You are on page 1of 478

3K5H6

Mã số:
CTQG - 2016

2
TỔNG CHỦ BIÊN
GS. ĐẶNG XUÂN KỲ

PHÓ TỔNG CHỦ BIÊN


GS. SONG THÀNH

NHÓM BIÊN SOẠN TẬP 4


NGÔ VĂN TUYỂN (Chủ biên)
PGS.TS. LÊ VĂN TÍCH
TS. NGUYỄN VĂN KHOAN
TS. NGUYỄN XUÂN THÔNG

NHÓM BIÊN SOẠN, CHỈNH SỬA, BỔ SUNG TẬP 4


PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH (Chủ biên)
TS. LÊ THỊ THU HỒNG
CN. ĐINH THỊ HOÀI
NĂM
LỜI NÓI1955
ĐẦU

Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 4 ghi lại những hoạt
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bốn năm đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, từ ngày 19-12-1946 đến
hết năm 1950.
Đây là thời kỳ đặc biệt quan trọng trong lịch sử của dân
tộc ta. Vượt qua muôn vàn khó khăn, gian lao, thử thách trong
những ngày đầu dựng nước, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
non trẻ đã đứng vững: chính quyền được củng cố, lực lượng vũ
trang thêm lớn mạnh, uy tín quốc tế được nâng cao, biên giới
được khai thông... tạo ra những điều kiện cơ bản cho những
thắng lợi to lớn về sau.
Thành tựu đạt được trong thời gian này gắn liền với những
hoạt động phong phú, đầy tài trí của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người đã cùng Thường vụ Trung ương Đảng và Chính
phủ xác định đường lối chiến lược cho cuộc kháng chiến cứu
nước: trường kỳ, toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến vừa
kiến quốc; lãnh đạo và huy động sức mạnh tổng hợp của toàn
dân chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và
bọn can thiệp Mỹ.
Chỉ đạo việc xây dựng và củng cố chính quyền, quân đội, tài
chính, thương nghiệp, bưu điện, giao thông vận tải, văn hóa -

V
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

xã hội, giáo dục, y tế, thuế khóa... đặt cơ sở cho việc hoàn thiện
cơ cấu tổ chức của Nhà nước dân chủ mới.
Chủ động phá thế bao vây, cô lập Việt Nam của chủ nghĩa
đế quốc; mở ra những mối liên hệ với nước ngoài để một mặt
giới thiệu cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với
bạn bè quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các nước, mặt khác
thu nhận những thông tin của đời sống chính trị thế giới.
Đặc biệt, đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật sang
Trung Quốc và Liên Xô, hội đàm với các nhà lãnh đạo của hai
nước, dẫn tới sự kiện Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước xã
hội chủ nghĩa ngay sau đó đã lần lượt công nhận và đặt quan
hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra
một thời kỳ mới cho cuộc kháng chiến thần thánh của nhân
dân ta.
Trong những lời kêu gọi, những bức thư gửi các nhà lãnh
đạo các nước, các chính khách và nhân dân thế giới, những
câu trả lời phỏng vấn của các nhà báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam là mong muốn
sớm giải quyết cuộc chiến tranh Pháp - Việt trên tinh thần
tôn trọng độc lập, tự do của Việt Nam, làm giảm đau khổ
cho cả hai dân tộc, góp phần giữ gìn hòa bình, an ninh trong
khu vực và trên toàn thế giới. Đồng thời, cũng khẳng định
quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết hy sinh chiến đấu
đến cùng để giành bằng được độc lập và thống nhất cho Tổ
quốc. Trong quan hệ với các nước, Người chủ trương: Việt
Nam muốn làm bạn với mọi nước, không gây thù oán với một
ai, sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào
tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền
quốc gia của nước Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện và chỉ ra những căn
bệnh mới nảy sinh trong hoạt động của cán bộ chính quyền

VI
TẬ P 4 : 1946 - 1950
và đoàn thể như bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa địa phương, tệ quan liêu xa rời quần chúng, v.v.,
nên Người đã hết sức chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên về
đạo đức cách mạng, phương pháp và phong cách công tác,
nêu cao khẩu hiệu “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” cho
cán bộ, chiến sĩ và toàn dân học tập, rèn luyện.
Người phát động phong trào Thi đua ái quốc để động viên
và huy động sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn thể nhân
dân Việt Nam vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc.
Người phấn đấu không mệt mỏi để củng cố khối đoàn kết
toàn dân, chỉ đạo thành lập khối liên minh đoàn kết chiến đấu
giữa ba nước Việt - Miên - Lào...
Tập 4 Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử đã góp phần làm sáng
tỏ thêm tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách và một
phần đời sống riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những
năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Cũng như các tập khác của Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử,
tập 4 được biên soạn theo những nguyên tắc và phương pháp
đã nêu trong Lời giới thiệu ở tập 1. Nguồn tư liệu chính dùng
biên soạn là những tài liệu khai thác từ các kho lưu trữ của
Đảng và Nhà nước, các bảo tàng, các báo Sự thật, Cứu quốc,
Nhân dân, v.v., các biên bản Hội đồng Chính phủ, các sắc lệnh
do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, thư từ, tài liệu, bút tích của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, hồi ký của những người đã trực tiếp làm
việc, tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những sự kiện có
liên quan và căn cứ vào bộ sách Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất
bản lần thứ ba, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
Một số sự kiện đã được khai thác từ những công trình
nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của các tác giả nước
ngoài, hồi ký của một số chính khách có quan hệ với Người

VII
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

trước đây, sau khi đối chiếu xác minh cũng đã được lựa chọn
đưa vào tập này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn cuốn sách vẫn
khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được
sự góp ý của bạn đọc gần xa.

Hà Nội, tháng 8 năm 2016


NHÓM BIÊN SOẠN

VIII
NĂM 1946

Tháng 12, ngày 19


Sáng sớm, sau khi nhận được tối hậu thư của Bộ Chỉ huy
quân đội Pháp1), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một bức thư gửi
G. Xanhtơny (J. Sainteny), Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Đông
Dương. Nội dung bức thư như sau: “Những ngày vừa qua tình
hình trở nên căng thẳng hơn. Thực là rất đáng tiếc. Trong khi
chờ đợi quyết định của Pari, tôi mong rằng ông sẽ cùng ông
Giám tìm một giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại”2).
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ trì Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc (Hà
Đông, nay thuộc thành phố Hà Nội).
Trong ngày, tại gác hai ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Dương
(làng Vạn Phúc), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến. Lời kêu gọi có đoạn:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

1) Đây là tối hậu thư thứ ba Pháp gửi cho ta trong hai ngày. Pháp yêu cầu
đình chỉ mọi hoạt động để chuẩn bị kháng chiến, tước vũ khí của tự vệ
Hà Nội, trao việc duy trì trật tự an ninh của thành phố cho Pháp.
2) Thư này Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho ông Hoàng Minh Giám để chuyển
cho G. Xanhtơny ngay chiều hôm đó. Viên Cao ủy khước từ và nói phải đợi
đến ngày hôm sau mới nhận.

1
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
... Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên
quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
Cả dân tộc nhất tề cầm vũ khí lao vào cuộc kháng chiến
theo lệnh của Người.
18 giờ 40 phút cùng ngày, Người rời Vạn Phúc chuyển đến
Xuân Dương (Thanh Oai, Hà Đông), bắt đầu cuộc hành trình
lên Việt Bắc.
- Bút tích lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Võ Nguyên Giáp: Những năm tháng không thể nào quên,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974, tr.420-425.
- Philippe Devillers: Paris - Saigon - Hanoi, Gallimard/Julliard,
Paris, 1988, p. 296.
- Nhật ký Vũ Kỳ, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên, Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.153.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.160-161.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.534.

Tháng 12, ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 01-SL, thành lập tại
mỗi khu quân sự, mỗi đơn vị hành chính từ cấp tỉnh trở xuống,
một Ủy ban bảo vệ có nhiệm vụ thi hành những mệnh lệnh và
chỉ thị của cấp trên về bảo vệ đất nước.
Sắc lệnh quy định rõ thành phần, quyền hạn và phương
thức hoạt động của Ủy ban này.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.572.

2
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 12, ngày 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi dân chúng Việt Nam, dân
chúng Pháp, dân chúng các nước Đồng minh, tố cáo dã tâm của
thực dân Pháp muốn cướp nước Việt Nam một lần nữa, khẳng
định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu
đến cùng để giành lại tự do, độc lập và bày tỏ thiện chí đối với
nhân dân và binh lính Pháp.
1946
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, phông Hồ Chí Minh.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.6-8.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.535-538.

Tháng 12, ngày 23


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Hỏi và trả lời, để giải đáp ba
vấn đề: 1. Kháng chiến sẽ bao giờ thắng lợi? 2. Toàn dân kháng
chiến là thế nào? 3. Chiến sĩ đánh trước mặt trận, đồng bào ở
hậu phương nên làm việc gì?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, Người chỉ rõ: “Giồng khoai 3 tháng
mới có củ, giồng lúa 4 tháng mới được ăn. Giồng tự do độc lập
ít nhất cũng phải 1 năm, hoặc 5, 7 tháng... Muốn trị lửa phải
dùng nước. Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ
kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”.
Người giải thích về toàn dân kháng chiến: “Toàn dân kháng
chiến nghĩa là toàn cả dân, ai cũng đánh giặc. Bất kỳ đàn ông
đàn bà, người già con trẻ, ai cũng tham gia kháng chiến”, và
kết luận:
“Dân ta phải giữ nước ta,
Dân là con nước, nước là mẹ chung”.
Người tóm tắt nội dung đã trả lời trong câu hỏi thứ ba bằng
bốn câu thơ:
“Tiền phương chiến sĩ hy sinh,
Đem xương máu mình, giữ nước non ta.

3
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Hậu phương sản xuất tăng gia.


Cũng là kháng chiến, cũng là vẻ vang”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn trả lời Thủ
tướng Pháp Lêông Blum về bức điện của ông ta mà Người mới
nhận được chiều hôm trước (ngày 22-12). Trong điện văn,
Chủ tịch đã nói rõ thêm về hành động tàn bạo ngang ngược
của các nhà chức trách Pháp ở Hà Nội từ ngày 17-12 đến ngày
19-12, và hy vọng phía Pháp sẽ nhận được lệnh “phải rút quân
đội về những vị trí trước ngày 17-12 và phải đình chỉ những
cuộc hành binh mệnh danh là tảo thanh, để cho cuộc xung đột
chấm dứt ngay”.
- Bút tích lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.9.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.539-540, 541.

Tháng 12, ngày 24


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các kiều dân Pháp và Gửi
các tù binh Pháp.
Trong cả hai bức thư, Người đều bày tỏ sự thông cảm trước
cảnh ngộ hiện nay của họ - những người Pháp mà Người vẫn
coi là bạn - đang là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm
lược do bọn thực dân phản động gây ra chỉ vì quyền lợi ích kỷ
của chúng. Người mong một ngày gần đây, nhân dân hai nước
Pháp và Việt Nam sẽ có thể cùng nhau hợp tác trong hòa bình
và thân ái để mưu hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc.
Cùng ngày, Người còn viết Thư gửi đồng bào nhân ngày lễ
Thiên Chúa giáng sinh.
Người chỉ rõ hành động xâm lược của thực dân Pháp đã
“làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Giêsu” và kêu gọi đồng
bào “không chia lương giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng
kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng để giữ gìn
quyền tôn giáo tự do”. Người chúc phúc toàn thể đồng bào

4
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Công giáo và “kính cẩn cầu Đức Thượng đế phù hộ dân tộc Việt
Nam và giúp cho Việt Nam đi đến cuộc thắng lợi cuối cùng”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.14-15.
- Bút tích lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.542-544.
1946
Tháng 12, ngày 26
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 02-SL, ủy quyền cho
các Ủy ban Kháng chiến Khu thiết quân luật trong địa phận,
nhưng phải báo cáo với Bộ Quốc phòng và thông báo ngay cho
các cơ quan hành chính và dân chúng. Trước khi bãi lệnh thiết
quân luật, phải được Bộ trưởng Quốc phòng chấp thuận (trừ
khi giao thông bị gián đoạn).
Tối, Người tới một địa điểm thuộc tỉnh Hà Đông (nay
thuộc thành phố Hà Nội) chủ trì phiên họp mở rộng của Hội
đồng Chính phủ với sự tham gia của Ban Thường trực Quốc
hội và Ủy ban kiến thiết để bàn biện pháp đẩy mạnh công
cuộc kháng chiến. Kết luận phiên họp, Người khẳng định lại
quyết tâm kháng chiến đến cùng để giành lại độc lập, tự do
cho dân tộc.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- “Bác Hồ với Hà Tây, những di tích lịch sử”, tạp chí Lịch sử
Đảng, tháng 3-1992, tr.21.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.4.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.572.

Tháng 12, ngày 27


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Một vài ý kiến về các Ủy
ban Kiến thiết, động viên dân chúng, tăng gia sản xuất, Ủy
ban Tản cư.

5
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sau khi phân tích ý nghĩa của sự phân công và nhấn mạnh
sự cần thiết phải hợp tác trong hoạt động, trong việc phối hợp
kế hoạch... giữa các cơ quan chuyên môn đó, Người nêu những
ý kiến cụ thể hướng dẫn việc tổ chức, cách thức hoạt động và
nội dung công việc của các ủy ban trên trong việc động viên
nhân dân về tinh thần và vật chất vào công cuộc trường kỳ
kháng chiến.
- Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.545-549.

Tháng 12, ngày 28


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi anh em Hoa kiều bày tỏ
sự thông cảm với những nỗi khổ cực của họ dưới ách thống trị
của thực dân Pháp trong hơn 80 năm qua, vạch trần thủ đoạn
“bảo hộ Hoa kiều” của chúng, đồng thời biểu dương tình nghĩa
của Hoa kiều đối với nhân dân Việt Nam và mong rằng: “Trong
cơn hoạn nạn, Hoa - Việt anh em, cảm tình càng nồng, đoàn
kết càng chặt”.
Người gửi thư cho Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến,
căn dặn: phải đối đãi tử tế, chăm sóc chu đáo những tù binh
và thường dân Pháp để họ thấy rõ mục đích kháng chiến của
nhân dân ta và chính sách nhân đạo của Chính phủ.
Trong thư viết cùng ngày gửi Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng
Hữu Nam, Người nhắc cần có sự giúp đỡ để Hội nghị trí thức
và quan lại cũ thành công, cần thận trọng việc mua sắm vũ
khí cho kháng chiến.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 03NV-SL về việc tạm hoãn các cuộc tuyển cử
vào Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính và việc bổ sung
người thay các ủy viên hành chính vì lý do nào đó, không thể
tiếp tục chức vụ cũ.

6
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 04-SL, ủy quyền cho Ủy ban bảo vệ cấp Khu
ân xá, ân giảm, phóng thích các tội phạm do các tòa án thường,
tòa án quân sự, tòa án binh (trừ tòa án binh tại mặt trận) kết
án và những thủ tục khi tội phạm muốn xin được hưởng các
quyền nói trên.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. 1946
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.6.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.550-552.

Tháng 12, ngày 29


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam,
nhắc Bộ Nội vụ cần tổ chức mau các Ủy ban Tản cư và Ủy ban
Động viên dân chúng tăng gia sản xuất.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4, tr.554.

