức dẫn đường

Ngày 9 tháng 3 năm 1949, Ban Nghiên cứu Không quân dược thành lập, mang tên gọi công khai là Nông
trường thí nghiệm và đóng quân tại thôn Ngòi Liễn, xã Hữu Lộc, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu
trực thuộc Bộ Quốc phòng, sau đó trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Đồng chí Hà Đổng, nguyên là thư ký của Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, được giao làm Trưởng ban. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban là xây dựng cơ sở ban
đầu cho không quân ta, tìm hiểu các loại máy bay của thực dân Pháp đang sử dụng ở Việt Nam và nghiên cứu cách
phòng chống, từng bước đào tạo cán bộ không quân, chuẩn bị điều kiện hoạt động khi có thời cơ.

Để thực hiện công tác đào tạo cán bộ, Ban Nghiên cứu Không quân đã tổ chức được một số lớp học. Lớp
học hoa tiêu (học dẫn đường trên không) khoá 1 có 29 học viên tham gia với thời gian học là bốn tháng. Lớp học hoa
tiêu khoá 2 có 16 học viên với thời gian sáu tháng. Trong khoá 2 còn có các lớp học khí tượng 27 học viên và cơ vụ
(kỹ thuật hàng không) 28 học viên cũng với thời gian sáu tháng. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu
trưởng đã trực tiếp dự Lễ bế mạc lớp học hoa tiêu khoá 1.

Đến đầu năm 1951, do chưa có điều kiện sử dụng không quân, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể Ban
Nghiên cứu Không quân. Học viên các lớp hoa tiêu được chuyển sang học pháo cao xạ.

Ngày 10 tháng 10 năm 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng. Quân đội ta tiếp quản sân bay Gia Lâm. Nhu
cầu quản lý - điều hành các chuyến bay và chỉ huy các máy bay cất, hạ cánh tại Gia Lâm trở nên rất cấp thiết. Tháng
12 năm 1954, được sự giúp đỡ của Trung Quốc, 70 chuyên gia hàng không của bạn thuộc các chuyên ngành: Điều
phái (quản lý - điều hành bay), Thông tin, Khí tượng, Dẫn đường, Cơ vụ… với đầy đủ phương tiện, thiết bị kỹ thuật đã
có mặt tại Gia Lâm; mọi khó khăn đều được bạn nhanh chóng giúp ta tháo gỡ.

Căn cứ vào kế hoạch xây dựng quân đội trong điều kiện hoà bình đã được lập lại trên miền Bắc, để tạo cơ
sở ban đầu xây dựng không quân, ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu
sân bay (C-47) trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, đóng quân tại Gia Lâm. Đồng chí Trần Quý Hai - nguyên Sư đoàn
trưởng Sư đoàn 325, được cử làm Trưởng ban. Ban Nghiên cứu sân bay có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý các sân bay hiện
có, tổ chức chỉ huy các chuyến bay hàng ngày, đồng thời giúp Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu những nội dung về tổ
chức, xây dựng lực lượng không quân phù hợp với nhiệm vụ xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Tháng 5 năm 1955, đồng chí Đặng Tính - nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, được bổ nhiệm làm Trưởng ban và tháng
9 năm 1956, đồng chí Hoàng Thế Thiện làm Chính uỷ.

Thực hiện chủ trương xây dựng lực lượng không quân, ngày 24 tháng 2 năm 1956, 80 học viên đầu tiên lên
đường sang Trung Quốc học tập. Đoàn học máy bay tiêm kích MiG-17, gồm 50 học viên, do đồng chí Phạm Dưng
làm Đoàn trưởng và Đoàn học máy bay ném bom Tu-2, gồm 30 học viên, do đồng chí Đào Đình Luyện làm Đoàn
trưởng, học tại Trường Không quân số 2 ở Trường Xuân, Trung Quốc (Sau này, do yêu cầu nhiệm vụ, đồng chí Đào
Đình Luyện chuyển sang làm Đoàn trưởng Đoàn học máy bay MiG-17, đồng chí Phạm Dưng làm Đoàn trưởng Đoàn
học máy bay Tu-2). Trong Đoàn học Tu-2 có sáu học viên dẫn đường trên không (chuyên dẫn đường trên các loại máy
bay và trực thăng) đầu tiên là: Đinh Huy Cận, Lê Thế Hưng, Nguyễn Văn Kính, Lê Liên, Lương Nhật Nguyễn và
Nguyễn Cảnh Phiên.

Sau khi học Tu-2, các học viên phi công chuyển đến sân bay Tây Giao học lái máy bay vận tải Il-14, Li-2,
trực thăng Mi-4 và chuyển đến sân bay Tứ Xuyên học lái máy bay An-2. Các học viên dẫn đường về nước vào cuối
năm 1957. Đến năm 1958, bốn học viên dẫn đường trên không là: Lê Thế Hưng, Nguyễn Văn Kính, Lương Nhật
Nguyễn và Nguyễn Cảnh Phiên sang Tây Giao học dẫn bay Il-14 và Li-2. Còn đồng chí Lê Liên ở lại trong nước tham
gia công tác chuẩn bị thành lập Cục Không quân và đồng chí Đinh Huy Cận học dẫn bay trên cả ba loại Li-2, An-2 và
Aero-45 tại Gia Lâm do các giáo viên dẫn đường trên không Trung Quốc dạy.

Tháng 4 năm 1956, 30 học viên đầu tiên được cử sang Liên Xô học máy bay vận tải, do đồng chí Phạm
Đình Cường làm Đoàn trưởng. Bạn đào tạo cho ta 2 tổ bay II- 14 và 2 tổ bay An-2, trong đó có bốn học viên dẫn
đường trên không là: Hoàng Cần, Hoàng Minh Khôi, Phan Phi Phụng và Phạm Thanh Tâm. Ban đầu, các tổ bay được
học cơ bản tại Trường Không quân Ba-la-xốp, sau đó bay đề cao ở sân bay Grezi.

Cuối năm 1956, Đoàn học lái máy bay thể thao đầu tiên được cử đi Tiệp Khắc, gồm các học viên: Trần
Minh Khuê, Hoàng Liên, Nguyễn Ngộ, Trịnh Hồng Thuận, Đinh Tôn, Nguyễn Phong Tùng và Lê Công Uẩn.

Cùng với đội ngũ lái chính, lái phụ (phi công vận tải và trực thăng), cơ giới trên không, thông tin trên
không…, đội ngũ dẫn đường trên không đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam được hình thành, được đào tạo
cơ bản, chính quy tại các nhà trường ở nước ngoài, có khả năng dẫn bay thành thạo trên nhiều loại máy bay và trực
thăng khác nhau và luôn sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Gắn liền với công tác đào tạo thành phần bay và đội ngũ kỹ thuật hàng không, đầu năm 1956, Trung Quốc
viện trợ cho không quân ta 5 chiếc máy bay, gồm 2 Li-2, 3 Aero-45 và đến giữa năm 1957, thêm 1 chiếc Li-2 nữa. Đây
là những chiếc máy bay đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam dùng để thay thế các máy bay của hàng không
Pháp, làm nhiệm vụ phục vụ Uỷ ban Quốc tế kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Geneve trên miền Bắc
Việt Nam. Tuy nhiên, các chuyến bay của ta trong thời gian đầu đều do các tổ bay của Trung Quốc đảm nhiệm. Năm
1958, Liên Xô viện trợ cho ta 1 chiếc II-14, 2 chiếc Li-2, 1 chiếc An-2 và 1 chiếc Mi-4, trong đó có 1 chiếc II- 14, 1
chiếc Li-2 và 1 chiếc Mi-4 là quà của Chính phủ Liên Xô tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như vậy, tính đến thời điểm
này, không quân ta có tất cả 11 chiếc máy bay và trực thăng các loại.

Ngày 10 tháng 9 năm 1958, đoàn học lái máy bay ở Tiệp Khắc về nước và được điều về sân bay Cát Bi bay
Aero-45. Tháng 3 năm 1959, hai đoàn học máy bay vận tải ở Trung Quốc và Liên Xô về nước và tiếp tục bay thêm
dưới sự giúp đỡ của các giáo viên Trung Quốc. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đội ngũ dẫn đường trên không của ta
từng bước tiếp cận với các nhiệm vụ bay khác nhau của không quân ta và thực hiện dẫn bay từ đơn giản đến phức tạp
ngay trên bầu trời của Tổ quốc.

Với ý chí quyết tâm cao và cần mẫn trong học tập, đến quý III năm 1958, nhiều tổ bay của ta đã nhanh
chóng được chuyên gia bạn cho bay đơn (độc lập công tác). Tổ bay Aero-45: lái chính Đinh Tôn - dẫn đường trên
không Đinh Huy Cận, đã đưa đại diện phái đoàn quân sự và ngoại giao của ta đi công tác đặc biệt từ Gia Lâm vào
Vinh. Chuyến bay này đã mở ra một trang mới về khả năng độc lập đảm nhiệm cả lái và dẫn đường của lực lượng
Không quân vận tải Việt Nam trong thực hiện các nhiệm vụ bay.

Tiếp sau đó, các tổ bay vận tải của ta đã hoàn toàn đảm nhiệm các chuyến bay thường xuyên hàng tuần,
phục vụ Uỷ ban Quốc tế kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Geneve trên miền Bắc Việt Nam, trên các
tuyến bay cố định: Hà Nội-Vinh-Đồng Hới và chở khách trên tuyến Hà Nội - Nà Sản - Điện Biên.

Đội ngũ dẫn đường trên không của ta không những thường xuyên hoàn thành tốt công tác độc lập dẫn bay,
mà còn tiếp tục nỗ lực phấn đấu một người có thể độc lập thực hiện dẫn bay trên nhiều loại máy bay và trực thăng
khác nhau. "Ít mà tinh" đã trở thành truyền thống tốt đẹp trong xây dựng đội ngũ của ngành Dẫn đường Không quân
sau này.

Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra nghị định thành lập Cục Không quân trực thuộc Bộ Tổng
Tham mưu trên cơ sở hợp nhất các tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu sân bay và Cục Hàng không dân dụng
Việt Nam. Cục Không quân có nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng nghiên cứu chủ trương và kế hoạch tổ chức, xây dựng
lực lượng không quân và các căn cứ không quân; xây dựng, chỉ huy các đơn vị mặt đất và trên không; đào tạo bồi
dưỡng cán bộ, nhân viên kỹ thuật; bảo quản, tu bổ các sân bay hiện có và chỉ đạo Câu lạc bộ hàng không đào tạo lực
lượng hậu bị cho không quân. Đại tá Đặng Tính được bổ nhiệm làm Cục trưởng, thượng tá Hoàng Thế Thiện làm
Chính uỷ, trung tá Hoàng Ngọc Diêu làm Tham mưu trưởng. Trong Phòng Kế hoạch (sau này là Phòng Tham mưu)
của cơ quan Cục Không quân có Ban dẫn đường. Đồng chí Lê Liên được bổ nhiệm làm Trưởng ban. Đây là tổ Chức
dẫn đường trên không đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam.

Ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục Không quân ra quyết định thành lập Đại đội bay (Quyết định số 049/KQ,
ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục trưởng Cục Không quân Đặng Tính ký. Hồ sơ 17, phông 01, lưu trữ Quân chủng
Phòng không-không quân). gồm: Ban chỉ huy đại đội, 3 Chủ nhiệm Dẫn đường, Thông tin và Máy (kỹ thuật hàng
không); 1 trung đội bay Il-14, 1 trung đội bay Li-2, 1 trung đội bay An-2 và 1 trung đội máy gồm tất cả nhân viên kỹ
thuật trên không (cơ giới) và mặt đất của các loại máy bay. Đại đội này trực tiếp đặt dưới quyền chỉ huy về mọi mặt
của Ban chỉ huy Trung đoàn không quân vận tải Gia Lâm. Đồng chí Lương Nhật Nguyễn được bổ nhiệm làm Chủ
nhiệm Dẫn đường đầu tiên của đại đội.

Ngày 1 tháng 5 năm 1959, sau lễ ra mắt của lực lượng Không quân vận tải Việt Nam tại sân bay Gia Lâm,
hai tổ bay Il-14 và Li-2 của ta đã thực hiện 4 chuyến bay chở các vị lãnh đạo cao cấp và quan khách đi thăm quan trên
vùng trời Hà Nội. Riêng tổ bay II- 14: lái chính Hoàng Ngọc Trung và dẫn đường trên không Hoàng Cần còn thực
hiện một chuyến biểu diễn bay bằng một động cơ thông qua đường băng Gia Lâm ở độ cao thấp.

Ngày 20 tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra nghị định (Nghị định số 427/NĐ, Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng Nguyễn Vãn Vịnh ký. Hồ sơ số 17, phông 01, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân) thành lập Trung
đoàn không quân vận tải 919 và Trường Huấn luyện hàng không (Trường Hàng không, Trung đoàn không quân 910).
Trong cơ cấu tổ chức của trung đoàn và nhà trường đều có hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường.
Cuối năm 1961, Tiểu đoàn không quân trực thăng 94 được thành lập trực thuộc Trường Hàng không, đóng
quân tại sân bay Cát Bi. Với 5 chiếc Mi-4 và 5 chiếc Mi-1, tiểu đoàn vừa làm nhiệm vụ huấn luyện bay và vừa làm
nhiệm vụ vận tải, chỉ thị mục tiêu, hiệu chỉnh điểm nổ cho pháo binh… Đồng chí Thạch Quang Nhung được bổ nhiệm
làm Tham mưu trưởng tiểu đoàn, đồng chí Hoàng Cần giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường tiểu đoàn. Năm 1962, Tiểu
đoàn 94 tách khỏi Trường Hàng không.

Như vậy, Ban dẫn đường Cục Không quân và hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường trong Trung đoàn 919 và
Trường Hàng không chính là những tổ chức tiền thân của ngành Dẫn đường Không quân.

***

Về đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy (chuyên dẫn đường tại các sở chỉ huy, đài radar… ở mặt đất), để đáp ứng
yêu cầu dẫn máy bay tiêm kích, ngày 1 tháng 5 năm 1960, sáu cán bộ đã làm công tác điều phái (quản lý-điều hành
bay) và một chiến sĩ được triệu tập về Trường Văn hoá quân đội ở Lạng Sơn để ôn văn hoá và học tiếng Trung Quốc.
Tháng 9 năm 1960, đoàn lên đường sang Trường Hàng không cao cấp Nam Uyển ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Sáu học
viên được đào tạo dẫn đường sở chỉ huy với thời gian 13 tháng, gồm:.Nguyễn Văn Chuyên, Trần Quang Kính, Bùi
Quang Liên, Đào Ngọc Ngư, Trần Hán Thức và Trần Kim Tuấn. Một học viên được đào tạo tiêu đồ gần (đánh dấu
đường bay trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy) là Lê Thành Chơn với thời gian sáu tháng. Đây là khoá đào tạo dẫn
đường sở chỉ huy và tiêu đồ gần đầu tiên cho Không quân nhân dân Việt Nam tại Trung Quốc.

Đồng chí Lê Thành Chơn, sau khi đi thực tập tại Sư đoàn Không quân số 5 ở sân bay Hàng Châu, tỉnh Triết
Giang (Trung Quốc), về nước tháng 6 năm 1961. Còn sáu học viên dẫn đường tốt nghiệp và về nước vào tháng 10
năm 1961. Sau này, hai đồng chí Trần Hán Thức và Trần Kim Tuấn được điều quay trở lại làm công tác điều phái.

Đầu năm 1962, đồng chí Bùi Quang Liên được cử sang sân bay Cao Mật, tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc)
tham gia huấn luyện dẫn đường cùng với đoàn học viên bay tiêm kích thứ nhất của Không quân nhân dân Việt Nam
đang chuyển loại MiG-17.

Tháng 9 năm 1962, Cục Không quân cử Đoàn cán bộ, gồm đủ các thành phần: chỉ huy, tác chiến, quân báo,
dẫn đường, thông tin, trạm trưởng, đài trưởng và trắc thủ radar do đại uý Nguyễn Hào Hiệp làm Đoàn trưởng, thượng
uý Lê Văn Nhã làm Phó Đoàn trưởng sang học tập thực tế tại Sư đoàn không quân số 7 anh hùng ở sân bay Dương
Thôn, tỉnh Thiên Tân (Trung Quốc). Trong đoàn có bốn sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy là: Phạm Minh Cậy, Nguyễn
Văn Chuyên, Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư.

Sau sáu tháng học tập, ta chủ động đề nghị và bạn đã đồng ý cho dẫn đường của không quân ta được phép
tham gia dẫn thực binh. Đồng chí Trần Quang Kính dẫn trên bàn dẫn đường (còn gọi là bàn tiêu đồ, bàn tròn…) tại sở
chỉ huy và đóng chí Đào Ngọc Ngư dẫn trên hiện sóng (màn hình, hiện hình…) tại đài radar dẫn đường. Do chuẩn bị tỉ
mỉ, hiệp đồng chặt chẽ và thực hiện dẫn chính xác phi công đánh chặn của bạn đã nhanh chóng phát hiện mục tiêu.
Cuộc dẫn thực binh đầu tiên và cũng là duy nhất trên đất Trung Quốc đã thành công. Kíp dẫn đường sở chỉ huy Trần
Quang Kính - Đào Ngọc Ngư đã được bạn khen ngợi và đánh giá tốt.

Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam.được hình thành và cũng được
đào tạo cơ bản, chính quy ở nước ngoài, tuy số lượng ít và chưa có điều kiện bước vào làm nhiệm vụ như đội ngũ dẫn
đường trên không vì lực lượng không quân tiêm kích của ta còn chưa về nước, nhưng cũng luôn sẵn sàng nhận nhiệm
vụ.
2. Đội ngũ dẫn đường trên không bước vào làm nhiệm vụ

Để chi viện cho miền Nam, ngày 6 tháng 5 năm 1959, Tổng Quân uỷ triệu tập hội nghị liên tịch bàn kế
hoạch xây dựng tuyến đường vận chuyển Bắc Nam và quyết định cuối tháng 7 năm 1959 phải đưa đoạn đường ô tô từ
Đường 1 (nam Quảng Bình) lên Vít Thù Lù (tây-tây nam Lệ Thuỷ 23km) vào hoạt động. Nhưng trong tháng 7, một
trận lũ lớn phá hỏng hầu hết nền đường, cầu cống của đoạn đường huyết mạch này.

Trung đoàn không quân 919 được Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ khẩn cấp thả hàng tiếp tế cho đồng
bào và bộ đội mở đường chiến lược Trường Sơn tại khu vực Vít Thù Lù. Bãi thả hàng tại Vít Thù Lù rất nhỏ, bốn bề là
núi cao bao bọc. Trung đoàn 919 dùng IL-14 thả thử chuyến hàng không dù đầu tiên ở độ cao 800m, nhưng do hướng
gió và tốc độ gió trong thung lũng thay đổi đột ngột, nên các kiện hàng đều rơi tản mạn, không vào được bãi. Trung
đoàn quyết định chuyển ngay sang sử dụng An-2. Ngày 15 tháng 9 năm 1959, 3 tổ bay và 2 máy bay cơ động vào
Đồng Hới. Trong tổ bay thứ nhất: lái chính Lê Văn Quyền, lái chính Nguyên Xuân Lịch ngồi ghế lái phụ, dẫn đường
trên không Đinh Huy Cận; tổ bay thứ hai: lái chính Lê Năng, dẫn đường trên không Lê Thế Hưng và tổ bay thứ ba: lái
chính Nguyễn Xuân Tình, dẫn đường trên không Phạm Thanh Tâm.

Lái chính Phan Như Cẩn chịu trách nhiệm chung, sẵn sàng thay thế các lái chính khác khi cần thiết và bay
thử chuyến đầu tiên vào ngày 16 tháng 9 năm 1959. Phương án dẫn bay được đưa ra là: trên hướng tiến nhập vào bãi,
qua đỉnh núi thấp nhất, có độ cao 500m, thu hết tay ga, rồi giảm thật nhanh độ cao xuống 100m (thấp nhất không dưới
50m), đến đúng cự ly dự tính, các kiện hàng sẽ được đẩy xuống. Phải bay từ ba đến bốn vòng mới có thể thả hết hàng,
vừa tốn thời gian và nhiên liệu, lại rất nguy hiểm và dễ gây tai nạn. Nhờ có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, thiết kế thành
công giá thả hàng, không cần người đẩy chỉ cần rút chốt là các kiện hàng sẽ thả hết một cách nhanh chóng. Sau hai
tuần bay liên tục, 60 tấn hàng gồm các dụng cụ, phương tiện máy móc, lương thực, kể cả thực phẩm tươi sống và rau
xanh đã được thả chính xác xuống bãi Vít Thù Lù. Các đơn vị mở đường Trường Sơn nhận được sự chi viện kịp thời,
phấn khởi, hăng hái, tiếp tục mở đường chi viện cho tiền tuyến lớn. Trong chiến dịch này, dẫn đường trên không đã
hiệp đồng chặt chẽ với các thành phần trong tổ bay, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đội bay An-2 được Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký lệnh tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Cuối năm 1959, trong chiến dịch tiễu phỉ ở vùng biên giới Tây Bắc, dẫn đường trên không đã dẫn bay An-2
trinh sát bằng mắt, phát hiện sào huyệt quân phỉ, thả truyền đơn và gọi loa kêu gọi những kẻ lầm đường lạc lối ra
hàng. Các tổ bay hoàn thành tốt nhiệm vụ, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân vùng cao biên giới của Tổ quốc.

Những tháng cuối năm 1960, tình hình Lào có nhiều diễn biến phức tạp. Theo yêu cầu của Mặt trận Lào
yêu nước, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam được cử sang phối hợp chiến đấu với quân và dân nước bạn. Trung
đoàn không quân 919 được giao nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với Lữ đoàn không quân vận tải hỗn hợp của Liên Xô
và các đơn vị trong lực lượng vũ trang của bạn và quân tình nguyện Việt Nam, sử dụng các loại máy bay vận tải và
trực thăng, thực hiện vận chuyển bộ đội, súng đạn, lương thực, thực phẩm lên tuyến trước, đón thương binh về tuyến
sau và sẵn sàng làm các nhiệm vụ khác được giao.

Để tiến hành nhiệm vụ trên, cầu hàng không Liên Xô - Việt Nam - Lào được thiết lập. Tháng 10 năm 1960,
các tổ bay giàu kinh nghiệm, cùng với 14 chiếc Il-14, 20 chiếc Li-2, 10 trực thăng Mi-1 và Mi-4 của Lữ đoàn không
quân vận tải hỗn hợp của Liên Xô đến Việt Nam (sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Liên Xô đã bàn giao toàn bộ số máy
bay và trực thăng này cho Không quân ta). Ngay sau đó, công tác huấn luyện bay bổ sung lập tức được triển khai. Tại
Cát Bi, chuyên gia Liên Xô giúp đỡ các tổ bay Li-2 và Mi-4 của ta, còn tại Chũ (sau đó chuyển sang Kép), chuyên gia
Trung Quốc đảm nhiệm những tổ bay Li-2 khác của ta. Đầu tháng 12 năm 1960, toàn bộ lực lượng không quân vận tải
Liên Xô và Việt Nam tham gia chiến dịch vận chuyển đường không lớn nhất khu vực Đông Nam Á lúc đó vào vị trí
sẵn sàng cất cánh.

Ngày 11 tháng 12 năm 1960, tổ bay Li-2: lái chính Nguyễn Đức Hiền, lái chính Nguyễn Doạt ngồi ghế lái
phụ, dẫn đường trên không Hoàng Cần thực hiện thành công chuyến bay mở đường đầu tiên, hạ cánh an toàn xuống
sân bay Sầm Nưa đầy nguy hiểm. Ngay ngày hôm sau, đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay Li-2 của Liên
Xô và Việt Nam đã thực hiện dẫn liên tiếp các chuyến bay vận chuyển từ Gia Lâm lên Điện Biên và từ đây đội ngũ
dẫn đường trên không trong các tổ bay Li-2 và An-2 chịu trách nhiệm dẫn bay vận chuyển sang Sầm Nưa. Với 184
chuyến bay an toàn, nhiệm vụ vận chuyển đường không đưa Sư đoàn bộ binh 316, quân tình nguyện Việt Nam sang
Thượng Lào tham gia chiến đấu và vận chuyển súng đạn, lương thực, thực phẩm đã được hoàn thành đúng thời hạn
quy định. Cũng trong thời gian trên, dẫn đường trên không trong các tổ bay Il-14 và An-2 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ
thả dù hàng và thả hàng không dù xuống các khu vực Buôn Hồng, Văng Viêng, Mường Pồn, Sa La Phu Khan…

Sau khi nhận được tin một đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đang hoạt động ở phía tây Sầm Nưa bị mất
liên lạc với Bộ chỉ huy mặt trận, cấp trên quyết định sử dụng An-2 thả một tổ trinh sát xuống sân bay Hứa Mường (tây
Sầm Nưa 30km) để nối lại liên lạc. Tổ bay An-2: lái chính Phan Như Cẩn, lái chính Nguyễn Xuân Tình ngồi ghế lái
phụ, dẫn đường trên không Hoàng Cần đã kịp thời thực hiện thành công chuyến bay thả dù người đầu tiên trong điều
kiện thời tiết không thuận lợi, trên địa hình rừng núi phức tạp, nhưng đúng địa điểm quy định và an toàn.

Ngày 15 tháng 12 năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm
vụ cho Cục trưởng Cục Không quân và tổ bay Mi-4 đi đón khách đặc biệt ở Sen Sủn, cách Văng Viêng 25km, giáp
biên giới Lào - Thái về Hà Nội. Trung đoàn không quân 919 điều ngay 1 Il-14 sang Sầm Nưa, mang theo xăng dầu để
bảo đảm cho Mi-4, còn tổ bay Mi-4: lái chính Phạm Đình Cường-lái chính Hoàng Trọng Khai ngồi ghế lái phụ-dẫn
đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Lê Văn Lạo sẵn sàng chờ lệnh.

Do thời tiết xấu, 11 giờ 30 phút ngày 16 tháng 12 năm 1960, Mi-4 mới cất cánh từ Gia Lâm và đến Sầm
Nưa lúc 14 giờ 30 phút. Sau khi kiểm tra và nạp dầu, Mi-4 bay tiếp theo kế hoạch. Do gió trên cao thay đổi, lại gặp
trời mù trong thời gian dài, dẫn đường trên không không phát hiện được sai lệch, nên đã bị lạc đường và tổ bay phải
hạ cánh bắt buộc xuống một vùng đất lạ. Trong tình huống hết sức khó khăn, tổ bay đã quyết định thiêu huỷ trực thăng
và tổ chức thành một đơn vị chiến đấu, tìm đường trở về.

Sau khi mất liên lạc với Mi-4, Cục Không quân quyết định sử dụng An-2 tiếp tục làm nhiệm vụ. Ngày 21
tháng 12 năm 1960, tổ bay An-2: lái chính Phan Như Cẩn-dẫn đường trên không Hoàng Cần-cơ giới trên không Trần
Văn Nam-thông tin trên không Hồ A cất cánh. Tại điểm cuối của đường bay, tổ bay phải vòng đi vòng lại nhiều lần
mới xác định được điểm hạ cánh và đón được khách đặc biệt, trong đó có ngài Ki-nim Phôn-sê-na (sau này là Bộ
trưởng Ngoại giao trong chính phủ hoà hợp dân tộc ba phái do hoàng thân Xu-pha-na Phu-ma làm Thủ tướng) và đồng
chí Chu Huy Mân - Đoàn trưởng Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào. Tổ bay An-2 trở về Gia Lâm an toàn,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Sau 17 ngày đêm, tổ bay Mi-4 tuy không hoàn thành nhiệm vụ bay đón khách nhưng đã trở về đơn vị, mặc
dù bị kẻ địch truy lùng và một người trong đoàn đã anh dũng hy sinh. Sau này, cả hai tổ bay An-2 và Mi-4 được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng hoa và chụp ảnh lưu
niệm.
Đến ngày 1 tháng 1 năm 1961, lực lượng vũ trang cách mạng Lào và quân tình nguyện Việt Nam nhanh
chóng phát triển tiến công, lần lượt giải phóng Noọng Hét, thị xã Phong Xa Lỳ, Nậm Bạc, Bản Ban, Văng Viêng,
Mường Hiềm, Pa Thí và làm chủ sân bay Cánh Đồng Chum. Tại đây ta thu được 1 chiếc C-47 còn nguyên vẹn. Sau
một thời gian ngắn nghiên cứu và huấn luyện chuyển loại, ta đã đưa chiếc C-47 này vào sử dụng.

Quý I năm 1961, theo sự thoả thuận giữa hai nước Lào - Việt, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam tiếp
tục sang tham gia chiến dịch tiến công địch ở khu vực Đường 9-Nam Lào. Đội ngũ dẫn đường trên không cùng các tổ
bay Il-14, Li-2, An-2 và Mi-4 lại lên đường phục vụ chiến dịch và tham gia lập chân hàng cho Đoàn 559 để chuyển
tiếp vào miền Nam. Nhiệm vụ lần này rất khẩn trương, khu vực hoạt động cách xa căn cứ, địa hình phức tạp, thời tiết
thay đổi thất thường, hoả lực phòng không của địch có thể uy hiếp là những khó khăn mới, đòi hỏi đội ngũ dẫn đường
trên không phải thận trọng tính toán, linh hoạt đối phó trong quá trình dẫn bay.

Cuối tháng 4 năm 1961, liên quân Lào - Việt đập tan tuyến phòng thủ của địch trên đường 9, giải phóng
một địa bàn chiến lược rộng lớn ở Nam Lào, trong đó có 2 thị trấn quan trọng là Mường Phìn và Sê Pôn. Sân bay Sê
Pôn được gấp rút sửa chữa. Các tổ bay của Trung đoàn 919 khẩn trương thực hiện vận chuyển trường không đến Sê
Pôn, đồng thời thả dù hàng xuống Mường Phìn. Hàng chục tấn vũ khí bộ binh, súng cối, ĐKZ, sơn pháo 75mm, máy
thong tin và nhiều mặt hàng quan trọng khác, đặc biệt có cả các thiết bị của Đài Phát thanh Giải phóng đã được không
quân ta chuyển đến đúng vị trí. Bộ đội vận tải Đoàn 559 tiếp nhận hàng và vận chuyển bằng đường bộ vào chiến
trường miền Nam.

Tháng 5 năm 1961, tổ bay Mi-4: lái chính Trần Ngọc Bích, dẫn đường trên không Đinh Huy Cận làm
nhiệm vụ đón thương binh từ Mường Ngát về nước. Chuyến bay thứ nhất, tuy bị hoả lực bộ binh địch uy hiếp, nhưng
tổ bay đã kịp thời đối phó và đưa thương binh về Vinh an toàn. Đến chuyến hai, do thời tiết diễn biến bất thường, gặp
gió xoáy trực thăng bị tụt độ cao, quyệt vào ngọn cây và rơi xuống, nhưng thương binh và tổ bay an toàn.

Ngày 3 tháng 5 năm 1961, chiến dịch ở khu vực Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Bộ đội tình nguyện
Việt Nam, trong đó có các tổ bay vận tải và trực thăng tham gia đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của chiến dịch, góp
phần thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị keo sơn giữa nhân dân và cách mạng hai nước Việt - Lào.

Như vậy, trong vòng 1 năm (từ cuối năm 1960 đến cuối năm 1961) qua hai chiến dịch đội ngũ dẫn đường
trên không đã góp sức cho Trung đoàn không quân 919 hoàn thành 2.752 chuyến bay với 5.000 giờ bay an toàn, vận
chuyển được 427 tấn hàng, đổ bộ 7.762 lượt quân tình nguyện hạ cánh xuống 10 sân bay, thả 3.227 chiếc dù hàng và
kiện hàng không dù xuống 20 điểm khác nhau trong vùng mới giải phóng của nước bạn Lào.

Đến giữa tháng 3 năm 1962, việc đàm phán chính trị giữa các phái ở Lào phải đình lại do thái độ thiếu
thiện chí của các phe nhóm phản động. Việc thành lập chính phủ liên hiệp không thực hiện được. Theo đề nghị của
bạn, ngày 7 tháng 4 năm 1962, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch Nậm Thà, quyết tâm
tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng khu vực Nậm Thà - Mường Sinh, phá vỡ thế uy hiếp của
địch ở Thượng Lào, tạo điều kiện thuận lợi mở thông biên giới Lào - Trung.

Ngoài việc tổ chức tuyến vận tải đường bộ từ Tây bắc sang, Bộ Tổng Tham mưu chủ trương tổ chức một
đợt vận chuyển đường không tập trung cho chiến dịch, lấy Gia Lâm là căn cứ tập kết tuyến sau và Điện Biên là điểm
tập kết tuyến trước. Lực lượng Il-14 vận chuyển từ Gia Lâm lên Điện Biên, Li-2 từ Điện Biên sang Mường Sài, còn
An-2 từ Điện Biên và Mường Sài đến các sân bay tiền duyên là: Mường Hai, Buôn Nưa, Nậm Thà, Mường Sinh. Mi-4
trực tại Mường Sài phục vụ Bộ Chỉ huy chiến dịch, đồng thời làm nhiệm vụ trinh sát, đón thương binh và chỉ thị mục
tiêu cho pháo binh.

Hai tổ bay An-2 tham gia chiến dịch này gồm: lái chính Lê Năng và dẫn đường trên không Lê Thế Hưng,
lái chính Nguyễn Xuân Tình và dẫn đường trên không Phạm Thanh Tâm. Dẫn đường trên không Đinh Huy Cận sẵn
sàng thay thế trong mọi trường hợp.

Ngày 3 tháng 5 năm 1962, chiến dịch bắt đầu. Chỉ trong một ngày, dẫn đường trên không đã cùng với các
thành phần trong tổ bay Li-2 và An-2 thực hiện hàng chục chuyến bay đổ bộ đường không đưa 2 tiểu đoàn bộ binh từ
Điện Biên, Nà Sản sang Mường Sài và thả dù hàng xuống Na Mo, Ta Gá kịp thời bảo đảm súng đạn, lương thực, thực
phẩm cho các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào phát triển tiến công.

Trong thời gian chiến dịch, tổ bay Mi-4: lái chính Hoàng Trọng Khai-lái chính Nguyễn Ngọc Bích ngồi ghế
lái phụ-dẫn đường trên không Hoàng Cần-cơ giới trên không Trương Quân Tạo ở Mường Sài, đã thực hiện 120
chuyến bay, đón hàng trăm thương binh về tuyến sau, vận chuyển súng đạn, lương thực, thực phẩm lên tuyến trước và
chỉ thị mục tiêu cho pháo binh.

Ngày 12 tháng 5 năm 1962, chiến dịch Nậm Thà kết thúc. Quân dân Lào-việt đã loại khỏi vòng chiến đấu
1.791 tên địch, giải phóng 8.000km2 đất và 7,6 vạn dân, giành thêm được một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng.

Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Nậm Thà, Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng tham mưu trưởng đã
chuyển lời khen của Trung ương Đảng, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đến các đơn vị quân tình nguyện Việt
Nam. Đồng chí nói: "Không quân vận tải của quân đội ta tuy mới ra đời, lực lượng còn non trẻ nhưng rất mưu trí,
dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến trường, góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi chung của
chiến dịch" (Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam 1955-1977, Nxb Quân đội nhân dân; Hà Nội.1993, tr.65, 66).

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Trung đoàn không quân 919 là thực hiện bay chuyên cơ phục vụ
đưa đón Bác Hồ và các vị lãnh đạo Đảng, Quốc hội và Chính phủ đi công tác. Với nhiệm vụ dẫn bay chuyên cơ, đội
ngũ dẫn đường trên không đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, đặc biệt là khi được cấp trên cho phép tự đảm nhiệm
dẫn bay từng chuyến. Ngay từ cuối năm 1959, hai tổ bay, trong đó có lái chính Nguyễn ái Đồng và dẫn đường trên
không Hoàng Cần, lái chính Nguyễn Khắc Nhâm và dẫn đường trên không Nguyễn Cảnh Phiên được cử sang sân bay
quốc tế Đông Giao (Trung Quốc) học tập. Sau một thời gian ngắn, cả hai tổ bay của ta đều được phép bay trên các
tuyến nội địa của bạn và tuyến quốc tế Bắc Kinh - Hà Nội.

Tháng 2 năm 1960, tổ bay Li-2: lái chính Nguyễn Đức Hiền lái chính Trần Liêm Khê ngồi ghế lái phụ-dẫn
đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Phạm Ngột-thông tin trên không Trần Văn Đông đón Bác
đi thăm Lạng Sơn về Hà Nội, Bác đã ghé thăm cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 919. Bác căn dặn: "Yêu cầu bay của đất
nước rất cao, còn ta mới thành lập, lực lượng và cơ sở vật chất còn non trẻ, lãnh đạo cần quan tâm đến đời sông của
anh em".

Trong một lần khác, tổ bay Mi-4: lái chính và cơ giới của Liên Xô, dẫn đường trên không Hoàng Cần đưa
Bác đi thăm Móng Cái. Khi về Gia Lâm, Bác đã tới thăm và nói chuyện với hội nghị mừng công của Cục Không quân.
Bác khen ngợi tinh thần quyết tâm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các chuyến bay, tinh thần học tập, rèn luyện làm chủ
khoa học kỹ thuật, phương tiện hiện đại của các cán bộ, chiến sĩ không quân. Đồng thời, Bác căn dặn cán bộ chiến sĩ
phải luôn luôn khiêm tốn, không tự mãn. Đất nước ta còn nghèo, trang bị máy móc, xăng dầu còn thiếu, vì thế phải
biết giữ gìn thật tốt và tiết kiệm. Đó chính là lòng yêu nước, thương dân. Bác căn dặn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cần
quan tâm đến các chiến sĩ' lái máy bay, vì họ là những người lao động đặc biệt nặng nhọc. Họ không phải chỉ cầm
súng, cầm lái, đấu tranh với địch, với thiên nhiên và kỹ thuật, mà còn phải làm công việc đó trên trời cao, đòi hỏi tiêu
hao nhiều sinh lực. Muốn lái máy bay tốt, an toàn, phải có máy móc tốt, nghĩa là các chiến sĩ thợ máy phải làm việc
giỏi, lại phải có chỉ huy tài, vạch đường chỉ hướng đúng đắn, có người báo tin tức, thông báo thời tiết chính xác, lại
phải có sân bay sạch sẽ, đường băng quang quẻ, vững chắc… Vậy là tất cả các Cô Các Chú phải biết đoàn kết, thương
yêu nhau, cùng nhau đồng lòng, góp sức làm tốt mọi nhiệm vụ.

Tháng 10 năm 1961, trong lần thứ hai Bác về thăm quê, tổ bay IL-14 chở Bác từ Gia Lâm vào vinh. Còn tổ
bay Mi-4: lái chính và cơ giới trên không của Liên Xô, dẫn đường trên không Hoàng Cần, đang trực tại Cánh Đồng
Chum phục vụ hội nghị "Ba ông Hoàng”, được lệnh về Vinh làm nhiệm vụ chuyên cơ. Sau khi về thăm quê bằng ô tô,
tổ bay Mi-4 đã đưa Bác từ Vinh đi thăm Nông trường Tây Hiếu (Nghệ An), thăm tỉnh Thanh Hoá và hợp tác xã Yên
Thành (Thanh Hoá).

Đầu năm 1960, những cánh rừng thông ở hai tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An đang xanh tươi, đột nhiên bị nạn
sâu ăn trụi lá. Tốc độ tàn phá quá nhanh mà diện tích rừng lại quá lớn, vì vậy mọi phương tiện hiện có của ngành
Nông Lâm không có khả năng cứu được rừng. Trung đoàn không quân 919 đã được giao nhiệm vụ sử dụng hai tổ bay
An-2: lái chính Phan Như Cẩn-dẫn đường trên không Đinh Huy Cận và lái chính Lê Năng-dẫn đường trên không
Phạm Thanh Tâm để phun thuốc trừ sâu. Dẫn đường trên không của hai tổ bay đã dẫn chính xác đáp ứng đúng yêu cầu
phun thuốc trừ sâu, bay thấp sát ngọn thông để cơ giới trên không điều khiển giàn phun. Chỉ sau ít ngày, nạn sâu đã
được diệt trừ, trả lại màu xanh cho 720 héc-ta rừng thông.

Mùa hè năm 1960, theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp, không quân ta đã phối hợp với Nha Khí tượng, sử
dụng An-2 bay gây mưa nhân tạo, chống hạn cứu lúa. Dưới nắng hè oi bức. các tổ bay An-2 chờ dưới cánh máy bay,
sẵn sàng nhận lệnh cất cánh. Máy bay sẽ được dẫn đến những đám mây có nhiều khả năng gây mưa, rồi phun bụi hoá
chất vào chúng để thúc đẩy nhanh quá trình tạo ra các cơn mưa rào. Bay gây mưa nhân tạo dễ gặp nguy hiểm vì trong
những đám mây này thường có dòng đối lưu rất mạnh, độ tích điện cao, dễ phá hỏng máy bay. Nhưng với lòng dũng
cảm, tin tưởng vào trình độ của chính mình, các tổ bay An-2 đã góp sức đẩy lùi hạn hán, cứu sống hang ngàn héc-ta
lúa tại tỉnh Hải Dương.Trong mùa mưa bão 1960, các tổ bay An-2 tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bay báo bão
cho ngư dân đang đánh cá xa bờ trên các vùng biển trong vịnh Bắc Bộ. Trước khi bão đổ bộ, các tổ bay An-2 được dẫn
đến những khu vực có thể có ngư dân đang hoạt động, tiến hành gọi loa thông báo hoặc thả phao có sơn dòng chữ "Có
bão, về ngay". Ngư dân một số địa phương thuộc Khu 4 đã gửi thư bày tỏ tình cảm của mình với các tổ bay An-2 "tuy
bay trên trời cao mà rất gần dân". Đội ngũ dẫn đường trong các tổ bay An-2, trong đó có đồng chí Lê Thế Hưng đã
làm việc hết mình, góp phần tạo nên danh hiệu "Chim báo bão" cho máy bay An-2.

Ngoài những chuyến bay trên, đội ngũ dẫn đường trên không An-2 còn tham gia dẫn bay chụp ảnh địa hình,
thăm dò địa chất trên khắp các vùng trọng điểm của miền Bắc.

Một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của không quân ta là nhanh chóng xử lý các tình huống trên
không. Sau khi nhận được thông báo máy bay hàng không của Vương quốc Lào trong quá trình bay đến Gia Lâm bị
lạc, do hỏng thiết bị dẫn đường trên không và kết quả xác định vị trí máy bay bị lạc của Đại đội 2 radar cảnh giới ở Hà
Cối và Đại đội 7 radar cảnh giới ở Đồ Sơn thuộc Trung đoàn radar 291, Đài chỉ huy đường dài Gia Lâm đã kịp thời ra
lệnh cho máy bay bị lạc vòng tại chỗ, giữ độ cao 2.100m, chờ máy bay Việt Nam lên dẫn về hạ cánh.
Tổ bay Li-2: lái chính Lê Văn Nha, dẫn đường trên không Đinh Huy Cận nhanh chóng cất cánh từ Gia
Lâm, lên độ cao 2.500m, bay thẳng đến khu vực Hoành Bồ và tiến hành tìm kiếm. Sau khi phát hiện được máy bay bị
lạc tổ bay của ta đã liên lạc, chỉ huy và dẫn tổ bay của Vương quốc Lào về Gia Lâm hạ cánh an toàn.

Đây là một trong những tình huống phức tạp, có một không hai vào thời gian đó mà đồng chí Đinh Huy
Cận đã góp công cùng đồng đội xử lý rất hoàn hảo.

***

Ngay từ khi được thành lập, giữa Trường Hàng không và Trung đoàn không quân 919 luôn có mối quan hệ
rất gàn bó mật thiết về công tác đào tạo các thành phần bay ở trong nước, trong đó có dẫn đường trên không. Những
cán bộ giỏi về dẫn đường trên không ở trung đoàn thường được điều về nhà trường tham gia đào tạo và đội ngũ giáo
viên dẫn đường trên không của nhà trường, khi có lệnh, lập tức lên đường làm nhiệm vụ trong đội hình chiến đấu và
phục vụ chiến đấu của trung đoàn. Nhờ đó, công tác đào tạo dẫn đường trên không luôn đạt hiệu quả cao và trở thành
truyền thống tốt đẹp của nhà trường trong suốt quá trình đào tạo sau này.

Ngày 15 tháng 1 năm 1960, khi khoá 2 đào tạo phi công kết thúc học lý thuyết để chuyển sang bay thực
hành, sáu học viên bay: Nguyễn Xuân Hồng, Đỗ Thanh Hồng, Trần Hợp, Hà Ngọc Lẫm, Lê Tính và Nguyễn Trung
Việt được chuyển sang đào tạo dẫn đường trên không khoá đầu tiên ở trong nước trên máy bay IL-14. Giáo viên lý
thuyết và thực hành là đồng chí Hoàng Cần.

Cuối năm 1960, Trường Hàng không được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ đào tạo 5 tổ bay vận tải An-2 cho
lực lượng không quân Pa-thét Lào, trong đó có cả dẫn đường trên không. Thiếu uý Phan Phi Phụng là giáo viên lý
thuyết và thực hành dẫn bay.

Xuất phát từ nhu cầu phục vụ chiến đấu ngày càng lớn của Trung đoàn 919 vào thời gian đầu những năm
1960, Cục Không quân quyết định thành lập bộ phận huấn luyện máy bay vận tải Li-2 trực thuộc Trường Hàng không
(Quyết định số. 63/TM-QL ngày 27 tháng 2 năm 1961, trung tá Nguyên Văn Tiên ký. Hồ sơ số 17, phông 01, lưu trữ
Quân chủng Phòng không-không quân). Từ ngày 1 tháng 3 năm 1961, 28 học viên dẫn đường trên không: Phạm Minh
Cậy, Ngô Phượng Châu, Đoàn Minh Hội, Trần Đình Lợi, Đặng Văn Lự, Vũ Mạnh, Trần Anh Phới, Nguyễn Viết
Quyền… bước vào học dẫn bay thực hành. Giáo viên dẫn bay thực hành là Gen-phan - chuyên gia Liên Xô và Phan
Phi Phụng.

Tháng 5 năm 1961, Đoàn học bay trực thăng đi Liên Xô, trong đó có năm học viên dẫn đường trên không
là: Lê Xuân Kịch, Phạm Xuân Quý, Nguyễn Văn Thi, Trương Xuân Tuyết và Bùi Đình Vận. Đến năm 1963, Đoàn
trực thăng trở về nước.

Tháng 11 năm 1961, Đoàn học máy bay ném bom IL-28 sang Liên Xô. Trong đoàn có chín học viên dẫn
đường trẽn không: Thân Xuân Hạnh, Nguyễn Quốc Hiền, Trần Đình Hồng, Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Văn Mận,
Nguyễn Đình Nhẫn, Đỗ Tuấn (Đỗ Văn Tuấn), Lê Bạch Vân và Phạm Văn Vượng. Đoàn Il-28 về nước vào ngày 30
tháng 10 năm 1964.

Ngày 28 tháng 2 năm 1962, theo quyết định của Cục Không quân, 16 đồng chí: Trần Đức Biên, Võ Thế
Đức, Phan Như Hoàng, Lê Công Lộc, Trần Nhiên, Lê Văn Nông, Lê Đình Oa, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Văn Quốc
(tức Bôn), Nguyễn Thành Sỹ, Nguyễn Văn Tam, Phạm Ngọc Thao, Nguyễn Viết Thái, Trần Hữu Thọ, Lê Truyền và
Lê Côn Sơn, từ Tiểu đoàn 95 (dự khoá) được điều về Đại đội 9 thuộc Trường Hàng không để học dẫn đường trên
không. Đồng chí Phan Phi Phụng là Đại đội trưởng, bốn giáo viên dẫn đường trên không là: Trần Minh Giao, Nguyễn
Đình Hồi, Phạm Hải Hiệp và Trần Đình Lợi. Khoá này khai giảng ngày 12 tháng 3 năm 1962, kết thúc học lý thuyết
ngày 24 tháng 10 năm 1962 và bước sang học dẫn bay thực hành ngay.

Căn cứ vào nhiệm vụ xây dựng không quân năm 1962, Cục Không quân quyết định thành lập Đội huấn
luyện Li-2 và An-2 trực thuộc Trường Hàng không với nhiệm vụ đào tạo lái phụ và dẫn đường trên không. Đội huấn
luyện tổ chức huấn luyện tại Kép, với ba trung đội: bay (phi công), dẫn đường trên không và cơ vụ (máy). Trung đội
dẫn đường trên không có 18 học viên. Giáo viên dẫn đường trên không do năm đồng chí chuyên gia Trung Quốc và
đồng chí Lê Thế Hưng đảm nhiệm. Đại đội An-2 của Trung đoàn 919 chuyển về Cát Bi để huấn luyện cho 10 học viên
bay tốt nghiệp Yak-18 ở trong nước và hai học viên bay tốt nghiệp Yak-18 ở Trung Quốc (Mệnh lệnh số 13/G9KQ. Hồ
sơ số 17, phông 01, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân).

Việc đào tạo dẫn đường trên không ở trong nước thành công, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc, khẳng
định khả năng và trình độ của đội ngũ giáo viên dẫn đường trên không của Không quân nhân dân Việt Nam. Trong
suốt quá trình Trường Hàng không tiến hành đào tạo phi công bay sơ cấp, đội ngũ giáo viên dạy lý thuyết dẫn bay tuy
ít người, nhưng luôn bảo đảm đủ giờ lên lớp và tận tình truyền đạt kiến thức dẫn bay đáp ứng yêu cầu đối với từng
khoá.

Tháng 8 năm 1962, Đoàn cán bộ tham mưu, hậu cần, dẫn đường không quân được cử đi đào tạo tại Học
viện Tham mưu - chỉ huy không quân Liên Xô. Đồng chí Hoàng Cần là học viên dẫn đường đầu tiên được tham gia
khoá đào tạo này.

Ngày 18 tháng 1 năm 1963, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị về việc bảo đảm an toàn cho các cơ sở vật chất
kỹ thuật của không quân, đề phòng biệt kích phá hoại, sẵn sang chiến đấu chống tập kích đường không; sẵn sàng làm
nhiệm vụ bí mật vận chuyển đường không tiếp tế cho chiến trường; sẵn sàng sử dụng không quân trong tình huống
xảy ra chiến tranh ở Quân khu 4; tăng cường huấn luyện chiến đấu và phục vụ các nhiệm vụ chính trị, quân sự và kinh
tế.

Bộ Tổng Tham mưu yêu cầu Cục Không quân chuẩn bị tốt lực lượng để thực hiện đổ bộ đường không cho
bộ đội dù, chuẩn bị đưa không quân tiêm kích về nước tham gia chiến đấu tăng cường huấn luyện bay có sử dụng vũ
khí và thả dù trong đêm, sẵn sàng chi viện cho các chiến trường.

Ngày 7 tháng 1 năm 1963, Tham mưu trưởng Cục Không quân, trung tá Nguyễn Văn Tiên ra lệnh cho
Trung đoàn không quân 919 tham gia diễn tập thực binh. Các tổ bay Li-2 và An-2 của trung đoàn có nhiệm vụ phối
hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn trinh sát 74 và Lữ đoàn dù 305 thực hiện đổ bộ đường không chiến thuật xuống các vị trí
theo yêu cầu của người chỉ huy "quân đỏ".

Đến 16 giờ ngày 9 tháng 1 năm 1963, công tác chuẩn bị cho diễn tập đã được hoàn tất. Sáng ngày 10 tháng
1, cuộc diễn tập đổ bộ đường không bắt đầu. 1 chiếc Li-2 thực hiện thả 1 tốp trinh sát xuống bãi chuẩn bị đổ bộ. Ngày
12, 1 Li-2 thả tiếp 2 tổ trinh sát nữa và ngày 17, 2 An-2 thực hiện 3 lần chuyến thả 3 tổ trinh sát cũng xuống bãi nằm
trên địa phận thôn Hàng Gi, xã Đức Long, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Các chuyến bay thả dù được thực hiện
đúng kế hoạch và bảo đảm an toàn tuyệt đối. Đây là cuộc diễn tập thực binh đầu tiên với các đơn vị chủ lực mà đội
ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay Li-2 và An-2 của Trung đoàn 919 đã dẫn bay chính xác, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đề ra.

Để sẵn sàng đánh trả bước phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, ngày 22 tháng 10 năm
1963, Bộ Quốc phòng ra quyết định hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân thành Quân chủng Phòng
không-không quân. Đại tá Phùng Thế Tài - nguyên Tư lệnh Bộ Tư lệnh Phòng không, được bổ nhiệm làm Tư lệnh
Quân chủng, đại tá Đặng Tính - Cục trưởng Cục Không quân, làm Chính uỷ, đồng chí Nguyễn Quang Bích - Tham
mưu trưởng Bộ Tư lệnh Phòng không được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Quân chủng. Trong Cục Tham mưu Quân
chủng có Phòng Tác chiến do đồng chí Khúc Đình Bính làm Trưởng phòng. Ban dẫn đường nằm trong Phòng Tác
chiến. Đồng chí Lê Liên, dẫn đường trên không, giữ chức Trưởng ban và có 4 trợ lý dẫn đường sở chỉ huy là các đồng
chí: Phạm Minh Cậy, Nguyễn Văn Chuyên, Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư.

Như vậy, Ban dẫn đường Quân chủng bao gồm cả thành phần dẫn đường trên không và dẫn đường sở chỉ
huy; hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường trong Trung đoàn không quân 919 và Trường Huấn luyện Hàng không tiếp tục
được kiện toàn; đội ngũ dẫn đường trên không và dẫn đường sở chỉ huy được hợp thành một khối thống nhất.

Đây là bước phát triển vô cùng quan trọng, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho ngành Dẫn đường Không quân
bước tiếp vào giai đoạn cách mạng mới.

Chương 2.

NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG CUỘC CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
ĐỐI VỚI MIỀN BẮC VÀ CHUẨN BỊ GIẢI PHÓNG MIỀN NAM (1964 - 1974)

I - NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG CUỘC CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẨN THỨ NHẤT
CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI MIỀN BẮC (1964-1968) VÀ NHỮNG NĂM 1969-1971

1. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ bay.

Cuối năm 1963, được đế quốc Mỹ hậu thuẫn, nguy Sài Gòn bắt đầu gia tăng các hoạt động khiêu khích, phá
hoại đối với miền Bắc. Chúng cho máy bay vào trinh sát, thả biệt kích, rải truyền đơn… tại nhiều nơi thuộc địa bàn
các tỉnh Khu 4 và đưa tàu chiến vào sâu trong cửa vịnh Bắc Bộ. Trước tình hình đó, hàng loạt các nội dung công tác
rất quan trọng đã được các cơ quan, đơn vị gấp rút triển khai nhằm thực hiện bằng được chủ trương của Thường vụ
Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân là sử dụng không quân đánh máy bay địch. Ta có
cách đánh của ta, địch không thể lường trước được.

Tháng 10 năm 1963, Phòng Máy bay và Xưởng Bạch Mai bắt đầu từng bước tìm hiểu, nghiên cứu và phục
hồi máy bay T-28 (Chiếc T-28 này do một phi công - hàng binh của Không quân Hoàng gia Lào lái và đã hạ cánh
xuống sân bay Bạch Mai vào tháng 9 năm 1963). Với trí tuệ và tay nghề giỏi, đội ngũ kỹ thuật hàng không đã tận tâm
làm việc, khắc phục mọi khó khăn và đến cuối năm 1963, chiếc T-28 này đã được đưa vào hệ thống trang bị của
Không quân nhân dân Việt Nam và mang số hiệu 963. Máy bay T-28-963 có đủ khả năng đánh mục tiêu trên không
bằng 2 khẩu súng 12,7mm với 200 viên đạn, hệ thống máy ngắm đáp ứng yêu cầu xạ kích bằng mắt ban đêm, la bàn
điện bị hỏng đã được thay bằng hệ thống la bàn mới (GIK) của máy bay An-2…

Thượng uý Nguyễn Văn Ba và trung uý Lê Tiến Phước, hai phi công - giáo viên bay Yak-18 của Trường
Hàng không được Quân chủng điều về trực tiếp bay T-28. Công tác huấn luyện chuyển loại được tiến hành rất khẩn
trương với cường độ cao: từ học lý thuyết trên thực hành các bài bay cơ bản và ứng dụng chiến đấu, bay ngày xong lại
chuyển sang bay đêm ngay. Gắn liền với công tác huấn luyện chuyển loại cho phi công, hai sĩ quan dẫn đường sở chỉ
huy là Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư đã cần cù học tập tính năng kỹ-chiến thuật của máy bay T-28, cách sử
dụng đài radar dẫn đường; 402 (đài 402), theo dõi các hoạt động bay của địch, miệt mài tính toán các số liệu dẫn bay
và luyện tập thành thạo cách dẫn phối hợp giữa dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy và dẫn trên hiện sóng tại đại đội
radar dẫn đường, đồng thời lien tục thực hành dẫn tất cả các chuyến bay chuyển loại và ứng dụng chiến đấu cho hai
phi công Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước.

Căn cứ vào ý định tác chiến và quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo: Tích cực, mạnh dạn, xây dựng kế hoạch
cụ thể và tổ chức thực hiện từng bước vững chắc của Quân chủng, phương án dẫn T-28 đánh máy bay địch thả biệt
kích xuống các khu vực gần biên giới Việt - Lào thuộc các tỉnh Thanh Hoá, Hoà Bình trong thời tiết đêm giản đơn, có
trăng đã được Trưởng ban dẫn đường Quân chủng Lê Liên cùng với các trợ lý chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ.

Tháng 1 năm 1964, sau khi kiểm tra kỹ lưỡng toàn bộ công tác chuẩn bị, Bộ Tư lệnh Quân chủng quyết
định đưa T-28 vào trực chiến. Lần xuất kích đầu tiên, không phát hiện được mục tiêu. Những lần tiếp theo, cũng
không suôn sẻ có lần phát hiện được địch, nhưng không bám theo kịp; có lần tiếp cận tốt, lại bắn không trúng… Hiện
tượng radar dẫn đường bắt (ta và địch) không liên tục, bị ngắt quãng, tuy không nghiêm trọng nhưng thường xuyên
xảy ra. Trong khi đó, máy bay ta tốt, gối không chỉ huy-dẫn đường thông suốt, khí thế đánh địch không hề suy giảm,
còn dịch vẫn ngang nhiên quấy rối. Đây là thách thức đầu tiên và cũng là lớn nhất đối với đội ngữ phi công và dẫn
đường. Sau nhiều lần tổ chức rút kinh nghiệm, phương án dẫn đường được bổ sung tỉ mỉ hơn, hiệp đồng dẫn đường
được thực hiện chặt chẽ hơn và giải pháp "dẫn mò" (dẫn theo suy đoán của dẫn đường sở chỉ huy khi radar bắt ta Và
địch không liên tục) cũng được chuẩn bị kỹ càng hơn. Tất cả đều tập trung cao độ cho nhiệm vụ.

23 giờ 30 phút, ngày 15 tháng 2 năm 1964 (Đoàn bay 919 - 45 năm xây dưng và trưởng thành, Nxb Chính
trị quốc gia; H.2004, tr.84, ghi: năm 1965), radar vòng ngoài của ta phát hiện có địch. Ít phút sau, đường bay địch bắt
đầu được đánh dấu bằng chì xanh trên mạng B1 (mạng radar cảnh giới quốc gia), dọc theo phía đông của dãy Trường
Sơn. Sở chỉ huy Quân chủng và tổ bay vào cấp 1.

Sau đó Bộ Tư lệnh Quân chủng nhận được điện báo từ huyện đội Con Cuông: Có tiếng máy bay địch bay
qua vùng trời địa phương, chúng bay đến khu vực Hồi Xuân- Lang Chánh thì chuyển hướng lên Tây bắc. Vậy là địch
vào tương đối sát với dự tính của ta. Tại Sở chỉ huy Quân chủng, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính vừa theo dõi
địch trên mạng B1 vừa đối chiếu xuống bàn dẫn đường.

Trên hiện sóng của đài 402 tại Đại đội radar dẫn Đường 28 (C-28) ở Hà Đông , trực ban dẫn đường Đào
Ngọc Ngư căng mắt bám theo từng vòng quét. Khi phát hiện mục tiêu trắc thủ radar đã đọc ngay tình báo về Sở chỉ
huy Quân chủng cho nhân viên tiêu đồ gần Lê Thành Chơn.

Tại Gia Lâm, tổ bay T-28-963: Nguyễn Văn Ba - Lê Tiến Phước sẵn sàng chờ lệnh.

1 giờ 07 phút ngày 16 tháng 2 năm 1964, Tư lệnh Quân chủng quyết định cho T-28 cất cánh. Trực ban dẫn
đường Trần Quang Kính dẫn T-28 bay đúng phương án đã được bổ sung. Phi công Lê Tiến Phước ngồi buồng lái sau,
tập trung giữ tốt các số liệu dẫn bay. Sở chỉ huy thông báo đều đặn vị trí ta-địch, mục tiêu bên trái, cự ly 30, 20, 15…
km, rồi mục tiêu ở phía trước. Phi công Nguyễn Văn Ba ngồi buồng lái trước, tập trung quan sát. Dưới ánh trăng mờ
đầu tháng (ngày 4 tháng Giêng âm lịch), trên nền mây trắng xám, mục tiêu hiện lên, anh báo cáo và quyết định tăng
tốc độ tiếp cận. Sở chỉ huy Quân chủng nhắc, không được để mất mục tiêu. Khi còn cách khoảng 500m, phi công
Nguyễn Văn Ba thấy rõ hình thù chiếc máy bay vận tải 2 động cơ của địch. Anh ấn nút lên đạn, chiếm vị trí có lợi xin
vào công kích và bắn hai loạt. Máy bay địch phụt lửa. Anh bắn tiếp loạt thứ ba thì súng bị tắc đạn (Theo tư liệu của
đồng chí Đào Ngọc Ngư: Bắn hết 163/200 viên). Trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư cho lệnh thoát ly.

Máy bay địch tròng trành, rồi nghiêng hẳn về bên trái và giảm độ cao rất nhanh. Nó rơi xuống một khu
rừng gần biên giới Việt - Lào. Sở chỉ huy dẫn T-28 về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn. Sau này, một tên biệt kích bị
ta bắt đã khai: toàn bộ phi hành đoàn trên máy bay vận tải C-123 của "Không lực Việt Nam Cộng hoà" và toán biệt
kích đều đã tử nạn.

Đây là chiến thắng đầu tiên bằng phương tiện chiến đấu trên không, diệt kẻ địch trên không trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ngành Dẫn đường vô cùng tự hào, ngày 16 tháng 2 năm 1964 là mốc son sang chói,
lần đầu tiên trong lịch sử của Không quân nhân dân Việt Nam, ta đã dẫn chặn kích đêm đánh đúng đối tượng, bắn rơi
máy bay địch. Đây là nguồn cổ vũ động viên mạnh mẽ cán bộ, chiến sĩ toàn ngành tiếp tục vươn lên, quyết tâm vượt
qua những thử thách còn đang ở phía trước của mặt trận trên không sắp mở.

Sau này, do điều kiện khí tài thay thế gặp nhiều khó khăn, T-28-963 phải tạm ngừng hoạt động. Đến tháng
10 năm 1965 không quân ta lại khôi phục kỹ thuật cho T-28- 963, hồi phục bay đêm cho phi công và đưa vào trực
chiến (Mệnh lệnh tác chiến của Quân chủng, số. 587/B1 ngày 25 tháng 9 năm 1965).

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân chủng (Mệnh lệnh chuyển trường của Bộ Tư lệnh Quân chủng,
ngày 01 tháng 7 năm 1964) về Việc chuyển trường (chuyển sân) 32 chiếc máy bay chiến đấu MiG-17A (MiG-17
không có hệ thống tăng lực) và 4 chiếc máy bay huấn luyện UMiG-15 từ sân bay Mông Tự (Trung Quốc) về sân bay
Nội Bài và căn cứ vào yêu cầu soạn thảo các văn kiện tổ chức thực hiện nhiệm vụ chuyển sân của Trung đoàn không
quân 921, Ban dẫn đường Quân chủng cùng với Tiểu ban dẫn đường trung đoàn đã tập trung sức lực vừa tham gia
soạn thảo kế hoạch chuyển sân vừa chuẩn bị chỉ thị dẫn đường chuyển sân của trung đoàn.

Nội dung của chỉ thị được thể hiện cụ thể trong 8 mục lớn, từ đặc điểm địa hình và thời tiết, hàng tuyến
(đường bay) chính thức và dự bị, phương pháp dẫn đường trên không và dẫn đường sở chỉ huy…. đến các yêu cầu cần
phải làm. Kèm theo chỉ thị còn có 6 phụ lục chi tiết, như tập hợp, giải tán hạ cánh, quy định mật hiệu (mật danh) các
sân bay, số liệu các sân bay dự bị… Một khối lượng công việc rất lớn, chỉ sau mười ngày đã được hai sĩ quan dẫn
đường sở chỉ huy: Trần Quang Kính, Bùi Quang Liên và Chủ nhiệm Dẫn đường Phạm Ngọc Lan hoàn tất. Ngay sau
khi kế hoạch chuyển sân của Trung đoàn 921 được Trung đoàn trưởng, trung tá Đào Đình Luyện và Chính uỷ trung tá
Đỗ Long đồng ký ngày 11 tháng 7 năm 1964, thì chỉ thị dẫn đường chuyển sân cũng được Tham mưu trưởng trung
đoàn, thiếu tá Lê Văn Thọ ký cùng ngày.

Tinh thần trách nhiệm và trình độ dẫn đường hoà quyện vào nhau. Mọi người không chỉ ý thức được tầm
quan trọng của nhiệm vụ là tổ chức dẫn các máy bay chiến đấu và huấn luyện chuyển sân từ nước bạn, lần đầu tiên trở
về Tổ quốc để tham gia chiến đấu, mà còn chú trọng đến từng chi tiết, như lấy và đối thời gian chuẩn (so giờ) không
được sai lệch quá 2 giây, mỗi đoạn bay đều chỉ rõ các điểm kiểm tra, độ cao an toàn thấp nhất và cách giao nhận chỉ
huy - dẫn đường…

Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau khi dựng lên cái gọi là "sự kiện vịnh Bắc Bộ", đế quốc Mỹ đã mở đầu cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta bằng cuộc tiến công "Mũi tên xuyên", với 64 lần chiếc máy bay của lực lượng
hải quân Mỹ đánh vào một số mục tiêu của ta. Bộ đội phòng không và hải quân đã giáng trả, bắn rơi 8 máy bay địch
và bắn bị thương nhiều chiếc khác. Để tăng cường thêm lực lượng và nâng cao sức mạnh chiến đấu cho Quân chủng,
ta đã gấp rút đưa Trung đoàn 921 về nước tham gia chiến đấu Kế hoạch mang mật danh X1 được quyết định thực hiện
vào ngay ngày hôm sau.

Trưa ngày 6 tháng 8 năm 1964, tại sân bay Mông Tự, phương án chuyển sân chính thức theo đường bay
chính thức được tiến hành đúng kế hoạch. Tại Sở chỉ huy Quân chủng: Trực ban dẫn đường Trần Quang Kính chịu
trách nhiệm dẫn chính và tiêu đồ gần Lê Thành Chơn đánh dấu đường bay, tại sở chỉ huy trung đoàn: các trực ban dẫn
đường Đào Ngọc Ngư và Bùi Quang Liên đảm nhiệm dẫn bổ trợ. Biên đội đầu tiên của Trung đoàn do Trung đoàn
trưởng Đào Đình Luyện chỉ huy, bay số 1, Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn Phạm Ngọc Lan - số 2, phi công Tào
Song Minh - số 3 và phi công Lâm Văn Lích - số 4 cất cánh.

20 phút sau, biên đội thứ hai lên đường và tiếp sau đó, với gián cách thời gian 5 phút, lại có một biên đội
chỉnh tề trở về Tổ quốc. Thật là vinh dự, khi về đến Nội Bài, theo thứ tự giải tán đội hình, Chủ nhiệm Dẫn đường
Phạm Ngọc Lan là người vào hạ cánh đầu tiên và sau khi hạ cánh 2 giờ 35 phút, chính anh là một trong những người
vào trực chiến đầu tiên của trung đoàn.

Sau khi biên đội thứ sáu của đợt một chuyển sân xong, 12 phi công đã tham gia đợt một, được bố trí thành
3 biên đội, nhanh chóng lên máy bay vận tải đang chờ sẵn để quay lại đất bạn. Đợt hai tiếp tục, tiếng động cơ vang lên
như đồng thanh gửi lời cảm ơn bạn và chào tạm biệt. Ba biên đội MiG-17 rời đường băng Mông Tự, sau đó hạ cánh an
toàn tại Nội Bài. Nhiệm vụ chuyển sân của Trung đoàn 921 kết thúc tốt đẹp. Toàn thể đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy,
những người đã được đào tạo cơ bản, chính quy ở nước bạn vô cùng vui mừng phấn khởi vì từ giờ phút này sẽ được
trực tiếp dẫn máy bay tiêm kích của ta hoạt động ngay trên đất nước mình.

Sau khi Trung đoàn 921 đóng quân ổn định tại căn cứ Nội Bài, Quân chúng tiến hành ngay công tác tổ chức
chuẩn bị mở mặt trận trên không đánh trả không quân nhà nghề của quân đội Mỹ. Bộ Tư lệnh Quân chủng ra mệnh
lệnh tác chiến (Mệnh lệnh tác chiến của Bộ tư lệnh, số 724, ngày 18 tháng 8 năm 1964), các cơ quan làm phương án
tác chiến và các dự án bảo đảm. Dự án dẫn đường (kế hoạch bảo đảm dẫn đường) của Quân chủng (Dự án dẫn đường,
số 2754/B7, ngày 31 tháng năm 1964 - Trong tài liệu lưu trữ không ghi tháng nào, Ban Biên soạn cho là tháng 8) đã
thể hiện cao độ tính định hướng hành động cho đội ngũ phi công và dẫn đường: Sở chỉ huy Quân chủng chịu trách
nhiệm ra lệnh chuyển cấp cất cánh, cho hướng xuất kích, dẫn vào tiếp địch, cho lệnh thoát ly và dẫn về. Sở chỉ huy
trung đoàn đảm nhiệm điều hành cất, hạ cánh, tham gia xử lý một số tình huống theo yêu cầu của Sở chỉ huy Quân
chủng. Tổ chức dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy ]à chính, dẫn trên hiện song tại đại đội radar dẫn đường là phụ.
Sử dụng hai đài chính là đài 402 và đài đo cao 843 để đưa tình báo về sở chỉ huy, dùng các đài phụ là 0, 10 và 13 (các
đài radar 406, P-10 và 513K) để lấy tình báo tham khảo. Phi công và dẫn đường phải nắm vững giọng nói của nhau.
Nếu cất cánh 4 chiếc thì sau 2 phút, còn cất cánh 2 chiếc thì sau 1 phút, đội trưởng tự ra lệnh cho các số trong biên đội
hoặc đôi bay chuyển đối không sang R3 (rãnh đối không chiến đấu), Sở chỉ huy Quân chủng chờ sẵn trên R3 để chỉ
huy chiến đấu. Trong khẩu lệnh vòng không nói độ nghiêng chỉ hô: "Vòng trái", có nghĩa vòng trái với độ nghiêng 45
độ hoặc "Vòng phải, động tác nhanh", có nghĩa vòng phải với độ nghiêng 60 độ. Thời gian từ khi dẫn đường ra khẩu
lệnh, đến khi phi công hoàn thành động tác là 5 giây. Lượng dầu còn lại khi bay về: nếu cách sân bay 70km phải còn
550 lít, 100km-650 lít và 120km-750 lít.

Nội dung hiệp đồng đầu ngày giữa dẫn đường sở chỉ huy với phi công trực chiến gồm 7 điểm, trong đó có:
tình hình thời tiết tại khu chiến và tại sân bay, tình hình địch hôm trước, dự kiến địch hoạt động trong ngày và nhiệm
vụ của phân đội trực chiến, đối thời gian chuẩn… Nội dung hiệp đồng giữa dẫn đường tại sở chỉ huy với dẫn đường
hiện sóng gồm 5 điểm và giữa dẫn đường hiện sóng với đài trưởng radar và tiêu đồ gần gồm 8 điểm… Tất cả đều rất
rõ ràng và cụ thể. Dự án dẫn đường của Quân chủng đã được Phó Tham mưu trưởng, trung tá Hoàng Ngọc Diêu ký
thay Tham mưu trưởng Quân chủng.

Một trong những yếu tố đòn bẩy tạo ra các kết quả cụ thể, đó là tổ chức thực hiện quân sự dân chủ: đặt ra
hết mọi khó khăn, mọi tình huống phức tạp; cùng nhau thảo luận, hiến kế và từng bước quy tụ vào một số giải pháp
chung nhất. Song điều quan trọng hơn là thường xuyên đưa từng giải pháp ra luyện tập, cho đến khi mọi người đều
cảm thấy thuần thục và hài lòng. Chính nhờ có quân sự dân chủ và luyện tập thường xuyên mà quy định: "Mỗi tuần,
phi công và dẫn đường gặp nhau một lần vào cuối tuần nhằm rút kinh nghiệm chiến đấu và huấn luyện, đồng thời bổ
sung vào nội dung hiệp đồng cũ (Dự án dẫn đường, mục thứ sáu: Chế độ hiệp đồng) đã thực sự góp một phần không
nhỏ nâng cao hiệu quả của mỗi chuyến bay huấn luyện, mỗi lần diễn tập và mỗi trận đánh sau này.

Ngày 1 tháng 4 năm 1965, tổng thống Johnson quyết định tăng quân Mỹ vào chiến trường miền Nam và
mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ đối với miền Bắc ra ngoài vĩ tuyến 20. Ngày 2
tháng 4 năm 1965, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng kiểm tra công tác chuẩn bị trực tiếp cho chiến đấu
của không quân, quyết định sử dụng lực lượng, khu chiến (khu vực đánh địch), thời cơ cất cánh, biện pháp hiệp đồng
với pháo cao xạ và các mặt bảo đảm khác…

Sáng sớm ngày 3 tháng 4 năm 1965, công tác chuẩn bị trực tiếp cho chiến đấu của Trung đoàn 921 đã được
hoàn thành theo đúng yêu cầu của Quân chủng. Biên đội đánh chính (chủ công): Phạm Ngọc Lan - số 1, Phan Văn Túc
- số 2, Hồ Văn Quỳ - số 3 và Trần Minh Phương - số 4. Đôi bay nghi binh - yểm hộ: Trần Hanh - Phạm Dấy. Kíp trực
ban dẫn đường Quân chủng: Trần Quang Kính dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy, Đào Ngọc Ngư dẫn trên hiện
song của đài 402 tại C-29A ở Bạch Mai (Lịch sử Bộ Tham mưu Phòng Không - Không quân. Sđd, tr.94); kíp trực ban
dẫn đường Trung đoàn 921: Bùi Quang Liên và Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy. Vào lúc 7 giờ, thời tiết tại sân còn xấu,
nhưng tại khu chiến Hàm Rồng có tốt hơn. Địch vào trinh sát thời tiết và một số mục tiêu của ta. Sau đó, chúng ngừng
hoạt động. Mọi người đều căng thẳng suy tính: Khả năng gì sẽ diễn ra, địch có tập trung lực lượng đánh Hàm Rồng
không, nếu không, chúng sẽ đánh vào đâu…

Đến 9 giờ 40 phút, địch vào đánh các cầu Hàm Rồng, câu Tào và Đò Lèn. 5 phút sau, cả hai phân đội trực
chiến đều vào cấp 1 và mở máy. 9 giờ 47 phút, đôi bay nghi binh - yểm hộ cất cánh và nhanh chóng lấy độ cao vào
khu vực Ninh Bình, rồi tiếp tục hoạt động ở độ cao 6.000m. Một phút sau biên đội đánh chính cất cánh, bay theo
phương án đã được chuẩn bị. Khi biên đội đánh chính qua khỏi Ninh Bình thì đột nhiên radar dẫn đường mất tín hiệu
ta. Trực ban dẫn đường Trần Quang Kính áp dụng ngay giải pháp "dẫn mò" mà anh đã tích luỹ được trong nhiều lần
dẫn T-28 và tiếp tục đưa tốp đánh chính bay vào khu chiến.

Khi gần đến Thanh Hoá, sở chỉ huy cho biên đội tăng độ cao và vào tiếp địch với góc 90 độ và liên tiếp
thông báo vị trí mục tiêu. Số 4 phát hiện địch đầu tiên và báo cáo F-8, 18km, rồi cả biên đội đều thấy rõ chúng đang
triển khai đội hình, chuẩn bị vào ném bom cầu Hàm Rồng. "Thế đánh có lợi", số 1 nghĩ. Sở chỉ huy Quân chủng cho
biên đội vứt thùng dầu phụ và tăng tốc độ tiếp cận. Từ phút này số 1 chịu trách nhiệm chỉ huy biên đội vào đánh địch.
Ta tách thành hai đôi bay và cơ động tạo thế. Thấy số 2 yểm hộ chắc chắn ở phía sau, số 1 quyết định cắt bán kính đón
đầu một tốp địch ở phía trước đám mây Cu (Cumulus - Một loại mây được hình thành ở độ cao thấp, từng đám riêng
biệt, có đường viền rõ ràng, phát triển theo chiều thắng đứng. Phần định mây hình đồi núi nhấp nhô, màu trắng phần
đáy mây bằng phẳng, màu tối hoặc đen), sau đó cho một chiếc vào vòng ngắm. Với trình độ đã từng lập nhiều kỷ lục
xạ kích của trung đoàn trong huấn luyện ứng dụng chiến đấu, phi công Phạm Ngọc Lan chờ đến đứng cự ly bắn có
hiệu quả và nổ súng. Máy bay địch trúng đạn, bốc cháy dữ dội và cắm thẳng xuống đất. Đó là chiếc F-8U, máy bay
cường kích phản lực của không quân thuộc hải quân Mỹ đầu tiên bị MiG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam bắn
rơi tại chỗ.

Cùng lúc đó, số 3, được số 4 yểm hộ, bám theo 2 chiếc khác và nổ súng, do bắn ở cự ly xa, nên địch chạy
thoát. Vài phút sau, khi số 1 đã nổ súng, số 2 báo cáo phát hiện địch ở bên phải. Số 1 ra lệnh: "Bám theo, vào công
kích! Tôi yểm hộ". Là một phi công có tinh thần kỷ luật và quyết tâm chiến đấu rất cao, tự biết rõ trình độ kỹ thuật bay
của mình, phi công Phan Văn Túc bình tĩnh, giữ tốt điểm ngắm, vào gần và bắn liền ba loạt. Máy bay địch đảo cánh,
rồi bốc cháy. Chiếc F-8U thứ hai bị xoá sổ.

10 giờ 17 phút, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho cả 2 tốp thoát ly khỏi khu chiến Hàm Rồng và khu nghi
binh- yểm hộ Ninh Bình. Các số 2, 3 và 4 đều chủ động dẫn bay bằng địa tiêu, kết hợp với dẫn bổ trợ của sở chỉ huy
và sau đó lần lượt vào hạ cánh an toàn xuống sân bay Nội Bài.

Chỉ riêng số 1 do máy bay hết dầu, tuy được phép nhảy dù, nhưng anh đã cố gắng hạ cánh bắt buộc thành
công xuống một dải cát dài ven sông Đuống.

MiG-17 đánh trận đầu, thắng giòn giã, nức lòng người. MiG-17, bằng loạt đạn đầu trong lần công kích đầu
tiên, bắn rơi 2 F-8U. MiG-17 đã lập chiến công đầu cực kỳ quan trọng cho mặt trận trên không vừa được mở. Đội ngũ
dẫn đường sở chỉ huy hân hoan đón mừng trận không chiến đầu tiên của MiG-17 đã được dẫn thành công.

Ngày 3 tháng 4 năm 1965 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Không quân nhân dân việt
Nam. Chính trong ngày này, ngành Dẫn đường đã có cơ hội đặt bước tiến đầu tiên cho sự nghiệp xây dựng truyền
thống dẫn đánh thắng trận đầu, dẫn đánh đúng đối tượng, dẫn bắn rơi tại chỗ.Tối 3 tháng 4 năm 1965, sau khi tổ chức
rút kinh nghiệm chiến đấu, công tác chuẩn bị dẫn đường cho trận đánh tiếp theo đã được bắt đầu ngay. Trưởng ban dẫn
đường Lê Liên quyết định kíp dẫn đường Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư tiếp tục trực và thống nhất cách dẫn bí
mật, bất ngờ cho trận thứ hai.

Sáng 4 tháng 4 năm 1965, sau khi trinh sát khu vực Thanh Hoá, địch đánh ngay cầu Hàm Rồng và nhà máy
điện. Sự khác biệt đầu tiên về địch so với trận đầu đã được bộc lộ. 10 giờ 20 phút, biên đội nghi binh - yểm hộ. Lê
Trọng Long - Phan Văn Túc - Hồ Văn Quỳ - Trần Minh Phương cất cánh, giữ hướng bay 110 độ, lên độ cao và tiếp tục
bay thẳng; đến ngang Phả Lại, mới vòng phải vào khu vực Phủ Lý và bay ở độ cao 8.500m.

10 giờ 22 phút, biên đội đánh chính: Trần Hanh - số 1, Phạm Dấy - số 2, Lê Minh Huân - số 3 và Trần
Nguyên Năm - số 4 cất cánh. Sau khi ổn định đội hình, biên đội đánh chính được Sở chỉ huy Quân chủng cho tăng dần
độ cao, bay tiếp về hướng đông, rồi vòng phải và sau khi cải ra gần như ở thẳng phía dưới biên đội nghi binh - yểm
hộ, độ cao dưới 4.000m và bay vào khu chiến. Số 1 hiểu ngay ý định dẫn "chồng tốp" nhằm đánh lừa địch của trực
ban dẫn đường Trần Quang Kính.

Gần đến khu chiến, theo lệnh của sở chỉ huy, biên đội kéo lên, chiếm ưu thế về độ cao và nhận ngay được
các thông báo về vị trí mục tiêu. 10 giờ 30 phút, số 2 báo cáo phát hiện 4 F105, bên phải 13km và ngay sau đó các số
còn lại trong biên đội đều lần lượt báo cáo phát hiện địch. Chúng đang kéo lên sau động tác ném bom bổ nhào. Thời
cơ vào trận hơi bị muộn, cường kích địch đã đánh. Theo lệnh của số 1, tất cả vứt thùng dầu phụ và tăng ngay tốc độ
tiếp cận. Số 1 và số 2 bám theo một tốp địch. Chờ cự ly bắn vào đến 400m, phi công Trần Hanh mới nổ súng. Luồng
đạn của anh quật chiếc máy bay địch lật úp xuống biển. Đây là chiếc máy bay cường kích phản lực "thần sấm" F105D
của không quân Mỹ đầu tiên bị MiG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi tại chỗ, ngay từ loạt đạn đầu. Bị
đánh bất ngờ, địch tăng thêm máy bay tiêm kích vào hỗ trợ cho máy bay cường kích của chúng. Chính sự khác biệt
này so với trận đầu đã làm cho trận đánh thứ hai trở nên rất quyết liệt. Phi công Lê Minh Huân được đồng đội yểm hộ,
trong khi quần nhau nhiều vòng với địch ở phía bắc cầu Hàm Rồng đã hạ được chiếc F105D thứ hai. Nhưng tiêm kích
địch đông, chúng dùng nhiều tên lửa không đối không bắn vào ta, nên các số 2, 3 và 4 đã anh dũng hy sinh. Còn số 1,
sau khi phải cơ động liên tục với quá tải lớn cả về hướng và độ cao để đối phó với tiêm kích địch ở phía nam cầu Hàm
Rồng, đã mất liên lạc với Sở chỉ huy Quân chủng và không xác định chính xác vị trí của mình. Do lượng nhiên liệu
còn lại quá ít, số 1 quyết định tìm vị trí thuận lợi để hạ cánh bắt buộc, và biên đội trưởng Trần Hanh đã hạ cánh thành
công tại một thung lũng thuộc bản Kẻ Tằm, phía tây Nghệ An.

Trận đánh thứ hai, ngày 4 tháng 4 năm 1965, mặc dù MiG-17 đã gặp tổn thất rất nặng cả về phi công và
máy bay, nhưng chiến công bắn rơi 2 máy bay F105D, loại cường kích phản lực hiện đại nhất của không quân Mỹ lúc
bấy giờ vẫn còn vang mãi. Một lần nữa ta dẫn MiG-17 không chiến thắng lợi.

Qua hai trận đánh liên tiếp của MiG-17, được sự chỉ đạo của cấp trên, để không quân mau chóng trưởng
thành, xứng đáng là lực lượng quan trọng của cuộc chiến tranh nhân dân trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ đối với miền Bắc và càng đánh, càng mạnh, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã tập trung cao về tâm trí và sức lực
cho việc nghiên cứu cách tính toán cất cánh đúng thời cơ và cách dẫn máy bay ta đánh đúng đối tượng. Các đồng chí
đều ý thức sâu sắc rằng: Địch tăng dần số lượng máy bay tiêm kích, mà mỗi chiếc lại mang nhiều tên lửa không đối
không vào trận, trong khi máy bay ta chỉ có pháo 37mm và 23mm với 200 viên đạn là một thách thức, không chỉ đối
với phi công và người chỉ huy, mà còn cả đối với chính mình.

Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1965, không quân địch tiến hành đánh phá nhiều nơi trên miền Bắc, chúng tập
trung vào các đường giao thông huyết mạch của ta ở hướng tây-nam và đông-bắc Hà Nội, vào các khu vực quan trọng
ở Việt Trì, Vĩnh Yên, Phả Lại, Bắc Giang… Không quân ta tăng cường chuẩn bị cho những trận đánh mới. Ban dẫn
đường tập trung xây dựng các phương án. Nhiều giả thiết về các thủ đoạn hoạt động của cường kích và tiêm kích địch
đã được đưa ra thảo luận, nhiều cách dẫn đã được đề xuất như đánh cường kích khi có tiêm kích yểm hộ, đánh tiêm
kích làm nhiệm vụ yểm hộ trong đội hình và tại khu vực. Đội ngũ trợ lý của ban liên tục thay nhau trực chiến và sẵn
sàng vào cuộc.

Sáng sớm ngày 4 tháng 6 năm 1965, máy bay cường kích địch vào đánh Đường 15 tại khu vực Quan Hoá-
bá Thước. Chúng chia thành nhiều tốp, hoạt động trong phạm vi rộng từ Suối Rút đến Thiệu Yên đã gây khó khăn cho
ta khi lựa chọn tốp cần phải đánh. 5 giờ 55 phút, sau khi biên đội Lâm Văn Lích - số 1, Nguyễn Nhật Chiêu - số 2, Hồ
Văn Quỳ - số 3 và Trần Minh Phương - số 4 cất cánh từ Nội Bài, đạt đủ độ cao an toàn, trực ban dẫn đường Trần
Quang Kính cho hướng xuất kích xuống Nho Quan. 6 giờ 02 phút, thấy có nhiều tốp địch hoạt động ở Hoà Bình, trực
ban dẫn đường Trần Quang Kính cho biên đội vòng phải gấp, hướng bay 340 độ. Ta mới bay được 2 phút thì địch
vòng trái từ Hoà Bình xuống Quan Hoá, sở chỉ huy cho biên đội vòng trái, bay thẳng về bến phà Hồi Xuân (đông
Quan Hoá 4km) để chặn đầu. 6 giờ 11 phút, số 1 phát hiện địch phía trước 8km, đang từ phải qua trái. Cả biên đội
vòng trái bám theo. Tốp địch thấy có MiG, lập tức cơ động hình chữ "S" xuôi theo Đường 15. 2 phút sau, phi công Hồ
Văn Quỳ chớp được thời cơ công kích, bắn rơi ngay 1 F105 ở đông Thọ Xuân 15km. Biên đội phân thành 2 tốp, thoát
ly về sân bay Nội Bài hạ cánh. Lần đầu tiên ta đã dẫn thành công MiG-17 chặn kích và bắn rơi được máy bay cường
kích địch.

Ngày 17 tháng 6 năm 1965, biên đội Lâm Văn Lích - số 1, Cao Thanh Tịnh - số 2, Lê Trọng Long - số 3 và
Nguyễn Nhật Chiêu - số 4 được trực ban dẫn đường Trần Quang Kính tại sở chỉ huy dẫn vào đánh một tốp lớn, 20
chiếc cường kích trên Đường 12A, nhưng bất ngờ gặp phải tốp máy bay tiêm kích địch tại khu vực Nho Quan. Trên
hiện sóng, trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên thấy rõ ta dịch và dẫn tiếp biên đội bám theo. Số 1 phát hiện F4,
6km. Không chiến quyết liệt diễn ra chỉ trong khoảng 2 phút. Các phi công Lâm Văn Lích và Lê Trọng Long, mỗi
người bắn rơi 1 chiếc F4. Số 2 và số 4 bị trúng tên lửa của F4, nhưng nhảy dù an toàn, số 3 hy sinh, do bị đâm vào núi
trong quá trình cơ động phản kích ở độ cao thấp. Số 1 được sở chỉ huy dẫn về hạ cánh an toàn tại Nội Bài. Đây là trận
"tao ngộ chiến" đầu tiên giữa MiG-17 và F4. Các phi công của ta không hề nao núng, quyết đánh và bắn rơi địch, mặc
dù phải chịu tổn thất. Đây còn là trận đầu tiên dẫn đường hiện sóng đã trực tiếp dẫn phi công phát hiện được địch.

Ngày 20 tháng 6 năm 1965, đôi bay: Mai Đức Toại - số 1 và Nguyễn Văn Lai - số 2 được dẫn chặn kích
một tốp 6 chiếc cường kích AD-6, vào từ phía tây thị xã Thanh Hoá, dọc theo Đường 15, lên đánh lại các mục tiêu ở
khu vực Quan Hoá - Bá Thước. Trên hướng xuất kích 230 độ, khi đến ngang Tân Lạc, thấy có khả năng bị xông trước,
trực ban dẫn đường Trần Quang Kính cho đôi bay vừa giảm tốc độ vừa vòng xuống hướng 170 độ, rồi cắt vào bên
phải đội hình của địch, nhưng cự ly quá gần, buộc phải tách sang bên trái. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên
tiếp tục phát huy khả năng xác định chính xác vị trí ta-địch trên hiện sóng và chỉ sau vài khẩu lệnh thông báo, số 1
phát hiện AD-6 bên phải, 2km. Số 1 vào công kích nhiều lẩn, nhưng chỉ bắn bị thương 1 chiếc. Phi công Nguyễn Văn
Lai bắn rơi 2 AD-6 và trở thành phi công đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam trong một trận bắn rơi 2 máy
bay địch, nhưng sau đó đồng chí hy sinh do bị đâm vào núi. Thấy diễn biến trận đánh có chiều hướng phức tạp, Sở chỉ
huy Quân chủng cho đôi bay Nguyễn Văn Bảy - số 1 và Đỗ Huy Hoàng - số 2 lên yểm hộ cho đồng đội về hạ cánh.
MiG-17 của Không quân nhân dân Việt nam đã lập chiến công mới: lần đầu tiên bắn rơi máy bay cường kích cánh
quạt AD-6 của không quân Mỹ.

Ngày 24 tháng 6 năm 1965, Sở chỉ huy Quân chủng dẫn đôi bay: Trần Huyền và Trần Ngọc Xíu (Trần
Ngọc Síu) vào không chiến với F4 ở độ cao 6.500m tại khu vực Bắc Giang - Bắc Ninh - Phả Lại. Ta bám được địch,
nhưng bắn xa, không kết quả. Ngày 10 tháng 7, đôi bay: Phạm Thanh Nhạ và Nguyễn Cương cũng được dẫn vào
không chiến với 8 chiếc F4 ở độ cao 8.000m tại khu vực phía nam dãy Tam Đảo. Địch dùng một tốp 6 chiếc F4 khác
yểm hộ ở phía bắc dãy Tam Đảo. Sau hơn 2 phút không chiến, ta bắn rơi 1 F4, địch bắn rơi 1 MiG-17 và 1 MiG-17 bị
tai nạn. Cả hai phi công của ta đều hy sinh.

Qua 5 trận trong vòng hơn một tháng, hiệu quả chiến đấu của không quân ta chưa đạt yêu cầu, tuy bắn rơi
được 6 chiếc, trong đó có 3 chiếc là F4 tiêm kích, nhưng cũng bị tổn thất nặng cả về máy bay và phi công. Trong tổ
chức một số trận đánh, còn có biểu hiện nôn nóng, chưa lường hết các thủ đoạn của không quân địch đối phó với
MiG-17…

Để thực hiện được tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong thời gian này là đánh để rèn luyện là chủ yếu, vừa đánh
vừa rút kinh nghiệm, chỉ đánh khi chắc thắng, quyết tâm đánh đúng đối tượng. Từ quý III năm 1965, không quân ta
giảm cường độ chiến đấu, tăng cường nghiên cứu địch, tìm tòi các cách đánh và cách dẫn thích hợp hơn, đồng thời
tranh thủ tổ chức bay huấn luyện.

Giữa năm 1965, không quân ta có thêm 30 phi công chiến đấu được đào tạo từ Liên Xô và Trung Quốc về
nước; đến tháng 8 năm 1965, không quân ta được trang bị thêm một số loại máy bay mới. Bộ Quốc phòng quyết định
thành lập trung đoàn không quân tiêm kích thứ hai: Trung đoàn 923.

Ngay sau khi được thành lập, Trung đoàn 923 đã khẩn trương tổ chức tiếp nhận sân bay Kép làm căn cứ
đóng quân. Ngày 7 tháng 9 năm 1965, những chiếc máy bay MiG-17 đầu tiên của trung đoàn đã được chuyển sân từ
Nội Bài về Kép an toàn. Trung đoàn nhanh chóng ổn định tổ chức, tranh thủ bay huấn luyện và triển khai trực chiến ở
cả hai sân bay Kép và Nội Bài. Để sẵn sàng tham gia đánh địch, về công tác dẫn đường, trung đoàn đã kế thừa những
phương án dẫn MiG-17 của Trung đoàn 921, đồng thời bắt tay ngay vào xây dựng mới các phương án dẫn bay đánh
địch bảo vệ vùng trời Đông Bắc của Hà Nội, trước tiên là phương án dẫn bay đánh cường kích bảo vệ Đường 1 bắc,
đoạn Hà Nội - Lạng Sơn (Phương án tác chiến, quyển K19). Đội ngũ dẫn đường của trung đoàn vừa bảo đảm bay huấn
luyện vừa tham gia trực chiến.

Trung đoàn 921, sau khi thực hiện chuyển một phần lực lượng của mình sang Trung đoàn 923, đã tổ chức
tiếp nhận 12 chiếc máy bay tiêm kích MiG-21PFL đầu tiên và 12 chiếc máy bay Il-28 đầu tiên, trong đó có 8 chiếc
ném bom, 2 chiếc trinh sát và 2 chiếc huấn luyện, đồng thời đẩy nhanh công tác huấn luyện chuyển loại MiG-21 và
tiếp tục tổ chức đánh địch bằng MiG-17 trực chiến tại Nội Bài.

Tháng 9 năm 1965, địch tăng cường lực lượng đánh các tuyến giao thông đường bộ và đường sắt từ Hải
Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai về Hà Nội và từ Hà Nội vào Khu 4. Chúng rất chú trọng đối phó với tên lửa, pháo cao xạ
và máy bay tiêm kích của ta.

Ngày 20 tháng 9 năm 1965, Trung đoàn 921 vào trận bằng biên đội MiG-17: Phạm Ngọc Lan - số 1,
Nguyễn Nhật Chiêu - số 2, Trần Văn Trì - số 3 và Nguyễn Ngọc Độ - số 4. Kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng:
Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy và Vũ Đức Bình trên hiện sóng của đài 402 tại C-29A ở Bạch Mai sẵn sàng chờ
lệnh. Các tốp cường kích A4 từ phía Hồng Gai bay qua dãy Yên Tử, hướng vào khu vực ga Bắc Lệ - cầu Sông Hoá,
còn tiêm kích F4 bay yểm hộ khu vực tại Nhã Nam. Biên đội của ta, sau khi cất cánh được sở chỉ huy dẫn vòng qua
Phúc Yên, rồi bay lên hướng bắc. Khi ta đến ngang Chợ Mới, thấy tốp F4 đã ra khỏi Nhã Nam, sở chỉ huy cho biên
đội vòng phải sang hướng đông. Lúc này trên hiện sóng, phát hiện tốp địch vào Sông Hoá đột nhiên bị mất tín hiệu,
trực ban dẫn đường Vũ Đức Bình báo cáo ngay về sở chỉ huy. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên lập tức nhắc
phi công chú ý cảnh giới bên phải, phía dưới và sau đó cho vòng gấp xuống hướng nam. Đột nhiên, số 2 báo cáo phát
hiện F4, 12km. Ta vào không chiến ở thế chủ động. Phi công Nguyễn Nhật Chiêu bám sát một chiếc, ngắm đúng yếu
lĩnh, bắn 2 loạt, hạ ngay 1 F4 tại chỗ. Thấy ta gặp phải tiêm kích địch, Sở chỉ huy Quân chủng cho đôi bay MiG-17:
Bùi Đình Kình và Đào Công Xưởng cất cánh lên yểm hộ và sau đó cho biên đội Lan - Chiêu - Trì - Độ thoát ly. Khi
biên đội vào hạ cánh, nhưng địch vẫn còn, Sở chỉ huy Quân chủng cho tiếp đôi bay MiG-17: Hồ Văn Quỳ và Nguyễn
Biên cất cánh. Tại khu chiến, theo đúng kế hoạch hiệp đồng, khi tất cả các máy bay của ta vừa thoát ly xong, các đơn
vị tên lửa và pháo cao xạ bảo vệ khu vực ga Bắc Lệ và cầu Sông Hoá đồng thời đánh địch và bắn rơi 2 A4.

Một trận đánh đầy ý nghĩa. Địch lợi dụng dãy Yên Tử, bay thấp để che dấu lực lượng. Ta đổi hướng xuất
kích, gây bất ngờ cho chúng. Khi radar dẫn đường không bắt được địch từ cầu Sông Hoá đến Võ Nhai, dẫn đường xử
lý đúng và phi công phát hiện nhanh, giành quyền chủ động vào không chiến. Cả 3 lực lượng không quân, tên lửa
phòng không và pháo cao xạ đều bắn rơi địch trong chiến đấu hiệp đồng.

Việc trợ lý Nguyễn Văn Chuyên được chuyển từ dẫn trên hiện sóng sang dẫn tại sở chỉ huy và dẫn thành
công ngay từ lần dẫn đầu tiên đã mở ra cho Ban dẫn đường một hướng đi mới là hoàn toàn có thể phát huy hết mọi
khả năng và trình độ của đội ngũ trợ lý dẫn đường để đưa vào trực ở bất kỳ vị trí nào khi nhiệm vụ cần đến. Từ thực
tiễn này, ngành Dẫn đường Không quân đã tạo nên hình thức huấn luyện tại chức mới trong thời chiến cho đội ngũ
dẫn đường sở chỉ huy là đồng hoá nghiệp vụ giữa hai vị trí trực ban chủ yếu là dẫn tại sở chỉ huy và dẫn trên hiện
sóng. Cũng trong trận này, trợ lý Vũ Đức Bình, sau khi được phê chuẩn vào trực, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong lần
dẫn chiến đấu đầu tiên của mình.

Ngày 6 tháng 11 năm 1965, biên đội MiG-17: Trần Hanh - số 1, Ngô Đoàn Nhung - số 2, Phạm Ngọc Lan -
số 3 và Trần Minh Phương - số 4 của Trung đoàn 921 trực chiến tại Nội Bài. Kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng: Lê
Thành Chơn tại sở chỉ huy và Đào Ngọc Ngư trên hiện sóng của đài 402 tại C-29A ở Bạch Mai được ban bố trí vào
làm nhiệm vụ. Địch cho trực thăng vào tìm - cứu giặc lái trong khu vực Đường 12A và 21A thuộc tỉnh Hoà Bình. Sau
khi cất cánh xong, MiG-17 được dẫn xuống Mỹ Đức. Nhờ có dẫn đường hiện sóng bám sát ta - địch liên tục, nên dẫn
đường tại sở chỉ huy đã dẫn biên đội hai lần vào tiếp địch với góc cắt chéo gần 90 độ, nhưng phi công vẫn không phát
hiện được mục tiêu. Đến lần thứ ba, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn cho biên đội vòng lại đối đầu. Sau một vài
khẩu lệnh thông báo, phi công Ngô Đoàn Nhung đã phát hiện được địch ở cự ly 10km. Anh vận dụng thành thạo các
động tác cơ động chiếm vị, xạ kích mục tiêu bay thấp, tốc độ nhỏ trên địa hình rừng núi và bắn rơi tại chỗ 1 CH-47 ở
nam-tây nam Chợ Bến 10km. Đây là chiếc trực thăng của không quân Mỹ đầu tiên bị MiG-17 của Không quân nhân
dân Việt Nam bắn rơi.

Với kết quả của trận này, cả Ban dẫn đường đều vui mừng, vì một sáng tạo nữa là đã đào tạo tại chức một
nhân viên tiêu đồ gần có năng lực, trở thành sĩ quan dẫn đường và đưa vào dẫn chiến đấu thành công trong lần dẫn đầu
tiên. Đó là đồng chí Lê Thành Chơn.

***

Với cái gọi là "thiện chí hoà bình" hòng lừa bịp dư luận trong nước và quốc tế, tổng thống Mỹ L. Johnson
đã tạm ngừng đánh phá miền Bắc Việt Nam từ ngày 24 tháng 12 năm 1965 đến ngày 31 tháng 1 năm 1966, để thực
hiện một âm mưu mới là tiến hành phản công chiến lược ở miền Nam Việt Nam, tiếp tục mở rộng phạm vi và tăng
nhanh cường độ đánh phá ra miền Bắc. Trước tình hình đó, nhiệm vụ của không quân là cùng với các lực lượng phòng
không, chiến đấu bảo vệ hệ thống đường giao thông huyết mạch và các mục tiêu quan trọng được giao.

Từ cuối năm 1965 đến đầu năm 1966, Trung đoàn 921 được trang bị thêm 28 chiếc MiG-17PF (có radar bắt
mục tiêu trên không) và Trung đoàn 923 có thêm 26 chiếc MiG-17F. Hai loại MiG-17 này, tuy vẫn chỉ có pháo và có
thể mang 2 thùng rocket, nhưng lại có hệ thống tăng lực mạnh. Mỗi trung đoàn không quân có một đại đội radar dẫn
đường phục vụ với đài radar dẫn đường P-35 và đài radar đo cao PRV-11. Vào thời gian đầu năm 1966, đội ngũ dẫn
đường sở chỉ huy, nhất là ở hai trung đoàn 921 và 923 cũng đã được bổ sung khá đầy đủ về số lượng và được huấn
luyện rất chu đáo. Cả hai tiểu ban dẫn đường đều có khả năng trực tiếp tham gia dẫn MiG-17 đánh địch.

Nhiệm vụ quan trọng của ngành Dẫn đường lúc này là tổ chức dẫn đường chiến đấu phân thành hai cấp
quân chủng và trung đoàn không quân. Đối với cấp quân chủng, ngoài việc chịu trách nhiệm dẫn chính. Ban dẫn
đường còn phải nghiên cứu và xác định các điều kiện khi quyết định dẫn vượt cấp (can thiệp trực tiếp bất cứ lúc nào
khi cấp trung đoàn không quân đang dẫn) và dẫn bổ trợ (dẫn từng phần khi cấp trung đoàn chịu trách nhiệm dẫn
chính). Đối với cấp trung đoàn không quân, ngoài việc đảm nhiệm dẫn bổ trợ (dẫn từng phần theo sự phân công của
cấp trên), các tiểu ban dẫn đường sẽ phải tự tổ chức dẫn chính các trận đánh của trung đoàn mình. Khả năng dẫn
đường từ mặt đất của Quân chủng được mở rộng. Cơ hội dẫn đánh địch ngày càng nhiều cho cả hai cấp và đặc biệt
cho lớp dẫn đường mới, đang nóng lòng muốn được tham gia chiến đấu.

Mở màn cho năm 1966 là trận đánh không thể nào quên vào đêm 3 tháng 2. Từ chiều tối, ta phát hiện địch
có triệu chứng sẽ tổ chức hoạt động trên hướng tây nam Hà Nội. Đến 19 giờ, ý đồ của địch vào đánh đường 15A đoạn
Suối Rút-Quan Hoá, Đường 21A đoạn Hoà Bình-Tân Lạc và đường 6 đoạn Hoà Bình-Suối Rút trở nên rất rõ ràng.
Các thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Tiên và Trần Hanh (Bản can và sơ đồ trận đánh) hạ quyết tâm cho MiG-
I7PF xuất kích. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Phạm Công Thành dẫn tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên
hiện sóng chịu trách nhiệm dẫn chính và kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy và Nguyễn
Văn Chuyên trên hiện sóng đảm nhiệm dẫn bổ trợ. Sau khi cất cánh, phi công Lâm Văn Lích được dẫn ra phía Hoà
Bình và lên độ cao 3.000m. Ta bay qua Hoà Bình 1 phút, lên tiếp độ cao 4.500m và vòng trái để bám theo tốp cường
kích địch thứ nhất đang hoạt động trên trục Tân Lạc - Suối Rút. Tại tây nam Tân Lạc địch vòng đi, vòng lại, ta rơi vào
thế đối đầu. Khi chúng lên đến tây bắc Tân Lạc lại vòng đi, vòng lại lần thứ hai, ta từ thế ngang bằng trở thành xông
trước. Lúc lên tới tây bắc Suối Rút 25km, địch vòng thêm một vòng để quay về Mai Châu thì ta hoàn toàn ở phía trước
địch 12km.

Sở chỉ huy trung đoàn nhận định: Địch chưa phát hiện có MiG đang săn đuổi, Dẫn đường xin tiếp tục dẫn.
Khi còn cách Mai Châu 10km, trực ban dẫn đường Phạm Công Thành cho phi công vòng trái 1 vòng. Ta lật ngược
tình thế, bám vào phía sau tốp địch thứ nhất. Phi công Lâm Văn Lích bình tĩnh ngắm bắn, rồi thoát ly sang phải. Một
chiếc bị trúng đạn. Cùng lúc đó, trực ban dẫn đường Lê Thiết Hùng thông báo có tốp cường kích thứ hai đang bay ở
phía trước. Phi công Lâm Văn Lích lập tức phát hiện và tiếp tục ngắm bắn, chiếc thứ hai trúng đạn. Đây là hai chiếc
A-6, cường kích phản lực của không quân thuộc hải quân Mỹ bị Không quân nhân dân Việt Nam lần đầu tiên bắn rơi
trong đêm bằng MiG-17. Trên bàn dẫn đường: lúc 19 giờ 42 phút, tiêu đồ gần ngừng đánh dấu đường bay của hai tốp
máy bay cường kích địch tại nam Mai Châu 5km và chỉ còn đi tiếp một tốp máy bay tiêm kích địch đang quần đảo ở
trên cao. Sau khi dẫn phi công thoát ly về phía Hoà Bình, sở chỉ huy cho giảm dần độ cao xuống 1.000m và dẫn thẳng
về sân bay Nội Bài. Tốp F4 từ Suối Rút cũng bay theo hướng đó, trên độ cao 5.000m, có lúc xuống tới 3.000m và vào
đến tận Hoà Lạc, nhưng không phát biện được ta, đành phải kéo cao, quay ra.

So với trận dẫn đánh đêm lần đầu tiên cách đây gần hai năm, trong trận này, ta có điều kiện tập trung hai
kíp trực ban dẫn đường ở cả 2 cấp quân chủng và trung đoàn. Trong đó, Phạm Từ Tịnh, Phạm Công Thành và Lê Thiết
Hùng là ba sĩ quan dẫn đường lần đầu tiên bước vào dẫn chiến đấu. Tất cả đều quyết tâm dẫn đánh đúng đối tượng,
bình tĩnh phán đoán đúng động thái của địch trong trận đánh, kiên trì dẫn chuyển thế chiến thuật từ đối đầu sang bám
vào phía sau mục tiêu để tạo điều kiện thuận lợi cho phi công bắn rơi tại chỗ và nắm vững độ cao địa hình dẫn thoát ly
khỏi khu chiến khi có tiêm kích địch ở phía trên.

Chiều 4 tháng 3 năm 1966, vào lúc 15 giờ 14 phút, xuất hiện một tốp địch ở đông nam Sầm Nưa 40km, rồi
bay qua biên giới, lên phía đông Mộc Châu và tây nam Yên Bái. Sau đó chúng vòng một vòng khá rộng ở phía tây Hạ
Hoà, Thanh Ba và ra theo đường giữa Yên Bái và Nghĩa Lộ. Từ 15 giờ 23 phút đến 15 giờ 47 phút, có nhiều tốp địch
hoạt động ở khu vực Hoà Bình-Mộc Châu-Quan Hoá. Có khả năng địch vào trinh sát và đánh các đoạn đường sắt từ
Yên Bái đến Thanh Ba. Các thủ trưởng trực chỉ huy: Phùng Thế Tài, Đào Đình Luyện, Nguyễn Văn Tiên, Trần Mạnh
và Đỗ Hữu Nghĩa đều nhất trí quyết định cho biên đội MiG-17: Phạm Thành Chung - số 1, Ngô Đức Mai - số 2, Trần
Minh Phương - số 3 và Nguyễn Thế Hôn - số 4 của Trung đoàn không quân 923, đang trực chiến ở Nội Bài vào trận.
Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng tại C-43 ở
Tân Trại được giao nhiệm vụ dẫn chính. Tại Sowr chỉ huy Quân chủng, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính dẫn bổ
trợ. 15 giờ 42.phút, biên đội cất cánh, lấy hướng xuất kích ra Mộc Châu và lên dần độ cao đến 5.300m, sau đó vòng
lên Phù Yên và giảm xuống 4.300m nhằm chặn đijch cả trên đường vào và đường ra của chúng. 15 giờ 55 phút, tốp
địch 4 chiếc xuất hiện ở phía đông Vạn Yên 20km, độ cao 4.500m, đang lượn vòng cơ động lên hướng tây bắc, được
sở chỉ huy Trung đoàn 921 bám rất sát. Chờ đúng thời cơ lượn vòng, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy cho biên đội
vòng phải vào tiếp địch, hướng bay 90 độ. Số 1 phát hiện ngay F4, 12km và chỉ huy biên đội bám theo. Sau khi đuổi
kịp 1 chiếc và bắn 2 loạt, nhưng địch cơ động mạnh và tránh được số 1 thấy số 2 đang ở vị trí có lợi đối với 1 chiếc
khác, liền chuyển sang yểm hộ và chỉ huy số 2 vào công kích. Phi công Ngô Đức Mai bắn 3 loạt, hạ ngay 1 F4. Trong
lúc này trên bàn dẫn đường xuất hiện thêm một tốp 4 chiếc, độ cao 4. 500m ở tây nam Phú Thọ 20km, đang vòng phải,
bám vào phía sau biên đội của ta. Số 3 và số 4 đã kịp thời nhận được thông báo, vừa yểm hộ chặt chẽ cho số 1 và số 2
vừa cơ động tránh tên lửa của địch. Sau bốn phút không chiến quyết liệt, số 1 quyết định thoát ly. Cả 4 chiếc của ta
bám theo nhau, chủ động xuống độ cao thấp và bay lên hướng bắc, đến Thanh Ba mới kéo cao, rồi vòng sang hướng
đông, qua sông Lô, men theo triền phía nam của dãy Tam Đảo, về hạ cánh tại Nội Bài.

Đây là trận đánh đầu tiên của Trung đoàn 923 kể từ khi được thành lập. Kíp trực ban dẫn đường đã lựa
chọn khu chiến hợp lý, dẫn vòng vào tiếp địch từ phía tây, bảo đảm bí mật, bất ngờ; đã tiếp nối truyền thống dẫn đánh
thắng trận đầu cho trung đoàn mới, góp công bắn rơi địch tại chỗ. Nhiệm vụ dẫn MiG-17 của Trung đoàn 923 xuất
kích từ Nội Bài đã được kíp trực ban dẫn đường của Trung đoàn 921 hoàn thành xuất sắc, đồng thời còn mở ra một
khả năng mới trong tổ chức dẫn đường chiến đấu cho các phân đội của hai trung đoàn không quân cùng trực chiến trên
một sân bay.

Ngày 23 tháng 4 năm 1966, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch tổ chức đánh liên
tiếp 3 trận. Trận thứ nhất, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 chịu trách nhiệm dẫn chính: Phạm Công Thành tại
sở chỉ huy ở Nội Bài, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng và kíp trực ban dẫn đường Quân chủng đảm nhiệm dẫn bổ trợ: Lê
Thành Chơn và Trần Quang Kính tại sở chỉ huy. Biên đội MiG-17: Hồ Văn Quỳ, Lưu Huy Chao, Nguyễn Biên
(Nguyễn Văn Biên) và Trần Văn Triêm cất cánh từ sân bay Nội Bài lúc 11 giờ 20 phút, vào đánh địch tại khu vực Vụ
Bản - Cẩm Thuỷ (Những thông tin tiếp theo của trận này chưa được tìm thấy). Trận thứ hai, kíp trực ban dẫn đường
Trung đoàn 923 dẫn chính: Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy ở Kép và Trần Xuân Dung trên hiện sóng tại C-43 ở Tân
Trại, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng tiếp tục dẫn bổ trợ. Biên đội MiG-17: Mai Đức Toại, Võ Văn Mẫn, Nguyễn
Khắc Lộc và Đỗ Huy Hoàng xuất kích từ sân bay Kép (khoảng sau 13 giờ) vào đánh máy bay cường kích ở khu vực
phía tây Bình Gia - Bắc Sơn 15km. Với góc vào 30 độ sau khi phát hiện F105, 8km, có F4 yểm hộ phía sau, phi công
Nguyễn Khắc Lộc xin vào đánh và bắn rơi 1 F4.

Khi thoát ly, tại Kép vẫn còn địch, biên đội được dẫn về sân bay Nội Bài hạ cánh. Trận thứ ba, kíp trực Ban
dẫn đường Quân chủng chuyển từ dẫn bổ trợ sang dẫn chính và phối hợp chặt chẽ với trực ban dẫn đường Bùi Hữu
Hành tại sở chỉ huy ở Kiến An. Biên đội: Lê Quang Trung, Nguyễn Thế Hôn, Ngô Đức Mai và Dương Trung Tân cất
cánh từ sân bay Kiến An lúc 13 giờ 17 phút, sau đó được dẫn xuống tận Nghĩa Hưng - Hải Hậu, nhưng địch quay ra và
ta quay về Kiến An hạ cánh.

Việc tổ chức dẫn MiG-17 đánh địch từ ba sân bay trong ngày 23 tháng 4 đã tạo ra một tam giác dẫn đường
chiến đấu từ mặt đất đầu tiên trên miền Bắc: Nội Bài - Kép - Kiến An, nhằm đáp ứng yêu cầu thường xuyên cơ động
lực lượng không quân trực chiến trên các sân bay khác nhau để tạo thế trận đánh thắng địch. Trong tam giác đó, cách
thức tổ chức dẫn đường chiến đấu phân thành hai cấp đã được thực hiện khá rõ nét. Đây là sự kiện đánh dấu một bước
phát triển cực kỳ quan trọng trong công tác tổ chức dẫn đường đánh địch trên không của ngành Dẫn đường Không
quân.

Chiều 26 tháng 4 năm 1966, địch vào đánh Đường 10, đoạn Bình Gia- Bắc Sơn và cho tiêm kích yểm hộ tại
khu vực đông Chợ Mới 30km. Biên đội: Hồ Văn Quỳ - số 1, Lưu Huy Chao - số 2, Nguyễn Văn Bảy - số 3 và Trần
Văn Triêm - số 4 xuất kích từ sân bay Kép. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923: Nguyễn Chuẩn tại sở chỉ huy và
Trần Xuân Dung trên hiện sóng đã cho biên đội đi độ cao 2.500m vào khu vực nam Bình Gia - Bắc Sơn 15km. Do
địch cơ động đổi hướng liên tục nên ta lâm vào thế đối đầu nhưng nhờ có thông báo rất kịp thời của dẫn đường hiện
sóng, số 1 đã nhanh chóng phát hiện F4, 6km. Không chiến diễn ra trong 5 phút, các phi công Lưu Huy Chao và
Nguyễn Văn Bảy, mỗi người hạ 1 F4. Sau khi cho biên đội thoát ly, sở chỉ huy trung đoàn dẫn số 1 và 3, còn số 2 tự
bay về hạ cánh tại sân bay Kép. Riêng số 4 phải nhảy dù, do bị bắn nhầm.
Cuối tháng 4 năm 1966 MiG-17 bị tổn thất trong một số trận đánh ở độ cao thấp. Một trong những nguyên
nhân có liên quan là tình huống trên không diễn ra rất nhanh, phối hợp sử dụng đối không chỉ huy - dẫn đường từ mặt
đất chưa nhịp nhàng, nói nhiều, nghe không tinh, dẫn tới tự gây nhiễu lẫn nhau và làm cho phi công dễ nhầm lẫn,
chậm xử lý (Bản can trận đánh ngày 29 tháng 4 năm 1966). Đầu tháng 5, bám sát ý kiến chỉ đạo của Cục Tham mưu
Quân chủng về cách đánh của MiG-17 là tiếp tục phát huy đánh gần, vòng cơ động ở độ cao thấp, lấy đội hình chiến
thuật 4 chiếc làm chính, đồng thời mạnh dạn sử dụng đội hình chiến thuật 2 chiếc, ngành Dẫn đường đã tập trung
nghiên cứu kỹ các thủ đoạn bay thấp của địch, dự tính các đường bay, đội hình của cường kích, các khu vực yểm hộ
của tiêm kích địch và xây dựng cách dẫn MiG-17 tránh tiêm kích, đánh cường kích ở độ cao thấp, có tốp đánh chính,
có tốp yểm hộ, tăng cường "dẫn mò", tìm cách bố trí và sử dụng các đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt thật hợp lý… Do đó,
trong tháng 6, sức mạnh chiến đấu của MiG-17 tiếp tục được phát huy.

Ngày 12 tháng 6 năm 1966, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch quyết định sử
dụng lần lượt từng đôi bay MiG-17 để đánh địch. 14 giờ 41 phút, địch vào từ phía đảo Cái Bầu ở độ cao 1.900m. Sau
khi vượt qua dãy Yên Tử, chúng xuống thấp. 14 giờ 43 phút, sở chỉ huy cho đôi bay: Lê Quang Trung - số 1 và Võ
Vàn Mẫn - số 2 cất cánh từ Kép. Đến phút 45, đột nhiên trên các bàn dẫn đường đều không thu được tình báo địch. Từ
sở chỉ huy trung đoàn, trực ban dẫn đường Hà Đăng Khoa lập tức "dẫn mò" và cho ngay đôi MiG-17 vòng về phía tây
và lên đỉnh Kép, giữ độ cao 1.000m, hướng bay 90 độ, rồi liên tiếp thông báo vị trí mục tiêu. Số 1 lập tức phát hiện 2
F-8 ở đông Lục Nam 10km. Ta vòng phải, khép bớt giãn cách để giữ thế đối đầu có lợi, rồi lật ngay sang trái. Sau hai
vòng cơ động với độ nghiêng lớn và tăng lực mạnh ở độ cao thấp, phi công Lê Quang Trung bắn rơi 1 F-8. 14 giờ 53
phút, thủ trưởng Nguyên Phúc Trạch cho đôi bay: Phạm Thành Chung và Dương Trung Tân lên yểm hộ, vì trước đó
xuất hiện thêm ba tốp địch từ phía Đường 18 bay lên. Đúng 15 giờ, đôi bay Trung - Mẫn hạ cánh và 3 phút sau, đôi
bay Chung - Tân cũng hạ cánh xuống Kép. Đây là trận dẫn đánh nhanh - diệt gọn đầu tiên của Không quân nhân dân
Việt Nam và lập kỷ lục: thời gian từ cất cánh đến hạ cánh chỉ mất 17 phút, bắn rơi 1 máy bay địch.

Chiều 21 tháng 6 năm 1966, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Trần Trọng Thuyết tổ chức đánh hiệp
đồng giữa MiG-17 và cao xạ. Kíp trực ban dẫn đường: Bùi Hữu Hành tại sở chỉ huy và Hà Đăng Khoa trên hiện sóng
đã dẫn biên đội: Phạm Thành Chung - số 1, Dương Trung Tân - số 2, Nguyễn Văn Bảy - số 3 và Phan Văn Túc - số 4
cất cánh từ Kép, bay thấp vào khu chiến Kép - Chũ. Mặc dù radar dẫn đường bắt địch không tốt, nhưng dẫn đường sở
chỉ huy xử lý dẫn mò chính xác. Biên đội vào tiếp địch với góc 60 độ số 2 phát hiện nhanh. Ta và địch đan vào nhau,
không chiến trong 2 phút 20 giây. Phạm Thành Chung và Phan Văn Túc, mỗi phi công bắn rơi 1 F-8E, nhưng số 2
phải nhảy dù, do bị trúng tên lửa của địch. Đây là trận dẫn đánh nhanh - diệt gọn thứ hai: mất 18 phút, bắn rơi 2 máy
bay địch.Trưa 29 tháng 6 năm 1966, địch tập trung lực lượng đánh kho xăng Đức Giang từ hướng bắc. Thủ trưởng
trực chỉ huy Trung đoàn 923 Đỗ Hữu Nghĩa quyết định cho biên đội: Trần Huyền - số 1, Võ Văn Mẫn - số 2, Nguyễn
Văn Bảy - số 3 và Phan Văn Túc - số 4, đang trực chiến tại Nội Bài, xuất kích. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn
không quân 921: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng và trực ban dẫn đường Quân chủng
Nguyễn Văn Chuyên đã phối hợp chặt chẽ với nhau, cho biên đội giá độ cao 500m, vòng qua cầu Đa Phúc, men theo
phía nam dãy Tam Đảo, rồi kéo cao vọt lên, vào tiếp địch ở giữa hai đỉnh 1591 và 1263. Với góc vào 60 độ, số 3 phát
hiện địch xa 15km. Cách dẫn táo bạo này đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các phi công Nguyễn Văn Bảy và Phan
Văn Túc hạ liên tiếp 2 F105. Khi quay về Nội Bài, nhờ có các thông báo về địch của đài chỉ huy bổ trợ tại núi Am Lợn
(điểm cao 462, bắc sân bay Nội Bài 10km) và đài chỉ huy bay tại sân Nội Bài, nên biên đội đã nhanh chóng chuyển
hướng xuống Gia Lâm hạ cánh an toàn. Đây là trận dẫn đánh nhanh - diệt gọn phá kỷ lục: chỉ mất 15 phút, bắn rơi 2
máy bay địch, lại là cường kích. Trong trận này còn thể hiện được cách dẫn mới đi thấp - kéo cao - vào tiếp địch rất
hiệu quả và lần đầu tiên sử dụng đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt thông báo tình hình trên không cho phi công rất kịp thời.

Cũng trong tháng 6 năm 1966, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy của Trung đoàn 923 đã đưa một phần lực
lượng của mình tham gia trực ban tại sở chỉ huy hỗn hợp ở Gia Lâm và sẵn sàng thực hiện các phương án dẫn MiG-17
xuất kích từ Gia Lâm. Đây là bước phát triển tiếp theo của tam giác dẫn đường chiến đấu Nội Bài - Kép - kiến An, góp
phần rất quan trọng cho các tháng 7, 8, 9 là ba tháng triển hình dẫn MiG-17 phát huy sức mạnh, đạt hiệu quả chiến đấu
cao.

Trong tháng 7 năm 1966, các kíp trực ban dẫn đường đã dẫn MiG-17 thực hiện đúng cách đánh do Cục
Tham mưu đề ra, lựa chọn khu chiến phù hợp và đánh đúng đối tượng. Khi dẫn đánh ở độ cao thấp, ta đã kết hợp chặt
chẽ giữa dẫn tại ở chỉ huy và dẫn trên hiện sóng ở cả hai cấp quân chủng và trung đoàn (ngày 14 tháng 7, đôi bay: Lê
Quang Trung và Ngô Đức Mai hạ 2 A4 ở độ cao 100 và 80m); các đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt: từ thông báo tình hình
địch, chuyển sang chỉ huy - dẫn đường cho phi công cơ động phát hiện, bám địch và phản kích khi bị địch uy hiếp
(ngày 19 tháng 7, đài bổ trợ tại núi Am Lợn và tại sân Nội Bài, trong tầm mắt của mình đã giúp đôi bay: Nguyễn Biên
và Võ Văn Mẫn cơ động phát hiện F105, 4km, bám địch liên tục và mỗi phi công bắn rơi 1 F105). Đội ngũ dẫn đường
sở chỉ huy đã đóng góp vào chiến công chung của MiG-17 bắn rơi: 3 A4 (phi công MiG-17 Phan Văn Na bắn rơi chiếc
A4 đầu tiên), 2 F105, 1 C-47 đây là chiếc máy bay vận tải đầu tiên bị biên đội MiG-17: Hồ Văn Quỳ - Lưu Huy Chao
- Nguyễn Biên - Trần Văn Triêm bắn rơi) và 1 F-8.

Trong 2 tháng 8 và 9 năm 1966, ta tiếp tục dẫn MiG-17 đánh thắng địch ở độ cao thấp trên nhiều khu vực
khác nhau như: đông nam Nghĩa Lộ 25km, Ninh Bình - Phủ Lý, Đông Triều - Phả Lại, nam Lục Nam 10km, Thái
Nguyên, Việt Trì, cầu Đuống… Tác dụng chỉ huy-dẫn đường của các đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt ngày càng tăng.
Tháng 8, MiG-17 bắn rơi 3 F105 và 1 A4; tháng 9 bắn rơi 2 F105, 3 F4, 2 F-8 và 1 chiếc không người lái.

***

Từ tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân 921 được trang bị máy bay tiêm kích thế hệ mới MiG-21
(PFL-76), có tính năng kỹ-chiến thuật tốt và mang 2 quả tên lửa hoặc 2 thùng rocket và 1 khẩu pháo 23mm. Đội ngũ
dẫn đường tham gia học tập chuyển loại, từng bước hoàn thiện kỹ năng gắn MiG-21 và xây dựng các phương án dẫn
đường chiến đấu cho MiG-21. Mọi người luôn mong mỏi phát huy truyền thống của trung đoàn đã đánh thắng địch
bằng MiG-17 thì sẽ đánh thắng địch bằng MiG-21.

Đầu tháng 2 năm 1966, lực lượng MiG-21 bắt đầu vào trực chiến tại Nội Bài. Những phi công bay giỏi, có
bản lĩnh; những sĩ quan dẫn đường có trình độ đã được luân phiên bố trí trực ban chiến đấu. Tất cả đều quán triệt tư
tưởng chỉ đạo của Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng là trong những tháng đầu năm 1966, bộ đội không quân vừa
đẩy mạnh các mặt xây dựng vừa tổ chức một số trận đánh bằng các loại máy bay mới để rút kinh nghiệm.

Trưa ngày 4 tháng 3 năm 1966, sau khi nhận được tin địch cho máy bay không người lái vào trinh sát miền
Bắc, thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên yêu cầu tổ chức theo dõi chặt chẽ trên bảng tiêu đồ xa và
chỉ thị cho MiG-21 sẵn sàng xuất kích. 13 giờ 53 phút, xuất hiện một tốp trên biên giới (phía tây Quan Hoá), bay qua
Suối Rút, rồi hướng lên Việt Trì, Bắc Cạn; độ cao 9.000m, rồi tăng dần lên đến 18.000m, tốc độ khoảng gần 800km/h,
có thể là máy bay không người lái. 13 giờ 56 phút, xuất hiện thêm một tốp ở Vụ Bản, độ cao 5.000m, rồi bay qua phía
đông Hà Nội, hướng lên Thái Nguyên. Từ sở chỉ huy Trung đoàn 921, trực ban dẫn đường Phạm Công Thành thông
báo ngay tình hình cho trực ban dẫn đường hiện sóng Trịnh Văn Tuất, tại C-45. Mặc dù lúc đó radar dẫn đường chưa
bám sát được địch, nhưng căn cứ vào khả năng có thể dẫn ta đánh đúng đối tượng, trực ban dẫn đường Phạm Công
Thành đề xuất cho phân đội trực chiến xuất kích. Thủ trưởng trực chỉ huy trung đoàn Đào Đình Luyện đồng ý.

Dựa vào tình báo xa, 14 giờ 05 phút, sở chỉ huy cho phi công Nguyễn Hồng Nhị cất cánh, giữ hướng bay
285 độ và lên độ cao; 2 phút sau, thông báo: mục tiêu hướng bay 110 độ, độ cao 19.500m. Ta đến Việt Trì, sở chỉ huy
cho hướng bay 320 độ, lên độ cao 6.000m, rồi 7.000m. Khi ngang Đoan Hùng, thấy khả năng bị lạc hậu và thấp hơn
địch quá nhiều, dẫn đường cho phi công vừa vòng phải vừa tăng lực để tăng tốc độ lên M=1,3 (khoảng 1.400km/h) và
tăng độ cao lên 13.000m, giữ hướng bay 90 độ, rồi tiếp tục tăng tốc độ lên M=1,6 (khoảng 1.700km/h) và độ cao lên
14.000m, nhưng ta vẫn lạc hậu và thấp hơn địch. Thủ trưởng Đào Đình Luyện chỉ thị: Kiểm tra và dẫn theo số liệu bay
thực tế của phi công. Sau khi qua đông nam Bắc Sơn 15km, địch vòng phải và đến Lục Nam, lại vòng trái ra hướng
đông và vẫn ở độ cao 19.500m. Ta vòng phải, hướng bay 150 độ, tăng tốc độ lên M=1,7 (khoảng 1.800km/h) và độ
cao lên 17.000m, đuổi theo. Dẫn đường lần lượt thông báo độ cao, cự ly và vị trí mục tiêu, đồng thời bám sát số liệu
bay thực tế của phi công. Sau khi ta vòng trái vào hướng 90 độ, địch còn ở phía trước 30km và cao hơn ta 2.500m. Phi
công Nguyễn Hồng Nhị tập trung quan sát, sau đó phát hiện mục tiêu, ngắm bằng radar trên máy bay và phóng 2 quả
tên lửa K-13, chiếc không người lái bốc cháy. Đây là chiếc BQM-34A, không người lái đầu tiên của không quân Mỹ
bị Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi. Trận đầu ra quân, MiG-21 đã đánh thắng. Ta về hạ cánh an toàn.

Dẫn đánh trận này còn là một sự kiện quan trọng đối với công tác dẫn đường sở chỉ huy, lần đầu tiên ta đã
sử dụng tốc độ vượt âm thanh để dẫn chặn kích ở độ cao cao. Từ thực tiễn trận đánh cho thấy, kỹ thuật dẫn bay khi sử
dụng tốc độ vượt âm thanh ở độ cao cao trong quá trình lấy độ cao, tăng tốc độ, cho lượn vòng vào tiếp địch và bám
đuổi mục tiêu đối với MiG-21 rất khác khi sử dụng tốc độ dưới âm thanh ở độ cao trung bình. Chính vì thế, cần phải
có trình độ dẫn bay chuyên sâu và rất thuần thục mới mang lại hiệu quả chiến đấu cao.

Từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 11 năm 1966, ta tổ chức dẫn MiG-21 đánh nhiều trận. Tham gia trực ban
dẫn đường ở Quân chủng và Trung đoàn không quân 921 đều là những gương mặt quen thuộc, có nhiều kinh nghiệm
dẫn MiG-17 đánh đạt hiệu quả cao. Còn trong quá trình dẫn MiG-21, tuy ta đã triệt để áp đụng cách đánh và cách dẫn
của MiG-17, thời cơ xuất kích được lựa chọn phù hợp, khu chiến quen thuộc, radar dẫn đường bắt ta-địch tốt, thời tiết
giản đơn, phi công phát hiện sớm, nhưng phóng tên lửa và rốc két lại gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chiến đấu thấp hơn
MiG-17.

Nếu chỉ tính những trận ta đánh cường kích và tiêm kích địch, theo góc vào, có 3 trận dẫn MiG-21 vào đối
đầu có giãn cách, ta đều thắng (bắn rơi địch, ta an toàn); 3 trận dẫn vào tiếp địch với góc lớn (trên 90 độ), ta thắng 1,
không thành công 2 (không bắn rơi địch, ta phải nhảy dù hoặc hy sinh và bắn rơi địch ít hơn, ta phải nhảy dù hoặc hy
sinh); 1 trận dẫn vào tiếp địch với góc trung bình (60 độ), ta thắng có tổn thất (bắn rơi địch nhiều hơn, ta phải nhảy dù
hoặc hy sinh); 1 trận dẫn vào tiếp địch với góc nhỏ (15 độ), ta thắng. Theo tốc độ chênh lệch (ΔV) khi tiếp địch, có 5
trận với ΔV = +150, +100 và +50km/h, ta thắng 4 và thắng có tổn thất 1; 2 trận có ΔV = +400 và - 50km/h, ta đều
không thành công.

Về sử dụng tên lửa và rocket, trong các trận đánh từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 11 năm 1966, ta bắn rơi 4
F105, 3 F4 và 3 chiếc không người lái, chủ yếu bằng tên lửa. Trong đó, Trần Ngọc Xíu là phi công MiG-21 đầu tiên
bắn rơi F105 (ngày 7 tháng 7) và Bùi Đình Kình là phi công MiG-21 đầu tiên bắn rơi F4 (ngày 5 tháng 10) đều bằng
tên lửa, Nguyễn Văn Minh là phi công MiG-21 đầu tiên trong 1 trận bắn rơi 2 máy bay địch (2 F4), đồng thời là phi
công MiG-21 đầu tiên bắn rơi địch bằng rocket (ngày 9 tháng 10). Nhưng còn có ít nhất 4 trận, ta phóng tên lửa, địch
không rơi (vào F105, ngày 17 tháng 8 và vào máy bay không người lái, ngày 23 tháng 9) và phóng tên lửa quả không
đi, quả không trúng (vào EB-66, ngày 2 và ngày 3 tháng 11).

Qua phân tích từ nhiều góc độ khác nhau, vấn đề mấu chốt được đặt ra lúc này là dẫn đường phải tìm ra
cách dẫn và phi công phải tìm ra cách điều khiển máy bay để sau khi vào tiếp địch, phi công có đầy đủ mọi điều kiện
quy định về ngắm và phóng tên lửa vào các loại mục tiêu khác nhau. Căn cứ vào quyết tâm bắn rơi địch bằng tên lửa
của tập thể lãnh đạo và chỉ huy Trung đoàn 921, phương án đánh địch được xây dựng lại và một đợt huấn luyện theo
cách đánh mới được gấp rút tổ chức. Đội ngũ phi công và dẫn đường cùng nhau bàn đi tính lại, quyết tâm tập trung
vào khâu quan trọng nhất là từ lúc dẫn vào tiếp địch, thông báo vị trí mục tiêu đến khi phi công phát hiện, cơ động
bám địch và xạ kích bằng tên lửa.

Trưa ngày 2 tháng 12 năm 1966, địch tập trung đánh Nội Bài. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921:
Phạm Công Thành tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng chịu trách nhiệm dẫn chính 3 đôi
bay MiG-21, trong đó có đôi bay: Lê Trọng Huyên và Trần Thiện Lương cất cánh từ Nội Bài, vào tiếp địch với góc
160 độ. Phi công Lê Trọng Huyên phát hiện F105 ở cự ly 6km, lập tức cắt vào đúng cự ly phóng tên lửa thuận lợi và
bắn rơi ngay 1 F105 tại khu vực đỉnh sân.

Ngày 5 tháng 12 năm 1966, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng dẫn đôi bay MiG-21: Nguyễn Đăng Kính
và Bùi Đức Nhu cất cánh từ Nội Bài lúc 8 giờ 55 phút, đánh phối hợp, hiệp đồng với MiG-17 tại khu vực Lập Thạch.
Phi công Nguyễn Đăng Kính bắn rơi 1 F105. Ngay chiều hôm đó, kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng đã tham gia
dẫn buổi sáng, tiếp tục dẫn 2 đôi bay MiG-21, trong đó có đôi bay: Vũ Ngọc Đỉnh và Nghiêm Đình Hiếu, cất cánh từ
Nội Bài, vào đánh tại khu vực Vĩnh Yên - Đại Từ - Đoan Hùng. Phi công Vũ Ngọc Đỉnh bắn rơi 1 F105 với góc vào
100 độ và tốc độ chênh lệch khi tiếp địch là 100km/h.

Các trận thắng trên của MiG-21 đã củng cố niềm tin dẫn đánh bằng tên lửa, đồng thời tạo đà cho dẫn thành
công liên tiếp nhiều trận đánh mới cũng trong tháng 12 năm 1966, nhưng với đội hình chiến thuật 4 chiếc MiG-21 và
tiếp tục đánh đúng cường kích địch. Ngày 13, biên đội: Lê Trọng Huyên, Trần Thiện Lương, Nguyễn Đăng Kính và
Nguyên Đức Thuận được dẫn vào tiếp địch đối đầu, có gián cách, phát hiện F105, cự ly 6km. Phi công Nguyễn Đức
Thuận bắn rơi 1 F105 tại khu vực Tam Đảo. Đặc biệt ngày 14, biên đội: Nguyễn Nhật Chiêu, Đặng Ngọc Ngự, Đồng
Văn Đe và Nguyễn Văn Cốc lại được dẫn vào khu vực Tam Đảo, với góc vào tiếp địch 60 độ, cũng phát hiện F105, cự
ly 10km. Phi công Đặng Ngọc Ngự bắn rơi 1 F105; đặc biệt phi công Đồng Văn Đe bắn rơi 2 F105 (Dẫn đường thông
kê các trận đánh của Không quân, quyển L) và trở thành phi công MiG-21 đầu tiên trong một trận bắn rơi 2 máy bay
địch bằng tên lửa, đồng thời ghi tên mình vào danh sách phi công MiG-21 trong một trận bắn rơi 2 máy bay địch.
Ngày 19, biên đội Nguyễn Hồng Nhị-Nguyễn Đăng Kính-Vũ Ngọc Đỉnh-Nghiêm Đình Hiếu được dẫn vào tiếp địch
với góc 50 độ, lại phát hiện F105, cự ly 10km. Phi công Vũ Ngọc Đỉnh bắn rơi 1 F105 tại khu vực Nội Bài.

Các kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Nguyên Văn Chuyên, Đào Ngọc Ngư, Lê Thành Chơn, Phạm Từ
Tịnh, Vũ Đức Bình, Nguyễn Quang Sáng và Trung đoàn 921: Phạm Minh Cậy, Phạm Công Thành, Lê Thiết Hùng,
Trịnh Văn Tuất, đã có công đóng góp rất lớn để tạo nên những trận dẫn MiG-21 đánh thắng vững chắc trong tháng 12
năm 1966.

***

Căn cứ vào hiệu quả chiến đấu cao của MiG-17 đánh ở độ cao thấp và khả năng đánh tốt của MiG-21 ở độ
cao trung bình, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng đã sớm có nghị quyết chỉ đạo tác chiến đối với bộ đội không
quân: dùng lực lượng nhỏ và vừa đánh độc lập từng loại, từng bước rèn luyện tiến lên đánh hiệp đồng giữa hai loại
MiG-17 và MiG-21 từ tháng 5 năm 1966 (Lịch sử Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân, Sđd, tr.125). Để thực
hiện nghị quyết trên, trong giai đoạn chuẩn bị trước Ban dẫn đường Quân chủng và các tiểu ban dẫn đường Trung
đoàn 921 và Trung đoàn 923 đều đã làm rõ nhiệm vụ được giao, quán triệt yêu cầu phải dẫn được MiG-17 và MiG-21
vào trận theo một ý định tác chiến thống nhất, nghiên cứu kỹ cách thức tổ chức dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa hai
loại máy bay của ta và tập trung giải quyết các trường hợp: Một loại đánh chính, một loại yểm hộ và hai loại cùng
đánh khi cả hai cùng trực chiến trên một sân bay hoặc trực chiến trên hai sân bay khác nhau. Khâu hiệp đồng dẫn
đường giữa các đầu mối trong hệ thống trực ban, trực chiến đã được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ.

Chiều ngày 12 tháng 8 năm 1966, sau khi nhận được tin địch sẽ tổ chức đánh các mục tiêu xung quanh Hà
Nội và Hải Phòng, thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên đã chỉ thị cho MiG-17 và MiG-21 sẵn sàng
xuất kích. Ý định tổ chức đánh phối hợp, hiệp đồng được nhanh chóng truyền đạt xuống sở chỉ huy Trung đoàn 923 và
Trung đoàn 921. Quyết tâm đánh địch bay vào từ phía Yên Châu lên Yên Bái-Tuyên Quang của thủ trưởng trực chỉ
huy Trung đoàn 923 Lê Oánh đã được Quân chủng đồng ý và trên cũng quyết định dùng MiG-21 làm nhiệm vụ yểm
hộ. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng chịu trách nhiệm dẫn chính, còn các kíp trực ban dẫn đường của hai trung
đoàn không quân đảm nhiệm dẫn bổ trợ.

16 giờ 37 phút, trên mạng B1 xuất hiện địch. Ban đầu chúng bay vào đúng theo dự tính của ta, nhưng sau
đó lại lên Nghĩa Lộ. 16 giờ 39 phút, radar dẫn đường phát hiện 1 tốp ở đông Phù Yên 25km, vừa vòng cơ động vừa
chuyển dịch dần vị trí và cũng lên Nghĩa Lộ. Qua tính toán khái quát của trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên,
thủ trưởng Nguyễn Văn Tiên quyết định cho MiG-17, MiG-21 vào cấp 1 và yêu cầu dẫn đường điều chỉnh cách dẫn.

16 giờ 49 phút, đôi bay MiG-17 đánh chính: Phan Văn Túc - số 1 và Lưu Huy Chao - số 2 cất cánh từ Gia
Lâm, bay theo sông Hồng, qua Sơn Tây, Thanh Sơn; đến đông Vạn Yên 25km vòng phải vào khu chiến đông nam
Nghĩa Lộ 25km. 16 giờ 57 phút, đôi MiG-21 yểm hộ cất cánh từ Nội Bài, bay theo triền phía tây dãy Tam Đảo lên
phía Sơn Dương. Tại khu chiến, trực ban dẫn đường Quân chủng Nguyễn Văn Chuyên dẫn đôi đánh chính vào phía
sau địch với góc 30 độ, số 1 phát hiện F105, 15km. Ta chủ động không chiến, phi công Lưu Huy Chao bắn rơi 1 F105,
sau đó tách tốp, xuống thấp và thoát ly theo hướng đông nam. Đúng lúc đó, 2 chiếc MiG-21 đã được dẫn từ Sơn
Dương ra nam Yên Bái 15km và có mặt yểm hộ ngay trên hướng rút về của MiG-17. MiG-17 bay cắt qua sông Hồng,
rồi xuôi theo phía bờ bắc về Gia Lâm. MiG-21 vòng trái qua khu chiến, bay xuống Thanh Sơn, rồi vòng ngược lên
hướng bắc, cách Đoan Hùng 15km thì vòng phải về Nội Bài. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng đã dẫn chính thành
công 1 tốp MiG-17 đánh chính và 1 tốp MiG-21 yểm hộ, từ hai sân bay khác nhau, hoạt động đúng ý định tác chiến
của người chỉ huy, các kíp trực ban dẫn đường trung đoàn không quân đã cho cất cánh đúng yêu cầu và dẫn phi công
về hạ cánh an toàn.

Ngày 20 tháng 9 năm 1966, căn cứ vào ý đồ của địch đánh vào các mục tiêu sát gần Hà Nội ở vòng cung
phía bắc, các thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng và hai trung đoàn 923, 921 quyết tâm tổ chức đánh phối hợp, hiệp
đồng giữa hai loại MiG-17 và MiG-21. Kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng chịu trách nhiệm dẫn chính: Đào Ngọc
Ngư tại sở chỉ huy và Phạm Từ Tịnh trên hiện sóng. 15 giờ 30 phút, địch qua Yên Bái, bay lên phía bắc Tuyên Quang,
ta cho biên đội MiG-17 đánh chính: Lê Quang Trung - số 1, Hoàng Văn Kỷ - số 2, Trần Minh Phương - số 3 và Lưu
Đức Sỹ - số 4 cất cánh từ Nội Bài. Địch bay qua Định Hoá, Chợ Mới. Biên đội MiG-17 được dẫn men theo phía tây
đường số 3, sát gần vòng hoả lực của cao xạ bảo vệ Thái Nguyên, tốc độ 750km/h, độ cao 1.000m, rồi vòng phải,
hướng bay 100 độ để chặn địch ở khu vực Võ Nhai. Sau 2 phút bay thẳng, biên đội được lệnh vòng trái vào tiếp địch.
Số 1 phát hiện F105 và F4, cự ly 8km và chỉ huy vào không chiến. Được số 3 và số 4 yểm hộ chặt chẽ, trong 2 phút,
phi công Lê Quang Trung bắn rơi 1 F105 và bắn bị thương 1 chiếc khác, phi công Hoàng Văn Kỷ cũng bắn rơi 1
F105. Sở chỉ huy cho thoát ly về phía Đại Từ, cắt ngang dãy Tam Đảo, rồi xuống phía tây Nội Bài. Lúc 15 giờ 40
phút, đôi bay MiG-21 yểm hộ: Lê Trọng Huyên và Trần Thiện Lương cất cánh cũng từ Nội Bài, bay qua Vĩnh Yên,
theo triền phía tây Tam Đảo, sau đó vòng phải, vọt qua đỉnh 1591, qua Đại Từ, Thái Nguyên, rồi đan nhiều vòng từ Đa
Phúc đến Phúc Yên để yểm hộ cho MiG-17 vào hạ cánh. Trong khi MiG-21 chuẩn bị vào hạ cánh, ở phía bắc Định
Hoá vẫn còn địch, Sở chỉ huy Quân chủng yêu cầu Trung đoàn 923 cho ngay đôi bay MiG-17: Trần Huyền và Nguyễn
Biên cất cánh từ Gia Lâm lên hoạt động tại đỉnh để sẵn sàng ứng phó.

Đây là trận dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng đạt hiệu quả cao. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 tuy
đảm nhiệm dẫn bổ trợ nhưng đã theo dõi sát toàn bộ tình hình trận đánh và khi có lệnh đã kịp thời dẫn đôi MiG-17
xuất kích đúng ý định.

Sáng ngày 21 tháng 9 năm 1966, địch từ phía biển vào qua dãy Yên Tử, đánh các mục tiêu ở khu vực Bắc
Giang. Quân chủng tiếp tục cho đánh phối hợp, hiệp đồng. 8 giờ 58 phút (Bản can trận đánh), ta cho biên đội MiG-17:
Nguyễn Văn Bảy - số 1, Đỗ Huy Hoàng - số 2, Lưu Huy Chao - số 3 và Võ Văn Mẫn - số 4 cất cánh từ Kiến An lên
đánh. Từ sở chỉ huy, trực ban dẫn đường Quân chủng Nguyễn Văn Chuyên cho biên đội đi thấp, qua Kinh Môn, đến
Đông Triều, vừa vòng trái vừa lên độ cao và vào tiếp địch. 9 giờ 05 phút, phi công phát hiện F105, cự ly 10km và ở độ
cao cao hơn còn có F4. 9 giờ 09 phút, đôi bay MiG-21: Lê Trọng Huyên và Trần Thiện Lương cất cánh từ sân bay Nội
Bài, vòng 1 vòng tại đỉnh và được dẫn vào khu chiến đông Lục Nam 30km. 9 giờ 20 phút, đôi MiG-21 phát hiện cả
F105 và F4, đối đầu, cự ly 10km.

Biên đội MiG-17 bám theo tốp F105, nhưng chưa kịp rút ngắn cự ly đã phải không chiến với tốp F4 bay
yểm hộ phía sau F105, ở độ cao 1.000m. Sau 8 phút, phi công Võ Văn Mẫn bắn rơi 1 F4, nhưng số 2 trong biên đội bị
trúng tên lửa của địch, phải nhảy dù. Đôi MiG-21 bám kịp tốp F105 khác ở độ cao 2.000m, phi công Lê Trọng Huyên
bắn rơi 1 F105. Sở chỉ huy Quân chủng cho MiG-17 thoát ly về Gia Lâm, còn MiG-21 về Nội Bài hạ cánh.

Khác với các trận trước, mặc dù ta có bị tổn thất, nhưng các kíp trực ban dẫn đường đã thực hiện dẫn thành
công 2 tốp ta từ hai sân bay cách xa nhau gần 100km, cùng làm nhiệm vụ đánh địch trên 1 hướng, tại hai khu chiến
cách nhau gần 25km, có chênh lệch độ cao 1.000m và gián cách thời gian 15 phút.

Ngày 5 tháng 12 năm 1966, ngay từ sáng địch đã cho trinh sát điện tử RB-66 (Bản can trận đánh) có tiêm
kích yểm hộ từ Sầm Nưa vào hoạt động tại khu vực Chợ Đồn-nghĩa Lộ. Theo quy luật, cường kích của chúng sẽ bay
theo đường Mộc Châu - Yên Bái - Tuyên Quang, rồi men theo triền phía tây Tam Đảo xuống đánh các mục tiêu phía
bắc, sát Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên quyết định cho MiG-21 đánh, đồng thời yêu
cầu MiG-17 phải sẵn sàng. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng chịu trách nhiệm dẫn chính: Nguyễn Văn Chuyên,
Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy, Lê Thành Chơn trên hiện sóng. 8 giờ 55 phút địch gần đến Sơn Dương, sở chỉ huy cho
đôi bay MiG-21: Nguyễn Đăng Kính và Bùi Đức Nhu cất cánh từ Nội Bài, hướng xuất kích 310 độ và lên độ cao
3.000m. Địch qua Sơn Dương, không vòng phải như ta dự tính mà vòng trái quay ra. 8 giờ 58 phút, chúng đột ngột
vòng trái, quay xuống. Ta cho ngay MiG-21 vòng phải 2 lần 180 độ tại Lập Thạch. Khi địch bay xuống gần đến Lập
Thạch thì MiG-21 được dẫn vào tiếp địch. 9 giờ 02 phút, phi công Nguyễn Đăng Kính phát hiện F105, 5km và hạ
ngay 1 chiếc với tốc độ chênh lệch khi phóng tên lửa lên tới 300km/h. Tốp cường kích vứt bom, vòng phải quay ra.
MiG-21 vòng lên Sơn Dương đuổi theo, rồi mới thoát ly về. 8 giờ 58 phút, Sở chỉ huy Quân chủng cho biên đội MiG-
17: Hồ Văn Quỳ, Nguyễn Thái Hôn, Nguyễn Văn Bảy và Võ Văn Mẫn cũng cất cánh từ Nội Bài và được dẫn vào khu
vực Vĩnh Yên - Phúc Yên, độ cao 1.000m, sẵn sàng đánh địch xuống thấp, nhưng bị MiG-21 đánh, chúng đã quay ra
hết.

Đây cũng là trận đánh mà các kíp trực ban dẫn đường đã thực hiện dẫn thành công 2 tốp cùng làm nhiệm
vụ đánh địch trên một hướng, tại 2 khu chiến cách nhau 20km, chênh lệch độ cao 2.000m và gián cánh thời gian chỉ
khoảng 2 phút.

Trong tố chức dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MiG-17 và MiG-21, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng
chịu trách nhiệm dẫn chính, còn các kíp trực ban dẫn đường trung đoàn không quân chỉ đảm nhiệm dẫn bổ trợ là hoàn
toàn phù hợp. Khi dẫn có tốp đánh chính và có tốp yểm hộ, trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy đã nắm chắc kết quả
chuyển hoá tình thế của tốp đánh chính để đưa tốp yểm hộ vào đúng khu vực, thời gian cần thiết và khi dẫn 2 loại
cùng đánh đã phán đoán chính xác mối quan hệ giữa các tốp địch, đặc biệt là lắng nghe đối không, nắm thực trạng tình
hình địch-ta của tốp đánh trước để dẫn tốp đánh sau vào thế có lợi. Kết quả dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MiG-
17 và MiG-21, một lần nữa khẳng định các giải pháp đã được lựa chọn trong tổ chức dẫn đường chiến đấu 2 cấp của
ngành Dẫn đường là rất thiết thực, trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả đánh địch của không quân ta.

***

Đầu năm 1966, bên cạnh nhiệm vụ thường xuyên là vận chuyển hàng quân sự và chuyên chở bộ đội ta bằng
đường không trên các hướng của chiến trường miền Bắc, Trung đoàn không quân 919 còn khẩn trương tổ chức thực
hiện một nhiệm vụ rất quan trọng được Quân chủng giao cho. ĐÓ là, tiến công đánh địch bằng các đòn tập kích đường
không tiêu diệt các mục tiêu trên biển và trên đất liền. Các tiểu đoàn Il-14, Li-2 và An-2 sẽ trực tiếp tham gia chiến
đấu. Các cơ quan Quân chủng và Trung đoàn không quân 919 đã kịp thời xây dựng các phương án chiến đấu và cải
tiến lắp ráp vũ khí lên máy bay.