Tháng 12, ngày 30


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam đề
nghị nên mời cụ Nguyễn Văn Tố tham gia Ủy ban Tản cư hoặc
Ủy ban Động viên dân chúng.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 31


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 05-SL, về việc thành
lập Ủy ban Tản cư Trung ương và các Ủy ban Tản cư của các
tỉnh, phủ, huyện, làng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

7
NĂM 1947

Tháng 1, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đầu năm mới (năm 1947).
Người thay mặt Chính phủ gửi tới toàn thể đồng bào và
kiều bào ở nước ngoài, bộ đội, tự vệ và dân quân, thanh niên,
phụ nữ và các cháu nhi đồng lời chúc mừng “một năm mới
đoàn kết, một năm mới kiên quyết kháng chiến, một năm mới
thắng lợi” và kêu gọi mọi người: “Năm mới chúng ta phải đem
lực lượng mới, quyết tâm mới để giành lấy thắng lợi mới, để
xây dựng một đời sống mới, một nước non mới”.
Người cũng thay mặt cả nước gửi lời chào năm mới tới
nhân dân Pháp.
Cùng ngày, Người viết Thư gửi Chính phủ và nhân dân Pháp
nhân dịp đầu năm mới và Thư gửi tướng Lơcléc (Leclerc).
Trong Thư gửi Chính phủ và nhân dân Pháp, Người nói rõ:
“Mong quốc dân Pháp hiểu rằng chúng tôi không thù hằn gì
dân tộc Pháp. Chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu, chống bọn
thực dân phản động đang mưu mô xẻ cắt Tổ quốc chúng tôi,
đưa chúng tôi vào vòng nô lệ và gieo rắc sự chia rẽ giữa hai
dân tộc Pháp và Việt. Nhưng chúng tôi không chiến đấu chống
nước Pháp mới và quốc dân Pháp, chúng tôi lại còn muốn hợp
tác thân ái”.
Trong Thư gửi tướng Lơcléc, Người hy vọng với tư cách
và cương vị của mình, “có lẽ ngài có thể tạo được hòa bình,

8
TẬ P 4 : 1946 - 1950
một nền hòa bình hợp công lý và xứng đáng, thuận tiện cho
hai dân tộc chúng ta, mặc dầu trong hoàn cảnh do kẻ khác
gây ra, mà vẫn không dứt tình hữu nghị”. Đồng thời khẳng
định: “Chúng tôi đã nhất quyết ở trong khối Liên hiệp Pháp1,
cộng tác thành thực với nước Pháp và tôn trọng quyền lợi
kinh tế, văn hóa Pháp trong nước chúng tôi. Nhưng chúng
1947
tôi cũng nhất quyết chiến đấu đến cùng cho độc lập và thống
nhất quốc gia”.
Trong ngày, Người viết thư cho ông Hoàng Hữu Nam,
căn dặn:
“Về động viên dân chúng:
1. Nên thêm câu này cho dân dễ hiểu: Vì địch muốn đánh
mau như LỬA, ta phải kéo dài như NƯỚC. Ta dùng nước chống
với lửa thì ta chắc thắng.
2. Những người danh vọng trong mỗi giới phải đứng ra kêu
gọi giới mình. Như cụ Bùi1) và các cụ khác khai hội với quan
lại cũ, khuyến khích và giải thích rồi mỗi người về kêu gọi địa
phương của họ. Tôn giáo, văn hóa, v.v. cũng vậy.
3. Cần nói rõ cho dân hiểu, hạng người nào thì nên giúp
kháng chiến thế nào: Chung: Tăng gia sản xuất, giữ bí mật, đào
hầm trú ẩn, cất lúa, cất muối cho khỏi cháy, giúp việc phá hoại
giao thông của địch, v.v.. Riêng: Phụ nữ có thể tổ chức đội vá
áo, đội giặt áo, đội cứu thương, v.v.. Nhi đồng có thể đưa tin,
trinh thám, v.v..
4. Cách động viên: Trong kế hoạch cũng cần nói đến: Khai
hội, đọc lời thề, dán khẩu hiệu, v.v. như A2) đã viết qua thư trước.
Về tản cư:
1. Những khu xung quanh chiến địa, phải chuẩn bị sẵn,
chia làm Đông, Tây, Nam, Bắc. Phía nào chừng dùng được mấy

1) Cụ Bùi Bằng Đoàn (B.T).


2) Mật danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó (B.T).

9
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

người chạy nạn. Nếu không vậy thì ùa nhau chạy đến một chỗ,
rất nguy hiểm (như tàu bay ném bom hoặc người đông quá ứ
lại, chạy không được). Phải có sẵn người để chỉ đường.
2. Làm sổ theo A. B. C., cho dễ tìm, dễ điều tra.
3. Trong lúc tản cư và trong vùng tản cư, phải có kế hoạch
tuyên truyền để giữ vững tinh thần của dân, kế hoạch PHÒNG
GIAN để chúng không lẫn vào trong đám người tản cư, đặng
thám thính và nhiễu loạn trật tự, phao tin nhảm, v.v..
...
Thêm: Trừ những người rất cần ở lại, các ủy ban và các
nhân viên không cần lắm phải rời khỏi thành Hà Đông đi ngay”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.13-18.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.1-3, 5-8.

Tháng 1, ngày 2
Nhân dịp Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Mutê (Moutet)
sang Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng
vấn của các nhà báo về ý nghĩa cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam. Người nêu rõ: “1. Việt Nam không chiến tranh
chống nước Pháp và dân Pháp vì ta muốn hai dân tộc Việt -
Pháp cộng tác thật thà. 2. Nhưng tự do độc lập là quyền trời
cho của mỗi dân tộc. Bọn thực dân phản động dùng vũ lực phá
hoại quyền thống nhất và độc lập của dân ta, cho nên dân ta
phải kháng chiến để giữ gìn đất nước”.
Về triển vọng của cuộc kháng chiến, Người khẳng định:
“Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết tranh đấu cho Tổ
quốc họ thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được
họ. Dân Việt Nam muốn hòa bình, nhưng vì vận mệnh của
Tổ quốc, của giống nòi, thì sẽ kháng chiến đến cùng, kháng
chiến đến thắng lợi”.

10
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Buổi chiều, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc
cần theo dõi việc người Pháp ở Vinh, việc gửi thư của Người
cho anh em thương binh...
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.19-20.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1947
2011, t.5, tr.9-10.

Tháng 1, ngày 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Mutê - Bộ trưởng Bộ
Thuộc địa Pháp, Ủy viên Chính phủ Pháp sang điều tra tình
hình Đông Dương - sau khi biết tin ông tới Hà Nội. Bức thư
có đoạn:
“Tôi lấy làm vui mừng được biết ngài tới Hà Nội. Xin có
lời chào mừng ngài, vì ngài vừa là bạn cũ, vừa là đại diện cho
nước Pháp mới, vừa là sứ giả của hòa bình.
Tôi rất mong và rất sung sướng được hội kiến với ngài lâu
một chút để tỏ rõ ý muốn thành thực hòa bình và cộng tác của
chúng tôi, và để chuyển đệ với ngài những đề nghị của chúng
tôi về việc lập lại sự giao hảo giữa hai nước chúng ta”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.21.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.11.

Tháng 1, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam
nhắc nhở việc chuẩn bị tài liệu để chào đón Bộ trưởng Mutê,
Ủy viên của Chính phủ Pháp.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.12.

11
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 1, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam,
nêu năm vấn đề cần chú ý:
- Tuyên truyền,
- Liên lạc và tổ chức,
- Việc sinh hoạt của các Bộ trong Chính phủ,
- Động viên lôi kéo công nhân viên chức,
- Phá đường, ngăn chặn sự tiến công của địch.
Cuối thư, Người còn vẽ một sơ đồ (gồm cả mặt cắt ngang và
cắt dọc của con đường) để chỉ dẫn cụ thể cách thức đào đường
nhưng vẫn đảm bảo sự đi lại của nhân dân mà xe địch không
qua được.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Cù Huy
Cận1). Toàn văn bức thư như sau:
“Chú Cận,
Đã lâu không gặp chú, nhớ lắm.
Nay có việc cần. Chú phải về ngay. Về đến thì tìm gặp
Nam gấp.
Công việc trong đó, giao lại cho chú Nhân.
Tôi gửi lời thăm tất cả đồng bào trong ấy.
Chờ chú.
Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 5 tháng 1 năm 1947
Hồ Chí Minh”.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.13.

Tháng 1, ngày 6
Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng
Hữu Nam, căn dặn những việc:

1) Lúc này là Thứ trưởng Bộ Canh nông (B.T).

12
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Giúp Hoa kiều ở Quảng Yên (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh)
tản cư.
- Bàn với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng về việc
tuyên truyền, kêu gọi dân chúng.
- Vấn đề đăng ký của các viên chức nhà nước.
12 giờ, Người viết lá thư thứ hai gửi ông Hoàng Hữu Nam
1947
nhắc một số việc về công tác tổ chức.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Chính phủ, Quốc hội và
nhân dân Pháp, nêu rõ lập trường, nguyện vọng, thái độ của
Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến hiện nay,
những biện pháp vãn hồi hòa bình.
Kết thúc bức thư, Người viết: “Chính phủ và nhân dân Pháp
chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập và thống nhất của
nước Việt Nam là chấm dứt được những tai biến này; hòa bình
và trật tự sẽ trở lại ngay tức khắc. Dân tộc Việt Nam đang chờ
đợi cử chỉ đó.
Nước Pháp mới muôn năm!
Nước Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Tình thân thiện Pháp Việt muôn năm!”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.22-23.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.14-15.

Tháng 1, ngày 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng báo Độc lập bài thơ sau đây:
Năm mới thế cho năm đã cũ.
Báo “Độc lập” của Đảng Dân chủ.
Kêu gọi toàn thể dân Việt Nam,
Đoàn kết và thắt chặt hàng ngũ,

13
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Kiên quyết kháng chiến đến kỳ cùng,


Để giữ chủ quyền và lãnh thổ.
Chờ ngày độc lập đã thành công.
Tết ấy tha hồ bàn với cỗ.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư khen ngợi các
chiến sĩ bị thương và sự tận tâm của các y sĩ, khán hộ, cứu
thương.
Người biểu dương các chiến sĩ bị thương “thật xứng đáng
với Tổ quốc, và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người
con yêu quý như thế”.
Người khen ngợi các thầy thuốc và khán hộ đã hết lòng
chăm sóc chu đáo thương binh. “Thế là các bạn cũng trực tiếp
tham gia kháng chiến cứu quốc”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Tết kháng
chiến, hô hào đồng bào “Phải hết sức tiết kiệm, để dành tiền
bạc, cơm gạo, cho cuộc kháng chiến lâu dài”, “Làm những
việc cần kíp, để phòng trước bọn địch tấn công”, “Ra sức thi
nhau tăng gia sản xuất”, “Rủ nhau gửi đồ uý lạo cho chiến sĩ
ở tiền phương”.
Người còn viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam lưu ý việc kêu
gọi trí thức, quan lại cũ tham gia công cuộc kháng chiến; việc
chuẩn bị các tài liệu để tuyên truyền.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.16-19.

Tháng 1, ngày 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh hai lần viết thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam. Người có nhắc đến việc Bộ Nội vụ cho đăng báo bài Lời
kêu gọi những người có văn hóa đăng ký phục vụ Tổ quốc.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

14
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 1, ngày 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi Chính phủ và nhân
dân Pháp.
Người đã kiên quyết bác bỏ những nhận xét sai lầm về tình
hình Việt Nam của Bộ trưởng Mutê sau chuyến công cán sang
Đông Dương, một lần nữa nêu rõ nguyện vọng của nhân dân 1947
Việt Nam là “bao giờ cũng muốn cộng tác với dân tộc Pháp
như anh em, trong hòa bình và tin tưởng lẫn nhau”, “bao giờ
cũng muốn độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp”,
“bao giờ cũng muốn kiến thiết lại nước chúng tôi với sự giúp
đỡ của tư bản và các nhà chuyên môn Pháp để mưu lợi ích
chung cho cả hai dân tộc”, “muốn hòa bình ngay để máu người
Pháp và Việt ngừng chảy”; đồng thời Người cũng khẳng định:
“Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một
cử chỉ mang lại hòa bình. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải
chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước. Nước
Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng
mạnh hơn sau cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ
mất hết và sẽ biến hẳn khỏi cõi Á châu”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.26-27.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.23-24.

Tháng 1, ngày 11
14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam nhắc việc tiếp đón các nhà báo Anh, Mỹ.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh điện trả lời 12 câu hỏi của một nhà
báo Mỹ, nêu rõ lập trường của Việt Nam đối với Pháp và tỏ ý
mong muốn xây dựng quan hệ thân thiện với nhân dân Mỹ.

15
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Phần cuối bức điện, Người nói rõ:


“Các phóng viên Mỹ có quốc tịch Mỹ sẽ được đón tiếp khi
họ đến gặp các nhà chức trách Việt Nam... Việt Nam muốn giữ
mối liên hệ với nước Mỹ”.
- Bản gốc tiếng Anh lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, bản
chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.28-29.

Tháng 1, ngày 13
Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng
Hữu Nam nói về âm mưu của thực dân Pháp chiếm Hà Nội, về
cách đối phó và những biện pháp quân sự của ta.
Tối, Người rời Xuân Dương, qua phà Ba Thá sang đất
Chương Mỹ.
Khoảng nửa đêm, Người tới xóm Lai Cài, thôn Phú Đa, xã
Cần Kiệm, Thạch Thất, Sơn Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Trong ngày, Người viết Thư gửi các lãnh tụ và nhân dân
các nước.
Sau khi vạch trần việc làm bất nhân bội ước của thực dân
Pháp, Người phân tích ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Việt
Nam do Pháp gây ra đối với “đại gia đình châu Á”, với hòa bình
thế giới, với số phận của khối Liên hiệp Pháp và uy tín của
nước Pháp.
Cuối thư, Người viết: “Vì Tổ quốc, vì tự do, nhân dân Việt
Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng. Vì nhân đạo, chính
nghĩa, vì hòa bình chung và lợi ích chung, nhân dân Việt Nam
mong các vị giúp đỡ mọi phương diện”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- “Bác Hồ với Hà Tây, những di tích lịch sử”, tạp chí Lịch sử
Đảng, tháng 3-1992, tr.22-23.
- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.153.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.30-31.

16
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 1, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bức thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam nhắc gặp lãnh sự Trung Hoa về việc tiếp tế cho Hoa kiều;
việc tranh thủ dịp Tết tiếp tế cho các đồng chí trong vùng địch
tạm chiếm.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. 1947

Tháng 1, ngày 15
Nhân dịp ngày độc lập của Diến Điện1), Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt nhân dân Việt Nam và nhân danh cá nhân gửi
thư chúc mừng tới nhân dân Diến Điện.
Trong thư, Người cũng cảm ơn các vị lãnh tụ châu Á đã
tỏ cảm tình với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu giải
phóng đất nước, nêu rõ mối quan hệ mật thiết giữa vận mệnh
các dân tộc châu Á với vận mệnh dân tộc Việt Nam và mong
được tất cả các nước giúp đỡ.
Cùng ngày, hai lần Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam
hỏi về việc chuẩn bị cho cuộc họp Hội đồng Chính phủ, việc
thảo sắc lệnh và lưu ý trong các văn bản nên viết ngắn gọn, dễ
hiểu, “không dùng tiếng ngoại quốc”.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.32.

Tháng 1, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để nghe báo cáo của Bộ Quốc phòng về tình hình các mặt
trận ba miền Bắc, Trung, Nam và báo cáo của Bộ Nội vụ về tinh
thần nhân dân; thảo luận các vấn đề tản cư, di cư, vấn đề giáo
dục trong thời chiến, vấn đề chăm sóc thương binh.

1) Nay gọi là Mianma (B.T).

17
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tối, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam hỏi việc tản
cư của nhân dân Thủ đô và nhắc việc phải cử người đi động
viên nhân dân, phân công người làm công tác tuyên truyền.
Cùng ngày, Người viết Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để
kháng chiến. Sau khi giải thích “Vì sao ta phải kháng chiến”
và ý nghĩa của việc phá hoại đối với cuộc kháng chiến, Người
hô hào “mọi người đều ra sức giúp phá. Phá cho rộng, phá
cho sâu, phá sao cho bọn Pháp không lợi dụng được. Một nhát
cuốc của đồng bào, cũng như một viên đạn của chiến sĩ bắn
vào quân địch vậy”.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.34-35.

Tháng 1, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới ông Vanhxăng
Ôriôn (Vincent Auriol) nhân dịp ông được bầu làm Tổng thống
nước Cộng hòa Pháp.
Bức điện có đoạn:
“Nhân dịp này, tôi xin nói để ngài rõ là dân tộc Việt Nam chỉ
mong được độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp.
Tôi rất đau lòng trông thấy những người đáng lẽ là bạn bè
anh em với nhau, mà nay phải tàn sát lẫn nhau... Tôi xin đề
nghị cùng ngài lập lại ngay nền hòa bình để tránh cho hai nước
chúng ta khỏi bị hao người thiệt của, và để gây lại sự cộng tác
và tình thân thiện giữa hai dân tộc chúng ta”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.33.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.36.

Tháng 1, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi sư cụ chùa Ngũ Xã (quận
Ba Đình, Hà Nội) khuyên sư cụ nên tản cư đi kháng chiến.