Giữa tháng 2 năm 1966, các máy bay cải tiến mang vũ khí đã được bay thử có sử dụng bom đạn thật tại các
trường bắn Kép, Hoà Lạc đạt kết quả tốt và ngay sau đó, 14 chiếc IL-14 và 2 chiếc Li-2 được trang bị bom và đạn cối
120mm, 12 chiếc An-2 được trang bị rocket 57mm đạn cối 120mm và pháo sáng. Các tổ bay IL-14, Li-2 Và An-2 đều
nhanh chóng hoàn thành các bài bay huấn luyện ứng dụng chiến đấu bổ sung theo các phương án chiến đấu và đạt chất
lượng cao. Tất cả sẵn sàng chờ lệnh xuất kích tiến công địch.

Đầu tháng 3 năm 1966, Trung đoàn 919 được Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ sử dụng lực lượng
An-2, tiến hành các đòn tập kích đường không ban đêm vào các tàu chiến của địch, hoạt động cách bờ biển Khu 4 từ
50km trở vào, nhằm tạo thuận lợi cho các tàu vận tải không số của ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chi viện cho miền
Nam (Đoàn bay 919 - 45 năm xây dựng và trưởng thành, Nxb Chính trị quốc gia; H.2004, tr.68). Căn cứ vào phương
án dẫn bay chiến đấu cơ bản đã được thông qua, đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay An-2 lập tức tập trung
nghiên cứu chi tiết địa hình dọc tuyến Gia Lâm - Thanh Hoá, lựa chọn các đường bay cụ thể và bổ sung các điểm kiểm
tra khi bay đêm giản đơn và phức tạp; nghiên cứu cách lợi dụng ánh trăng phản chiếu trên sóng biển để quan sát, nhận
dạng và xác định vị trí tàu địch; chọn hướng công kích, tính toán chi tiết các số liệu phóng rocket, ném đạn cối và thả
pháo sáng; thứ tự hiệp đồng giữa máy bay thả pháo sáng-chỉ thị mục tiêu và máy bay vào công kích, bổ sung thêm các
biện pháp cơ động phòng tránh, khắc phục hoả lực phòng không trên tàu của địch bắn lên và tiêm kích địch bám
đuổi…

Đêm 7 tháng 3 năm 1966, sau khi nhận được tin có tàu địch vào hoạt động ở ngoài khơi Sầm Sơn, Sở chỉ
huy Quân chủng quyết định cho An-2 thực hiện đúng phương án tác chiến đã được chuẩn bị. 23 giờ 18 phút, An-2 vào
cấp 1 và 23 giờ 35 phút, cất cánh khỏi Gia Lâm. Tổ bay An-2 (số hiệu 670) làm nhiệm vụ đánh chính do lái chính
Phan Như Cẩn, chỉ huy tập kích, dẫn đường trên không Phạm Thanh Tâm và các đồng chí Trần Sĩ Tiêu, Loan Thế
Linh, còn tổ bay An-2 chỉ thị mục tiêu do lái chính Đào Hữu Ngoan phụ trách thả pháo sáng. Hai chiếc An-2 bay trong
thời tiết phức tạp, lần lượt vào đường bay, lên độ cao và giữ đúng cự ly dự tính. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng:
Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy, tập trung theo dõi tình hình trên không và sẵn sàng dẫn bổ trợ, còn Vũ Đức Bình
tại C-19 ở Quảng Xương, vừa bám sát các máy bay ta vừa phối hợp chặt chẽ với lực lượng hải quân, nắm chắc hoạt
động của các tàu địch.

Máy bay ta giữ im lặng tuyệt đối và được hai dẫn đường trên không dẫn bay chính xác, đến đúng khu vực
có mục tiêu. Nhờ có ánh trăng, sau khi phát hiện tàu địch, lái chính Phan Như Cẩn quyết định không thả pháo sáng và
lệnh cho lái chính Đào Hữu Ngoan bay vòng ở phía ngoài, hỗ trợ khi cần thiết, còn mình vào công kích ngay và thoát
ly về phía đất liền. Bằng 32 quả rocket 57mm, 1 chiếc tàu chiến của địch bốc cháy và chìm dần, những chiếc khác
hoảng hốt bỏ chạy. Đây là chiến công đầu tiên của Không quân nhân dân Việt nam tiến công đánh địch bằng đòn tập
kích đường không vào mục tiêu trên biển. Chiến công này còn là sự kiện lịch sử quan trọng đối với ngành Dẫn đường
Không quân, đánh dấu khả năng dẫn đường trên không trong thực hiện các đòn tập kích được giao.

Chiếc máy bay đánh chính vào đến bờ, do bị hoả lực phòng không mặt đất của dân quân bắn nhầm, lái
chính Phan Như Cẩn, mặc dù bị thương, nhưng anh đã hạ cánh bắt buộc thành công xuống bãi biển Sầm Sơn (Đoàn
bay 919 - 45 năm xây dựng và trưởng thành. Sđd, tr.69). Các thành viên trong tổ bay đánh chính đều an toàn. Tổ bay
chỉ thị mục tiêu, sau khi rời khỏi khu chiến, bay về theo kế hoạch và hạ cánh tại Gia Lâm lúc 2 giờ 38 phút ngày 8
tháng 3 năm 1966 (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân quyển L). Ngay ngày hôm sau trung đoàn đã
cử lực lượng vào Sầm Sơn kiểm tra chiếc An-2-670 và nhanh chóng chuyển sân ra Gia Lâm.

Phát huy thành tích trận đầu, 0 giờ 04 phút ngày 13 tháng 4 năm 1966, sở chỉ huy Trung đoàn không quân
919 cho 2 tổ bay An-2 cất cánh từ Gia Lâm, bay dưới mây. Tại khu vực mục tiêu, trời tối, tổ bay do đồng chí Tấu lái
chính phụ trách, thả 3 quả pháo sáng, tổ bay do đồng chí Huân lái chính chỉ huy, phát hiện nhanh, vào phóng rốc- két
ngay và với 11 quả, cháy 1 tàu địch ở đông nam Hòn Mê 9km. Dẫn đường trên không của 2 tổ bay đã dẫn chính xác,
an toàn và cùng với các thành viên trong tổ bay giành thắng lợi trong trận tập kích thứ hai. Đây là trận đầu tiên ta thực
hiện thành công tập kích mục tiêu trên biển ban đêm có sử dụng pháo sáng. 3 giờ 23 phút, 2 chiếc máy bay của ta về
đến Gia Lâm.

22 giờ 15 phút ngày 13 tháng 6 năm 1966, 2 tổ bay An-2 cất cánh từ Gia Lâm, trên đường vào bay trong
thời tiết phức tạp, đến khu vực có tàu địch xuống dưới mây. Tổ bay do lái chính Phan Như Cẩn phụ trách, vào thả 4
quả pháo sáng và tổ bay do đồng chí Chúc lái chính chỉ huy, vào công kích. Ta tiêu hao 27 quả rocket, địch bị chìm 1
tàu ở đông Sầm Sơn 7km. Trận tập kích có sử dụng pháo sáng thứ hai đã đạt hiệu quả chiến đấu cao hơn. 0 giờ 53 phút
ngày 14 tháng 6 năm 1966, ta hạ cánh tại Gia Lâm (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân, quyển L).

Tuy nhiên, tiến hành tập kích tàu địch nhiều lần trên một vùng biển, ta cũng phải đối mặt với không ít khó
khăn. 21 giờ 34 phút đêm 29 tháng 6 năm 1966, tổ bay An-2 đánh chính do lái chính Phan Như Cẩn chỉ huy và tổ bay
An-2 do đồng chí Thảo lái chính phụ trách chỉ thị mục tiêu nhận lệnh cất cánh từ Gia Lâm, bay trong thời tiết giản
đơn. Tại khu vực đông nam Sầm Sơn có ánh trăng, không phải thả pháo sáng. Sau khi phát hiện tàu địch, tổ bay đánh
chính vào công kích, nhưng khi ngắm do trên biển có mù, nên phóng 2 lần, mất 32 quả rocket, đều không trúng. Tổ
bay chỉ thị mục tiêu được lệnh vào công kích, nhưng xử lý lúng túng. Lúc này, địch đã triển khai đội hình để đối phó,
nên ta phải thoát ly. Đêm 19 tháng 12 năm 1966, tổ bay An-2: Tạ Văn Chén - Nguyễn Minh Lý - Lê Côn Sơn -
Nguyễn Kim Tiến, trong khi làm nhiệm vụ đã bị tiêm kích địch bắn rơi cách bờ biển Thanh Hoá 40km. Còn tổ bay của
lái chính Đào Hữu Ngoan cũng bị tiêm kích địch săn đuổi, nhưng đã kịp thời cơ động vòng tránh ở độ cao cực thấp,
thoát ly vào bờ và về hạ cánh an toàn.

Với bản lĩnh và trình độ của mình, đội ngũ dẫn đường trên không An-2 đã cùng với đội ngũ lái chính, lái
phụ, cơ giới và thông tin trên không, những người đồng đội, trong thành phần tổ bay bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu
chiến địch, đã góp phần đưa An-2, loại máy bay vận tải hạng nhẹ do bạn sản xuất và được ta cải tiến mang vũ khí,
hoàn thành xuất sắc nhiều đòn tập kích đường không như một loại máy bay chuyên dùng để tiến công địch.

Gắn liền với An-2 thực hiện các đòn tập kích tàu địch trong năm 1966, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy, ngoài
việc phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ dẫn MiG-17 và MiG-21 đánh địch trên không, đã có mặt đúng lúc trên các vị
trí trực ban trọng điểm tại sở chỉ huy và các đại đội radar để sẵn sàng dẫn hỗ trợ, như các đồng chí: Nguyễn Văn
Chuyên, Vũ Đức Bình, Đào Công Thạnh…

***

Bám sát các hoạt động của không quân địch trong thời gian từ cuối năm 1966 đến đầu năm 1967, ta thấy số
lượng tiêm kích yểm hộ trong đội hình cường kích tăng đáng kể, số khu vực tiêm kích ngăn chặn hướng xuất kích của
ta ngày càng nhiều; đội hình cường kích địch tập trung hơn, đánh ồ ạt trong thời gian ngắn và thoát ly nhanh khỏi khu
vực mục tiêu. Một điều đáng lưu tâm là chúng tăng cường gây nhiễu; mưu đồ tiêu diệt MiG và đánh đường băng, sân
đỗ của ta rất rõ ràng.

Trong những ngày cuối tháng 12 năm 1966, với đội hình chiến đấu 4 chiếc, MiG-21 đã giành thắng lợi lớn,
bắn rơi 5 chiếc cường kích F105 và 1 chiếc không người lái 147J. Bước sang năm 1967, ta tiếp tục trực chiến từng
biên đội và đều mang tên lửa. Trưa 2 tháng 1 năm 1967, địch tăng cường hoạt động ở phía Sầm Nưa và nhiều tốp đã
hướng về Phú Thọ. Có thể chúng sẽ vào đánh Hà Nội theo các đường bay như mấy ngày đầu tháng 12 năm ngoái.
Địch qua Phù Yên, Trung đoàn 921 xin đánh. 13 giờ 56 phút, biên đội thứ nhất: Vũ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Đức Thuận,
Nguyễn Đăng Kính và Bùi Đức Nhu rời đất và xuyên lên trên mây. Các trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Chuyên,
Đào Ngọc Ngư tại Sở chỉ huy Quân chủng và Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy Trung đoàn 921 thực hiện dẫn phối hợp
(Dẫn đường thống kê các trận đánh của Không quân, quyển L). Biên đội thứ nhất đến Phù Ninh thì gặp 4 F- 4 từ Phú
Thọ vào. Ta đuổi địch về đến phía tây của sân bay Nội Bài lại gặp 4 F4 nữa. Trong tình thế rất khó khăn, cả 4 chiếc
của ta đều bị địch bắn và phải nhảy dù. Đúng lúc đó biên đội thứ hai: Nguyễn Ngọc Độ - số 1, Đặng Ngọc Ngự - số 2,
Đồng Văn Đe - số 3 và Nguyễn Văn Cốc - số 4 cất cánh. Vừa lên khỏi mây, biên đội thứ hai được dẫn vào tiếp địch
với góc 120 độ. Số 1 phát hiện cả F4 và F105, cự ly 8km. Sau đó hai bên quần nhau, số 1 bị địch bắn, nhưng nhảy dù
an toàn (Dẫn đường thống kê các trận đánh của Không quân, quyển L), các số còn lại tách tốp thoát ly về hạ cánh.

Ngày 6 tháng 1 năm 1967, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Nguyễn Văn Chuyên dẫn tại sở chỉ huy,
Phạm Từ Tịnh trên hiện sóng và Trung đoàn 921: Phạm Minh Cậy, Trần Đức Tụ dẫn tại sở chỉ huy. Biên đội Trần
Hanh - số 1, Mai Cương (Mai Văn Cương) - số 2, Đồng Văn Đe - số 3 và Nguyễn Văn Cốc - số 4 được dẫn tiếp địch
với góc vào 20 độ tại khu vực Việt Trì-phú Thọ. Số 1 phát hiện 2 F4, 9km, nhưng bị nhiều tốp địch khác bám theo. Số
2 và số 3 đều bị địch bắn, nhưng số 2 nhảy dù an toàn, còn số 3 hy sinh.

Như vậy, chỉ trong hai ngày, MiG-21 bị tổn thất quá lớn, Quân chủng quyết định Trung đoàn 921 tạm
ngừng xuất kích để rút kinh nghiệm. Những nguyên nhân chủ yếu là: Đã không phát hiện được thủ đoạn của địch là
cho tiêm kích giả làm cường kích để nhử không quân ta lên đánh và dùng lực lượng tiêm kích đánh chính của chúng
phục kích tại khu vực để bám theo máy bay ta khi xuyên lên trên mây. Ta chưa lường hết ảnh hưởng của điều kiện thời
tiết và khả năng đánh địch bằng đội hình 4 chiếc của MiG-21. Dẫn đường cho biên đội Đỉnh-Thuận-Kính-Nhu cất
cánh muộn, chỉ huy có tư tưởng nóng vội. Bộ Tư lệnh Binh chủng Không quân (được thành lập ngày 24 tháng 3 năm
1967) chỉ đạo cho các cơ quan và Trung đoàn 921 tập trung nghiên cứu, xây dựng cách đánh và cách dẫn đôi bay
MiG-21 để tiếp tục đánh địch. Các trận đánh trong 2 ngày 28 và 30 tháng 4 năm 1967, MiG-21 đã giành lại chiến
thắng.

Ngày 28 tháng 4 năm 1967, địch tổ chức đánh Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng Thế Tài
quyết định sử dụng MiG-21 đánh các tốp địch từ hướng Tuyên Quang, xuôi theo dãy Tam Đảo xuống Hà Nội; còn
MiG-17 đánh các tốp địch từ hướng Suối Rút, Hoà Bình vào Hà Nội. Qua theo dõi địch, lúc 15 giờ 17 phút, thủ trưởng
trực chỉ huy Trung đoàn 921 Trần Mạnh nhận lệnh của Binh chủng, cho đôi bay thứ nhất: Lê Trọng Huyên và Đồng
Văn Song, trực chiến tại Nội Bài, vào cấp 1, cất cánh ngay, đánh hướng Tuyên Quang. Kíp trực ban dẫn đường Trung
đoàn 921 dẫn chính: Phạm Minh Cậy, Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng tại C-43 ở Tân Trại
và trực ban dẫn đường Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy Binh chủng dẫn bổ trợ. Đôi thứ nhất được dẫn theo triền phía
đông của dãy Tam Đảo, vòng qua Hàm Yên, xuống Đoan Hùng, lên Tuyên Quang - Chiêm Hoá, không gặp địch. 15
giờ 54 phút, bất ngờ xuất hiện một tốp địch ở nam Sơn Dương 10km, đi ngược lên Tuyên Quang, rồi vòng trái 1 vòng.
Dẫn đường cho đôi thứ nhất quay xuống, nhưng phi công chỉ phát hiện được địch mà không có điều kiện vào công
kích. Thủ trưởng yêu cầu quay về.

15 giờ 34 phút, đôi bay thứ hai: Đặng Ngọc Ngự - số 1 và Mai Cương - số 2 cất cánh, bay theo triền phía
tây của dãy Tam Đảo, đến bắc Sơn Dương 15km, dẫn đường cho vòng trái xuống Vạn Yên, rồi lên bắc Nghĩa Lộ để
chặn đánh địch trên đường bay ra. Địch bị bất ngờ, khi ta chặn trên đoạn từ Yên Bái đến đông bắc Bắc Yên 30km. Với
góc vào 30 độ, số 1 phát hiện bên trái, 4km, rồi rút ngắn cự ly, phóng tên lửa, nhưng không trúng. Phi công Mai
Cương, không bỏ lỡ thời cơ, bắn rơi ngay 1 F105. Trong trận này ta sử dụng đài P-35 chuyên bắt địch và đài P-30
chuyên bắt ta, tuy có sai lệch, nhất là khi dẫn đôi thứ nhất, nhưng dẫn đường đã ước lượng bù trừ kịp thời để dẫn đôi
thứ hai tốt hơn.

Chiều 30 tháng 4 năm 1967, ta tổ chức đánh hai trận cách nhau khoảng một giờ, đều chặn địch trên đường
vào. Trận thứ nhất, sau khi nắm các triệu chứng địch qua Sầm Nưa, các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn
Văn Tiên và Trung đoàn 921 Trần Mạnh cho đôi bay MiG-21: Nguyễn Ngọc Độ và Nguyễn Văn Cốc cất cánh. Sở chỉ
huy Binh chủng cho MiG-21 ra phía Mộc Châu. Do chưa chọn được tốp địch thích hợp, nên qua Sơn Tây khoảng
40km, đôi bay vòng trái xuống phía tây Suối Rút và Mai Châu.

Mấy phút sau, dẫn đường hiện sóng Lê Thiết Hùng bám sát được tốp địch qua Cò Nòi-Tạ Khoa, đôi bay
được dẫn vòng phải lên Yên Châu, chặn địch trên đoạn Bắc Yên- Phù Yên-Yên Lập. Với góc vào 30 độ rất thuận lợi,
phi công Nguyễn Ngọc Độ phát hiện F105, 5km, nhanh chóng rút ngắn cự ly, bắn rơi ngay 1 F105 và 2 phút sau phi
công Nguyên Văn Cốc bắn rơi tiếp 1 F105 nữa. Cả đội hình địch hoảng hốt, vứt bom quay ra.

Trận thứ hai, đôi bay: Lê Trọng Huyên - số 1 và Vũ Ngọc Đỉnh - số 2 đánh ở khu vực Thanh Sơn, được dẫn
vào với góc 60 độ. Số 1 phát hiện cả F105 và F4 ở cự ly 14km. Mỗi phi công đều bắn rơi 1 F105. Các kíp trực ban dẫn
đường Trung đoàn 921 dẫn chính và Binh chủng dẫn bổ trợ đã góp sức nâng hiệu quả chiến đấu của MiG-21 đánh
trong một ngày lên cao chưa từng thấy.

Như vậy, đội hình chiến đấu 2 chiếc MiG-21 đã thể hiện tốt khả năng đánh địch. Các kíp trực ban dẫn
đường đã kết hợp theo dõi địch bằng các nguồn tin tình báo kỹ thuật, tình báo xa và tình báo gần để dự đoán các
đường bay vào và bay ra của địch; tính toán đúng thời cơ cất cánh cho các đôi bay của ta; lựa chọn khu chiến phù hợp,
nhưng dẫn đánh đúng cường kích địch vẫn là bài toán cực kỳ khó khăn. Hơn nữa, trong lúc dẫn vào bám địch, nếu phi
công phát hiện chỉ có tiêm kích hoặc có cả tiêm kích và cường kích, thì trận đánh thường diễn ra rất quyết liệt. Đường
bay ta-địch đan xen lẫn nhau như một mớ bòng bong, "dẫn đường căng thẳng một, phi công căng thẳng mười".

Điều đó được thể hiện rõ qua kết quả một số trận: Trong tháng 5 và đầu tháng 6 năm 1967, ta tổ chức dẫn ít
nhất 9 trận, trong đó chỉ có 3 trận gặp đúng cường kích, bắn rơi 2 F105, ta an toàn; 1 trận gặp cả tiêm kích và cường
kích, bắn rơi 1 F105, ta nhảy dù 1; còn 3 trận, gặp phải tiêm kích, bắn rơi 3 F4, ta nhảy dù 2 và hy sinh 1 phi công…

Trong tháng 7 năm 1967, ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, tổ chức dẫn MiG-21 đánh rất thành công một số
trận và luôn giữ được an toàn. Sáng ngày 11 tháng 7 năm 1967, đôi bay: Lê Trọng Huyên và Đồng Văn Song được dẫn
đánh trên hướng đông nam. Phi công Lê Trọng Huyên bắn rơi 1 A4. Đây là chiếc A4 đầu tiên bị MiG-21 bắn rơi.

Sáng ngày 17 tháng 7 năm 1967, địch đánh khu vực Cẩm Thuỷ-Lang Chánh-Quan Hoá. Các thủ trưởng
trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện và Đỗ Long đồng ý cho Trung đoàn 921 vào đánh. Đôi bay: Nguyễn Nhật
Chiêu - số 1 và Nguyễn Văn Lý - số 2 cất cánh từ Nội Bài. Các kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng: Đào Ngọc Ngư,
Vũ Đức Bình tại sở chỉ huy và trung đoàn: Phạm Công Thành, Tạ Quốc Hưng cũng tại sở chỉ huy thực hiện dẫn phối
hợp. MiG-21 cất cánh xong, đến Phúc Yên, sở chỉ huy Binh chủng cho vòng trái, hướng bay 180 độ, tốc độ 850km/h,
lên độ cao 4.000m. Khi ta đến ngang Phủ Lý, sở chỉ huy trung đoàn bắt đầu dẫn, cho tăng dần tốc độ lên 900 km/h,
vòng phải hướng bay 250 độ, rồi 950km/h, 270 độ MiG-21 đến sông Mã, đổi hướng bay 210 độ, liên tục nhận thông
báo vị trí mục tiêu. Với góc vào tiếp địch 80 độ, số 1 phát hiện F-8, từ 8 đến 10km. Ta chủ động không chiến trong 3
phút tại nam Lang Chánh 30km, trời mù, tầm nhìn kém. Số 1 và số 2 thay nhau công kích-yểm hộ. Phi công Nguyễn
Văn Lý bắn rơi 1 F-8. Đây là chiếc F-8 đầu tiên bị MiG-21 bắn rơi. 7 giờ 55 phút, lệnh rút khỏi khu chiến, ta tách tốp
và thoát ly theo hướng bắc.

Từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8 năm 1967, một số khó khăn mới lại nảy sinh. Ngày 10 tháng 8 năm 1967,
địch vào đánh Phủ Lý. Đôi bay: Bùi Đình Kình - số 1 và Đồng Văn Song - số 2 do kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn
921 dẫn chính: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng và trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy
Binh chủng: Đào Ngọc Ngư dẫn bổ trợ. MiG-21 xuất kích về phía Hoà Bình, vòng xuống Cẩm Thuỷ, rồi vòng ngược
lên định đánh cường kích địch vào Phủ Lý, thì đột nhiên gặp tiêm kích địch ở khu vực Lạc Thuỷ xông ra. Ta buộc phải
đối phó. Số 1 phát hiện F4 đối đầu, cự ly 10km và giãn cách 5km, nhưng xung quanh còn nhiều chiếc khác và tốc độ
của ta lúc đó quá lớn. Không chiến diễn ra ở độ cao 4.000m tại khu vực Vụ Bản, mới được 2 phút 30 giây, cả hai phi
công của ta đều bị địch bắn, số 1 hy sinh, số 2 nhảy dù an toàn. Đây là một trong những trận gần MiG-21 bị tổn thất
nghiêm trọng trong năm 1967.

Sau trận đánh, bài học được rút ra: Trong khu chiến, dẫn đường và phi công phải tìm mọi cách giám sát
chặt chẽ mọi hành động của từng tốp địch, nhất là khi gặp cả cường kích và tiêm kích hoặc chỉ gặp tiêm kích, thì mới
tạo ra khả năng giành được phần thắng và hạn chế được tổn thất. Do đó, dẫn đường sở chỉ huy đã tăng cường luyện
tập dẫn chặn kích địch trên đoạn bay ngắn, có lợi nhất vì qua thực tế chiến đấu, đoạn bay này chỉ khoảng từ 3 đến 4
phút bay của mục tiêu và dẫn đường trên hiện sóng đã tập trung luyện tập cách dẫn ta bám theo mục tiêu cơ động; tiếp
tục phát huy cách thu tình báo gần tập trung về một bàn dẫn đường và phân công dẫn đường hiện sóng chuyên trách
đã được thực hiện thành công từ cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1967; nâng cao trình độ đánh dấu đường bay cho tiêu
đồ gần, hiệp đồng tỉ mỉ cách dùng thước, dùng chì trên bàn dẫn đường… Còn phi công tập trung nghiên cứu cách
quan sát phát hiện toàn bộ đội hình địch và kiểm soát tình hình trên không trong khu chiến.
Ngày 23 tháng 8 năm 1967, đôi bay: Nguyễn Nhật Chiêu và Nguyễn Văn Cốc đánh địch tại khu vực Tuyên
Quang. Dẫn đường nắm chắc 3 tốp địch, phi công kiểm soát tốt tình hình trên không. Ta bắn rơi 3 chiếc.

Trong thời gian từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 31 tháng 12 năm 1967, ta đã dẫn MiG-21 vươn lên đánh thắng
giòn giã, không chỉ trong những trận gặp cả cường kích và tiêm kích hoặc chỉ gặp tiêm kích mà cả trong những trận
gặp trinh sát vũ trang RF-101, RF4, trinh sát điện tử EB-66 của địch và không chỉ sử dụng sân bay Nội Bài mà còn sử
dụng cả các sân bay khác như: Gia Lâm, Kiến An, Kép. Trải qua chặng đường gian nan vất vả, cách dẫn đôi bay MiG-
21 chặn kích trên đường bay, với góc vào tiếp địch thích hợp, phát huy khả năng tăng nhanh tốc độ và sử dụng tên lửa
đúng tầm hiệu quả đã có chỗ đứng vững chắc. Và hơn thế, nó đã trở thành cách dẫn truyền thống đánh địch của MiG-
21, góp phần lập nên những chiến công rực rỡ của Không quân nhân dân Việt Nam.

Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã tổ chức dẫn thành công nhiều đôi bay MiG-21 đánh đạt hiệu quả chiến
đấu cao: phi công phóng 45 quả tên lửa, diệt 28 máy bay địch; dẫn 8 trận diệt 2 máy bay địch và 12 trận diệt 1 máy
bay địch; còn MiG-21 chịu tổn thất 3 máy bay và hy sinh 1 phi công (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không
quân, quyển L). Trong đó, có một số trận đánh nổi bật.

Sáng ngày 31 tháng 8 năm 1967, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Phạm Minh Cậy tại sở
chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng, kíp trực ban dẫn đường Binh chủng dẫn bổ trợ: Vũ Đức Bình, Lê Thành
Chơn tại sở chỉ huy. Đôi bay: Nguyễn Hồng Nhị và Nguyễn Đăng Kính cất cánh từ Nội Bài, đánh tại khu vực Thanh
Sơn, góc vào tiếp địch 60 độ, phát hiện địch bên phải, 14km. Phi công Nguyễn Hồng Nhị phóng 2 quả tên lửa, rơi tại
chỗ 1 RF-101. Đây là chiếc trinh sát vũ trang RF-101 đầu tiên bị Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi. Trận đánh
diễn ra chỉ trong 21 phút.

Sáng ngày 10 tháng 9 năm 1967, các kíp trực ban dẫn đường Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ
huy, Phạm Văn Khả trên hiện sóng và Trung đoàn 921: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy, Hoàng Kế Thiện trên hiện sóng,
thực hiện dẫn phối hợp. Đôi bay: Nguyễn Hồng Nhị và Nguyễn Đăng Kính cất cánh từ Nội Bài, vào đánh tại khu vực
phía đông Vạn Yên và đông Mộc Châu 15km, góc vào tiếp địch 30 độ. Dẫn đường hiện sóng giúp phi công phát hiện
mục tiêu bên trái, 18km. Phi công Nguyễn Hồng Nhị phóng 1 quả tên lửa, rơi ngay 1 RF4. Đây là chiếc trinh sát vũ
trang RF4 đầu tiên bị không quân ta bắn rơi.

Sáng ngày 7 tháng 10 năm 1967, các kíp trực ban dẫn đường Binh chủng dẫn chính: Phạm Từ Tịnh, Lưu
Văn Cộng tại sở chỉ huy, Phạm Văn Khả trên hiện sóng và Trung đoàn 921 dẫn bổ trợ: Phạm Công Thành tại sở chỉ
huy, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng. Đôi bay: Phạm Thanh Ngân và Mai Cương cất cánh từ Nội Bài, vào đánh tại khu
vực nam Thanh Sơn 10km. Mỗi phi công chỉ phóng 1 quả tên lửa và đôi bay MiG-21 tiêu diệt 2 F4. Tổng thời gian
trận đánh là 22 phút. Đến chiều, cũng các kíp trực ban dẫn đường trên đã thực hiện dẫn phối hợp cho đôi bay: Nguyễn
Nhật Chiêu và Nguyễn Văn Cốc cũng cất cánh từ Nội Bài, vào đánh tại khu vực núi Yên Tử (1068), góc vào tiếp địch
130 độ, phát hiện mục tiêu ở cự ly 10km. Đôi bay hạ gục 2 F105 bằng 2 quả tên lửa. Đây là một trong những ngày dẫn
đánh đạt hiệu quả cao nhất của mặt trận trên không năm 1967.

Chiều ngày 7 tháng 11 năm 1967, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Tạ Quốc Hưng tại sở
chỉ huy, Trịnh Văn Tuất và Nguyễn Đức Thuỷ trên hiện sóng, trực ban dẫn đường Binh chủng Nguyễn Văn Chuyên tại
sở chỉ huy dẫn bổ trợ. Đôi bay: Nguyễn Hồng Nhị và Nguyễn Đăng Kính cất cánh từ đường lăn của Nội Bài, vào đánh
tại khu vực Vạn Yên-Phù Yên-đèo Lũng Lô, góc vào tiếp địch 65 độ, phát hiện F105 và F4, bên phải, 15km. Đôi bay
phóng 3 quả tên lửa, phi công Nguyễn Hồng Nhị tiêu diệt 1 F105 và phi công Nguyễn Đăng Kính hạ gục 1 F4. Sở chỉ
huy dẫn về Kiến An hạ cánh (Bản can trận đánh).
Các kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 chịu trách nhiệm dẫn chính: Trần Đức Tụ, Phạm Công Thành
tại sở chỉ huy và Trịnh Văn Tuất, Hoàng Kế Thiện, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng, các kíp trực ban dẫn đường Binh
chủng đảm nhiệm dẫn bổ trợ: Lê Thành Chơn, Nguyễn Văn Chuyên, Vũ Đức Bình tại sở chỉ huy và Phạm Từ Tịnh
trên hiện sóng, liên tục làm nhiệm vụ trong 3 ngày. Ngày 8 tháng 11 năm 1967, đôi bay: Đặng Ngọc Ngư và Nguyễn
Văn Lý cũng cất cánh từ đường lăn của sân bay Nội Bài, đánh tại khu vực từ Phù Yên đến nam Yên Bái 15km, cũng
góc vào tiếp địch 65 độ, cũng phát hiện cả F4 và F105, 15km, nhưng ở bên trái. Bằng 2 quả tên lửa, đôi bay tiêu diệt 2
F4 và về Gia Lâm hạ cánh. Ngày 18 và 20 tháng 11 năm 1967, đôi bay: Phạm Thanh Ngân - số 1 và Nguyễn Văn Cốc
- số 2, đánh 2 trận, đều cất cánh từ Nội Bài, đều đánh tại khu vực Hạ Hoà, với góc vào tiếp địch 60 và 40 độ, vẫn số 1
phát hiện F105 và F4, đều ở cự ly 10km. Ta bắn rơi 4 F105 và đều về Kép hạ cánh.

Tuy nhiên, trong thời gian này, có một số trận dẫn MiG-21 đánh không thành công. Nguyên nhân chủ yếu
là nắm không chắc các diễn biến cụ thể về tình hình địch ta trong khu chiến.

Chiều ngày 24 tháng 10 năm 1967, địch vào từ phía Nà Sản và Yên Châu, rồi hợp tốp tại tây bắc Phù Yên
15km, bay lên Đoan Hùng, sau đó xuôi theo triền phía đông Tam Đảo xuống đánh Hà Nội. Kíp trực Ban dẫn đường
Binh chủng dẫn chính: Đào Ngọc Ngư, Vũ Đức Bình tại sở chỉ huy và trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 Tạ Quốc
Hưng tại sở chỉ huy dẫn bổ trợ được lệnh cho đôi bay: Nguyễn Đăng Kính - số 1 và Đồng Văn Song - số 2 xuất kích.
Dựa vào tình báo B1, 14 giờ 50 phút, đôi bay vào cấp 1, 14 giờ 54 phút 30 giây cất cánh từ Nội Bài. MiG-21 đến tây
bắc Hoà Bình 15km, sở chỉ huy cho vòng phải, hướng bay 280 độ; đến đông bắc Mộc Châu 15km, cho vòng phải tiếp,
hướng bay 350 độ. Ta đến ngang Phù Yên, sở chỉ huy cho vòng phải vào tiếp địch với góc 15 độ. Sau khi phát hiện
F105 và F4, 6km, phi công xin vứt thùng dầu phụ, nhưng ngay sau đó, báo cáo có F4 đối đầu Radar dẫn đường không
bắt được tốp này. Cùng lúc đó radar dẫn đường lại phát hiện ở phía đông có địch.Thấy tình thế bất lợi, sở chỉ huy cho
ta thoát ly, hướng 160 độ. Sau khi thoát ly, số 1 không kiểm tra vị trí số 2 và radar cũng bỏ sót, nên số 1 về đến Suối
Rút thì số 2 vẫn còn đang phản kích trong khu chiến. Khi radar bắt được số 2 và sở chỉ huy dẫn thoát ly thì đã quá
muộn, số 2 bị trúng tên lửa địch, phải nhảy dù.

Sáng ngày 16 tháng 11 năm 1967, các kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Phạm Công
Thành tại sở chỉ huy, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng và Binh chủng dẫn bổ trợ: Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy đã thực
hiện dẫn đôi bay: Phạm Thanh Ngân - số 1 và Nguyễn Văn Lý - số 2 cất cánh từ Nội Bài, đánh tại khu vực Thanh Sơn
- Yên Lập, góc vào tiếp địch 120 độ, số 1 phát hiện cả F105 và F4, 17km. Đôi MiG-21 phóng 3 quả tên lửa, không
trúng. F105 vứt bom quay ra, còn F4 quần nhau với ta. Khi cho thoát ly, sở chỉ huy không nắm được số 1 vẫn đang bị
địch bám và số 2 không giữ được đội hình. Số 1 chủ động lệnh cho số 2 dùng tốc độ lớn, thoát ra hướng đông bắc và
sau đó sở chỉ huy dẫn đôi bay của ta sang hạ cánh tại sân bay Ninh Minh (Trung Quốc).

Đầu năm 1967, không quân địch thay đổi thủ đoạn hoạt động, gây nhiều khó khăn cho ta. MiG-21 gặp tổn
thất lớn. Quân chủng quyết định không quân tạm dừng xuất kích để tổ chức rút kinh nghiệm. Trung đoàn không quân
923 đã tập trung phân tích các thủ đoạn hoạt động mới của địch ở độ cao thấp, nỗ lực tìm cách sớm phát hiện tiêm
kích giả làm cường kích và đề ra các biện pháp xử lý khi gặp cường kích có tiêm kích yểm hộ với số lượng đông hoặc
chỉ gặp tiêm kích. Tiểu ban dẫn đường đã kịp thời tổng' hợp kết quả phát hiện địch ở độ cao thấp trên các hướng và đề
xuất cách dẫn phối hợp giữa sở chỉ huy và đài chỉ huy bổ trợ đặt tại khu chiến. Tháng 2 năm 1967, trung đoàn chuyển
toàn bộ lực lượng của mình xuống Gia Lâm đóng quân để đoàn Z sử dụng căn cứ Kép. Do đó, trong quý I trung đoàn
chỉ tổ chức đánh 3 trận, bắn rơi 3 F4, ta tổ thất 1 MiG-17 và 1 phi công hy sinh do bị địch bắn.
Trong 3 trận trên, điểm nổi bật là cách dẫn phối hợp giữa sở chỉ huy và đài chỉ huy bổ trợ đặt tại khu chiến
đã có tác dụng tốt như: Sở chỉ huy Kép và đài chỉ huy bổ trợ ở Chũ trong trận ngày 21 tháng 1 năm 1967 và sở chỉ huy
Gia Lâm và đài chỉ huy bổ trợ ở Hoà Lạc trong trận ngày 5 tháng 2 năm 1967 đều đã tạo điều kiện thuận lợi cho phi
công bắn rơi địch. Đặc biệt, trận ngày 26 tháng 3 năm 1967, lần đầu tiên không quân ta tổ chức dẫn đánh địch từ căn
cứ Hoà Lạc. Tuy hiệu quả dẫn MiG-17 trong trận này không cao (bắn rơi 1 F4 và 1 phi công hy sinh), nhưng xét từ
góc độ bố trí tạo thế trận thì lại có ý nghĩa rất lớn đối với ngành Dẫn đường Không quân vì khả năng dẫn đường sở chỉ
huy bắt đầu được mở rộng ra phía tây của Hà Nội trên cơ sở những nỗ lực đã đạt được từ tam giác dẫn đường chiến
đấu Nội Bài-Kép-kiến An. Sở chỉ huy Hoà Lạc trở thành một mắt xích vô cùng quan trọng trong mạng lưới chỉ huy-
dẫn đường của không quân ta.

Với quyết tâm đánh địch rất cao, Trung đoàn không quân 923 đã xây dựng được nhiều phương án đánh
địch mới. Trong thời gian từ 19 đến 30 tháng 4 năm 1967, cách đánh của MiG-17 trở nên rất phong phú như: đánh
đồng thời, liên hoàn, trận nối trận (kế tiếp nhau về thời gian vào trận và địa điểm khu chiến), đánh có nghi binh (thu
hút, nhử địch), yểm hộ khu vực, đồng thời chớp thời cơ chuyển nhanh các tốp từ yểm hộ sang đánh chính hoặc từ
đánh chính sang nghi binh và đánh phục kích… Cách dẫn MiG-17 cũng đã kịp thời đáp ứng các yêu cầu của các cách
đánh trên.

Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy phải căng sức ra làm việc, cơ động đến nhiều nơi, tiến hành hiệp đồng công
tác với nhiều đầu mối, tổ chức thu tình báo gần tập trung trên bàn dẫn đường (tình báo của nhiều đài radar cùng một
lúc được đưa về một bàn dẫn đường) và phân công dẫn đường hiện sóng chuyên trách (dùng một đài radar chuyên
bám địch và một đài radar khác chuyên dẫn ta). Cách thức tổ chức dẫn đường sở chỉ huy đã có bước phát triển mới về
chiều sâu, hình thành một mạng lưới chỉ huy-dẫn đường, trực tiếp đáp ứng yêu cầu cơ động nhanh lực lượng không
quân, từng bước tạo ra thế trận vững chắc, nâng cao hiệu quả đánh địch, không những đối với MiG-17 trong thời gian
này mà còn cả đối với MiG-21 trong thời gian tiếp theo.

Chiều ngày 19 tháng 4 năm 1967, theo tình báo xa, trên hướng tây nam Hà Nội có nhiều tốp địch vào qua
biên giới. 15 giờ 52 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng Thế Tài quyết định cho biên đội MiG-17: Võ
Văn Măn - số 1, Hà Đình Bôn - số 2, Phan Văn Túc - số 3 và Nguyễn Bá Địch - số 4, đang cấp 1 tại Gia Lâm, cất
cánh. Từ 15 giờ 56 phút đến 15 giờ 58 phút, dẫn đường hiện sóng Nguyễn Quang Sáng báo cáo sở chỉ huy Binh chủng
đã bám sát được 2 tốp địch ở tây Mai Châu 15km, vào Suối Rút-Hoà Bình. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên
tại sở chỉ huy Binh chủng dẫn MiG-17 vòng xuống phía nam Hà Nội, qua Văn Điển. Thanh Oai, rồi nam núi Đồi Bù
(833, đông nam Lương Sơn 11km). 16 giờ 07 phút, xuất hiện thêm các tốp địch ở phía tây-tây bắc Hoà Bình 35km, sở
chỉ huy Binh chủng cho ngay đôi bay MiGi7: Lê Quang Trung - số 1 và Nguyễn Văn Thọ - số 2 cất cánh từ sân bay
Hoà Lạc lên khu vực Sơn Tây-Thanh Sơn để thu hút địch. Biên đội đánh chính được dẫn vào khu chiến ở đông bắc
Hoà Bình 10km. Với góc vào 90 độ, số 1 phát hiện 6 F105, 10km và chỉ huy biên đội vào đánh. Chúng quẳng bom,
đối phó với ta. Hai bên quần nhau 10 phút ở độ cao thấp. Số 2 và 3 đều có cơ hội nổ súng. Phi công Nguyễn Bá Địch
bắn rơi 1 F105. Đây là trận có thời gian không chiến dài nhất từ trước tới nay. Khi thoát ly, biên dội đánh chính phân
thành 3 tốp và tự bay về ở độ cao rất thấp.

Gần 17 giờ, trên mạng B1 lại xuất hiện địch vào, ta cho các phân đội MiG-17 trực chiến tại Gia Lâm và
Hoà Lạc lần lượt vào cấp 1. 17 giờ 01 phút, biên đội đánh chính: Lưu Huy Chao - số 1, Lê Hải (Lê Văn Hải) - số 2,
Nguyễn Văn Bảy - số 3 và Hoàng Văn Kỷ - số 4 xuất kích từ sân bay Gia Lâm. 17 giờ 03 phút, radar dẫn đường phát
hiện ở tây-tây bắc Quan Hoá 40km có 1 tốp độ cao 3.500m. Chúng bay đến Tân Lạc thì đổi hướng đông-đông nam và
giảm độ cao xuống 2.500m. Có khả năng địch đánh Phủ Lý, biên đội đánh chính giữ hướng bay 200 độ, tốc độ
750km/h, độ cao từ 500 lên 1.500m, bay vào khu chiến ở đông bắc Vụ Bản 15km. 17 giờ 09 phút, sau khi dẫn đường
cho vòng phải gấp, cắt vào bên trái đội hình địch với góc 90 độ, biên đội phát hiện ngay 4 chiếc F105. Địch bị bất ngờ
phải vứt bom quay ra. Ta bám theo công kích, nhưng lại để mất mục tiêu. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng
Thế Tài lệnh cho vòng tại chỗ, lên độ cao để nhử địch. 17 giờ 10 phút, radar dẫn đường đột nhiên phát hiện 1 tốp địch
ở đông nam Hoà Bình 20km, nhưng bay ra phía tây Vụ Bản. 17 giờ 11 phút, sở chỉ huy Binh chủng cho biên đội: Lê
Quang Trung - số 1, Nguyễn Văn Thọ - số 2, Nguyễn Xuân Dung - số 3 và Dương Trung Tân - số 4 cất cánh từ sân
bay Hoà Lạc, vào khu vực Hoà Bình để sẵn sàng yểm hộ cho biên đội Chao-Hải-Bảy-Kỷ.

Với phán đoán địch sẽ còn vào khu vực tây Vụ Bản ở độ cao thấp, nên thủ trưởng Phùng Thế Tài quyết
định cho cả 2 biên đội MiG-17 vào đánh. 17 giờ 18 phút, dẫn đường cho biên đội Chao-Hải-Bảy-Kỷ, đang vòng ở chỗ
nhử địch, ra hướng 250 độ, đồng thời cho biên đội Trung- Thọ-Dung-Tân ở Hoà Bình, từ yểm hộ chuyển sang đánh
chính, vòng trái gấp, hướng bay 210 độ. 17 giờ 20 phút, xuất hiện 1 tốp địch ở đông Cẩm Thuỷ 15km độ cao 1.500m,
17 giờ 21 phút, thêm 1 tốp ở tây Suối Rút 27km độ cao 2.000m, chúng đều hướng vào phía tây Vụ Bản. Ta lập tức cho
biên đội Chao-Hải-Bảy-Kỷ quay lại đánh tốp ở đông Cẩm Thuỷ, nhưng địch lên đến Đường 12, lại vòng phải xuống
Nho Quan, nên ta buộc phải cho thoát ly về Gia Lâm.

17 giờ 21 phút, biên đội Trung-Thọ-Dung-Tân, đến tây Tân Lạc 10km, vòng trái, hướng bay 140 độ và 2
phút sau, vào khu vực tây Vụ Bản 15km, nhưng không thấy địch. Với ý định quay lại đánh tốp ở tây Suối Rút, dẫn
đường cho biên đội vòng phải 180 độ. Sau khi ta cải bằng, bay được 1 phút, sở chỉ huy Binh chủng phát hiện 1 tốp
mới, tốc độ nhỏ ở bắc Vụ Bản 5km, bay sang tây Vụ Bản và tốp ở trong Cẩm Thuỷ từ Nho Quan cũng vòng lên tây Vụ
Bản; dẫn đường lập tức cho biên đội Trung-Thọ-Dung-Tân vòng phải gấp, hướng bay 250 độ, vào tiếp địch với góc
140 độ và thông báo vị trí cả 2 tốp mục tiêu. Số 1 phát hiện F105 và AD-6, cự ly 7km, lập tức lệnh cho số 3 phân
thành 2 đôi. Số 1 yểm hộ cho số 2 và số 3 yểm hộ cho số 4. Biên đội hoàn toàn kiểm soát được tình hình, không chiến
chủ động trong 3 phút 30 giây, phi công Nguyễn Văn Thọ bắn rơi 1 AD-6, phi công Dương Trung Tân bắn rơi 1 F105
và 1 AD-6. Anh đã ghi tên mình vào danh sách phi công Không quân nhân dân Việt Nam trong 1 trận bắn rơi 2 máy
bay địch.

Đây là các trận đã thể hiện rất đậm nét cách đánh phong phú và cách vận dụng linh hoạt chiến thuật đánh
địch của MiG-17. Biên đội Lê Quang Trung-Nguyễn Văn Thọ-Nguyễn Xuân Dung-DSương Trung Tân trở thành một
trong những biên đội MiG-17 đánh đạt hiệu quả cao nhất của không quân ta. Các kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng:
Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy, Nguyễn Quang Sáng trên hiện sóng và Trung đoàn 923: Đỗ Cát Lâm, Hà Đăng
Khoa tại sở chỉ huy, Trần Xuân Dung trên hiện sóng đã nỗ lực hết mình, dẫn đánh đúng ý định của người chỉ huy và
còn kịp thời xử lý dẫn số 3 bị lạc đường về Gia Lâm hạ cánh an toàn.

Ngày 24 tháng 4 năm 1967, các thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên và Trung đoàn 923
Lê Oánh và Đào Công Xưởng tổ chức cho MiG-17 đánh 2 trận. Buổi sáng, biên đội: Mai Đức Toại - số 1, Lê Hải - số
2, Lưu Huy Chao - số 3 và Hoàng Văn Kỷ - số 4 cất cánh từ sân bay Gia Lâm, đánh tại Phả Lại ở độ cao thấp. Trực
ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Chuyên cho vào tiếp địch với góc 60 độ. Số 2 phát hiện F105,
6km và báo cáo số 1. Phi công Mai Đức Toại cắt vào, bắn rơi 1 F105, rồi cả biên đội chỉnh tề về Gia Lâm hạ cánh.
Buổi chiều, biên đội: Võ Văn Mẫn, Nguyễn Bá Địch, Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn Thế Hôn xuất kích từ sân bay Kiến
An, vào khu chiến tại Sơn Động cũng đánh ở độ cao thấp, đạt hiệu quả cao.
Ngày 25 tháng 4 năm 1967, các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên và Trung đoàn 923
Nguyễn Phúc Trạch tiếp tục tổ chức cho MiG-17 đánh 4 trận. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng: Nguyễn Văn
Chuyên tại sở chỉ huy và Vũ Đức Bình trên hiện sóng tại C-43 chịu trách nhiệm dẫn chính cả 4 trận. Trong đó, có 2
trận gặp địch, nhưng không bắn rơi, còn 2 trận đạt kết quả tốt Khoảng 11 giờ, địch vào từ phía tây nam Suối Rút, lên
Hoà Bình. 11 giờ 25 phút biên đội: Lê Quang Trung, Nguyễn Hữu Điệt, Phạm Thanh Tài và Nguyễn Văn Thọ cất cánh
từ sân bay Hoà Lạc, được dẫn vào khu chiến Hoà Bình. Với góc 120 độ, phi công Lê Quang Trung phát hiện F105,
7km. Anh cắt vào, bắn rơi ngay 1 F105 và biên đội chỉnh tề thoát ly về sân bay Hoà Lạc. Buổi trưa địch vào Hải
Phòng. Biên đội: Nguyễn Văn Bảy, Hà Bôn, Nguyễn Thế Hôn và Nguyễn Bá Địch, đánh phục kích tại sân bay Kiến
An, giành chiến công lớn.

Ngày 26 tháng 4 năm 1967, MiG-17 lại đánh 4 trận. Trong khoảng thời gian 2 giờ, có tới 4 biên đội cất
cánh, có biên đội phải cất cánh 2 lần, nhưng hiệu quả chiến đấu lại không đạt yêu cầu. Ngày 27, ta tổ chức rút kinh
nghiệm. Ngày 28 tháng 4 năm 1967, có khả năng địch cảm thấy Không quân ta đánh ở vòng cung phía tây và phía
nam Hà Nội không thực sự nguy hiểm lắm, nên chúng lại kéo vào. Quân chủng cho MiG-17 tiếp tục đánh. 14 giờ 25
phút, biên đội: Mai Đức Toại, Lê Hải, Lưu Huy Chao và Hoàng Văn Kỷ cất cánh từ sân bay Gia Lâm, vào khu chiến ở
Chương Mỹ. Cùng lúc đó biên đội: Dương Trung Tân, Nguyên Hữu Điệt, Phạm Thanh Tài và Nguyễn Văn Thọ cất
cánh từ sân bay Hoà Lạc, vào khu chiến tại phía tây Ba Vì. Các trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư tại sở chỉ huy
Binh chủng dẫn chính và Bùi Hữu Hành, Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy Gia Lâm dẫn bổ trợ. Rất ngẫu nhiên, cả hai
biên đội đều cất cánh lúc 14 giờ 25 phút, đều được dẫn vào tiếp địch với góc 120 độ và phi công đều phát hiện F105 ở
cự ly 8km. Các phi công Lê Hải và Phạm Thanh Tài, mỗi người bắn rơi 1 F105. Ta về hạ cánh tại các sân bay đã cất
cánh. MiG-17 lập chiến công với cách đánh đồng thời.

Hơn 1 giờ sau địch tiếp tục vào, trên cho MiG-17 chỉ đánh trên hướng tây nam Hà Nội (MiG-21 đánh trên
hướng tây bắc Hà Nội). Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn chính và kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng dẫn
bổ trợ. Đôi bay: Hồ Văn Quỳ và Phan Trọng Vân từ Gia Lâm vào khu chiến Hoà Bình, còn biên đội: Nguyễn Văn
Bảy, Nguyễn Hồng Điệp, Võ Văn Mẫn và Nguyễn Bá Địch, sau khi cánh từ Gia Lâm, phân thành 2 tốp vào đánh tại
hai khu vực Xuân Mai và Văn Điển. Các đôi bay đều phát hiện địch, không chiến rất quyết liệt, nhưng ta bắn không
kết quả và trở về hạ cánh an toàn.

Trong 2 ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1967 ta chỉ dẫn đánh mỗi ngày 1 trận. Chiều ngày 29, biên đội:
Nguyễn Văn Bảy - số 1, Lê Sĩ Diệp - số 2, Võ Văn Mẫn - số 3 và Trương Văn Cung - số 4 cất cánh từ sân bay Hoà
Lạc và được dẫn đến khu chiến Hoà Bình, với góc vào 120 độ, số 1 phát hiện F4, 8km. Sau 3 phút không chiến phi
công Nguyễn Văn Bảy hạ 1 F4. Biên đội trở về sân bay Hoà Lạc. Chiều ngày 30, biên đội: Hồ Văn Quỳ, Nguyễn Văn
Phi, Nguyễn Xuân Dung và Nguyễn Văn Thọ cũng xuất kích từ Hoà Lạc, đánh tại khu vực tây nam Hoà Bình 15km.
Do radar dẫn đường bắt địch không tốt, biên đội phải vòng đi, vòng lại nhiều lần. Mọi nỗ lực của kíp trực ban dẫn
đường đều không thành.

Như vậy, trong 12 ngày của tháng 4 năm 1967, các kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng và Trung đoàn 923
tổ chức dẫn ít nhất là 18 trận, đều xuất kích đúng thời cơ, trong đó có ít nhất 8 trận chỉ dựa vào tình báo B1. 9 trận
được dẫn vào với góc từ 80 đến 140 độ, phát hiện địch ở cự ly từ 3km đến 10km. Có 4 trận sử dụng tốc độ tiếp cận
nhỏ hơn địch (-50km/h) và 2 trận bằng địch, nhưng phi công cắt bán kính lượn vòng tốt, nên đều bắn rơi; có 2 trận
cũng sử dụng tốc độ tiếp cận nhỏ hơn địch (-50km/h và -100km/h), phi công tuy bám được địch, nhưng bắn không kết
quả.
Tháng 5 năm 1967, địch tiếp tục đánh lớn vào Hà Nội, chia làm nhiều đợt trong ngày, mỗi đợt với số lượng
đông; hướng vào chủ yếu là tây nam, tập trung đánh thẳng vào Hà Nội, đồng thời tách một phần vòng qua bắc Tam
Đảo đánh xuống. Các trận đánh của không quân ta đều trở nên rất quyết liệt, nhất là đối với MiG-17.

Sáng 1 tháng 5 năm 1967, sau khi nghiên cứu các tốp địch trên hướng tây nam Hà Nội, các thủ trưởng trực
chỉ huy Nguyễn Văn Tiên và Lê Oánh đã quyết định cho biên đội MiG-17; Nguyễn Văn Bảy - số 1, Lê Sĩ Diệp - số 2,
Võ Văn Mẫn - số 3 và Nguyễn Bá Địch - số 4, đang trực chiến tại Hoà Lạc, xuất kích. Kíp trực ban dẫn đường tại sở
chỉ huy Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên và Trung đoàn không quân 923: Hà Đăng Khoa thực hiện dẫn phối hợp.
Biên đội MiG-17 cất cánh đúng thời cơ, bay vào khu chiến Hoà Bình-suối Rút, gặp một tốp lớn 20 chiếc của địch ở độ
cao thấp. Sở chỉ huy dẫn vào tiếp địch với góc nhỏ 35 độ. Biên đội phát hiện địch ở cự ly 4km, rất nhiều F4 và F105 đi
trong đội hình hỗn hợp. Ta phải không chiến 11 phút, dài chưa từng có. Số 1, 2 và 4 đều nổ súng. Hai phi công Lê Sĩ
Diệp và Nguyễn Bá Địch, mỗi người bắn rơi 1 F4. Nhưng sau đó, số 4 hy sinh, do bị trúng tên lửa địch. Các số còn lại
về Gia Lâm hạ cánh.

Ngày 12 tháng 5 năm 1967, địch vào từ hướng tây nam, phần lớn lực lượng của chúng đánh thẳng vào Hà
Nội và số còn lại vòng qua Sơn Dương theo dãy Tam Đảo đánh xuống. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn
Văn Tiên quyết định cho MiG-17 đánh trước ở vòng trong và MiG-21 đánh sau ở vòng ngoài (Đôi bay MiG-21 Lê
Trọng Huyên-Đồng Văn Song cất cánh từ Nội Bài, đánh tại khu vực Mai Châu-vạn Yên lúc 16 giờ 45. Phi công Đồng
Văn Song bắn rơi 1 F105). Các trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư, Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy Binh chủng chịu
trách nhiệm dẫn chính và Đỗ Cát Lâm tại sở chỉ huy Trung đoàn 923 đảm nhiệm dẫn bổ trợ. Biên đội MiG-17: Cao
Thanh Tịnh - số 1, Lê Hải - số 2, Ngô Đức Mai - số 3 và Hoàng Văn Kỷ - số 4, sau khi cất cánh khỏi sân bay Gia Lâm
lúc 15 giờ 31 phút (Bản can trận đánh), lập tức được dẫn vòng trái, qua phía bắc Hà Nội, vào khu chiến trên đỉnh Hoà
Lạc. Sở chỉ huy Binh chủng dẫn vào đánh tốp bay thấp với góc tiếp địch 120 độ. Đài chỉ huy bổ trợ tại sân trực tiếp
thông báo vị trí mục tiêu và dẫn máy bay ta bám địch. Số 1 phát hiện cả F4 và F105 ở cự ly 6km. Biên đội không
chiến 4 phút. Các phi công Cao Thanh Tịnh bắn rơi 1 F105, Ngô Đức Mai và Hoàng Văn Kỷ, mỗi phi công bắn rơi 1
F4. Biên đội Cao Thanh Tịnh- Lê Hải-Ngô Đức Mai-Hoàng Văn Kỷ đã ghi tên mình vào danh sách những biên đội
MiG-17 đánh đạt hiệu quả cao nhất của không quân ta. 15 giờ 50 phút (Bản can trận đánh), đôi bay MiG-17: Phạm
Thanh Tài và Nguyễn Hữu Điệt cất cánh cũng từ sân bay Gia Lâm, nhưng vòng phải, qua phía nam Hà Nội, vào khu
vực Sơn Tây-hoà Lạc để yểm hộ cho biên đội Tịnh-Hải-Mai-Kỷ. Sau đó, tất cả về Gia Lâm hạ cánh. Trong khi không
chiến còn đang diễn ra tại Hoà Lạc, sở chỉ huy Binh chủng dẫn tiếp biên đội MiG-17: Dương Trung Tân, Phan Trọng
Vân, Trương Văn Cung và Nguyễn Văn Thọ cất cánh từ Nội Bài, vào khu vực Phúc Yên-Vĩnh Yên đánh địch từ phía
tây triền Tam Đảo xuống. Với góc vào tiếp địch 100 độ, biên đội phát hiện tốp lớn, toàn F105, cự ly 5km. Ta vào
không chiến chủ động, địch quẳng bom đối phó. Tuy không bắn rơi, nhưng biên đội đã cản phá được tốp cường kích,
không cho chúng vào đến Hà Nội. Đây cũng là những trận mà các kíp trực ban dẫn đường đã dẫn thành công MiG-17
đánh liên hoàn, trận nối trận và đánh có yểm hộ khu vực. Ngày 12 tháng 5 năm 1967 là một trong những ngày dẫn
đánh địch đạt hiệu quả cao nhất của mặt trận trên không trong năm 1967.

Qua các trận đánh đầu tháng 5 năm 1967, địch vẫn dùng số lượng đông, nhưng khác với trước là chúng bay
nhiều tầng, nhiều lớp, sử dụng đội hình hỗn hợp, gây nhiễu cả trong và ngoài đội hình. Các kíp trực ban dẫn đường
luôn gặp khó khăn trong dẫn đánh đúng tốp cường kích. Phi công, sau khi được dẫn vào tiếp địch, thường gặp phải
tiêm kích hoặc trong lúc đánh cường kích lại bị nhiều tốp tiêm kích khác bám theo.
Sáng ngày 19 tháng 5 năm 1967, địch vào từ phía Vụ Bản, lên Lương Sơn đánh Hà Nội. Thủ trưởng trực
chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên quyết định sử dụng MiG-17 đánh trên hướng tây nam và MiG-21 đánh trên
hướng tây bắc. Trực chỉ huy Trung đoàn 923 Đào Công Xưởng cho MiG-17 xuất kích. Trực ban dẫn đường Binh
chủng Nguyễn Văn Chuyên dẫn chính và Trung đoàn 923 Bùi Hữu Hành dẫn bổ trợ. 10 giờ 15 phút đôi bay: Phan Tấn
Duân và Bùi Văn Sưu cất cánh từ Gia Lâm, vòng xuống Thường Tín, bay vào khu chiến Chương Mỹ-Xuân Mai-
Thanh Oai (Bản can trận đánh). Không chiến kéo dài hơn 8 phút, ta đã cản phá được một số tốp đánh vào Hà Nội.
Trong khi thoát ly về đến Văn Điển, đôi bay Duân-Sưu vẫn phải quay lại phản kích, rồi mới về Gia Lâm hạ cánh.

Buổi chiều cùng ngày, địch sử dụng lực lượng lớn hơn vào đánh Hà Nội. 14 giờ 24 phút, biên đội: Trần
Minh Phương - số 1, Nguyễn Văn Thọ - số 2, Dương Trung Tân - số 3 và Nguyễn Văn Phi - số 4 cất cánh từ Gia Lâm
và 2 phút sau, đôi bay: Phạm Thanh Tài và Nguyễn Hữu Điệt cũng được lệnh cất cánh. Tất cả vòng xuống Văn Điển,
lên độ cao 1.000m, giữ tốc độ 750km/h, sở chỉ huy Binh chủng cho vào đánh tại khu chiến Thanh Oai-Quốc Oai (Bản
can trận đánh). Với góc vào tiếp địch 120 độ, biên đội đi trước báo cáo phát hiện đội hình lớn hỗn hợp cả F4, F-8 và
A4, cự ly 6km. Đôi bay phía sau sẵn sàng vào trận. Không chiến quyết liệt giữa ta và địch trong 7 phút. Số 1 và số 4
của biên đội vào đánh trước bị trúng tên lửa địch, hy sinh. Các phi công Phạm Thanh Tài và Nguyễn Hữu Điệt, mỗi
người bắn rơi 1 F4, nhưng sau đó số 1 của đôi bay đánh sau cũng hy sinh, còn số 2 phải nhảy dù. Ta cản phá được một
mũi rất nguy hiểm của địch đánh vào Hà Nội, nhưng MiG-17 đã bị tổn thất quá nặng.

Trong các trận đánh tiếp theo, từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 1967, kết quả tìm đúng tốp cường kích
địch để dẫn MiG-17 vào đánh, không đạt yêu cầu; ta không những gặp tổn thất về máy bay, mà còn mất đi một số phi
công lão luyện. Trước tình hình đó, trên quyết định tạm thời giảm bớt nhiệm vụ chiến đấu đối với MiG-17, củng cố lại
lực lượng để tìm cách xoay chuyển tình thế. Phải đến cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1967, MiG-17 mới giành lại hiệu
quả chiến đấu bằng giải pháp tổ chức dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng và phục kích.

***

Chiều ngày 23 tháng 8 năm 1967, địch sử dụng đội hình lớn, trên 60 chiếc, theo đường bay: từ Sầm Nưa,
qua Yên Bái, lên bắc Tuyên Quang, men theo triền phía bắc dãy Tam Đảo, xuống Phổ Yên, Đa Phúc vào đánh Hà Nội.
Sau khi đánh giá tình hình, các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng: Đào Đình Luyện, Đỗ Long, Trung đoàn 921 Trần
Hanh (Bản can trận đánh) và 923 Nguyễn Phúc Trạch đã thống nhất tổ chức đánh phối hợp hiệp đồng giữa MiG-21 và
MlG-17. Để thực hiện được ý định của người chỉ huy, các trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng đã được phân
công: Đào Ngọc Ngư phụ trách MiG-21 và Lưu Văn Cộng-MiG-17, sử dụng 2 tiêu đồ gần thu tình báo của C-41, 45
và đánh dấu đường bay trên 1 bàn dẫn đường (Bản can trận đánh); kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Trần Đức
Tụ tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng, còn Trung đoàn 923: Hà Đăng Khoa, Bùi Hữu Hành tại sở chỉ huy
và Trần Xuân Dung trên hiện sóng. Binh chủng phối hợp với Trung đoàn 921 dẫn MiG-21, Trung đoàn 923 dẫn chính
MiG-17.

14 giờ 57 phút, đôi bay MiG-21: Nguyễn Nhật Chiêu - số 1 và Nguyên Văn Cốc - số 2 cất cánh từ Nội Bài,
bay ra hướng tây, qua Nam Thanh Sơn, rồi vòng phải lên hướng bắc. Trên hiện sóng, trực ban dẫn đường Lê Thiết
Hùng bám sát được 3 tốp địch ở cuối đội hình, tại sở chỉ huy, trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư dẫn MiG-21 vào tiếp
cận với góc 60 độ, tăng nhanh tốc độ và lên độ cao có lợi. Đến Tuyên Quang, số 1 phát hiện 4 chiếc ở cự ly 15km và
ngay sau đó cả đôi bay phát hiện 8, rồi 12 chiếc cả F4 và F- 05. Tất cả chỉ trong vòng có 1 phút. Tình hình trên không
hầu như đã được kiểm soát toàn bộ. Bằng 2 quả tên lửa, phi công Nguyễn Nhật Chiêu diệt 2 F4 (Dẫn đường thông kê
các trận đánh của Không quân, quyển L. Nhưng "Một số trận đánh của Không quân trong chiến tranh chống Mỹ", Nxb
QĐND-1996, quyển 1, tr.45: phi công Nguyễn Nhật Chiêu bắn rơi 1 F4 và 1 F105). Đồng chí đã trở thành phi công
MiG-21 thứ ba trong 1 trận bắn rơi 2 máy bay địch. Và ngay sau đó thêm 1 quả tên lửa nữa, phi công Nguyễn Văn
Cốc diệt tiếp 1 F4. Đây là trận dẫn đánh địch đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất của Không quân nhân dân Việt Nam.
Tốp F105 vứt bom quay ra. Đôi MiG-21 về Nội Bài hạ cánh.

Khi MiG-21 bắt đầu xuất kích ra hướng tây thì sở chỉ huy Trung đoàn 923 cho biên đội MiG-17: Cao
Thanh Tịnh - số 1, Lê Văn Phong - số 2, Nguyễn Văn Thọ - số 3 và Nguyễn Hồng Điệp - số 4 ở Gia Lâm cất cánh (15
giờ) và dẫn vào khu chiến Đa Phúc-Phúc Yên (Bản can trận đánh). Dựa vào kết quả bám,địch của trực ban dẫn đường
hiện sóng Trần Xuân Dung, tại sở chỉ huy trực ban dẫn đường Hà Đăng Khoa và Bùi Hữu Hành, tập trung dẫn MiG-
17 đánh các tốp đi đầu của đội hình địch và cho vào tiếp cận với góc nhỏ (20, 30 độ). Số 1 phát hiện cả F4 và F105,
8km. Biên đội không chiến 3 phút ở độ cao 1.500m, phi công Cao Thanh Tịnh và Lê Văn Phong nổ súng, 1 F-l05 và 1
F4 rơi, nhưng sau đó số 2 hy sinh do bị địch bắn. Các số còn lại được dẫn về Kép.

Cũng trong thời gian ta tổ chức đánh ở 2 khu vực trên, kíp trực ban dẫn đường Binh chủng còn theo dõi
chặt chẽ Đoàn Z dẫn một biên đội MiG-17 của mình, xuất kích từ sân bay Kép (cất cánh 14 giờ 58), đánh tại khu vực
Bắc Ninh, bắn rơi 1 F105 và về hạ cánh tại Nội Bài. Mũi đánh lớn của địch cơ bản bị bẻ gẫy trước khi vào đến Hà
Nội. Các kíp trực ban dẫn đường đã góp công rất xứng đáng, tạo nên trận đánh phối hợp, hiệp đồng xuất sắc giữa
MiG-21 và MiG-17. Đây còn là lần đầu tiên ta dẫn thành công MiG-21 và MiG-17 đánh phân đoạn các tốp mục tiêu
trong một đội hình lớn của địch.

Sáng ngày 7 tháng 10 năm 1967, địch vào đánh Hà Nội từ 2 hướng tây và nam, đồng thời chúng cho nhiều
tốp khác khống chế ta tại các khu vực Sơn Dương-đại Từ-lập Thạch và Mỹ Đức-Thanh Oai. Chấp hành ý định tác
chiến của các thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng và Binh chủng, Trung đoàn 921 và Trung đoàn 923 tổ chức thực
hiện đánh phối hợp, hiệp đồng. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng chịu trách nhiệm dẫn chính: Phạm Từ Tịnh (MiG-
21), Lưu Văn Cộng (MiG-17) tại sở chỉ huy và Phạm Văn Khả trên hiện sóng. Các kíp trực ban dẫn đường hai trung
đoàn đảm nhiệm dẫn bổ trợ, Trung đoàn 921: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy và Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng;
Trung đoàn 923: Trần Kỳ tại sở chỉ huy và Trần Xuân Dung trên hiện sóng.

Căn cứ vào tình báo B1, 7 giờ 32 phút, đôi bay MiG-21: Phạm Thanh Ngân và Mai Cương cất cánh từ Nội
Bài. 7 giờ 34 phút, radar dẫn đường bắt được tốp địch 12 chiếc, độ cao 4.000m ở nam Nà Sản 15km, bay về phía Bắc
Yên- Phù Yên. Trực ban dẫn đường Phạm Từ Tịnh dẫn MiG-21 bay qua Sơn Tây và lên Thanh Sơn. Sau khi qua
Thanh Sơn một phút, trực ban dẫn đường cho MiG-21 vòng phải, hướng bay 360 độ và bay thêm một phút nữa để lựa
thời cơ vào tiếp địch, rồi cho vòng trái gấp, lên độ cao 3.000m, chặn tốp địch 12 chiếc bay từ Phù Yên vào Hoà Lạc.
Đôi bay được dẫn vào với góc 70 độ, phát hiện F4, bên phải, 15km. MiG-21 tăng tốc độ bám theo và lần rượt vào
công kích. Bằng 2 quả tên lửa, mỗi phi công bắn rơi 1 F4 và thoát ly trước khi qua sông Đà. Tám phút sau khi MiG-21
cất cánh, biên đội MiG-17: Nguyễn Hữu Tào, Nguyễn Phú Ninh, Nguyễn Hồng Điệp và Nguyễn Phi Hùng được dẫn
từ Gia Lâm, vòng lên Nội Bài và đánh tại khu vực Sơn Tây-Ba Vì-Hoà Lạc ở độ cao 1.000m. Với góc vào 110 độ, ta
phát hiện cả F4 và F105 ở cự ly 7km, phi công Nguyễn Phi Hùng bắn rơi 1 F4. Tốp địch từ hướng tây vào đánh Hà
Nội buộc phải vứt bom, tháo chạy.

Một trong những ưu điểm nổi bật của trận này là dẫn đường đã chọn đúng hướng và độ cao xuất kích, phối
vị độ cao đánh hợp lý cho cả MiG-21 và MiG-17, vô hiệu hoá các tốp địch vào khống chế. Dẫn đường tiếp tục phát
huy dẫn thành công MiG-21 và MiG-17 đánh phân đoạn các tốp mục tiêu trong một đội hình lớn của địch.
Sáng ngày 6 tháng 11 năm 1967, địch từ phía Hồng Gai, men theo triền phía nam của dãy Yên Tử, qua
Uông Bí, hướng về Phả Lại, đồng thời từ phía tây nam, qua Hoà Bình, Suối Rút, lên Hoà Lạc. Không quân nhận
nhiệm vụ tổ chức đánh các tốp từ phía đông vào Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện giao
nhiệm vụ cho hai trung đoàn 921 và 923: sử dụng lực lượng từ hai sân bay Gia Lâm và Kép đánh bảo vệ phía đông Hà
Nội. Kíp trực ban dẫn đường Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên, Vũ Đức Bình và Lưu Văn Cộng tại sở chỉ huy dẫn bổ
trợ cho hai trung đoàn. Các kíp trực ban dẫn đường của từng trung đoàn chịu trách nhiệm dẫn chính lực lượng của
mình, Trung đoàn 921: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy; Trung đoàn 923: Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy Gia Lâm, Bùi
Hữu Hành tại sở chỉ huy Kép.

7 giờ 38 phút, đôi bay MiG-21: Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Lý cất cánh từ sân bay Gia Lâm, đi Thanh
Miện, vòng phải qua Hưng Yên, Kim Bảng, rồi quay lại chặn tốp 16 chiếc của địch ở độ cao 2.000m tại khu vực Đông
Triều. Trực ban dẫn đường Phạm Công Thành dẫn MiG-21 vào tiếp địch với góc 120 độ, phi công không phát hiện
mục tiêu. Khi đôi bay cắt qua đường bay địch, dẫn đường cho vòng lại, nhưng bị lạc hậu, buộc phải dẫn thoát ly. Lúc
này khu vực Nội Bài có máy bay địch, nên sở chỉ huy lệnh cho đôi Ngư-Lý đi sân bay Ninh Minh hạ cánh. 7 giờ 48
phút, biên đội MiG-17 thứ nhất: Bùi Văn Sưu, Nguyễn Duy Tuân, Lê Xuân Dị và Nguyễn Đình Phúc cất cánh từ sân
bay Kép vào khu chiến Bắc Giang. Trực ban dẫn đường Bùi Hữu Hành dẫn vào tiếp địch với góc 70 độ, biên đội phát
hiện F105 ở cự ly 5km. Phi công Nguyễn Đình Phúc ở vị trí có lợi, vào công kích và bắn rơi 1 F105. Cả biên đội hạ
cánh ngay xuống Kép. 7 giờ 50 phút biên đội MiG-17 thứ hai (Bản can trận đánh): Nguyễn Hữu Tào, Phan Trọng Vân,
Nguyên Văn Thọ và Nguyễn Phi Hùng xuất kích từ sân bay Gia Lâm vào đánh tại Phả Lại. Chỉ có số 2 có cơ hội nổ
súng, nhưng bắn không kết quả.

Chiều ngày 6 tháng 11 năm 1967, địch cho lực lượng đông hơn từ Cẩm Phả - Tiên Yên, men theo phía bắc
dãy Yên Tử, qua Sơn Động, Lục Nam, vào đánh Hà Nội. 15 giờ 35 phút, đôi bay MiG-21: Đặng Ngọc Ngự - số 1 và
Nguyễn Văn Lý - số 2 xuất kích từ Gia Lâm (buổi sáng, sau khi hạ cánh Ninh Minh, chuyển sân về Gia Lâm ngay và
vào trực luôn), đi Ninh Giang, vòng trái qua Kiến An, Hải Phòng, Quảng Yên. Trực ban dẫn đường Phạm Công Thành
dẫn MiG-21 vòng trái, vào tiếp địch với góc 60 độ ở bắc Uông Bí 10km, nhưng xông trước, hai bên đều thấy nhau,
địch cơ động lợi thế, ta phải thoát ly lên hướng bắc và lại sang Ninh Minh hạ cánh. 15 giờ 38 phút, biên đội MiG-17
thứ nhất: Nguyễn Hữu Tào - số 1, Phan Trọng Vân - số 2, Nguyễn Văn Thọ - số 3 và Nguyễn Phi Hùng - số 4 xuất
kích từ sân bay Gia Lâm, được trực ban dẫn đường Hà Đăng Khoa dẫn men theo phía nam đường 5 đến Cẩm Giàng,
vòng trái vào Chí Linh, gặp đội hình hỗn hợp cả F- 4 và F105. Ta vào không chiến bị động và kéo lên phía Lục Ngạn.
Các phi công Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Phi Hùng, mỗi người bắn rơi 1 F105, còn số 1 hy sinh và số 2 phải nhảy dù
do bị địch bắn. 15 giờ 44 phút, biên đội MiG-17 thứ hai: Bùi Văn Sưu - số 1, Nguyễn Duy Tuân - số 2, Lê Xuân Dị -
số 3 và Nguyễn Đình Phúc - số 4 cất cánh từ sân bay Kép, vào khu vực Lục Ngạn để đánh tiếp ứng, đồng thời yểm hộ
cho số 3 là số 4 của biên đội thứ nhất thoát ly. Với góc vào 60 độ, số 4 phát hiện F105, 6km. Biên đội vào không
chiến, phi công Bùi Văn Sưu bắn rơi 1 F105. MiG-17 về Gia Lâm hạ cánh.

Dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MiG-21 và MiG-17 trong ngày 6 tháng 11 năm 1967 đã để lại một bài
học lớn về lựa chọn thời cơ cất cánh cho MiG-21 và MiG-17 khi đánh phân đoạn các tốp mục tiêu trong một đội hình
lớn của địch, về mối quan hệ hữu cơ giữa kết quả dẫn tiếp địch của tốp đánh trước và tốp đánh sau. Trận buổi sáng,
dẫn đường cho MiG-21 cất cánh sớm, nên đã phải đưa xuống tận Thanh Miện-Hưng Yên-Kim Bảng, rồi mới quay lại
vào tiếp địch và nếu theo đề xuất cất cánh (7 giờ 34 phút) thì còn bị sớm hơn nữa. Trận buổi chiều, dẫn đường cho
MiG-17 ở Gia Lâm cất cánh muộn, nên phi công vào không chiến bị động. Hai lần dẫn MiG-21 vào đánh trước không
tốt đã làm mất yếu tố bất ngờ khi dẫn MiG-17 vào đánh sau.
Chiều ngày 17 tháng 12 năm 1967, sau khi nhận được tin địch sẽ tổ chức đánh lớn vào Hà Nội; ta dự đoán,
chúng có thể vào theo hai đường. Đường thứ nhất: Sầm Nưa-Yên Châu-Yên Bái-Tuyên Quang, rồi xuống theo dãy
Tam Đảo và đường thứ hai: Sầm Nưa-suối Rút-Hoà Bình, rồi theo đường 6. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng
Nguyễn Văn Tiên và Đào Đình Luyện ra ý định tác chiến: Nếu địch vào đường thứ nhất: MiG-21 ra Nghĩa Lộ, đánh
địch trước Tuyên Quang; MiG-17 ra Đoan Hùng, đánh địch từ Sơn Dương trở vào. Nếu địch vào đường thứ hai: 2
MiG-21 ra Vạn Yên, đánh địch trước Suối Rút, 1 MiG-21 ra Quan Hoá cũng đánh trước Suối Rút, đồng thời yểm hộ
cho MiG-17; MiG-17 ra hướng tây, đánh từ Suối Rút-Hoà Bình trở vào (còn có 2 MiG-21 và 4 MiG-17 của Đoàn Z
tham gia). Trong kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng, từng người đều được phân công cụ thể: tại sở chỉ huy, Nguyễn
Văn Chuyên dẫn chính MiG-21 (Quan Hoá) và Đào Ngọc Ngư dẫn bổ trợ MiG-17, Phạm Văn Khả trên hiện sóng. Kíp
trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính MiG-21 (Vạn Yên): Tạ Quốc Hưng, Trần Đức Tụ tại sở chỉ huy, Hoàng
Kế Thiện và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn chính MiG-17: Bùi Hữu
Hành và Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy, Trần Xuân Dung trên hiện sóng.

15 giờ 10 phút, địch vào, nhưng chúng không lên Yên Bái mà hướng vào Phú Thọ. Thủ trưởng trực chỉ huy
Trung đoàn 921 Trần Mạnh quyết định cho các phân đội trực chiến vào cấp 1 và mở máy, cất cánh ngay. 15 giờ 16
phút, đôi bay MiG-21: Vũ Ngọc Đỉnh - số 1 và Nguyễn Đăng Kính - số 2 cất cánh từ Nội Bài. Sở chỉ huy Trung đoàn
921 xin đổi hướng xuất kích, dẫn đôi MiG-21 vòng xuống Hoà Lạc, qua núi Viên Nam, vòng phải lên Thanh Sơn, rồi
vòng trái cơ động hình chữ "S" sang phía tây Yên Lập 7km và cho vào tiếp cận tốp 16 chiếc, trên đoạn từ Thanh Ba
đến Phù Ninh với góc 70 độ (Bản can trận đánh). 15 giờ 25 phút, số 1 phát hiện cả F105 và F4, từ 10 đến 15km. Được
số 2 yểm hộ chặt chẽ, phi công Vũ Ngọc Đỉnh phóng 2 quả tên lửa, hạ gục 2 F105. Đồng chí đã ghi tên mình vào danh
sách phi công trong một trận bắn rơi 2 máy bay địch. Đôi MiG-21 tiếp tục phản kích, sau đó về Nội Bài hạ cánh. Hai
phút sau khi đôi bay Đỉnh-Kính cất cánh, phi công MiG-21 Nguyễn Hồng Nhị rời khỏi đường băng Nội Bài. Trực ban
dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên cho vòng xuống Sơn Tây, qua Hoà Bình, đến Suối Rút vòng phải, hướng bay 360 độ
lên Yên Lập đánh tốp 12 chiếc. Với góc vào tiếp địch 45 độ, 15 giờ 27 phút, phi công Nguyễn Hồng Nhị cũng phát
hiện cả F105 và F4, từ 10 đến 15km. Anh đuổi theo, phóng 1 quả tên lửa, rơi 1 F105 và thoát ly bằng cách vòng cơ
động hình chữ "S" qua Phú Thọ, Việt Trì, Vĩnh Yên để về Nội Bài.

15 giờ 18 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch lệnh cho biên đội MiG-17:
Lưu Huy Chao - số 1, Nguyễn Hồng Thái - số 2, Bùi Văn Sưu - số 3 và Lê Hải - số 4 cất cánh từ Gia Lâm với nhiệm
vụ đánh các tốp địch phía tây Hà Nội. Sở chỉ huy Trung đoàn 923 dẫn MlG-17 vòng qua phía bắc Hà Nội vào Hoà
Lạc, sau đó cho tiếp địch với góc 60 độ. 15 giờ 27 phút 25 giây, số 1 phát hiện 4 F105 và 4 F4, 10km. Biên đội đuổi
theo tốp F4 gần hơn. Phi công Lưu Huy Chao bắn rơi 1 F4. Ta tiếp tục không chiến, các số đều có cơ hội nổ súng. 15
giờ 34 phút 30 giây, phi công Bùi Văn Sưu bắn rơi 1 F4 nữa. 15 giờ 39 phút 40 giây, số 1 báo cáo không thấy số 2.
Đồng chí đã hy sinh do bị F4 bắn trong lúc yểm hộ cho số 1. Các số còn lại hạ cánh xuống Gia Lâm (Đoàn Z đánh
không đúng ý định của Quân chủng nên không đạt kết quả). Sau khi tổ chức rút kinh nghiệm, thủ trưởng trực chỉ huy
Binh chủng Nguyễn Văn Tiên và Đào Đình Luyện đã chỉ đạo cho các trung đoàn không quân tổ chức đánh tiếp.

Sáng 19 tháng 12 năm 1967, địch sử dụng lực lượng rất lớn đánh vào Hà Nội theo hai hướng chính: từ tây
bắc xuống và từ đông nam lên, ngoài ra chúng còn cho các tốp lẻ 8 chiếc vào Hà Nội theo hướng đông và đông bắc.
Không quân ta đảm nhiệm đánh địch trên hướng tây bắc như ngày 17, đồng thời sẵn sàng đối phó khi chúng qua Sầm
Nưa, bay thẳng Suối Rút, Hoà Bình vào đánh các mục tiêu của ta ở phía tây Hà Nội MiG-17 và MiG-21 của Đoàn Z
tham gia đánh địch trên hướng đông và đông bắc Hà Nội. Còn hướng đông nam do tên lửa và cao xạ đảm nhiệm. Kíp
trực ban dẫn đường Binh chủng: tại sở chỉ huy Nguyễn Văn Chuyên theo dõi chung (không quân ta và Đoàn Z), Đào
Ngọc Ngư dẫn chính MiG-17, Lê Thành Chơn dẫn bổ trợ MiG-21 và Nguyễn Quang Sáng trên hiện sóng. Các kíp trực
ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính MiG-21: Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy và Hoàng Kế Thiện trên hiện sóng;
923 dẫn bổ trợ MiG-17: Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy.

Khoảng 7 giờ, trên mạng B1 có địch vào, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 921 Trần Mạnh và Trần Hanh
đề nghị cho MiG-21 vào cấp 1 và đánh từ Tuyên Quang đến Sơn Dương. 7 giờ 04 phút, radar dẫn đường xác định tốp
8 chiếc, độ cao 4.000m ở Yên Châu, hướng lên Yên Bái. 7 giờ 06 phút 20 giây, đôi bay MiG-21: Nguyễn Đăng Kính -
số 1 và Bùi Đức Nhu - số 2 cất cánh từ sân bay Nội Bài. Trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy đề nghị không đánh tốp
8 chiếc vì chúng đã đổi hướng xuống Đoan Hùng - Sơn Dương và nếu đánh, ta sẽ phải chặn chúng tại khu vực Phú
Lương, khó phối hợp được với MiG-17, nên đã cho MiG-21 đi Sơn Tây-Hoà Bình. Khi ta đến Hoà Bình thì tốp cường
kích vào không đúng dự tính, sở chỉ huy lập tức cho MiG-21 vòng xuống Vụ Bản, sau đó vòng trái ngược trở lại. 7 giờ
19 phút, radar dẫn đường bắt được tốp 8 chiếc thứ hai, độ cao 4.000m cũng ở Yên Châu hướng vào Tuyên Quang.
Được thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Tiên đồng ý, sở chỉ huy Trung đoàn 921 dẫn MiG-21 từ Hoà Bình lên Yên
Lập, đến ngang Thanh Sơn, cho vòng trái để khép bớt giãn cách, rồi vòng ải đi hướng 360 độ, nhưng do bị lạc hậu tới
24km, nên cho tiếp tục vòng phải. 7 giờ 25 phút, địch qua ga Đoan Thượng, đột nhiên vòng phải về Phú Thọ, trực ban
dẫn đường Phạm Minh Cậy cho MiG-21 cải bằng, hướng bay 80 độ, cắt chéo sang phía trước, bên trái địch, rồi cho
vòng phải gấp quay trở lại. Số 1 phát hiện địch bay đội hình hỗn hợp F4 và F105, cự ly 12km. Bằng 1 quả tên lửa, phi
công Nguyễn Đăng Kính bắn rơi 1 F4 ở độ cao 3.000m tại đông bắc Phú Thọ. Sở chỉ huy cho thoát ly về Nội Bài.

7 giờ 03 phút, trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư đề nghị cho MiG-17 vào cấp 1, mở máy, cất cánh ngay
và ra khu vực Sơn Tây-Hoà Lạc. 7 giờ 07 phút 30 giây, theo kế hoạch hiệp đồng, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn
923 Nguyễn Phúc Trạch lệnh cho biên đội MiG-17: Vũ Thế Xuân - số 1, Nguyễn Quang Sinh - số 2, Nguyễn Hồng
Điệp - số 3 và Nguyễn Phi Hùng - số 4 cất cánh từ Gia Lâm, trực ban dẫn đường Hà Đăng Khoa cho vòng qua phía
bắc Hà Nội, vào khu vực Hoà Lạc, độ cao 2.000m. 7 giờ 13 phút, số 1 báo cáo ở độ cao 2.000m tầm nhìn xấu. Trực
ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư vừa theo dõi MiG-21 đang được dẫn vào tốp 8 chiếc thứ hai vừa điều chỉnh cách bay
cho biên đội MiG-17 để lựa thời cơ thuận lợi. Khi MiG-21 bắt đầu khép giãn cách, trực ban dẫn đường xin cho MiG-
17 rời khỏi khu vực Hoà Lạc vào đánh địch tại Phú Thọ. Thủ trưởng Đào Đình Luyện nhắc: MiG-21 đánh trước, MiG-
17 đánh sau. Trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư dẫn MiG-17 lên Sơn Tây-thanh Sơn, vòng phải vào Phú Thọ ở độ
cao 2.000m và thông báo vị trí mục tiêu. MiG-17 được dẫn vào đánh tiếp với góc 90 độ, số 2 phát hiện F4, 10km và
nhiều F105 khác, đồng thời báo cáo có 4 F4 phía sau. Số 1 phân công yểm hộ và chỉ huy biên đội vào không chiến.
Các phi công Vũ Thế Xuân và Nguyễn Phi Hùng, mỗi người bắn rơi 1 F105 (Dẫn đường thống kê các trận đánh của
Không quân, quyển L). Sau đó MiG-17 cũng về Nội Bài hạ cánh.

Mũi tây bắc của địch đánh vào Hà Nội bị bẻ gẫy. Đây là lần đầu tiên ta dẫn thành công 2 loại cùng đánh
trong một khu chiến, cùng thời gian và có độ cao chênh lệch phù hợp. Sau khi nhận được tin: từ 15 giờ đến 15 giờ 30
phút sẽ có 60 lần/chiếc máy bay địch hoạt động, các thủ trưởng Nguyễn Văn Tiên và Đào Đình Luyện quyết định cho
MiG-21, MiG-17 của không quân ta và MiG-21 của Đoàn Z tập trung đánh phía tây và tây bắc Hà Nội. Căn cứ vào
tình báo B1, kíp trực ban dẫn đường Binh chủng phán đoán 15 giờ 30 phút, địch sẽ vào đến mục tiêu và đề nghị ta nên
cất cánh không muộn hơn 15 giờ 09 phút. Thủ trưởng đồng ý. Từ 14 giờ 59 đến 15 giờ 5 phút, thủ trưởng trực chỉ huy
Trung đoàn 921 Trần Hanh và 923 Nguyễn Phúc Trạch lần lượt đề nghị cho đơn vị mình cất cánh, nhưng thủ trưởng
Nguyễn Văn Tiên thấy còn sớm và đến 15 giờ 07 phút, mới đồng ý.
Đúng 15 giờ 09 phút, đôi bay MiG-21: Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Cốc cất cánh khỏi Nội Bài. Trực
ban dẫn đường Phạm Minh Cậy cho MiG-21 xuống Lương Sơn-vụ Bản, nhưng địch chưa vào, buộc phải cho vòng trái
tại Vụ Bản, sau đó cải hướng bay 270 đô bay về phía Mai Châu. 15 giờ 20 phút, dẫn đường hiện sóng Nguyễn Quang
Sáng tại C-47 phát hiện có 2 tốp địch ở đông Sầm Nưa 50km, hướng vào Suối Rút, trực ban dẫn đường Binh chủng Lê
Thành Chơn thông báo ngay cho sở chỉ huy Trung đoàn 921. Trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy cho MiG-21 tiếp
tục giữ hướng bay 270 độ. 15 giờ 21 phút, dẫn đường hiện sóng Hoàng Kế Thiện tại C-45 cũng phát hiện địch, nhưng
ta đã vào thế đối đầu và chỉ được 1 phút rồi lại mất. 15 giờ 22 phút, sở chỉ huy Trung đoàn 921 đề nghị Binh chủng
dẫn hỗ trợ thì đã quá muộn, buộc phải cho thoát ly và dẫn về Kép hạ cánh.

Cũng vào 15 giờ 09 phút, biên đội MiG-17: Vũ Thế Xuân, Nguyễn Quang Sinh, Nguyễn Hồng Điệp và
Nguyễn Phi Hùng cất cánh từ Gia Lâm (sau trận buổi sáng về Nội Bài, biên đội cơ động xuống Gia Lâm ngay), bay
xuống Kim Bôi, cũng tương tự như MiG-21, địch chưa vào. Sở chỉ huy Trung đoàn 923 dẫn vòng phải lên Hoà Bình,
rồi vòng trái xuống Vụ Bản. 15 giờ 21 phút, radar dẫn đường của trung đoàn bắt được mục tiêu, sở chỉ huy cho biên
đội vòng trái về phía Suối Rút, góc vào tiếp địch 90 độ, bay bằng 1 phút và thông báo vị từ mục tiêu. Biên đội phát
hiện 4 F4, 25km và trong quá trình vòng trái về Hoà Bình lại thấy thêm 8, rồi 12 chiếc F4 nữa. Khi chúng biết ta đang
cắt vào, lập tức vứt bom, vòng trái về hướng tây bắc. Không chiến quyết liệt từ Hoà Bình đến Suối Rút. 15 giờ 28
phút, sở chỉ huy Trung đoàn 923 thấy nếu kéo dài, sẽ bất lợi, cho lệnh thoát ly. Nhưng phải đến phút thứ 34, MiG-17
mới thoát ly được và về Hoà Lạc hạ cánh.

Với kết quả trên, MiG-17 đã cản phá được 2 tốp lớn F4 cường kích đánh vào Hà Nội, nhưng chưa thực hiện
đánh phối hợp, hiệp đồng đúng nghĩa của nó. Nguyên nhân về dẫn đường là chọn khu chờ cho MiG-21 chưa thật hợp
lý, dẫn MiG-21 vào đối đầu, nhưng không kịp tạo gián cách, dẫn đường Binh chủng chưa quyết đoán dẫn vượt cấp khi
thấy dẫn đường trung đoàn cho MiG-21 vào thế bất lợi…

Trong năm 1967, dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MiG-21 và MiG-17 đã có bước chuyển biến mới. Đó
là số trận dẫn hai loại cùng đánh ngày càng tăng, dẫn đánh phân đoạn các tốp mục tiêu trong một đội hình lớn của địch
đạt hiệu quả cao, luôn phát huy cách dẫn sở trường của từng loại để dẫn MiG-21 vào đánh các tốp phía sau và MiG-17
vào đánh các tốp phía trước của đội hình địch, đặc biệt đã dẫn thành công hai loại cùng đánh trong một khu chiến, ở
hai độ cao phù hợp với tính năng cơ động của máy bay ta. Cách dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa hai loại còn được
vận dụng ngay trong các trận MiG-17 đánh phục kích tại Kiến An.

***

Sáng ngày 23 tháng 4 năm 1967, địch đánh hỏng nặng đường băng, đường lăn, sân đỗ của sân bay Kiến An.
Ngay đêm hôm đó và sáng sớm ngày hôm sau, ta tập trung lực lượng tổ chức sửa chữa gấp. Thủ trưởng trực chỉ huy
Binh chủng Nguyễn Văn Tiên quyết định: khẩn trương khắc phục mọi khó khăn để đưa MiG-17 vào trực chiến. Sau
khi quán triệt ý định đánh phục kích tại Kiến An, kíp trực ban dẫn đường Binh chủng đã kịp thời đề xuất phương án
dẫn bay và chịu trách nhiệm dẫn chính. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 tại Kiến An đảm nhiệm dẫn bổ trợ.

Chiều ngày 24 tháng 4 năm 1967, địch từ Cửa Ông, qua phía bắc núi Am Vạp (đỉnh 1094 của dãy Yên Tử),
hướng vào Sơn Động. Tại Kiến An, MiG-17 được nguy trang kín đáo và luôn sẵn sàng xuất kích. Biên đội: Võ Văn
Mẫn - số 1, Nguyên Bá Địch - số 2, Nguyễn Văn Bảy - số 3 và Nguyễn Thế Hôn - số 4 thực hiện chuyển cấp, mở máy,
lăn ra từ vị trí sơ tán bí mật rất nhịp nhàng, khớp với ý định đánh địch của sở chỉ huy Binh chủng. Sau khi cất cánh,
trực ban dẫn đường Binh chủng Nguyễn Văn Chuyên cho MiG-17 bay thấp qua Đông Triều và vòng vào chặn địch ở
phía tây Sơn Động. Với góc vào tiếp địch 25 độ, số 1 phát hiện F4, 5km và chỉ huy các số vào công kích. Ta đánh rất
bất ngờ, Nguyễn Bá Địch và Nguyễn Văn Bảy, mỗi phi công bắn rơi 1 F4. Biên đội phân thành hai tốp quay lại Kiến
An hạ cánh.

Sau khi 4 chiếc MiG-17 vừa được kéo vào khu sơ tán cất giấu an toàn xong thì địch đánh phá dữ dội sân
bay. Tối ngày 24 tháng 4, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch đã có mặt kịp thời, tổ chức sửa chữa
gấp ngay trong đêm và đến khoảng 4 giờ sáng hôm sau (ngày 25 tháng 4), sân bay Kiến An đã được khôi phục xong.
Binh chủng tiếp tục cho MiG-17 trực chiến. Nhiệm vụ của kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng và Trung đoàn 923 vẫn
được giữ nguyên như hôm trước. Biên đội: Nguyễn Văn Bảy - số 1, Hà Bôn - số 2, Nguyễn Thế Hôn - số 3 và Nguyễn
Bá Địch - số 4 đã kiên trì phục kích từ sáng sớm (phi công Hà Bôn đi cùng ô tô với Trung đoàn trưởng Nguyễn Phúc
Trạch từ Gia Lâm xuống Kiến An vào tối ngày 24 tháng 4 năm 1967, ngay sau đó Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn
923 Lê Oánh và phi công Võ Văn Mẫn đi ô tô quay lại Gia Lâm). Đến trưa ngày 25 tháng 4 năm 1967, địch từ hướng
biển đánh vào Hải Phòng. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên, dựa vào tình báo B1 cho cất cánh đúng thời cơ
và dẫn MiG-17 vào tiếp địch với góc 90 độ. Dẫn đường hiện sóng Binh chủng Vũ Đức Bình bám sát ta-địch. Số 2 phát
hiện cả A4 và F-8, cự ly 6km. Số 1 chỉ huy biên đội vào không chiến tại khu vực Hải Phòng - Kiến An. Nguyễn Thế
Hôn và Nguyễn Bá Địch mỗi phi công bắn rơi 1 A4, sau đó phi công Hà Bôn bắn rơi 1 F-8 (Lịch sử Trung đoàn không
quân 923 (1965-2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.2000, tr.58. Còn "Dẫn đường thông kê các trận đánh của
Không quân", quyển L: ta bắn rơi 2 F4 và 1 F-8). Biên đội tách thành 2 tốp, nhanh chóng thoát ly về sân bay Gia Lâm
hạ cánh.

Trên đây là hai trận dẫn MiG-17 đánh phục kích tại sân bay Kiến An đạt hiệu quả rất cao của mặt trận trên
không vào đầu năm 1967.

Sáng sớm ngày 11 tháng 7 năm 1967, thấy có nhiều triệu chứng địch sẽ đánh Hải Dương, thủ trưởng trực
chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên yêu cầu phải tổ chức theo dõi chặt chẽ tình hình địch ở hướng đông nam, ta sẵn
sàng đưa MiG-17 (4 chiếc đã chuyển sân cơ động xuống từ chiều hôm trước) vào đánh phục kích tại sân bay Kiến An
và cho MiG-21 từ Nội Bài làm nhiệm vụ nghi binh, yểm hộ. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng dẫn chính tại sở chỉ
huy Nguyễn Văn Chuyên, Đào Ngọc Ngư dẫn MiG-21, Phạm Từ Tịnh, Vũ Đức Bình dẫn MiG-17 và Nguyễn Quang
Sáng trên hiện sóng. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 và 921 dẫn bổ trợ.

Dựa vào tình báo B1, 7 giờ 24 phút, 2 đôi bay MiG-21 liên tiếp cất cánh từ Nội Bài. Đôi thứ nhất: Lê Trọng
Huyên - số 1 và Đồng Văn Song - số 2, do trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên dẫn, bay theo Đường 18, qua
Đông Triều, Hải Phòng vào yểm hộ và sẵn sàng đánh địch ở độ cao trung bình. Còn đôi thứ hai: Trần Ngọc Xíu và
Mai Cương, do trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư dẫn, bay theo Đường 1 nam vào nghi binh tại khu vực Ân Thi -
Hưng Yên.

7 giờ 26 phút, C-45 bắt được tốp cường kích 12 chiếc của địch ở đông nam cửa Ba Lạt 50km, bay về phía
cửa sông Thái Bình. 7 giờ 29 phút, sở chỉ huy Binh chủng cho biên đội MiG-17: Lưu Huy Chao, Lê Hải, Bùi Văn Sưu
và Nguyễn Đình Phúc cất cánh, sở chỉ huy Kiến An dẫn bổ trợ, đi Ninh Giang vào khu chiến Phủ Cừ-Thanh Miện để
sở chỉ huy Binh chủng dẫn tiếp đánh tốp cường kích 12 chiếc. Nhưng đến khu chiến, biên đội MiG-17 gặp mây thấp,
không lên độ cao theo đúng hiệp đồng, nên C-45 không bắt được và đối không sở chỉ huy Binh chủng cũng không liên
lạc được, đồng thời do nhận được thông báo của đài chỉ huy bổ trợ Ninh Giang: địch toàn tiêm kích F4 và F-8 (đài chỉ
huy bổ trợ nhận dạng nhầm), nên biên đội MiG-17 đã tự vòng tại chỗ, chờ đánh cường kích quay ra, nhưng không
thành. Sau đó thoát ly về Gia Lâm hạ cánh.
Đội bay Huyên-Song bay đúng hiệp đồng, sẵn sàng vào yểm hộ, mặc dù lúc đó Binh chủng không bắn
được MiG-17, nhưng thấy tình thế còn có lợi đối với MiG-21, trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên đã đề nghị
cho chuyển sang đánh chính và được thủ trưởng đồng ý. 7 giờ 35 phút, đôi Huyên-Song vừa bay qua Kiến An, được
dẫn ngay vào tiếp địch với góc 50 độ. Số 1 nhanh chóng phát hiện A4 có F-8 yểm hộ trong đội hình, cự ly 12km. phi
công Lê Trọng Huyên cắt vào tốp A4, bám theo 1 chiếc, phóng tên lửa, 1 A4 rơi. Đồng chí thoát ly bên trái xuống độ
cao thấp rồi lật sang phải, vòng qua Hải Dương. Số 2 bám theo 2 chiếc khác, nhưng không kịp bắn, vì thấy cao xạ bảo
vệ Hải Dương bắn lên, đành phải kéo cao và thoát ly về Nội Bài. Sau khi vòng xuống phía nam Hải Dương, số 1 phát
hiện 1 chiếc máy bay khác trên đường bay ra, bèn đuổi theo, phóng quả tên lửa thứ hai, nhưng không trúng và về Nội
Bài hạ cánh.

Đây là trận dẫn MiG-17 đánh phục kích có MiG-21 phối hợp, hiệp đồng đầu tiên. Tuy dẫn MiG-17 đánh
phục kích không thành công, nhưng dẫn đường đã xử lý tốt một số tình huống: dẫn đôi MiG-21 thứ nhất từ yểm hộ
chuyển sang đánh chính đúng ý định, đúng thời cơ, kịp thời cản phá tốp địch đánh vào Hải Dương, góp phần bảo vệ
hai cầu quan trọng trên đường 5 là Phú Lương và Lai Vu; dẫn đôi MiG-21 thứ hai bay trong khu nghi binh ở độ cao
cao đúng yêu cầu chiến thuật, sau đó chuyển sang bay yểm hộ cho đôi MiG-21 thứ nhất và biên đội MiG-17 trong suốt
quá trình về hạ cánh. Tuy nhiên, dẫn đường tính thời gian cất cánh cho đôi MiG-21 thứ nhất và biên đội MiG-17 theo
tình báo B1 còn để bị muộn, chưa kịp thời yêu cầu sở chỉ huy Kiến An hoặc qua đối không với đôi MiG-21 thứ hai
truyền lệnh cho biên đội MiG-17 lên độ cao cần thiết…

Trong thời gian cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm 1967, địch liên tục đánh phá các mục tiêu thuộc Hải Phòng,
các tuyến đường bộ và đường sắt Hải Phòng-Hải Dương, Hồng Gai-Đông Triều mà không thấy không quân ta xuất
hiện, số lượng máy bay tiêm kích yểm hộ giảm đi rõ rệt, đường bay và đội hình ít thay đổi. Bộ Tư lệnh Binh chủng đã
chớp thời cơ này để tổ chức đánh phục kích có phối hợp, hiệp đồng.

Ngày 21 tháng 9 năm 1967, sau khi biên đội MiG-17. Hồ Văn Quỳ - số 1, Nguyễn Đình Phúc - số 2, Bùi
Văn Sưu - số 3 và Lê Sĩ Diệp - số 4 (Lịch sử Trung đoàn không quân 923 (1965-2000), Sđd, tr.71. Còn "Dẫn đường
thông kê các trận đánh của Không quân", quyển L: Quỳ-Điệp-Sưu) xuất kích buổi sáng, không gặp địch, về Gia Lâm
hạ cánh; thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Hoàng Ngọc Diêu quyết định cho MiG-17 chuyển sân cơ động để đánh
phục kích tại sân bay Kiến An, sau đó sẽ quay trở lại Gia Lâm và yêu cầu MiG-17 ở Gia Lâm và MiG-21 ở Nội Bài
làm nhiệm vụ yểm hộ. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng dẫn chính: Lê Thành Chơn và Đào Ngọc Ngư tại sở chỉ
huy. Kíp trực ban dẫn đường hai trung đoàn không quân bổ trợ, Trung đoàn 923: Hà Đăng Khoa và Bùi Hữu Hành tại
sở chỉ huy; Trung đoàn 921: Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy.

15 giờ 15 phút, biên đội Quỳ-Phúc-Sưu-Diệp bí mật hạ cánh xuống Kiến An và vào trực cấp 2 luôn. Từ 16
giờ 35 đến 16 giờ 37 phút, C-45 phát hiện 3 tốp địch bay thấp, vào qua phía bắc đảo Cát Bà, bắc Đồ Sơn và cửa Diêm
Điền. MiG-17 tại Kiến An cất cánh ngay lúc 16 giờ 35 phút, nhưng khi tập hợp đội hình, sở chỉ huy Kiến An cho số 4
lên thay số 2 vì số 2 mở máy không thành công. Sở chỉ huy Binh chủng dẫn tốp MiG-17 Quỳ-Diệp-Sưu vào tiếp địch
ngay tại đỉnh, với góc vào 50 độ. Số 1 phát hiện cả F4 và A4, cự ly 6km. Đài chỉ huy bổ trợ tại sân vừa chỉ thị mục
tiêu vừa dẫn ta bám địch. Sau 4 phút không chiến, Hồ Văn Quỳ và Bùi Văn Sưu, mỗi phi công bắn rơi 1 F4. Tốp MiG-
17, với đội hình chỉnh tề, thoát ly về Gia Lâm đúng kế hoạch.

Với tính toán chính xác, sở chỉ huy Binh chủng dẫn biên đội MiG-17: Cao Thanh Tịnh, Nguyễn Phú Ninh,
Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Phi Hùng từ sân bay Gia Lâm vào khu vực Gia Lộc-Mỹ Hào và đôi bay MiG-21: Vũ
Ngọc Đỉnh và Đồng Văn Song từ sân bay Nội Bài vào khu vực Tiên Lữ- Phủ Cừ để yểm hộ đúng vào lúc tốp MiG-17
về đến khu vực Kẻ Sặt-Mỹ Hào.

Phát huy kết quả đã đạt được, ngày 5 tháng 10 năm 1967, ta lại dẫn đánh tiếp một trận phục kích nữa tại
sân bay Kiến An và cũng có yểm hộ theo ý định của thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện. MiG-17 ở
Kiến An đánh cường kích địch ở độ cao thấp tại khu chiến phà Quý Cao-Kiến Thuỵ, có đài chỉ huy bổ trợ, đánh xong
sẽ về Gia Lâm hạ cánh. MiG-21 ở Nội Bài vào yểm hộ cho MiG-17 ở độ cao 4.000m tại khu chiến, đồng thời thu hút
tiêm kích và uy hiếp cường kích địch; nếu thời cơ cho phép, MiG-21 trực tiếp đánh địch khi chúng vào đến bờ. MiG-
17 ở Gia Lâm yểm hộ cho MiG-17 ở Kiến An trên đường về Gia Lâm. Nhiệm vụ của các kíp trực ban dẫn đường cơ
bản không thay đổi.

11 giờ 25 phút, biên đội MiG-17: Dương Trung Tân - số 1, Lê Sĩ Diệp - số 2, Lê Xuân Dị - số 3 và Nguyễn
Đình Phúc - số 4 cất cánh từ Kiến An, đánh cường kích theo tình báo B1. Do C-45 chưa bắt được địch, nên sở chỉ huy
Binh chủng buộc phải dẫn biên đội xuống tận khu vực Tiên Hưng, rồi mới quay trở lại khu chiến. 11 giờ 35 phút, C-45
bắt được tốp địch bay từ hướng đông nam lên và vào cửa Trà Lý. Sở chỉ huy Binh chủng dẫn MiG-17 tiếp dịch với
góc vào 85 độ. 11 giờ 41 phút, số 1 phát hiện A4 có F4 yểm hộ và quyết định cắt ngay vào đánh A4. Ta tách thành 2
đôi, vừa bám sát A4 vừa đề phòng F4. Được số 2 và số 4 yểm hộ chặt chẽ, Dương Trung Tân và Lê Xuân Dị, mỗi phi
công bắn rơi 1 A4. Sau đó, MiG-17 xin thoát ly.

11 giờ 22 phút, đôi bay MiG-21: Nguyễn Ngọc Độ và Nguyễn Văn Cốc cất cánh từ Nội Bài, bay qua phía
tây Hà Nội, xuống Vân Đình và vào khu vực Hưng Yên để yểm hộ từ 11 giờ 29 phút. Còn biên đội MiG-17: Cao
Thanh Tịnh, Trần Sâm Kỳ, Nguyên Văn Thọ và Phan Trọng Vân (Bản can trận đánh), cất cánh từ sân bay Gia Lâm lúc
11 giờ 51 phút, sau đó vòng tại đỉnh một vòng, nên khi biên đội đánh phục kích ở Kiến An về đến Văn Giang thì biên
đội MiG-17 yểm hộ mới từ bắc sông Đuống bay xuống.

So với trận đánh ngày 11 tháng 7 năm 1967, kết quả dẫn bay trong trận này lại có nhiều điểm rất khác
nhau: cho MiG-17 ở Kiến An cất cánh sớm, nhưng đã xử lý kịp thời, nên đánh phục kích đạt hiệu quả cao; cho MiG-
21 ở Nội Bài cất cánh quá sớm, còn MiG-17 ở Gia Lâm lại cất cánh quá muộn, nhưng không quyết đoán xử lý, nên
dẫn yểm hộ không đạt yêu cầu chiến thuật.

Sau khi tổ chức đánh xong hai trận của MiG-21 và MiG-17 vào lúc sáng sớm ngày 19 tháng 11 năm 1967,
các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên, Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch và 921 Trần Mạnh tiến
hành ngay chuyển sân cơ động lực lượng và chuẩn bị cho trận đánh tiếp theo. 3 MiG-17 do các phi công Lê Hải,
Nguyễn Đình Phúc và Nguyễn Phi Hùng từ Kép xuống Kiến An để cùng với lực lượng trực chiến ở đó thực hiện đánh
phục kích; 2 MiG-21 do các phi công Vũ Ngọc Đỉnh và Nguyễn Đăng Kính từ Kép về Nội Bài làm nhiệm vụ yểm hộ
trên khu chiến cho MiG-17. Kíp trực ban dẫn đường Binh chủng dẫn chính: Nguyễn Văn Chuyên, Lê Thành Chơn tại
sở chỉ huy và Phạm Văn Khả trên hiện sóng. Kíp trực ban dẫn đường hai trung đoàn không quân dân bổ trợ, 923: Bùi
Hữu Hành tại sở chỉ huy; 921: Phạm Minh Cậy, Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy và Hoàng Kế Thiện trên hiện sóng.

10 giờ sở chỉ huy Binh chủng cho mở radar dẫn đường, nhưng không thấy triệu chứng địch vào. Đến 10 giờ
23 phút, trực ban dẫn đường Phạm Văn Khả tại C-45 báo cáo phát hiện nhiều chiếc ở phía biển, có thể chúng đang tập
hợp đội hình. 10 giờ 24 phút, dẫn đường đề nghị cho đôi bay MiG-21: Vũ Ngọc Đỉnh và Nguyễn Đăng Kính ở Nội
Bài vào cấp 1, mở máy, thủ trưởng đồng ý, nhưng chờ lệnh và đến 10 giờ 32 phút mới cất cánh. 10 giờ 36 phút, biên
đội MiG-17 phục kích: Hồ Văn Quỳ - số 1, Lê Hải - số 2, Nguyễn Đình Phúc - số 3 và Nguyễn Phi Hùng - số 4 rời
đường băng Kiến An để đánh tốp địch 12 chiếc từ hướng đông nam bay về phía Hải Phòng. Do số 1 hỏng đối không,
nên sở chỉ huy Binh chủng lệnh cho số 2 lên dẫn đội.

Đôi MiG-21 bay dọc theo phía tây Đường 1 nam, xuống Phủ Lý, qua Nam Định và Thái Bình. Còn biên
đội MiG-17 vòng tại khu vực phà Quý Cao ở độ cao thấp nhằm tránh 2 chiếc F-8 tiêm kích đang khống chế khu vực
Hải Phòng - Kiến An. 10 giờ 44 phút, sở chỉ huy Binh chủng cho biên đội MiG-17 hướng bay 240 độ để lựa thời cơ
vào tiếp địch. Tốp 12 chiếc còn cách cửa Thái Bình 12km về phía đông nam thì ta đến Vĩnh Bảo, trực ban dẫn đường
Nguyễn Văn Chuyên lập tức cho biên đội MiG-17 vòng trái gấp 180 độ, góc vào gần 90 độ và thông báo địch bên phải
40 độ 15km. Dẫn đường hiện sóng Phạm Văn Khả dẫn tiếp ta vào bám địch. 10 giờ 48 phút, số 2 phát hiện cả F4 và
A4, cự ly 10km. Thấy đánh F- 4 thuận lợi hơn, anh chỉ huy biên đội cắt vào. Không chiến diễn ra trong 6 phút.

Cả 3 phi công Lê Hải, Nguyễn Đình Phúc và Nguyễn Phi Hùng, mỗi người đều bắn rơi 1 F4. Trong lúc
MiG-17 vào tiếp địch, sở chỉ huy Binh chủng cho đôi MiG-21 vòng tại Phù Dực, rồi bay trên khu vực MiG-17 đang
không chiến để yểm hộ. MiG-21 thấy địch phóng tên lửa vào MiG-17, nhưng không có điều kiện vào công kích. Sở
chỉ huy cho tất cả thoát ly theo kế hoạch. Số 2, 3 và 4 của biên đội MiG-17 về thẳng Kép hạ cánh, riêng số 1 bay về
Gia Lâm, rồi mới xuống Kép. Còn đôi MiG-21 hạ cánh tại Nội Bài. Ngày 19 tháng 11 năm 1967 là một trong những
ngày dẫn đánh địch đạt hiệu quả cao của không quân ta.

Dẫn MiG-17 đánh phục kích ở Kiến An thắng lợi đã góp phần tích cực xoay chuyển tình thế và giữ vững
hiệu quả chiến đấu cho MiG-17 trong năm 1967, đồng thời làm phong phú thêm cách dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng
giữa hai loại MiG-21 và MiG-17 của ta.

***

Từ năm 1966, Quân chủng đã chú ý theo dõi và rút ra được một số quy luật hoạt động của loại máy bay
trinh sát gây nhiễu điện tử EB-66. Nó có thể là cầu nối quan trọng giữa các tốp cường kích và tiêm kích, thông báo các
tin tức có MiG hoạt động hay không, mức độ liên lạc đối không của đối phương nhiều hay ít và ở hướng nào, radar ở
đâu đang hoạt động… Ta cũng đã tổ chức dẫn đánh một vài trận, nhưng chưa thành công vì nhiều nguyên nhân khác
nhau.

Trong ba ngày 2, 3 và 5 tháng 11 năm 1966, các thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Đỗ Đức Kiên và
Hoàng Ngọc Diều quyết tâm đưa MiG-21 vào đánh EB-66. Ta tổ chức theo dõi chặt chẽ tình hình địch. Các kíp trực
Ban dẫn đường Quân chủng: Nguyễn Văn Chuyên, Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy và Trung đoàn 921: Tạ Quốc Hưng
tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng đã tiến hành phân công thay nhau dẫn chính từng trận.

Chiều ngày 2 tháng 11 năm 1966, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 92 1 dẫn chính đã đưa đôi bay MiG-
21: Hà Văn Chúc - số 1 và Nguyễn Đăng Kính - số 2 từ Nội Bài vào tiếp địch với góc 120 độ trên đoạn Yên Bái-
Tuyên Quang. Số 2 phát hiện EB-66, 15km có F4 yểm hộ. Ta nhanh chóng cơ động, chiếm vị trí có lợi và vào công
kích. Nhưng rất tiếc tên lửa phóng không đi (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân, quyển L).

Chiều ngày 3 tháng 11 năm 1966, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 tiếp tục dẫn chính. Đôi bay
MiG-21 thứ nhất: Bùi Đình Kình và Đồng Văn Song cất cánh lúc 14 giờ 27 phút, đôi bay thứ hai: Vũ Ngọc Đỉnh và
Nghiêm Đình Hiếu cất cánh lúc 14 giờ 32 phút từ Nội Bài. Cả hai tốp ta đều được dẫn vào tiếp địch trên đoạn từ
Nghĩa Lộ đến Yên Bái địch bay Yên Châu-Yên Bái). Đôi bay thứ nhất phát hiện EB-66 ở cự ly 20km có 4 F4 yểm hộ
và vào công kích, nhưng khi phóng tên lửa quả không đi, quả không trúng (Bản can trận đánh). Đôi bay thứ hai, do bị
dẫn xông trước quá nhiều, không phát hiện được mục tiêu (Bản can trận đánh).
Ngày 5 tháng 11 năm 1966, kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng dẫn chính. Từ sân bay Nội Bài đôi bay
MiG-21 thứ nhất: Bùi Đình Kình và Đồng Văn Song cất cánh lúc 14 giờ 30 phút, đôi bay thứ hai: Lê Trọng Huyên-
trần Thiện Lương cất cánh sau 4 phút. Đôi bay thứ nhất được dẫn vào tiếp cận trên đoạn Hàm Yên-văn Yên, phát hiện
EB-66, 10km có F4 yểm hộ. Nhưng không thấy hết đội hình của chúng, nên khi vào công kích, ta chưa kịp bắn thì đã
bị địch ở phía sau bắn lên, đôi thứ nhất phải nhảy dù. Còn đôi bay thứ hai, do bị dẫn vào quá lạc hậu (cách phía sau
địch quá xa), không quan sát, phát hiện được địch, nên đã không yểm hộ được cho đôi bay thứ nhất (Sơ đồ trận đánh).

Từ những bài học và kinh nghiệm trên, trong năm 1967-1968 ta tổ chức dẫn đánh EB-66 thành công hơn.
Sáng ngày 19 tháng 11 năm 1967, ta tổ chức theo dõi chặt chẽ các tốp EB-66 hoạt động ở hướng tây nam và đặc biệt
bám sát 2 tốp hoạt động ở phía tây Đường 15. Đôi bay: Vũ Ngọc Đỉnh - số 1 và Nguyễn Đăng Kính - số 2 cất cánh từ
sân bay Nội Bài lúc 7 giờ 13 phút và vòng lên Phúc Yên, sau đó vào hướng 180 độ, đến độ cao 1.200m ra khỏi mây,
lên tiếp 5.000m, rồi 7.000m và bay thẳng xuống phía nam. Đến Hà Trung, đôi MiG-21 được dẫn vòng phải vào tiếp
địch, hướng bay 280 độ, tăng tốc độ đến 1.100kmfh và lên độ cao 10.000m. Sau 3 phút, số 1 phát hiện 1 chiếc đi đối
đầu có 4 F4 yểm hộ, nên không vào công kích được, phải thoát ly. Ngay lúc đó, phi công Nguyễn Đăng Kính phát hiện
chiếc đi cùng chiều, đuổi đến cự ly 2.000m, đồng chí phóng quả tên lửa thứ nhất trúng động cơ bên trái; cự ly còn
1.000m, phóng tiếp quả thứ hai, nổ phía sau đuôi. Sở chỉ huy cho thoát ly lên hướng bắc và thấy ở Nội Bài đang có
địch, nên đã dẫn MiG-21 vòng qua Thái Nguyên để về Kép hạ cánh. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Phạm
Minh Cậy, Tạ Quốc Hưng và Hoàng Kế Thiện đã lập thành tích xuất sắc trong chiến công dân MiG-21 lần đầu tiên
bắn rơi chiếc EB-66 của không quân Mỹ.

Chiều 14 tháng 1 năm 1968, sau khi phát hiện có nhiều tốp EB-66 hoạt động dọc theo Đường 15, thủ
trưởng trực chỉ huy Binh chủng Hoàng Ngọc Diêu đã quyết định cho MiG-21 vào đánh. Thủ trưởng trực chỉ huy
Trung đoàn 921 Trần Hanh cho đôi bay: Nguyễn Đăng Kính - số 1 và Đồng Văn Song - số 2 cất cánh từ Nội Bài lúc
15 giờ 27 phút. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy và Lê Thiết
Hùng trên hiện sóng. Đôi MiG-21 bay từ Phúc Yên đi thẳng xuống phía nam và lên dần độ cao có lợi. 15 giờ 33 phút,
địch đang vòng phải ở nam Mộc Châu 30km xuống Thường Xuân thì ta đến ngang Phủ Lý, sở chỉ huy cho vòng tại
chỗ 1 vòng để điều chỉnh vị trí tiếp địch đúng dự tính, rồi bay tiếp xuống phía nam. 15 giờ 40 phút 30 giây, địch đến
tây bắc Thường Xuân 10km và bắt đầu vòng trái lên Mộc Châu, cũng là lúc ta ở ngang Đông Sơn, trực ban dẫn đường
Phạm Công Thành cho vòng phải, ngược lên hướng bắc và tăng dần tốc độ để lựa thời cơ vào tiếp địch. 15 giờ 44
phút, khi địch đã bay ổn định từ Ngọc Lạc lên Lang Chánh, MiG-21 được dẫn vòng trái, bám theo phía sau mục tiêu,
nhưng bị lạc hậu tới 35km. Dẫn đường hiện sóng Lê Thiết Hùng kiểm soát chặt chẽ địch-ta và dẫn tiếp cho rút ngắn
cự ly. Sau 3 phút bám đuổi, số 1 phát hiện EB-66, cự ly 12km, số 2 quan sát kỹ phía sau, ổn định vị trí yểm hộ. Phi
công Đồng Văn Song bắn rơi thêm 1 EB-66 nữa (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân, quyển L), góp
phần cản phá một mũi 24 chiếc đánh vào Hà Nội theo hướng Suối Rút - Hoà Bình.

Chiều ngày 3 tháng 2 năm 1968, có 2 tốp địch hoạt động trên biên giới Việt - Lào từ nam Mộc Châu 30km
đến Quế Phong, độ cao 10.000m, tốc độ 950km/h, cách Nội Bài khoảng 170km. Thời tiết tại sân phức tạp, 8Cu 400 (8
phần mây Cu ở độ cao 400m) và 10Sc 1000 (10 phần mây Sc ở độ cao 1000m) (Sc (Stratocumulus) - một loại mây
mầu trắng nhạt, xám, phát triển ở độ cao trung bình theo chiều ngang, có nhiều lớp, bao phủ trên diện rộng). Thủ
trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 921 Trần Hanh, nắm chắc quyết tâm của bộ đội và đề nghị Binh chủng cho xuất kích.
Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện đồng ý và nhắc nhở phải đánh thật bí mật, bất ngờ. Ta sử dụng
đôi bay MiG-21 đánh EB-66 và 1 chiếc MiG-21 bay nghi binh-yểm hộ. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn
chính: Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng tại C-43. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng
dẫn bổ trợ: Vũ Đức Bình và Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy. Dẫn đường quyết tâm phải dẫn vào tiếp địch bất ngờ, xử lý
nhanh khi gặp tiêm kích và bảo đảm đủ nhiên liệu để dẫn 3 chiếc của ta về xuyên mây hạ cánh.

15 giờ 50 phút, đôi đánh chính: Phạm Thanh Ngân - số 1 và Nguyễn Văn Cốc - số 2 cất cánh từ Nội Bài,
xuyên lên trên mây, rồi vòng xuống phía nam, đi Quỳ Châu, giữ tốc độ 850km/h và từ từ lên độ cao 6.000m; 15 giờ 54
phút, phi công Mai Cương, làm nhiệm vụ nghi binh-yểm hộ cất cánh, bay về phía Thanh Sơn, nhanh chóng lên độ cao
10.000m và hoạt động từ Khê Long đến Suốt Rút. Nếu tiếp tục dẫn đôi đánh chính vào tiếp địch từ phía nam lên, như
ngày 14 tháng 1 năm 1968, thì có thể sẽ gặp khó khăn về nhiên liệu, nên trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy xin dẫn
từ phía bắc xuống, mặc dù anh rất biết đây là hướng khó. Thủ trưởng đồng ý.

15 giờ 58 phút, đôi MiG-21 đến Đường 12A (đoạn Tân Lạc-Vụ Bản), sở chỉ huy cho vòng phải, giữ hướng
bay 280 độ và lên độ cao 10.000m, vào tiếp địch. Bốn phút sau, dẫn đường hiện sóng Lê Thiết Hùng thấy rõ địch-ta,
thông báo chính xác vị trí mục tiêu. Số 1 báo cáo phát hiện EB-66, đối đầu, 5km (Dẫn đường thông kê các trận đánh
của Không quân, quyển L), đang vòng phải xuống Quế Phong. Số 1 lập tức vòng trái gấp và khi đã bám chắc phía sau
mục tiêu, anh nhận thấy không phải EB-66 mà là 2 chiếc yểm hộ. Số 1 bám vào chiếc số 2 của địch, đồng thời chỉ huy
số 2 đánh chiếc số 1 của địch. Sau khi kiểm tra kỹ phía sau đôi bay của ta, dẫn đường hiện sóng dẫn tiếp MiG-21 vào
bám địch. Phi công Phạm Thanh Ngân ngắm chính xác, phóng quả thứ nhất, tên lửa không đi. Anh bình tĩnh, phóng
quả thứ hai, máy bay địch bốc cháy. Đây là chiếc F-102 đầu tiên của không quân Mỹ bị không quân ta bắn rơi. Số 2
rút ngắn cự ly, phóng tên lửa vào chiếc số 1 của địch, nhưng nó cơ động gấp, nên không trúng. Sở chỉ huy cho thoát ly
khỏi khu chiến. Khi đôi đánh chính bắt đầu vào công kích, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy cho ngay phi công
Mai Cương quay xuống phía nam để vào đánh tiếp ứng, nhưng thấy khả năng không đủ nhiên liệu, nên đã cho vòng
trở lại. Đôi đánh chính về đến đỉnh Nội Bài thì chiếc nghi binh của ta rời khỏi Thanh Sơn. Cả 3 chiếc MiG-21 lần lượt
xuyên mây từ hướng đông xuống hạ cánh.

Đây là trận đánh mà trong suốt quá trình chuẩn bị, theo dõi bám địch và dẫn vào tiếp cận, ta luôn cho là
EB-66, nhưng sau đó phát hiện và bắn rơi mới biết là F-102. Khi tổ chức rút kinh nghiệm sau trận đánh, dẫn đường
trên hiện sóng mới nhận ra, trong quá trình bắt mục tiêu có một số biểu hiện khác thường so với những lần bắt EB-66
trước đây phải hết sức nhạy bén, tỉnh táo trước mọi thủ đoạn của địch, chính là bài học đã được rút ra cho dẫn đường,
nhất là dẫn đường hiện sóng trong dẫn đánh loại máy bay trinh sát-gây nhiễu điện tử.

***

Khi đưa không quân vào đánh phá miền Bắc Việt Nam, Mỹ đã sử dụng nhiều loại phương tiện thông tin,
trinh sát và dẫn bay khác nhau đặt trên các hạm tàu và cả trên mặt đất. Căn cứ radar Pa Thí của Mỹ (tây Sầm Nưa
34km) thuộc tỉnh Hủa Phăn nước Lào là một trong những căn cứ lớn, rất lợi hại trong việc cung cấp thông tin chiến
trường tức thời và trực tiếp dẫn bay, đặc biệt là dẫn các tốp từ Thái Lan, qua Lào, vào miền Bắc như: dẫn tập hợp đội
hình chiến thuật lớn, điều hành các tốp trinh sát, yểm hộ, tiếp nhiên liệu trên không, dẫn các tốp vào tìm cứu phi công,
dẫn các tốp bị phân tán khi quay ra…

Ý định sử dụng An-2 của Trung đoàn không quân 919 đánh căn cứ radar này đã được hình thành từ cuối
năm 1967, công tác chuẩn bị đã được thực hiện rất chu đáo. Căn cứ vào phương án tác chiến đã được Bộ Tư lệnh
thong qua, các tổ bay khẩn trương bước vào huấn luyện dẫn bay đường dài ở độ cao thấp trên địa hình rừng núi; luyện
tập nhận dạng các địa tiêu lạ và nhỏ, công kích mục tiêu trên mặt đất có độ cao cao hơn mực nước biển khoảng
1.600m bằng rocket và đạn cối với đội hình hàng dọc… Những bài học và kinh nghiệm dẫn bay vận chuyển cơ động
chiến đấu thả dù hàng xuống sân bay Điện Biên và tập kích tàu địch từ năm 1966 đều được dẫn đường trên không
cùng với lái chính chắt lọc, nghiên cứu tỉ mỉ.

Từ kết quả đi thực địa trở về, Phó Tham mưu trưởng Trung đoàn không quân 919, Nguyễn Vãn Ba, phi
công bắn rơi C-123, đã làm rõ thêm một số chi tiết: Căn cứ radar Pa Thí nằm trên điểm cao 1.667m, có mặt bằng
tương đối rộng, xung quanh là địa hình hiểm trở bao bọc và có hệ thống công sự che chắn khá vững chắc; ngoài hệ
thống radar, thông tin, còn có 2 tiểu đoàn bộ binh, một số trận địa pháo 105mm, bãi cất hạ cánh cho trực thăng, kho
tàng và nhà ở Phương án đánh địch được kịp thời bổ xung, các số liệu dẫn bay được nhanh chóng hiệu chỉnh theo từng
lần công kích vào từng mục tiêu cụ thể.

Sáng 12 tháng 1 năm 1968, sau khi các nội dung kiểm tra cuối cùng đã được hoàn tất, sở chỉ huy Binh
chủng quyết định sử dụng lực lượng theo đúng kế hoạch đã được chuẩn bị, thời điểm đánh địch vào giữa trưa. 11 giờ
43 phút, 4 chiếc An-2 lần lượt cất cánh. Tổ bay dẫn đầu do lái chính Phan Như Cẩn, chỉ huy tập kích, dẫn đường trên
không Phạm Thanh Tâm và đồng chí Trần Sĩ Tiêu; tổ bay thứ hai do lái chính Trần Hữu Quý phụ trách, dẫn đường
trên không Lê Xuân Kịch và đồng chí Phạm Văn Phán; tổ bay thứ ba do các đồng chí Ngộ (lái chính) phụ trách, Kiểu
(dẫn đường trên không) và Hùng; tổ bay bay sau cùng do lái chính Đinh Công Riểng phụ trách, các đồng chí Hùng
dẫn đường trên không) và Liêm. 4 chiếc An-2 bay nối đuôi nhau theo đội hình hàng dọc với cự ly chiếc cách chiếc
khoảng 500m, không sử dụng đối không, dẫn bay bằng địa tiêu theo đúng đường bay dự tính: Gia Lâm - Hoà Bình -
Mai Châu - Mường Hàm - Mường Út - Pa Thí và tận dụng các khe núi để tránh radar địch phát hiện. Đến khu vực
Sâm Nưa, lái chính Phan Như Cẩn liên lạc với đài chỉ thị mục tiêu của ta ở bắc Pa Thí 15, 16km, trên bình độ khoảng
1.600m. Sau khi quan sát được toàn bộ đội hình An-2 trên đoạn bay cuối cùng đến khu vực mục tiêu, Phó Tham mưu
trưởng Trung đoàn không quân 919, Nguyễn Văn Ba, từ đài chỉ thị mục tiêu, thông báo ngắn gọn tình hình địch tại căn
cứ radar Pa Thí và chỉ thị các mục tiêu cụ thể cho từng tổ bay. Lúc 13 giờ 7 phút, lái chính Phan Như Cẩn chỉ huy toàn
bộ đội hình lần lượt vào công kích. Trong từng tổ bay, dưới sự điều hành của lái chính, từng thành viên tập trung cao
độ thực hiện chính xác từng động tác, phóng toàn bộ 32 quả rocket 57mm và ném 12 quả đạn cối 120mm vào mục
tiêu, rồi thoát ly. Trên đường về tổ bay thứ nhất và thứ hai đã hy sinh do va chạm vào nhau trong khi luồn lách quá
thấp giữa các khe núi hẹp. Còn tổ bay thứ ba và thứ tư trở về hạ cánh an toàn.

Bị đánh bất ngờ, địch không kịp trở tay, toàn bộ các đài radar, thông tin, chỉ huy đều bị phá huỷ, 2 chiếc
trực thăng bị thiêu cháy, gần 200 tên chết và bị thương, cơ sở hạ tầng bị thiệt hại nghiêm trọng. Hệ thống radar ở Pa
Thí phải ngừng hoạt động. Đây là chiến công đầu tiên của Không quân nhân dân Việt nam tiến công đánh địch bằng
đòn tập kích đường không vào mục tiêu trên đất liền tại vùng rừng núi hiểm trở, vẫn do An-2 lập nên. Hơn thế nữa,
mục tiêu đó còn nằm trong lòng địch và ở ngoài biên giới của ta. Với các thiết bị dẫn bay không hiện đại, nhưng trình
độ dẫn bay rất vững vàng, dù phải chịu tổn thất, đội ngũ dẫn đường trên không An-2 như các anh Tâm, Kịch, Kiểu và
Hùng đã đóng góp một phần rất quan trọng vào chiến công đó.***

Mỹ-nguỵ đã hoàn toàn bị bất ngờ trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta trên
toàn thiền Nam trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Ta đã làm chủ được nhiều khu vực và thành phố quan trọng, nhưng
địch chống trả rất quyết liệt, phản công, bao vây, chia cắt các mũi tiến công của ta, hòng giành lại quyền kiểm soát.
Tại chiến trường Thừa Thiên-Huế nhu cầu chi viện cho bộ đội ta trở nên rất cấp bách. Trên quyết định đưa lực lượng
của Trung đoàn không quân 919 vào làm nhiệm vụ, lấy Il-14 làm nòng cốt, có Li-2 và An-2 cùng tham gia. Tất cả các
tổ bay và máy bay đều đã được chuẩn bị trước rất chu đáo, sẵn sàng chi viện hoả lực cũng như vật chất cho chiến
trường Thừa Thiên-Huế. Các phương án tập kích vào một số mục tiêu nguy hiểm của địch và thả dù hang tiếp tế cho
bộ đội ta đều đã được phê chuẩn.

Binh chủng cấp tốc cơ động lực lượng do đồng chí Trần Mạnh phụ trách, vào lập sở chỉ huy tiền phương ở
Xuân Hoà (Lệ Thuỷ, Quảng Bình), trong đó có nhóm sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy? Đào Ngọc Ngư, Trịnh Văn Tuất
và Tạ Quốc Hưng. Tất cả đều sẵn sàng dẫn hỗ trợ và giúp tổ bay xử lý các tình huống khi có lệnh.

Sáng ngày 7 tháng 2 năm 1968 (ngày 10 tháng Giêng năm Mậu Thân) công tác chuẩn bị trực tiếp được tổ
chức triển khai rất khẩn trương: các tổ bay vận tải Il-14 chuyển sân cơ động lực lượng từ sân bay Tường Vân (Trung
Quốc) về Gia Lâm nhận nhiệm vụ. Một khối lượng công việc rất lớn mà dẫn đường phải cùng với một số thành phần
khác hoàn tất trước cuối giờ buổi chiều như; nhận dù hàng và lắp bom, đạn cối, xác định vị trí và tìm cách nhận dạng
bãi Tam Giang (phía tây Huê), đồn Mang Cá (góc đông bắc kinh thành Huế) và mục tiêu phụ là sân bay Tà Cơn (bắc-
tây bắc Hướng Hoá 7km), lựa chọn trục đường bay cơ bản: Gia Lâm-mường Xén (Kỳ Sơn) - Lao Bảo-huế (khi về sẽ
bay ngược lại), tìm các điểm kiểm tra chủ yếu, tính toán các số liệu thả dù hàng và thả bom, đạn cối…

Đêm 7 tháng 2 năm 1968, các tổ bay Il-14 lần lượt cất cánh khỏi Gia Lâm, lấy độ cao và vào trục đường
bay theo đúng dự tính. Ba tổ bay tập kích đồn Mang Cá bay trước, gồm tổ bay thứ nhất: lái chính Nguyễn Văn Bang,
Lê Văn An, dẫn đường trên không Hồ Văn Tiếp, Trần Văn Tụ và Lê Hữu Đắc; tổ bay thứ hai: lái chính Phạm Thanh
Ba, Ngô Văn Luyến, dẫn đường trên không Bùi Đình Vận, Nguyễn Văn Công, Lưu Văn Tuyên và tổ bay thứ ba gồm
các đồng chí: Hoàng Liên (lái chính), Linh, Trường (dẫn đường trên không), Khương và Chuyền. Hai tổ bay thả dù
hàng xuống bãi Tam Giang bay sau; tổ bay thứ nhất gồm các đồng chí: Hoàng Ngọc Trung (lái chính), Sửu, Nguyễn
Văn Kính (dẫn đường trên không), Quý và Sen, tổ bay thứ hai: lái chính Phạm Kế, Nguyễn Văn Mẫn, dẫn đường trên
không Ngô Phượng Châu, Nguyễn Văn Tê và Nguyễn Minh (Đoàn bay 919-45 năm xây dựng và trưởng thành, Sđd,
tr.87). Trên đường bay vào, thời tiết phức tạp, không ổn định và càng gần vùng nam vĩ tuyến 17 trời càng xấu. Mưa và
mù làm cho tầm nhìn rất hạn chế. Với trình độ đêm-phức tạp, dẫn đường trên không trong từng tổ bay đã đưa máy bay
đến đúng Lao Bảo và tiếp tục lấy hướng vào điểm cuối.

Khi tiến sát đến khu vực chiến sự, do thời tiết rất xấu nên các tổ bay tập kích và thả dù hàng đều phải vòng
đi, vòng lại nhiều lần để cố tìm bằng được đồn Mang Cá và bãi Tam Giang, nhưng vẫn không đạt kết quả, đồng thời
còn phải liên tục cơ động tránh hoả lực phòng không của địch bắn lên. Trước tình hình đó, sở chỉ huy tiền phương
Binh chủng quyết định cho tất cả các tổ bay quay về Gia Lâm. Tổ bay tập kích thứ nhất và thứ hai lần lượt lấy hướng
bay ra Lao Bảo, rồi trở về. Tổ bay tập kích thứ ba, do bị trúng mảnh đạn cao xạ của địch, chảy hết nhiên liệu ở một
bên cánh, nên đã quyết định thả hết bom-đạn xuống mục tiêu phụ, trúng sân bay Tà Cơn, rồi mới quay ra. Sau đó, vì
không đủ nhiên liệu, tổ bay buộc phải hạ cánh xuống sân bay Thọ Xuân. Trong lúc hãm đà, đến cuối đường băng, một
càng bị sập xuống hố bom, máy bay bị hỏng, nhưng tổ bay an toàn. Tổ bay thả dù hang thứ nhất, căn cứ vào kết quả
tính toán của dẫn đường trên không Nguyễn Văn Kính, đã quyết định thả dù hàng từ trên mây, rồi quay về. Toàn bộ 15
chiếc dù mang theo 14 tấn hàng rơi xuống khu vực Tam Giang. Đạn dược, thuốc men, lương thực… cũng đã đến được
tay quân ta. Còn tổ bay thả hàng thứ hai đã hy sinh, do giảm xuống độ cao quá thấp để cố tìm bãi Tam Giang và bị
đâm vào núi.

Đêm 12 tháng 2 năm 1968, Trung đoàn không quân 919 tiếp tục đưa 5 tổ bay Il-14 vào thực hiện nhiệm vụ,
đồng thời cho 2 tổ bay An-2 do 2 đồng chí Huân và Đào Hữu Ngoan lái chính trực tại sân bay Gia Lâm, sẵn sang cơ
động vào Quảng Bình để đánh hỗ trợ cho Il-14. Nhiệm vụ tập kích đồn Mang Cá do 3 tổ bay II-14 đã xuất kích đêm 7
tháng 2, tiếp tục thực hiện. Nhiệm vụ thả dù hàng xuống bãi Khe Sanh (đông Lao Bảo 13km) do tổ bay Il-14 đã tham
gia lần trước và thêm tổ bay mới: Lái chính Võ Minh Chung, Nguyễn Văn Nùng, dẫn đường trên không Nguyễn Đình
Hồi, Ma Văn Thường và Phạm Đình Phú thực hiện. Đường bay của Il-14 không thay đổi. Dọc đường bay vào, ta phát
hiện có nhiều tốp địch bay tuần tiễu ở trên cao, còn chúng không hay biết gì ta đang ở phía dưới.

Từ phía bắc Lao Bảo trở vào thời tiết tiếp tục xấu. Sau khi cơ động, lọt vào sát khu vực mục tiêu, các tổ bay
tập kích vẫn không tìm thấy đồn Mang Cá. 2 tổ bay của lái chính Nguyễn Văn Bang và lái chính Phạm Thanh Ba
quyết định giảm thấp độ cao, rồi báo cáo chỉ phát hiện rất nhiều đèn trên biển. Sở chỉ huy quyết định cho phép ném
bom và sau đó bị mất liên lạc hoàn toàn với 2 tổ bay trên. Các tổ bay thả dù hàng cũng không tìm thấy bãi Khe Sanh.
Sở chỉ huy cho lệnh quay ra. Nhưng chỉ có tổ bay tập kích của lái chính Hoàng Liên và tổ bay thả hàng thứ nhất của
lái chính Hoàng Ngọc Trung, sau khi thả hết dù hang từ trên mây xuống khu vực Khe Sanh, về được căn cứ, còn các
tổ bay khác đã anh dũng hy sinh. Lực lượng II- 14 phải chịu tổn thất quá lớn.

Các anh Tiếp, Vận, Trường, Kính, Châu và Hồi, những người dẫn đường trên không II- 14, đã cống hiến
hết mình cho nhiệm vụ được giao trong điều kiện nhu cầu chi viện cho chiến trường vô cùng khẩn trương, vị trí chiến
trường cách rất xa căn cứ xuất phát, phải thực hiện dẫn bay vào ban đêm, gặp thời tiết xấu, lại không có thiết bị radar
quan sát địa hình, đồng thời luôn phải đối phó với hoả lực phòng không của địch… Đây là bài học vô giá cho ngành
dẫn đường.

Mùa xuân năm 1968, chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền Nam bị phá sản, tông thống
L.Johnson buộc phải "xuống thang" đánh phá miền Bắc. Không quân ta vừa tiếp tục đánh địch từ vĩ tuyến 20 trở ra
vừa chuẩn bị các phương án đánh địch ở chiến trường Khu 4: Bảo vệ bằng được tuyến vận tải chiến lược-chi viện cho
miền Nam.

Từng kíp dẫn đường đã kịp thời cơ động theo các sở chỉ huy tiền phương của Binh chủng vào Khu 4 để tìm
hiểu quy luật hoạt động 'của địch và chuẩn bị các phương án dẫn bay chiến đấu. Các yếu tố về địa hình, thời tiết, vị trí
các sân bay chính thức và dự bị, các bãi hạ cất cánh, các đại đội radar dẫn đường, các trận địa cao xạ, tên lửa, các đài
chỉ huy bổ trợ và quan sát mắt… đều được nghiên cứu rất chi tiết. Ngay trong giai đoạn chuẩn bị chiến trường, căn cứ
vào ý định tác chiến mới của người chỉ huy, đồng thời vận dụng triệt để những bài học và kinh nghiệm trong tổ chức
dẫn đường chiến đấu ở phía bắc vĩ tuyến 20, ngành Dẫn đường đã kịp thời đề xuất cách thức tổ chức mạng lưới chỉ
huy-dẫn đường trên chiến trường Khu 4.

Tại các sở chỉ huy X1, X2, X3… (ở Thọ Xuân, Đô Lương, Anh Sơn…) đều bố trí các kíp trực ban dẫn
đường 2 cấp. Tại các đại đội radar dẫn đường (ở Thọ Xuân, nông trường Cờ Đỏ, Diễn Châu…) phục vụ cho sở chỉ huy
cấp nào thì có trực ban dẫn đường cấp đó trên hiện sóng.

Cách thức giao nhận chỉ huy-dẫn đường giữa các sở chỉ huy đối với các chuyến bay liên quan đến nhiệm vụ
đều được tính toán cụ thể. Đội ngữ dẫn đường từ Binh chủng đến các trung đoàn không quân đã có mặt đầy đủ tại các
sở chỉ huy và các đại đội radar dẫn đường từ nam vĩ tuyến 20 trở vào. Tất cả các kíp trực 'ban dẫn đường đều quyết
tâm rất cao: tổ chức dẫn bay chuyển sân cơ động lực lượng bí mật, tham gia dẫn đánh ngay trận đầu và từng bước tiến
sâu vào phía nam Khu 4. Đội ngũ phi công được tổ chức thảo luận kỹ về cách dẫn bay chuyển sân cơ động, nghi binh-
yểm hộ và cách dẫn đánh địch bảo vệ các mục tiêu của ta ở chiến trường Khu 4; nắm chắc những biện pháp nhằm
khắc phục khó khăn về tầm quan sát, phát hiện mục tiêu của radar dẫn đường, tầm phủ sóng của đối không và đặc biệt
là được chuẩn bị rất chu đáo về cách dẫn đường bằng địa tiêu trên chiến trường Khu 4.
Sau khi công tác chuẩn bị chiến trường đã cơ bản hoàn thành, đầu tháng 5 năm 1968 ta bắt đầu thực hiện
dẫn chuyển sân cơ động MiG-21 từ sân bay Nội Bài vào Thọ Xuân, sân bay được chọn làm căn cứ tập kết và xuất kích
chủ yếu cho không quân ta đánh địch ở chiến trường Khu 4. Các phi công: Đặng Ngọc Ngự, Nguyễn Văn Cốc và
Nguyễn Văn Minh, sau khi bí mật hạ cánh xuống Thọ Xuân, đã cùng với các phi công khác bắt tay ngay vào trực
chiến.

Sáng sớm ngày 7 tháng 5 năm 1968, các thủ trưởng Binh chủng Hoàng Ngọc Diều và Trung đoàn không
quân 921 Trần Hanh, Thạch Quang Nhung đều thống nhất nhận định: địch có thể tổ chức vào đánh đường 7 với cường
độ lớn, vì thời tiết đang tốt dần lên. Còn ta sẽ sử dụng lực lượng đúng phương án đã được chuẩn bị. Kíp trực ban dẫn
đường tại X3 dẫn chính: trực ban dẫn đường Binh chủng Đào Ngọc Ngư tại sở chỉ huy (Dẫn đường thông kê các trận
đánh của Không quân, quyển L) và Trung đoàn 921: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng
(Một số trận đánh của Không quân trong chiến tranh chống Mỹ, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân; Hà Nội.2001, tr.26).
Các kíp trực ban dẫn đường tại X1 và X2 dẫn hỗ trợ.

Sau khi nắm chắc các tốp địch đang hoạt động ở phía đông Diễn Châu, bắt đầu đổi hướng vào đất liền, thủ
trưởng Hoàng Ngọc Diêu cho các đôi nghi binh-yểm hộ và đánh chính vào làm nhiệm vụ. Đôi bay MiG-21: Nguyễn
Đang Kính và Nguyễn Văn Lung, sau khi cất cánh từ sân bay Nội Bài, bay qua tuyến giao nhận chỉ huy-đẫn đường, đã
được trực ban dẫn đường Trần Quang Kính tại X1 dẫn tiếp về phía Con Cuông-Anh Sơn, rồi vào khu vực tây Đô
Lương làm nhiệm vụ nghi binh-yểm hộ ở độ cao cao hơn đôi bay đánh chính.

8 giờ 23 phút, thủ trưởng Trần Hanh đồng ý cho đôi bay MiG-21 đánh chính: Đặng Ngọc Ngư - số 1 và
Nguyễn Văn Cốc - số 2 cất cánh từ sân bay Thọ Xuân, giữ độ cao thấp, men theo Đường 15 bay vào Đô Lương đánh
địch bảo vệ nút giao thông quan trọng của ta. Dọc đường bay vào, đôi đánh chính tuy phải tự vòng tránh các đám mây
thấp và mưa rải rác, nhưng đã đến đúng các địa tiêu quy định liên lạc đối không và thay đổi độ cao.

Qua Tân Kỳ số 1 thấy cao xạ phía đông Đô Lương bắn lên, đã báo ngay về sở chỉ huy. X3 cho hướng bay
160 độ, nhưng vướng mây, đôi đánh chính xin tiếp tục giữ hướng 190 độ. X2 cho ta vòng tại tây nam Đô Lương (trên
sông Lam), sau đó X3 cho đi hướng 60 độ và thông báo địch vào từ phía đông. Ta quyết tâm dẫn vào đánh tốp địch
đang bay theo Đường 1 lên phía bắc, góc vào tiếp cận 40 độ, bên trái của mục tiêu, số 1 phát hiện 2 F4 bên phải, phía
dưới, 5km. Lúc này trong khu chiến mây Cu lổn nhổn, tầm nhìn chỗ tốt, chỗ xấu, nên bám địch rất khó khăn. Số. 1 ra
khỏi đám mây Cu, báo cáo không thấy địch, X3 liền cho vòng phải; đã phát hiện 3 F4 khác, nhưng chúng đang vòng
trái ra phía biển và đúng vào chỗ có mù, nên lại bị mất mục tiêu. Số 2, sau khi cơ động tránh mây, trong lúc chưa tìm
thấy số 1 thì phát hiện 1 F4 và xin bám theo, địch vòng lại phản kích. Sau vài vòng cơ động, nó đột ngột cải bằng, lao
thẳng ra hướng đông. Được sự hỗ trợ của X2, phi công Nguyễn Văn Cốc tăng tốc độ rút ngắn cự ly và phóng tên lửa.
Chiếc F4 bốc cháy, rơi ngay xuống biển. Sau khi cho số 1 thoát ly, X1 dẫn tiếp số 2 về Thọ Xuân. Đôi nghi binh-yểm
hộ cũng xuống hạ cánh.

Đây là trận dẫn đánh mở màn thắng lợi của không quân ta ở chiến trường Khu 4, nhằm bảo vệ tuyến vận tải
chiến lược chi viện cho miền Nam. Với nỗ lực rất lớn, tất cả các kíp trực ban dẫn đường và phi công đã thực hiện
đúng nội dung hiệp đồng trong quá trình dẫn, chủ động tìm mục tiêu, tạo điều kiện thuận lợi bắn rơi địch.

Sau trận này ta còn tổ chức đánh tiếp năm trận nữa, nhưng đều không thành công. Có những trận máy bay
ta bị tên lửa phòng không trên hạm tàu của địch bắn, phi công phải nhảy dù và cũng có những trận như ngày 9 và 11
tháng 5 năm 1968, ta chưa kịp bắn thì tốp địch khác đã bắn uy hiếp vào đội hình của ta. Nguyên nhân chủ yếu là ta
không giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ. Chính từ đây ta đã tập trung nghiên cứu hình thành cách đánh và cách dẫn mới
ở chiến trường Khu 4.

Sáng ngày 14 tháng 6 năm 1968, đôi bay MiG-17: Lưu Huy Chao - số 1 và Lê Hải - số 2 chuyển sân từ sân
bay Gia Lâm vào Thọ Xuân lúc 8 giờ 30 phút, sau đó nghe thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn không quân 923
Nguyễn Văn Bảy quán triệt thêm tình hình, nhiệm vụ trong ngày và 9 giờ 30 phút vào trực cấp 2. Ý định sử dụng lực
lượng trong ngày của thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện là cả MiG-17 và MiG-21. Kíp trực ban dẫn
đường Binh chủng: tại sở chỉ huy Lê Viết Diện dẫn chính MiG-17 và Đào Ngọc Ngư dẫn chính MiG-21, còn Trần
Quang Kính và Trịnh Văn Tuất dẫn phụ. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn bổ trợ: Đỗ Cát Lâm tại sở chỉ
huy và Nguyễn Hoàng Hải trên hiện sóng.

Tại X3, từ 14 giờ 24 phút đến 14 giờ 25 phút, phát hiện ở đông cửa Sót 60km có nhiều tốp địch hoạt động,
14 giờ 28 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Phúc Trạch ra lệnh cho MiG-17 vào cấp 1. Tại Thọ Xuân 14 giờ 32
phút, MiG-17 cấp 1 xong và mở máy, 14 giờ 34 phút, cất cánh từng chiếc, sau đó tập hợp đội hình chỉnh tề. Theo đúng
hiệp đồng dẫn đường với X3, X1 cho MiG-17 bay thấp, xuôi theo Đường 15 vào khu chờ khu vực có lợi về chiến
thuật, sau này gọi là khu trực ban trên không) Tân Kỳ để đánh địch bảo vệ đường 7, trên đoạn Đô Lương - Diễn Châu.
14 giờ 42 phút, đôi MiG-17 có mặt tại khu chờ, vừa vòng phải lên hướng bắc vừa từ từ lấy độ cao 1.500m, đồng thời
phát ám hiệu trên đối không cho X3.