18
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Chiều, Người cùng ông Võ Nguyên Giáp tới địa điểm họp
Hội đồng Chính phủ ở Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Cuộc họp bị hoãn vì không đủ người. 23 giờ, Người mới ra về.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.16-17.
1947
Tháng 1, ngày 21 (30 Tết)
Trưa, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư và thiếp Chúc mừng
năm mới tới ông Hoàng Hữu Nam.
Tối, Người đi họp Hội đồng Chính phủ ở phủ Quốc Oai. Trời
mưa, đường trơn, ôtô vừa chạy được một quãng thì sa một
bánh xuống ruộng. Anh em cùng đi phải vào xóm nhờ người
khênh xe.
21 giờ xe mới tới được địa điểm họp, Người vào dự ngay
cuộc họp tất niên của Hội đồng Chính phủ. Phát biểu với Hội
đồng, sau lời chúc mừng năm mới, Người nhấn mạnh ba công
việc chính cần xúc tiến gấp là tổ chức tốt việc tản cư di cư, công
tác động viên nhân dân và đẩy mạnh tăng gia sản xuất.
22 giờ 30 phút, Người lên xe đến Đài phát thanh Tiếng nói
Việt Nam đặt tại chùa Trầm ở Chương Mỹ, Hà Đông (nay thuộc
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội). Mưa nặng hạt hơn,
đường lầy lội, nhiều lúc xe không đi nổi phải xuống đẩy. Gần
đến 24 giờ, xe mới tới nơi. Người vào ngay buồng máy đọc bài
thơ Chúc Tết gửi đồng bào cả nước:
Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió,
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập, nhất định thành công!

19
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Đọc xong, Người thân mật nói chuyện với anh chị em
cán bộ, nhân viên Đài phát thanh và cảm ơn sư cụ, chúc nhà
chùa sang năm mới luôn cầu Phật cho kháng chiến chóng
thành công.
Quá giao thừa, Người mới ra xe trở về.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 07-SL, bổ
nhiệm Tổng Giám đốc Bưu điện Việt Nam.
- Nhật ký Vũ Kỳ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.17.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên, Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.153.

Tháng 1, ngày 22 (mồng Một Tết Đinh Hợi)

Chủ tịch Hồ Chí Minh dậy sớm và làm việc như thường lệ.
Người phân công từng người trong cơ quan đi chúc Tết các
nhà lân cận. Người trịnh trọng viết mấy chữ Hán “Cung hỷ tân
xuân”1) trên tờ giấy điều, kèm theo một quả cam, một quả quýt
gửi sang chúc Tết và mừng tuổi gia đình cụ chủ nhà.
21 giờ, Người tiếp các ông Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp,
Trần Đăng Ninh đến chúc Tết. Sau đó, Người cùng các vị họp
ngay bên bếp lửa cho đến 1 giờ sáng hôm sau.
Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 08-SL, cử người vào Ủy
ban Tản cư và di cư do ông Bùi Bằng Đoàn làm Chủ tịch, ông
Nguyễn Văn Tố làm Phó Chủ tịch, ông Phan Anh làm Thư ký
cùng tám ủy viên đại diện cho các Bộ.
- Nhật ký Vũ Kỳ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) Chúc mừng năm mới (B.T).

20
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 1, ngày 23
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Giám mục Lê Hữu Từ tỏ
ý mong muốn Giám mục lấy tư cách là cố vấn Chính phủ mà
giải thích, kêu gọi đồng bào Công giáo hăng hái kháng chiến
cứu quốc.
Cuối thư, Người viết: “Vì công việc còn bận, tôi chưa có 1947
thể gặp cụ để trực tiếp cảm ơn cụ, tôi xin phái người thân
tín là ông Huỳnh1) thay mặt tôi đến hỏi thăm và chúc cụ
mạnh khỏe.
Nhờ cụ cầu Đức Chúa ban phúc cho Tổ quốc và xin cụ nhận
lời chào thân ái của tôi”.
- Bản gốc bức thư lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.37.

Tháng 1, ngày 24
Nhân dịp Tết Đinh Hợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư chúc
Tết đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ.
Người biểu dương tinh thần hy sinh chiến đấu trong hơn
một năm qua của đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ vì thống nhất
và độc lập của Tổ quốc. Sau khi vạch trần thái độ lật lọng của
bọn thực dân phản động Pháp và khẳng định lời thề “Thà chết
chứ không làm nô lệ” của toàn dân Việt Nam, Người giải thích
về một số luận điệu phản tuyên truyền của thực dân Pháp
hòng chia rẽ đồng bào ta và nêu ba điểm trong chương trình
nội chính của Chính phủ để đồng bào hiểu rõ.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.34-35.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.38-40.

1) Vũ Đình Huỳnh, đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Ninh Bình (B.T).

21
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 1, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Chính phủ mới của Pháp
đề nghị chấm dứt chiến tranh.
Sau khi nêu rõ nguyên nhân đã dẫn tới cuộc chiến hiện
nay, và trịnh trọng nhắc lại lập trường trước sau như một của
nước Việt Nam là Độc lập và Thống nhất quốc gia trong khối
Liên hiệp Pháp, cộng tác thân thiện với nước Pháp trên cơ sở
bình đẳng và tôn trọng những thỏa hiệp đã ký kết, Người viết:
“Chúng tôi mong Chính phủ Pháp đình chỉ ngay cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn này và tin rằng dù có nhiều
sự khó khăn vẫn có thể giải quyết cơn khủng hoảng một cách
hòa bình và hợp đạo công bằng”.
13 giờ, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nhắc gửi
thư ngay cho lãnh sự Anh Tơrêdo Uynxơn (Tresor Wilson) và
lưu ý công việc chuẩn bị cho cuộc họp Hội đồng Chính phủ
kỳ tới.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.41-42.

Tháng 1, ngày 26
8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam nhắc việc cho phát Lời kêu gọi gửi Chính phủ Pháp.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các chiến sĩ cảm tử
quân Thủ đô1) thăm hỏi tình hình ăn Tết, khen ngợi tinh
thần gan dạ chiến đấu của các chiến sĩ và dặn dò những điều
cần thiết.

1) Một bộ phận của Trung đoàn Thủ đô (B.T).

22
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bức thư có đoạn:
“Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết
sinh1). Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc
ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh
qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại 1947
cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt
đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”.
10 giờ, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam góp ý kiến
về nhân sự, tổ chức trong Hội đồng Chính phủ.
Cùng ngày, Người còn gửi một bức điện tới ông Aung San -
Phó Chủ tịch Chính phủ Diến Điện và một bức điện tới các ông
Nêru (Nehru) - Phó Chủ tịch Chính phủ lâm thời Ấn Độ, Sara
Săngđra Bôdơ (Sarah Chandra Bose) - Bộ trưởng Bộ Công
chính Ấn Độ, Cripalani (Kripalani) - Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ
và Ginna (Jinnah) - lãnh tụ Đảng Hồi giáo Ấn Độ.
Cả hai bức điện đều bày tỏ lòng biết ơn chân thành của
Người về những việc các ông đã làm và sẽ làm để giúp cho
cuộc đấu tranh giành tự do của nhân dân Việt Nam.
- Bản chụp bút tích bức thư gửi ông Hoàng Hữu Nam lưu tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.43-46.

Tháng 1, ngày 28
10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam nhắc việc cho đăng báo Thư gửi cụ Từ2), Lời kêu gọi Chính
phủ Pháp và việc họp Hội đồng Chính phủ.

1) Trong sách Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.26-27 in là “Các em là đội quyết tử. Các em
quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh” (B.T).
2) Giám mục Lê Hữu Từ (B.T).

23
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Cùng ngày, Người viết thư gửi ông Cù Huy Cận. Toàn văn
bức thư như sau:
“Nhờ chú Lưu1) chuyển chú Cận2),
Thứ trưởng Canh nông.
Về việc tản cư đến các đồn điền, chú nên làm một kế hoạch
thiết thực thi hành được ngay. Như tôi nói hôm Tết.
Cần phải chú ý:
1. Cách phân phối người (ai đem áo chăn nấy).
2. Giúp đỡ lúc đi đường (trạm nghỉ, hành lý).
3. Nơi nào bao nhiêu người.
4. Đến nơi thì sao có chỗ ăn, chỗ ở và làm việc ngay.
Chú làm sẵn kế hoạch, đến Hội đồng Chính phủ ta bàn. Việc
gì làm trước được, chú cứ làm.
Đã có người đi các tỉnh khai hội với U.B.H.C3) và các chủ
đồn điền chưa?
Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 28 tháng 1 năm 1947
HỒ”
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.47.

Tháng 1, ngày 29
Nhân Ngày độc lập của Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
điện chúc mừng tới ông Nêru - Phó Chủ tịch Chính phủ lâm
thời Ấn Độ, “xin chung sự hân hoan với dân tộc Ấn Độ, và rất
tin cậy vào sự thắng lợi của các dân tộc Á châu trong cuộc
tranh đấu cho tự do và tiến bộ”.

1) Nguyễn Văn Lưu, lúc đó là Chánh Văn phòng Chủ tịch Chính phủ (B.T).
2) Cù Huy Cận (B.T).
3) Ủy ban hành chính (B.T).

24
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong ngày, Chủ tịch ký Sắc lệnh số 09-SL, tạm thời đình
chỉ thi hành mục B Sắc lệnh số 13-SL ngày 24-1-1946 và
Sắc lệnh số 42 ngày 3-4-1946 về việc bắt, giam và truy tố nhân
viên các cấp trong Chính phủ cùng các cơ quan hành chính
và tư pháp; ấn định lại trình tự thủ tục truy tố đối với các đối
tượng trên. 1947
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.48.

Tháng 1, ngày 30
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 10-SL, bổ nhiệm ông Nguyễn Sơn làm Cục
trưởng Cục Quân huấn Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 11-SL, về việc ấn định lại thời hạn giam
cứu cho tiểu hình và đại hình ghi trong Sắc lệnh số 40 ngày
29-3-1946.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi các chiến sĩ vệ quốc đoàn,
tự vệ và dân quân toàn quốc.
Người nhiệt liệt ca ngợi nhiệm vụ vẻ vang nhưng đầy
gian khổ của các chiến sĩ, biểu dương đức hy sinh, lòng dũng
cảm và niềm tin quyết thắng của họ đã được thể hiện ngay từ
những ngày đầu kháng chiến và kêu gọi toàn thể các chiến sĩ
anh dũng tiến lên.
- Bản gốc bức thư lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, bản
chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.51-52.

25
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 1, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chia buồn tới bác sĩ Vũ Đình
Tụng, Giám đốc Y tế Bắc Bộ, khi nhận được tin con trai bác sĩ
đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu.
Bức thư có đoạn:
“Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con
cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt
Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi
đứt một đoạn ruột... Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất
họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông
Việt Nam”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.49.

Tháng 1, trong tháng


Biết tin Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Mutê đã rời Hà Nội
về Pháp mà không gặp Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
tuyên bố về việc này.
Tuyên bố có đoạn:
“Thật là đáng tiếc, ông Mutê và tôi có thể nói với nhau
nhiều câu chuyện ích lợi. Tôi có thể nhân danh Chính phủ giao
cho ông Mutê những tài liệu về cuộc xung đột hiện tại và đề
nghị cùng ông những phương sách có thể làm chấm dứt, nếu
nước Pháp muốn, cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn mà cả
hai dân tộc đều không muốn, và có thể nối lại tình thân ái giữa
hai nước”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.42.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.49-50.

26
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 2, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ,
nói rõ chính sách tự do tín ngưỡng của Chính phủ đã được
ghi trong Hiến pháp. Người tin chắc, những xích mích nhỏ
giữa một số đồng bào “không thể động chạm đến sự đại đoàn
kết của chúng ta”, và mong muốn Giám mục “sẽ hết sức giúp, 1947
đặng triệt để hoàn thành đại đoàn kết, để toàn dân không
phân lương giáo, chỉ một tâm lo chống ngoại xâm”.
Bức thư có đoạn:
“Chắc cụ không bao giờ tin rằng Việt Minh chống đạo, vì
cụ thừa biết Việt Nam độc lập đồng minh là cốt đoàn kết tất
cả đồng bào để làm cho Tổ quốc độc lập, chứ không phải để
chia rẽ, phản đối tôn giáo.
Mà tôi cũng không bao giờ nghĩ rằng đồng bào Công giáo
chống Việt Minh, vì hơn ai hết, đồng bào Công giáo càng mong
cho Tổ quốc độc lập, cho tôn giáo được hoàn toàn tự do; và
tôi chắc ai cũng tuân theo khẩu hiệu: Phụng sự Thượng đế
và Tổ quốc”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.53-54.

Tháng 2, ngày 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để nghe báo cáo về quốc phòng, ngoại giao và thảo luận
một số vấn đề về tài chính, kinh tế, tăng gia sản xuất.
18 giờ 30 phút, Người rời xã Cần Kiệm chuyển đến khu
chùa Một Mái xã Sài Sơn, phủ Quốc Oai, Sơn Tây (nay thuộc
thành phố Hà Nội).
Trước khi đi, Người mời cụ chủ nhà sang để cảm ơn và căn
dặn cụ cùng các con cháu tích cực ủng hộ kháng chiến và giữ
gìn bí mật.

27
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 11-SLb, sáp
nhập các Sở, Ty Địa chính trong toàn quốc vào Bộ Canh nông.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- “Hà Tây những lần đón Bác”, tạp chí Lịch sử Đảng, tháng
3-1992, tr.47.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.154.

Tháng 2, ngày 3
Tại khu chùa Một Mái, trong gian buồng đầu hồi phía trái
của nhà Tổ vốn là chỗ ở của người coi chùa, vẻn vẹn chỉ có một
tấm phản, một bàn nhỏ với chiếc máy chữ và cây đèn dầu, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 12-SL, ấn định chế độ kiểm duyệt, in, phát
hành báo chí và ấn loát phẩm.
- Sắc lệnh số 13-SL, tạm cấm xuất nhập cảng hàng hóa cho
đến khi có lệnh mới.
- Sắc lệnh số 14-SL, thành lập Nha tín dụng sản xuất nhằm
mục đích giúp đỡ và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, công
nghệ và kỹ nghệ.
- “Hà Tây những lần đón Bác”, tạp chí Lịch sử Đảng, tháng
3-1992, tr.47.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 7
10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam. Bức thư có ba nội dung:
1. Gợi ý về cách đối phó với yêu sách của lãnh sự Trung
Hoa muốn cử đại biểu đi “an ủi” các Hoa kiều tản cư.
2. Đề nghị viết thư hỏi Chủ tịch Ủy ban hành chính các
tỉnh, yêu cầu họ trong 10 ngày phải trả lời rõ ràng và bí mật

28
TẬ P 4 : 1946 - 1950
về một số câu hỏi Người nêu trong thư1). Theo Người, “Những
vấn đề trên, rất quan hệ cho việc tản cư và tăng gia sản xuất.
Cũng quan hệ đến chính trị và quân sự”.
3. Hỏi về tình hình chuẩn bị chuyến đi Nho Quan (Ninh
Bình) của Người.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL, 1947
bổ nhiệm ông Đặng Việt Châu, nguyên Chánh Văn phòng Bộ
Nội vụ, làm đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Thanh Hóa và ông Vũ
Đình Huỳnh, nguyên Bí thư Chủ tịch Chính phủ làm đặc phái
viên Bộ Nội vụ tại Ninh Bình.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn nhân dân và ngoại
kiều sau dịp Tết.
Thay mặt chiến sĩ, Người cảm ơn toàn thể đồng bào trong
dịp Tết đã “tự mình tiết kiệm bớt ăn Tết mà úy lạo các chiến
sĩ rất hậu... Lòng tốt của đồng bào tỏ rằng, chúng ta quân dân
nhất trí, nên dù gian khổ mấy, trường kỳ kháng chiến cũng
nhất định thắng lợi”.

1) Nguyên văn những câu hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong thư là: 1. Tên
tỉnh; 2. Mấy huyện, tên huyện; 3. Mấy xã; 4. Mấy mẫu ruộng; 5. Số dân;
6. Số trâu bò, lợn gà; 7. Mỗi năm có bao nhiêu lúa... chiêm, mùa; 8. Có
hoa màu gì khác; 9. Có mấy đồn điền, mấy mẫu; 10. Có thổ sản gì khác;
11. Mấy cái chợ; 12. Mấy trường học; 13. Số người biết quốc ngữ;
14. Công việc bình dân học vụ khá không; 15. Có mấy học sinh trung và
tiểu học; 16. Có mấy đại biểu Quốc hội; 17. Ai là người có danh vọng,
dân phục; 18. Mấy người Việt Minh, mấy cán bộ; 19. Có những tổ chức
nào khác; 20. Có bao nhiêu vệ quốc đoàn, tự vệ, dân quân; 21. Quan lại
cũ, sinh viên, người có văn hóa; 22. Các nhà buôn bán to; 23. Có thủ
công nghệ gì; 24. Những nhà giàu có; 25. Số Hoa kiều; 26. Mấy con sông;
27. Mấy chiếc thuyền, mấy xe hơi; 28. Chỗ nào núi non hiểm trở;
29. Đồng bào thiểu số và Công giáo; 30. Có những khuyết điểm gì; 31. Có
những yêu cầu, đề nghị gì.