Trong lúc đó, X3 tập trung bám sát tốp địch từ phía biển bay vào Diễn Châu, lựa đúng thời cơ (phút thứ
45), cho MiG-17 vòng trái gấp, hướng bay 150 độ, tốc độ 750km/h, độ cao 2.000m và thông báo liên tục vị trí mục
tiêu. Đôi bay MiG-17 được dẫn vào tiếp địch với góc 90 độ. 14 giờ 46 phút, đài chỉ huy bổ trợ thông báo 2 F4 vào Đô
Lương. 14 giờ 47 phút, số 2 phát hiện F4, bên trái, phía trên, 6km. Chỉ sau 2 phút 30 giây không chiến, Lưu Huy Chao
và Lê Hải, mỗi phi công bắn rơi 1 F4, rồi thoát ly ngay về Thọ Xuân. Đến 14 giờ 57 phút, xuất hiện một tốp địch ở
đông Lạch Quèn 60km, ta lập tức cho một đôi MiG-21 cất cánh, vào chờ tại khu vực bắc Nghĩa Đàn, nhưng chúng
không vào. Trận này ta giữ được bí mật, dẫn đánh nhanh, làm địch hoàn toàn bị bất ngờ và đạt hiệu quả chiến đấu rất
cao. Các kíp trực ban dẫn đường đã hoàn thành nhiệm vụ trong ngày được giao.

Chiều ngày 16 tháng 6 năm 1968, đôi bay MiG-21: Đinh Tôn - số 1 và Nguyễn Tiến Sâm - số 2 thực hiện
cơ động chuyển sân, cất cánh từ sân bay Nội Bài lúc 14 giờ 30 phút và hạ cánh tại Thọ Xuân lúc 14 giờ 50 phút, sau
đó vào trực ngay. Mọi công việc chuẩn bị cho trận đánh đều đã được tiến hành rất chu đáo từ hôm trước ở Nội Bài. Tại
X3, trực ban dẫn đường Binh chủng Đào Ngọc Ngư dẫn chính, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn bổ trợ: Tạ
Quốc Hưng tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng. Các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng và trung đoàn tập
trung bám sát tình hình trên không ở khu vực Vinh và yêu cầu dẫn đường theo dõi chặt chẽ các tốp địch đang hoạt
động ở phía đông Vinh từ 60 đến 90km. Gần 16 giờ đôi bay Tôn-sâm được lệnh vào cấp 1, mở máy và cất cánh luôn.
Dẫn đường tại X3 theo dõi và "dẫn mò", vì theo kế hoạch ta sẽ bay cực thấp vào khu chờ tây nam Quỳ Hợp 15km, rồi
vừa vòng tại chỗ vừa nâng dần độ cao để cho radar dẫn đường bắt được.

16 giờ 10 phút, trên bàn tiêu đồ bắt đầu theo dõi được ta. Địch từ phía hòn Mát bay lên Diễn Châu và vào
đường 7; X3 dẫn MiG-21 vòng phải, rồi đổi hướng xuống Yên Thành. Ta bay chưa được 2 phút thì địch đột ngột cơ
động hình chữ "S" xuống phía nam đường 7, MiG-21 vòng phải gấp đi Anh Sơn, tăng ngay tốc độ và lên độ cao. Vài
phút sau, thấy cao xạ ở phía Đô Lương bắn lên, số 2 đã nhanh chóng báo cáo. Sở chỉ huy phán đoán địch sẽ từ phía
nam lên đánh các mục tiêu ở khu vực Đô Lương, nên khi đôi MiG-21 qua đường 7, ta buộc phải cho vòng trái xuống
Thanh Chương để vào tiếp địch đối đầu ở cạnh ngoài, nhưng vẫn có gián cách, đồng thời thông báo ngay vị trí mục
tiêu. Số 1 phát hiện F4 bên trái, 10km, chúng đang vòng trái vào Đô Lương và quyết định vào công kích. Từ độ cao
cao hơn địch và lựa đúng thời cơ, bằng các động tác lật xuống và cơ động sang trái, rồi sang phải rất thành thạo, số 1
bám chắc và đuổi kịp 1 chiếc F4. Thấy số 2 yểm hộ tốt ở phía sau, số 1 chờ đến đúng cự ly hiệu quả và ngắm chính
xác mới phóng tên lửa, rồi thoát ly bên trái. Chiếc F4 kéo theo một vệt dài khói đen và lửa. Còn số 2, do cố theo dõi
mục tiêu cho đến khi thấy phi công địch nhảy dù mới thoát ly, nên đã để mất số 1. Trong lúc đó sở chỉ huy vẫn kiểm
soát chặt chẽ tình hình trên không, kịp thời thông báo địch ở phía sau cho số 2 và dẫn về hạ cánh an toàn tại Thọ
Xuân.

Kết quả trận đánh: phi công Đinh Tôn bắn rơi tại chỗ 1 F4, đội hình địch tan vỡ, quẳng bom quay ra. Cách
xử lý cho vào tiếp địch đối đầu ở cạnh ngoài và có gián cách của dẫn đường, tuy chỉ là giải pháp tình thế buộc phải áp
dụng, nhưng đã giúp phi công phát hiện được mục tiêu; còn phi công vừa quyết đoán vừa có kỹ thuật lái rất thuần thục
đã đưa được máy bay vào vị trí công kích có lợi. Sự kết hợp đó là một trong những nhân tố rất quan trọng đế lựa chọn
cách dẫn đánh địch tốt hơn ở chiến trường Khu 4.

Sau hơn một tháng cùng với các lực lượng cao xạ và tên lửa, không quân ta đã tham gia đánh thắng một số
trận, trực tiếp góp phần làm giảm bớt lượng bom đạn đánh trúng vào các nút giao thông quan trọng của ta. Một số biện
pháp bảo đảm dẫn đường đã được đưa ra, bước đầu có tác dụng tốt. Các đường bay xuất kích và thoát ly, do đã được
tận dụng khá triệt để các đỉnh núi cao: 1563 ở tây- tây bắc Thường Xuân 12km, 1001 ở tây Như Xuân 36km, 1085 ở
tây bắc Nghĩa Đàn 27km, 1570 ở tây-tây bắc Quỳ Hợp 37km…; các địa tiêu điểm: Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn,
Tân Kỳ, Anh Sơn…, riêng các điểm địch hay bay qua như: Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn, Hương Sơn… còn
được đặt mật danh là Đ1, Đ2, Đ3, Đ4… và các địa tiêu tuyến: Đường 15, đường 7, đường 8, sông Hiếu, sông Con, 1
sông Lam, sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu…, nên phi công dễ dẫn bay bằng mắt ở độ cao thấp, dẫn đường dễ "dẫn mò" qua
các ám hiệu trên đối không và hạn chế khá nhiều khả năng theo dõi ta của hệ thống radar trên các tàu địch. Vị trí một
số khu chờ đã được lựa chọn khá chính xác, giữ được yếu tố bí mật, tạo điều kiện dẫn tiếp địch bất ngờ.

Nhưng yêu cầu bảo vệ các nút giao thong trọng điểm và tuyến đường ống xăng dầu X42 đầu tiên (dài
42km) từ Nam Thanh (Nam Đàn) đến Nga Lộc (Hà Tĩnh) của ta ở chiến trường Khu4 ngày càng cao và rất khẩn
trương, nhất là trong các đợt vận tải đột kích phải bảo đảm cho các đoàn xe của ta vượt cửa khẩu thật an toàn. Địch
những thủ đoạn rất xảo quyệt như: bất ngờ đánh thẳng vào mục tiêu của ta hoặc chờ sẵn trên biển, rồi đánh nhanh, rút
nhanh; tăng tỉ lệ tiêm kích yểm hộ cường kích lên rất cao, không dùng tốp lớn mà dùng nhiều tốp nhỏ hỗn hợp; theo
dõi ta về hạ cánh rồi mới vào đánh… Ta có thể đánh địch bằng nhiều phương án khác nhau, sử dụng cả MiG-17 và
MiG-21, nhưng để dẫn bắn rơi hoặc cản phá hay thu hút đánh lạc hướng hoạt động của chúng và bảo đảm an toàn cho
ta trong lúc này là một thách thức, đòi hỏi các kíp trực ban dẫn đường phải tiếp tục nỗ lực vượt qua.

Trong thời gian từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7 năm 1968, với cách thức tổ chức dẫn đường ở X1, X2 và
X3 vẫn được thực hiện như khi mới bắt đầu vào Khu 4, ta đã dẫn đánh trên 10 trận, cho cả MiG-17 và MiG-21, cản
phá nhiều mũi cường kích của địch vào đánh các mục tiêu của ta ở các khu vực Đô Lương, Nam Đàn, Hương Sơn,
Đức Thọ…, MiG-17 bắn rơi 1 F-8, nhưng 2 phi công MiG-21 phải nhảy dù và 1 phi công MiG-17 hy sinh. Có trận phi
công không giữ tốt vị trí yểm hộ cho nhau hoặc còn để mất đội, có trận radar hỏng không khắc phục được, đối không
tốt thì lại bị địch gây nhiễu nhưng điều trăn trở nhất vẫn là chưa xác định được một cách dẫn thật thích hợp ở chiến
trường Khu 4.

Cần phải khắc phục đồng bộ những trở ngại cả về khách quan và chủ quan. Ta chỉ có mỗi sân bay Thọ
Xuân để tập kết lực lượng và xuất kích đánh địch, nên đường bay đi và bay về hầu như nằm trên một trục; khu vực Đô
Lương, nơi có nhiều mục tiêu cần được bảo vệ, cách sân bay Thọ Xuân khoảng 115km, nhưng cách bờ biển chưa đầy
35km, còn Đức Thọ cách Thọ Xuân 180km (qua Anh Sơn) và chỉ cách bờ biển hơn 25km; các phương tiện thông tin
liên lạc, radar, đối không của ta, về số lượng chỉ có hạn và về chất lượng thường tốt không đồng bộ… Tại X3 và X2 ta
có nhiều điều kiện để nắm địch cụ thể hơn X1, nhưng máy bay ta lại ở ngoài X1, nên khi X3 quyết định đánh, còn
phải dự tính cả thời gian tập hợp đội hình 2 chiếc (do nhiều khi phải cất cánh từng chiếc một) và thời gian truyền lệnh
từ X3 đến X1. Địch có nhiều điều kiện thuận lợi kiểm soát tình hình trên không, tổ chức hoạt động ở độ cao thấp và
đánh nhanh, rút nhanh, có hoả lực phòng không trên các hạm tàu sẵn sàng bắn ta và không loại trừ khả năng chúng tổ
chức dẫn đối kháng (dẫn tiêm kích của chúng đánh lại các máy bay tiêm kích của ta từ các đài radar trên các hạm tàu).

Trong hầu hết các trận cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 1968, dẫn đường trên bàn tiêu đồ đều đã dẫn phi
công phát hiện được mục tiêu, chỉ có một trận do đài chỉ huy bổ trợ. Có tới năm trận gặp F4 và hai trận gặp F-8 đều
làm nhiệm vụ tiêm kích. Một trận do phi công nhận nhầm địa tiêu, nên đánh hụt A4. Có sáu trận phải dẫn vào thế đối
đầu. Ta có nhiều đài chỉ huy bổ trợ, nhưng chủ yếu chỉ thông báo tình hình địch cho phi công qua đối không, chưa kịp
thời báo cáo về sở chỉ huy.

Sau khi tổ chức rút kinh nghiệm, dẫn đường đã khẳng định một số vấn đề mấu chốt về cách dẫn: Phải chấp
nhận dẫn vào tiếp địch đối đầu, cố gắng tạo đủ gián cách cho MiG-17 và MiG-21 để phi công có điều kiện cơ động
vào vị trí có lợi Phải luôn đề phòng gặp tiêm kích khi dẫn đánh bất kỳ một tốp nào. Phải tận dụng mọi nguồn tin tức để
dẫn đánh có công kích, có yểm hộ, đồng thời xử lý nhanh khi phi công bị mất đội và bị địch bám.

Ngày 29 tháng 7 năm 1968, Binh chủng tiếp tục tổ chức đánh địch. Ta bố trí đài chỉ huy bổ trợ ở núi (rú)
Trọc do đồng chí Lâm Văn Lích phụ trách, cùng đi có trợ lý dẫn đường Trung đoàn 923 Lê Viết Diện và một số thành
phần khác. C-41 ở Diễn Châu và C-15 ở nông trường Cờ Đỏ cũng đã được củng cố lại và bảo đảm kỹ thuật tốt tương
đối đồng bộ (đài P-15 và 12 của C-15 chưa có máy hỏi). Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn chính: Đỗ Cát
Lâm dẫn tại sở chỉ huy, Nguyễn Hoàng Hải trên hiên song tại C-41 và kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng đảm nhiệm
dẫn bổ trợ: tại sở chỉ huy Đào Ngọc Ngư dẫn MiG-17 và Trịnh Văn Tuất dẫn MiG-21.

Từ 9 giờ, các thủ trưởng trực chỉ huy: Đào Đình Luyện, Trần Mạnh, Nguyễn Phúc Trạch, và Nguyễn Ngọc
Phiếu đã tập trung theo dõi các hoạt động của địch ở phía đông Vinh và chỉ đạo bám sát các tốp có khả năng vào đánh
đường 7, đặc biệt chú ý các tốp tiêm kích. 9 giờ 50 phút, biên đội MiG-17 đánh chính: Lưu Huy Chao - số 1, Hoàng
ích - số 2, Lê Hải - số 3, Lê Sĩ Diệp - số 4 được lệnh vào cấp 1 và 10 giờ 16 phút, cất cánh. Sau khi ổn định đội hình,
số 1 tự dẫn biên đội bay vào theo đúng hiệp đồng. Qua Nghĩa Đàn, X3 trực tiếp dẫn biên đội đánh chính và đài chỉ
huy bổ trợ ở rú Trọc theo dõi qua ám hiệu trên đối không. 10 giờ 20 phút, đôi bay MiG-21 yểm hộ: Phạm Thanh Ngân
và Nguyễn Ngọc Thiên cất cánh, bay theo kế hoạch, không phát đối không và do X1 trực tiếp dẫn. 10 giờ 26 phút,
MiG-17 vào đúng khu vực quy định, nhưng địch vẫn vòng ở ngoài biển, buộc ta phải chờ tại đông Tân Kỳ 15km. Từ
10 giờ 30 đến 10 giờ 34 phút, có 2 tốp địch ở đông cửa Hội 35km và đông cửa Vạn 25km bắt đầu đổi hướng, bay vào
cửa Vạn, Yên Thành. 10 giờ 34 phút, trên nhắc đài chỉ huy bổ trợ chú ý quan sát phía đông. 10 giờ 35 phút, đài chỉ
huy bổ trợ cho MiG-17 lên độ cao 2.000m, thông báo vị trí mục tiêu và dẫn vào tiếp địch. 10 giờ 36 phút, với góc vào
140 độ, số 1 phát hiện F-8 ở cự ly 4km. 4 MiG-17 không chiến với 8 F- 8. Lưu Huy Chao và Lê Hải, mỗi phi công bắn
rơi 1 F-8, nhưng số 4 phải nhảy dù và không ai bám được ai. 10 giờ 38 phút, nhiều máy đối không của ta trong khu
vực chiến đấu bắt đầu bị nhiễu. 10 giờ 41 phút, đài chỉ huy bổ trợ cho MiG-17 thoát ly. 10 giờ 42 phút, X1 dẫn MiG-
21 có mặt đúng lúc tại khu chiến và yểm hộ cho MiG-17 về Thọ Xuân.
Tuy có tổn thất, nhưng trận đánh đã cơ bản thành công. dẫn đường tại sở chỉ huy X3 đã kịp thời thông báo
chính xác hướng địch vào cho đài chỉ huy bổ trợ. Đài chỉ huy bổ trợ, do đặt đúng vị trí và có sự hỗ trợ của sở chỉ huy,
nên đã chủ động chỉ huy-dẫn đường toàn bộ trận không chiến. Song, cả sở chỉ huy và đài huy bổ trợ đều chưa nắm hết
địch, đồng thời các số trong biên đội bám nhau không chặt, nên chưa hỗ trợ kịp thời cho số 4.

Ngày 1 tháng 8 năm 1968, ta lại đưa MiG-21 với đội hình chiến đấu "2+ 1” vào trận, Trung đoàn 921 quyết
định bố trí: Nguyễn Đăng Kính - số 1, Phạm Văn Mạo - số 2 và Nguyễn Hồng Nhị - số 3. Nhiệm vụ của các số trong
đội hình, cơ bản giống như trận ngày 10 tháng 7 năm 1968: số 1 và 2 là đôi đánh chính, số 3 phải yểm hộ cho cả số 1
và 2. Công tác chuẩn bị trước cho trận này được tiến hành ở Nội Bài và chiều 31 tháng 7 năm 1968, tốp MiG-21
chuyển sân cơ động vào Thọ Xuân. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Tạ Quốc Hưng dẫn tại sở chỉ
huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng, trực Ban dẫn đường Binh chủng Đào Ngọc Ngư dẫn bổ trợ tại sở chỉ huy và trợ lý
dẫn đường Trung đoàn 923 Lê Viết Diện tại đài chỉ huy bổ trợ ở rú Trọc.

Đến trưa, thời tiết tuy vẫn còn phức tạp, nhưng đáy mây đã nâng cao dần lên. Các thủ trưởng trực chỉ huy
Đào Đình Luyện, Trần Mạnh (Bản can trận đánh) yêu cầu dẫn đường bám sát các tốp địch vào hoạt động từ đông Hà
Tĩnh đến đông Diễn Châu và nhất trí cho MiG-21 xuất kích theo phương án đã được chuẩn bị. 12 giờ 37 phút, tốp
MiG-21 cất cánh, X1 cho vào đường bay theo kế hoạch và đi dưới mây. 12 giờ 42 phút, ta đến bắc Nghĩa Đàn 10km,
X1 cho lên trên mây. Sau khi bắt tốt ta-địch, X3 cho MiG-21 tiếp tục giữ hướng bay 210 độ, lên độ cao 4.000m. 12 giờ
43 phút 30 giây, X3 thông báo: bên trái, 50 độ, 30km (phía đông Đô Lương 15km), độ cao 3.000 đến 3.500m có địch.
12 giờ 44 phút 15 giây, X3 cho hướng bay 160 độ. 12 giờ 46 phút, tốp MiG-21 bay đến ngang Đô Lương, X3 cho
vòng trái để đánh tốp địch từ phía đông, bay dọc theo Nam đường 7 vào Đô Lương. 30 giây sau, số 1 và 2 phát hiện: 2
F4, đối đầu, 13km, chúng đang vòng phải lên phía bắc đường 7 và xuống dưới mây. Ta vòng trái bám theo. Đến độ cao
2.000m, địch cải bằng, số 3 báo cáo, F4 tách tốp vòng lại đối đầu Số 1 vòng phải gấp bám theo 1 chiếc, nhưng F4 vào
mây. Số 2 không theo kịp số 1 và báo cáo mất đội. Số 1 ra lệnh cho số 2 thoát ly về Xl, hướng bay 330 độ và tiếp tục
vòng phải lên trên mây. Ngay sau đó, số 3 báo cáo phát hiện 2 F-8. X3 vừa dẫn số 2 và số 1 thoát ly vừa theo dõi số 3
đánh F-8. Thủ trưởng Trần Mạnh nhắc: bám tốt thì công kích. Một lúc sau, số 3 báo cáo: máy bay bị thương và X3
không liên lạc được nữa.

Phi công Nguyễn Hồng Nhị, sau khi cơ động chuyển thế chiến thuật từ bất lợi sang có lợi, đã bắn rơi 1 F-8
và tránh được pháo địch. Nhưng do máy bay bị hỏng tăng lực từ khi cất cánh và khi gặp tiêm kích địch thì số 1 và 2 đã
thoát ly nên số 3 bị trúng tên lửa của địch và nhảy dù an toàn. Trong trận này, những thiếu sót, như dẫn đường chưa
nắm hết địch trong khu chiến và phi công để mất đội vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Ngày 17 tháng 8 năm 1968, Bộ Tư lệnh Binh chủng sử dụng cả MiG-17 và MiG-21 đánh theo ý định tác
chiến hiệp đồng giữa không quân, tên lửa phòng không và pháo cao xạ. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng dẫn
chính: Nguyễn Văn Chuyên và Đào Ngọc Ngư tại sở chỉ huy, Nguyễn Quang Sáng trên hiện sóng.

Buổi sáng, địch tổ chức đánh tiếp đợt thứ hai. Ta dẫn biên đội MiG-17 đánh chính: Cao Thanh Tịnh, Đinh
Trọng Lực, Nguyễn Văn Thọ và Lương Quốc Bảo vào khu vực tây Tân Kỳ và đôi bay MiG-21 nghi binh-yểm hộ:
Đinh Tôn và Nguyễn Văn Minh vào khu vực tây-tây bắc Con Cuông 20km, nhưng địch không lên Đô Lương-Yên
Thành (khu vực đánh hiệp đồng) mà chỉ hoạt động ở Nam Đàn-Đức Thọ, nên sau khi đã bay chờ một vài vòng trong
khu vực, MiG-17 và MiG-21 đều quay về Thọ Xuân vì bay chiến đấu ở Khu 4 trung bình mỗi chuyến mất 35 phút và
dài nhất tới 46 phút.
Đến chiều, thủ trưởng trực chỉ huy Bộ Tư lệnh Nguyễn Văn Tiên nhận định: địch còn tiếp tục hoạt động và
khả năng sẽ vào đúng phương án mà ta đã dự kiến. 15 giờ 56 phút, X1 cho đôi bay MiG-21: Đinh Tôn - số 1 và
Nguyễn Văn Minh - số 2 cất cánh. 16 giờ 02 phút, sau khi liên lạc tốt đối không với MiG-21 trên R5, X3 dẫn thẳng
xuống Con Cuông và cho tăng tốc độ lên 950km/h để đánh tốp trinh sát vào Nam Đàn-Thanh Chương. Khi ta đến Con
Cuông thì địch quay ra, thủ trưởng trực chỉ huy tại X3 Trần Mạnh đã cho ngay MiG-21 vòng trái lên Quỳ Hợp và
giảm tốc độ để lựa thời cơ đánh các tốp khác. 16 giờ 08 phút, MiG-21 đang ở ngang quỳ Hợp thì X3 lập tức cho vòng
phải, hướng bay 180 độ, sau đó cho lên độ cao 5.000m và tăng tốc độ 950km/h để đánh tốp địch từ cửa Hội vào Thanh
Chương.

MiG-21 qua đường 7, X3 cho vòng trái đi Thanh Chương, rồi vòng trái tiếp lên Đô Lương và thông báo:
địch bên phải 100 độ, 15km, độ cao 4.000m. Ngay sau đó, dẫn đường trên hiện sóng tại C-41 bắt ta-địch tốt, đã dẫn
tiếp MiG-21 đuổi theo và thông báo: địch phía trước 7km, nhưng rồi đối không bị nhiễu, không thấy phi công trả lời.
Còn ở X3, dẫn đường tại sở chỉ huy thấy ta-địch rất gần nhau và nghe được tiếng chỉ huy của đài chỉ huy bổ trợ (do có
2 máy đối không, X3 dùng R5 và đài chỉ huy bổ trợ dùng R6), nên cho là phi công đã phát hiện và ra khẩu lệnh (phát
trên R5): dùng tốc độ lớn, đánh nhanh, thoát ly nhanh. Không thấy phi công trả lời, dẫn đường nhắc lại liên tiếp 3 lần
nữa. Số 2 không thấy số 1 trả lời, liền tự chuyển đổi không sang R6. 16 giờ 19 phút, X3 cho thoát ly theo hướng bay
330 độ và thấy đài chỉ huy bổ trợ hô cho số 2 cơ động gấp, lập tức truyền thêm 2 khẩu lệnh cơ động. Sau khi cơ động
thoát khỏi địch đeo bám, phi công Nguyễn Vãn Minh phát hiện F4, 7km, đã nhanh chóng đuổi kịp và bắn rơi tại chỗ 1
chiếc. Đến 16 giờ 22 phút, X3 liên lạc tốt với cả hai số, cho thoát ly và chuyển X1 dẫn về.

Nhiệm vụ dẫn đánh đúng ý định tác chiến hiệp đồng của trên đã được hoàn thành, ta bắn rơi địch và cản
phá một số tốp cường kích. Dẫn đường tại X3 đã tận dụng được tin tức từ đài chỉ huy bổ trợ (qua đối không) để nắm
thêm tình hình trên không và nhanh chóng truyền lệnh cho phi công, nhưng nghe trên R6 lại phát trên R5. Còn dẫn
đường trên hiện sóng, khi bị nhiễu đối không, không kịp thời xử lý. Số 1 và số 2 tự chuyển đối không sang R6, nhưng
đều không báo cáo sở chỉ huy. Những thiếu sót mới lại nảy sinh.

Từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 10 năm 1968, địch tổ chức đánh phá ác liệt các khu vực Đô Lương, Đức
Thọ và có lần còn vào đến Anh Sơn. Sáng 25 tháng 8 năm 1968, kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng: tại sở chỉ huy
Nguyễn Văn Chuyên dẫn MiG-21, Đào Ngọc Ngư phụ trách MiG-17, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng và kíp trực ban
dẫn 1 đường Trung đoàn 921: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng đã thực hiện phối hợp cùng
nhau dẫn đôi MiG-17: Cao Thanh Tịnh và Cao Sơn Khảo bay nghi binh tại tây Thanh Chương, đôi MiG-21: Phạm
Thanh Ngân - số 1 và Nguyễn Ngọc Thiên - số 2 vào đánh cường kích ở ngã ba Đồng Lộc và đôi MiG-21: Nguyễn
Văn Cốc và Phạm Thành Nam lên yểm hộ cho cả hai đôi Ngân- Thiên và Tịnh-Khảo khi rút về Thọ Xuân. Kết quả: Ta
không dẫn được đôi Ngân-Thiên vào đánh cường kích mà gặp phải tiêm kích địch. Phi công đã tỉnh táo cơ động tránh
được nhiều tên lửa của địch và phóng trả, nhưng không kết quả. Số 2, sau khi vào công kích lần thứ nhất, đã để mất
mục tiêu và không bám được số 1. Còn đôi Tịnh-Khảo do vào sai khu vực quy định (vào nhầm tây Đô Lương), nên
không thực hiện nghi binh đúng kế hoạch.

Sáng ngày 26 tháng 10 năm 1968, thời tiết trong khu vực tuy giản đơn, nhưng có mù ở độ cao thấp, địch có
nhiều biểu hiện sẽ tổ chức đánh lớn, ta quyết tâm xuất kích bảo vệ các mục tiêu được giao. Các kíp trực dẫn đường,
Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy, Trung đoàn 921: Trần Đức Tụ tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng và Trịnh
Văn Tuất trên hiện sóng, Trung đoàn 923: Đỗ Cát Lâm tại sở chỉ huy, thực hiện dẫn phối hợp. Ta tập trung theo dõi
các tốp địch từ hướng biển, qua Diễn Châu vào đánh Thanh Chương và Nam Đàn. Thủ trưởng trực chỉ huy Bộ Tư lệnh
Nguyễn Văn Tiên quyết định sử dụng cả MiG-17 và MiG-21. 8 giờ 17 phút, X1 cho đôi bay MiG-17: Nguyễn Quang
Sinh và Bùi Đình Đoàn cất cánh và 2 phút sau, cho đôi bay MiG-21: Nguyễn Đăng Kính - số 1 và Vũ Xuân Thiều - số
2 lên tiếp. Cả hai đôi đều bay theo Đường 15 ở độ cao thấp. Đến Tân Kỳ, theo lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy tại X3
Trần Mạnh, MiG-17 và MiG-21 đều lần lượt làm vòng chờ ở Bắc đường 7. 8 giờ 27 phút, X3 cho MiG-17 vòng gấp
180 độ, hướng bay 150 độ, lên độ cao 2.000m để đánh địch ở độ cao thấp tại khu vực phía nam Yên Thành. Khi bay
qua đường 7, được đài chỉ huy bổ trợ thông báo địch đã bay xuống Vinh, đôi MiG-17 lập tức vòng trở lại. Sau đó địch
không vào đúng dự kiến, X3 cho ngay MiG-17 về Thọ Xuân. 8 giờ 28 phút, X3 cho MiG-21 cũng vòng trái 180 độ,
nhưng hướng bay 160 độ, lên 3.000m để đánh địch ở độ cao trung bình tại Nam Đàn. 8 giờ 30 phút, X3 thông báo vị
trí mục tiêu và ngay sau đó số 1 phát hiện F4 và A-6 đối đầu, 10km. Đột nhiên 2 chiếc F4 vòng phải gấp 180 độ có lẽ
chúng muốn bảo vệ tốp A-6 ở phía dưới. Đôi MiG-21 cơ động bám theo, 2 F4 tách tốp. Thấy số 1 bám chiếc bay
thẳng, số 2 liền bám chiếc vòng phải, nhưng không kịp. Phi công Nguyễn Đăng Kính đuổi theo chiếc bay thẳng, nhanh
chóng rút ngắn cự ly, lựa đúng thời cơ xạ kích và bắn rơi tại chỗ 1 F4. X3 cho thoát ly bên phải, hướng bay 360 độ. Số
1 lợi dụng tốc độ lớn, vừa đổi hướng vừa vọt lên và báo cáo độ cao 8.000m. Thủ trưởng Trần Mạnh nhắc dẫn đường:
đề phòng tên lửa phòng không trên hạm của địch. Dẫn đường liền cho ngay xuống 1.000- 1.500m. Khi hai đôi đánh
chính về qua Nghĩa Đàn, X1 dẫn tiếp đôi MiG-17: Hoàng Thanh Xuân và Nguyễn Phú Ninh lên yểm hộ cho hai đôi
Sinh-Đoàn và Kính-Thiều.

Tại Thọ Xuân, do trời mù, phi công không thấy sân bay, còn các đài K1 và K2 thì đang trục trặc (Một số
trận đánh của không quân trong chiến tranh chống Mỹ tập 2, Nxb Quân đội nhân dân; Hà Nội, 2001, tr.192), dẫn
đường đã kịp thời xử lý và dẫn được MiG-17, MiG-21 xuống hạ cánh an toàn.

Ngày 1 tháng 11 năm 1968, tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với
miền Bắc Việt Nam, chấp nhận họp hội nghị bốn bên ở Paris về Việt Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của
đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã hoàn toàn thất bại. Nhưng trong 3 năm tiếp sau đó: 1969, 1970 và 1971 đế quốc Mỹ
không cam chịu thất bại, hành động chiến tranh đối với miền Bắc không hề chấm dứt. Không quân ta tiếp tục quán
triệt tinh thần chiến trường Quân khu 4 là tiền tuyến của Binh chủng và quyết tâm "vươn sâu, ở lâu, trụ vững" (Tài
liệu tổng kết trận đánh, số 157/TM, ngày 22 tháng 3 năm 1973, tr.1).

Ngay trong năm 1969, không quân ta đã khẩn trương sửa chữa các sân bay ở chiến trường Khu 4 để các
loại máy bay và trực thăng của ta đều có thể hoạt động được như: từ tháng 2 năm 1969, MiG-17 và MiG-21 trực ngày
ở Vinh và Anh Sơn, còn từ tháng 4, MiG-21 trực đêm tại Anh Sơn; đường băng Đồng Hới kéo dài lên 2.000m và làm
thêm một số sân bay bí mật khác; củng cố lại sở chỉ huy tiền phương của Binh chủng ở Ba Đồn, tích cực chuẩn bị
những phương án tác chiến mới, đồng thời tiếp tục duy trì một phần lực lượng của mình để sẵn sàng tổ chức đánh
địch. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy vừa luân phiên cơ động vào trực ban tại các vỉ trí thuộc X2, X3 vừa chuẩn bị từng
bước tiến sâu vào phía nam Khu 4.

Trong thời gian đầu, do công tác tổ chức thực hiện chuyển sân cơ động lực lượng trực chiến không chặt
chẽ, chưa lường hết các thủ đoạn hoạt động của địch nên ta đã phải chịu tổn thất: Ngày 9 tháng 2 năm 1969, đôi bay
MiG-21 trên đường từ Nội Bài vào Vinh đã bất ngờ gặp máy bay tiêm kích địch, ta bị động đối phó, 1 chiếc phải quay
lại Thọ Xuân hạ cánh, còn 1 chiếc hết dầu, phi công phải nhảy dù. Ngày 22 tháng 4 năm 1969, đôi bay MiG-21, sau
khi hạ cánh an toàn xuống sân bay Anh Sơn đã bị địch phát hiện và đánh hỏng cả 2 chiếc. Công tác bảo đảm dẫn
đường cho chuyển sân phải củng cố lại.
Trong thời gian nửa cuối năm 1969, do các trung đoàn không quân đang tập trung tranh thủ cung cố tổ chức
và huấn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, nên ta chỉ thực hiện một số trận dẫn đánh không người lái. Một nhiệm vụ
rất quan trọng đối với ngành Dẫn đường lúc này là căn cứ vào những phương án tác chiến mới của Binh chủng, đề
xuất và xây dựng các phương án dẫn bay đánh trinh sát ở khu vực sông Lam và Đường 12, đánh hiệp đồng giữa không
quân và cao xạ, tên lửa ở khu vực Tân Ấp (đông nam Hương Khê 27km), đánh B-52 trên Đường 12, 20 và trên đường
hành lang…

Chiều 28 tháng 1 năm 1970, sau khi bị cao xạ của trung đoàn 230 thuộc Sư đoàn phòng không 367 bắn rơi
(Lịch sử Bộ tham mưu Phòng không - Không quân 1963-2003, Sđd, tr. 168), địch cho nhiều tốp vào hoạt động từ phía
nam đèo Ngang lên hoạt động ở cả hai phía tây và đông đường biên giới Việt Lào: đoạn từ đèo Keo Nưa (đường đến
đèo Mụ Giạ để tìm cứu giặc lái. Tại X3, thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Trần Mạnh yêu cầu X2 triển khai ngay
lực lượng theo phương án đánh hiệp đồng đã được chuẩn bị. Tại X3, trực ban dẫn đường binh chủng Lê Thành Chơn
và trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 Tạ Quốc Hưng tại Sở chỉ huy, Hoàng Kế Thiện trên hiện sóng tại C-41 đều đã
sẵn sàng.

Từ 14 giờ đến 14 giờ 12 phút, các C-45 ở Nghi Lộc và C-41 ở Cẩm Xuyên lần lượt mở máy, các tính báo
gần nhanh chóng được đưa về Sở chỉ huy. 14 giờ 20 phút, ở phía tây đèo Mụ Giạ 30km có 1 tốp 1 chiếc của địch hoạt
động, độ cao 3.000m. 14 giờ 24 phút, thủ trưởng Trần Mạnh lệnh cho đôi bay MiG-21: Vũ Ngọc Đỉnh - số 1 và Phạm
Đình Tuân - số 2, đang trực chiến tại sân bay Vinh, vào cấp 1. 14 giờ 28 phút, xuất hiện thêm 1 tốp 2 chiếc của địch,
độ cao 6.000m từ nam-đông nam đèo Mụ Giạ 45km bay dọc biên giới Việt Lào lên phía bắc Đường 12 và 1 tốp 4
chiếc, độ cao 2.500m từ tây-tây bắc đèo Mụ Giạ 45km lên hoạt động tại khu vực tây nam Hương Khê 40km.

14 giờ 31 phút, đôi MiG-21 được lệnh cất cánh và sau đó theo yêu cầu của trực chỉ huy, dẫn đường tại X3
cho vòng vào khu vực tây Bến Thuỷ chờ để tiếp tục làm rõ thêm ý đồ hoạt động của địch. 14 giờ 35 phút, dẫn đường
hiện sóng Hoàng Kế Thiện từ C- 41, sau khi phát hiện có 1 tốp địch vòng liên tục tại khu vực cầu Khe Ve (ngã ba
Đường 15 và Đường 12), đã nhanh chóng báo cáo về sở chỉ huy. Trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn xin thay đổi
hướng xuất kích: từ dọc theo đường biên giới sang dọc theo Đường 15 và được thủ trưởng chấp nhận. 14 giờ 38 phút,
xuất hiện thêm 1 tốp 2 chiếc, độ cao 6.000m vào Khe Ve. Trực ban dẫn đường Tạ Quốc Hưng dẫn đôi MiG-21 bám
Đường 15 và cho cơ động độ cao từ 1.000 đến 1.500m, 14 giờ 40 phút, lệnh cho phi công mở SOĐ-57 (máy phát tín
hiệu phản hồi trên máy bay) và thông báo cho dẫn đường hiện sóng biết ý định sở chỉ huy sẽ dẫn đánh từ phía đông.
14 giờ 42 phút, khi MiG-21 đến nam Hương Khê 10km, trực ban dẫn đường Tạ Quốc Hưng cho vòng trái, hướng bay
120 độ, tốc độ 900km/h và thông báo vị trí khu vực có địch, đồng thời lệnh cho dẫn đường hiện sóng sẵn sang dẫn tiếp
cận; 14 giờ 43 phút, cho vòng phải, hướng bay 170 độ, độ cao 4.000m và thông báo: mục tiêu bên phải 30 độ 18km,
độ cao 3.000m. 14 giờ 43 phút 30 giây, thủ trưởng Trần Mạnh lệnh: đánh nhanh, giải quyết nhanh. 14 giờ 44 phút, dẫn
đường hiện sóng Hoàng Kế Thiện dẫn MiG-21 vào tiếp địch: mục tiêu bên phải 10 độ, 12km; rồi bên phải 60 độ,
10km.

Số 2 lập tức phát hiện F4, 8km, xin vào công kích và số 1 yểm hộ. X3 nhắc: công kích xong, thoát ly hướng
bay 310, 320 độ. 14 giờ 45 phút, số 2 xin thoát ly. 14 giờ 46 phút, trực ban dẫn đường Tạ Quốc Hưng hô: phản kích
bên trái. 14 giờ 46 phút 30 giây, số 2 lại phát hiện bên trái phía trước có 2 F4 và xin vào công kích lần 2, số 1 tiếp tục
yểm hộ. 14 giờ 47 phút, số 1 phát hiện 3 chiếc trực thăng ở phía dưới và xin vào công kích. Với động tác kỹ thuật bay
điêu luyện, chỉ trong 1 phút 15 giây số 1 đã thực hiện xạ kích chính xác. 14 giờ 48 phút 15 giây, trên đối không vang
lên: "Cháy rồi". 14 giờ 49 phút, số 2 xin thoát ly lần thứ hai. 14 giờ 50 phút, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn cho
số 1 và số 2 hướng bay 20 độ. Sau đó số 2 báo cáo: đang phản kích, chưa thoát ly được.

Kết quả trận đánh: Phi công Vũ Ngọc Đỉnh bắn rơi 1 CH-53 và phi công Phạm Đình Tuân bắn rơi 1 F4,
nhưng sau đó hy sinh trong khi cơ động phản kích địch ở độ cao thấp. Dẫn đường tại X3 đã vận dụng phương án linh
hoạt, kịp thời đổi hướng xuất kích và gây bất ngờ cho địch; tạo điều kiện tốt cho dẫn đường trên hiện sóng dẫn tiếp
cận và phi công phát hiện địch trong thế thuận lợi. Nhưng trong quá trình dẫn, đã chưa kiểm soát hết địch-ta để hỗ trợ
cho phi công, nhất là khi số 2 phản kích ở độ cao thấp, mặc dù tình báo gần có bị ngắt quãng, nhưng đối không vẫn
còn liên lạc được.

Chiều 13 tháng 4 năm 1971, qua theo dõi địch trên bảng tiêu đồ xa, 17 giờ 15 phút ta cho C-41 mở máy. 17
giờ 24 phút, xuất hiện 1 tốp 1 chiếc, tốc độ nhỏ, độ cao 3.000m ở nam-tây nam đèo Mụ Giạ 20km; tiếp sau đó xuất
hiện thêm 4 tốp, tốc độ lớn, độ cao từ 4.000 đến 8.000m cũng ở nam-tây nam đèo Mụ Giạ từ 40 đến 100km. Thủ
trưởng trực chỉ huy Trần Mạnh quyết định cho đánh tốp tốc độ nhỏ. 17 giờ 27 phút, 2 chiếc MiG-21 ở Anh Sơn được
lệnh vào cấp 1. 17 giờ 57 phút phi công Đinh Tôn cất cánh và bay thấp theo đường 7, đến Đô Lương vòng phải dọc
theo Đường 15. 18 giờ 05 phút, trực ban dẫn đường Khổng Đức Thi tại sở chỉ huy B8 ở Quảng Trạch, sau khi liên lạc
tốt với phi công, cho lên độ cao 2.000m. Một phút sau, dẫn đường hiện sóng Trần Xuân Dung tại C-41 ở Quảng Trạch
bắt tốt ta. Thấy địch liên tục vòng đi, vòng lại với bán kính rất nhỏ trong một khu vực hẹp trên Đường 12, nên trực ban
dẫn đường Khổng Đức Thi đề xuất phương án đưa MiG-21 vào thế vòng trái, liên tục ôm lấy khu vực mục tiêu đang
bay để phi công có nhiều thời gian quan sát phát hiện hơn và được thủ trưởng đồng ý ngay. Dẫn đường cho hướng bay
200 độ, độ cao 2.500m. Phi công báo cáo tốc độ 850km/h. Dẫn đường cho lên độ cao 3.500, rồi 4.000m, hướng bay
210 độ và thông báo: mục tiêu tốc độ nhỏ, bên trái 40 độ, 30km; sau đó cho vòng trái, hướng bay 130 độ, rồi 60 độ để
giảm dần giãn cách và thông báo tiếp: mục tiêu bên trái 80 độ, 13km, rồi 90 độ, 7km, nhưng phi công chưa phát hiện
được địch. Dẫn đường cho vòng trái động tác nhanh, mục tiêu bên trái 90 độ, 12km. 18 giờ 16 phút, phi công báo cáo
chói mặt trời (mặt trời lặn lúc 18 giờ 14 phút). Dẫn đường cho giảm độ cao xuống 3.000m và tiếp tục vòng trái. Sau
hai lần thông báo nữa, phi công Đinh Tôn phát hiện: mục tiêu bên trái 20 độ, 8km. Sau khi phóng quả tên lửa thứ nhất,
anh xin vòng lại và chuẩn bị phóng quả thứ hai thì thấy máy bay địch đảo cánh, xoáy xuống. 18 giờ 23 phút, dẫn
đường cho thoát ly, hướng bay 360 độ, độ cao 3.000m, tốc độ 900km/h và nhắc chú ý cảnh giới bên trái phía sau. 18
giờ 26 phút, MiG-21 đến tây Khe Ve 30km và bay theo hướng 340 độ để về Anh Sơn. Thủ trưởng Trần Mạnh yêu cầu
tổ chức liên lạc tốt với Vinh. 18 giờ 38 phút, ta hạ cánh an toàn xuống Anh Sơn. Cũng trong thời gian này địch cho hai
tốp máy bay tiêm kích, mỗi tốp 2 chiếc, độ cao 5.000m đuổi theo ta đến Đô Lương mới quay trở lại. Đây là trận đánh
với quyết tâm rất cao, đúng phương án đánh trinh sát trên Đường 12. Ta đã dẫn thành công MiG-21 đánh mục tiêu tốc
độ nhỏ, sáng tạo khi đưa vào tiếp cận, giành thuận lợi cho phi công phát hiện và xạ kích bằng mắt trong lúc hoàng
hôn; góp sức để phi công Đinh Tôn bắn rơi 1 O-2A. Thêm một loại máy bay nữa của Mỹ bị Không quân nhân dân Việt
Nam hạ gục. Dẫn đường tại sở chỉ huy hoàn toàn làm chủ tình hình và dẫn toàn trình. Dẫn đường trên hiện sóng kiểm
soát chặt chẽ địch- ta, nhưng do thông tin đặt sai tần số đối không (Bản can trận đánh), nên không trực tiếp dẫn được
mà phải dùng điện thoại để ruyền các khẩu lệnh về sở chỉ huy.

Trưa 10 tháng 5 năm 1971, máy bay trinh sát tốc độ nhỏ của địch vào hoạt động tại khu vực Mường Xén
(Kỳ Sơn) - Noọng Hét - Bản Ban (Mường Khằm). Ta sử dụng MiG-21, một đôi đánh chính và một đôi yểm hộ để thực
hiện nhiệm vụ. Kíp trực ban dẫn đường tại X3 đã phối hợp nhịp nhàng với X1, tiếp nhận đôi đánh chính kịp thời, chủ
động áp dụng cách dẫn đánh O-2A, đưa phi công vào thế có lợi phát hiện được mục tiêu. Cả hai số đều có cơ hội
phóng tên lửa, nhưng rất tiếc, OV-10 không rơi. Kíp trực ban dẫn đường tại X1 đã dẫn đôi yểm hộ đúng ý định chiến
thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho X3 nối thông chỉ huy khi đôi đánh chính phải xuống độ cao thấp ở khu chiến.

Trong suốt thời gian từ năm 1968 đến 1971, số lượng trận đánh của không quân ta tại chiến trường Khu 4,
so với đánh ở các khu vực phía bắc vĩ tuyến 20, tuy không nhiều, nhưng mang lại ý nghĩa rất to lớn đối với công tác tổ
chức dẫn đường sở chỉ huy. Việc bố trí các vị trí dẫn đường tại nhiều sở chỉ huy, đài radar và đài chỉ huy bổ trợ bằng
mắt đã tạo ra một mạng lưới chỉ huy-dẫn đường liên kết chặt chẽ với nhau, nâng cao khả năng dẫn đường chiến đấu
hai cấp. Tại sở chỉ huy tiền phương Binh chủng, do thường xuyên duy trì tốt chế độ từng trực ban dẫn đường phụ trách
dẫn từng tốp, nên chất lượng dẫn chính đã được nâng lên rõ rệt. Với quyết tâm cao, cách dẫn đối đầu có giãn cách
thích hợp, cơ động lượng lớn vào bám địch đã nâng cao hiệu quả đánh tiêm kích ở chiến trường Khu 4. Đội ngũ dẫn
đường sở chỉ huy đã góp công bắn rơi 7 F4, 4 F-8, 2 không người lái, 1 CH-53, 1 O-2A và bắn trọng thương 1 B-52.

Sau lần dẫn phi công MiG-21 Nguyễn Hồng Nhị bắn rơi chiếc không người lái đầu tiên trên miền Bắc vào
ngày 4 tháng 3 năm 1966, hàng loạt vấn đề đặt ra trước đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy cần phải giải quyết, như cách
xác định đường bay vào và bay ra, cách nhận biết trên hiện sóng, cách dẫn đánh máy bay không người lái ngoài vùng
hoả lực phòng không của ta ở độ cao cao hoặc vào thấp, ra kéo cao và đặc biệt là dẫn đánh máy bay không người lái ở
độ cao thấp trong tầm nhìn hạn chế, cũng như cách xử lý khi đang dẫn đánh máy bay không người lái, có các loại máy
bay khác xuất hiện… Nhưng chỉ có dẫn bắn rơi máy bay không người lái mới trực tiếp góp phần cắt nguồn cung cấp
các dữ kiện trinh sát đường không cho bọn cường kích và tiêm kích.

Ngành Dẫn đường Không quân luôn coi đây là một trong nhũng nhiệm vụ rất quan trọng và đã thực hiện
phương châm hành động: Giải quyết được đến đâu, đưa ngay vào từng phương án dẫn bay chiến đấu đến đó và những
gì chưa giải quyết được thấu đáo thì tiếp tục làm sáng tỏ. Hoàn thiện cách dẫn đánh máy bay không người lái ngay
trong quá trình dẫn bay chiến đấu.

Ngày 21 tháng 7 năm 1966, lúc 10 giờ 13 phút, xuất hiện một tốp địch từ phía Thanh Sơn bay vào khu vực
sân bay Nội Bài ở độ cao 8.000m, tốc độ lớn. Có thể địch trinh sát trước khi đánh lớn hoặc thăm dò phản ứng của ta.
Đến 10 giờ 36 phút, trên bảng tiêu đồ xa, có thêm một tốp nữa bay qua biên giới Lào-Việt (tây Lang Chánh 50km), độ
cao 17.000m. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên và Hoàng Ngọc Diêu nhận định ngay, đây là
máy bay không người lái, nhưng chỉ sau 3 phút thì mất tình báo. Căn cứ vào hướng bay của địch, thủ trưởng chỉ thị
theo dõi chặt chẽ máy bay không người lái, mở thêm radar dẫn đường và MiG-21 sẵn sàng xuất kích. Khoảng 10 giờ
47 phút, địch xuất hiện ở tây Thanh Sơn 10km, hướng thẳng vào Phú Thọ, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn không
quân 921 Trần Mạnh lệnh cho phi công MiG-21 Nguyễn Đăng Kính mở máy và cất cánh ngay. Không người lái đến
Phú Thọ vòng trái, theo Đường 2, qua Thác Bà, tốc độ ổn định khoảng 800km/h, rồi bay thẳng dọc đường sắt Yên Bái-
Lào Cai, độ cao khoảng 16.000m.

Sau khi MiG-21 đã vào hướng xuất kích 300 độ, trực ban dẫn đường Phạm Công Thành, dẫn trên bàn dẫn
đường tại sở chỉ huy Trung đoàn 921, cho lên độ cao 8.000m, nhưng thực tế lúc 10 giờ 54 phút, khi ngang Việt Trì,
MiG-21 mới đạt 6.000m và bắt đầu vòng phải hướng bay 350, 360 độ để mở gián cách, tạo góc vào. 10 giờ 56 phút,
dẫn đường cho lên độ cao 13.000m, nhưng chỉ đạt 8.000, rồi 10.000m, còn tốc độ tăng từ 900 lên 1.200km/h; đến Bắc
Tuyên Quang 15km cho MiG-21 vòng trái hướng bay 270 độ, độ cao đạt 12.000m và tốc độ đạt 1.500km/h; đến Lục
Yên vòng phải, bắt đầu áp đường bay, độ cao đạt 14.000m và đuổi theo máy bay không người lái.

11 giờ 02 phút, ta đến Bảo Hà, địch ở phía trước khoảng 30km và chỉ sau vài giây, phi công phát hiện mục
tiêu rồi lên dần độ cao. 1 phút sau, ta đến Bảo Thắng đạt độ cao 16.000m, địch ở phía trước khoảng 15km, độ cao
17.000m, dẫn đường cho mở radar. Nguyễn Đăng Kính bám sát mục tiêu bằng radar tốt và phóng tên lửa. Chiếc không
người lái lật nghiêng về bên trái, rồi rơi thẳng xuống. Ta thoát ly phải, vòng ngược lại 180 độ về hạ cánh.

Trong trận này, dẫn trường đã phán đoán đúng đường bay vào của địch, xin cất cánh đúng thời cơ, sử dụng
tốc độ đuổi địch hợp lý, nhưng chưa theo sát lượng lên thực tế (tốc độ lên theo phương thẳng đứng) của MiG-21 để
tính toán thời điểm phải đạt độ cao cần thiết. Riêng việc mở giãn cách và tạo góc vào chưa phải là phương án tối ưu,
vì sau khi cải hướng 270 độ, độ cao của ta mới đạt 12.000m, còn địch là 16.000m và ta lạc hậu tới 60km.

Trưa 13 tháng 8 năm 1966 ta phát hiện không người lái ở phía đông Bạch Long Vĩ, bay thẳng lên hướng
bắc. Có thể địch vào trinh sát đường 4. 12 giờ 47 phút, phi công MiG-21 Hà Văn Chúc cất cánh từ Nội Bài, bay ra
Cẩm Phả. 12 giờ 59 phút, ta đến ngang Hồng Gai đã đạt độ cao 14.000m, tốc độ 1.500km/h và cách địch 90km với
góc cắt chéo đường bay là 110 độ, rất có lợi để dẫn vào tiếp cận, nhưng địch tiếp tục đi thẳng, nên sở chỉ huy cho ta
quay về hạ cánh.

Khi đến Móng Cái, máy bay không người lái vòng trái và bay dọc phía bắc biên giới Việt-trung. 13 giờ 11
phút, trực ban dẫn đường Trung đoàn 92 1 Lê Thiết Hùng dẫn trên hiện sóng báo cáo mất tín hiệu mục tiêu, 13 giờ 13
phút, đột nhiên lại xuất hiện và sau đó lại mất. Tại Sở chỉ huy Quân chủng thủ trưởng Phùng Thế Tài và Nguyễn Văn
Tiên cho rằng máy bay không người lái sẽ vào khu vực Cao Bằng-Bắc Cạn, nên quyết định cho MiG-21 đánh tiếp.

13 giờ 14 phút, phi công MiG-21 Đặng Ngọc Ngự cất cánh, mặc dù lúc đó radar dẫn đường vẫn chưa xác
định được chính xác vị trí của địch. Trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy dẫn tại sở chỉ huy Trung đoàn 921 cho MiG-
21 vòng qua Vĩnh Yên, lên Sơn Dương và vừa lấy độ cao vừa tăng tốc độ. 13 giờ 18 phút, ta đến ngang Đại Từ thì trực
ban dẫn đường trên hiện sóng Lê Thiết Hùng bắt được địch ở đông Thất Khê khoảng 13km, nhưng 2 phút sau, đúng
vào lúc địch vòng trái thì mất tín hiệu ta. Trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy lập tức hỏi phi công vị trí và "dẫn mò":
ta đến Chiêm Hoá cho vòng phải, hướng bay 90 độ và tiếp tục lên độ cao. 13 giờ 24 phút, radar dẫn đường bắt được ta
ở hồ Ba Bể, đang bay theo hướng đông và địch đã qua Na Rì, xuống đến tây bắc Bình Gia 15km, vẫn ở độ cao
18.000m. Ta bị lạc hậu tới 80km. Dẫn đường cho vòng trái, đi hướng 125 độ, áp đường bay; tăng nhanh tốc độ lên
1800km/h, nhưng từ từ lên độ cao. 13 giờ 28 phút, ta đến Bình Gia, chỉ còn cách địch 30km và thấp hơn 1.000m.
Trong vòng 1 phút 30 giây tiếp theo, trận đánh diễn ra tương tự như trận 21 tháng 7 và phi công Đặng Ngọc Ngự bắn
rơi ngay chiếc không người lái này.

Dẫn đường tại sở chỉ huy và trên hiên sóng đã phối hợp nhịp nhàng cùng nhau xử lý tốt nhiều tình huống.
Cách tính toán để lấy độ cao và cho tăng tốc độ bám đuổi địch trong lần dẫn này đã được giải quyết rất thoả đáng.

Ngày 23 tháng 9 năm 1966, địch cho máy bay không người lái vào từ hướng biển, ta sẵn sàng cất cánh,
nhưng ra-ôa dẫn đường không bắt được mục tiêu. Trong lúc sở chỉ huy đang tập trung nhận định tình hình thì 15 giờ
01 phút, ta phát hiện mục tiêu ở đông Mỹ Đức 8km, độ cao 500m, rồi đến ngang Miếu Môn địch vòng phải hướng vào
Hà Nội. 15 giờ 04 phút, khi địch ở tây Hà đông 5km, ta cho đôi bay MiG-17: Hồ Văn Quỳ và Nguyễn Hồng Thanh cất
cánh từ Gia Lâm và vòng lên đỉnh Nội Bài để mở giãn cách, tạo cự ly bám vào phía sau.

15 giờ 06 phút, địch qua Hà Nội và bay dọc theo Đường 1 bắc, ta cho tiếp phi công MiG-21 Nguyễn Hồng
Nhị cất cánh từ Nội Bài, đánh địch trên đoạn bay ra. Sở chỉ huy dẫn MiG-17 mở gián cách không đủ, nên bị xông
trước khá nhiều, buộc phải cho vòng lại. Còn không người lái sau khi ra khỏi Hà Nội lái tăng dần độ cao. Trong khi
MiG-21 đang vòng tại đỉnh để lấy độ cao, sở chỉ huy phán đoán địch sẽ ra theo hướng đông và cho hướng xuất kích 80
độ. 15 giờ 13 phút, không người lái đến tây nam Đồng Mỏ 10km, bắt đầu vòng phải, tốc độ khoảng 900km/h, độ cao
4.500m, sau đó đi hướng 180 độ và liên tục tăng độ cao. 15 giờ 15 phút, ta đến tây Lục Nam 5km, sở chỉ huy cho vòng
phải, lên độ cao 6.000m. 15 giờ 16 phút, địch xuống đến bắc Chũ 8km, ở phía trước ta 15km và cao hơn ta 1.500m,
nhưng góc vào gần 90 độ. Sau đó địch vòng trái ra Sơn Động và lên độ cao 10.000m, ta vòng phải, hướng bay 120 độ
đuổi theo. Phi công Nguyễn Hồng Nhị phát hiện máy bay không người lái ở bên trái, phía trước 10km và cao hơn ta
khá nhiều. Anh quyết định bắn, nhưng cự ly xa, không trúng. Sở chỉ huy cho thoát ly về hạ cánh.

Lần đầu tiên gặp phải thủ đoạn mới của địch: cho máy bay không người lái vào thấp, ra kéo cao, các kíp
trực Ban dẫn đường Quân chủng: Nguyễn Văn Chuyên, Khổng Đức Thi và Trung đoàn 921: Phạm Công Thành, Lê
Thiết Hùng đã xử lý không thành công, nhưng ta lại có được một bài học cực kỳ bổ ích: Phải xây dựng phương án gần
bay đánh không người lái toàn diện, đón đánh địch cả trên đoạn bay vào và bay ra, cả ở độ cao thấp và độ cao cao.

15 giờ 31 phút, ngày 29 tháng 9 năm 1966, máy bay công người lái xuất hiện ở bắc Thái Bình 5km, độ cao
1.000m, bay về phía Kẻ Sặt. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng Thế Tài ra lệnh cho MiG-17 ở Gia Lâm vào
cấp 1, mở máy, cất cánh ngay. Đội trưởng Hồ Văn Quỳ mở máy không lên, phi công Nguyễn Biên - số 2 xin lăn ra,
thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch quyết định 1 chiếc cũng phải cất cánh.

15 giờ 34 phút, máy bay không người lái xuống độ cao 1.200m, radar dẫn đường mất tín hiệu. Trực ban dẫn
đường Lê Thành Chơn tại Sở chỉ huy Quân chủng xác định ngay địch bay tốc độ 720km/h và dự tính hướng bay có thể
qua Nội Bài, liền cho phi công vòng gấp quay lại đỉnh sân. 15 giờ 35 phút 15 giây, ta lại bắt được mục tiêu tại tây nam
Kẻ Sặt 3km, độ cao 1.000m, hướng lên Vĩnh Yên. Khi MiG-17 vừa quay lại, thủ trưởng Phùng Thế Tài ra lệnh cho
MiG-21 cất cánh và 15 giờ 36 phút, phi công Lê Trọng Huyên rời đường băng Nội Bài, vòng trái đi Phúc Yên. 1 5 giờ
3 7 phút, dẫn đường cho MiG-17 vòng trái gấp, hướng bay 310 độ. Sau khi phi công cải đúng hướng, dẫn đường thông
báo vị trí mục tiêu, phi công báo cáo trời mù. 15 giờ 39 phút 30 giây, máy bay không người lái bay ngang qua phía
nam Nội Bài, đài chỉ huy bổ trợ tại sân phát hiện và thông báo vị trí mục tiêu cho cả MiG-17 và MiG-21. Phi công
Nguyễn Biên thoáng nghĩ: ở dưới nhìn lên tốt hơn, anh giảm độ cao xuống dưới 1.000m, sau đó phát hiện mục tiêu
bên trái, phía trước, 4km, rồi tăng tốc độ đuổi theo. Qua Việt Trì, anh vào công kích và bắn rơi không người lái. Đây là
chiếc không người lái đầu tiên của địch vào trinh sát ở độ cao thấp bị Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi.

15 giờ 41 phút, MiG-21 đến Phúc Yên, dẫn đường cho vòng phải, hướng bay 300 độ, mục tiêu phía trước
20km và 15 giờ 42 phút, đến nam Vĩnh Yên 5km, cho vòng trái đi Thanh Sơn, tăng tốc độ và lên độ cao để sẵn sàng
xử lý nếu địch kéo cao bay ra. Do không liên lạc được với phi công Nguyễn Biên, 15 giờ 46 phút, sở chỉ huy Trung
đoàn 923 cho phi công Hồ Văn Quỳ cất cánh. Trực ban dẫn đường Đỗ Cát Lâm dẫn thẳng lên Việt Trì. Phi công
Nguyễn Biên đã hy sinh do gặp tai nạn.

Ngày 14 tháng 12 năm 1966, trong khi biên đội MiG-21 Nguyễn Nhật Chiêu - Đặng Ngọc Ngự - Đồng Văn
Đe và Nguyễn Văn Cốc đang đánh F105 tại khu vực Tam Đảo, radar dẫn đường phát hiện máy bay không người lái
vào trinh sát, độ cao 4.000m. Được lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng Thế Tài cho MiG-21 cất cánh
tiếp, kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng: Nguyễn Văn Chuyên, Vũ Đức Bình, Hoàng Cảnh đã kịp thời dẫn đôi bay:
Phạm Thanh Ngân - số 1 và Hoàng Biểu - số 2 lên đánh (Bản can trận đánh). Dẫn đường vừa thông báo vị trí mục tiêu
thì số 2 báo cáo phát hiện địch ở cự ly 4km, thấp hơn ta 1.000m và số 1 cũng nhanh chóng phát hiện. Phi công Phạm
Thanh Ngân kịp thời bám sát, phóng tên lửa trúng ngay máy bay không người lái khi nó vừa đến khu vực Nội Bài.
Cũng trong thời gian trên, Sở chỉ huy Quân chủng còn dẫn thêm đôi bay MiG-21: Trần Ngọc Xíu và Mai Cương lên
yểm hộ cho biên đội Chiêu-Ngự-Đe-Cốc và đôi bay Ngân-Biểu về hạ cánh. Kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng đã
xử lý rất thành công tình huống vừa dẫn đánh máy bay cường kích vừa dẫn đánh máy bay không người lái, đồng thời
dẫn yểm hộ.

Đầu năm 1968, để tìm lối thoát cho cuộc chiến tranh Việt Nam bằng giải pháp chính trị có lợi về mình, đế
quốc Mỹ buộc phải "xuống thang" đánh miền Bắc, nhưng chúng lại tăng cường trinh sát đường không bằng không
người lái và nếu bị ta bắn rơi thì địch cũng chỉ mất máy bay mà không chịu tổn thất về sinh lực.

Với quyết tâm là phải dẫn đánh máy bay không người lái sát hiệu quả cao hơn, ngành Dẫn đường Không
quân, trong những tháng đầu năm 1968 đã tổ chức tổng hợp các thông tin về hoạt động của không người lái liên quan
trực tiếp đến cách dẫn của ta, sau đó lập bảng thống kê theo từng tháng hoặc từng đợt chiến đấu và chỉ rõ tất cả các
đường bay trong ngày của địch, mục tiêu trinh sát; độ cao bay vào, bay qua mục tiêu và bay ra; mối quan hệ giữa máy
bay không người lái với EB-66 và C-130 như: thời gian, số lượng chiếc xuất hiện, vị trí và cách bay của chúng; cường
độ gây nhiễu của EB-66 và thời gian từ khi C-130 có triệu chứng phóng máy bay không người lái đến khi máy bay
không người lại qua mục tiêu. Kết quả của biện pháp này đã làm cho cách dẫn đánh máy bay không người lái có độ tin
cậy cao hơn.

Trưa 15 tháng 4 năm 1968, tại sở chỉ huy Binh chủng, theo tin dự báo, không người lái sẽ hoạt động, sau đó
trên hiện sóng radar dẫn đường có nhiễu ở phương vị 160, 170 độ và mở rộng gần, rồi xuất hiện nhiều tốp địch ở phía
đông Thái Bình 100, 120km và nhận được tin của đài quan sát mắt Cát Bà, nghe thấy tiếng máy bay bay qua. Thủ
trưởng trực chỉ huy Binh chủng Lê Văn Thọ nhận định địch sẽ trinh sát các mục tiêu trên Đường 18 hoặc đường 5, cho
MiG-17 và MiG-21 đánh theo phương án đã được chuẩn bị.

14 giờ 04 phút 30 giây, sở chỉ huy Trung đoàn 923 cho đôi bay MiG-17: Lưu Huy Chao và Lê Hải cất cánh
từ Giã Lâm, xuống khu chờ ân Thi-Thanh Miện, tận dụng đài chỉ huy bổ trợ để đón đánh máy bay không người lái bay
vào ở độ cao thấp, mặc dù lúc đó radar dẫn đường của trung đoàn vẫn chưa bắt được địch.

14 giờ 10 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 921 Phạm Ngọc Lan quyết định cho đôi MiG-21:
Nguyễn Đăng Kính - số 1 và Đinh Tôn - số 2 cất cánh. Dẫn đường cho vòng qua đỉnh sân bay và "dẫn mò" đi Tân
Lạc, vị trí có lợi để có thể đón đánh máy bay không người lái kẻo cao bay ra theo 3 hướng: tây nam, nam hoặc đông
nam. Lúc này ra-ôa dẫn đường chưa bắt được địch-ta. 14 giờ 19 phút, tiêu đồ gần chấm một mũi ta ở tây bắc Hoà Bình
khoảng 17km, độ cao 8.500m, nhưng dẫn đường cho là địch và lập tức cho MiG-21 vòng trái, hướng bay 120 độ. Hai
phút sau, trên bàn dẫn đường ta-địch được phân biệt rất rõ ràng: địch bay hướng 200 độ, khá ổn định, tốc độ gần
800km/h và độ cao đang tăng dần; ta đang bay hướng 120 độ. MiG-21 qua Vụ Bản, dẫn đường cho vòng phải, hướng
bay 240, rồi 230 độ, tốc độ 950km/h, độ cao 10.000m vào tiếp địch. Đến đông nam Quan Hoá 5km, số 1 báo cáo bên
phải có vệt khói trắng (tầng khéo khói, độ cao trên 11.000, 12.000m) và dẫn đường cho lên tiếp độ cao 13.000, rồi
14.000m. Ta còn cách địch gần 10km, sở chỉ huy cho áp đường bay, vào hướng 200 độ. Số 1 phát hiện mục tiêu: phía
trước, 5km, bám theo và phóng tên lửa, nhưng không trúng, phải thoát ly. Phi công Đinh Tôn vào công kích, bắn rơi
máy bay không người lái ở độ cao 14.500m tại khu vực phía tây Lang Chánh, trên biên giới Việt-Lào, nhưng chưa kịp
thoát ly thì động cơ bị tắt. Dẫn đường lập tức bám sát các số liệu xử lý mở máy trên không của chỉ huy và phi công,
sau khi phi công Đinh Tôn mở máy lần thứ hai thành công, lại tiếp tục dẫn về. MiG-21 về đến Việt Trì, lần lượt vào hạ
cánh, MiG-17 cũng về đến Gia Lâm.Các kíp trực ban dẫn đường đã thực hiện tốt phương án dẫn đánh máy bay không
người lái ngoài vùng hoả lực phòng không của tá, cả khi chúng bay vào ở độ cao thấp và kẻo cao khi bay ra, đồng thời
duy trì nghiêm sự phân công trách nhiệm dẫn đường giữa các kíp với nhau. Kíp trực ban dẫn đường Binh chủng:
Nguyễn Văn Chuyên, Khổng Đức Thi và Nguyễn Quang Thản dẫn MiG-21 từ khi cho vòng vào tiếp địch đến lúc
thoát ly, Trung đoàn không quân 921: Phạm Công Thành và Lê Thiết Hùng dẫn MiG-21 từ cất cánh, vào khu vực Tân
Lạc và từ thoát ly đến hạ cánh. Khi có tình huống, cả 2 kíp đều trập trung bám sát ta, sẵn sàng hỗ trợ lẫn nhau.

Trong thời gian từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 10 năm 1968, ta tổ chức dẫn nhiều trận đánh máy bay không
người lái, nhưng đạt hiệu quả chưa cao: chỉ có 3 trận dẫn bắn rơi, còn 7 trận dẫn vào tiếp địch tốt, nhưng phi công bắn
không kết quả, một số trận cho cất cánh không đúng thời cơ và dẫn vào tiếp địch không chính xác.

Ngày 1 tháng 11 năm 1968, tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với
miền Bắc, nhưng trên thực tế hành động trinh sát đường không của địch không hề chấm dứt. Máy bay không người lái
còn vào ta còn đánh. Phải tìm ra cách đánh và cách dẫn thích hợp trong giai đoạn này: vừa tiêu diệt máy bay không
người lái vừa tạo dựng khả năng sẵn sàng đối phó với máy bay cường kích khi địch trở mặt đánh lại miền Bắc.

Trưa ngày 8 tháng 11 năm 1968, căn cứ vào tình hình hoạt động của EB-66 và C-130 ở phía tây Bạch Long
Vĩ 30km, ta phát hiện máy bay không người lái vào Hải Phòng, qua Hải Dương, cầu Đuống ở độ cao khoảng 300,
500m và hướng lên Việt Trì, rồi tăng dần độ cao. Thời tiết phức tạp trên diện rộng, đáy mây cao 1.500m. 9 giờ 08
phút, khi địch ở nam Nội Bài 10km, sở chỉ huy Binh chủng đồng ý cho phi công MiG-21 Nguyễn Văn Cốc cất cánh.
Vừa đạt độ cao an toàn, trực ban dẫn đường trên hiện sóng Phạm Văn Khả, lập tức cho ta vòng trái, động tác nhanh và
trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Trung đoàn 921 Phạm Minh Cậy cho giữ tăng lực lấy độ cao và đi hướng 240 độ.
Địch đến ngang Phúc Yên vòng trái, lên độ cao 2.500m và bay về phía Hoà Lạc. 9 giờ 11 phút, trực ban dẫn đường
Binh chủng Đào Ngọc Ngư thông báo: mục tiêu bên phải 30 độ, 5km, nhưng phi công đang trong mây; tiếp theo dẫn
đường hiện sóng thông báo: mục tiêu phía trước 6km, lúc này phi công đã lên trên mây. 9 giờ 12 phút, khi MiG-21
qua Hoà Lạc, sở chỉ huy Trung đoàn 921 cho vòng trái, hướng bay 170 độ, độ cao 7.000m và thông báo vị trí mục
tiêu. 9 giờ 13 phút, sau khi cải đúng hướng 170 độ, phi công Nguyễn Văn Cốc phát hiện không người lái trên nền mây
trắng, đang tạt qua rất nhanh từ trái sang phải, bên dưới, phía trước máy bay mình, cự ly gần và đã phóng ngay quả tên
lửa thứ nhất, nhưng không trúng. 9 giờ 14 phút, không người lái đến Hoà Bình vòng trái, bay ra hướng 115 độ và lên
độ cao 9.000m. Ta ở bên trái, phía trước của mục tiêu.

Cùng thời gian cho MiG-21 ở Nội Bài xuất kích, Binh chủng quyết định đưa MiG-21 ở Thọ Xuân vào trận.
Đôi bay: Đồng Văn Song - số 1 và Lương Thế Phúc - số 2 được trực ban dẫn đường Trần Hồng Hà, tại X1, cho vào
khu vực Yên Thuỷ-Cẩm Thuỷ.

9 giờ 15 phút, khi vị trí của máy bay ta đã cắt hẳn sang phía bên phải đường bay của địch, trực ban dẫn
đường Phạm Minh Cậy cho phi công Nguyễn Văn Cốc vòng trái, lên tiếp độ cao, rồi áp đường bay đuổi theo trên
hướng 115 độ 9 giờ 16 phút, địch ở phía trước 10km và cao hơn ta khoảng 1.000m, nhưng phi công chưa phát hiện
được. 9 giờ 17 phút, trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng Tạ Văn Vượng cho đôi MiG-21 từ Cẩm Thuỷ đi
hướng 70 độ, tăng tốc độ từ 900 lên 1.100km/h và lên độ cao 12.000m. 9 giờ 19 phút, đôi bay Song-Phúc đến Gia
Viễn thì phát hiện cả không người lái và MiG-21. Đây là tình huống chưa từng xảy ra, sở chỉ huy Binh chủng quyết
định dẫn đôi MiG-21 bám theo, nhưng chỉ khoảng 20, 30 giây sau thì phi công Nguyễn Văn Cốc phát hiện và xin vào
công kích. Dẫn đường Binh chủng cho đôi Song- Phúc giảm tốc độ, vòng phải, giữ giãn cách khoảng 7km và ở bên
phải phía sau mục tiêu. Sau khi phi công Nguyễn Văn Cốc bắn quả tên lửa thứ hai, phi công Đồng Văn Song báo cáo
máy bay không người lái cháy. Sở chỉ huy trung đoàn cho phi công Nguyễn Văn Cốc thoát ly bên trái và dẫn về.

Trong lúc đôi Song-phúc đang vòng trái để về Thọ Xuân thì trên hiện sóng vẫn còn tín hiệu mục.tiêu, sở chỉ
huy Binh chủng lập tức cho tiếp tục vòng trái để quay ra hướng đông. 9 giờ 23 phút, khi tín hiệu không người lái mờ
đi, rồi mất hẳn (do không rơi tại chỗ), đôi Song-Phúc mới vòng phải, quay lại Thọ Xuân hạ cánh.
Sáng 15 tháng 12 năm 1968, khoảng 9 giờ, khi radar dẫn đường của C-46 đang theo dõi cách bay của C-
130, phát hiện có nhiễu của EB-66 tăng đến cường độ 2 và sau đó máy bay không người lái xuất hiện, rồi 10 giờ cũng
có những diễn biến tương tự. Đến 11 giờ 06 phút, thấy C-130 chuẩn bị phóng máy bay không người lái, thủ trưởng
trực chỉ huy Trung đoàn 923 Lâm Văn Lích cho đôi bay MiG-17: Vũ Thế Xuân số 1 và Nguyễn Văn Lục - số 2, đang
trực chiến tại Kiến An, vào cấp 1, mở máy và cất cánh ngay. Trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Trần Kỳ và Dương
Minh Phương thông báo máy bay không người lái vào cửa Thái Bình, cách bờ 20km, rồi đến đất liền…

MiG-17, sau khi đạt độ cao an toàn, giữ tăng lực và vòng trái động tác nhanh về đầu nam sân bay. Đúng lúc
đó đài chỉ huy bay phát hiện máy bay không người lái và chỉ huy cho MiG-17 bám theo. Căn cứ vào hướng bay của
địch và khả năng bám đuổi của ta, được sự đồng ý của thủ trưởng trực chỉ huy (qua đường hiệp đồng), dẫn đường lập
tức thông báo cho MiG-17 được phép vào C5 (vùng hoả lực phòng không của ta ở Hải Dương), nhưng không được
vào A1 (vùng hoả lực phòng không của ta ở Hà Nội). 11 giờ 11 phút, phi công Nguyễn Văn Lục phát hiện, xin vào
công kích, anh ngắm từ trên xuống với góc nhỏ, chiếc không người lái bị trúng đạn vào giữa lưng và rơi ngay tại chỗ.
Đến ngang Gia Lương, đôi MiG-17 vòng trái thoát ly và về Kiến An hạ cánh. Trận dẫn đánh nhanh, diệt gọn máy bay
không người lái ở độ cao thấp lần này đã kế thừa trực tiếp kết quả trận trước đó vào ngày 9 tháng 12 năm 1968, của
biên đội MiG-17: Bùi Đình Đoàn, Đỗ Huy Hoàng, Ngô Sơn và Nguyễn Văn Lục cũng cất cánh từ Kiến An, cũng đánh
ở độ cao thấp và phi công Nguyễn Văn Lục đã bắn rơi 1 máy bay không người lái.

Trong quá trình đánh không người lái ở độ cao thấp, ta đã sử dụng phương án dẫn đánh dọc theo đường bay
của địch, tốp nào phát hiện cho đuổi đến cùng, các tốp khác bám theo, sẵn sàng vào đánh tiếp ứng, nhưng khi gặp các
tình huống đột nhiên có mây thấp, tầm nhìn xấu hoặc radar mất tín hiệu địch-ta hay phi công bị mất mục tiêu việc xử
lý thường rất phức tạp, nhất là quản lý các tốp ta. Do đó, để tiếp tục đánh máy bay không người lái, ta chuyển sang
dẫn từ các khu chờ, đã được tính trước.

Ngày 9 tháng 2 năm 1969, căn cứ vào các triệu chứng phóng không người lái, 10 giờ 22 phút, đôi bay
MiG-21: Mai Cương - số 1 và Phạm Phú Thái - số 2 vào cấp 1, 10 giờ 27 phút, mở máy và 10 giờ 31 phút, cất cánh
khỏi Nội Bài. Không người lái từ phía nam đảo Cát Bà vào cửa Trà Lý, rồi bay lên phía Hưng Yên, độ cao 500m. Sở
chỉ huy cho MiG-21 vào khu chờ Bắc Ninh và bay vòng trái, 2 lần 180 độ, hướng 160 và 340 độ để lựa thời cơ dẫn ra
tiếp địch khi nó bay vào. 10 giờ 36 phút, địch đến Tiên Hưng, ta cho MiG-21 đi hướng 150 độ, tốc độ 900km/h. 10 giờ
39 phút, địch ở đông Phú Xuyên 10km, MiG-21 vòng phải vào tiếp cận. Phi công Mai Cương phát hiện máy bay
không người lái bên trái, 6km và bằng 1 quả tên lửa đã bắn rơi tại chỗ. Số 2 còn nhìn thấy cả dù hạ cánh của máy bay
không người lái bị bung ra.

Chiều ngày 24 tháng 6 năm 1969, vào khoảng 16 giờ C-130 xuất hiện tại nam đảo Long Châu 35km, Thủ
trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện ra lệnh cho MiG-17 ở Kiến An, MiG-21 ở Nội Bài và Thọ Xuân vào
cấp 1 đánh máy bay không người lái theo phương án đã được điều chỉnh. 16 giờ 13 phút, không người lái ở đông cửa
Trà Lý 30km, bay vào cửa Thái Bình, sở chỉ huy Kiến An cho ngay một đôi MiG-17 cất cánh và dẫn lên đỉnh sân, phối
hợp với đài chỉ huy bổ trợ đón đánh địch khi chúng bay vào phía nam sân bay, nhưng phi công không phát hiện được
mục tiêu. Khi máy bay không người lái bay lên phía Từ Sơn, độ cao khoảng 200, 300m, sở chỉ huy Binh chủng lệnh
cho đôi bay MiG-21 ở Nội Bài: Phạm Phú Thái - số 1 và Mai Cương - số 2 cất cánh và dẫn xuống khu chờ Mỹ Hào
tiếp tục đón đánh địch bay vào, nhưng mục tiêu đến Kẻ Sặt thì trực ban dẫn đường trên hiện sóng tại C.26 Phạm Văn
Khả báo cáo mất tín hiệu địch. Trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Chuyên chuyển ngay sang
"dẫn mò", nhưng không kết quả.
Trước tình thế đó, thủ trưởng Đào Đình Luyện quyết định tập trung đánh địch quay ra và đồng ý thực hiện
đề nghị của dẫn đường: cho đôi MiG-21, đã cất cánh từ Thọ Xuân, đang bay ở Nam Trực, lên khu vực Thanh Oai và
giữ độ cao 500m; đôi bay Thái- Cương và MiG-17 giữ nguyên vị trí. Lúc này, đài chỉ huy bổ trợ tại Nội Bài thông
báo: Máy bay không người lái qua sân bay từ đông sang tây, vòng trái về phía Hà Nội. Sau đó, đài chỉ huy bổ trợ tại
sân Gia Lâm thông báo tiếp, địch qua Gia Lâm. 16 giờ 28 phút, trực ban dẫn đường Phạm Văn Khả báo cáo: mục tiêu
ở Gia Lâm, hướng bay 140 độ, độ cao 300m. Qua đối không, số 1 phán đoán ngay đường bay của địch và lập tức vòng
về hướng đón trước không người lái sẽ bay ra. Đúng lúc này, trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên cho đôi bay
Thái-Cương hướng bay 180 độ, tốc độ 900km/h, bay 1 phút, rồi vòng trái gấp, hướng bay 90 độ và thong báo: mục
tiêu bên trái 30 độ, 8km, từ trái qua phải. Số 1 phát hiện máy bay không người lái bên phải, 5km và vào công kích,
nhưng rất ngẫu nhiên, tên lửa đang lao về phía mục tiêu lại chuyển hướng vào một lò gạch đang rực lửa. Phi công Mai
Cương vào công kích tiếp và bắn rơi tại chỗ không người lái ở độ cao 250m. Việc điều chỉnh cách dẫn, chọn khu chờ
có lợi về chiến thuật đã phát huy tác dụng tốt.

Chiều ngày 26 tháng 6 năm 1969, cũng áp dụng cách dẫn trên, sau khi theo dõi cách bay của C-130 ở ngoài
biển, ta kịp thời cho đôi bay MiG-17: Nguyễn Khắc Lộc - số 1 và Hoàng Cống - số 2 cất cánh từ sân bay Kiến An lên
chờ tại đỉnh. Trực ban dẫn trên hiện sóng Nguyễn Dũng bắt tốt địch ở tây nam sân bay, bay lên hướng bắc, rồi vòng
phải qua Hải Phòng để ra biển. Ta cũng ở tây nam sân bay, nhưng đang bay xuống hướng nam, trực ban dẫn đường tại
sở chỉ huy Nguyễn Văn Chuyên lập tức cho vòng trái gấp gối về Hải Phòng. Đôi MiG-17 phát hiện ngay máy bay
không người lái, 4km. Với động tác vòng phải cắt bán kính chính xác, phi công Hoàng Cống, chỉ dùng 17 viên đạn
37mm và 94 viên 23mm, đã nhanh chóng bắn rơi máy bay không người lái cũng ở độ cao 250m. Trong lúc cho MiG-
17 lên đỉnh Kiến An, ta đồng thời dẫn đôi MiG-21 từ Nội Bài vào khu vực Mỹ Hào-Kẻ Sặt sẵn sàng đánh tiếp ứng.

Trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1969, các kíp trực ban dẫn đường đã tiếp tục dẫn đánh máy bay
không người lái ở độ cao thấp và kéo cao nhiều trận thành công, tích luỹ được nhiều bài học và kinh nghiệm có giá trị
về cách thức tổ chức dẫn đường. Ngày 1 tháng 7 năm 1969, đôi bay MiG-21: Nguyễn Văn Minh - số 1 và Trần l'mg -
số 2 cất cánh từ Nội Bài, được dẫn từ khu chờ đông Gia Lâm, ra đánh máy bay không người lái ở độ cao thấp, trên
đoạn bắt đầu bay ra. Số 1 phát hiện bên trái 70 độ, 5km, vào công kích hai lần, nhưng không trúng. Phi công Trần
Cung vào công kích tiếp và bắn rơi. Ngày 13 tháng 7 năm 1969, đôi bay MiG-21: Hoàng Biểu và Phạm Văn Mạo cất
cánh từ Thọ Xuân, được dẫn vào tiếp địch kéo cao 12.500m lên 13.000m. Phi công Hoàng Biểu phát hiện không
người lái phía trước, 5km và bắn rơi tại khu vực Nghĩa Đàn. Ngày 27 tháng 7 năm 1969, đôi bay MiG-21: Nyuyễn
Văn Lung - số 1 và Vũ Như Ngữ - số 2 cất cánh từ Nội Bài, được dẫn vào tiếp địch kéo cao từ 14.000m lên 15.000m.
Số 1 phát hiện phía trước 3km, vào công kích nhưng không trúng. Phi công Vũ Như Ngữ bắn rơi máy ty không người
lái tại khu vực Thọ Xuân. Ngày 23 tháng năm 1969, đôi bay MiG-17: Võ Sĩ Giáp - số 1 và Ngô Duy Thư - số 2 được
dẫn từ đỉnh Kiến An, ra đánh máy bay không người lái ở độ cao thấp, trên đoạn bay vào. Số 2 phát hiện bên phải 30
độ, 4km và báo cáo số 1. Phi công Võ Sĩ Giáp bắn rơi tại khu vực Kinh Môn.

Trong nhiệm vụ dẫn đánh máy bay không người lái trên vùng trời miền Bắc, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy
đã từng bước trưởng thành, góp công tạo nên những bài học kinh nghiệm quý giá về nắm chắc đối tượng và điều kiện
tác chiến, xác định đúng phương châm hành động, kịp thời áp dụng các phương án dẫn bay thiết thực, nâng cao hiệu
quả dẫn đường chiến đấu.

***
Đầu tháng 5 năm 1966, kết thúc giai đoạn bay chuyển loại Mi-6 ở Liên Xô, tất cả các tổ bay trong đoàn bay
do đồng chí Lê Đình Ký làm đoàn trưởng đều đã hoàn thành đầy đủ chương trình bay cơ bản và ứng dụng, kể cả bay
cẩu hàng do bạn đề ra, trong đó có 2 đồng chí Lê Đình Ký và Nguyễn Văn San đã được bạn phê chuẩn giáo viên lái
Mi-6. Ngày 24 tháng 5 năm 1966, đoàn về đến Hà Nội, đúng vào dịp chuyên gia Liên Xô đang gấp rút hoàn thành lắp
ráp 12 chiếc trực thăng cho ta, trong đó có 6 chiếc Mi-6 tại Cát Bi. Ngày 26 tháng 5 năm 1966, Trung đoàn không
quân 919 do đồng chí Đoàn Mạnh Nghi phụ trách, cùng tổ bay Mi-6: Lái chính Lê Đình Ký, dẫn đường trên không
Phan Phi Phụng, Võ Tấn Mẫn, Trương Tạo và các thành phần có liên quan, đã phối hợp với bạn tổ chức bay thử và
nghiệm thu. Ngày 29 tháng 5 năm 1966, được sự giúp đỡ trực tiếp của hai chuyên gia bay Liên Xô, tổ bay của ta bay
thử thành công và ngày 30 tháng 6, chiếc Mi-6 đầu tiên, mang số hiệu 1897 đã được chuyển sân về Gia Lâm an toàn.

Phát huy thành tích vừa đạt được, ngay sau khi bay chuyển loại về nước, công tác dẫn bay Mi-6 đã được
triển khai kịp thời. Nhiều đồng chí dẫn đường trên không, trong thời gian rất ngắn đã dẫn thành tạo Mi-6 bay huấn
luyện cẩu các thùng chứa máy bay, ô tô vận tải, pháo cao xạ… di chuyển trên bề mặt địa hình phức tạp. Đội ngũ dẫn
đường trên không Mi-6 đã được chuẩn bị về mọi mặt để luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Giữa năm 1966, không quân Mỹ tập trung đánh áp sát các mục tiêu xung quanh Hà Nội và Hải Phòng,
đồng thời tăng cường đánh phá các sân bay của ta. Để đáp ứng nhiệm vụ phân tán, cất giấu máy bay MiG-17 và MiG-
21 vào các vị trí an toàn, ngày lữ tháng 7 năm 1966, tổ bay của đồng chí Lê Đình Ký đã cẩu thử thành công 1 chiếc
MiG-17 do bị tai nạn trong lúc hạ cánh, từ lòng hồ phía bắc sân bay Gia Lâm lên đường băng. Ngay sau đó và trong
những năm tiếp theo, lực lượng Mi-6 của Trung đoàn 919 đã cẩu hơn 400 lần máy bay của ta ở các sân bay Gia Lâm,
Kép, Nội Bài, Kiến An, Thọ Xuân, Miếu Môn, Anh Sơn…

Tháng 7 năm 1966, đúng mùa nước lớn Mi-6 đã cẩu toàn bộ pháo và đạn của 2 đại đội cao xạ 57mm ra 2
trận địa nằm ở 2 bên cầu Long Biên, tại bãi giữa sông Hồng để tăng cường hoả lực phòng không, bảo vệ nhà máy điện
Yên Phụ và cầu Long Biên. Năm 1968, sau khi dẫn bay chuyển sân cơ động vào Quảng Bình, các tổ bay Mi-6 đã tiến
hành cẩu pháo 130mm phòng thủ bờ biển: 3 khẩu vào vị trí rú Hòn Bung, 2 khẩu vào núi Mồng Gà và 2 khẩu vào sát
chân núi Ba Rền. Trong năm 1966 và 1967 Mi-6 đã cẩu và đặt đúng vị trí 2 bộ radar của ta lên núi Thơi, cao 1.225m
và núi Viên.

Cũng trong năm 1967, đội ngũ dẫn đường trên không còn hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng nữa là dẫn
Mi-6 cẩu các thiết bị xây dựng công trình đường ống xăng dầu từ biên giới phía bắc về các kho trung chuyển, trên một
đoạn đường có địa hình rừng núi rất hiểm trở mà xe cơ giới không thể vận chuyển vào được. Khối lượng thiết bị chính
do Mi-6 cẩu đã đáp ứng yêu cầu xây lắp đủ 20km đường ống, trong đó mỗi đoạn ống dẫn dài tới 7m, nặng 70kg và 30
bể chứa loại 35 mét khối.

Song song với việc tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong những
năm từ 1968 đến 1971 trên khắp các địa bàn của miền Bắc, Trung đoàn không quân 919 luôn sẵn sàng tham gia các
nhiệm vụ đột xuất được giao. Đội ngũ dẫn đường trên không trong tất cả các tổ bay của trung đoàn thường xuyên giữ
vững trình độ dẫn bay, duy trì tốt lực lượng mũi nhọn, cùng với đội ngũ phi công góp phần đắc lực hoàn thành tốt
nhiệm vụ, đặc biệt trong các tình huống khẩn cấp.

Cuối năm 1968, khu vực Tây Bắc gặp mưa lớn, kéo dài. Nhiều nơi bị lũ đầu nguồn tàn phá, trong đó khu
vực Mường Tè chịu thiệt hại nặng nề nhất. Nhiệm vụ cứu trợ trở nên vô cùng cấp bách. Từ ngày 26 tháng 12 năm
1968 đến ngày 3 tháng 1 năm 1969, Trung đoàn 919 đã sử dụng Li-2 trực tiếp thả dù hàng cứu trợ xuống khu vực tiếp
nhận trọng điểm ở Mường Tè. Hàng cứu trợ được tập trung tại Gia Lâm. Các tổ bay thống nhất đường bay và cách thả
dù hàng, dẫn đường từng tổ bay tính toán các số liệu dẫn bay cụ thể và dự kiến cách xử lý các tình huống do thời tiết
xấu gây nên. Tuy đường xa, không có đầy đủ các thông tin cần thiết tại khu vực tiếp nhận hàng, nhưng 18 lần chuyến
Li-2 đã thả 163 chiếc dù hàng, gồm: 15,3 tấn gạo, 1 tấn muối và 1 tấn quần áo kịp thời tới tay đồng bào các dân tộc ở
Mường Tè. Đội ngũ dẫn đường trên không Li-2 đã dẫn bay thả dù hàng cứu trợ chính xác, trong điều kiện thời tiết
phức tạp, trên địa hình rừng núi sau khi bị mưa lũ tàn phá.

Trong trận lụt lịch sử ở miền Bắc năm 1971, hầu hết các khu dân cư ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Vĩnh Phú,
Hải Hưng, Hà Nam Ninh, Thái Bình và cả Hà Nội' đều bị lũ cuốn và úng ngập, hệ thống giao thông đường bộ giữa các
tỉnh đồng bằng bị tắc nghẽn. Trung đoàn 919 đã huy động toàn bộ lực lượng và khả nàng của mình, lấy sân bay Bạch
Mai làm căn cứ xuất phát và tổ chức hoạt động liên tục trong 14 ngày đêm từ ngày 20 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9 năm
1971, để tiếp nhận và vận chuyển hàng. Tổ bay Il-14-482 mở màn, hoàn thành xuất sắc chuyến bay chuyên cơ chở
Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đi thị sát. Căn cứ vào điều kiện tiếp nhận hàng của từng địa phương, trung đoàn đã giao
cho từng loại máy bay Il-14, Li-2, An-2 và trực thăng Mi-6, Mi-4 đảm nhiệm từng khu vực, dẫn đường từng tổ bay
chủ động tính toán đường bay và cách thả hàng. Trung đoàn đã thực hiện 570 chuyến bay, vận chuyển được hơn 500
tấn hàng cứu trợ, trong đó có: 283 tấn lương thực, 27 tấn vải vóc, 211 tấn hàng hộ đê; cơ động, sơ tán 2.693 lượt người
và 5 ô tô…

Tại những nơi bị lụt nặng, dẫn đường trong các tổ bay đã kết hợp chặt chẽ giữa dẫn bay bằng thiết bị (khí
tài) và dẫn bay bằng địa tiêu, trong lúc nước ngập trên diện rộng đã làm cho bề mặt địa hình biến đổi khác thường, rất
khó nhận biết để đến đúng từng vị trí quy định, xuống thật thấp với tốc độ nhỏ để thả trực tiếp các thùng bánh mỳ,
lương khô, thuốc men, quần áo, phao cứu sinh… đến tay nhân dân. Các tổ bay trực thăng đã đến những vị trí xung yếu
nhất, đưa dân đi sơ tán, đặc biệt Mi-6 đã thực hiện cẩu những tấm pa nen, những giọ đá nặng hàng chục tấn để hàn
khẩu đoạn đê Nhất Trai (Gia Lương).

Đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn không quân 919 đã không quản ngại khó khăn, làm việc hết
mình với tinh thần “tất cả vì sinh mạng và tài sản của nhân dân". Đón trước một trong những nhiệm vụ quan trọng mà
không quân ta sẽ phải thực hiện là phục vụ các đoàn đại biểu và khách cấp cao của Đảng và Nhà nước đi công tác
nước ngoài, tháng 2 năm 1969 Binh chủng đưa tổ bay bay II-18: lái chính Võ Quang Bốn, Đỗ Ngọc Thăng, dẫn đường
trên không Nguyễn Cảnh Phiên, thông tin trên không Ngô Hồng Nhung, Trần Trung Quý và Ngô Sĩ Tứ sang Liên Xô
để huấn luyện nâng cao trình độ lái và dẫn đường, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ bay chuyên cơ đi nước ngoài. Tổ bay
được bay huấn luyện theo đường bay: Tas-ken - Max- cơ va - Ir-kusk - Lê-nin-grad - Tas-ken, chủ yếu là bay đêm với
cường độ 4 đêm trong 1 tuần, sau 4 tháng phải đạt 390 giờ bay. Đến tháng 7 năm 1969, kết thúc huấn luyện, tổ bay
của ta đã được bạn phê chuẩn đủ điều kiện bay chở khách trên các đường bay quốc tế.

Cuối năm 1969, tổ bay Il-18: Bốn-Thăng-Phiên-Quý-Tứ đã hoàn thành tốt chuyến bay chuyên cơ đưa Thủ
tướng Phạm Văn Đồng, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, Quốc trưởng Xi-ha-núc sang Trung Quốc họp hội nghị cấp cao
ba nước Đông Dương.

Để phục vụ cho việc đi lại cửa Đoàn đại biểu nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do cố vấn đặc biệt Lê Đức
Thọ dẫn đầu và đoàn đại biểu Cộng hoà miền Nam Việt Nam do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình dẫn đầu,
ngày 8 tháng 5 năm 1970, tổ bay Bốn-Thăng-Phiên-Quý-Tứ đã điều khiển chiếc máy bay II-18, số hiệu 195 thực hiện
chuyến bay chuyên cơ, theo đường bay: Hà Nội-Bắc Kinh (nghỉ lại) - Ir-kusk - Moscow (nghỉ lại) - Paris. Đây là
chuyến bay chuyên cơ đầu tiên của không quân ta theo các đường bay quốc tế, qua nhiều quốc gia Châu Á, châu Âu
khác nhau. Công tác dẫn đường đã được chuẩn bị chu đáo, thực hành chính xác theo đúng các quy định dẫn bay của
hàng không quốc tế và không để xảy ra bất cứ một sai sót nào. Trên đoạn bay qua vùng biển quốc tế ở biển Bắc, không
quân của khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương đã cho 4 chiếc F4, phân thành từng đôi, kèm sát hai bên máy bay ta trong
suốt 12 phút bay, có lúc hai bên còn nhìn rõ mặt nhau. Dẫn đường tổ bay đã cùng với các thành viên khác bình tĩnh xử
lý tốt trước hành động khiêu khích trắng trợn này bằng cách dẫn bay chính xác không lệch khỏi trục đường bay quốc
tế quá 10km. Sau khi lần lượt liên lạc tốt với chỉ huy đường dài, tiếp cận và đài chỉ huy của sân bay quốc tế Lơ-buốc-
giê (Pháp), tổ bay thực hiện đúng các huấn lệnh (khẩu lệnh không lưu) và vào hạ cánh an toàn.

Trong năm 1970, tổ bay II-18: Bốn-Thăng-Phiên-Quý-Tứ còn thực hiện 10 chuyến bay nữa theo hành trình
trên, thời gian mỗi chuyến cả đi và về khoảng 48 giờ. Ngoài ra tổ bay còn thực hiện các chuyến bay con thoi: Moscow
- Paris - Moscow, trung bình mỗi tuần hai chuyến, thời gian mỗi chuyến khoảng 12 giờ. Tất cả đều được hoàn thành
rất tốt.

2. Đào tạo, huấn luyện và kiện toàn cáo tổ chức dẫn đường.

Thực hiện sự chỉ đạo của Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng, tháng 3 năm 1964, khoá đào tạo
tập trung dẫn đường sở chỉ huy ở trong nước đầu tiên, gồm 25 học viên (Nguyễn Đình Anh, Vũ Đức Bình, Nguyễn
Chuẩn, Trần Xuân Dung, Đinh Minh Đức, Nguyễn Văn Được, Bùi Hữu Hành, Lê Thiết Hùng, Hà Đăng Khoa,
Nguyễn Đăng Khôi, Trần Kỳ, Bùi Thanh Liêm, Phạm Văn Nho, Võ Phái, Nguyễn Quang Sáng,… Thái, Phạm Công
Thành, Đào Công Thạnh, Khổng Đức Thi, Phạm Từ Tình, Trịnh Văn Tuất, Nông Đình Xe…) từ nhiều đơn vị khác
nhau trong Quân chủng đã được triệu tập và tổ chức khai giảng tại sân bay Bạch Mai.

Đồng chí Nguyễn Văn Chuyên, trợ lý Ban dẫn đường, được cử làm giáo viên. Tất cả các tài liệu, giáo án và
dụng cụ giảng dạy cần thiết cho khoá đào tạo đều do anh chủ động thu thập đầy đủ và chuẩn bị hết sức chu đáo. Với
trình độ chuyên ngành vững vàng, khả năng sư phạm tốt và rất có trách nhiệm trong mọi công tác, anh đã đảm nhiệm
toàn bộ công việc lên lớp lý thuyết và hướng dẫn thực hành dẫn đường. Học viên hăng say học tập, nhanh chóng tiếp
thu những kiến thức chung và những kiến thức cơ bản về dẫn đường từ mặt đất, tập trung nghiên cứu cách dẫn MiG-
17A, loại máy bay tiêm kích đang được trang bị cho Trung đoàn không quân 921. Cách nơi học tập không xa, có Sở
chỉ huy Quân chủng và C-29A, đây là một trong những điều kiện thuận lợi để học viên tiếp xúc thực tế.

Kết quả đào tạo rất khả quan. Hầu hết học viên đều thành thạo tác nghiệp bản đồ, dẫn bay trên bàn dẫn
đường (Một hình thức dẫn bay sáng tạo của không quân Trung Quốc, nhiều nước khác chỉ tổ chức dẫn bay trên hiện
sóng) và trên hiện sóng; ước lượng, tính nhẩm dẫn bay nhanh chóng và chính xác; thuần thục cách làm các phương án
dẫn bay huấn luyện và chiến đấu… Đặc biệt là ai cũng giỏi đánh dấu đường bay cả trên bàn dẫn đường và trên bảng
tiêu đồ xa. Sau 11 tháng miệt mài học tập, đầu năm 1965, khoá đào tạo dẫn đường sở chỉ huy làm lễ bế giảng, 25 học
viên đều tốt nghiệp, 15 người được điều về ngay Trung đoàn 921 và giáo viên Nguyễn Văn Chuyên trở lại Ban dẫn
đường Quân chủng. Còn 10 người (Nguyễn Đình Anh, Vu Đức Bình, Nguyễn Chuẩn, Trần Xuân Dung, Lê Thiết
Hùng, Hà Đăng Khoa, Nguyễn Quang Sáng, phạm Từ Tịnh, Đào Công Thạnh, Trịnh Văn Tuất) được chuyển sang
"Công trường 300" tại Mỏ Chén học sử đụng các loại radar mới (sau đó bổ sung thêm đồng chí Đào Ngọc Ngư, trợ lý
Ban dẫn đường). Lớp học này do chuyên gia Liên Xô giảng dạy. Học viên của lớp tập trung học cách sử dụng các loại
radar: P-30, P-35, PRV-11, P-12 và P-15, được luyện tập thao tác trên máy và được dẫn trên máy tập T-30. Lớp học
khai giảng ngày 1 tháng 5 và kết thúc vào tháng 9 năm 1965. Sau đó, 4 người được điều về Ban dẫn đường Quân
chủng, 3 người về tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 và 3 người về tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923.
Trải qua thực tiễn công tác, cả thầy và trò đã cùng nhau dẫn đánh thành công nhiều trận quan trọng, nhất là
trong giai đoạn đầu của mặt trận trên không, đều trưởng thành trong ngành Dẫn đường và tiếp tục phát huy tốt các tố
chất dẫn đường sau khi được điều động sang các cương vị công tác khác.

Căn cứ vào kết quả công tác tại Sở chỉ huy Quân chủng của nhân viên tiêu đồ gần Lê Thành Chơn (người
duy nhất được đào tạo ở Trung Quốc) và khả năng tiếp thu kiến thức dẫn đường của anh, được sự đồng ý của cấp trên,
trong năm 1965, Ban dẫn đường Quân chủng đã lập kế hoạch và thực hiện đào tạo tại chức thành công cho học viên
Lê Thành Chơn.

Anh trở thành trợ lý dẫn đường của ban và đã dẫn chính trên bàn dẫn đường tại Sở chỉ huy Quân chủng
trong các trận đánh ngày 6 tháng 11 năm 1965, biên đội MiG-17: Hanh-Nhung-Lan-Phương bắn rơi 1 CH-47 tại Chợ
Bến; ngày 29 tháng 4 năm 1966, biên đội MiG-17: Kình-Nhuần-Tào-Sưu (Bản can trận đánh) bắn rơi 1 AD-5 tại Suối
Rút; ngày 29 tháng 9 năm 1966, phi công MiG-17 Nguyễn Biên bắn rơi 1 máy bay không người lái tại Việt Trì và dẫn
trên hiện sóng trong các trận đánh ngày 5 tháng 12 năm 1966, đôi bay MiG-21 Kính-Nhu (đánh buổi sáng), đôi bay
MiG-21 Đỉnh-Hiếu (đánh buổi chiều) bắn rơi 2 F105 tại khu chiến Vĩnh Yên-Đại Từ-Đoan Hùng. Đồng chí Lê Thành
Chơn còn cùng với các trợ lý khác của Ban dẫn đường Quân chủng tham gia dẫn nhiều trận đánh trong những năm
tiếp theo.

Giữa năm 1964, được sự giúp đỡ của bạn, 24 học viên đã được tuyển chọn để đưa đi đào tạo tập trung dẫn
đường sở chỉ huy ở Trung Quốc. Trong đoàn đi học lần này, có 2 học viên nhập ngũ năm 1959 (Lê Từ Bi và Lưu Văn
Cộng), 6 học viên nhập ngũ năm 1961 (Lê Viết Diện, Trần Hồng Hà, Đỗ Cát Lâm, Lưu Văn Lộc, Hoàng Minh Nam và
Lê Quang Nhận) và còn lại 16 học viên đều nhập ngũ năm 1963 (Hoàng Cảnh, Nguyễn Cửu, Đặng Dũng, Nguyễn
Dũng, Hoàng Nhân Giá, Nguyễn Hoàng Hải, Ngô Mạnh Hùng, Tạ Quốc Hưng, Vũ Duy Hưởng, Phạm Văn Khả, Lê
Kiếu, Nguyên Văn Lạng, Nguyễn Quang Thản, Hoàng Kế Thiện, Trần Đức Thuỷ, Trần Đức Tụ). Sau khi tham gia
huấn luyện quân sự ở sân bay Cát Bi, tất cả các học viên được chuyển lên Trường Văn hoá quân đội ở Lạng Sơn để
học tiếng Trung Quốc.

Ngày 23 tháng 8 năm 1964, đoàn lên đường. sang Trung Quốc. Sau khi học thêm tiếng Trung Quốc ở Tây
An (Thiểm Tây), đoàn vào Trường Hàng không Nam Uyển (Bắc Kinh) học chuyên môn. Với thời gian đào tạo 17
tháng, học viên được tiếp nhận một khối kiến thức rất cơ bản, toàn diện và sâu sắc, học lý thuyết luôn gắn liền với
thực hành. Nội dung trọng tâm của khoá học bao gồm: lý thuyết dẫn đường sở chỉ huy, ước lượng, tính nhẩm dẫn bay,
chiến thuật không quân tiêm kích và chiến thuật dẫn đường (cách dẫn theo cách đánh), radar và phương pháp dẫn trên
hiện sóng; luyện tập tác nghiệp dẫn MiG-17 đánh ngày và đêm trên bàn dẫn đường. Lớp đào tạo còn được nghiên cứu
lý thuyết dẫn đường trên không, luyện tập thực hành dẫn bay trên máy bay II-14, bom đạn và ngòi nổ, các phương
pháp ném bom và luyện tập thực hành ném bom trên máy tập, cũng như lý thuyết khí động lực học, khí tượng và cách
dự báo thời tiết. Đến cuối khoá, số học viên tốt nghiệp đạt chất lượng cao chiếm đa số (18/23). Riêng học viên Ngô
Mạnh Hùng phải về nước nước do sức khoẻ yếu.

Tháng 1 năm 1966, đoàn về nước. 8 người được điều về Ban dẫn đường Quân chủng, 6 người về tiểu ban
dẫn đường Trung đoàn 921 và 9 người về tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923.

Trong suốt thời gian công tác tại các đơn vị, đặc biệt là được trực tiếp dẫn đánh địch trong giai đoạn rất khó
khăn, quyết liệt của mặt trận trên không những năm 1967 và 1968, khoá đào tạo dẫn đường sở chỉ huy ở Trung Quốc
năm 1964-1966 đã nhanh chóng trở thành lực lượng nòng cốt ở 2 tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 và Trung đoàn
923 dẫn MiG-17 và MiG-21 lập nên những chiến công vang dội.
Tháng 10 năm 1967, Quân chủng tổ chức chiêu sinh 31 học viên, từ các đơn vị không quân, đã tham gia
học lái máy bay ở nước ngoài, nhưng không còn đủ điều kiện để tiếp tục bay nữa và đã học dẫn đường trên không,
nhưng không dẫn được hết 1 khí tương để đào tạo tập trung dẫn đường sở chỉ huy tại Yên Cốc thuộc xã Hồng Phong,
huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Học viên được chia thành hai lớp, lớp 4A (Gồm 16 người: Hoàng Đức Hạnh, Đặng
Văn Hảo, Hoàng Ngọc Hớn, Nguyễn Đức Hợp, Nguyễn Văn Lâm, Lưu Đức Ngân, Đinh Văn Nghĩa, Trần Xuân
Nhuận, Nguyễn Xuân Phong, Dương Minh Phương, Lý Phương, Phạm Văn Quý, Phạm Thanh Soát, Nguyễn Hồng
Thái, Hoàng Trung Thông và Tạ Văn Vượng) và lớp 4B (Gồm 15 người: Vũ Ba, Nguyễn Đăng Điển, Nguyễn Văn
Đờn, Vương Kính, Đào Văn Phao, Trương Phượng, Đào Văn Thành, Nguyễn Hữu Thăng, Chu Đức Thoàn, Lường Tú
Thông, Phạm Tân Thuần, Ngô Tiện, Nguyễn Đức Trinh, Triệu Sĩ Việt và Lương Văn Vóc).

Đầu tháng 11 năm 1967, học viên của cả hai lớp được giáo viên lý thuyết bay Hoàng Thanh Cảnh và dẫn
đường trên không Lê Thế Hưng (đã dẫn bay An-2 thả hàng ở Vít Thù Lù và Chở quân trong chiến dịch Nậm Thà, là
giáo viên dẫn bay Li-2 Trường Huấn luyện Hàng không) tập trung hệ thống hoá toàn bộ phần kiến thức cơ bản về lý
thuyết bay và dẫn đường trên không, đồng thời phân tích sâu thêm những nội dung gắn liền với công tác dẫn đường sở
chỉ huy. Tiếp theo, giáo viên Phạm Từ Tịnh (trợ lý Ban dẫn đường Binh chủng, dẫn chiến đấu thành thạo cả tại sở chỉ
huy và trên hiện sóng) đảm nhiệm toàn bộ môn học dẫn đường sở chỉ huy. Học viên học lý thuyết đến đâu, được làm
bài tập và tổ chức thực hành ngay đến đấy.

Lớp 4A, với thời gian đào tạo 8 tháng, đã kết thúc vào tháng 6 năm 1968. Còn lớp 4B, sau khi học thêm 4
tháng nữa - đào tạo 12 tháng, đã kết thúc vào tháng 10 năm 1968. 31 người của hai lớp đều được lần lượt điều về các
trung đoàn 921, 923, Tiểu đoàn 929 (Vũ Ba) và Đoàn Z (Ngô Tiện).

Trong quá trình đào tạo phi công ở Ba Lan, có 5 học viên (Lương Văn Dình, Nguyễn Thanh Hải, Nguyễn
Văn Hưng, Phạm Công Kim và Trần Xuân Mão), do không còn đủ điều kiện để tiếp tục bay nữa, đã được bạn chuyển
ngay sang đào tạo dẫn đường trên hiện sóng. Nội dung đào tạo tập trung vào công tác dẫn đường trên hiện song cả về
lý thuyết và thực hành. Thời gian đào tạo từ tháng 3 năm 1968 đến tháng 10 năm 1969. Sau khi về nước, 2 người được
điều ngay về Ban dẫn đường Binh chủng, 1 người về tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 và 2 người về tiểu ban dẫn
đường Trung đoàn 925.

Tháng 9 năm 1969, Quân chủng tiếp tục tổ chức chiêu sinh 20 học viên (Nguyễn Đình Bắc, Chiến, Võ
Xuân Cự, Nguyễn Hữu Hảo, Bùi Ngọc Huấn, Nguyễn Ngọc Hữu, Vũ Chí Khai, Nguyễn Văn Năm, Tống Bá Nhưỡng,
Quyên, Nguyễn Ngọc Rụ, Lý Minh Tăng, Đỗ Xuân Thành, Nguyễn Văn Thành, Dương Văn Thảo, Nguyên Văn
Thịnh, Phạm Tường Thuật, Trần Văn Thức, Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Hồng Xiêm) từ các đơn vị không quân đã tham
gia học lái máy bay ở nước ngoài, nhưng không có điều kiện tiếp tục bay nữa để đào tạo tập trung dẫn đường sở chỉ
huy ở trong nước tại Quảng Bị (huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây).

Do đối tượng đào tạo của khoá này tương tự như khoá ở trong nước tại Yên Cốc, nên nội dung đào tạo, về
cơ bản vẫn được giữ nguyên. Tháng 10 năm 1970, kết thúc khoá đào tạo (13 tháng), toàn bộ học viên đều được điều
về các tiểu ban dẫn đường các trung đoàn 921, 923 và 925.

Đầu năm 1965, công tác huấn luyện tại chức cho đội ngữ dẫn đường sở chỉ huy được tập trung triển khai ở
tiểu ban dẫn đường Trung đoàn không quân 921 cho 15 trợ lý dẫn đường, tốt nghiệp khoá đào tạo tại Bạch Mai năm
1964-1965. Căn cứ vào kết quả học tập cụ thể của từng người trong quá trình đào tạo, tiểu ban tiến hành phân nhóm,
đa số được đưa vào huấn luyện chuyên sâu dẫn đường tại sở chỉ huy, còn một số ít sẽ tiến hành học tập công tác dẫn
đường tại đài chỉ huy bay. Sau khi được giới thiệu tình hình cụ thể của đơn vị và hướng dẫn ôn tập lý thuyết, từng
nhóm bắt tay ngay vào nghiên cứu các phương án dẫn đường chiến đấu và học tập thứ tự, nội dung các bước công tác
trực ban dẫn đường của trung đoàn tại sở chỉ huy và tại đài chỉ huy bay, đồng thời luyện tập tác nghiệp và tham gia
trực kèm dẫn thực hành MiG-17 bay huấn luyện cơ bản và ứng dụng chiến đấu.Khoảng giữa năm 1965, xuất phát từ
thực tiễn phục vụ chiến đấu, ban dẫn đường đã tiến hành cấp tốc bồi dưỡng nghiệp vụ cho trợ lý Nguyễn Văn Chuyên,
từ dẫn trên hiện sóng sang dẫn tại sở chỉ huy vì khi đó, khối lượng công việc dẫn đường tại Sở chỉ huy Quân chủng
ngày càng tăng mà chỉ có 1 trợ lý là Trần Quang Kính đảm nhiệm. Hình thức huấn luyện dẫn đường tại chức mới được
hình thành là đồng hoá nghiệp vụ giữa hai vị trí trực ban rất quan trọng là dẫn tại sở chỉ huy và dẫn trên hiện sóng.

Đến tháng 9 năm 1965, công tác huấn luyện dẫn đường tại chức được đồng thời tiến hành ở cả ban và 2 tiểu
ban dẫn đường các trung đoàn không quân 921, 923 cho 10 trợ lý vừa được học dẫn đường trên hiện sóng ở "Công
trường 300" trở về đơn vị. Nội dung huấn luyện được thống nhất từ trên xuống dưới và chủ yếu đi vào huấn luyện
thực hành ngay trên máy. Đối với bất kỳ trợ lý dẫn đường nào, ai qua trực kèm vững vàng, sau khi kiểm tra lý thuyết
và dẫn thực hành đạt yêu cầu mới được phê chuẩn vào trực chính.

Qua tập trung huấn luyện chuyên sâu và phát huy kết quả huấn luyện đồng hoá giữa hai vị trí trực ban chủ
yếu, nhiều trợ lý mới như: Phạm Từ Tịnh, Phạm Công Thành, Hà Đăng Khoa, Nguyễn Chuẩn… đã dẫn thành thạo
trên bàn dẫn đường, Vũ Đức Bình, Nguyễn Quang Sáng, Lê Thiết Hùng, Trần Xuân Dung… đã dẫn thành thạo trên
hiện sóng; có những trợ lý như: Phạm Từ Tịnh, Vũ Đức Bình đã dẫn thành thạo trên cả 2 vị trí. Họ vững vàng bước
vào dẫn chiến đấu.

Trong nhiều năm tiếp theo, các hình thức và nội dung huấn luyện dẫn đường tại chức cho đội ngũ dẫn
đường sở chỉ huy ngày càng được củng cố và phát triển. Huấn luyện bổ sung (học thêm những nội dung cụ thể theo
yêu cầu thực tế của từng đơn vị) luôn được tiến hành kịp thời, huấn luyện chuyên sâu hai vị trí trực ban chủ yếu
thường xuyên được giữ vững, huấn luyện chuyển loại MiG-21PFL-76, MiG-17F và PF năm 1965, MiG-21F-13, F-94
(PFM) năm 1967, MiG-19 năm 1969, MiG-21F-96 (MF) năm 1971-1972 và L-29 năm 1973 đạt hiệu quả cao, đồng
thời gắn liền với yêu cầu cơ động chiến đấu trên diện rộng của Quân chủng. Trình tự huấn luyện: học tập, kiểm tra,
phê chuẩn luôn được giữ nghiêm.

Trải qua thực tiễn hoạt động của mình, ngành Dẫn đường Không quân đã không ngừng làm phong phú
them các hình thức và nội dung huấn luyện tại chức cho đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy, tổ chức nhân rộng và phát huy
để trở thành một truyền thống tốt đẹp trong công tác huấn luyện dẫn đường. Ngành Dẫn đường luôn khắc phục mọi
khó khăn, nỗ lực duy trì tốt công tác huấn luyện dẫn đường tại chức lúc nhiệm vụ chiến đấu rất căng thẳng như trong
những năm từ 1966 đến 1968 và 1972, đồng thời tập trung triển khai có hiệu quả khi ta có điều kiện củng cố xây dựng
lực lương vào các năm từ 1969 đến 1971 và 1973, 1974.

Ngay từ đầu năm 1964, được sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng Phòng Tác chiến, Ban dẫn đường Quân
chủng với quân số chỉ có bơn người, đã hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan Quân báo, Thông tin, Radar…, tập trung
toàn lực thực hiện tốt chức năng làm tham mưu cho Bộ Tư lệnh Quân chủng về cách tổ chức dẫn máy bay ta đánh địch
trong quá trình xây dựng kế hoạch tác chiến chống lại các hoạt động trường không khiêu khích, phá hoại miền Bắc
của Mỹ-nguỵ và xây dựng quyết tâm mở mặt trận trên không đánh thắng không quân Mỹ.

Ngày 16 tháng 2 năm 1964, Ban dẫn đường trực tiếp dẫn T-28 bắn rơi C-123 của địch. Từ tháng 3 năm
1964, ban cử trợ lý Nguyễn Văn Chuyên phụ trách khoá đào tạo tập trung 25 dẫn đường từ mặt đất tại Bạch Mai trong
thời gian một năm nhằm tạo nguồn cho toàn ngành, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu dẫn tiêm kích của ta đánh địch khi Quân
chủng mở mặt trận trên không. Ngày 6 tháng 8 năm 1964, Ban dẫn đường tham gia dẫn toàn bộ MiG-17 của Trung
đoàn không quân 921 chuyển sân từ nước bạn về sân bay Nội Bài, đồng thời trực tiếp tổ chức thực hiện bảo đảm dẫn
đường cho trung đoàn khi triển khai bay huấn luyện.

Trong suốt tám tháng đầu năm 1965, chỉ với ba trợ lý: Trần Quang Kính, Nguyễn Văn Chuyên và Đào
Ngọc Ngư, Ban dẫn đường đã tổ chức trực ban chiến đấu liên tục tại sở chỉ huy và trên hiện sống, tiến hành dẫn MiG-
17 của Trung đoàn 921 đánh thắng trận đầu và nhiều trận tiếp theo. Khoảng giữa năm 1965, mặc dù phải trực chiến
liên tục nhưng ban đã sáng tạo ra hình thức huấn luyện dẫn đường tại chức đồng hoá nghiệp vụ. Đến tháng 8 và tháng
9 năm 1965, sau khi Quân chủng điều động xong đội ngũ dẫn đường theo yêu cầu thành lập Trung đoàn 923, Ban dẫn
đường mới được bổ sung ba trợ lý từ lớp học tại "Công trường 300" về là: Phạm Từ Tịnh, Vũ Đức Bình dẫn được hai
vị trí và Nguyễn Quang Sáng chuyên dẫn trên hiện sóng. Các trợ lý Vũ Đức Bình đã dẫn thành công trên hiện sóng và
Phạm Từ Tịnh đã dẫn thành công tại sở chỉ huy ngay trong lần dẫn chiến đấu đầu tiên của mình. Với tinh thần chủ
động, tích cực đào tạo tại chức, cuối năm 1965, ban có thêm trợ lý dẫn đường Lê Thành Chơn vào trực. Ban dẫn
đường Quân chủng đã góp phần bắn rơi 12 máy bay địch với 5 kiểu loại khác nhau cho mặt trận trên không giành
thắng lợi trong giai đoạn mở đầu.

Từ cuối năm 1965, Ban dẫn đường đã kịp thời nghiên cứu đề xuất cách thức tổ chức dẫn đường chiến đấu
hai cấp Đầu năm 1966, ban cùng với các tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 92 1 và Trung đoàn 923 đã thực hiện dẫn
thành công một số trận theo cách thức trên. Cuối tháng 4 năm 1966, với kết quả tổ chức dẫn MiG-17 đánh địch từ ba
sân bay: Nội Bài, Kép, Kiến An, đã hình thành được một tam giác dẫn đường chiến đấu từ mặt đất đầu tiên trên miền
Bắc. Từ tháng 6 năm 1966, ban cùng với tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 tổ chức dẫn MiG-17 cơ động chiến đấu
liên tục trên các sân bay Nội Bài, Kép, Gia Lâm và Kiến An. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy của toàn ngành phải trải
rộng tại tất cả các sở chỉ huy và đại đội radar dẫn đường. Cuối tháng 4 năm 1966, từ những trận MiG-21 đánh không
thành công, căn cứ vào yêu cầu của bộ chỉ huy các cấp, ban cùng với tiểu ban dẫn đường trung đoàn 921 tiến hành
tổng hợp, phân tích các số liệu bay, đối chiếu kết quả thực tế phóng tên lửa của phi công với các điều kiện tiêu chuẩn
tìm ra cách dẫn thích hợp cho MiG-21, củng cố niềm tin dẫn MiG-21 đánh thắng bằng tên lửa. Từ tháng 8 năm 1966,
Ban dẫn đường ìn chủng thực hiện dẫn chính MiG-17 và MiG-21 đánh hợp, hiệp đồng, góp phần quan trọng nâng cao
hiệu của cách thức tổ chức dẫn đường chiến đấu hai cấp.

Trong năm 1966, Ban dẫn đường Quân chủng còn phối chặt chẽ với lực lượng An-2 xây dựng các phương
án dẫn tập kích tàu biệt kích địch trên vùng biển gần ở phía đông Thanh Hoá, đồng thời bố trí các trợ lý của mình
thường xuyên có mặt tại sở chỉ huy và trên hiện sóng tại các đại đội ta dẫn đường theo dõi và sẵn sàng hỗ trợ xử lý các
tỉnh huống trong suốt quá trình An-2 thực hiện nhiệm vụ.

Tháng 1 năm 1966, Ban dẫn đường được bổ sung them trợ lý (Lê Từ Bi, Lưu Văn Cộng, Hoàng Cảnh, Lê
Viết Diện, Đặng Dũng, Nguyễn Dũng, Phạm Văn Khả và Lê Kiếu) tốt nghiệp khoá đào tạo ở Trung Quốc.

Như vậy, trong thời gian từ đầu năm 1964 đến giữa là 3 năm 1967 (trước khi thành lập Binh chủng Không
quân), Ban dẫn đường Quân chủng Phòng không - Không quân đã làm nổi bật chức năng dẫn bay đánh mục tiêu trên
không, giữ vững chất lượng huấn luyện dẫn đường tại chức, kịp thời tháo gỡ khó khăn và sử dụng có hiệu quả về quân
số dẫn đường.

***

Ngày 3 tháng 2 năm 1964, Trung đoàn 921 được thành lập, nhưng trước đó, trong văn bản đề nghị của
Quân chủng gửi lên Bộ (Biên chế Trung đoàn không quân 921 số 221/B-5, ngày 22 tháng 12 năm 1963 do trung tá
Hoàng Ngọc Diêu, Tham mưu phó Quân chủng ký thay Tham mưu trưởng Quân chủng và được Bộ duyệt tháng 2 năm
1964) đã ghi rõ trong Ban Tham mưu có:

- Chủ nhiệm Dẫn đường bay: 1, cấp bậc: Thiếu uý, trung uý. Hiện có 1: đồng chí Phạm Ngọc Lan.

- Trợ lý Dẫn đường tác chiến: 12, cấp bậc: Thiếu uý, trung uý. Hiện có 2: đồng chí Bùi Quang Liên và
Phạm Minh Cậy (Từ Ban dẫn đường Quân chủng xuống).

Như vậy, về cơ cấu tổ chức của tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 đã được xác định rất rõ từ vị trí, chức
danh, thành phần, cấp bậc đến biên chế quân số. Nhưng vào năm 1964, Quân chủng chỉ có một trung đoàn không quân
tiêm kích, nên việc tổ chức dẫn bay huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của trung đoàn, cơ bản đều do Ban dẫn đường
Quân chủng chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, khối lượng công tác dẫn đường sở chỉ huy trong trung đoàn không quân
tiêm kích so với công tác dẫn đường trên không là rất lớn. Để giải quyết tốt công tác trọng tâm này, đồng chí Bùi
Quang Liên đã được cử làm Trưởng Tiểu ban và cùng với đồng chí Phạm Ngọc Lan, Chủ nhiệm Dẫn đường tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ dẫn đường do trung đoàn giao cho.

Đầu năm 1965, sau khi được bổ sung 15 trợ lý dẫn đường mới (Đinh Minh Đức, Nguyễn Văn Được, Bùi
Hữu Hành, Hà Đăng Khoa, Nguyễn Đình Khôi, Trần Kỳ, Phạm Văn Nho, Phạm Công Thành, Khổng Đức Thi, Nông
Đình Xe…), tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 đã kịp thời triển khai công tác huấn luyện dẫn đường tại chức và lần
lượt đưa các trợ lý có đủ trình độ vào đảm nhiệm từng phần nhiệm vụ dẫn MiG-17 bay huấn luyện và trực chiến.
Trưởng Tiểu ban Bùi Quang Liên trực tiếp quản lý và điều hành công việc của các trợ lý dẫn đường sở chỉ huy.

Tháng 8 năm 1965, sau khi có quyết định thành lập Trung đoàn không quân 923, quân số trợ lý của tiểu ban
dẫn đường Trung đoàn 921 giảm xuống còn 10 (7 trợ lý chuyển sang Trung đoàn không quân 923), đến tháng 9 được
bổ sung thêm 3 trợ lý dẫn đường hiện sóng từ “Công trường 300" (Nguyễn Đình Anh, Lê Thiết Hùng và Trịnh Văn
Tuất), nhưng nhiệm vụ lại phức tạp hơn, vì trung đoàn được biên chế 1 đại đội bay MiG-21PFL, 1 đại đội bay đêm
MiG-17PF và 1 Đại đội bay Il-28. Tiểu ban phải tập trung ngay vào nhiệm vụ huấn luyện chuyển loại. Do đó, những
trận đánh của trung đoàn trong năm 1965, vẫn do các kíp trực Ban dẫn đường Quân chủng thực hiện.

Tháng 1 năm 1966, trong lúc công tác chuẩn bị chiến đấu đang rất khẩn trương, tiểu ban dẫn đường Trung
đoàn 921 vẫn tranh thủ tổ chức huấn luyện tại chức cho sáu trợ lý dẫn đường mới tất nghiệp ở Trung quốc về đơn vị
(Tạ Quốc Hưng, Hoàng Kế Thiện, Trần Đức Thuỷ, Trần Đức Tụ…). Ngày 3 tháng 2 năm 1966, tiểu ban trực tiếp dẫn
MiG-17PF của đơn vị đánh đêm trận đầu tiên, bắn rơi 2 A-6. Ngày 4 tháng 3 năm 1966, tiểu ban thực hiện dẫn chính
hai trận liên tiếp cho MiG-21 của trung đoàn bắn rơi 1 máy bay không người lái BQM-34A ở độ cao 19.500m và
MiG-17 của đơn vị bạn đánh thắng trận đầu bắn rơi 1 F4. Đầu tháng 12 năm 1966, trong nhiệm vụ dẫn MiG-21, tiểu
ban đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, củng cố niềm tin dẫn MiG-21 đánh bằng tên lửa, vươn lên dẫn đánh
thành công hàng loạt trận quan trọng, tạo đà cho MiG-21 đánh thắng giòn giã trong năm 1967. Khi tham gia dẫn MiG-
17 của Trung đoàn 923, cơ động trực chiến tại Nội Bài, tiểu ban thường xuyên và liên tục làm tốt công tác hiệp đồng,
góp phần dẫn đánh nhiều trận đạt hiệu quả cao. Năm 1966; cùng với sự phát triển chung của Trung đoàn 921, tiểu ban
dẫn đường đã không ngừng được kiện toàn về tổ chức và đã từng bước vững chắc thực hiện đầy đủ chức năng và
nhiệm vụ của mình. Đây còn là mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của tiểu ban.

Trải qua thực tiễn chiến đấu, cách dẫn MiG-21 ngày càng trở nên phong phú. Từ tháng 2 năm 1966 đến
tháng 10 năm 1967 và ba tháng đầu năm 1968, MiG-21 tuy chỉ sử dụng một sân bay là Nội Bài để đánh địch, nhưng
tiểu ban dẫn đường đã tiến hành dẫn nhiều trận không những với hướng xuất kích liên tục thay đổi làm cho địch luôn
bị bất ngờ tại nhiều khu vực khác nhau trên miền Bắc mà còn rất khôn khéo trong dẫn về hạ cánh an toàn. Từ tháng 7
năm 1967, tiểu ban dẫn đường phát huy thế mạnh của MiG-21 đánh địch từ xa, ngoài vòng hoả lực phòng không của
ta và khả năng cơ động linh hoạt của đôi bay ở độ cao từ 3.000 đến 5.000m, giữ vững cách dẫn tiếp địch với góc vào
từ 60 đến 70 độ và có tốc độ chênh lệch từ 100 đến 150km/h, tạo nên cách dẫn truyền thống của MiG-21. Trong hai
tháng cuối năm 1967, tiểu ban bắt đầu thực hiện dẫn MiG-21 cơ động chiến đấu trên các sân bay Gia Lâm, Kép, Kiến
An. Từ tháng 4 năm 1968 đến cuối năm 1971, khi MiG-21 vào đánh tại chiến trường Khu 4, tiểu ban vận dụng cách
dẫn cơ động liên tiếp với quá tải lớn để đánh tiêm kích địch. Năm 1972, tiểu ban dẫn đường phát triển cách dẫn truyền
thống, dẫn đôi bay MiG-21 đi thấp kéo cao, tiếp cận nhanh vào cuối đội hình của địch, tạo thuận lợi cho phi công lần
lượt hoặc đồng thời công kích, khi thoát ly cho thay đối độ cao đột ngột hoặc vọt lên hoặc lao xuống thấp và dẫn về hạ
cánh an toàn. Đây là mốc son của tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921, đóng góp vào chiến công chung đánh bại uy
thế của máy bay chiến thuật đa năng F4 và máy bay ném bom chiến lược B-52.

Do Trung đoàn 921 luôn được cấp trên giao cho sử dụng nhiều loại máy bay tiêm kích khác nhau như:
MiG-21PFL (PFL-76) mang 2 tên lửa và 1 pháo 23mm, MiG-17PF có radar bắt mục tiêu trên không, MiG-21F-13
mang 2 tên lửa và 1 pháo 30mm (tháng 7 năm 1967), MiG-21F-94 (PFM) mang 2 tên lửa và 1 pháo thuyền GP-9
(tháng 10 năm 1967), MiG-21F-96 (MF), mang 4 tên lửa và 1 pháo 23mm (cuối năm 1971, đầu năm 1972), nên tiểu
ban dẫn đường thường được tham gia huấn luyện chuyển đầu tiên, sớm tiếp thu những kiến thức mới về máy bay, về
cách dẫn và đi đầu trong vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn huấn luyện và chiến đấu.

Về quân số, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 thường được ưu tiên bổ sung như: từ tháng 6 đến tháng 10
năm 1968, thêm hơn 12 trợ lý (Hoàng Đức Hạnh, Đinh Văn Nghĩa, Nguyễn Đăng Điển, Đào Văn Thành, Nguyễn Đức
Trinh, Lương Văn Vóc…) và tháng 10 năm 1970, thêm 6 trợ lý (Tống Bá Nhưỡng, Lý Minh Tăng, Đỗ Văn Thành,
Phạm Tường Thuật, Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Hồng Xiêm), nhưng luôn sử dụng có hiệu quả, tổ chức rèn luyện tốt,
tuần tự đưa trợ lý mới có đủ bản lĩnh vào trực, thường xuyên có các kíp mạnh, đảm đương những nhiệm vụ khó khăn,
triển khai đầy đủ đội ngù của mình tại tất cả các sở chỉ huy và đại đội radar dẫn đường đáp ứng yêu cầu của người chỉ
huy. Khi Quân chủng, Binh chủng tiến hành điều động lực lượng, các trợ lý của tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921
tiếp tục phát huy hết khả năng công tác của mình, góp phần quan trọng xây dựng các tiểu ban dẫn đường các trung
đoàn 923, 925 và 927 vững mạnh.

***

Ngày 4 tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân 923 được thành lập, cũng là lúc ngành Dẫn đường Quân
chủng có thêm một tiểu ban mới. Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 gồm 7 trợ lý từ Trung đoàn không quân 921
chuyển sang (Nguyễn Văn Được, Bùi Hữu Hành, Hà Đăng Khoa, Nguyễn Đình Khôi, Trần Kỳ, Nông Đình Xe…) và
3 trợ lý mới từ "Công trường 300" về (Nguyễn Chuẩn, Trần Xuân Dung và Đào Công Thạnh). Đồng chí Nguyễn
Chuẩn giữ chức Trưởng Tiểu ban.

Sau khi ổn định tổ chức, tiểu ban bắt tay ngay vào xây dựng các phương án dẫn bay đánh địch bảo vệ vùng
trời đông bắc của Hà Nội, trước tiên là phương án dẫn bay đánh cường kích bảo vệ Đường 1 bắc: Hà Nội-Lạng Sơn và
tổ chức dẫn bay huấn luyện và trực ban sẵn sàng chiến đấu tại Kép.

Cuối năm 1965, khi Trung đoàn 923 chỉ để 4 chiếc MiG-17 trực chiến ở Kép, số còn lại đều ở Nội Bài, tiểu
ban dẫn đường đã kịp thời xây dựng các phương án dẫn bay đánh cường kích trên hướng tây nam và đông nam Hà
Nội, đánh cường kích bảo vệ Hải Phòng, đồng thời thường uyên thực hiện tốt công tác hiệp đồng với tiểu ban dẫn
đường Trung đoàn 921.
Đầu năm 1966, sau khi được bổ sung 9 trợ lý dẫn đường, tốt nghiệp khoá đào tạo tập trung ở Trung quốc
(Nguyễn Cửu, Trần Hồng Hà, Nguyễn Hoàng Hải, Vũ Duy Hưởng, Đỗ Cát Lâm, Lê Quang Nhận, Nguyễn Quang
Thản…), tiểu ban vừa tổ chức huấn luyện dẫn đường tại chức vừa triển khai chuẩn bị dẫn đánh trận đầu cho trung
đoàn tại cả hai sân bay Kép và Nội Bài. Như vậy, ngay từ đầu đội ngũ dẫn đường của Trung đoàn 923 đã phải cơ động
phân tán. Số trợ lý đã được phê chuẩn vào trực luôn phải có mặt ở hai nơi, nhịp độ làm việc rất khẩn trương và căng
thẳng, có ngày báo động chuyển cấp tới mười hai lần, có biên đội cất cánh tới bốn lần trong một ngày, nhưng chưa gặp
địch. Sau trận đầu đánh thắng vào ngày 4 tháng 3 năm 1966, tiểu ban đã dẫn chính thành công hai trận, bắn rơi 3 F4.

Từ tháng 6 năm 1966, Trung đoàn 923 bắt đầu cơ động một phần lực lượng của mình trực chiến tại Gia
Lâm, đội ngũ trợ lý dẫn đường của tiểu ban được bố trí rộng khắp tại các sở chỉ huy ở Kiến An, Nội Bài, Gia Lâm và
tại các đại đội radar dẫn đường khác nhau, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ tác chiến cơ động tạo thế trận đánh địch từ
nhiều sân bay của Quân chủng. Đến đầu năm 1967, phi công Phan Văn Túc được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Dẫn
đường trung đoàn (Lịch sử Trung đoàn Không quân 923 (1965-2000), Nxb Quân đội nhân dân; Hà Nội.2000, tr.52).
Tháng 2 năm 1967, Trung đoàn 923 chuyển toàn bộ lực lượng xuống Gia Lâm đóng quân để Đoàn Z sử dụng căn cứ
Kép. Từ tháng 3 năm 1967, đội ngũ trợ lý dẫn đường của tiểu ban lại toả rộng ra các vị trí trực ban trên hướng tây Hà
Nội để phục vụ trung đoàn triển khai cơ động trực chiến tại Hoà Lạc. Từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1967, tiểu ban đã
tham gia dẫn MiG-17 cơ động chuyển sân và đánh phục kích tại sân bay Kiến An. Năm 1966 và 1967 là những mốc
son đánh đấu sự cống hiến hết mình của tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923, dẫn MiG-17 phát huy sức mạnh và giữ
vững hiệu quả đánh địch.

Tháng 5 năm 1968, Trung đoàn 923 đưa một phần lực lượng của mình vào chiến trường Khu 4, cùng với
MiG-21 đánh địch. Đội ngũ trợ lý của tiểu ban dẫn đường lại tiếp tục lên đường. Phân tán rộng, cơ động nhanh đội
ngũ trợ lý dẫn đường theo kịp yêu cầu nhiệm vụ của trung đoàn đã trở thành truyền thống nổi bật của tiểu ban. Tiểu
ban dẫn đường luôn bảo đảm tốt cho tất cả các chuyến bay chuyển sân khi Trung đoàn 923 chuyển toàn bộ lực lượng
từ Thọ Xuân ra Hoà Lạc vào cuối năm 1968 và trở lại Kép cuối năm 1969.

Trong năm 1968, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 được bổ sung hai đợt trợ lý từ khoá đào tạo tại Yên
Cốc vào tháng 6 và tháng 10 (Đặng Văn Hảo, Nguyễn Đức Hợp, Dương Minh Phương, Vương Kính, Trương Phượng,
Phạm Tân Thuần, Triệu Sĩ Việt…). Tháng 2 năm 1969, trên điều động sáu trợ lý của trung đoàn sang Trung đoàn 925.
Đến tháng 10 năm 1969, thêm một trợ lý dẫn đường hiện song từ khoá đào tạo ở Ba Lan (Nguyễn Văn Hưng), tháng
10 năm 1970 thêm một số trợ lý (Nguyễn Đình Bắc, Nguyễn Ngọc Hữu, Dương Văn Thảo…) từ khoá đào tạo tại
Quảng Bị. Sau khi được huấn luyện dẫn đường tại chức, số trợ lý dẫn đường mới đã có trình độ vững vàng hơn. Trên
cơ sở quán triệt tốt nhiệm vụ tập trung củng cố lực lượng và huấn luyện nâng cao trình độ chiến đấu của Trung đoàn
923, tiểu ban đã nỗ lực tổ chức bảo đảm dẫn đường với chất lượng cao, góp sức hoàn thành tốt trên 6.000 lần/chuyến
với gần 2.400 giờ bay huấn luyện trong năm 1969, trên 4.000 lần/chuyến trong năm 1970 và trên 4.000 giờ bay trong
năm 1971, đặc biệt là bảo đảm cho đơn vị tổ chức huấn luyện bay biển ở độ cao cực thấp để đánh tàu bằng phương
pháp ném bom thia lia tại khu vực Đồ Sơn-Long Châu.

Bước vào năm 1972, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 tiếp tục thực hiện cơ động nhanh đội ngũ trợ lý,
hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn, dẫn đánh địch trong điều kiện hết sức khó khăn, góp phần tạo nên chiến công
đầu tiên cho không quân ta dùng máy bay tiêm kích MiG-17 mang bom tập kích trúng tàu khu trục của Mỹ, dẫn MiG-
17 bắn rơi 8 F4 đa năng và nhiều chiếc khác.
Căn cứ vào sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng của các lực lượng trong toàn Quân chủng, để
tạo điều kiện thuận lợi trong lãnh đạo, chỉ huy tổ chức chấp hành có hiệu quả các nhiệm vụ trên giao cho từng lực
lượng, ngày 24 tháng 3 năm 1967, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập các Binh chủng Không quân, Tên lửa và
Radar trong Quân chủng Phòng không-không quân và các Bộ Tư lệnh Binh chủng Radar, Không quân và Tên lửa trực
thuộc Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-không quân. Bộ Tư lệnh Không quân mang phiên hiệu công khai f371
(Sư đoàn Không quân 371). Các cơ quan trực thuộc Binh chủng Không quân gồm 4 phòng: Tham mưu, Chính trị, Kỹ
thuật và Hậu cần.

Ban dẫn đường Binh chủng Không quân được thành lập trong bối cảnh đó. Ban dẫn đường thuộc Phòng
Tham mưu; về chức năng, nhiệm vụ và quân số, cơ bản được giữ nguyên. Đồng chí Lê Liên vẫn là Trưởng ban và có
them Phó ban do đồng chí Trần Quang Kính đảm nhiệm. Trong ban có 14 trợ lý. Cơ cấu tổ chức của ngành Dẫn đường
ở các trung đoàn không quân không thay đổi.

Năm 1967, ngay sau khi được thành lập, Ban dẫn đường tiếp tục phát huy cách thức tổ chức dẫn đường
chiến đấu hai cấp, tham gia bố trí hệ thống đài chỉ huy bổ trợ, mở rộng khả năng dẫn đường sở chỉ huy của Binh
chủng ra hướng tây của Hà Nội, hình thành mạng lưới chỉ huy dẫn đường phục vụ yêu cầu tạo thế trận đánh địch. Từ
tháng 4 năm 1967, Ban dẫn đường thực hiện dẫn chính MiG-17 đánh phục kích tại sân bay Kiến An và đến tháng 8,
tiến hành dẫn chính MiG-21 và MiG-17 đánh phối hợp, hiệp đồng. Cách thức tổ chức mạng lưới chỉ huy-dẫn đường
cho MiG-21 và MiG-17 đánh địch ở chiến trường Khu 4 từ năm 1968 đến năm 1971 và đánh không người lái trên
vùng trời miền Bắc, vào các năm 1966, 1968 và 1969 là một trong những bài học và kinh nghiệm vô cùng quý giá của
ngành Dẫn đường Quân chủng Phòng không-không quân, trong đó Ban dẫn đường Binh chủng luôn có vị trí rất quan
trọng trong quá trình củng cố và phát triển mạng lưới này.

Trong thời gian từ năm 1967 đến năm 1971, Ban dẫn đường Binh chủng còn kịp thời chỉ đạo công tác dẫn
đường trên không cho Trung đoàn 919 khi tổ chức thực hiện những nhiệm vụ trọng điểm, xây dựng các phương án dẫn
bay An-2 tập kích căn cứ radar Pa Thí, dẫn bay Il-14 chi viện cho chiến trường Thừa Thiên-Huế, trực tiếp hỗ trợ bảo
đảm dẫn bay cho các lực lượng vận tải và trực thăng thực hiện thả hàng cứu trợ và tham gia chống lụt.

Do khối lượng công việc ngày càng nhiều, tháng 6 năm 1968, Ban dẫn đường Binh chủng được bổ sung
thêm 5 trợ lý (Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Xuân Phong, Phạm Văn Quý, Phạm Thanh Soát và Tạ Văn Vượng) từ khoá
đào tạo ở Yên Cốc và tháng 10 năm 1969, thêm 2 trợ lý (Phạm Công Kim và Trần Xuân Mão) từ khoá đào tạo ở Ba
Lan. Công tác huấn luyện dẫn đường tại chức tiếp tục được đưa vào nền nếp.

Năm 1972, trong điều kiện tác chiến rất khó khăn và ác liệt của mặt trận trên không, Ban dẫn đường đã
quán triệt sâu sắc nhiệm vụ tác chiến, nắm chắc ý định từng đợt hoạt động và bám sát các phương án đánh địch của
Binh chủng, tiến hành hiệp đồng chặt chẽ với các ban thuộc phòng Tham mưu, tập trung thực hiện những nhiệm vụ
trọng yếu được giao: Kịp thời triển khai rộng khắp đội ngũ trợ lý dẫn đường tại các sở chỉ huy và đại đội radar dẫn
đường ở Hà Tây và Mộc Châu. Tập trung chỉ đạo và cùng với các tiểu ban dẫn đường tổ chức dẫn máy bay tiêm kích
MiG-17 mang bom tập kích trúng tàu khu trục của Mỹ, dẫn đánh thắng trận đầu cho Trung đoàn 925 và 927.

Thực hiện bảo đảm dẫn bay cho Il-28 tập kích tiêu diệt càn cứ Buôn Loọng. Phát huy cao độ mọi mặt thuận
lợi trong cách dẫn MiG-21 nhằm đánh bại uy thế của máy bay chiến thuật đa năng F4 và máy bay ném bom chiến lược
B-52, đồng thời kiên trì tìm mọi cách để dẫn MiG-17 và MiG-19 trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
Trong năm 1973, Ban dẫn đường Binh chủng đã kịp thời chuyển trọng tâm công tác của mình vào việc tổ
chức bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ bay chuyển sân điều chỉnh lực lượng theo yêu cầu của Binh chủng, củng cố
chất lượng và đẩy nhanh tiến độ học tập dẫn đường phục vụ cho bay huấn luyện và xây dựng các phương án dẫn bay
sẵn sàng chiến đấu mới.

Trong suốt quá trình tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình từ tháng 3 năm 1967 đến tháng
11 năm 1973 (trước khi thành lập Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu), Ban dẫn đường Binh chủng Không quân luôn
chủ động khắc phục những bất cập nảy sinh trong tổ chức dẫn đường chiến đấu hai cấp, tổ chức mạng lưới chỉ bay dẫn
đường, trực tiếp tham gia tháo gỡ các khó khăn về cách dẫn đánh các mục tiêu trên không, thường xuyên duy trì quân
số chất lượng cao, đi đầu trong công tác thu thập' giữ gìn các bản can và tài liệu dẫn đường về các trận đánh của không
quân ta, tổ chức rút kinh nghiệm và tìm ra các bài học cho ngành Dẫn đường Không quân.

Giữa năm 1965, được sự giúp đỡ của Liên Xô, không quân ta đã tiếp nhận loạt máy bay ném bom Il-28 đầu
tiên. Đến tháng 8 năm 1965, sau khi điều chỉnh trang bị giữa hai trung đoàn 921 và 923; Đại đội 929 với trang bị II-28
đã được thành lập và nằm trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn 921. Từ giữa năm 1966, đại đội chuyển sân sang
nước bạn để bảo quản máy bay và bay huấn luyện nâng cao kỹ thuật lái, dẫn đường, ném bom và bắn súng cho các tổ
bay.

Tháng 10 năm 1968, toàn bộ lực lượng Il-28 được tập trung về Nội Bài và Tiểu đoàn không quân 929 được
thành lập trực thuộc Binh chủng Không quân. Nhiệm vụ chính của tiểu đoàn lúc này là sẵn sàng tiến công đánh địch
bằng các đòn tập kích đường không tiêu diệt các mục tiêu trên chiến trường Trị Thiên và Lào. Tháng 9 năm 1969,
đồng chí Hoàng Cần giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường tiểu đoàn. Đồng chí Hoàng Cần cùng với đội ngũ dẫn đường
trên không và trợ lý dẫn đường sở chỉ huy Vũ Ba khẩn trương xây dựng các phương án dẫn bay chiến đấu cho Il-28
tranh thủ luyện tập thêm cách dẫn bay ném bom, bắn súng vào các mục tiêu được giao và duy trì chặt chẽ chế độ hiệp
đồng dẫn bay trong trực chiến, sẵn sàng cất cánh khi có lệnh.

Như vậy, trong Tiểu đoàn 929, Chủ nhiệm Dẫn đường và trợ lý dẫn đường sở chỉ huy phối hợp chặt chẽ với
nhau cùng thực hiện công tác dẫn đường.

Năm 1970, đội ngũ dẫn đường trên không đã đóng góp sức mình cho tiểu đoàn hoàn thành 272 lần chuyến,
122 giờ bay huấn luyện, trong đó 195 lần/chuyến bay ngày và 77 lần chuyến bay đêm. Tuy nhiên, đêm 30 tháng 5 năm
1971, trong lúc bay huấn luyện ném 8 bom phá 250kg, ở độ cao thấp, tại trường bắn Hoà Lạc, do tính toán và giữ số
liệu không chuẩn, 1 chiếc Il-28 đã bị mảnh bom văng lên, gây cháy lớn, tổ bay đã không kịp nhảy dù.

Ngày 17 tháng 8 năm 1972, Tiểu đoàn 929 thực hiện giải thể theo quyết định của Quân chủng (Lịch sử
ngành Kỹ thuật Hàng không Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1 (1955-1977), Nxb Quân đội nhân dân; Hà Nội. 1997,
tr.260), các tổ bay được đưa về Trung đoàn 919. Nhưng khi nhiệm vụ cần đến, những tấm gương tiêu biểu của đội ngũ
dẫn đường trên không Il-28 như các đồng chí Thân Xuân Hạnh, Nguyễn Đình Nhẫn đã cùng với các thành viên trong
tổ bay hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiến công đánh đích bằng đòn tập kích đường không tiêu diệt căn cứ Buôn Loọng
vào ngày 9 tháng 10 năm 1972.

***

Đầu tháng 2 năm 1969, khi đoàn bay MiG-19 từ Trung Quốc về Kép thì tiểu ban dẫn đường Trung đoàn
925 đã được ổn định xong về tổ chức. Đội ngũ dẫn đường của tiểu ban gồm: 1 trợ lý từ Ban dẫn đường Binh chủng
xuống (Lưu Văn Cộng), 6 trợ lý từ tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 sang (Nguyễn Cửu, Trần Hồng Hà, Bùi Hữu
Hành, Nguyễn Quang Thản, Phạm Tân Thuần và Triệu Sĩ Việt), 2 trợ lý từ tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 92 1 (Đinh
Minh Đức và Trần Xuân Nhuận), 1 trợ lý từ Đoàn Z (Ngô Tiện), 1 trợ lý từ Tiểu đoàn 929 (Vũ Ba)… Đồng chí Bùi
Hữu Hành giữ chức Trưởng Tiểu ban.

Trong thời gian ngắn, khi MiG-19 chưa chuyển sân về Kép, tiểu ban đã gấp rút tổ chức huấn luyện chuyển
loại dẫn bay MiG-19 cho trợ lý và hướng dẫn phi công nghiên cứu địa hình khu vực sân bay. Sau khi MiG-19 có mặt
tại Kép tiểu ban vừa phải xây dựng một vài phương án dẫn bay chiến đấu cơ bản vừa phải hoàn chỉnh các số liệu bay
huấn luyện từ vòng kín, khu vực đến đường dài, chặn kích… Riêng đối với các số liệu bay, tiểu ban luôn phải đáp ứng
đầy đủ cho UMiG-15 khi bay kèm và cho MiG-19 khi bay đơn, vì hai loại máy bay có tính năng khác hẳn nhau.

Từ tháng 3 đến cuối tháng 8 năm 1969, nhiệm vụ chính của tiểu ban là bảo đảm dẫn đường cho MiG-19
bay huấn luyện cơ bản ở Kép. Đến tháng 9, do yêu cầu điều chỉnh vị trí đóng quân, Trung đoàn 925 chuyển toàn bộ
lực lượng lên đóng quân tại sân bay Yên Bái làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời Tây Bắc. Từ cuối năm 1969 đến cuối năm
1970, tính chất nhiệm vụ của tiểu ban ngày càng phức tạp và khối lượng công việc ngày càng tăng. Những kinh
nghiệm ban đầu trong công tác dẫn đường ở Kép đã nhanh chóng đưa tiểu ban chuẩn bị và triển khai có nền nếp công
tác dẫn đường tại căn cứ mới, đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ bay ứng dụng chiến đấu cho phi công MiG-19 và
bay chuyển loại MiG-17A cho một số phi công đã bay MiG-19; bảo đảm an toàn cho 10 máy bay MiG-19 và 12 máy
bay MiG-21 chuyển sân từ Tường Vân về Yên Bái, rồi MiG-21 từ Yên Bái về tiếp Nội Bài. Cũng vào thời gian này,
tiểu ban đã tổ chức huấn luyện dẫn đường chuyên sâu theo từng vị trí cho trợ lý cũ và huấn luyện dẫn đường bổ sung
cho 2 trợ lý từ khoá đào tạo dẫn hiện sóng ở Ba Lan về tháng 10 năm 1969 (Lương Văn Dình, Nguyễn Thanh Hải) và
4 trợ lý từ khoá đào tạo tại Quảng Bị về tháng 10 năm 1970 (Võ Xuân Cự, Vũ Chí Khai, Nguyễn Văn Năm và Nguyễn
Ngọc Rụ). Trong năm 1970, tiểu ban còn cử một nhóm trợ lý dẫn đường cơ động theo các phân đội MiG-19 vào trực
chiến tại Thọ Xuân.

Năm 1971, ngoài nhiệm vụ bảo đảm cho bay huấn luyện, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn không quân 925
tiếp tục hoàn thiện các phương án cơ bản dẫn bay chiến đấu bảo vệ vùng trời Tây Bắc của Tổ quốc; tổ chức trao đổi
những bài học và kinh nghiệm dẫn MiG-17 và MiG-21 đánh địch, tham gia thảo luận cách đánh và xây dựng cách dẫn
cụ thể cho MiG-19; đồng thời đưa trợ lý dẫn đường, thay nhau vào Thọ Xuân để bảo đảm cho nhiệm vụ cơ động chiến
đấu của trung đoàn.

Ngày 8 tháng 5 năm 1972, trong điều kiện chỉ huy-dẫn đường tại Yên Bái gặp rất nhiều khó khăn, tiểu ban
dẫn đường đã tìm mọi cách dẫn MiG-19 bắn rơi 2 F4 đa năng của địch, góp phần lập nên chiến công đánh thắng trận
đầu của trung đoàn, nối tiếp truyền thống của các tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 và Trung đoàn 923.

Từ giữa tháng 5 đến đầu tháng 10 năm 1972, ngoài nhiệm vụ trực chiến tại Yên Bái, trung đoàn tiến hành
cơ động trực chiến tại Nội Bài và Gia Lâm. Tiểu ban thực hiện bố trí rộng khắp đội ngũ trợ lý trên tất cả các vị trí trực
ban, hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn, dẫn MiG-19 cùng với MiG-21 và MiG-17 tiếp tục đánh địch, bắn rơi thêm
6 F4 đa năng và 1 F105.

II - NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG CUỘC CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA
ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI MIỀN BẮC (1972) VÀ HAI NĂM 1973-1974

1. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ bay.

Năm 1972, hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Việt Nam, Tổng thống Mỹ Ních-xơn huy động lực
lượng lớn cả không quân và hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc nước ta. Nhưng
ngay từ cuối năm 1971, các triệu chứng địch sẽ đánh phá trở lại miến Bắc đã xuất hiện khá rõ ràng (Ngày 18 tháng 12
năm 1971: Ta dẫn xuất kích 14 lần chiếc MiG-21 và 8 lần chiếc MiG-19 từ Nội Bài, Thọ Xuân và Yên Bái, đánh trên
hướng tây nam Hà Nội, nhưng chỉ có 2 lần gặp địch, bắn rơi 1 F4, còn ta rơi 1 MiG-21). Binh chủng Không quân, sau
3 năm (1969-1971) được củng cố, phát triển lực lượng và nâng cao trình độ về mọi mặt đã sẵn sàng bước vào cuộc
chiến đấu mới. Toàn ngành Dẫn đường khẩn trương chuẩn bị đánh địch theo các phương án tác chiến đã được Binh
chủng Không quân thông qua.

Tháng 1 năm 1972, không quân địch sử dụng nhiều tốp nhỏ, chiếc lẻ, hoạt động ở độ cao cao và trung bình,
theo đường bay từ phía Thái Lan, qua Xầm Tơ và Sầm Nưa, vào Suối Rút và Vạn Yên. Chúng không vào sâu, có thể
còn đang thăm dò. Các loại tiêm kích của ta đều tham gia đánh địch vào các ngày 15, 17, 19…, trong đó chủ yếu là
MiG-21, bắn rơi được 1 chiếc RF-101. MiG-17 và MiG-19 có xuất kích, nhưng chưa gặp địch.

Tháng 2 và 3 năm 1972, Binh chủng tập trung tổ chức nắm địch trên tất cả các hướng, khẩn trương triển
khai sở chỉ huy dự bị ở Hà Tây và sở chỉ huy vòng ngoài ở Mộc Châu. Ngày 3 tháng 2 năm 1972, trung đoàn không
quân tiêm kích thứ tư của Không quân nhân dân Việt Nam được thành lập: Trung đoàn 927, sử dụng MiG-21 và đóng
quân tại căn cứ Nội Bài. Trung đoàn 921 vào Thọ Xuân.

Các phương án dẫn bay đánh địch được bổ sung thêm cách dẫn MiG-21 đánh đêm khi có sự tham gia của
sở chỉ huy Mộc Châu, cách dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng ở Khu 4 khi địch khống chế ven biển…

Tuy nhiên, trong các trận dẫn MiG-21 đánh đêm đợt đầu tiên trong năm 1972, như các đêm 8, 17, 21 tháng
2 và đêm 1 tháng 3 tại khu vực Mường Lát (nam Mộc Châu 35km) - Mường Xìa (đông nam Mường Lát 35km), mặc
dù các kíp trực ban dẫn đường tại Mộc Châu: Đặng Dũng, Nguyễn Quang Thản, Vũ Ba và tại Nội Bài: Hoàng Trung
Thông, Nguyễn Đức Trinh đã rất nỗ lực tìm mọi cách dẫn ta vào tiếp cận khi địch luôn cơ động, nhưng do kinh
nghiệm dẫn đánh đêm còn ít và có trận chưa kiểm soát hết các tốp địch xung quanh khu chiến, nên MiG-21 đã bị tổn
thất. Chính từ đó, ta đã rút ra được bài học cho sau này.

Ngày 6 tháng 3 năm 1972, căn cứ vào tình hình hoạt động của địch, Bộ Tư lệnh Binh chủng đã chỉ đạo cho
các lực lượng không quân ở Vinh, Thọ Xuân và Anh Sơn tổ chức đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MiG-17 và MiG-21
để bảo vệ sân bay Anh Sơn. Kíp trực ban dẫn đường: Lê Thành Chơn phụ trách MiG-21, Dương Minh Phương MiG-
17 tại sở chỉ huy Vinh và Hoàng Kế Thiện trên hiện sóng tại C-45 chịu trách nhiệm dẫn chính MiG-17 ở Thọ Xuân và
MiG-21 ở Anh Sơn lên đánh địch; còn kíp trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Thọ Xuân dẫn chính MiG-21 từ Thọ
Xuân làm nhiệm vụ yểm hộ.

Hơn 12 giờ, trên mạng tình báo khu vực xuất hiện nhiều tốp địch ở phía tây nam bay lên Anh Sơn. Ta vào
cấp 1. 12 giờ 15 phút 30 giây đôi bay MiG-17: Lê Hải - số 1 và Hoàng Ích - số 2 cất cánh, bay đúng số liệu đã hiệp
đồng: độ cao 400m, tốc độ 650km/h, dọc theo Đường 15, đến Tân kỳ mới lên độ cao 1.200m. Dẫn đường trên hiện
sóng bắt được địch, nhưng không thấy ta. Sở chỉ huy Vinh "dẫn mò", 12 giờ 27 phút, cho vòng phải, hướng bay 270
độ vào Anh Sơn và thông báo mục tiêu ở tây nam sân bay. Số 1 thấy MiG-21 ở Anh Sơn đã cất cánh, sau đó là khói
bom và mở rộng tầm quan sát. 12 giờ 30 phút, sau khi phát hiện 2 F4, đối đầu có gián cách, cự ly 8km, độ cao 1.000m
và 2 F4 khác độ cao 3.000m, số 1 quyết định cắt vào 2 chiếc ở độ cao thấp, bắn 3 loạt, cháy 1 F4, thoát ly ngay về
đỉnh sân lại gặp địch và vào công kích, nhưng hết đạn. Còn số 2, sau khi không bám được số 1, cũng phát hiện địch,
vào công kích ngay và báo cáo bắn rơi 1 F4. Số 1 ra lệnh thoát ly, số 2 trả lời, nhưng cả hai vẫn không thấy nhau. Trên
đường về, số 1 xuống độ cao 100m, liên lạc với số 2, nhưng không thấy trả lời.
12 giờ 25 phút, đôi bay MiG-21: Bùi Đức Nhu - số 1 và Nguyễn Văn Nghĩa - số 2 thực hiện cất cánh từng
chiếc một từ Anh Sơn và hai phút sau, tập hợp xong đội hình. Sở chỉ huy Vinh cho vòng trái về đỉnh sân, độ cao
3.000m, tốc độ 950km/h. 12 giờ 31 phút, số 1 phát hiện F-8 và F105 ở phía dưới nhưng cự ly còn xa, số 2 lại phát hiện
có F4 đối đầu, phóng ngay 1 quả tên lửa để uy hiếp. Đích cơ động xuống phía nam. Sở chỉ huy Vinh cho thoát ly về
Thọ Xuân.

Trong trận này, số 2 của đôi bay MiG-17 trên đường bay về Thọ Xuân đã bị một tốp địch từ ngoài biển vào
Nghĩa Đàn bắn rơi, phi công hy sinh. Nguyên nhân chủ yếu là trực ban dẫn đường hiện sóng tại C-47 và C-45 đều
phát hiện có địch ở phía biển, nhưng không báo cáo ngay về các sở chỉ huy (Bản can và tài liệu dẫn đường tổng kết
trận đánh) và sở chỉ huy Thọ Xuân không kịp thời dẫn đôi MiG-21: Trần Việt và Nguyễn Công Huy đang bay trên
đỉnh Thọ Xuân xuống yểm hộ cho MiG-17.

Đầu tháng 4 năm 1972, tình hình địch có nhiều diễn biến bất thường. Ngày 6 tháng 4, hơn 100 lần chiếc
cường kích và pháo hạm của địch đánh Đồng Hới, Vĩnh Linh; 3 giờ sáng ngày 10 tháng 4, khoảng 50 lần chiếc đánh
Vinh, Bến Thuỷ, chủ yếu là cường kích và có cả B-52; sáng sớm ngày 13 tháng 4, không quân địch đánh Thanh Hoá,
trong đó có B-52 tham gia và có tốp đã vào Thọ Xuân. Ngày 16 tháng 4 năm 1972, địch ồ ạt đánh Hải Phòng và Hà
Nội. Tại Hải Phòng, vào khoảng 3 giờ sáng, bom B-52 và đạn pháo hạm của địch đã gây cho ta tổn thất rất lớn về
người và của. Tại Hà Nội, suốt cả ngày, không quân địch cho hàng trăm lần chiếc, đợt nối đợt, đánh sâu vào các mục
tiêu trong nội thành. Lực lượng phòng không của ta trên các địa bàn, đồng loạt đánh trả quyết liệt, nhưng bị nhiễu
nặng, lúng túng trong cách xử lý, nên kết quả bắn rơi địch rất hạn chế, không một quả tên lửa phòng không nào trúng
B-52. Không quân ta cho xuất kích 30 lần chiếc cả MiG-21, MiG-17 và MiG-19 từ các sân bay Anh Sơn, Thọ Xuân,
Yên Bái, Kép và Nội Bài để đánh cường kích và B-52 bảo vệ Hà Nội. Nhưng địch đã dùng F4 với nhiều thủ đoạn khác
nhau giả làm B-52, làm cho ta bị nhầm lẫn. Có những trận dẫn không gặp địch, có nhiều trận gặp phải tiêrn kích và
một số trận còn để phi công rơi vào thế bất lợi đối phó rất khó khăn và bị địch bắn, 3 phi công MiG-21 phải nhảy dù,
nhưng an toàn.

Lúc này, khó khăn lớn nhất là chọn đúng tốp máy bay cường kích và sau khi dẫn vào tiếp địch tạo được thế
đánh có lợi cho phi công trong điều kiện các tốp địch vào đánh các mục tiêu của ta đều có nhiễu bao phủ dày đặc, đội
hình chiến thuật gọn hơn, tỉ lệ tiêm kích bảo vệ cao hơn, sử dụng các loại vũ khí mới, có độ chính xác cao nhiều hơn.
Đáng chú ý nhất là F4 vì ngay sau khi ném bom, chúng có thể trở thành máy bay tiêm kích, sẵn sàng đối phó với
không quân ta. Tính đa năng của F4 ngày càng lộ rõ.

Cuối tháng 4 năm 1972, đồng thời với việc tìm mọi cách tháo gỡ các khó khăn trong cách đánh mục tiêu
trên không, Binh chủng gấp rút triển khai kế hoạch dùng MiG-17 đánh mục tiêu trên biển đã được Quân chủng thông
qua.

Công tác chuẩn bị dẫn đường cho MiG-17 cơ động chuyển sân và đánh địch được tiến hành rất chu đáo.
Tất cả các phi công và dẫn đường tham gia nhiệm vụ đều nắm vững số liệu dẫn bay và thống nhất cách xử lý từng tình
huống cụ thể, thuộc lòng cách điều khiển và dẫn máy bay vào công kích tàu địch bằng phương pháp ngắm ném bom
thia lia và vòng lại vào công kích lần hai. Khi sử dụng đối không trong dẫn bay, nhất thiết phải dùng ám hiệu và mật
ngữ, nhưng rất hạn chế. Ngày 10 tháng 4 năm 1972, lực lượng tiền trạm vào sân bay Gát (Sân bay dã chiến ở khu vực
Khe Gát thuộc xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch. tỉnh Quảng Bình, được lực lượng công binh không quân tổ chức thi
công xong vào tháng 2 năm 1972) làm công tác chuẩn bị trước, trong đó có hai phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn
Bảy (Bảy B) cùng đi.
15 giờ 45 phút, ngày 18 tháng 4 năm 1972, đôi bay : Nguyễn Hồng Điệp - số 1 và Từ Đễ - số 2 thực hiện
chuyển 2 MiG-17, đã được cải tiến lắp dù giảm tốc, từ Kép xuống Gia Lâm, sau đó từ Gia Lâm đi Vinh. Từ Vinh vào
Gát, sau khi số 1 hạ cánh xong, số 2 mới cất cánh. Trong suốt quá trình cơ động chuyển sân, cả hai phi công đều dẫn
bay bằng mắt rất chính xác ở độ cao thấp và các kíp trực ban dẫn đường đều bám sát, "dẫn mò" từng phút một. 17 giờ
30 phút, số 2 hạ cánh và ngay sau đó phương án dẫn bay đánh tàu nhanh chóng được rà soát lại lần cuối cùng, đặc biệt
là các số liệu về thời gian dự tính từ mở máy, lăn ra, đến cất cánh từng chiếc một và tập hợp đội hình. Trực ban dẫn
đường đều có mặt đúng vị trí tại các sở chỉ huy tiền phương của Binh chủng ở Lệ Thuỷ (B8), tiền phương của Trung
đoàn không quân 923 ở Đồng Hới (B5), sở chỉ huy sân bay Gát (B7) và tại các đài 403 của hải quân ở đông Thành
(cửa Nhật Lệ), chỉ huy bổ trợ ở Lý Nhân Nam (cửa Dinh). Đôi bay MiG-17: Lê Xuân Dị - số 1 và Nguyễn Văn Bảy -
số 2 vào trực chính.

9 giờ 30 phút ngày 19 tháng 4 năm 1972, thủ trưởng trực chỉ huy B5 Lưu Huy Chao ra lệnh mở đài 403.
Trực ban dẫn đường Nguyễn Đăng Điển báo cáo về B5, máy bay địch không hoạt động, trên hướng biển từ Lệ Thuỷ
đến cửa Dinh tàu địch cách bờ từ 40 đến 120km. B5 quyết định cho MiG-17 vào cấp 1. Từ đài chỉ huy bổ trợ, phi
công Tạ Đông Trung và trợ lý dẫn đường Lê Kiếu báo cáo, thời tiết phía biển trời chưa hết mù, tầm nhìn còn kém. B8
yêu cầu chờ.

Đến 15 giờ 49 phút, sau khi thu thập đầy đủ tình báo của hải quân, B5 cho mở radar và thấy từ cửa Lý Hoà
đến cửa Dinh, tàu địch chỉ còn cách bờ từ 15 đến 20km. Chúng vào đúng phương án, B5 lập tức báo cáo quyết tâm.
Thủ trưởng trực chỉ huy B8 Nguyễn Phúc Trạch quyết định đánh theo phương án đã được chuẩn bị. Tại B7, đúng 16
giờ, nhận được lệnh cho MiG-17 vào cấp 1, thủ trưởng trực chỉ huy Cao Thanh Tịnh cho mở máy, trực ban dẫn đường
Trần Hữu Thăng khống chế thời gian: 16 giờ 05 phút, cho MiG-17 cất cánh, 16 giờ 08 phút, tập hợp xong đội hình.

Đôi bay của ta đi hướng 80 độ, giữ độ cao 200m, tốc độ 600km/h và bám sát bên trái cao điểm 280 (cách
cửa Gianh khoảng hơn 8km) để che mắt địch; 16 giờ 10 phút, vòng phải, hướng bay 150 độ, từ từ giảm độ cao xuống
dưới 100m và tăng tốc độ lên 700km/h. 16 giờ 12 phút, trực ban dẫn đường Đào Công Thành tại B5 cho hướng bay
125 độ và thông báo vị trí mục tiêu. 16 giờ 13 phút, số 1 báo cáo phát hiện, sau đó điều khiển máy bay vòng trái, rồi
cải bằng, giữ hướng bay 80 độ và đối thẳng vào tàu địch. phi công Lê Xuân Dị quyết định vào công kích chiếc đi sau
bên trái. Đồng chí giữ máy bay bay bằng thật ổn định, kiểm tra số liệu: độ cao 50m, tốc độ 800km/h, ổn định điểm
ngắm, máy bay không trượt cạnh và chờ cự ly đến tàu còn đúng 750m, ấn nút ném bom, rồi tăng độ cao, vòng trái
thoát ly về phía đất liền.

Khi số 1 bắt đầu vòng trái, theo đúng hiệp đồng, số 2 tiếp tục bay thẳng, rồi mới vòng về phía mục tiêu.
Nhưng trong lúc bay thẳng, do quá chú ý tìm tàu địch, mà vẫn không thấy, nên số 2 đã để mất số 1. Sau khi cải bằng,
giữ hướng 80 độ được ít phút, số 2 mới phát hiện phía trước bên trái có 2 chiếc, nhưng cự ly đã quá gần, buộc phải
cho máy bay vượt qua. Đúng lúc đó số 2 thấy 1 quả tên lửa từ biển vọt lên ở phía bên phải. Phi công Nguyễn Văn Bảy
quyết định quay lại vào công kích lần hai trên hướng vào bờ và đã không để xảy ra bất cứ một sai sót nào nữa.

16 giờ 15 phút, số 1 hỏi số 2 công tác tốt không, số 2 trả lời công tác không tốt lắm. 16 giờ 18 phút, số 1 hạ
cánh tại Gát và số 2 tiếp đất an toàn lúc 16 giờ 21 phút 30 giây. Vào khoảng 16 giờ 30 phút đài chỉ huy bổ trợ báo cáo
có 4 F4 quần đảo ở độ cao rất thấp tại khu vực ta vừa đánh và sau đó chúng vào đánh Đồng Hới.

Với đòn tiến công bí mật, bất ngờ và chính xác, 4 quả bom 250kg của MiG-17 đều rơi trúng mục tiêu, làm
1 tàu địch hỏng nặng và 1 chiếc khác bị thương. Đôi bay: Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy đã lập chiến công đầu tiên
cho không quân nhân dân Việt Nam dùng máy bay tiêm kích mang bom tập kích đánh trúng tàu khu trục của Mỹ (Lịch
sử Không quân nhân dân Việt Nam (1955-1977); Nxb QĐND, Hà Nội.1993, tr.240).

Bài học vô cùng quý giá đối với ngành Dẫn đường Không quân là biết kết hợp chặt chẽ giữa dẫn bay bằng
mắt của phi công với dẫn bay từ mặt đất của trực ban dẫn đường để tạo ra khả năng dẫn đánh mục tiêu trên biển đạt
hiệu suất cao. Ngày 19 tháng 4 năm 1972, được ghi nhận là một trong những ngày đánh địch đạt hiệu quả chiến đấu
cao nhất của Không quân nhân dân Việt Nam.

Ngày 27 tháng 4 năm 1972, địch vào đánh cầu Đò Lèn và Tĩnh Gia. Theo lệnh của Binh chủng, sở chỉ huy
Trung đoàn 921 dẫn đôi bay MiG-21: Hoàng Quốc Dũng - số 1 và Cao Sơn Khảo - số 2, từ Nội Bài xuống Vụ Bản và
bàn giao cho sở chỉ huy Binh chủng. Lúc này C-26 ở Cầu Diễn chưa bắt địch chính xác, nên C-43 ở Yên Phong, tiếp
tục thong báo địch cho phi công. Khi ta đến Cẩm Thuỷ, trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng Phạm Minh
Cậy cho MiG-21 hướng bay 220 độ, tốc độ 900km/h, độ cao 3.000m theo đúng yêu cầu đánh ngoài hoả lực phòng
không ở khu vực Hàm Rồng-đò Lèn của thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Trần Mạnh Đàn. Ta bay khoảng 1 phút
thì trực ban dẫn đường Trần Đức Thuỷ, trên hiện sóng tại C-26, báo cáo có 1 tốp địch, độ cao 4.000m, từ phía Nông
Cống bay lên Thọ Xuân. Sở chỉ huy cho MiG-21 vòng trái gấp vào tiếp địch, hướng bay 110 độ, độ cao 5.000m. Trực
ban dẫn đường hiện sóng thấy rõ ta-ớịch và liên tục thông báo vị trí mục tiêu. Số 1 phát hiện 2 F4 bên phải 30 độ,
6km, thấp hơn ta, gần như đối đầu và lập tức vòng phải lộn xuống, quá tải lên đến 10,5, bám ngay vào chiếc bay sau
và phóng 1 quả tên lửa, hạ 1 F4, rồi thoát ly bên phải. Trong lúc đuổi địch, số 2 lại thấy 1 chiếc khác đối đầu ở phía
dưới và cũng lộn xuống bám theo, nhưng không kịp. Sở chỉ huy cho thoát ly lên phía bắc. Ta về Nội Bài hạ cánh.

Đầu tháng 5 năm 1972, địch thả thuỷ lôi, bom từ trường phong toả cảng Hải Phòng và các cửa sông, đồng
thời tăng cường đánh phá các tỉnh ven biển miền Bắc. Để sẵn sàng đối phó với những hoạt động liều lĩnh của địch, Bộ
Tư lệnh Binh chủng đã quyết định chuyển toàn bộ Trung đoàn 921 từ Thọ Xuân ra Nội Bài, sử dụng một phần lực
lượng MiG-21 và MiG-17 của các Trung đoàn 921, 927 và 923 làm nhiệm vụ luân phiên cơ động trực chiến trên các
sân bay Gia Lâm, Kép, Yên Bái, Kiến An và Thọ Xuân. Còn MiG-19 của Trung đoàn 925 tập trung tại Yên Bái.

Chiều ngày 5 tháng 5 năm 1972, sau khi xuất kích từ Thọ Xuân, MiG-17 về Gia Lâm và MiG-21 về Nội
Bài hạ cánh, thủ trưởng Bộ Tư lệnh Binh chủng đã nhận định: Địch có thể tiếp tục vào Thọ Xuân, nếu ta tổ chức phục
kích tốt, sẽ có cơ hội đánh thắng. Trung đoàn 923 và Trung đoàn 927 nhanh chóng triển khai công tác chuẩn bị. Các
kíp trực ban dẫn đường lên các phương án dẫn bay cơ động chuyển sân, đánh phục kích và yểm hộ, thống nhất số liệu
và hiệp đồng phân công trách nhiệm bảo đảm.

Sáng sớm ngày 6 tháng 5 năm 1972, đôi bay MiG-17: Nguyễn Văn Lục - số 1 và Nguyễn Văn Bảy (Bảy B)
- số 2 bí mật cơ động chuyển sân: Kép-Gia Lâm-Vụ Bản-Thọ Xuân, bay trên địa hình 100m và chỉ sử dụng một vài
ám hiệu rất cần thiết trên đối không. 12 giờ 50 phút, trên mạng B1 xuất hiện nhiều tốp địch từ phía biển vào đánh phà
Ghép, cầu Hàm Rồng và Đò Lèn. C-47 ở Thiệu Hoá không phát hiện được các tốp ở độ cao thấp. Căn cứ vào quy luật
hoạt động của địch trong mấy ngày trước đây, trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư tại sở chỉ huy Thọ Xuân đề nghị
cho MiG-17 vào cấp 1, MiG-21 ở Nội Bài sẵn sàng lên yểm hộ theo phương án đã được chuẩn bị.

13 giờ 05 phút, đôi bay Lục-Bảy cất cánh, lên đỉnh làm vòng chờ bên trái, vuông góc với đường băng Thọ
Xuân, mỗi cạnh bay thẳng 1 phút, độ cao 300m tại đầu nam sân bay phi công Đinh Tôn chỉ huy tại đài chỉ huy bổ trợ
tại sân. Ta vòng được một vòng rưỡi thì đài chỉ huy bổ trợ phát hiện 4 A-6 từ hướng đông nam vào, độ cao khoảng
70m. Phi công Đinh Tôn cho vứt thùng dầu phụ, tăng lực, vòng trái gấp. Số 1 phát hiện địch bên trái, 4km và ép độ
nghiêng phải bám ngay vào 2 chiếc đi đầu; số 2 bám 2 chiếc bay sau. Địch phát hiện ta bám, chúng tách tốp và cơ
động về phía núi Trẩu. Phi công Nguyễn Văn Lục cắt bán kính vào đúng tầm, bắn đến loạt thứ hai, thấy có mảnh vỡ ở
cánh máy bay địch văng ra, đã bồi thêm loạt thứ ba thì chiếc A-6 bốc cháy. Số 2 thấy cự ly còn xa, tiếp tục đuổi theo
địch về phía Đồng Trầu. Đúng lúc đó, đài chỉ huy bổ trợ phát hiện 2 F4 từ phía bắc bay xuống phía nam sân bay, liền
hô cho số 2 cơ động gấp về đỉnh, nhưng số 2 vẫn cố bám địch. Số 1 bắn xong, không thấy số 2, gọi liên tục và không
thấy trả lời. Số 2 hy sinh, do bị địch bắn. Số 1 theo lệnh của sở chỉ huy, tự bay về Gia Lâm và hạ cánh lúc 13 giờ 28
phút.

Trong trận này, dẫn đường tại Thọ Xuân đã vận dụng tốt những kinh nghiệm dẫn MiG-17 đánh phục kích
tại Kiến An từ năm 1967 vào điều kiện tác chiến mới, phức tạp hơn. Dẫn bay cơ động chuyển sân bí mật đã tạo được
yêu tố đánh địch bất ngờ, nắm chắc quy luật hoạt động của địch nên cho MiG-17 cất cánh đúng thời cơ, đánh đúng
cường kích và tính toán cách bay chờ tại đỉnh Thọ Xuân phù hợp đã giúp cho đài chỉ huy bổ trợ quản lý ta dễ, phát
hiện địch nhanh. Tuy nhiên, việc tổ chức dẫn 4 MiG-21 yểm hộ lại chưa đạt yêu cầu chiến thuật, do cho cất cánh
muộn, nên khi ta vào đến Cẩm Thuỷ thì F4 đã ở trong khu chiến của MiG-17.

Căn cứ vào các hoạt động đánh phá với cường độ lớn của địch trong ngày hôm trước, Binh chủng quyết
định tổ chức tập trung đánh địch trên hướng chủ yếu là tây nam Hà Nội, bảo vệ các mục tiêu quan trọng được giao,
trong đó có các sân bay Yên Bái, Nội Bài và Hoà Lạc. Sau khi quán triệt ý định tác chiến chung, tất cả các kíp trực
ban dẫn đường đều đã làm phương án dẫn bay riêng cho đơn vị mình. Từ 21 giờ ngày 7, tổ chức hiệp đồng trước giữa
các sở chỉ huy. 5 giờ sáng ngày 8 tháng 5 năm 1972, trực ban dẫn đường tại các sở chỉ huy tiến hành hiệp đồng trực
tiếp với các phân đội trực chiến.

8 giờ 12 phút, trên mạng B1 xuất hiện các tốp địch ở tây nam Kỳ Sơn 50km lên Sầm Nưa và 8 giờ 32 phút
từ Tương Dương lên Xầm Tơ, rồi mất. Địch bắt đầu vào hướng tây nam Hà Nội, các đại đội radar dẫn đường tiếp tục
sục sạo nhưng chưa bắt được mục tiêu. Có thể chúng bay thấp, thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Trần Mạnh quyết
định cho MiG-21 ở Nội Bài xuất kích trước. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn không quân 921 cho đôi bay: Phạm
Phú Thái - số 1 và Võ Sĩ Giáp - số 2 xuyên lên trên mây, do lúc đó tại sân có 4Cu 500, 8Sc 1.200, rồi dẫn vào khu chờ
Tuyên Quang hoạt động ở độ cao 7.000m để thu hút tiêm kích địch.

8 giờ 36 phút, C-26 ở Cầu Diễn và C-53 ở Đại Thanh đều bắt được tốp 8 chiếc từ Sầm Nưa bay vào phía
Vạn Yên. 8 giờ 45 phút, Binh chủng cho MiG-19 vào cấp 1. Trong lúc đó C-30 với 2 đài P-10 và P-12 ở đầu nam sân
bay Yên Bái không bắt được địch. 8 giờ 48 phút, Binh chủng thông báo địch ở bắc Vạn Yên 15km và lệnh cho MiG-
19 xuất kích. Tại sở chỉ huy Trung đoàn 925, thủ trưởng Hồ Văn Quỳ và Mai Đức Toại quyết định cho biên đội ở đầu
bắc sân bay: Nguyễn Ngọc Tiếp - số 1, Nguyễn Đức Tiêm - số 2, Nguyễn Hồng Sơn (Sơn A) - số 3 và Nguyễn Hùng
Sơn (Sơn B) - số 4 mở máy, cất cánh ngay, vào khu chờ tại đỉnh và biên đội ở đầu nam: Phạm Ngọc Tâm, Phạm Hồng
Sơn (Sơn C), Phùng Văn Quảng và Vũ Chính Nghị sẵn sàng lên yểm hộ. Lúc này, sở chỉ huy Trung đoàn 921, bám sát
được tốp địch từ bắc Vạn Yên vào Yên Bái và lập tức dẫn đôi Thái-Giáp từ Tuyên Quang xuống Yên Bái để kéo chúng
lên độ cao 6.000m, tạo thuận lợi cho MiG-19 đánh ở độ cao 4.000m. MiG-21 phát hiện F4 đối đầu và cơ động bám
theo chúng hai lần, nhưng không được. Trong suốt quá trình thoát ly, đối không bị nhiễu, đôi MiG-21 phải phản kích
nhiều lần. Máy bay của số 2 bị thương, chảy hết dầu. Phi công quyết định hạ cánh bắt buộc, nhưng khi độ cao còn rất
thấp, lại phải tránh trường học ở phía dưới, nên đã không thành công và hy sinh. 8 giờ 51 phút, kíp trực ban dẫn đường
Phạm Tân Thuần và Lưu Văn Cộng tại sở chỉ huy Yên Bái "dẫn mò" biên đội Tiếp-Tiêm-Sơn A-Sơn B xuyên lên trên
mây theo hướng 134 độ, do tại sân đang có 5Cu 400 và 9Sc 1.000, sau đó cho vòng trái về đài xa, tập hợp đội hình và
khi đội hình tốt, cho lên độ cao 3.000m. 8 giờ 55 phút, trên đường quay lại đài xa, hướng bay 300 độ, số 3 báo cáo
địch bên trái 30 độ, 5km, độ cao 4.000m (tốp vào thấp, đến Yên Bái kéo lên). 30 giây sau, sở chỉ huy thông báo có
MiG-21 yểm hộ, độ cao 6.000m, nhưng biên đội khẳng định là địch, vì chúng đã phóng tên lửa và đang bám theo ta.
Sở chỉ huy cho vứt thùng dầu phụ, vào đánh địch. Tiếng tăng lực của động cơ máy bay MiG-19 từ trên mây dội xuống
khu vực phía nam sân bay. Không chiến quyết hệt giữa biên đội MiG-19 và 8 F4. Kíp trực ban dẫn đường chỉ còn duy
nhất một phương tiện là đối không để giữ liên lạc với biên đội. 8 giờ 58 phút, sở chỉ huy nhắc chỉ đánh tại đỉnh, không
được ra xa. Các số 1, 3 và 4 đều đã có cơ hội nổ súng. Phi công Nguyễn Ngọc Tiếp bắn 24 viên đạn 30mm và phi công
Nguyễn Hùng Sơn bắn 105 viên, mỗi người hạ 1 F4. 9 giờ 04 phút, số 1 báo cáo dầu còn 1.200 lít, sở chỉ huy cho biên
đội đối đài về hạ cánh, đồng thời cho đôi Tâm-Sơn C mở máy lên yểm hộ, còn đôi Quảng-Nghị chờ lệnh. 9 giờ 06
phút, đôi bay Tâm-Sơn C cất cánh, xuyên lên trên mây theo hướng 314 độ, rồi quay lại yểm hộ cho biên đội Tiếp-
Tiêm-Sơn A-Sơn B xuống hạ cánh an toàn.

Trong điều kiện chỉ huy-dẫn đường hết sức khó khăn, trên mạng B1 chỉ thu được một vài mũi địch ở Văn
Yên, Lục Yên vào lúc ta đã cất cánh, còn C-30 không bắt được địch-ta từ đầu đến cuối và không có hiện sóng cho dẫn
đường, nhưng kíp trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Yên Bái đã dùng đối không, dẫn MiG-19 cất cánh vào đánh địch,
yểm hộ và về hạ cánh đúng ý định của người chỉ huy, góp phần lập nên chiến công đánh thắng trận đầu của Trung
đoàn 925, MiG-19 bắn rơi 2 F4 tiêm kích địch.

Tiểu ban dẫn đường trung đoàn, trong điều kiện tác chiến cùng quyết liệt của mặt trận trên không năm
1972, đã tiếp được truyền thống dẫn đánh thắng trận đầu của 2 tiểu ban dẫn đường các trung đoàn 921 và 923.

Trong thời gian diễn ra các trận đánh trên vùng trời Yên Bái, địch liên tục cho nhiều tốp vào hoạt động tại
Kim Bôi, Hoà Bình và Việt Trì. Kíp trực ban dẫn đường Trung in 927 đã dẫn biên đội MiG-21; Nguyễn Đức Soát,
Ngô Duy Thư, Nguyễn Văn Nghĩa và Hạ Vĩnh Thành từ Nội Bài lên Đại Từ để ngăn chặn, không cho địch đánh
xuống sân bay Nội Bài. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn biên đội MiG-17: Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn
Xuân Hiển, Đỗ Hạng và Âu Văn Hùng từ Kép sang Phúc Yên và kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng dẫn biên đội
MiG-17: Hoàng Cống, Nguyễn Văn Giá, Nguyễn Hùng Vân và Ngô Sơn từ Gia Lâm ra phía tây Hoà Lạc để bảo vệ 2
sân bay Nội Bài và Hoà Lạc.

Như vậy, chỉ trong buổi sáng ngày 8 tháng 5 năm 1972, tất cả các kíp trực ban dẫn đường đã dẫn xuất kích
6 tốp ta, 20 lần chiếc MiG-21, MiG-19 và MiG-17. Những khó khăn nẩy sinh trong dẫn đánh mục tiêu trên không lại
tăng lên. Địch thả nhiễu tiêu cực dày đặc và gây nhiễu đối không của ta, đặc biệt, vào lúc 9 giờ 12 phút, địch đã dùng
tên lửa chống radar mặt đất phóng xuống C-53.

***

Ngày 10 tháng 5 năm 1972, trong phương án dẫn bay các đơn vị đều thể hiện quyết tâm thực hiện ý định
tác ổn của Binh chủng là tập trung đánh địch trên hướng đông nam Hà Nội, đồng thời bảo vệ sân bay Yên Bái và nhà
máy thuỷ điện Thác Bà. Mỗi người trong từng kín trực ban dẫn đường đều được phân công trách nhiệm rõ ràng. Tại sở
chỉ huy Binh chủng: các trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn dẫn chính MiG-21 của Trung đoàn không quân 927 trực
chiến ở Kép và dẫn bổ trợ MiG-19 ở yên Bái, Khổng Đức Thi dẫn chính MiG-21 của Trung đoàn không quân 92 1 ở
Nội Bài, Đỗ Cát Lâm dẫn chính MiG-17 ở Gia Lâm… Tại sở chỉ huy Trung đoàn không quân 923: các trực ban dẫn
đường Tống Bá Nhưỡng dẫn chính MiG-21 của Trung đoàn 921 ở Kép và Đặng Văn Hảo (923) dẫn chính MiG-17 ở
Kép. Tại sở chỉ huy Trung đoàn 927: các trực ban dẫn đường Vũ Đức Bình và Nguyễn Văn Được dẫn chính MiG-21
của Trung đoàn 927 ở Nội Bài. Tại các C-26, 53, 43 và 42 đều bố trí trực ban dẫn đường trên hiện sóng theo yêu cầu
nhiệm vụ của từng sở chỉ huy như: Hoàng Kế Thiện, Phạm Thanh Soát và Vương Kính; Trần Đức Thuỷ và Nguyễn
Dũng; Lê Thiết Hùng và Nguyễn Đăng Điển; Nguyễn Hoàng Hải và Nguyễn Văn Hưng.

8 giờ 36 phút ngày 10 tháng 5 năm 1972, sở chỉ huy Binh chủng phát hiện địch từ đông cửa Trà Lý 100km
bay lên Long Châu, thủ trưởng Đào Đình Luyện và Trần Hanh quyết định cho MiG-21 của Trung đoàn 92 1 và MiG-
17 của Trung đoàn 923 ở Kép xuất kích. 8 giờ 43 phút biên đội MiG-17: Vũ Văn Đang - số 1, Nguyễn Công Ngũ - số
2, Trịnh Văn Quy - số 3 và Nguyễn Văn Lâm - số 4 cất cánh.

Trực ban dẫn đường Đặng Văn Hảo dẫn MiG-17 vào khu chờ Phả Lại, sẵn sàng đánh địch, bảo vệ cầu Lai
Vu. Đôi bay MiG-21: Đặng Ngọc Ngư - số 1 và Nguyễn Văn Ngãi - số 2 mở máy xong, nhưng phải chờ, do thứ tự
điều hành chuyển cấp, mở máy và cất cánh giữa hai loại ở Kép không rõ rang (Tài liệu dẫn đường tổng kết các trận
đánh), nên đến 8 giờ 52 phút, mới cất cánh được, muộn 2 phút so với dự tính. Trong lúc đó địch đã vào qua Uông Bí,
Lục Nam. Khi ta vừa lên độ cao 200m thì bị địch bám vào phía sau, bắn trúng số 2, không kịp nhảy dù. Số 1 lập tức cơ
động tránh tên lửa theo khẩu lệnh của đài chỉ huy bổ trợ, bình tĩnh quan sát xung quanh. Trực ban dẫn đường Tống Bá
Nhưỡng vừa cho tăng tốc độ vừa cho đổi hướng liên tục, cố giúp số 1 thoát khỏi thế bị động. Sau khi vòng ra đến triền
núi phía bắc của dãy Yên Tử, số 1 phát hiện 2 F4 lao vượt lên phía trước, bên trái 15 độ. Phi công Đặng Ngọc Ngự
tăng tốc độ, bám kịp chiếc gần nhất và chỉ bằng 1 quả tên lửa, hạ ngay 1 F4 vào lúc 8 giờ 57 phút 30 giây. Sở chỉ huy
cho anh thoát ly lên phía bắc, rồi dẫn về Nội Bài hạ cánh an toàn.

Từ 9 giờ 14 phút đến 9 giờ 35 phút, đài P-12 của C-30 phát hiện được một vài tốp địch ở Suối Rút, Hồi
Xuân, nhưng bắt không liên tục. Thủ trưởng Trung đoàn 925 Hồ Văn Quỳ và Mai Đức Toại phán đoán chúng sẽ vào
đánh Yên Bái, Thác Bà và quyết định cho biên đội MiG-19 ở đầu nam sân bay: Phạm Ngọc Tâm - số 1, Phạm Hồng
Sơn (Sơn C) - số 2, Nguyễn Văn Phúc - số 3 và Lê Đức Oánh - số 4 là đánh. Tại sở chỉ huy Binh chủng, đường bay
của các tốp địch ở Tây Mộc Châu bay lên Nghĩa Lộ và từ tây nam Sầm Nưa vào biên giới đều được theo dõi chặt chẽ.
9 giờ 39 phút, đôi bay MiG-21: Nguyễn Công Huy và Cao Sơn Khảo của Trung đoàn 921 ở Nội Bài cất cánh. Trực
ban dẫn đường Khổng Đức Thi dẫn vào khu vực Sơn Dương- Tuyên Quang, hoạt động ở độ cao 6.000m. Kết quả là đã
kéo được tốp tiêm kích địch ra khỏi khu vực Yên Bái, nhưng đôi Huy-Khảo phải không chiến rất quyết liệt, phi công
Cao Sơn Khảo bắn rơi 1 F4 và sau đó hy sinh, do bị trúng tên lửa của địch.

9 giờ 44 phút, biên đội MiG-19 ở đầu nam sân bay Yên Bái cất cánh, kíp trực ban dẫn đường Lưu Văn
Cộng và Triệu Sĩ Việt dẫn ngay vào vòng chờ tại đỉnh: hướng bay 100-280 độ, độ cao 3.000m, tốc độ 850km/h. Khi ta
bay đến vòng thứ ba, kết hợp với thông báo của đài chỉ huy bổ trợ, số 1 phát hiện F4, cự ly 6km, độ cao 1.500m và
địch cũng thấy ta. Hai bên không chiến ngay trên đỉnh sân bay. Phi công Phan Trọng Vân, tại đài chỉ huy bay, liên tục
chỉ huy cho các số cơ động vào bám địch. Sau khi thấy một chiếc đang vòng từ đầu bắc xuống đầu nam sân bay, phi
công Nguyễn Văn Phúc cắt bán kính từ trên xuống, nhanh chóng rút ngắn cự ly và bắn 3 loạt ngắn liên tiếp. 9 giờ 58
phút, luồng đạn pháo 30mm của MiG-19 kéo từ đuôi lên đến giữa thân mục tiêu, chiếc F4 bị chẻ ra làm đôi trước sự
chứng kiến tận mắt của quân và dân khu vực sân bay Yên Bái. Do cự ly quá gần, phi công Nguyễn Văn Phúc đã phải
kéo thoát ly với quá tải hơn 10 mới giữ được an toàn. Khi địch vừa giãn ra, sở chỉ huy Trung đoàn 925 lệnh cho biên
đội MiG-19 thứ nhất về đỉnh, đồng thời cho ngay biên đội MiG-19 thứ hai ở đầu bắc sân bay Yên Bái: Hoàng Cao
Bổng - số 1, Phạm Cao Hà - số 2, Nguyễn Văn Cương - số 3 và Lê Văn Tưởng - số 4 cất cánh. Địch lại kéo đến. Theo
lệnh của đài chỉ huy bay, ta vừa cơ động tránh tên lửa vừa tìm địch. Phi công Lê Văn Tưởng phát hiện mục tiêu trong
thế có lợi và xin vào công kích. Đồng chí đã bắn 2 loạt liên tiếp, 1 F4 bốc cháy. Số 3 cũng có cơ hội nổ súng, nhưng
không kết quả.
Tình hình trở nên rất phức tạp. Radar không bắt được địch-ta. Sở chỉ huy mất liên lạc với số 4 của biên đội
thứ nhất trong lúc đang theo dõi biên đội thứ hai vào đánh tiếp ứng. Còn đài chỉ huy bay vừa chỉ huy các số trong biên
đội thứ hai bám địch, vừa hô cơ động phản kích cho các số của biên đội thứ nhất trong quá trình vào hạ cánh; đồng
thời điều chỉnh vị trí và chỉ huy từng số xuống hạ cánh với lượng dầu còn lại rất ít. Số 4 của biên đội thứ nhất hy sinh,
do sau khi bị địch bắn tại khu vực Thác Bà, đã nhảy dù không thành công. Số 2 của biên đội thứ nhất hạ cánh xông ra
ngoài, máy bay hỏng, nhưng người an toàn. Số 4 của biên đội thứ hai hy sinh do gặp tai nạn sau khi hạ cánh.

Cũng trong buổi sáng, trên hướng đông nam, sở chỉ huy Trung đoàn 923 còn dẫn đôi bay MiG-17: Nguyễn
Hạng và Nguyễn Xuân Hiển từ Kép và sở chỉ huy Binh chủng dẫn thêm biên đội MiG-17: Lương Quốc Bảo, Nguyễn
Văn Hùng, Nguyễn Hùng Vân và Ngô Sơn từ Gia Lâm, đều lên đỉnh sân để bảo vệ các sân bay Kép, Gia Lâm và Nội
Bài. Trên hướng tây nam, sở chỉ huy Binh chủng dẫn tiếp biên đội MiG-17: Nguyễn Văn Thọ, Tạ Đông Trung,
Nguyễn Văn Nhượng và Trà Văn Kiếm từ Hoà Lạc lên đỉnh để bảo vệ sân bay Hoà Lạc và Nội Bài, sau đó cho cơ
động ngay về Kép và sở chỉ huy Trung đoàn 927 dẫn một đôi MiG-21 của trung đoàn mình từ Nội Bài ra khu vực
Thanh Sơn-phù Yên để thu hút địch, khi chúng tiếp tục vào Yên Bái.

12 giờ 50 phút, ngày 10 tháng 5 năm 1972, địch lại vào trên hướng đông nam, thủ trưởng trực chỉ huy Binh
chủng lệnh cho MiG-17 của Trung đoàn 92 3 và MiG-21 của Trung đoàn 927 ở Kép vào cấp 1 và mở máy ngay. 12
giờ 55 phút, biên đội MiG-17: Nguyễn Văn Thọ, Tạ Đông Trung, Đỗ Hạng và Trà Văn Kiếm cất cánh, trực ban dẫn
đường Đặng Văn Hảo cho xuống chờ ở phía bắc cầu Lai Vu. Sau đó MiG-17 vào không chiến với 12 F4. Số 1 bị địch
bắn, nhưng nhảy dù an toàn. Số 4 hy sinh. Số 3 cũng hy sinh, do bị F4 dùng súng 20mm bắn thủng dù. 12 giờ 57 phút,
đôi bay MiG-21: Lê Thanh Đạo - số 1 và Vũ Đức Hợp - số 2 cất cánh. Trực Ban dẫn đường Binh chủng Lê Thành
Chơn, theo dõi trên B1, thấy địch vào thẳng cửa Trà Lý, dẫn MiG-21 vòng trái hướng bay 360 độ, độ cao 2.000m, dự
định chờ ở phía bắc Kép để sẵn sàng đánh địch trên cả hai hướng đông và đông nam. Nhưng khi thấy C-26 và 53 đều
xác định địch vào phía tây Hải Dương, rồi vòng phải lên Nam Sách, sở chỉ huy Binh chủng cho đôi bay Đạo-Hợp
vòng gấp, quay ngược trở lại.

13 giờ 00, MiG-21 vòng xuống hướng bay 180 độ, địch ở bắc Hải Dương 10km, sở chỉ huy thông báo: mục
tiêu bên trái 10 độ, 35km, độ cao 3.500m. Trong lúc địch vòng trái tại bắc Hải Dương, sở chỉ huy cho MiG-21 đi
hướng 210 độ, bay 1 phút để mở gián cánh, rồi vòng trái, hướng bay 140 độ vào tiếp địch. Địch tiếp tục vòng trái, ta
bám theo. Sau khi số 1 phát hiện mục tiêu, bên trái 30 độ, 25km thì số 2 báo cáo F4 bên trái, 10km, đối đầu (Dẫn
đường thống kê các trận đánh của Không quân, quyển L) và xin vào công kích. Địch phát hiện ta, chúng lập tức tách
tốp để đối phó. 13 giờ 04 phút, số 2 cắt vào, ngắm chính xác, phóng tên lửa và báo cáo bắn rơi 1 chiếc, 1 phút 30 giây
sau, số 1 cũng phóng tên lửa và báo cáo có giặc lái nhảy dù. Sở chỉ huy Binh chủng cho đôi bay Đạo-Hợp thoát ly và
dẫn về Kép hạ cánh.Chiến công của đôi bay Lê Thanh Đạo-Vũ Đức Hợp đã ghi dấu ấn lịch sử cho Trung đoàn 927.
Đây là trận đánh thắng đầu tiên của trung đoàn và cũng là trận dẫn đánh mục tiêu trên không lập nhiều kỷ lục nhất của
không quân ta tính từ đầu năm 1972: thời gian từ cất cánh đến phát hiện, chỉ mất 6 phút; 2 máy bay ta bắn rơi 2 máy
bay địch tại chỗ trong thời gian 1 phút 30 giây; mỗi phi công chỉ phóng 1 quả tên lửa và thời gian từ cất cánh đến hạ
cánh là 21 phút.

Để có được thành công này, đội ngũ dẫn đường Trung đoàn 927 trước đó đã phải trải qua những thời điểm
rất khó khăn, khi trung đoàn ra quân đánh không thắng mà còn bị tổn thất. Ngày 16 tháng 4 năm 1972, đôi bay:
Nguyễn Ngọc Hưng và Dương Đình Nghi vào gặp địch Ở thế đối đầu, không có gián cách, ta cao hơn địch quá nhiều,
phi công tự phát hiện mục tiêu, không kịp xử lý khi bị địch bắn, số 2 phải nhảy dù. Ngày 6 tháng 5 năm 1972, biên
đội: Nguyễn Tiến Sâm, Nguyễn Thế Đức, Nguyễn Văn Nghĩa và Lê Văn Lập được dẫn vào tiếp địch, nhưng xông
trước. Dẫn đường không kịp thời thông báo tình thế địch-ta, số 4 bị trúng tên lửa, phải nhảy dù, các số còn lại vào
không chiến trong thế bất lợi và không bám được nhau.

Trưa 10 tháng 5, ngoài 2 trận của biên đội MiG-17 Thọ-Trung-Hạng-Kiếm và đôi bay MiG-21 Đạo-Hợp,
trên hướng đông nam, sở chỉ huy Trung đoàn 923 còn dẫn hai đôi bay MiG-17: Trịnh Văn Quy và Nguyễn Văn Lâm,
Vũ văn Đang và Nguyễn Xuân Hiển từ Kép lên đỉnh để bảo vệ sân bay và sở chỉ huy Binh chủng dẫn đôi bay MiG-21
của Trung đoàn 921: Hoàng Quốc Dũng và Bùi Thanh Liêm từ Nội Bài lên yểm hộ cho đôi Đạo-Hợp.

Như vậy, cường độ xuất kích của ta trong ngày đã tăng vọt so với trước, ta dẫn 14 tốp, 40 lần chiếc đánh
địch trên cả hai hướng trong điều kiện rất khó khăn và ác liệt MiG-21 bắn rơi 4 F4 và MiG-19 bắn rơi 2 F4. Ta hy sinh
2 phi công MiG-21, 2 phi công MiG-19 và 2 phi công MiG-17. Ngày 10 tháng 5 năm 1972 được ghi nhận là ngày có
nhịp độ dẫn xuất kích cao nhất và đánh địch vô cùng quyết liệt của mặt trận trên không năm 1972.

***

Ngày 11 tháng 5 năm 1972, căn cứ vào ý định đánh địch đã được quán triệt từ tối hôm trước, kíp trực Ban
dẫn đường Binh chủng tập trung chuẩn bị phương án dẫn MiG-21 của Trung đoàn 927 ở Nội Bài đánh trên hướng tây
nam và kiểm tra phương án dẫn MiG-19, 17 của Trung đoàn 925 và Trung đoàn 923 ở Yên Bái và Kép.

Từ 14 giờ đến 14 giờ 30 phút, dẫn đường đề nghị cho C-26 tăng cường sục sạo hướng tây nam, vì từ sáng,
không quân địch không hoạt động; còn C-53, ngoài hướng đông nam, cần chú ý hướng nam, do có tin B-52 dự định
vào hoạt động ở phía bắc Nghệ An.

14 giờ 37 phút, C-26 phát hiện địch từ Xầm Tơ vào biên giới, độ cao 8.000m. Ta cho đôi bay MiG-21 đánh
chính: Ngô Văn Phú - số 1 và Ngô Duy Thư - số 2 vào cấp 1. 14 giờ 42 phút, C-53 phát hiện thêm một tốp 8 chiếc từ
Tương Dương lên Quế Phong, cũng độ cao 8.000m, rồi xuống thấp. Ta cho tiếp đôi bay MiG-21 nghi binh, thu hút
địch: Nguyễn Tiến Sâm và Nguyễn Hùng Thông vào cấp 1. Trực ban dẫn đường Lê Viết Diện tại sở chỉ huy Binh
chủng lập tức trao đổi với trực ban dẫn đường Nguyễn Dũng trên hiện sóng tại C-53 về cách phối hợp dẫn đôi đánh
chính đi thấp, kéo cao, vào tiếp địch. Số lượng các tốp địch vào trên hướng tây nam tăng dần, ở nhiều độ cao khác
nhau, có nhiễu che phủ, làm cho ta rất khó lựa chọn đúng tốp cường kích.

Sau khi đánh giá tình hình, thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện, Hồ Luật và Trần Hanh
quyết định cho thực hiện phương án tác chiến đã được chuẩn bị. 14 giờ 45 phút, đôi bay Phú-Thư cất cánh, trực ban
dẫn đường Lê Viết Diện cho hướng bay 190 độ, tốc độ 800km/h, độ cao 500m. 14 giờ 49 phút, tại sở chỉ huy Trung
đoàn 927, thủ trưởng Nguyễn Hồng Nhị cho đôi bay Sâm-Thông cất cánh và yêu cầu cảnh giới thật tốt, dẫn bay đúng
hiệp đồng. Kíp trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Được, Nguyễn Đăng Điển và Lê Thiết Hùng (tại C-43) cho đôi Sâm-
Thông bay nghi binh, thu hút địch ra Thanh Sơn, nhanh chóng lên độ cao 7.000, 8.000m, đi Mộc Châu, rồi về Phú
Thọ, Nội Bài.

Tại sở chỉ huy Binh chủng, được sự hỗ trợ của các đồng chí Lê Thành Chơn, Đỗ Cát Lâm và Khổng Đức
Thi, trực ban dẫn đường Lê Viết Diện bình tĩnh tính toán và "dẫn mò" đôi bay Phú-Thư: 14 giờ 49 phút, hướng bay
210 độ tăng dần tốc độ lên 900km/h, độ cao lên 800m, đồng thời bám sát tốp địch qua biên giới đang hướng vào phía
Mai Châu-Hoà Bình. Lúc này, trực ban dẫn đường trên hiện sóng Nguyễn Dũng đã bắt được ta. 14 giờ 52 phút 30
giây, MiG-21 đến ngang Vụ Bản, sở chỉ huy cho hướng bay 270 độ, tốc độ 1.000km/h, độ cao 4.000m, 1 phút 30 giây
sau, hướng bay 360 độ, độ cao 6.000m. 14 giờ 55 phút 20 giây, địch qua Đường 15, đi Tân Lạc, áp về phía ta, sở chỉ
huy lập tức cho MiG-21 hướng bay 30 độ và thông báo mục tiêu bên trái, 30 độ, 25km, 35 độ, 20km, rồi 40 độ, 15km.
14 giờ 56 phút, số 1 phát hiện, 14 giờ 57 phút, số 2 báo cáo bắn cháy 1 F105, sở chỉ huy hô thoát ly bên trái, hướng
bay 360 độ, độ cao 10.000m. Trong lúc đó, số 1 bám theo tốp F4, bắn rơi 1 chiếc, nhưng lại bị tốp địch ở phía sau bắn
trúng và nhảy dù an toàn. Sở chỉ huy dẫn số 2 vòng qua phía tây Hoà Lạc, Vĩnh Yên về Nội Bài.

Sau khi tổng hợp, phân tích kết quả dẫn đánh địch từ mặt đất của các kíp trực ban dẫn đường và phản ánh
tình hình thực tế trên không của phi công, một số thủ đoạn của địch đã được làm sáng tỏ hơn, nhất là mối quan hệ giữa
các tốp tiêm kích với cường kích, cách thả nhiễu, cách chế áp radar và tên lửa, các thành phần trong đội hình chiến
thuật của địch. Đây là những vấn đề rất quan trọng để dẫn đánh các trận tiếp theo.

Ngày 18 tháng 5 năm 1972, Binh chủng điều chỉnh lực lượng trực chiến: Tại Nội Bài, ngoài MiG-21 còn có
4 MiG-19. Trung đoàn 925 bắt đầu tham gia cơ động đánh địch trên các sân bay, đồng thời vẫn có lực lượng trực chiến
ở Yên Bái. Tại Kép có 4 MiG-17 của Trung đoàn 923 và 2 MiG-21 của Trung đoàn 927. Ta tập trung đánh địch trên
hai hướng đông và tây Hà Nội.

11 giờ 26 phút, trực ban dẫn đường trên hiện sóng C-43 Nguyễn Đức Trinh báo cáo có nhiễu tích cực,
lương vị từ 30 đến 120 độ và 6 phút sau có nhiễu tiêu cực phương vị từ 50 đến 90 độ. Trong lúc đó mạng B1 phát hiện
rất nhiều tốp trên hướng tây nam. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Trần Mạnh cho MiG-21 ở Kép sẵn sàng xuất
kích, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy dự tính dẫn ta xuống Phủ Lý để đánh địch từ Vụ Bản trở vào. 11 giờ 42
phút, đôi bay MiG-21: Bùi Đức Nhu và Ngô Duy Thư cất cánh. Nhưng ngay lúc đó, C-26 bắt được địch vào hướng
tây, thủ trưởng Trần Mạnh lệnh đánh theo phương án, dẫn đường cho MiG-2 1 vòng qua Tam Đảo, xuống Phú Thọ. Ta
phát hiện tiêm kích địch trong thế đối đầu, không vào công kích được, phải thoát về Nội Bài.

Trên hướng đông, 11 giờ 47 phút, mạng B1 phát hiện địch từ đảo Long Châu lên Cẩm Phả, rồi vào theo dãy
Yên Tử. Binh chủng cho MiG-19 và MiG-17 xuất kích. Tại sở chỉ huy Trung đoàn 923, thủ trưởng Lâm Văn Lích
quyết địch cho MiG-17 xuất kích từng đôi một, đánh tốp địch vào đông bắc Kép để bảo vệ sân bay. 11 giờ 52 phút, đôi
bay: Hán Vĩnh Tưởng-Nguyễn Văn Điển cất cánh và hai lút sau, đôi bay Trịnh Văn Quy-Nguyễn Văn Lâm rời đất.
Trực ban dẫn đường Nguyễn Đăng Điển dẫn cả 2 đôi vòng ngay lên đỉnh sân, tăng lực lấy độ cao và thông báo địch ở
đông núi Bảo Đài 25km. Sau đó, phi công Phạm Văn Va, tại đài chỉ huy bay, thông báo tiếp địch bên trái 80 độ độ cao
3.500m. 12 giờ 00, phi công Hán Vĩnh Tưởng phát hiện 4 F4, bên trái 80 độ, 6km. Anh nhanh chóng cắt vào phía sau
của một chiếc và bắn đến loạt thứ ba thì chiếc F4 bốc cháy. Những chiếc còn lại lập tức quay ra. Sở chỉ huy cho thoát
ly về Nội Bài.

11 giờ 51 phút, sau khi cho biên đội MiG-19: Phạm Ngọc Tâm-Nguyễn Thăng Long-Nguyễn Hồng Sơn
(Sơn A)-Vũ Viết Tản cất cánh khỏi Nội Bài, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 925 Hồ Văn Quỳ quyết định đánh tốp
địch phía đông, bảo vệ Bắc Giang. Kíp trực ban dẫn đường: Lưu Văn Cộng và Nguyễn Thanh Hải (tại C-42) dẫn MiG-
19 ra Phả Lại-Lục Nam. Trên đoạn vòng lại, với góc vào 80 độ, biên đội phát hiện địch bên trái, 20 độ, 4km, độ cao
2.000m và 12 giờ 03 phút, phi công Phạm Ngọc Tâm vào công kích, bắn 3 loạt, cháy 1 F4, các số của ta bay phía sau
đều thấy có dù bung ra. Sau khi thoát ly, Binh chủng lệnh cho MiG-19 vào Kép yểm hộ cho MiG-17, rồi quay về Nội
Bài.

Trong lúc MiG-17 và MiG-19 đang rút khỏi chiến đấu, thấy địch ở phía đông vẫn còn, Binh chủng cho tiếp
MiG-21 ở Nội Bài lên yểm hộ. 12 giờ 12 phút, trực ban dẫn đường Trung đoàn 927 Nguyễn Văn Được dẫn đôi bay:
Nguyễn Ngọc Hưng - số 1 và Mai Văn Tuế - số 2 vòng lên Thái Nguyên, nhưng phía trước có mây Cb (Cb -
Cumulonimbus: Một loại mây phát triển theo chiều thẳng đứng dữ dội, hình thành từng đám như những núi tháp đô
sộ, màu mây rất đen, gây ra mưa, giông, sấm, chớp) và C-43 đang không bắt được ta. Thủ trưởng Trần Mạnh lệnh cho
MiG-21 chuyển ngay đối không để Binh chủng dẫn. 12 giờ 20 phút, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy dẫn đôi
Hưng-Tuế tránh mây xong và cho thẳng lên Kép. Đúng lúc đó, trực ban dẫn đường Vương Kính, trên hiện sóng tại C-
26, thông báo địch ở đông Kép, 8km, vào cầu Lường. Sở chỉ huy cho MiG-21 vòng phải gấp. 12 giờ 21 phút, số 1 phát
hiện F4 bên trái, phía dưới, 10km, đối đầu. Thấy số 2 bám đội tốt, phi công Nguyễn Ngọc Hưng cắt vào công kích,
bắn rơi 1 F4. Số 2 cũng có thời cơ phóng tên lửa, nhưng không trúng. Đôi bay thoát ly, đội hình chỉnh tề về Nội Bài.

Trong các trận trên, các kíp trực ban dẫn đường đều dẫn đánh đúng phương án đã được chuẩn bị, cả ba loại
MiG-17, MiG-19 và MiG-21 đều lập công, bắn rơi F4 tiêm kích địch. Nhưng bài học được rút ra là: thực tế, khi dùng
lực lượng lớn cường kích đánh vào Hải Phòng, địch đã cho tiêm kích vào khống chế sân bay Kép và khu vực đầu loa
phía đông của sân bay Nội Bài, còn ta lại phán đoán đây là các tốp máy bay cường kích vào đánh Đường 1 bắc (Tài
liệu tóm tắt trận đánh trưa ngày 18 tháng 5 năm 1972 của Phòng Tham mưu, số 357/TM, ngày 16 tháng 6 năm 1972),
nên quyết tâm dẫn vào tiếp địch. Đến chiều, ta tiếp tục dẫn một đôi MiG- 19 đánh chính và một đôi MiG-21 yểm hộ
cất cánh từ Nội Bài vào đánh địch tại khu vực đỉnh Kép cũng gặp phải tiêm kích.

Ngày 23 tháng 5 năm 1972, không quân của hải quân địch tiếp tục tăng cường lực lượng đánh phá Hải
Phòng- Kiến An, Thái Bình và Đường 1 nam, đoạn Phủ Lý-Nam Định-Ninh Bình. Tại Gia Lâm, Binh chủng bố trí
thêm 1 đôi MiG-21 của Trung đoàn 927 và một biên đội MiG-19 của Trung đoàn 925 cùng tham gia trực chiến với
MiG-17 của Trung đoàn 923. Ngay từ sáng sớm, biên đội MiG-19: Hoàng Cao Bổng - số 1, Vũ Chính Nghị - số 2,
Nguyễn Hồng Sơn (Sơn A) - số 3 và Phạm Hồng Sơn (Sơn C) - số 4 đã xuất kích theo phương án bảo vệ Hải Phòng-
Kiến An, nhưng địch quay ra, ta về Gia Lâm hạ cánh.

11 giờ 50 phút, C-53 phát hiện có nhiều tốp địch ở đông Thanh Hoá bay lên phía bắc. Thủ trưởng trực chỉ
huy Binh chủng Trần Hanh cho các phân đội trực chiến ở Gia Lâm, Nội Bài và Kép vào cấp 1. 11 giờ 54 phút, một vài
tốp địch rẽ vào cửa Đáy lên Nho Quan, số còn lại vào cửa Ba Lạt lên Hưng Yên, Phủ Lý. Ta cho đôi bay MiG-21 ở
Gia Lâm: Nguyễn Đức Soát - số 1 và Ngô Duy Thư - số 2 mở máy, còn MiG- 19 chờ lệnh. Số 1 lên đường băng, số 2
phải mở máy lại, thời cơ cất cánh bị muộn. Trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy Binh chủng cho đôi bay
Soát-Thư tăng ngay tốc độ 950km/h, bay xuống Hưng Yên và trực ban dẫn đường Phạm Thanh Soát trên hiện sóng tại
C-26 tập trung bám sát các tốp địch ở phía Thái Bình-Nam Định. Địch đã đánh Phủ Lý và đang quay ra.

12 giờ 03 phút, sở chỉ huy cho đôi bay Soát-Thư vứt thùng dầu phụ, tăng lực, lên độ cao 3.000m và liên tục
thông báo vị trí mục tiêu. 12 giờ 05 phút, số 1 thấy địch chỉ có 1 chiếc A- 7, quan sát kỹ xung quanh, rồi vào công
kích. 12 giờ 06 phút, phi công Nguyễn Đức Soát báo cáo bắn cháy, số 2 thấy giặc lái nhảy dù và sở chỉ huy cho thoát
ly, hướng bay 340 độ, hạ cánh tại Gia Lâm.

Trong khi hai phi công Nguyễn Đức Soát và Ngô Duy Thư đang trao đổi kinh nghiệm trận đánh vừa diễn ra
với các phi công MiG-19 thì có lệnh cấp 1. Thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 925 Hồ Văn Quỳ quyết định cho biên
đội Bổng-Nghị-Sơn A-Sơn C mở máy và cất cánh ngay, đồng thời yêu cầu trực ban dẫn đường Lưu Văn Cộng dẫn
biên đội ra hướng đông, rồi quay lại Kép. Biên đội tách thành hai đôi, đan chéo nhau tại đỉnh và liên lạc với đài chỉ
huy bổ trợ. Tiêm kích địch từ phía đông sân bay phóng tên lửa vào đội hình của ta. Phi công Nguyễn Văn Lục, tại đài
chỉ huy bổ trợ, vừa chỉ huy cho các số cơ động vừa thông báo vị trí địch. Đôi bay Sơn A-Sơn C, sau vài động tác cơ
động với quá tải tương đối lớn, đã giành lại chủ động, mỗi phi công bắn rơi 1 F4. Số 2, do không kịp chuyển đối
không, đã không nghe được đài chỉ huy bổ ra lệnh cơ động gấp cho mình, nên lượng cơ động không đủ lớn, đã bị
mảnh tên lửa của địch phá hỏng hệ thống động cơ và hệ thống điều khiển của máy bay, phải nhảy dù. Khi tiếp đất, số
2 còn bị F4 lao theo phóng 2 quả tên lửa, nhưng không trúng. Số 1 cơ động phản kích, nhưng không có cơ hội nổ
súng. Sở chỉ huy lần lượt cho các số thoát ly về Gia Lâm.

Buổi chiều, địch cho nhiều tốp từ biển, qua Hồng Gai, dãy Yên Tử, vào phía Chũ-Lục Nam. 16 giờ 35 phút,
biên MiG-17: Vũ Văn Đang - số 1, Nguyễn Văn Điển - số 2, Nguyễn Văn Lâm - số 3 và Nguyễn Công Ngũ - số 4 cất
cánh Kép. Trực ban dẫn đường, tại sở chỉ huy Trung đoàn 923 Đào Công Thạnh dẫn MiG-17 lên đỉnh làm vòng chờ.

16 giờ 42 phút, dẫn đường Binh chủng cho biên đội về Yên Phong, nhưng sở chỉ huy Kép lại cho về Hiệp
Hoà. 16 giờ 51 phút, đài chỉ huy bổ trợ tại Kép thông báo có 4 F4, độ cao 1.500m ở phía núi Bảo Đài. Sở chỉ huy Kép
cho biên vứt thùng dầu phụ, tăng lực, vòng lại và dẫn vào tiếp địch với góc 100 độ. Số 1 phát hiện F4, cự ly 4km và
địch cũng thấy ta. Hai bên không chiến ở độ cao rất thấp, địch xen kẽ, bám đuổi nhau quyết liệt. Phi công Vũ Văn
Đang và Nguyễn Văn Điển, mỗi người bắn rơi 1 F4, nhưng sau đó số 1 và số 2 hy sinh, số 4 phải nhảy dù, đều do bị
địch bắn. Chỉ có số 3 về được Nội Bài hạ cánh.

Mặc dù tất cả các kíp trực ban dẫn đường đều đã rất cố gắng tìm cho ra và dẫn đánh bằng được các tốp
cường kích, nhưng khi địch đã lấy F4, loại máy bay chiến thuật đa năng, làm lực lượng nòng cốt, với đội hình gọn,
không quá 12 chiếc, có khả năng cơ động cao vừa đánh phá các mục tiêu vừa sẵn sàng không chiến với các loại tiêm
kích của ta, thì ta vẫn gặp phải khá nhiều khó khăn, nhất là dẫn MiG-19 và MiG-17. Để tiếp tục đánh địch, không
quân ta kịp thời chuyển hướng sang tập trung vào dẫn MiG-21.

***

Vào thời gian cuối tháng 5, đầu tháng 6 năm 1972, trước thực tiễn dẫn MiG-21, MiG-19 và MiG-17 đánh
địch trên mặt trận trên không vô cùng quyết liệt, ngành Dẫn đường đã tập trung thúc đẩy những mặt thuận lợi trong
cách dẫn đôi bay MiG-21, vươn ra xa, đánh địch hoạt động ở độ cao trung bình, sử dụng tốc độ lớn khi tiếp cận và
thoát ly… Kết quả dẫn đánh đã có những bước tiến rõ rệt. Số trận, dẫn đôi bay MiG-21 bắn rơi 1 máy bay địch mà ta
không bị tổn thất, nhanh chóng tăng lên (Từ ngày 20 tháng 5 đến ngày 13 tháng 6 năm 1972, có 7 trận). Đây là những
tích luỹ quan trọng về lượng để biến thành chất, không chỉ thể hiện trong những ngày cuối tháng 6 năm 1972, mà còn
kéo dài trong nhiều tháng tiếp theo và không chỉ duy trì thêm nhiều trận dẫn đôi bay MiG-21 bắn rơi 1 máy bay địch,
ta không bị tổn thất (Từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 15 tháng 12 năm 1972 có 11 trận, bao gồm cả 3 trận đánh không
người lái) mà còn mở ra hàng loạt trận dẫn đôi bay MiG-21 bắn rơi 2 máy bay địch (Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 6
tháng 10 năm 197 có 10 trận, trong đó chỉ có 2 trận ta bị tổn thất 2 máy bay, phi công nhảy an toàn).

Ngày 23 tháng 6 năm 1972, theo lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Trần Hanh và Chu Duy
Kính, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy dẫn đôi bay: Nguyễn Văn Nghĩa - số 1 và Nguyễn Văn Toàn - số 2 từ Gia
Lâm, vòng qua phía nam Hà Nội, qua Xuân Mai, lên phía tây Yên Lập. Trực ban dẫn đường Hoàng Kế Thiện trên hiện
sóng tại C-26 báo cáo phát hiện tốt các tốp địch trên cao ở hướng tây nam, nhưng chưa thấy các tốp phía dưới. Sở chỉ
huy cho đôi Nghĩa-Toàn bay ở độ cao 1.500m để luôn giữ liên lạc và khi đã bám sát được tốp lớn với đội hình kéo dài
từ tây nam Vạn Yên đi lên, lập tức cho MiG-21 vòng trái, hướng bay 240 độ, độ cao 3.000m, xuống khu vực Vạn Yên
để đánh vào cuối đội hình địch. Sau hai lần thông báo trí mục tiêu, số 1 phát hiện 2 F4, bên phải 30 độ, 12km, đã dùng
tốc độ lớn vào công kích, rồi thoát ly ngay, còn số 2 vẫn bám chắc ở phía sau. Bằng 1 quả tên lửa, phi công Nguyễn
Văn Nghĩa hạ 1 F4.

Ngày 24 tháng 6 năm 1972, lúc 15 giờ 13 phút, trên mạng B1 xuất hiện nhiều tốp địch qua biên giới Lào-
Việt, hướng vào Mộc Châu, Hoà Bình, các đại đội radar dẫn đường của ta đều đã bắt được địch, nhưng chưa xác định
các tốp cường kích.15 giờ 16 phút, Binh chủng cho đôi bay: Bùi Đức Nhu và Hạ Vĩnh Thành ở Nội Bài cất cánh và
dẫn ra Thanh Sơn, sau đó chuyển cho sở chỉ huy Trung đoàn 927 dẫn lên Tuyên Quang, hoạt động ở độ cao 8.000m để
nghi binh, thu hút địch. 15 giờ 29 phút, trực ban dẫn đường Hoàng Kế Thiện tại C-26 phát hiện 1 tốp lớn ở các độ cao
từ 2.500m đến 4.000m, từ Yên Châu hướng vào Phú Thọ. 15 giờ 30 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Trần
Hanh quyết định cho đôi bay: Nguyễn Đức Soát - số 1 và Ngô Duy Thư - số 2 ở Nội Bài cất cánh, trực ban dẫn đường
Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy Binh chủng dẫn MiG-21 ra hướng 270 độ, độ cao 2.000m. 15 giờ 34 phút, địch qua
Vạn Yên 25km, C-26 mất mục tiêu còn trên B1, địch vòng ra phía Tây, sở chỉ huy cho đôi bay chờ tại Sơn Tây. 15 giờ
40 phút, C-26 phát hiện tốp lớn quay lại, đi lên Đoan Hùng, thủ trưởng Trần Hanh lệnh đánh vào tốp cuối, trực ban
dẫn đường Phạm Minh Cậy cho đôi bay Soát-Thư hướng bay 290 độ, tốc độ 950km/h, độ cao 3.000m và hai phút sau,
cho vòng phải vào tiếp địch với góc gần 90 độ. Số 2 báo cáo, bên phải 45 độ, 8 chiếc, đồng thời số 1 thấy 16 chiếc.
Phát huy lợi thế về tốc độ số 1 bám tốp thứ tư, số 2 bám tốp thứ năm. 15 giờ 44 phút 10 giây, số 1 báo cáo bắn cháy 1
F4 và 20 giây sau, số 2 cũng báo cáo bắn cháy 1 F4. Sở chỉ huy cho thoát ly bên phải, xuống ngay độ cao 500m về
Nội Bài. Đôi bay Nguyễn Đức Soát và Ngô Duy Thư đã lập kỷ lục mới về bắn nhanh: chỉ mất 20 giây đôi bay MiG-2
1 phóng 3 quả tên lửa bắn rơi 2 máy bay địch tại chỗ.

Ngay sau khi đôi bay Soát-Thư báo cáo phát hiện tốp lớn 24 chiếc của địch, Binh chủng lập tức quyết định
cho MiG-21 ở Nội Bài xuất kích đánh địch quay ra. Đôi bay: Nguyễn Văn Nghĩa - số 1 và Nguyễn Văn Toàn - số 2 cất
cánh, sở chỉ huy Trung đoàn 927 cho hướng bay 280 độ, độ cao 1.000m, nhưng C-43 không bắt được địch, nên buộc
phải chuyển cho Binh chủng dẫn. 15 giờ 51 phút, trực ban dẫn đường Hoàng Kế Thiện tại C-26 thông báo cho đôi
Nghĩa-toàn, địch đang ở bắc Tam Đảo, sở chỉ huy Binh chủng cho hướng bay 360 độ. 15 giờ 52 phút, C-43 mới bắt
được địch, trực ban dẫn đường Nguyễn Đăng Điển tại sở chỉ huy Trung đoàn 927 thông báo mục tiêu bên trái 30 độ,
20km, đôi bay Nghĩa-Toàn chủ động vòng trái, hướng bay 310 độ. 15 giờ 53 phút, số 1 phát hiện địch bên trái 10 độ
15km, độ cao 4.500m và tăng lực đuổi theo. Do chưa có ngay ưu thế về tốc độ, nên 6 phút 20 giây sau (tại bắc Vạn
Yên 10km) số 1 mới có đủ điều kiện xạ kích và bắn rơi 1 F4. Sở chỉ huy cho thoát ly bên trái, xuống độ cao 200m trên
địa hình, về Nội Bài.

Sáng ngày 27 tháng 6 năm 1972, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 927: Nguyễn Văn Được tại sở chỉ huy
và Lê Thiết Hùng tại C-43 đã dẫn đôi bay Bùi Đức Nhu và Hạ Vĩnh Thành từ Nội Bài lên đánh địch trên hướng tây Hà
Nội. Sau khi phát hiện 4 F4 ở phía dưới, từ độ cao 7.000m, đôi MiG-21 lao xuống, bám vào chiếc sau cùng. Phi công
Bùi Đức Nhu phóng 1 quả tên lửa bắn rơi 1 F4 tại khu vực nam Yên Bái 25km, có giặc lái nhảy dù. Đến buổi chiều,
địch cho nhiều tốp vào hoạt động trên trục: Mộc Châu-Vạn Yên-Yên Lập. Binh chủng nhận định, chúng tổ chức tìm
cứu giặc lái, phải tận dụng thời cơ này.

11 giờ 53 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 927 Nguyễn Hồng Nhị quyết định cho đôi bay: Nguyễn
Đức Soát số 1 và Ngô Duy Thư - số 2 ở Nội Bài cất cánh. Kíp trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Được và Lê Thiết
Hùng tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Đôi Soát-Thư hướng bay 210 độ, độ cao 500m và tốc độ 900km/h, qua Hoà Lạc lên
độ cao 2.000m, ra Mộc Châu. C-43 bám sát 1 tốp bay ra, từ Vạn Yên xuống Mộc Châu và 1 tốp bay vào, từ nam Sầm
Nưa qua biên giới Lào-Việt. Thủ trưởng Nguyền Hồng Nhị cho phép đánh tốp bay ra, 12 giờ 02 phút, sở chỉ huy cho
MiG-21 vòng trái vào tiếp địch, hướng bay 180 độ, độ cao 5.000m và liên tục thông báo vị trí mục tiêu. 12 giờ 03 phút
30 giây, số 1 phát hiện 2 F4 bên phải 30 độ, 15km, độ cao 4.000m, đang đi ra. Ta đuổi theo. 12 giờ 06 phút 10 giây,
qua Pa Háng (tây nam Mộc Châu 20km), phi công Nguyễn Đức Soát phóng 2 quả tên lửa liên tiếp, bắn rơi tại chỗ 1
F4. Trong lúc đó, phi công Ngô Duy Thư bám theo 2 chiếc khác và phóng đến quả tên lửa thứ hai thì 1 F4 nổ tung. 12
giờ 07 phút, sở chỉ huy cho thoát ly và dẫn về Nội Bài.
Cùng với trận đánh trên, lúc 11 giờ 59 phút, sau khi C-26 bắt được tốp bay vào, qua biên giới, lên Mộc
Châu, Vạn Yên, sở chỉ huy Binh chủng lệnh cho sở chỉ huy Yên Bái cho đôi bay: Phạm Phú Thái - số 1 và Bùi Thanh
Liêm - số 2 (đã cơ động chuyển sân từ chiều hôm trước) cất cánh ngay. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng: Phạm
Minh Cậy tại sở chỉ huy và Vương Kính tại C-26 dẫn đôi Thái- Liêm ra Nà Sản, độ cao 4.000m. 12 giờ 06 phút, MiG-
21 qua sông Đà, vòng trái đi Vạn Yên và vào tiếp địch. Tại Vạn Yên, ta phát hiện 4 F4, độ cao 2.000m, đang vòng
phải một vòng tạo thế đối đầu nên không bám theo được. Sau đó chúng xuống dưới mây và bay lên hướng bắc, ta
vòng trái, đón địch ở trên mây. Khi chúng quay ra, sở chỉ huy dẫn đôi bay Thái-Liêm đuổi theo và thông báo ngay vị
trí mục tiêu. 12 giờ 16 phút, số 1 phát hiện 4 F4 bên trái 30 độ, 15km, địch phân tốp cơ động đan chéo nhau. Số 1 lệnh
cho số 2 tăng cường quan sát, đội hình hàng ngang, bám sát hai chiếc đi sau, đồng thời công kích. 12 giờ 18 phút, số 1
báo cáo bắn rơi và mấy giây sau số 2 cũng bắn rơi. Vị trí tiêu diệt hai chiếc F4 này trùng với vị trí tan xác của hai
chiếc F4 trước đó 12 phút, do đôi bay Soát-Thư hạ gục. Đôi bay Phạm Phú Thái và Bùi Thanh Liêm đã lập kỷ lục mới
cả về bắn nhanh và tốn ít tên lửa: chỉ trong vài giây đôi bay MiG-21 đồng thời công kích, bắn rơi tại chỗ 2 máy bay
địch bằng 2 quả tên lửa. Sở chỉ huy binh chủng dẫn quay về Yên Bái.

Đây là một trong những ngày dẫn đánh địch đạt hiệu quả chiến đấu cao nhất của mặt trận trên không năm
1972 : Dẫn 3 tốp ta với 6 lần chiếc MiG-21, bắn rơi 5 máy bay địch, ta đều an toàn.

Ngày 5 tháng 7 năm 1972, thực hiện ý định đánh địch bảo vệ Đường 1 bắc, kíp trực Ban dẫn đường Binh
chủng: Lê Thành Chơn, dẫn trên bàn dẫn đường và Vương Kính, dẫn trên hiện sóng đã dẫn đôi bay: Nguyễn Tiến Sâm
- số 1 và Hạ Vĩnh Thành - số 2 từ Nội Bài, bay thấp, qua nam Hải Dương, rồi kéo cao, vòng lên phía bắc để chặn đánh
các tốp địch từ Đầm Hà, qua Đình Lập, vào đánh Đường 1 bắc. Sở chỉ huy dẫn MiG-21 vào tiếp địch tại khu vực cầu
Sông Hoá. Với góc vào rất thuận lợi, 60 độ, số 2 phát hiện 4 F4, 17km và chiếm ưu thế về tốc độ, đôi bay Nguyễn
Tiến Sâm và Hạ Vĩnh Thành đã nhanh chóng đuổi kịp và 1 bắn rơi tại chỗ 2 F4 trong 30 giây. Khi số 1 bị tắt máy, do
phóng tên lửa quá gần, lao qua tâm nổ, kíp trực ban dẫn đường đã bám sát từng khẩu lệnh xử lý của người chỉ huy,
theo dõi chặt chẽ các bước hành động của phi công và kịp thời dẫn về hạ cánh an toàn, ngay sau khi số 1 mở máy
thành công.

Từ những bước tiến rõ rệt trong cách dẫn MiG-21 đánh địch, ta đã tiếp tục phát huy yếu tố về tốc độ, dẫn
đôi bay MiG-21 vào tốp cuối của đội hình địch, cả khi chúng bay vào và quay ra để giành ưu thế về chiến thuật, góp
phần nâng cao rõ rệt hiệu quả bắn rơi địch.

Để dẫn đánh địch đạt hiệu quả chiến đấu cao, nhất là khi mặt trận trên không năm 1972 diễn ra vô cùng
quyết liệt ngoài việc thường xuyên tích luỹ những kinh nghiệm hay, ngành Dẫn đường còn rất nghiêm túc kiểm điểm,
làm rõ các nguyên nhân về dẫn đường từ các trận ta bị tổn thất, điển hình như các trận trong ngày 8 tháng 7 năm 1972.

Ý định tác chiến chung của Binh chủng trong ngày hôm đó là sử dụng các đôi bay MiG-21 trực chiến trên
các sân bay Nội Bài, Gia Lâm và Yên Bái, đánh địch từ xa, ngoài hoả lực phòng không của ta để bảo vệ Hà Nội, trên
cả hai hướng tây bắc và đông nam, nhưng đề phòng hướng tây nam. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng: Phạm Minh
Cậy, Đặng Dũng, Phạm Công Kim tại sở chỉ huy và Hoàng Kế Thiện, Vương Kính, Nguyễn Dũng tại C-26, C-53, chịu
trách nhiệm dẫn chính MiG-21 ở Gia Lâm và Yên Bái. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn không quân 921: Tạ Quốc
Hưng, Trần Đức Tụ tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng tại C-43, chịu trách nhiệm dẫn chính MiG-21 ở Nội Bài. Công tác
chuẩn bị dẫn đường cho trận đánh được tổ chức thực hiện như mọi ngày.
Ngay từ sáng sớm, lúc 5 giờ 49 phút, sau khi theo dõi trên mạng Bị và C-43 phát hiện được tốp 4 chiếc từ
Sầm Nưa vào Yên Châu, sở chỉ huy Trung đoàn không quân 921 đã cho đôi bay: Đặng Ngọc Ngự - số 1 và Trần Việt -
số 2 ở Nội Bài cất cánh, dẫn ra Thanh Sơn và lên độ cao 4.000m, nhưng địch quay ra, ta cho xuống hạ cánh.

9 giờ 50 phút, C-26 bám được tốp 12 chiếc vòng ở bắc Sầm Nưa 30km, rồi đổi hướng vào Sơn La. Để đề
phòng địch vào đánh Yên Bái và nhà máy thuỷ điện Thác Bà, 9 giờ 54 phút 30 giây, đôi bay: Lương Thế Phúc - số 1
và Đỗ Văn Lanh - số 2 ở Yên Bái cất cánh. Sở chỉ huy Yên Bái dẫn MiG-21 xuyên lên trên mây (thời tiết tại sân lúc
đó 5-7cu 500-700) và vòng về đỉnh, sau đó sở chỉ huy Binh chủng dẫn tiếp, hướng bay 180 độ, độ cao 3.000m. 10 giờ
00, địch đổi hướng vào Yên Châu, trực ban dẫn đường phán đoán là tốp cường kích, xin đánh và dẫn đôi bay Phúc-
Lanh xuống phía nam Yên Châu, rồi vòng phải ngược lên. 10 giờ 04 phút, địch vòng ở độ cao 3.600m, ta vòng ở độ
cao 5.000m, tốc độ 1.000km/h. 10 giờ 06 phút, số 1 phát hiện địch ở dưới thấp và 1 phút 30 giây sau, báo cáo địch
vòng lại đối đầu. Sở chỉ huy Binh chủng cho thoát ly về Yên Bái.

10 giờ 05 phút, địch cho nhiều tốp vào hướng tây nam Hà Nội, C-26 phát hiện tốp 8 chiếc ở đông Xầm Tơ
vào Bá Thước và sau đó C-43 cũng bắt được. Sở chỉ huy Trung đoàn 921 cho đôi bay MiG-21: Phạm Phú Thái và Bùi
Thanh Liêm ở Nội Bài cất cánh, đi hướng bay 250 độ. Binh chủng nhắc, không được vào hoả lực và yêu cầu cho ra
Hoà Bình. Đôi bay Thái-liêm vòng qua Hoà Bình, xuống Tân Lạc, Vụ Bản, không gặp địch, sau đó lên Thanh Sơn và
về Nội Bài hạ cánh.

10 giờ 08 phút, C-43 bắt được tốp 16 chiếc, độ cao 5.000 ở Hồi Xuân bay lên phía bắc, ta nhận định là
cường kích, nên 10 giờ 13 phút, sở chỉ huy Trung đoàn 921 cho đôi bay: Đặng Ngọc Ngự - số 1 và Trần Việt - số 2 ở
Nội Bài cất cánh, đi hướng 270 độ, độ cao 500m. 10 giờ 19 phút, MiG-21 qua Thanh Sơn 25km, vì chưa xác định
chính xác vị trí tốp cường kích, nên sở chỉ huy cho vòng trái, lên hướng 360 độ và 3 phút sau, cho vòng xuống hướng
180 độ 10 giờ 25 phút, thấy địch từ phía Hoà Bình quay ra, sở chỉ huy cho đôi Ngự-Việt hướng bay 120 độ, sau đó lên
độ cao 5.000m, rồi 210 độ, tốc độ 1.000km/h, đón địch ở Suối Rút. Ta dẫn MiG-21 cơ động bám theo địch. 10 giờ 28
phút 40 giây, số 1 phát hiện 4 F4, bên trái 30 độ, 15km, độ cao 4.000m, cắt chéo ngược chiều, từ trái qua phải và lệnh
cho số 2 vòng phải gấp, bám theo. Thấy số 2 thông báo còn 2 chiếc phía sau, số 1 giảm độ nghiêng, rồi bám tiếp và
phóng ngay 1 quả tên lửa, sau đó thoát ly bên phải, hướng bay 360 độ. 10 giờ 32 phút, sở chỉ huy cho số 1 hướng bay
30 độ và từ đó mất liên lạc.

Số 2 không kịp vào công kích, kẻo cao, đi hướng 330 độ phát hiện 2 F4 và lập tức bám theo, đến cự ly
khoảng 1.600m, phóng 1 quả tên lửa, nhưng không xác định được điểm nổ. Sau đó, số 2 lại phát hiện 2 F4 và cố bám
vào gần hơn, đến cự ly 1.000m, phóng quả thứ hai, rồi thoát ly ngay sang phải và lại thấy 1 chiếc đối đầu, phía dưới.
Lúc này dầu chỉ còn 450 lít và nhìn thấy sân bay Hoà Lạc, số 2 tập tức giảm độ cao, xin xuống hạ cánh và tiếp ất an
toàn lúc 10 giờ 39 phút. Phi công Trần Việt bắn rơi 1 F4. 10 giờ 25 phút, trong khi sở chỉ huy Trung đoàn 921 đang
dẫn đôi bay Ngự-Việt vào Suối Rút thì sở chỉ huy Binh chủng cho đôi bay MiG-21: Nguyễn Ngọc Hưng - số 1 và Vũ
Đức Hợp - số 2 ở Gia Lâm cất cánh, dẫn vào khu vực Hưng Yên chờ ở độ cao thấp, theo hướng đông bắc-tây nam. 10
giờ 43 phút, C-26 bắt tốt tốp 8 chiếc, độ cao 3.000m ở tây bắc Lang Chánh 15km, đang hướng vào Vụ Bản; dẫn đường
tại sở chỉ huy phán đoán là máy cường kích và cho đôi bay Hưng-Hợp vòng phải, hướng bay 270 độ lên độ cao
4.000m. Ngay sau đó, C-26 mất tín hiệu cả ta và địch, sở chỉ huy lập tức "dẫn mò", 10 giờ 46 phút, hướng bay 290 độ,
tốc độ 1.000km/h. Đến 10 giờ 48 phút 45 giây, theo dự tính, ta sẽ gặp địch, nhưng đôi bay Hưng- Hợp không thấy
địch, sở chỉ huy cho vòng trái về Hưng Yên. 10 giờ 49 phút, từ C-26, dẫn đường hiện sóng báo cáo qua điện thoại,
đang bắt tốt địch và trực tiếp dẫn MiG-21 vòng phải, hướng bay 310 độ, tốc độ 950km/h, rồi 360 độ và thông báo vị
trí, độ cao địch. Sau đó C-26 lại mất tín hiệu mục tiêu, sở chỉ huy liền thông báo địch bên trái 30 độ 15km. Số 2 phát
hiện 4 F4, đối đầu. 10 giờ 52 phút, số 1 lệnh cho số 2 vào công kích 2 chiếc phía dưới, còn mình công kích 2 chiếc
phía trên. Đến 10 giờ 53 phút 25 giây, ta hoàn toàn mất liên lạc với đôi bay Hưng-Hợp.

Từ diễn biến của các trận trên, ta nhận thấy: Trong năm lần xuất kích, dẫn đường đã phán đoán và lựa chọn
chưa đúng các tốp địch cần phải đánh, vì lần đầu cho là trĩnh sát, nhưng có nhiều khả năng là tốp nghi binh; còn bốn
lần tiếp theo đều cho là cường kích, nhưng thực tế lại là tiêm kích. Kể cả tốp địch từ Hoà Bình quay ra cũng không
phải là cường kích đã vào đánh mục tiêu của ta. Việc dựa vào trình tự thời gian hoạt động của các tốp địch, số lượng
chiếc trong từng tốp, độ cao và hướng vào ban đầu của chúng để tìm ra các tốp cần phải đánh là rất cần thiết, nhưng
chưa đủ vì địch còn thường xuyên sử dụng nhiêu, cả tiêu cực và tích cực, tách và hợp tốp khá phổ biến, thay đổi độ
cao và hướng bay nhiều lần… để đánh lừa ta. Về tính toán thời cơ cất cánh: ba lần đầu đều bị sớm; còn hai lần sau,
đúng lúc. Về xử lý các tình huống trong lúc dẫn vào gặp địch: Khi đôi bay Thái-liêm cất cánh sớm, nếu cho ra Thanh
Sơn, rồi dẫn xuống theo ý định ban đầu của Binh chủng thì khả năng gặp địch có thể sẽ nhiều hơn, nhưng dẫn đường
tại sở chỉ huy lại cho ngay hướng bay 250 độ, nên ta không thể gặp địch trong khu vực dự tính. Trong trận dẫn đôi bay
Hưng-hợp, khi C-26 mất tín hiệu ta-địch, dẫn đường tại sở chỉ huy đã chuyển ngay sang "dẫn mò" vào tiếp địch,
nhưng kéo dài hơn 4 phút là không cần thiết. Còn khi dẫn đường trên hiện sóng xin dẫn vào tiếp địch lần thứ hai, thực
tế là bắt tốt tốp địch khác. Về hỗ trợ phi công sau khi phát hiện địch, qua theo dõi trên đối không, nhất là lúc đôi bay
Ngự-Việt, trong khoảng 5 phút, liên tục báo cáo phát hiện địch và xin vào công kích, dẫn đường đã chưa nhạy bén
đánh giá hết tình hình, nên chưa kịp thời cảnh báo tiêm kích cho phi công.

Làm rõ được các nguyên nhân về dẫn đường là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để ngành Dẫn
đường tiếp tục nâng cao chất lượng hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Ngày 24 tháng 7 năm 1972, kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng: Lê Viết Diện tại sở chỉ huy và Hoàng Kế
Thiện tại C-26 chịu trách nhiệm dẫn chính đôi bay: Lê Thanh Đạo - số 1 và Trương Tôn - số 2. Còn kíp trực ban dẫn
đường Trung đoàn. 927: Nguyễn Đăng Điển tại sở chỉ huy và Nguyên Đức Trinh tại C-43 chịu trách nhiệm dẫn chính
đôi bay: Nguyễn Tiến Sâm - số 1 và Hạ Vĩnh Thành - số2. Tất cả đều tập trung thực hiện nhiệm vụ dẫn MiG-21 đánh
địch trên hướng đông để bảo vệ Đường 1 bắc. Sau khi C-26 và C-43 bắt tốt các tốp địch ở tây Bạch Long Vĩ 40km,
bay thẳng lên Hồng Gai, Binh chủng lần lượt cho MiG-21 ở Gia Lâm và Nội Bài vào cấp 1. 12 giờ 20 phút, đôi bay
Sâm-Thành cất cánh khỏi Nội Bài và ba phút sau đôi bay Đạo-Tôn rời đường băng Gia Lâm.

Sở chỉ huy Trung đoàn 927 dẫn đôi bay Sâm-Thành lên phía Hiệp Hoà, độ cao 500m. 12 giờ 24 phút, địch
vào đến đỉnh 1068 của dãy Yên Tử, rồi lên cầu Sông Hoá, MiG-21 ở Nhã Nam, sở chỉ huy cho vòng trái, hướng bay
120 độ, tốc độ 950km/h, lên độ cao 4.000m, vào tiếp địch.

12 giờ 27 phút, ta đến Đường 13B, số 2 phát hiện 8 F4, bên trái 90 độ, 12km. Số 1 lệnh cho số 2 tăng tốc
độ, vòng trái, cảnh giới phía trên. Ta bám được vào phía sau, tuy còn thấp hơn địch 500m, nhưng cự ly tốt. Phi công
Nguyễn Tiến Sâm phóng 2 quả tên lửa, rơi tại chỗ 1 F4; số 2 cũng phóng 2 quả, nhưng không trúng. 12 giờ 29 phút, sở
chỉ huy cho thoát ly về phía Võ Nhai. Đôi bay Sâm-thành vừa cơ động đổi hướng vừa xuống độ cao cực thấp để về
Nội Bài. Số 2, trong lúc vào hạ cánh, bị địch bám theo, đã kịp thời làm ngay động tác phản kích theo lệnh của chỉ huy
bay, rồi hạ cánh an toàn lúc 12 giờ 42 phút.

Đôi bay Đạo-tôn, sau khi cất cánh, đi thấp. hướng bay 150 độ. C-26 không bắt được ta, nhưng liên tục bám
sát địch. Sở chỉ huy Binh chủng vừa "dẫn mò" MiG-21 vừa lựa chọn các tốp địch từ khu vực cầu Sông Hoá-kép-lục
Ngạn quay ra Hồng Gai. Ta đến sông Luộc, sở chỉ huy cho vòng trái, hướng bay 60 độ, tốc độ 900km/h và lên độ cao
1.000m. Lúc này C-26 bắt tốt ta-địch. 12 giờ 31 phút, Đôi bay Đạo-Tôn qua đông Hải Dương, sở chỉ huy cho tăng tốc
độ lớn, lên tiếp độ cao 6.000 m và đi hướng 80 độ. Lúc này địch từ Lục Ngạn đi ra. Thời cơ vào tiếp địch thuận lợi. 12
giờ 33 phút, qua Đường 18, theo thông báo của C-26, số 1 phát hiện toàn bộ đội hình địch, 12 chiếc F4, đồng thời chỉ
thị cho số 2 vị trí từng tốp. Địch hoàn toàn không phát hiện có MiG bám sau. Đôi bay Đạo-Tôn xin vào công kích,
mỗi phi công phóng 1 quả tên lửa, 2 F4 rơi. 12 giờ 36 phút, sở chỉ huy lệnh thoát ly bên trái, độ cao 9.000m, nhưng
chỉ có số 2 thoát ly trái, còn số 1 lại thoát ly phải, vì cho rằng về Nội Bài gần hơn. Trong lúc đó, tại Nội Bài và Kép
đều có địch, lượng dầu số 1 còn 900 lít, số 2 còn 800 lít. Sở chỉ huy Binh chủng cho bay theo chế độ tiết kiệm nhiên
liệu, tăng cường quan sát trên không và chỉ thị cho các đại đội radar dẫn đường theo dõi địch trên tất cả các độ cao tại
hai khu vực trọng điểm Nội Bài và Kép.

12 giờ 51 phút, số 2 hạ cánh xuống Kép và 1 phút sau, số 1 hạ cánh ở Nội Bài an toàn.Trong tháng 9 năm
1972, ta dẫn thêm ba trận, đôi bay MiG-21 bắn rơi 2 máy bay địch: Ngày 9 tháng 9, kíp trực ban dẫn đường Trung
đoàn 921: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy và Trịnh Văn Tuất tại C-43 dẫn đôi bay: Lương Thế Phúc và Đỗ Văn Lanh
đánh địch từ Sơn Động quay ra. Sau khi vào tiếp địch ở góc 60 độ, số 1 phát hiện 8 F4 10km và cả hai số đều bắn rơi
địch tại khu vực Hồng Gai. Ngày 11 tháng 9, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 927: Hoàng Trung Thông tại sở chỉ
huy và Lê Thiết Hùng tại C-43 dẫn đôi bay: Lê Thanh Đạo và Trần Văn Năm đánh địch bay vào tại Đồng Mỏ. Với góc
và tiếp địch 50 độ, số 1 phát hiện 8 F4, 5km và đôi bay cũng bắn rơi 2 chiếc. Ngày 12 tháng 9, kíp trực ban dẫn đường
Trung đoàn 927: Nguyễn Văn Được tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng tại C-43 dẫn đôi bay: Nguyễn Tiến Sâm và
Nguyễn Văn Toàn đánh tốp F4, 8 chiếc đang thả nhiễu tại Lục Ngạn. Số 2 phát hiện địch ở cự ly 17km, mỗi phi công
bắn rơi 1 F4. Tuy nhiên, trong các trận trên, do địch đông, phân thành nhiều tốp, nhiều tầng, ta kiểm soát không hết,
nên một phi công phải phản kích quá lâu, hết dầu và một phi công bị địch đeo bám, bắn trúng, đều trong giai đoạn đã
thoát ly bay về, nhưng cả hai đã nhảy dù an toàn.

Tháng 10 năm 1972, ta tiếp tục dẫn thành công hai trận rất quan trọng, đó là đôi bay MiG-21 bắn rơi 2 máy
bay địch mà ta không hề bị tổn thất.

Ngày 5 tháng 10 năm 1972, sau khi được dẫn từ Nội Bài, vòng lên phía bắc, rồi sang Đồng Mỏ, ta phát
hiện địch ở cự ly 20km, nhưng cao xạ bảo vệ ga Đồng Mỏ đang đánh, buộc phải thoát ly và về Nội Bài hạ cánh, đôi
bay: Bùi Đức Nhu - số 1 và Nguyễn Tiến Sâm - số 2 đã bắt tay ngay vào chuẩn bị phương án đánh phục kích tại sân
bay Yên Bái. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng dẫn chính: Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy và Trần Đức Thuỷ tại C-
26, Sở chỉ huy Trung đoàn 925 ở Yên Bái bổ trợ. Ta cơ động chuyển sân, địch không hề hay biết.

13 giờ 44, khi C-26 bám sát được các tốp địch từ tây Mộc Châu vào phía Yên Bái, sở chỉ huy Trung đoàn
925 nhận lệnh của Binh chủng và tổ chức cho đôi bay Nhu- Sâm mở máy, cất cánh. 13 giờ 52, đôi Nhu-Sâm ở bắc
Yên Bái 25km, giữ hướng bay 20 độ, tiếp nhận chỉ huy-dẫn đường của sở chỉ huy Binh chủng và lên độ cao 6.500m.
13 giờ 53 phút, địch đến Văn Yên, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn cho MiG-21 vòng trái quay lại, sau đó một
phút thông báo địch bên trái 40 độ, 25km, đang vòng phải về Yên Bái và cho ta tăng tốc độ 1.300km/h. 13 giờ 54 phút
30 giây, số 1 phát hiện 4 F4, 15km, sở chỉ huy nhắc, địch có 8 chiếc; 15 giây sau, số 2 báo cáo, địch có 6 chiếc và trực
ban dẫn đường Trần Đức Thuỷ thông báo phía sau không có địch. 13 giờ 56 phút, số 1 báo cáo, địch đan chéo và bám
chặt một chiếc. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Trần Hanh nhắc bình tĩnh, yểm hộ lẫn nhau, công kích dứt điểm.
13 giờ 56 phút 40 giây, phi công Bùi Đức Nhu báo cáo bắn cháy 1 F4 và thoát ly hướng bay 60 độ. Trong lúc đó, số 2
cũng đang bám theo 1 chiếc. Địch lượn vòng, ta lợi thế và 13 giờ 58 phút, phi công Nguyễn Tiến Sâm báo cáo bắn rơi
1 F4. Sở chỉ huy cho số 2 kéo cao, thoát ly và thông báo địch bên trái 90 độ, 12km, ở phía dưới. Ta cơ động đổi hướng
lên phía bắc Tam Đảo, rồi nhanh chóng hạ thấp độ cao và về Nội Bài hạ cánh. Kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng Lê
Thành Chơn và Trần Đức Thuỷ đã lập kỷ lục dẫn đôi bay MiG-21 đánh nhanh- diệt gọn. chưa đầy 20 phút từ cất cánh
đến hạ cánh, ta bắn rơi 2 chiếc.

Trong ngày, nếu tính cả 2 trận đánh trên, các kíp trực ban dẫn đường Binh chủng và các trung đoàn 927,
921, 925 và 923 đã dẫn 10 tốp ta, với 14 lần chiếc MiG-21, 6 lần chiếc MiG- 19 và 2 lần chiếc MiG-17 tham gia đánh
địch trên nhiều hướng khác nhau. Đây là một trong những ngày có nhịp độ dẫn xuất kích rất cao của mặt trận trên
không năm 1972.

Ngày 6 tháng 10 năm 1972, để thực hiện nhiệm vụ cùng với các đôi bay MiG-21 của Trung đoàn 921 ở
Kép và MiG-19 của Trung đoàn 925 ở Gia Lâm, tham gia đánh địch bảo vệ Đường 1 bắc, Trung đoàn 927 đã bố trí đôi
bay MiG-21: Nguyễn Văn Nghĩa - số 1 và Trần Văn Năm - số 2 trực chiến ở Nội Bài và kíp trực ban dẫn đường dẫn
chính: Hoàng Trung Thông tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng tại C-43.

Trong khi theo dõi trên mạng B1, thấy có nhiều triệu chứng địch sẽ vào hoạt động sớm hơn so với tin dự
báo, sở chỉ huy Trung đoàn 927 đã xin chuyển cấp trước. 8 giờ 45 phút, C-43 bắt được nhiều tốp địch từ Tây Sầm
Nưa, qua biên giới, hướng vào Yên Châu-Phù Yên, trực ban dẫn đường Hoàng Trung Thông dự tính sẽ dẫn MiG-21 ra
Thanh Sơn để đánh địch tại khu vực Phú Thọ-Đoan Hùng, nhưng sở chỉ huy Binh chủng yêu cầu cho MiG-21 lên Bắc
Cạn để đánh các tốp địch vòng qua Sơn Dương-Thái Nguyên, vào đánh Đường 1 bắc.

8 giờ 49 phút, đôi bay Nghĩa-Năm cất cánh, lên đầu tây sân bay, sở chỉ huy cho vòng phải, hướng bay 30
độ để tránh tốp tiêm kích địch đang vòng ở tây bắc Thái Nguyên và quyết định vứt thùng dầu phụ, tăng lực ngay để
chiếm ưu thế về độ cao và tốc độ. 8 giờ 58 phút, địch đến Sơn Dương, ta ở đông Chợ Mới 15km, sở chỉ huy cho vòng
trái, hướng bay 270 độ, tốc độ 1.200km/h và 1 phút 30 giây sau, cho vòng trái, giữ hướng bay 180, 140, rồi 120 độ vào
tiếp địch ở cạnh ngoài. Trên hiện sóng, trực ban dẫn đường Lê Thiết Hùng tập trung bảo đảm chắc chắn cho MiG-21
phải vào được cuối đội hình của địch. 9 giờ, số 1 phát hiện 4 F4 bên trái 45 độ, 18km, độ cao 6.500m. Ta còn cách
địch 10km thì chúng cơ động tách tốp. Số 1 lệnh cho số 2 cảnh giới và vào công kích. 9 giờ 04 phút, sau khi phóng
quả tên lửa thứ hai, số 1 báo cáo bắn cháy 1 chiếc và khi thoát ly bên phải, thấy có 6 chiếc đối đầu ở phía trên, anh lập
tức xuống ngay độ cao 200m và lấy hướng 220 độ, rồi về Nội Bài hạ cánh lúc 9 giờ 09. Số 2 bám theo chiếc đang
vòng trái, phóng quả thứ nhất, tên lửa vọt lên phía trước mục tiêu Khi ép độ nghiêng phải, thấy 1 chiếc có thể vào
công kích được ngay, anh bám sát luôn và phóng quả thứ hai. Tên lửa nổ dưới bụng chiếc F4, khói trắng xì ra. Số 2
thoát ly và hạ cánh tại Nội Bài sau số 1 khoảng 3 phút. Đôi bay Nguyễn Văn Nghĩa và Trần Văn Năm đã bắn rơi 2 F4
và trở về an toàn.

Nhờ quán triệt tốt định hướng tập trung vào dẫn MiG-21 đánh F4 đa năng, các kíp trực ban dẫn đường đã
nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, phát triển cách dẫn truyền thống đối với MiG-21: đi thấp, kéo cao, tiếp cận nhanh vào
cuối đội hình của địch, tạo thuận lợi cho phi công lần lượt hoặc đồng thời vào công kích, thể hiện được khả năng tập
trung cao độ hoả lực của đôi bay, đánh mãnh liệt. Với nhiều trận thắng, từ đôi bay MiG-21 bắn rơi 1 F4 đến đôi bay
MiG-2 1 bắn rơi 2 F4, ta đều an toàn, vị thế của MiG-21 đã được nâng cao trong cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt với
không quân Mỹ. Không quân nhân dân Việt Nam đã đánh bại nhiều thủ đoạn chiến thuật nham hiểm của F4 đa năng
trên mặt trận trên không năm 1972. Đó cũng là mốc son của ngành Dẫn đường Không quân.

Từ cuối tháng 5 năm 1972, cách dẫn từng biên đội MiG-17 và MiG-19, chờ trong khu vực tại đỉnh hoặc
gần sân bay ở độ cao thấp, có đài chỉ huy bổ trợ vẫn chưa tạo được thế chủ động hoàn toàn cho phi công. Ban dẫn
đường Binh chủng đã cùng với các tiểu ban dẫn đường hai trung đoàn 923 và 925 tiến hành nghiên cứu kỹ các thủ
đoạn hoạt động của địch, phân tích sâu những điểm yếu mà ta có thể tận dụng được, tổ chức học tập tính năng tên lửa
A-72 đã được cải tiến lắp lên máy bay MiG-17, MiG-19 và điều chỉnh cách dẫn đôi bay thay cho biên đội khi xuất
kích. Trung đoàn 923 và 925 đã xây dựng lại các phương án chiến đấu, tận dụng mọi thời cơ, tranh thủ bay huấn luyện
bằng các bài tập nhỏ nhằm nâng cao thêm trình độ điều khiển, xạ kích cho đội ngũ phi công và năng lực dẫn MiG-17,
MiG-19 cho đội ngũ dẫn đường. Nhưng khi tổ chức bay huấn luyện, dù chỉ thực hiện một ban rất ngắn gọn, cũng phải
thường xuyên đối phó với địch.

Ngày 11 tháng 7 năm 1972, Trung đoàn 923 triển khai huấn luyện từ 4 giờ sáng. Sở chỉ huy theo dõi chặt
chẽ tình hình địch trên không qua mang B1 và cho mở đài P-12 của C-42. Trung đoàn xin 5 giờ 15 phút cất cánh,
nhưng có tin không quân của hải quân địch sẽ hoạt động từ 5 giờ 30 đến 6 giờ 40, nên Binh chủng yêu cầu chờ. Đến 5
giờ 48 phút, đôi bay MiG-17: Hán Vĩnh Tưởng - số 1 và Hoàng Thế Thắng - số 2 cất cánh từ Kép, sau đó lên đỉnh sân
vòng hai vòng, rồi ra khu vực Nhã Nam để thực hiện bài bay huấn luyện có mang tên lửa A-72. 5 giờ 50 phút, chiếc
UMiG-15 cất cánh bay bài vòng kín hẹp: phi công Lương Quốc Bảo làm giáo viên ngồi buồng sau và phi công Hoàng
Tam Hùng, ngồi buồng trước.

5 giờ 52 phút, khi thấy tốp dịch, trước đó hoạt động ở đông Thái Bình 20km, đổi hướng vào phía Hải
Dương, trực ban dẫn đường Đào Công Thạnh tại sở chỉ huy, chấp hành lệnh đình chỉ bay huấn luyện của thủ trưởng
Lưu Huy Chao, cho đôi Tưởng-Thắng, hạ thấp độ cao, đi Hiệp Hoà với ý định vừa tránh địch phát hiện vừa sẵn sàng
chiến đấu, đồng thời có thể nhanh chóng xuống Nội Bài hạ cánh khi cần. Trong lúc đó, chiếc UMiG-15 vừa mới qua
vị trí vòng 2. Biết địch đã vào, phi công Lương Quốc Bảo xin xuống hạ cánh ngay, nhưng chỉ huy bay Nguyễn Văn
Thọ, lệnh thu càng, đi Nội Bài. Vừa làm động tác bay lại vừa quan sát xung quanh, phi công Lương Quốc Bảo thấy 2
F4 ngược chiều, lao qua đầu, anh bình tĩnh điều khiển máy bay đúng thứ tự động tác bay lại, sau đó giữ ngay tốc độ cơ
động có lợi và xuống độ cao cực thấp, thoát ly về Nội Bài hạ cánh an toàn. Trong khi đang vòng ở 1 Hiệp Hoà, căn cứ
vào các thông báo về địch trên đối 1 không, đôi Tưởng-Thắng tăng cường quan sát về phía Phả Lại-Bắc Giang. 5 giờ
57 phút, số 2 báo cáo phát hiện 2 F4 bên trái, 5km. Số 1 quyết định cắt vào đánh, số 2 nhắc số 1 chú ý bật công tắc tên
lửa A-72. Phi công Hán Vĩnh Tưởng thấy cự ly rút ngắn rất nhanh, anh chuyển ngay sang dùng pháo, bắn 3 loạt liên
tiếp, chiếc F4 bốc cháy và giặc lái nhảy dù, đồng thời cơ động gấp theo lệnh của đài chỉ huy bổ trợ. Còn phi công
Hoàng Thế Thắng, tuy không theo kịp số 1, nhưng bám được 1 chiếc F4, vừa bắn rơi địch thì bị trúng tên lửa của chiếc
F4 khác. Đồng chí đã hy sinh sau khi nhảy dù. 6 giờ 05 phút, số 1 hạ cánh tại Nội Bài.

Từ dẫn bay huấn luyện chuyển ngay sang chiến đấu, tạo cơ hội cho đôi bay MiG-17 hạ gục 2 F4 trong giai
đoạn MiG-17 đang gặp rất nhiều khó khăn về cách đánh là bài học vô cùng quý giá đối với ngành Dẫn đường Không
quân. Ngày 2 tháng 9 năm 1972, đôi bay MiG-19: Hoàng Cao Bổng - số 1 và Phùng Văn Quảng - số 2 trực chiến tại
Nội Bài. Ngoài pháo 30mm, cả 2 máy bay đều có thêm tên lửa A-72. Ta quyết tâm thực hiện cách dẫn: đi thấp, kéo cao
vào tiếp địch, phát huy khả năng tăng nhanh tốc độ của MiG-19, bám gần, dùng pháo là chủ yếu và chỉ sử dụng tên
lửa khi có đủ các điều kiện xạ kích. Đây là một trong những nhân tố quan trọng nhằm tháo gỡ khó khăn cho cách dẫn
MiG-19. Để hỗ trợ cho trực ban dẫn đường Lưu Văn Cộng tại sở chỉ huy Trung đoàn 925, Binh chủng đã bố trí trực
ban dẫn đường hiện sóng Lê Thiết Hùng của Trung đoàn 927 tại C-43 cùng dẫn. Trong ngày, còn có hai đôi MiG-21
và một đôi MiG-17 của các trung đoàn bạn cùng tham gia đánh địch.

11 giờ 29 phút, C-26 và C-43 đều bám sát được các tốp địch ở tây Quan Hoá-Hồi Xuân 35km đang bay lên
hướng bắc. 11 giờ 33 phút, địch lên đến đông Mộc Châu 20km thì đôi bay Bổng-Quảng cất cánh, một phút sau, sở chỉ
huy cho hướng bay 100 độ, độ cao 500m, tốc độ 850km/h. C-43 bắt địch tốt, nhưng không thấy ta, sở chỉ huy buộc
phải "dẫn mò". 11 giờ 37 phút, địch ở nam Thanh Sơn 10km, ta vòng trái, hướng bay 290 độ, lên độ cao 2.500rn.

11 giờ 38 phút, sở chỉ huy thông báo địch phía trước 45km, sau đó, phía trước 30km, đồng thời C-43 cũng
thông báo địch 8 chiếc tại đầu đông sân bay Nội Bài. Trong thế vào tiếp địch đối đầu, song song có giãn cách, 11 giờ
42 phút, số 1 phát hiện F4, bên trái 30 độ và số 2 báo cáo có F105 bên trái, 8km. Do không thấy F105, số 1 quyết định
vòng trái, cắt vào tốp F4 và dùng pháo. 11 giờ 44 phút, phi công Hoàng Cao Bổng báo cáo bắn cháy 1 chiếc, nhưng
sau đó bị trúng tên lửa của địch và nhảy dù an toàn. Phi công Phùng Văn Quảng, sau khi bám được tốp F105 đã phóng
tên lửa A-72 nhưng không kết quả đã chuyển sang dùng pháo và bắn rơi 1 chiếc. Đến 11 giờ 48 phút, C-43 mới phát
hiện được MiG-19 ở Phả Lại và dẫn số 2 thoát ly về Kép.

Đây cũng là trận đánh đã mang lại bài học vô cùng quý giá. Ta đã tận dụng khả năng tăng nhanh tốc độ của
MiG-19 ở độ cao thấp để dẫn vào cuối đội hình của địch, tạo được thế chủ động cho đôi bay MiG-19 bắn rơi 2 máy
bay địch trong giai đoạn MiG-19 cũng đang gặp rất nhiều khó khăn về cách đánh.

***

Ngày 1 tháng 9 năm 1972, Binh chủng tổ chức triển khai gấp các mặt công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ sử
dụng lực lượng Il-28 và MiG-21 tập kích căn cứ Buôn Loọng của địch ở tây bắc Bản Ban 25km. Căn cứ quân sự này
do lực lượng phái hữu Lào-Thái Vàng Pao xây dựng và chiếm giữ từ lâu. Sau khi bị quân giải phóng nhân dân Lào và
bộ đội tình nguyện Việt Nam đánh thiệt hại nặng hồi tháng 8 năm 1972, địch rút về Buôn Loọng hòng củng cố lực
lượng và tìm cách phản công lại ta. Chúng kéo về đây 3 tiểu đoàn. Hàng ngày có từ 60 đến 70 lần chiếc máy bay vận
tải và trực thăng lên xuống hoạt động. Ngoài ra, còn có lực lượng pháo phòng không 12,7mm, nhưng không nhiều. Ta
quyết tâm tiêu diệt căn cứ quan trọng này.

Dựa vào kế hoạch sử dụng không quân chi viện hoả lực trong chiến dịch Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng,
mang mật danh K-61, đã được Binh chủng xây dựng từ tháng 6 năm 1972, Ban dẫn đường đã nhanh chóng dự kiến
phương án dẫn bay tập kích cơ bản. Tiếp sau đó, căn cứ vào kế hoạch tác chiến cụ thể của Binh chủng, Ban dẫn đường
cùng với Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 919 Phan Phi Phụng và tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 hoàn tất
phương án dẫn bay tập kích căn cứ Buôn Loọng bằng Il-28 và MiG-21.

Những nội dung dẫn đường quan trọng đều được đưa ra thảo luận rất kỹ và tính toán chính xác như: độ cao
bay trên từng đoạn, thời cơ cất cánh và thời điểm tập kích, lựa chọn bom và các số liệu ngắm ném bom vào mục tiêu
cao hơn mực nước biển khoảng 1.800m, cách nhận biết mục tiêu trên địa hình rừng núi ngoài biên giới, đội hình vào
công kích của Il-28 và MiG-21; thứ tự sử dụng Li-2 chuyển tiếp chỉ huy, MiG-21 yểm hộ và Mi-4 cấp cứu; bố trí thêm
1 dẫn đường trên không Il-28 Đỗ Tuấn và trợ lý dẫn đường Trung đoàn 923 Đào Công Thạnh vào kíp trực ban dẫn
đường tại sở chỉ huy Binh chủng. Tất cả đều nhằm thực hiện bằng được quyết tâm "Đi đến nơi, ném trúng đích, về an
toàn" (Tài liệu về trận đánh số. 156/TM, ngày 22 tháng 3 năm 1973).

Sau khi 2 chiếc Il-28 được hồi phục xong toàn bộ về mặt kỹ thuật, 2 tổ bay bắt tay ngay vào bay hồi phục
kỹ thuật lái-dẫn đường và bay huấn luyện có sử dụng bom, đạn thật theo phương án đánh địch vì trước đó, trong thời
gian khá dài Il-28 đã tạm ngừng hoạt động. Trong những ngày chờ lệnh thực hiện nhiệm vụ, căn cứ vào bản đồ địa
hình, kết hợp với các thông tin thu được về căn cứ Buôn Loọng, ta đã đắp sa bàn để nghiên cứu sâu them cách đánh và
cách dẫn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ bay Il-28 và phi công MiG-21 có thể phát hiện mục tiêu từ xa và
nhanh chóng phân chia mục tiêu khi vào công kích.
Ngày 9 tháng 10 năm 1972, tận dụng thời cơ giữa hai đợt hoạt động của địch vào đánh Thái Nguyên, lúc 11
giờ 12 phút, 2 chiếc Il-28 chuyển sân từ Gia Lâm lên Nội Bài để lắp bom và chuẩn bị trực tiếp cho trận đánh. Chiếc
máy bay số 02 được lắp 8 quả bom phá-mảnh 250kg. Chiếc máy bay số 04 được lắp 8 quả bom mẹ 250kg, mỗi quả
bom mẹ chứa 1.500 quả bom con. Đây là chiếc máy bay trinh sát đã được cải tiến thành máy bay ném bom từ tháng 7
năm 1971. 16 giờ 05 phút, địch vừa quay ra thì ta cho kéo máy bay vào vị trí trực chiến. 16 giờ 20 phút, lệnh mở máy.
16 giờ 25 phút 30 giây, tổ bay Il-28: lái chính Nguyễn Văn Trừ, dẫn đường trên không Thân Xuân Hạnh và xạ thủ
súng máy kiêm thông tin trên không Ngô Văn Trung, trên máy bay số 04, cất cánh trước. 30 giây sau, tổ bay Il-28: lái
chính Bùi Trọng Hoan, dẫn đường trên không Nguyễn Đình Nhẫn và xạ thủ súng máy kiêm thông tin trên không
Nguyễn Văn Tá (Theo bản can trận đánh và một số sách có chi tiết chưa thống nhất), trên máy bay số 02, rời đường
băng Nội Bài. Sở chỉ huy cho Li-2 vào khu vực chuyển tiếp chỉ huy theo đúng kế hoạch. Căn cứ vào tình hình thực tế,
Binh chủng quyết định chỉ sử dụng MiG-21 làm nhiệm vụ yểm hộ cho Il-28.

Từng tổ bay Il-28 thực hiện tự dẫn theo phương án, không liên lạc đối không, lần lượt vòng trái, qua đài xa
ở đầu tây sân bay, giữ hướng 266 độ, tốc độ 600km/h đi Cò Nòi (đông nam Mai Sơn 10km). Tại khu vực Ba Vì, ta đi
dưới mây Cb, sau đó lên dần độ cao, ở phía dưới có 6, 7 phần mây Cu, nhưng dẫn đường tổ bay vẫn liên tục xác định
chính xác vị trí máy bay. Đến Cò Nòi, ta vòng trái, giữ hướng bay 215 độ, độ cao 2.300m đi Sốp Khao (tây bắc Bản
Ban 43km). Tại khu vực Pa Thí, gặp mây Cb, từng chiếc đều tránh sang bên trái, rồi trở lại đúng đoạn bay dự tính
Cách Sốp Khao 3 phút, ngang điểm kiểm tra Viếng Thoong, chiếc đi đầu lên độ cao 2.700m và giữ tốc độ 500km/h,
chiếc thứ hai giữ nguyên độ cao và giữ tốc độ 400km/h để điều chỉnh đội hình sẵn sàng vào công kích. Đến Sốp Khao,
vòng trái, vào hướng 134 độ, ta quan sát thuận mặt trời và phát hiện ngay toàn bộ căn cứ Buôn Loạng, đồng thời
nhanh chóng điều chỉnh đúng độ cao và tốc độ cần thiết để ném bom. Căn cứ vào các thông tin rất ngắn gọn của đài
chỉ thị mục tiêu, dẫn đường trên không Thân Xuân Hạnh và Nguyễn Đình Nhẫn tính toán hiệu chỉnh vào đúng hướng
chiến đấu, có góc cắt chéo nhỏ so với hướng đường băng của địch và lấy đúng các phần tử ngắm ném bom. 17 giờ 04
phút, với 8 quả bom mẹ và 2 loạt pháo 23mm với tổng số 220 viên đạn, tổ bay thứ nhất đánh vào khu nhà gần đầu sân
bay và 1 phút sau, với 8 quả bom phá-mảnh, tổ bay thứ hai đánh tiếp vào khu nhà sát sở chỉ huy và 4 loạt pháo 23mm
với tổng số 300 viên đạn bắn vào 4 góc sở chỉ huy của địch. Ta thoát ly, hướng bay 58 độ, độ cao 2.500m. 17 giờ 07
phút, đài chỉ thị mục tiêu thông báo, các mục tiêu quy định đều bị đánh trúng. Từ 17 giờ đến 17 giờ 36 phút, đôi bay
MiG-21 Nguyễn Công Huy-Đỗ Văn Lanh được dẫn vào yểm hộ trên tuyến Bá Thước-Yên Châu. Il-28 về Nội Bài hạ
cánh an toàn lúc 17 giờ 37 phút.

Với chiến công: Phá huỷ và làm hỏng nặng 78 ngôi nhà, cháy 1 kho xăng và nổ 1 kho đạn, đánh trúng sở
chỉ huy, đánh hỏng 1 đoạn đường băng, tiêu diệt và làm bị thương 300 tên địch, 2 tổ bay Nguyễn Văn Trừ-Thân Xuân
Hạnh-Ngô Văn Trung và Bùi Trọng Hoan-Nguyễn Đình Nhẫn-Nguyễn Văn Tá đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên
giao. Ngành Dẫn đường có thêm bài học quý báu về chọn đúng thời cơ chuyển sân và xuất kích, đánh địch vào đúng
lúc chúng đã thu quân về căn cứ, tận dụng được hướng công kích khi mặt trời đã xuống thấp, ném bom và bắn pháo
trúng mục tiêu trên vùng núi cao để tạo ra đòn tập kích bí mật, bất ngờ. Đội ngũ dẫn đường trên không Il-28 đã trực
tiếp góp phần xứng đáng vào truyền thống dẫn đánh thắng trận đầu cho máy bay ném bom Il-28 và tạo nên sự kiện
lịch sử quan trọng của ngành Dẫn đường.

Ngày 9 tháng 10 năm 1972 trở thành một trong những ngày đánh địch đạt hiệu quả chiến đấu cao nhất của
Không quân nhân dân Việt Nam.

***
Từ giữa tháng 10 năm 1972, mức độ đánh phá miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ giảm hẳn, do
Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại Hoà bình ở Việt Nam đã được bốn bên tham gia hội nghị Paris thoả thuận,
sẽ ký tắt vào ngày 22 và ký chính thức vào ngày 31 tháng 10. Nhưng phía Mỹ đã lật lọng, một mặt chúng gấp rút tăng
viện trợ và đốc thúc chính quyền Sài Gòn phản kích lấn chiếm lại vùng giải phóng của ta, tăng số phi vụ B-52 đánh
Khu 4 lên gấp hai lần, liên tục tổ chức trinh sát đường không từ vĩ tuyến 20 trở ra; một mặt chúng ráo riết chuẩn bị mở
chiến dịch tập kích đường không vào Hà Nội, Hải Phòng… sẽ sử dụng B-52, F4 với số lượng rất lớn và cả F-111, loại
máy bay chiến thuật đa năng mới.

Trước những động thái mới của địch và dự kiến các khả năng, Quân chủng Phòng không - Không quân rà
soát kỹ lưỡng và bổ sung hoàn thiện tất cả các phương án đánh địch theo đúng ý định tác chiến mới. Nhiệm vụ trọng
tâm lúc này là đánh B-52, lực lượng chủ yếu là tên lửa phòng không và MiG-21. Điều kiện đánh địch khó khăn và
phức tạp nhất là vào ban đêm. 21 giờ 44 phút ngày 22 tháng 11 năm 1972, hai tiểu đoàn tên lửa 43 và 44 thuộc Trung
đoàn tên lửa 263 ở Nghệ An đã phóng 4 quả đạn, rơi 2 B-52 (Lịch sử Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân
(1963-2003), Sđd, tr.212). Chiến công này đã khẳng định tên lửa phòng không của ta hoàn toàn có thể đánh được B-
52.

Vấn đề quan trọng đối với tên lửa phòng không cần được tập trung giải quyết ngay là phải bắn rơi B-52 tại
chỗ. Còn đối với MiG-21, nhiệm vụ nghiên cứu đánh B-52 đã được tiến hành từ cuối năm 1968 ở phía nam chiến
trường Khu 4. Các cán bộ chỉ huy và phi công đã cùng với một số sĩ quan tham mưu: tác chiến, quân báo, thông tin.
radar, dẫn đường… vào tận đèo Mụ Giạ trực tiếp quan sát đội hình B-52, cách bay yểm hộ của F4 và các đường bay
khi chúng vào hoạt động trên các khu vực của Đường 12, 20 và đường hành lang. Từ đó, một số phương án dẫn MiG-
21 đánh B-52 đã được hình thành. Trong các năm 1969, 1970, ta tổ chức huấn luyện đánh B-52 bằng nhiều bài bay
khác nhau cả ban ngày và ban đêm. Dùng Il-28 và II-18 bay mục tiêu, giả làm B-52, dẫn đường tại sở chỉ huy và tại
đại đội radar luyện tập dẫn MiG-21 tiếp cận, phi công luyện tập cách phát hiện mục tiêu, chiếm vị trí vào công kích,
xạ kích bằng mắt và bằng radar trên máy bay, đặc biệt coi trọng nội dung huấn luyện khi mục tiêu bay đêm có bật đèn
và không bật đèn, trời có trăng và không có trăng.

Tất cả các trận dẫn đánh B-52 chưa thành công đều được đưa ra phân tích rất toàn diện và nhấn mạnh yếu
tố bí mật. Trong đó có hai trận được nhiều người quan tâm.

Trận thứ nhất, chiều ngày 4 tháng 10 năm 1971, ta tổ chức cho phi công MiG-21 Đinh Tôn cơ động chuyển
sân hai chặng liên tục: Nội Bài-Anh Sơn và Anh Sơn-Đồng Hới, đều ở độ cao cực thấp và sau đó tiến hành trực chiến
ngay. Ta hoàn toàn giữ được yếu tố bí mật. Đến tối, B-52 vào đánh Đường 12 và 15, sở chỉ huy cho MiG-21 cất cánh
và dẫn đúng phương án. Khi radar dẫn đường bị nhiễu, không bắt được địch-ta, sở chỉ huy tiếp tục "dẫn mò" và phi
công nhìn thấy đèn của B-52, nhưng ở thế đối đầu. Khi ta vòng trở lại bám được phía sau thì địch tắt đèn. Sở chỉ huy
cho MiG-21 thoát ly và dẫn về Thọ Xuân hạ cánh. Trận thứ hai, đêm 20 tháng 11 năm 1971, sau khi radar dân đương
bắt tốt tốp B-52 vào đánh Đường 20, ta cho phi công MiG-21 Vũ Đình Rạng cất cánh từ Anh Sơn. Radar dẫn đường
không bị nhiễu, có thể do địch chủ quan. Sở chỉ huy dẫn MiG-21 vào tiếp cận B-52 rất thuận lợi. Còn cách mục tiêu
15km, phi công bật radar trên máy bay, phát hiện ở cự ly 11km, bám sát tốt và đến cự ly 2.500m, phóng quả tên lửa
thứ nhất vào chiếc B-52 bay sau cùng của đội hình. Phi công tiếp tục bám sát chiếc B-52 bay phía trước, đến cự ly
2.000m, phóng quả thứ hai, rồi thoát ly về Anh Sơn an toàn. Mãi sau này, ta mới biết một trong hai chiếc B-52, đã bị
trọng thương, do trúng phải tên lửa của phi công Vũ Đình Rạng và không thể về được căn cứ xuất phát. Như vậy, yếu
tố bí mật đặc biệt quan trọng trong dẫn MiG-21 đánh B-52, nhất là khi dẫn vào tiếp cận và xạ kích.
Ngoài ra, các bài học dẫn MiG-21 đánh đêm trên hướng tây nam Hà Nội đầu năm 1972 cũng đã được so
sánh, trao đổi và toàn bộ kinh nghiệm dẫn đường hiện sóng bắt các loại mục tiêu trong nhiễu trong thời gian gần đây
đều được tổng hợp khá chi tiết.

Việc dẫn MiG-21 bắn rơi B-52 là hoàn toàn có thể thực hiện được, nhưng để bắn rơi B-52 tại cho thì công
tác dẫn đường còn phải vượt qua rất nhiều khó khăn và thử thách. Các phương án dẫn MiG-21 đánh B-52 từ xa, ngoài
vòng hoả lực của tên lửa phòng không tiếp tục được hoàn thiện sâu thêm.

Ngày 24 tháng 11 năm 1972, Bộ Tổng Tham mưu kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của Quân chủng và
chỉ thì toàn bộ công tác chuẩn bị cho kế hoạch tác chiến đánh trả cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc
Mỹ phải được hoàn tất trước ngày 3 tháng 12 năm 1972. Trong đó, mục tiêu quan trọng hàng đầu phải được bảo vệ là
Hà Nội và Hải Phòng, đối tượng tác chiến phải tập trung tiêu diệt là máy bay ném bom chiến lược B-52.

Ngày 13 tháng 12 năm 1972, phía Mỹ tuyên bố đình chỉ vô thời hạn việc tham gia hội nghi Paris. Ngày 14,
tổng thống Mỹ R. Ních-xơn chính thức thông qua kế hoạch "Linebacker II", chiến dịch tập kích đường không chiến
lược chủ yếu bằng B-52 vào Hà Nội và Hải Phòng. Ngày 17, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Phòng
không-Không quân đề phòng B-52 đánh đêm từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 18, địch bắt đầu đánh.

Từ tối 18 đến rạng sáng 19 tháng 12 năm 1972, chúng huy động hơn 200 lần chiếc máy bay các loại, có cả
F-111, trong đó có tới 90 lần chiếc B-52, chia thành ba đợt, đánh vào các sân bay Kép, Nội Bài, Hoà Lạc… các cơ sở
công nghiệp ở đông Anh, đầu mối giao thông Yên Viên, kho xăng Đức Giang, khu phát sóng của Đài Tiếng nói Việt
Nam ở Mễ Trì… Cùng thời gian trên, chúng còn cho 28 lần chiếc cường kích của không quân hải quân đánh vào Hải
phòng.

Căn cứ vào kết quả theo dõi địch trên mạng B1 và của các đại đội radar dẫn đường, thủ trưởng trực chỉ huy
Binh chủng Trần Hanh quyết định cho MiG-21 xuất kích theo phương án đã được chuẩn bị, tập trung đánh địch trên
hướng tây nam Hà Nội. Lúc 19 giờ 28 phút, tối 18 tháng 12 năm 1972, phi công Trần Cung cất cánh từ Hoà Lạc. Trực
ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng: Phạm Minh Cậy và Tạ Văn Vượng dẫn MiG-21 ra Hoà Bình- Suối Rút để
đánh tốp B-52 từ nam Mộc Châu đi lên Vạn Yên. Nhưng khi vào tiếp địch, đến cự ly 12km, phi công mở radar trên
máy bay thì bị nhiễu nặng, buộc phải thoát ly về Nội Bài hạ cánh. 19 giờ 47 phút, phi công Phạm Tuân cất cánh từ Nội
Bài được trực ban dẫn đường Hoàng Đức Hạnh tại sở chỉ huy Trung đoàn 927 dẫn ra Hoà Bình. Khi vào tiếp địch, phi
công nhìn thấy đèn của B-52, rồi bật radar trên máy bay và cũng bị nhiễu, lúc nhìn ra ngoài thì đèn của B-52 đã tắt và
sau đó thấy có tên lửa của địch bắn về phía mình, phi công vòng ba vòng, giảm xuống độ cao 2.000m và về Nội Bài hạ
cánh. Đến 4 giờ 43 phút, rạng sáng 19 tháng 12 năm 1972, phi công Vũ Đình Rạng cất cánh từ Gia Lâm do trực ban
dẫn đường Nguyễn Hồng Thái tại sở chỉ huy Trung đoàn 921 dẫn xuống đến phía nam Hoà Bình-Suối Rút thì bị địch
bám theo. Sau khi cơ động tránh tiêm kích, ta mất thời cơ dẫn vào B-52, phi công về Gia Lâm hạ cánh.

Trong các trận tiếp theo, vào tối 20, rạng sáng 22, rạng sáng 23 và tối 23 tháng 12, ta dẫn thêm 7 lần chiếc
MiG-21 xuất kích đánh B-52, nhưng chỉ có 3 lần phát hiện và đều chưa có điều kiện để phóng tên lửa (Bản can các
trận đánh). Trong khi đó, từ tối 18 đến hết ngày 24 tháng 12, lực lượng phòng không của ta đã liên tiếp lập công, bắn
rơi 53 máy bay các loại của Mỹ, trong đó có 18 chiếc B- 52 và 5 chiếc F-111 (Lịch sử Bộ Tham mưu Phòng không -
Không quân (1963-2003), Sđd, từ tr.229). Đặc biệt, lực lượng tên lửa phòng không đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
bắn rơi tại chỗ 9 chiếc B-52.
Trưa 23 tháng 12 năm 1972, địch vào trên hướng tây nam Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào
Đình Luyện và Hồ Luật quyết định sử dụng phương án đánh ban ngày, cho MiG-21 của Trung đoàn 921 lên nghi binh-
thu hút địch ở phía bắc Tam Đảo, còn MiG-21 của Trung đoàn 927 đánh chính ở phía nam Hoà Bình. 13 giờ 34 phút,
phi công Trần Sang cất cánh từ Kép được trực ban dẫn đường Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy Trung đoàn 921 dẫn lên
Phú Lương, rồi đi hướng 270 độ, độ cao 8.000m, tốc độ 900km/h. Nhưng khi ta qua Phú Lương được 2 phút thì đột
nhiên xuất hiện tốp địch từ Phú Thọ lên Sơn Dương. Thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 921 Đinh Tôn xin cho MiG-
21 vào đánh địch. 13 giờ 45 phút, MiG-21 tăng tốc độ, vòng trái, hướng bay 140 độ, địch từ Sơn Dương cũng vòng
trái, tạo thành thế đối đầu. 1 phút sau, phi công phát hiện F4. Hai bên không chiến quyết liệt ta 1, địch 12. Đến 13 giờ
53 phút sở chỉ huy buộc phải cho thoát ly về Kép.

13 giờ 40 phút, đôi bay MiG-21: Nguyễn Văn Nghĩa và Lê Văn Kiền cất cánh từ Nội Bài. Trực ban dẫn
đường Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy Binh chủng chịu trách nhiệm dẫn chính, trực ban dẫn đường Vũ Đức Bình tại sở
chỉ huy Trung đoàn 927, trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 Đào Văn Thành trên hiện sóng đảm nhiệm dẫn hỗ trợ.
MiG-21 giữ độ cao 300m, rồi vòng phải, hướng bay 200 độ, xuyên lên trên mây và nhanh chóng lấy độ cao. 13 giờ 47
phút, ta đến Phủ Lý, vòng phải, hướng bay 270 độ, độ cao 8.000m, tốc độ 1.200km/h để đánh tốp địch từ tây Xầm Tơ
vào Suối Rút. 13 giờ 51 phút, phi công báo cáo phát hiện mục tiêu cả đôi bay đều có cơ hội vào công kích. Phi công
Nguyễn Văn Nghĩa bắn rơi 1 F4. Ta thoát ly bên phải, sang phía đông và lần lượt xuyên xuống dưới mây, hạ cánh tại
Nội Bài.

Bị quân và dân ta đánh trả quyết liệt, đêm 24 tháng 12 năm 1972, lấy cớ lễ Nô-en, địch tạm ngừng tập kích.
Sáng ngày 25, Binh chủng tranh thủ tổ chức rút kinh nghiệm, nghiêm khắc chấn chỉnh những mặt còn thiếu sót và
thống nhất một số giải pháp quan trọng để tiếp tục đánh địch. Trong dẫn đánh B-52, nhất thiết phải giữ bằng được yếu
tố bất ngờ về sân bay và thời cơ cất cánh. Từng sở chỉ huy phải tìm mọi cách thu và phân tích nhanh cùng một lúc tất
cả các tình báo của nhiều đại đội radar dẫn đường, mới tạo ra khả năng phán đoán đúng tốp B-52 để dẫn MiG-21 vào
tiếp cận và kiểm soát được các tốp F4 yểm hộ nguy hiểm để nhanh chóng dẫn ta vượt qua chúng hoặc kịp thời thông
báo cho phi công cơ động tránh bị địch công kích. Dẫn đường phải tính toán nhanh, chính xác các số liệu dẫn vào tiếp
cận để phi công sớm nhìn thấy đèn của B-52, phải liên tục thông báo cự ly bám sát để phi công tiến hành xạ kích bằng
máy ngắm quang học là chính. Các phương án đánh B-52, một lần nữa lại được đưa ra rà soát và hiệu chỉnh.

Để có được mạng radar dẫn đường đánh B-52 tốt hơn, chiều ngày 25 tháng 12 năm 1972, ngay sau khi hội
nghị hiệp đồng chiến đấu giữa hai binh chủng Không quân và Radar kết thúc, C-26 đã nhanh chóng cơ động từ Cầu
Diễn vào Thanh Hoá, C-50 triển khai đội hình tại Cầu Diễn và tổ dẫn đường-thông tin đối không và tiếp sức, do
Trưởng Ban dẫn đường Binh chủng Không quân Lê Liên phụ trách, đã khẩn trương hành quân từ Hà Nội lên C-22 ở
Mộc Châu. Như vậy, sau khi triển khai xong, không quân sẽ có hai đại đội radar dẫn đường vòng ngoài tại hai vị trí rất
quan trọng, có khả năng cung cấp nhiều tình báo quý báu cho các sở chỉ huy dẫn đánh B-52.

Trong thời gian từ đêm 26 đến sáng 27 tháng 12 năm 1972, địch tổ chức đánh ác liệt, ồ ạt, liên tục và đồng
thời vào nhiều mục tiêu ở ba khu vực Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên. Các lực lượng phòng không ba thứ quân
đánh trận then chốt quyết định và giành thắng lợi lớn, bắn rơi 16 máy bay các loại của Mỹ, trong đó có 8 chiếc B-52
và 1 chiếc HH-53. Còn lực lượng không quân vẫn gấp rút chuẩn bị đầy đủ và chu đáo hơn cho các trận đánh tiếp theo
của mình.

Khoảng 10 giờ, ngày 27 tháng 12 năm 1972, sau khi nhận được tin từ 11 giờ 30 phút đến 13 giờ không
quân địch sẽ hoạt động 50 lần chiếc, sở chỉ huy Binh chủng nhận định, có thể đây là đợt chúng tổ chức tìm cứu giặc
lái và yêu cầu MiG-21 phải sẵn sàng xuất kích. Nhưng đến 13 giờ 30 phút, trên mạng B1 mới xuất hiện các triệu
chứng địch bắt đầu hoạt động, ta cho rằng chúng sẽ vào đánh các mục tiêu xung quanh Hà Nội. 13 giờ 33 phút. các đại
đội radar dẫn đường đều bắt được tốp địch 12 chiếc từ đông Sầm Nưa, qua biên giới, hướng lên Mộc Châu và đột
nhiên xuất hiện tốp 4 chiếc ở Phú Thọ, hướng lên Thái Nguyên. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện
và Văn Duy cho MiG-21 của Trung đoàn 927 xuất kích và yêu cầu dẫn lên phía Kép. 13 giờ 36 phút, đôi bay: Đỗ Văn
Lanh - số 1 và Dương Bá Kháng - số 2 cất cánh từ Nội Bài. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 927 dẫn chính: Hoàng
Đức Hạnh tại sở chỉ huy và Phạm Công Kim tại C-43. Đôi MiG-21 đi hướng 30 độ và giữ độ cao 500m, bay dưới
mây. 13 giờ 40 phút, ta đến phía tây Kép thì địch từ Thái Nguyên vòng xuống Kép. Dẫn đường cho phi công vòng
phải, hướng bay 90 độ, độ cao 1.000m, rồi vòng trái, hướng bay 270 độ và thông báo mục tiêu bên trái 90 độ, 40km.
13 giờ 42 phút, địch đến phía tây Kép thì tách tốp. 13 giờ 44 phút, MiG-21 vòng phải, hướng bay 180 độ. Thủ trưởng
trực chỉ huy Trung đoàn 927 Nguyễn Nhật Chiêu ra lệnh bay dưới mây. Dẫn đường tiếp tục thông báo vị trí mục tiêu,
rồi cho ta đi hướng 210 độ bám theo địch. 13 giờ 46 phút 20 giây, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy
Binh chủng nhắc đôi bay chú ý cảnh giới phía sau, 5km. 10 giây sau, phi công Dương Bá Kháng phát hiện có địch, xin
phản kích và 13 giờ 47 phút 20 giây, anh báo cáo bắn cháy 1 F4. Ta thoát ly về Nội Bài và hạ cánh an toàn trên đường
lăn lúc 13 giờ 55 phút.

Trong khi đó, địch vẫn cho nhiều tốp vào hoạt động tại khu vực Hoà Bình. Có khả năng đây mới là các tốp
vào tìm cứu giặc lái. Binh chủng quyết định cho MiG-21 của Trung đoàn 921 xuất kích. 14 giờ 10 phút, phi công Trần
Việt, đã bí mật phục kích từ trước ở Miếu Môn, cất cánh. 14 giờ 11 phút, kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng dẫn
chính: Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy và Lê Kiếu trên hiện sóng cho MiG-21 hướng bay 90 độ, đi dưới mây, sau đó
vòng phải, hướng bay 150 độ, xuyên lên độ cao 5.000m. 14 giờ 14 phút, địch vòng ở đông Hoà Bình 15km, ta đến
Kim Bảng, sở chỉ huy cho vòng phải vào tiếp địch và lên độ cao 7.000m. 14 giờ 16 phút 20 giây, phi công phát hiện 2
F4 ở phía dưới, bên phải 45 độ, 8km, sau đó thấy chúng đan chéo nhau và tăng lực chạy. 14 giờ 18 phút 20 giây, dẫn
đường hiện sóng thông báo cự ly 4km. 14 giờ 19 phút 05 giây, phi công Trần Việt báo cáo bắn rơi 1 F4. Sở chỉ huy
cho phi công thoát ly ra phía đông, qua sông Hồng, vòng lên hướng bắc về Nội Bài và 14 giờ 32 phút, hạ cánh an
toàn.Buổi chiều, vào lúc cuối đợt hoạt động, khi địch vừa quay ra, sở chỉ huy Binh chủng lập tức cho phi công Phạm
Tuân cơ động chuyển sân từ Nội Bài lên Yên Bái để phục kích đánh B-52. Cũng vào thời gian này các C-22, 26 và sở
chỉ huy Sơn La đã hoàn tất mọi công việc chuẩn bị chiến đấu. Phạm vi trách nhiệm chỉ huy-dẫn đường của từng vị trí
đều quy định rất chặt chẽ và cụ thể. Các phân đội trực chiến đêm trên tất cả các sân bay tiến hành tiếp thu máy bay,
nhận ban và sẵn sàng đánh địch.

22 giờ 12 phút, C-22 bắt được tốp B-52 từ Sốp Khao bay lên phía Sầm Nưa, các tốp tiêm kích yểm hộ
trong đội hình và tại các khu vực hoạt động không có gì khác thường. Sở chỉ huy Binh chủng nhanh chóng tổng hợp
toàn bộ tình hình địch. Tại sở chỉ huy Mộc Châu, dẫn đường cũng đã dự tính khá chi tiết về khoảng thời gian tối thiểu
giành cho việc truyền lệnh giữa các sở chỉ huy và giành cho phi công thực hiện chuyển cấp, mở máy và lăn đến vị trí
cất cánh ở các sân bay khác nhau, quyết tâm không để lỡ thời cơ. Trực ban dẫn đường tại C-22 Lương Văn Vóc tiếp
tục theo dõi chặt chẽ các tốp địch từ Sốp Khao lên Mộc Châu, khi B-52 cách đài 150km, ta bị nhiễu cường độ 1, cách
100km-cường độ 2. Sau khi trao đổi ý kiến với Trưởng ban dẫn đường Lê Liên, trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy
Đặng Dũng quyết tâm dẫn đánh tốp B-52 đi sau và chỉ thị ngay cho dẫn đường hiện sóng tập trung bám sát tốp này.

22 giờ 22 phút, phi công Phạm Tuân cất cánh, sở chỉ huy Yên Bái dẫn xuyên lên trên mây (tại sân 10Sc
1.000). Sau khi liên lạc đối không tốt, MiG-21 tăng dần độ cao và đi hướng 230 độ theo lệnh của sở chỉ huy Binh
chủng, rồi 220 độ theo lệnh của sở chỉ huy Mộc Châu. 22 giờ 23 phút, C-22 bắt được ta ở tây bắc Yên Bái 30km, 22
giờ 24 phút, sở chỉ huy Mộc Châu cho hướng bay 190 độ. 22 giờ 25 phút, Binh chủng giao cho sở chỉ huy Mộc Châu
dẫn chính. Đúng lúc này, B-52 cách đài khoảng 40km, C-22 bị nhiễu cường độ 3. 22 giờ 25 phút 30 giây, trực ban dẫn
đường Đặng Dũng thông báo sớm cho phi công biết, địch bên phải 20 độ, 80km, hướng bay vào 70 độ. Phi công hỏi:
loại to hay nhỏ? Dẫn đường trả lời: loại to. Tất cả đều rất bình tĩnh. 22 giờ 26 phút, MiG-21 được lệnh vứt thùng dầu
phụ và tăng tốc độ đến 950km/h. 22 giờ 26 phút 30 giây sau khi thông báo cho phi công, địch bên phải 10 độ, 6km, từ
phải qua trái, trực ban dẫn đường Đặng Dũng đề nghị cho vọt cao, Trưởng ban dẫn đường Lê Liên đồng ý. 22 giờ 27
phút, MiG-21 tăng lực, lên độ cao 9.500m, 2 phút sau, vòng trái, hướng bay 30 độ, rồi sửa lại 70 độ. Khi B-52 qua khu
vực đỉnh đài, dẫn đường hiện sóng hoàn toàn không thấy mục tiêu, nhưng dẫn đường sở chỉ huy dã tính toán cho áp
đường bay chính xác. 22 giờ 29 phút 30 giây phi công báo cáo, thấy đèn của B-52, dẫn đường sở chỉ huy thông báo,
cự ly 10km và cho tăng tốc độ 1200km/h. 22 giờ 31 phút, dẫn đường Lương Văn Vóc thông báo đều đặn, cự ly 6, 5,
rồi 4km và nhắc phi công chú ý phóng loạt 2 quả. Phi công Phạm Tuân giữ tốc độ 1.400km/h, bám sát bằng mắt theo
đèn của B-52 và dung máy ngắm quang học. Khi cự ly còn khoảng 2.000m, phi công xin phép công tác, lúc đó là 22
giờ 32 phút. Với thành tích bắn rơi B-52, phi công Phạm Tuân đã lập chiến công lớn, đúng vào thời điểm rất quan
trọng của mặt trận trên không. Ngay sau đó, sở chỉ huy Mộc Châu cho thoát ly, hướng bay 360 độ, về Yên Bái và yêu
cầu phi công liên lạc với sở chỉ huy Binh chủng.

Phóng tên lửa xong, phi công lật máy bay và giảm nhanh độ cao xuống 2.000m. 22 giờ 35 phút, sau khi xác
đinh được vị trí máy bay ta, sở chỉ huy Binh chủng cho hướng bay 310 độ, lên độ cao 4.000m và dẫn về Yên Bái. 22
giờ 39 phút, sở chỉ huy Yên Bái tiếp nhận và dẫn phi công xuyên xuống dưới mây và vào hạ cánh an toàn lúc 22 giờ
46 phút. Tin vui lan nhanh trong toàn Quân chủng.

Trước chuyến bay cơ động chuyển sân của phi công Phạm Tuân, sở chỉ huy Trung đoàn 927 đã dẫn đôi bay
MiG-21: Nguyễn Văn Lý và Nguyễn Văn Nhượng từ Nội Bài vào khu vực Miếu Môn để đánh F4 và sau chuyến bay
bắn rơi B-52 của phi công Phạm Tuân, sở chỉ huy Trung đoàn 921 còn dẫn phi công Nguyễn Khánh Duy từ Kép, lên
Phố Bình Gia-Đình Lập-Thái Nguyên-Phú Thọ để sẵn sàng đánh tiếp B-52. Như vậy, trong ngày, các kíp trực ban dẫn
đường đã dẫn 5 tốp ta với 7 lần chiếc MiG-21, đánh cả ban ngày và ban đêm, bắn rơi 2 F4 và 1 B-52, phi công và máy
bay ta đều an toàn. Ngày 27 tháng 12 năm 1972 được ghi nhận là ngày dẫn đánh địch đạt hiệu quả chiến đấu cao nhất
của mặt trận trên không 12 ngày đêm cuối năm 1972, trong đó có sự đóng góp rất lớn của kíp trực ban dẫn đường tại
Mộc Châu.

Lúc 11 giờ 10 phút, ngày 28 tháng 12 năm 1972, trên mạng B1 xuất hiện tốp địch 6 chiếc, từ biển vào trên
hướng đông nam Hà Nội, sau đó được cải chính là 8 chiếc. Sở chỉ huy Trung đoàn 927 lệnh cho đôi bay MiG-21: Lê
Văn Kiền - số 1 và Hoàng Tam Hùng - số 2, trực chiến tại Nội Bài, cất cánh và chờ tại đỉnh. 11 giờ 19 phút, C-50 bắt
được địch, trực Ban dẫn đường Binh chủng Tạ Văn Vượng xin dẫn. Cùng lúc đó, trực ban dẫn đường tại C-43 Đào
Văn Thành xác định đây là tốp 12 chiếc, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 927 Nguyễn Hồng Nhị đề nghị Binh
chủng cho sở chỉ huy trung đoàn được dẫn. 11 giờ 20 phút, trực ban dẫn đường Vũ Đức Bình tại sở chỉ huy Trung
đoàn 927 cho đôi Kiền-hùng hướng bay 150 độ, sau đó tăng nhanh tốc độ và giữ độ cao 500m. 11 giờ 22 phút, số 2
báo cáo phát hiện 4 chiếc, nhưng ngay lập tức đối không bị nhiễu nặng. Sở chỉ huy không kịp ra lệnh chuyển rãnh liên
lạc. Số 1 lệnh cho số 2 bám theo chiếc bên trái, sau đó thấy rất nhiều F4 ở xung quanh. Không chiến quyết liệt, ta
không bám được nhau. Phi công Hoàng Tam Hùng bắn rơi 1 RA-5C và 1 F4 (Bản can trận đánh). Không quân nhân
dân Việt Nam có thêm một phi công, trong một trận bắn rơi 2 máy bay địch, đồng thời có thêm một loại máy bay nữa
của Mỹ bị hạ gục. Nhưng sau đó đã hy sinh, do bị trúng tên lửa của địch, không kịp nhảy dù. Còn số 1 phải phản kích
liên tiếp rồi thoát ly về Nội Bài và hạ cánh lúc 11 giờ 34 phút.
Tối 28 tháng 12 năm 1972, theo tin ta nhận được, từ 21 giờ 30 phút đến 23 giờ 30 phút, B-52 sẽ vào đánh
Hà Nội và Đường 1 bắc. Binh chủng yêu cầu tất cả các sở chỉ huy phải tập trung theo dõi chặt chẽ tình hình địch trên
cả hướng tây nam và đông nam, các phân đội trực chiến đều phải sẵn sàng xuất kích, đặc biệt là sở chỉ huy Thọ Xuân,
phân đội MiG-21 phục kích ở sân bay dã chiến Cẩm Thuỷ (đông bắc Cẩm Thuỷ 10km) và các đại đội radar dẫn đường
vòng ngoài. Từ 21 giờ đến 22 giờ 22 phút, các C-26, 22, 50, 53 và 43 lần lượt mở. 21 giờ 30 phút, sở chỉ huy Thọ
Xuân cho phi công Vũ Xuân Thiều ở Cẩm Thuỷ vào cấp 1 và 21 giờ 37 phút, sở chỉ huy Binh chủng cho phi công
Đinh Tôn ở Nội Bài cũng vào cấp 1.

21 giờ 41 phút, phi công Vũ Xuân Thiều cất cánh, sở chỉ huy Thọ Xuân cho đi hướng tây để đánh địch khi
chúng vào qua biên giới, 21 giờ 52 phút, cho vòng phải, qua Sầm Nưa, lên hướng bắc và đuổi theo tốp B-52 đang vào
Nà Sản. 21 giờ 58 phút, khi phát hiện mục tiêu thì cự ly đã quá gần, phi công Vũ Xuân Thiều phóng tên lửa và không
kịp thoát ly. Đồng chí đã hy sinh anh dũng.

21 giờ 48 phút, phi công Đinh Tôn cất cánh. Kíp trưởng dẫn đường Binh chủng Phạm Minh Cậy và trực
ban dẫn đường Tạ Văn Vượng dẫn MiG-21 ra Hoà Bình-Suối Rút, rồi lên phía bắc Mộc Châu để đánh tốp B-52 từ
Sầm Nưa lên Phù Yên. 22 giờ 04 phút, phi công thấy đèn, rồi mất vì góc vào quá lớn, dẫn đường cho vòng phải,
hướng bay 90 độ, cắt vào phía sau mục tiêu 14km. 22 giờ 06 phút, phi công lại phát hiện, nhưng B-52 cơ động và phi
công báo cáo phía sau có địch, dẫn đường cho vòng phải gấp, giảm độ cao, hướng bay 360 độ để tách khỏi tốp tiêm
kích. 22 giờ 16 phút, thấy tình thế không thuận lợi, sở chỉ huy cho MiG-21 thoát ly bên phải, giảm độ cao tại Việt Trì
và xuyên xuống hạ cánh. Khi xuống dưới mây thì Nội Bài không tiếp thu vì phía bắc Ninh còn địch, dẫn đường lập tức
cho phi công vòng trái đi Hiệp Hoà. 22 giờ 16 phút, ta còn cách Kép 13km thì Nội Bài nhận tiếp thu. Sở chỉ huy dẫn
phi công quay lại và vào hạ cánh an toàn. Tuy dẫn tiếp địch không thành công, bỏ lỡ cơ hội đánh B-52 là một thiếu sót
lớn, nhưng kíp trực Ban dẫn đường Binh chủng đã rất cố gắng xử lý tốt các tình huống trong suốt quá trình dẫn phi
công về hạ cánh.

2 giờ 40 phút, đêm 29 tháng 12 năm 1972, trên mạng B1 có 3 tốp tiêm kích vào hoạt động tại khu vực
Thanh Sơn; 23 giờ 03 phút, F-111 đánh sân bay Yên Bái và Kép. Trong lúc đó, có 3 tốp B-52 trên hướng tây nam và 1
tốp B-52 trên hướng đông nam. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện và Chu Duy Kính đồng ý cho
MiG-21 ở Nội Bài đánh trước, đồng thời yêu cầu kiểm tra ngay tình hình Kép, nếu bảo đảm tốt thì MiG-21 cũng phải
sẵn sàng cất cánh và đặc biệt lưu ý thời tiết vì toàn khu vực 4Cu 500 và 10Sc 800. 23 giờ 04 phút, sở chỉ huy Trung
đoàn 921 cho phi công Nguyễn Khánh Duy ở Nội Bài cất cánh, sau đó dẫn lên Yên Bái-Tuyên Quang- Thái Nguyên-
Kép, rồi về Nội Bài do các đại đội radar dẫn đường vòng trong đều bị nhiễu, bắt địch rất khó khăn. 23 giờ 28 phút, phi
công Bùi Doãn Độ ở Kép cất cánh, trực Ban dẫn đường Binh chủng Lê Thành Chơn và Đỗ Cát Lâm cho hướng bay
300 độ, độ cao 3.000m, 23 giờ 31 phút, cho tiếp hướng bay 340 độ, độ cao 6.000m. Đến 23 giờ 35 phút, khi MiG-21 ở
Phú Lương, sở chỉ huy Thọ Xuân báo cáo thấy tốt địch-ta, Binh chủng đồng ý cho dẫn. Sở chỉ huy Thọ Xuân cho phi
công vòng trái vòng vòng khá rộng về phía Chợ Đồn và tăng dần độ cao lên 10.000m để chờ địch vào. 23 giờ 46 phút,
sau khi quay lại đến bắc Phú Lương 10km, MiG-21 đã có độ cao 11.000m và đi hướng 250 độ. Địch vào phía nam
Yên Bái, vòng phải quay ra. 23 giờ 48 phút, ta ở ngang Sơn Dương, sở chỉ huy Thọ Xuân cho vòng trái vào tiếp địch ở
cạnh ngoài. 1 phút sau, phi công Bùi Doãn Độ báo cáo phát hiện mục tiêu và xin vào công kích. Anh phóng loạt 2 quả
và thoát ly ngay. Chiếc máy bay địch bị trúng tên lửa của phi công Bùi Doãn Độ lại là F4. Đây là chiếc F4 đầu tiên bị
không quân ta bắn rơi vào ban đêm và chính bằng MiG-21. 23 giờ 58 phút, ta hạ cánh Nội Bài.
Ngày 30 tháng 12 năm 1972, chính quyền Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20
trở ra và đề nghị gặp lại đại diện Chính phủ ta tại Paris để bàn việc ký "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại Hoà
bình ở Việt Nam". Cuộc tập kích đường không chiến lược, chủ yếu bằng B-52, của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải
Phòng và nhiều mục tiêu quan trọng khác của ta, kéo dài 12 ngày đêm, đã bị thất bại hoàn toàn.

Trong chiến công chung của Quân chủng, ngành Dẫn đường đã tổ chức dẫn MiG-21 đánh 23 trận (7 trận
đánh ngày, 16 trận đánh đêm) với 30 lần chiếc, bắn rơi 8 máy bay, trong đó có 5 chiếc bị bắn rơi vào ban ngày, 3 chiếc
bị bắn rơi vào ban đêm và đặc biệt là đã tiêu diệt được 2 chiếc B- 52.

Tháng 1 năm 1973, Mỹ tiếp tục tiến hành trinh sát đường không, chủ yếu bằng không người lái đối với
miền Bắc và đánh một số mục tiêu của ta ở nam vĩ tuyến 20, trong đó có cả B-52 (Ngày 6 và 8 tháng 1 năm 1973 đánh
Nghệ An). Không quân ta tổ chức dẫn xuất kích trên 30 trận, trong đó có 2 trận đêm, lực lượng trực chiến của bốn
trung đoàn không quân đều tham gia. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 927, ngày 4 tháng 1 năm 1973, dẫn đôi bay
MlG-21: Nguyễn Văn Nhượng-Lê Văn Kiền cất cánh từ Nội Bài, chờ tại đỉnh, kết hợp với đài chỉ huy bay để đánh
địch. Phi công Nguyễn Văn Nhượng, bằng 1 quả tên lửa, bắn rơi 1 máy bay không người lái ở độ cao 250m tại khu
vực Vĩnh Yên; ngày 6 tháng 1, dẫn phi công MiG-21 Hán Vĩnh Tưởng cũng cất cánh từ Nội Bài và phóng quả tên lửa
thứ hai trúng 1 máy bay không người lái ở độ cao 4.000m tại khu vực Hoà Bình-Suối Rút.

Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923, ngày 8 tháng 1 năm 1973, dẫn đôi bay MlG-17: Hoàng Cống-
Hoàng Mai Vượng cất cánh từ Kép, đánh tại khu vực Thái Nguyên ở độ cao thấp. Phi công Hoàng Mai Vượng, bằng
11 viên đạn 37mm và 6 viễn 23mm, hạ 1 máy bay không người lái.

Để thực hiện được nhiệm vụ trước mắt, trong hai năm 1973 và 1974, Binh chủng đã bắt tay ngay vào khôi
phục các sân bay, các cơ sở kỹ thuật và hậu cần đã bị địch đánh phá, điều chỉnh lực lượng, củng cố tổ chức và đẩy
nhanh công tác bay huấn luyện, đồng thời tiếp tục sử dụng một phần lực lượng để trực ban sẵn sàng chiến đấu. Ngành
Dẫn đường đã kịp thời đặt trọng tâm công tác của mình vào việc bảo đảm cho các chuyến bay chuyển sân điều chỉnh
lực lượng, huấn luyện, cơ động trực chiến và xây dựng các phương án dẫn bay sẵn sàng chiến đấu. Đội ngũ dẫn đường
sở chỉ huy luôn có mặt trên tất cả các vị trí công tác theo yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 927, trong vòng chưa đầy một năm, tổ chức bảo đảm tốt cho ba đợt dẫn
bay chuyển sân điều chỉnh vi trí đóng quân của đơn vị mình: Đầu tháng 6 năm 1973, từ Nội Bài vào Thọ Xuân; cuối
tháng 8 cùng năm, lại chuyển ra Nội Bài và cuối tháng 4 năm 1974, lên Kép. Trong tháng 4 năm 1974, tại Kép, được
sự chỉ đạo của Ban dẫn đường Binh chủng, 2 tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 927 và Trung đoàn 921 đã tập trung
nghiên cứu và xây dựng phương án dẫn đánh U-2 (Từ thực tiễn dẫn MiG-21 bắn rơi nhiều máy bay không người lái ở
độ cao từ 17.000 đến 18.000m, ta đã tổ chức đánh U-2 vào ngày 5 tháng 5 năm 1967, nhưng chưa thành công. Sơ đồ
trận đánh).

Về công tác bảo đảm dẫn bay huấn luyện, năm 1973, số phi công mới của Trung đoàn 927 chiếm khoảng
50%, trong đó, một nửa được đưa vào bay đêm ngay từ đầu. Khi đơn vị được trang bị thêm máy bay huấn luyện L-29,
tiểu ban vừa tổ chức học tập chuyển loại cách dẫn máy bay mới cho mình vừa giúp đỡ phi công mới chuẩn bị dẫn bay
cho các bài bay ngày và bay đêm; đồng thời góp phần bảo đảm cho trung đoàn hoàn thành gần 2.000 lần chiếc bay
huấn luyện, đào tạo được 10 biên đội trưởng, đội trưởng đôi bay và toàn bộ phi công chuyển loại xong MiG-21F-96.
Nắm 1974, điều kiện bay huấn luyện có nhiều thuận lợi, trung đoàn không phải cơ động phân tán và tháng 2, Binh
chủng cử 42 phi công MiG-21, trong đó có 20 phi công của đơn vị đi bay bổ túc tại Liên Xô, tiểu ban đã tập trung sức
bảo đảm tốt cho tổng giờ bay tăng gấp đôi và giờ bay của một phi công tăng 180% so với năm 1973.
Tháng 1 năm 1974, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 927 được bổ sung 5 trợ lý: Đỗ Văn Cường, Phạm Văn
Năm, Trần Văn Oai, Phạm Duy Thoán, Lê Đình Vạn và đến đầu năm 1975, lại được thêm 4 trợ lý nữa là Lê Quốc
Báo, Nguyễn Việt Cường, Phạm Hoàng Thu và Nguyễn Văn Sửu. Công tác huấn luyện dẫn đường tại chức cho trợ lý
mới của tiểu ban được triển khai kịp thời và rất nền nếp.

Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 cũng hoàn thành 3 đợt dẫn bay chuyển sân: Đầu tháng 7 năm 1973,
chuyển 8 MiG-17 và 2 UMiG-15 từ Tường Vân về nước; đầu tháng 4 năm 1974, chuyển toàn bộ 25 máy bay của đơn
vị mình từ Kép về đóng quân tại Kiến An và giữa tháng 7 năm 1974, lại chuyển 20 MiG-17 nữa, cũng từ Tường Vân
về nước. Tiểu ban còn nhanh chóng bố trí lực lượng trợ lý có mặt tại các vị trí trực ban trên dọc tuyến cơ động chuyển
sân sẵn sàng chiến đấu, khi trung đoàn triển khai sở chỉ huy tiền phương tại Thọ Xuân và đưa một đại đội bay gồm 12
phi công và 10 MiG-17 từ Kép vào trực chiến tại Thọ Xuân vào tháng 11 năm 1973; chuyển MiG-17 vào trực chiến ở
Đồng Hới vào tháng 8 năm 1974.

Mặc dù phải tham gia cơ động phân tán nhiều, nhưng tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 thường xuyên
phân công đủ số lượng trợ lý tham gia bảo đảm bay huấn luyện, góp phần hoàn thành 2.360 lần chiếc, tăng thêm 19
phi công đánh mục tiêu trên đất, 12 phi công đánh mục tiêu trên biển trong năm 1973 và 1.144 giờ bay, 27 phi công
được bắn đạn thật, 2 phi công ném bom thia lia trong năm 1974. Tiểu ban đã chủ động phối hợp công tác chặt chẽ giữa
các trợ lý dẫn đường có mặt tại các vị trí trực ban trên dọc tuyến cơ động để bảo đảm tốt cho tất cả các chuyến bay
huấn luyện đường dài, chuyển sân trên các sân bay ven biển từ Kiến An đến Đồng Hới.

Tháng 1 năm 1974, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 được bổ sung hai trợ lý từ khoá đào tạo sĩ quan dẫn
đường tại Thậm Thình (Dương Công Khai và Vũ Văn Thuyết) và đến đầu năm 1975, thêm ba trợ lý nữa cũng từ khoá
đào tạo sĩ quan dẫn đường tại Thậm Thình (Vi Bá Đệ, Nguyễn Công Tản, Đỗ Văn Tường). Để có được lực lượng đáp
ứng yêu cầu cơ động phân tán, tiểu ban đã tổ chức ôn tập lý thuyết kỹ càng, kèm thực hành chặt chẽ, đặc biệt tập trung
nâng cao khả năng độc lập công tác cho từng trợ lý mới.

Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921, tuy tập trung vào bảo đảm cho nhiệm vụ bay huấn luyện tại Nội Bài,
nhưng khi có lệnh cơ động trực chiến, là đội ngũ trợ lý lên đường ngay, đáp ứng kịp thời cho các phân đội MiG-21 của
đơn vị mình vào Vinh trực chiến từ ngày 11 tháng 7 năm 1974 và ngày 22 tháng 8 năm 1974, tổ chức dẫn phi công
Đinh Tôn và Phạm Phú Thái vào hạ cánh thử an toàn tại sân bay Đồng Hới sau sửa chữa và tiến hành trực chiến ngay.
Trong bay huấn luyện, tiểu ban đã bảo đảm cho trung đoàn khai thác tốt L-29, đẩy nhanh tiến độ và chất lượng huấn
luyện phi công mới.

Tháng 1 năm 1974, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921 được bổ sung bốn trợ lý: Khổng Vũ Bằng, Phạm
Văn Hùng, Nguyễn Kim Khuê, Nguyễn Văn Nhâm và đến đầu năm 1975, có thêm ba trợ lý nữa là Đoàn Văn Bình,
Trần Văn Kiêu và Nguyễn Công Thá. Căn cứ vào kết quả phân loại ban đầu tiểu ban bố trí các trợ lý mới lần lượt tham
gia trực kèm và 6 tháng sau mới xem xét kiểm tra phê chuẩn trực chính. Do biết kết hợp chặt chẽ với công tác bảo
đảm dẫn đường cho bay huấn luyện của trung đoàn, nên công tác huấn luyện tại chức cho trợ lý mới của tiểu ban đã
đạt chất lượng tốt.

Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 925, trong tháng 4 năm 1974, đã thực hiện tốt nhiệm vụ dẫn 24 MiG-19 và
4 UMiG-17 (Trung Quốc cải tiến từ MiG-17 không có tăng lực) chia làm ba đợt chuyển sân liên tục từ Nam Ninh về
Yên Bái. Tiểu ban đã khắc phục nhiều khó khăn, do thời tiết khu vực hay thay đổi thất thường và radar dẫn đường hay
bị hỏng hóc, đáp ứng yêu cầu của các ban bay cho phi công mới khi trời tốt ổn định và cho phi công cũ bay trong điều
kiện thời tiết phức tạp.
Tháng 1 năm 1974, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 925 được bổ sung năm trợ lý: Hà Văn Bền, Nguyễn
Văn Đãi, Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Văn Mậu, Hoàng Đình Te và đến đầu năm 1975, thêm hai trợ lý nữa cũng từ
khoá đào tạo sĩ quan dẫn đường tại Thậm Thình là Lê Xuân Bách và Vũ Ngọc Khanh. Trong thực hiện huấn luyện dẫn
đường tại chức cho các trợ lý mới, tiểu ban đã tập trung học lý thuyết, luyện tập tác nghiệp khi trời xấu kéo dài và kèm
thực hành khi đơn vị tổ chức bay.

2. Đào tạo, huấn luyện và kiện toàn các tổ chức dẫn đường

Trong lúc mặt trận trên không đang diễn ra rất quyết liệt, nhiệm vụ chiến đấu là hang đầu, nhưng công tác
đào tạo vẫn được Binh chủng rất quan tâm nhằm tiếp tục đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về tổ chức chỉ huy- dẫn
đường chiến đấu cơ động phân tán trên diện rộng của các trung đoàn không quân. Ngày 12 tháng 7 năm 1972, 16 học
viên (Khổng Vũ Bằng, Hà Văn Bền, Đỗ Văn Cường, Nguyễn Văn Đãi, Phạm Văn Hùng, Dương Công Khai, nguyễn
Kim Khuê, Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Văn Mậu, Phạm Văn Năm, Nguyễn Văn Nhâm, Trần Văn Oai, Hoàng Đình
Te, Phạm Duy Thoán, Vũ Văn Thuyết và Lê Đình Vạn), từ các đơn vị trong Quân chủng, đã chiêu sinh về Phân hiệu
đào tạo sĩ quant ham mưu thuộc Trường Không quân tại Thậm Thình (Phú Thọ) để tiến hành đào tạo tập trung 11 dẫn
đường từ mặt đất.

Thành phần khoá này gần giống hai khoá đào tạo tại Yên Cốc (1967-1968) và Quảng Bị (1969-1970).
Trong đó, có 4 học viên đã là giáo viên Yak-18 của Trung đoàn không quân 910, 10 học viên đã đi học bay MiG-21 và
2 học viên đã vào dự khoá bay. Phụ trách lớp dẫn đường là đồng chí Đàm Cảnh Thống (Tổ trưởng giáo viên lý thuyết
Trường Hàng không từ năm 1965), đồng thời là giáo viên lý thuyết bay. Tham gia giảng dạy cho lớp, còn có các giáo
viên dày dạn kinh nghiệm như: dẫn đường trên không Lê Thế Hưng, dẫn đường sở chỉ huy Nguyễn Quang Sáng (trợ
lý Ban dẫn đường Binh chủng, chuyên dẫn trên hiện sóng) và Nguyễn Văn Được (Trưởng Tiểu ban dẫn đường Trung
đoàn không quân 927, được điều về tham gia giảngdạy từ đầu năm 1973).

Mặc dù điều kiện giảng dạy, học tập và ăn ở của cả giáo viên và học viên gặp rất nhiều khó khăn, nhưng
với thời gian đào tạo 18 tháng, nhiều nhất so với tất cả các khoá trước đây, nên chất lượng đào tạo được nâng lên rõ
rệt. Các nội dung cơ bản như: tính nhẩm, ước lượng dẫn bay, các giai đoạn dẫn bay chiến đấu, công tác dẫn đường tại
sở chỉ huy, chiến thuật dẫn đường (cách dẫn theo cách đánh)… luôn được coi trọng. Phương pháp học lý thuyết đến
đâu, làm thực hành đến đấy, tiếp tục được giữ vững. Bên cạnh đó, học viên được tiếp thu tương đối nhiều các bài học
và kinh nghiệm thực tiễn dẫn bay chiến đấu, đặc biệt là thực tiễn dẫn bay trên mặt trận trên không năm 1972.

Tháng 1 năm 1974, khoá đào tạo kết thúc. Đây là khoá đầu tiên, học viên dẫn đường sau khi tốt nghiệp,
được nhận quân hàm sĩ quan. 4 sĩ quan được điều về tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921, 2 về 923, 5 về 925 và 5 về
927. Tại đơn vị, các trợ lý dẫn đường mới của khoá đào tạo này được lần lượt tham gia trực kèm, sau ít nhất sáu tháng
mới được kiểm tra phê chuẩn vào trực chính thức. Nhiều sĩ quan dẫn đường của khoá này đã kịp thời đáp ứng nhiệm
vụ tham gia giải phóng miền Nam năm 1975.

Tháng 10 năm 1973, Quân chủng tổ chức chiêu sinh 17 học viên (Nguyễn Đình An, Lê Xuân Bách, Lê
Quốc Báo, Đoàn Văn Bình, Nguyễn Việt Cường, Phan Khắc Dần, Vi Bá Đệ, Lại Văn Khải, Vũ Ngọc Khanh, Trần Văn
Tiêu, Khương Văn Mô, Trần Ngọc Quyền, Nguyễn Văn Sửu, Nguyễn Công Tản, Nguyễn Công Tản, Phạm Hoàng Thu
và Đỗ Văn Tường) từ các đơn vị không quân và Trường Sĩ quan Phòng không để tiếp tục đào tạo dẫn đường sở chỉ
huy cũng tại Thậm Thình. Nội dung đào tạo cơ bản giống khoá trước và được bổ sung, điều chỉnh hoàn thiện hơn. Các
môn học cơ sở bao gồm: máy bay, động cơ, vô tuyến điện, thiết bị điện, vũ khí hàng không; chiến thuật không quân,
công tác tham mưu và huấn luyện không quân, công tác an toàn bay. Các môn học dẫn đường: dẫn đường trên không,
ném bom, dẫn đường sở chỉ huy, ước lượng tính nhẩm, tác nghiệp dẫn bay.

Giáo viên dẫn đường gồm các đồng chí Bùi Quang Liên (Trưởng Tiểu ban dẫn đường đầu tiên của Trung
đoàn 921), Nguyễn Quang Sáng và sau này có thêm đồng chí Nguyễn Văn Đãi.

Thời gian đào tạo dự tính 18 tháng, nhưng do đầu năm 1975 cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền
Nam của quân và dân ta phát triển với tốc độ rất nhanh nên khoá học đã được rút ngắn; học viên tốt nghiệp được điều
động gấp về các đơn vị nhận nhiệm vụ ngay. 2 sĩ quan được điều về Ban dẫn đường Bộ Tư lệnh Không quân chiến
đấu, 3 về tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 921, 3 về 923, 2 về 925, 4 về 927, 2 về Trường Không quân (Khương Văn
Mô, Trần Ngọc Quyền) và 1 về Lữ đoàn không quân 919 (Lại Văn Khải).

Được sự giúp đỡ của Liên Xô, tháng 9 năm 1973, 6 học viên sĩ quan dẫn đường đầu tiên (Lê Viết Diện,
Trần Hồng Hà, Đỗ Cát Lâm, Nguyễn Quang Thản, Trần Đức Tụ và Tạ Văn Vượng) đã được Binh chủng cho đi đào
tạo cán bộ dẫn đường tập trung tại Học viện Không quân Ga-ga-rin, nơi đào tạo cao nhất đội ngũ cán bộ chỉ huy
không quân Liên xô. Sau đó một năm, tháng 9 năm 1974, lại có thêm 5 học viên dẫn đường (Nguyễn Đăng Điển,
Đặng Văn Hảo, Nguyễn Kim Khuê, Lê Ngọc Toàn và Lê Đình Vạn) lên đường sang Học viện Không quân Ga-ga-rin.

Về thời gian đào tạo của hai khoá này, tuy có chênh lệch một năm (khoá đầu, 5 năm và khoá sau, 4 năm),
nhưng về nội dung chương trình, không khác nhau nhiều lắm. Sau khi học tiếng Nga và được bổ sung thêm một số
kiến thức cơ sở cần thiết, các học viên đều được trang bị những kiến thức mới, với một khối lượng lớn, vừa có chiều
rộng vừa có chiều sâu, đặc biệt là về công tác dẫn đường không quân từ cấp trung đoàn, sư đoàn và cao hơn. Khó khăn
lớn nhất đối với tất cả các học viên, là tiếp thu bất kỳ kiến thức nào cũng phải sử dụng tiếng Nga. Mặc dù trình độ đầu
vào có khác nhau, nhưng sau khi tốt nghiệp, học viên đều có trình độ chuyên ngành dẫn đường không quân cấp chiến
thuật-chiến dịch.

Hai khoá đào tạo trên đều về nước vào năm 1978. Các đồng chí Tạ Văn Vượng và Lê Ngọc Toàn được điều
về Phòng Dẫn đường Quân chủng Không quân, Nguyễn Quang Thản về Phòng Khoa học quân sự Quân chủng, Đỗ
Cát Lâm về Sư đoàn Không quân 370, Lê Viết Diện và Đặng Văn Hảo về Sư đoàn Không quân 372, Trần Đức Tụ về
Trung đoàn 921, Nguyễn Đăng Điển về Trung đoàn 923, Trần Hồng Hà về Trung đoàn 925, Nguyễn Kim Khuê và Lê
Đình Vạn về Trường Sĩ quan Không quân.

Việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức, do Học viện Không quân Ga-ga-rin trang bị, vào thực tiễn công
tác tại các cơ quan và đơn vị trong Quân chủng Không quân đã góp phần quan trọng cho ngành Dẫn đường tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ dẫn đường ở các đơn vị chiến đấu và đào tạo đội ngũ sĩ quan dẫn đường ở các nhà trường, học
viện trong giai đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.

Năm 1974, căn cứ vào những nội dung tổng kết chiến tranh của Quân chủng, đã được tổ chức từ tháng 5
năm 1973 và thực tiễn hoạt động của toàn ngành trong chiến đấu Ban dẫn đường đã tổ chức chuẩn bị chu đáo, tiến
hành tập huấn với hai nội dung là tổng kết công tác dẫn đường chiến đấu và thống nhất số liệu dẫn bay các loại MiG-
17, 19 và 21.

Qua tập huấn, mọi người đều nắm vững các cách dẫn từng loại máy bay của ta đánh địch đạt hiệu quả chiến
đấu cao và các giải pháp tháo gỡ khó khăn, trở ngại khi dẫn đánh địch không thành công trong hai cuộc chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc.
Kết quả của đợt tập huấn đã trực tiếp thúc đẩy nhiều mặt công tác trong toàn ngành. Những tài liệu tổng kết
được biên soạn rất công phu, có giá trị sử dụng cao, giúp cho đội ngũ dẫn đường mới nhanh chóng tiếp cận với thực tế
chiến đấu và rất bổ ích cho công tác nghiên cứu khoa học.

***

Ngày 1 tháng 12 năm 1971, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn không quân 927, được
trang bị máy bay MiG-21 và sử dụng sân bay Thọ Xuân làm căn cứ đóng quân. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo về
mọi mặt, ngày 3 tháng 2 năm 1972, tại căn cứ Nội Bài, trung đoàn đã chính thức làm lễ ra mắt. Tiểu ban dẫn đường
Trung đoàn không quân 927 được thành lập từ đó. Đồng chí Vũ Đức Bình giữ chức Trưởng Tiểu ban. Đội ngũ dẫn
đường của tiểu ban đều từ Trung đoàn 92 1 và Trung đoàn 923 chuyển sang (Nguyễn Đăng Điển, Nguyễn Văn Được,
Hoàng Đức Hạnh, Nguyễn Đức Hợp, Lê Thiết Hùng, Bùi Ngọc Huấn, Nguyễn Ngọc Hữu, Lưu Văn Lộc, Tống Bá
Nhưỡng, Đào Văn Thành, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đức Trinh, Lương Văn Vóc…). Đó là điều kiện rất thuận lợi
để tiểu ban có thể bắt tay ngay vào thực hiện các nhiệm vụ do trung đoàn giao cho.

Nhưng ngay từ đầu, tiểu ban đã phải đối mặt với kết quả dẫn hai trận ra quân của trung đoàn vào tháng 4 và
5 năm 1972 không thành công, thậm chí còn bị tổn thất về máy bay. Được sự hỗ trợ kịp thời của Ban dẫn đường Binh
chủng và quyết tâm vươn lên của chính mình, sau trận đánh thắng đầu tiên của đơn vị vào ngày 10 tháng 5 năm 1972,
tiểu ban dẫn đường Trung đoàn không quân 927 đã thực hiện dẫn nhiều trận tiếp theo đạt hiệu suất chiến đấu cao, đặc
biệt là vào những ngày cuối tháng 6, đầu tháng 9 và đầu tháng 10 năm 1972, còn đạt hiệu suất chiến đấu rất cao. Công
sức của tiểu ban đã góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao vị thế của MiG-21 trên mặt trận trên không vô cùng
quyết liệt trong năm 1972.

Ngày 10 tháng 11 năm 1973, Bộ Quốc phòng quyết định sáp nhập cơ quan Cục Hàng không dân dụng và
Trung đoàn không quân vận tải 919 thành Lữ đoàn 919, trực thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, sử dụng 2
sân bay Gia Lâm và Hoà Lạc, trong đó căn cứ đóng quân chính là Gia Lâm. Trong cơ cấu tổ chức của lữ đoàn có Ban
dẫn đường và đồng chí Nguyễn Văn Kính được bổ nhiệm làm Trưởng ban. Ban dẫn đường Lữ đoàn chịu trách nhiệm
tổ chức và thực hiện mọi nhiệm vụ dẫn đường trên không đối với tất cả các loại máy bay vận tải và trực thăng của
Quân chủng; trực tiếp điều hành hoạt động của hệ thống chủ nhiệm dẫn đường trong lử đoàn.

Đầu năm 1974, Lữ đoàn 919 cử đoàn công tác do đồng chí Nguyễn Xuân Trường chỉ huy, trong đó có đồng
chí Vũ Quý Lự, dẫn đường trên không là một thành viên, vào Lộc Ninh tổ chức vận chuyển 1 chiếc trực thăng UH-1
(Phi công Hồ Duy Hùng lấy từ Đà Lạt bay ra vùng giải phóng ở Lộc Ninh vào ngày 17 tháng 11 nám 1973) bằng ô tô
ra Bắc. Sau đó, Ban dẫn đường Lữ đoàn cùng với đồng chí Lự chủ động tiến hành nghiên cứu cách dẫn bay UH-1.
Ngày 9 tháng 5 năm 1974, ta tổ chức bay thử thành công UH-1 tại Hoà Lạc. Đến đầu năm 1975, cách dẫn bay UH-1
đã kịp thời phục vụ cho hai lái chính Nguyễn Xuân Trường và Nguyễn Đình Khoa bay đơn.

Trong năm 1974, Ban dẫn đường lữ đoàn tập trung chỉ đạo công tác dẫn bay chuyên cơ, chuyển loại Yak-40
cho các đơn vị và nghiêm khắc tổ chức kiểm điểm sau vụ tai nạn rất nghiêm trọng của An-24, xảy ra vào ngày 81
tháng 3 năm 1974, tại Nội Bài.

Cũng vào thời gian này, Binh chủng Không quân, được gọi là Bộ Tư lệnh Không quán chiến đấu, chỉ huy
và quản lý toàn bộ lực lượng không quân tiêm kích và các máy bay huấn luyện khác của Quân chủng. Cơ quan Bộ Tư
lệnh chuyển từ Gia Lâm lên Nội Bài. Ban dẫn đường Binh chủng Không quân trở thành Ban dẫn đường thuộc Bộ Tư
lệnh Không quân chiến đấu và tập trung giải quyết nhiệm vụ dẫn đường cho các trung đoàn 921, 923, 925, 927 và
Trường Không quân (Trung đoàn 910). Đồng chí Lê Liên tiếp tục giữ chức Trưởng ban cho đến tháng 1 năm 1974 và
sau đó, đồng chí Nguyễn Văn Chuyên được bổ nhiệm làm Trưởng ban. Trong Ban dẫn đường, ngoài các trợ lý là dẫn
đường sở chỉ huy, còn có đồng chí Hoàng Cần là dẫn đường trên không.

Từ kết quả thu thập, giữ gìn các bản can và tài liệu dẫn đường các trận đánh của không quân ta trong nhiều
năm, theo định hướng tổng kết chiến tranh của Quân chủng, Ban dẫn đường Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu đã tổ
chức thống kê số liệu, vẽ sơ đồ và viết tài liệu tổng kết từng trận đánh, tổng hợp các phương án dẫn đường… tạo ra
những sản phẩm rất có giá trị cho toàn ngành, như: Dẫn đường thống kê các trận đánh của Không quân (quyển L) do
trợ lý dẫn đường Nguyễn Đình Anh trực tiếp chắp bút, tài liệu tổng kết công tác dẫn đường trong từng trận đánh do
nhiều trợ lý dẫn đường tham gia viết như Lê Thành Chơn, Lưu Văn Cộng…, vẽ lại một số bản can đã bị cũ nát, khôi
phục nhiều sơ đồ các trận đánh, tổng hợp lại các phương án dẫn đường chiến đấu (phương án tác chiến, quyển K-19)

Trải qua hai cuộc chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, ngành Dẫn đường Không
quân đã có những bước trưởng thành vượt bậc. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ bay chiến đấu, phục
vụ chiến đấu và các nhiệm vụ bay khác được giao ngày càng đạt hiệu quả cao. Công tác đào tạo đội ngũ dẫn đường,
nhất là đào tạo ở trong nước, đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng; công tác huấn luyện dẫn đường tại chức đã
bám sát thực tiễn chiến đấu, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển của các đơn vị bay trong Quân chủng. Hệ thống tổ
chức của ngành không ngừng được kiện toàn, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong ngành thường xuyên được
hoàn thiện và quân số của toàn ngành luôn được bổ sung đúng hướng. Đến cuối năm 1974, ngành Dẫn đường đã có đủ
khả năng bảo đảm cho các nhiệm vụ bay của Quân chủng trên tất cả các khu vực của miền Bắc, kể cả phía nam Khu 4
và sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu cao hơn trong các nhiệm vụ to lớn hơn của năm 1975.

Chương 3
NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG TỔNG TIẾN CÔNG MÙA XUÂN NĂM 1975, CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ
BIÊN GIỚI TÂY NAM, BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN HƯỚNG BẮC VÀ TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG, NÂNG CAO SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN CHỦNG KHÔNG QUÂN (1975 - 1989)

I. NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG TỔNG TIẾN CÔNG MÙA XUÂN NĂM 1975 VÀ BẢO VỆ MIỀN
NAM SAU GIẢI CHÓNG

1. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ bay.

Từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 8 tháng 10 năm 1974 và từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1
năm 1975, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp và xác định nhiệm vụ của cả nước trong lúc này là
động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả 2 miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy
cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, giải phóng hoàn toàn miền Nam, tiến tới thống
nhất nước nhà. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, đồng thời nhấn mạnh, phải nắm
vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến
chống Mỹ, hoàn thành cách mạng Dân tộc Dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng
địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.
Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị, Thường vụ Quân uỷ Trung ương đã họp triển khai kế hoạch tác chiến
chiến lược 1975-1976. Trên cơ sở phân tích kỹ mọi yếu tố, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định chọn
Buôn Ma Thuột là trận mở đầu cho chiến dịch Tây Nguyên và kế hoạch giải phóng miền Nam.

Tháng 2 năm 1975, Bộ Tổng Tham mưu ra lệnh cho các đơn vị chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, mọi
hoạt động chuyển vào thời chiến, bảo vệ vững chắc miền Bắc và làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam.
Với tinh thần "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng", Quân chủng Phòng không - Không quân khẩn trương củng
cố lực lượng trên toàn tuyến Thanh Hoá - Quảng Bình. Riêng hệ thống các sân bay và sở chỉ huy từ Thọ Xuân, Vinh
đến Đồng Hới được Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu ưu tiên đẩy nhanh tốc độ triển khai và duy trì hoạt động ngay.
Sân bay Đồng Hới được chọn làm sân bay trọng điểm.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, ngày 4 tháng 3 năm 1975, quân và dân ta nổ súng tiến
công địch ở chiến trường Nam Tây Nguyên, mở đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Chỉ trong
một thời gian ngắn ta đã chiếm thị xã Buôn Ma Thuột và giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên.

Ngày 25 tháng 3 năm 1975, bộ đội ta giải phóng Huế. Ngay ngày hôm sau, tổ bay Mi-8 thứ nhất có lái
chính Nguyễn Như Chứng, dẫn đường trên không Vũ Mạnh… rời Đồng Hớt, vào hạ cánh tại Phú Bài với nhiệm vụ
chở các đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng Phùng Thế Tài, Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri và các sĩ quan tuỳ tùng.
Tổ bay thứ hai gồm lái chính Bùi Huy Huyên, dẫn đường trên không Công Doãn Đương… chở lực lượng rút gọn của
sở chỉ huy tiền phương do đồng chí Phó Tư lệnh Không quân chiến đấu Nguyễn Hồng Nhị phụ trách và một tốp sĩ
quan tác chiến, dẫn đường (Đặng Dũng, Phạm Văn Hùng, Nguyễn Văn Hưng và Lương Văn Vóc), cùng tổ đài 5 người
vào tiếp quản sân bay Phú Bài và trạm radar dẫn đường cho không quân ở Thuận An.

15 giờ ngày 29 tháng 3 năm 1975, ta giải phóng thành phố Đà Nẵng, chiến dịch Huế-Đà Nẵng toàn thắng.
Ngay lập tức từ sân bay Phú Bài, tổ bay Mi-8: Lái chính Nguyễn Như Chứng, dẫn đường trên không Trần Văn Khiết
cất cánh kịp thời, chở đoàn cán bộ không quân, hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng. Tiếp đó, các tổ bay Il-14 và An-24 đã
được đội ngũ dẫn đường trên không dẫn bay chính xác hoàn thành nhiệm vụ chở lực lượng không quân vào tiếp quản
sân bay Đà Nẵng và trạm radar dẫn đường trên bán đảo Sơn Trà.

Trước xu thế phát triển của tình hình miền Nam sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch
Huế- Đà Nẵng, ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và đánh giá: Về chiến
lược, lực lượng quân sự và chính trị của ta đã có sức mạnh áp đảo địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong.
Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế của nguy. Hiện nay ta có đầy đủ lực
lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều. Với tư tưởng chỉ đạo
thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là
trong tháng 4 năm 1975, không thể để chậm.

Hoà cùng khí thế bừng bừng ra trận của cả nước, Lữ đoàn 919 kịp thời tổ chức một đợt hoạt động tập trung
mang tầm cỡ chiến dịch vận chuyển, đổ bộ đường không đưa bộ đội ta tiếp tục tiến quân thần tốc vào chiến trường
miền Nam. Trong khoảng gần 25 ngày của tháng 4 năm 1975, đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay của lữ
đoàn đã thực hiện dẫn 163 chuyến bay vận chuyển, đổ bộ 4.250 cán bộ, chiến sĩ của Quân đoàn 1; 120,7 tấn vũ khí,
phương tiện kỹ thuật trong đó có 48 tấn đạn pháo cho xe tăng và bản đồ, kịp thời đáp ứng nhu cầu tác chiến thần tốc
của bộ đội binh chủng hợp thành.
Ngày 19 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân
chủng Phòng không - Không quân chuẩn bị lực lượng không quân chiến đấu tham gia chiến dịch. Căn cứ vào ý định
của Quân chủng là sử dụng máy bay thu được của địch để đánh địch, Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu gấp rút triển
khai ngay kế hoạch thực hiện.

Lực lượng rút gọn của Trung đoàn không quân 923, trong đó có một số phi công bay giỏi của Đại đội 4,
gồm: Từ Đễ, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Trần Cao Thăng và Hoàng Mai Vượng, được trên quyết định đưa vào
làm nhiệm vụ. Ngày 22 tháng 4 năm 1975, tất cả có mặt đầy đủ tại Đà Nẵng và bắt tay ngay vào huấn luyện chuyển
loại lý thuyết máy bay cường kích A-37. Chỉ trong 3 ngày từ 23 đến 26 tháng 4 năm 1975, với bản lĩnh và trình độ của
mình, đồng thời được sự giúp đỡ trực tiếp của các phi công đã sử dụng thành thạo A-37 trước đây là Trần Văn On và
Nguyễn Thành Trung, các phi công MiG-17 đã thực hành bay huấn luyện chuyển loại A-37 thành công tại sân bay Đà
Nẵng. Trưa 27 tháng 4 năm 1975, Quân chủng điều toàn bộ lực lượng làm nhiệm vụ từ Đà Nẵng vào Phù Cát, 2 phi
công Nguyễn Thành Trung và Hoàng Mai Vượng chuyển A-37 vào theo. Buổi chiều, ta tiếp nhận thêm 4 chiếc A-37
đã được chuẩn bị tốt và bay huấn luyện bổ sung. Ngay tối hôm đó, các cán bộ chỉ huy, tham mưu và phi công đã cùng
nhau thảo luận phương án tác chiến. Phi đội Quyết thắng được thành lập. Phi công Nguyễn Văn Lục chỉ huy phi đội.

Trong suốt quá trình chuẩn bị chiến đấu, được sự chỉ đạo sát sao của Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri và
Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Trần Mạnh, Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu gồm các đồng chí Trần Hanh,
Nguyễn Hồng Nhị và cơ quan, trong đó có trợ lý dẫn đường Binh chủng Lê Thành Chơn, đã hoàn thành quyết tâm và
kế hoạch cho đòn tiến công tập kích đường không lịch sử này. Những vấn đề mấu chốt đều được quyết định rất rõ ràng
và cụ thể Mục tiêu đánh là khu đậu máy bay chiến đấu tại sân bay Tân Sơn Nhất. Các phi công trực tiếp bay được bố
trí theo đội hình chiến thuật 5 chiếc: Nguyền Thành Trung - số 1, Từ Đễ - số 2, Nguyễn Văn Lục - số 3, Hoàng Mai
Vượng, Trần Văn On (trên một máy bay) - số 4 và Hán Văn Quảng - số 5. Phương án mang vũ khí và dầu phụ: Mỗi A-
37 mang 2 quả bom MK-82, mỗi quả nặng 500 bảng Anh và 2 quả MK-81 mỗi quả nặng 250 bảng Anh, một cơ số đạn
súng máy và 4 thùng dầu phụ. Phương pháp công kích và thoát ly: Lần lượt từng chiếc vào bổ nhào ném bom và bắn
súng, sau đó bám theo nhau thoát ly khỏi khu chiến về căn cứ. Đường bay: Thành Sơn (Phan Rang) - Phan Thiết -
Hàm Tân - Sài Gòn - Thành Sơn. Phi công tiến hành dẫn bay bằng địa tiêu là chính, dẫn đường từ mặt đất đảm nhiệm
theo dõi và dẫn hỗ trợ. Sở chỉ huy Thành Sơn chỉ huy toàn bộ trận đánh, phi công Nguyễn Văn Lục chịu trách nhiệm
chỉ huy trên không, phi công Nguyễn Thành Trung thành thạo địa hình bay trước dẫn đường. Để giữ bí mật, bất ngờ,
ta xuất kích vào lúc gần chiều tối, lợi dụng đường bay của địch thường hay sử dụng, bay ở độ cao thấp và không sử
dụng đối không. Khi phát hiện có hoả lực phòng không của địch phải nhanh chóng áp dụng các biện pháp cơ động để
vượt qua. Nếu tiêm kích địch bám đuổi thì máy bay ở phía sau chủ động ngăn chặn để các máy bay bay phía trước tiếp
tục thực hiện bằng được nhiệm vụ. Sáng 28 tháng 4 năm 1975, phi đội cơ động chuyển sân từ Phù Cát vào sân bay
Thành Sơn làm công tác chuẩn bị chiến đấu trực tiếp. 14 giờ 30 phút, Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ và động viên
phi đội. Đồng chí nói: "Thay mặt Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng tôi giao nhiệm vụ chiến đấu cho các
đồng chí, chúc các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ. Tổ quốc, nhân dân chờ đón chiến công các đồng chí".

16 giờ 17 phút, phi đội cất cánh từ Thành Sơn, số 1 dẫn bay chính xác, cả 5 chiếc A-37 của ta, do Mỹ chế
tạo, đã ném 20 quả bom, cũng do Mỹ sản xuất, xuống sân bay Tân Sơn Nhất, trúng mục tiêu, phá huỷ 24 chiếc máy
bay của địch. Đến 18 giờ 15 phút, cả phi đội hạ cánh an toàn xuống Thành Sơn. Phi đội Quyết Thắng của Không quân
nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc đòn tiến công tập kích đường không, bằng hành động "thần tốc, táo bạo,
bất ngờ, chắc thắng" đã lập nên chiến công "chỉ có một ngày, chỉ có một lần" trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Đánh giá về trận đánh này, Đại tướng Văn Tiến Dũng Tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: "Là một trận phối hợp tuyệt đẹp, một trận đánh hiệp đồng quân chủng, binh chủng đầy đủ nhất từ
trước tới nay của quân đội ta vào thời điểm hết sức quan trọng, có tác động lớn đến diễn biến chiến dịch, đẩy địch đến
một cơn hoảng loạn mới" (Đại tướng Văn Tiến Dũng: Cuộc kháng chiến Chống Mỹ, cứu nước toàn thắng. Nxb Sự
thật; H.1991, tr. 248).

18 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, đoàn công tác của Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu do đồng chí
Nguyễn Hồng Nhị làm Đoàn trưởng, trong đoàn có sĩ quan dẫn đường Lê Thành Chân đã nhanh chóng có mặt tại sân
bay Biên Hoà, lập sở chỉ huy và tiếp quản sân bay.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh Độc Lập, chiến
dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi, miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Từ giờ phút này, non sông gấm vóc Việt
Nam thu về một mối.

Lữ đoàn không quân 919 liên tục chở các đoàn cán bộ vào tiếp quản sân bay Tân Sơn Nhất. Ngày 1 tháng 5
năm 1975, tổ bay Mi-6: lái chính Lê Đình Ký - lái phụ Ngô Trọng Hạ - dẫn đường trên không Lưu Văn Truyền - cơ
giới trên không Nghiêm Phú Cừ cất cánh từ Phan Rang, chở hàng vạn lá quốc kỳ, hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất. Ngày
2 tháng 5, tổ bay II- 14: lái chính Vũ Đức Sầm - lái phụ Vương Văn Cao - dẫn đường trên không Lê Văn Tính -
Nguyễn Bình Sen chở 1,5 tấn pháo hoa từ Gia Lâm vào Tân Sơn Nhất.

Đây là những chuyến bay đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam được dẫn bay chính xác vào hạ
cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đánh dấu thời khắc lịch sử suốt 30
năm ròng chờ đợi.

Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân giao cho Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu tiếp quản
các cơ sở và quản lý các loại máy bay, trực thăng, vũ khí, trang bị thuộc "Không lực Việt Nam Cộng hoà" trước đây,
còn Lữ đoàn 919 tiếp quản các cơ sở thuộc "nha Hàng không Việt Nam" cũ và quản lý các loại máy bay vận trịi quân
sự, trực thăng ở khu vực Tân Sơn Nhất. Chấp hành mệnh lệnh của Quân chủng và được sự chỉ đạo trực tiếp của Phó
Tư lệnh Không quân chiến đấu Nguyễn Hồng Nhị, ngày 11 tháng 5 năm 1975, Trung đoàn không quân 927 cử một
đoàn công tác vào khảo sát hai sân bay Biên Hoà và Tân Sơn Nhất để chuẩn bị tiếp thu máy bay MiG-21 từ miền Bắc
vào. Đoàn do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa, Phi đội trưởng Phi đội 3 làm Đoàn trưởng, trong đó có các phi công: Đinh
Văn Bồng, Trần Thông Hào, Lê Văn Kiền, Nguyễn Thanh Quí, Hán Vĩnh Tưởng và trợ lý dẫn đường trung đoàn
Hoàng Đức Hạnh tham gia. Khảo sát xong, đoàn ra ngay miền Bắc bằng máy bay II- 18. Ngay trong đêm 12, Phi đội 3
được giao nhiệm vụ chuyển 13 chiếc MiG-21 từ Kép vào Biên Hoà.

Đây là lần đầu tiên một phi đội MiG-21 thực hiện chuyển sân từ miền Bắc vào miền Nam với cự ly bay dài
gần hết chiều dài đất nước. Máy bay tiêm kích MiG-21 có bán kính hoạt động ngắn, phải hạ cánh giữa đường để nạp
dầu và bay trên địa hình hầu như hoàn toàn mới đối với phi công. Vì trước đó, Phi đội trưởng Nguyễn Văn Nghĩa bay
vào phía nam sâu nhất cũng chỉ tới Hà Tĩnh. Công tác chuẩn bị dẫn đường cho nhiệm vụ chuyển sân được thực hiện
rất khẩn trương, nhưng chặt chẽ, tỉ mỉ và chu đáo. Đường bay chuyển sân chủ yếu được chọn dọc theo bờ biển nhằm
tạo thuận lợi cho phi công dẫn bay theo các số liệu dẫn đường đã được tính toán trước kết hợp chặt chẽ với các địa tiêu
dễ nhận biết.

9 giờ ngày 13 tháng 5 năm 1975, 13 chiếc MiG-21 lần lượt rời đường băng Kép xuống Nội Bài hạ cánh.
Sau khi nạp đầy dầu, đúng 12 giờ, cả phi đội cất cánh lấy hướng bay về phía Nam. Đôi bay MiG-21 dẫn đầu đội hình:
Phi đội trưởng Nguyễn Văn Nghĩa-Nguyễn Hùng Thông, tốp 3 chiếc MiG-21 bay cuối đội hình: Trần Thông Hào-
Nguyễn Mạnh Hải-Nguyễn Văn Nhượng. 13 giờ 15 phút, chiếc MiG-21 đầu tiên mang số hiệu 5033 do Phi đội trưởng
Nguyễn Văn Nghĩa điều khiển hạ cánh xuống Đà Nẵng và 12 chiếc phía sau lần lượt vào hạ cánh an toàn. Nạp dầu
xong, 15 giờ, phi đội cất cánh, thực hiện chuyển sân chặng thứ hai: Đà Nẵng-Biên Hoà. Khi bay đến Bình Định, do
thời tiết quá xấu, nên cả phi đội phải quay ra Đà Nẵng. 10 giờ 30 phút ngày 14 tháng 5 năm 1975, sân bay Biên Hoà,
sân bay đóng quân, đồng thời là sân bay thứ hai ở phía nam của Tổ quốc đón chào phi đội MiG-21 đầu tiên của Không
quân nhân dân Việt Nam xuống hạ cánh.

Nhiệm vụ dẫn đường chuyển sân thắng lợi là sự kết hợp chặt chẽ giữa dẫn bay của phi công theo số liệu
dẫn đường kết hợp chặt chẽ với địa tiêu và dẫn đường từ mặt đất tại các sở chỉ huy, đại đội radar dẫn đường suốt dọc
đường bay.

Ngày 15 tháng 5 năm 1975, tại quảng trường dinh Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước,
quân đội tổ chức trọng thể lễ mừng ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Theo quyết định của cấp trên, hai biên đội
MiG-21 của Trung đoàn 927: Nguyễn Văn Nghĩa Nguyễn Hùng Thông-Đinh Văn Bồng-Vũ Quốc Bảo và Trần Thông
Hào-Nguyễn Mạnh Hải-Nguyễn Thanh Quí-Dương Đình Nghi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bay diễu binh. Công tác
dẫn đường đã được thực hiện chính xác, MiG-21 thông qua đúng vị trí trên quảng trường và đúng thời gian quy định
theo kế hoạch đã được phê chuẩn.

Cuối tháng 5 năm 1975, lợi dụng tình hình chưa hoàn toàn ổn định ở một số vùng mới giải phóng của ta,
bọn phản động Khơ-me đỏ đã cho quân xâm lấn một số điểm ở Hà Tiên, Tịnh Biên, Châu đốc… trên biên giới Tây
Nam và cố tình chiếm giữ trái phép một số đảo như Hòn Ông, Hòn Bà (đảo Vay ở tây-tây nam Phú Quốc 120 km)…
trên vùng biển Tây Nam. Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng một phần lực lượng của Quân khu 9, Vùng 5 Quân
chủng Hải quân và một phần lực lượng không quân ở phía nam của Quân chủng Phòng không-Không quân, mở chiến
dịch tiến công địch, bảo vệ đường biên giới quốc gia và thu hồi đảo. Tư lệnh Không quân chiến đấu Trần Hanh được
cử làm Phó Tư lệnh chiến dịch, trực tiếp chỉ huy lực lượng không quân, trợ lý dẫn đường Hoàng Cần được phân công
giúp Bộ Chỉ huy chiến dịch thực hiện công tác dẫn đường không quân. Lực lượng không quân tham gia chiến dịch chủ
yếu là của Trung đoàn không quân 937, bao gồm 21 chiếc máy bay và trực thăng các loại (10 A-37, 5 UH-1, 1 L-19, 1
U-17, 2 CH-47 và 2 DC-3), tương đương gần một trung đoàn không quân hỗn hợp. Sân bay Cần Thơ được tổ chức
thành căn cứ xuất phát của không quân ta. Trung đoàn không quân 917 sẵn sang tham gia chiến đấu khi có lệnh.

Từ ngày 30 tháng 5 đến 4 tháng 6 năm 1975, Trung đoàn 937 lần lượt cho xuất kích 21 lần chiếc các loại,
lấy A-37 làm lực lượng chủ công trong chi viện hoả lực cho các đơn vị bộ binh Quân khu 9 và Quân đoàn 4 phòng
ngự, phản kích đánh địch lấn chiếm biên giới ở Hà Tiên và Tịnh Biên, Châu đốc. Tiểu ban dẫn đường luôn bám sát ý
định sử dụng lực lượng của Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Bảy, thực hiện hiệp đồng chặt chẽ với phi công và các cơ
quan, bảo đảm cho A-37 đánh trúng mục tiêu, tạo thuận lợi cho các đơn vị bộ binh đẩy lùi quân địch về phía bên kia
biên giới. Trung đoàn ra quân trận đầu, đợt đầu thành công đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần vươn lên cho toàn thể đơn vị
quyết tâm xây dựng truyền thống vẻ vang đánh thắng ngay từ trận đầu. Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937 tự hào vì
đã được đóng góp công sức của mình cho trung đoàn lần đầu tiên thực hiện thành công cách đánh chi viện hoả lực cho
các đơn vị bộ binh của ta phòng ngự, phản kích đánh địch.

Tại hai đảo Hòn Ông và Hòn Bà, quân Khơ-me đỏ lợi dụng địa hình hiểm trở, rừng già và các bãi đá, đã
cho hai tiểu đoàn tổ chức phòng thủ nhiều lớp với công sự vững chắc và hoả lực mạnh quyết không rời đảo. Chúng
còn cho các tàu tuần tiễu vũ trang thường xuyên hoạt động ở ngoài khơi xung quanh 2 hòn đảo trên.
Căn cứ vào ý định tổ chức đánh địch của Trung đoàn trưởng, tiểu ban dẫn đường đã nhanh chóng xây dựng
ngay phương án dẫn đường. Trong đó, tập trung làm nổi bật cách dẫn chi viện hoả lực cho bộ đội ta tiến công tiêu diệt
địch thu hồi đảo; lấy đường bay của A-37 làm trục dẫn chính: Cần Thơ-Phú Quốc-Cô Tang-mục tiêu (đảo Hòn Ông và
Hòn Bà) - Phú Quốc-Cần Thơ với tổng cự ly bay là 660km; trọng tâm bảo đảm dẫn đường là: Các đoạn bay trên biển
từ núi Hòn Đất ra Phú Quốc, Cô Tang, đến mục tiêu, rồi quay về Phú Quốc, Hòn Đất vì cự ly bay trên biển là 460km,
chiếm tới 70% tổng cự ly đường bay; tất cả các phi công và tổ bay phải tự dẫn bay là chính, khi bay trên biển phải giữ
nghiêm các số liệu dẫn đường và tăng cường quan sát, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Công tác hiệp đồng dẫn đường được
thực hiện rất chặt chẽ và tỉ mỉ, đặc biệt là giữa trên không và trên không vì khu chiến cách rất xa căn cứ Cần Thơ và
lực lượng UH-1, U-17 và CH-47 còn phải cơ động chuyển sân ra các sân bay trên đảo Phú Quốc và xuống sân bay
Kiên Lương (sân bay Hòn Chông, đông nam Hà Tiên 20km).

20 giờ 30 phút ngày 4 tháng 6 năm 1975, tàu hải quân của ta đưa các đơn vị đổ bộ lên đảo. Chiến sự diễn ra
rất ác liệt tới 5 giờ sáng ngày hôm sau, quân ta mới chỉ chiếm được một phần của đảo Hòn ông và một phần ba đảo
Hòn Bà. Trung đoàn 937 cho UH-1 vũ trang có U-17 chỉ thị mục tiêu, đánh trúng sở chỉ huy và các ổ đề kháng của
địch trên đảo Hòn Ông, một số khu nhà ở và bến cảng của đảo Hòn Bà. Đến hết ngày 9 tháng 6 năm 1975, bộ đội ta đã
chiếm được một phần tư đảo Hòn Ông và hai phần ba đảo Hòn Bà.

Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng A-37 chi viện hoả lực cho các đơn vị đổ bộ đường biển của ta.
10 giờ 10 phút ngày 10 tháng 6 năm 1975, đôi bay A-37 đầu tiên cất cánh. Các phi công Nguyễn Văn Lục và Hán Văn
Quảng dẫn bay chính xác theo đường bay đã được chuẩn bị và được U-17 hỗ trợ, nên nhanh chóng phát hiện mục tiêu.
A-37 của ta triển khai đội hình chiến đấu và tiến hành ném bom, bắn súng trúng khu tập kết các phương tiện chiến đấu
quan trọng của địch trên đảo Hòn Ông. Tính đến 15 giờ cùng ngày, ta đã xuất kích 20 lần/chiếc A-37 và 8 lần/chiếc
UH-1 đánh trúng các mục tiêu trên đảo được giao, đồng thời còn đánh chìm 3 tàu địch, tạo điều kiện thuận lợi cho lực
lượng đổ bộ đường biển thu hồi hoàn toàn đảo Hòn Bà. Ngay sau đó, CH-47 đã cẩu 2 khẩu pháo 105 mm và vận
chuyển 3.000 viên đạn xuống Hòn Bà.

Ngày 13 tháng 6 năm 1975, 9 lần/chiếc A-37 tiến hành đánh dồn dập vào tuyến phòng thủ kiên cố của địch
trên Hòn Ông. Các đơn vị hải quân, đặc công và bộ binh tiến công áp đảo, đập tan các ổ đề kháng cuối cùng của
chúng. 6 giờ 30 phút sáng 14 tháng 6 năm 1975, quân ta làm chủ toàn bộ cả hai đảo Hòn Ông và Hòn Bà, diệt gọn 2
tiểu đoàn, đánh chìm 4 tàu, bắn bị thương 2 chiếc khác, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến đấu của địch ở trên
đảo.

Trong chiến dịch này, Trung đoàn 937 đã thực hiện: 46 lần/chiếc A-37, 30 lần/chiếc UH-1, 16 lần/chiếc U-
17, L-19 và 3 lần/chiếc CH-47, tương đương gần 5 lần xuất kích trung đoàn (95 lần/21chiếc). Tất cả các chuyến bay
đều được dẫn bay chính xác và an toàn, hoàn thành nhiệm vụ chi viện hoả lực, vận chuyển súng đạn, chở cán bộ và
đón thương binh cho các đơn vị hải quân, đặc công, bộ binh chiến đấu đạt hiệu suất cao, thu hồi toàn vẹn 2 đảo Hòn
Ông và Hòn Bà.

Do quán triệt tốt ý định tổ chức đánh địch của người chỉ huy, nắm chắc trình độ dẫn bay cường kích, chỉ thị
mục tiêu từ trên không và vận chuyển đường không của các phi công và tổ bay, chuẩn bị dẫn đường chu đáo cho từng
chuyến bay, hiệp đồng dẫn đường chặt chẽ giữa trên không và mặt đất, giữa trên không và trên không, nên tiểu ban
dẫn đường Trung đoàn 937 đã hoàn thiện một bước rất quan trọng trong cách dẫn chi viện hoả lực cho các đơn vị bộ
đội của ta tiến công tiêu diệt địch thu hồi đảo.
Trên địa bàn một số tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc, Tuyên Đức ở Tây Nguyên, lực lượng FULRO có vũ trang,
đã tập hợp nhau lại và tổ chức hoạt động phá hoại tại một số khu vực mới giải phóng của ta. Đêm 31 tháng 8, một tiểu
đoàn FULRO tập kích vào doanh trại của một đơn vị thuộc Sư đoàn 968. Quân khu 6 ở khu vực Đam Rông (tây nam
Đà Lạt 40 km). Trung đoàn không quân 917 được giao nhiệm vụ sử dụng lực lượng của mình là chủ yếu, có phối hợp
với một phần lực lượng UH-1 và U-17 của Trung đoàn không quân 937, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng của
Quân khu 6, bao vây tiêu diệt địch ở khu vực Đam Rông. Sân bay Cam Ly được chọn làm căn cứ tập kết.

Để hoàn thành nhiệm vụ trên giao, Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn Nguyễn Viết Quyền cùng với đội ngũ
dẫn đường trên không UH-1 và các phi công U-17 chuẩn bị kỹ từng phương án dẫn bay trinh sát, đổ bộ đường không
chiến thuật và trực tiếp đánh địch theo lệnh gọi.

14 giờ 15 phút ngày 1 tháng 9 năm 1975, lực tượng tham gia chiến đấu đầu tiên của Trung đoàn 917 hạ
cánh xuống Cam Ly, bao gồm: 4 tổ bay UH-1 vũ trang do các lái chính Lê Đình Ký, Hồ Duy Hùng, Nguyễn Văn
Nhậm và Nghiêm Xuân Tích phụ trách; 5 tổ bay UH-1 vận tải do các lái chính Nguyễn Đình Khoa, Hoàng Nga,
Nguyễn Lương Bằng, Vi Quốc Ân và Lê Quang Vinh đảm nhiệm; 3 phi công U-17 Trần Văn Lại, Nguyễn Duy Lê và
Mai Chí Lựu làm nhiệm vụ trinh sát. Theo đúng kế hoạch hiệp đồng, 8 giờ ngày 2 tháng 9 năm 1975, phi công U-17
Nguyễn Duy Lê cất cánh trinh sát và báo cáo tình hình các khu vực khả nghi có quân FULRO đang ẩn náu và khu vực
dự tính ta sẽ đổ quân. 9 giờ 30 phút, 5 UH-1 vận tải và 2 UH-1 vũ trang chở 70 chiến sĩ đặc công cất cánh, thực hiện
đổ bộ đường không chiến thuật. 2 UH-1 vũ trang khác bay yểm hộ (hộ tống).

Sáng hôm sau, 3 tháng 9 năm 1975, các đơn vị Quân khu 6 đồng loạt nổ súng từ cả ba phía, dồn dịch vào
khu vực mai phục. Một bộ phận quân địch rút chạy xuống hướng đông nam. Tư lệnh Quân khu 6 yêu cầu không quân
tham gia truy quét. Lúc 9 giờ, 2 đôi bay UH-1 vũ trang: Lê Đình Ký-Hồ Duy Hùng và Nguyễn Văn Nhậm. Nghiêm
Xuân Tích lần lượt xuất kích. Ta bay thấp, bám theo địa hình và đến đúng vị trí có địch, rồi phóng rocket và bắn súng
vào các tốp quân FULRO, tiêu diệt tại chỗ và làm bị thương nhiều tên. Đợt hoạt động thứ nhất kết thúc lúc 11 giờ. Từ
12 giờ đến 14 giờ, 4 UH-1 vũ trang cất cánh đợt thứ hai, tiếp tục tham gia truy quét, tiêu diệt và uy hiếp các tốp địch
còn lại trong khu vực. Sau khi không quân ta đánh xong, bộ binh Quân khu 6 tiến công nhanh và bắt gọn tù binh.

Đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn 917 đã góp công cùng với các thành viên trong tổ bay lập
nên chiến thắng trận đầu. Đến ngày 10 tháng 9 năm 1975, nhiệm vụ truy quét FULRO ở khu vực Đam Rông cơ bản
được hoàn thành.

Tính đến tháng 10 năm 1975, trong chiến dịch truy quét FULRO ở hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức,
Trung đoàn 917 đã thực hiện 327 lần chiếc, tương đương hơn 5 lần xuất kích trung đoàn. Trong đó, trực tiếp chiến đấu
33 lần chiếc: phóng 356 quả rocket, bắn 22.800 viên đạn 7,62 mm; đổ bộ đường không chiến thuật 136 lần chiếc, trinh
sát, chỉ thị mục tiêu 148 lần chiếc; gọi loa, rải truyền đơn 10 lần chiếc. Trung đoàn không quân 917 đã góp phần cùng
Quân khu 6 tiêu diệt 671 tên, kêu gọi 2.307 tên ra hàng…

Cuối tháng 11 năm 1975, lực lượng FULRO lại tăng cường hoạt động phá hoại ở các khu vực Krông-nô,
Krông-buk và Ya-súp thuộc địa bàn tỉnh Đắc Lắc. Trung đoàn 917 được giao nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với các đơn
vị của Quân khu 5 tiến hành truy quét địch. Ngày 4 tháng 12 năm 1975, 10 chiếc UH-1 vận tải, 2 chiếc UH-1 vũ trang
và 2 chiếc U-17 do đồng chí Nguyễn Đình Khoa trực tiếp chỉ huy cơ động chuyển sân và tập kết đầy đủ tại sân bay
nằm trong thị xã Buôn Ma Thuột. 7 giờ 30 phút ngày 5 tháng 12 năm 1975, U-17 cất cánh trinh sát tình hình khu vực
đổ bộ đường không. 8 giờ 30 phút, 10 UH-1 vận tải cất cánh với gián cách thời gian chiếc cách chiếc 2 phút, lần lượt
chở hai tiểu đoàn bộ binh đổ bộ xương khu vực Ya-súp đúng kế hoạch. Bộ binh ta phát triển tiến công, bao vây thít
chặt sào huyệt của địch, tiêu diệt và kêu gọi ra hàng nhiều tên, bắt sống hơn 100 tên.

Qua hai đợt hoạt động chiến đấu, cách dẫn bay trinh sát đổ bộ đường không chiến thuật và đặc biệt là dẫn
bay trực tiếp đánh địch trên địa bàn rừng núi ở Tây Nguyên đã được thực hiện thành công. Đây còn là cơ sở để đội
ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn 917 tiếp tục đi sâu nghiên cứu cách dẫn chi viện hoả lực cho các đơn vị bộ
đội của ta tiến hành phòng ngư, phản công và tiến công đánh địch khi chiến trường cần đến.

Đầu tháng 1 năm 1976, Trung đoàn 917 được giao nhiệm vụ dùng trực thăng UH-1 phối hợp với Vùng 4
Quân chủng Hải quân triển khai nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa. Sau khi chuẩn bị chu đáo về mọi
mặt, tháng 3 năm 1976, tổ bay UH-1: Lái chính Lê Đình Ký, lái chính Hồ Duy Hùng ngồi ghế lái phụ, dẫn đường trên
không Vũ Xuân Cán cất cánh từ Cam Ranh, rồi hạ cánh xuống tàu LST của hải quân và lên đường ra Trường Sa. Khi
đến gần đảo Trường Sa lởn, từ trên boong tàu tổ bay cất cánh, đưa đoàn cán bộ Bộ Tổng Tham mưu do Thiếu tưởng
Lê Ngọc Hiền dẫn đầu hạ cánh xuống đảo. Từ Trường Sa lớn, trực thăng được sự hổ trợ của tàu LST lần lượt hạ cánh
xuống các đảo Song Tử Tây, Song Tử Đông, Sơn Ca… Đợt hoạt động bay trực thăng đầu tiên của trung đoàn kéo dài
2 tuần và bảo đảm an toàn tuyệt đối. Các chuyến bay lịch sử này đã khẳng định đội ngũ dẫn đường trên trực thăng của
không quân ta hoàn toàn có đầy đủ khả năng dẫn bay trên biển xa.

Sau đợt bay đầu tiên tại quần đảo Trường Sa, tháng 5 năm 1976, tổ bay UH-1: Lái chính Nguyên Đình
Khoa, lái chính Hồ Duy Hùng ngồi ghế lái phụ, dẫn đường trên không Vũ Xuân Cán tiếp tục đưa đoàn cán bộ hải quân
đi kiểm tra tất cả các đảo nổi, đảo chìm của ta trên khu vực quần đảo Trường Sa. UH-1 cũng cất cánh từ Cam Ranh, hạ
cánh xuống tàu LST để ra Trường Sa. Khi ra đến gần các đảo như Châu Viên, Sinh Tồn… ta lại áp dụng cách bay như
đợt hoạt động trước. Chuyến công tác dài ngày đã góp phần giảm bớt khó khăn cho bộ đội hải quân trong nhiệm vụ
kiểm soát chặt chẽ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc tại khu vực quần đảo Trường Sa.

Giải pháp kết hợp chặt chẽ giữa trực thăng UH-1 và tàu LST cùng hoạt động đã đem lại hiệu quả rất thiết
thực. Chính vì thế mà nhiều năm sau này không quân ta vẫn tiếp tục tổ chức các đợt huấn luyện bay hạ cất cánh trên
tàu LST không chỉ đối với UH-1 mà còn đối với nhiều loại trực thăng khác. Nhờ đó, chất lượng dẫn bay trực thăng
ngày càng cao hơn, hình thức huấn luyện dẫn bay trực thăng ngày càng phong phú. Đây còn là cơ sở vững chắc cho
cách dẫn trực thăng hạ cất cánh tại các nhà giàn, giàn khoan trên biển khi Quân chủng yêu cầu.

Căn cứ vào ý định bố trí lại các lực lượng không quân của Quân chủng trong giai đoạn cách mạng mới, khi
nước nhà đã hoàn toàn thống nhất, Trường Không quân có nhiệm vụ nhanh chóng tiếp quản các sân bay Nha Trang và
Phan Rang, đồng thời thực hiện chuyển toàn bộ lực lượng của trường ở Tường Vân (Trung Quốc), Mông Tự và ở Cát
Bi, Kiến An vào phía Nam. Theo kế hoạch đã được phê chuẩn, việc chuyển sân sẽ tiến hành theo hai bước. Bước một,
thực hiện chuyển sân từ Tường Vân xuống Mông Tự, rồi từ Mông Tự về Nội Bài. Bước hai, tổ chức chuyển sân cho
MiG-17 và L-29 từ Nội Bài và Kiến An vào Nha Trang và Phan Rang.

Trong các lực lượng của không quân được triển khai để bảo đảm cho Trường Không quân chuyển sân, đội
ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã có mặt đầy đủ trên tất cả các vị trí trực ban tại Thọ Xuân, Vinh, Đồng Hới, Đà Nẵng, Phù
Cát Nha Trang và Phan Rang. Công tác hiệp đồng dẫn đường chuyển sân được thực hiện chặt chẽ và tỉ mỉ trên toàn
tuyến.
Ngày 21 tháng 7 năm 1975, những chuyến bay đầu tiên của L-29 từ Nội Bài và MiG-17 từ Kiến An đã
được dẫn chuyển sân thành công. Đến ngày 30 tháng 8 năm 1975, nhiệm vụ chuyển sân của Trường Không quân đã
kết thúc tốt đẹp. Toàn bộ 42 chiếc MiG-17 và L-29 vào đến Nha Trang và Phan Rang.

Từ cuối năm 1975, Trung đoàn không quân 925 đã chuẩn bị kế hoạch chuyển toàn bộ lực lượng từ Yên Bái
vào đóng quân tại căn cứ Phù Cát. Nhiệm vụ chuyển sân được tiến hành, trước tiên là vào Đà Nẵng, sau đó vào tiếp
Phù Cát, trong đó MiG-19 sẽ bay thẳng vào Đà Nẵng, còn UMiG-15 và UMiG-17 sẽ phải nạp dầu ở Vinh, rồi mới vào
Đà Nẵng. Đến đầu năm 1976, do thời tiết tại Yên Bái xấu kéo dài, nên đơn vị đã phải thực hiện chuyển sân từ Yên Bái
xuống Nội Bài, rồi từ Nội Bài vào Đà Nẵng, Phù Cát. Trên dọc tuyến Bắc Nam đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy tiếp tục
được triển khai.

Ngày 9 tháng 4 năm 1976, trung đoàn bắt đầu thực hiện cho MiG-19 chuyển sân. Trung đoàn trưởng Hồ
Văn Quỳ tại Sở chỉ huy Sư đoàn Không quân 370, Chính trị viên Đại đội 2 Vũ Chính Nghị tại đài chỉ huy hạ cánh và
trợ lý huấn luyện Nguyễn Thăng Long tại bãi đỗ máy bay của sân bay Đà Nẵng. Công tác hiệp đồng chuyển sân được
thực hiện chặt chẽ theo đúng quy định của Quân chủng. Khi đôi bay MiG-19 đầu tiên: Phạm Cao Hà và Trần Văn
Chiến gần đến đèo Ngang (giới hạn để quay lại sân bay cất cánh an toàn) thì phía tây Đà Nẵng mây Cu Con (Cu Con
(Cumulus Congeslus): Một loại Cu mà đỉnh mây phát triển mạnh theo chiều thẳng đứng có thể biến thành Cb) phát
triển khá nhanh và có xu hướng lan toả sang phía đông. Theo dự báo, tình hình thời tiết có khả năng không ảnh hưởng
đến nhiệm vụ chuyển sân, nên Sở chỉ huy Sư đoàn quyết định tiếp thu MiG-19. Đôi Hà-Chiến đến Phú Bài phải tăng
độ cao từ 8.000m lên 13.500m để bay trên mây vào Đà Nẵng. Trong lúc đó đài radar trên sơn Trà do hỏng hệ thống
điều khiển trúc ngẩng ăng-ten, nên đã không bắt được tốp MiG-19 này.

Tại đài chỉ huy bay, được sự giúp đỡ của trợ lý huấn luyện Sư đoàn 370 Hà Quang Hưng (phi công MiG-
21), chỉ huy bay Vũ Chính Nghị đã kiến nghị với Trung đoàn trưởng Hồ Văn Quỳ cho đôi bay MiG-19 thứ hai:
Nguyễn Hùng Sơn-Đỗ Anh Dũng quay lại Nội Bài để tập trung chỉ huy-dẫn đường cho đôi Hà-Chiến xuống hạ cánh.
Đôi Hà-Chiến qua đài xa, mở góc kẹp ra phía biển, rồi kéo dài cự ly và giảm độ cao xuống dưới mây theo lệnh của chỉ
huy bay. Rất may, tầm nhìn trong mây tốt nên số 2 vẫn bám chặt số 1 và đến độ cao 3.500m thì cả 2 chiếc hoàn toàn ra
khỏi mây. Chỉ huy bay cho đôi MiG-19 vòng phải về phía đất liền, bám theo bờ biển bay lên bán đảo Sơn Trà, rồi lần
lượt vào hạ cánh. Khi đôi MiG-19 lăn vào gần đến bãi đỗ thì trời đổ mưa to, nhưng sau đó ngớt dần. Trợ lý huấn luyện
Nguyễn Thăng Long cùng với tổ thợ máy cơ động của trung đoàn ùa ra đón chào. Và ngày hôm sau, đôi bay MiG-19:
Vũ Chính Nghị-Trần Văn Chiến bắt tay ngay vào trực chiến.

Đến cuối tháng 6 năm 1976, toàn bộ máy bay MiG-19, UMiG-15 và UMiG-17 của Trung đoàn 925 đã
được lần lượt chuyển hết vào Đà Nẵng, rồi tiếp tục chuyển sân vào căn cứ Phú Cát.

Tháng 6 năm 1976, chấp hành lệnh của Quân chủng, Trung đoàn không quân 935 tổ chức thực hiện chuyển
toàn bộ MiG-21 từ Biên Hoà ra Kép để bàn giao lại cho Trung đoàn 927. Đội ngũ dẫn đường từ mặt đất trên dọc tuyến
Nam Bắc đều nắm chắc các yêu cầu của Quân chủng là phải chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, xử lý tốt các bất trắc, bảo
đảm an toàn tuyệt đối. Công tác hiệp đồng dẫn đường tiếp tục được củng cố chặt chẽ, các tuyến giao nhận chỉ huy-dẫn
đường từ Biên Hoà ra Đà Nẵng được xác định cụ thể. Công tác bảo đảm dẫn đường trên toàn tuyến đã góp phần quan
trọng giúp cho đội ngũ phi công Trung đoàn 935 hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao.

Những bài học và kinh nghiệm bảo đảm dẫn đường chuyển sân Bắc Nam cho MiG-21 của Trung đoàn 927,
MiG-17, L-29 của Trường Không quân, MiG-19, UMiG-15 và UMiG-17 của Trung đoàn 925 và chuyển sân Nam Bắc
cho MiG-21 của Trung đoàn 935 đã góp phần làm tăng khả năng cơ động lực lượng ra Bắc, vào Nam, nhanh gọn, an
toàn cho tất cả các loại máy bay và trực thăng của ta trong các giai đoạn tiếp theo.2. Huấn luyện, đào tạo và kiện toàn
các tổ chức dẫn đường.

Ngay từ tháng 5 năm 1975, trước yêu cầu cấp bách của Quân chủng là phải nhanh chóng triệt để khai thác
toàn bộ các loại máy bay và trực thăng, cũng như các loại phương tiện và khí tài kỹ thuật bảo đảm mà ta đã tổ chức
thu hồi được của địch (gọi tắt là hệ 2) để đưa vào làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời phía nam của Tổ quốc, đặc biệt là sau
khi 4 trung đoàn không quân 917, 918, 935 và 937 được thành lập, một trong những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của
ngành Dẫn đường Không quân lúc này là tập trung huấn luyện dẫn đường tại chức cho đội ngũ Phi công, dẫn đường
trên không và dẫn đường sở chỉ huy đang công tác ở phía Nam.

Nội dung huấn luyện dẫn đường tại chức chủ yếu là học tập chuyển loại dẫn bay các loại máy bay và trực
thăng hệ 2; nghiên cứu cách sử dụng các phương tiện radar, đối không hệ 2 để phục vụ cho công tác chỉ huy-dẫn
đường; nghiên cứu địa hình các khu vực phía Nam, nhất là vùng đồng bằng Nam Bộ, vùng biển Tây Nam, vùng biên
giới Việt Nam - Cam-pu-chia và Tây Nguyên. Hình thức huấn luyện hiệu quả nhất là tổ chức học tập từng đợt ngắn, kế
tiếp nhau ngay tại từng đơn vị, học lý thuyết gắn liền với thực hành, tận dụng mọi nguồn tài liệu về dẫn đường bằng
tiếng Việt thu được để tự nghiên cứu. Chính nhờ có sự nỗ lực phi thường của đội ngũ phi công, dẫn đường trên không
và dẫn đường sở chỉ huy ở các đơn vị nên công tác huấn luyện dẫn đường tại chức luôn đạt chất lượng cao. Đây là cơ
sở vững chắc bảo đảm cho lực lượng mũi nhọn trong từng đơn vị có đầy đủ trình độ dẫn đường để bay huấn luyện tiến
độ nhanh, giữ vững an toàn và tham gia chiến đấu đạt hiệu quả cao.

Sau thời gian huấn luyện chuyển loại rất ngắn, trong đó có huấn luyện dẫn đường, hai trung đoàn 937 và
917 đã tham gia 2 đợt chiến đấu kế tiếp nhau đều giành thắng lợi. Cả hai trung đoàn đều giữ vững truyền thống đánh
thắng trận đầu.

Đối với Trung đoàn 935, nhiệm vụ chuyển loại F-5 không giống như các loại máy bay và trực thăng hệ 2
khác, tính chất huấn luyện phức tạp hơn và cần nhiều thời gian hơn. Với bản lĩnh của các phi công MiG-21 đã trải qua
chiến đấu, được sự giúp đỡ rất tận tình của phi công Nguyễn Thành Trung, ngày 27 tháng 5 năm 1975, Phi đội trưởng
Nguyễn Văn Nghĩa đã bay đơn thành công chuyến đầu tiên và sau đó anh trở thành giáo viên bay huấn luyện chuyển
loại của trung đoàn. Các phi công MiG-21 như Đinh Văn Bồng, Lê Khương… cũng lần lượt vào bay chuyển loại và
đều đạt chất lượng cao. Đến cuối năm 1975, trung đoàn đào tạo thêm 2 giáo viên bay F-5. Cùng với sự trưởng thành
của đội ngũ phi công bay chuyển loại, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn không quân 935 cũng đã nhanh chóng làm chủ
được cách dẫn F-5 trong các bài bay ứng dụng chiến đấu. Bên cạnh đó, tiểu ban vẫn phát huy thế mạnh của mình trong
công tác bảo đảm dẫn đường cho MiG-21 bay huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.

Đầu tháng 8 năm 1975, Trung đoàn 918 tổ chức huấn luyện thực hành bay cho phi công và dẫn đường trên
không. Một số tổ bay, sau khi hoàn thành chương trình bay chuyển loại trong điều kiện thời tiết giản đơn ban ngày, đã
chuyển sang bay huấn luyện nâng cao trong điều kiện thời tiết phức tạp ban ngày. Riêng các tổ bay C-130 bắt đầu thực
hiện bay huấn luyện trong điều kiện thời tiết giản đơn ban đêm. Đến cuối năm 1975, chương trình huấn luyện chuyển
loại máy bay vận tải cơ bản hoàn thành, nhiều tổ bay có trình độ khá, đảm đương được các nhiệm vụ khó khăn và
phức tạp, đáp ứng nhiệm vụ sẵn sang chiến đấu và vận trịi quân sự.

Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Trường Sĩ quan Không quân khai giảng khoá đào tạo sĩ quan tham mưu đầu
tiên sau giải phóng miền Nam, trong đó có 58 học viên học chuyên ngành dẫn đường sở chỉ huy. Đội ngũ giáo viên
dẫn đường trong Khoa Giáo viên của trường, sau khi ổn định tổ chức và chuẩn bị chu đáo các bài giảng, đã bắt tay
ngay vào giảng dạy cho các học viên khoá này mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng đội ngũ học viên dẫn đường
luôn vươn lên đạt nhiều thành tích tốt trong học tập. Ngày 10 tháng 1 năm 1978, khoá đào tạo kết thúc, học viên tốt
nghiệp đều được phong quân hàm sĩ quan. Kết quả đào tạo của khoá này đã kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ dẫn
đường của Quân chủng ở cả phía Bắc và phía Nam, đồng thời nhà trường cũng có thêm nguồn để bổ sung cho đội ngũ
giáo viên dẫn đường của chính mình.

Tháng 3 năm 1976, Sư đoàn Không quân 371 mở lớp đào tạo tại chức đội ngũ dẫn đường radar hạ cánh do
chuyên gia Liên Xô giảng dạy trong thời gian 9 tháng. Tham gia học có 30 học viên, gồm 8 sĩ quan dẫn đường và 22
trắc thủ radar. Đồng chí Vũ Văn Thuyết, trợ lý dẫn đường Trung đoàn không quân 923, được cử làm lớp trưởng. Đây
là lớp đào tạo dẫn đường radar hạ cánh đầu tiên với nội dung rất cơ bản và toàn diện, học lý thuyết luôn gắn liền với
học thực hành. Kết quả đào tạo đáp ứng ngay nhu cầu dẫn bay của các đơn vị, nhất là dẫn bay hạ cánh trong điều kiện
thời tiết phức tạp ban ngày và cả trong điều kiện thời tiết giản đơn và phức tạp ban đêm. Ngành Dẫn đường đã sử dụng
nội dung đào tạo của khoá đầu tiên này để tổ chức huấn luyện đồng hoá nghiệp vụ cho đội ngũ dẫn đường từ mặt đất
trong các năm tiếp theo.

Ngày 21 tháng 5 năm 1975, Bộ Quốc phòng ký quyết định thành lập 4 trung đoàn không quân 917, 918,
935 và 937, sử dụng các loại máy bay và trực thăng hệ 2 làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời phía Nam của Tổ quốc. Trung
đoàn 917 trực thuộc Lữ đoàn không quân 919, đóng quân tại sân bay Tân Sơn Nhất và được trang bị hơn 100 chiếc
trực thăng và máy bay các loại UH-1, CH-47, U-17 và L-19: trong đó có 57 chiếc tốt đưa vào huấn luyện và sẵn sàng
chiến đấu. Với trang bị trực thăng hệ 2 là chủ yếu, nên Trung đoàn 917 trở thành trung đoàn không quân trực thăng
đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam. Đại uý Lê Đình Ký được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại uý Trần
Tấn Sơn, Chính uỷ và thượng uý Nguyễn Huy Tứ, Tham mưu trưởng trung đoàn. Đồng chí Nguyễn Viết Quyền giữ
chức Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn. Trong Đại đội bay 1 (sử dụng UH-1) và Đại đội bay 2 (sử dụng cả CH-47 và
UH-1) đều có Chủ nhiệm Dẫn đường của từng loại trực thăng.

Ngay sau khi được thành lập, một số tổ bay trực thăng Mi-4, Mi-6 thuộc Lữ đoàn 919, được biên chế về
đơn vì đã nhanh chóng làm chủ kỹ thuật lái-dẫn đường UH-1 và CH-47. Các phi công Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn
Đình Khoa trở thành giáo viên bay UH-1 đầu tiên. Một số phi công Mi-8 vừa tốt nghiệp ở Liên Xô về, đã bay chuyển
loại thành công trên CH-47 như các đồng chí Trần Đăng Nguyên, Nguyễn Thanh Mua và trên UH-1 như Nguyễn
Lương Bằng, Đinh Gia Dục, Nguyễn Duy Núi. Các bài bay cơ bản luôn được coi trọng, các khoa mục bay ứng dụng
chiến đấu thường xuyên đạt chất lượng cao là cơ sở để trung đoàn vững bước vào tham gia chiến đấu.

Có trực thăng vũ trang và vận trịi trong tay, cách đánh trực tiếp tiêu diệt địch, chi viện hoả lực cho bộ đội
ta, cách đổ bộ đường không chiến thuật và cả cách trinh sát chỉ thị mục tiêu từ trên không luôn được Trung đoàn 917
rất quan tâm và tổ chức nghiên cứu thấu đáo. Các phương án dẫn bay cho các bài bay từ cơ bản đến ứng đụng chiến
đấu và cho các phương pháp hoạt động chiến đấu đều được Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn cùng với Chủ nhiệm
Dẫn đường UH-1, CH-47 và các phi công U-17, L-19 tính toán kỹ càng và chuẩn bị chu đáo. Sau tháng 8 năm 1976,
trung đoàn tiếp nhận toàn bộ UH-1, U-17… của Trung đoàn 937, đội ngũ dẫn đường trên không càng có điều kiện góp
sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ bay của trung đoàn.

Trung đoàn 918 cũng trực thuộc Lữ đoàn 919 và đóng quân tại sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng được trang bị
cho các loại máy bay vận trịi C-130, C-119, C-47, C-7A, DC-4… Chỉ riêng tại khu vực Tân Sơn Nhất trung đoàn đã
thu hồi được 76 chiếc các loại, số lượng được đưa vào khai thác khá lớn. Thiếu tá Hoàng Ngọc Trung được bổ nhiệm
làm Trung đoàn trưởng, thiếu tá Lê Văn Lạo, Chính uỷ và đại uý Phan Phi Phụng, Tham mưu trưởng trung đoàn.
Đồng chí Nguyễn Văn Kính giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn. Trong Đội bay 1 (sử dụng C-119 và C-7A)
và Đội bay 2 (sử dụng C-130, C-47 và DC-4) đều có Chủ nhiệm Dẫn đường.

Một trong những khó khăn lớn nhất trong công tác huấn luyện chuyển loại đã được trung đoàn tháo gỡ
thành công, đó là đánh giá chính xác và sử dụng đúng các nhân viên bay tạm tuyển (đã phục vụ cho không quân địch
trước đây) để làm giáo viên chuyển loại cho đội ngũ lái chính, lái phụ, dẫn đường trên không và cơ giới của ta. Chủ
nhiệm Dẫn đường trung đoàn cùng đội ngũ dẫn đường trên không đã phát huy truyền thống một người dẫn bay thành
thạo trên nhiều loại máy bay khác nhau, nhanh chóng làm chủ công tác dẫn bay trên các loại máy bay hệ 2, kịp thời
phục vụ dẫn bay vận chuyển đường dài ra Bắc, vào Nam, cũng như chuyên chở bộ đội, vận chuyển súng đạn thuốc
men, đưa đón thương binh… theo yêu cầu của các nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới, thu hồi đảo, truy quét địch…

Trung đoàn 935 trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu, lấy một phần lực lượng của Trung đoàn 927
làm nòng cốt, đóng quân tại sân bay Biên Hoà và được trang bị cả MiG-21 và F-5 (chức năng chủ yếu là tiêm kích).
Sau khi tổ chức kiểm tra kỹ thuật rất chặt chẽ, 17 chiếc F-5 đã được đưa vào khai thác, gồm: 10 F-5A, 5 F-5E (một
chỗ ngồi) và 2 F-5B (hai chỗ ngồi). Thiếu tá Nguyễn Nhật Chiêu được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại uý
Nguyễn Trọng, Chính uỷ và đại uý Vũ Đức Bình Tham mưu trưởng trung đoàn.

Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935 do thiếu uý Nguyễn Hữu Văn giữ chức Trưởng Tiểu ban dẫn đường,
có 5 trợ lý là các đồng chí Lê Quốc Báo, Nguyễn Việt Cường, Hoàng Ngọc Hớn, Nguyễn Văn Sửu và Phạm Tường
Thuật. Tất cả đều từ hai tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 927 và 923 vào. Tiểu ban vừa phải bảo đảm dẫn đường cho
MiG-21 hoạt động trên địa bàn mới vừa phải học tập chuyển loại dẫn F-5. Khi số phi công MiG-21 vào bay chuyển
loại F- 5 đợt đầu đạt kết quả cao cũng là lúc tiểu ban nắm vững được cách dẫn F-5 trong các bài bay ứng dụng chiến
đấu. Đến giữa năm 1976, khi MiG-21 được chuyển hết ra Bắc và trung đoàn có tới 22 chiếc F-5, gồm: 7 F-5A, 11 F-
5E, 2 F-5B và 2 RF-5, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn không quân 935 mới có điều kiện tập trung nghiên cứu sâu
thêm cách tổ chức bảo đảm dẫn đường cho F-5. Trong năm 1976, trung đoàn còn được trang bị thêm máy bay cường
kích cánh quạt AD-6, tiểu ban đã nhanh chóng tham gia học tập chuyển loại.

Trung đoàn 937 trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu, lấy Phi đội Quyết thắng làm nòng cốt, được
trang bị hơn 200 chiếc máy bay và trực thăng các loại của sư đoàn 4 không quân nguỵ trước đây. Trong đó, có khoảng
60 máy bay cường kích A-37 và 140 trực thăng vận tải, vũ trang UH-1, CH-47, máy bay trinh sát U-17, L-19. Sân bay
Bình Thuỷ (Cần Thơ) là căn cứ đóng quân chính và trung đoàn còn quản lý các sân bay Lộ Tẻ (gần Cần Thơ), Phú
Quốc và Côn Sơn. Thiếu tá Nguyễn Văn Bảy được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại uý Lê Tùng, Chính uỷ và
thượng uý Phạm Từ Tịnh, Tham mưu trưởng trung đoàn.

Chuyển loại, khai thác các trang bị hệ 2 là một trong những nhiệm vụ rất cấp bách và quan trọng hàng đầu
của đơn vị. Được sử dụng máy bay cường kích A-37, Trung đoàn 937 trở thành trung đoàn không quân cường kích
đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam, đồng thời còn là trung đoàn không quân đầu tiên áp dụng cách đánh chi
viện hoả lực cho bộ đội ta trong phòng ngự, phản công và tiến công địch.

Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937 do thiếu uý Nguyễn Đình Bắc giữ chức Trưởng Tiểu ban, có 4 trợ lý là
Vũ Ba, Võ Xuân Cự, Vũ Chí Khai và Đỗ Văn Tường. Tất cả đều được điều động từ hai tiểu ban dẫn đường các trung
đoàn 923 và 925 về. Ngay trong thời gian đầu, tiểu ban đã phải bảo đảm dẫn đường cho rất nhiều loại máy bay và trực
thăng cùng hoạt động như: A-37, UH-1, U-17, L-19 và CH-47. Sau tháng 8 năm 1976, Quân chủng điều toàn bộ UH-
1, U-17… về Trung đoàn 917. Từ đó, tiểu ban chỉ tập trung bảo đảm dẫn đường cho một loại máy bay là A-37.
Hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường và tiểu ban dẫn đường trong cả 4 trung đoàn không quân, ngay sau khi
được kiện toàn, đã quán triệt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ được giao, khắc phục mọi khó khăn về quân số, điều kiện
sinh hoạt, ăn ở, nhanh chóng vượt qua những bỡ ngỡ ban đầu trong tiếp xúc với các loại máy bay và trực thăng, cũng
như các loại phương tiện, thiết bị và cả dụng cụ dẫn đường hệ 2 để kịp thời đáp ứng yêu cầu huấn luyện chuyển loại
và phục vụ chiến đấu. Tất cả đều đã vươn lên đóng góp nhiều công sức cho thành tích chung của đơn vị.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhất là tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937 và Chủ nhiệm Dẫn đường
Trung đoàn 917 đều tập trung giải quyết việc nâng cao khả năng phối hợp, hiệp đồng dẫn đường giữa các loại máy bay
và trực thăng khác nhau trong chấp hành cùng một nhiệm vụ như A-37 hoặc UH-1 vào đánh địch có U-17 hoặc L-19
chỉ thị mục tiêu từ trên không. Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn không quân 937 đã đột phá thành công trong cách dẫn
A-37 đánh chi viện hoả lực cho các đơn vị bộ đội của ta tiến hành phòng ngự, phản công và tiến công địch. Chủ nhiệm
Dẫn đường Trung đoàn 917 cùng với đội ngũ dẫn đường trên không đã giành thắng lợi trong cách dẫn UH-1 trực tiếp
đánh địch và đổ bộ đường không chiến thuật. Có thể nói, công tác dẫn đường đã nhanh chóng bám sát và phục vụ kịp
thời cho các hình thức hoạt động chiến đấu mà trước đây, trên chiến trường miền Bắc không quân ta chưa bao giờ tổ
chức thực hiện.

Một trong những yếu tố thuận lợi cho công tác dẫn đường ở 4 trung đoàn trong thời gian này là các đồng
chí Chủ nhiệm và Trưởng Tiểu ban dẫn đường luôn được các đồng chí Tham mưu trưởng hết lòng giúp đỡ, trong đó có
nhiều đồng chí trưởng thành từ ngành Dẫn đường như các đồng chí Phan Phi Phụng, Chủ nhiệm Dẫn đường Lữ đoàn
919 từ năm 1974; Vũ Đức Bình, Trưởng Tiểu ban dẫn đường đầu tiên của Trung đoàn 927 từ tháng 2 năm 1972 và
Phạm Từ Tịnh, Trưởng Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 từ tháng 5 năm 1969.

Căn cứ quyết định của Bộ Tổng Tham mưu về tổ chức lực lượng nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến
đấu trong tình hình mới, ngày 13 tháng 10 năm 1975, Quân chủng ra quyết định (Quyết định số 841/QĐ-QL, ngày 13
tháng 10 năm 1975 do Tư lệnh Quân chủng, Thiếu tướng Lê Văn Tri và Chính uỷ Quân chủng, Thiếu tướng Hoàng
Phương ký) sáp nhập Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu và Lữ đoàn không quân vận tải 919 thành Sư đoàn Không
quân hỗn hợp 371, trực thuộc Quân chủng. Thượng tá Trần Hanh được bổ nhiệm làm Tư lệnh sư đoàn, thượng tá Chu
Duy Kính - chính uỷ và trung tá Trần Hậu Tưởng - tham mưu trưởng Sư đoàn. Ban dẫn đường nằm trong Phòng Tham
mưu sư đoàn. Đồng chí đại uý Nguyễn Văn Chuyên giữ chức Trưởng ban.

Ngày 30 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập cùng một lúc hai Sư đoàn Không quân
370 và 372 (Quyết định số 157/QĐ-QP, ngày 30 tháng 10 năm 1975 do Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Thứ trưởng
Quốc phòng ký).

Sư đoàn 370 đóng tại Đà Nẵng, làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời miền Trung. Trung tá Lê Oánh được bổ
nhiệm làm Tư lệnh sư đoàn, trung tá Lăng Văn Khánh, Chính uỷ và trung tá Nguyễn Hào Hiệp, quyền Tham mưu
trưởng sư đoàn. Ban dẫn đường nằm trong Phòng Tham mưu sư đoàn. Đồng chí thượng uý Phạm Minh Cậy giữ chức
Trưởng ban và có 6 trợ lý dẫn đường: Nguyễn Cửu, Phạm Văn Hùng, Lê Kiếu, Trần Xuân Mão, Hoàng Trung
Thông…

Ngày 15 tháng 11 năm 1975, Quân chủng ra quyết định điều Trung đoàn 925 từ Sư đoàn Không quân hỗn
hợp 371 về Sư đoàn 370 (Quyết định số 231/TM-QL, ngày 15 tháng 11 năm 1975 do đại tá, Phó Tư lệnh Quân chủng
Nguyễn Quang Bích ký). Tiểu ban dẫn đường trung đoàn do đồng chí Triệu Sĩ Việt làm Trưởng Tiểu ban.
Sư đoàn 372 đóng quân tại Biên Hoà, làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời miền Nam, gồm bốn trung đoàn
không quân 917, 918, 935 và 937. Trung tá Nguyễn Hồng Nhị được bổ nhiệm làm Tư lệnh sư đoàn, trung tá Chu Mạo,
Chính uỷ và trung tá Hà Văn Chấp, Phó Tư lệnh - tham mưu trưởng sư đoàn. Ban dẫn đường sư đoàn do đại uý Hoàng
Cần giữ chức Trưởng ban và có 9 trợ lý: Đặng Dũng, Hoàng Đức Hạnh, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Văn Hưng, Vương
Kính, Đào Văn Phao, Trần Hữu Thăng, Lường Tú Thông và Lương Văn Vóc. Đây là ban dẫn đường thường xuyên có
khối lượng công việc lớn và cường độ làm việc cao, vừa phục vụ bay huấn luyện chuyển loại vừa tham gia bảo đảm
chiến đấu.

Ngày 19 tháng 12 năm 1975, theo quyết định của Bộ Quốc phòng, trung đoàn không quân trực thăng thứ
hai của không quân dược thành lập, mang phiên hiệu 916 và trực thuộc Sư đoàn 371. Trung đoàn 916 sử dụng 2 loại
trực thăng Mi-8 và Mi-6. Đồng chí Trần Ngọc Bích được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại uý Nguyễn Văn Bốn,
Chính uỷ và đại uý Hoàng Đình Chỉ, Tham mưu trưởng trung đoàn. Đồng chí Vũ Quý Lự giữ chức Chủ nhiệm Dẫn
đường trung đoàn.

Như vậy, trong năm 1975, các tổ chức dẫn đường trong Quân chủng Phòng không - Không quân luôn được
kịp thời kiện toàn theo sự phát triển của các lực lượng không quân. Ban dẫn đường Sư đoàn 371 chủ yếu tập trung giải
quyết các nhiệm vụ dẫn đường cho các loại máy bay và trực thăng hệ 1 (do các nước bạn viện trợ) thuộc các trung
đoàn không quân 921, 923, 927, 919 và 916. Ban dẫn đường Sư đoàn 370 chủ yếu đảm nhiệm dẫn đường cho một loại
máy bay MiG-19 của Trung đoàn 925. Riêng ban dẫn đường Sư đoàn 372 phải dồn hết sức lực thực hiện bằng được
nhiệm vụ dẫn đường chiến đấu cho các loại máy bay và trực thăng của cả hệ 2 và hệ 1 thuộc các trung đoàn 935, 937,
917 và 918 đang tập trung hoạt động ở phía Nam.

Ngày 19 tháng 6 năm 1976, Bộ Quốc phòng quyết định điều Trung đoàn không quân vận tải 919 từ Sư
đoàn Không quân 371 về trực thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam (Ngày 11 tháng 2 năm 1976, Thủ
tướng Chính Phủ ra Nghị số 28/CP về việc thành lập Tổng cục Hàng không dân dụng Nam trên cơ sở Cục hàng không
Dân dụng đã được thành lập Nghị định số 666/TTg, ngày 15 tháng 1 năm 1956). Từ đây, hệ thống Chủ nhiệm Dẫn
đường Trung đoàn 919, sau này là Đoàn bay 919, tách khỏi ngành Dẫn đường Không quân.

Căn cứ yêu cầu chiến đấu và xây dựng lực lượng, ngày 31 tháng 12 năm 1976, Quân chủng quyết định tổ
chức Tiểu đoàn không quân hỗn hợp trực thuộc Sư đoàn Không quân 370, lấy phiên hiệu là 929. Tiểu đoàn được biên
chế A-37, UH-1 và L-19. Tổ chức dẫn đường của tiểu đoàn bao gồm cả dẫn đường sở chỉ huy và dẫn đường trên
không. Đến ngày 20 tháng 12 năm 1977, do yêu cầu nhiệm vụ, Tư lệnh Quân chủng Không quân ký quyết định giải
thể Tiểu đoàn 929 để tập trung vũ khí hệ 2 cho biên giới Tây Nam.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chuyển toàn bộ lực lượng vào Nha Trang và Phan Rang vào cuối tháng 8 năm
1975, Trường Không quân nhanh chóng ổn định tổ chức và tập trung củng cố cơ sở vật chất để chuẩn bị triển khai
thực hiện nhiệm vụ đào tạo tại căn cứ đóng quân mới. Cuối năm 1975, Trường Không quân được đổi tên thành Trường
Sĩ quan Không quân với biên chế tổ chức mới (Quyết định số 834/TM-QL, ngày 12 tháng 11 năm 1975 của Quân
chủng). Thượng tá Nguyễn Phúc Trạch được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng, thượng tá Hồ Luật, Chính uỷ và trung tá
Nguyễn Danh Bạch, Tham mưu trưởng trưởng.

Trung đoàn không quân 910 đóng quân tại Phan Rang, thiếu tá Phan Văn Na được bổ nhiệm làm Trung
đoàn trưởng, thiếu tá Vương Xuân Kỳ làm Chính uỷ. Trong biên chế tổ chức mới của Trường Sĩ quan Không quân
(ngày 12 tháng 11 năm 1975) còn có Trung đoàn không quân 920 đóng quân tại Nha Trang, thiếu tá Lê Công Uẩn
được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, thiếu tá Bùi Như Lạc làm Chính uỷ và đồng chí Trần Quang Vĩnh làm Tham
mưu trưởng trung đoàn.

Công tác dẫn đường tại hai trung đoàn bay thường xuyên được tổ chức thực hiện có nền nếp trong bay
chuyển loại cho giáo viên sang T-41 và U-17, bay giữ kỹ thuật cho giáo viên trên L-29 và bay đào tạo phi công bằng
các loại máy bay trên. Cuối năm 1976, Trung đoàn 920 được bổ sung thêm lực lượng UH-1 và C-47 để đào tạo phi
công trực thăng và vận tải. Chương trình đào tạo phi công khoá 10 từ tháng 8 năm 1976 đến tháng 3 năm 1977 đã cơ
bản được hoàn thành đúng kế hoạch đề ra. Trách nhiệm bảo đảm dẫn đường cho bay đào tạo phi công luôn được đề
cao, nhất là của đội ngũ cán bộ và giáo viên bay như các đồng chí Nguyễn Văn Nhật, Nguyễn Xuân Bính, Nguyễn
Thành Nguyên… ở Trung đoàn 910 và các đồng chí Lê Công Uẩn, Nguyễn Đức Tiêm, Nguyễn Duy Lê, Phạm Đình
Tuân, Lữ Thông… ở Trung đoàn 920.

Cùng trong khối các đơn vị trực thuộc trường, ngoài hai trung đoàn bay, Khoa tham mưu chỉ huy, Khoa
trung cấp kỹ thuật và Tiểu đoàn học viên dự khoá bay còn có Khoa Giáo viên. Đồng chí Nguyễn Đức Thịnh được bổ
nhiệm làm Trưởng khoa. Tổ Giáo viên dẫn đường, nằm trong Khoa Giáo viên, do đồng chí Lê Thế Hưng làm Tổ
trưởng và có 7 giáo viên, gồm các đồng chí: Lê Từ Bi, Lưu Văn Cộng, Nguyễn Văn Đãi, Lê Thế Hưng, Nguyễn Văn
Khuê, Trần Ngọc Quyền và Nguyễn Quang Sáng.

Đây là đội ngũ giáo viên dẫn đường, tuy từ nhiều vị trí công tác khác nhau, trình độ dẫn đường, kinh
nghiệm giảng dạy và tuổi đời cũng rất khác nhau, nhưng đều tâm huyết với ngành, hăng hái chuẩn bị bài giảng, vượt
mọi khó khăn trong sinh hoạt và ăn ở, tích cực tham gia đào tạo học viên khoá đầu tiên sau khi nước nhà thống nhất từ
tháng 1 năm 1976 đến tháng 1 năm 1978.

III. NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM. CHUẨN BỊ BƯỚC
VÀO CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN HƯỚNG BẮC (1977-1979) VÀ LÀM NGHĨA VỤ QUỐC TẾ Ở
CAM-PU-CHIA (1979-1989)

1. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ bay chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc
và giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng (tháng 5 năm 1977 đến tháng 1 năm 1979).

Trung tuần tháng 4 năm 1977, căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ và khả năng phát triển của Không quân ta
trong giai đoạn cách mạng mới, chủ trương tổ chức lại lực lượng Quân chủng Phòng không-Không quân theo hướng
tách ra thành Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không quân đang được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương
nghiên cứu và cân nhắc rất thận trọng. Tại phía nam Bộ Tổng Tham mưu đang tổ chức cuộc diễn tập tác chiến hiệp
đồng bảo vệ đảo, có một phần thực binh giữa ba lực lượng hải quân, không quân và phòng không với quy mô lớn. Sư
đoàn Không quân 372 sử dụng một phần lực lượng của bốn trung đoàn không quân 917, 918, 935 và 937 tham gia
diễn tập. Cũng vào thời gian này, tình hình biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia có nhiều diễn biến ngày càng phức tạp.
Tập đoàn phản động Khơ-me đỏ vừa xúc tiến tuyên truyền chống lại Việt Nam vừa bí mật điều 5 sư đoàn chủ lực áp
sát biên giới ở nhiều khu vực khác nhau, nhưng tập trung hơn cả là đối diện với các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Kiên
Giang…

Sáng 30 tháng 4 năm 1977, trong lúc quân và dân cả nước ta đang hào hứng, phấn khởi kỷ niệm 2 năm
ngày giải phóng miền Nam thì quân Khơ-me đỏ cho 2 sư đoàn tiến công 13 trên tổng số 14 đồn biên phòng của ta trên
biên giới thuộc An Giang, đánh vào 3 xã Khánh An (bắc Châu Đốc 25,5km), Khánh Bình (tây-tây nam An Khánh
3,5km) và Vĩnh Tế (tây nam Châu Đốc 5km), chiếm giữ thượng nguồn sông Châu Đốc. Đêm 30 tháng 4 năm 1977,
chúng cho quân chủ lực tiếp tục tiến công nhiều khu vực khác nhau trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, dùng pháo lớn
bắn vào các khu dân cư đọc đường biên của ta gây nhiều tội ác dã man như tại Phú Hội (bắc-tây bắc Châu Đốc
18,5km), Tịnh Biên (trên bờ phía đông kênh Vĩnh) và thậm chí tại cả thị xã Châu Đốc… Nghiêm trọng hơn, chúng
tiến sâu vào lãnh thổ nước ta, chiếm giữ một số khu vực từ Tây Ninh đến Hà Tiên.

Ngày 6 tháng 5 năm 1977, Bộ Chính trị Trung ương Đảng phê chuẩn Nghị quyết của Thường vụ Quân uỷ
Trung ương và đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc tổ chức lực lượng Phòng không và Không quân thành
hai quân chủng: Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không quân.

Đúng vào lúc này, căn cứ vào ý định tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, sáng 6 tháng 5 năm 1977, đồng chí
Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng tham mưu trưởng, giao nhiệm vụ cho Quân khu 9 hiệp đồng với Sư đoàn Không quân 372 tổ
chức các trận đánh phản công, đuổi ịch ra khỏi lãnh thổ nước ta. Toàn bộ lực lượng không quân đang tham gia diễn tập
được lệnh cấp tốc trở về căn cứ. Các lực lượng đang có mặt tại trại gấp rút xây dựng các phương án tác chiến hiệp
đồng. Nhờ có những bài học và kinh nghiệm về dẫn đường trong chiến đấu đã được rút ra từ năm 1975, các phương án
dẫn đường rất nhanh chóng được hoàn thành, đáp ứng yêu cầu của người chỉ huy các cấp và kịp thời triển khai đến
từng phân đội trực chiến. Ngay chiều 6 tháng 5 năm 1977, 2 UH-1 và 1 U-17 của Trung đoàn 917 từ Tân Sơn Nhất cơ
động chuyển sân xuống Cần Thơ cùng với A-37 của Trung đoàn 937 tiến hành công tác chuẩn bị chiến đấu.

5 giờ 15 phút sáng 7 tháng 5 năm 1977, phi công U-17 Mai Chí Lưu cất cánh trinh sát, phát hiện khu vực
đóng quân của địch và báo cáo về sở chỉ huy tiền phương Quân khu 9. 5 giờ 50 phút, 4 A-37 xuất kích chi viện hoả
lực cho bộ binh và 5 phút sau, 1 UH-1 cất cánh làm nhiệm vụ sẵn sàng cấp cứu. Tất cả lấy hướng bay về phía khu
chiến (Vĩnh Tế). Khi khu chiến đã nằm trong tầm quan sát của A-37 thì U-17 phóng rocket khói vào các mục tiêu cần
phải chỉ thị. 4 A-37 lập tức lao vào công kích trúng sở chỉ huy dã chiến, doanh trại và một số trận địa pháo của địch.
Sở chỉ huy Cần Thơ vừa điều hành các chuyến bay chiến đấu vừa tổ chức tiếp thu các chuyến bay cơ động chuyển sân
tiếp theo của Trung đoàn 917, trong đó có thêm 6 chiếc UH-1 từ Cam Ranh xuống Cần Thơ. Ngay trong trận đánh
hiệp đồng đầu tiên với các đơn vị bộ binh Sư đoàn 330 (Quân khu 9), kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 937 cùng
với đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 917 đã dẫn 5 đợt xuất kích chi viện hoả lực có chỉ thị mục tiêu từ trên
không đạt hiệu quả cao.

Ngày 8 tháng 5 năm 1977, không quân ta tập trung đánh vào tuyến giao thông phía sau của địch và ngày 9
tháng 5, cả A-37 và UH-1 vũ trang đã phối hợp đánh tàu thuyền của địch trên phía thượng nguồn sông Châu Đốc.

Trong ba ngày tham gia đánh địch, hai trung đoàn 937 và 917 đã xuất kích 25 lần/chiếc A-37, 13 lần/chiếc
UH-1 và U-17, ném 28 quả bom, phóng 581 quả rocket và bắn 23 ngàn viên đạn 7,62mm, tiêu diệt 2 trận địa pháo
105mm, phá huỷ 1 kho đạn, 10 khẩu súng 12,7mm, bắn cháy nhiều tàu thuyền trên sông của địch… Các đơn vị bộ
binh ta nhanh chóng phản kích, làm chủ thế trận, giành lại các khu vực đã bị địch lấn chiếm. Nhiệm vụ chi viện hoả
lực của không quân cho bộ binh đánh địch bảo vệ biên giới Tây Nam đã trở nên rất cấp bách.

Ngày 16 tháng 5 năm 1977, cùng với Quân chủng Phòng không, Quân chủng Không quân được thành lập.
Từ 0 giờ ngày 31 tháng 5 năm 1977, Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân sẽ bắt đầu chỉ huy, điều hành và quản lý các
cơ quan và đơn vị thuộc quyền.

Trước tình hình biên giới Tây Nam diễn biến ngày càng xấu, chấp hành mệnh lệnh tác chiến của Quân
chủng và chỉ thị của Sư đoàn Không quân 371, ngày 21 tháng 5 năm 1977, Trung đoàn 921 thực hiện cơ động chuyển
sân một phi đội MiG-21 vào Biên Hoà để tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Căn cứ vào ý
định đánh địch của Trung đoàn không quân 935, tiểu ban dẫn đường đã xây dựng phương án dẫn đường chiến đấu
hiệp đồng giữa F-5 và MiG-21. Đến ngày 30 tháng 6 năm 1977, trung đoàn thực hiện diễn tập thực binh. Qua kiểm
nghiệm thực tế, trình độ dẫn đường chiến đấu hiệp đồng của Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935 đã cơ bản đáp ứng
yêu cầu đề ra và các phương án dẫn đường tiếp tục được củng cố, hoàn thiện. Cũng trong thời gian MiG-21 vào Biên
Hoà, chấp hành chỉ thị của Sư đoàn 371, một phần lực lượng Mi- 8 của Trung đoàn 916 cũng lên đường vào tham gia
phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. Đội ngũ dẫn đường trên không hai trung đoàn 917 và 916 sát cánh cùng
nhau chuẩn bị các phương án dẫn bay theo từng nhiệm vụ được giao. Phòng Dẫn đường Quân chủng Không quân,
ngay sau ổn định tổ chức đã cử 3 trợ lý Đặng Dũng, Phạm Văn Quí và Lương Văn Vóc vào tăng cường cho Ban dẫn
đường Sư đoàn 372.

Đầu tháng 7 năm 1977, tập đoàn phản động Khơ-me đỏ huy động lực lượng lớn đánh sang đất ta ở nhiều
khu vực thuộc tỉnh An Giang và Kiên Giang. Rạng sáng 12 tháng 7 năm 1977, Trung tá Nguyễn Văn Bảy - Phó Tư
lệnh Sư đoàn 372 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 937 và Trung đoàn 917 tổ chức chiến đấu hiệp đồng với các đơn vị
thuộc Sư đoàn 9 (Quân khu 9) tại các khu vực Bảy Núi (các ngọn núi ở phía bắc và phía nam Tri Tôn), Giang Thành
(đông bắc Hà Tiên 21km) và Đầm Chít (đông Giang Thành 5km). 6 giờ 30 phút, Trung đoàn 917 triển khai phương án
tổ chức hiệp đồng đánh địch, đúng 9 giờ, cơ động chuyển sân 10 UH-1, 2 U-17 và 1 CH-47 từ Tân Sơn Nhất xuống
Cần Thơ và sau đó thực hiện hiệp đồng chiến đấu ngay với Trung đoàn không quân 937. 13 giờ 10 phút, Trung đoàn
trưởng Lê Đình Ký trực tiếp gần 10 HU-1 bay cực thấp, bí mật cơ động từ Cần Thơ lên sân bay phía trước Thất Sơn
(đông nam Tịnh Biên 11km). Tại đây, trung đoàn tiến hành hiệp đồng chiến đấu cụ thể với các đơn vị thuộc Sư đoàn 9
và chuẩn bị bổ sung cho các phương án dẫn bay đánh địch.

Ngày 13 tháng 7 năm 1977, theo lệnh của sở chỉ huy, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 937 dẫn các biên
đội A-37 cất cánh từ Cần Thơ, lên chi viện hoả lực đúng kế hoạch chiến đấu hiệp đồng với các đơn vị bộ binh thuộc
Sư đoàn 9 phản công ở khu vực Bảy Núi, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 600 tên, phá huỷ 1 kho đạn, thu 100 súng các
loại, đuổi địch về phía bên kia biên giới.

Ngày 14 tháng 7 năm 1977, lúc 4 giờ 50 phút, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu và Đoàn Hồng Quân cất cánh
từ Cần Thơ, lên trinh sát khu vực Giang Thành - Đầm Chít và chỉ thị mục tiêu cho pháo binh của ta. Trong khi đang
đảm nhiệm vụ, máy bay đã bị thương, do hoả lực phòng không 12,7mm của địch bắn nên phải quay về Thất Sơn hạ
cánh. Sở chỉ huy Sư đoàn 372 quyết định cho phi công U-17 Trần Văn Lại lên tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chỉ thị mục
tiêu. Đúng 5 giờ, pháo binh của ta bắn dồn dập vào các trận địa tuyến trước của địch. 5 giờ 30 phút, đội ngũ dẫn
đường trên không Trung đoàn 917 dẫn 3 đôi bay UH-1: Lê Đình Ký-Nguyễn Đình Khoa, Hồ Duy Hùng- Nghiêm
Xuân Tích và Nguyễn Văn Nhậm-Đào Mạnh Sơn bay ở độ cao từ 10 đến 15m vào đánh trúng các cụm hoả lực mạnh
của địch. Hoả lực phòng không 12, 7mm của chúng bắn theo đội hình trực thăng của ta. Chiếc UH-1 của lái chính Hồ
Duy Hùng bị trúng đạn, lái phụ Nguyền Trọng Hùng bị thương nhẹ. Ngay sau đó, 6 A-37 của Trung đoàn 937 cất cánh
từ Cần Thơ theo lệnh gọi của thiếu tá Nguyễn Văn Thọ tại Thất Sơn và được dẫn chính xác vào khu chiến, U-17 tiếp
tục chỉ thị mục tiêu. A-37 đánh trúng 2 trận địa pháo và 1 trận địa cối. 3 đôi bay UH-1 vòng lại, bắn mãnh liệt vào đội
hình bộ binh địch, đồng thời yểm hộ cho xe tăng của ta, tạo điều kiện cho bộ đội Sư đoàn 9 nhanh chóng vượt kênh
Vĩnh Tế, đánh vào tuyến sau của địch, buộc chúng phải rút lui. Đây là một trong những trận đánh hiệp đồng tuyệt đẹp,
không chỉ giữa không quân và bộ binh, pháo binh, xe tăng mà còn cả giữa UH-1, U-17 và A-37. Cũng trong thời gian
diễn ra trận đánh trên, tổ bay CH-47: Trần Đăng Nguyên-Đàm Ngọc Bến đã bay 2 lần/chuyến vận chuyển súng đạn
tăng cường cho tuyến trước của ta, đồng thời đón thương binh về tuyến sau.Theo yêu cầu của Quân khu 9, ngày 18
tháng 7 năm 1977, Trung đoàn 937 tiếp tục thực hiện chi viện hoả lực 8 lần/chiếc A-37 ném 30 quả bom trúng 1 sở chỉ
huy tiểu đoàn và 2 trận địa pháo 105mm trong hậu cứ của địch ở phía tây bắc Châu Đốc.

Như vậy, trong tháng 7 năm 1977, từ thực tiễn chi viện hoả lực trên chiến trường của Trung đoàn 937 và
Trung đoàn 917, ngành Dẫn đường Quân chủng Không quân đã tích luỹ được những kinh nghiệm mới về xây dựng
các phương án dẫn bay A-37 từ sân bay Cần Thơ và UH-1 từ sân bay phía trước Thất Sơn lên đánh địch tại hai khu
vực Bảy Núi và Giang Thành cách nhau 36km, thực hiện hiệp đồng dẫn đường chặt chẽ giữa Cần Thơ với Thất Sơn,
làm tốt cách dẫn bay U-17 chỉ thị mục tiêu cho pháo binh và UH-1 yểm hộ cho xe tăng phát triển tiến công. Riêng qua
trận đánh ngày 14 tháng 7 năm 1977, đội ngũ dẫn đường đã rút ra được bài học về các biện pháp bảo đảm cho phi
công và tổ bay khắc phục hiệu quả hoả lực phòng không của địch.

Để bảo vệ, giữ yên biên giới Tây Nam và chuẩn bị cho bước đi tiếp theo trong tổ chức các hoạt động quân
sự, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều lực lượng của Binh đoàn Tây Nguyên (Quân đoàn 3) xuống địa bàn Quân khu
7 tham gia tác chiến chiến dịch. Việc cơ động lực lượng được tiến hành rất khẩn trương bằng cả đường bộ và đường
không. Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân giao cho Sư đoàn 372 tổ chức vận chuyển đường không một phần lực
lượng rất quan trọng của Quân đoàn 3. Với 6 máy bay vận tải quân sự, bao gồm: 2 C-130, 2 C-119 và 2 C-47, Trung
đoàn 918 đã thực hiện hơn 100 chuyến bay liên tục trong vòng 24 ngày, từ 19 tháng 9 đến 12 tháng 10 năm 1977, chở
7.000 cán bộ và chiến sĩ, vận chuyển 20 xe chỉ huy và hàng chục tấn hàng cho Quân đoàn 3 từ 3 sân bay nhận quân:
Nha Trang, Liên Khương và Hoà Bình (sân bay ngoài thị xã Buôn Ma Thuột) vào sân bay đổ quân Biên Hoà an toàn.
Đợt ra quân hoạt động vận chuyển đường không tập trung đầu tiên của Trung đoàn 918 giành thắng lợi, trong đó đội
ngũ dẫn đường trên không đã lựa chọn đường bay, phương án nạp dầu, chở quân, chuyển hàng hợp lý và thực hiện dẫn
bay chính xác. Có thể nói cách dẫn bay đổ bộ đường không từ sân bay đến sân bay đã được thực hiện rất thành công.

Cuối tháng 9 năm 1977, tập đoàn phản động Khơ-me đỏ đẩy mạnh hoạt động lấn chiếm biên giới tại nhiều
khu vực thuộc tỉnh Tây Ninh. Trong lúc đó, sau khi chuyển quân từ Tây Nguyên vào, một phần lực lượng của Quân
đoàn 3 đang phối hợp với Quân khu 7 tổ chức củng cố toàn bộ hệ thống phòng ngự trên tuyến biên giới được giao.
Ngày 25 tháng 9 năm 1977, địch dùng sư đoàn bộ binh 4 đánh chiếm khu vực Xa Mát (bắc-tây bắc Tây Ninh 41km),
đồng thời cho sư đoàn bộ binh 3 và một trung đoàn quân địa phương đánh vào khu vực Cây Me (nam Tây Ninh
25km), Bến Sỏi (tây-tây nam Tây Ninh 10km) và Đường 13. Ngày 26 tháng 9 năm 1977, Bộ Tổng Tham mưu quyết
định sử dụng lực lượng của Quân khu 7, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và lực lượng của Sư đoàn Không quân 372 tổ
chức tác chiến hiệp đồng, không cho địch tiến sâu vào địa phận của ta.

Để thực hiện nhiệm vụ tác chiến hiệp đồng được giao, ngay trong ngày 26 tháng 9, Bộ Tư lệnh Sư đoàn
372 quyết định tổ chức trinh sát trước 2 lần/chiếc U-17 theo đường bay: Tân Sơn Nhất-Bến Cầu (nam-đông nam Tây
Ninh 21km)-Tà Nốt (tây-tây nam Xa Mát 12km)-Tân Sơn Nhất. Các phi công Mai Chí Lưu, Nguyễn Duy Lê và
Nguyễn Khắc Tuấn đã mang về những thông tin quý báu cho UH-1 và A-37.

Ngày 27 tháng 9 năm 1977, theo đúng kế hoạch chiến đấu hiệp đồng và phương án dẫn bay đã được chuẩn
bị, Trung đoàn 917 cho 4 tổ bay UH-1 vũ trang do các lái chính: Nguyễn Đình Khoa, Vi Quốc Ân, Nghiêm Xuân Tích
và Nguyễn Lương Bằng điều khiển, bay theo đường bay Tân Sơn Nhất-Tây Ninh-khu chiến Xa Mát) thực hiện chi
viện hoả lực cho các đơn vị bộ binh Quân khu 7 và Quân đoàn 3; Các phi công U-17: Nguyễn Duy Lê, Nguyễn Hữu
Thọ, Lê Văn Do, Nguyễn Văn Sửu (B) và Mai Chí Lưu liên tiếp thay nhau lên chỉ thị mục tiêu.

Trong ngày, không quân ta đã hoàn thành tốt 2 đợt đánh với 8 lần/chiếc UH-1, bắn 24.000 viên đạn và 3
lần/chiếc -17 chỉ thị mục tiêu. Ngày 28 tháng 9 năm 1977, có 4 lần/chiếc UH-1 vũ trang, vẫn do các lái chính đã tham
gia đánh ngày hôm trước, tiếp tục thực hiện chi viện hoả lực. Quân địch vẫn ngoan cố chống trả, không chịu lui. Ngày
29 tháng 9 năm 1977, 8 lần/chiếc A-37 tiến hành chi viện hoả lực, có 2 lần/chiếc U-17 chỉ thị mục tiêu cũng ở Xa Mát.
Hoả lực của A-37 đã làm cho Sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh 4 của quân Khơ-me đỏ ở làng Ph.Lông (bắc-tây bắc Xa Mát
4km) bị tê liệt. Ngày 1 tháng 10 năm 1977, không quân ta lại cho UH-1 vũ trang thực hiện chi viện hoả lực 2 đợt, mỗi
đợt 4 lần/chiếc, đánh mãnh liệt vào quân Khơ-me đỏ và U-17 chỉ thị mục tiêu 2 lần/chiếc.

Như vậy, tại khu vực Xa Mát, hoả lực của cả UH-1 và -37 đều được phát huy hiệu quả, tạo điều kiện cho bộ
binh Quân khu 7 và Quân đoàn 3 tiến công, buộc địch hải rút khỏi các vùng đất đã lấn chiếm. Trước tình hình chiến sự
diễn ra ác liệt, với tinh thần trách nhiệm cao, các tổ bay UH-1 vận tải đã nhanh chóng hoàn thành 19 chuyến bay "con
thoi" vận chuyển súng đạn, thuốc men lên tuyến trước và đón thương binh về tuyến sau.

Ở khu vực Cây Me, ngày 27 tháng 9 năm 1977, lực lượng UH-1, U-17 do đại uý Trịnh Minh Đức chỉ huy,
từ Tân Sơn Nhất lên chi viên hoả lực cho bộ đội Quân đoàn 4 phản kích địch. Các trận đánh diễn ra rất quyết liệt.
Trong 2 ngày 27 và 29, UH- 1 vận tải tiên tục thực hiện 13 lần/chiếc lên Tây Ninh tiếp tế và chở thương binh.

13 giờ 02 phút ngày 1 tháng 10 năm 1977, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Nguyễn Khắc Tuấn cất cánh chỉ
thị mục tiêu cho A-37 tham gia chuẩn bị hoả lực cho bộ binh Quân đoàn 4 ở khu vực Cây Me-Bến Sỏi. 13 giờ 25 phút,
biên đội A-37 thứ nhất: Hán Văn Quảng - số 1, Nguyễn Thế Hùng - số 2, Nguyễn Hùng Vân - số 3 và Nguyễn Năng
Nghĩa - số 4 rời đường băng Cần Thơ, 13 giờ 56 phút, đến Trảng Bàng và vòng trái về phía Gò Dầu Hạ (Gò Dầu). 13
giờ 57 phút, số 3 báo cáo hỏng động cơ. Sở chỉ huy Sư đoàn ra lệnh vứt bom ở chế độ không nổ và về Tân Sơn Nhất
hạ cánh. Phi công Hán Văn Quảng tiếp tục dẫn các số còn lại trong biên đội thực hiện nhiệm vụ được giao. 14 giờ 06
phút, U-17 phóng rocket khói và chỉ thị mục tiêu 1. 3 phút sau, 3 A-37 của biên đội thứ nhất bắt đầu vào công kích, rồi
thoát ly bên trái về Cần Thơ và hạ cánh lúc 15 giờ 13 giờ 50 phút, biên đội A-37 thứ hai: Tạ Đông Trung- Nguyễn Văn
Sinh-Cao Văn Phúc-Nguyễn Văn Quang cất cánh và bay đúng đường bay dự tính. 14 giờ 23 phút, U-17 chỉ thị mục
tiêu 2 và chỉ 2 phút sau biên đội A-37 thứ hai tiến vào ném bom, rồi trở về Cần Thơ an toàn.

Sau đợt tham gia chuẩn bị hoả lực, vào lúc 15 giờ 30 phút, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Nguyễn Văn Sửu
(A) lên chỉ thị mục tiêu cho A-37 đánh đợt 2. 15 giờ 44 phút, 3 chiếc A-37 cất cánh. Trên chiếc A-37 bay số 1 có 2 phi
công: Tạ Đông Trung và Nguyễn Thế Hùng, số 2: Trần Cao Thăng và Nguyễn Nẵng Nghĩa, số 3: Cao Văn Phúc và
Nguyễn Văn Sinh. 16 giờ 02 phút, U-17 phóng rocket khói vào mục tiêu lần thứ nhất và sau đó chỉ thị tiếp lần thứ hai.
Tốp A-37 lao xuống công kích. Chiếc A-37 bay số 1 bị trúng đạn pháo phòng không của địch, 2 phi công nhảy dù và
rơi vào giữa khu vực bốn bề đều có quân Khơ-me đỏ. 16 giờ 10 phút, U-17 xin Sở chỉ huy Sư đoàn 372 cho trực thăng
vào cấp cứu. 16 giờ 24 phút, U-17 chỉ thị vị trí phi công của ta cho tổ bay UH-1. 16 giờ 26 phút, lái chính UH-1 Đinh
Gia Dục thấy rõ phi công ta, nhưng không thể xuống hạ cánh trong làn đạn dày đặc của địch. Cả 2 phi công Tạ Đông
Trung và Nguyễn Thế Hùng đã dùng súng ngắn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh. Đây là tổn thất
lớn đầu tiên của Trung đoàn 937. Đến 16 giờ 30 phút, A-37, U-17 và UH-1 được lệnh rút khỏi khu chiến. Cũng trong
ngày 1 tháng 10, Trung đoàn 917 cho 8 lần/chiếc UH-1 vũ trang chi viện hoả lực cho Quân đoàn 3 ở khu vực Xa Mát.

Ngày 2 tháng 10 năm 1977, không quân ta tiếp tục cho 3 lần/chiếc U-17 do các phi công: Nguyễn Văn Sửu
(A), Nguyễn Văn Sửu (B), Nguyễn Duy Lê, Nguyên Hữu Thọ, Mai Chí Lưu và Nguyễn Khắc Tuấn bay chỉ thị mục
tiêu cho UH-1 vũ trang và A-37. Nhưng khi UH-1 chuẩn bị vào công kích, do chưa phân định rõ bộ binh địch-ta, nên
buộc phải vòng ra. Sau đó, A-37 với 20 lần/chiếc đã ném bom trúng vào các vị trí cố thủ cuối cùng của quân Khơ-me
đỏ ở khu vực Cây Me-bến Sỏi. Đến 10 giờ, bộ đội Quân đoàn 4 hoàn toàn làm chủ trận địa. Trước tấm gương của
đồng đội, dù phải chịu hy sinh và tổn thất, nhiều phi công của Trung đoàn không quân 937 đã thể hiện bản lĩnh và
trình độ của mình, phát huy cao độ sức mạnh hoả lực của A-37 tiếp tục chiến đấu như các đồng chí: Phùng Công Định,
Âu Văn Hùng, Vũ Khởi Nghĩa, Nguyễn Nẵng Nghĩa, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Văn Sinh…

Như vậy, từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 năm 1977, để đáp ứng yêu cầu của các đơn vị bộ binh trong các
trận đánh phản công, trong mỗi ngày lực lượng A-37 và UH-1 phải xuất kích nhiều đợt và tổ chức hoạt động trên cả 2
khu vực Xa Mát, Bến Sỏi cách xa nhau khoảng 40km. Các phương án dẫn bay chi viện hoả lực và trinh sát, chỉ thị
mục tiêu của cả hai trung đoàn 937 và 917 đã tập trung giải quyết tốt việc tính toán đường đi, đường về, độ cao chênh
lệch và thời cơ cất cánh giữa các tốp. Kíp trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Trung đoàn 937 đã bảo đảm tốt cho A-37
tham gia chuẩn bị hoả lực đúng thời gian, đúng mục tiêu và phi công U-17 đã dẫn bay chỉ thị chính xác mục tiêu cho
pháo binh ta.

Đây chính là sự khởi đầu nhằm chuẩn bị cho việc sử dụng không quân chi viện hoả lực trong các trận đánh
có quy mô lớn hơn. Đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn 917 đã thực hiện dẫn bay yểm hộ cho đội hình
UH-1 làm nhiệm vụ chi viện hoả lực đúng yêu cầu chiến thuật, sẵn sàng đối phó khi phát hiện có hoả phòng không
của địch bắn lên. Tuy nhiên, đối với A-37 cách xử lý còn chưa đạt yêu cầu Cuối tháng 11 năm 1977, Trung đoàn 918
sử dụng các máy bay C-130, C-119 và C-47 tiến hành vận chuyển 1 trung đoàn đặc công và chở 20 tấn hàng quân sự
từ Hà Nội vào Biên Hoà để tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. Một lần nữa, cách dẫn bay đổ bộ đường
không từ sân bay đến sân bay đã được đội ngũ dẫn đường trên không thực hiện rất hoàn hảo.

Đầu tháng 12 năm 1977, bọn phản động Khơ-me đỏ dùng 2 sư đoàn bộ binh đánh chiếm tây Bến Sỏi, án
ngữ Đường 13 huyết mạch của ta, hằng ngày chúng dùng pháo 130mm bắn vào thị xã Tây Ninh, và các khu vực khác,
gây nhiều tội ác cho đồng bào ta. Chấp hành mệnh lệnh tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, Sư đoàn Không quân 372
quyết định sử dụng lực lượng của Trung đoàn 917 và Trung đoàn 937 vào làm nhiệm vụ chi viện hoả lực cho các đơn
vị của Quân khu 7 và Quân đoàn 4, đồng thời yêu cầu C-130 và EC-47 của Trung đoàn 918 tiến hành trinh sát đường
không toàn tuyến biên giới Tây Nam. Trung đoàn 917 sử dụng 10 UH-1, 2 CH-47 và 2 U-17 trực tại Tân Sơn Nhất,
chuẩn bị sẵn phương án cơ động lên sân bay Trảng Lớn (sân bay Tây Ninh West, tây-tây bắc Tây Ninh 3,5km), do
thiếu tá Nguyễn Xuân Trường chỉ huy. Lực lượng A-37 của Trung đoàn 937 vẫn ở Cần Thơ.

6 giờ 10 phút sáng 6 tháng 12 năm 1977, 4 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Nguyễn Khắc Tuấn và Đoàn Hồng
Quân-Nguyễn Hữu Thọ lần lượt cất cánh trinh sát khu vực tây Bến Sỏi và chỉ thị mục tiêu cho pháo binh của ta. Sau
khi đã nắm chắc tình hình, 3 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Xuân Trường-Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Đình Khoa-
Nguyễn Trọng Hùng và Vi Quốc Ân-Trần Đình cất cánh từ Tân Sơn Nhất, vào chi viện hoả lực 9 lần/chiếc, đồng thời
cho 2 tổ bay UH-1 vũ trang: Hồ Duy Hùng-Đào Mạnh Sơn và Nguyễn Lương Bằng-Nguyễn Văn Tiến làm nhiệm vụ
yểm hộ và cấp cứu 8 lần/chiếc. Đến 6 giờ 55 phút, 5 UH-1 từ Tân Sơn Nhất đánh tiếp đợt 2. Sau mỗi đợt đánh ta đều
về Trảng Lớn hạ cánh để chuẩn bị cho các đợt đánh tiếp theo. Cùng tham gia chi viện hoả lực, Trung đoàn 937 sử
dụng 16 lần/chiếc A-37 từ Cần Thơ, có U-17 chỉ thị mục tiêu, đánh phá dữ dội vào các phòng tuyến của địch ở tây
Bến Sỏi và cơ sở hậu cần của chúng ở ngã tư Nhà Thương. Được không quân chi viện hoả lực đúng kế hoạch hiệp
đồng, các đơn vị của Quân khu 7 và Quân đoàn 4 phát huy sức mạnh của bộ binh, pháo binh và xe tăng thực hiện phản
công giành thắng lợi. Trong trận đánh trên, các tổ bay CH-47 đã làm tốt nhiệm vụ vận chuyển súng đạn lên tuyến
trước và đón thương binh về tuyến sau.

Đến đầu tháng 1 năm 1978, tình hình trên biên giới, Tây Nam ngày càng càng thẳng, Quân chủng Không
quân quyết định cơ động chiến đấu 1 phi đội MiG-17 của Trung đoàn 923 vào Biên Hoà. 2 trợ lý dẫn đường; Vũ Văn
Thuyết và Nguyễn Văn Đờn được bổ sung cho Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935. Ngay lập tức 2 phương án dẫn
đường chiến đấu hiệp đồng giữa 2 loại máy bay F-5, MiG-17 và giữa 3 loại náy bay F-5, MiG-21, MiG-17 với các đơn
vị phòng không của Quân chủng Phòng không đánh máy bay tốc độ nhỏ và tốc độ lớn của địch đã được Tiểu ban dẫn
đường Trung đoàn 935 đồng thời chuẩn bị.

Ngày 25 tháng 1 năm 1978, Thiếu tá Đồng Văn Song, Trung đoàn trưởng đã ký phê chuẩn cả 2 phương án
trên (Phương án số 001 và 002/TM-DĐ. Hồ sơ số 73, phông 16, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân). Từ
ngày 16 đến ngày 19 tháng 1 năm 1978, 6 tiểu đoàn Khơ-me đỏ đánh vào khu vực Phú Cường (An Giang). Tiếp đó
ngày 22 tháng 1, địch dùng 3 trung đoàn quân địa phương đánh sâu vào đất ta khoảng 10 km ở khu vực Giang Thành-
Đầm Chít (Kiên Giang).

Ngày 28 tháng 1 năm 1978, U-17 cất cánh từ Cần Thơ vào khu chiến trinh sát và chỉ thị mục tiêu cho UH-
1, pháo binh và xe tăng của ta. Ngay sau đó, 4 UH-1 vũ trang cất cánh từ Kiên Lương đánh vào sở chỉ huy và đội hình
của địch, chi viện hiệu quả cho bộ binh, pháo binh và xe tăng của ta tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch, đẩy toàn bộ lực lượng
tuyến trước của chúng lùi về phía sau. Ngày 29 tháng 1 năm 1978, UH-1 đánh tiếp trận thứ hai vào hệ thống lô cốt,
hầm ngầm của địch. Bộ binh ta tiến công, buộc chúng phải tháo chạy về bên kia biên giới. Tuy bị thất bại, nhưng
chúng điều trung đoàn 11 thuộc sư đoàn bộ binh 2 lên chiếm khu vực cồn cát ở Bắc Đay, Phước An (Kiên Giang), xây
dựng trận địa phòng ngự kiên cố và gài mìn dày đặc xung quanh các khu vực đóng quân.

18 giờ ngày 2 tháng 2 năm 1978, ba trung đoàn không quân 917, 937 và 935 nhận nhiệm vụ chiến đấu chi
viện hoả lực cho Sư đoàn 330 (Quân khu 9), Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) và một trung đoàn bộ đội địa phương An
Giang đánh tại khu vực Bắc Đay-Phước An. Mọi công tác chuẩn bị phải xong trước 16 giờ ngày 3 tháng 2 năm 1978
(tức chiều 26 Tết âm lịch). 15 giờ ngày 3 tháng 2 năm 1978, Trung đoàn 917 thực hiện cơ động chuyển sân 5 UH-1, 2
U-17 và 1 CH-47 xuống Cần Thơ.

Ngày 4 tháng 2 năm 1978, ngay từ sáng sớm, 5 UH-1 và 1 CH-47 đã bí mật cơ động chuyển sân lên sân
bay Long Xuyên (đông nam thị xã Long Xuyên 6km) và sẵn sàng chờ lệnh cất cánh. Riêng tổ bay UH-1: Đào Mạnh
Sơn-Vũ Xuân Cán tiếp tục chở cán bộ, vận chuyển súng đạn, thuốc men và đón thương binh. Còn lực lượng U-17 ở lại
Cần Thơ làm nhiệm vụ trinh sát và chỉ thị mục tiêu theo lệnh gọi từ sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 372 đóng tại
Long Xuyên. 6 giờ 20 phút, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Trần Tấn Bửu lên trinh sát các mục tiêu M1, 3, 5 và 6
trong khu chiến. Sau khi nắm chắc tình hình trên không và thời điểm cần phải chi viện hoả lực, sở chỉ huy Long
Xuyên yêu cầu sở chỉ huy Cần Thơ cho U-17 và A-37 cất cánh đúng thời gian quy định. 8 giờ 05 phút, 2 phi công U-
17: Đoàn Hồng Quân-Nguyễn Văn Sửu rời Cần Thơ lên chỉ thị mục tiêu cho UH-1. 8 giờ 25 phút, phi công Mai Chí
Lưu báo cáo M1 đã bị các đơn vị của Sư đoàn 330 tiêu diệt và quay về Cần Thơ. Đúng lúc đó, sở chỉ huy Long Xuyên
ra lệnh cho 3 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Đình Khoa-Bùi Văn Thuấn, Hồ Duy Hùng-Lê Phúc Cường và Vi Quốc
Ân-Đinh Gia Dục cất cánh chi viện hoả lực và tổ bay UH-1: Nguyễn Lương Bằng-Nguyễn Xuân Anh lên yểm hộ và
sẵn sàng cấp cứu. Được phi công Đoàn Hồng Quân chỉ thị mục tiêu chính xác, 3 tổ bay UH-1 vũ trang liên tiếp vào
công kích 3 mục tiêu M3, 5 và 6. Các đơn vị của Sư đoàn 330 ào lên tiến công. Do trên hướng đánh của Sư đoàn 341
gặp nhiều khó khăn hơn, 11 giờ 50 phút, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Trần Tấn Bửu cất cánh lần thứ hai để chỉ thị
mục tiêu cho A-37. Trong quá trình cất cánh tại Cần Thơ, chiếc A-37 của phi công Vũ Khởi Nghĩa đột nhiên phát sinh
hỏng hóc, phải dừng lại. Chỉ huy bay cho phi công Nguyễn Năng Nghĩa tiếp tục cất cánh. Với quyết tâm cao, phi công
Nguyễn Năng Nghĩa vào công kích 2 lần đều trúng M6. Đến chiều, từ sau 13 giờ, A-37, UH-1 và U-17 tiếp tục đánh
nhiều đợt theo yêu cầu của Tư lệnh Quân khu 9. Sở chỉ huy trung đoàn 11, cụm pháo binh và hệ thống công sự kiên cố
của địch đều bị trúng bom và đạn của không quân ta. Các đơn vị của hai sư đoàn 341 và 330 phát triển tiến công rất
nhanh. Hơn 600 tên địch bị tiêu diệt và nhiều tên khác bị bắt sống, trung đoàn bộ binh 11 "anh hùng" của quân Khơ-
me đỏ bị xoá sổ.

Đây là một trong những trận phản công lớn của bộ đội ta trên biên giới Tây Nam, trong đó các lực lượng
không quân đã phát huy sức mạnh của hoả lực chi viện, đánh đúng các mục tiêu quan trọng được giao, đáp ứng yêu
cầu của Tư lệnh Quân khu 9. Đội ngũ dẫn đường đã thực hiện tính toán chính xác đường bay cơ động chuyển sân, thời
cơ cất cánh và tham gia điều chỉnh thứ tự đánh các mục tiêu khớp với thực trạng nhịp độ tiến công của Sư đoàn 330 và
Sư đoàn 341.

6 giờ 10 phút sáng 26 tháng 2 năm 1978, Trung đoàn 917 cho 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Nguyễn Khắc
Tuấn cất cánh từ Tân Sơn Nhất lên trinh sát khu vực tây bắc Bến Sỏi Sau khi nắm chắc tình hình, U-17 chỉ thị cho
pháo binh của ta bắn dồn dập vào các vị trí tập kết quân của địch. 6 giờ 55 phút, từ Tân Sơn Nhất 3 tổ bay UH-1 vũ
trang: Nguyễn Xuân Trường-Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Đình Khoa-Nguyễn Trọng Hùng và Nguyễn Xuân Anh-Trần
Đình cất cánh lên chi viện hoả lực cho bộ đội Quân đoàn 4 ở tây bắc Bến Sỏi và 7 giờ 05 phút, 3 tổ bay UH-1: Hồ
Duy Hùng-Đào Mạnh Sơn, Nguyễn Lương Bằng-Nguyễn Văn Tiến và Đinh Gia Dục-Nguyễn Sĩ Chuyên cất cánh yểm
hộ khu vực và sẵn sàng cấp cứu. Trong đợt này ta đã bắn 17.000 viên đạn 7,62mm vào các mục tiêu. Sau đợt hoạt
động thứ nhất, tất cả về Trảng Lớn hạ cánh và chuẩn bị cho đợt chiến đấu tiếp theo. 7 giờ 40 phút, 2 phi công U-17:
Đoàn Hồng Quân-Nguyễn Hữu Thọ cất cánh từ Tân Sơn Nhất nhằm liên tục bảo đảm cho các sở chỉ huy nắm chắc
tình hình địch. Thấy bộ binh phát triển tiến công chậm so với dự tính, Tư lệnh Quân đoàn 4 yêu cầu không quân chi
viện hoả lực vào ngã tư Nhà Thương. Lực lượng không quân ở Trảng Lớn tiếp tục xuất kích: 9 giờ 20 phút, U-17 và 9
giờ 40 phút, 3 tổ bay UH-1 vũ trang cất cánh. Tất cả hướng vào khu chiến, thực hiện chỉ thị mục tiêu và chi viện hoả
lực để bộ binh đẩy nhanh tốc độ tiến công. UH-1 đánh trong vòng 15 phút, phóng hơn 100 quả rocket, bắn 23.000 viên
đạn 7,62mm vào đội hình địch. Ngay sau đợt chi viện hoả lực thứ hai của UH-1, bộ đội Quân đoàn 4 tràn lên tiến công
làm chủ trận địa, bắt tù binh và thu nhiều vũ khí. CH-47 cũng kịp thời lên tiếp tế và chở thương binh về tuyến sau.

Trong trận này, dẫn đường đã tính toán chính xác đường bay, thời gian cất cánh và độ cao hoạt động, nên sở
chỉ huy đã điều hành rất nhanh chóng tất cả các chuyến bay ở Tân Sơn Nhất và Trảng Lớn đáp ứng đúng yêu cầu của
Tư lệnh Quân đoàn 4.

Đầu tháng 3 năm 1978, 1 trung đoàn Khơ-me đỏ đánh sâu vào đất ta ở Phước Lộc, Phước Lợi (bắc Bến
Sỏi) sát hại đồng bào ta rất dã man. Pháo 130mm của địch bắn phá thị xã Tây Ninh và các vùng lân cận, đồng thời cho
lực lượng chốt giữ nhiều vị trí quan trọng ở thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông, làm bàn đạp hòng tiến sâu vào đất ta.

Ngày 8 tháng 3 năm 1978, Sư đoàn 372 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 937 chuẩn bị 8 A-37 với 4 cơ số
bom, đạn và rocket tại Cần Thơ; Trung đoàn 917, do đại uý Trịnh Minh Đức chỉ huy, sẵn sàng cơ động chuyển sân 5
UH-1, 2 U-17 và 1 CH-47 đến sân bay Dương Minh Châu (đông núi Bà Đen 5-6km). Các lực lượng trên tập trung chi
viện hoả lực cho Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) đánh địch ở khu vực Phước Lộc, Phước Lợi. Ngày 9 tháng 3 năm 1978,
Trung đoàn 937 chuẩn bị xong, các lực lượng cơ động của Trung đoàn 917 vào đúng vị trí tập kết.

Ngày 11 tháng 3 năm 1978, đúng 6 giờ, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Trần Tấn Bửu cất cánh từ Tân Sơn
Nhất, bay lên Gò Dầu, rồi ngược theo sông Vàm Cỏ Đông vào trinh sát khu chiến (Phước Lộc, Phước Lợi). Vị trí các
mục tiêu được báo cáo ngay về Sở chỉ huy Sư đoàn 372. 6 giờ 35 phút, 2 UH-1 vũ trang cất cánh, bay theo đường bay:
Dương Minh Châu- Bến Cầu-Bến Sỏi-khu chiến và đánh thẳng vào các chốt của địch ở hai bờ rạch Năng Dinh (tây
bắc Bến Sỏi 11km). Tiếp theo 2 A-37 ném bom vào các trận địa của địch ở Xóm Mới và Gò Chùa, trong đó trúng 1 sở
chỉ huy. Trong ngày, lực lượng A-37 và UH-1 cùng nhau phối hợp đánh 3 đợt, gây thiệt hại đáng kể về sinh lực và hoả
lực của địch. Hôm sau, ngày 12 tháng 3, 6 lần/chiếc A-37 và 12 lần/chiếc UH-1, được 6 lần/chiếc U-17 chỉ thị mục
tiêu, đánh mãnh liệt vào các khu vực tập kết quân và các tuyến phòng ngự vững chắc của địch. Ba trung đoàn của Sư
đoàn 9 bao vây, chia cắt và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở khu vực Phước Lộc, Phước Lợi.

Trong trận này, các đường bay của U-17, UH-1, A-37 và thứ tự vào đánh đều được dẫn đường lựa chọn và
tính toán chu đáo, phi công giữ nghiêm số liệu đã góp phần quan trọng giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ và nâng cao
hiệu quả đánh địch.

Ở khu vực biên giới Hà Tiên, rạng sáng 14 tháng 3 năm 1978, quân Khơ-me đỏ cho 3 tiểu đoàn tập kích
vào thị xã Hà Tiên, 2 tàu 100 tấn tiến vào theo đường biển, đồng thời dùng thuyền nhỏ đưa thám báo, biệt kích đột
nhập vào đất liền, tàn sát dã man hơn 1.000 đồng bào ta. Bộ Tổng Tham mưu sử dụng lực lượng của Quân khu 9, Sư
đoàn Không quân 372 và lực lượng hải quân đánh bộ, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, phản công đánh địch tại khu vực
Hà Tiên.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Không quân, Sư đoàn 372 nhanh chóng hoàn tất công tác chuẩn
bị và triển khai cơ động lực lượng. Ngày 14 tháng 3 năm 1978, các tổ bay C-130, C-119, C-47 của Trung đoàn 918
chở 1 000 cán bộ và chiến sĩ hải quân đánh bộ từ Cam Ranh xuống Cần Thơ và Kiên Lương; 4 UH-1 vũ trang, 2 UH-1
vận tải, 2 U-17 và 1 CH-47 của Trung đoàn không quân 917 cơ động chuyển sân xuống Cần Thơ và ngay sau đó U-17
cơ động tiếp xuống sân bay Rạch Sỏi (đông nam Rạch Giá 7km). 1 Mi-6 của Trung đoàn 916 được huy động phối
thuộc với Trung đoàn 917. Trung đoàn 937 chuẩn bị xong 12 A-37 và các mặt bảo đảm cho các đơn vị không quân bạn
có thể hoạt động dài ngày tại 3 sân bay Cần Thơ, Kiên Lương và Long Xuyên.

14 giờ 05 phút ngày 15 tháng 3 năm 1978, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Trần Tấn Bửu cất cánh từ Rạch
Sỏi lên quan sát phía tây núi Xa Kỳ (Hà Tiên), phát hiện các cụm hoả lực và tuyến phòng ngự của địch, lập tức báo
cáo sở chỉ huy tiền phương Quân khu 9. 15 giờ 50 phút, U-17 chỉ thị mục tiêu cho đôi A-37 thứ nhất vào ném bom
trúng một số cụm hoả lực và đôi A-37 thứ hai tiếp tục vào đánh các trận địa phòng ngư của địch. Sau khi A-37 thoát
ly, lực lượng UH-1 vũ trang liên tục bắn phá các điểm chốt chủ yếu. Không quân ta chi viện hoả lực rất hiệu quả cho
bộ binh.

Sáng 16 tháng 3 năm 1978, lực lượng UH-1 vũ trang tiếp tục đánh ở Xa Kỳ. Các đơn vị Quân khu 9 phản
công, buộc địch phải lui về bên kia biên giới. Tổ bay UH-1: Nguyễn Duy Núi-Đinh Gia Dục đưa đoàn cán bộ Bộ Tổng
Tham mưu ra Phú Quốc kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của bộ đội hải quân.

Đúng vào thời điểm bộ đội Quân khu 9 tiến hành phản công địch ở Xa Kỳ thì quân Khơ-me đỏ cho 1 sư
đoàn tiến công vào tuyến phòng ngự của Quân khu 7.

Ngày 14 và 15 tháng 3 năm 1978, chúng cho xe tăng và xe bọc thép đánh vào các chốt của quân ta ở các
khu vực Xa Mát, Tà Nốt (tây Xa Mát 14km) và Lò Gò (tây nam Xa Mát 18km). Sau đó địch mưu đồ sẽ tiếp tục điều
thêm khoảng 12 sư đoàn từ phía sau lên áp sát tuyến biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh, đánh chiếm tuyến phòng ngư của
Quân đoàn 3, hòng vượt qua Xa Mát, rồi tiến sâu vào đất ta theo Đường 22.