29
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Thay mặt Chính phủ, bộ đội và nhân dân Việt Nam, Người
trân trọng cảm ơn Hoa kiều và Ấn kiều: “Trong lúc gian nan
khổ cực này mà bà con Hoa kiều và Ấn kiều rất hăng hái ủng
hộ cuộc kháng chiến cứu quốc của dân Việt Nam... Đủ thấy
cảm tình của các dân tộc Á Đông ta càng ngày càng mật thiết”.
Người còn gửi lời cảm ơn tới thanh niên, nhi đồng, các
đoàn thể và cá nhân đã gửi thư chúc Tết. “Tiếc vì bận việc
quá, không thể trả lời khắp. Vậy xin đồng bào nguyên lượng
và nhận lời cảm ơn chung này”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một số câu hỏi của
Đôn Camben (Doon Campbell), phóng viên Hãng Reuter (Anh).
Về câu hỏi Với điều kiện nào, Chính phủ Việt Nam ngừng
chiến tranh?, Người khẳng định: “Nhân dân Việt Nam chỉ
mong muốn được công nhận sự thống nhất dân tộc của
mình... Khi những mục tiêu đó đạt được, chúng tôi sẽ sẵn
sàng ngừng chiến và hòa hoãn ngay lập tức”.
Về vấn đề những người Pháp bị bắt làm tù binh, Người
tuyên bố: “Họ được đối xử tốt hơn nhiều so với người Việt
Nam nằm trong tay Pháp”.
Người còn giải thích việc các bộ trưởng không đảng phái
tham gia Chính phủ, nói rõ những mục tiêu chính trị - xã hội
của nhân dân Việt Nam, nhận xét việc báo chí nước ngoài
thường đưa tin thất thiệt.
- Báo Vietnam News Service (Bangkok), ngày 9-2-1947.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.57-60.

Tháng 2, ngày 10
10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị điền chủ toàn
tỉnh Ninh Bình họp tại phủ Nho Quan để bàn việc tăng gia sản
xuất, giúp đỡ đồng bào tản cư, di cư, vấn đề ủng hộ Chính phủ
kháng chiến.

30
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Phát biểu với Hội nghị, Người nói đại ý: kháng chiến và kiến
quốc mới nghe thì tưởng như mâu thuẫn. Thực ra không phải,
kháng chiến là để kiến quốc, là để xây dựng một nước Việt Nam
tự do, độc lập. Nhưng muốn kháng chiến thắng lợi thì phải
trường kỳ kháng chiến, muốn trường kỳ kháng chiến thì phải
tăng gia sản xuất và giúp đỡ đồng bào tản cư. Lúc này, “nước
nhà trên hết, dân tộc trên hết, kháng chiến thắng lợi hơn hết”.
1947
- Bản chụp Biên bản Hội nghị điền chủ ở Nho Quan, Ninh
Bình ngày 10-2-1947, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời Chính phủ Cao Miên
giải phóng1), nhiệt liệt hoan nghênh việc thành lập một Ủy ban
giải phóng Việt - Miên - Lào, nhằm mục đích theo đuổi đến
cùng cuộc chiến đấu chung chống đế quốc và thực dân Pháp.
Bức thư có đoạn:
“Thay mặt cho toàn dân Việt Nam, tôi xin gửi Ủy ban giải
phóng lời chào mừng thân ái. Tôi tin chắc rằng các dân tộc ta,
đã sẵn có một tinh thần tranh đấu cao, lại gắng đi tới một sự
cộng tác chặt chẽ, thì thắng lợi thế nào cũng về ta, và chúng ta
nhất định sẽ giành được độc lập”.
Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh số 16-SL, bổ nhiệm ông
Văn Tiến Dũng làm Chính trị Cục trưởng Bộ Quốc phòng và
ông Khuất Duy Tiến làm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Hà
Nội kiêm Chính trị phó Cục trưởng, Trưởng phòng dân quân
trong Chính trị cục Bộ Quốc phòng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.61.

1) Chủ tịch nước Cao Miên giải phóng (Campuchia) gửi Chủ tịch Hồ Chí
Minh bức thư báo tin một Ủy ban giải phóng Việt - Miên - Lào đã được
thành lập và kêu gọi sự giúp đỡ của nhân dân Việt Nam. Người đã viết
thư trả lời.

31
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 2, ngày 14
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo điện mật gửi Thanh Hóa
về chủ trương “vào Thanh kinh lý”.
Toàn văn bức điện như sau:
“10 giờ sáng ngày 14-2-42. Thanh Hóa
Điện cho Châu1)
Một. Sẽ có tối cao đặc phái Chính phủ vào Thanh kinh lý.
Ngày vào sẽ định sau.
Hai. Châu chuẩn bị báo cáo các việc.
Ba. Mời các ủy ban tản cư, tăng sản, các điền chủ, đại
thương gia, nhà giàu, những người danh vọng, các
lãnh tụ dân tộc thiểu số, các cán bộ hành chính và
mặt trận các huyện, đại biểu quốc dân liên hiệp, đại
biểu Công giáo.
Bốn. Chuẩn bị chỗ khai hội xa thành phố và giữ bí mật.
Năm. Phái đoàn đi đêm, chuẩn bị đón ở đâu?

Về việc này các chú có ý kiến gì đề nghị?”.


Chiều, Người chỉ thị cho Bộ Tổng chỉ huy rút các lực lượng
chiến đấu ở trung tâm Hà Nội ra khỏi thành phố để bảo toàn
chủ lực, kháng chiến lâu dài.
- Bản chụp bút tích bức điện lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.120.

Tháng 2, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện (viết bằng tiếng Anh) cho
Đại uý Mỹ Sáclơ Phen (Charles Fenn) trả lời về bức công điện
ngày 7-2-1947 của ông ta.

1) Đặng Việt Châu, đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Thanh Hóa (B.T).

32
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bức điện có đoạn:
“Chúng tôi vô cùng cảm kích vì thiện chí của ngài muốn
giúp Việt Nam. Nếu như ngài tới đây với tư cách là một nhà
báo Mỹ của một tờ báo lớn thì ngài còn có thể làm được rất
nhiều việc”.
- Bản gốc tiếng Anh lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung 1947
ương Đảng, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh
tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.62.

Tháng 2, ngày 16
Tại Chương Mỹ (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì
phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo của Bộ Kinh
tế, Bộ Ngoại giao và bàn về một số vấn đề khác. Hội nghị đến
12 giờ đêm, tạm nghỉ ăn cháo gà, sau đó tiếp tục đến 4 giờ 30
phút sáng mới giải tán.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 17-SL, thành lập Nha khẩn hoang, di dân đặt
trong Bộ Canh nông.
- Sắc lệnh số 18-SL, về việc bổ nhiệm Giám đốc và các Phó
Giám đốc Nha khẩn hoang, di dân.
- Sắc lệnh số 19-SL, về tổ chức và chức năng của các Tòa
án binh trên toàn cõi Việt Nam (trừ các Tòa án binh mặt trận).
- Sắc lệnh số 20-SL, quy định chế độ hưu bổng thương tật,
tiền tuất cho thân nhân tử sĩ.
- Sắc lệnh số 21-SL, về việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc Nha
tín dụng sản xuất.
- Sắc lệnh số 22-SL, trích 30 triệu đồng ở ngân sách toàn
quốc “làm số tiền quyên trợ (lần thứ nhất) cấp cho Nha tín
dụng sản xuất”.
- Sắc lệnh số 23-SL, thành lập Hội đồng sản xuất kỹ nghệ
đặt trong Bộ Kinh tế.

33
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 24-SL, bổ nhiệm Đổng lý Văn phòng Bộ


Kinh tế.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.37.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 17
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với các ông Lê Đức Thọ, Võ
Nguyên Giáp, Lê Văn Hiến, Hoàng Hữu Nam để bàn và giải
quyết một số vấn đề về quốc phòng, nội vụ, tài chính và thông
báo về chuyến đi Thanh Hóa sắp tới của Người.
Làm việc xong, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời mọi người ở lại
cùng ăn cơm, vừa ăn vừa bàn việc nước.
Cùng ngày, Người viết thư gửi đồng bào tản cư, căn dặn
“tản cư cũng là kháng chiến”, “tản cư cũng phải tăng gia sản
xuất”, “các đồng bào mỗi người phải làm một việc, không nên
một ai ăn rỗi ngồi không”, “mỗi người phải tự cho mình là một
người chiến sĩ, mỗi người phải làm tròn nhiệm vụ của mình”.
Cuối thư, Người viết:
“Tôi và Chính phủ không giờ phút nào không lo lắng đến
các đồng bào. Bây giờ đang cực khổ, thì chúng ta vui chịu với
nhau. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công,
chúng ta sẽ cùng nhau vui sướng. Con cháu Lạc Hồng, bao giờ
cũng quật cường, không bao giờ sợ khổ”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.49-50.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.38.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.63-64.

34
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 2, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Chính phủ và nhân dân
Pháp, một lần nữa kêu gọi hãy đình chỉ ngay “cuộc chiến tranh
trái Hiến pháp, tai hại và không vinh dự này”.
Người trịnh trọng nhắc lại lập trường của phía Việt Nam là:
“Chúng tôi muốn độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp
1947
Pháp; chúng tôi muốn hòa bình, một nền hòa bình hợp công lý
làm vinh dự cho cả nước Pháp và nước Việt Nam”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.51-52.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.65-66.

Tháng 2, ngày 19
Từ núi Thầy (Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí
Minh lên đường vào Thanh Hóa. Cùng đi có Nguyễn Đăng Cao1)
phụ trách bảo vệ. Chiếc xe Jeep cũ kỹ do Phạm Văn Ngọc lái
đưa Người đi theo tuyến Sơn Tây - Hòa Bình.
Buổi chiều, xe đến đồn điền Chi Nê2) (Hòa Bình). Người
dừng chân và nghỉ qua đêm ở đây.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Vũ Đình
Huỳnh3):
“Chú Huỳnh cùng Chủ tịch UBHC4) Ninh Bình,
1- Trả đồn điền của ông Phạm Lê Bổng lại cho ông ấy.
2- Người quản lý hiện giờ, phải trả lại sản vật hoa màu
đầy đủ theo lệ thường. Nếu thiếu hoặc hư hỏng vật gì, thì
theo phép luật mà xử trí. Nếu người quản lý mượn tên

1) Sau này được Người đặt tên mới là Hoàng Hữu Kháng (B.T).
2) Đồn điền của ông Đỗ Đình Thiện (B.T).
3) Đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Ninh Bình (B.T).
4) UBHC: Ủy ban hành chính (B.T).

35
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

người nào hoặc đoàn thể nào mà làm quấy, thì cứ theo phép
luật mà trị.
3- Hôm trước, ông Bổng có hứa với tôi: Đồn điền đó có
thể thu nạp 500 đồng bào tản cư. Hỏi lại ông ấy rõ ràng. Thật
có thể hay không. Nếu quả có thể, thì bao giờ người tản cư
đến được.
4- Làm xong việc rồi, báo cáo cho tôi biết.
5- Công tác Ban Cứu tế (các điền chủ giúp đồng bào tản cư)
tiến bộ thế nào?
Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 19 tháng 2 năm 1947
HỒ CHÍ MINH”.
Người còn tái bút: “Gửi lời thăm cụ Từ, cụ Trực, cụ Trung và
tất cả đồng bào Công giáo. Chú Nam mong gặp cụ Ngô Tử Hạ”.
- Hồi ký của Thiếu tướng Hoàng Hữu Kháng và hồi ký của
Phạm Văn Ngọc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.67.

Tháng 2, ngày 20
Khoảng 2 - 3 giờ sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chi Nê đi
tiếp vào Thanh Hóa. Đến Thanh Hóa khoảng 7 - 8 giờ.
Sau khi làm việc với lãnh đạo tỉnh, Người gặp gỡ cán bộ
trong tỉnh, đến dự cuộc mít tinh của đại biểu các tầng lớp
nhân dân.
Nói chuyện với các cán bộ, Người đặc biệt nhấn mạnh vai
trò quan trọng của người cán bộ và nêu cụ thể những đức tính
cần thiết của người cán bộ trong việc đối xử với bản thân, với
đồng chí, với công việc, với nhân dân và với đoàn thể.

36
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Gặp gỡ đại biểu các tầng lớp nhân dân, Người góp những
ý kiến cụ thể về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa để
xây dựng Thanh Hóa trở thành một tỉnh kiểu mẫu.
Khoảng 4 - 5 giờ chiều, Người rời Thanh Hóa, về thẳng đồn
điền Chi Nê và nghỉ qua đêm tại đây.
- Hồi ký của Thiếu tướng Hoàng Hữu Kháng và hồi ký của 1947
Phạm Văn Ngọc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Thanh Hóa: Thanh Hóa
khắc sâu lời Bác, 1975, tr.24-33.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.68-77.

Tháng 2, ngày 21
Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm cơ sở in bạc và
kho bạc đầu tiên của nước ta đặt tại đồn điền Chi Nê, sau đó
Người lên đường về núi Thầy (Sài Sơn, Quốc Oai).
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 25-SL về
việc cải tổ Ủy ban hành chính Thanh Hóa và viết Thư gửi đồng
bào thiểu số Thanh Hoá1). Toàn văn bức thư như sau:
“Cùng đồng bào yêu quý,
Tôi đến thăm Thanh Hóa, tôi định lên thăm đồng bào,
nhưng có việc gấp phải trở về ngay, chưa lên được. Tôi lấy làm
tiếc. Lần sau tôi sẽ lên thăm đồng bào.
Lúc này toàn thể quốc dân đang ra sức chống giặc cứu nước.
Tôi chắc đồng bào Thượng du đều ra sức đoàn kết chuẩn bị
tham gia giết giặc cứu nước để giữ vững quyền thống nhất độc
lập của Tổ quốc. Việc dìu dắt đồng bào Thượng du, tôi trông
cậy lòng ái quốc và sự hăng hái của các vị lang đạo.

1) Trong cuộc gặp gỡ các đại biểu nhân dân Thanh Hóa chiều 20-2-1947,
các đại biểu dân tộc thiểu số trong tỉnh vì nhận được thông báo muộn và
ở xa nên không về kịp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lá thư này gửi đồng
bào thiểu số Thanh Hóa.

37
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tôi gửi lời chúc mừng các vị lang đạo và toàn thể đồng
bào mạnh khỏe.
Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 21 tháng 2 năm 1947
Chủ tịch Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa
HỒ CHÍ MINH”.
- Hồi ký của Thiếu tướng Hoàng Hữu Kháng và hồi ký của
Phạm Văn Ngọc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Cục Cảnh vệ Bộ Nội vụ.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.78.

Tháng 2, sau ngày 211)


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Thanh Hóa kiểu mẫu nêu rõ
mục đích, phương châm, cách làm cụ thể để xây dựng Thanh
Hóa trở thành một tỉnh kiểu mẫu.
- Bản gốc lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.81-83.

Tháng 2, sau ngày 22


Nhận được báo cáo: ngày 22-2-1947, máy bay giặc Pháp
oanh tạc đồn điền Chi Nê, nơi đặt nhà máy in bạc đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gây tổn thất nghiêm trọng
cho cơ quan ấn loát, tài sản của điền chủ Đỗ Đình Thiện cũng
bị thiệt hại nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thiếp thư dưới
đây cho gia đình ông Thiện:

1) Trong nguyên bản không ghi ngày tháng. Căn cứ vào nội dung bài viết,
chúng tôi phỏng đoán Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài này sau chuyến đi
thăm Thanh Hoá ngày 20-2-1947.