Để đáp ứng yêu cầu các nhiệm vụ được giao, ngày 24 tháng 3 năm 1978, Sư đoàn 372 thực hiện cơ động
lực lượng: Trung đoàn 937 cơ động chuyển sân 10 A-37 từ Cần Thơ lên Biên Hoà và Trung đoàn 917 cho 3 UH-1 vũ
trang từ Tân Sơn Nhất lên Dương Minh Châu do đồng chí Nguyễn Lương Bằng chỉ huy, còn U-17 trinh sát, chỉ thị
mục tiêu và CH-47 vận chuyển tiếp tế và chở thương binh trực tại Tân Sơn Nhất. Đến 16 giờ cùng ngày, toàn bộ lực
lượng không quân đã sẵn sàng vào trận.
6 giờ sáng ngày 25 tháng 3 năm 1978. 2 phi công U-17: Nguyễn Văn Sửu-Nguyễn Văn Khải cất cánh, bay
theo đường bay Tân Sơn Nhất-Trảng Bàng-Tây Ninh-ấp Trại Bí (bắc-tây bắc Tây Ninh 23km) trinh sát dọc tuyến biên
giới và khu chiến (Xa Mát-Tà Nốt-Lò Gò). Những vị trí khả nghi có trận địa pháo, bãi tập kết xe tăng và khu tập trung
quân trong khu chiến đều được báo cáo rất rõ ràng về Sở chỉ huy Sư đoàn 372. 6 giờ 30 phút, theo lệnh của Sở chỉ huy
Sư đoàn, 4 A-37 cất cánh từ Biên Hoà vào khu chiến, đánh trong 10 phút vào các mục tiêu do U-17 chỉ thị ở Xa Mát.
Cùng thời gian đó, 3 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Lương Bằng-nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Xuân Anh-lê Việt Bắc và
Mai Trung Cam-vũ Xuân Cán từ Dương Minh Châu bay lên Trại Bí và vào đánh các mục tiêu ở Lò Gò và Tà Nốt.
Ngày 26 tháng 3 năm 1978, A-37 và UH-1 tập trung hoả lực vào các khu tập trung quân của địch ở Lò Gò và Tà Nốt.
Trong 2 ngày 25 và 26, không quân ta đánh 22 lần/chuyến đạt hiệu quả cao. Bị đòn giáng trả mãnh liệt của các đơn vị
Quân khu 7, Quân đoàn 3 và không quân, sư đoàn địch buộc phải lùi rất sâu về phía sau và chúng không thực hiện
được âm mưu tiến sâu vào đất ta.

Trung đoàn 11 Khơ-me đỏ, sau khi bị xoá sổ trong trận đánh ngày 4 tháng 2 năm 1978, đã được gây dựng
lại với biên chế 9 tiểu đoàn. Đầu tháng 4 năm 1978, với lực lượng trên, trung đoàn 11 và lữ đoàn 10 của địch đã đánh
sâu vào đất ta hơn 10km từ Phú Hội (bắc-tây bắc Châu Đốc 14km) đến Tân Châu (Phú Châu). Chúng đốt phá hơn
4.000 nóc nhà, sát hại dã man hàng trăm dân thường. Chiều 14 tháng 4 năm 1978, Trung đoàn 917 cho 5 UH-1 vũ
trang, 2 UH-1 vận tải xuống trực chiến tại sân bay Long Xuyên, còn U-17 và CH-47 tại Cần Thơ. Trung đoàn 7 được
sử dụng 12 chiếc A-37 ở Cần Thơ tham gia đánh địch. Các phương án dẫn A-37 và UH-1 chi viện hoả lực cho các đơn
vị bộ binh của Sư đoàn 330 rất nhanh chóng được hoàn thành.

Ngày 15 tháng 4, vào lúc 6 giờ sáng, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Trần Tấn Bửu lên trinh sát tìm kiếm vị
trí khu tập trung quân, cụm hoả lực mạnh và trận địa pháo của địch trong khu chiến (Tân Châu). Sở chỉ huy Cần Thơ
quyết định cho 4 chiếc A-37 cất cánh và sau đó ra lệnh cho 5 UH-1 vũ trang lên đánh vào các cụm hoả lực mạnh và hệ
thống hầm hào tuyến trước của địch, đồng thời cho 1 UH-1 vận tải cất cánh sẵn sàng cấp cứu. U-17 tiếp tục chỉ thị
mục tiêu, A-37 và UH-1 liên tục vào công địch. Các đơn vị bộ binh của Sư đoàn 330 tiến lên chiếm được nhiều vị trí
quan trọng. 13 giờ 30 phút, A-37 và UH-1 theo yêu cầu chi viện, đánh đợt thứ hai với cường độ hoạt động như đợt thứ
nhất, nhưng tập trung đánh vào các trận địa pháo và lực lượng tuyến sau của địch. Sức đề kháng của địch bị giảm
xuống rõ rệt, các đơn vị bộ binh của Sư đoàn 330 đẩy nhanh tốc độ phản công.

Ngày hôm sau, 16 tháng 4 năm 1978, 4 A-37 phối hợp chặt chẽ với 4 UH-1 vũ trang đánh tiếp hai đợt nữa.
Sở chỉ huy trung đoàn 11 của địch bị bom của ta san phẳng, 9 tiểu đoàn của trung đoàn này và lữ đoàn 10 bị các đơn
vị bộ binh Sư đoàn 330 đánh tan. Trung đoàn 11 Khơ-me đỏ bị xoá sổ lần thứ hai.

Sau thất bại nặng nề ở Phú Hội-Tân Châu, ngày 21 tháng 4 năm 1978, bọn phản động Khơ-me đỏ cho sư
đoàn bộ binh 520 lấn chiếm khu vực Bảy Núi và Tịnh Biên. Ngày 29 tháng 4 năm 1978, Sư đoàn 372 tổ chức giao
nhiệm vụ cho hai trung đoàn 937 và 917. Do yêu cầu sử dụng và cơ động lực lượng lần này cơ bản giống lần đánh ở
Phú Hội-Tân Châu, nên công tác chuẩn bị chiến đấu được hoàn tất ngay trong ngày 30 tháng 4. Cả hai phương án dẫn
A-7 và UH-1 đều tập trung đi sâu giải quyết cách phát hiện và vào công kích các mục tiêu của địch trên địa hình đồi
núi khá phức tạp, nhằm xử lý thật tốt tình huống nếu địch rút vào cố thủ ở khu vực Bảy Núi.

Liên tiếp trong ba ngày 1, 2 và 3 tháng 5 năm 1978, không quân ta thực hiện gần 30 lần/chiếc, trong đó có
7 lần/chiếc U-17, 8 lần/chiếc A-37, 10 lần/chiếc UH-1 vũ trang, phá tan các trận địa tuyến trước, đánh trúng 1 trận địa
cối 81mm, khống chế pháo binh địch. Sau đó ta đánh tiếp các chốt phòng thủ khi chúng lùi sâu vào các triền núi. Sư
đoàn 330 và Sư đoàn 9 phản công mãnh liệt, đuổi địch ra khỏi khu vực Bảy Núi và Tịnh Biên, đồng thời giải thoát cho
hơn 200 đồng bào ta vào lánh nạn trong các hang động ở Núi Tượng.

Trong thời gian từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 năm 1978, tình hình chiến sự trên vùng biên giới thuộc tỉnh
Tây Ninh diễn ra nóng bỏng và quyết liệt. Các lực lượng vũ trang Quân khu 7 và Quân đoàn 3 phải đánh trả các mũi
tiến công nguy hiểm của 3 sư đoàn Khơ-me đỏ vào khu vực Đập Đá (tây-tây nam Xa Mát 3km)-Bầu Dung Lớn (tây
nam Xa Mát 6km). Chúng còn dựa vào các lực lượng đã tập hợp được khá đông ở phía sau, toan tính tổ chức đánh lớn
để tiến sâu vào đất ta.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, Quân chủng Không quân giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 372
tổ chức lực lượng chi viện hoả lực cho Quân khu 7 và Quân đoàn 3 phản công địch trên tuyến biên giới Tây Ninh,
trọng tâm là khu vực Đập Đá-Bầu Dung Lớn. Trung đoàn 937 cơ động chuyển sân 8 A-37 từ Cần Thơ lên Biên Hoà,
Trung đoàn 917 đưa ngay lực lượng cơ động vừa tham gia chiến đấu ở Bảy Núi-Tịnh Biên về Tân Sơn Nhất và cho 2
UH-1 vũ trang lên Dương Minh Châu, Trung đoàn 935 sử dụng hai biên đội F-5, hiệp đồng chặt chẽ với A-37 và UH-1
đánh các mục tiêu được giao trong nhiệm vụ chi viện hoả lực của sư đoàn. F-5 và A-37 sẽ đánh theo kế hoạch, còn
UH-1 đánh theo lệnh gọi.

Tại Trung đoàn 935, không khí chuẩn bị cho trận đầu ra quân rất khẩn trương. Được sự quan tâm của trung
đoàn, tiểu ban dẫn đường tiến hành rà soát lại các phương án dẫn F-5 nhằm đáp ứng đúng yêu cầu cách đánh của tiêm
kích mang bom; kiểm tra, đối chiếu tỉ mỉ các số liệu vào công kích các mục tiêu khác nhau trên mặt đất và thoát ly
nhằm bảo đảm độ chính xác cao và an toàn tuyệt đối; hiệp đồng chặt chẽ với các thành phần trực ban trong sở chỉ huy
và với các phân đội trực chiến… Kíp trực ban dẫn đường trong ngày được tiểu ban bố trí gồm: Trung uý Nguyễn Văn
Nhâm, trợ lý, dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy và Trung uý Đào Văn Phao, Trưởng Tiểu ban, dẫn trên hiện sóng
tại C-51 ở Biên Hoà.

6 giờ 30 phút sáng 6 tháng 5 năm 1978, 2 phi công U-17: Nguyễn Văn Sửu (A)-Nguyễn Văn Khải cất cánh
từ Tân Sơn Nhất bay qua Tây Ninh vào trinh sát khu vực từ Đập Đá đến Bầu Dung Lớn, báo cáo đầy đủ vị trí các trận
địa pháo và cụm hoả lực của địch, trong đó có cả pháo phòng không 37mm 2 nòng. 7 giờ, thủ trưởng trực chỉ huy
Trung đoàn 935, Phó Trung đoàn trưởng Vũ Đức Bình, sau khi cho sở chỉ huy vào cấp 1 xong, ra lệnh cho đôi bay F-
5: Lê Khương và Phạm Hy vào cấp 1. 7 giờ 19 phút 30 giây, đôi Khương-Hy cất cánh từ Biên Hoà, bay theo đường
bay: Phú Cường-núi Bà Đen-sân bay Thiện Ngôn (nam Xa Mát 7km)-Xa Mát-mục tiêu. Kíp trực ban dẫn đường
Nhâm- Phao tập trung theo dõi chặt chẽ đường bay và độ cao bay của F-5, thông báo chính xác cự ly còn lại đến mục
tiêu cho phi công. 7 giờ 29 phút 30 giây, đôi Khương-Hy đến Thiện Ngôn, vòng phải lên hướng bắc, sau khi cải bằng,
phát hiện mục tiêu bên trái 5km và xin vào công kích. 7 giờ 30 phút 50 giây, bom của F-5 rơi trúng mục tiêu. Ta thoát
ly khỏi khu chiến và về Biên Hoà hạ cánh lúc 7 giờ 57 phút.7 giờ 31 phút 30 giây, sở chỉ huy Trung đoàn 935 cho đôi
bay F-5 thứ hai: Nguyễn Thanh Xuân và Nguyễn Văn Kháng cất cánh, giữ nguyên đường bay, tiếp tục đánh vào các
mục tiêu theo kế hoạch. Bom của F-5 lại trút xuống mục tiêu. Đến 8 giờ 07 phút, đôi Xuân-Kháng hạ cánh an toàn tại
Biên Hoà. Cũng trong thời gian trên, 4 A-37 của Trung đoàn không quân 937 được Sở chỉ huy Sư đoàn dẫn vào khu
chiến đánh trúng các mục tiêu do U-17 chỉ thị. Từ 9 giờ 34 phút đến 10 giờ 37 phút, kíp trực ban dẫn đường Nhâm-
Phao dẫn 2 đôi bay F-5: Dương Đình Nghi và Nguyên Văn Kháng, Nguyễn Thanh Xuân và Hoàng Hữu Hiền đánh
tiếp đợt 2. Bom của 4 chiếc F-5 đã rơi trúng vào các mục tiên quan trọng của địch ở bờ bắc suối Đà Ha (tây bắc Xa
Mát 1,5km, cắt qua Đường 22).
Không quân nhân dân Việt Nam lại có thêm một loại máy bay nữa lập chiến công. F-5 tiêm kích thu được
của địch, nhưng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mang bom đánh mục tiêu trên mặt đất bảo vệ biên giới Tây Nam của
Tổ quốc. Ngày 6 tháng 5 năm 1978 được ghi nhận là ngày đánh thắng trận đầu của Trung đoàn không quân 935.

Trong trận đánh này, với bản lĩnh và trình độ của mình, các phi công: Lê Khương, Phạm Hy, Nguyễn Thanh
Xuân, Nguyễn Văn Kháng, Dương Đình Nghi và Hoàng Hữu Hiền đã làm chủ được cách đánh, các sĩ quan dẫn đường
sở chỉ huy: Nguyễn Văn Nhâm và Đào Văn Phao đã làm chủ được cách dẫn F-5. Đó là sự đóng góp rất thiết thực vào
chiến công chung của đơn vị. Chiến công đầu của Trung đoàn 935 còn là một trong những mốc lịch sử rất quan trọng
của ngành Dẫn đường Không quân vì ngày 19 tháng 4 năm 1972, ta đã dẫn thành công máy bay tiêm kích MiG-17
mang bom ném trúng tàu khu trục của Mỹ và đến ngày 6 tháng 5 năm 1978, ta lại dẫn thành công máy bay tiêm kích
F-5 mang bom ném trúng các trận địa của quân Khơ-me đỏ. Trong ngày, không quân ta đã sử dụng 8 lần/chiếc F-5E, 4
lần/chiếc A-37 và 2 lần chiếc U-17 ném 16 quả bom và 6 thùng rocket chi viện hiệu quả cho các đơn vị của Quân khu
7 và Quân đoàn 3 đuổi địch về phía bên kia biên giới.

Ngày 7 tháng 5 năm 1978, A-37 cơ động chuyển sân về Cần Thơ và cả ba trung đoàn 935, 937 và 917 bắt
tay ngay vào chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu mới.

Từ đầu tháng 12 năm 1977 đến cuối tháng 5 năm 1978, trên biên giới Tây Nam, bộ đội ta đã tiến hành đánh
nhiều trận phản công lớn, làm cho địch bị tổn thất nặng nề cả về sinh lực, súng đạn và cơ sở vật chất bảo đảm chiến
đấu, nhưng chúng vẫn không chịu từ bỏ dã tâm lấn chiếm biên giới và tiến sâu vào đất ta. Đầu tháng 6 năm 1978, bọn
phản động Khơ-me đỏ lại tiến hành bước phiêu lưu mới, cho 12 sư đoàn bộ binh áp sát toàn tuyến biên giới giữa Việt
Nam và Cam-pu-chia. Trên tuyến biên giới do Quân đoàn 3, Quân khu 7 và Quân đoàn 4 đảm nhiệm, thường xuyên có
9 sư đoàn địch hoạt động. Tuy bị ta chặn đánh quyết liệt, nhưng chúng tiếp tục tổ chức lấn chiếm với quy mô ngày
càng lớn và ở nhiều khu vực khác nhau, trong đó tập trung nhất là từ Lò Gò tới Xa Mát. Ở địa bàn Quân khu 9, địch
lấn chiếm đường biên và đánh sang đất ta suốt từ Hà Tiên tới Tịnh Biên.

Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng lực lượng của Quân khu 7, Quân khu 9, Quân
đoàn 3 và Quân đoàn 4; một phần lực lượng của Quân chủng Hải quân và Quân chủng Không quân tiến hành chiến
dịch phản công, giáng cho quân Khơ-me đỏ một đòn mạnh, gây cho chúng tổn thất tối đa, đẩy địch ra xa biên giới Việt
Nam-cam-pu-chia, đồng thời hỗ trợ lực lượng cách mạng Cam-pu-chia nổi dậy. Chiến dịch sẽ được bắt đầu vào ngày
14 tháng 6 năm 1978.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân, công tác chuẩn bị chiến đấu trong tất cả
các lực lượng không quân phía nam tham gia chiến dịch được tiến hành rất hiệu quả. Ý định phân chia sử dụng lực
lượng không quân trong tác chiến hiệp đồng là một trong những điểm mấu chốt được Bộ Tư lệnh tập trung nghiên cứu
kỹ và quyết định rất sớm đã tạo điều kiện thuận lợi cho cấp dưới nhanh chóng hoàn thành các phương án đánh địch và
kịp thời cơ động chiến đấu. Ban dẫn đường Sư đoàn 372, các tiểu ban dẫn đường hai trung đoàn 935, 937 và hệ thống
Chủ nhiệm Dẫn đường hai trung đoàn 917, 918 đều chuẩn bị chu đáo các phương án dẫn bay, trước hết là các phương
án phục vụ cho các hướng đánh trọng điểm trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Ngày 12 tháng 6 năm 1978, không
quân ta cơ động tập kết lực lượng xong, sẵn sàng chờ lệnh, trong đó có 8 A-37 lên trực chiến tại Biên Hoà.

Tại khu vực tác chiến Xa Mát, trong 2 ngày 23 và 28 tháng 6 năm 1978, Trung đoàn 935 sử dụng 5 đôi bay
F-5 mang bom CBU-58/B, xuất kích từ Biên Hoà, qua Xa Mát, lần lượt đánh vào các mục tiêu ở khu vực Ph.Lông,
trúng tiểu đoàn 154 và trận địa pháo 105mm của địch, tạo thuận lợi cho các đơn vị của Quân đoàn 3 phát triển tiến
công lên phía bắc, chiếm được điểm cao 62 (bắc-đông bắc Xa Mát 15km) án ngữ đường 7. Ngày 30 tháng 6 năm
1978, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Nguyễn Văn Nhâm-Nguyễn Văn Hưng dẫn liên tiếp đôi bay F-5:
Dương Bá Kháng-Nguyễn Văn Nuôi và biên đội F-5: Lê Khương-Nguyễn Hữu Lâm-Dương Đình Nghi-Hoàng Hữu
Hiền, mỗi máy bay mang 4 bom MK-82, ngòi nổ phát quang, đánh vào khu đóng quân của địch ở Ph.Sa Âm (bắc-
đông bắc Xa Mát 13,5km), sát tuyến tiến công của ta. Ngày 2 tháng 7 năm 1978, sau khi củng cố lại lực lượng, địch
cho 1 trung đoàn chiếm lại điểm cao 62. Ngày 3 tháng 7, Trung đoàn 917 cho 2 phi công U-17: Phạm Văn Luỹ-
Nguyễn Khắc Tuấn cất cánh từ Trảng Lớn lên trinh sát và chỉ thị mục tiêu cho 4 A-37 cất cánh từ Biên Hoà vào tiêu
diệt cụm quân của địch ở điểm cao 62, phá huỷ 5 súng 12,7mm, 4 khẩu ĐKZ, cháy 5 xe đạn và diệt nhiều sinh lực
địch, tạo điều kiện cho Quân đoàn 3 tiến công chiếm giữ điểm cao 62. Cùng ngày, tại sở chỉ huy Trung đoàn 935 các
thủ trưởng trực chỉ huy: Đinh Văn Bồng và Nguyễn Trọng tổ chức cho F-5 đánh theo kế hoạch. Kíp trực ban dẫn
đường: Đào Văn Phao tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng trên hiện sóng. Đường bay: Biên Hoà-Phú Cường-núi Bà
Đen-kh.Đar (đông bắc Xa Mát 18km, trên đường 7). Mỗi F-5E đều mang 4 MK-82- 500 và nạp đầy dầu. 10 giờ 28
phút, đôi bay F-5E thứ nhất: Lê Khương-Ngô Duy Tuân và 10 giờ 36 phút, đôi bay F-5E thứ hai: Dương Đình Nghi-
Hoàng Hữu Hiền cất cánh. Đến Kh.Đar, phát hiện mục tiêu bên trái 60 độ, 8km, từng đôi một vòng trái vào công kích
Ph.Sa Âm và cầu Ph.Sa Âm (đông Ph.Sa Âm 1km, trên đường 7) 2 lần, theo hướng từ bắc xuống nam, rồi thoát ly về
Biên Hoà. 11 giờ 16 phút, đôi thứ hai hạ cánh. Đợt đánh thứ hai bắt đầu từ 14 giờ 16 phút đến 15 giờ 11 phút, 2 đôi F-
5E: Khương-Tuân và Nghi-Hiền tiếp tục xuất kích. Khi đến gần mục tiêu, do ảnh hưởng của mây, cả 2 đôi đều phải
vòng cơ động, đổi hướng công kích từ nam lên bắc và đều đánh trúng mục tiêu, giúp bộ binh của ta làm chủ hướng
phản công. Trong 2 ngày tiếp theo, 4 và 6 tháng 7 năm 1978, Trung đoàn 935 tổ chức đánh 3 đợt 14 lần/chiếc F-5 theo
lệnh, gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc chúng phải co cụm cố thủ và lùi sâu về bên kia biên giới.

Đầu tháng 7 năm 1978, tại khu vực biên giới thuộc tỉnh Long An, sau khi đánh sang đất ta, quân Khơ-me
đỏ cho 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 513 của sư đoàn bộ binh 5 nhanh chóng xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự
kiên cố ở Lò Gạch, Vĩnh Trị (tây bắc Mộc Hoá 25km). Căn cứ vào ý định tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, Quân
chủng Không quân giao nhiệm vụ cho Sư đoàn Không quân 372 hiệp đồng với các lực lượng của Quân đoàn 4 (trong
đó có pháo binh) và bộ đội tỉnh Long An đánh địch tại khu vực Mộc Hoá nhằm lấy lại các vị trí bị chiếm và đẩy lùi
địch sâu về phía bên kia biên giới. Lực lượng không quân tham gia chiến đấu gồm: 2 U-17, 2 UH-1 vũ trang, 2 UH-1
vận tải của Trung đoàn 917, 4 A-37 của Trung đoàn 937 và 6 F-5 của Trung đoàn 935. Công tác chuẩn bị được hoàn
tất vào ngày 10 tháng 7 năm 1978.

6 giờ sáng ngày 11 tháng 7 năm 1978, Sở chỉ huy Sư đoàn 372 cho U-17 cất cánh từ Tân Sơn Nhất, tiến
hành trinh sát khu vực Mộc Hoá-Lò Gạch-Vĩnh Trị và chỉ thị mục tiêu cho pháo binh Quân đoàn 4. Thời tiết tốt, quan
sát địa hình và mục tiêu rất thuận lợi. 6 giờ 40 phút, 2 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Đình Khoa-Vũ Xuân Cán và
Đinh Gia Dục-Lê Phúc Cường cất cánh từ Tân Sơn Nhất, đánh địch ở Tây Long Khốt 5km (Long Khốt ở bắc-tây bắc
Mộc Hoá 22km) và 7 giờ 02 phút, 4 A-37 cất cánh từ Cần Thơ ném bom các mục tiêu ở Lò Gạch. Còn từ Biên Hoà
từng đôi F-5 lần lượt cất cánh, 7 giờ 29 phút, đôi bay thứ nhất: Dương Đình Nghi-Nguyễn Văn Kháng, 7 giờ 37 phút,
đôi bay thứ hai: Lê Khương-Ngô Duy Tuân và 7 giờ 47 phút, đôi bay thứ ba: Nguyễn Hữu Lâm-Hoàng Hữu Hiền vào
đánh các mục tiêu ở Lò Gạch và Vĩnh Trị sau khi A-37 đã thoát ly. Mỗi chiếc F-5 mang 5 quả bom Mk-82-500 (1 phá
và 4 phát quang), riêng máy bay của phi công Lê Khương chỉ mang 5 MK-81 và đôi Lâm-Hiền, mỗi máy bay ngoài 5
MK-82, còn mang thêm 2 quả tên lửa không đối không. Kíp trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Nhâm tại sở chỉ huy và
Đào Văn Phao tại C-51 bám sát từng tốp F-5 bay theo đường bay: Biên Hoà-Phú Cường- Mộc Hoá-điểm cuối (tây bắc
Long Khốt 9km), độ cao 10.000 feet (1 foot tương đương 0,3048m), tốc độ 350 knot (1 knot tương đương 1,852kmlh).
Khi F-5 gần đến điểm cuối dẫn đường liên tiếp thông báo vị trí mục tiêu. Phi công nhanh chóng phát hiện từ xa từng
mục tiêu được giao. Tại điểm cuối, từng đôi F-5 tiến hành vòng trái, giảm tốc độ xuống 300 knot, vào đúng hướng
công kích 180 độ với góc bổ nhào 30 độ, giữ điểm ngắm 173 ly giác và thực hiện ném bom ở độ cao 5.500 feet, tốc độ
440 knot. Sau đó kéo lên, từng đôi F-5 vòng trái quay lại vào ném bom lần thứ hai, rồi thoát ly về Biên Hoà. Đôi Lâm-
Hiền ném bom xong, làm tiếp nhiệm vụ yểm hộ khu vực cho UH-1 đánh và về hạ cánh lúc 8 giờ 30 phút.

Trong đợt 2 từ 10 giờ 30 đến 11 giờ 20 phút, ta chỉ sử dụng F-5. Các thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn
935: Đồng Văn Song và Nguyễn Trọng cho 3 đôi bay: Nghi-Kháng, Khương-Tuân và Lâm-Hiền tiếp tục làm nhiệm vụ
giữ nguyên thứ tự cất cánh, đường bay, độ cao và tốc độ bay, phương pháp vào ném bom và thoát ly cũng như số
lượng bom và tên lửa trên từng máy bay, nhưng chỉ thay đổi: tăng bom phá lên 3 quả và giảm bom phát quang xuống
còn 2 quả. Kíp trực ban dẫn đường vẫn là Nhâm-Phao.

Đây là trận đánh đạt hiệu quả cao, không quân ta tổ chức thực hiện đúng kế hoạch hiệp đồng với các đơn vị
của Sư đoàn 9, pháo binh Quân đoàn 4 và bộ đội tỉnh Long An. Dẫn đường lựa chọn các đường bay và hướng công
kích cho UH-1, A-37 và F-5 đều đáp ứng yêu cầu chiến thuật, tính toán các số liệu chính xác, tiến hành hiệp đồng chặt
chẽ với các đầu mối, cho thời gian cất cánh, cơ bản đúng ý định của thủ trưởng trực chỉ huy. Phi công giữ nghiêm số
liệu và đánh trúng các mục tiêu được giao. Chỉ riêng F-5 đã thực hiện ném 10 quả MK-81 và 50 quả MK-82 vào 5
mục tiêu số 1, 2, 6, 7 và ấp Lò Gạch.

Ngày 12 tháng 7 năm 1978, với đà tiến công mãnh liệt, các lực lượng của Quân đoàn 4 và bộ đội tỉnh Long
An tiếp tục đẩy lùi địch sâu về phía bên kia biên giới. Chúng điều 2 trung đoàn thuộc sư đoàn bộ binh 2 co cụm lại ở
khu vực tây bắc Khum Chak (bắc-đông bắc Svay Riêng 9km) hòng ngăn chặn hướng phản công của Sư đoàn 7. Sư
đoàn Không quân 372 sử dụng 4 A-37 và 6 F-5 đánh vào các mục tiêu A2 ở phía tây Ph.Prey Keas 500m (Ph.Prey
Keas ở bắc-tây bắc Kh.Chak 2,5km) và A3 ở Ph.Xvay Chek (tây bắc Kh.Chak 4km).

Trong trận này, hiệu quả hoạt động của F-5 không cao. Đôi thứ nhất ném bom vào A2 xong, khi thoát ly số
2 để mất đội, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Nguyễn Văn Nhâm và Đào Văn Phao phải dẫn về. Còn đôi thứ
ba, lúc vào công kích lần thứ nhất, do nhận dạng nhầm mục tiêu (cách A3 tới 18km về phía đông nam), nên ném 2 quả
bom xuống Ph.Pra sot (đông-đông nam Svay riêng 10,5km), chỉ cách phía trước tuyến tiến công của bộ binh ta có
100m. Sở chỉ huy, sau khi phát hiện, đã cho đôi thứ ba vòng trái, lấy hướng 300 độ để vào công kích lần thứ hai đúng
mục tiêu quy định.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các sai sót này là do phi công bay số 2 của đôi thứ nhất phân phối sức chú ý
quan sát số 1 khi cơ động chưa tốt và phi công bay số 1 của đôi thứ ba không giữ đúng số liệu khi bay đến điểm cuối
(Kh. Chak), đồng thời không báo cáo sở chỉ huy trước khi vào công kích. Đối với dẫn đường, do quá tập trung vào dẫn
tốp bị mất đội mà không kịp thời đề nghị Sở chỉ huy Sư đoàn giúp đỡ xử lý khi tốp thứ ba còn cách Gò Dầu 10km thì
trên hiện sóng bị mất tín hiệu máy bay ta trong 4 phút và không kiểm tra vị trí của tốp này lúc gần đến mục tiêu. Ngoài
ra, việc lựa chọn đoạn đường bay từ Gò Dầu Hạ đến điểm cuối, chưa thật hợp lý vì mục tiêu nằm bên phải với giãn
cách chỉ có 2,5km mà bay ở độ cao 10.000 feet thì phi công rất khó quan sát.

Được Trung đoàn 935 tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời, nên kết quả đánh địch trong 2 ngày 13 và 15 tháng
7 năm 1978 của F-5 có chuyển biến rõ rệt, góp phần nâng cao hiệu quả chi viện hoả lực của không quân ta cho Sư
đoàn 7 và Sư đoàn 9 tiếp tục phản công theo hướng bắc và tây bắc Svay Riêng.

Bộ Tổng Tham mưu đã khen ngợi không quân ta đánh tốt đập tan mưu đồ mở đợt phản công quy mô lớn
của quân Khơ-me đỏ. Đây là trận tiêu diệt nhiều sinh lực địch nhất kể từ đầu chiến dịch này.
Bị thiệt hại nặng tại khu vực Svay Riêng, địch điều chỉnh lại lực lượng, sử dụng 5 sư đoàn bộ binh, trong
đó có các sư đoàn 2, 2 30, 290…; thành lập các kho hậu cần, trung tâm thông tin, sở chỉ huy và tập kết pháo binh, xe
tăng, thiết giáp ở khu vực cách Svay Riêng từ 20 đến 26km về phía bắc-tây bắc. Chúng quyết chặn bằng được các mũi
tiến công của Quân đoàn 4. Căn cứ vào mệnh lệnh tác chiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Sư đoàn Không quân 372 sử
dụng 1 U-17, 4 UH-1 và 1 CH-47 của Trung đoàn 917, 4 A-37 của Trung đoàn 937 và 6 F-5 của Trung đoàn 935 tập
trung hoả lực đánh vào các mục tiêu được giao ở khu vực Ph.Chan Trey (tây bắc Kh.Chak 18km).

Sáng 24 tháng 7 năm 1978, Sở chỉ huy Sư đoàn 372 do 2 phi công U-17: Phạm Văn Luỹ-Phan Huy Tứu cất
cánh từ Trảng Lớn. Tình hình thời tiết có xu hướng phức tạp: 4-7 Cu 400- 700, 4-7 Sc 1.000-1.500, tầm nhìn trên
10km. Tại khu vực mục tiêu, không quân ta vẫn có thể hoạt động được. U-17 bắn rocket khói chỉ thị cho 4 A-37 đánh
trúng trung tâm thông tin và sở chỉ huy của địch. Từ 7 giờ 45 đến 8 giờ 49 phút, 3 đôi F-5 lần lượt vào đánh các vị trí
tập kết pháo binh, xe tăng và thiết giáp. Từ 10 giờ 30 phút đến 11 giờ 47 phút, 4 A-37 và 5 F-5 đánh tiếp đợt 2. Khi A-
37 và F-5 đánh địch, từng đôi UH-1 cất cánh từ Trảng Lớn, rồi bay chờ ở khu vực phía đông khu chiến từ 8 đến 10km,
sẵn sàng vào cấp cứu. Trong quá trình F-5 làm nhiệm vụ, dẫn đường đã xử lý tốt 2 tình huống: dẫn phi công vòng lại,
vào ném bom lần thứ ba, do quên bật công tắc khi đánh đợt 1 và dẫn phi công vòng tránh mây kịp thời, đến đúng mục
tiêu lúc đánh đợt 2. Không quân ta đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho, làm tê liệt một
phần lực lượng dự bị rất quan trọng của địch. Đây là một trong những đòn tập kích rất hiệu quả vào khu vực hậu cứ
chiến dịch của đối phương.

Trên vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh, ngày 16 tháng 7 năm 1978, tại khu vực Ph.Sa Âm-điểm cao 62
địch cho 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 310 dự tính tổ chức phản kích lại các đơn vị thuộc Quân đoàn 3 đang bố trí ở phía
nam đường 7, quyết giành lại các vị trí đã mất. Để chi viện hoả lực, không quân ta sử dụng 8 lần/chiếc F-5, chia làm 2
đợt, nhưng tập trung hoả lực vào 2 mục tiêu chính là A7 (tây Ph.Sa Âm 500m) và A8 (tây Ph.Sa Âm 1.000m) nằm trên
trục đường 7. Ngày 19 tháng 7 năm 1978, tại khu vực phía tây Ph.Sa Âm, địch tập trung lực lượng chủ yếu của sư
đoàn bộ binh 290, có tăng cường thêm xe tăng, chuẩn bị phản công lại các đơn vị thuộc Quân đoàn 3 đang củng cố
trận địa ở Ph.Sa Âm và điểm cao 62. Sư đoàn 372 tiếp tục cho 8 lần/chiếc F-5 đánh vào 2 mục tiêu tại Ph.Chi Peang
và Ph.Am Puk (tây Ph.Sa Âm 4,5km). Đây là 2 trận đánh chi viện hoả lực của không quân cho bộ binh, nhưng mang
tính tập kích nhiều hơn vì đều được thực hiện vào thời điểm địch đang co cụm lực lượng, chuẩn bị đánh lại ta.

Trong tháng 7 năm 1978, ngoài nhiệm vụ bảo đảm cho F-5 và A-37 đánh địch, Trung đoàn 917 còn hoàn
thành tốt hàng trăm chuyến bay đưa cán bộ các cấp ôi nắm tình hình địch, tổ chức chuẩn bị chiến đấu, tiếp tế súng
đạn, thuốc men và chở thương binh. Đặc biệt, trong những ngày cao điểm các tổ bay UH-1 và CH-47 vận tải luôn tận
tâm làm việc, đáp ứng mọi yêu cầu của người chỉ huy. Tại khu vực Mộc Hoá-Svay Riêng, từ ngày 10 đến ngày 13 và
từ ngày 26 đến ngày 27, đội ngũ dẫn đường trên không đã trực tiếp thực hiện dẫn bay 132 lần/chiếc, chuyên chở 394
cán bộ, vận chuyển 27,3 tấn hàng và đưa đón 291 thương binh. Tại các khu vực Xa Mát và Bến Sỏi, trong 2 ngày 17
và 18, dẫn bay 18 lần/chiếc, chở 28 cán bộ, chuyển 10,1 tấn đạn và đón 38 thương binh… Chuyến bay nào cũng được
chuẩn bị dẫn bay chu đáo, tỉ mỉ, thực hiện dẫn bay đến đúng vị trí, đúng thời gian và bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Sau những thất bại nặng nề trong tháng 7 năm 1978 ở khu vực biên giới thuộc 2 tỉnh Long An và Tây Ninh,
đến tháng 8, bọn phản động Khơ-me đỏ buộc phải tạm thời giảm bớt các hoạt động lấn chiếm, tìm cách củng cố lại lực
lượng, bổ sung súng đạn, phương tiện bảo đảm và lương thực thực phẩm… Chúng theo đuổi ý đồ đầy nham hiểm, đẩy
cuộc chiến trên biên giới lên quy mô lớn hơn, với mức độ ác liệt hơn, hòng chiếm giữ lâu dài nhiều vùng đất thuộc
lãnh thổ của ta. Từ đầu tháng 9 năm 1978, các hoạt động lấn chiếm biên giới Việt Nam của quân Khơ-me đỏ lại tiếp
tục tái diễn.

Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm. cho Quân chủng Không quân hiệp đồng chặt chẽ với
lực lượng của các quân khu, quân đoàn trên tuyến biên giới Tây Nam, tổ chức đánh địch, chi viện hoả lực trên hướng
chủ yếu: cho Quân đoàn 4 và trên hướng quan trọng: cho Quân đoàn 3.

Ngày 10 tháng 9 năm 1978, hai trung đoàn bộ binh địch tiến công vào các vị trí của Quân đoàn 3 đang chốt
giữ, bảo vệ đường biên thuộc tỉnh Tây Ninh. Trung đoàn 935 sử dụng 8 lần/chiếc F-5 chi viện hoả lực, đánh vào các
mục tiêu theo đúng kế hoạch chiến đấu hiệp đồng.

Ngày 13 tháng 9 năm 1978, quân Khơ-me đỏ điều sư đoàn bộ binh 1 và sư đoàn bộ binh 5 từ Kompong
(Kp) Trabek (tây-tây bắc Svay Riêng 36km) về Svay Riêng và tổ chức phòng thủ, cố giữ bằng được vị trí trọng yếu
này. Chiều 17 tháng 9 năm 1978, chúng chiếm được Prasot và đẩy lui quân ta theo Đường 1 về phía đông Prasot từ 4
đến 7 km. Ngày 18 tháng 9 năm 1978, để chi viện hoả lực cho các đơn vị của Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) đang tổ chức
phòng ngự tại khu vực Prasot, F-5 đánh 2 đợt, mỗi đợt 4 lần/chiếc vào 3 mục tiêu trên vòng cung phía tây, cách Prasot
1km. Ngày 19 tháng 9 năm 1978, 8 lần/chiếc F-5 đánh tiếp 4 mục tiêu trên vòng cung phía đông, cách Prasot 5km.

Như vậy, trong đợt hoạt động mở màn này, tuy không quân ta hoạt động tại các khu vực quen thuộc và số
lần xuất kích không nhiều, nhưng các kíp trực ban dẫn đường: Hoàng Ngọc Hớn-Dương Ngoạn, Đỗ Duy Đản-Nguyễn
Văn Nhâm tại sở chỉ huy và Đào Văn Phao-Dư Văn Thắng trên hiện sóng đều cùng nhau nỗ lực chuẩn bì chu đáo từng
phương án dẫn đường, tính toán số liệu chính xác, hiệp đồng dẫn đường tỉ mỉ và khi thực hành cả dẫn đường và phi
công đều không để xảy ra bất kỳ một sai sót nào.

Ngày 25 tháng 9 năm 1978, địch tăng cường thêm lực lượng cho hai sư đoàn bộ binh 1 và 5, trong đó có
các loại pháo phòng không 12,7, 14,5 và 37mm. Chúng tổ chức kìm chân Quân đoàn 4 không cho vào Prasot, đồng
thời mở hướng tiến công xuống phía Mộc Hoá và dự tính trước ngày 1 tháng 10 năm 1978 sẽ đẩy lùi quân ta ra khỏi
các vị trí mà chúng đã chiếm được từ đầu tháng 7 năm 1978. Sư đoàn 372 tiếp tục đưa F-5 vào đánh và có sử dụng
thêm RF-5 để trinh sát đường không. Căn cứ vào ý định chiến đấu của sư đoàn bạn, các thủ trưởng trực chỉ huy Trung
đoàn 935: Nguyễn Văn Nghĩa và Phan Minh Thành tổ chức đánh hai đợt, mỗi đợt cách nhau 3 giờ. Kíp trực ban dẫn
đường: Hoàng Ngọc Hớn và Đỗ Duy Đản tại sở chỉ huy, Đào Văn Phao và Dư Văn Thắng trên hiện sóng tại C-51 phối
hợp cùng nhau dẫn F-5 đánh theo kế hoạch.

Đợt 1 ta hoạt động từ 12 giờ 40 đến 15 giờ 03 phút, 5 đôi F-5 đánh 3 mục tiêu: E6 (đông-đông nam Prasot
4,5km, dọc theo Đường 1), E1 (Prasot) và E3 (bắc-tây bắc Prasot 6km), đường bay: Biên Hoà-Phú Cường-Gò Dầu
Hạ-mục tiêu-Biên Hoà, hướng công kích 160 độ. 3 đôi bay: Lê Khương-Nguyễn Văn Nhượng, Ngô Duy Tuân-
Nguyễn văn Ớt và Dương Đình Nghi-Nguyễn Văn Kháng tập trung đánh vào E6, đôi bay: Nguyễn Thanh Xuân-
Nguyễn Văn Nuôi đánh E1 và đôi bay: Phạm Hy - Phạm Văn Đức đánh E3. Cùng hoạt động trong đợt này, từ 14 giờ
14 đến 14 giờ 54 phút, phi công RF-5: Hoàng Hữu Hiền bay trinh sát theo đường bay: Biên Hoà-Phú Cường-Tây
Ninh-E1- E3-Biên Hoà. Khi đến đến mục tiêu, phi công thực hiện chụp ảnh từ độ cao 3.000 feet với tốc độ 420 knot,
rồi về hạ cánh. Đợt 2 được tiến hành từ 15 giờ 20 đến 15 giờ 59 phút, 2 đôi F-5 đánh 2 mục tiêu: V6 (đông-đông bắc
Lò Gạch 12,5km) và V2 (đông bắc Lò Gạch 11km), đường bay: Biên Hoà-Phú Cường-Mộc Hoá-mục tiêu-Biên Hoà,
hướng công kích 190 độ. Các đôi bay Khương-Nhượng đánh V6 và Xuân-Nuôi đánh V2.
Trong trận này, hai đường bay chi viện hoả lực và một đường bay trinh sát do dẫn đường đề xuất đều đáp
ứng yêu cầu chiến thuật, phát huy được yếu tố bất ngờ. Tại E6, địch bị thiệt hại nặng cả về sinh lực và vũ khí, trang bị;
tại E1, 1 sở chỉ huy tiểu đoàn bị phá huỷ và tại V6, 2 đại đội bộ binh bị tiêu diệt. Tuy nhiên, khi vào công kích E3, do
phi công nhận dạng nhầm mục tiêu, nên bom đã rơi xuống vị trí cách E3 khoảng 4km về phía đông bắc, nơi có lực
lượng bộ binh của ta. Đây là một sai lầm rất nghiêm trọng trong chi viện hoả lực. Ngoài ra, lần đầu tiên dung RF-5
trinh sát chụp ảnh, nên kết quả còn thấp, nhưng nguyên nhân chính là do chuẩn bị không kỹ cả về cách bay và cách
dẫn.

Ngày 26 tháng 9 năm 1978, F-5 được giao đánh 3 mục tiêu V3 (đông bắc Lò Gạch 18,5km), E9 (bắc-tây
bắc Svay Riêng 8km) và E10 (bắc-tây bắc Svay Riêng 4,5km). Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ và tính chất của mục
tiêu, trung đoàn đã phân chia sử dụng F-5 như sau: Đợt 1, cho 2 đôi đánh V3, 3 đôi đánh E9 và đợt 2, cho 2 đôi đánh
E10. Dẫn đường đề nghị chỉ dùng đường bay xuống phía Mộc Hoá như hôm trước, nhưng từ Mộc Hoá đến mục tiêu ta
không bay ở độ cao 10.000 feet mà giữ 15.000 feet để đề phòng hoả lực phòng không 37mm của địch, sau khi thấy tốt
mục tiêu sẽ giảm ngay độ cao và tốc độ, rồi vòng phải vào bổ nhào xuống mục tiêu. 7 giờ 50 phút, sở chỉ huy Trung
đoàn 935 vào cấp 1 và cho mở radar. Kíp trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Nhâm-Dương Ngoạn tại sở chỉ huy, Đào
Văn Phao - Dư Văn Thắng trên hiện sóng vào vị trí công tác. Thứ tự cất cánh đánh V3: 8 giờ 39 phút, đôi bay: Ngô
Duy Tuân-Mai Văn Sách và 5 phút sau, đôi bay: Nguyễn Thanh Xuân-Nguyễn Văn Ớt; đánh E9: 9 giờ 07 phút, đôi
bay: Nguyễn Văn Nhượng-Nguyễn Văn Kháng, 9 giờ 13 phút, đôi bay: Nguyễn Hữu Lâm-Đỗ Viết Nhã và 9 giờ 17
phút, đôi bay: Phạm Hy-Phạm Văn Đức. Đợt 2, đánh E10: Đôi bay: Dương Đình Nghi-Nguyễn Văn Nuôi cất cánh lúc
13 giờ 05 phút và đôi cuối cùng: Ngô Duy Tuân- Nguyễn Văn Kháng, 13 giờ 10 phút, rời đường băng Biên Hoà.
Những sai lầm và thiếu sót của hôm trước đã cơ bản được khắc phục, F-5 hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Tháng 9 năm 1978, căn cứ vào mệnh lệnh tác chiến của Quân chủng Không quân, để tăng cường lực lượng
chiến đấu bảo vệ và giữ yên biên giới Tây Nam của Tổ quốc Trung đoàn 925 nhận nhiệm vụ cơ động chuyển sân
MiG-19 từ Phù Cát vào Biên Hoà. Kế hoạch bảo đảm dẫn đường kịp thời được triển khai ngay ở tất các đơn vị có liên
quan trên toàn tuyến cơ động chuyển sân. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy nhanh chóng lên đường: 2 trợ lý dẫn đường
của Sư đoàn 370 là Đỗ Long và Phạm Tân Thuần được bổ sung cho ban dẫn đường Sư đoàn 372 và 2 trợ lý dẫn đường
của Trung đoàn 925 là Hà Văn Bền và Trần Văn Quang vào Biên Hoà phối hợp với Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn
935 để cùng thực hiện dẫn MiG-19 làm nhiệm vụ. Như vậy, công tác bảo đảm dẫn đường ở Biên Hoà ngày càng trở
nên phức tạp và nặng nề hơn vì tại đây ngoài F-5 còn có cả MiG-21, MiG-17 và MiG-19. Đây chính là một trong
những mốc lịch sử rất quan trọng của Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935: Một tiểu ban được đảm nhiệm dẫn tất cả
các kiểu loại máy bay tiêm kích có trong trang bị của Không quân nhân dân Việt Nam tham gia chiến đấu trên chiến
trường Tây Nam, trong đó dẫn đánh mục tiêu trên mặt đất là nhiệm vụ trung tâm, dẫn yểm hộ, sẵn sàng đánh mục tiêu
trên không là nhiệm vụ quan trọng.

Trong khoảng thời gian tháng 10 và 11 năm 1978, tình hình chiến sự trên biên giới Tây Nam tạm lắng. Đây
là dấu hiệu rất bất thường. Đến đầu tháng 12, một số đơn vì tinh nhuệ của địch bắt đầu đánh vào nhiều vị trí trọng yếu
của ta. Tiếp sau đó, bọn phản động Khơ-me đỏ liều lĩnh điều động 19 sư đoàn trong tổng số 24 sư đoàn của chúng áp
sát biên giới Việt Nam, bộc lộ rõ ý đồ dùng sức mạnh quân sự, tiến công quy mô lớn, đánh chiếm một số tỉnh biên
giới, làm bàn đạp tiến công sâu vào nội địa nước ta. Tình hình biên giới Tây Nam trở nên cực kỳ căng thẳng. Toàn bộ
mọi động thái của địch đều được ta theo dõi, phân tích và đánh giá rất nghiêm túc và toàn diện.
Để thực hiện quyết tâm tác chiến bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Tổ
quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế và khôi phục tình đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa hai nước Việt Nam - Cam- pu-
chia, đồng chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh Mặt trận Tây Nam trực tiếp giao nhiệm vụ cho Quân chủng Không Quân. Ta sử
dụng lực lượng của 3 quân khu, 3 quân đoàn và một phần lực lượng của Quân chủng Không quân và Hải quân phối
hợp hiệp đồng với lực lượng cách mạng của bạn, mở chiến dịch đánh trả mạnh mẽ, tranh thủ thời cơ thuận lợi tiến
hành phản công quyết liệt, tạo mọi điều kiện chuyển sang tiến công chiến lược, tiêu diệt lực lượng vũ trang, đánh đổ
tập đoàn phản động Khơ-me đỏ Pôn-pốt Iêng-xa-ry, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng. Mọi
công tác chuẩn bị phải được tiến hành thật chu đáo, đầy đủ, hết sức bí mật và nhanh chóng để chiến dịch Tây Nam có
thể bắt đầu vào ngày 23 tháng 12 năm 1978.

Công tác chuẩn bị cho chiến dịch được Quân chủng tổ chức triển khai đồng bộ và nhịp nhàng từ trên xuống
dưới, từ cơ quan đến đơn vị. Ngoài các tin tức về địch do cấp trên thường xuyên thông báo xuống, kết quả trinh sát
điện tử và chụp ảnh của các chuyến bay do các tổ bay EC-47 và C-130 trong ngày 6 tháng 12 năm 1978 đã trực tiếp
làm rõ thêm thực trạng một số mục tiêu quan trọng trên chiến trường.

Quân chủng lấy Sư đoàn 372 làm lực lượng nòng cốt trong chiến dịch này, đồng thời điều thêm lực lượng
của các đơn vị khác vào phối thuộc chiến đấu và bảo đảm chiến đấu cho Sư đoàn 372. Ta vừa xây dựng quyết tâm và
làm kế hoạch chiến đấu, vừa tổ chức cơ động chuyển sân và củng cố các sân bay. Ngày 18 tháng 12 năm 1978, 1 phi
đội MiG-21 có đủ trình độ đánh địch cả ban ngày và ban đêm của Trung đoàn 921 từ Nội Bài vào Biên Hoà để ngày
25 tháng 12 sẽ bắt đầu trực chiến. 4 Mi-6 của Trung đoàn 916 và một số C-130, C-119k và EC-47 của Trung đoàn 918
(từ giữa năm 1978, Trung đoàn 918 trực thuộc Quân chủng) cũng được tăng cường cho Sư đoàn 372. Công tác bảo
đảm dẫn đường trên toàn tuyến Bắc Nam của ngành Dẫn đường đã kịp thời đáp ứng ngay các yêu cầu cơ động chuyển
sân của Quân chủng và của các đơn vị. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy ở phía bắc tiếp tục vào tăng cường cho Tiểu ban
dẫn đường Trung đoàn 935, bao gồm 3 trợ lý dẫn đường Trung đoàn 921 là Khổng Vũ Bằng, Đoàn Văn Bình, Trương
Thanh Lương và 2 trợ lý dẫn đường Sư đoàn 371 là Dương Minh Phương và Trần Hồng Thái.

Căn cứ vào ý định của Quân chủng, Sư đoàn 372 thành lập 2 sở chỉ huy phía trước là F-1 đặt tại Bến Cầu,
F-2 tại Châu Đốc và 5 Tổ tham mưu chiến dịch (tham mưu không quân) theo hướng tác chiến của các quân khu, quân
đoàn và Quân chủng Hải quân. Các Tổ tham mưu chiến dịch đều được biên chế gọn mạnh về quân số và có đủ thiết bị
thông tin liên lạc theo đúng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tổ tham mưu chiến dịch theo hướng tác chiến của Quân
đoàn 4 do đồng chí Trần Văn Lại phụ trách, đồng chí Phạm Tường Thuật trợ lý dẫn đường Trung đoàn 935 được cử đi
hướng này; theo hướng tác chiến của Quân khu 5, Quân đoàn 2 và Quân chủng Hải quân do đồng chí Lê Hải, Tham
mưu trưởng sư đoàn phụ trách, trung uý Hoàng Đức Hạnh, trợ lý dẫn đường sư đoàn được phân công đi cùng; theo
hướng tác chiến của Quân khu 7 do đồng chí Thái Công Thuấn, Trưởng ban Tác chiến sư đoàn phụ trách, có thiếu uý
Lưu Thế Nghiệp trợ lý dẫn đường Trung đoàn 937; theo hướng tác chiến của hướng Quân đoàn 3 do đồng chí Lê Minh
Đức phụ trách, có thiếu uý Hồ Hạnh, trợ lý dẫn đường Trung đoàn 935 và theo hướng tác chiến của hướng Quân khu 9
do Phó Tham mưu trưởng sư đoàn Tưởng Phi Đằng phụ trách, có thiếu uý Hà Khắc Hồng trợ lý dẫn đường Trung
đoàn 937 tham gia.

Về hệ thống sân bay: Sân bay Biên Hoà được chọn làm căn cứ trung tâm, 2 sân bay trọng điểm là Cần Thơ
và Tân Sơn Nhất, các sân bay phía trước là Dương Minh Châu, Trảng Lớn, Thất Sơn, Phú Quốc, Plei Ku… Tất cả đều
được nhanh chóng củng cố nhằm bảo đảm cho tất cả các loại máy bay và trực thăng của không quân ta hoạt động thật
hiệu quả, đáp ứng mọi yêu cầu của các nhiệm vụ trên giao trong chiến dịch này.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 4 nổ súng mở màn chiến dịch Tây Nam, tiến hành bao vây, chia
cắt đội hình 3 sư đoàn 271, 703 và 340 của địch ở khu vực rừng Hoà Hội (tây-tây bắc Tây Ninh 23km). Trung đoàn
935 được giao nhiệm vụ chi viện hoả lực cho các đơn vị đánh trên hướng chủ yếu của Quân đoàn 4. Thủ trưởng trực
chỉ huy quân sự và chính trị Nguyễn Văn Nghĩa và Phan Sinh Thành yêu cầu kíp trực ban dẫn đường tập trung kiểm
tra kỹ các phương án dẫn đường, hiệp đồng chặt chẽ với các đầu mối, phân chia công việc rõ ràng, bình tĩnh phối hợp
cùng nhau xử lý mọi tình huống, nhất là khi có không quân địch xuất hiện. Tại Biên Hoà, lực lượng làm nhiệm vụ trực
chi viện hoả lực gồm 2 biên đội và 1 đôi F-5. Các máy bay này, ngoài mang bom, đều mang 2 tên lửa không đối
không. Trực tiêm kích yểm hộ cho F-5 có 2 đôi MiG-21, 2 đôi MiG-19 và 1 đôi MiG-17. Trên sân bay Dương Minh
Châu có 1 U-17, 2 đôi UH-1 vũ trang và 1 UH-1 vận tải sẵn sàng cất cánh theo lệnh.

Kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372 chịu trách nhiệm dẫn chính MiG-21, 19, 17 và theo dõi các chuyến
bay của Trung đoàn 917. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Nguyễn Văn Nhâm-dương Ngoạn tại sở chỉ huy và
Nguyễn Văn Hưng và Phí Đình Khang trên hiện sóng tại C-51 tập trung dẫn F-5. Các kíp trực ban dẫn đường đều hiệp
đồng chặt chẽ với đồng chí Phạm Tường Thuật trợ lý dẫn đường theo hướng tác chiến của Quân đoàn 4. Đúng 15 giờ,
không quân ta bắt đầu hoạt động. 2 phi công U-17: Phan Huy Tứu-nguyễn Văn Sửu lên trinh sát. Từ 15 giờ 15 đến 16
giờ 0 5 phút, 3 tốp F-5 lần lượt cất cánh và bay theo đường bay: Biên Hoà-Phú Cường-núi Bà Đen, rồi vòng trái về
phía mục tiêu. Tốp thứ nhất, biên đội: Dương Đình Nghi-Hoàng Thành-Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn Thăng Thắng.
Tốp thứ hai, 3 phi công: Nguyễn Hữu Lâm-Nguyễn Văn Nuôi-Nguyễn Văn Ớt. Tốp thứ ba, đôi bay: Nguyễn Thanh
Xuân-Mai Văn Sách. Với 9 lần/chiếc chi viện hoả lực, F-5 đánh trúng Sở chỉ huy Sư đoàn 703 và các trận địa pháo
của địch ở khu vực Hoà Thanh (nam Hoà Hội 7km). Trong khi F-5 đánh, kíp trực ban dẫn đường sư đoàn dẫn MiG-21
và MiG-17 lên yểm hộ tại khu vực Svay Riêng và điều hành UH-1 cất cánh đúng ý định của thủ trưởng trực chỉ huy.
Ngày hôm sau, 24 tháng 12, Quân đoàn 4 đẩy nhanh tốc độ truy kích địch trên hướng chủ yếu, không quân ta cho tiếp
4 lần/chiếc F-5 lên chi viện hoả lực, đánh trúng 1 trong 2 mục tiêu được giao ở Kp. Trach (tây-tây bắc Hoà Hội 13km).

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian Quân đoàn 4 đánh mạnh, tiến xa trên hướng chủ yếu của
chiến dịch Tây Nam và các quân khu, quân đoàn khác tiến hành các đòn phản công trên các hướng quan trọng, từ cuối
tháng 12 năm 1978, lực lượng trực chiến của Quân chủng Không quân trên các sân bay ngày càng tăng, không những
đối với lực lượng chi viện hoả lực mà cả đối với các lực lượng yểm hộ và phục vụ, bảo đảm khác. Khi tiến hành chi
viện hoả lực, ngoài F-5, A-37 và UH-1 vũ trang, sẽ có thêm C-130, C-119K với tầm hoạt động xa hơn và lượng mang
bom đạn lớn hơn. Điều kiện thời tiết đánh các mục tiêu trên mặt đất không chỉ ban ngày mà cả ban đêm. Lực lượng
MiG-21, MiG-19 và MiG-17 đều đã sẵn sàng cất cánh chặn đánh không quân địch, nếu chúng liều lĩnh xuất hiện.

Để chuẩn bị chi viện hoả lực cho Quân khu 5, không quân ta khẩn trương tiến hành cơ động chuyển sân.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Trung đoàn 917 đưa lên Plei Ku: 6 UH-1, 2 U-17 và 1 CH-47 do đồng chí Nguyễn Xuân
Trường chỉ huy. Ngày 25 tháng 12, Trung đoàn 918 cho 2 C-119K từ Tân Sơn Nhất lên Plei Ku do đồng chí Lê Năng
đảm nhiệm và chở Tổ tham mưu chiến dịch của đồng chí Lê Hải. Ngày 27, 2 C-130 cơ động lên Biên Hoà. Một phần
lực lượng F-5, MiG-19 tại Biên Hoà và MiG-19 tại phù Cát cũng đã được Quân chủng Không quân đưa vào kế hoạch
tác chiến trên hướng này.

Sau khi được quán triệt ý định tác chiến của Quân khu 5 là sử dụng hai sư đoàn bộ binh 307 và 309, Trung
đoàn thiết giáp 574 và Trung đoàn pháo binh 572, chia làm hai hướng, bao vây tiêu diệt sư đoàn 801 và trung đoàn 15
của địch, phát triển thọc sâu vào hậu cứ quân khu Đông Bắc của Khơ-me đỏ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phong
trào nổi dậy của nhân dân Cam-pu-chia tại vùng này và nắm chắc các mục tiêu quan trọng cần phải đánh; đội ngũ dẫn
đường trên không trong các tổ bay nhanh chóng hoàn thành các phương án dẫn bay theo từng nhiệm vụ cụ thể của
mình, đặc biệt là dẫn C-130, C119k tập kích vào các mục tiêu nằm trong hậu phương của địch và trực ban dẫn đường
tại các sở chỉ huy kịp thời hiệp đồng, thông báo các phương án dẫn bay đã được phê chuẩn đến các đầu mối.Sáng 28
tháng 12 năm 1978, lực lượng kỹ thuật của Trung đoàn 918 tập trung lắp bom MK-81 lên C-130 và lắp đạn cối lên C-
119K, đội ngũ dẫn đường trên không của các tổ bay tiến hành rà soát lại các số liệu đường bay, kiểm tra các thiết bị
dẫn bay và hệ thống máy ngắm, kíp trực ban dẫn đường tại các sở chỉ huy hiệu chỉnh lại thứ tự thời gian cất cánh của
tất cả các tốp trinh sát, tập kích, yểm hộ và bảo đảm. Mọi mặt công tác chuẩn bị trực tiếp cho nhiệm vụ chiến đấu đều
được hoàn thành xong trước thời hạn quy định của Quân chủng. Tất cả tập trung chờ lệnh xuất kích.

Tại sở chỉ huy Plei Ku đồng chí Lê Hải cho 2 U-17 lần lượt lên trinh sát khu vực phía tây Đường 19 và
đường 94. Ngay lập tức các thông tin về thời tiết và các vị trí khả nghi có địch đã được đồng chí Hoàng Đức Hạnh, trợ
lý dẫn đường hướng Quân khu 5, ghi chép đầy đủ và đánh dấu lên bản đồ công tác của Tổ tham mưu chiến dịch.

11 giờ 20 phút, theo lệnh của Sở chỉ huy Sư đoàn 372, tổ bay C-130 thứ nhất do lái chính Tiêu Khánh Nha
chỉ huy, trong đó có dẫn đường trên không Đặng Văn Lự và tiếp theo là tổ bay C-130 thứ hai do lái chính Phan Hữu
Hùng, dẫn đường trên không Đỗ Tuấn rời đường băng Biên Hoà. 11 giờ 49 phút, đôi bay F-5: Nguyễn Văn Nuôi- Mai
Văn Sách cất cánh yểm hộ cho C-130 và kíp trực ban dẫn đường sư đoàn dẫn vào bay tại khu vực Lộc Ninh- Ph. Cha
Nêng (đông bắc Lộc Ninh 39km)-Đồng Xoài. C-130 lấy độ cao, vào W1 và bay lên Plei Ku. Vào lúc này, theo kế
hoạch tác chiến của Quân chủng Không quân, Sở chỉ huy Sư đoàn 370 lệnh cho 4 MiG-19 tại Phù Cát cất cánh. Kíp
trực ban dẫn đường Trung đoàn 925 dẫn MiG-19 vào khu vực cách Plei Ku 40km về phía tây bắc bay yểm hộ cho C-
130. Còn Trung đoàn 917 cho 2 UH-1 từ Plei Ku, bay theo hướng tây vào khu vực trực cấp cứu. C-130 đến Plei Ku,
vòng trái, rồi bay qua điểm cuối K1 (Ph.Kampadou ở ngã ba sông, tây-tây nam Plei Ku 65km). Tổ bay thứ nhất vào
đánh mục tiêu K4 (Virâcheăy-vi Ra Chây), tổ bay thứ hai đánh K3 (Bung Lung). Mỗi tổ ném 2 loạt mỗi loạt ném một
nửa số lượng bom mang theo. Loạt bom đầu tiên của tổ bay thứ nhất rơi vào mép bên trái khu A, còn loạt bom sau
trúng vào khu B của K4. Tổ bay thứ hai ném loạt đầu, điểm nổ so với tâm mục tiêu K3 lệch trái 500m và loạt cuối
cùng lệch phải 300m. C-130 thoát ly khỏi khu vực chiến đấu về Biên Hoà hạ cánh. 12 giờ 40 phút, đôi bay MiG-19:
Vũ Công Thuyết-Phạm Văn Đích cất cánh từ Biên Hoà, bay yểm hộ tại khu vực Bến Cầu- Kh Đar và đến 13 giờ 45
phút, đôi bay F-5: Dương Đình Nghi-Nguyễn Khắc Chiến tiếp tục lên yểm hộ tại khu vực Phước Hoà (Bù Gia Mập)-
Tuy Đức (đông bắc Phước Hoà 35km)-Phước Tâm (Bù Đăng).

Từ Plei Ku, C-119K cất cánh đánh vào K2 (Bâ Kêv), nhưng rất tiếc, do sự cố kỹ thuật đột xuất, nên chỉ có
1 chiếc tham gia. Sau khi phát hiện mục tiêu, lái chính Trần Văn Tuyên đưa máy bay vào đúng hướng tiếp cận mục
tiêu, giữ ổn định trạng thái bay bằng, độ cao và tốc độ bay. Dẫn đường trên không Nguyễn Khắc Thọ lấy phần tử
ngắm. Loạt thứ nhất, 60 quả đạn cối 82mm rơi đúng vào sở chỉ huy của Sư đoàn 801 Khơ-me đỏ. C-119K vòng lại,
ném tiếp loạt thứ hai, 72 quả đạn cối còn lại đều rơi vào khu vực K2. Đúng lúc này, lái chính Trần Văn Tuyên cảm
thấy trạng thái máy bay có biểu hiện bất thường. Anh bình tĩnh giữ chắc tay lái và điều khiển máy bay bay về Plei Ku
hạ cánh an toàn. Ngay sau đó, nguyên nhân đã được tổ kỹ thuật làm rõ: cánh thăng bằng ngang của C-119K bị biến
dạng do thùng chứa các quả đạn cối va phải khi rời khỏi máy bay. C 130 và C-119K của Trung đoàn 918 lập công
đánh thắng trận đầu trong chiến dịch Tây Nam. Các đồng chí dẫn đường trên không Đặng Văn Lự, Đỗ Tuấn và
Nguyên Khắc Thọ đã dẫn thành công máy bay vận tải C-130 và C-119K, được cải tiến mang bom đạn, tập kích vào
các mục tiêu nằm trong hậu phương của địch, đồng thời ghi thêm một chiến công vẻ vang cho ngành Dẫn đường
Không quân.
Sau khi C-119k đánh mục tiêu K2, 4 UH-1 từ Plei Ku cơ động đến sân bay phía trước Đức Cơ (tây-tây nam
Plei Ku 44km) và cất cánh theo lệnh gọi đánh vào tuyến phòng thủ của địch. Đến chiều, UH-1 vũ trang tiếp tục thực
hiện chi viện hoả lực cho các đơn vị của Quân khu 5.

Sáng 29 tháng 12 năm 1978, 2 C-130 đánh theo kế hoạch vào mục tiêu K3 lần thứ hai và 3 UH-1 vũ trang,
được 2 U-17 chỉ thị mục tiêu, đánh theo lệnh gọi vào K2. Bộ đội Quân khu 5 phản công và làm chủ chiến trường.
Ngay chiều 29, toàn bộ lực lượng của không quân ta tại Plei Ku cơ động chuyển sân về Tân Sơn Nhất để chuẩn bị cho
nhiệm vụ chiến đấu mới.

Trong lúc Quân khu 5 phản công giành thắng lợi trên trục Đường 19, 94 và tiến thẳng vào hậu cứ quân khu
Đông Bắc của quân Khơ- me đỏ thì bộ đội Quân khu 7 đánh rất thuận lợi, phản công nhanh theo trục Đường 13 lên
phía bắc. Địch rút chạy, nhưng mưu đồ của chúng là sẽ cùng với các lực lượng phía sau tạo ra một tuyến phòng thủ
mới tại khu vực Kra Chie (Cro Chê). Trước tình hình đó, để thực hiện đứng ý định tác chiến của Bộ Tư lệnh chiến
dịch, ngày 30 tháng 12 năm 1978, Trung đoàn 935 được giao nhiệm vụ tập kích vào các mục tiêu Ki (bến phà Kra
Chie) và K2 (khu tập trung quân phía tây bến phà Kra Chie) trước khi quân ta tiến sát đến phía đông sông Mê Công.

15 giờ 20 phút, đôi bay F-5: Ngô Duy Tuân-Nguyễn Thăng Thắng và 5 phút sau, đôi bay MiG-21: Hoàng
Quốc Dũng-Nguyễn Văn Toàn cất cánh. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935 dẫn F-5 và MiG-21 vào bay yểm hộ
khu vực sau đó cho các đôi F-5 làm nhiệm vụ tập kích vào K1 và K2 lần lượt mở máy theo kế hoạch. 15 giờ 58 phút,
đôi bay F-5 thứ nhất: Dương Đình Nghi - số 1 và Bùi Văn Ký - số 2 cất cánh. Số 1, do không nâng được bánh trước,
đã chủ động dừng lại. Còn số 2, theo lệnh của chỉ huy bay, tiếp tục lên. Khi đôi F-5 thứ hai mở máy thì máy bay của
phi công Lê Kim Toán bị hỏng, nên đến 16 giờ 09 phút, đội trưởng Nguyễn Thanh Xuân mới rời đường băng. 16 giờ
19 phút, đôi bay F-5 thứ ba: Phạm Hy-Nguyễn Văn Ớt cất cánh và không gặp sự cố kỹ thuật nào. Ngay lập tức, thủ
trưởng trực chỉ huy trung đoàn Nguyễn Văn Nghĩa ra lệnh cho 3 tốp F-5 chỉ tập trung đánh K1 và giữ đúng cách bay
đã được chuẩn bị. Từ Phú Cường, qua Snoul (bắc-tây bắc Lộc Ninh 31km) và đến gần mục tiêu F-5 bay ở độ cao từ 1
000 feet đến 2.000 feet, sau đó kéo cao lên 10.000 feet, rồi vòng lại vào bổ nhào theo hướng 170- 180 độ. Bom của F-
5 đánh trúng đầu đông của bến phà Kra Chie, Sở chỉ huy Sư đoàn 260 và 1 trận địa pháo của địch. Khi F-5 còn đang
đánh, sở chỉ huy Trung đoàn 935, phát hiện trên không có địch và dẫn ngay đôi MiG-21 Dũng-Toàn vào, nhưng sau đó
lại mất mục tiêu.

Đây là một trong những ngày không quân ta hoạt động đạt hiệu quả thấp. Ngoài nguyên nhân về kỹ thuật
hàng không, phi công số 2 của đôi F-5 thứ nhất đã bay lệch khá xa mục tiêu do chuẩn bị dẫn đường không kỹ cả về số
liệu bay và cách nhận dạng địa tiêu. Còn dẫn đường tại sở chỉ huy đã không kịp thời nhắc nhở phi công F-5 khi thấy
vết bay thực tế sai lệch quá lớn.

Trong thời gian Quân khu 7 đánh địch trên Đường 13 thì Quân đoàn 3 tiến hành phản công mãnh liệt dọc
theo trục đường 7: từ khu vực Mi mốt (bắc núi Bà Đen 50km), qua Ph.Kreh (tây-tây nam Mi mốt 28km) và lên phía
Kông Pông Chàm. Ngày 31 tháng 12 năm 1978, Trung đoàn 935 tổ chức đánh hai đợt vào 2 mục tiêu T1 ở Kh.Suông
(đông nam Kông Pông Chàm 22km) và T5 tại Phumi Kândan Chrum (đông nam Kông Pông Chàm 38km) nhằm chi
viện cho các đơn vị của Quân đoàn 3 tiến nhanh hơn. Kíp trực ban dẫn đường trung đoàn: Đào Văn Phao-Đỗ Duy Đản
tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng trên hiện sóng chịu trách nhiệm dẫn chính.

Đợt 1 F-5 bắt đầu hoạt động từ 7 giờ 50 phút đến 9 giờ 56 phút 30 giây. Biên đội thứ nhất: Lê Khương-
Nguyễn Văn Ớt-Phạm Hy-Nguyễn Văn Nuôi bay theo đường bay: Biên Hoà-phú Cường-núi Bà Đen-Mimốt vào đánh
T1. Biên đội thứ hai: Dương Đình Nghi-Hoàng Thành-Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn Thăng Thắng cũng bay đến Mi
mốt, nhưng vào đánh T5. Đợt 2 từ 14 giờ 24 phút 45 giây đến 15 giờ 29 phút 30 giây. 3 đôi bay: Nguyễn Thanh Xuân-
Mai Văn Sách, Dương Bá Kháng-Hoàng Hữu Hiền và Nguyễn Văn Kháng-Phí Đức Quỳ tiếp tục tập trung đánh T1.
Nhưng sau khi bay qua núi Bà Đen, F-5 không lên Mi mốt mà vòng sang Thiện Ngôn rồi mới vào T1.

Trong trận đánh này kíp trực ban dẫn đường trung đoàn đã phát huy cách dẫn bay thấp, lựa chọn chính xác
vị trí kéo cao và điểm bắt đầu vòng vào bổ nhào, tạo thuận lợi cho phi công sau khi cải hướng chiến đấu, thực hiện
công kích mục tiêu được ngay, đồng thời xử lý nhanh chóng hai trường hợp khi phi công phát hiện nhầm mục tiêu
trước lúc vào công kích. Kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372 luôn theo dõi chặt chẽ 3 UH-1 bay sẵn sàng cấp cứu và
3 đôi MiG-19, MiG-21 và MiG-17 bay yểm hộ khu vực. Dẫn đường đã thực hiện dẫn đánh đúng ý định của người chỉ
huy là vừa tiêu diệt địch vừa gây ùn tắc trước khi chúng rút chạy về Kông Pông Chàm. Hiệu quả đánh địch đã được
nâng lên rõ rệt.

Trước khả năng phát triển rất thuận lợi trên toàn chiến trường, Quân chủng Không quân đã chỉ đạo cho Sư
đoàn 372 chuẩn bị thật chu đáo về mọi mặt để sẵn sang đưa các lực lượng của ta vào chi viện cho bộ đội các quân khu,
quân đoàn, quân chủng trên nhiều hướng của chiến dịch, nhưng trong cùng một thời gian.

Ngày 1 tháng 1 năm 1979, quân Khơ-me đỏ tiếp tục rút lui theo Đường 13 về Kra Chie và theo đường 7 về
Kông Pông Chàm. Theo phương án dẫn đường đã được trực chỉ huy đồng ý, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935
dẫn hai tốp (7 lần/chiếc F-5) từ 8 giờ 35 phút đến 9 giờ 41 phút, đánh vào hai mục tiêu K3 và K4 (nam Kra Chie 13 và
17km), chìm 1 phà và trúng nhiều tàu chở quân đang chuẩn bị rời bến sang bờ tây sông Mê Công. Sau đó, theo lệnh
của thủ trưởng trực chỉ huy trung đoàn, kíp trực ban dẫn đường dẫn đánh tiếp hai đợt nữa, mỗi đợt hai tốp (5 lần/chiếc
F-5) từ 11 giờ 40 phút 30 giây đến 12 giờ 50 phút và từ 15 giờ 10 phút 30 giây đến 16 giờ 14 phút, đều vào mục tiêu
T7 (đầu đông của bến phà Kông Pông Chàm). Kết quả là địch bị chìm 1 phà và bị cháy 4 tàu sông.

Cũng trong ngày 1 tháng 1 năm 1979, theo kế hoạch tác chiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Quân khu 9 và
Quân đoàn 2 tiến hành phản công địch tại khu vực núi Xôm (tây Tịnh Biên 13km). Trung đoàn không quân 937 sử
dụng 12 A-37 đánh tiêu diệt 2 sở chỉ huy của trung đoàn 15, trung đoàn 17 và đánh trúng một số chốt phòng thủ quan
trọng của địch nằm ở phía nam và đông nam núi Xôm. Các đơn vị bộ binh của ta nhanh chóng vượt qua cửa mở và
tiến sâu vào tung thâm.

Đây là các trận đánh mở màn cho năm 1979 của không quân ta. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã hiệp
đồng chặt chẽ với đội ngũ phi công và các thành phần khác, dẫn thành công F-5 đánh địch tại hai khu vực cách xa
nhau 76km, chi viện hiệu quả cho các đơn vị của Quân khu 7 và Quân đoàn 3, đồng thời dẫn A-37 đánh địch cách khu
vực của F-5 hoạt động từ 165 đến 245km, chi viện kịp thời cho các đơn vị của Quân khu 9 và Quân đoàn 2 trong cùng
một ngày.

Ngày 2 tháng 1 năm 1979, tại Biên Hoà, ngoài F-5 trực chi viện hoả lực, trực tiêm kích phòng không gồm 3
đôi MiG-21, 3 đôi MiG-19, 1 đôi MiG-17 và 1 đôi F-5. Còn ở sân bay Dương Minh Châu: 2 U-17, 3 UH-1 và 1 CH-
47. Khi Quân đoàn 4 đánh trên hướng quan trọng của mình về phía Svay Riêng vào sư đoàn 1 và 460 của địch, kíp
trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Lê Quốc Bảo-Hoàng Ngọc Hớn tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng-Phí Đình
Khang trên hiện sóng thực hiện dẫn 8 lần/chiếc F-5 đánh vào 2 mục tiêu V5 ở Moeuchey (bắc-tây bắc Svay Riêng
16km) và V6 tại Chantrey (bắc-tây bắc Svay Riêng 24km), làm tê liệt hệ thống chỉ huy của sư đoàn 1. Kíp trực ban
dẫn đường Sư đoàn 372: Đặng Văn Dũng-Nguyễn Việt Cường-Lê Huy Tương-Vương Kính đã lần lượt dẫn 1 đôi F-5
và 1 đôi MiG-17 bay yểm hộ khu vực cho F-5 tại tây bắc Kông Pông Trach 10km, quản lý chặt chẽ 1 U-17 và 1 UH-1
vận tải của Trung đoàn 917 hoạt động ở Tây Bến Sỏi 12km và dẫn các đôi trực tiêm kích phòng không khác lên làm
nhiệm vụ vì trong ngày Quân khu 7, Quân đoàn 3, Quân khu 9 và Quân đoàn 2 đang cơ động, bố trí đội hình để chuẩn
bị đánh lớn.

Quân Khơ-me đỏ không thể chống đỡ nổi thế và lực phản công rất mạnh của Quân đoàn 4, chúng buộc phải
rút chạy về phía Ph.Niếc Lương (tây-tây bắc Svay Riêng 60km). Qua đánh giá tình hình, Bộ Tư lệnh Quân chủng
Không quân nhận đỉnh: Chúng nhất thiết sẽ bám theo hệ thống đường bộ, sau đó qua phà Niếc Lương, sang bờ tây
sông Mê Công để củng cố lực lượng và xây dựng tuyến phòng thủ mới. Đây là điểm nút giao thông cực kỳ quan trọng
đối với địch, nhưng lại là mục tiêu đánh rất thuận lợi của không quân ta. Do đó, khi được Bộ Tư lệnh chiến dịch giao
nhiệm vụ, Quân chủng Không quân đã xây dựng ngay kế hoạch đánh địch bằng đòn tiến công tập kích đường không
vào khu vực Niếc Lương. Sư đoàn 372 nhanh chóng phân chia mục tiêu cho các đơn vị. Các tiểu ban dẫn đường hai
trung đoàn 935, 937 và đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay của Trung đoàn 918 tập trung hoàn thành ngay
các phương án dẫn máy bay của đơn vị mình đánh vào các mục tiêu được giao; còn Trung đoàn 917 lại tập trung làm
các phương án dẫn bay trinh sát, cấp cứu, vận chuyển súng đạn và thuốc men, chở cán bộ và đón thương binh theo yêu
cầu của Quân đoàn 4.

Ngày 3 tháng 1 năm 1979, theo lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 935 Nguyễn Văn Nghĩa, kíp
trực ban dẫn đường: Hoàng Ngọc Hớn-Đào Văn Phao-Dương Ngoạn-Đỗ Duy Đản tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Đờn-
Đình Khang trên hiện sóng tại C-51 dẫn lần lượt từng 1 F-5 lên đánh theo kế hoạch. 6 giờ, sở chỉ huy vào cấp 1 và cho
mở radar dẫn đường. 6 giờ 35 phút, đôi bay F-5 thứ nhất: Nguyễn Thanh Xuân-Nguyễn Văn Trọng cất cánh từ Biên
Hoà, qua Gò Dầu Hạ, vào đánh các mục tiêu cố định ở hai bên Đường 1 phía tây bắc Svay Riêng. 7 giờ 15 phút 30
giây, đôi bay F-5 thứ hai: Nguyễn Văn Kháng- Nguyễn Thăng Thắng cất cánh và tiếp sau đó là 4 đôi bay F-5 nữa:
Nguyễn Hữu Lâm-Hoàng Thành, Dương Đình Nghi-Bùi Văn Ký, Nguyễn Văn Nuôi-Nguyễn Văn Ớt và Hoàng Hữu
Hiền-Đỗ Viết Nhã lên đánh các đoàn xe, pháo của địch đang rút chạy trên Đường 1 từ Ph. Svay Chrum (tây bắc Svay
Riêng 5km) đến Ph. Ampil (tây bắc Svay Riêng 25km). 9 giờ 30 phút, đôi bay cuối cùng tham gia đánh đợt 1 hạ cánh.

Sau khi đôi bay F-5 thứ nhất cất cánh, A-37 của Trung đoàn 937 được lệnh xuất kích đánh vào các mục tiêu
tại núi Xôm lần thứ hai. 3 biên đội: Âu Văn Hùng-Trần Ngọc Tôn-Đoàn Hữu Cầu-Ngô Văn Phúc, Huỳnh Hiền-Trần
Xuân Lai-Nguyễn Văn Sinh-Nguyễn Văn Quang và Nguyễn Hùng Vân-Thái Quang Hợi-Phùng Công Định- Đào Văn
Sơn nối nhau rời đường băng Biên Hoà, bay thấp ở độ cao 1.500 feet, hạn chế liên lạc đối không và khi còn cách mục
tiêu 3 phút 30 giây mới kéo cao lên 10.000 feet, vào công kích với góc bổ nhào 35 độ, ném bom từ độ cao 7.000 feet,
rồi thoát ly. Sở chỉ huy của 2 Sư đoàn 210, 250 và 1 trận địa pháo 105mm của quân Khơ-me đỏ tại khu vực núi Xôm
bị tiêu diệt, buộc địch phải rút lui về Ta Keo.

Chấp hành lệnh của sư đoàn, Trung đoàn 935 khẩn trương tổ chức chuẩn bị cất cánh đánh tiếp vào các đoàn
xe, pháo của địch đang kéo nhau chạy về Niếc Lương. 11 giờ 43 phút, bắt đầu đánh đợt hai, 4 đôi bay F-5: Nguyễn
Văn Kháng-Mai Văn Sách, Hoàng Hữu Hiền - Đỗ Viết Nhã, Ngô Duy Tuân-Phí Đức Quỳ (riêng phi công Phí Đức
Quỳ không cất được do máy bay bị hỏng bánh trước) và Lê Khương-Phạm Trọng Chinh tiến hành đánh địch dọc theo
Đường 1 từ Ph.Pray Nhây (tây-tây bắc Svay Riêng 20km) đến Ph.Lôvia (đông nam Niếc Lương 14km). Đợt 2 kết thúc
vào lúc 12 giờ 50 phút.

Trong quá trình F-5 đánh địch, kíp trực ban dẫn đường sư đoàn đã phân công nhau dẫn từng đôi MiG-21
bay yểm hộ khu vực cho F-5 và A-37 ở tây nam Mộc Hoá 15km, theo dõi các chuyến bay của Trung đoàn 917 phục vụ
theo yêu cầu của Quân khu 7, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Quân khu 9, Quân đoàn 2 và tính toán thời gian cất cánh
cho Trung đoàn 937 đánh tiếp vào các mục tiêu tại khu vực Niếc Lương. 14 giờ 55 phút, từ Biên Hoà A-37 bắt đầu cất
cánh, biên đội thứ nhất: Nguyễn Văn Tài-Nguyễn Văn Vịnh-Cao Văn Phúc-Trần Trọng Vượng, tiếp sau đó là biên đội
thứ hai: Âu Văn Hùng-Trần Ngọc Tôn-Đoàn Hữu Cầu-Ngô Văn Phúc và biên đội thứ ba: Huỳnh Hiền-Trần Xuân Lai-
Nguyễn Văn Sinh-Nguyễn Văn Quang. Trên đường bay A-37 giữ độ cao thấp, gần đến mục tiêu kéo cao, rồi vào ném
bom bổ nhào theo hướng chiến đấu từ 160 đến 180 độ. Ngay từ những loạt bom đầu, nhiều trận địa pháo phòng không
của địch bảo vệ bến phà Niếc Lương đã bị chế áp trong đó có 1 trận địa cao xạ 37mm bị tiêu diệt. Những loạt bom tiếp
theo của A-37 rơi trúng vào 2 đầu bến, 1 chiếc phà lớn bị cháy và 2 tàu chở quân bị chìm. Đến 15 giờ 54 phút, A-37
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đợt 3 của Trung đoàn 935 được thực hiện từ 15 giờ 24 Phút đến 17 giờ 23 phút. Có 5 đôi bay F-5: Lê
Khương-Phí Đức Quỳ, Phạm Hy-Lê Kim Toán, Dương Đình Nghi-Bùi Văn Ký, Nguyễn Hữu Lâm-Phạm Trọng Chinh
và Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn Thăng Thắng tham gia đánh vào các đoàn xe, pháo của địch dọc theo Đường 1 từ
Kp.Tra Bek (đông nam Niếc Lương 25km) đến Kp. Xưng (đông nam Niếc Lương 5km), các cụm quân đang bị ùn tắc
ở phía đông bến phà Niếc Lương và cả tàu thuyền đang cố chạy sang bờ tây sông Mê Công.

Tuy ban ngày, quân địch bị F-5 và A-37 đánh cả trên Đường 1 và tại bến phà Niếc Lương, nhưng lực lượng
của chúng vẫn phải tiếp tục dồn về đây. Tối 3 tháng 1 năm 1979, Bộ chỉ huy chiến dịch yêu cầu không quân giáng một
đòn nữa vào bến phà Niếc Lương. Nhiệm vụ này được giao cho Trung đoàn 918. Vào lúc 22 giờ, tổ bay C-130 do lái
chính Tiêu Khánh Nha chỉ huy, 2 dẫn đường trên không là Đặng Văn Lự (dẫn chính) và Vũ Mạnh (dẫn phụ)… xuất
kích từ Biên Hoà. Trên đường bay đến bến phà, do trời xấu, nhiều mây, nên kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372 đã
kịp thời phối hợp cùng với dẫn đường trên không đưa máy bay ta vào đúng đường bay dự tính. Khi tới gần mục tiêu,
lái chính Tiêu Khánh Nha giữ máy bay bay bằng ổn định đúng độ cao, tốc độ và hướng bay chiến đấu; dẫn đường trên
không Đặng Văn Lự tập trung tinh lực điều chỉnh radar trên C-130, thấy rõ bến phà Niếc Lương, lấy phần tử ngắm và
đề nghị lái chính cho phép ném loạt, toàn bộ 40 quả MK-81-250 trong một lần. Sau khi bay qua mục tiêu, C-130 vòng
lại, ở phía dưới có nhiều đám cháy bùng lên dữ dội.

Như vậy, trong ngày 3 tháng 1 năm 1979, chỉ riêng tại khu vực từ Svay Riêng đến Niếc Lương và tại núi
Xôm không quân ta đã sử dụng 29 lần/chiếc F-5, 24 lần/chiếc A-37 và 1 lần/chiếc C-130. Riêng F-5, trong 19 phi công
tham gia xuất kích, có 8 phi công bay 2 chuyến và 1 phi công bay 3 chuyến là Nguyễn Văn Kháng. Còn đối với A-37,
trong 16 phi công tham gia xuất kích, có tới 50% bay 2 chuyến. Tất cả các chuyến bay trên đều được bản chính xác
đánh trúng mục tiêu được giao, vào đúng thời gian quy định, gây thiệt hại nặng nề cho quân Khơ-me đỏ. Đây là một
trong những ngày đội ngũ dẫn đường Quân chủng Không quân dẫn đánh đạt hiệu quả chiến đấu cao nhất trong chiến
dịch Tây Nam. Đặc biệt, 6 đồng chí trực ban dẫn đường F-5: Hoàng Ngọc Hớn, Đào Văn Phao, Dương Ngoạn, Đỗ
Duy Đản, Nguyễn Văn Đờn và Phí Đình Khang đã liên tục làm việc từ 6 giờ đến 17 giờ 23 phút, nhưng không để xảy
ra sai sót lớn nào và 2 đồng chí dẫn đường trên không Đặng Văn Lự và Vũ Mạnh đã dẫn thành công lao đánh đêm trận
đầu tiên, làm cho bến phà của địch bị tắc hẳn.

Những đòn chủ động, đón trước của không quân ta đánh vào các lực lượng rút lui của địch đã góp phần
quan trọng làm mất đi khả năng dồn quân về phòng thủ cho Phnôm Pênh, đồng thời tạo điều kiện rất thuận lợi cho các
đơn vị của Quân đoàn 4 phát triển phản công nhanh.

Trên hướng chủ yếu của chiến dịch Tây Nam, sau khi quân đoàn 4 làm chủ toàn bộ khu vực Ph. Niếc
Lương và trên các hướng khác quân ta đều giành thắng lợi giòn giã, Bộ Tổng Tham mưu quyết định sẽ triển khai lực
lượng đánh thẳng vào Phnôm Pênh. Để thực hiện quyết định trên, cần tổ chức một số trận đánh hết sức quan trọng ở
nhiều khu vực khác nhau.
Căn cứ vào ý định tác chiến của Quân chủng Không quân, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 372 nhanh chóng triển khai
ngay kế hoạch đánh địch cho từng đơn vị. 21 giờ 18 phút đêm 5 tháng 1 năm 1979, Sở chỉ huy Sư đoàn cho 1 chiếc C-
130 của Trung đoàn 918 cất cánh từ Biên Hoà, bay theo đường bay: Biên Hoà-Phú Cường-Hòn Chông-Phú Quốc- đảo
Cô Tang, rồi bất ngờ vòng phải vào mục tiêu (cảng Ream, tây bắc Phú Quốc 52km). 22 giờ 36 phút, máy bay ta tiếp
cận mục tiêu, dẫn đường trên không Đặng Văn Lự ngắm chính xác và ném toàn bộ số lượng bom mang theo trong 1
lần, rồi thoát ly về Tân Sơn Nhất. Khu vực cảng bốc cháy dữ dội. Đến 2 giờ 27 phút rạng sáng 6 tháng 1 năm 1979,
chiếc C-130 thứ hai cất cánh và tiếp tục đánh trúng mục tiêu vào lúc 3 giờ 33 phút khi các đám cháy do bom của chiếc
C-130 thứ nhất vẫn chưa kịp tắt hẳn và cũng trở về Tân Sơn Nhất hạ cánh an toàn. Dẫn đường trên không của 2 tổ bay
C-130 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong trận đánh đêm lần thứ hai của Trung đoàn 918.

Trong ngày 6 tháng 1 năm 1979, nhịp độ xuất kích của không quân ta tăng lên rất nhanh. Từ 7 giờ 50 phút
đến 11 giờ 45 phút, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Nguyễn Hồng Thái-Đỗ Duy Đản tại sở chỉ huy và
Nguyễn Văn Hưng trên hiện sóng lần lượt dẫn 3 đôi bay F.5: Nguyễn Văn Kháng-Hoàng Thành, Ngô Duy Tuân-Phí
Đức Quỳ và Nguyễn Thăng Thắng-Nguyễn Khắc Chiến theo đường bay từ Biên Hoà, qua Hồng Ngư, rồi ngược dòng
Mê Công lên phía Niếc Lương. Hoả lực của F-5 đã đánh cháy 5 tàu quân sự, ngăn chặn quân địch rút lui theo đường
sông về Phnôm Pênh. Trong thời gian F-5 đánh, kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372: Lê Thành Chơn và Nguyễn Văn
Nhâm dẫn từng đôi MiG-21 lên yểm hộ khu vực cho các máy bay làm nhiệm vụ cường kích tại phía bắc Hồng Ngự.

9 giờ, đôi bay F-5: Đỗ Viết Nhã-Mai Văn Sách lên trinh sát khu vực phía bắc Phnôm Pênh từ Cra Chơ Ma
(đông bắc Kông Pông Chàm 37km) đến Kông Pông Chnăng, 9 giờ 22 phút, đôi bay MiG-21: Trịnh Bá Tư-Nguyễn
Văn Toàn cất cánh vào khu vực Kông Pông Chàm bay yểm hộ và 12 giờ 05 phút, đôi bay F-5. Hoàng Hữu Hiền-
Nguyễn Văn Nuôi tiến hành trinh sát khu vực Phnôm Pênh. Tại 2 sân bay Kông Pông Chnăng, Pô Chen Tông và trong
các khu vực lân cận đều không có biểu hiện gì về sự hoạt động của không quân địch.

Từ 15 giờ 59 phút đến 16 giờ 53 phút, 2 đôi bay F-5: Ngô Duy Tuân-Phí Đức Quỳ và Nguyễn Thăng Thắng
- Nguyễn Khắc Chiến được sở chỉ huy dẫn theo đường bay Biên Hoà-Phú Cường-Mộc Hoá-Thất Sơn, vào đánh mục
tiêu ở nam Ta Keo 8km. Ngay sau đó các biên đội A-37 cũng được dẫn vào đánh mục tiêu trên. Sở chỉ huy của hai sư
đoàn 210 và 250 lại bị tiêu diệt, nhiều cụm pháo binh, xe tăng và xe cơ giới của địch bị trúng bom. Hoả lực của F-5 và
A-37 đã chi viện rất hiệu quả cho các đơn vị bộ binh cơ giới của Quân khu 9 và Quân đoàn 2. Khi bộ đội ta đánh qua
thị xã Ta Keo, địch tổ chức phản kích hòng chiếm lại. 4 tổ bay Mi-6 và Mi-8 đã nhanh chóng chở lực lượng tăng
cường của Quân đoàn 2 đến đúng vị trí đổ bộ và kết hợp chở ngay thương binh về tuyến sau. Lực lượng phòng thủ của
địch ở phía nam Phnôm Pênh đã bị ta đánh thiệt hại nặng. Đội ngũ dẫn đường trên không Mi-6 và Mi-8 đã ra quân
thắng lợi trên chiến trường Tây Nam trong nhiệm vụ đổ bộ đường không.

Cũng trong ngày 6 tháng 1 năm 1979, 15 giờ 03 phút, tổ bay C-119K do lái chính Trần Văn Tuyên chỉ huy,
trong đó có dẫn đường trên không Nguyễn Khắc Thọ cất cánh từ Biên Hoà lên đánh bến phà Kông Pông Chàm. Loạt
đạn cối thứ nhất trúng đội hình xe cơ giới của địch nằm trên đường 7, sát đầu đông của bến và loạt thứ hai rơi vào khu
tập trung quân chốt giữ ở phía đông của bến phà Kông Pông Chàm.

Trên tất cả các hướng của chiến trường Tây Nam quân ta đều thực hiện đúng ý định tác chiến của Bộ,
nhanh chóng chuyển từ những đòn phản công quyết định sang tiến công chiến lược, tập trung đánh vào Phnôm Pênh,
sào huyệt của quân Khơ-me đỏ.

Sáng sớm ngày 7 tháng 1 năm 1979, các đơn vị đầu tiên của Quân đoàn 4 đã lặng lẽ vượt qua sông Mê
Công, rồi chia làm nhiều mũi tiến quân lên phía bắc. Không quân ta cho U-17, F-5 và A-37 tiến hành ngay một số
chuyến bay trinh sát đường không ở 3 khu vực phía đông, bắc và nam Phnôm Pênh, thu nhận nhanh các thông tin mới
nhất về tình hình địch, phục vụ kịp thời cho các đòn đánh tiến công đầu tiên của bộ đội ta.

Tại Sở chỉ huy Sư đoàn 372, sau khi được quán triệt kỹ ý định đánh địch của thủ trưởng trực chỉ huy
Nguyễn Ngọc Độ, kíp trực ban dẫn đường: Lê Thành Chơn - Đặng Văn Dũng-Đặng Văn Hảo - Đinh Khởi Nghĩa -
Vương Kính kiểm tra lại lần cuối tất cả các phương án dẫn đường đã được thông qua. Từng người đều được phân công
nhiệm vụ rõ ràng. Trong lúc đó kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Đào Văn Phao-Dương Ngoạn (đảm nhiệm
dẫn F-5) Hà Văn Bền (MiG-19 -Trương Thanh Lương (MiG-21) tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng-Phí Đình Khang
trên hiện sóng tại C-51 sẵn sàng nhận lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Nghĩa.

9 giờ 30 phút, sở chỉ huy vào cấp 1 và cho mở radar dẫn đường. 9 giờ 45 phút, đôi bay F-5: Dương Bá
Kháng - số 1 và Nguyễn Văn Trọng - số 2 nhận lệnh mở máy. Do máy bay của số 2 gặp trục trặc kỹ thuật, nên số 1
phải chờ và đến 10 giờ mới được lệnh cất cánh. Tiếp sau đó các đôi bay F-5: Nguyễn Văn Nuôi-Nguyễn Văn Ớt,
Nguyễn Thanh Xuân-Mai Văn Sách, Phạm Hy-Lê Kim Toán rời đường băng Biên Hoà lên đánh các mục tiêu tại nút
giao thông ngã ba giữa đường 7 và đường 6 ở Skun (bắc-đông bắc Phnôm Pênh 58km). Đợt 1 kết thúc vào lúc 11 giờ
55 phút, Vào các thời điểm 13 giờ 44, 13 giờ 57, 14 giờ 13 và 14 giờ 38 phút, các đôi bay F-5: Hoàng Hữu Hiền-Đỗ
Viết Nhã, Nguyễn Hữu Lâm-Bùi Văn Ký, Nguyễn Thanh Xuân-Mai Văn Sách và Phạm Hy-Lê Kim Toán lần lượt cất
cánh đánh đợt 2 vào các mục tiêu di động trên các đoạn đường bộ và đường sông cách Phnôm Pênh từ 25km đến
15km về phía bắc. Ngay sau đối F-5 Hiền-Nhã cất cánh, vào lúc 13 giờ 46 phút, đôi bay MiG-19: Phạm Cao Hà -
Nguyễn Mạnh Tùng rời đường băng Biên Hoà. Trực ban dẫn đường Hà Văn Bền dẫn MiG-19 vào khu vực Svay Antor
(đông Phnôm Pênh 55km) - Skun bay yểm hộ cho F-5. 14 giờ 42 phút, khi đôi: Lâm-Ký về đến đỉnh sân thì biên đội
F-5: Lê Khương-Nguyễn Thăng Thắng-Dương Đình Nghi-Nguyễn Văn Kháng nhận lệnh cất cánh, nhưng không bay
lên phía núi Bà Đen mà bay qua Svay Riêng, rồi lấy hướng vào sát phía nam Phnôm Pênh. 14 giờ 57 phút, đôi bay
MiG-21: Hoàng Quốc Dũng-Trịnh Bá Tư lên tiếp và được trực ban dẫn đường Trương Thanh Lương dẫn yểm hộ ở
phía sau biên đội F-5 vì biên đội này có nhiệm vụ đặc biệt là tập kích vào sân bay Pô Chen Tông. Lệnh ném bom của
đội trưởng Lê Khương được phát ra vào lúc 15 giờ 03 phút 10 giây. Bom của F-5 rơi trúng vào 2 đầu đường băng, làm
cho máy bay của địch không còn đủ cự ly để cất cánh.

Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935 Đào Văn Phao, Dương Ngoạn, Hà Văn Bền, Trương Thanh
Lương, Nguyễn Văn Hưng và Phí Đình Khang đã lựa chọn đường bay phù hợp, tính toán thời gian cất cánh chính xác
và phối hợp dẫn F-5, MiG-19 và MiG-21 rất nhịp nhàng, góp phần quan trọng tạo nên trận tập kích đầy bất ngờ. Quân
Khơ-me đỏ đã buộc phải tháo chạy trước sức tiến công mãnh liệt của các quân khu, quân đoàn, lại rơi vào tình cảnh vô
cùng hoảng loạn bởi đòn đánh hiểm hóc của không quân ta. Cách dẫn tập kích của Không quân nhân dân Việt Nam
vào Pô Chen Tông hôm nay, không những thừa kế mà còn phát triển cách dẫn tập kích vào Tân Sơn Nhất ngày 28
tháng 4 năm 1975 lên một tầm cao mới.

15 giờ 45 phút, theo lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy, kíp trực ban dẫn đường cho 2 đôi F-5: Dương Bá
Kháng - Nguyễn Văn Trọng và Nguyễn Văn Nuôi - Nguyễn Văn Ớt cất cánh đánh tiếp đợt ba vào các đoàn tàu của
địch đang rút chạy trên đoạn sông Tông Lê Xáp từ Kp.Luông (bắc- tây bắc Phnôm Pênh 32km) về Phnôm Pênh. Trong
ngày 7 tháng 1, tại khu vực Ta Keo, chấp hành lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 937, kíp trực ban dẫn
đường thực hiện dẫn 1 biên đội A-37 vào chi viện hoả lực cho các đơn vị Quân khu 9 phá vỡ tuyến phòng thủ của hai
sư đoàn 210, 250. Bộ đội ta nhanh chóng vượt qua thị xã Ta Keo. Ngay sau đó, Trung đoàn 917 cho U-17 liên tục chỉ
thị mục tiêu cho 2 biên đội A-37 khác chi viện hoả lực cho đội hình bộ binh cơ giới của Quân khu 9 tăng tốc độ tiến
công địch theo trục Đường 2 về phía Phnôm Pênh và chỉ thị cho UH-1 vũ trang vừa chi viện hoả lực vừa yểm hộ cho
tàu hải quân ta tiến theo sông Mê Công lên Niếc Lương.

Sau khi Quân đoàn 2 đã chuyển hướng tiến công sang phía tây để cùng với bộ đội hải quân của ta đánh
địch, sáng ngày 7 tháng 1, lực lượng hành quân bằng xe cơ giới của Sư đoàn 325 đã bất ngờ gặp phải các bãi lầy, nên
vào chiếm lĩnh trận địa muộn hơn so với giờ nổ súng quy định. Lữ đoàn hải quân 126 đổ bộ vào cảng Kông Pông Xom
(Xi Ha Núc Vin) đúng lúc thuỷ triều xuống, xe tăng, xe lội nước và lính thuỷ đánh bộ không phối hợp được với nhau.
Còn trên bến, địch sử dụng hoả lực mạnh, chống trả rất quyết liệt. Tốc độ tiến công Kông Pông Xom bị giảm hẳn so
với dự tính. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đưa không quân vào chi viện. Sư đoàn Không quân
372 cho 3 biên đội A-37 xuất kích kịp thời, đánh trúng các cụm hoả lực quan trọng của địch, tạo thuận lợi cho quân ta
vượt lên đẩy nhanh tốc độ tiến công vào Kông Pông Xom.

Chiều 7 tháng 1 năm 1979, trước sức tiến công rất mạnh của Quân khu 7 và Quân đoàn 3, nhiều đơn vị của
quân Khơ-me đỏ đã rút chạy theo trục đường 6 về phía Xiêm Riệp. Phát huy khả năng đánh nhanh, vươn xa với lượng
bom đạn lớn, Trung đoàn 918 tiến hành đòn tập thích bất ngờ vào sân bay Xiêm Riệp, thực hiện đúng ý định tác chiến
của cấp trên. Tổ bay C-130 do lái chính Tiêu Khánh Nha chỉ huy, cất cánh từ Biên Hoà, được dẫn đường trên không
Đỗ Tuấn dẫn chính xác, đã trút bom đúng mục tiêu vào lúc 17 giờ 50 phút. Đoàn quân thất trận của Khơ-me đỏ càng
trở nên hoang mang ngay cả trên đường rút.

Đến cuối ngày 7 tháng 1 năm 1979, quân ta hoàn toàn làm chủ thế trận trên chiến trường Tây Nam. Quân
Khơ-me đỏ, kẻ gây tội ác diệt chủng, đã trở thành tàn quân và phải rút khỏi Phnôm Pênh. Với thế đánh áp đảo và
cường độ xuất kích lớn, không quân ta làm chủ toàn bộ vùng trời được giao. Đội ngũ dẫn đường phía nam ghi thêm
chiến công mới cho ngành Dẫn đường Không quân.

Sau khi thất thủ ở Phnôm Pênh, ngày 8 tháng 1 năm 1979, tàn quân Khơ-me đỏ kéo nhau chạy theo hai
hướng chủ yếu là tiếp tục ngược đường 6 lên Xiêm Riệp và ngược cả đường 5 lên Bát Tam Băng. Quân chủng Không
quân đã sử dụng C-130 và F-5 tập kích liên tiếp vào 2 sân bay Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, đồng thời cho MiG-21 và
F-5 yểm hộ và chuyển tiếp chỉ huy chặt chẽ, quyết không để cho địch có cơ hội rút chạy bằng đường không.

Vào lúc 5 giờ 20 và 5 giờ 29 phút, 2 tổ bay C-130 do các lái chính Trần Văn Quang và Phan Hữu Hùng chỉ
huy, cất cánh từ Biên Hoà, bay qua Kông Pông Thom, vào đánh Xiêm Riệp. 5 giờ 52 phút, 1 chiếc MiG-21 lên yểm hộ
ở phía sau, đồng thời làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy. Đây là lần xuất kích đầu tiên của không quân ta vào lúc bình
minh trên chiến trường Tây Nam. Trong trận đánh này có sự đóng góp rất lớn của các đồng chí dẫn đường trên không
C-130 Vũ Mạnh, Trần Đình Lợi và kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935.

9 giờ 47 phút 30 giây, đôi bay F-5: Dương Đình Nghi - Nguyễn Khắc Chiến nhận lệnh xuất kích đánh
Xiêm Riệp. 9 giờ 48 phút, đôi bay F-5: Ngô Duy Tuân-Phạm Trọng Chinh cất cánh, lên độ cao 20.000 feet, được dẫn
vào khu vực phía bắc Phnôm Pênh để yểm hộ và chuyển tiếp chỉ huy. 9 giờ 51 phút 30 giây, đôi bay F-5: Nguyễn Văn
Kháng - Nguyễn Thăng Thắng rời đường băng Biên Hoà, bay qua Kông Pông Chnăng, vào đánh Bát Tam Băng. 10
giờ 06, tổ bay C-130 do lái chính Tiêu Khánh Nha chỉ huy cất cánh đánh tiếp vào Bát Tam Băng và 10 giờ 16 phút, tổ
bay C-130 do lái chính Trần Văn Quang cất cánh đánh Xiêm Riệp. Tại khu vực Bát Tam Băng trời xấu, tổ bay của lái
chính Tiêu Khánh Nha không thấy rõ mục tiêu, đã báo cáo ngay về sở chỉ huy và được phép chuyển sang đánh Xiêm
Riệp.
Đến chiều, tổ bay C-130 do lái chính Phan Hữu Hùng cất cánh vào lúc 15 giờ 08 và đánh bồi thêm một trận
bom xuống Bát Tam Băng và 15 giờ 48 phút, đôi bay MiG-21: Nguyễn Văn Phú-Nguyễn Văn Toàn lên yểm hộ và
chuyển tiếp chỉ huy. Đây là trận đánh đầu tiên của không quân ta mà khi về hạ cánh vào lúc hoàng hôn. Trận tập kích
lớn bằng nhiều đòn đánh liên tiếp của C-130 và F-5 vào 2 mục tiêu Xiêm Riệp và Bát Tam Băng kết thúc thắng lợi.

Công tác bảo đảm dẫn đường trong trận tập kích này đạt hiệu quả rất cao. Chỉ trong một đêm mọi công việc
chuẩn bị như tính toán số liệu, xây dựng phương án dẫn bay và thông qua người chỉ huy, tiến hành hiệp đồng dẫn
đường và thông báo đến các đầu mối… đều được hoàn tất rất chu đáo, tỉ mỉ ở cả hai cấp sư đoàn và trung đoàn cũng
như trong tất cả các kíp trực ban dẫn đường, phi công và tổ bay. Giải pháp dẫn bay yểm hộ kết hợp với chuyển tiếp chỉ
huy và xác định gián cách thời gian bay giữa các tốp đã giúp cho người chỉ huy liên tục nắm bắt được tình hình máy
bay ta khi hoạt động ngoài tầm của radar dẫn đường và đối không vì cự ly đường bay từ Biên Hoà đến Xiêm Riệp
khoảng 425km, còn đến Bát Tam Băng khoảng 455km.

Trên cơ sở nắm chắc ý định tổ chức đánh địch của thủ trưởng trực chỉ huy, kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn
372: Lê Thành Chơn-Đặng Văn Dũng-Nguyễn Văn Nhâm- Nguyễn Việt Cường-Vương Kính đã liên tục tính toán thời
cơ cất cánh hợp lý cho tất cả các tốp, kết hợp chặt chẽ giữa "tính mò" và các khẩu lệnh chuyển tiếp chỉ huy để đánh
dấu đúng vị trí máy bay ta, luôn bám sát kết quả dẫn bay thực tế của kíp trực ban dẫn đường trung đoàn và dẫn đường
trên không trong các tổ bay, kịp thời đề xuất cho thủ trưởng trực chỉ huy phương án chuyển sang đánh ngay mục tiêu
thứ hai khi có đủ điều kiện…Đây là bài học vô cùng quý giá cho ngành Dẫn đường Không quân về phương pháp công
tác cả trong giai đoạn chuẩn bị và thực hành dẫn bay tập kích đường không vào các mục tiêu cách xa căn cứ xuất phát
trên 400km.

Cũng trong ngày 8 tháng 1 năm 1979, đội ngũ dẫn đường trên không UH-1 và CH-47 của Trung đoàn 917
đã kịp thời dẫn 9 chuyến bay chở các đoàn cán bộ vào Phnôm Pênh và tiếp quản sân bay Pô Chen Tông, liên tiếp dẫn
các chuyến bay đón thương binh từ nhiều vị trí khác nhau trên các hướng tác chiến về tuyến sau an toàn.

Phát huy thành quả đã đạt được, ngày 9 tháng 1 năm 1979, Sư đoàn 372 tiếp tục thực hiện kế hoạch tập
kích sâu vào các mục tiêu của địch cách xa căn cứ xuất phát của ta. 10 giờ 35 phút, tổ bay C-130 do lái chính Trần
Văn Quang chỉ huy, cất cánh từ Biên Hoà, bay qua Mộc Hoá, xuống Phú Quốc đánh cảng Ream. 10 giờ 46 phút, tổ
bay C-47 do lái chính Nguyễn Chí Cự chỉ huy, lên chuyển tiếp chỉ huy cho C-130 tại khu vực Rạch Giá. Ngay sau đó,
10 giờ 48 phút, tổ bay C-130 nữa do lái chính Phan Hữu Hùng chỉ huy, cũng rời đường băng Biên Hoà đánh cảng
Ream. 11 giờ 05 phút, đôi bay F-5: Nguyễn Hữu Lâm-Nguyễn Thăng Thắng xuất kích, bay qua Niếc Lương và Kông
Pông Spư (tây tây nam Phnôm Pênh 45km), rồi dọc theo Đường 4 xuống đánh cảng Kông Pông Xom và 1 chiếc F-5
được dẫn vào khu vực Hồng Ngự bay chuyển tiếp chỉ huy.Đến buổi chiều, cường độ đánh địch của không quân ta
không giảm. Hai biên đội A-37 lần lượt cất cánh vào lúc 14 giờ 15 và 14 giờ 31 phút, lên đánh cảng Ream. Sau đó 2
C-130 nhận lệnh cất cánh đánh Bát Tam Băng với gián cách thời gian giữa 2 chiếc là 25 phút. 15 giờ 15 phút, đôi bay
F-5: Phạm Hy-Nguyễn Văn Ớt cất cánh, bay qua Kông Pông Chàm, dọc theo bờ tây nam của Biển Hồ cũng lên đánh
Bát Tam Băng. 15 giờ 45 phút, bom của 2 chiếc F-5 rơi vào mục tiêu, 15 giờ 55 phút, bom của chiếc C-130 thứ nhất
cũng rơi vào mục tiêu và 16 giờ 18 phút, bom của chiếc C-130 thứ hai tiếp tục rơi vào mục tiêu. Hoả lực tập trung của
F-5 và C-130 trúng vào các kho bom, đạn, nhiên liệu của địch, gây cháy dữ dội kéo dài nhiều giờ. 15 giờ 20 phút, đôi
bay F-5: Ngô Duy Tuân-Nguyễn Khắc Chiến cất cánh, cũng bay qua Kông Pông Chàm, rồi qua tiếp Bát Tam Băng lên
đánh nút giao thông Xi Xô Phôn, cách biên giới Thái Lan 32km. Nhưng rất tiếc trên đoạn bay cuối cùng phi công đã
giữ số liệu dẫn bay không thật chính xác và nhận dạng nhầm địa tiêu, nên kết quả ném bom chưa đạt yêu cầu. Mặc dù
vậy, đây vẫn là chuyến bay tập kích đường không do F-5 đảm nhiệm, đánh vào mục tiêu cách căn cứ Biên Hoà xa tới
610km, rất đáng được ghi nhớ.

15 giờ 22 và 15 giờ 35 phút, 2 bay đôi F-5: Nguyễn Hữu Lâm-Nguyễn Thăng Thắng và Dương Đình Nghi-
Mai Văn Sách tiếp tục cất cánh, nhưng bay xuống Phú Quốc rồi vòng lên đánh cảng Kông Pông Xom lần thứ hai trong
ngày.

Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935 vừa bám sát các tốp tập kích vừa lần lượt dẫn từng chiếc F-5 vào
các khu vực ở phía bắc và phía đông Phnôm Pênh làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy, đồng thời phối hợp chặt chẽ với
dẫn đường trên không trong các tổ bay UH-1 nhanh chóng dẫn bay đến các khu vực quy định sẵn sàng làm nhiệm vụ
cấp cứu.

14 giờ 30 phút ngày 9 tháng 1 năm 1979, lực lượng sở chỉ huy F-1 bao gồm đầy đủ các thành phần, do
đồng chí đại uý Vũ Đức Bình, Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 935 phụ trách, trong đó có hai sĩ quan dẫn đường là
trung uý Nguyễn Văn Nhâm và thiếu uý Dư Văn Thắng, được tổ bay Mi-6 chở sang Pô Chen Tông để tiếp tục tổ chức
chỉ huy và điều hành các hoạt động của không quân ta trong giai đoạn đánh địch tiếp theo.

Ngày 15, 16 và 17 tháng 1 năm 1979, lực lượng A-37, F-5 và C-130 tiến hành tập kích mãnh liệt vào các
mục tiêu tại khu vực Cô Công (Kaoh Kong). Đội ngũ dẫn đường không quân phía nam đã thực hiện dẫn liên tục trong
3 ngày, mỗi ngày 2 đợt với tổng số lên tới 52 lần/chiếc A-37 (trong đó có 6 lần/chiếc bay chuyển tiếp chỉ huy), 51
lần/chiếc F-5 (có 11 lần/chiếc bay chuyển tiếp chỉ huy), 10 lần/chiếc C-130 và hơn 10 lần/chiếc U-17, UH-1 bay chỉ
thị mục tiêu và sẵn sàng cấp cứu. Hoả lực của Không quân đã chi viện kịp thời và hiệu quả cho các đơn vị của Quân
đoàn 2 và Quân chủng Hải quân nhanh chóng đánh bại hai sư đoàn 164 và 101 của địch tại khu vực Cô Công. Cuộc
chiến đấu ác liệt trên hướng biển vô cùng khó khăn đã kết thúc thắng lợi.

Ngày 17 tháng 1 năm 1979, bằng các đòn phản công quyết định trên toàn tuyến biên giới và tiến công chiến
lược trên Mặt trận Tây Nam, quân ta và lực lượng vũ trang cách mạng của bạn đã giành toàn thắng ở tất cả các hướng,
đánh thiệt hại nặng và làm tan rã đội quân phản động Khơ-me đỏ.

Trong chiến dịch này, đội ngũ dẫn đường phía nam đã tham gia dẫn chiến đấu liên tục nhiều ngày cho các
loại máy bay và trực thăng của Quân chủng Không quân hoạt động 54 đợt, đánh 99 trận với 627 lần chiếc, trong đó có
352 lần chiếc trực tiếp đánh, 147 lần chiếc MiG-17, MiG-19, l\/IiG-21 và F-5 làm nhiệm vụ tiêm kích phòng không,
yểm hộ khu vực và trong đội hình, 67 lần chiếc trinh sát, quan sát chỉ thị mục tiêu, chuyển tiếp liên lạc, 4 lần chiếc C-
130 chụp ảnh và 57 lần chiếc trực thăng bay sẵn sàng cấp cứu Ngoài ra đội ngũ dẫn đường phía nam còn dẫn 210 lần
chiếc chở cán bộ, 80 lần chiếc đón thương binh, 79 lần chiếc tiếp tế súng đạn, khí tài, thuốc men…

2. Công tác dẫn đường trong chuẩn bị bước vào chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên hướng bắc (giữa năm 1978 -
tháng 3 năm 1979).

Từ giữa năm 1978, tình hình trên biên giới phía bắc nước ta có nhiều diễn biến phức tạp. Quân uỷ Trung
ương đã ra chỉ thị nhắc nhở các đơn vị trong toàn quân khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến theo những tình
huống có thế xảy ra và nhanh chóng triển khai huấn luyện và diễn tập theo những tình huống đó. Quân chủng Không
quân tổ chức quán triệt tình hình nhiệm vụ mới cho các đơn vị và tiến hành điều chỉnh vị trí đóng quân tạo thế trận.

Ngày 20 tháng 7 năm 1978, 2 phi đội của Trung đoàn 921 từ Kép về Nội Bài. Cuối tháng 7 năm 1978, 6
chiếc MiG-21 của Trung đoàn 927 thuộc Sư đoàn 370 được lệnh cơ động chuyển sân từ Đà Nẵng ra Kép trực chiến.
Ngày 5 tháng 8 năm 1978, Quân chủng điều Trung đoàn 927 trở lại Sư đoàn 371. Toàn bộ Trung đoàn 927 rời Đà
Nẵng ra Kép đóng quân. Trung đoàn 923 từ Kép xuống Kiến An. Lực lượng C-130 của Trung đoàn 918 thực hiện 7
lần/chuyến vận chuyển máy móc, thiết bị của Xưởng sửa chữa máy bay A-39 từ Yên Bái vào Đà Nẵng… Tất cả các
chuyến bay chuyển sân và vận chuyển đều được bảo đảm dẫn đường chính xác và an toàn.

Nhiều sân bay ở phía bắc được gấp rút sửa chữa. Trung đoàn công binh không quân 28 đẩy nhanh tốc độ
triển khai giai đoạn 2 san lấp và đổ bê tông kéo dài đường băng Kiến An, các sân bay Thọ Xuân và Hoà Lạc đều được
lát lại ghi, Miếu Môn được mở rộng dải bảo hiểm sườn… Căn cứ vào kết quả điều chỉnh vị trí đóng quân và bố trí lực
lượng trực chiến, tiến độ sửa chữa các sân bay và triển khai hệ thống thông tin, radar… Ban dẫn đường Sư đoàn 371
và các tiểu ban dẫn đường trung đoàn 921, 923, 927 và hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 916 đã kịp thời
xây dựng các phương án dẫn đường chiến đấu mới theo các nhiệm vụ được giao, đồng thời tích cực triển khai nhiều
biện pháp bảo đảm dẫn đường phục vụ cho các đơn vị tổ chức bay huấn luyện bổ sung.

Đến cuối tháng 12 năm 1978, trong lúc quân ta đang tiến hành các đòn phản công quyết định trên toàn
tuyến biên giới Tây Nam thì tình hình trên biên giới phía bắc ngày càng trở nên căng thẳng, nguy cơ chiến tranh có thể
xảy ra. Đầu tháng 1 năm 1979, Quân uỷ Trung ương ra chỉ thị cho tất cả các quân khu, quân chủng, đặc biệt là Quân
khu 1, Quân khu 2 và lực lượng vũ trang các tỉnh biên giới phía bắc, các Quân chủng Phòng không, Không quân và
Hải quân phải trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân tiếp tục
chỉ đạo và thúc đẩy nhanh tiến độ triển khai các mặt công tác chuẩn bị chiến đấu. Những công việc cấp thiết trước mắt
rất nhanh chóng được giải quyết như củng cố chặt chẽ các chế độ trực ban sẵn sàng chiến đấu, điều chỉnh các tuyến
trực chiến trên tất cả các sân bay nhằm rút ngắn thời gian chuyển cấp cất cánh, khẩn trương cơ động lực lượng từ phía
nam ra phía bắc, thực hiện hiệp đồng với các quân khu, quân đoàn và quân chủng theo kế hoạch tác chiến chung của
Bộ.

Ngày 28 tháng 1 năm 1979, Phi đội MiG-21 của Trung đoàn 921, vào tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới
Tây Nam từ cuối tháng 12 năm 1978, được tổ chức dẫn bay chặt chẽ trên toàn tuyến Nam Bắc, đã cơ động chuyển sân
từ Biên Hoà ra Nội Bài. Ban dẫn đường Sư đoàn 371 triển khai tiếp các phương án dẫn đường sẵn sàng tiếp thu các
loại máy bay và trực thăng hệ 2 của Quân chủng chuẩn bị cơ động chuyển sân từ Nam ra Bắc.

Ngày 17 tháng 2 năm 1979, cuộc chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía bắc nổ ra. Chủ quyền của Tổ
quốc bị xâm phạm hết sức nghiêm trọng. Quân và dân cả nước, trước tiên là các tỉnh biên giới phía bắc đã buộc phải
cầm súng chiến đấu bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của quốc gia và dân tộc.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra lệnh cho Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, nhanh chóng cơ động ra Bắc. Quân
chủng Không quân điều một phần lực lượng của Sư đoàn 372 ra tăng cường cho hướng bắc và sử dụng toàn bộ lực
lượng của Trung đoàn 918 tham gia vận chuyển đường không theo yêu cầu của Bộ và của Quân chủng.

Ban dẫn đường Sư đoàn 372 gồm các đồng chí Lê Thành Chơn, Trưởng ban và các trợ lý Nguyễn Việt
Cường, Vương Kính, sau khi cơ động ra Nội Bài, đã ổn định ngay các vị trí công tác trong sở chỉ huy của sư đoàn
mình đặt tại hội trường của Trung đoàn 921. Ngày 18 tháng 2 năm 1979, 3 chiếc UH-1 của Trung đoàn 917 từ Tân
Sơn Nhất ra Hoà Lạc. Ngày 22 tháng 2 năm 1979, 10 chiếc F-5 của Trung đoàn 935 từ Biên Hoà hạ cánh xuống Nội
Bài. Ngày 3 tháng 3 năm 1979, 10 chiếc A-37 của Trung đoàn 937 đến Nội Bài đúng thời gian. Đây là những lực
lượng đầu tiên của Sư đoàn 372 được bảo đảm dẫn đường chặt chẽ trên toàn tuyến, cơ động chuyển sân an toàn và
nhanh chóng được đưa vào trực chiến, tham gia bảo vệ biên giới phía bắc của Tổ quốc. Theo quyết định của Quân
chủng toàn bộ lực lượng trên thuộc quyền chỉ huy của Trung đoàn 937.
Nhiệm vụ dẫn đường của Sư đoàn 372 và của Trung đoàn 937 ở phía bắc, ngay từ đầu đã được tập trung
vào việc nghiên cứu địa hình các khu vực tác chiến của Quân khu 1, Quân khu 2 và Đặc khu Quảng Ninh, tình hình
đối phương trên biên giới, tham gia soạn thảo phương án tác chiến, xây dựng các phương án dẫn bay… Ngày 13 tháng
3 năm 1979, toàn bộ công tác chuẩn bị dẫn đường của sư đoàn và trung đoàn đều được hoàn tất. F-5 và A-37 được bố
trí trực chiến tại Nội Bài và Kép, UH-1 tại Hoà Lạc và Bạch Mai, còn U-17 tại Nội Bài.

Cũng vào thời gian trên, ở đầu Nam đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay Mi-6 và Mi-8 của
Trung đoàn 916 thường xuyên tham gia dẫn bay với cường độ lớn, đã nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển
các đơn vị được lệnh ra Bắc từ các vị trí tập kết quân đơn lẻ về tập trung tại các sân bay Tân Sơn Nhất và Cần Thơ.

Vào những tháng đầu năm 1979, thời tiết ở miền Bắc rất phức tạp, mây dày và thấp, mưa phùn nhiều, tầm
nhìn xấu nhưng đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay C-130, C-119 và C-47 của Trung đoàn 918 đã phát huy
cao độ bản lĩnh và trình độ của mình, liên tục thực hiện dẫn bay vận chuyển cán bộ, chiến sĩ, vũ khí, khí tài hang
không của Quân chủng và bộ đội các đơn vị của Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 từ phía nam ra. Trong quá trình vận
chuyển bộ đội các đơn vị của Quân đoàn 2 và Quân đoàn 3, đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn 918 luôn
sát cánh cùng với đội ngũ dẫn đường trên không của Đoàn bay 919, nâng cao hiệu quả dẫn bay, góp phần tăng nhanh
sức mạnh chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc của Tổ quốc.

Khi cuộc chiến đấu còn đang diễn ra rất quyết liệt tại Cao Bằng, một số đơn vị vũ trang và nhân dân huyện
Trùng Khánh bị đối phương bao vây, chia cắt cả đường bộ và đường sông. Yêu cấu tiếp tế vũ khí, lương thực, thực
phẩm và thuốc men trở nên rất cấp thiết. Trước tình hình đó cấp trên quyết định dùng máy bay dân dụng của Đoàn bay
919 thả dù tiếp tế cho quân và dân ta đang trong vòng vây của đối phương. Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho tổ
bay IL-14: Lái chính Vũ Quý Đĩnh-lái phụ Nguyễn Hồng Nam-dẫn đường trên không Đào Nam Trường-cơ giới trên
không Tạ Văn Leo trực tiếp thực hiện. Để thả dù đúng vị trí quy định, chỉ cách biên giới chưa đầy 5km, tổ bay nhất
thiết phải bay qua các khu vực do đối phương chiếm giữ và phải tránh được hoả lực phòng không của chúng bắn lên.
Xét thấy bay ngày không an toàn, tổ bay chuyển sang bay đêm. Với bản lĩnh và trình độ của toàn tổ bay, lái chính Vũ
Quý Đĩnh điều kiện máy bay mưu trí, linh hoạt, dẫn đường trên không Đào Nam Trường dẫn bay chính xác, nhiệm vụ
trên giao đã được các anh hoàn thành xuất sắc.

Trong suốt quá trình tổ bay Il-14 thực hiện nhiệm vụ, các kíp trực ban dẫn đường của Quân chủng Không
quân luôn nắm chắc đường bay, theo dõi chặt chẽ và sẵn sang tham gia xử lý mọi tình huống có thể xảy ra.

Từ ngày 17 tháng 2 đến 18 tháng 3 năm 1979, trải qua 30 ngày đêm, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng
trên toàn tuyến biên giới phía bắc, buộc đối phương phải rút quân, chấm dứt hành động xâm lược. Trong thời gian đó,
đội ngũ dẫn đường phía bắc đã kịp thời chuẩn bị chiến đấu đầy đủ và chu đáo, xây dựng được nhiều phương án dẫn
bay đáp ứng yêu cầu của người chỉ huy các cấp, duy trì nghiêm chế độ trực ban dẫn đường, thực hiện dẫn 39 lần/chiếc
MiG-21 bay sẵn sàng chiến đấu, trong đó có cả dẫn bay yểm hộ cho Il-14, đồng thời thường xuyên hiệp đồng dẫn
đường chặt chẽ với Đoàn bay 919 trong chấp hành các nhiệm vụ đột xuất được giao.

3. Công tác dẫn đường trong thực hiện nhiệm vụ giúp nhân dân Cam-pu-ohia bảo vệ thành quả cách mạng
và xây dựng lực lượng vũ trang (tháng 1 năm 1979-tháng 9 năm 1989).

Mặc dù bị đánh bại trên toàn lãnh thổ Cam-pu-chia, nhưng tàn quân Khơ-me đỏ không cam chịu thất bại,
chúng ngoan cố chống lại chính quyền mới. Trong lúc đó, sau khi thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng, nhân dân Cam-pu-
chia bắt tay ngay vào công cuộc tái thiết đất nước. Nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ thành quả cách
mạng được đặt lên vai Quân đội cách mạng Cam-pu-chia. Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục sát cánh cùng với các
đơn vị vũ trang của nước bạn tham gia thực hiện nhiệm vụ trọng đại này.

Từ ngày 18 tháng 1 năm 1979, tại sân bay Pô Chen Tông, sở chỉ huy (F1) của Sư đoàn 372 liên tục điều
hành các hoạt động của không quân ta và tổ chức trực chiến cho 3 UH-1 và 2 U-17. Trong 5 ngày cuối tháng 1 năm
1979, không quân ta được giao nhiệm vụ tổ chức đánh địch theo các nguồn tin tình báo từ các Quân khu 7, Quân đoàn
3 và Quân đoàn 4 tại các khu vực phía bắc Phnôm Pênh. Các kíp trực ban dẫn đường ở Pô Chen Tông và Biên Hoà đã
thực hiện dẫn 4 lần/chiếc U-17 lên chỉ thị mục tiêu chính xác và 3 lần/chiếc F-5 bay chuyển tiếp chỉ huy kịp thời cho
30 lần/chiếc F-5 đánh vào các vị trí của tàn quân Khơ-me đỏ đang tiến hành tụ tập lực lượng, phá rối chính quyền địa
phương tại các khu vực ở bắc-tây bắc Phnôm Pênh 40km, ở Kông Pông Chàm, Kông Pông Chnăng…

Ngày 31 tháng 1 năm 1979, không quân ta tập trung chi viện hoả lực cho các đơn vị bộ binh và hải quân
đánh tàu và khu tập trung quân ở hai cửa sông chảy xuống phía bắc vịnh Kông Pông Xom. Các kíp trực ban dẫn
đường và dẫn đường trên không đã phối hợp chặt chẽ với nhau, dẫn bay chính xác cho F-5, A-37, C-119K và C-130
đánh đúng mục tiêu trong cả 2 đợt hoạt động: Buổi sáng dẫn 4 đôi F-5, 1 biên đội A-37 và 1 C-119K; buổi chiều dẫn 3
đôi F-5, 4 đội A-37 và 1 C-130. Riêng máy bay C-119K, do hệ thống thả cối bị kẹt nhiều lần, nên không thả hết được
số lượng đạn mang theo.

Từ giữa tháng 1 năm 1979, tàn quân Khơ-me đỏ đã tiến hành co cụm, tập hợp lực lượng tại các khu vực
giữa đường 3 và đường 4 thuộc địa bàn vùng tây nam Cam-pu- chia. Chúng dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở để
giấu quân, thường xuyên tổ chức phục kích các đoàn xe của ta trên hai trục đường chính nối cảng Kông Pông Xom với
thủ đô Phnôm Pênh, tập kích vào các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và đánh phá chính quyền địa phương của bạn
ở nhiều nơi trong vùng.

Đầu tháng 2 năm 1979, địch âm mưu tập trung các đơn vị bộ binh, có xe tăng yểm hộ, tổ chức đánh lại ta,
hòng chiếm thị xã Ta Keo và Cam Pốt. Lực lượng A-37 ở Cần Thơ được giao nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với các
đơn vị Quân đoàn 4 và Quân khu 9, tổ chức các đòn đánh vừa và nhỏ, nhưng liên tục vào các mục tiêu trọng yếu của
địch. Trong suốt thời gian từ ngày 1 đến 16 tháng 2 năm 1979, hầu như ngày nào A-37 cũng xuất kích.

Ngày 1 tháng 2, 4 lần/chiếc A-37 đánh ở bắc Cam Pốt 15km, có 2 lần/chiếc A-37 bay chuyển tiếp chỉ huy.
Ngày 3 tháng 2, 1 A-37 trinh sát thời tiết, 1 A-37 chuyển tiếp chỉ huy và 8 lần/chiếc A-37 đánh tại bắc Cam Pốt 25km.
Ngày 4 tháng 2 năm 1979, ta chuyển sang đánh 2 đợt liên tiếp vào trung đoàn 11 của địch đang tập trung ở đông Ta
Keo 35km. Phi công U-17 Mai Chí Lưu bay chỉ thị mục tiêu. Các đôi bay A-37: Vũ Khởi Nghĩa-Nguyễn Năng Nghĩa,
Âu Văn Hùng-Huỳnh Hiền, Nguyễn Văn Ngợi-Thái Quang Hợi, Nguyễn Hùng Vân-Phùng Công Định phối hợp chặt
chẽ cùng với 2 đôi UH-1 vũ trang đánh địch đạt hiệu quả cao. Để bảo đảm cho A-37 đánh còn có 3 UH-1 bay sẵn sàng
cấp cứu và 2 đôi F-5 bay chuyển tiếp chỉ huy.

Ngày 5 tháng 2, 2 đôi A-37 đánh hai đợt ở nam Ta Keo 5km đều có U-17 chỉ thị mục tiêu. Ngày 6 tháng 2,
2 biên đội A-37 đánh hai đợt ở tây bắc Ta Keo 31km. Ngày 7 tháng 2, 2 đôi A-37 chi viện hoả lực cho các đơn vị
Quân khu 9 đánh địch tại Ang Ta Som (tây-tây bắc Ta Keo 13km). Ngày 8 tháng 2, 1 U-17 từ Pô Chen Tông xuống chỉ
thị mục tiêu cho 2 đôi A-37 đánh tại tây bắc Ta Keo 33km. Ngày 9 tháng 2, 1 U-17 từ Cần Thơ lên chỉ thị mục tiêu
cho 2 đôi bay A-37 từ Cần Thơ cùng với 2 đôi F-5 từ Biên Hoà vào đánh lại các mục tiêu ở tây bắc Ta Keo 33km.
Ngày 10 tháng 2, sau khi nhận được thông báo của quân ta phát hiện địch đang đóng một số chốt bộ binh và tập trung
xe tăng, xe tải trong một khu vực hẹp ở bắc-tây bắc Ta Keo 35km, 2 đôi bay A-37 và 2 đôi bay F-5 kịp thời cất cánh từ
Cần Thơ và Biên Hoà. Bom rơi trúng đích. Quân địch bị tiêu diệt gọn.
Trong 3 ngày 14, 15 và 16 tháng 2 năm 1979, A-37 cùng với F-5 tập trung đánh các mục tiêu ở khu vực
Chhuk (đông bắc Cam Pốt 38km). Tại đây, địch lợi dụng địa hình rừng núi sát đường 3, đường 34 và 35, đã thu gom
được khá nhiều lực lượng, chuẩn bị chuyển quân để đánh xuống Cam Pốt và đánh lên Ta Keo. Ta sử dụng 2 lần/chiếc
A-37 chuyển tiếp chỉ huy, 10 lần/chiếc A-37 và 4 lần/chiếc F-5 đánh trúng các điểm đóng quân quan trọng của địch.
Kíp trực ban dẫn đường ở Cần Thơ đã xử lý hiệu quả 2 tình huống: dẫn 1 biên đội A-37 vào ném bom bay bằng khi
phi công báo cáo trên mục tiêu mây 10 phần và dẫn 1 đôi F-5 không phát hiện mục tiêu, làm vòng chờ ở phía trên để
quan sát điểm nổ của đôi F-5 bay sau, rồi mới cho vào công kích.

Cũng trong thời gian trên, ngày 11 tháng 2 năm 1979, 3 đôi bay F-5: Dương Bá Kháng-Nguyễn Văn Trọng,
Phạm Hy-Mai Văn Sách và Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn Thăng Thắng đánh trúng 3 mục tiêu được giao ở Pva Sát (Pô
Xát) tây bắc Kông Pông Chnăng 85km và ngày 14 tháng 2 năm 1979, tổ bay C-130 do tái chính Tiêu Khánh Nha chỉ
huy, trong đó có dẫn đường trên không Vũ Mạnh cất cánh từ Biên Hoà đánh địch tập trung ở ngã ba sông Cô Công.
Tại khu vực mục tiêu thời tiết xấu, trong lần tính toán ném bom thứ nhất, dẫn đường trên không Vũ Mạnh cảm thấy
chưa đạt yêu cầu đã chủ động đề nghị xin vòng lại và quyết tâm tính toán bảo đảm thật chính xác mới thực hiện ném
bom.

Trong đợt hoạt động dài ngày nói trên, các kíp trực ban dẫn đường tại Cần Thơ thường xuyên chuẩn bị tốt
các phương án dẫn bay và liên tục thực hiện dẫn máy bay của đơn vị mình và đơn vị bạn đánh địch đúng ý định của
người chỉ huy.

Ngay sau khi đất nước Cam-pu-chia thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng, Sư đoàn 370 đã được Tư lệnh Quân
chủng không quân giao nhiệm vụ đưa một phần lực lượng của Trung đoàn 925 sang giúp bạn. Đây là một trong những
đơn vị quân tình nguyện đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam chịu trách nhiệm giúp bạn khai thác số máy bay
MiG-19 thu được từ quân Khơ-me đỏ và khôi phục lại hệ thống bảo đảm trên các sân bay thuộc 2 vùng Đông Bắc và
Tây Bắc của bạn, đồng thời sẵn sàng đánh địch cả trên không và mặt đất.

Tháng 2 năm 1979, 8 chiếc MiG-19 của Trung đoàn 925 được dẫn bay chuyến sân từ Biên Hoà sang Pô
Chen Tông tham gia trực chiến. Trong năm 1979, MiG-19 tham gia xuất kích 94 lần/chiếc với 71 giờ bay, trong đó có
4 trận chi viện hoả lực cho các đơn vị của Quân đoàn 3 truy quét tàn quân Khơ-me đỏ tại Pai Lin (cách biên giới Thái
Lan 9km), Lếch (tây nam Bát Tam Băng 35km). Được các đồng chí Phạm Ngọc Lan và Lưu Huy Chao trực tiếp chỉ
huy và kíp trực ban dẫn đường ở Pô Chen Tông dẫn, các phi công Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Vũ Hiệu, Nguyễn
Thế Ngữ, Vũ Công Thuyết… đều đánh trúng các mục tiêu được giao. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy trước đây đã dẫn
MiG-19 bắn rơi máy bay Mỹ trên chiến trường miền Bắc, nay lại dẫn thành công máy bay tiêm kích MiG-19 mang
bom chi viện hoả lực cho bộ đội tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Cam-pu-chia. MiG-19 đã nối tiếp được các
chiến công do máy bay tiêm kích MiG-17 mang bom đã lập nên vào ngày 19 tháng 4 năm 1972 và do máy bay tiêm
kích F-5 cũng mang bom đã lập nên vào ngày 6 tháng 5 năm 1978.

Sau hơn một năm công tác, Trung đoàn 925 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao. Ngày 6 tháng 4 năm
1980, toàn bộ số máy bay MiG-19 của trung đoàn từ Pô Chen Tông chuyển sân về nước.

Đầu tháng 3 năm 1979, tàn quân Khơ-me đỏ tiếp tục thu gom lực lượng và tổ chức thành các đơn vị nhỏ,
tiến hành phá hoại và gây mất ổn định ở nhiều khu vực dọc theo đường 3 và đường 4 thuộc địa bàn vùng tây nam
Cam-pu-chia. Quân tình nguyện Việt Nam sử dụng 4 sư đoàn bộ binh, có không quân chi viện hoả lực, mở đợt truy
quét vào sâu căn cứ của địch tại khu vực tây-tây bắc Ta Keo 45km. Trong 3 ngày 18, 22 và 23 tháng 3 năm 1979,
không quân ta đã sử dụng 2 lần/chiếc U-17 chỉ thị mục tiêu, 7 lần/chiếc A-37 và 6 lần/chiếc F-5 đánh vào mục tiêu
được giao, chi viện hoả lực hiệu quả cho các đơn vị bộ binh đánh địch. Trong hai ngày 4 và 5 tháng 4 năm 1979, U-17
chỉ thị mục tiêu chính xác cho A-37 đánh trúng khu tập trung quân của địch, gây thương vong lớn về người, phá huỷ
một bãi xe cơ giới và 1 kho xăng bốc cháy trong 7 giờ liền.

Ngoài nhiệm vụ tham gia chiến đấu, từ tháng 1 năm 1979, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng đã
được đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn không quân 917 hoàn thành xuất sắc, đó là thực hiện dẫn bay
chuyên chở hơn 10.000 lượt cán bộ, chiến sĩ đi công tác, vận chuyển gần 400 tấn hàng hoá quân sự, đón nhận hàng
ngàn thương binh… góp phần nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu của bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Cam- pu chia và
một số đơn vị trọng điểm của bạn. Nhiệm vụ này còn thường xuyên được thực hiện tốt trong nhiều năm tiếp theo.

Sau khi đối phương buộc phải rút quân, chấm dứt hành động xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía bắc,
để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia, ngày 20 tháng 4 năm 1979, Bộ Quốc
phòng ra quyết định thành lập Sư đoàn Không quân 376 để thay thế Sư đoàn Không quân 372 chuyển ra Bắc nhận
nhiệm vụ mới. Các trung đoàn không quân 935 (sử dụng cả F- 5 và A-37), 917 và 918 (đã rút gọn do máy bay bị thiếu
khí tài thay thế) trực thuộc Sư đoàn Không quân 376. Tất cả các đơn vị trong sư đoàn đều nhanh chóng củng cố tổ
chức, tập trung giải quyết tình trạng xuống cấp của các trang bị hệ 2, tăng cường huấn luyện bay và bổ sung hoàn
thiện thêm các phương án đánh địch.

Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, trong thời gian từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 năm 1979, Bộ Tư lệnh Sư
đoàn 372 tiếp tục cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 376 tổ chức bay chi viện hoả lực cho các đơn vị của Quân đoàn 3 truy
quét tàn quân Khơ-me đỏ trên hướng Bát Tam Băng, Quân đoàn 4 trên hướng Kông Pông Chnăng và Quân khu 9 trên
hướng đường 4. Từ tháng 8 năm 1979, Sư đoàn 376 thực hiện chỉ huy toàn bộ các lực lượng thuộc quyền.

Trong chiến dịch mùa khô năm 1979-1980, tuy số lượng máy bay và trực thăng đưa vào chiến đấu vẫn gặp
nhiều khó khăn do khan hiếm khí tài hệ 2, nhưng Sư đoàn 376 đã kịp thời động viên đội ngũ phi công và tổ bay thực
hiện bay tăng chuyến trên các máy bay và trực thăng tốt với cường độ cao, bảo đảm đúng yêu cầu chi viện hoả lực cho
các đơn vị bộ binh của cả ta và bạn hoạt động trên địa bàn vùng Tây Bắc và Tây Nam Cam-pu-chia.

Năm 1980, đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn 917 thực hiện dẫn 5.892 chuyến bay nhiệm vụ,
chuyên chở 16.000 lượt cán bộ, chiến sĩ, vận chuyển 452 tấn vũ khí, lương thực, thuốc men, đón nhận hơn 3.000
thương binh. Trong đó, đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 dẫn gần 500 chuyến bay, chuyên chở 3.400 lượt cán bộ,
chiến sĩ, 23 tấn vũ khí, lương thực và 200 thương binh. Riêng đại uý Vũ Xuân Cán, Chủ nhiệm Dẫn đường Trung
đoàn không quân 917, chỉ trong hai tháng 3 và 4 năm 1980, đã đóng góp sức mình dẫn 446 chuyến bay, đạt 115 giờ
bay.

Cuối mùa khô 1980-1981, để đáp ứng yêu cầu của các đợt truy quét tàn quân Khơ-me đỏ trên diện rộng với
quy mô lớn, nhiều đồng chí dẫn đường trên không liên tục tham gia dẫn bay, nhất là khi trung đoàn có ngày đã sử
dụng cả UH-1 và Mi- 8 tiến hành tới 101 chuyến bay nhiệm vụ. Đội ngữ dẫn đường trên không luôn có mặt khi đội
ngũ lái chính, có đồng chí bay từ 4 đến 5 chuyến/ngày, có đồng chí bay gần 60 giờ/tháng như các lái chính Vũ Xuân
Minh, Nguyễn Minh Tuấn… Trong 3 tháng cuối mùa mưa năm 1981, đội ngũ dẫn đường trên không đã đóng góp sức
mình để Trung đoàn không quân 917 hoàn thành hơn 2.000 chuyến bay nhiệm vụ, chuyên chở gần 10.000 lượt cán bộ,
chiến sĩ, vận chuyển 350 tấn hàng quân sự, đón nhận gần 2.000 thương binh. Năm 1981, Trung đoàn không quân 918
bắt đầu sử dụng An-26 thực hiện chuyên chở quân tình nguyện và đón nhận thương binh của Mặt trận 479.
Mùa xuân năm 1982, tàn quân Khơ-me đỏ âm mưu mở các đợt hoạt động phá hoại, quấy rối gây mất ổn
định chính trị, xã hội và hòng làm suy yếu chính quyền cách mạng của bạn. Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục cùng
với bạn tiến hành truy quét địch. Trong hai tháng đầu năm, Trung đoàn 917 thực hiện 400 chuyến bay, chuyên chở
1.649 lượt cán bộ, chiến sĩ, vận chuyển 36 tấn vũ khí, lương thực, thuốc men và đón nhận hơn 400 thương binh.

Từ tháng 4 năm 1982, Sư đoàn 376 thực hiện giải thể theo quyết định của Bộ Quốc phòng, Trung đoàn 917
và 935 thuộc quyền chỉ huy của Sư đoàn 370, còn Trung đoàn 918 trực thuộc Quân chủng. Tháng 6 năm 1982, Trung
tâm chỉ huy và điều hành bay Khu vực 3 (gọi tắt là Trung tâm 3) được thành lập tại Tân Sơn Nhất. Trung tâm 3 chịu
trách nhiệm chỉ huy và điều hành các hoạt động bay của Quân chủng Không quân ở phía Nam.

Trong hai năm 1982 và 1983, Trung đoàn 935 tập trung vào nhiệm vụ chuyển loại MiG-21, sau đó đưa một
phần lực lượng vào trực chiến và nhận thêm nhiệm vụ đào tạo phi công MiG-21. Trung đoàn 918 tiếp tục đẩy mạnh
chuyển loại An-26, tăng cường tổ chức huấn luyện bay đội hình lớn. Hoạt động của không quân ta trên đất bạn trong
thời gian này chủ yếu do Trung đoàn 917 thực hiện dưới sự chỉ huy và điều hành của Trung tâm 3. Năm 1982, đội ngũ
dẫn đường trên không UH-1 thực hiện dẫn 1.200 chuyến bay, chuyên chở 4.400 lượt cán bộ, chiến sĩ, vận chuyển 114
tấn hàng quân sự, đón nhận hơn 2.000 thương binh; đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 dẫn bay 30 chuyến chuyên
cơ, chở 176 lượt cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước đi kiểm tra các địa phương. Năm 1983, Trung đoàn 917, sau
khi nhận quyết định về trực thuộc Quân chủng, vừa huấn luyện chuyển loại Mi-8 vừa làm nhiệm vụ ở Cam-pu-chia.
Với số lượng trực thăng không nhiều, nhưng đội ngũ dẫn đường trên không của trung đoàn đã thực hiện dẫn bay an
toàn cho 140 chuyến chuyên cơ gần 1.500 chuyến bay vận chuyển, chuyên chở 9.000 cán bộ, chiến sĩ.

Cuối năm 1983, với kết quả huấn luyện chuyển loại rất tốt của các trung đoàn 917, 918 và 935, sau khi
được quán triệt nhiệm vụ chiến đấu của Quân chủng Không quân giao cho, toàn thể đội ngũ dẫn đường phía nam đã
tập trung chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ từng phương án dẫn các loại máy bay và trực thăng mới theo cách đánh mới với đội
hình chiến đấu mới.

Đầu tháng 2 năm 1984, tàn quân Khơ-me đỏ đã gây dựng và tái lập được một số đơn vị đến cấp sư đoàn và
các căn cứ hậu cần mới tại nhiều khu vực xung quanh Biển Hồ với ý định sẽ đứng chân lâu dài và mở rộng hoạt động
lấn chiếm các thị xã Bát Tam Băng, Xiêm Riệp, Kông Pông Thom, đánh vào các vị trí đóng quân của lực lượng vũ
trang cách mạng Cam-pu-chia. Quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch mang tên BH-1-84, cùng với bạn bao vây
tiêu diệt tàn quân địch và giúp bạn củng cố chính quyền ở vùng tây bắc Cam-pu-chia. Đội ngũ dẫn đường trực thăng
vũ trang Mi-8T lần đầu tiên được tham gia dẫn bay chi viện hoả lực cho các đơn vị bộ binh của bạn, bắn hơn 600 quả
rocket và 15.000 viên đạn, đánh trúng các mục tiêu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Tại khu vực tây bắc Biển Hồ, giữa Bát Tam Băng và Xiêm Riệp, địch lập một căn cứ lớn có khoảng 1.500
tên. Các lán trại của chúng được bố trí dọc theo các triền sông cả trong rừng rậm và trên đất sình lầy. Ngày 3 tháng 3
năm 1984, Trung đoàn trưởng Trung đoàn không quân 917 Trịnh Minh Đức trực tiếp chỉ huy lực lượng Mi-8T và U-
17 của trung đoàn cơ động chuyển sân đến Xiêm Riệp tổ chức chuẩn bị chiến đấu, trong đó có cả trực thăng đã được
Nhà máy A41 lắp thêm súng M-60. Ngày 4 tháng 3 năm 1984, đúng 7 giờ 30 phút, các phi công U-17 cất cánh bay
quan sát chỉ thị mục tiêu cho cả pháo binh và trực thăng. 9 giờ 27 phút, đôi bay Mi-8: Trung đoàn trưởng Trịnh Minh
Đức-lái chính Lê Quang Vinh lên đánh vào mục tiêu thứ nhất. 9 giờ 37 phút, chiếc Mi-8 của lái chính Trần Quang
Vinh cất cánh, vừa yểm hộ khu vực vừa sẵn sàng cấp cứu. 9 giờ 55 phút, đôi bay Mi-8: Nguyễn Văn Thiệp-Phạm Văn
Dũng lên đánh mục tiêu thứ hai. Khi đôi Thiệp-Dũng thoát ly thì lái chính Trần Quang Vinh được lệnh vào đánh tiếp
mục tiêu thứ hai với một nửa cơ số đạn của mình và giữ lại một nửa cơ số để sẵn sàng xử lý tình huống trong quá trình
trở về hạ cánh. Buổi chiều, các phi công U-17: Nguyễn Thanh Bình-Nguyễn Trọng Hốt lên chỉ thị cho Mi-8 đánh vào
vị trí đóng quân của trung đoàn Khơ-me đỏ tại một ngã ba sông ở tây bắc Biển Hồ 20km. 2 đôi Mi-8 lần lượt cất cánh
đánh đợt 2 vào lúc 13 giờ 55 phút và về hạ cánh lúc 15 giờ 15 phút. Được U-17 chỉ thị mục.tiêu chính xác, hoả lực
mạnh của Mi-8 đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các đơn vị bộ binh của ta đánh tiêu diệt sinh lực địch, buộc chúng
phải tháo chạy ra khỏi căn cứ.

Đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 đã dẫn bay đáp ứng yêu cầu cách đánh của trung đoàn. Có được chiến
công trên, một trong những nguyên nhân rất quan trọng là đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 đã tham gia huấn luyện
bay nghiêm túc, luyện tập dẫn bay công phu, chuẩn bị các phương án dẫn bay rất chu đáo, tính toán thời cơ cất cánh
giữa các tốp và thực hành dẫn bay chính xác.

Trong khi đưa Mi-8 vào tham gia chiến đấu, Quân chủng Không quân đã chỉ đạo rất chặt chẽ cho Trung
đoàn 918 chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để bước vào đánh địch bằng loại máy bay mới với cách đánh mới.

Ngày 8 tháng 3 năm 1984, Trung đoàn 918 đưa 8 An- 26 vào chuẩn bị chiến đấu tại Biên Hoà. Trung đoàn
trưởng Nguyễn Xuân Hiển và Chủ nhiệm Kỹ thuật Đặng Thí trực tiếp kiểm tra lần cuối cùng tất cả các mặt bảo đảm. 7
máy bay được lắp bom, mỗi chiếc mang 27 quả MK-81 và 1 máy bay làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy. 6 giờ sáng
ngày 9 tháng 3, tổ bay An-26 của Trung đoàn trưởng chở Tham mưu trưởng Quân chủng Nguyễn Ngọc Độ bay trinh
sát thời tiết khu vực chiến đấu. 10 giờ, An-26 nhận lệnh xuất kích, từng chiếc một nối nhau cất cánh. Tổ bay dẫn đầu
đội hình do Trung đoàn trưởng chỉ huy, trong đó có dẫn đường trên không Đặng Văn Lự, lập vòng chờ để tập hợp đội
hình, sau đó bay lên Buôn Ma Thuột, qua Kamăng Chông (tây bắc Buôn Ma Thuột 85km) và Kaoh Nhek (Kô Nhiếch,
tây Kamăng Chông 40km). 6 chiếc bay sau gồm các lái chính: Nguyễn Thành Trung, Trần Văn Quang, Nguyễn Như
Nghi, Nguyễn Hồng Sơn, Phan Hữu Hùng và Mai Chí Lưu phụ trách. 1 chiếc bay cuối cùng đội hình để chuyển tiếp
chỉ huy do lái chính Trần Tấn Bửu đảm nhiệm. 11 giờ 34 phút, tổ bay dẫn đầu đội hình giữ hướng bay 265 độ, qua
Kaoh Nhek, tiếp cận mục tiêu ở phía trước 29km, dẫn đường trên không Đặng Văn Lự ngắm chính xác, Trung đoàn
trưởng ra lệnh ném bom. Sau khi bom đã ra hết, Trung đoàn trưởng điều khiển máy bay vòng trở lại quan sát và chỉ
huy các máy bay trong đội hình của mình thực hiện hết kế hoạch ném bom đã được Tư lệnh Quân chủng phê duyệt.
Đội hình An-26 thoát ly khỏi khu vực chiến đấu, lấy hướng về Tân Sơn Nhất và lần lượt vào hạ cánh an toàn. Cấp trên
thông báo bom của An-26 rơi trúng căn cứ của tàn quân Khơ-me đỏ và FULRO.Tin chiến thắng lan nhanh, ngày 9
tháng 3 năm 1984, được ghi nhận là ngày An-26 của Không quân nhân dân Việt Nam đánh thắng trận đầu. Đội ngũ
dẫn đường trên không An-26 đã lập thành tích xuất sắc, ghi thêm chiến công mới cho ngành Dẫn đường Quân chủng
Không quân: dẫn thành công máy bay vận tải do bạn sản xuất, được ta cải tiến mang bom hệ 2, ném trúng mục tiêu
được giao với đội hình chiến đấu mới.