38
TẬ P 4 : 1946 - 1950
“Chú thím Thiện,
Được tin chú thím, nhà Hiền và các cháu đều bình an, tôi
rất vui lòng. Mất của cải, không sợ. “Còn trời còn nước còn
non, thì còn của cải bà con họ Hồ”. Kháng chiến thành công, ta
làm ra của khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khỏe.
Hôn các cháu. 1947
Chào thân ái và quyết thắng”.
- Bản gốc bút tích thiếp thư lưu tại gia đình ông Đỗ Đình Thiện.

Tháng 2, ngày 24
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam,
nhắc một số việc cụ thể liên quan đến công tác di chuyển và
nội quy tản cư của các cơ quan Chính phủ.
Cùng ngày, Người viết thư gửi G. Xanhtơny (Jean Sainteny) -
Ủy viên Cộng hòa Pháp, khi biết tin ông ta sắp sửa về Pháp. Bức
thư viết:
“Gửi ông Xanhtơny, Ủy viên Cộng hòa Pháp.
Bạn thân mến,
Tôi vừa nhận được tin ông sắp trở về Pháp. Xin gửi tới
ông và bà Xanhtơny những lời chúc lên đường bình an và
sức khỏe tốt.
Tôi tin chắc rằng, cũng như tôi, ông rất tiếc công việc
chung vì hòa bình của chúng ta đã bị phá hủy bởi cuộc chiến
tranh anh em này. Tôi đã hiểu ông khá rõ để nói với ông là
ông không phải chịu trách nhiệm về chính sách vũ lực và tái
chinh phục này.
Vì vậy, tôi muốn được nhắc lại với ông, mặc dù mọi việc đã
xảy ra, giữa ông và tôi, chúng ta vẫn còn là bạn. Và tôi cũng có
thể khẳng định với ông, nhân dân hai nước chúng ta cũng vẫn
là bạn của nhau.

39
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Đã xảy ra khá nhiều chết chóc và tàn phá! Ông và tôi, chúng
ta phải làm gì bây giờ? Chỉ cần nước Pháp công nhận nền độc
lập và thống nhất của Việt Nam, lập tức những cuộc xung đột
sẽ ngừng, hòa bình và niềm tin cậy lẫn nhau sẽ trở lại, chúng ta
sẽ lại có thể bắt tay vào công việc xây dựng lại vì lợi ích chung
của hai nước chúng ta.
Về phần tôi, tôi sẵn sàng cộng tác vì hòa bình, một nền hòa
bình chính đáng và danh dự cho hai nước chúng ta. Tôi hy
vọng rằng, về phía ông, ông cũng sẽ hành động theo hướng đó.
Chúng ta hãy cùng cầu mong Thượng đế ban cho chúng ta sự
thành công.
24-2-1947
Người bạn tận tụy của ông
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Jean Sainteny: Face à Ho Chi Minh (Đối diện với Hồ Chí Minh),
Seghers Paris, 1970.
- Jean Sainteny: Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.395-396.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.79-80.

Tháng 2, ngày 26
Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo bức điện mật gửi ông Đặng Việt
Châu, yêu cầu:
“1- Gửi mau tờ trình việc lập Ủy ban sáu châu thượng du,
nói rõ vẫn thuộc quyền hành chính tỉnh Thanh và có phái viên
của Chính phủ tham gia Ủy ban đó. Làm khéo và mau. Không
nên trễ. Chính phủ sẽ y ngay.
2- Nói cụ Lê Thước gửi chương trình thiết thực tăng gia
sản xuất ra để Chính phủ duyệt y đặng thi hành ngay”.
11 giờ, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc gửi
điện cho Chủ tịch tỉnh Thanh Hóa Đặng Thai Mai và ông Đặng
Việt Châu đăng báo thư của Hồ Chủ tịch Gửi đồng bào thượng du

40
TẬ P 4 : 1946 - 1950
và động viên các quan lang và dân chúng trả lời. Người còn hỏi
về thời gian họp Hội đồng Chính phủ.
- Bản chụp bút tích điện và thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các ông Hoàng Hữu Nam, 1947
Nguyễn Văn Lưu dặn những công việc cụ thể cho việc chuẩn bị
địa điểm cuộc họp Hội đồng Chính phủ ngày 2-3-1947 ở Quốc
Oai (Hà Nội), và hỏi về việc thả các cha cố bị tạm giữ.
Trong ngày, Người còn viết thư cho ông Hoàng Hữu Nam,
đề nghị:
- Nhắc ông Vũ Đình Huỳnh báo cáo tình hình ở Ninh Bình.
- Trả lời về việc giúp Lào và Campuchia.
- Tổ chức sơ tán cho Hoa kiều ở Sơn Tây.
- Báo cáo về tình hình ở Lào Cai.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 28
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 26-SL, ấn định “trong niên khóa 1947, cho thu
trong toàn quốc một số bách phân phụ thu là một phần trăm
(1%) về thuế điền thổ”.
- Sắc lệnh số 27-SL, ấn định thể thức và chế độ thuế trực
thu áp dụng trong toàn quốc trong thời kỳ kháng chiến và cho
đến khi có lệnh mới.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi đồng bào thượng du,
biểu dương tinh thần yêu nước của đồng bào các dân tộc thiểu
số trong công cuộc kháng chiến cứu nước.

41
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Người cảm ơn đồng bào và trân trọng hứa: “Đến ngày


kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công, Tổ quốc và Chính
phủ sẽ luôn luôn ghi nhớ những công lao của các đồng bào”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.86.

Tháng 2, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Hoàng Hữu Nam,
nhắc bốn việc:
- Xử lý ngay (bắt và làm án) những cán bộ ngành công an
ăn tiền của dân.
- Làm rõ quan hệ và quyền hạn giữa Bộ Nội vụ với Ủy
ban hành chính.
- Báo cáo tình hình cụ thể ở tỉnh Lào Cai.
- Đề nghị các ông Vũ Đình Huỳnh và Cẩn trả lời về tình hình
ở tỉnh Ninh Bình.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Chiến đấu
về tình hình sức khỏe của Người, về lý do Pháp chưa điều đình
với ta, về cuộc kháng chiến của quân và dân miền biển.
Trả lời câu hỏi: “Nếu Pháp điều đình với một nhóm người
khác, thì thái độ của Chính phủ ta sẽ thế nào?”, Người nói:
“Bất kỳ Pháp điều đình với ai, nếu Tổ quốc ta được thống
nhất độc lập thật thà, đồng bào ta được tự do dân chủ thật
thà, thì Chính phủ ta và quốc dân ta sẽ thỏa thuận. Bất kỳ ai

42
TẬ P 4 : 1946 - 1950
mà phản bội quyền lợi của Tổ quốc và của đồng bào, thì Chính
phủ và nhân dân ta sẽ coi họ là những người phản quốc. Và cứ
kháng chiến”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
1947
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.84-86.

Tháng 3, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ1).
Người căn dặn đoàn thể cũng như mỗi đảng viên phải đem
hết tinh thần, lực lượng nhằm vào một mục đích: đánh đuổi
thực dân Pháp và làm cho nước nhà thống nhất, độc lập.
Người nêu những khuyết điểm cần sửa chữa ngay, như: địa
phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan liêu, óc hẹp
hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật,
kỷ luật không nghiêm, ích kỷ, hủ hóa và nhấn mạnh phải “kiên
quyết khắc phục những khuyết điểm vừa kể trên thì chúng ta
mới chắc đi đến hoàn toàn thắng lợi”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.149-153.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.87-92.

Tháng 3, ngày 2
20 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng
Chính phủ để nghe báo cáo về tình hình quân sự, ngoại giao,
kiểm điểm các mặt hoạt động. Quan trọng và cấp bách nhất là
vấn đề nhanh chóng dời cơ quan Chính phủ lên Phú Thọ.

1) Bức thư này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi cho các đồng chí ở Trung
Bộ. Người có sửa lại đôi chỗ về câu chữ và bớt một phần về nội dung.

43
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 27b-SL, về


việc cấp đất công hoang ở những miền gọi là “vùng tiểu dinh
điền” cho các công dân Việt Nam trên 18 tuổi.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.45.

Tháng 3, ngày 4
Mờ sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sơn Tây qua bến Trung
Hà sang đất Phú Thọ trên đường di chuyển lên căn cứ Việt Bắc.
Người vào nghỉ chân ở nhà cụ Nguyễn Liên1).
Tối, Người chuyển đến nhà ông Hoàng Văn Nguyên2) ở Xóm
Đồi, xã Cổ Tiết, Tam Nông, Phú Thọ.
Thời gian ở Cổ Tiết (từ ngày 4-3-1947 đến ngày 18-3-1947),
Người dùng bí danh Xuân trong các giấy tờ giao dịch. Hằng
ngày, Người tranh thủ thời gian đọc các sách viết về lịch sử
Việt Nam, dịch cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, viết
một loạt bài nói về lịch sử kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta, thảo các văn thư gửi Quốc hội và Chính phủ
Pháp, thư kêu gọi đồng bào đẩy mạnh sản xuất, phục vụ
kháng chiến.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón
Bác, 1990, tr.11-14.
- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 1990, tr.233-234.

1) Cụ Nguyễn Liên, thân sinh ông Nguyễn Trung lúc đó là Chủ nhiệm huyện
bộ Việt Minh Tam Nông (B.T).
2) Cụ Hoàng Văn Nguyên, bố vợ đồng chí Đỗ Văn Mô lúc đó là Phó Chủ
nhiệm huyện bộ Việt Minh Tam Nông (B.T).

44
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 3, ngày 5
Sau trận quân Pháp tấn công ra ngoại vi Hà Nội1), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết Thư gửi đồng bào toàn quốc vạch rõ âm
mưu của địch và kêu gọi mọi người: “Chúng ta không hoang
mang. Chúng ta phải nhẫn nại, phải cương quyết. Thắng lợi
cuối cùng nhất định về tay ta”. 1947
Đồng thời, Người viết Thư gửi đồng bào hậu phương kêu
gọi mọi người hãy an ủi, giúp đỡ đồng bào tản cư với tinh thần:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Cùng ngày, Chủ tịch viết Thư gửi Quốc hội và nhân dân
Pháp trình bày sự thật về vấn đề Việt Nam nhân dịp Quốc hội
Pháp sắp họp thảo luận vấn đề này.
Trong sáu điểm cụ thể của nội dung bức thư, Người nêu
rõ thái độ thiện chí của nhân dân Việt Nam đối với nước
Pháp và nhân dân Pháp, lên án sự bội tín bất nhân của những
người đại diện nước Pháp ở Đông Dương và một lần nữa,
Người nhắc lại với Quốc hội và nhân dân Pháp lập trường và
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mà trước đây Người đã
nhiều lần nêu lên.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.53-56.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.97-101.

Tháng 3, ngày 6
Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi các đồng chí phục vụ
đến hội ý. Mọi người ngồi quây quần thành một vòng tròn.
Người nhìn anh em rồi nói với giọng trầm ấm:

1) Ngày 2-3-1947, quân đội Pháp đánh nống ra ngoại vi Hà Nội, cố chiếm
tỉnh lỵ Hà Đông và một vài làng khác nhằm gây ảnh hưởng với Quốc hội
và nhân dân Pháp.

45
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Chiến sự đang ngày một lan rộng, mọi sinh hoạt bây giờ
các chú phải quân sự hóa, không thể đi ôtô được nữa, dễ bị lộ
bí mật. Ai có xe đạp thì sử dụng, người còn lại sẽ đi bộ. Các chú
may cho mỗi người một chiếc ba lô để đựng đồ và may cho Bác
một cái để Bác đeo máy chữ.
Sau đó, Người nói đến tình hình chiến sự và giải thích về
đường lối kháng chiến của ta:
- Sức ta bây giờ như chàng trai mười sáu, mà thế giặc bây
giờ như một lão già quỷ quyệt độc ác. Nếu ta cậy sức đánh bừa
thì sao chắc thắng được. Phải vừa đánh vừa nuôi cho sức mình
khỏe lên. Khi sức ta đã khỏe, giặc suy yếu dần, ta mới lừa thế
quật ngã nó, như vậy mới chắc thắng. Cho nên kháng chiến
trường kỳ mới nhất định thắng lợi.
Rồi Người mỉm cười nói tiếp:
- Các chú ở đây, nếu gọi tên các chú thì dễ lộ nơi Bác ở.
Để giữ bí mật và cũng để thể hiện quyết tâm kháng chiến của
chúng ta, hôm nay Bác sẽ đặt lại tên cho các chú là Trường, Kỳ,
Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi.
(Không cố ý sắp đặt mà vừa đúng 8 người trong đó có 4
người là người dân tộc Kinh, 4 người là người dân tộc thiểu số).
Người hỏi thêm:
- Các chú có biết tại sao Bác lại đặt tên cho các chú như
vậy không? - Và giải thích - Nhiệm vụ của Bác hiện nay là cùng
toàn Đảng, toàn dân đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Đó
vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài. Bác đặt
tên cho các chú như vậy cũng để hằng ngày nhìn thấy các chú
hoặc gọi tên các chú là nhắc nhở Bác phải cố gắng hoàn thành
nhiệm vụ.
Tám anh em như trở thành một khẩu hiệu ngày đêm sống
bên Người. (Trong số các đồng chí đó, nếu do nhu cầu chuyển

46
TẬ P 4 : 1946 - 1950
công tác khác thì người được chọn vào thay thế sẽ được mang
bí danh của người cũ. Do đó, có ba người mang tên Trường,
hai người mang tên Nhất, hai người mang tên Thắng).
- Chuyện kể của những người phục vụ Bác Hồ, Nxb. Thông
tấn, Hà Nội, 2003, tr.161-172.
- Trần Đương: Những người được Bác Hồ đặt tên, Nxb. Công
1947
an nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.95-97.

Tháng 3, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các ông Phạm Văn Bạch
và Nguyễn Văn Tây (Phòng Nam Bộ)1).
Trong thư, Người nhấn mạnh: “Dù gay go mấy, chúng ta
cũng không sợ, không hoang mang, vì chúng ta đã biết trước
những sự gay go khốn nạn2) đó. Vì chúng ta tự tin đủ sức
khắc phục nó. Và vì chúng ta chắc thắng lợi cuối cùng sẽ về
tay ta”.
Cuối thư Người vẽ hai nửa vòng tròn cắt nhau để giải thích
cuộc chiến giữa ta và Pháp. Nửa vòng tròn phía trên, màu đỏ,
là cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, lúc đầu có khó
khăn (đoạn vòng tròn cong xuống), sau vươn lên thắng lợi.
Nửa vòng tròn phía dưới, màu xanh, tượng trưng cho cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, lúc đầu tạm thời
thắng lợi (đoạn vòng tròn cong lên), nhưng cuối cùng cũng sẽ
thất bại.
- Bản gốc lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.102.

1) Phòng Nam Bộ trực thuộc Chính phủ được thành lập từ tháng 1-1946,
có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ theo dõi phong trào kháng chiến ở Nam
Bộ, tổ chức chi viện sức người, sức của cho Nam Bộ.
2) Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng nguyên âm Hán Việt, có nghĩa là khó khăn (B.T).

47
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, ngày 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Giấy giới thiệu cho một đại diện
Hoa kiều ở Việt Nam với các anh em cán bộ phụ trách địa
phương. Giấy giới thiệu viết:
“Tôi xin giới thiệu với các anh em phụ trách địa phương
ông Cốc Tinh Han là đại biểu Hoa kiều ở Thái Nguyên.
Nếu có việc gì can hệ xảy ra giữa Hoa kiều và người Việt
Nam, anh em nên trực tiếp liên lạc cùng giải quyết với ông trên
lập trường Hoa - Việt thân thiện”.
Người còn ghi chú bên dưới: “Ông Cốc Tinh Han tức Quách
Lương Thái được mang vũ khí để tự vệ”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc (sách ảnh), Nxb. Đại
bách khoa toàn thư Trung Quốc, Bắc Kinh, 1995, ảnh số
144, tr.42.

Tháng 3, ngày 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và trả lời phỏng vấn của phóng
viên các báo Việt Nam.
Phát biểu về lời tuyên bố của Thủ tướng Pháp Ramađiê
(Ramadier) ngày 6-3-1947, Người tỏ ý tiếc rằng Chính phủ
Pháp một mặt thì nói “nước Pháp không phản đối nguyện
vọng thống nhất của người Việt Nam”, nhưng một mặt lại cố
sức dùng vũ lực. Chủ tịch khẳng định:
“Nếu chiến tranh kéo dài, thì khối Liên hiệp Pháp cũng
hỏng, lợi quyền Pháp ở Á Đông cũng mất, nước ta sẽ bị tàn
phá tiêu điều. Nhưng dù tiêu điều đến đâu, non nước này vẫn
là non nước Việt Nam. Trên đống xương máu, trên đống tro
tàn, thanh niên ta, con cháu ta, sẽ xây dựng một nước Việt
Nam hoàn toàn độc lập”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.161.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.103-104.