Phát huy các thành tích vừa đạt được, ngày 10 tháng 3 năm 1984, hai trung đoàn 918 và 917 đã tổ chức
thực hiện đánh phối hợp, hiệp đồng đạt hiệu suất chiến đấu rất cao vào khu căn cứ quan trọng của tàn quân Khơ-me đỏ
và FULRO nằm trên địa bàn vùng đông bắc Cam-pu-chia.

Sáng sớm 10 tháng 3, tổ bay của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 918 chở Tham mưu trưởng Quân chủng và
Tổ tham mưu chiến dịch lên Buôn Ma Thuột nhận nhiệm vụ chiến đấu, sau đó bay trinh sát khu vực mục tiêu và thời
tiết Phương án đánh địch của An-26 rất nhanh chóng được thông qua: 7 An-26 chia làm hai tốp, tốp thứ nhất 4 chiếc
do Trung đoàn trưởng chỉ huy đánh vào sườn phía đông và tốp thứ hai 3 chiếc do lái chính Nguyễn Hồng Sơn chỉ huy
đánh vào cao điểm 208 (tây-tây nam Kaoh Nhek 36km). Đội hình chiến đấu và đường bay đánh địch, cơ bản được giữ
nguyên như hôm trước.
Chiều 10 tháng 3, theo lệnh từ Buôn Ma Thuột, lực lượng An-26 cất cánh đúng kế hoạch tác chiến. Khi còn
cách mục tiêu vài phút bay, Trung đoàn trưởng ra lệnh tách tốp, đánh đúng phương án. Dẫn đường trên không Đặng
Văn Lự dẫn chính tốp thứ nhất và dẫn đường trên không Đỗ Tuấn dẫn chính tốp thứ hai. Cả hai tốp đồng loạt ném
bom trúng mục tiêu vào lúc 14 giờ 07 phút. Cách dẫn An-26, lại một lần nữa phục vụ đắc lực cho cách đánh mới đã
được nghiên cứu kỹ.

Sau khi đã thực hiện cơ động chuyển sân và chuẩn bị thêm các mặt bảo đảm, sáng 10 tháng 3 năm 1984,
Trung đoàn 917, cùng Trung đoàn 918 nhận nhiệm vụ chiến đấu tại Buôn Ma Thuột. Phương án đổ bộ đường không
của Mi-8 cũng rất nhanh chóng được thông qua. Công tác hiệp đồng dẫn bay được kịp thời hoàn tất ngay trước khi tổ
bay An-26 quay lại Biên Hoà.

Chiều 10 tháng 3, phi công U-17 Nguyễn Văn Khải, từ Buôn Ma Thuột lên trinh sát khu vực đổ bộ. 13 giờ
32 phút, tốp Mi-8 do các lái chính: Nguyễn Thanh Mua, Đỗ Văn Thân, Lưu Yến Nguộc và An Thế Quang chở đơn vị
quân tình nguyện Việt Nam và lái chính Nguyễn Minh Tuấn làm nhiệm vụ quan sát, hướng dẫn đổ quân nhận lệnh cất
cánh, rồi bay lên Kamăng Chông, qua Kaoh Nhek, sau đó hướng vào khu vực đổ bộ ở phía tây Kaoh Nhek hơn 40km.
14 giờ 40 phút, từng chiếc Mi-8 lần lượt tiến hành hạ cánh xuống các bãi đổ quân theo sự hướng dẫn từ trên không.
Đến 15 giờ 21 phút, nhiệm vụ đổ bộ đường không kết thúc. Quân ta nhanh chóng bao vây, áp sát vừa tiêu diệt địch
vừa vây bắt bọn đầu sỏ Khơ-me đỏ và FULRO của căn cứ địch tại đây. U-17 và Mi-8 về tới Buôn Ma Thuột lúc 16 giờ
10 phút.

Đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 đã căn cứ vào thời gian ném bom của An-26, tính toán thời gian cất
cánh và thực hiện dẫn bay chính xác đáp ứng yêu cầu chiến thuật đổ bộ đường không cho đơn vị mình.

Trong thời gian tiếp theo của năm 1984, đội ngũ dẫn đường trên không An-26 và Mi-8 luôn phát huy truyền
thống tốt đẹp, thực hiện dẫn bay thành công nhiều trận đánh quan trọng, góp phần cho hai trung đoàn không quân 918
và 917 thường xuyên hoàn thành tốt các nhiệm vụ chiến đấu được giao.

Cuối tháng 10 năm 1984, 7 tổ bay trực thăng vũ trang Mi-24A của Trung đoàn 916 cơ động chuyển sân từ
Hoà Lạc vào Tân Sơn Nhất để phối hợp với các lực lượng của Trung đoàn không quân 917 cùng làm nhiệm vụ giúp
nhân dân Cam-pu-chia bảo vệ thành quả cách mạng. Công tác nghiên cứu địa hình, nắm bắt tình hình địch, xây dựng
cách đánh và làm các phương án dẫn bay được hoàn thành rất nhanh chóng. Lực lượng Mi-24 bước vào trực chiến
ngay.

Ngày 28 tháng 11 năm 1984, 6 tổ bay Mi-24 nhận lệnh phối hợp chặt chẽ với Mi-8 và U-17 đánh địch ngay
từ lúc sáng sớm. 5 giờ 47 phút, U-17 cất cánh, bay vào khu chiến trinh sát và chỉ thị mục tiêu. 5 giờ 55 phút, Mi-8 lên
yểm hộ khu vực và sẵn sàng làm nhiệm vụ cấp cứu. 6 giờ 10 phút, tốp 3 chiếc Mi-24 thứ nhất, gồm các lái chính:
Nguyễn Đình Khoa, Đinh Phương Tâm và Lê Thế Lộc cất cánh. 10 phút sau, tốp 3 chiếc Mi-24 thứ hai cũng cất cánh,
bao gồm: Đào Mạnh Sơn, Lê Văn Phổ và Trương Hùng Dũng. Cả 2 tốp Mi-24, sau khi được dẫn chính xác tới khu
chiến và được U-17 chỉ thị rõ từng mục tiêu, lập tức vào bổ nhào. Mỗi máy bay thực hiện công kích hai lần. Hoả lực
rất mạnh của Mi-24 trùm lên các trận địa của địch. Đợt 1 kết thúc rất nhanh gọn. Lúc 9 giờ 29 phút và 9 giờ 55 phút, 2
tốp Mi-24 lần lượt cất cánh đánh đợt 2. Sư đoàn 980 của tàn quân Khơ-me đỏ bị thiệt hại nặng, hai nhà nổi bị thiêu
trụi, 4 tàu lớn và 2 tàu nhỏ bị chìm. Đó là kết quả của trận ra quân đầu tiên.
Lực lượng trực thăng vũ trang Mi-24 đã lập chiến công mới, tô thắm truyền thống đánh thắng trận đầu của
Quân chủng Không quân. Đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn 916 rất vinh dự được đóng góp sức mình
trong chiến công đó.

Ngày 5 tháng 12 năm 1984, lực lượng Mi-24 tham gia đánh 2 trận đều đạt hiệu suất cao và bảo đảm an
toàn. Ngày 4 tháng 1 năm 1985, 6 chiếc Mi-24 được dẫn bay chính xác, đánh 2 đợt, chi viện hoả lực rất hiệu quả cho
các đơn vị bộ binh của ta truy quét tàn quân Khơ-me đỏ ở vùng biên giới tây bắc Cam-pu-chia. Từ trung tuần tháng 5
đến cuối tháng 9 năm 1985, lực lượng Mi-24 đưa 3 chiếc vào tham gia chiến đấu trong đội hình của Trung đoàn 917,
thực hiện đánh trên 15 trận phối hợp hiệp đồng với Mi-8 và U-17, hoàn thành tốt nhiệm vụ chi viện hoả lực cho bộ
binh.

Với sự nỗ lực rất lớn từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1984, đội ngũ dẫn đường trên không đã dẫn thành công
Mi-8, An-26 và Mi-24 đánh thắng địch ngay từ trận đấu. Đây là sự kiện nổi bật của ngành Dẫn đường Không quân
trong năm 1984, góp phần tô thắm truyền thống của Quân chủng: Loại máy bay và trực thăng nào được trang bị, khi
đưa vào chiến đấu cũng lập công đánh thắng trận đầu.

Trong năm 1985, điểm nổi bật trong cách đánh của Trung đoàn 918 là thường xuyên thay đổi đội hình
chiến thuật. Ngày 31 tháng 3 năm 1985, trung đoàn sử dụng đội hình 1+2+2, trong đó, 1 chiếc bay trinh sát thời tiết và
khu vực mục tiêu trước trận đánh, đôi thứ nhất mang MK-81 và đôi thứ hai mang CBU-49 đánh phá căn cứ của tàn
quân Khơ-me đỏ ở đông bắc Bát Tam Băng 24km, làm cho chúng bị thiệt hại nặng cả về người và vũ khí. Ngày 26
tháng 4 năm 1985, trung đoàn áp dụng đội hình 1+1+3 đánh vào vị trí co cụm lực lượng của địch tại khu vực rừng núi
ở đông-đông bắc Kra Chie 77km: 1 chiếc làm nhiệm vụ sinh sát thời tiết, 1 chiếc chụp ảnh khu vực mục tiêu, 3 chiếc
còn lại đều mang bom MK-81. Ngày 22 tháng 9 năm 1985, trung đoàn lại vận dụng đội hình và phương án mang bom
như ngày 31 tháng 3 để đánh 2 mục tiêu tại khu vực núi Chi (bắc-tây bắc Kra Chie 62km). Đến đầu tháng 12 năm
1985, Trung đoàn không quân 918 liên tiếp sử dụng 7 máy bay A-26 đánh nhiều trận với đội hình chiến thuật 1+3+3
hoặc 1+2+2+2, trong đó dùng 1 chiếc vừa trinh sát thời tiết vừa chụp ảnh khu vực mục tiêu cả trước và sau trận đánh.

Đội ngũ dẫn đường trên không An-26 luôn nắm chắc ý định tổ chức đánh địch của Trung đoàn trưởng, tính
toán và dẫn bay chính xác, kịp thời đáp ứng yêu cầu thay đổi đội hình chiến thuật đã trực tiếp góp phần nâng cao hiệu
suất chiến đấu trong từng trận đánh của trung đoàn.

Năm 1986, đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 917 tập trung dẫn bay cho nhiệm vụ chiến đấu là chủ
yếu, còn đối với đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 918, ngoài dẫn bay chiến đấu còn phải tham gia thực hiện
dẫn bay chuyên chở cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện luân chuyển công tác và đón nhận thương binh về hậu phương.

Mùa khô năm 1986-1987, các đợt truy quét tàn quân Khơ me đỏ bước vào thời kỳ cao điểm. Tháng 1 năm
1987, đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 917 dẫn đánh 4 trận với 25 lần/chiếc, 12 lần/chiếc trinh sát, chỉ thị
mục tiêu 3 lần/chiếc yểm hộ khu vực và sẵn sàng cấp cứu, gần 200 chuyến bay chuyên chở gần 800 lượt cán bộ, chiến
sĩ đi công tác, đón hơn 300 thương binh và nhận 60 hài cốt liệt sĩ về tuyến sau, vận chuyển 10 tấn hàng quân sự.
Tháng 2 năm 1987, đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 918 dẫn đánh 3 trận: Trận ngày 16, 3 An-26 đánh vào
mục tiêu nằm ở bình độ 1.000m cạnh điểm cao 1.771 giáp ranh 3 tỉnh Cô Công, Pô Xát và Kông Pông Chnăng. Trận
ngày 21, hai đôi An-26 đánh 2 mục tiêu ở tây bắc Biển Hồ 30km trong điều kiện trời mù, tầm nhìn rất hạn chế. Trận
ngày 22, hai đôi An-26 đánh tiếp 2 mục tiêu còn lại cũng nằm tại khu vực trên, nhưng trong điều kiện thời tiết tốt hơn.
Tất cả các trận của An-26 đều đánh trúng mục tiêu.
Ngày 7 tháng 5 năm 1987, tổ bay Mi-8: Lái chính Đào Công Tuấn-dẫn đường trên không Nguyễn Danh
Đoan-cơ giới trên không Đặng Xuân Niệm-nguyễn Xuân Toàn chở Thiếu tướng Khiếu Anh Lân, Tư lệnh Mặt trận 479
đi kiểm tra vị trí đóng quân của một số đơn vị quân tình nguyện theo đường bay Xiêm Riệp-Chông Can (bắc-tây bắc
Xiêm Riêu 63km)-Xam Rông (bắc-tây bắc Xiêm Riệp 87km) - Xiêm Riệp. Trong khi giảm độ cao vào hạ cánh ở bãi
Chông Can, đến 150m thì bị đạn AK của địch bắn trúng thùng dầu tiêu thụ và giảm tốc chính. Lái chính bình tĩnh đưa
ngay trực thăng vào trạng thái thật ổn định, vừa vòng cơ động vừa chỉ huy toàn tổ bay xử lý tình huống. Cơ giới trên
không lập tức dùng khăn sạch nút đáy thùng tiêu thụ, đồng thời dùng xô hứng được 84 lít dầu. Dẫn đường trên không
vừa tham gia giữ trạng thái trực thăng vừa nhanh chóng quan sát phía dưới và tính toán chính xác số liệu để dẫn bay
quay lại Xiêm Riệp với thời gian ngắn nhất. Tổ bay đã cùng nhau bảo đảm an toàn cho cả người và trực thăng về đến
căn cứ.

Theo yêu cầu nhiệm vụ giúp nhân dân Cam-pu-chia bảo vệ thành quả cách mạng, từ ngày 24 đến 30 tháng
9 năm 1987, lực lượng An-2 của Trung đoàn 918 được dẫn bay cơ động chuyển sân từ Tân Sơn Nhất sang Pô Chen
Tông. Ngày 1 tháng 10 năm 1987, tổ bay An-2 do Phi đội trưởng Nguyễn Văn Canh chỉ huy, từ Pô Chen Tông lên
Xiêm Riệp. Ngày 2 tháng 10, trực thăng Mi-8 của Trung đoàn 917 đưa tổ chỉ huy bay và tổ bay An-2 đi quan sát khu
vực mục tiêu ở phía tây Xiêm Riệp. Tại đây tàn quân Khơ-me đỏ lập căn cứ gồm 210 nóc nhà cả trong rừng rậm và ở
ven hồ. Các đơn vị bộ binh của ta đã bí mật bao vây cách căn cứ khoảng 5km và sẵn sàng chờ lệnh tiến công.

5 giờ sáng ngày 4 tháng 10 năm 1987, Tiểu đoàn giang thuyền của ta tiến vào mục tiêu ở cự ly 10 km. 6
giờ, tổ bay An-2 cất cánh và được dẫn chính xác theo đường bay: Xiêm Riệp-bát Tam Băng-mục tiêu. Từ độ cao 800
đến 1 000m, Phi đội trưởng Nguyễn Văn Canh cho An-2 vào bổ nhào và ném hai loạt đạn cối, mỗi loạt 16 quả đều
trúng mục tiêu. Sau đó anh vòng ra để nạp thêm 32 quả nữa lên giá cối và vòng trở lại ném tiếp loạt vào mục tiêu, rồi
thoát ly về hạ cánh. Tại căn cứ Xiêm Riệp lực lượng quân giới đã chờ sẵn và lắp tiếp 64 quả cối lên máy bay. 7 giờ 30
phút, An-2 cất cánh đánh đợt hai theo đường Xiêm Riệp-Cro Lanh (tây bắc Xiêm Riệp 43km)-mục tiêu. Ngay sau loạt
đạn cối cuối cùng của An-2, các đơn vị bộ binh và Tiểu đoàn giang thuyền nhanh chóng tiến công, tiêu diệt địch và
làm chủ căn cứ.

Đây là trận đầu ra quân của lực lượng An-2 trong nhiệm vụ mới, trên chiến trường mới, giành thắng lợi
giòn giã và lập công xuất sắc. An-2 đã giữ vững truyền thống đánh thắng địch và phát huy truyền thống đó trong chi
viện hoả lực rất hiệu quả cho bộ binh. Đội ngũ dẫn đường trên không đã nắm chắc cách đánh của An-2, thực hiện dẫn
bay chính xác, góp phần nâng cao sức mạnh hiệp đồng chiến đấu giữa không quân và bộ binh.

Tính đến cuối năm 1987, đội ngũ dẫn đường trên không An-2 tham gia dẫn đánh 16 trận, ném 1.460 quả
đạn cối. Ngoài ra, làm nhiệm vụ rải truyền đơn và gọi loa địch vận cũng đã được dẫn đường trên không An-2 thực
hiện rất hiệu quả.

Năm 1984, kế hoạch tổng thể của Quân chủng Không quân về việc thực hiện nhiệm vụ giúp Quân đội cách
mạng Cam-pu-chia xây dựng lực lượng không quân do Bộ Quốc phòng giao bắt đầu được tổ chức triển khai.

Ngày 16 tháng 8 năm 1984, Quân chủng ra quyết định thành lập Phi đội 2 trực thuộc Trung đoàn không
quân 935. Thiếu tá Trần Đình Quang giữ chức Phi đội trưởng, đại uý Trần Tấn Lực, Phó Phi đội trưởng về chính trị,
đại uý Trần Văn Tứ, Phó Phi đội trưởng huấn luyện và đại uý Đinh Văn Tỉnh, Phó Phi đội trưởng kỹ thuật. Phi đội có
nhiệm vụ trực tiếp giúp bạn xây dựng cơ sở ban đầu cho trung đoàn không quân tiêm kích. Thành phần của phi đội
bao gồm cả phi công, thợ máy của ta và phi công, thợ máy của bạn. Cuối tháng 9 năm 1984, phi đội tổ chức tiếp nhận
đội ngũ cán bộ, phi công và nhân viên kỹ thuật của bạn đã tốt nghiệp ở các Trường Hàng không của Liên Xô về. Sau
đó Trung đoàn 935 cùng với bạn tổ chức tiếp nhận máy bay và các phương tiện kỹ thuật bảo đảm do Liên Xô viện trợ
cho bạn chuyển từ Đà Nẵng về Biên Hoà. Phi đội được biên chế 21 chiếc máy bay MiG-21 cả huấn luyện và chiến
đấu. Công tác huấn luyện bay và huấn luyện các mặt bảo đảm kỹ thuật cho bạn được nhanh chóng triển khai. Tiểu ban
dẫn đường Trung đoàn 935 trực tiếp giúp đội ngũ phi công của bạn chuẩn bị dẫn đường cho các bài bay huấn luyện và
thực hiện dẫn toàn bộ các chuyến bay huấn luyện trong suốt thời gian bạn chưa có đủ đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy.

Với sự nỗ lực rất lớn của Trung đoàn 935, nhiệm vụ giúp bạn xây dựng cơ sở ban đầu cho trung đoàn
không quân tiêm kích luôn được hoàn thành tốt, đáp ứng mọi yêu cầu của Quân chủng Không quân và của Sư đoàn
370 đề ra, nhất là về tiến độ theo thời gian. Sau khỉ có quyết định của nước bạn về việc thành lập Trung đoàn không
quân tiêm kích 701, ngày 8 tháng 4 năm 1988, lễ công bố đã được tổ chức trọng thể tại khu huấn luyện bay ở Biên
Hoà trước sự chứng kiến của đoàn cán bộ cấp cao hai nước.

Ngày 23 tháng 4 năm 1988, căn cứ vào quyết định của Quân chủng Không quân, Sư đoàn 370 tổ chức
Đoàn chuyên gia không quân do Trung tá Trần Anh Mỹ làm Đoàn trưởng và nhiều chuyên gia các ngành khác, trong
đó có đại uý Đặng Văn Sinh và đại uý Nguyễn Xuân Khoát là hai chuyên gia dẫn đường không quân. Đoàn chuyên gia
cùng với Trung đoàn 935 tiếp tục giúp. Trung đoàn 701 độc lập công tác trong tổ chức bay huấn luyện, đào tạo đầy đủ
cán bộ chỉ huy bay và phi công bay trinh sát thời tiết. Gần 20 phi công của trung đoàn bạn đều đạt trình độ đôi bay
đánh mục tiêu trên không và mặt đất trong điều kiện thời tiết giản đơn ban ngày. Đến tháng 6 năm 1989, Đoàn chuyên
gia không quân của ta giúp bạn chuyển toàn bộ Trung đoàn 701 từ Biên Hoà về Pô Chen Tông. Sau khi hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, đoàn đã trở về Việt Nam vào tháng 9 năm 1989.

Sau hơn một năm kể từ khi quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia đã thực hiện rút toàn bộ lực lượng
về trước đến tháng 10 năm 1990, theo yêu cầu của Bộ Quốc phòng Cam-pu-chia, Bộ Quốc phòng nước ta cử Đoàn
chuyên gia không quân thứ hai sang giúp không quân Cam-pu-chia. Trung tá Nguyễn Khắc Thanh, Phó Tham mưu
trưởng Sư đoàn Không quân 371 được cử làm Đoàn trưởng. Trong Đoàn chuyên gia không quân lần này có thiếu tá
Hoàng Đức Hạnh, phụ trách ban dẫn đường Sư đoàn 370 và thượng uý Đinh Khánh Tiến, trợ lý Dẫn đường Trung
đoàn 935. Các chuyên gia dẫn đường của ta vừa giúp bạn bảo đảm bay vừa huấn luyện nâng cao trình độ cho đội ngũ
dẫn đường sở chỉ huy của bạn.

Cũng nằm trong kế hoạch của Quân chủng giúp bạn xây dựng lực lượng không quân, năm 1985, Trung
đoàn 917 cử hai tổ bay Mi-8 đầu tiên là: lái chính Vũ Bình Dương-dẫn đường trên không Dương Văn Yên-cơ giới trên
không Nguyễn Văn Tính và lái chính Lê Quang Vinh-dẫn đường trên không Nguyễn Xuân Thuỷ-cơ giới trên không
Nguyễn Anh Tuấn sang Cam-pu-chia làm chuyên gia bay trực thăng cho bạn. Các thành viên trong hai tổ bay đã thực
hiện 26 lượt người trực tiếp hướng dẫn phương pháp tổ chức huấn luyện bay trực thăng và lên lớp về công tác dẫn bay
Mi-8.

Năm 1987, Trung đoàn 916 cử hai tổ bay Mi-8: lái chính Trần Đình Long-dẫn đường trên không Phạm Văn
Bất-cơ giới trên không Nguyễn Du Lịch và lái chính Trần Quang Tuấn-dẫn đường trên không Văn Đức Huyên-cơ giới
trên không Nguyễn Quang Minh sang thay hai tổ bay của Trung đoàn 917. Để đáp ứng yêu cầu của bạn, tháng 4 năm
1988, Trung đoàn 916 cử thêm tổ bay Mi-8 thứ ba: lái chính Trần Văn Thiếu-dẫn đường trên không Bùi Văn Vanh-cơ
giới trên không Nguyễn Văn Soạn sang tiếp. Từ tháng 1 năm 1990, để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ làm chuyên gia bay
trực thăng, hai tổ bay Mi-8: lái chính Nguyễn Huy Cương-dẫn đường trên không Phạm Văn Thường-cơ giới trên
không Nguyễn Đức Thảo của Trung đoàn 916 và lái chính Nguyễn Quang Vinh-dẫn đường trên không Nguyễn Thanh
Long-cơ giới trên không Trịnh Năm của trung đoàn 917 được cử sang công tác với thời gian hai năm. Các chuyên gia
dẫn đường trên không: Phạm Văn Bất, Văn Đức Huyên, Bùi Văn Vanh, Phạm Văn Thường và Nguyễn Thanh Long đã
trực tiếp thực hiện huấn luyện dẫn bay cho các học viên của bạn đã tốt nghiệp Mi-8 ở Liên Xô về Cam-pu-chia năm
1989 và kèm cho bốn tổ bay của bạn chuyển loại từ Mi-8 sang Mi-17 làm được nhiệm vụ chiến đấu.

Để góp phần xây dựng hoàn chỉnh Trung đoàn không quân 701 của bạn, từ năm 1986 đến năm 1991,
Trường Sĩ quan Chỉ huy-kỹ thuật không quân tiến hành đào tạo cho bạn 4 khoá sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy với tổng
số là 18 học viên. Như vậy, sau khi Trung đoàn 701 trở về Cam- pu-chia, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy của bạn từng
bước thực hiện.độc lập công tác.

Vào thời điểm năm 1988, lực lượng cách mạng Cam-pu chia đã trưởng thành và đủ mạnh để đảm đương
nhiệm vụ bảo vệ đất nước mình. Đảng và Nhà nước ta chủ trương rút dần đến rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam
về nước.

Tháng 7 năm 1988, Trung đoàn 917 sử dụng 3 Mi-8 và Trung đoàn 918 sử dụng 6 An-26 tổ chức bay vận
chuyển Bộ Tư lệnh và một số đơn vị trọng điểm của Mặt trận 719 từ Phnôm Pênh về thành phố Hồ Chí Minh đúng kế
hoạch. Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 9 năm 1989, lực lượng An-26 và Mi-8 được huy động tham gia nhiệm vụ rút
toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam từ Cam-pu-chia về nước, sớm hơn một năm so với tuyên bố trước đây của Đảng
và Nhà nước ta. Trung đoàn 917 và 918 tổ chức liên tục các chuyến bay để chở quân của Mặt trận 479, Quân khu 5,
Quân khu 9, vùng 5 Hải quân và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu về nước. Ngày 23 tháng 9 năm 1989, Trung đoàn 917
đưa 6 Mi-8 sang Phnôm Pênh phục vụ cơ quan Bộ Quốc phòng. Đây là những chuyến bay cuối cùng của không quân
ta tham gia nhiệm vụ rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam từ Cam-pu-chia về nước.

4. Huấn luyện, đào tạo và kiện toàn các tổ chức dẫn đường.

Năm 1977, trong toàn ngành Dẫn đường có 7 sĩ quan dẫn đường được kiểm tra phê chuẩn trực chính tại sở
chỉ huy và 1 tại hiện sóng, cho 8 đồng chí dẫn đường tại radar hạ cánh được bồi dưỡng đồng hoá nghiệp vụ vào trực
phụ tại sở chỉ huy và 3 đồng chí dẫn đường tại sở chỉ huy vào trực tại đài chỉ huy bay. Ban dẫn đường Sư đoàn 372 tổ
chức học lý thuyết dẫn đường trên hiện sóng cho 4 sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy, hoàn thành chương trình chuyển loại
cho 4 đồng chí dẫn đường trên không C-130 sang dẫn C-119 và tổ chức đào tạo chuyển loại cho 5 đồng chí thong tin
trên không của Trung đoàn 916 sang dẫn đường trên không Mi-8.

Trước tình hình thành phần dẫn đường trên không bị thiếu hụt khá nhiều so với các thành phần khác trong
tổ bay, Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ cho Trường Sĩ quan Không quân tổ chức đào tạo sĩ quan dẫn đường
trên không tại Trung đoàn 918. Bộ Tham mưu Quân chủng - Không quân hướng dẫn cho các cơ quan lập đề cương
đào tạo chuyên ngành và tổ chức bảo đảm các mặt cho khoá học. Ngày 15 tháng 11 năm 1978, khoá học được tổ chức
khai giảng, có 30 học viên tham gia và thời gian đào tạo là 20 tháng. Đây là hình thức đào tạo mới, do nhà trường chịu
trách nhiệm, nhưng lại được tổ chức thực hiện tại đơn vị, nên học lý thuyết đến đâu được thực hành ngay đến đó, nhất
là thực hành dẫn bay trên C-47.

Ngày 16 tháng 5 năm 1977, Quân chủng Không quân được thành lập, đại tá Đào Đình Luyện được bổ
nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân chủng, thượng tá Nguyễn Ngọc Độ làm Tham mưu trưởng Quân chủng.
Phòng Dẫn đường nằm trong Bộ Tham mưu Không quân và được biên chế 13 sĩ quan. Thiếu tá Trần Quang Kính được
cử giữ chức Trưởng phòng, đại uý Hoàng gần làm phó Trưởng phòng. Các đồng chí Trần Xuân Mão, Tạ Quốc Hưng,
Dương Minh Phương, Phạm Văn Quí, Phạm Từ Tịnh, Đặng Dũng, Lương Văn Vóc, Khương Văn Mô từ các ban dẫn
đường Sư đoàn Không quân 370, 371, 372 và Trường Sĩ quan Không quân được điều về làm trợ lý dẫn đường. Các
đồng chí Đỗ Hải Đăng, Phạm Mạc và Lê Văn Bông trợ lý binh chủng Radar được điều về làm trợ lý radar dẫn đường.
Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong biên chế của Phòng Dẫn đường có thành phần trợ lý radar dẫn
đường.

Ngay sau khi ổn định tổ chức, mặc dù phạm vi công tác rộng, khối lượng công việc tăng nhanh, nhưng
Phòng Dẫn đường Quân chủng luôn tập trung ưu tiên chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ dẫn đường chiến đấu ở phía nam và
cử trợ lý vào tăng cường ngay cho Ban dẫn đường Sư đoàn 372. phòng Dẫn đường thường xuyên quan tâm đến công
tác bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ bay huấn luyện của Sư đoàn 371, cho các chuyến bay chuyển sân, vận chuyển
hai chiều vào Nam, ra Bắc qua vùng trời miền Trung của Sư đoàn 370, đồng thời liên hệ mật thiết với Trường Sĩ quan
Không quân về công tác bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ huấn luyện chuyển loại giáo viên bay và đào tạo học viên
bay, cũng như về công tác đào tạo sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy.

Một trong những nhiệm vụ mà Phòng Dẫn đường Quân chủng đã nỗ lực hoàn thành tốt trong giai đoạn này
là kịp thời chỉ đạo các trung đoàn không quân tổ chức thực hiện các nhiệm vụ dẫn đường của mình ngay sau khi được
điều về trực thuộc Quân chủng.

Căn cứ vào tính chất nhiệm vụ và xu hướng phát triển của lực lượng không quân vận tải, giữa năm 1978,
Quân chủng Không quân quyết định điều Trung đoàn 9 1 8 từ Sư đoàn 372 về trực thuộc Quân chủng. Các đội bay
được tổ chức thành các phi đội. Đồng chí Đặng Văn Lự giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn và một số đồng
chí dẫn đường trên không được giao làm Chủ nhiệm Dẫn đường phi đội. Tất cả đều tập trung nghiên cứu kỹ phương
án đưa C-130 và C-119K vào trực tiếp đánh địch của trung đoàn, tổ chức xây dựng tốt các phương án dẫn bay chiến
đấu tính toán chính xác các số liệu ném bom, đạn vào các mục tiêu mặt đất. Các đồng chí dẫn đường trên không Đặng
Văn Lự, Đỗ Tuấn, Nguyễn Khắc Thọ, Vũ Mạnh… đã dẫn thành công C-130 và C-119K trực tiếp đánh địch trong trận
ra quân đầu tiên của trung đoàn vào ngày 28 tháng 12 năm 1978, trong trận đánh đêm đầu tiên vào đêm ngày 5 và rạng
sáng ngày 6 tháng 1 năm 1979 và trong nhiều trận khác ở phía Nam.

Đến tháng 4 năm 1979, Trung đoàn 918 được Quân chủng điều về Sư đoàn 376. Cuối năm 1979, số lượng
máy bay hệ 2 của trung đoàn giảm nhanh, chỉ còn một số C-130 tiếp tục hoạt động được. Từ năm 1980 trở đi, Trung
đoàn 918 bắt đầu được trang bị An-26, ban đầu chỉ có 2 chiếc chuyển tiếp chỉ huy, sau đó tăng dần lên hàng chục
chiếc vận tải. Đội ngũ dẫn đường trên không khẩn trương tham gia bay chuyển loại và nhanh chóng làm chủ cách dẫn
An-26 trong vận chuyển đường không và ứng dụng chiến đấu. Tháng 8 năm 1981, Trung đoàn 918 tiến hành những
chuyến bay vận chuyển đường không đầu tiên phục vụ Mặt trận 479. Đội ngũ dẫn đường trên không An-26 đã thực
hiện dẫn liên tục mỗi tuần hai chuyến từ Tân Sơn Nhất sang Xiêm Riệp, Bát Tam Băng đón nhận thương binh về Tân
Sơn Nhất. Trình độ của đội ngũ dẫn đường trên không An-26 luôn được củng cố và nâng lên qua các cuộc diễn tập N-
81 (cuối tháng 8 năm 1981), MB-81 (giữa tháng 11 năm 1981) và bay vận chuyển đường không hai chiều ra Bắc vào
Nam. Tuy nhiên, ngày 11 tháng 2 năm 1982, tổ bay An-26 gồm tái chính Lương Xuân Chương, dẫn đường trên không
Nguyễn Thế Nhuần… cất cánh từ Pô Chen Tông về Tân Sơn Nhất, đã bị lạc đường sáng bắc Thái-lan, phải hạ cánh
bắt buộc, máy bay hỏng và 1 đồng chí trong tổ bay hy sinh. Sau 99 ngày, khi tổ bay được phía Thái-lan trao trả về Việt
Nam, các nguyên nhân mới được làm rõ. Đây là hậu quả của hàng loạt sai lầm trong sử dụng các thiết bị dẫn bay và
trong tuân thủ trình tự xử lý khi bị lạc đường, ảnh hưởng đến khí thế chung của trung đoàn trong giai đoạn mới bắt
đầu được trang bị An-26.

Từ tháng 4 năm 1982, sau khi Sư đoàn 376 thực hiện giải thể, Trung đoàn 918 lại về trực thuộc Quân
chủng. Tại thời điểm này, trong cơ quan trung đoàn có ban Chủ nhiệm, bao gồm cả lái chính, dẫn đường trên không và
cơ giới trên không. Các đồng chí Vũ Mạnh và Đặng Văn Lự nằm trong ban Chủ nhiệm trung đoàn. Tại các phi đội,
nhất là An-26, đều có Chủ nhiệm Dẫn đường. Ngoài thực hiện nhiệm vụ vận chuyển đường không, để chuẩn bị đánh
địch bằng đội hình chiến đấu mới, trong lúc đội ngũ lái chính, nhất là các đồng chí trước đây đã được bay qua các loại
máy bay chiến đấu, nhanh chóng phát huy khả năng bay đội hình thì đội ngũ dẫn đường trên không cũng kịp thời nắm
vững cách dẫn An-26 tập hợp đội hình tăng dần từ 2, 3 đến 6 chiếc, bay đến mục tiêu, thực hiện ném bom và dẫn về
giải tán hạ cánh.

Những chiến công của An-26 ở phía Nam, trong đánh thắng trận đầu ngày 9 tháng 3 năm 1984, trong tập
kích đường không vào các mục tiêu nằm trong hậu phương địch, chi viện hoả lực cho các đơn vị của Mặt trận 579
năm 1984, trong linh hoạt sử dụng đội hình chiến thuật để nâng cao hiệu quả đánh địch năm 1985 và trong tham gia
vận chuyển quân tình nguyện Việt Nam về nước năm 1989… đều có sự đóng góp rất quan trọng của hệ thống Chủ
nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 918.

Đầu tháng 9 năm 1987, Quân chủng điều Phi đội An-2 từ Cục Huấn luyện-nhà trường về trực thuộc Trung
đoàn 918 và vào phía nam trực tiếp tham gia chiến đấu. Với bản lĩnh và trình độ của mình, đội ngũ dẫn đường trên
không đã góp phần tạo nên những chiến công của An-2 ra quân đánh thắng ngày 4 tháng 10 năm 1987, đánh thắng
những trận tiếp theo và rải truyền đơn, gọi loa địch vận đạt hiệu quả cao cuối năm 1987 trên chiến trường mới.

Ngày 8 tháng 9 năm 1979, Trung đoàn 916 được điều từ Sư đoàn 371 về trực thuộc Quân chủng Không
quân. Đồng chí Công Doãn Đương làm Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn và sau đó là các đồng chí Lưu Văn Truyền
và Phạm Như Cận kế nhiệm. Đối với từng loại trực thăng đều có Chủ nhiệm Dẫn đường ở các phi đội. Đội ngũ dẫn
đường trên không Mi-8 của trung đoàn tham gia phục vụ chiến đấu ở phía nam trong đội hình của Trung đoàn 917
luôn hoàn tốt nhiệm vụ dẫn bay chuyên chở cán bộ, chiến sĩ vận chuyển tiếp tế và đón nhận thương binh.

Ngày 11 tháng 1 năm 1980, phi đội trực thăng vũ trang Mi-24 đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam
được thành lập, mang phiên hiệu Phi đội 304, nằm trong Trung đoàn 916. Sau khi được chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt,
cuối tháng 10 năm 1984, Mi-24 vào tham gia chiến đấu ở phía Nam, cuối tháng 11 năm 1984, đánh thắng trận đầu và
Mi-24 còn đánh nhiều trận phối hợp, hiệp đồng với Mi-8 đạt hiệu quả chiến đấu cao. Về thành phần cơ bản của tổ bay
Mí-24 không có dẫn đường trên không. Phi công Mi-24 tự mình chịu trách nhiệm dẫn bay. Nhưng trải qua thực tiên
huấn luyện và chiến đấu, thành phần dẫn đường trên không đã được bổ sung kịp thời, hỗ trợ đắc lực cho phi công, làm
cho sức mạnh của tổ bay được nâng lên, chất lượng của chuyến bay càng thêm vững chắc.

Đội ngũ dẫn đường trên không Mi-6, nhất là trong các tổ bay tham gia công tác dài ngày ở phía nam luôn
hoàn thành tốt nhiệm vụ dẫn bay như cùng với Mi-8 chở lực lượng Quân đoàn 2 đổ bộ ở Ta Keo ngày 6 tháng 1 năm
1979 và chở các đơn vị được lệnh ra Bắc tham gia bảo vệ biên giới của Tổ quốc từ các vị trí tập kết quân đơn lẻ về tập
trung tại Tân Sơn Nhất và Cần Thơ. Đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 cùng với các thành phần khác trong các tổ
bay làm tròn công tác chuyên gia giúp bạn từ năm 1987 đến năm 1989.

Đầu tháng 3 năm 1983, Trung đoàn 917 được điều từ Sư đoàn 370 về trực thuộc Quân chủng Không quân.
Lúc này UH-1 không có nguồn khí tài thay thế và Mi-8 cũng phải đưa vào sửa chừa, số lượng trực thăng tốt của trung
đoàn chỉ còn lại rất ít. Đến cuối tháng 3 năm 1983, trung đoàn được nhận thêm Mi-8 của Trung đoàn 916. Trong thời
gian rất ngắn, đồng chí Vũ Xuân Cán, Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn cùng với đội ngũ dẫn đường trên không UH-
1 tập trung bay chuyển loại, hoàn thành tốt các bài bay cơ bản và ứng dụng chiến đấu trên Mi-8.
Hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường trong trung đoàn tiếp tục được củng cố, trình độ dẫn bay ngày càng được
nâng cao. Đội ngũ dẫn đường trên không luôn đóng góp sức mình cho đơn vị giành nhiều chiến công: Đầu tháng 2
năm 1984, dẫn Mi-8T đánh thắng trận đầu; đầu tháng 3 năm 1984, dẫn thành công đổ bộ đường không trên địa hình
rừng núi có chỉ huy hỗ trợ từ trên không; cuối tháng 11 năm 1984, dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa Mi-8 và Mi-24.
Nhiều đồng chí dẫn đường đã cùng với các thành phần trong tổ bay Mi-8 bình tĩnh xử lý tốt các trường hợp bị địch
bắn như Trần Doãn Bách, Nguyễn Danh Đoan và Trần Như Vi.

Từ tháng 6 năm 1986, sau khi trung đoàn tổ chức tiếp nhận Phi đội Mi-24 của Trung đoàn 916 và Mi-24
của Trung đoàn 930, toàn bộ đội ngũ dẫn đường trên không Mi-24 nhanh chóng ổn định tổ chức và đưa ngay các chế
độ công tác dẫn bay vào nền nếp. Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng giúp cho hiệu quả dẫn bay Mi-24 chi
viện hoả lực luôn được giữ vững trong suất thời gian làm nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia.

Trong quá trình Trung đoàn không quân 917 về trực thuộc Quân chủng, đội ngũ dẫn đường trên không còn
hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác như dẫn bay phục vụ dầu khí từ tháng 9 năm 1983 và làm chuyên gia giúp bạn từ
năm 1985 đến năm 1987.

Thành tích dẫn bay đã đạt được là rất đáng tự hào, song những thiếu sót về quản lý con người trong quá
trình công tác không được phát hiện, chấn chỉnh kịp thời, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng luôn là bài học sâu sắc cho
toàn ngành Dẫn đường Không quân. Đó là vụ Vũ Anh Tuấn (Thượng uý), dẫn đường trên không đã dùng súng ngắn
uy hiếp các thành phần trong cùng tổ bay và các cán bộ đi công tác trên cùng chuyến bay, hòng cướp chiếc trực thăng
Mi-8 số hiệu 7821 vào ngày 24 tháng 9 năm 1986, nhưng không thành. Vũ Anh Tuấn đã bị bắt ngay sau khi trực thăng
bị mất thăng bằng, lao nghiêng xuống mặt nước do đại uý Nguyễn Minh Tuấn, lái chính bất ngờ ngắt tự động lái. Đây
là vụ việc do một cá nhân gây ra, nhưng làm tổn hại đến thanh danh của cả đội ngũ dẫn đường trên không của trung
đoàn. Sau khi làm rõ các nguyên nhân, củng cố lại tổ chức, đội ngũ dẫn đường trên không của trung đoàn tiếp tục
vững bước vươn lên hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Ngày 1 tháng 8 năm 1987, căn cứ vào yêu cầu điều chỉnh lại lực lượng trên cả 3 miền của đất nước, Quân
chủng quyết định điều Trung đoàn 917 trở lại Sư đoàn 370.

Ngày 20 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn Không quân 376 được thành lập. Đồng chí Lê Văn Nhã được bổ
nhiệm làm Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Thành Út làm Chính uỷ, đồng chí Lê Công Uẩn làm Tham mưu trưởng sư đoàn.
Bộ Tư lệnh và các cơ quan sư đoàn đóng quân tại Biên Hoà. Ban dẫn đường sư đoàn nằm trong Phòng Tham mưu,
đồng chí Đặng Văn Hảo giữ chức Trưởng ban và đại uý Vũ Mạnh giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường sư đoàn. Đây là lần
đầu tiên trong một tổ chức dẫn đường cấp sư đoàn được bố trí hai cán bộ đảm nhiệm hai mảng công tác lớn là dẫn
đường sở chỉ huy và dẫn đường trên không.

Đồng chí Hồ Hạnh được giao phụ trách Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935, đại uý Vũ Xuân Cán, Chủ
nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 917. Tại Trung đoàn căn cứ 901, đóng quân ở Pô Chen Tông, được biên chế 2 sĩ quan
dẫn đường là Nguyễn Văn Nhâm và Lưu Thế Nghiệp. Đến tháng 6 năm 1979, 2 sĩ quan dẫn đường là trung uý Lê
Quốc Báo và thiếu uý Nguyên Đại Lương được điều sang Pô Chen Tông công tác để các đồng chí Nhâm và Nghiệp về
ban dẫn đường Sư đoàn 372 chuẩn bị chuyển quân ra Bắc nhận nhiệm vụ mới.

Trong thời gian từ năm 1979 đến năm 1982, số lượng máy bay và trực thăng hệ 2 của sư đoàn đưa vào
chiến đấu giảm khá nhiều so với trước đây do không có nguồn khí tài thay thế, nhưng yêu cầu truy quét địch không
giảm. Đội ngũ dẫn đường Sư đoàn Không quân 376 đã cùng nhau tăng cường chuẩn bị thật chu đáo các phương án
dẫn bay chiến đấu, tập trung tinh lực dẫn chính xác từng chuyến, đặc biệt trong nhiều đợt hoạt động, khi phi công, tổ
bay quyết tâm bay tăng chuyến liên tục trên các máy bay và trực thăng còn tốt. Ngoài nhiệm vụ dẫn đường chiến đấu,
Ban dẫn đường Sư đoàn 376 và Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935 còn thường xuyên hỗ trợ về mọi mặt cho Trung
đoàn không quân 945 thực hiện đào tạo phi công MiG-21 khoá đầu tiên tại Biên Hoà trong 2 năm 1980 và 1981.Sau
khi Bộ Quốc phòng ra quyết định giải thể Sư đoàn 376, Quân chủng Không quân tiến hành điều chỉnh lực lượng cho
Sư đoàn 370.

Trước thời gian này, ngày 1 tháng 3 năm 1978, Quân chủng ra quyết định điều Trung đoàn không quân 927
từ Sư đoàn 371 vào trực thuộc Sư đoàn 370, đóng quân tại Đà Nẵng và đến ngày 5 tháng 8 năm 1978, do yêu cầu tăng
cường lực lượng cho hướng bắc, Trung đoàn 927 lại trở về Sư đoàn 371. Ngày 25 tháng 2 năm 1979, Bộ Quốc phòng
ra quyết định thành lập Trung đoàn không quân 929 trực thuộc Sư đoàn 370, sử dụng MiG-21 và đóng quân tại Đà
Nẵng. Thiếu tá Nguyễn Văn Thọ được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, thiếu tá Trần Quốc Trọng làm Chính uỷ, đại
uý Trương Tôn làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 929 nằm trong Ban Tham mưu,
Đồng chí Trần Hồng Hà giữ chức Trưởng Tiểu ban. Còn Trung đoàn không quân 925, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở
Cam-pu-chia về nước, do máy bay MiG-19 không còn đủ khí tài thay thế, ngày 6 tháng 4 năm 1980, Bộ Quốc phòng
đã ra quyết định giải thể và ngày 16 tháng 4 năm 1980, Quân chủng Không quân ra chỉ thị ngừng hoạt động (Chỉ thị
số 225/BTL, ngày 16 tháng 4 năm 1980 do đại tá Trần Mạnh, quyền Tư lệnh ký).

Ngày 24 tháng 4 năm 1982, Trung đoàn 935 và Trung đoàn 917 có quyết định về trực thuộc Sư đoàn 370.

Đầu tháng 5 năm 1982, Trung đoàn 935 tiến hành bàn giao toàn bộ máy bay hệ 2 cho Xưởng A42 và thực
hiện chuyển loại MiG-21: 4 phi công đầu tiên của trung đoàn là Hoàng Hữu Hiền, Dương Bá Kháng, Lê Khương và
Nguyễn Thanh Xuân lên đường ra Đà Nẵng. Sư đoàn Không quân 370 điều lực lượng của Trung đoàn 929 từ Đà Nẵng
vào Biên Hoà làm nhiệm vụ trực chiến. Cuối tháng 6 năm 1982, Trung đoàn 929 và 935 tổ chức thực hiện chuyển sân
thành công 16 chiếc MiG-21 từ Đà Nẵng vào Biên Hoà. Theo quyết định của Sư đoàn, Trung đoàn 929 bàn giao 3
chiếc MiG-21 đang tham gia trực chiến tại Biên Hoà cho Trung đoàn 935. Ngay sau khi tiếp nhận máy bay mới, trung
đoàn nhanh chóng triển khai trực chiến và huấn luyện chuyển loại. Trong năm 1983, Trung đoàn 935 còn được giao
thêm nhiệm vụ đào tạo phi công MiG-21 và từ tháng 4 năm 1984, trung đoàn đảm nhiệm huấn luyện chuyển loại
MiG-21 cho Trung đoàn không quân 933. Trong thời gian trên, đồng chí Nguyễn Văn Hưng, Trưởng Tiểu ban dẫn
đường trung đoàn đã cùng với đội ngũ trợ lý của mình thường xuyên làm tốt công tác trực ban sẵn sàng chiến đấu, dẫn
bay chuyển sân và huấn luyện dẫn đường tại chức.

Trong năm 1982, căn cứ vào thực trạng trang bị của Trung đoàn 917, sư đoàn tiến hành điều chỉnh lực
lượng các phi đội. Phi đội 1 sử dụng Mi-8, Phi đội 2: UH-1 và Phi đội 3: U-17. Trong Phi đội 1 và 2 vẫn có Chủ
nhiệm Dẫn đường.

Tháng 1 năm 1983, Trung đoàn 917 chỉ còn 3 Mi-8 và 1 UH-1 hoạt động tốt. Đây là thời điểm khó khăn
nhất của trung đoàn về trang bị. Đội ngũ dẫn đường trên không của trung đoàn đã thực hiện dẫn bay đạt hiệu quả cao,
đáp ứng yêu cầu bay tăng chuyến trên các trực thăng tốt với cường độ cao.

Như vậy, trong giai đoạn này Ban dẫn đường Sư đoàn 370 ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ do sư đoàn
giao, chủ yếu tập trung chỉ đạo công tác dẫn đường cho Trung đoàn 929. Còn đối với hai trung đoàn 935 và 917, căn
cứ vào từng nhiệm vụ cụ thể do Quân chủng quy định, Ban dẫn đường Sư đoàn 370 và Ban dẫn đường Trung tâm 3 đã
phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với nhau để cùng tiến hành chỉ đạo về mặt dẫn đường.
Đến tháng 7 năm 1987, chấp hành chỉ thi điều chỉnh lực lượng của Quân chủng Không quân, Sư đoàn 370
thực hiện bàn giao Trung đoàn 929 và các đơn vị bảo đảm của mình cho Sư đoàn 372, chuyển toàn bộ cơ quan sư đoàn
từ Đà Nẵng vào vị trí đóng quân mới tại Tân Sơn Nhất và tiếp nhận Trung đoàn không quân 917, Trung đoàn căn cứ
901. Đại tá Lương Thế Phúc giữ chức Sư đoàn trưởng, đại tá Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Sư đoàn trưởng về chính trị,
thượng tá Đinh Văn Bồng, Phó Sư đoàn trưởng-tham mưu trưởng sư đoàn. Đồng chí Hoàng Đức Hạnh được cử làm
phụ trách Ban dẫn đường Sư đoàn Không quân 370. Trong ban, ngoài số trợ lý từ Đà Nẵng vào, còn có thêm một số
trợ lý từ Trung tâm 3 chuyển sang. Từ tháng 8 năm 1987, Ban dẫn đường tổ chức thực hiện theo các nhiệm vụ mới do
Tham mưu trưởng sư đoàn trực tiếp giao cho, trong đó nhiệm vụ dẫn đường bảo vệ quần đảo Trường Sa, vùng thăm
dò, khai thác dầu khí ngoài khơi Vũng Tàu và vùng biển Tây Nam là quan trọng hàng đầu.

Ban dẫn đường Sư đoàn 370 cùng với hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 917, Tiểu ban dẫn
đường Trung đoàn 935, hiệp đồng chặt chẽ với hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 918 tiếp tục thực hiện
công tác dẫn đường trong nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia.

Tháng 6 năm 1982, Trung tâm 3 được thành lập và đóng quân tại Tân Sơn Nhất. Đại tá Nguyễn Văn Bảy
được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng trung tâm. Trong cơ cấu tổ chức của Trung tâm 3 có Ban dẫn đường. Các đồng chí
Lê Quốc Báo và Nguyễn Việt Cường là 2 trợ lý đầu tiên của ban. Nhiệm vụ chủ yếu của ban là làm tham mưu cho Chỉ
huy trưởng trung tâm về công tác dẫn đường trong chỉ huy và điều hành các hoạt động bay của Quân chủng trong
vùng trách nhiệm Khu vực 3. Một trong những nhiệm vụ quan trọng đã được Ban dẫn đường Trung tâm 3 hoàn thành
xuất sắc, đó là cùng với các trung đoàn không quân ở phía nam xây dựng rất đầy đủ và tỉ mỉ các phương án dẫn các
loại máy bay và trực thăng mới được trang bị đưa vào trực tiếp đánh địch theo đúng ý định tác chiến của Quân chủng
và liên tục tham gia dẫn bay trong suốt quá trình Trung tâm 3 tiến hành chỉ huy và điều hành các hoạt động bay chiến
đấu. Ban dẫn đường Trung tâm 3 đã đóng góp sức mình phục vụ đắc lực cho hàng loạt các trận đánh của không quân
ta ở Cam-pu- chia, đặc biệt là các trận do Mi-8 của Trung đoàn 917 và An-26 của Trung đoàn 918 thực hiện vào đầu
năm 1984, Mi-24 của Trung đoàn 916 vào cuối năm 1984 và đầu năm 1985 đều đạt hiệu quả chiến đấu cao.

Căn cứ vào tính chất nhiệm vụ của Quân chủng Không quân ở phía Nam, ngày 11 tháng 9 năm 1984, Tư
lệnh Quân chủng ra quyết định thành lập Cơ quan đại diện Quân chủng Không quân ở phía Nam, đóng quân tại Tân
Sơn Nhất. Cơ quan đại diện có nhiệm vụ thay mặt Tư lệnh Quân chủng chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị ở phía nam thực
hiện các nhiệm vụ được giao, trong đó có các trung đoàn 917, 918, 935, Trung đoàn căn cứ 901… Tổ chức dẫn đường
trong Cơ quan đại diện và Ban dẫn đường Trung tâm 3 tiếp tục được kiện toàn cả về chức năng, nhiệm vụ và quân số.
Trong suất thời gian hoạt động của mình, Ban dẫn đường Trung tâm 3 thường xuyên tiến hành hiệp đồng vẫn đường
chặt chẽ với Ban dẫn đường Sư đoàn 370, đội ngũ dẫn đường các trung đoàn 916, 917, 918 và cơ quan điều phái hàng
không dân dụng Tân Sơn Nhất, góp phần cho Trung tâm 3 chỉ huy và điều hành thành công hàng ngàn chuyến bay
chiến đấu và nhiệm vụ của Quân chủng.

Do yêu cầu sắp xếp lại biên chế tổ chức trong Quân chủng Không quân, ngày 7 tháng 8 năm 1987, Trung
tâm 3 thực hiện giải thể. Thiếu tá Lý Minh Tăng, Trưởng ban dẫn đường được điều về Phòng Dẫn đường Quân chủng
và các trợ lý của trung tâm được điều về Ban dẫn đường Sư đoàn 370.

Trong quá trình thực hiện mọi nhiệm vụ được giao từ năm 1975 đến năm 1989, đội ngũ dẫn đường phía
nam luôn phát huy đầy đủ bản lĩnh và trình độ của mình, quán triệt tốt ý định của người chỉ huy, hiệp đồng chặt chẽ
với đội ngũ phi công và các thành phần khác, dẫn nhiều trận đánh rất thành công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến
đấu, đồng thời thường xuyên dẫn bay bảo đảm chiến đấu, bay nhiệm vụ và bay chuyên cơ đạt hiệu quả cao, được các
quân khu, quân đoàn, quân chủng và các mặt trận tin tưởng, khen ngợi.

III. NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG GIAI ĐOẠN CỦNG CỐ, PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG VÀ NÂNG
CAO SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN CHỦNG KHÔNG QUÂN (1979 - 1989)

1. Công tác dẫn đường trong giai đoạn đầu đổi mới trang bị của không quân.

Sau nhiều năm khai thác, các trang bị hệ 1 và hệ 2 của Không quân nhân dân Việt Nam, đến thời điểm đầu
năm 1979, hầu hết đều bắt đầu xuống cấp do hết niên hạn sử dụng và nguồn vật tư, khí tài, phụ tùng thay thế đang gặp
rất nhiều khó khăn, nhưng nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của không quân ta còn rất nặng
nề. Trước tình hình đó, được sự quan tâm, chăm lo đặc biệt của Đảng và Nhà nước, được sự ủng hộ về nhiều mặt và
giúp đỡ lớn lao của Liên Xô, nhu cầu đổi mới trang bị cho không quân đã được Bộ Quốc phòng kịp thời tổ chức giải
quyết.

Từ cuối tháng 3 năm 1979, nhiệm vụ chuyển loại và tiếp nhận trang bị mới của Liên Xô đã được Quân
chủng Không quân xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất và phải được triển khai rất khẩn trương cả ở trong nước
và ở nước ngoài, đồng thời tiếp tục nỗ lực khắc phục khó khăn, tìm mọi biện pháp duy trì hoạt động của các trang bị
hiện có thật an toàn hiệu quả theo kế hoạch KT-2 của Cục Kỹ thuật đã đề ra.

Từ tháng 4 năm 1979, ba Đoàn chuyển loại MiG-21Bis do các đồng chí Lương Thế Phúc, Nguyễn Mạnh
Hải và Đỗ Văn Lanh làm Đoàn trưởng lần lượt được cử sang Liên Xô với thời gian chuyển loại là 3 tháng; hai Đoàn
chuyển loại Su-22M do các đồng chí Lê Hải và Hán Văn Quảng làm Đoàn trưởng cũng lên đường sang Liên Xô với
thời gian 5 tháng. Các đồng chí Nguyễn Quang Thản và Tạ Văn Vượng được đi cùng đoàn chuyển loại để học dẫn
đường Su-22M.

Ngày 9 tháng 8 năm 1979, một phần lực lượng của hai trung đoàn 916 và 917 do đồng chí Lê Đình Ký làm
Đoàn trưởng đi chuyển loại trực thăng vũ trang Mi-24A tại Liên Xô. Ngày 16 tháng 10 năm 1980, 15 tổ bay của Trung
đoàn không quân 918 do đồng chí Lê Năng làm Đoàn trưởng sang Liên Xô chuyển loại An-26.

Cũng trong thời gian trên, nhiều kiểu loại máy bay và trực thăng mới từ Liên Xô liên tục được đưa vào Việt
Nam, lực lượng kỹ thuật hàng không của Quân chủng tập trung sức lực cùng với đội ngũ chuyên gia Liên Xô ngày
đêm tổ chức tiếp nhận và lắp ráp theo đúng kế hoạch VT-79 của Cục Kỹ thuật. Sau khi bay thử và nghiệm thu xong,
các trang bị mới được chuyển giao ngay cho các đơn vị sử dụng. Tháng 3 năm 1979, những chiếc trực thăng săn ngầm
Ka-25 đầu tiên được chuyển giao cho Trung đoàn 916 (Đoàn chuyển loại Ka-25 do đồng chí Trần Khánh Lĩnh làm
Trưởng đoàn đi Liên Xô tháng 6 năm 1978 và về nước tháng 2 năm 1979). Ngay sau đó, các máy bay trinh sát MiG-
21 (F-94R) và trực thăng chuyển tiếp chỉ huy Mi-8KP được đưa về Trung đoàn 921 và Trung đoàn 916. Từ tháng 7
đến tháng 8 năm 1979, 24 chiếc máy bay tiêm kích MiG-21Bis đầu tiên lần lượt được giao cho Sư đoàn 371. Đến cuối
năm 1979, Sư đoàn 370 tổ chức tiếp nhận loại máy bay tiêm kích bom Su-22M đầu tiên. Tháng 1 năm 1980, loạt trực
thăng vũ trang Mi-24A đầu tiên được trang bị cho Trung đoàn 916. Cuối tháng 10 năm 1980, 2 chiếc An-26 chuyển
tiếp chỉ huy đầu tiên được phía Liên Xô giao cho Trung đoàn 918 tại Tân Sơn Nhất và những năm sau trung đoàn tiếp
nhận hàng chục chiếc An-26 vận tải. Đầu năm 1981, L-39 được tổ chức lắp tại Đà Nẵng, ngày 1 tháng 4 năm 1981,
Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật không quân tổ chức tiếp nhận 24 chiếc L-39 đầu tiên do Tiệp Khắc viện trợ. Không
quân nhân dân Việt Nam bắt đầu được trang bị hàng loạt các kiểu loại máy bay và trực thăng mới.
Để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn này, ngành Dẫn đường đã nhanh chóng tổ chức thu
thập tất cả các loại tài liệu có liên quan, nhất là các tài liệu về chuyên ngành, tiến hành biên dịch ngắn gọn, tích cực
tham gia nghe giới thiệu về các trang bị mới. Phương châm công tác dẫn đường trong giai đoạn này là tích cực, chủ
động tham gia học tập chuyển loại và tự nghiên cứu tại đơn vị, kết hợp chặt chẽ với đội ngũ phi công, dẫn đường trên
không và đội ngũ kỹ thuật hàng không đã tham gia chuyển loại ở Liên Xô, từng bước nắm vững tính năng kỹ, chiến
thuật, cách bay và cách dẫn, tiến tới làm chủ hoàn toàn cách dẫn các loại máy bay và trực thăng mới của Quân chủng.

Với sự nỗ lực vươn lên trong học tập chuyển loại, với kinh nghiệm dẫn bay đã được tích luỹ trong nhiều
năm, đội ngũ dẫn đường trong toàn ngành đã hoàn thành tết nhiệm vụ trong giai đoạn đầu đổi mới trang bị của không
quân. Các loại máy bay và trực thăng mới lần lượt được đưa vào huấn luyện, trực ban sẵn sàng chiến đấu, tham gia
diễn tập… Không quân nhân dân Việt Nam được tiếp thêm sức mạnh mới trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

2. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ.

Đầu năm 1980, Bộ Quốc phòng ra lệnh cho Quân chủng Không quân tham gia diễn tập tác chiến hiệp đồng
trong các chiến dịch phòng không, phòng ngự và phản công theo các phương án dự tính trên địa bàn Quân khu 1,
Quân khu 2, Đặc khu Quảng Ninh và vùng biển đông bắc Hải Phòng (A-80). Thượng tá Nguyễn Ngọc Độ, Tham mưu
trưởng Quân chủng được giao trách nhiệm chỉ huy toàn bộ lực lượng không quân tham gia A-80, Trung tá Bùi Hữu
Hành, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng làm phó chỉ huy. Lực lượng không quân trong diễn tập bao gồm: các cơ
quan Quân chủng, Sư đoàn 371, các trung đoàn 916 và 933 (thuộc Sư đoàn 372).

Toàn bộ đội ngũ dẫn đường thuộc các cơ quan và đơn vị nói trên đều có mặt, trách nhiệm và cương vị trong
diễn tập được xác định rõ ràng. Phần lớn đội ngũ dẫn đường tham gia diễn tập thuộc lực lượng quân đỏ (người tập,
đơn vị tập), trong đó có cả các sĩ quan dẫn đường tham gia vào các Tổ đại diện không quân, dẫn đường và chỉ thị mục
tiêu tại Mặt trận 678, Đặc khu Quảng Ninh và Quân chủng Hải quân. Một bộ phận chịu trách nhiệm bảo đảm dẫn
đường cho quân xanh và một bộ phận đảm nhiệm dẫn bay phục vụ diễn tập chuyên chở cán bộ và sẵn sàng cấp cứu.

Cuộc diễn tập được thực hiện từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 4 tháng 3 năm 1980. Tất cả đội ngữ dẫn đường
tham gia A-80 đều hoàn thành tốt các mục đích, yêu cầu về mặt dẫn đường do cuộc diễn tập đề ra và đã thực hiện dẫn
chính xác 160 lần/chiếc máy bay và trực thăng các loại bay thực binh quân xanh, quân đỏ và bay chuyên chở cán bộ
theo đúng kế hoạch diễn tập.

Tháng 6 năm 1981, Quân chủng Không quân thực hiện diễn tập chỉ huy tham mưu, 2 cấp 1 bên, có một
phần thực binh, với đề mục: "Không quân hiệp đồng tác chiến với Quân khu 3 và các lực lượng hải quân, phòng
không tiến hành chiến dịch chống đổ bộ đường biển". Lực lượng của Quân chủng Không quân tham gia diễn tập gồm:
người chỉ huy và cơ quan hai sư đoàn 371 và 372, các trung đoàn 927, 933, 923 và 916, các Tổ đại diện không quân
tại Quân khu 3, Sư đoàn 18 và Sư đoàn 30. Không quân thực hiện 30 lần/chiếc bay thực binh các nhiệm vụ trinh sát,
giả định ném bom và chỉ thị mục tiêu cho hải quân.

Giữa tháng 7 năm 1981, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức diễn tập lớn cho Quân chủng Phòng không, Quân
chủng Không quân và Quân khu Thủ đô về hiệp đồng tác chiến trong chiến dịch chống tập kích đường không vào Thủ
đô Hà Nội và các mục tiêu chính trị, hành chính, kinh tế của ta (HĐ-81). Cùng với các lực lượng tham gia diễn tập của
Quân chủng, toàn bộ đội ngu dẫn đường của Phòng Dẫn đường, của hai sư đoàn 371, 372 và một phần đội ngũ dẫn
đường của Ban dẫn đường Sư đoàn 370 (đồng chí Nguyễn Cửu) và của Trung đoàn 929 (2 trợ lý và 1 tiêu đồ gần) từ
Đà Nẵng cơ động ra Kiến An đã có mặt đúng vị trí, đúng thời gian và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Những nội dung về
dẫn đường đã được hoàn thành tốt trong diễn tập là Phòng Dẫn đường đã tham gia luyện tập di chuyển Sở chỉ huy
Quân chủng từ K-14 ra K-20 và tổ chức trực ban dẫn đường tại cả 2 nơi, làm tốt kế hoạch và chỉ lệnh bảo đảm dẫn
đường cho lực lượng tiêm kích và tiêm kích bom tham gia tác chiến phòng không và tiến hành các đòn tiến công
đường không, tập kích vào các căn cứ, sân bay trong bậu phương của đối phương. Trong giai đoạn thực hành chiến
dịch, 27 tốp với 60 lần/chiếc, trong đó có 46 lần/chiếc đánh mục tiêu trên không và 10 lần/chiếc MiG-21 cơ động
chuyển sân từ Đà Nẵng ra Kiến An đã được dẫn bay chính xác và an toàn.

Từ ngày 23 đến 31 tháng 7 năm 1981, Quân chủng Không quân cùng với các lực lượng vũ trang Quân khu
4, Quân chủng Hải quân và Quân chủng Phòng không tham gia diễn tập chiến dịch chống đổ bộ đường biển. Toàn bộ
lực lượng Sư đoàn 372 và Trung đoàn 916, một phần lực lượng Sư đoàn 370 được Quân chủng Không quân đưa vào
tham gia diễn tập. Từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 7, đội ngũ dẫn đường trong các đơn vị đã tham gia chuyển trạng thái
sẵn sàng chiến đấu và chuẩn bị các nội dung dẫn đường cho kế hoạch sử dụng không quân. Từ ngày 26 đến ngày 28
tháng 7, Ban chỉ đạo diễn tập thông qua kế hoạch sử dụng không quân và đội ngũ dẫn đường thực hiện dẫn bay cơ
động chuyển sân chiến đấu vào các vị trí quy định.

Ngày 29 tháng 7, đội ngũ dẫn đường thực hiện dẫn bay thực binh với các nhiệm vụ: trinh sát đường không,
đánh quân đổ bộ đường biển ở khu vực bắt đầu triển khai đội hình đổi tàu, chi viện hoả lực cho bộ đội ta đánh quân đổ
bộ đường biển ở khu vực mép nước và khi chúng rút chạy.

Ngày 30 tháng 7, không quân thực hiện nhiệm vụ bay biểu dương lực lượng. Toàn bộ 77 lần/chiếc bay thực
binh đều được dẫn bay đáp ứng các yêu cầu đề ra.

Cuối tháng 8 năm 1981, Quân chủng Không quân sử dụng các lực lượng của Sư đoàn 376, cùng với Quân
khu 7 và các đơn vị thuộc Quân chủng Hải quân và Phòng không tham gia diễn tập chiến dịch chống đổ đường biển
vào một số tỉnh miền Đông Nam Bộ (N-81). Tuy thường xuyên tham gia dẫn bay chiến đấu giúp bạn bảo vệ thành quả
cách mạng ở Cam-pu-chia, nhưng trong diễn tập đội ngũ dẫn đường phía nam đã tập trung làm rõ nhiệm vụ tác chiến
theo đề mục trên hướng đông, nắm vững các biện pháp bảo đảm dẫn đường cho các hoạt động bay chiến đấu trong
chiến dịch chống đổ đường biển và soạn thao đầy đủ các văn kiện chuyên ngành.

Tháng 11 năm 1981, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức diễn tập lớn với đề mục ngăn chặn cuộc tiến công xâm
lược, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc (MB-81). Đây là lần đầu tiên Quân chủng Không quân tham
gia diễn tập 2 cấp chiến lược và chiến dịch. Bộ Tư lệnh, các cơ quan Quân chủng, hai sư đoàn 371, 372 và các trung
đoàn 916, 918 tham gia diễn tập, hầu hết đều ở cương vị người tập Quân chủng triển khai 6 tổ tham mưu chiến dịch, 4
tổ chỉ huy chiến đấu tại các quân khu, quân chủng và quân đoàn bạn. Trong lần diễn tập này, Phòng Dẫn đường đã
hoàn thành một khối lượng lớn các văn kiện chuyên ngành. Đội ngũ dẫn đường tham gia diễn tập đã thực hành dẫn
nhiều chuyến bay chất lượng, an toàn với các nhiệm vụ khác nhau như đánh mục tiêu trên không, ném bom, yểm hộ,
chi viện hoả lực cho đội hình xe tăng tiến công…

Trong năm 1981, Quân chủng Không quân đã tổ chức một số.cuộc diễn tập cho các sư đoàn và trung đoàn
như cho Sư đoàn 371, Sư đoàn 372 và Trung đoàn 916 với đề mục: "Không quân hiệp đồng với hải quân phát hiện và
tập kích vào đoàn tàu đổ bộ của đối phương", tổ chức diễn tập thực nghiệm cho Trung đoàn 923 (TN-23) theo đề mục:
"Không quân tiêm kích bom tiến công căn cứ sân bay đối phương"…

Trải qua nhiều cuộc diễn tập liên tiếp trong năm 1981, ngành Dẫn đường có bước trưởng thành rõ rệt về
phương pháp làm văn kiện trong giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, về xây dựng các đường bay quân xanh cho ban chỉ đạo,
tổ chức phát tình báo gần từ phòng đáy lên sở chỉ huy của đơn vị tập và thực hành dẫn bay quân đỏ đúng ý định của
người chỉ huy.

Nhận rõ tầm quan trọng của công tác huấn luyện chiến dịch, trong năm 1982, Quân chủng Không quân
tham gia và tổ chức nhiều cuộc diễn tập nhằm nâng cao trình độ tổ chức, chỉ huy và điều hành các hoạt động chiến
đấu của bộ đội không quân. Từ ngày 6 đến ngày 12 tháng 1 năm 1982, Quân chủng tổ chức cho Sư đoàn 371 diễn tập
chỉ huy tham mưu 2 cấp, 1 bên với đề mục không quân hiệp đồng với Quân khu 1, Quân đoàn 2 và các lực lượng
phòng không tổ chức thực hành chiến dịch phản công trên đỉa hình rừng núi. Tháng 7 năm 1982, Quân chủng chỉ đạo
cho các lực lượng không quân ở phía Nam, lấy Sư đoàn 370 làm nòng cất tham gia diễn tập hiệp đồng chiến đấu với
Quân khu 7 trong chiến dịch trấn áp lực lượng phản loạn bảo vệ thành phố Hồ Chí Minh (TN-82). Tháng 9 năm 1982,
Quân chủng tham gia diễn tập tổ chức chiến dịch đường không và tập kích vào hậu phương địch (KT-82). Cuối tháng
10 năm 1982, Quân chủng Không quân tiếp tục tham gia diễn tập tác chiến hiệp đồng với Quân chủng Phòng không
bảo vệ miền Bắc (C-3/82).

Trong các cuộc diễn tập ở phía bắc hầu như tất cả các loại máy bay và trực thăng mới của Quân chủng
Không quân đều có mặt tham gia. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho ngành Dẫn đường hoàn thiện các biện pháp
bảo đảm dẫn đường trong chiến đấu hiệp đồng giữa các loại máy bay và trực thăng với nhau, trong tác chiến hiệp đồng
giữa không quân với các quân khu, quân đoàn và quân chủng.

Tháng 8 năm 1983, Quân chủng Không quân tham gia diễn tập chỉ huy tham mưu, 2 cấp 1 bên, có một
phần thực binh với đề mục hoạt động tác chiến của không quân chống tập kích đường không trong chiến dịch phòng
ngự chiến lược (BT-3). Cuộc diễn tập có quy mô lớn, theo ba giai đoạn: chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tổ chức
chuẩn bị chiến đấu và thực hành chiến đấu trong chiến dịch phòng ngư chiến lược. Lực lượng tập bao gồm người chỉ
huy và cơ quan Quân chủng, các sư đoàn 370, 371, 372 và Trung đoàn 918. Kết quả thu được qua cuộc diễn tập này là
một trong những yếu tố rất thuận lợi để Quân chủng bước vào tham gia cuộc diễn tập quan trọng do Bộ Tổng Tham
mưu tổ chức vào cuối tháng 8 năm 1983 với đề mục: “Chiến dịch phòng ngư chiến lược" (MB-83).

Ngành Dẫn đường tiếp tục có thêm điều kiện để nghiên cứu các vấn đề về sử dụng lực lượng không quân
trong chiến dịch phòng ngư chiến lược, cách đánh của từng loại máy bay và trực thăng có trong trang bị theo một ý
định tác chiến thống nhất và tìm tòi đề xuất các biện pháp bảo đảm dẫn đường và cách dẫn phù hợp với yêu cầu tác
chiến phòng ngự chiến lược.

Từ thực tiễn chuẩn bị chiến đấu xử lý tình huống đã diễn ra vào đầu tháng 4 năm 1984 trên hướng bắc, cuối
tháng 11 năm 1984, Quân chủng Không quân cùng với Quân chủng Phòng không và các binh chủng Tăng thiết giáp,
Pháo binh, Thông tin liên lạc, Công binh và Sư đoàn bộ binh cơ giới 308 tham gia diễn tập quy mô lớn do Bộ Tổng
Tham mưu tổ chức với đề mục: "Chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng, ngăn chặn và đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược quy mô lớn trên địa bàn các tỉnh phía bắc” (A-84), có một phần thực binh. Các lực lượng không quân trực thăng
vũ trang, tiêm kích mang bom, rocket, tiêm kích bom và vận tải mang bom với đội hình chiến đấu lớn được dẫn bay
chính xác đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sử dụng các loại vũ khí trong giai đoạn bắn đạn thật tại khu vực núi Múc
tỉnh Hà Tây. Qua diễn tập, ngành Dẫn đường đã tích luỹ được những kinh nghiệm quý báu về triển khai đội ngũ dẫn
đường sở chỉ huy tại các trạm radar cảnh giới phòng không.

Cuối tháng 5 năm 1985, Sư đoàn Không quân 370 tổ chức diễn tập chỉ huy tham mưu, 1 cấp 1 bên, có một
phần thực binh cho Trung đoàn 929 với nội dung hoạt động chiến đấu của trung đoàn không quân tiêm kích trong
chiến dịch phòng không, bảo vệ các mục tiêu yếu địa trên địa bàn Quân khu 5 (N-85). Trong diễn tập, đại uý Nguyễn
Cửu, Phó Trưởng ban dẫn đường sư đoàn đã điều hành công tác phòng đáy rất thành công, góp phần quan trọng nâng
cao hiệu quả tiếp nhận các tình huống trên không cho đơn vị tập.

Tháng 10 năm 1986, Sư đoàn Không quân 371 tổ chức diễn tập chỉ huy tham mưu, 1 cấp 1 bên, có triển
khai phương tiện thông tin liên lạc và một phần thực binh cho Trung đoàn 931 với nội dung hoạt động chiến đấu của
trung đoàn không quân tiêm kích trong chiến dịch phòng không (YB-86). Trung đoàn 921 bay 6 lần/chiếc quân xanh
và Trung đoàn 931 bay 20 lần/chiếc quân đỏ. Tất cả các chuyến bay đều được dẫn chính xác và đạt yêu cầu chiến thuật
đề ra.

Cuối tháng 3 năm 1987, Quân chủng Không quân sử dụng người chỉ huy và cơ quan Sư đoàn 370, toàn bộ
lực lượng Trung đoàn 935, một phần lực lượng hai trung đoàn 917 và 918 cùng với các lực tương hợp nhất thuộc đặc
khu Vũng Tàu-Côn Đảo tham gia diễn tập 2 cấp, 1 bên có một phần thực binh do Bộ Tổng Tham mưu tổ chức. Các lực
lượng không quân đã tiến hành chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ thường xuyên lên cao, chuẩn bị chiến đấu và
thực hành chiến đấu bảo vệ vùng thăm dò, khai thác dầu khí và thềm lục địa phía Nam. Qua diễn tập ngành Dẫn
đường lại có thêm những biện pháp bảo đảm dẫn đường thiết thực hơn cho các hoạt động chiến đấu của không quân
trên biển xa và các cách dẫn phù hợp hơn đối với các loại máy bay và trực thăng của ta đánh các mục tiêu trên biển cả
gần bờ và xa bờ. Tuy nhiên, đây vẫn là những vấn đề khó, đòi hỏi ngành Dẫn đường phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
nữa.

Từ ngày 16 tháng 8 đến ngày 20 tháng 9 năm 1988, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức diễn tập chỉ huy tham
mưu, 2 cấp 1 bên, có triển khai phương tiện thông tin liên lạc và một phần thực binh với nội dung chiến đấu hiệp đồng
phòng thủ khu vực tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (QĐ-88). Quân chủng Không quân dùng lực lượng Sư đoàn 372 cùng
với các lực lượng Quân khu 5, phòng không, hải quân trong khu vực và các lực lượng vũ trang khác của tỉnh tham gia
diễn tập. Sư đoàn 372 đã hoàn thành tốt các nội dung quy định trong từng giai đoạn: luyện tập từng phần (từ ngày 16
đến 20 tháng 8), luyện tập tổng hợp (từ ngày 20 đến 25 tháng 8) và thực hành diễn tập (từ ngày 16 đến 20 tháng 9).
Các nội dung chống tập kích đường không, chống đổ bộ đường không, tiến hành trinh sát, vận chuyển đường không.
phòng thủ bảo vệ căn cứ đóng quân và tham gia đánh địch mặt đất, chống bạo loạn lật đổ đều đạt được mục đích, yêu
cầu của cuộc diễn tập đề ra. Một số phương tiện thông tin liên lạc không quân đã được triển khai đúng quy định. 9
lần/chiếc bay quân xanh, 24 lần/chiếc bay quân đỏ và một số chuyến bay phục vụ khác cũng được thực hiện tốt và bảo
đảm an toàn. Đội ngũ dẫn đường đã được nâng cao hiểu biết về các hoạt động chiến đấu hiệp đồng của không quân
trong phòng thủ tỉnh thành và xây dựng được một số phương án dẫn đường cơ bản đáp ứng yêu cầu cho các hoạt động
đó.

Từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 10 năm 1988, Quân chủng Không quân sử dụng một phần lực lượng của
mình ở phía nam tham gia đợt luyện tập lớn với đề mục: "Các lực lượng không quân hiệp đồng với hải quân, phòng
không và các lực lượng vũ trang đánh địch trên biển, chi viện cho các đảo trọng điểm" (CV-88). Ngoài nội dung
chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu các đơn vị không quân đã hoàn thành tốt giai đoạn thực hành chiến đấu.

Các phương án dẫn Ka-28 tìm kiếm, xác định vị trí mục tiêu trên biển, dẫn Su-22M tiến công đội tàu hải
quân của đối phương, dẫn MiG-21 yểm hộ tàu ta trên đường hành quân, dẫn Mi-8 tìm kiếm-cứu nạn trên biển và dẫn
An-26 thả hàng tiếp tế cho bộ đội ta trên đảo đều được thực hiện đáp ứng đúng yêu cầu chiến thuật đề ra.

Từ ngày 21 đến ngày 27 tháng 5 năm 1989, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức diễn tập với đề mục: "Không quân
hiệp đồng với các lực lượng hải quân. phòng không và các lực lượng vũ trang Quân khu 7 bảo vệ khu vực dầu khí và
thềm lục địa phía Nam" (B1-89). Quân chủng Không quân sử dụng toàn bộ lực lượng Sư đoàn 370 và một phần lực
lượng Trung đoàn 923 tại Phan Rang và Trung đoàn 918 tại Tân Sơn Nhất tham gia diễn tập. Các loại máy bay MiG-
21Bis, Su-22M, Su-22M4, An-26 và trực thăng vũ trang Mi-8 được đưa vào thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, chuyển
tiếp chỉ huy, đánh mục tiêu trên biển, chi viện hoả lực thả hàng tiếp tế. Trong thực binh, không quân đã hoàn thành
nhiệm vụ sử dụng vũ khí tại trường bắn trên biển. Ngành Dẫn đường đã hoàn thiện một bước rất quan trọng về các
biện pháp bảo đảm dẫn đường cho các hoạt động chiến đấu của không quân và cách dẫn các loại máy bay và trực
thăng của ta trên biển xa.

Đầu năm 1984, tình hình trên biên giới phía bắc có nhiều diễn biến ngày càng căng thẳng. Ngày 30 tháng 4
năm 1984, Tư lệnh Quân chủng Không quân ra lệnh cho năm cơ quan Quân chủng, toàn bộ Sư đoàn 371, Trung đoàn
916 và một Phi đội An-26 của Trung đoàn 918 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ thường xuyên lên cao và toàn
bộ Sư đoàn 372 vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường.

Căn cứ vào các nhiệm vụ trên giao, Quân chủng tiến hành xây dựng kế hoạch tác chiến theo tình huống 1
và tổ chức hội nghị quân sự dân chủ bàn cách đánh nhằm đối phó kịp thời và hiệu quả trước những hành động quân sự
nguy hiểm của đối phương có thể xảy ra.

Ngày 4 tháng 5 năm 1984, theo lệnh của Tham mưu trưởng Quân chủng, Tổ tham mưu chiến dịch không
quân tại Quân khu 2 lên đường làm nhiệm vụ. Tổ dẫn đường Quân chủng do đại uý Nguyễn Đình Bắc, trợ lý Phòng
Dẫn đường phụ trách và đại uý Phạm Văn Quý, trợ lý Phòng Dẫn đường cùng với Tổ thông tin-đối không cơ động của
Trung đoàn thông tin không quân 252 hành quân lên Trạm radar cảnh giới 56 thực hiện phối hợp công tác thành trạm
radar cảnh giới-dẫn đường, sẵn sàng bảo đảm cho không quân hoạt động. Tiếp sau đó, Tổ công tác của Quân chủng do
trung tá Nguyễn Hữu Lộc, Trưởng phòng Quân báo phụ trách, cùng đại uý Nguyễn Văn Nhâm, trợ lý Phòng Dẫn
đường và một trợ lý Phòng Công binh lên Trạm radar dẫn đường-cảnh giới 62 để nắm bắt tình hình hoạt động của
không quân đối phương và chọn bãi cho trực thăng vũ trang tập kết, sẵn sàng chiến đấu trên hướng Vị Xuyên. Bộ
Tham mưu Quân chủng còn quyết định triển khai thêm 1 Mi-8KP tại Trạm radar cảnh giới 26 và Tổ dẫn đường phía
trước tại Trạm radar cảnh giới 14; Phòng Dẫn đường và Ban dẫn đường Sư đoàn 371 cũng đã kịp thời cử trợ lý tham
gia.

Sư đoàn 371 quyết định Trung đoàn 927 triển khai Tổ dẫn đường tại Trạm radar cảnh giới 31 và Trung
đoàn 931 triển khai Tổ dẫn đường tại Trạm radar cảnh giới 36.

Như vậy, sau một thời gian rất ngắn, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy của Phòng Dẫn đường và của Sư đoàn
371, theo nhiệm vụ được phân công đã nhanh chóng lên đường có mặt tại các vị trí quy định, sát cánh cùng với đội
ngũ thông tin-đối không không quân và đội ngũ radar cảnh giới phòng không khắc phục mọi khó khăn ban đầu, kịp
thời đưa nhiều trạm radar cảnh giới trở thành cảnh giới dẫn đường sẵn sàng đáp ứng yêu cầu dẫn bay chiến đấu cho
không quân.

Trong giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, với sự nỗ lực rất lớn của năm cơ quan Quân chủng và các đơn vị, một
loạt các văn kiện chiến đấu và bảo đảm chiến đấu, trong đó có kế hoạch bảo đảm dẫn đường từ quân chủng đến sư
đoàn và các trung đoàn không quân đã được hoàn thành đúng quy định. Để tiếp tục hoàn thiện các văn bản trên, Bộ
Tham mưu Quân chủng Không quân đã tiến hành kiếm tra một số cơ quan và đơn vị trọng điểm, chỉ rõ những nội
dung còn chưa đạt yêu cầu và những điểm yếu cần nỗ lực khắc phục ngay trong thời gian ngắn.

Một trong những nội dung được Bộ Tham mưu Quân chủng thấy cần phải bám sát thực tế hơn nữa, đó là
yếu tố địa hình chiến trường, đặc biệt là mối quan hệ giữa địa hình, cách đánh của bộ đội các quân khu, quân đoàn với
nhiệm vụ chi viện hoả lực của không quân. Đại tá Nguyễn Ngọc Độ, Tham mưu trưởng Quân chủng đã trực tiếp tổ
chức nghiên cứu và giải quyết các vấn đề trên. Thiếu tá Vũ Chính Nghị, Phó Trưởng phòng Dẫn đường đã cùng với tổ
bay Mi-8 của Trung đoàn 916 tiến hành tính toán các đường bay, lựa chọn các bãi hạ cánh, chở Tham mưu trưởng
Quân chủng đi quan sát thực trạng địa hình trên nhiều khu vực quan trọng sát gần biên giới thuộc các tỉnh Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và làm việc với các quân khu, quân đoàn để tìm hiểu, làm rõ cách đánh cơ bản của bộ đội
ta trên các hướng.Ngày 7 tháng 9 năm 1984, căn cứ vào diễn biến tình hình trên biên giới phía bắc, Tổng tham mưu
trưởng ra lệnh cho Tư lệnh Quân chủng Không quân kể từ 0 giờ ngày 10 tháng 9 năm 1984, đưa toàn bộ lực lượng
không quân về trạng thái sẵn sàng chiến đấu thường xuyên.

Ngày 11 tháng 9 năm 1984, Bộ Tổng Tham mưu ra mệnh lệnh tác chiếc sơ bộ cho Quân chủng Không quân
về nhiệm vụ đánh bại các cuộc tập kích đường không của đối phương, chi viện hoả lực cho bộ đội ta bảo vệ biên giới,
vùng biển và hải đảo của Tổ quốc, tập kích vào các căn cứ quan trọng… của đối phương, tổ chức các hoạt động bay
bảo đảm cho chiến đấu, tiếp tục làm nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, giúp bạn xây dựng lực lượng không quân và có
kế hoạch hiệp đồng tác chiến với không quân Lào. Được chỉ đạo của người chỉ huy và cơ quan tham mưu các cấp,
toàn ngành Dẫn đường bắt tay ngay vào chuẩn bị chiến đấu theo các nhiệm vụ được giao.

Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển, hải đảo và thềm lục địa phía nam là nhiệm vụ vô cùng quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ngày 12 tháng 10 năm 1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Bộ
chỉ huy phòng thủ các căn cứ miền Trung. Các đơn vị hải quân, không quân, phòng không và một số đơn vị khác đóng
quân tại các căn cứ miền Trung thuộc quyền chỉ huy về tác chiến của Bộ chỉ huy phòng thủ trên Một phần lực lượng
của Sư đoàn 370 đã được Tư lệnh Quân chủng Không quân giao nhiệm vụ chịu sự chỉ huy về tác chiến của Bộ chỉ huy
phòng thủ này.

Ngày 6 tháng 11 năm 1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh bảo vệ quần đảo Trường Sa. Ngày 7
tháng 11 năm 1987, Tư lệnh Quân chủng Không quân ra lệnh cho Sư đoàn 372 tổ chức cơ động một phi đội Su-22M
của Trung đoàn 923 từ Thọ Xuân vào Phan Rang hiệp đồng với các đơn vị Vùng 4 Quân chủng Hải quân, Lữ đoàn
phòng không 378 sẵn sàng chiến đấu. Sư đoàn 372 phối hợp với Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật không quân tổ chức
triển khai sở chỉ huy tiền phương sư đoàn tại Phan Rang. Ngày 14 tháng 11 năm 1987, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy
của Ban dẫn đường Sư đoàn 372 và tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 đã cùng với đội ngũ phi công thực hiện dẫn
bay thành công Su 22M cơ động chuyển sân đường dài lần đầu tiên vào phía Nam. Từ ngày 21 tháng 11 năm 1987,
các biên pháp bảo đảm dẫn đường tiếp tục được triển khai, kịp thời phục vụ cho Su-22M bước vào bay huấn luyện
trên biển và trực ban sẵn sàng chiến đấu tại Phan Rang.

Quân chủng Không quân triển khai làm quyết tâm tác chiến bảo vệ quần đảo Trường Sa và các kế hoạch
bảo đảm. Những nội dung quan trọng về cách dẫn các loại máy bay và trực thăng tham gia chiến đấu trên biển, đặc
biệt là các giải pháp kết hợp chặt chẽ giữa dẫn đường từ các sở chỉ huy và trạm radar dẫn đường với các máy bay
chuyển tiếp chỉ huy để dẫn Su-22M và An-26 hoạt động trên biển xa đều được nghiên cứu kỹ và đưa vào kế hoạch bảo
đảm dẫn đường.

Nhờ có công tác huấn luyện bay biển thường xuyên đạt chất lượng cao, tiến độ nhanh và an toàn, sáng 10
tháng 3 năm 1988, Phi đội trưởng Vũ Xuân Cương và chuyên gia Liên Xô thực hiện thành công chuyến bay nhiệm vụ
đầu tiên trên máy bay huấn luyện USU-22M từ Phan Rang ra đảo Trường Sa và quay về căn cứ. Ban dẫn đường Sư
đoàn 372 và tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 đã chuẩn bị dẫn đường rất đầy đủ và tỉ mỉ cho chuyến bay này về
phương án nạp dầu, mang vu khí, tính toán dẫn đường kỹ thuật, phân chia khu vực trách nhiệm dẫn đường của các sở
chỉ huy, đài radar dẫn đường, đài radar dẫn bay gần (RSBN-4N), cũng như cách xử lý các tình huống bất trắc về dẫn
đường.

Đầu tháng 4 năm 1988, trong lúc một đơn vị hải quân của ta đang làm nhiệm vụ trên vùng biển thuộc quần
đảo Trường Sa thì bị hải quân nước ngoài bất ngờ dùng vũ lực tiến công, bắn chìm 1 tàu LST làm hơn 80 cán bộ,
chiến sĩ hy sinh. Sau đó, nghiêm trọng hơn, chúng đã chiếm hai đảo Chữ Thập và Châu Viên. Toàn bộ lực lượng
không quân trực chiến phía nam đều sẵn sàng xuất kích. Hành động quân sự đơn phương trên biển của họ đã làm cho
tình hình ở khu vực quần đảo Trường Sa và Biển Đông trở nên vô cùng căng thẳng.

Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa tiếp tục được đẩy mạnh. Ngày 24 tháng 4 năm
1988, Quân chủng Không quân điều thêm 3 chiếc Su-22M từ Thọ Xuân vào Phan Rang. Ngày 10 tháng 6 năm 1988,
Tư lệnh Quân chủng kiểm tra, rà soát và điều chỉnh lại kế hoạch triển khai nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo
Trường Sa. Cuối tháng 6 năm 1988, Quân chủng Không quân điều tiếp 10 chiếc Su-22M nữa vào Phan Rang. Các
chuyến bay nhiệm vụ thường xuyên được duy trì. Ngày 24 và 28 tháng 6 năm 1988, các kíp trực ban dẫn đường Sư
đoàn 372 và Trung đoàn 923 đã phối hợp chặt chẽ thực hiện dẫn chính xác 2 đôi Su-22M lần lượt bay nhiệm vụ ra đảo
Trường Sa và An Bang. Đây là các chuyến bay nhiệm vụ đầu tiên của máy bay chiến đấu Su-22M do các phi công
Trung đoàn 923 hoàn toàn độc lập thực hiện.

Cũng trong thời gian này Quân chủng Phòng không đã kịp thời triển khai xong Trạm radar cảnh giới-dẫn
Đường 11. Đầu tháng 8 năm 1988, căn cứ vào chỉ thị của Bộ Tham mưu Quân chủng Không quân, Sư đoàn 372 triển
khai hai đội cơ động bảo đảm chiến đấu được trang bị hệ thống đài điểm, đối không, thông tin liên lạc và hoá nghiệm
xăng dầu do sĩ quan phụ trách chung, có nhiệm vụ thường xuyên giữ vững liên lạc với Phan Rang, hiệp đồng chặt chẽ
với Trạm radar 11 tổ chức tiếp thu trực thăng và chỉ huy-dẫn đường cho không quân hoạt động trong phạm vỉ trách
nhiệm được giao. Đồng chí Nguyễn Văn Khiêm, trợ lý Ban dẫn đường Sư đoàn 372, là sĩ quan dẫn đường đầu tiên
được cử phụ trách đội công tác. Công tác bảo đảm dẫn đường luôn phục vụ kịp thời cho các đơn vị phía nam hoàn
thành tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa. Đến đầu năm 1989, tất cả các văn kiện bảo đảm
dẫn đường cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa và vùng kinh tế biển phía nam trong toàn ngành đều
được hoàn tất.

Đầu tháng 10 năm 1989, tại Phan Rang, có thêm lực lượng Su-22M4 của Trung đoàn 937 tham gia thực
hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa và vùng kinh tế biển phía Nam. Ngày 19 tháng 10 năm 1989, kíp
trực ban dẫn đường Trung đoàn 937 đã tập trung dẫn đôi bay Su-22M4: Vũ Kim Điến và Nguyễn Văn Thận hoàn
thành xuất sắc chuyến bay nhiệm vụ đầu tiên của trung đoàn ra Trường Sa. Từ ngày 25 tháng 12 năm 1989, Trung
đoàn 937 tiếp nhận toàn bộ nhiệm vụ chiến đấu của lực lượng không quân tiêm kích bom ở phía nam để Trung đoàn
923 cơ động ra Thọ Xuân. Toàn bộ các văn kiện bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ chiến đấu của Su-22M4 đã được
tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937 chuẩn bị rất chu đáo, tỉ mỉ và hoàn thành đúng thời hạn.

Nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân chủng Không quân được
giao nhiệm vụ tổ chức bay diễu binh và biểu dương lực lượng phục vụ các hoạt động trọng điểm của toàn quân tại khu
vực Hà Nội. Quân chủng quyết định sử dụng lực lượng MiG-21, A-37, F-5 và Ka-25 tham gia bay diễu binh qua sân
vận động Hàng Đẫy và Mi-8, UH-1 và An-2 tham gia bay biểu dương lực lượng trên khu vực Hồ Tây phục vụ Hội
khoẻ toàn quân.

Công tác chuẩn bị nhanh chóng được triển khai. Đội ngũ phi công và tổ bay giỏi được đưa ngay vào bay
huấn luyện bổ sung giữ đội hình với cự ly, giãn cách hẹp theo đúng quy định của từng loại máy bay và trực thăng tham
gia bay diễu binh và biểu dương lực lượng. Đội ngũ dẫn đường tiến hành lựa chọn đường bay, tính toán chi tiết về thời
gian cất cánh, độ cao và tốc độ bay, thời gian có mặt tại các điểm vòng để khi bay qua sân vận động Hàng Đẫy và bay
vào khu vực Hồ Tây tạo nên một đội hình đẹp, thể hiện sức mạnh của không quân ta. Qua bay kiểm tra hợp luyện, các
số liệu dẫn đường lại tiếp tục được hiệu chỉnh cho thật chuẩn xác.

Đúng ngày 22 tháng 12 năm 1979, trong lễ kỷ niệm được tổ chức trọng thể tại sân vận động Hàng Đẫy, lực
lượng của không quân tham gia diễu binh, bao gồm 12 chiếc MiG-21, 3 chiếc A-37, 3 chiếc F-5 và 3 chiếc Ka-25, đội
hình chỉnh tề, lần lượt bay qua lễ đài đúng giờ quy định. Ngay ngày hôm sau, 23 tháng 12 năm 1979, trên khu vực Hồ
Tây đội hình của 3 chiếc Mi-8, 3 chiếc UH-1 và 2 chiếc An-2 thực hiện bay biểu dương lực lượng phục vụ Hội khoẻ
toàn quân. Tất cả các chuyến bay đều được dẫn chính xác và bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Năm 1985, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm ngày Quốc khánh 2-9 ở Hà Nội với
quy mô lớn. Bộ Quốc phòng được giao trọng trách thực hiện nhiệm vụ duyệt binh tại quảng trường Ba Đình. Khi các
khối mặt đất đại diện cho các quân binh chủng tiến bước qua lễ đài thì đội hình của các lực lượng không quân sẽ bay
qua quảng trường. Quân chủng Không quân quyết định sử dụng 24 chiếc MiG-21Bis đại diện cho lực lượng không
quân tiêm kích do hai trung đoàn 927 và 921 đảm nhiệm, 12 chiếc Su-22M đại diện cho không quân tiêm kích bom do
Trung đoàn 923, 12 chiếc An-26 đại diện cho không quân vận tải do Trung đoàn 918, 9 chiếc Mi-24 và 3 chiếc Mi-8
đại diện cho không quân trực thăng do Trung đoàn 916 và 15 chiếc máy bay huấn luyện L-39 đại diện cho nhà trường,
xếp hình cho số 40 đầy ý nghĩa do Trung đoàn 910 đảm nhiệm.

Để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này, theo kế hoạch của Quân chủng, trong giai đoạn 1, từng trung đoàn
không quân tổ chức bay huấn luyện đội hình bay duyệt binh tại căn cứ đóng quân của mình. Tiểu ban dẫn đường trung
đoàn tiến hành tính toán, xác định thứ tự, giãn cách thời gian cất cánh giữa các tốp và cách dẫn bay tập hợp đội hình
bay duyệt binh. Giai đoạn 2, Quân chủng tổ chức bay hợp luyện qua sân bay Hoà Lạc và quảng trường Ba Đình.
Riêng Trung đoàn 910, sau chuyển sân từ Nha Trang ra Gia Lâm, tiến hành bay huấn luyện bổ sung đội hình số 40.
Kíp trực ban dẫn đường tại Sở chỉ huy Quân chủng và tại Trạm radar dẫn Đường 26 chịu trách nhiệm dẫn hỗ trợ tất cả
các chuyến bay hợp luyện và bay duyệt binh chính thức qua Ba Đình. Kíp trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy và tại
trạm radar dẫn đường của từng trung đoàn chịu trách nhiệm dẫn chính các chuyến bay của đơn vị mình. Khi bay hợp
luyện và bay chính thức, Quân chủng đều triển khai đài chỉ huy bay tại Hoà Lạc và Ba Đình.

Ngày 6 tháng 8 năm 1985, đội hình của không quân thực hiện bay hợp luyện hai lần qua sân bay Hoà Lạc
đều đạt yêu cầu đề ra. Trong ba ngày 25, 27 và 29 tháng 8 năm 1985, đội hình của ta tiếp tục thực hiện bay hợp luyện
qua quảng trường Ba Đình. Kết quả kiểm tra bay hợp luyện lần cuối cùng cho thấy, đội hình của các lực lượng không
quân luôn được giữ rất ổn định, chữ số 40 đẹp thời gian thông qua quảng trường chính xác đến từng giây và bảo đảm
an toàn tuyết đối.

Sáng sớm ngày 2 tháng 9, tại quảng trường Ba Đình trời nhiều mây, đáy mây tương đối thấp, không mưa,
tầm nhìn giảm. Còn tại các sân bay có các lực lượng tham gia bay duyệt binh và tại các khu vực có các đường bay
duyệt binh đi qua thời tiết đều không ổn định. Theo dự báo, đến giờ G lượng mây tiếp tục tăng. Đây là trở ngại lớn
nhất liên quan trực tiếp đến điều kiện bảo đảm an toàn bay duyệt binh. Sau khi cân nhắc kỹ về nhiều mặt, Sở chỉ huy
Quân chủng quyết định Trung đoàn không quân 910 chờ lệnh, còn các trung đoàn khác sẵn sàng cất cánh. Các kíp trực
ban dẫn đường nhanh chóng chuẩn bị thêm cách xử lý các tình huống dẫn bay khi phi công gặp thời tiết xấu. Theo kế
hoạch bay duyệt binh đã được phê chuẩn, 12 chiếc MiG-21Bis của Trung đoàn 927 do Trung đoàn trưởng Phạm Phú
Thái dẫn đầu, cất cánh từ Kép, tập hợp tại đỉnh, vào đúng đường bay, với đội hình rất chỉnh tề, bay qua quảng trường
Ba Đình đúng giờ quy định. Tại Kiến An, trời mưa to, Trung đoàn 921 quyết tâm cất cánh, nhưng chỉ lên được 6 chiếc
MiG-21Bis. Trung đoàn trưởng Trần Việt dẫn đầu và quyết định bay theo đội hình từng đôi một.

Khi đội hình của Trung đoàn 921 đang trên hướng tiến về quảng trường thì Trung đoàn trưởng Phạm Phú
Thái xin phép thông qua một lần nữa, vào vị trí giành cho đội hình của Trung đoàn 923 vì sau khi cất cánh khỏi Thọ
Xuân, 12 chiếc Su-22M không thể vượt qua được vùng thời tiết đột biến xấu trên diện rộng ở khu vực Nam Định, đã
phải quay lại. Đồng chí Phạm Ngọc Lan, chỉ huy bay tại Ba Đình đồng ý và yêu cầu trực ban dẫn đường Vũ Chính
Nghị nắm chắc vị trí 6 chiếc MiG-21 Bis của Trung đoàn 921, khống chế chặt chẽ độ cao bay và thời cơ bắt đầu vòng
lại của Trung đoàn trưởng Phạm Phú Thái. Đội hình 6 chiếc MiG-21Bis của Trung đoàn 921 bay qua Ba Đình rất
chính xác và sau đó về Nội Bài hạ cánh. 12 chiếc MiG-21Bis của Trung đoàn 927 thông qua quảng trường lần thứ hai
đáp ứng yêu cầu thay thế cho Su-22M. Tiếp sau đó là 12 chiếc An-26 của Trung đoàn 918 do Trung đoàn trưởng
Nguyễn Xuân Hiển dẫn đầu, cất cánh từ Gia Lâm, tập hợp đội hình chỉnh tề trong khu chờ và bay qua quảng trường
Ba Đình đúng thời gian. 9 chiếc Mi-24 và 3 chiếc Mi-8 của Trung đoàn 916, cất cánh từ Hoà Lạc, do Trung đoàn
trưởng Nguyễn Đình Khoa dẫn đầu, bay qua quảng trường đúng vào lúc khối bộ binh cơ giới tiến qua lễ đài.

Nhiệm vụ tham gia duyệt binh (A-85) của Quân chủng kết thúc thắng lợi. Ngành Dẫn đường 'tích luỹ thêm
được nhiều kinh nghiệm rất bổ ích về việc tổ chức dẫn bay đội hình lớn với nhiều kiểu loại máy bay và trực thăng
khác nhau, đồng thời có được bài học quý báu về xử lý các tình huống dẫn bay đội hình 12 chiếc khi gặp thời tiết xấu.

***

Bay dịch vụ dầu khí là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng trong suốt quá trình thăm dò và khai thác
dầu khí trên biển của đất nước ta. Nhiệm vụ này do lực lượng không quân trực thăng của Quân chủng tổ chức thực
hiện liên tục trong nhiều năm đạt hiệu quả kinh tế rất cao, đồng thời luôn sẵn sàng tham gia bảo vệ vùng biển và hải
đảo của Tổ quốc khi có lệnh.

Ngay từ đầu năm 1979, chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh Quân chủng Không quân đã ký
quyết định điều tổ bay UH-l (trực thăng số 779): Lái chính Nguyễn Xuân Trường, dẫn đường trên không Trần Đình
của Trung đoàn 917 từ Tân Sơn Nhất xuống Vũng Tàu làm nhiệm vụ trực ban phục vụ công ty dầu lửa Bow Valley. 9
giờ 30 phút ngày 31 tháng 1 năm 1979, tổ bay UH-1 cất cánh từ Vũng Tàu, 11 giờ 30 phút, hạ cánh an toàn xuống tàu
khoan Dan Queen và sau đó trở về Vũng Tàu. Trong chuyến bay phục vụ dầu khí đầu tiên này, công tác dẫn bay đã
được tổ bay thực hiện rất chính xác. Do nhu cầu bay phục vụ dầu khí tiếp tục tăng. Ngày 6 tháng 3 năm 1979, Quân
chủng quyết định lâm thời thành lập Công ty trực thăng phục vụ dầu khí trực thuộc Bộ Tư lệnh.

Khi liên doanh dầu khí Việt-xô chuẩn bị khoan thăm dò ở vùng Bạch Hổ thì việc sử dụng trực thăng Mi-8
để bay phục vụ đã được giao cho phía Việt Nam. Ngày 13 tháng 9 năm 1983, Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định điều
một phần lực lượng trực thăng của không quân về Vũng Tàu làm nhiệm vụ phục vụ dầu khí. Quân chủng chọn 2 chiếc
Mi-8 số 829 và 374, 3 tổ bay gồm các lái chính. Là Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn San, Trần Đăng Nguyên và 3
dẫn đường trên không là Nguyễn Văn Dũng, Dương Huy Hiền, Lê Trọng Đông để thành lập phi đội bay phục vụ dầu
khí đầu tiên, biệt phái sang Tổng cục Hàng không dân dụng công tác.

Sáng 4 tháng 1 năm 1984, chuyến bay đầu tiên của phi đội do tổ bay: Nguyễn Xuân Trường-lê Trọng đông
thực hiện, đã được hoàn thành xuất sắc trong điều kiện thời tiết phức tạp. Công tác dẫn bay Mi-8 chính xác đã góp
phần chiếm được lòng tin của liên doanh dầu khí Việt-Xô. Trong thời gian tiếp theo phi đội thường xuyên bay với
cường độ lớn, đáp ứng đầy đủ yêu cầu chở công nhân thay ca, cấp cứu kỹ thuật và cấp cứu y tế cho liên doanh.
Để có nhiều thuận lợi hơn nhằm đáp ứng nhu cầu bay phục vụ dầu khí ngày càng tăng, ngày 11 tháng 3
năm 1985, Quân chủng Không quân và Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam đã cùng nhau thống nhất quyết định
thành lập Công ty trực thăng dầu khí trực thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam.

Rạng sáng 24 tháng 5 năm 1985, tàu khoan Mikhai Mirtchin đã thử vỉa thành công, dòng dầu công nghiệp
đầu tiên của nước ta đã được phát hiện. Ngay trong buổi sáng hôm đó, tổ bay Mi-8: Nguyễn Văn San-Nguyễn Văn
Dũng-cơ giới trên không Trần Nguyên Hồng đã chở đoàn cán bộ Đặc Khu uỷ, Uỷ ban nhân dân và một số đại biểu
đoàn thể quần chúng Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo ra tàu khoan chúc mừng cán bộ, công nhân dầu khí Việt Nam. Sau
khi phát hiện ra mỏ dầu Bạch Hổ, liên doanh dầu khí Việt-Xô tiếp tục khoan thăm dò các giếng mới và triển khai mọi
mặt để khai thác dầu khí cho đất nước. Nhiệm vụ bay phục vụ dầu khí của công ty tăng lên rất nhanh. Trong hai năm
1985, 1986 và 6 tháng đầu năm 1987, trên 3.000 giờ bay kinh tế đã được thực hiện chất lượng và an toàn. Ngày 25
tháng 12 năm 1987, Công ty trực thăng dầu khí và sân bay Vũng Tàu được sáp nhập thành Công ty trực thăng Việt
Nam. Với sự nỗ lực rất lớn, chỉ riêng năm 1988, Công ty trực thăng Việt Nam đã vươn lên hoàn thành 3.182 giờ bay
kinh tế.

Để tiếp tục chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức và xây dựng các đơn vị quân đội tham gia làm kinh tế góp phần
xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, ngày 2 tháng 5 năm 1989,
Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập 3 Công ty bay dịch vụ miền Nam, miền Bắc và miền Trung.

Công ty bay dịch vụ miền Nam (Công ty bay Nam), đóng quân tại Vũng Tàu, có nhiệm vụ tổ chức bay dịch
vụ cho công tác thăm dò và khai thác dầu khí trên thềm lục địa từ Phú Khánh trở vào phía Nam, bay dịch vụ vận tải
hàng Hoá và chở khách tại những nơi chưa có tổ chức bay dịch vụ của Tổng cục Hàng không dân dụng và bay phục vụ
các yêu cầu khác của các ngành kinh tế. Vào thời điểm thành lập, Công ty bay dịch vụ miền Nam được trang bị trực
thăng tương đối hoàn chỉnh, bao gồm: 2 Mi-8, 4 Mi-17 và 2 Puma. Cùng với sự phát triển về chủng loại trực thăng,
công ty luôn quan tâm đến công tác dẫn bay, đặc biệt là tổ chức khai thác triệt để các thiết bị dẫn bay mới và xây dựng
mạng lưới đường bay khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế cho từng chuyến bay.

Công ty bay dịch vụ miền Bắc (Công ty bay Bắc), đóng quân tại Gia Lâm, trước mắt tập trung củng cố tổ
chức, lựa chọn cán bộ, từng bước bổ sung cơ sở vật chất, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu bay phục vụ chương trình tìm
kiếm - người Mỹ mất tích ở Việt Nam (MIA). Còn Công ty bay dịch vụ miền Trung sẽ được triển khai khi cần.

Ngày 1 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Nghị định số 58/HĐBT thành lập 9
doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng trong đó có Tổng công ty bay dịch vụ Việt Nam (Tổng công ty bay). Tiếp sau đó,
ngày 20 tháng 6 năm 1989, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định 188/QĐ-QP quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Tổng công ty bay. Công ty bay Nam và Công ty bay Bắc là hai đơn vị chủ
chốt của Tổng công ty bay. Trong Tổng công ty bay và các công ty thành viên không tổ chức hệ thống Chủ nhiệm Dẫn
đường. Công tác bảo đảm dẫn đường do Ban Giám đốc trực tiếp điều hành.

Tính đến thời điểm được thành lập, số lượng tổ bay của Tổng công ty bay tuy không nhiều, chủ yếu nằm ở
Công ty bay Nam, nhưng chất lượng cao. Nhiều tổ bay có khả năng bay trên tất cả các loại trực thăng của công ty. Đội
ngũ dẫn đường trên không có trình độ dẫn bay trên biển xa vững vàng, tính toán dẫn bay hạ, cất cánh tại các giàn
khoan và tàu thăm dò dầu khí chính xác. Đó là một trong những yếu tố góp phần làm cho Tổng công ty bay, trực tiếp
là Công ty bay Nam luôn giữ được uy tín trước khách hàng.

3. Đào tạo, tập huấn, ban hành tài liệu và kiện toàn các tổ chức dẫn đường.
Tháng 9 năm 1978, các đồng chí Phạm Văn Năm, Vũ Chính Nghị, Đinh Văn Nghĩa, Nguyễn Công Tản và
Đỗ Văn Tường được Quân chủng Không quân cử ôi đào tạo cán bộ dẫn đường tại Học viện Không quân Ga-ga-rin.
Sau 4 năm học tập, đạt trình độ chuyên ngành dẫn đường cấp chiến thuật-chiến dịch, 5 học viên đều tốt nghiệp và trở
về nước vào tháng 9 năm 1982. Các đồng chí Vũ Chính Nghị được điều về Phòng Dẫn- đường làm trợ lý, Đinh Văn
Nghĩa về Ban dẫn đường Sư đoàn 372; các đồng chí Phạm văn Năm, Đỗ Văn Tường và Nguyễn Công Tản về các tiểu
ban dẫn đường các trung đoàn 921, 923 và 927.

Trong những năm tiếp theo, được sự quan tâm của Quân chủng Không quân đối với ngành Dẫn đường,
nhiều phi công bắt đầu được lựa chọn đưa đi đào tạo tại Học viện Không quân Ga-ga-rin Liên Xô để trở thành cán bộ
dẫn đường. Năm 1984, 3 phi công Nguyễn Kim Cách, Nguyễn Việt Dũng và Phương Minh Hoà lên đường đi học. Đây
là khoá phi công đầu tiên học chuyên ngành dẫn đường (1984- 1988). Với sự nỗ lực học tập liên tục trong 4 năm, phi
công Nguyễn Kim Cách đã tốt nghiệp xuất sắc về chuyên ngành dẫn đường cấp chiến thuật-chiến dịch và được nhận
huy chương vàng. Đây là học viên phi công Việt Nam đầu tiên giành được phần thưởng cao quý này của Học viện
Không quân Ga-ga-rin. Khi trở về đơn vị đồng chí Nguyễn Kim Cách làm Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 937
(1988- 1990). Trong khoá học tiếp theo (1988- 1992), 3 phi công nữa là Trần Trung Kiên, Trần Văn Minh và Cao Sơn
được tiếp tục cử đi đào tạo cán bộ dẫn đường. Sau này đồng chí Trần Văn Minh làm Chủ nhiệm Dẫn đường Trung
đoàn 920 (1992-1999), 910 (1999-2002) và lên làm Chủ nhiệm Dẫn đường Trường Sĩ quan Không quân (từ 2002).

Sau khi đào tạo thành công sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy khoá đầu tiên sau khi miền Nam được giải phóng
(1976-1978), Trường Sĩ quan Không quân, sau này là Trường Sĩ quan Chỉ huy-kỹ thuật không quân tiếp tục đào tạo sĩ
quan dẫn đường sở chỉ huy cho Quân chủng Không quân. Tính đến năm 1989, trường đã tổ chức đào tạo 10 khoá,
trong đó có 9 khoá được 183 sĩ quan dẫn đường và 1 khoá được 72 sĩ quan điều hành chiến đấu.

Tháng 3 năm 1981, Trường Sĩ quan Chỉ huy-kỹ thuật không quân tổ chức khai giảng khoá đào tạo sĩ quan
dẫn đường trên không lần thứ hai cho 27 học viên. Quân chủng Không quân điều động các đồng chí Phan Phi Phụng,
Nguyễn Xuân Hồng, Vũ Mạnh, Nguyễn Văn Ngần, Nguyễn Danh Đoan và Nguyễn Văn Phúc về làm giáo viên tăng
cường cho trường để cùng với Khoa Dẫn đường tiến hành giảng dạy lý thuyết dẫn bay. Sau 8 tháng, chương trình học
lý thuyết kết thúc, học viên được đưa về các trung đoàn để học thực hành dẫn bay và giáo viên tăng cường cho trường
được điều trở lại đơn vị cũ tiếp tục công tác. So với khoá trước (1978-1980), ưu điểm nổi bật của khoá đào tạo này là
vẫn kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giảm tải cho đơn vị vì khi học lý thuyết, học viên được tập trung tại
trường và giúp Khoa Dẫn đường tháo gỡ ngay được tình trạng rất thiếu giáo viên dạy lý thuyết dẫn bay.

Tháng 7 năm 1980, Phòng Dẫn đường tổ chức tập huấn về phương pháp tính toán dẫn bay SU-22M cho đội
ngũ dẫn đường sở chỉ huy tại sân bay Thọ Xuân. Các đồng chí Nguyễn Quang Thản và Tạ Văn Vượng được lựa chọn
làm hai giáo viên chính, truyền đạt đầy đủ và tỉ mỉ về hệ thống dẫn bay mới cũng như cách tính toán các số liệu dẫn
bay cho Su-22M. Kết quả tập huấn đã trực tiếp giúp tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo
đảm dẫn đường cho những chuyến bay đầu tiên của trung đoàn chuyển sân từ Đà Nẵng ra Thọ Xuân và bay huấn
luyện tại Thọ Xuân.

Để đáp ứng yêu cầu nhanh chóng nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, trong thời gian tổ chức Hội nghỉ
Ngành Dẫn đường từ ngày 23 đến ngày 29 tháng 3 năm 1983 tại Bạch Mai, Phòng Dẫn đường đã tiến hành tập huấn
về phương pháp làm kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và soạn thảo các văn kiện dẫn đường chiến đấu
cho tất cả các ban dẫn đường sư đoàn và nhà trường, các tiểu ban dẫn đường và hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường trung
đoàn. Việc triển khai làm ngay kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu là một trong những nhiệm vụ quan trọng
trong kế hoạch công tác năm 1983 của toàn ngành.

Từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 5 năm 1989, tại Phan Rang, các nội dung về phương pháp tính toán dẫn bay
Su-22M4 và Ka-28 đã được Phòng Dẫn đường đưa ra tập huấn rất chi tiết. Bằng thực tiễn công tác của chính mình,
các đồng chí giáo viên Nguyễn Kim Cách và Lê Quang Vĩ đã trình bày rõ ràng và dễ hiểu một số vấn đề phức tạp
trong tính toán và thực hành dẫn bay Su-22M4 và Ka-28. Đội ngũ dẫn đường trong toàn ngành được trang bị them
kiến thức về hai hệ thống dẫn đường mới, tạo thuận lợi hỗ trợ nhau bảo đảm dẫn đường, nhất là khi cơ động huấn
luyện và sẵn sàng chiến đấu.

Tháng 9 năm 1981, cuốn sách giáo khoa "Lý thuyết dẫn bay" do Phòng Dẫn đường biên dịch đã được Quân
chủng Không quân cho phép đưa vào sử dụng. Cuốn sách này cùng với ba tập "Lý thuyết dẫn đường hàng không"
trước đây, đã được xuất bản từ năm 1970, tạo thành một bộ tài liệu hoàn chỉnh cả về lý thuyết và thứ tự chuẩn bị thực
hành dẫn bay. Từ đơn vị đến nhà trường lại có thêm một đầu tài liệu nữa để huấn luyện và giảng dạy dẫn đường.

Ngày 22 tháng 11 năm 1983, Tư lệnh Quân chủng Không quân phê duyệt ban hành "Điều lệ Công tác Dẫn
đường của Quân chủng Không quân Quân đội nhân dân Việt Nam". Điều lệ công tác dẫn đường ra đời là sự kiện rất
quan trọng. Ngành Dẫn đường tiếp tục được xây dựng và phát triển theo hướng chính quy. Nghiêm chỉnh chấp hành
Điều lệ công tác dẫn đường là cơ sở vững chắc tạo ra sức mạnh tổng hợp cho toàn ngành, sẵn sàng đáp ứng đầy đủ
mọi yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Năm 1987, Phòng Dẫn đường tổ chức biên soạn và cung cấp cho toàn ngành 2 đầu tài liệu là bài tập ước
lượng và tính nhẩm dẫn đường. Nội dung tài liệu có tác dụng thiết thực củng cố và nâng cao năng lực thực hành cho
đội ngũ dẫn đường ở đơn vị cũng như học viên dẫn đường ở nhà trường.

Vào thời điểm giữa năm 1976, trong đội hình của Sư đoàn 371 bao gồm các trung đoàn 921, 923, 927 và
916. Phi đội MiG-21 của Trung đoàn 927, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở phía Nam, đã chuyển sân ra Kép. Nhờ
thường xuyên được bổ sung đầy đủ về quân số và tích cực rèn luyện đội ngũ trợ lý, nên các tổ chức dẫn đường trong
sư đoàn đều bảo đảm cho đơn vị mình hoàn thành tốt nhiệm vụ nâng cao chất lượng bay ứng dụng chiến đấu và cơ
động chuyển sân.

Các tiểu ban dẫn đường trung đoàn 921, 923 và 927 luôn phát huy tốt khả năng độc lập công tác của đội
ngũ trợ lý, bảo đảm cho trung đoàn hoàn thành các nhiệm vụ bay được giao, nhất là khi cơ động phân tán ở nhiều nơi.
Cuối tháng 6 năm 1976, Trung đoàn 921 cùng một lúc tổ chức cơ động chuyển sân từ Nội Bài 1 phi đội vào Đà Năng
và lực lượng còn lại lên Yên Bái để vừa bay huấn luyện vừa trực chiến. Đến đầu tháng 7, đơn vị đã bước vào hoạt
động ổn định. Ngày 21 tháng 5 năm 1977, 1 phi đội của Trung đoàn 921 thực hiện cơ động chuyển sân vào Biên Hoà
để tham gia chiến đấu. Ngày 7 tháng 12 năm 1977, Sư đoàn 371 ra mệnh lệnh cho Trung đoàn 927 cơ động 1 phi đội
vào Đà Nẵng làm nhiệm vụ thay cho phi đội của Trung đoàn 921 và ngay ngày hôm sau, sư đoàn ra tiếp mệnh lệnh
cho Trung đoàn 921 cơ động lực lượng của mình ra Yên Bái. Công tác dẫn bay chuyển sân rất nhanh chóng được triển
khai và thực hiện đúng kế hoạch.

Đầu tháng 1 năm 1978, 1 phi đội của Trung đoàn 923 nhận lệnh cơ động chuyển sân vào Biên Hoà tham
gia chiến đấu. Tiểu ban dẫn đường đã kịp thời cử ngay 2 trợ lý là Vũ Văn Thuyết và Nguyễn Văn Đờn vào theo. Cuối
tháng 2 năm 1978, toàn bộ lực lượng của Trung đoàn 927 ở Kép chuyển vào Đà Nẵng và ngày 1 tháng 3 năm 1978,
Quân chủng ra quyết định điều Trung đoàn 927 về trực thuộc Sư đoàn 370. Nhưng đến ngày 5 tháng 8 năm 1978, do
yêu cầu tăng cường lực lượng cho hướng bắc, trung đoàn được điều trở lại Sư đoàn 371. Ngày 7 tháng 3 năm 1978,
Trung đoàn 921 cùng 1 phi đội bay ngày và 1 phi đội bay đêm chuyển về Kép đóng quân, chỉ để 1 phi đội bay ngày ở
lại Yên Bái. Ngày 18 tháng 12 năm 1978, 1 phi đội bao gồm cả lực lượng bay ngày và bay đêm của Trung đoàn 921
cơ động chuyển sân vào Biên Hoà. Ba trợ lý dẫn đường của tiểu ban là Khổng Vũ Bằng, Đoàn Văn Bình và Trương
Thanh Lương đã nhanh chóng lên đường ngay. Nhưng đến ngày 28 tháng 1 năm 1979, phi đội này lại cơ động chuyển
sân ra Nội Bài để tăng cường lực lượng cho hướng bắc.

Sau khi đối phương buộc phải rút quân, chấm dứt hành động xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía bắc,
sư đoàn tiếp tục cho MiG-21 cơ động chuyển sân vào Đà Nẵng để bay huấn luyện. Ngày 25 tháng 4 năm 1979, Trung
đoàn 923 thực hiện chuyển 25 chiếc MiG-17 vào Phan Rang cho Trung đoàn không quân 940, chỉ giữ lại 8 MiG-17 và
2 UMiG-15 để huấn luyện và trực chiến

Ngày 13 tháng 7 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn không quân tiêm kích 931
trực thuộc Sư đoàn Không quân 371. Trung đoàn 931 được trang bị MiG-21 và đóng quân tại Yên Bái. đại uý Nguyễn
Công Huy được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Tùng làm Chính uỷ. Trưởng Tiểu ban dẫn
đường là Trung uý Khổng Vũ Bằng. Một bộ phận của Trung đoàn 923 được điều về Sư đoàn 370 để tổ chức xây dựng
phi đội tiêm kích bom, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu phát triển thành trung đoàn không quân tiêm kích bom sau này.

Cuối năm 1979, căn cứ vào số lượng phi công bay chuyển loại và máy bay Su-22M đã được lắp ráp tại Đà
Nẵng, ngày 25 tháng 12 năm 1979, Quân chủng ra quyết định điều Trung đoàn 923 từ Sư đoàn 371 sang Sư đoàn 372,
đồng thời điều bộ phận của Trung đoàn 923 đang ở Sư đoàn 370 sang Sư đoàn 372.

Cũng trong thời gian trên, nhiệm vụ và biên chế trang bị của Trung đoàn 916 có nhiều thay đổi: Cuối tháng
5 năm 1977, một phần lực lượng Mi-8 lên đường vào phía nam tham gia chiến đấu; ngày 16 tháng 2 năm 1978, trung
đoàn tổ chức tiếp nhận Phi đội An-2 từ Đoàn bay 919 (Tổng cục Hàng không dân dụng). Ngày 19 tháng 3 năm 1979,
Phi đội trực thăng săn ngầm Ka-25 đầu tiên được thành lập và trực thuộc Trung đoàn 916, đội ngũ dẫn đường trên
không gồm 5 đồng chí là Linh Quang Đáp, Nguyễn Trọng Hạ, Nguyễn Xuân Hoè, Trần Quang Huy, Nguyễn Thanh
Liêm. Vào thời gian này, Phi đội U-17 được điều về Trung đoàn 916. Ngày 6 tháng 5 năm 1979, Phi đội Ka-25 và U-
17 được Quân chủng Không quân điều về Trung đoàn 923. Nhưng đến ngày 31 tháng 7 năm 1979, Quân chủng lại
điều Phi đội U-17 về Trung đoàn 916 để làm nhiệm vụ chỉ thỉ mục tiêu cho pháo binh. Ngày 11 tháng 1 năm 1980, Phi
đội trực thăng vũ trang Mi-24A đầu tiên được thành lập, mang phiên hiệu 304, trực thuộc Trung đoàn 916. Ngoài Phi
đội U-17, trong tất cả các phi đội còn lại đều có Chủ nhiệm Dẫn đường. Hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường phi đội trong
Trung đoàn 916 được kiện toàn kịp thời là một trong những yếu tố rất quan trọng góp phần làm cho các lực lượng Mi-
8, Mi-6, Ka-25, Mi-24 và An-2 luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Đến ngày 8 tháng 9 năm 1979, Trung
đoàn 916 được điều về trực thuộc Quân chủng Không quân.

Như vậy, tính đến cuối năm 1979, trong đội hình của Sư đoàn 371 có 3 trung đoàn không quân 921, 927,
931 và đều sử dụng máy bay MiG-21, trong đó, số lượng MiG-21Bis còn chưa nhiều. Từ năm 1981 trở đi sư đoàn tiếp
nhận MiG-21Bis ngày càng nhiều, các tiểu ban dẫn đường tiếp tục tập trung vào học tập chuyển loại.

Cuối tháng 2 năm 1979, sau khi cơ động chuyển sân ra Nội Bài tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía
bắc của Tổ quốc, các lực lượng UH-1, U-17, F-5 và A-37 đều thuộc quyền chỉ huy của Trung đoàn 937. Đồng chí
Lương Quốc Bảo được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Phan Minh Thành làm Chính uỷ và đồng chí
Khương Tại làm Tham mưu trưởng. Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937 nằm trong Ban Tham mưu, có nhiệm vụ bảo
đảm dẫn đường cho 4 loại máy bay và trực thăng hệ 2 khác nhau cùng hoạt động trên địa bàn phía bắc. Đây là đặc
điểm nổi bật của một tiểu ban dẫn đường không quân. Đồng chí Đào Văn Phao giữ chức Trưởng Tiểu ban.

Trong thời gian đóng quân ở phía bắc, tiểu ban dẫn đường luôn bảo đảm cho trung đoàn bay huấn luyện và
trực chiến. Tháng 4 năm 1979, tiểu ban đã bảo đảm tốt cho 4 chiếc F-5A chuyển sân vào Biên Hoà và tiếp thu 4 chiếc
F-5E ra Nội Bài. Cuối năm 1979, tiểu ban tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ dẫn F-5, A-37 và UH-1 tham gia bay diễu
binh tại Hà Nội. Ngày 10 tháng 4 năm 1980, trung đoàn bắt đầu thực hiện chuyển 9 F-5 và 8 A-37 vào Biên Hoà để
bàn giao cho Trung đoàn 935. Sau này do các loại khí tài hệ 2 không còn, nên ngày 24 tháng 4 năm 1980, Quân chủng
Không quân ra chỉ thị cho Trung đoàn 937 tạm ngừng hoạt động.

Ngày 13 tháng 7 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn không quân tiêm kích 933
trực thuộc Sư đoàn 372, sử dụng toàn bộ MiG-17 và Ka-25 của Trung đoàn 923 và đóng quân tại Kiến An. Đồng chí
Hoàng Thanh Xuân được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Mai Duy Thành làm Chính uỷ. Trưởng Tiểu ban
dẫn đường là đồng chí Nguyễn Đăng Điển. Tại nơi đóng quân mới Ở Thọ Xuân, ban dẫn đường Sư đoàn 372 đã nỗ lực
khắc phục mọi khó khăn ban đầu về nơi ăn chỗ ở, nhanh chóng củng cố các vị trí trực ban tại sở chỉ huy và tích cực
tìm hiểu tính năng kỹ, chiến thuật, cũng như cách dẫn các loại máy bay và trực thăng mới được trang bị trong Quân
chủng. Tháng 12 năm 1979, ban đã chủ động cử Trung uý Nguyễn Văn Nhâm và Thiếu uý Đinh Khởi Nghĩa vào Đà
Nẵng tự nghiên cứu học tập chuyển loại dẫn đường Su-22M.

Sau khi Trung đoàn 923 nằm trong đội hình của Sư đoàn 372, đồng chí Nguyễn Văn Lục được bổ nhiệm
làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Trịnh Hướng làm Chính uỷ.

Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923 trở thành tiểu ban dẫn đường tiêm kích bom đầu tiên của ngành Dẫn
đường. Nhiệm vụ bay chuyển loại Su-22M được đặt lên hàng đầu và được tổ chức thực hiện tại Đà Nẵng. Tiểu ban
vừa học tập chuyển loại vừa phục vụ bay. Những vấn đề mới và khó trong dẫn bay Su-22M từng bước được tháo gỡ
nhờ sự giúp đỡ rất tận tình của đội ngũ chuyên gia và phi công. Giữa tháng 9 năm 1981, đôi bay Su-22M: Vũ Xuân
Cương và Phùng Công Định đã được dẫn thành công bay chuyển sân từ Đà Nẵng hạ cánh xuống Thọ Xuân an toàn
trong niềm hân hoan đón chào của tất cả cán bộ, chiến sĩ tại sân bay. Từ tháng 10 năm 1981, hơn 40 chiếc Su-22M đã
có mặt tại Thọ Xuân và bước vào giai đoạn huấn luyện mới nâng cao sức mạnh chiến đấu cho lực lượng không quân
tiêm kích bom.Sau 14 tháng học tập chuyển loại, tháng 2 năm 1981, đoàn Be-12 về nước. Phi đội thuỷ phi cơ Be-12
đầu tiên của không quân ta được thành lập, trực thuộc Trung đoàn 933 và đóng quân tại Kiến An. Đội ngũ dẫn đường
trên không Be-12 có các đồng chí: Dương Đình Chúc, Nguyễn Văn Cảm, Lê Quang Vỹ và Trần Quốc Dũng. Trong
tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 933 lúc này, ngoài đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy còn có thêm cả dẫn đường trên
không Ka-25 và Be-12.

Tháng 9 năm 1981, Phi đội An-2 của Trung đoàn 916 được điều về trực thuộc Sư đoàn 372, đóng quân tại
Vinh.

Như vậy, trong thời gian ngắn, nhiệm vụ của Ban dẫn đường Sư đoàn 372 tăng lên rất nhanh, tính chất ngày
càng phức tạp. Đồng chí Từ Đễ, một phi công bay giỏi, am hiểu nhiều về công tác dẫn đường cả trên không và sở chỉ
huy đã được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Dẫn đường sư đoàn.

Tháng 4 năm 1982, theo quyết định của Bộ Quốc phòng, Phi đội Ka-25 và Phi đội Be-12 được điều từ
Quân chủng Không quân về Quân chủng Hải quân. Do đó, trong Trung đoàn 933 chỉ còn lại MiG-17, nhưng số lượng
máy bay tốt bắt đầu giảm dần do hết niên hạn sử dụng. Năm 1983, Quân chủng Không quân điều Phi đội An-2 về trực
thuộc Trung đoàn 933 và đóng quân tại Kiến An (Sau này Quân chủng điều Phi đội An-2 về trực thuộc Cục Huấn
luyện-nhà trường). Tháng 4 năm 1984, trung đoàn được lệnh vào Biên Hoà chuyển loại MiG-21 và sau đó sẽ tiếp nhận
máy bay mới. Đầu năm 1987, Trung đoàn 933 thực hiện giải thể. Tháng 9 năm 1987, toàn bộ máy bay MiG-21 của
Trung đoàn 933 được chuyển vào cho Trung đoàn không quân 940. Đội ngũ trợ lý dẫn đường của trung đoàn được
điều về các ban dẫn đường hai sư đoàn 371, 372 và các tiểu ban dẫn đường hai trung đoàn 923, 940.

Vào tháng 7 năm 1987, cơ quan Sư đoàn 372 chuyển vị trí đóng quân từ Thọ Xuân vào Đà Nẵng và thay
thế Sư đoàn 370 làm nhiệm vụ ở miền Trung. Sư đoàn tổ chức tiếp nhận Trung đoàn 929 từ Sư đoàn 370. Trung tá Lê
Khương giữ chức Trung đoàn trưởng, thiếu tá Nguyễn Ngọc Trân, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị. Đồng chí Đinh
Văn Bính làm Trưởng Tiểu ban dẫn đường trung đoàn.

Sau hơn 2 năm được điều sang Quân chủng Hải quân, đến ngày 25 tháng 6 năm 1984, Phi đội Ka-25 và Phi
đội Be-12 được điều trở lại Quân chủng Không quân. Ngày 15 tháng 9 năm 1984, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành
lập Trung đoàn không quân-hải quân, mang phiên hiệu 954, trực thuộc Quân chủng Không quân và đóng quân tại Cát
Bi. Thiếu tá Bùi Tiến Dũng làm Quyền Trung đoàn trưởng, thiếu tá Hoàng Thái Mai làm Phó Trung đoàn trưởng về
chính trị, đại uý Dương Thành Thạo làm Phó Trung đoàn trưởng Tham mưu trưởng. Thiếu tá Linh Quang Đáp làm
Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn, Thượng uý Hoàng Minh Trọng làm Chủ nhiệm Dẫn đường Phi đội Ka-25 và
thượng uý Nguyễn Văn Cảm làm Chủ nhiệm Dẫn đường Phi đội Be-12. Trung đoàn nhanh chóng tổ chức bay huấn
luyện. Hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường của trung đoàn được tổ chức chặt chẽ và có trình độ đã tạo ra khả năng dẫn
bay tốt trên biển.

Ngày 12 tháng 11 năm 1988, Quân chủng Không quân ra quyết định điều Trung đoàn 954 từ trực thuộc
Quân chủng về trực thuộc Sư đoàn 372, hoạt động trên hai sân bay Cát Bi và Đà Nẵng. Trung tá Lê Đức Trường giữ
chức Trung đoàn trưởng, trung tá Vũ Văn Sông làm Phó Trung đoàn trưởng về chính trị, thiếu tá Phạm Văn Hoà làm
Phó Trung đoàn trưởng Tham mưu trưởng. Hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn tiếp tục được giữ vững và hoạt
động ổn định.

Ngày 25 tháng 11 năm 1988, tại Phan Rang, Quân chủng Không quân tổ chức lễ công bố quyết định khôi
phục phiên hiệu Trung đoàn không quân 937. Trung đoàn được trang bị máy bay tiêm kích bom mới Su-22M4, trực
thuộc Sư đoàn 372 và đóng quân tại Phan Rang. Thượng tá Âu Văn Hùng được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng,
Trung tá Nguyễn Mạnh Tùng làm Phó Trung đoàn trưởng về chính trị, trung tá Vũ Kim Điến làm Phó Trung đoàn
trưởng Tham mưu trưởng. Tiểu ban dẫn đường trung đoàn nằm trong Ban Tham mưu, thiếu tá Nguyễn Kim Cách giữ
chức Chủ nhiệm Dẫn đường. Sau khi được kiện toàn, tiểu ban dẫn đường bắt tay ngay vào tổ chức học tập chuyển
loại. Nội dung chuyển loại dẫn đường luôn được hoàn thành đúng kế hoạch đề ra. Trình độ dẫn bay của đội ngũ phi
công được giữ vững, khả năng bảo đảm dẫn đường của tiểu ban được củng cố đã góp phần cho trung đoàn thực hiện
tốt các nhiệm vụ bay ngay trong giai đoạn sau khi được khôi phục phiên hiệu.

Ngày 3 tháng 3 năm 1989, trung đoàn tiếp nhận 4 chiếc Su 22M4 đầu tiên tại Đà ng và tổ chức chuyển sân
về Phan Rang; ngày 17 tháng 4 năm 1989, bắt đầu tổ chức bay huấn luyện; cuối tháng 8 năm 1989, 7 chiếc Su-22M4
chuyển sân ra Thọ Xuân thực hiện bắn thử vũ khí mới. Từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 1989, trung đoàn triển
khai công tác chuẩn bị chiến đấu; ngày 19 tháng 10 năm 1989, đôi bay Su-22M4: Vũ Kim Điến và Nguyễn Văn Thận
hoàn thành xuất sắc chuyến bay nhiệm vụ đầu tiên ra Trường Sa; cuối tháng 10 năm 1989, 2 đôi bay Su-22M4:
Nguyễn Kim Cách - Trần Ngọc Đông và Nguyễn Văn Thận -Nguyễn Dương thực hiện bắn đạn thật tại trường bắn
Hòn Tý. Ngày 20 tháng 12 năm 1989, Trung đoàn 937 được Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ
quần đảo Trường Sa và vùng kinh tế biển phía nam để lực lượng của Trung đoàn 923 trở lại căn cứ Thọ Xuân.

Ngày 3 tháng 7 năm 1978, tại Cam Ranh, Trường Sĩ quan Không quân tổ chức lễ công bố quyết định của
Bộ Quốc phòng về việc thành lập Trung đoàn không quân 930 trên cơ sở hai đơn vị đã có từ trước là Đại đội 9 (bay
UH-1 và C-47) ở Nha Trang thuộc Trung đoàn không quân 920 và Tiểu đoàn 41 (sân bay Cam Ranh). Trung đoàn có
nhiệm vụ huấn luyện đào tạo phi công trực thăng UH-1. Đại uý Nguyễn Văn Nhậm được bổ nhiệm làm Trung đoàn
trưởng, đại uý Nguyễn Mạnh Thường làm Chính uỷ, đại uý Nguyễn Xuân Bính làm Tham mưu trưởng trung đoàn.
Trong Ban Tham mưu được biên chế 1 trợ lý dẫn đường là thiếu uý Nguyễn Văn Sinh. Năm 1981, trung đoàn được
trang bị Mi-8, thay cho UH-l và năm 1983, có thêm Mi-24. Chất lượng đào tạo tăng lên, nhiều học viên tốt nghiệp đạt
loại khá và giỏi.

Cuối tháng 5 năm 1979, Trường Sĩ quan Không quân tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Trung đoàn
không quân 940 tại sân bay Phan Rang. Trung đoàn có nhiệm vụ đào tạo Và bổ túc phi công MiG-17. Thiếu tá Triệu
Bội Ngọc được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Phạm Đình Tuân làm Chính uỷ, Thượng uý Nguyễn Văn
Nhật làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Trung uý Nguyễn Văn Khuê, giáo viên dẫn đường Trường Sĩ quan Không
quân được điều về làm trợ lý dẫn đường trung đoàn. Từ cuối tháng 4 năm 1979, Trung đoàn 923 đã chuyển 25 chiếc
MiG-17 vào cho Trung đoàn 940. Đây là điều kiện rất thuận lợi để trung đoàn bắt tay vào đào tạo huấn luyện học viên.
Đến cuối năm 1981, trung đoàn chuyển ra Phù Cát đóng quân.

Ngày 28 tháng 2 năm 1980, lễ công bố quyết định thành lập Trung đoàn không quân 945 (Quyết định thành
lập ngày 25 tháng 12 năm 1979 do Thượng tướng Trần Văn Trà, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký) được tổ chức trọng
thể tại sân bay Biên Hoà. Thiếu tá Trần Thông Hào được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại uý Nguyễn Văn Quặng
làm Chính uỷ, đại uý Nguyễn Văn Nhượng làm Phó Trung đoàn trưởng Tham mưu trưởng. Trung đoàn có nhiệm vụ
đào tạo phi công MiG-21. Trung uý Phạm Văn Hùng giữ chức Trưởng Tiểu ban dẫn đường trung đoàn. Trong khoá
đầu tiên đào tạo phi công, ngoài đội ngũ giáo viên của trung đoàn còn có 10 chuyên gia bay Liên Xô. Công tác bảo
đảm dẫn đường của Trung đoàn 945 luôn nhận được sự hỗ trợ tích cực của Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935. Đến
đầu tháng 6 năm 1981, 20 phi công MiG-21 khoá 1A và 1B đã được tốt nghiệp.

Từ ngày 1 tháng 1 năm 1981, Trường Sĩ quan Không quân chính thức được mang tên Trường Sĩ quan Chỉ
huy-Kỹ thuật không quân. Thượng tá Vũ Ngọc Đỉnh được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng, thượng tá Trương Minh Nghi
làm Chính uỷ. Các cơ quan của trường đều được kiện toàn. Khoa Dẫn đường ứng dụng chiến đấu và bảo đảm an toàn
bay do Thượng uý Lê Đình Vạn làm Phó Trưởng khoa, sau đó là Quyền Trưởng khoa. Trong khoa có 4 tổ giáo viên:
Dẫn đường, ứng dụng vũ khí, Huấn luyện-An toàn bay và Nguyên lý bay. Đồng chí Lê Đình Vạn kiêm Tổ trưởng Dẫn
đường, đồng chí Trần Ngọc Quyền là Tổ trưởng ứng dụng vũ khí, đồng chí Dương Đình Dũng là Tổ trưởng Huấn
luyện-An toàn bay và đồng chí Nguyễn Văn Phúc là Tổ trưởng Nguyên lý bay.

Ngày 8 tháng 10 năm 1981, theo quyết định của trên, Trung đoàn 910 ở Phan Rang và Trung đoàn 920 ở
Nha Trang thực hiện hợp nhất, mang tên chung là Trung đoàn không quân 910 và đóng quân tại Nha Trang. Trung
đoàn có nhiệm vụ đào tạo phi công. L-29 và L-39. Đồng chí Cấn Đỗ Kết được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đồng
chí Đỗ Tiến Vượng làm Phó Trung đoàn trưởng về chính trị, đồng chí Lữ Thông làm Tham mưu trưởng trung đoàn.
Đội ngũ dẫn đường được hợp nhất thành tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 910.

Tháng 11 năm 1981, Trung đoàn 945 chuyển toàn bộ lực lượng từ Biên Hoà ra Phan Rang đóng quân. Ngày
28 tháng 12 năm 1981, Trung đoàn 945 được đổi tên thành Trung đoàn không quân 920, nhưng vẫn giữ nguyên nhiệm
vụ đào tạo phi công MiG-21. Thượng uý Phạm Văn Hùng, Trưởng Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 945 được điều về
làm trợ lý dẫn đường Phòng Phương pháp bay. Trong gần 10 năm tại Phan Rang, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 920
luôn nỗ lực phục vụ bay, đóng góp công sức để trung đoàn hoàn thành 9 khoá đào tạo, được 118 phi công, 11 giáo viên
bay và 2 chỉ huy bay cấp trung đoàn… Vào các năm 1987, 1988, công tác dẫn đường của Trung đoàn 920 do đồng chí
Nguyễn Đức Sinh, Trưởng Tiểu ban dẫn đường và đồng chí Mai Văn Minh, Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn cùng
nhau đảm nhiệm thực hiện.

Tháng 9 năm 1985, do máy bay MiG-17 hết hạn sử dụng, Trung đoàn 940 đã thực hiện giải thể theo các
quyết định của cấp trên. Ngày 17 tháng 2 năm 1986, Trung đoàn không quân 940 được khôi phục trở lại, tiếp tục đóng
quân tại Phù Cát, nhưng thực hiện nhiệm vụ mới là sử dụng MiG-21Bis tiến hành huấn luyện bay đề cao cho đội ngũ
phi công mới tốt nghiệp ra trường. Trung tá Trần Văn Năm được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại uý Trần Văn
Lý làm Phó Trung đoàn trưởng về chính trị, thiếu tá Lưu Văn Hinh làm Phó Trung đoàn trưởng Tham mưu trưởng.
Thiếu tá Nguyễn Văn Thịnh giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường. Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 940 nhanh chóng được
kiện toàn. Tháng 10 năm 1986, Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật không quân điều thêm lực lượng khoảng một phi đội
do thiếu tá Nguyễn Văn Ớt chỉ huy, từ Trung đoàn 920 (Phan Rang) ra sáp nhập vào Trung đoàn 940. Tháng 12 năm
1986, đồng chí Đặng Văn Diệp giữ chức Trưởng Tiểu ban dẫn đường trung đoàn. Tháng 9 năm 1987, Quân chủng điều
toàn bộ máy bay MiG-21 của Trung đoàn 933 cho Trung đoàn không quân 940. Tiểu ban dẫn đường cũng được bổ
sung thêm một số trợ lý dẫn đường từ Trung đoàn 933. Khả năng bảo đảm dẫn đường tăng lên. Nhiệm vụ huấn luyện
bay đề cao được thực hiện vững chắc hơn.

Ngày 17 tháng 4 năm 1986, Quân chủng Không quân ra quyết định ngừng hoạt động của Trung đoàn không
quân 930 vì thiếu khí tài bảo đảm cho trực thăng huấn luyện và số lượng phi công trực thăng hiện tại so với biên chế
đã đáp ứng yêu cầu.

Tháng 4 năm 1980, chấp hành quyết định của Bộ Quốc phòng về việc thành lập Cục Quân huấn-Nhà
trường, Quân chủng Không quân điều Phòng Dẫn đường từ Bộ Tham mưu sang Cục Quân huấn-Nhà trường. Thiếu tá
Phan Phi Phụng được bổ nhiệm làm Trưởng phòng, Thiếu tá Nguyễn Xuân Hồng làm Phó Trưởng phòng Dẫn đường.
Nhiệm vụ chủ yếu của phòng là xây dựng kế hoạch huấn luyện dẫn đường cho đội ngũ phi công, dẫn đường trên
không và dẫn đường sở chỉ huy đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân chủng; cùng với Phòng
Nhà trường xây dựng chương trình đào tạo, bổ túc sĩ quan dẫn đường tại các nhà trường và tổ chức biên soạn các tài
liệu chuyên ngành.

Ngày 12 tháng 5 năm 1980, 7 sĩ quan dẫn đường của Phòng Dẫn đường trước đây được điều về Ban dẫn
đường thuộc Phòng Sở chỉ huy của Bộ Tham mưu để làm nhiệm vụ trực ban dẫn đường Sở chỉ huy Quân chủng. Đại
uý Tạ Quốc Hưng giữ chức Trưởng ban. Còn 3 trợ lý radar về Ban Kế hoạch thuộc Phòng Sở chỉ huy. Như vậy, ở cấp
quân chủng, Phòng Dẫn đường và Phòng Sở chỉ huy cùng tổ chức thực hiện nhiệm vụ dẫn đường, nhưng theo 2 mảng
công tác khác nhau.

Ngày 22 tháng 10 năm 1982, căn cứ vào quyết định của Quân chủng Không quân, Phòng Dẫn đường được
điều từ Cục Quân huấn-Nhà trường trở lại Bộ Tham mưu và đưa Ban dẫn đường thuộc Phòng Sở chỉ huy về Phòng
Dẫn đường. Trung tá Hoàng Cần được bổ nhiệm làm Quyền Trưởng phòng, thiếu tá Nguyễn Xuân Hồng làm Phó
Trưởng phòng. Phòng được biên chế 15 sĩ quan, thiếu tá Vũ Chính Nghị làm Trưởng ban Kế hoạch, thiếu tá Phạm
Minh Cậy làm Trưởng ban dẫn đường sở chỉ huy, thiếu tá Nguyễn Thanh Quý làm Thanh tra Dẫn đường không quân
tiêm kích. Đây là lần kiện toàn tổ chức rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho Phòng Dẫn đường tiếp tục hoàn
thiện chức năng, nhiệm vụ, biên chế tổ chức, chức danh và quân số của mình trong những năm tới.

Ngay sau khi về Bộ Tham mưu, Phòng Dẫn đường đã tham gia cuộc diễn tập C-3182 của Quân chủng từ
ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 1982. Với sự nỗ lực của toàn phòng, tất cả các văn kiện dẫn đường và các chuyến
bay thực binh trong diễn tập đều được hoàn thành tốt. Bước khởi đầu thuận lợi để phòng tiếp tục vươn lên.

Trong 2 năm 1983 và 1984, đội ngũ cán bộ phòng có nhiều thay đổi. Tháng 7 năm 1983, đại tá Hoàng Biểu,
Phó Tham mưu trưởng Quân chủng được cử kiêm chức Chủ nhiệm Dẫn đường Quân chủng. Tháng 12 năm 1983,
trung tá Hoàng Cần được điều sang làm Phó Trưởng phòng Tác chiến. Tháng 3 năm 1984, thiếu tá Vũ Chính Nghị
được bổ nhiệm Phó Trưởng hòng Dẫn đường Quân chủng. Tháng 4 năm 1984, thiếu tá Tạ Quốc Hưng, Phó Tham mưu
trưởng Sư đoàn Không quân 371 được điều về làm Phó Trưởng phòng Dẫn đường Quân chủng. Đến tháng 9 năm
1984, đại tá Nguyễn Văn Chuyên, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng được cử kiêm chức Trưởng phòng thay đại tá
Hoàng Biểu.

Ngày 25 tháng 6 năm 1985, Phòng Dẫn đường tiếp nhận toàn bộ sĩ quan dẫn đường thuộc Phòng Tham
mưu chiến dịch, bao gồm các đồng chí: Trần Hồng Hà, Dư Văn Thắng và Đoàn Đức Thuỷ.

Từ năm 1984, Phòng Dẫn đường được biên chế tổ tiêu đồ gần, gồm 4 chiến sĩ, làm nhiệm vụ đánh dấu
đường bay trên bàn dẫn đường tại Sở chỉ huy Quân chủng. Phòng thường xuyên làm tốt công tác quản lý chiến sĩ
trong suốt thời gian làm nghĩa vụ quân sự, tổ chức đào tạo, huấn luyện và đưa vào trực với chất lượng cao. Được rèn
luyện có nền nếp, đội ngũ tiêu đồ gần của phòng luôn giữ vững trình độ chuyên môn, phục vụ đắc lực cho công tác
dẫn đường tại sở chỉ huy. Nhờ đó, có chiến sĩ đã được kết nạp vào Đảng.

Ngày 20 tháng 4 năm 1985, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trường đào tạo, bổ túc cán bộ trung,
cao cấp không quân trên cơ sở Trường Sĩ quan Tham mưu không quân, gọi tắt là Trường Trung cao không quân, trực
thuộc Quân chủng Không quân. Ngày 18 tháng 5, Quân chủng đề nghị Bộ Tổng Tham mưu ban hành tổ chức biên chế
Trường Trung cao không quân. Đại tá Lê Liên được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng. Trong khoa Chỉ huy-Tham mưu có
hai giáo viên dẫn đường là Nguyễn Kim Khuê và Tạ Văn Vượng.

Ngày 15 tháng 2 năm 1986, Hiệu trưởng Trường Trung cao không quân ký quyết định thành lập các đơn vị
thuộc Trường: Khoa Chỉ huy-Tham mưu được tách thành 2 khoa: Chiến thuật-Chiến dịch do thiếu tá Phạm Từ Tịnh
làm Quyền Trưởng khoa và Chỉ huy-Tham mưu do trung tá Trần Hùng làm Trưởng khoa. Trong khoa Chỉ huy- Tham
mưu có 2 tổ bộ môn là: Tham mưu do thiếu tá Vi Quốc Ân làm Tổ trưởng và Dẫn đường do thiếu tá Tạ Văn Vượng
làm Tổ trưởng. Đồng chí Nguyễn Đăng Điển làm giáo viên dẫn đường. Đồng chí Trần Xuân Mão được bổ nhiệm làm
Hệ trưởng hệ Đào tạo và đồng chí Nguyễn Kim Khuê chuyển sang làm công tác kế hoạch huấn luyện. Bộ môn Dẫn
đường tuy nhỏ, số lượng giáo viên còn rất thiếu, nhưng ngay trong năm học đầu tiên 1985-1986 đã hoàn thành tốt
nhiệm vụ giảng dạy cho các khoá đào tạo và bổ túc sĩ quan chỉ huy, tham mưu cấp chiến thuật- chiến dịch. Trong
những năm tiếp theo, bộ môn Dẫn đường tiếp tục được kiện toàn. Các đồng chí Đỗ Duy Đán, Nguyễn Xuân Thông, Lê
Đình Vạn và Trần Xuân Mão (sau khi thôi làm Hệ trưởng hệ Đào tạo) lần lượt được bổ sung vào đội ngữ giáo viên
dẫn đường. Bộ môn không ngừng phấn đấu vươn lên, vừa giảng dạy vừa biên soạn tài liệu và thường xuyên tham gia
các lớp bồi dưỡng kiến thức giảng dạy bậc đại học.