48
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 3, ngày 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ Nội vụ những công việc
cần làm ngay để ổn định lòng dân, chấm dứt tình trạng lộn xộn
do việc quân Pháp mở rộng tiến công quân sự.
Người nhắc Bộ Nội vụ phải quan tâm việc củng cố các
Ủy ban hành chính, làm tốt công tác tản cư và xây dựng hậu
1947
phương vững mạnh, chú ý vấn đề phòng gian bảo mật.
Cùng ngày, Người viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ cảm
ơn một số việc làm tốt có kết quả của ông và nhắc Giám mục
thực hiện những điều đã hứa. Đồng thời, Người viết thư gửi
ông Vũ Đình Huỳnh, đề nghị “Chú bỏ bức thư sau này1) vào
phong bì tử tế, rồi đưa đến cho cụ Từ... Xong các việc, chú điện
về báo cáo”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 28-SL, về
việc sửa đổi địa giới của huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) và thị xã
Vinh - Bến Thủy.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.105-108.

Tháng 3, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29-SL, gồm 10 chương,
187 điều khoản, quy định mối quan hệ giữa chủ (người Việt
Nam hay người nước ngoài) với công dân Việt Nam tại các nhà
máy, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) Thư gửi cho Giám mục Lê Hữu Từ (B.T).

49
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Nguyễn Văn Lưu,
yêu cầu: “Bảo điện đài phải bỏ hai chữ Phú Thọ đi để giữ bí
mật” và “Nói với Nam1) thông tri các cơ quan phải giữ bí mật”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Bộ Nội vụ nhắc vấn đề
di chuyển ngay các cơ quan đến nơi an toàn, đề phòng chiến
sự xảy ra.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29b-SL, về việc lập
Ngoại thương Cục thuộc Bộ Kinh tế, định thể thức về ngoại
thương, ấn định chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và tổ chức
của Ngoại thương Cục.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 17
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 30-SL, cử ông Bộ
trưởng Bộ Lao động Nguyễn Văn Tạo, đặc nhiệm việc tản cư
và di cư.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 18
Chiều tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Cổ Tiết qua bến Ghềnh,
Ba Triệu, sang xã Xứ Nhu, qua phố huyện Lâm Thao, xã Xuân
Dũng, chuyển đến ở và làm việc tại Chu Hóa, huyện Lâm Thao,
Phú Thọ.

1) Hoàng Hữu Nam (B.T).

50
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Thời gian ở Chu Hóa (từ ngày 18-3 đến ngày 29-3-1947),
Người đã chủ trì một số cuộc họp của Thường vụ Trung ương
và Hội đồng Chính phủ. Các ông Trường Chinh, Võ Nguyên
Giáp, Nguyễn Lương Bằng... thường đến báo cáo tình hình
với Người.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón 1947
Bác, 1990, tr.15-16.
- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 1990, tr.234.

Tháng 3, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bức thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam. Một thư gợi ý nên có chế độ phụ cấp cho những cán bộ
“làm việc tận tụy nhưng gặp khó khăn về đời sống”. Người
đề nghị “nên lập một danh sách những người đáng giúp, bàn
với Hiến1) rồi tìm cách giúp những người đáng giúp mà tránh
khỏi sự nạnh kẹ”. Và nhắc ông Nam cần đôn đốc công việc phá
đường ở Phú Thọ, “không thì đến lúc gấp, làm không kịp. Và
trong lúc dân đến làm việc đó, nên có người đến tuyên truyền
giải thích và khuyến khích họ”.
Người còn hỏi ý kiến ông Nam nên có những hình thức gì
để tranh thủ, lôi kéo các thổ ty, lang đạo.
Một thư dặn ông Nam đến thăm cụ Vi Văn Định và “hỏi
xem cụ có thể đi Lào Cai, Hòa Bình được không? Nếu đi được
thì tốt lắm”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh:
- Sắc lệnh số 31-SL, về việc sửa đổi Điều 3 Sắc lệnh số 131-SL,
ngày 20-7-1946 về tổ chức tư pháp và công an.
- Sắc lệnh số 32-SL, về việc sửa đổi Điều 9 Sắc lệnh số 40-SL,
ngày 29-3-1946 về bảo hiểm quyền tự do của công dân.

1) Lê Văn Hiến (B.T).

51
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 32b-SL, ấn định Quỹ tản cư, di cư toàn quốc là


30 triệu đồng trích từ ngân sách chung năm 1947 và do ông
Bộ trưởng Bộ Lao động sử dụng.
- Sắc lệnh số 33-SL, tăng mười lần tất cả các số tiền phạt,
tối thiểu và tối đa, đã được ấn định trong các luật hình ban bố
trước ngày 19-8-1945.
- Sắc lệnh số 34-SL, về việc sửa đổi Điều 2 Sắc lệnh số 01-SL,
ngày 20-12-1946 về Ủy ban bảo vệ khu và tỉnh.
- Sắc lệnh số 35-SL, về việc sửa đổi Điều 4, bãi bỏ Điều 6 và
Điều 10 của mục 4 trong Sắc lệnh số 34-SL, ngày 25-3-1946 về
tổ chức Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 36-SL, bổ nhiệm ông Trần Dụ Châu, nguyên
Thanh tra hành chính Sở Hỏa xa, giữ chức Cục trưởng Cục
Quân nhu Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 37-SL, bổ nhiệm ông Lê Khắc làm Cục trưởng
Cục Giao thông công binh Bộ Quốc phòng.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam,
yêu cầu điều tra hai vụ án đương sự có đơn khiếu nại. Người
nhắc lại đề nghị phải tiến hành kiên quyết, “tiếc không được”,
đối với việc tiêu thổ kháng chiến và lưu ý về thái độ đối với
đồng bào thiểu số.
Cùng ngày, Người hoàn thành tác phẩm Đời sống mới1)
(ký bút danh Tân Sinh) làm tài liệu hướng dẫn và tuyên
truyền cuộc vận động xây dựng nếp sống mới. “Trong lúc
kháng chiến cứu quốc chúng ta phải đồng thời kiến quốc.

1) Cuốn sách do Ủy ban Trung ương vận động Đời sống mới xuất bản
năm 1947 (B.T).

52
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc
cứu quốc và kiến quốc”.
Dưới hình thức hỏi - đáp, cuốn sách giới thiệu một cách
vắn tắt, rõ ràng, thiết thực, dễ hiểu những nội dung của đời
sống mới và nêu ra những yêu cầu cụ thể đối với mỗi người,
mỗi gia đình, từng giới và từng ngành. 1947
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.109-129.

Tháng 3, ngày 21
Nhận được nhiều Quyết tâm thư của các đoàn thể, các đơn
vị bộ đội, các tổ chức tôn giáo... từ khắp nơi gửi về, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn đồng bào và trịnh trọng hứa:
“Chính phủ quyết làm trọn nhiệm vụ kháng chiến cứu quốc,
quyết không phụ lòng trông cậy của quốc dân, và quyết tranh
lấy quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”.
Trong ngày, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, yêu
cầu chỉ thị cho Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Báo Cứu
quốc, phải di chuyển ngay các máy móc, không được do dự
trì hoãn.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.59.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.130.

Tháng 3, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và trả lời phỏng vấn của các nhà
báo xung quanh cuộc tranh luận về vấn đề Việt Nam tại Quốc
hội Pháp2.
Người tỏ ý tiếc vì “nhiều vị đại biểu Pháp không hiểu rõ
tình hình Việt Nam mà lại cố ý bịa đặt những điều sai hẳn sự

53
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

thực, làm cho Nghị viện và nhân dân Pháp thêm bối rối”. Một
lần nữa, Người nhắc lại thiện chí của nhân dân Việt Nam trong
quan hệ Pháp - Việt.
Cùng ngày, Người gửi thư tới Phó Chủ tịch Chính phủ Ấn
Độ G. Nêru và các vị đại biểu dự hội nghị nhân ngày khai mạc
Hội nghị Liên Á.
Bức thư có đoạn:
“Thay mặt nhân dân Việt Nam và riêng tôi, tôi xin chúc
các ngài thắng lợi rực rỡ. Nhân dân Việt Nam, bộ phận của
đại gia đình châu Á, đang đấu tranh giành thống nhất và độc
lập. Chúng tôi mong rằng tất cả các nước anh em ở châu Á hết
lòng giúp chúng tôi”.
- Tài liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.60-62.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.131-134.

Tháng 3, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi báo Vệ quốc quân1) nêu
rõ nhiệm vụ của tờ báo là nâng cao tinh thần và kỷ luật cho
bộ đội, giáo dục bộ đội thực hiện 12 điều kỷ luật được Người
nêu cụ thể trong thư.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.63.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.135.

Tháng 3, ngày 28
Nhân dịp 100 ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ và đồng bào ngoài Bắc gửi điện biểu

1) Cơ quan tuyên truyền và giáo dục bộ đội của Quân đội ta. Báo ra hằng
tuần. Số đầu tiên ra ngày 22-3-1947. Năm 1951, báo Vệ quốc quân và
báo Quân du kích sáp nhập thành báo Quân đội nhân dân (B.T).

54
TẬ P 4 : 1946 - 1950
dương tinh thần bền bỉ hy sinh chiến đấu của đồng bào Nam
Bộ và miền Nam Trung Bộ.
Bức điện có đoạn:
“Sự anh dũng của đồng bào trong đó đã làm gương cho
đồng bào toàn quốc noi theo. Chúng ta đồng tâm hiệp lực,
không sợ gian nan, kiên quyết tranh đấu đến cùng, thì trường 1947
kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất
định thành công”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 38-SL, sửa
đổi Điều 1 của Sắc lệnh số 34-SL, ngày 19-3-1947 về thành
phần của các Ủy ban bảo vệ khu, tỉnh, huyện và xã.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.64.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.136.

Tháng 3, ngày 29
Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Chu Hóa. Theo quốc lộ 2, Người
qua Tiên Kiên, Phú Lộc, Phú Hộ, Châu Mộng... trên quãng
đường dài gần 50 km.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón
Bác, 1990, tr.16.

Tháng 3, ngày 30
Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến xã Yên Kiện (Đoan Hùng,
Phú Thọ) và ở lại đây ba ngày (30, 31-3 và 1-4-1947).
Trong những ngày này, máy bay địch hoạt động dữ dội. Ban
ngày, Người phải mang tài liệu ra rừng làm việc, tối mới về
ngủ. Nhà cửa chật chội, Người và các đồng chí phục vụ phải
tháo cánh cửa kê xuống đất làm giường nằm.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón
Bác, 1990, tr.17-18.

55
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Chính phủ, Quốc hội, nhân
dân Pháp và các nước dân chủ trên thế giới, tố cáo thực dân
phản động Pháp cố ý phá hoại hòa bình, đang thực hiện chính
sách vũ lực hòng cướp nước Việt Nam và bắt dân Việt Nam
làm nô lệ.
Người nêu rõ: nhân dân Việt Nam chỉ muốn độc lập và
thống nhất, chỉ muốn hòa bình, nhưng cũng quyết tâm tự vệ
đến giọt máu cuối cùng, “quyết không chịu mất nước làm nô lệ
thực dân lần nữa”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.57-58.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.137-138.

Tháng 3, trong tháng


Trên đường lên ATK (An toàn khu) Việt Bắc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và đoàn cán bộ được nhân dân địa phương tặng một
gánh xôi lúa. Đồng chí trưởng đoàn lên báo cáo và xin ý kiến.
Người nói:
- Ta vừa mới ăn cơm xong, để đến mai ăn đỡ được bữa sáng...
Sáng hôm sau, thấy vẫn được bát cơm như thường lệ,
Người hỏi:
- Thế xôi lúa đâu?
- Thưa Bác, lúc dân mang đến nóng, ăn ngay thì được, giống
xôi lúa ở đây nó thế. Để đến hôm sau thì phía trên còn ăn được,
ở dưới thì đã thiu.
Bác nói:
- Thế sao các chú không nói cho Bác rõ. Có phải cái gì Bác
cũng biết đâu. Thôi đừng tiếc nữa. Trời còn mờ sáng, tìm chỗ
nào suối sâu ấy, đổ xôi xuống, rửa sạch thúng trả cho dân, nhớ
cảm ơn cẩn thận.
- Báo Tiền phong, số 13, ngày 27-3-1990.

56
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 4, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 39-SL, hủy bỏ tất cả các kiểu tem trước bạ và
giấy tín chỉ đã lưu hành trước ngày 19-12-1946; ấn định cách
thức thu thuế, tem trước bạ mới.
- Sắc lệnh số 40-SL, cho phép một kiều dân Trung Hoa được 1947
nhập quốc tịch Việt Nam.
Tối, Người rời Phú Thọ sang Tuyên Quang.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón
Bác, 1990, tr.18.

Tháng 4, ngày 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nơi ở mới: làng Xảo, xã Hợp
Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Lúc đầu, Người ở tạm trong nhà dân, sau ra ở trong một
chiếc lán mái lợp lá, vách che liếp do các đồng chí phục vụ làm.
Trong khu vực lán, Người tăng gia, trồng bí đỏ.
- Tài liệu của Ban Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, từ ngày 3 đến ngày 6


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị cán bộ Trung ương
Đảng, bàn việc cụ thể hóa đường lối kháng chiến, rút kinh
nghiệm những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc.
- Tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng.

Tháng 4, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Vũ Đình Huỳnh
thông báo lại một số ý kiến của Giám mục Lê Hữu Từ trong
thư gửi cho Người.

57
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Người căn dặn ông Huỳnh: “Nhiệm vụ của chú ở đó là để


cùng với cụ Từ, dàn xếp việc xích mích giữa đồng bào lương
giáo, để thực hiện đoàn kết kháng chiến.
Vì vậy, chú cần phải khôn khéo và cẩn thận, từ lời nói cho
đến việc làm”.
Và yêu cầu “Bất kỳ thế nào, chú phải lập tức đi gặp cụ Từ, và
giải thích rõ ràng, làm cho hết sự hiểu lầm đó”.
Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh số 41-SL, về việc thành
lập Ủy ban hành chính đặc biệt miền thượng du tỉnh Thanh
Hóa để giúp Ủy ban hành chính tỉnh giải quyết công việc
của địa phương.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.140-141.

Tháng 4, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam
nhắc phải làm gấp việc di chuyển các Bộ, và dặn: “Đường khó
đi. Dù có xe hơi cũng không chắc đi được. Vậy, tốt nhất là dùng
xe bò, xe ngựa”. “Phải giải thích cho các Bộ trưởng hiểu: chịu
khó mấy hôm mà an toàn, hơn là cầu yên và chờ nước đến
chân mới nhảy, và dặn họ giải thích với gia quyến họ”. “Phải cử
người thạo việc đi theo để lúc gặp việc khó khăn, biết cách giải
quyết và biết nâng đỡ tinh thần của đàn bà, trẻ con”.
Người còn viết thư gửi ông Lê Văn Hiến, yêu cầu khẩn
trương di chuyển cơ quan và máy móc lên Việt Bắc để chủ
động đề phòng quân Pháp tấn công.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 42-SL,
quy định kể từ ngày 1-1-1947, bãi bỏ các ngân sách các cấp kỳ,

58
TẬ P 4 : 1946 - 1950
tỉnh, thành phố, thị xã, khu tự trị và sáp nhập vào Quỹ toàn
quốc. Riêng Quỹ đặc biệt Quốc phòng vẫn giữ như cũ.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.65.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
1947
Tháng 4, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam,
nhắc nhở “một khuyết điểm chính trị rất to”, đó là “trên đường
Tuyên - Thái1), xe cộ (vừa xe ngựa, xe ôtô) rất bừa bãi, không
camouflé2) hoặc có cũng rất sơ sài. Như thế là dễ làm mồi cho
phi cơ địch, dễ mất xe mất đồ đạc. Hai là địch dễ biết ta đi
phương hướng nào”.
Người đề nghị ông Nam “phải ra lệnh cho công an, tự vệ, hễ
thấy bất kỳ thứ xe gì, không cải trang thì giữ lại bắt cải trang
cẩn thận, rồi mới cho đi”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 9

17 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu
Nam báo tin quân địch chuẩn bị tấn công và chỉ thị “nhân
viên và tài liệu Chính phủ phải dời ngay vào nơi an toàn. Lúc
dời phải rất bí mật, chỉ một số người rất ít, rất cần thiết ở lại,
nhưng cũng phải chuẩn bị sẵn sàng”.
Người đề nghị ông Nam báo ngay cho ông Lê Văn Hiến
biết tin này.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) Tuyên Quang - Thái Nguyên (B.T).


2) Nghĩa là ngụy trang, cải trang (B.T).

59
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 4, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Hội đồng Chính
phủ bắt đầu từ 20 giờ 30 phút. Cuộc họp kéo dài tới 2 giờ sáng
hôm sau. Trọng tâm thảo luận là vấn đề ngoại giao.
Kết thúc phiên họp, Người yêu cầu tất cả các vị Bộ
trưởng nhanh chóng thu xếp chuyển vào an toàn khu ngay,
càng sớm càng tốt.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 43-SL, cấp cho Ngoại thương Cục 20 triệu
đồng làm vốn hoạt động ban đầu.
- Sắc lệnh số 44-SL, về việc bổ nhiệm Giám đốc Nha tiếp tế.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.74-75.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 45-SL, thiết lập Tòa án
binh tối cao và quy định thành phần, thẩm quyền xét xử của
tòa án này.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 29
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào cả nước sau
ngày Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng mất.
Người ca ngợi nhân cách, đức độ, lòng yêu nước thương
dân của cụ Huỳnh và kêu gọi toàn thể đồng bào hãy bày tỏ
lòng tiếc thương đối với cụ bằng cách “càng đoàn kết chặt
chẽ, càng hăng hái kháng chiến”, bằng cách “theo gương
dũng cảm, nối chí quật cường của cụ”, bằng cách “hoàn

60
TẬ P 4 : 1946 - 1950
thành sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà cụ đã ra sức đeo
đuổi suốt đời”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.66-67.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.142-143.

Tháng 4, ngày 30 1947


Hội đồng Chính phủ họp. Các thành viên ngồi trên mấy
chiếc chiếu trải dài, giữa để mấy ngọn đèn dầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp.
Cuộc họp bắt đầu lúc 19 giờ và kết thúc hồi 3 giờ sáng hôm
sau (ngày 1-5) để bàn các việc:
- Cử người thay cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Hoàng Hữu
Nam (vừa mới mất).
- Vấn đề trao đổi đại diện ngoại giao theo đề nghị của Chính
phủ Inđônêxia.
- Việc thả tù binh và trao trả cho phía Pháp các cha cố người
nước ngoài.
- Nghe báo cáo của các Bộ Quốc phòng và Tài chính.
Mở đầu phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mọi người
đứng dậy mặc niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Hoàng Hữu
Nam. Người nói về thân thế và sự nghiệp cách mạng của hai
vị. Sau đó, Chủ tịch báo cáo trước Hội đồng Chính phủ về tình
hình chung trong nước và quốc tế.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46-SL, về
việc bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Y tế và Chánh Văn phòng Bộ
Y tế.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.82.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Sáclơ Phen bức thư viết bằng
tiếng Anh dưới đây:

61
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

“Ông Phen thân mến,


Tôi rất cảm ơn ông về tình bạn tích cực của ông. Cho tôi gửi
lời chúc mừng tốt đẹp tới các bạn bè của chúng ta. Xin gửi tới
ông những lời thăm hỏi nồng nhiệt của tôi và Hồ Chí Minh mãi
mãi vẫn là bạn của ông.
4/7
Hồ”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 47-SL, quy định về tổ
chức của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị và
Văn phòng Bộ Tổng chỉ huy quân đội.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm mặt trận X, đã tiếp và trả
lời phỏng vấn của các nhà báo Việt Nam có mặt tại đây về cảm
tưởng của Người đối với Hội nghị Mátxcơva, về kết quả Hội
nghị Liên Á, về tình hình nước Pháp...
Trả lời câu hỏi: Tinh thần các chiến sĩ ta thế nào? Người
nhận xét:
“Mặc dầu dầm mưa dãi nắng, khi đói, khi no, bom nổ tứ
tung, đạn kêu váng óc, mà tướng sĩ vui vẻ kiên quyết, tinh thần
rất cao. Họ rất xứng đáng cái tên: Đội xung phong của dân tộc”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.68-69.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.144-145.

Tháng 5, trước ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phóng viên báo L’Humanité,
Rơnê Lécmitơ (René L’Hermite). Người khẳng định đình chiến
là điều hoàn toàn có thể thực hiện được. Người nói: “Chúng tôi

62
TẬ P 4 : 1946 - 1950
khao khát hòa bình và chúng tôi sẵn sàng hòa bình. Chỉ còn tùy
thuộc vào quyết định của Chính phủ Pháp mà thôi”.
- Báo Vietnam News Service, Bangkok, ngày 10-5-1947.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.146-148.

Tháng 5, ngày 10 1947


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn Hội nhi đồng Công
giáo khu Thượng Mỹ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay
thuộc thành phố Hà Nội), đã gửi thư cho Người. Người khuyên
các cháu:
“- Biết giữ kỷ luật.
- Siêng học, siêng làm.
- Yêu Chúa, yêu nước”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.173.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.149.

Tháng 5, ngày 12
Hồi 22 giờ, tại thị xã Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
Pôn Muýt (Paul Mus), đại diện của Cao ủy Pháp Bôlae (Bollaert),
để trao đổi về điều kiện ngừng bắn của hai phía Việt - Pháp.
Do dã tâm xâm lược và những yêu sách ngang ngược của
thực dân Pháp đòi phía Việt Nam phải đầu hàng1), cuộc hội
kiến đã không mang lại kết quả.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, t.1,
tr.92-93.

1) Trong cuộc hội kiến này, phía Pháp đã đưa ra bốn điều kiện cho việc
ngừng bắn: 1- Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho Pháp; 2- Quân đội
Pháp được quyền đi lại tự do trên đất nước Việt Nam; 3- Chính phủ Việt
Nam phải trả lại cho Pháp tất cả những người đã bị bắt; 4- Chính phủ
Việt Nam phải trao trả cho Pháp tất cả những người nước ngoài đã chạy
sang phía Việt Nam.

63
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 5, ngày 15

20 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng
Chính phủ để bàn vấn đề ngoại giao với Pháp sau cuộc hội kiến
giữa Người với Pôn Muýt ngày 11-5. Tiếp đó, nghe báo cáo của
Bộ Quốc phòng về tình hình các mặt trận.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 48-SL, cho phép lưu hành trong toàn quốc loại
giấy bạc một đồng, năm đồng, mười đồng, hai mươi đồng, năm
mươi đồng, một trăm đồng, năm trăm đồng.
- Sắc lệnh số 49-SL, đặt “Giải thưởng Hồ Chí Minh” cho
ngành quân giới.
- Sắc lệnh số 50-SL, đặt và quy định việc thưởng Huy
chương Quân công và Huy chương Chiến sĩ cho các cá nhân và
đơn vị trong quân đội, dân quân tự vệ lập được nhiều thành
tích trong chiến đấu. Mỗi loại huy chương đều có ba hạng:
hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.95.

Tháng 5, ngày 19

Chào mừng ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng
chí phục vụ chuẩn bị sẵn một bó hoa rừng đến chúc thọ Người.
Nhận bó hoa từ tay các đồng chí, Người rất xúc động và đề
nghị dành những bông hoa ấy đi viếng mộ đồng chí Lộc1) vừa
mới mất trước đó ít ngày vì bệnh sốt rét.

1) Đồng chí Lộc, người được phân công lo việc ăn uống cho Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Chủ tịch đã quen biết đồng chí Lộc hồi hoạt động ở Thái Lan, ở
Trung Quốc, sau đó theo Người về nước tham gia kháng chiến.

64
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Cùng ngày, Người rời Sơn Dương (Tuyên Quang) chuyển
đến địa điểm mới.
- Vũ Kỳ: Những bức thư kể chuyện Bác Hồ, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1985, tr.17-20.
- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1947
Tháng 5, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến ở và làm việc tại thôn Điền Mạc,
xã Thanh Định, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 25
Sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra
Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, tố cáo bọn quân phiệt
thực dân Pháp “quen thói hung tàn, bất nhân, vô lễ” đã đưa
ra những điều kiện ngang ngược đòi nhân dân Việt Nam phải
đầu hàng, đời đời phải quỳ gối cúi đầu làm nô lệ cho chúng.
Người kêu gọi mọi người hãy kiên quyết hy sinh chiến đấu,
đánh tan bọn quân phiệt thực dân, giành lấy thống nhất và độc
lập cho Tổ quốc.
Cùng ngày, Người viết Thư gửi nhân dân Pháp và Thư gửi
anh em giới văn hóa và trí thức Nam Bộ.
Trong Thư gửi nhân dân Pháp, Người nhắc lại thiện chí của
Chính phủ và nhân dân Việt Nam, tố cáo thái độ hiếu chiến
của bọn quân phiệt thực dân Pháp, và khẳng định: “Bọn quân
phiệt thực dân đã bắt buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu,
chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, chúng tôi lấy câu châm ngôn
hiên ngang của các bạn làm châm ngôn của chúng tôi:
“Thà chết không làm nô lệ”.
Chúng tôi chiến đấu vì công lý. Chúng tôi sẽ tồn tại; chúng
tôi sẽ chiến thắng”.

65
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong Thư gửi anh em văn hóa và trí thức Nam Bộ, Người
nhắn nhủ: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén
trong sự nghiệp phò chính trừ tà1), mà anh em văn hóa và trí
thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công
cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho
Tổ quốc.
Nhân dân ta sẵn lòng thân thiện với nhân dân Pháp, nhưng
quyết không chịu làm nô lệ cho thực dân phản động. Anh em
văn hóa với trí thức là lớp tiên tri tiên giác2), càng phải quyết
tâm không chịu làm nô lệ”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.76-78.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.150-151, 154-157.

Tháng 5, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi nam nữ chiến sĩ dân
quân, tự vệ và du kích toàn quốc3. Người khen ngợi và đánh
giá cao vai trò của lực lượng dân quân, tự vệ, du kích: “Dân
quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một
lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận
địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức
tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”.
Người căn dặn những điều cụ thể mà các chiến sĩ cần luôn
luôn ghi nhớ và thực hiện trong nội bộ, đối với dân, đối với
công việc và đối với kẻ thù.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.81-82.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.158-159.

1) Phò chính trừ tà: giúp người ngay thẳng, chân chính, trừ diệt kẻ gian ác (B.T).
2) Tiên tri tiên giác: hiểu biết trước (B.T).

66
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 5, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời 11 câu hỏi của Vaxiđép Rao
(Vasidev Rao) - thông tín viên Hãng Reuters, liên quan đến
cuộc chiến ở Việt Nam, lập trường quan điểm của Chính phủ
và nhân dân Việt Nam trong vấn đề thống nhất và độc lập, vấn
đề hòa bình ở Việt Nam và mối quan hệ giữa Việt Nam với các 1947
nước châu Á và thế giới.
Về quan hệ với Pháp, Người nói rõ: “Nếu Chính phủ Pháp
có một chính sách rõ rệt đối với Việt Nam thì có thể làm cho dễ
dàng việc trở lại điều đình”. “Tuy chúng tôi rất có cảm tình với
dân Pháp, nhưng nước Việt Nam không phải đày tớ của Pháp,
vậy vấn đề Việt Nam không phải là một việc nhà của Pháp”.
Về quan hệ với các nước, Người khẳng định: “Thái độ nước
Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em,
đối với ngũ cường1) là một thái độ bạn bè”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.70-73.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.160-165.

Tháng 6, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 51-SL, tạm thời định giá một đồng bạc Việt
Nam bằng hai mươi đồng tiền đồng2). Mọi sự đổi chác, giao
dịch... bằng tiền đồng sẽ tính theo tỷ lệ trên.
- Sắc lệnh số 52-SL, ấn định lại mức thuế nhập nội, thuế
xuất ngoại các loại hàng hóa.
- Sắc lệnh số 53-SL, ấn định quy cách kiểu tem trước bạ.

1) Ngũ cường: năm nước mạnh, theo quan niệm lúc đó gồm các nước: Liên
Xô (cũ), Anh, Pháp, Mỹ và Trung Quốc (B.T).
2) Loại tiền hình tròn, có lỗ vuông, mang niên hiệu Minh Mệnh, Thiệu Trị...
vẫn còn lưu hành tại các tỉnh miền Bắc Trung Bộ lúc bấy giờ (B.T).

67
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 54-SL, bãi bỏ Hội đồng quản trị Ngoại thương
Cục ghi trong Điều 2 Sắc lệnh số 29-SL, ngày 16-3-1947 và
đặt Ngoại thương Cục dưới quyền điều khiển trực tiếp của Bộ
Kinh tế. Sắc lệnh ghi rõ hệ thống tổ chức của Ngoại thương
Cục, chức năng và quyền hạn của các tổ chức đó.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 2
Tại Tân Trào (Tuyên Quang), 1 giờ sáng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ.
Nhắc lại một kỷ niệm trong chuyến đi họp Hội đồng Chính
phủ lần này, ông Lê Văn Hiến đã ghi trong nhật ký:
“... Trời mưa, ai nấy đều bị ướt hết cả. Đường đi vất vả quá,
cụ Bùi1) phải đi võng. Chúng tôi kẻ đi bộ, người đi ngựa, nhưng
mọi người đều vui vẻ. Khi đến địa điểm đã gặp Cụ2) và Giáp3)
đến sẵn từ lâu rồi. Thì ra bản này là nơi trước đây, năm 1945,
đã họp cuộc Hội nghị dân tộc và sau đó cử lâm thời Chính
phủ... Cụ bắt tay từng người, rờ những bộ quần áo ướt sũng
của chúng tôi, rồi lập tức cho đốt lửa để mọi người ngồi quây
quần xung quanh sưởi và hong áo cho khô”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.102-108.

Tháng 6, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 58-SL, đặt ba loại huân
chương: Sao Vàng, Hồ Chí Minh, Độc Lập, do Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh tặng (hoặc truy tặng) cho
đoàn thể và những người có công với nước, với dân; hoặc các
nhân vật người nước ngoài có công với nước Việt Nam.

1) Bùi Bằng Đoàn (B.T).


2) Chủ tịch Hồ Chí Minh (B.T).
3) Võ Nguyên Giáp (B.T).

68
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Huân chương Sao Vàng chỉ có một hạng, “để tặng những
người có công đức vĩ đại với dân tộc”.
Huân chương Hồ Chí Minh có ba hạng: hạng Nhất, hạng
Nhì, hạng Ba, “để tặng những người có tài, đức, có công với
dân tộc”.
Huân chương Độc Lập có ba hạng: hạng Nhất, hạng Nhì, 1947
hạng Ba, “để tặng những người có công đặc biệt trong việc cứu
quốc hoặc kiến quốc”.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Tướng Raun Xalăng (Raul
Salan) vừa trở lại Đông Dương nhận chức Tổng chỉ huy quân
đội viễn chinh Pháp thay Tướng Valuy (Valluy). Đồng thời,
nhờ Xalăng chuyển bức thư của Người viết gửi Lêông Blum.
Trong Thư gửi Tướng R. Xalăng có đoạn:
“Vì chúng tôi đã buộc phải chiến đấu, thì các ngài hãy tỏ ra
là những chiến binh hào hiệp, những đối thủ quân tử, trong
khi chờ đợi chúng ta lại trở thành bạn hữu của nhau. Chúng ta
đã từng là bạn. Giữa hai chúng ta hiện nay vẫn là bạn bè của
nhau. Ngài muốn như vậy chứ?
Vì tình yêu thương con người, lòng nhân đạo và nhân danh
tình bạn của chúng ta, tôi yêu cầu ngài nghiêm cấm binh lính
Pháp sát hại dân lành, hãm hiếp phụ nữ, đốt phá làng mạc và
phá hủy nhà thờ, đền miếu như họ vẫn làm từ trước tới nay.
Tôi đảm bảo với ngài rằng binh lính và thường dân Pháp
ở chỗ chúng tôi được đối xử rất tử tế. Tôi hy vọng người của
chúng tôi trong tay các ngài cũng được đối xử như vậy”.
Trong Thư gửi Chủ tịch Lêông Blum, sau khi nêu rõ “những
nét thật đặc biệt” về nguyên nhân, về diễn biến và hậu quả của
chiến tranh, Người viết:

69
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

“Vậy làm thế nào để chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn này, làm thế nào để lập lại hòa bình?
Tôi cho rằng, chỉ có một chính sách phù hợp là chính sách
mà chính ngài đã đề ra trên báo Dân chúng (ngày 12-12-1946),
một chính sách hữu nghị và tin tưởng lẫn nhau, dựa trên sự
thống nhất và độc lập của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp.
Vì lợi ích và tương lai chung của hai dân tộc chúng ta, tôi
hy vọng các ngài sẽ cố gắng làm cho chính sách khôn ngoan và
hào hiệp đó được thực hiện”.
- Salan: Fin d’un empire, Edition Press de la Cité, Paris, 1971,
pp. 76-77, 450-451.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.169-174.