Trong suốt chặng Đường 15 năm, từ đầu năm 1975 đến cuối năm 1989, ngành Dẫn đường vinh dự, tự hào
được có mặt trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, hoàn thành nhiệm vụ dẫn bay vận chuyển đường không
phục vụ tác chiến thần tốc và bảo đảm dẫn đường cho phi đội Quyết thắng tiến công tập kích vào sào huyệt của địch;
tiếp tục vừng bước dẫn bay chi viện hoả lực cho bộ đội các quân khu, quân đoàn và quân chủng bảo vệ biên giới Tây
Nam của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia; nhanh chóng tổ chức bảo đảm dẫn đường cho các lực
lượng không quân cơ động bố trí thế trận chuẩn bị chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc, bảo vệ vùng biển, hải đảo và
thềm lục địa phía Nam.

Ngành Dẫn đường đã tổ chức khai thác triệt để các thiết bị, phương tiện kỹ thuật dẫn bay thu được của
địch, nắm vững cách dẫn các loại máy bay và trực thăng cũng thu được của địch, cùng với đội ngũ phỉ công góp phần
quan trọng đưa cách đánh của không quân chi viện hoả lực trên chiến trường phía nam lên một tầm cao mới.

Ngành Dẫn đường đã tập trung sức lực học tập chuyển loại nhanh chóng làm chủ cách dẫn các loại máy
bay và trực thăng mới, kịp thời cùng đội ngữ phi công tham gia chiến đấu ở phía Nam, cơ động chuẩn bị chiến đấu
trên hướng bắc và trên hướng biển phía Nam.

Đội ngũ dẫn đường trong toàn ngành thường xuyên được rèn luyện, có đủ chất lượng và số lượng đáp ứng
yêu cầu các nhiệm vụ được giao. Hoạt động của toàn ngành luôn gắn liền với Điều lệ công tác dẫn đường. Đây là
những yếu tố quan trọng để ngành Dẫn đường vững tin bước sang giai đoạn mới: xây dựng Quân chủng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Chương 4.
NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG QUÂN CHỦNG KHÔNG QUÂN VÀ
QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG-KHÔNG QUÂN CÁCH MẠNG, CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, TỪNG BƯỚC
HIỆN ĐẠI (1990 - 2004)

I. NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG QUÂN CHỦNG KHÔNG QUÂN CÁCH
MẠNG, CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, TỪNG BƯỚC HIỆN ĐẠI (1990-1999)

1. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Để tiếp tục củng cố và tăng cường khả năng tác chiến hiệp đồng trên hướng biển, cuối tháng 4 năm 1990 tại
khu vực Cam Ranh, Quân chủng Không quân tham gia diễn tập tác chiến hiệp đồng giữa các lực lượng làm nhiệm vụ
chi viện, bảo vệ quần đảo trọng điểm và thềm lục địa phía Nam (RS-90) do Bộ Tổng Tham mưu tổ chức. Cơ quan hai
sư đoàn 370, 372 và các trung đoàn 937, 954, 918 tập trung tại Phan Rang tham gia diễn tập trong hai ngày 23 và 24
tháng 4 năm 1990. Đội ngũ dẫn đường đã hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập. Trong giai đoạn thực binh, có hai tổ bay:
lái chính Trần Quang Huy-dẫn đường trên không số 1 Lê Quang Vỹ-dẫn đường trên không số 2 Lưu Đức Bột và lái
chính Nguyễn Đình Tài-dẫn đường số 1 Trương Quang Minh-dẫn đường số 2 Nguyễn Bá Thuý. Đây là lần đầu trực
thăng Ka-28 bay và hạ cánh an toàn trong niềm hân hoan chào đón của bộ đội bảo vệ đảo. Cuộc diễn tập kết thúc tốt
đẹp, trong đó nhiệm vụ dẫn đường trên biển xa đã được hoàn thành xuất sắc.

Ngày 25 tháng 8 năm 1992, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị tổ chức diễn tập thực nghiệm (TN-92) kiểm tra
phương án bảo vệ đảo Phú Quốc, vùng biển và hải đảo Tây nam của các lực lượng vũ trang Quân khu 9, Quân chủng
Hải quân, Không quân và Phòng không. Cuộc diễn tập diễn ra trong 5 ngày, từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 10 năm
1992, trên địa bàn 4 tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang và Minh Hải. Từ sân bay Cần Thơ các loại máy bay và
trực thăng được dẫn bay thực binh làm nhiệm vụ trinh sát, ném bom, quan sát, vận chuyển, chuyển tiếp chỉ huy, tìm
kiếm-cứu nạn trên biển và chở cán bộ đi kiểm tra diễn tập.
Từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 5 năm 1994, Quân chủng Không quân tổ chức diễn tập chỉ huy-tham mưu có
một phần thực binh cho Cụm không quân phía nam với đề mục "Sư đoàn Không quân 370 và các lực lượng phát thuộc
hiệp đồng chặt chẽ với hải quân và các lực lượng vũ trang khác tác chiến bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế biển" (ĐB-
94). Thiếu tướng Phạm Thanh Ngân, Tư lệnh Quân chủng Không quân là Trưởng ban chỉ đạo diễn tập. Đại tá Phạm
Phú Thái, Phó tư lệnh-tham mưu trưởng Quân chủng là đạo diễn chính. Lực lượng của Cụm không quân phía Nam
tham gia diễn tập gồm: cơ quan Sư đoàn 370, 2 phi đội của Trung đoàn 935, 1 phi đội của Trung đoàn 937, 1 phi đội
của Trung đoàn 917, 1 phi đội của Trung đoàn 954 và 1 phi đội An-26 của Trung đoàn 918. Sở chỉ huy diễn tập đóng
tại Phan Rang. Nhiệm vụ dẫn bay thực binh như dẫn đánh mục tiêu trên không, trinh sát đường không, phối hợp với
hải quân đánh các mục tiêu trên mặt biển và ngầm dưới biển; chuyển tiếp chỉ huy, tiếp tế đường không và tìm kiếm-
cứu nạn trên biển đã được hoàn thành tốt và đảm bảo an toàn tuyệt đối.

Đầu tháng 10 năm 1994, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức diễn tập hiệp đồng chiến đấu trong chiến dịch phòng
thủ tích cực thời gian đầu chiến tranh trên địa bàn Quân khu 7 (PT-94). Quân đoàn 4, Vùng 4 Hải quân, Sư đoàn
phòng không 367, Sư đoàn Không quân 370 và lực lượng vũ trang Quân khu 7 tham gia diễn tập. Thời gian diễn tập từ
ngày 5 đến ngày 12 tháng 10 năm 1994. Đội ngũ dẫn đường Sư đoàn 370 dẫn bay hợp luyện và thực binh đúng kế
hoạch, dẫn trực thăng có lắp đặt thiết bị truyền hình để truyền trực tiếp tình hình diễn tập từ trên không về sở chỉ huy
Bộ Tổng Tham mưu. Dẫn đường trên không An-26 thực hiện dẫn bay trinh sát, chuyển tiếp chỉ huy, vận chuyển đường
không và tìm kiếm-cứu nạn đúng yêu cầu của đạo diễn đề ra.

Chấp hành chỉ thị ngày 27 tháng 3 năm 1995 của Tổng tham mưu trưởng, Quân chủng Không quân tham
gia biên tập bảo vệ quần đảo trọng điểm và thềm lục địa phía nam giữa các lực lượng hải quân, không quân, phòng
không, đặc công và thông tin liên lạc (BM-94/95). Tham gia cuộc diễn tập này còn có Bộ Giao thông vận tải và Bộ
Thuỷ sản, các tổng cục: Dầu khí và Bưu điện. Khu vực diễn tập là vùng biển phía Đông Nam.

Quân chủng Không quân đưa toàn bộ lực lượng của Sư đoàn 370, một phần lực lượng của Trung đoàn 918
và Công ty bay Nam vào tham gia diễn tập từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 5 năm 1995. Sở chỉ huy phía trước Quân
chủng và Sư đoàn 370 được triển khai tại Phan Rang. Đại tá Từ Đễ, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng là Tham mưu
trưởng diễn tập. Tất cả các chuyến bay thực binh đánh mục tiêu trên không, trinh sát đường không, chi viện hoả lực
cho hải quân đều được dẫn chính xác, đúng thời gian.

Từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 9 năm 1995, Quân chủng Không quân tổ chức diễn tập chỉ huy-tham mưu, 2
cấp 1 bên, có một phần thực binh cho Sư đoàn 371, với đề mục: Chống tập kích hoả lực đường không thời kỳ đầu
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (PĐ-95). Các tình huống trên không về quân xanh được Phòng Trinh sát và Dẫn đường
chuẩn bị rất công phu và mã hoá rất chi tiết. Cách phát tình báo giống như thực tế, cả trên mạng Bi và mạng tiêu đồ
gần. Phòng Dẫn đường chịu trách nhiệm tổ chức phát tình báo gần từ các phòng đáy. Tại phòng đáy cho Sư đoàn 371
có các đồng chí đại tá Vũ Chính Nghị, trung tá Nguyễn Văn Nhâm và trung tá Lưu Thế Nghiệp, tại phòng đáy cho
Trung đoàn 921 có Thiếu tá Trần Văn Quang và cho Trung đoàn 927 có trung tá Nguyễn Tuấn Long. Khi quân xanh
vào đến tầm bắt của radar dẫn đường thuộc đơn vị nào thì sĩ quan dẫn đường tại phòng đáy cho đơn vị đó phát tình
báo gần, đồng thời thu trực tiếp khẩu lệnh dẫn của đơn vị tập, tạo vết bay quân đỏ và phát ngay tình báo đó trở lại cho
đơn vị tập. Với cách thức phát tình báo như trên, các tình huống của Ban Chỉ đạo diễn tập trở nên rất sống động, chất
lượng xử lý của người tập được nâng lên rõ rệt. Đây là một trong những thành công của Phòng Dẫn đường trong lần
diễn tập này.
Trong giai đoạn bay thực binh, Quân chủng Không quân sử dụng lực lượng của Trung đoàn 92 1 và lực
lượng của Trung đoàn 916 làm quân xanh. Bên quân đỏ lần lượt cho lực lượng của mình cất cánh đánh vào các mục
tiêu giả định làm tên lửa hành trình, máy bay mang bom, lực lượng đổ bộ đường không chiến thuật và tổ chức bay tìm
kiếm-cứu nạn. Các chuyến bay của quân đỏ đều được dẫn chính xác, phát hiện sớm, công kích tốt và bảo đảm an toàn.

Ngày 24 tháng 2 năm 1997, Trung tướng Phạm Thanh Ngân, Tư lệnh Quân chủng Không quân ra Chỉ thị số
07/CT-QCKQ về việc chuẩn bị lực lượng tham gia diễn tập bảo vệ vùng biển, hải đảo và thềm lục địa phía Nam (BĐ-
97) do Bộ Tổng Tham mưu tổ chức. Đây là cuộc diễn tập có quy mô lớn nên được phân ra làm nhiều giai đoạn khác
nhau. Ngày 17 tháng 3 năm 1997, trong đoàn công tác của Bộ Tham mưu Quân chủng, đại tá Vũ Chính Nghị, Chủ
nhiệm Dẫn đường Quân chủng, tổ chức quán triệt ý định diễn tập và phổ biến nội dung công tác dẫn đường trong các
giai đoạn diễn tập cho Ban dẫn đường Sư đoàn 370. Đầu tháng 4 năm 1997, Bộ Tham mưu lập kế hoạch tổng thể;
tháng 5, làm kế hoạch huấn luyện phân đoạn trong Quân chửng; tháng 7, làm kế hoạch hiệp đồng huấn luyện phân
đoạn giữa Quân chủng Không quân và Quân chủng Hải quân.

Đầu tháng 9 năm 1997, Sư đoàn 370 triển khai thực hiện huấn luyện phân đoạn giai đoạn 2. Đây là giai
đoạn rất quan trọng của cuộc diễn tập. Sáng ngày 14 tháng 9 năm 1997, Trung đoàn không quân 937 cho đôi bay Võ
Văn Tuấn-Đỗ Văn Đức bay tuần tiễu trên vùng trời khu vực quy định Qua chuyến bay này, công tác dẫn bay trên biển
xa đã góp phần khẳng định khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, hải đảo và thềm lục địa phía Nam của
không quân ta, trong đó có lực lượng không quân tiêm kích tầm xa. Chiều 14 tháng 9, bay tuần tiễu trên vùng trời DK-
1 Ngày 15 tháng 9 năm 1997, Trung đoàn 917 cho 2 tổ bay: Lái chính Đỗ Văn Thân-dẫn đường trên không Nguyễn
Danh Đoan-cơ giới trên không Trần Ngọc Phú và lái chính Lê Việt Thắng-dẫn đường trên không Trần Như Vi-cơ giới
trên không Nguyễn Xuân Toàn cất cánh và hạ cánh đúng quy định. Ngay ngày hôm sau, 2 tổ bay trên lại cất cánh bay
ra DK-1-11. Các đồng chí Nguyễn Danh Đoan và Trần Như Vi đã sử dụng thành thạo các thiết bị dẫn bay truyền thống
và hệ thống định vị vệ tinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Cuối tháng 10 năm 1997, Trung đoàn 937 cơ động 10 một lực lượng vào Biên Hoà. Ngày 4 tháng 11, các
đơn vị nhận lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và bước vào diễn tập. Máy bay thực hiện trinh sát chụp ảnh,
trực thăng vận chuyển sở chỉ huy phía trước Vùng 3 Quân chủng Hải quân đến vị trí quy định và máy bay vận tải thả
hàng tiếp tế. Ngày 8 tháng 11, 3 đôi bay: Nguyễn Ngọc Hiền-Nguyễn Văn Dương, Lâm Quang Đại-Lê Trọng Tư,
Nguyễn Xuân Vọng-Nguyễn Văn Thuần thực hành đánh các mục tiêu trên biển ở trường bắn đảo Côn Sơn. Cuộc diễn
tập kết thúc. Công tác dẫn bay trên biển xa được hoàn thành với chất lượng cao. Trình độ dẫn bay của đội ngũ dẫn
đường và phi công tham gia diễn tập đã phản ánh đúng kết quả huấn luyện và sự tập trung cao độ trong chuẩn bị dẫn
đường trước những nhiệm vụ bay phức tạp do diễn tập đề ra.

Từ ngày 3 đến ngày 8 tháng 7 năm 1998, Quân chủng Không quân tham gia diễn tập hiệp đồng tác chiến
bảo vệ vùng biển, hải đảo và thềm lục địa phía Nam (BM-98A) do Bộ Tổng Tham mưu tổ chức. Toàn bộ lực lượng
của Sư đoàn 370 và Phi đội 2, Trung đoàn 918 được đưa vào tham gia diễn tập. Công tác dẫn đường được tập trung
vào bảo đảm cho bay trinh sát trên biển, chì viện hoả lực cho hải quân; bay yểm hộ cho hải quân và bay tìm kiếm-cứu
nạn trên biển. Ngày 6 tháng 7, trong khi làm nhiệm vụ trên biển xa, một máy bay tham gia diễn tập đã gặp nạn. Ngay
lập tức phương án tìm kiếm-cứu nạn trên biển được tổ chức thực thi. Chủ nhiệm Dẫn đường Quân chủng cùng với kíp
trực ban dẫn đường Trung đoàn 937 khẩn trương khoanh vùng khu vực xảy ra tai nạn, phân chia thành từng ô với các
mức độ ưu tiên tìm kiếm-cứu nạn khác nhau. Đội ngũ dẫn đường trên không liên tục thay nhau dẫn bay nhiều chuyến
trong khu vực xảy ra tai nạn, quyết tìm cứu bằng được phi công, nhưng không thu được kết quả Đây là tổn thất rất lớn
cả về người và trang bị xảy ra trong diễn tập.

Từ ngày 11 đến ngày 18 tháng 11 năm 1998, Quân chủng Không quân tham gia diễn tập phòng thủ quân
khu thời kỳ đầu chiến tranh (PT-98) khu vực Đông Bắc.

Thượng tướng Nguyễn Chơn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng là Tư lệnh diễn tập. Các máy bay của Trung
đoàn 921 và trực thăng của Trung đoàn 916 tham gia diễn tập đã được dẫn bay thực binh đúng ý định của ban chỉ đạo.
Cuộc diễn tập đã kiểm tra toàn diện kế hoạch bảo đảm dẫn đường thời kỳ đầu chiến tranh, phương pháp tổ chức chuẩn
bị, thực hành và hiệp đồng dẫn bay của các lực lượng dẫn đường không quân khi tham gia tác chiến phòng thủ quân
khu thời kỳ đầu chiến tranh.

Ngày 5 tháng 4 năm 1999, Thiếu tướng Nguyễn Đức Soát Tư lệnh Không quân chỉ thị cho Sư đoàn 370 và
Trung đoàn 918 tham gia diễn tập hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng ba quân chủng Hải quân, Không quân và Phòng
không bảo vệ vùng trời, vùng biển và thềm lục địa phía nam (RS-99).

Cuộc diễn tập diễn ra trong hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 1999 do Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp chỉ huy.
Giai đoạn thực binh các loại máy bay được dẫn chuẩn xác làm các nhiệm vụ: đánh mục tiêu trên không, trên biển; bay
trinh sát chụp ảnh, quan sát trên biển; yểm hộ cho các đơn vị hải quân, tìm kiếm-cứu nạn trên biển và tham gia chống
bạo loạn lật đổ bảo vệ địa bàn được giao.

Sau khi Quân chủng Không quân điều Trung đoàn 937 về trực thuộc Sư đoàn 370, Bộ Tham mưu đã chỉ
đạo các ngành kiểm tra, rà soát các văn kiện chiến đấu đã được xây dựng, tiến hành bổ sung, hiệu chỉnh các nội dung
theo đúng phạm vi vùng trời trách nhiệm của sư đoàn được giao. Cuối năm 1990, ngành Dẫn đường đã thực hiện hiệu
chỉnh lại nhiệm vụ bảo đảm dẫn đường, phạm vi tổ chức chỉ huy-dẫn đường và triển khai đội ngũ dẫn đường theo từng
nhiệm vụ chiến đấu giữa hai sư đoàn 370.

Cuối năm 1995, căn cứ vào Quyết tâm tác chiến của Tư lệnh Quân chủng Không quân, Phòng Dẫn đường
thực hiện làm các văn kiện bảo đảm cho nhiệm vụ tác chiến phòng thủ quần đảo và thềm lục địa phía Nam. Ngày 13
tháng 12 năm 1995, Bộ Tham mưu Quân chủng ra chỉ thị bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ trên. Trong chỉ thị này các
biện pháp bảo đảm dẫn đường được triển khai nhất quán theo các tình huống đã được xác định trong kế hoạch tác
chiến chung của Quân chủng. Các ban và tiểu ban dẫn đường trong toàn ngành cũng đã chuẩn bị tốt các văn kiện bảo
đảm theo đúng hướng dẫn của cơ quan tác chiến Chấp hành chỉ thị của Quân chủng Không quân về việc tham gia bay
duyệt binh nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945-1995), Trung đoàn
916 nhanh chóng lựa chọn các tổ bay, tổ chức bay huấn luyện và chuẩn bị đường bay duyệt binh.

Sáng ngày 2 tháng 9 năm 1995, đội hình 5 chiếc Mi-17 chỉnh tề, thông qua quảng trường Ba Đình hai lần
đúng thời gian và vị trí quy định. Dẫn đầu đội hình Mi-17 là tổ bay của lái chính Đinh Phương Tâm và dẫn đường trên
không Phạm Văn Thường, bay số 2 là lái chính Nghiêm Quang Khải và dẫn đường trên không Nguyễn Ngọc Hà, bay
số 3: lái chính Nguyễn Văn Ngần và dẫn đường trên không Dương Văn Yên, bay số 4: lái chính Nguyễn Ngọc Vi và
dẫn đường trên không Văn Đức Huyên và bay số 5: lái chính Trần Văn Tâm và dẫn đường trên không Bùi Văn Vanh.
Tại đài chỉ huy bay ở Ba đình, thượng tá Trần Văn Thiếu, Phó Trưởng phòng Thanh tra-An toàn bay chịu trách nhiệm
chỉ huy bay và đại tá Vũ Chính Nghị, Trưởng phòng Dẫn đường, giúp chỉ huy bay bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ
bay duyệt binh.
Tháng 8 năm 1996, lũ quét xảy ra tại Mường Lay (Lai Châu). Sau khi nhận nhiệm vụ, TỔ bay Mi-17: Lái
chính Trần Văn Tâm-dẫn đường trên không Phạm Văn Bất-cơ giới trên không Tạ Văn Thi của Trung đoàn 916 tiến
hành chuyển sân gấp lên Điện Biên. Tổ bay liên tiếp thực hiện các chuyến bay vận chuyển hàng cứu trợ từ Điện Biên
tới các điểm bị lũ quét và chở đồng bào bị nạn từ Lai Châu về Điện Biên.

Trong quá trình bay vận chuyển hàng cứu trợ, tổ bay được lệnh chuyển sang làm nhiệm vụ bay chuyên cơ
đột xuất. Công tác chuẩn bị được triển khai hết sức nghiêm túc và chu đáo. 13 giờ 20 phút, ngày 22 tháng 8 năm 1996,
tổ bay cất cánh từ Điện Biên đưa Phó Thủ tướng Phan Văn Khải và đoàn công tác vào khu vực xảy ra lũ quét, kịp thời
đáp ứng yêu cầu chỉ đạo khắc phục khó khăn cho đồng bào ở Mường Lay. Nhiệm vụ dẫn bay vận chuyển hàng cứu trợ
và dẫn bay chuyên cơ đột xuất ở xa đơn vị đã đồng thời được hoàn thành xuất sắc.

Đầu tháng 11 năm 1997, cơn bão số 5 (Lin Đa) tàn phá nặng nề các tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ, gây
thiệt hại lớn về người và tài sản của nhân dân, nhất là đối với ngư dân. Bão vừa đi qua, ngay sáng 3 tháng 11, 5 tổ bay
trực thăng Mi-8 của Trung đoàn 917 cơ động chuyển sân xuống Cần Thơ làm nhiệm vụ bay tìm kiếm ngư dân bị nạn
trên biển và cứu trợ đồng bào các vùng bị bão tàn phá. Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 11, đội ngũ dẫn đường trên không
của 5 tổ bay đã thực hiện dẫn 47 chuyến, thả 200 phao cứu sinh, gần 9 tấn hàng cứu trợ và hàng chục chuyến bay
chuyên cơ, bay nhiệm vụ chở các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Uỷ ban phòng chống lụt bão Trung ương đi kiểm tra
các khu vực bị bão tàn phá, chỉ đạo khắc phục hậu quả sau cơn bão và thăm hỏi đồng bào bị nạn.

Ngày 8 tháng 5 năm 1995, tổ bay Super Puma L-2 (trực thăng số 8608): Lái chính (phi công thứ nhất)
Phạm Viết Thích-dẫn đường trên không (phi công thứ hai) Nguyễn Văn Vinh-cơ giới trên không Tô Trung Nhuận của
Công ty bay Nam, cất cánh từ Vũng Tàu, chở Phó Thủ tướng Trần Đức Lương ra thăm và làm việc tại đảo Trường Sa.
Với cự ly bay 545km trên biển, tổ bay đã thực hiện dẫn bay chính xác và bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Ngày 13 tháng 8 năm 1995, tổ bay Mi-8 do lái chính Hà Tiến Dũng chỉ huy, dẫn đường trên không Phạm
Văn Bất và tổ bay Mi-17 do lái chính Trần Đình Long, dẫn đường trên không Bùi Văn Vanh của Trung đoàn 916 đón
đoàn của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười, cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nguyễn Văn Linh và các đồng chí
lãnh đạo tại Bạch Mai đưa lên Tân Trào, về thăm nơi cội nguồn của cách mạng trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám.

Ngày 20 tháng 8 năm 1995, khi đồng chí Đặng Quân Thuỵ, Phó Chủ tịch Quốc hội đang ở thăm khu vực
Bắc Quang (Tuyên Quang) thì trời đổ mưa rất to làm toàn bộ đường ô tô bị tắc nghẽn. Công ty bay Bắc được giao
nhiệm vụ khẩn cấp và sau 45 phút chuẩn bi, tổ bay Mi-17: Lái chính Nguyễn Huy Cương-dẫn đường trên không Hà
Xuân Hải-cơ giới trên không Nguyễn Văn Mại đã cất cánh từ Gia Lâm đi Bắc Quang, hạ cánh xuống sân vận động Sư
đoàn 2 (Quân khu 1) và đón đồng chí Đặng Quân Thuỵ về Bạch Mai an toàn trong điều kiện thời tiết rất xấu.

Ngày 18 tháng 7 năm 1996, tổ bay Super Puma L-2: Lái chính (phi công thứ nhất) Lê Trọng Đông-dẫn
đường trên không (phi công thứ hai) Nguyễn Văn Vinh-cơ giới trên không Tô Trung Nhuận của Công ty bay Nam
nhận nhiệm vụ đưa đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười ra thăm và làm việc tại Côn Đảo.

Ngày 17 tháng 1 năm 1998, tổ bay Mi-8: Lái chính Nguyễn Thanh Mua-dẫn đường trên không Nguyễn
Danh Đoan-cơ giới trên không Trần Ngọc Phú của Trung đoàn 917 chở Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đi thăm và làm việc
nhiều tỉnh ở Nam Bộ. Tuy điều kiện thời tiết không ổn định, nhưng tổ bay đã thực hiện bay liên tiếp nhiều chuyến, bảo
đảm đưa đoàn đến đúng thời gian, đúng địa điểm làm việc Tổ bay Nguyễn Thanh Mua - Nguyễn Danh Đoan - Trần
Ngọc Phú rất vinh dự được Tổng Bí thư khen ngợi.
Từ tháng 4 năm 1990, Công ty bay dịch vụ miền Bắc bắt đầu tổ chức thực hiện nhiệm vụ bay phục vụ
chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tích ở Việt Nam (bay MIA). Sáng 18 tháng 4 năm 1990, tổ bay Mi-8: Lái chính
Hà Văn Tập-dẫn đường trên không Lại Khắc Thắng-cơ giới trên không Tô Trung Nhuận cất cánh từ Đồng Hới, thực
hiện chuyến bay MIA đầu tiên tại một bãi nằm chênh vênh trên sườn núi ở độ cao 900m, thuộc tỉnh Quảng Trị. Trước
đó chiều 15 tháng 4, tổ bay Mi-8, sau khi được Công ty bay dịch vụ miền Nam tạm điều bổ sung đồng chí Lại Khắc
Thắng, đã nhanh chóng tiếp nhận chiếc Mi-8 vừa được đại tu xong và tiến hành bay chuyển sân từ Vũng Tàu ra Nha
Trang, Đà Nẵng, rồi hạ cánh xuống Đồng Hới. Tại đây, công tác dẫn bay cho nhiệm vụ được tổ chức chuẩn bị chu đáo
và tỉ mỉ. Sau hơn 10 ngày làm việc, tổ bay hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao và chuyển sân ra Gia Lâm. Đợt bay MIA
đầu tiên giành thắng lợi đã mở ra cho Công ty bay Bắc một hướng hoạt động đầy triển vọng.

Năm 1991, công ty thực hiện gần 100 giờ bay MIA. Từ năm 1992, nhiệm vụ bay MIA tăng nhanh, địa bàn
hoạt động được mở rộng, bao gồm cả các tỉnh trên vùng rừng núi phía bắc và cao nguyên Trung Bộ. Theo hợp đồng đã
được ký kết, Công ty bay Bắc sẽ triển khai bay MIA trong 3 đợt liên tiếp: Đợt 1 từ ngày 1 tháng 6 đến 30 tháng 9 năm
1992, đợt 2 từ ngày 1 tháng 10 năm 1992 đến 30 tháng 9 năm 1993 và đợt 3 từ ngày 1 tháng 10 năm 1993 đến ngày 30
tháng 9 năm 1994. Trong đợt 2 và đợt 3, do khối lượng công việc rất lớn, được Quân chủng Không quân cho phép,
Tổng công ty bay đã sử dụng lực lượng bay MIA của cả Công ty bay Bắc, Công ty bay Nam và Trung đoàn 916, bố trí
trên 3 sân bay Gia Lâm, Đồng Hới và Đà Nẵng. Đội ngũ dẫn đường trên không đã cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm,
phát huy cao độ năng lực độc lập công tác, nhất là trong xử lý các tình huống dẫn bay khi gặp thời tiết đột biến xấu.
Cuối năm 1992, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, tổ bay do lái chính Hà Văn Tập chỉ huy, đưa đoàn MIA lên bãi Trà
Hy. Vào buổi sáng, thời tiết hoàn toàn bình thường. Đến buổi chiều, khi chuẩn bị về, mây đen đột ngột kéo đến, phủ
kín cả thung lũng. Nếu ở lại bãi sẽ rất phức tạp. Mọi người khẩn trương thu dọn đồ đạc lên trực thăng. Lái chính quyết
định cất cánh, dẫn đường trên không dẫn xuyên lên và đến độ cao 3.700m mới ra khỏi mây. Trên đường về Đà Nẵng,
gặp trời mưa rất to trên diện rộng, dẫn đường phải dẫn vòng tránh nhiều lần và xuống đến tận bờ biển Quảng Ngãi mới
ra khỏi vùng thời tiết nguy hiểm. Nhưng lượng dầu còn lại rất ít. Với tính toán hợp lý của dẫn đường và điều khiển
chính xác của lái chính, sau khi trực thăng hạ cánh xong thì hết dầu. Đây là một trong những chuyến bay điển hình nói
lên công tác bảo đảm an toàn dẫn bay không thể chủ quan.

Ngày 26 tháng 9 năm 1994, tổ bay Mi-17: Lái chính Nguyễn Huy Cương-dẫn đường trên không Nguyễn
Khắc Sáng-cơ giới trên không Nguyễn Văn Mại thực hiện chuyến bay chở trợ lý ngoại trưởng Mỹ từ Đà Nẵng lên cửa
khẩu Lao Bảo để kiểm tra việc thực thi chương trình MIA của phía Mỹ. Từ ngày 1 tháng 10 năm 1994 trở đi, nhiều
đợt bay MIA tiếp tục được tổ chức thực hiện, công tác dẫn bay tiếp tục được phát huy góp phần nâng cao chất lượng
hoàn thành nhiệm vụ.

Ngoài nhiệm vụ bay MIA, Công ty bay Bắc còn thực hiện tốt các chuyến bay khác như chở đoàn đua mô tô
của Pháp, gặp lũ lụt ở Hà Tĩnh ra Hà Nội (giữa năm 1993), chở khách du lịch đi Hạ Long, Móng Cái (tháng 9 năm
1995), chở đá đến Khâm Đức phục vụ chống sụt lở các cột điện cao thế số 515 - 514 của đường dây 500KV (cuối
tháng 10 năm 1996) và tham gia bay dịch vụ dầu khí ở phía nam (1997).

2. Hội thao, hội thi dẫn đường và hội thi tiêu đồ gần không quân.

Trong kế hoạch công tác năm 1993, hội thao dẫn đường Quân chủng Không quân là một trong những nội
dung rất quan trọng của toàn ngành Dẫn đường. Được sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng Bộ Tham mưu, ngay từ đầu
năm, Phòng Dẫn đường đã từng bước làm rõ được 3 vấn đề chính là thành phần của một đội tuyển, nội dung thi đối
với từng thành phần khác nhau trong một đội tuyển và số lượng đội tuyển tham gia hội thao. Công việc chuẩn bị cho
hội thao được các tổ chuyên trách của Phòng Dẫn đường nắm bắt kịp thời và triển khai nhanh chóng.

Ngày 4 tháng 3 năm 1993, Trung tướng Phạm Thanh Ngân, Tư lệnh Quân chủng Không quân phê chuẩn ý
định tổ chức hội thao. Ngày 31 tháng 3 năm 1993, Phòng Dẫn đường soạn thảo xong hướng dẫn thực hiện công tác
chuyên ngành trong hội thao. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1993, các cơ quan và đơn vị tự tổ chức huấn luyện cho đội
ngũ dự tuyển của mình. Căn cứ vào ý định tổ chức hội thao và kết quả huấn luyện bay trong 6 tháng đầu năm 1993
của Quân chủng, ngày 7 tháng 7, Tư lệnh ra chỉ thị và phê chuẩn kế hoạch tổ chức hội thao.

Hội thao dẫn đường Quân chủng Không quân sẽ được thực hiện vào trung tuần tháng 9 tại Thọ Xuân. 16
đội tuyển được chia thành hai khối. Khối tiêm kích-tiêm kích bom có 12 đội: cơ quan Bộ Tham mưu, cơ quan 3 sư
đoàn 370, 371 và 372, các trung đoàn 920, 921, 923, 927, 929, 931, 935 và 937; mỗi đội gồm 2 phỉ công và 2 dẫn
đường sở chỉ huy. Khối trực thăng vận tải có 4 đội: các trung đoàn 916, 917, 918 và 954; mỗi đội gồm 1 tố bay và
thêm 1 dẫn đường trên không. Hội thao được sử dụng 18 chiếc máy bay và trực thăng của Sư đoàn Không quân 370,
Sư đoàn 371, Sư đoàn 372, Trung đoàn 916 và củ a Trung đoàn 918. Trong hội thao, ngoài các nội dung thi dẫn
đường, Quân chủng còn quyết định kết hợp thử nghiệm sử dụng một số loại vũ khí.

Tư lệnh Quân chủng Không quân làm Trưởng ban Chỉ đạo hội thao, Thiếu tướng Phạm Tuân, Phó Tư lệnh
về chính trị làm Phó Trưởng ban, đại tá Phạm Phú Thái, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Uỷ viên ban Chỉ đạo,
đồng thời làm Trưởng ban Tổ chức hội thao và Chủ tịch hội đồng Chấm thi. Các uỷ viên của Ban Tổ chức gồm các
Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Hậu cần và Chính trị, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng phụ trách tác chiến và Sư đoàn
trưởng Sư đoàn 372. Các uỷ viên trong hội đồng Chấm thi gồm các Sư đoàn trưởng ba sư đoàn 370, 371, 372, các
Hiệu trưởng Trường Trung Cao không quân và Trường Sĩ quan Chỉ huy-kỹ thuật không quân. Thượng tá Vũ Chính
Nghị, Chủ nhiệm Dẫn đường Quân chủng - Uỷ viên ban Tổ chức, Uỷ viên hội đồng Chấm thi, đồng thời làm Trưởng
ban Giám khảo. Trong ban Giám khảo các Chủ nhiệm Dẫn đường sư đoàn, Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật không
quân, các Trưởng bộ môn Dẫn đường Trường Trung Cao không quân và Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật không quân
làm Uỷ viên.

Công tác chuẩn bị trước cho hội thao diễn ra rất sôi động trong các đội tuyển. Một khối lượng công việc rất
lớn như tăng cường bảo đảm vật chất hậu cần cho căn cứ Thọ Xuân, củng cố trường bắn Như Xuân và Trạm radar dẫn
đường 60, vận chuyển các phương tiện bảo đảm kỹ thuật hàng không… đã được các cơ quan Quân chủng và các đơn
vị tổ chức thực hiện theo đúng kế hoạch và xong trước ngày 30 tháng 8 năm 1993.

Ngày 4 tháng 9 năm 1993, máy bay và đội tuyển của Trung đoàn 954 chuyển sân từ Đà Nẵng đến Thọ
Xuân. Tiếp sau đó, từ ngày 6 tháng 9, máy bay của Trung đoàn 927 từ Kép, của Trung đoàn 931 từ Yên Bái, trực thăng
của Trung đoàn 916 từ Hoà Lạc, máy bay của Trung đoàn 937 từ Phan Rang, của Trung đoàn 918 từ Gia Lâm lần lượt
chuyển sân an toàn. Các đội tuyển đều có mặt đầy đủ. Hội thao khẩn trương bước vào giai đoạn chuẩn bị trực tiếp Kế
hoạch bay huấn luyện bổ sung cho một số đội tuyển được triển khai rất tích cực, nhưng cung chỉ thực hiện được một
vài chuyến do thời tiết tại Thọ Xuân không ổn định, mưa nắng thất thường.

Để thực hiện quyết tâm của Ban Chỉ đạo là tiến hành hội thao đúng kế hoạch, Ban Tổ chức đã tập trung
kiểm tra chặt chẽ công tác bảo đảm kỹ thuật hàng không, rà soát tỉ mỉ kế hoạch thi thực hành và động viên các đội
tuyển tăng cường ôn luyện mặt đất. Khí thế thi đua giành thành tích cao trong hội thao được giữ vững.
7 giờ sáng 14 tháng 9 năm 1993, lễ khai mạc Hội thao Dẫn đường Quân chủng Không quân được tổ chức
trọng thể tại sân đỗ đầu tây sân bay Thọ Xuân. Khối tiêm kích- tiêm kích bom thực hiện thi 4 môn: tác nghiệp đường
bay trên bản đồ, ước lượng, tính nhẩm dẫn đường và tác nghiệp chặn kích trên bàn dẫn đường. Khối trực thăng - vận
tải thi 1 môn là tác nghiệp đường bay trên bản đồ. Kết thúc ngày thi thứ nhất, đội tuyển cơ quan Sư đoàn 371 tạm thời
dẫn đầu.

Ngày 15 tháng 9, chuẩn bị bay hội thao. Công tác bảo đảm kỹ thuật hàng không, radar, đối không, thông tin
liên lạc xe máy hậu cần được tiến hành rất chu đáo và tỉ mỉ. Các đội tuyển nhận nhiệm vụ thi thực hành và chuẩn bị
bay cho cả hai ngày 16 và 17 tháng 9. Trong bay, nhất là khi dẫn chặn kích chỉ được phép sử dụng đài P-18. Tại các
đài chỉ huy bay ở Thọ Xuân và Như Xuân đều bố trí đầy đủ chỉ huy bay chính và các chỉ huy bay phụ.

Ngày 16 tháng 9, khối tiêm kích-tiêm kích bom thi bay đường dài và chặn kích đúng tuyến quy định, còn
khối trực thăng -vận tải chỉ thi bay đường dài. Kết quả thi bay đường dài, đội tuyển Trung đoàn không quân 916 đạt độ
chính xác cao nhất về thời gian, không sai một giây; đội tuyển cơ quan Sư đoàn 371 và Trung đoàn 917 chỉ sai lệch 3
giây, đội cơ quan Bộ Tham mưu có sai lệch lớn nhất là 2 phút 15 giây. Trong thi bay chặn kích, đội tuyển cơ quan sư
đoàn 371 và Trung đoàn 937 đạt kết quả tốt nhất, đều được 9 điểm. Có 1 chuyến không đạt yêu cầu do phi công bay
chặn kích của Trung đoàn 929 không phát hiện mục tiêu dẫn đường trung đoàn buộc phải cho thoát ly. Nhưng sau đó
phi công lại phát hiện, ban Giám khảo đồng ý cho dẫn vào công kích.

Ngày 17 tháng 9, 3 chuyến bay thử nghiệm sử dụng vũ khí được tiến hành trước: 2 chuyến đầu không thành
công (1 chuyến do kỹ thuật bảo đảm bia không tốt và 1 chuyến do phi công nhận dạng nhầm địa tiêu, bay không đến
đúng vị trí trường bắn), 1 chuyến cuối đạt kết quả tốt. Trong thi bay ném bom, đội tuyển cơ quan Bộ Tham mưu đạt
thành tích cao nhất, 10 điểm, 3 đội tuyển đạt 9 điểm là cơ quan các sư đoàn 370, 371 và Trung đoàn 935. Chỉ có 1 đội
không đạt yêu cầu là Trung đoàn 929 vì điểm nổ của bom cách tâm bia 500m về phía trước. Do thời gian bay thử
nghiệm sử dụng vũ khí phải kéo dài ngoài dự kiến, Ban Chỉ đạo quyết định khối trực thăng-vận tải không thi ném
bom.

Ngày 18 tháng 9 năm 1993, Hội thao Dẫn đường Quân chủng Không quân kết thúc, cơ bản đạt được các
mục đích và yêu cầu đề ra. Khối tiêm kích-tiêm kích bom: đội tuyển cơ quan Sư đoàn 371 đoạt giải nhất, các đội tuyển
trung đoàn 921 và 927 đoạt giải nhì và ba. Khối vận tải-trực thăng: đội Trung đoàn 916 đoạt giải nhất. Các giải phục
vụ bảo đảm tốt nhất trong hội thao dẫn đường được trao cho Đài P-18 của Trạm 60, máy bay MiG-21Bis số 5286 của
Sư đoàn 371 và Tiểu đoàn căn cứ Thọ Xuân…

Hội thao Dẫn đường năm 1993 là sự kiện quan trọng của ngành Dẫn đường Không quân. Ngành đã mạnh
dạn bước vào một cuộc hội thao chuyên ngành có quy mô lớn nhất từ trước tới nay và thể hiện đúng thực trạng trình
độ của mình.

Để tiếp tục phát huy những mặt mạnh và khắc phục những thiếu sót trong công tác dẫn đường, nhiều cuộc
hội thi hội thao dẫn đường của các đơn vị cũng đã được tổ chức với nội dụng thiết thực, trong đó rất coi trọng nâng
cao trình độ dẫn bay cho đội ngũ phi công.

Hội thi giáo viên bay tính toán dẫn đường giỏi của Trường Sĩ quan Chỉ huy-kỹ thuật không quân được tổ
chức trong 2 ngày 19 và 21 tháng 9 năm 1994. Tất cả đội ngũ giáo viên bay của hai trung đoàn 910 và 920 đều tham
gia. Từ kết quả thi đã chọn ra được các tập thể và cá nhân tiêu biểu như Phi đội 1 của Trung đoàn 910, phi công giáo
viên Dương Hồng Trường, Vũ Văn Sỹ…
Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 9 năm 1994, Sư đoàn 370 tổ chức hội thao dẫn đường tại Biên Hoà cho 4
đội tuyển là cơ quan sư đoàn, các trung đoàn 935, 937 và 917. Đầu tháng 10 năm 1994, Sư đoàn 372 tổ chức hội thi
phi công tính toán dẫn đường giỏi, dẫn đường dẫn chặn kích giỏi. Tại Sư đoàn 371 trong 6 tháng đầu năm 1995, hội
thi phi công tính toán dẫn đường giỏi, dẫn đường dẫn chặn kích giỏi và tiêu đồ gần giỏi đã tổ chức ở cả hai cấp trung
đoàn và sư đoàn.

Căn cứ vào kế hoạch công tác quân sự năm 1998 của Quân chủng Không quân, Bộ Tham mưu ra chỉ thị tổ
chức hội thi Phi công tính toán dẫn đường giỏi Quân chủng Không quân với mục đích kiểm tra đánh giá trình độ tính
toán dẫn đường cho các nhiệm vụ bay của đội ngũ phi công toàn Quân chủng, thúc đẩy khả năng độc lập chuẩn bị dẫn
đường góp phần nâng cao chất lượng thực hành bay. Thông qua hội thi tìm ra những tập thể, cá nhân điển hình tính
toán dẫn đường giỏi và tổ chức nhân rộng điển hình trong những năm tiếp theo.

Trưởng ban chỉ đạo hội thi là đại tá Phạm Phú Thái, Phó tư lệnh-tham mưu trưởng Quân chủng. Phó trưởng
ban chỉ đạo là đại tá Trần Việt, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng. Ban tổ chức-điều hành hội thi do đại tá Vũ Chính
Nghị, Trưởng phòng Dẫn đường làm Trưởng ban; thượng tá Vũ Công Thuyết, Phó Trưởng phòng Quân huấn, Phó
Trưởng ban; đại tá Trần Văn Chiến, Trưởng phòng Thanh tra bay và thượng tá Nguyễn Thiện Lân, Phó Chủ nhiệm
Chính trị Bộ Tham mưu làm uỷ viên. Ban Chấm thi gồm 10 người do thượng tá Lê Ngọc Toàn, Phó Trưởng phòng
Dẫn đường làm Trưởng ban.

Để làm tốt công tác chuẩn bị và thực hành hội thi, Phòng Dẫn đường đã sớm soạn thảo hướng dẫn và làm
đề thi đáp án. Các tiểu ban dẫn đường thu thập tài liệu, tổ chức ôn tập và luyện thi. Đầu tháng 7 năm 1998, các trung
đoàn không quân tổ chức thi vòng 1 cho tất cả phi công thuộc quyền và lựa chọn đội tuyển để tham gia thi vòng 2 cấp
quân chủng. Trong tháng 8, các sư đoàn, nhà trường và trung đoàn trực thuộc tăng cường luyện thi nâng cao cho các
đội tuyển của mình.

Hội thi Phi công tính toán dẫn đường giỏi Quân chủng Không quân được tổ chức tại Bạch Mai trong 2 ngày
7 và 8 tháng 10 năm 1998. Có 38 thí sinh tham gia, mỗi phi công phải thi 3 môn: Lý thuyết dẫn đường, vẽ sơ đồ địa
hình và tác nghiệp đường bay trên bản đồ để xác định thành tích cá nhân; sau đó mỗi đội tuyển tập trung thi 1 môn là
tác nghiệp đường bay trên bản đồ để xác định thành tích đồng đội.

Căn cứ vào thành tích đạt được trong hội thi, Tham mưu trưởng Quân chủng quyết định tặng bằng khen cho
Trung đoàn 921 và Trung đoàn 937 là 2 đơn vị đã tổ chức tốt nhất hội thi vòng 1. Tại hội thi cấp quân chủng, đội
tuyển Trung đoàn 916 đoạt giải nhất đồng đội, các đội tuyển Trung đoàn 920 và Trung đoàn 954 đoạt giải nhì và ba.
Đại uý Đào Thành Khang, phi công Trung đoàn 935 đoạt giải nhất cá nhân, Thiếu tá Nguyễn Phụng Tuấn Phi đội phó
Trung đoàn 920 và Thiếu tá Nguyễn Vũ Tùng, biên đội trưởng Trung đoàn 935 đoạt giải nhì và ba. Ngoài ra nhiều giải
khuyến khích còn được trao cho các phi công: Bùi Tiến Đức (Trung đoàn 935), Hoàng Trọng Thanh (Trung đoàn 929),
Trần Huy Hà (Trung đoàn 921), Lê Việt Thắng và Nguyễn Văn Khải (Trung đoàn 917), Bùi Xuân Thuý, Thiều Quang
Trọng và Hoàng Lại Long (Trung đoàn 916) và Nguyễn Anh Sơn (Trung đoàn 918).

Chất lượng đánh dấu đường bay trên bàn dẫn đường luôn gắn liền với hiệu quả công tác dẫn đường tại các
sở chỉ huy không quân. Để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ tiêu đồ gần trong toàn quân chủng và thúc đẩy
công tác đào tạo tại chức tiêu đồ gần ở các đơn vị, năm 1994, Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân ra chỉ thị tổ
chức Hội thi Tiêu đồ gần giỏi Quân chủng Không quân lần thứ nhất. Phòng Dẫn đường trực tiếp chịu trách nhiệm về
công tác tổ chức. Các đơn vị có tiêu đồ gần thực hiện tuyển chọn và cử người tham gia hội thi với 3 nội dung là: Lý
thuyết chung về đánh dấu đường bay trên bàn dẫn đường, làm bản can đánh dấu đường bay và thực hành đánh dấu
đường bay.

Hội thi Tiêu đồ gần giỏi Quân chủng Không quân lần thứ nhất được tiến hành trong 3 ngày 20, 21 và 22
tháng 9 năm 1994, tại Bạch Mai. Đại tá Vũ Chính Nghị, Trưởng phòng Dẫn đường làm Trưởng ban Tổ chức. 12 thí
sinh của 12 đội (Tiểu đoàn 16 thuộc Trung đoàn Thông tin không quân 252, 3 ban dẫn đường Sư đoàn Không quân và
8 tiểu ban dẫn đường trung đoàn không quân) đã có mặt đầy đủ, tham gia thi nghiêm túc và đạt kết quả cao. Với thành
tích đã giành được trong hội thi, Tham mưu trưởng Quân chủng quyết định tặng bằng khen cho: binh nhất Nguyễn
Văn Tứ (Trung đoàn 935) đoạt giải nhất, binh nhất Nguyễn Doãn Mỹ (Trung đoàn 937) giải nhì và binh nhất Nguyễn
Hữu Phượng (ban dẫn đường Sư đoàn 371) giải ba.

Phát huy kết quả đã đạt được, trong các năm tiếp theo, Phòng Dẫn đường thường xuyên tổ chức Hội thi
Tiêu đồ gần giỏi cấp quân chủng. Ngày 7 và 8 tháng 10 năm 1995, Hội thi Tiêu đồ gần giỏi lần thứ hai được tổ chức
tại Nội Bài. Thượng tá Đỗ Tuấn, Phó Trưởng phòng Dẫn đường làm Trưởng ban Tổ chức. Ngày 29 và 30 tháng 9 năm
1996, Hội thi Tiêu đồ gần giỏi lần thứ ba được tổ chức tại Đà Nẵng. Thượng tá Lê Ngọc Toàn, Phó Trưởng phòng Dẫn
đường làm Trưởng ban Tổ chức. Ngày 22 và 23 tháng 8 năm 1997, Hội thi Tiêu đồ gần giỏi lần thứ tư được tổ chức tại
Tân Sơn Nhất. Đại tá Vũ Chính Nghị, Trưởng phòng Dẫn đường làm Trưởng ban Tổ chức. Qua mỗi lần hội thi cấp
quân chủng, tuy chỉ chọn ra được 3 cá nhân xuất sắc nhất, nhưng suốt quá trình chuẩn bị cho hội thi và tham gia thi,
đội ngũ tiêu đồ gần không quân đã được củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ và rèn luyện bản lĩnh công tác. Đó là
thành quả lớn nhất góp phần phục vụ đắc lực cho công tác dẫn đường tại các sở chỉ huy không quân.

3. Đào tạo, tập huấn, ban hành tài liệu, nghiên cứu khoa học và kiện toàn cáo tổ chức dẫn đường.

Trong thời gian từ năm 1989 đến năm 1994, Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật không quân tổ chức đào tạo
được 3 khoá sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy cho Quân chủng Không quân (1989-1992, 1990-1993 và 1991-1994) với
tổng số 41 học viên tốt nghiệp ra trường.

Tháng 12 năm 1991, thực hiện quyết định của Quân chủng Không quân, 3 học viên phi công Nguyễn Văn
Định, Phạm Hồng Liên và Đinh Văn Tuỳ, thuộc khoá đào tạo cán bộ dẫn đường tại Học viện Không quân Ga-ga-rin
(1989-1993), nhưng mới học xong 2 năm, được điều về Trường Trung cao không quân để học tiếp 2 năm nữa (1991-
1993).

Sau khi tốt nghiệp, từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 7 năm 1993, cả 3 phi công đã được Phòng Dẫn đường tổ
chức giới thiệu tình hình thực tế trong toàn ngành về hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức dẫn
đường, những khó khăn và thuận lợi trong công tác bảo đảm dẫn đường… Trở về đơn vị đồng chí Nguyễn Văn Định
được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 929 (1993-1996), đồng chí Phạm Hồng Liên làm Chủ nhiệm
Dẫn đường Trung đoàn 923 (1993-1994) và Đinh Văn Tuỳ làm Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn 927 (1993-1995).

Tháng 9 năm 1994, Trường Trung cao không quân, sau này là Học viện Không quân tổ chức đào tạo cán bộ
dẫn đường khoá 1994-1997. Tham gia khoá học này có 11 học viên: Huỳnh Minh Chiến, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn
Huy Giáp, Ngô Quang Hiền, Vũ Quang Hoà, Trần Minh Quý, Bùi Phú Tài, Nguyễn Quang Thành, Trịnh Quang
Thắng, Lê Văn Toàn và Nguyễn Văn Xuân. Sau khi tốt nghiệp trở về đơn vị đồng chí Nguyễn Văn Dũng được bổ
nhiệm làm Trưởng ban dẫn đường Sư đoàn 370 (từ 1997), đồng chí Vũ Quang Hoà làm Trưởng ban dẫn đường Sư
đoàn 372 (1997-2001).
Theo quyết định của Quân chủng Không quân, khoá đào tạo sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy (1994-1997) của
Trường Sĩ quan Chỉ huy-kỹ thuật không quân, sau này là Trường Huấn luyện bay-kỹ thuật không quân được chuyển
giao cho Học viện Không quân. Tháng 9 năm 1995, học viện tổ chức tiếp nhận và đào tạo tiếp 2 năm. Toàn bộ học
viên của khoá này đều tất nghiệp, trong đó có 3 học viên dẫn đường tốt nghiệp loại giỏi là: Nguyễn Văn Kiệt, Lê
Thanh Phong và Trịnh Văn Thắng.

Từ năm 1995, Trung đoàn 916 được giao nhiệm vụ tiếp nhận học viên bay từ Trường Huấn luyện bay-kỹ
thuật không quân để đào tạo thành lái phụ trực thăng, mỗi khoá 2 năm. khoá đào tạo 1995-1997, Trung đoàn tiếp nhận
14 học viên, tốt nghiệp 11, loại 3; khoá 1998-2000, 14 học viên đều tốt nghiệp và khoá 1999-2001, 7 học viên nữa
cũng đều tốt nghiệp. Trong quá trình đào tạo lái phụ, tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 916 luôn hoàn thành tốt nhiệm
vụ lên lớp lý thuyết dẫn bay và hướng dẫn thực hành dẫn bay cho đội ngũ học viên. Các đơn vị trực thăng trong Quân
chủng, sau khi nhận học viên tốt nghiệp sẽ phân loại và đào tạo tiếp thành lái chính và dẫn đường trên không kiêm lái
phụ.

Để thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ tiêu đồ gần không quân theo hướng chính quy, ngày 14 tháng 8 năm
1996, đại tá Hoàng Biểu, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng chủ trì hội thảo về tổ chức đào tạo tập trung đội ngũ tiêu
đồ gần không quân tại Trường Dự bị bay-sơ cấp kỹ thuật nghiệp vụ không quân. Tham gia hội thảo có đại biểu các
Phòng Dẫn đường, Quân lực, Nhà trường, Thông tin-radar và Trường Dự bị bay-sơ cấp kỹ thuật nghiệp vụ không
quân. Kết quả của hội thảo là từ năm 1997 trở đi, Trường Dự bị bay-sơ cấp kỹ thuật nghiệp vụ không quân sẽ đào tạo
tập trung mỗi năm 15 nhân viên tiêu đồ gần cho Quân chủng Không quân, bỏ hình thức đào tạo tại chức riêng lẻ ở các
đơn vị như trước đây. Phòng Dẫn đường cùng với Trường Dự bị bay-sơ cấp kỹ thuật nghiệp vụ không quân xây dựng
chương trình đào tạo nghiệp vụ, cung cấp tài liệu giảng dạy, hỗ trợ xây dựng phòng học chuyên dùng và cử người
tham gia vào hội đồng thi tốt nghiệp cuối khoá.

Trong nhiệm vụ huấn luyện bay hằng năm, Quân chủng Không quân thường xuyên chú trọng nâng cao chất
lượng bay chặn kích mục tiêu tốc độ nhỏ, chặn kích ban đêm; công kích các mục tiêu trên đất, trên biển; bay hạ cánh
sân bay ngắn hẹp, bãi ngoài, trên tàu LST, trên nhà giàn trên biển, trên nhà cao tầng trong thành phố… Công tác bảo
đảm dẫn đường ở các đơn vị luôn bám sát nội dung của các bài bay trên, chuẩn bị tỉ mỉ và thực hành dẫn bay chính
xác đã cơ bản đáp ứng các yêu cầu huấn luyện đề ra.

Chất lượng dẫn bay được nâng cao, nhất là trong các đợt huấn luyện sử dụng vũ khí thực tại các trường
bắn, trong huấn luyện dẫn chặn kích các mục tiêu trên không từ bán cầu sau và cả từ bán cầu trước tại Trung đoàn 937
từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1995 và trong huấn luyện dẫn bay chuyển loại thành công cho 5 dẫn đường trên không
tại Trung đoàn 954 trong năm 1996.

Để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiểu biết về các lực lượng phòng không trước khi hợp nhất hai Quân chủng
Phòng không và Không quân, tháng 4 năm 1999, ngành Dẫn đường đã tham gia lớp học chuyển loại kiến thức phòng
không đo Quân chủng Phòng không tổ chức trong thời gian 2 tuần. Qua kiểm tra chất lượng học tập, đội ngũ sĩ quan
dẫn đường đều được Giám đốc Học viện Phòng không cấp chứng chỉ tốt nghiệp.

Trong 3 ngày 28, 29 và 30 tháng 5 năm 1996, tại Bạch Mai, Phòng Dẫn đường tổ chức tập huấn nhằm định
hướng giải quyết một số nội dung về công tác dẫn đường trong chuẩn bị chiến đấu. Đó là, nghiên cứu tên lửa có cánh,
so sánh tên lửa có cánh với máy bay không người lái tìm cách dẫn đánh tên lửa có cánh; nghiên cứu tính năng kỹ,
chiến thuật và tìm cách dẫn đánh các mục tiêu trên không từ bán cầu trước và bán cầu sau; củng cố chế độ hiệp đồng
dẫn đường chiến đấu và triển khai cách tổ chức luyện tập cho đội ngũ dẫn đường trong xử lý các tình huống chiến
thuật…

Năm 1998, nội dung trọng tâm tập huấn dẫn đường là phương pháp tổ chức bảo đảm dẫn đường cho các
hoạt động bay trong 3 Cụm không quân Bắc, Trung và Nam. Đây là nội dung mang tính định hướng, phục vụ công tác
dẫn đường trong chuẩn bị chiến đấu chống chiến tranh xâm lược, nhằm đáp ứng yêu cầu chủ động nghiên cứu, đề xuất
sớm các giải pháp trước những khó khăn trong tổ chức bảo đảm tác chiến. Tập huấn được tiến hành từ ngày 27 đến
ngày 29 tháng 8 năm 1998.

Sau 8 năm thực hiện, trong Điều lệ Công tác Dẫn đường của Quân chủng Không quân Quân đội nhân dân
Việt Nam, được ban hành năm 1984, có một số nội dung không còn phù hợp với sự phát triển của Quân chủng Không
quân. Phòng Dẫn đường đã xin phép Quân chủng tổ chức biên soạn hoàn thiện các nội dung trên. Ngày 10 tháng 11
năm 1992, Tham mưu trưởng trình Tư lệnh Quân chủng phê duyệt và ký quyết định ban hành Điều lệ Công tác Dẫn
đường không quân. Điều lệ công tác dẫn đường được ban hành lần thứ hai đã làm rõ chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ
chức của ngành và thứ tự, nội dung công tác của Chủ nhiệm Dẫn đường-trưởng phòng, ban và tiểu ban dẫn đường
trong thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Năm 1995, Phòng Dẫn đường tổ chức triển khai biên soạn "Sổ tay Công tác Dẫn đường không quân" nhằm
tổng hợp và hoàn thiện một số nội dung rất cơ bản và thường gặp về dẫn đường. Kế thừa và phát triển "Sổ tay dẫn
đường" đã được Quân chủng cho xuất bản từ năm 1968, trong cuốn sổ tay này, các phương pháp tính toán dẫn đường
như ước lượng, tính nhẩm dẫn bay và cách sử dụng thước tính dẫn đường; các phương pháp kẻ vẽ đường bay và viết
số liệu bay; phương pháp soạn thảo các văn kiện dẫn đường và những số liệu tra cứu về dẫn đường đều được trình bày
rất ngắn gọn, rõ ràng và kèm theo một vài ví dụ điển hình. Tháng 8 năm 1996, Sổ tay Công tác Dẫn đường không
quân đã được in với số lượng 700 cuốn và cấp phát đầy đủ cho các đầu mối trong Quân chủng. Trải qua thực tiễn, Sổ
tay công tác dẫn đường không quân đã được phát huy tác dụng trong nhiều mặt công tác của ngành Dẫn đường.

Cuối năm 1995, Phòng Dẫn đường tổ chức biên soạn giáo trình đào tạo, huấn luyện nhân viên tiêu đồ gần
không quân. Nội dung giáo trình gồm hai phần. Phần thứ nhất là nội dung đào tạo, huấn luyện cơ bản về chuyên môn
nghiệp vụ cho tiêu đồ gần và được chia thành 8 bài. Phần thứ hai bao gồm các hướng dẫn dành cho giáo viên về
phương pháp giảng dạy, kiểm tra chất lượng và phê chuẩn vào trực đối với tiêu đồ gần. Đến đầu năm 1996, giáo trình
trên được in ấn và cung cấp đầy đủ cho các ban và tiểu ban dẫn đường trong toàn ngành, góp phần rất quan trọng nâng
cao chất lượng đào tạo và huấn luyện tại chức cho đội ngũ tiêu đồ gần không quân.

Chấp hành chỉ thị của Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân về việc bảo đảm bí mật trong chỉ huy-
dẫn đường các hoạt động bay quân sự, năm 1997, Phòng Dẫn đường tổ chức biên soạn tài liệu: Mật danh sở chỉ huy
và sân bay-mật ngữ dẫn đường - số hiệu phi công, tổ bay. Bộ Tham mưu Quân chủng đã ra quyết định ban hành, trách
nhiệm quản lý và tổ chức sử dụng tài liệu trên. Trong quá trình sử dụng, những vấn đề bất cập thường xuyên được
Phòng Dẫn đường tổ chức thu thập, kiểm tra và xin ý kiến Bộ Tham mưu cho phép hiệu chỉnh, góp phần tích cực bảo
đảm bí mật trong chỉ huy-dẫn đường.

Năm 1998, được Phòng Vật tư, Cục Kỹ thuật hỗ trợ kinh phí, Phòng Dẫn đường đã ký hợp đồng mua thước
tính dẫn đường-8 (NL-8) do Trung Quốc sản xuất. Để nâng cao hiệu quả sử dụng thước, tháng 8 năm 1998, Phòng
Dẫn đường đã chủ động tổ chức soạn thảo tài liệu "Hướng dẫn sử dụng thước tính dẫn đường-8". Thước tính và tài
liệu hướng dẫn sử dụng đã cùng được cấp phát đầy đủ đến các nhà trường, học viện và đơn vị trong Quân chủng.
Sau thời gian ngắn được trang bị máy tính, Phòng Dẫn đường đã chủ động đề xuất ý tưởng xây dựng phần
mềm cho chương trình trợ giúp dẫn đường bay với Trung tâm Thiết bị điện tử thuộc Viện Kỹ thuật quân sự Bộ Quốc
phòng và cùng nhau tham gia nghiên cứu giải quyết.

Ngày 6 tháng 1 năm 1998, Phòng Dẫn đường tổ chức hội thảo ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
dẫn bay. Nội dung xây dựng phần mềm là tạo ra một sản phẩm chạy được trên máy vi tính thông thường, trợ giúp cho
công tác dẫn bay như: nghiên cứu địa hình trên nền bản đồ đã được số Hoá theo tỉ lệ tuỳ chọn từ các loại bản đồ in
trên giấy, tự động tính toán các số liệu dẫn bay với độ chính xác cao, trong thời gian ngắn theo cách chọn đường bay
bất kỳ của người dẫn đường, đồng thời hiển thị toàn bộ kết quả tính toán dẫn bay trên nền bản đồ số và in ra thành văn
bản. Từ sản phẩm này, những ứng dụng khác trong công tác dẫn bay cũng được giải quyết như tính toán góc che khuất
của các vật chướng ngại đối với các đài radar, đối không, kiểm tra mặt cắt địa hình ở phía trước khi bay cực thấp, dẫn
bay chặn kích…

Ngày 23 tháng 11 năm 1998, Hội đồng khoa học Bộ Tham mưu Quân chủng Không quân tổ chức đánh giá
kết quả xây dựng phần mềm chuyên ngành dẫn đường giai đoạn 1. Thiếu tướng Trần Việt, Phó Tham mưu trưởng
Quân chủng, Chủ tịch hội đồng, thượng tá Trần Mạnh Trung, Thư ký và các Uỷ viên hội đồng: Đại tá Trần Tuấn Việt,
đại tá Nguyễn Văn Lục, đại tá Nguyễn Duy Lê, đại tá Nguyễn Văn Quang, đại tá Trần Ngọc Hiệp (Trưởng phòng Vô
tuyến điện tử, Cục Kỹ thuật), thượng tá Nguyễn Đắc Hoạt và trung tá Đào Chí Thanh (Phòng Khoa học công nghệ-
môi trường Học viện Không quân) đã nghe báo cáo kết quả xây dựng phần mềm của Phòng Dẫn đường và ý kiến phản
biện của đại tá Tạ Văn Vượng, Trưởng khoa Dẫn đường-thông tin-khí tượng Học viện Không quân và đại tá Nguyễn
Đăng Minh, Viện Kỹ thuật Không quân.Hội đồng khoa học đã đồng ý cho cài đặt phần mềm chuyên ngành dẫn đường
giai đoạn 1 vào các máy vi tính tại 4 đơn vị là: Phòng Dẫn đường, Khoa Dẫn đường- Thông tin-khí tượng Học viện
Không quân, tiểu ban dẫn đường hai trung đoàn: Trung đoàn 921 và Trung đoàn 916. Đến cuối năm 1999, phần mềm
chuyên ngành dẫn đường giai đoạn 2 được tổ chức nghiệm thu. Hội đồng khoa học Bộ Tham mưu cho phép áp dụng
trong toàn ngành Dẫn đường.

Phần mềm chuyên ngành dẫn đường được đưa vào sử dụng là bước tiến rất đáng kể, nhưng để thực sự tiện
lợi cho đội ngũ dẫn đường trong toàn ngành còn phải tiếp tục nâng cao trình độ thao tác trên máy vi tính và hoàn thiện
cách thể hiện kết quả theo từng nhu cầu riêng của người dùng.

Trong quá trình đào tạo cán bộ và sĩ quan dẫn đường tại Học viện Không quân, nhu cầu sử dụng thước tính
dẫn đường là rất lớn, nhưng số lượng thước lại có hạn. Năm 1998, đề tài nghiên cứu sử dụng máy tính thông thường
(loại bỏ túi) để giải các bài toán dẫn đường của đồng chí Nguyễn Quốc Khánh, giáo viên Khoa Dẫn đường - Thông
tin- Khí tượng Học viện Không quân được tổ chức nghiệm thu. Kết quả của đề tài đã trực tiếp góp phần tháo gỡ khó
khăn cho học viên trong học tập, đồng thời làm phong phú thêm chủng loại dụng cụ chuyên ngành dẫn đường.

Đầu tháng 4 năm 1990, Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định điều Trung đoàn 937 từ Sư đoàn 372 về trực
thuộc Sư đoàn 370 và đến cuối tháng 6, Bộ Tham mưu Quân chủng Không quân ban hành hướng dẫn tổ chức thực
hiện điều động. Ngày 10 tháng 7 năm 1990, lễ bàn giao Trung đoàn 937 được tổ chức trọng thể tại sân bay Phan Rang.
Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937 vẫn được giữ nguyên như sau khi khôi phục phiên hiệu từ cuối năm 1988. Thiếu
tá Nguyễn Kim Cách được bổ nhiệm làm Phi đội trưởng Phi đội 2, đồng chí Nguyễn Văn Dũng giữ chức Trưởng Tiểu
ban dẫn đường.

Như vậy, từ năm 1990 trở đi, các tổ chức dẫn đường Sư đoàn 370 gồm: Ban dẫn đường sư đoàn và các tiểu
ban dẫn đường trung đoàn 937, 935 và 917, luôn được củng cố kiện toàn. Đây là một trong những điều kiện rất thuận
lợi để toàn thể đội ngữ dẫn đường của sư đoàn bước vào giai đoạn mới, cùng nhau bắt tay thực hiện những nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp hơn trong phạm vi Vùng trời trách nhiệm rộng lớn hơn được Quân chủng giao cho.

Đầu năm 1995, một số phi công và cán bộ kỹ thuật của Trung đoàn 937 được Quân chủng cử đi học chuyển
loại máy bay tiêm kích thế hệ mới ở Nga. Ngày 25 tháng 4 năm 1995, trung đoàn tổ chức tiếp nhận 6 chiếc máy bay
tiên tiến thế hệ mới đầu tiên. Ngày 22 tháng 6 năm 1995, Quân chủng Không quân ra quyết định thành lập Phi đội 3
thuộc Trung đoàn 937. Trung đoàn 937 trở thành trung đoàn không quân đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam
đồng thời sử dụng 2 loại máy bay tiêm kích bom và tiêm kích đều hiện đại và có tầm hoạt động xa. Đây là những sự
kiện quan trọng làm thay đổi hẳn tính chất nhiệm vụ của tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937.

Thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng về khai thác trang bị và căn cứ vào kết quả hồi phục UH-1,
tháng 3 năm 1998, Quân chủng Không quân ra quyết định điều loại trực thăng này từ Cục Kỹ thuật về Trung đoàn 917
và tổ chức thành phi đội trực thuộc trung đoàn. Tháng 4 năm 1998, trung đoàn thực hiện chấn chỉnh theo biên chế tổ
chức mới (Quyết định số 153/QĐ-QCKQ, ngày 15 tháng 4 năm 1998 do Thiếu tướng Nguyễn Đức Soát, Tư lệnh ký):
hợp nhất Phi đội 1 và Phi đội 2 thành Phi đội 1, đóng quân tại Tân Sơn Nhất; thành lập Phi đội 2, đóng quân tại Biên
Hoà.

Ngày 5 tháng 5 năm 1998, Trung đoàn 917 tổ chức tiếp nhận 6 chiếc UH-1 đầu tiên, ngày 16 tháng 6, nhận
thêm 2 chiếc và ngày 10 tháng 2 năm 1999, thêm 4 chiếc nữa. Phi đội 2 nhanh chóng củng cố tổ chức và triển khai
ngay kế hoạch huấn luyện chuyển loại. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về kỹ thuật hàng không, nhưng với
quyết tâm phát huy truyền thống vẻ vang của loại trực thăng đã lập nhiều chiến công trên khắp các chiến trường, sau
hơn hai tháng nỗ lực phấn đấu, Phi đội 2 đã có 6 tổ bay UH-1 vào bay đơn. Được Quân chủng tiếp tục đầu tư bảo đảm
kỹ thuật hàng không, phi đội tăng dần cường độ bay huấn luyện. Một số tổ bay UH-1 đã có đủ trình độ tham gia trực
ban sẵn sàng chiến đấu, diễn tập và làm các nhiệm vụ bay khác. Đội ngũ dẫn đường trên không UH-1 nhanh chóng
trưởng thành, hoàn thành tất các nhiệm vụ được giao.

Ngày 15 tháng 10 năm 1990, chấp hành các quyết định của cấp trên về tinh giảm biên chế, hai trung đoàn
920 và 940 tiến hành hợp nhất, mang tên chung là Trung đoàn không quân 920, đóng quân tại Phù Cát, thực hiện
nhiệm vụ đào tạo phi công MiG-21Bis. Trung tá Nguyễn Thăng Thắng làm Trung đoàn trưởng, thiếu tá Hoàng Ngọc
Sinh làm Phó Trung đoàn trưởng về chính trị, thiếu tá Trương Văn Hoà làm Phó Trung đoàn trưởng Tham mưu
trưởng. Đồng chí Phạm Tiến Dũng giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường. Tháng 12 năm 1990, đồng chí Đặng Văn Diệp
giữ chức Trưởng Tiểu ban dẫn đường. Công tác dẫn đường của Trung đoàn 920 do 2 cán bộ cùng nhau đảm nhiệm. Từ
năm 1992 đến năm 1994, các đồng chí Nguyễn Quang Thành, Trưởng Tiểu ban dẫn đường và Trần Văn Minh, Chủ
nhiệm Dẫn đường trung đoàn tiếp tục cùng nhau công tác theo cơ cấu bố trí cán bộ dẫn đường như trên.

Trong giai đoạn 1991-1994, Khoa Dẫn đường Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật không quân thực hiện giải
thể và thành lập Bộ môn Dẫn đường thuộc Khoa Tham mưu chỉ huy. Thiếu tá Trần Ngọc Quyền, Phó Trưởng khoa
Dẫn đường giữ chức Phó Trưởng khoa Tham mưu chỉ huy, đồng thời làm Trưởng bộ môn Dẫn đường.

Căn cứ vào các quyết định của Bộ Quốc phòng và của Quân chủng Không quân, ngày 5 tháng 9 năm 1995,
Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật không quân chính thức mang tên mới là Trường Huấn luyện bay-Kỹ thuật không
quân với biên chế tổ chức mới, thực hiện nhiệm vụ đào tạo về bay cho phi công (còn các nội dung đào tạo khác cho
phi công do Học viện Không quân chịu trách nhiệm) và đào tạo cao đẳng kỹ thuật hàng không. Khoa Tham mưu chỉ
huy, trong đó có Bộ môn Dẫn đường được chuyển ra Học viện Không quân.
Ngày 3 tháng 10 năm 1997, Quân chủng ra quyết định thành lập Phi đội 3 trực thuộc Trung đoàn 910, sử
dụng máy bay Yak-52 để đào tạo phi công và đóng quân tại Cam Ranh. Sau khi ổn định biên chế tổ chức, phi đội bắt
tay ngay vào học tập chuyển loại lý thuyết và ngày 5 tháng 4 năm 1998, tiến hành bay chuyển loại trên Yak-52. Đây là
giai đoạn vô cùng khó khăn đối với tiểu ban dẫn đường trung đoàn vì quân số không đủ để bố trí trên tất cả các vị trí
trực ban phục vụ bay cho hai phi đội L-39 ở Nha Trang và một phi đội Yak-52 ở Cam Ranh. Nhưng với tinh thần làm
việc hết mình và được phân công trách nhiệm rõ ràng, hợp lý, đội ngũ dẫn đường trung đoàn luôn hoàn thành tốt công
tác bảo đảm dẫn đường, nhất là cho giáo viên bay chuyển loại Yak-52 và đào tạo phi công trên Yak-52 ngay từ khoá
đầu tiên.

Ngày 31 tháng 12 năm 1994, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Học viện Không quân trên cơ sở sáp
nhập Trường Trung cao không quân với Hệ sĩ quan Tham mưu sơ cấp (kể cả sĩ quan lái máy bay) của Trường Sĩ quan
Chỉ huy-Kỹ thuật Không quân. Đến ngày 22 tháng 6 năm 1995, Quân chủng ra quyết định về biên chế tổ chức của học
viện. Đại tá Đinh Văn Bồng, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 370 được bổ nhiệm làm Giám đốc, thượng tá Bùi Miện, Phó
Hiệu trưởng về chính trị Trường Trung cao không quân làm Phó Giám đốc về chính trị.

Khoa Dẫn đường thông tin-khí tượng Học viện Không quân được thành lập và có 5 bộ môn, trong đó có 3
bộ môn về dẫn đường. Thượng tá Tạ Văn Vượng, Phó trưởng khoa Chỉ huy-Tham mưu Trường Trung cao không quân
được bổ nhiệm làm Trưởng khoa. Các đồng chí Nguyễn Quốc Khánh giữ chức Trưởng bộ môn Dẫn đường trên không
và Dẫn đường sở chỉ huy, Lê Đình Vạn là Trưởng bộ môn Bảo đảm dẫn đường và Đỗ Duy Đản là Trưởng bộ môn ứng
dụng vũ khí và Hiệu suất chiến đấu. Đội ngũ học viên dẫn đường khoá 1994- 1997 được khoa tiếp nhận và thực hiện
đào tạo cán bộ và sĩ quan dẫn đường theo chương trình học viện. Đội ngũ giáo viên dẫn đường của khoa vừa tham gia
giảng dạy vừa tích cực học tập để đạt các tiêu chuẩn giảng viên học viện. Công tác biên soạn tài liệu giảng dạy và
nghiên cứu khoa học luôn được khoa chú trọng.

II. NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG -
KHÔNG QUÂN CÁCH MẠNG, CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, TỪNG BƯỚC HIỆN ĐẠI (1999-2004)

1. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ bay.

16 giờ 10 phút ngày 17 tháng 11 năm 2000, máy bay lạ xâm phạm vùng trời thành phố Hồ Chí Minh, lực
lượng trực ban sẵn sàng chiến đấu của Sư đoàn phòng không 367 và Sư đoàn Không quân 370 vào cấp 1. Kíp trực ban
dẫn đường Sư đoàn 370: Trương Quang Thăng, Lê Đình Tấn tại sở chỉ huy và Đinh Công Triệu tại radar hàng không
phối hợp cùng nhau sẵn sàng xử lý tình huống. Sau đó Sở chỉ huy Quân chủng cũng vào cấp 1, kíp trực ban dẫn
đường: Lưu Thế Nghiệp và Dư Văn Thắng nhanh chóng nắm bắt tình hình qua trực ban trưởng. Trực thủ Trưởng
phòng Dẫn đường, đồng chí Vũ Chính Nghị kịp thời có mặt ngay tại sở chỉ huy. Sư đoàn 370 xin lệnh cất cánh. Sau
khi trao đổi tình hình với dẫn đường, thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng, Phó Tham mưu trưởng Nguyễn Đăng
Doanh quyết định cho Trung đoàn không quân 935 xuất kích. 16 giờ 28 phút, phi công MiG-21Bis Ngô Quang Hiền
rời đường băng Biên Hoà. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Vũ Việt Hà và Đinh Khánh Tiến tại sở chỉ huy,
Nguyễn Văn Hào C-51, Nguyễn Công Anh tại đài radar hạ cánh, Nguyễn Duy Chiến tại đài chỉ huy bay và Đào Lê Du
tại C-33 tập trung cao độ bám sát chuyến bay. Theo lệnh của sở chỉ huy, phi công Ngô Quang Hiền làm vòng chờ tại
đỉnh. Radar liên tục sục sạo, nhưng không phát hiện được mục tiêu.

Ngay sau khi máy bay ta hạ cánh, toàn bộ tình hình trên không được tập trung phân tích tỉ mỉ. Công tác
chuẩn bị chiến đấu tiếp tục được tăng cường nhằm chống lại thủ đoạn phá hoại từ trên không của địch. Các phương án
dẫn bay nhanh chóng được bổ sung. Khoảng 19 giờ, lại có dấu hiệu bất thường ở trên không. Sư đoàn 370 quyết tâm
cất cánh. 19 giờ 14 phút, phi công MiG-21Bis Trần Hải Âu xuất kích từ Biên Hoà. Kíp trực ban dẫn đường Trung
đoàn 935 dẫn theo phương án đánh địch đã được chuẩn bị và bảo đảm an toàn cho máy bay ta khi về hạ cánh.

Sau hơn 20 năm sẵn sàng chiến đấu trong thời bình, đây là lần đầu tiên MiG-21Bis nhận lệnh cất cánh
chiến đấu cả ban ngày và ban đêm. Các kíp trực ban dẫn đường của Trung đoàn 935, của Sư đoàn 370 và của Quân
chủng đã nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ và tiếp tục cùng nhau chuẩn bị chu đáo hơn
nữa các phương án dẫn bay chiến đấu.

Đầu tháng 2 năm 2001, trên địa bàn Tây Nguyên, các phần tử phản động lưu vong đã kích động một bộ
phận đồng bào dân tộc ít người kéo về tập trung biểu tình, gây rối ở Plei Ku, Iasúp, Buôn Ma Thuột đòi thành lập nhà
nước "Đề Ga tự trị". Chấp hành lệnh của Sư đoàn Không quân 370, Trung đoàn không quân 917 cử tổ bay Mi-172:
Lái chính Nguyễn Phú Hiên-dẫn đường trên không kiêm lái phụ Võ Quang Đồng-cơ giới trên không Đặng Xuân Niệm
ra Phan Rang đón Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lên Plei Ku và tổ bay Mi-8: lái chính Lê Quang Vinh-dẫn đường
trên không Bùi Thanh Hải-cơ giới trên không Nguyễn Quang Hồng đưa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng từ Tân Sơn Nhất
lên Plei Ku. Cũng vào thời gian trên, theo lệnh của Sư đoàn 372, Trung đoàn 954 cử 1 tổ bay Ka-32 chở đoàn cán bộ
Quân khu 5 từ Đà Nẵng lên Plei Ku. Trong thời gian công tác tại đây, các tổ bay đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao.

Tháng 4 năm 2004, tình hình ở Tây Nguyên lại có những diễn biến phức tạp. Một số đối tượng quá khích,
bị các tổ chức phản động lưu vong kết hợp với một số phần tử xấu của tổ chức "Tin lành Đề Ga" dụ dỗ mua chuộc, đã
gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ và đập phá một số công sở. Các tổ bay Ka-32 của Trung đoàn
954 liên tục chở các đoàn cán bộ của Chính phủ, chính quyền các tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nông và của Quân khu 5 đến
công tác tại nhiều địa bàn quan trọng ở Tây Nguyên. Tổ bay Mi-8: lái chính Mai Văn Vận-dẫn đường trên không Hà
Quốc Hưng-cơ giới trên không Nguyễn Chí Hiền của Trung đoàn 917 đưa đoàn cán bộ Bộ Quốc phòng từ Tân Sơn
Nhất cũng lên Tây Nguyên. Tất cả các chuyến bay đều được bảo đảm an toàn.

Từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 12 năm 1999, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức cuộc diễn tập mang tên PT-99. Lực
lượng chỉ huy và cơ quan Quân chủng, Sư đoàn phòng không 367 và Sư đoàn Không quân 370 tham gia cuộc diễn tập
này. Các đơn vị làm nhiệm vụ thực binh gồm: Trung đoàn pháo phòng không 230, tiểu đội A-72 Trung đoàn pháo
phòng không 224 Sư đoàn 367 và Trung đoàn không quân 917 Sư đoàn 370. Trong diễn tập, đội ngũ dẫn đường sư
đoàn đã làm tốt các văn kiện bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ cơ động phòng tránh và đánh trả các đòn tập kích
đường không của địch, đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay Mi-8, UH-1 của Trung đoàn 917 đã dẫn bay
thực binh đổ bộ đường không 108 lần/chiếc cho Đoàn đặc công 429 làm nhiệm vụ trấn áp phản loạn theo tưởng định.
Đây là cuộc diễn tập đầu tiên sau khi Quân chủng hợp nhất đã được chuẩn bị rất chu đáo và đạt được các mục đích,
yêu cầu đề ra.

Theo đúng kế hoạch của Bộ, từ ngày 16 đến ngày 24 tháng 6 năm 2000, tại Đà Năng, Quân chủng tổ chức
diễn tập cho Sư đoàn phòng không 375 và Sư đoàn Không quân 372 được tăng cường lực tượng của các trung đoàn
không quân 937, 916, 918 hiệp đồng với các lực lượng khác của Bộ thực hành tác chiến phòng thủ trên địa bàn Quân
khu 5 (MT-2000). Sở chỉ huy tiền phương Quân chủng được thành lập tại Đà Nẵng. Thiếu tướng Trần Việt, Phó Tham
mưu trưởng Quân chủng làm Tư lệnh tiền phương. Tốp dẫn đường tại sở chỉ huy tiền phương gồm: đại tá Vũ Chính
Nghị, trung tá Nguyễn Tuấn Long và thiếu tá Lê Văn Nho làm nhiệm vụ bảo đảm dẫn đường cho diễn tập.
Trong diễn tập, đội ngữ dẫn đường Sư đoàn 372 đã nhanh chóng sơ tán ra khu làm việc thời chiến, hoàn
thành tốt các phương án dẫn bay cơ động phân tán đi các sân bay đã chiến và thực hiện dẫn bay thực binh đúng kế
hoạch, bảo đảm an toàn.

Tại Hạ Long, từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 9 năm 2000, Bộ Tổng Tham mưu, Cục Hàng không dân dụng
việt Nam và Quân chủng Phòng không-không quân tổ chức diễn tập tìm kiếm-cứu nạn hàng không (SAREX-2000). 1
An-26 của Trung đoàn không quân 918, 1 Mi-8, 4 Mi-17 của Trung đoàn không quân 916 và lực lượng nhảy dù của
không quân với đầy đủ trang bị được Quân chủng đưa vào tham gia diễn tập. Trung tá Nguyễn Tuấn Long, Phó
Trưởng phòng Dẫn đường tham gia bộ phận chỉ huy-tham mưu tại sở chỉ huy diễn tập. Ngày 18 tháng 9, 5 chiếc trực
thăng của Trung đoàn 916 cơ động tới sân bay Kiến An, sáng ngày 20 tháng 9, bay hợp luyện.

Ngày 21 tháng 9, thực hành diễn tập. Theo đúng tưởng định, tổ bay An-26 do lái chính Hà Đức Tuế chỉ huy,
dẫn đường trên không Trần Văn Chữ cất cánh làm nhiệm vụ tìm kiếm máy bay bị nạn ở trên biển xa. Tổ bay Mi~8; lái
chính Trần Văn Tâm-dẫn đường trên không Đặng Văn Mến-cơ giới trên không Cao Xuân Thạch cất cánh làm nhiệm
vụ tìm kiếm máy bay bị nạn ở trên biển gần. Sau khi xác định chính xác vị trí của máy bay bị nạn, 3 tổ bay Mi- 17: Lái
chính Nguyễn Ngọc Vi-dẫn đường trên không Phạm Văn Bất-cơ giới trên không Đặng Đức Nga, lái chính Nguyễn
Xuân Thanh-lái chính Lương Văn Lâm (ngồi ghế lái phụ)-cơ giới trên không Nguyễn Danh Toại và lái chính Thiều
Quang Trọng-lái chính Hoàng Lại Long (ngồi ghế lái phụ)-cơ giới trên không Nguyễn Thế Cương lần lượt cất cánh
đến cứu hành khách, tổ bay và đưa vào bờ. Các chuyến bay thực binh của không quân đều được dẫn bay chính xác và
đúng kế hoạch, hoàn toàn khớp với hành động của Lữ đoàn hải quân 170, lực lượng cảnh sát biển và cứu hộ thuộc Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh. Cuộc diễn tập đã đạt kết quả tốt.

Trung tuần tháng 7 năm 2001, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức diễn tập chỉ huy-tham mưu có một phần thực
binh mang tên RS-01. Lực lượng tham gia diễn tập của Quân chủng gồm Sư đoàn phòng không 377 và Sư đoàn
Không quân 370. Ban Chỉ đạo của Quân chủng được bố trí tại Cam Ranh và Phan Rang. Thượng tá Nguyễn Tuấn
Long, Phó Trưởng phòng Dẫn đường tham gia tổ nội dung. Sư đoàn 370 triển khai sở chỉ huy phía trước tại Phan
Rang.

Ngày 14 tháng 7, Sư đoàn 370 tổ chức cơ động chuyển sân một lực lượng của Trung đoàn 917 và của
Trung đoàn 935 theo nhiệm vụ diễn tập. Ngày 19 tháng 7, các kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 937 và Trung đoàn
935 hoàn thành tốt nhiệm vụ dẫn chuyến bay làm quân xanh và nhiệm vụ trong diễn tập.

Ngày 20 tháng 7, Mi-8 bay 2 lần chuyến chở ban Chỉ đạo của Bộ, Quân chủng Hải quân và Quân chủng
Phòng không - Không quân đi kiểm tra các vị trí sơ tán, phòng tránh của các lực lượng hải quân, phòng không và
không quân. Qua diễn tập, đội ngũ dẫn đường Sư đoàn 370 đã nâng cao được khả năng sẵn sàng chiến đấu và trình độ
tổ chức hiệp đồng dẫn đường trong tác chiến bảo vệ mục tiêu và chi viện cho biển, đảo.

Đầu tháng 12 năm 2001, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức diễn tập chỉ huy-tham mưu có một phần thực binh
cho Quân khu 9 và một phần lực lượng trực thuộc Bộ (PT-01). Quân chủng Phòng không-không quân sử dụng một
phần lực lượng của Sư đoàn phòng không 367, Sư đoàn Không quân 370 và cơ quan Quân chủng tham gia biên tập.
Tổ Trung tâm được thành lập gồm các phòng Tác chiến, Trinh sát, Dẫn đường, Thông tin, Thanh tra-An toàn bay.
Thượng tá Nguyễn Tuấn Long, Phó Trưởng phòng Dẫn đường và trung tá Đặng Văn Sinh, trợ lý Phòng Dẫn đường
nằm trong tổ Trung tâm. Căn cứ vào nhiệm vụ được giao trong diễn tập, Sư đoàn 370 tổ chức cơ động chuyển sân một
lực lượng của Trung đoàn 917, của Trung đoàn 935 và của Trung đoàn 937 từ các căn cứ đóng quân đến các vị trí tập
kết. Còn 1 Mi-8 của Trung đoàn 917 ở lại Tân Sơn Nhất.
Ngày 7 tháng 12, chiếc Mi-8 ở Tân Sơn Nhất cất cánh, sau đó được dẫn bay làm quân xanh đột nhập đường
không ở độ cao thấp vào địa bàn Quân khu 9.

Ngày 11 tháng 12, theo tưởng định, hai máy bay quân xanh làm nhiệm vụ tiến công đường không. Hiệp
đồng chặt chẽ với hoả lực phòng không trong khu vực, hai máy bay quân đỏ được dẫn lên đánh địch bảo vệ các mục
tiêu trọng yếu. Trong các tình huống giả định tiếp theo, quân đỏ dẫn máy bay đánh địch trên đường vào đổ bộ đường
không và máy bay chi viện hoả lực cho lực lượng Quân đoàn 4 đánh địch tại khu vực đổ bộ.

Trong diễn tập, trực thăng của Trung đoàn 917 còn thực hiện nhiều chuyến bay phục vụ Ban Chỉ đạo đi
kiểm tra các hướng và đánh giá kết quả bắn đạn thật của một số đơn vị. Cuộc diễn tập kết thúc ngày 12 tháng 12. Đội
ngũ dẫn đường Sư đoàn 370 và các trung đoàn 937, 935 và 917 đã thu được những kinh nghiệm quý báu về thực hành
dẫn bay tại sở chỉ huy cơ động.

Từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 7 năm 2002, tại Bạch Mai, Quân chủng tổ chức diễn tập với đề mục bộ đội
phòng không-không quân trên chiến trường miền Bắc hiệp đồng với các lực lượng vũ trang trên địa bàn đánh trả tiến
công đường không của địch, bảo vệ vững chắc các mục tiêu trên khu vực trách nhiệm được giao (ĐK-1/02); mục đích
chính là nghiên cứu công tác tổ chức chỉ huy cơ động phân tán, sơ tán và tác chiến phòng không cho cụm lực lượng
phòng không-không quân trên chiến trường miền Bắc.

Lực lượng tham gia diễn tập chủ yếu là người chỉ huy và cơ quan tham mưu các sư đoàn phòng không 361,
363, 365 và Sư đoàn Không quân 371. Trong diễn tập, thượng tá Trương Thanh Lương, Phó Trưởng phòng Dẫn đường
đảm nhiệm chức danh Chủ nhiệm Dẫn đường Quân chủng, trung tá Vũ Quang Hoà và trung tá Nguyễn Văn Tiềm, trợ
lý Phòng Dẫn đường trực tiếp giúp Chủ nhiệm Dẫn đường Quân chủng hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Trung tá
Nguyễn Văn Nhâm, trợ lý Phòng Dẫn đường tham gia tổ trung tâm của Bộ Tham mưu. Cuộc diễn tập chỉ thực hiện
phần chỉ huy-tham mưu và không có thực binh. Quân chủng được Bộ đánh giá đạt kết quả khá. Các văn kiện, tài liệu
dẫn đường đều được chuẩn bị chu đáo.

Tại Bạch Mai, từ ngày 6 đến ngày 12 tháng 10 năm 2003, Bộ tổ chức diễn tập tác chiến phòng không cho
các lực lượng phòng không-không quân trên hướng chiến lược miền Bắc (PK-03). Để hoàn thành nhiệm vụ dẫn đường
trong diễn tập, đại tá Vũ Chính Nghị, Trưởng phòng, trung tá Đặng Văn Sinh và Dư Văn Thắng, trợ lý đảm nhiệm các
công việc tại K- 19 (sở chỉ huy tập); thượng tá Trương Thanh Lương Phó Trưởng phòng và trung tá Vũ Quang Hoà
làm các văn kiện dẫn đường tại nơi làm việc của phòng. Một khối lượng công việc rất lớn về dẫn đường đã được phối
hợp chặt chẽ và giải quyết đạt hiệu quả cao, nhất là xác định đầy đủ nhiệm vụ bảo đảm dẫn đường theo đúng quyết
tâm tác chiến của Tư lệnh Quân chủng và làm kế hoạch dẫn bay thực binh đúng tưởng định chiến thuật. Quân chủng
sử lực lượng máy bay của Sư đoàn 371, Trung đoàn 916 bay 6 lần/chiếc thực binh "quân xanh".

10 giờ ngày 11 tháng 10, tiến hành dẫn bay thực binh. Các tốp quân xanh bắt đầu hoạt động. Tổ bay Mi-17:
lái chính Nguyễn Xuân Thanh-dẫn đường trên không Nguyễn Thế Cương-cơ giới trên không Hà Quang Minh của
Trung đoàn 916 bay theo đường bay của tên lửa hành trình ở độ cao thấp và phi công Đoàn Thiếu Lam của Trung
đoàn không quân 927 cũng bay theo đường bay của tên lửa hành trình, nhưng ở độ cao trung bình hướng vào Hà Nội
và Nội Bài; phi công Trần Huy Hà của Trung đoàn 927 bay theo đường bay của máy bay chiến thuật ở độ cao trung
bình hướng vào Hải Phòng và Hà Nội; tổ bay Mi-17: lái chính Thiều Quang Trọng-dẫn đường trên không Trịnh Quang
Thắng và Đặng Vàn Mến-cơ giới trên không Ngô Quang Tuấn bay theo đường bay của máy bay chiến thuật ở độ cao
thấp đánh vào Hoà Bình và Hà Nội; đôi bay: Nguyễn Khắc Quyết-Nguyễn Việt Phương của Trung đoàn 921, sau khi
làm quân đỏ cơ động chuyển sân, được giao nhiệm vụ bay quân xanh theo đường bay của máy bay ném bom chiến
lược đánh vào Hoà Bình và Hà Nội. Các đơn vị quân đỏ tổ chức dẫn đánh tên lửa hành trình, máy bay chiến thuật và
chiến lược theo quyết tâm chiến đấu của người chỉ huy.

Ngoài ra, 2 tổ bay Mi-172: lái chính Nguyễn Xuân Hồng-dẫn đường trên không Phạm Văn Bất-cơ giới trên
không Nguyễn Anh Tuấn và lái chính Đàm Văn Toản-dẫn đường trên không Bùi Văn Vanh-cơ giới trên không Phùng
Hữu Khang làm nhiệm vụ chuyên cơ A và B chở các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ và thủ trưởng Bộ theo dõi và
kiểm tra kết quả diễn tập của các đơn vị phòng không và không quân. Cuộc diễn tập kết thúc thắng lợi, được Bộ đánh
giá cao.

Cuối tháng 11 năm 2003, Uỷ ban tìm kiếm cứu nạn Quốc gia, Cục Hàng không và Quân chủng Phòng
không- Không quân tổ chức cuộc diễn tập tìm kiếm-cứu nạn hàng không quy mô lớn trên địa bàn Tây Nguyên
(SAREX-2003) nhằm nghiên cứu, xác định quy chế phối hợp điều hành chỉ huy và bảo đảm chỉ huy cho công tác tìm
kiếm-cứu nạn hàng không trên địa bàn rừng núi và thực hiện tìm kiếm-cứu nạn theo tưởng định ở Tây Nguyên.
Thượng tá Trương Thanh Lương, Phó Trưởng phòng Dẫn đường tham gia Ban Chỉ đạo.

Ngày 19 tháng 11, 2 Mi-8 của Trung đoàn 917 và 2 An-26 của Trung đoàn 918 cơ động chuyển sân đến
Buôn Ma Thuột. Ngày 20 và 21 tháng 11, Ban Chỉ đạo diễn tập tổ chức bay hợp luyện. Ngày 22 tháng 11 năm 2003,
thực hành diễn tập tại thôn Hà Bắc, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lắc với các nội dung: An-26 tìm kiếm vị trí xảy ra tại
nạn, thông báo tình hình trên không; Mi-8 thả dù tiếp tế và hạ cánh sơ cứu, vận chuyển nạn nhân. Đội ngũ dẫn đường
trên không An-26 và Mi-8 đã làm tốt công tác dẫn bay trên trên địa hình rừng núi. Các chuyến bay diễn tập đều được
dẫn chính xác và bảo đảm an toàn tuyệt đối

Căn cứ vào Chỉ thị số 53/CT-BQP, ngày 13 tháng 7 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và chỉ thị của
Tổng tham mưu trưởng về việc tham gia diễn tập và chuẩn bị cho diễn tập. Tư lệnh Quân chủng quyết định sử dụng
một bộ phận cán bộ thủ trưởng Bộ Tư lệnh và cơ quan Quân chủng, chỉ huy và cơ quan Sư đoàn Không quân 370, Sư
đoàn phòng không 367 tham gia diễn tập chỉ huy-cơ quan cấp chiến lược-chiến dịch, một bên hai cấp trên bản đồ có
một phần thực binh, trên hướng chiến lược miền Nam mang tên MN-04.

Thượng tá Trương Thanh Lương, Trưởng phòng và ba đồng chí Nguyễn Văn Nhâm, Lưu Thế Nghiệp, Vũ
Quang Hoà trợ lý Phòng Dẫn đường cùng lực lượng tham gia diễn tập cơ động vào Tân Sơn Nhất và nằm trong kíp rút
gọn sở chỉ huy tiền phương Quân chủng tại Sư đoàn 367.

Từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 10 năm 2004, kíp dẫn đường Quân chủng làm kế hoạch bảo đảm dẫn đường
cho quyết tâm tác chiến của Tư lệnh và chỉ thị bảo đảm dẫn đường gửi Sư đoàn 370 và Trung đoàn 918, đồng thời
chuẩn bị các phương án xử lý các tình huống: Đánh địch tiến công hoả lực đường không; chi viện hoả lực cho các đơn
vị đánh địch đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển và tiến công trên bộ; chi viện hoả lực cho bộ đội binh chủng hợp
thành thực hành tiến công, phản công chiến dịch, chiến lược, kết thúc chiến tranh.

Ngày 17 tháng 10, tổ bay Mi-172: lái chính Phạm Ngọc Yên-dẫn đường trên không Nguyễn Danh Đoan-cơ
giới trên không Nguyễn Quang Hồng của Trung đoàn 917 chở Ban Chỉ đạo diễn tập từ Tân Sơn Nhất thị sát các đơn vị
bộ binh của Quân đoàn 4 thực binh.

Qua diễn tập, đội ngũ dẫn đường đã tích luỹ thêm các kinh nghiệm tổ chức thực hành dẫn đường trong tác
chiến bảo vê Tổ quốc trên hướng chiến trường phía Nam.

Đầu tháng 11 năm 1999, mưa rất to trên diện rộng và liên tiếp nhau trong nhiều ngày đã tạo ra những trận
lũ lớn tàn phá 7 tỉnh miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Định. Hàng nghìn ngôi nhà bị nước lũ cuốn trôi, hàng vạn
người chịu cảnh màn trời, chiếu đất, thiếu thức ăn, nước uống, gây thiệt hại về người và tài sản của nhân dân. Chấp
hành chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Quân chủng sử dụng lực lượng An-26 của Trung đoàn 918, Mi-8, Mi-17 và Ka-32
của các trung đoàn 916, 954, tổ chức vận chuyển và thả hàng cứu trợ cho nhân dân bị lũ lụt.

Ngay chiều ngày 2 tháng 11 năm 1999, 5 tổ bay trực thăng của Trung đoàn 916 được lệnh chuyển sân từ
Hoà Lạc vào Phú Bài và Đà Nẵng. Tất cả hạ cánh xuống Vinh, nạp thêm nhiên liệu và chuẩn bị bay tiếp. Từ Vinh, tổ
bay Mi-17: lái chính Đinh Phương Tâm - dẫn đường trên không Phạm Văn Bất - cơ giới trên không Dặng Đức Nga
chở Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Trần Việt cất cánh trước.

Trên đường bay vào, tại khu vực Đèo Ngang, trời mưa liên tục mây thấp, tầm nhìn rất hạn chế. Dẫn đường
cho vòng ra biển, lái chính bay ở độ cao cực thấp, sau đó vòng vào bờ và bay tiếp vào Phú Bài. Hạ cánh xong, tổ bay
lập tức nhận nhiệm vụ, khẩn trương chuẩn bị và tiếp tục cất cánh thả hàng cứu trợ. Do thời tiết ở Đèo Ngang xấu đi, 4
tổ bay của Trung đoàn 916 phải nằm lại Vinh, hôm sau mới vào được.

Cầu hàng không vận chuyển hàng cứu trợ của Quân chủng nhanh chóng được thiết lập và hoạt động với
cường độ cao chưa từng thấy. Từ ngày 3 đến ngày 10 tháng 11 năm 1999, An-26 tập trung vận chuyển hàng từ Tân
Sơn Nhất ra và từ Gia Lâm vào Phú Bài, Đà ỡăng và Chu Lai. Từ đây, các loại trực thăng của Quân chủng toả đi các
hướng, chuyển ngay hàng cứu trợ tới tay đồng bào bị lũ lụt. Do công việc nhiều, thời gian gấp, một số tổ bay của
Công ty bay dịch vụ miền Bắc và miền Nam cũng đã được huy động. Với quyết tâm cao, đội ngũ dẫn đường trên
không trong các tổ bay và dẫn đường từ các sở chỉ huy đã góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao: Thực
hiện 241 chuyến bay liên tục trong điều kiện thời tiết phức tạp cả ban ngày và ban đêm, vận chuyển được 303.898kg
hàng cứu trợ và đưa đón 633 lượt người. Đây còn là lần đầu tiên tổ chức chỉ huy, điều hành đợt hoạt động bay lớn rất
thành công của sở chỉ huy hợp nhất Quân chủng tại K-99.

Nhận lời mời của đồng chí Khăm-tày Si-phăn-đon, Tổng Bí thư Đảng nhân dân cách mạng, Chủ tịch nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam đã sang thăm Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Ngày 9 tháng 1 năm 2001, tổ bay Mi-172: lái chính Lương
Văn Lâm-dẫn đường trên không Phạm Văn Bất-cơ giới trên không Phùng Hữu Khang của Trung đoàn 916 đưa Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh từ Luông Pha Băng đi thăm Huội Sài và Sai-nha-bu-li, rồi về Luông Pha Băng. Tổ bay Mi-
172: lái chính Trần Đình Long-dẫn đường trên không Phạm Văn Thường-cơ giới trên không Cao Tiến Nhật của Công
ty bay dịch vụ miền Bắc chở đoàn tuỳ tùng của Tổng Bí thư. Công tác dẫn bay chuyên cơ trên đất bạn đã được hoàn
thành rất tốt.

2. Tổ chức hội thao, hội thi dẫn đường.

Trong các ngày 12, 13 và 14 tháng 8 năm 2003, tại Thọ Xuân, Quân chủng tổ chức Hội thao Chỉ huy-dẫn
đường không quân năm 2003. Thiếu tướng Phạm Phú Thái, Phó Tư lệnh-tham mưu trưởng Quân chủng, Trưởng ban
Chỉ đạo hội thao, đại tá Lương Quốc Bảo, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng, Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ
đạo, Chủ tịch hội đồng chấm thi.

Trong hai tháng 6 và 7, tất cả các văn kiện chỉ đạo và tổ chức điều hành hội thao đều được chuẩn bị chu đáo
và triển khai thực hiện nghiêm túc tại tất cả các đơn vị.

Căn cứ vào nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2003, Quân chủng quyết định trong hội thao lần này có 7 đội tuyển
thuộc khối các trung đoàn không quân tiêm kích-tiêm kích bom và 3 đội tuyển thuộc khối các trung đoàn không quân
trực thăng. Mỗi đội tuyển thuộc khối tiêm kích-tiêm kích bom gồm: 1 cán bộ trung đoàn (Đội trưởng), 2 phi công, 1
trợ lý dẫn đường tại sở chỉ huy và 1 trợ lý dẫn đường tại trạm radar dẫn đường. Mỗi đội tuyển thuộc khối trực thăng
gồm: 1 cán bộ trung đoàn (Đội trưởng), 1 lái chính, 2 dẫn đường trên không (cơ giới trên không chỉ tham gia bay,
không tham gia thi). Các môn thi lý thuyết: Tổ chức thực hiện công tác dẫn đường trong bay nhiệm vụ của người chỉ
huy, ước lượng, tính nhẩm dẫn bay, tính toán dẫn bay ứng dụng chiến đấu, tác nghiệp dẫn bay trên bản đồ và tác
nghiệp dẫn bay trên máy vi tính. Các môn thi thực hành dẫn bay: Tuần tiễu trên đường dài ở độ cao trung bình, tuần
tiễu trong khu vực ở độ cao thấp, chặn kích mục tiêu ở độ cao trung bình, tự tìm kiếm, công kích mục tiêu ở độ cao
thấp có chỉ huy bổ trợ bằng mắt và công kích mục tiêu cố định trên mặt đất tại trường bắn. Tất cả các đội tuyển đều
phải thi đầy đủ các môn lý thuyết, trong đó có thi cá nhân và tập thể. Còn đối với các môn thi thực hành, căn cứ yêu
cầu nhiệm vụ thực tế của từng trung đoàn, Ban Chỉ đạo sẽ quyết định từng môn cho từng đội.

Đầu tháng 8 năm 2003, các chuyến bay chuyển sân đến Thọ xuân đều được bảo đảm dẫn đường chặt chẽ: 1
Mi-8 vũ trang, 1 Mi-17 vũ trang và 1 Mi-17 vận tải (phục vụ) của Trung đoàn 916, 2 USu-27 của Trung đoàn 937, 3
MiG-21Bis của Trung đoàn 921, 2 MiG-21Bis và 1 UMiG-21 Trung đoàn 931. Các đội tuyển của Trung đoàn 917,
954 sử dụng Mi-8 của Trung đoàn 916, đội tuyển của Trung đoàn 929 và 935 sử dụng MiG-21Bis của Trung đoàn 921
và 931, đội tuyển của Trung đoàn 923 sử dụng Su-22M tại căn cứ.

Ngày 12 tháng 8 năm 2003, tất cả các đội tuyển thực hiện thi lý thuyết và kết quả đạt được là 100% khá,
giỏi, trong đó 47% giỏi. Các đội tuyển tiếp tục nhận đề thi thực hành và tiến hành chuẩn bị bay. Ngày 13 tháng 8, do
thời tiết chưa tốt, nên phải chờ đến 7 giờ 15 phút, chuyến bay đầu tiên mới cất cánh được và đến 12 giờ 40 phút,
chuyến bay cuối cùng của hội thao hạ cánh. Kế hoạch thi thực hành được thực hiện đầy đủ và đúng dự tính với 21
lần/chiếc đạt chất lượng cao và an toàn tuyệt đối. Nhiều thành viên trong Ban Chỉ đạo và Hội đồng Chấm thi tại đài
chỉ huy bổ trợ đã tận mắt chứng kiến động tác vào công kích nhiều lần mục tiêu tốc độ nhỏ, bay thấp trên địa hình
rừng núi của phi công rất ổn định và qua giải đoán thiết bị kiểm tra khách quan còn cho thấy kết quả xạ kích của phì
công rất chính xác. Tại trường bắn, 2 phi công của Trung đoàn 923 và Trung đoàn 931 đã xử lý tốt khi vào công kích
bị mây che khuất tầm nhìn và sau đó chỉ bằng 1 loạt phóng rocket, hầu như 16 quả đều trúng tâm bia.

Trong lễ bế mạc, căn cứ vào kết quả Hội thao Chỉ huy- Dẫn đường không quân năm 2003, Quân chủng
quyết định trao giải cho các tập thể và cá nhân đã lập được những thành tích cao trong tất cả các môn thi. Khối Sư
đoàn Không quân: Sư đoàn 372 đoạt giải nhất. Khối trung đoàn tiêm kích-tiêm kích bom: Đội tuyển Trung đoàn 931
đoạt giải nhất, Trung đoàn 921 và 923 đồng giải nhì và Trung đoàn 937 giải ba. Khối trung đoàn trực thăng: Đội tuyển
Trung đoàn 916 được trao giải nhất và Trung đoàn 954 giải nhì. Về cá nhân, đối với người chỉ huy (Đội trưởng):
Trung tá Trần Hậu Thiết, Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 931 đoạt giải nhất, trung tá Phạm Hồng Liên, Phó Trung
đoàn trưởng-tham mưu trưởng Trung đoàn 923 giải nhì và trung tá Bùi Văn Khánh, Phó Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 921 giải ba. Đối với phi công tiêm kích-tiêm kích bom: Thiếu tá Bùi Thiên Thau, Phó Phi đội trưởng thuộc
Trung đoàn 931 đoạt giải nhất, thiếu tá Nguyễn Văn Lượng, Phi đội trưởng thuộc Trung đoàn 921 giải nhì và trung tá
Phạm Văn Đạo, Chủ nhiệm Bay Trung đoàn 931 giải ba. Đối với phi công trực thăng: trung tá Nguyễn Xuân Thanh,
Phó Phi đội trưởng thuộc Trung đoàn 916 đoạt giải nhất. Đối với dẫn đường trên không: Trung tá Bùi Văn Vanh Trung
đoàn 916 đoạt giải nhất và thiếu tá Trịnh Văn Thắng, Trung đoàn 916 giải nhì. Đối với dẫn đường sở chỉ huy: Thượng
uý Lại Như Lâm, trợ lý Trung đoàn 923 đoạt giải nhất, thiếu tá Vũ Quang Hưng, trợ lý Trung đoàn 931 giải nhì và
thượng uý Bùi Anh Tuấn, trợ lý Trung đoàn 921 giải ba. Đối với dẫn đường hiện sóng: Thiếu tá Nguyễn Thanh Hải,
trợ lý Trung đoàn 921 đoạt giải nhất, đại uý Nguyễn Hà Tiếu, trợ lý Trung đoàn 931 giải nhì và thiếu tá Nguyễn Văn
Hải, trợ lý Trung đoàn 923 giải ba.Ngoài các giải đã nêu trên, Quân chủng còn quyết định khen thưởng đối với các
đơn vị phục vụ, bảo đảm tốt nhất cho hội thao như: Tiểu đoàn Hậu cần Kỹ thuật sân bay, Tiểu đoàn Thông tin-radar,
tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 923, các tổ máy bay số 5293 Trung đoàn 921, số 5321 Trung đoàn 931, số 8526 Trung
đoàn 937, số 5819 Trung đoàn 923, số 7840 Trung đoàn 916 và các tổ xe kéo dắt QK-4164 Trung đoàn 931, tra dầu
QK-2857 Trung đoàn 923.

Hội thao Chỉ huy-dẫn đường không quân năm 2003 đã được chuẩn bị công phu, chu đáo; tổ chức chỉ huy,
điều hành chặt chẽ, nhịp nhàng; đánh giá kết quả các môn thi trung thực, khách quan, phản ánh đúng trình độ của các
đội tuyển. Những tập thể và cá nhân đoạt giải xứng đáng trở thành những hạt nhân điển hình để ngành Dẫn đường tiếp
tục tổ chức nhân rộng, góp phần nâng cao hiệu quả dẫn bay và bảo đảm an toàn trong tất cả các đơn vị không quân.

Thực hiện kế hoạch công tác quân sự năm 2004 của Bộ Tham mưu Quân chủng, trong ba ngày 24, 25 và 26
tháng 3, Hội thi Dẫn bay trên hiện sóng máy tập P-37 toàn Quân chủng được tổ chức tại Học viện Phòng Không-
Không quân. Thành phần tham gia thi có 10 sĩ quan dẫn đường trên hiện sóng của các trung đoàn không quân tiêm
kích, tiêm kích bom và 1 giáo viên Khoa Dẫn đường - Thông tin - Khí tượng Học viện Phòng không - Không quân.
Các môn thi gồm: Lý thuyết dẫn bay trên hiện sóng; tính nhẩm, ước lượng trên hiện sóng; dẫn trên hiện sóng 2 tốp ta
đánh 2 tốp địch (2 chặn 2) với điều kiện phi công phát hiện bằng mắt, thời tiết giản đơn, ban ngày; dẫn trên hiện sóng
1 tốp ta đánh 1 tốp địch (1 chặn 1), phi công phát hiện bằng radar trên máy bay, thời tiết phức tạp, ban đêm. Kết quả
thi lý thuyết: 100% đạt yêu cầu, trong đó có 91% khá giỏi; tính nhẩm, ước lượng: 100% đạt yêu cầu, có 55% khá giỏi;
dẫn 2 chặn 2: 100% đạt yêu cầu, có 73% khá và 18% giỏi; dẫn 1 chặn 1: 64% khá và 36% giỏi. Giải nhất tập thể được
trao cho đội tuyển Sư đoàn 370. Giải nhất cá nhân được trao cho trung tá Trịnh Đức Năng, giáo viên Khoa Dẫn đường
- Thông tin - Khí tượng Học viện Phòng không - Không quân; giải nhì cho thượng uý Phan Thế Đăng, trợ lý dẫn
đường Trung đoàn 929 và giải ba cho thượng uý Lương Ngọc Đang, trợ lý dẫn đường Trung đoàn 937.

Hội thi Dẫn bay trên hiện sóng máy tập P-37 toàn Quân chủng lần đầu tiên được tổ chức thành công, góp
phần quan trọng khẳng định tác dụng của các máy tập dẫn bay trên hiện sóng đã được nghiệm thu và đưa vào giảng
dạy cho học viên dẫn đường tại học viện, đồng thời mở ra khả năng tiếp tục sản xuất các máy tập dẫn bay trên hiện
sóng tốt hơn, phục vụ đắc lực cho công tác huấn luyện đồng hoá nghiệp vụ dẫn đường tại các đơn vị không quân.

3. Đào tạo, huấn luyện, tập huấn và kiện toàn các tổ chức dẫn đường.

Từ năm 2001 đến năm 2004, Học viện Phòng không-Không quân tổ chức đào tạo nhiều khoá sĩ quan dẫn
đường sở chỉ huy cấp phân đội bậc đại học. Khoá 1 (2001- 2005) có 15 học viên và khoá 2 (2002-2006) cũng có 15
học viên. Để góp phần giải quyết khó khăn cho các đơn vị không quân hiện tại đang bị thiếu quân số dẫn đường so với
biên chế, Phòng Dẫn đường đã xin ý kiến các phòng Cán bộ, Nhà trường và trình Quân chủng cho phép đưa một số
học viên bay của Trường Sĩ quan Không quân, nhưng không còn đủ mọi điều kiện để tiếp tục bay nữa, sang đào tạo
chuyển tiếp thành sĩ quan dẫn trường sở chỉ huy cấp phân đội bậc đại học, khoá 1a (2001-2003) được 12 học viên và
khoá 2a (2002-2004) được 11 học viên.

Tại Phân hiệu 1 Trường Trung học kỹ thuật Phòng không-Không quân tiếp tục thực hiện chương trình đào
tạo tiêu đồ gần cho các đơn vị không quân: Năm 1999, được 15 nhân viên; năm 2000, 15 học viên, loại 1, được 14;
năm 2001 và 2002, mỗi năm được 15 nhân viên; năm 2003, đào tạo 2 đợt, mỗi đợt được 10 nhân viên và năm 2004,
đào tạo được 15 nhân viên tiêu đồ gần không quân.

Năm 2002, Quân chủng tổ chức bắn, ném bom tập trung cho các đơn vị không quân tại trường bắn Như
Xuân nhằm kiểm tra chất lượng huấn luyện bay đánh mục ' tiêu mặt đất đối với các phi công, tổ bay từ cấp phi đội trở
xuống.
Ngày 9 tháng 8 năm 2002, các máy bay và trực thăng của Sư đoàn 370, Sư đoàn 371, Trung đoàn 916 và
của Trung đoàn 918 được tổ chức dẫn bay chặt chẽ đã chuyển sân đến Thọ Xuân đúng kế hoạch. Trước khi bay bắn,
ném bom thật, Mi-17 của Trung đoàn 916 đã chở 14 phì công của Sư đoàn 370 và 4 phi công của Trung đoàn 929 đi
xem địa hình khu vực trường bắn và vị trí các bia. Các đơn vị cũng đã tham gia bay huấn luyện bổ sung được 1 ban.

Trong 2 ngày 15 và 16 tháng 8, các kíp trực ban dẫn đường của Trung đoàn 923 và của các đơn vị đã thực
hiện dẫn 27 phi công và 10 tổ bay với 37 chuyến bay bắn, ném bom thật tại Như Xuân đạt kết quả tốt và bảo đảm an
toàn.

Kết thúc đợt bắn, ném bom tập trung năm 2002, Quân chủng đã trao cờ "Trung đoàn bắn giỏi" Cho 5 trung
đoàn 937, 931, 923, 916 và 918; tặng bằng khen cho 5 tổ bay Mi-17 của Trung đoàn 916 và 2 tổ bay An-26 của Trung
đoàn 918; tặng bằng khen cho 1 phi công của Trung đoàn 935, 4 phi công của Trung đoàn 937, 1 phi công của Trung
đoàn 921, 3 phi công của Trung đoàn 931, 4 phi công của Trung đoàn 923 và 1 phi công của Trung đoàn 929.

Năm 2004, Quân chủng tiếp tục tổ chức bắn, ném bom tập trung cho các đơn vị không quân tại trường bắn
Như Xuân với mục đích đánh giá trình độ tổ chức chỉ huy bay và kết quả huấn luyện bay bắn, ném bom trong năm của
phi công và tổ bay. Trong hai ngày 11 và 12 tháng 8 năm 2004, 25 phi công của các trung đoàn 921, 927, 931, 923,
929 và 2 tổ bay của Trung đoàn 916 đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Quân chủng tặng cờ "Trung đoàn bắn giỏi"
cho 4 Trung đoàn 927, 931, 923 và 916. Công tác dẫn đường đã tiếp tục bảo đảm tốt cho tất cả các chuyến bay chuyển
sân đến Thọ Xuân, thực hành bay bắn, ném bom thật tại Như Xuân và chuyển sân trở về các căn cứ đóng quân của các
đơn vị.

Từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 2 tháng 6 năm 2001, Phòng Dẫn đường tổ chức tập huấn ngành nhằm mục
đích: Trang bị kiến thức mới phục vụ cho công tác tác chiến phòng không, hoàn thiện kế hoạch bảo đảm dẫn đường,
chấn chỉnh chế độ công tác và nâng 'cao trình độ khai thác phần mềm chuyên ngành dẫn đường đã được cài đặt vào
các máy tính trong toàn ngành. Tham dự tập huấn có các Phó Tham mưu trưởng sư đoàn, trung đoàn phụ trách tác
chiến; các Chủ nhiệm-trưởng ban dẫn đường, Chủ nhiệm-trưởng Tiểu ban dẫn đường và trợ lý dẫn đường chủ chốt của
các sư đoàn, nhà trường và trung đoàn; Trưởng khoa Dẫn đường - Thông tin-khí tượng và một giáo viên dẫn đường.
Cuộc tập huấn ngành Dẫn đường năm 2001 đã đạt được các mục đích, yêu cầu đề ra và có nội dung thiết thực.

Để góp phần nâng cao khả năng xử lý các tình huống tác chiến phòng không, trong 2 ngày 20 và 21 tháng 5
năm 2004, tại Sư đoàn 370, Bộ Tham mưu Quân chủng tổ chức hội nghị chuyên đề về xây dựng các phương án dẫn
bay nhằm đáp ứng yêu cầu trên. Các đồng chí Phó Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm-trưởng ban dẫn đường các sư đoàn
và nhà trường; các đồng chí Phó Trung đoàn trưởng, Chủ nhiệm-trưởng Tiểu ban dẫn đường các Trung đoàn 917, 937,
921, 929 và một số cán bộ Phòng Dẫn đường đã tham dự hội nghị.

Một số phương án dẫn bay điển hình trong xử lý các tình huống tác chiến phòng không như: Dẫn đánh các
mục tiêu bay thấp, tốc độ nhỏ trên địa hình rừng núi và đồng bằng, dẫn kèm máy bay vận tải quân sự nước ngoài xin
"hạ cánh kỹ thuật" xuống các sân bay ta và dẫn ép máy bay vi phạm vùng trời phải chấp hành đúng quy tắc bay của ta.
Các đại biểu đã thảo luận sôi nổi, chất vấn lẫn nhau, chỉ rõ những khó khăn và thuận lợi mấu chốt nhất, đồng thời đưa
ra những giải pháp cụ thể cho từng phương án dẫn bay. Trên cơ sở có được các phương án dẫn bay tốt trong xử lý các
tình huống tác chiến phòng không, hội nghị còn đề xuất được các biện pháp tổ chức luyện tập theo phương án, bổ
sung thêm một số nội dung vào các bài bay huấn luyện có liên quan và đưa một số nội dung của từng phương án dẫn
bay vào diễn tập khi cần thiết. Ngành Dẫn đường đã vận dụng tốt hình thức quân sự dân chủ, góp phần cho hội nghị
chuyên đề về dẫn đường thành công.
Năm 2002, Khoa Dẫn đường-thông tin-khí tượng Học viện Phòng không-Không quân cùng với Phòng Dẫn
đường tổ chức biên soạn 3 bộ giáo trình phục vụ cho công tác đào tạo sĩ quan dẫn đường cấp phân đội bậc đại học là:
Dẫn đường trên không và dẫn đường sở chỉ huy, bảo đảm dẫn đường, ném bom và ứng dụng chiến đấu. Hội đồng khoa
học của học viện đã nghiệm thu và đưa vào giảng dạy từ năm học 2002-2003. Qua đánh giá của các hội đồng khoa học
cấp cao hơn, 3 bộ giáo trình trên cũng được phép sử dụng trong công tác đào tạo sĩ quan tác chiến, huấn luyện không
quân cấp phân đội bậc đại học.

Năm 2000, Khoa Dẫn đường-Thông tin-Khí tượng Học viện Phòng không-Không quân nghiên cứu và sản
xuất thành công chiếc máy tập dẫn bay trên hiện sóng P-37 đầu tiên. Đây là đề tài nghiên cứu khoa học do đại tá, thạc
sĩ Tạ Văn Vượng, Trưởng khoa Dẫn đường-Thông tin-Khí tượng làm chủ nhiệm đã được Hội đồng khoa học của học
viện tổ chức nghiệm thu vào ngày 8 tháng 11 năm 2000.

Sau khi kiểm tra toàn diện Học viện Phòng không - Không quân, trong văn bản kết luận số: 11/PK-KQ,
ngày 3 tháng 1 năm 2003, Tư lệnh Quân chủng giao cho Bộ Tham mưu, trực tiếp là Phòng Dẫn đường giúp học viện
triển khai sản xuất tiếp 2 chiếc máy tập nữa để phục vụ tốt hơn cho công tác đào tạo của học viện, nhất là đào tạo sĩ
quan dẫn đường. Ngày 2 tháng 6 năm 2003, Hội đồng khoa học Quân chủng họp thẩm định phương án sản xuất 2
chiếc máy tập mới. Khoa Dẫn đường-Thông tin-Khí tượng chịu trách nhiệm trực tiếp sản xuất. Ngày 5 tháng 1 năm
2004, Hội đồng khoa học Quân chủng đã tổ chức nghiệm thu và cho phép đưa vào sử dụng tại Học viện Phòng không
- Không quân. Đây cũng chính là sản phẩm đã được sử dụng trong hội thi dẫn bay trên hiện sóng máy tập P-37 toàn
Quân chủng được tổ chức vào tháng 3 năm 2003.

Nhằm tháo gỡ khó khăn về các loại thước đo trong dẫn bay, Phòng Dẫn đường liên kết với nhà máy A-32
sản xuất thử 3 loại thước là: Thước bán nguyệt, thước tam giác và thước chiến thuật. Sau khi xem xét kết quả sản xuất
thử, ngày 16 tháng 4 năm 2001, Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân chủng ra quyết định cho phép Nhà máy A-32 được sản
xuất loạt các loại thước trên. Ngày 10 tháng 12 năm 2002, Phòng Dẫn đường đã tiếp nhận 650 bộ sản phẩm, mỗi bộ
gồm 3 thước của nhà máy và tổ chức cấp phát kịp thời cho toàn thể đội ngũ phi công và dẫn đường tại các đơn vị bay
và cho đội ngũ giáo viên bay và giáo viên dẫn đường tại nhà trường và học viện.

Thực hiện chủ trương xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh của Đảng và Nhà nước, ngày 3 tháng 3 năm
1999, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký sắc lệnh hợp nhất hai Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không
quân thành Quân chủng Phòng không-Không quân. Thiếu tướng Nguyễn Đức Soát được bổ nhiệm làm Tư lệnh, Thiếu
tướng Nguyễn Văn Phiệt làm Phó Tư lệnh về chính trị, Thiếu tướng Phạm Phú Thái làm Phó tư lệnh-tham mưu trưởng
Quân chủng.

Trong biên chế tổ chức của Bộ Tham mưu Quân chủng sau khi hợp nhất, ngoài các phòng tiến hành hợp
nhất như Tác chiến, Quân huấn-nhà trường, Quân lực…, còn có một số phòng, ban do đặc tính chuyên ngành như Khí
tượng, Quản lý vùng trời, Quản lý-điều hành bay, Thanh tra-An toàn bay… được giữ nguyên biên chế tổ chức và quân
số, trong đó có Phòng Dẫn đường. Đại tá Vũ Chính Nghị giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường Quân chủng- Trưởng
phòng, thượng tá Lê Ngọc Toàn làm Phó Trưởng phòng và 8 trợ lý. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Dẫn đường cơ
bản không thay đổi. Nhưng để hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong giai đoạn mới, phòng đã chủ động mở rộng
và thường xuyên làm tốt các mối quan hệ công tác.

Từ năm 2000 đến năm 2004, đội ngũ cán bộ Phòng Dẫn đường có nhiều thay đổi. Tháng 8 năm 2000, trung
tá Nguyễn Tuấn Long, trợ lý dẫn đường của phòng được bổ nhiệm làm Phó Trưởng phòng, thay đồng chí Lê Ngọc
Toàn (nghỉ hưu). Tháng 5 năm 2002, thượng tá, thạc sĩ Trương Thanh Lương, giảng viên Khoa Dẫn đường- Thông
Tin-khí tượng Học viện Phòng không-không quân được bổ nhiệm làm Phó Trưởng phòng, thay đồng chí Nguyễn Tuấn
Long (nhận nhiệm vụ mới). Tháng 4 năm 2004, thượng tá Trương Thanh Lương được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Dẫn
đường Quân chủng-trưởng phòng, thay đồng chí Vũ Chính Nghị (làm công tác khác). Trung tá Phạm Hồng Liên, Phó
Trung đoàn trưởng-tham mưu trưởng Trung đoàn 923 được bổ nhiệm làm Phó Trưởng phòng.

Sau khi dự án cảnh giới và bảo vệ vùng trời quốc gia (VQ-9801) được nghiệm thu giai đoạn 1, để khai thác
thiết bị dẫn bay mới tại Sở chỉ huy Quân chủng, ngày 24 tháng 7 năm 2003, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không
quân ra quyết định tăng thêm cho Phòng Dẫn đường 5 trợ lý. Như vậy, sau rất nhiều năm quân số của phòng chỉ có 10
sĩ quan, đến thời điểm này sẽ là 15 sĩ quan, nhưng việc bổ sung không thể làm ngay được vì quân số sĩ quan dẫn
đường ở các đơn vị cũng rất khó khăn.

Ngày 15 tháng 10 năm 1999, Học viện Không quân và Học viện Phòng không thực hiện hợp nhất theo
quyết định của Bộ Quốc phòng (Quyết định thành lập số 1077/QĐ-BQP, ngày 21 tháng năm 1999) thành Học viện
Phòng không-Không quân. Đồng chí Đinh Văn Bồng, Giám đốc Học viện Không quân được chỉ định làm Giám đốc,
đồng chí Nguyễn Đức Côn, Phó Giám đốc về chính trị Học viện Phòng không làm Phó Giám đốc về chính trị. Sau khi
học viện thực hiện hợp nhất, Khoa Dẫn đường-thông Tin-khí tượng Học viện Không quân được giữ nguyên về cơ cấu
tổ chức và biên chế. Đồng chí Tạ Văn Vượng được bổ nhiệm làm Trưởng khoa. Các đồng chí Nguyễn Quốc Khánh,
Lê Đình Vạn và Đỗ Duy Đản làm Trưởng các bộ môn Dẫn đường trên không và Dẫn đường sở chỉ huy, Bảo đảm dẫn
đường và ưng dụng vũ khí và Hiệu suất chiến đấu.

Trong những năm tiếp theo, đội ngũ cán bộ và giáo viên dẫn đường của khoa luôn nỗ lực học tập nâng cao
trình độ, có tới 14 đồng chí đạt học vị thạc sĩ. Từ năm 2002, đội ngũ giáo viên dẫn đường được bổ sung thêm các đồng
chí thượng tá Nguyễn Tuấn Long và trung tá Lê Văn Hoà. Năm 2003, đồng chí Lê Đình Vạn được bổ nhiệm làm Phó
Trưởng khoa và đến ngày 21 tháng 12 năm 2004 giữ chức Trưởng khoa.

Tháng 9 năm 2000, căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu đào tạo phi công, Trường Huấn luyện bay-kỹ thuật không
quân quyết định thành lập Bộ môn Dẫn đường ứng dụng chiến đấu nằm trong khoa Chỉ huy tham mưu; trung tá
Nguyễn Quốc Hưng, giáo viên dẫn đường Khoa Dẫn đường-thông tin-khí tượng Học viện Phòng không-Không quân
được điều vào làm giáo viên Bộ môn Dẫn đường ứng dụng chiến đấu của trường và đến tháng 1 năm 2003, được bổ
nhiệm làm Trưởng bộ môn. Tháng 10 năm 2004, đồng chí Nguyễn Quốc Hưng lên làm Phó Trưởng khoa, đồng chí
Đào Thiện Hùng giữ chức Trưởng bộ môn.

Căn cứ Quyết định số 31/2002/QĐ-BQP, ngày 25 tháng 2 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
Trường Huấn luyện bay-kỹ thuật không quân đổi tên thành Trường Sĩ quan Không quân trực thuộc Quân chủng Phòng
không-Không quân với nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đào tạo sĩ quan lái máy bay bậc đại học trên 2 loại Yak-52 và
L-39, tổ chức bay huấn luyện, chuyển loại MiG-21Bis cho những phi công đã tốt nghiệp theo yêu cầu của Quân
chủng. Ngày 3 tháng 1 năm 2003, Tư lệnh Quân chủng ra Quyết định số 10/QĐ-PK-KQ về biên chế tổ chức của
Trường Sĩ quan Không quân. Đây là lần điều chỉnh lực lượng rất quan trọng, gắn liền với quy trình đào tạo sĩ quan lái
máy bay bậc đại học do Trường Sĩ quan Không quân hoàn toàn đảm nhiệm.

Trung đoàn 920 sử dụng Yak-52 để đào tạo phi công, trước mắt đóng quân tại Cam Ranh. Thượng tá Trần
Hữu Tùng được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, thượng tá Phạm Văn Đông làm Phó Trung đoàn trưởng về chính trị,
trung tá Phùng Văn Thường làm Phó Trung đoàn trưởng - Tham mưu trưởng. Tiểu ban dẫn đường nằm trong Ban
Tham mưu trung đoàn, thiếu tá Cao Văn Thành giữ chức Trưởng Tiểu ban.
Trung đoàn 910 được trang bị L-39, đào tạo phi công sau khi đã tốt nghiệp Yak-52, trước mắt đóng quân tại
Nha Trang. Thượng tá Nguyễn Trần Hồng được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, trung tá Nguyễn Minh Hải làm Phó
Trung đoàn trưởng về chính trị, trung tá Dương Văn Thanh làm Phó Trung đoàn trưởng-tham mưu trưởng. Tiểu ban
dẫn đường nằm trong Ban Tham mưu trung đoàn, thiếu tá Đỗ Thành Long giữ chức Trưởng Tiểu ban.

Trung đoàn 920 đào tạo phi công MiG-21 tại Phù Cát trước đây, được mang tên mới là Trung tâm bay huấn
luyện-chuyển loại MiG-21, tiếp tục đóng quân tại Phù Cát Tiểu ban dẫn đường nằm trong Ban Tham mưu trung tâm,
thiếu tá Đoàn Văn Thanh là Trưởng Tiểu ban dẫn đường.

Cuối tháng 12 năm 2003, theo quyết định của cấp trên, Trung đoàn 910 thực hiện cơ động toàn bộ lực
lượng rời khỏi Nha Trang ra đóng quân tại Tuy Hoà và Trung đoàn 920 chuyển quân lên Nha Trang.

Căn cứ vào biên chế chức danh của Tổng công ty bay dịch vụ Việt Nam cho các công ty bay thành viên,
tháng 8 năm 1999, đồng chí Võ Ngọc Lạc, dẫn đường trên không, được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Dẫn đường Công ty
bay dịch vụ miền Nam và ngày 11 tháng 5 năm 2002, trung tá Phạm Văn Thường, dẫn đường trên không, được bổ
nhiệm làm Chủ nhiệm Dẫn đường Công ty bay dịch vụ miền Bắc.

Căn cứ vào chỉ thị của Tư lệnh Quân chủng Phòng không-không quân về việc điều chỉnh lực lượng và trang
bị giữa hai trung đoàn không quân 935 và 937 (Chỉ thị số 03/CT-PK-KQ, ngày 13 tháng 1 năm 2004 do Trung tướng
Nguyễn Văn Thân, Tư lệnh ký), phòng Dẫn đường đã cùng với các phòng chức năng có liên quan nghiên cứu, đề xuất
biên chế quân số sĩ quan dẫn đường cho Trung đoàn 935 ít nhất là 14, cho Trung đoàn 937 ít nhất là 12 và kiến nghị
nên tổ chức chuyển loại dẫn đường trước khi tiến hành điều chỉnh lực lượng và trang bị không chỉ đối với Tiểu ban
dẫn đường Trung đoàn 935 mà cả đối với Ban dẫn đường Sư đoàn Không quân 370.

Đầu tháng 11 năm 2004, hai trung đoàn không quân 935 và 937 thực hiện điều chỉnh lực lượng và trang bị.
Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 935 được biên chế 14 sĩ quan, thiếu tá Phạm Hải Nam tiếp tục làm Trưởng Tiểu ban.
Tiểu ban dẫn đường Trung đoàn 937 được biên chế 12 sĩ quan, thiếu tá Nguyễn Thanh Tuấn tiếp tục làm Trưởng Tiểu
ban.

Trong hai ngày 19 và 20 tháng 11 năm 2004, các kíp trực ban dẫn đường của hai trung đoàn và sư đoàn đã
phối hợp chặt chẽ với nhau, dẫn bay chuyển sân chính xác và bảo đảm an toàn cho tất cả số máy bay từ Phan Rang
vào Biên Hoà. Cũng từ thời điểm này, đội ngũ dẫn đường Trung đoàn 937 chỉ còn tập trung bảo đảm cho một loại máy
bay thực hiện các nhiệm vụ trong vùng trời trách nhiệm được giao.

Trong sự nghiệp xây dựng Quân chủng Không quân và Quân chủng Phòng không-Không quân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại (1990-2004), ngành Dẫn đường tiếp tục nỗ lực rèn luyện mình, ra sức phấn
đấu thực hiện tốt các nội dung công tác dẫn đường trong các cuộc diễn tập; kịp thời dẫn MiG-21Bis xuất kích chiến
đấu khi có máy bay lạ xâm phạm vùng trời thành phố Hồ Chí Minh, dẫn các loại trực thăng phục vụ chống bạo loạn
chính trị và gây rối trên địa bàn Tây Nguyên; thường xuyên chuẩn bi đầy đủ, chu đáo các chỉ thị và kế hoạch bảo đảm
dẫn đường cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên các hướng biên giới, hướng Biển Đông và
biển Tây Nam.

Ngành Dẫn đường luôn bám sát các nhiệm vụ dẫn bay duyệt binh, chuyên cơ; tiến hành dẫn bay phục vụ
thăm dò, khai thác dầu khí và bay MIA đạt hiệu quả cao; khẩn trương thực hiện dẫn bay, kịp thời đáp ứng yêu cầu cứu
trợ đồng bào bị bão lũ trên mọi miền đất nước; hoàn thành tốt các cuộc hội thi, hội thao dẫn đường và tiêu đồ gần
không quân; thực hiện tốt công tác bảo đảm dẫn đường cho nhiệm vụ bắn, ném bom tập trung của Quân chủng.
Đội ngũ cán bộ, sĩ quan dẫn đường và nhân viên tiêu đồ gần không quân, được đào tạo chính quy tại các
học viện, nhà trường của Quân chủng, luôn nỗ lực, vươn lên trong công tác tại các đơn vị, kế tục sự nghiệp của ngành
Dẫn đường Không quân.

Kết luận
Trải qua 45 năm hoạt động, ngay từ khi được hình thành, ngành Dẫn đường luôn phát huy cao độ sức mạnh
tổng hợp, vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Trong chiến đấu, đội ngũ dẫn đường đã nhạy bén, nắm chắc ý định đánh địch của người chỉ huy, am hiểu
cách bay của đội ngữ phi công và lái chính, nhanh chóng đưa ra cách dẫn phù hợp, kiên định trên các vị trí công tác
của mình, kịp thời dẫn các loại máy bay và trực thăng của ta đánh thắng địch cả ở trên không, trên đất và trên biển.

Trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, từ kết quả ban đầu dẫn thành
công T-28 bắn rơi C-123 rất đỗi tự hào, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã tiến tới dẫn 3 loại máy bay tiêm kích MiG-
17, MiG-21 và MiG-19 của các trung đoàn không quân 921, 923, 925 và 927 bắn rơi hơn 300 chiếc với gần 20 kiểu
loại máy bay và trực thăng khác nhau của địch trong điều kiện thời tiết giản đơn và phức tạp, ban ngày và ban đêm.
Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy không chỉ dẫn đánh thắng trận đầu mà còn dẫn đánh nhanh-diệt gọn, dẫn đánh quyết
liệt cản phá từng mũi tập kích của địch, dẫn đánh áp đảo cho tốp 4 chiếc (biên đội) của ta tập trung hoả lực bắn rơi 3
chiếc của địch, cho tốp 2 chiếc (đôi bay) của ta bắn rơi 2 chiếc của địch.

Địch càng đánh ác liệt, ta càng bền bỉ tìm ra những chỗ yếu, những chỗ sơ hở của chúng để dẫn bằng được
các tốp máy bay ta vào tiếp cận. Cách thức dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy kết hợp với dẫn trên hiện sóng tại
đài radar dẫn đường càng trở nên phong phú khi tình báo của nhiều đài cùng một lúc được đưa về một bàn dẫn đường,
dùng một đài chuyên bám địch và một đài khác chuyên dẫn ta. Tam giác dẫn đường chiến đấu Nội Bài- Kép-Kiến An
được phát triển sang phía tây của Hà Nội từ Hoà Lạc (1967) đến tận Mộc Châu (1972) và hệ thống đài chỉ huy bổ trợ
được bố trí rộng khắp đã trở thành mạng lưới chỉ huy-dẫn đường hoạt động hữu hiệu không chỉ ở phía bắc vĩ tuyến 20
mà ngay cả ở trong chiến trường Khu 4. Cách thức tổ chức dẫn đường 2 cấp đã mở rộng khả năng dẫn nhiều tốp ta
đánh nhiều tốp địch trên nhiều hướng và tại nhiều khu vực khác nhau. Nhiều cách dẫn sáng tạo được áp dụng triệt để
như dẫn đi thấp-kéo cao-vào tiếp địch, dẫn đánh địch cả trên đường vào và đường ra của chúng, dẫn đánh địch từ khu
chờ (khu trực ban trên không), từ sân bay phục kích, dẫn đánh trong nhiễu, dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa các loại
máy bay, đánh phân đoạn các tốp mục tiêu trong một đội hình lớn của địch… Từng loại máy bay tiêm kích của ta đều
có cách dẫn sở trường mang lại hiệu quả chiến đấu cao.

Những chiến công dẫn bắn rơi máy bay và trực thăng đích của ngành Dẫn đường đã góp phần quan trọng
nâng cao vị thế của Không quân nhân dân Việt Nam trong mặt trận trên không, đồng thời hạ uy thế của không lực Hoa
Kỳ ngay trên vùng trời miền Bắc.

Với nhiệm vụ đánh địch trên đất, trên biển, ngành Dẫn đường luôn phát huy hết khả năng độc lập dẫn bay
của đội ngũ dẫn đường trên không, trình độ tự dẫn của đội ngữ phi công và lái chính gắn liền với sự hỗ trợ đắc lực của
đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy; sẵn sàng đối mặt với thời tiết thay đổi bất thường, địa hình phức tạp, cự ly hoạt động
xa, hoả lực phòng không và tiêm kích địch…

Đội ngũ dẫn đường trên không đã dẫn thành công nhiều đòn tập kích hiểm hóc cho An-2 đánh tàu biệt kích
ở ngoài khơi Thanh Hoá và đánh căn cứ radar Pa Thí trong hậu phương địch, cho Il-28 đánh căn cứ Buôn Loọng. Đội
ngũ dẫn đường trên không II-14 đã cống hiến hết mình cho nhiệm vụ chi viện chiến trường Thừa Thiên-Huế. Đội ngũ
dẫn đường sở chỉ huy đã sát cánh cùng với đội ngũ phi công MiG-17 dẫn thành công đòn tập kích bất ngờ vào tàu khu
trục Mỹ ở ngoài khơi Lệ Thuỷ, cùng với Phi đội Quyết thắng tập kích mãnh liệt vào sân bay Tân Sơn Nhất. Trong
chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, đội ngũ dẫn đường ở các
đơn vị phía nam nhanh chóng làm chủ cách dẫn các loại máy bay và trực thăng cả hệ 2 và hệ 1, kịp thời tham gia chi
viện hoả lực cho bộ đội các quân khu, quân đoàn, quân chủng và cho các lực lượng quân tình nguyện đánh địch hiệu
quả.

Những thành tích dẫn tập kích và chi viện hoả lực đánh địch trên các chiến trường của ngành Dẫn đường đã
góp sức làm nổi bật khả năng và sức mạnh tiến công kẻ thù của Không quân nhân dân Việt Nam.

Để có đủ trình độ dẫn bay đánh địch trên không, trên đất và trên biển, công tác huấn luyện dẫn đường tại
đơn vị thường xuyên được coi trọng và luôn bám sát yêu cầu thực tế của các nhiệm vụ bay. Hình thức huấn luyện
đồng hoá hai vị trí trực ban chủ yếu được phát triển thành đồng hoá nhiều vị trí trực ban khác nhau đã nâng cao rõ rệt
chất lượng công tác của đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy ước lượng, tính nhẩm dẫn bay thuần thục không chỉ giúp cho
giải pháp "dẫn mò" phát huy hiệu quả mà còn tạo ra khả năng chuyển đổi nhanh chóng các số liệu dẫn bay giữa hệ 2
và hệ 1, nhất là khi chỉ huy-dẫn đường cho các máy bay thuộc cả 2 hệ cùng hoạt động. Nhờ thường xuyên nắm vững
các kiến thức cơ bản, nên công tác huấn luyện chuyển loại dẫn đường luôn đạt chất lượng cao và tiến độ nhanh, đặc
biệt vào thời điểm sau giải phóng miền Nam và trong giai đoạn khẩn trương đổi mới trang bị của không quân (1979-
1981). Riêng đối với đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy, trong huấn luyện chuyển loại kể cả hệ 1 và hệ 2, tinh thần tự lực
luôn được phát huy cao độ, nên dù thiếu thầy hướng dẫn, thiếu tài liệu học tập, kết quả chuyển loại vẫn đáp ứng yêu
cầu.

Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao, ngoài việc thường xuyên tích luỹ những kinh nghiệm
hay, ngành Dẫn đường còn rất nghiêm túc kiểm điểm, làm rõ nguyên nhân, rút ra bài học cho mình về trình độ dẫn
bay, về trách nhiệm quản lý con người và chế độ công tác từ những lần dẫn đánh không thành công, từ những chuyến
bay bị lạc đường, bị tai nạn do dẫn bay… Nhờ đó đội ngũ dẫn đường càng thêm vững vàng trên các vị trí công tác của
mình.

Trong điều kiện thời bình, xây dựng chính quy, ngành Dẫn đường đã tập trung làm tốt công tác dẫn đường
trong các cuộc diễn tập, chuẩn bị chu đáo các văn kiện bảo đảm dẫn đường chiến đấu, tổ chức tập huấn, thực hiện hội
thi, hội thao, biên soạn tài liệu và nghiên cứu khoa học.

Đối với công tác đào tạo đội ngũ dẫn đường trên không, ban đầu do bạn hoàn toàn đảm nhiệm, nhưng sau
một thời gian ngắn ta đã tự lực từ khâu giảng dạy lý thuyết đến hướng dẫn thực hành dẫn bay. Đội ngũ giáo viên dẫn
đường trên không là những cán bộ có trình độ, giàu kinh nghiệm thực tiễn, nên chất lượng đào tạo luôn đáp ứng yêu
cầu sử dụng của đơn vị. Đối với đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy, ngay từ đầu, bạn chủ yếu giúp ta đào tạo rất chu đáo về
lý thuyết, còn về thực hành ta phải tự lực làm lấy tại đơn vị của mình và không có bạn kèm. Từ những kinh nghiệm
của bạn, kết hợp chặt chẽ với thực tiễn dẫn đường Việt Nam, các nhà trường và học viện của ta đã đào tạo được đội
ngũ dẫn đường sở chỉ huy có số lượng và chất lượng phù hợp với các yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng không quân
tiêm kích, tiêm kích bom, nhất là yêu cầu cơ động phân tán tạo thế trận trong thời chiến và bố trí đóng quân trong thời
bình.

Một trong những thành công quan trọng của ngành Dẫn đường, đó là phát triển và kiện toàn các tổ chức
dẫn đường phù hợp với sự lớn mạnh của các lực lượng không quân. Về cơ cấu tổ chức, ngành Dẫn đường luôn tiến
hành triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và huấn luyện, nhất là khi các tổ chức trong
ngành được bố trí thống nhất nằm trong hệ thống cơ quan tham mưu các cấp. Chức năng, nhiệm vụ và các mối quan
hệ công tác giữa các tổ chức dẫn đường từng bước được hoàn thiện phù hợp thực tiễn đã trực tiếp nâng cao hiệu quả
làm việc của toàn ngành. Về quân số, dù ít hay nhiều đều được đưa vào huấn luyện có chuyên sâu từng mặt gắn liền
với hiểu biết nhiều mặt, luôn sẵn sàng thay thế nhau làm việc khi nhiệm vụ cần đến. Hiệu quả sử dụng quân số dẫn
đường được nâng lên rõ rệt. Đối với đội ngũ cán bộ phụ trách, nhiều đồng chí đã xác định đúng cương vị của mình,
không lệ thuộc vào chức danh đơn (chỉ là Chủ nhiệm hoặc Trưởng ban…) hay chức danh kép (Chủ nhiệm-trưởng
ban…), vào bản thân là dẫn đường trên không hay dẫn đường sở chỉ huy, luôn tập trung giải quyết tốt công tác dẫn
đường của đơn vị cho dù công tác đó nằm ở đội ngũ dẫn đường trên không, dẫn đường sở chỉ huy hay nằm ở đội ngũ
phi công, lái chính, lái phụ.

Ngành Dẫn đường có được những bước trưởng thành toàn diện trong 45 năm qua là nhờ có sự lãnh đạo trực
tiếp của Đảng uỷ Quân chủng, Đảng uỷ Bộ Tham mưu, sự chỉ đạo sát sao của Thủ trưởng Bộ Tư lệnh, Thủ trưởng Bộ
Tham mưu Quân chủng về định hướng hoạt động cho ngành, trang bị đường lối quân sự, quán triệt tư tưởng chỉ đạo
tác chiến cho đội ngũ dẫn đường. Sự quyết đoán trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, tin tưởng vào khả năng làm việc
của đội ngũ dẫn đường, thái độ ân cần, quan tâm đến công tác dẫn đường của người chỉ huy và thủ trưởng cơ quan
tham mưu các cấp; tinh thần quả cảm, trình độ bay điêu luyện của đội ngũ phi công và lái chính; sự nỗ lực làm việc
hết mình và giúp đỡ hết lòng của các cơ quan và đơn vị, của các ngành bảo đảm luôn là nguồn động viên, khích lệ trực
tiếp để đội ngũ dẫn đường không ngừng vươn lên.

Những tấm gương dũng cảm hy sinh thân mình trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu của đội ngũ dẫn
đường trên không, những phần thưởng cao quý của Nhà nước và của quân đội trao tặng các đồng chí dẫn đường trên
không, dẫn đường sở chỉ huy, cho các đồng chí phi công làm công tác dẫn đường vì đã lập nhiều thành tích xuất sắc
trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, những công lao của các thế hệ dẫn đường đã góp phần quan trọng tạo nên
truyền thống tốt đẹp của ngành Dẫn đường Không quân. Những truyền thống đó là:

1. Thường xuyên xây dựng đội ngũ dẫn đường có bản lĩnh vững vàng, xây dựng ý chí, quyết tâm luôn gắn
liền với xây dựng năng lực, trình độ công tác, biết đồng tâm, hiệp lực, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao.

2. Dẫn đánh thắng trận đầu đi đôi với xây dựng cách dẫn sở trường cho các loại máy bay và trực thăng để
luôn giành hiệu suất chiến đấu cao.

3. Cần cù trong học tập, miệt mài trong rèn luyện kỹ năng thực hành, tận tuỵ trong công tác, nắm vững cách
bay, làm chủ cách dẫn, sử dụng thành thạo các phương tiện, thiết bị dẫn bay và các dụng cụ dẫn đường.

Trên chặng đường 45 năm, với sự nỗ lực cố gắng vươn lên liên tục, ngành Dẫn đường Không quân đã viết
nên lịch sử vẻ vang và tạo dựng truyền thống tốt đẹp cho mình. Lịch sử và truyền thống đó được hoà quyện trong lịch
sử và truyền thống chung của Quân chủng, của Bộ Tham mưu và của các đơn vị, nhà trường và học viện.

Trong giai đoạn cách mạng mới, lịch sử vẻ vang và truyền thống tốt đẹp của ngành Dẫn đường Không quân
tiếp tục được phát huy, trí tuệ và công sức của đội ngũ dẫn đường không quân tiếp tục được cống hiến cho sự nghiệp
xây dựng Quân chủng Phòng không-không quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần bảo
vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
III. PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ GIÀNH CHO TẬP THỂ VÀ CÁC CÁ NHÂN CÓ THÀNH TÍCH
TRONG CHIẾN ĐẤU VÀ PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU (THỐNG KÊ CHƯA ĐẦY ĐỦ)

Tập thể:

Ban dẫn đường Binh chủng Không quân, Huân chương Chiến công hạng Nhì.

Cá nhân:

1 Hoàng Cần: Huân chương Ít-sa-la hạng Nhất.

2. Phan Phi Phụng: Huân chương Ít-sa-la hạng Nhất.

3. Lê Thế Hưng: Huân chương Ít-sa-la hạng Nhất.

4. Phạm Ngọc Lan: Huân chương Chiến công hạng nhất.

5. Liệt sĩ Phan Văn Túc: Huân chương Chiến công hạng Nhất và 2 hạng Nhì.

6. Liệt sĩ Phạm Thanh Tâm: Huân chương Chiến công hạng Ba.

7. Liệt sĩ Lê Xuân Kịch: Huân chương Chiến công hạng Ba.

8. Liệt sĩ Ngô Phượng Châu: Huân chương Chiến công hạng Ba.

9. Liệt sĩ Hồ Văn Tiếp: Huân chương Chiến công hạng Ba.

10. Liệt sĩ Bùi Đình Vận: Huân chương Chiến công hạng Ba.

11. Liệt sĩ Nguyễn Đình Hồi: Huân chương Chiến công hạng Ba

12. Hoàng Biểu: 3 Huân chương Chiến công hạng Ba.

13. Nguyễn Công Huy: Huân chương Chiến công hạng Ba.

14. Nguyễn Đình Nhẫn: Huân chương Chiến công hạng Ba.

15. Thân Xuân Hạnh: Huân chương Chiến công hạng Ba.

16. Đỗ Tuấn: Huân chương Chiến công hạng Nhì, hạng Ba và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba của
Nhà nước Cam-pu-chia.

17. Vũ Mạnh Huân: chương Chiến công hạng Nhì, 2 hạng Ba và Huân chương Hữu nghị của Nhà nước
Cam-pu-chia

18. Trần Đình Lợi: Huân chương Chiến công hạng Ba và Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Cam-pu-
chia.

19. Phạm Như Cận: Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng Ba.

20. Vũ Xuân Cán: Huân chương Chiến công hạng Ba.

21. Âu Văn Hùng: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (phong tặng ngày 20 tháng 12 năm 1979), 2
Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng Ba và Huân chương Hữu nghị của Nhà nước
Cam-pu-chia.

22. Nguyễn Văn Chuyên: Huân chương Chiến công hạng Ba.
23. Lê Thành Chơn: Huân chương Chiến công hạng Nhì và hạng Ba.

24. Phạm Minh Cậy: Huân chương Tiến công hạng Nhì và hạng Ba.

25. Lê Thiết Hùng: Huân chương Chiến công hạng nhất và hạng Ba.

26. Tạ Quốc Hưng: Huân chương Chiến công hạng nhất và hạng Ba.

27. Đặng Dũng: Huân chương Chiến công hạng Ba.

______________________

You might also like