Tháng 6, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Đại hội Đảng bộ Liên khu IV,
căn dặn: “Hội thì phải nghị, nghị thì phải quyết, quyết thì phải
hành” và nhấn mạnh: “Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp tức
là những người phụ trách vận mệnh an nguy của nước nhà và
dân tộc. Vì vậy mỗi đồng chí phải gắng làm cho đúng năm chữ:
Trí, Nhân, Dũng, Nghĩa, Liêm... Nếu thiếu một trong năm điều
đó, tức là một khuyết điểm to và ảnh hưởng đến công tác.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 55-SL, cho
phép ông Frey, kiều dân Áo, được nhập quốc tịch Việt Nam và
lấy tên là Nguyễn Dân.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các nhân viên cơ quan
Chính phủ, khen ngợi mọi người đã cố gắng vượt qua thiếu
thốn gian khổ, cùng nhau đoàn kết, đồng cam cộng khổ tham

70
TẬ P 4 : 1946 - 1950
gia kháng chiến. Người chỉ rõ: “Trường kỳ kháng chiến là một
viên đá thử vàng đối với mỗi một quốc dân, đồng thời là một
trường học để rèn luyện cho cán bộ”.
Lấy tư cách “như một người anh”, Người nêu một số kinh
nghiệm bản thân, khuyên nhủ và căn dặn mọi người những
việc làm thiết thực để giữ vững, nâng cao tinh thần và sức 1947
mạnh mỗi người góp phần làm cho cuộc kháng chiến cứu
nước mau đi đến thắng lợi.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.175-177.

Tháng 6, ngày 17
Tại Tân Trào (Tuyên Quang), từ 14 giờ đến 18 giờ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ.
Từ 20 giờ đến 1 giờ sáng hôm sau (ngày 18-6), Người chủ
trì phiên họp Hội đồng Chính phủ, bàn hai vấn đề chính:
- Kỷ niệm sáu tháng kháng chiến.
- Nghe Bộ trưởng Bộ Quốc phòng báo cáo và thảo luận về
tình hình quân sự trong sáu tháng qua.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 56-SL,
thành lập Trường Ngoại ngữ, nhằm mục đích đào tạo cán bộ
ngoại ngữ cho các ngành trong nước.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.113-114.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 19
Nhân kỷ niệm cuộc kháng chiến toàn quốc tròn sáu tháng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào và toàn thể
các chiến sĩ vệ quốc quân, dân quân tự vệ.

71
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Người nêu rõ những thất bại của địch, sự trưởng thành của
ta qua sáu tháng chiến đấu và phân tích những nguyên nhân
dẫn tới thắng lợi: Vì kháng chiến của ta là chính nghĩa; Vì đồng
bào ta đại đoàn kết; Vì tướng sĩ ta dũng cảm; Vì chiến lược ta
đúng; Vì ta nhiều bầu bạn. Người kêu gọi: “Chúng ta quyết hy
sinh chịu khổ và gắng sức 5 năm, 10 năm để phá tan cái xiềng
xích nô lệ hơn 80 năm vừa qua, để tranh lấy quyền thống nhất
và độc lập cho muôn đời sắp đến”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.91-93.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.178-180.

Tháng 6, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi nhân dân thế giới,
nêu rõ ý nghĩa cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và kêu
gọi nhân dân Pháp, nhân dân châu Á, các nhân sĩ dân chủ trên
thế giới hãy cùng hành động với nhân dân Việt Nam, hãy “lên
tiếng ủng hộ hòa bình, ủng hộ chính nghĩa, ủng hộ dân chủ,
ủng hộ Việt Nam”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.94-95.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.181-182.

Tháng 6, ngày 22
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của một nhà báo
nước ngoài về những câu hỏi liên quan đến tính chất của
Chính phủ Việt Nam, thời hạn kết thúc chiến tranh, chương
trình kiến thiết của Việt Nam sau chiến tranh...
Nói về chương trình kiến thiết bước đầu của Việt Nam sau
chiến tranh, Người “rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản
các nước cộng tác thật thà với chúng tôi”.
Đề cập tới vai trò của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng đất nước, Người khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý

72
TẬ P 4 : 1946 - 1950
báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như
thế... Địa vị những người trí thức ái quốc Việt Nam là cùng với
toàn thể đồng bào, kiến thiết nước Việt Nam mới, một nước
Việt Nam thống nhất và độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.83-84.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.183-184.
1947

Tháng 6, ngày 30
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới Ban Chấp
hành Đảng Dân chủ Việt Nam nhân kỷ niệm lần thứ ba ngày
thành lập Đảng Dân chủ4.
Người chỉ rõ: Đảng Dân chủ có nhiệm vụ rất quan trọng là
“làm cho dân chủ thắng lợi hoàn toàn”. Người mong các đảng
viên Dân chủ nêu cao tinh thần đoàn kết, ra sức thi đua bằng
hành động cụ thể trong thực tế cứu nước và xây dựng đất
nước, đồng thời từng đảng viên “phải là người kiểu mẫu trong
sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.96.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.185.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào trung du và hạ
du về việc chống lụt. Người nhấn mạnh: “Lụt cũng là một thứ
giặc ghê gớm... Chúng ta phải ra sức ngăn giặc lụt cũng như
chống giặc ngoại xâm” và kêu gọi mọi người phải coi việc canh
đê phòng lụt là công việc thiết thân ai cũng phải tham gia.
“Lụt thì lút cả làng,
Muốn cho khỏi lụt thiếp chàng cùng lo”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.85-86.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.188-189.

73
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời các nhà báo Việt Nam về những
lời tuyên bố mới đây của Cao ủy Bôlae (Bollaert).
Người công nhận ông ta đã có những ý kiến đúng đắn về
hướng giải quyết cuộc chiến ở Việt Nam, nhưng điều kiện họ
đưa ra thì không thể nào chấp nhận được. Một lần nữa, Người
nhắc lại thiện chí của Chính phủ ta trong việc giải quyết vấn
đề chiến tranh ở Việt Nam.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.87-88.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.186-187.

Tháng 6, trong tháng


Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Sự thật:
1. Bài Cán bộ tốt và cán bộ xoàng (ký bút danh A.G.), đăng
trên số 77.
Người chỉ rõ: nơi nào có cán bộ tốt thì “công việc rất phát
triển”, nơi nào cán bộ xoàng thì “công việc cứ luộm thuộm”.
Bằng những ví dụ điển hình ở những địa phương có cán bộ
“tốt” và cán bộ “xoàng”, Người kết luận: “Cán bộ mà lên mặt
quan cách mạng thì mọi việc đều lủng củng. Cán bộ mà biết
làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, thì việc gì cũng mĩ mãn”.
2. Bài Người tuyên truyền và cách tuyên truyền (ký bút
danh A.G.), đăng trên số 79.
Người hướng dẫn cho các cán bộ tuyên truyền cách tuyên
truyền để “dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”. Muốn vậy, theo
tác giả, người đi tuyên truyền phải hiểu rõ nội dung, phải biết
cách nói, phải có lễ độ, phải chịu khó, chịu khổ đi sát với dân.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr.85-88.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.166-168, 191-192.

74
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 7, ngày 1
Nhân dịp ông Trần Đăng Ninh, phái viên Bộ Quốc phòng đi
công tác ở Hòa Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ba lá thư gửi
tới ba ông: Đinh Công Huy - Phó Chủ tịch, Hội trưởng Hội Liên
Việt tỉnh Hòa Bình; Đinh Công Niết - Chủ tịch châu Lương Sơn
và Đinh Công Phủ - Lang đạo vùng Mai Đà. 1947
Thay mặt Chính phủ, Người khen ngợi các ông đã tận tâm
làm việc, vận động đồng bào địa phương hăng hái tham gia
kháng chiến, nêu cao tinh thần “ái quốc và oanh liệt” của dòng
họ Đinh. Người mong các ông hăng hái hơn nữa, ra sức cổ
động thân sĩ, kêu gọi đồng bào Hòa Bình tham gia kháng chiến,
giúp đỡ bộ đội, tăng gia sản xuất và phát triển bình dân học vụ.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi thi sĩ Huyền
Kiêu sau khi nhận được bản trường ca “Hồ Chí Minh - Tinh
hoa dân tộc” dài 300 câu của nhà thơ gửi tặng Người. Toàn
văn bức thư như sau:
“Gửi thi sĩ Huyền Kiêu,
Tôi đã nhận được bản trường ca của chú với nội dung cổ vũ
đồng bào và chiến sĩ ta hăng hái kháng chiến chống thực dân
Pháp và bọn bù nhìn tay sai. Thế là rất tốt.
Tôi mong chú và anh chị em văn nghệ sĩ trong Hội Văn
hóa cứu quốc đi sâu hơn nữa vào cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc, sáng tác được nhiều tác phẩm phục vụ cuộc kháng
chiến lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi của nhân
dân ta.
Chào thân ái và quyết thắng
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản gốc bức thư lưu tại gia đình ông Huyền Kiêu.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.190, 193-195.

75
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 7, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn ông Lê Ngọc Tiến
trong Ban Chấp hành Đảng Xã hội Việt Nam5 đã gửi thư cho
Người. Trong thư, Người góp một số ý kiến về phương hướng
công tác để xây dựng Đảng Xã hội Việt Nam phát triển mau
chóng và vững chắc.
20 giờ, Người khai mạc và chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để nghe và thảo luận báo cáo của các bộ về tình hình hoạt
động sáu tháng qua.
Phát biểu ý kiến, Người đặc biệt nhấn mạnh đến những
chuyển biến của tình hình thế giới, những bước tiến của phong
trào quần chúng tại các nước nhược tiểu, các nước dân chủ.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 59-SL, đặt trong Bộ Quốc phòng một Tòa án
binh gọi là “Tòa án binh khu, trung ương”. Sắc lệnh quy định rõ
thành phần và thẩm quyền xét xử của Tòa án này.
- Sắc lệnh số 60-SL, về việc sửa đổi Điều 2 Sắc lệnh số 19-SL,
ngày 16-2-1947, về chế độ hưu bổng, thương tật tiền tuất cho
thân nhân tử sĩ.
- Sắc lệnh số 61-SL, về việc cấm xuất cảnh và nhập nội
các tư bản (các thứ tiền tệ nước ngoài, Đông Dương, Việt
Nam; các chứng thư hối đoái, các chứng thư ngân hàng, các
chứng thư tư hữu, v.v.).
- Sắc lệnh số 62-SL, sáp nhập hai xã Đại Hóa và Kiến An,
thuộc huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) vào huyện Can Lộc (Hà Tĩnh).
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.121.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.196.

76
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 7, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội
đồng Chính phủ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.122.
1947
Tháng 7, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn các cụ phụ lão, các vị
thân hào và toàn thể đồng bào tỉnh Phúc Yên (nay thuộc Vĩnh
Phúc) đã có nhiều sáng kiến hay trong việc động viên đồng
bào trong tỉnh tham gia kháng chiến.
Cùng ngày, Người viết thư gửi đồng bào vùng địch tạm
chiếm bày tỏ sự thông cảm với những nỗi khổ mà đồng bào
đang phải chịu đựng.
Bức thư có đoạn:
“Trong lúc viết thư này, một mặt tôi rất đau lòng vì tôi tài
hèn đức mọn, chưa đuổi được giặc ngay để đồng bào chịu khổ
cực. Song một mặt tôi rất phấn phát, vì tôi chắc rằng trải qua
bước cực khổ, thì chúng ta nhất định thành công, cũng như
qua khỏi mùa đông, thì chắc chắn mùa xuân sẽ đến”.
Cũng cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một nhà báo
nước ngoài. Người đã giải thích về tính chất của Quốc hội Việt
Nam; nói rõ thành phần của Chính phủ cùng với chính sách
đối nội, đối ngoại của nó; ý nghĩa của Quốc kỳ Việt Nam; vai
trò của giai cấp tư sản và trí thức Việt Nam trong công cuộc
kháng chiến và kiến quốc; thái độ đối với những người lỡ đi
lầm đường, v.v..
Về phần cá nhân, Người nói:
“Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp
một cách thực thà: Tôi không nhà cửa, không vợ, không con,
nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân
thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một

77
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống
nhất, dân chủ.
Bao giờ đạt được mục đích đó tôi sẽ trở về làm một người
công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.5-8.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.197-203.

Tháng 7, ngày 17
Nhân Ngày thương binh liệt sĩ đầu tiên trong cả nước6
(27-7-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Ban Thường
trực của Ban tổ chức Ngày thương binh toàn quốc, nói rõ ý
nghĩa của ngày kỷ niệm và kêu gọi mọi người có hành động
thiết thực giúp đỡ thương binh.
Nhân ngày này, Người gửi tặng một chiếc áo lụa của chị em
phụ nữ biếu Người, một tháng lương của Người, tiền một bữa
ăn của Người và của các nhân viên làm việc trong Phủ Chủ
tịch, tổng cộng là 1.127 đồng1).
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.11-12.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.204-205.

Tháng 7, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 228-SL/M, cử ông Nguyễn Sơn làm Khu trưởng
Chiến khu IV thay ông Lê Thiết Hùng được điều đi nơi khác.
- Sắc lệnh số 229-SL/M, điều ông Lê Thiết Hùng về phụ
trách công tác thanh tra quân đội của Bộ Tổng chỉ huy.
- Sắc lệnh số 230-SL/M, về việc lập một phân khu quân sự
trong Chiến khu IV gồm các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên và cử phân khu trưởng.

1) Tiền Việt Nam lưu hành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (B.T).

78
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 231-SL/M, cho phép phát hành tại Nam phần
Trung Bộ các loại tín phiếu: một đồng, năm đồng, mười đồng,
hai mươi đồng, năm mươi đồng, một trăm đồng, năm trăm
đồng, có giá trị như giấy bạc Việt Nam, với tổng số giá trị không
được quá một trăm triệu.
- Sắc lệnh số 232-SL/M, cử ông Phan Mỹ, nguyên Chánh 1947
Văn phòng Bộ Quốc phòng, giữ chức Chánh Văn phòng Chủ
tịch Chính phủ, thay ông Nguyễn Văn Lưu.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến địa điểm họp Hội đồng Chính
phủ (Hồng Thái, Tân Trào, Tuyên Quang). Trời mưa to, nước
lũ dâng cao, các vị bộ trưởng chưa đến đủ, Người quyết định
hoãn cuộc họp sang ngày hôm sau.
20 giờ, Người cùng với một số vị trao đổi trước mấy vấn đề
khẩn cấp, quan trọng là việc cải tổ Chính phủ với mục đích mở
rộng thành phần người tham gia để tránh âm mưu chia rẽ của
Pháp và để tranh thủ ảnh hưởng đối với quốc tế.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 233-SL/M,
cử các chính trị ủy viên các khu I, II, III, IV, V, X, XII; và Sắc lệnh
số 235-SL/M, quy định địa giới Khu XI, II, XIV.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.136.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 26
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để nghe báo cáo về quân sự, ngoại giao, tình hình nội bộ
và giải quyết một số vấn đề khẩn cấp ở các bộ.
Người đã trình bày lý do cải tổ và mở rộng Chính phủ, nêu
các nguyên tắc để Hội đồng Chính phủ cho ý kiến.

79
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tối, Người cùng với một số đồng chí bàn riêng về công tác
của Đảng đoàn Chính phủ.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 65-SL, về việc cử người thay thế Ủy viên Ủy
ban hành chính tỉnh Hà Nam.
- Sắc lệnh số 66-SL, về việc cử Phó Chủ tịch huyện Nga Sơn
(Thanh Hóa).
- Sắc lệnh số 67-SL, cho phép Ủy ban hành chính Nam Bộ
phát hành công trái (lần thứ hai) để lấy tiền dùng trong khu
vực (Nam Bộ) và ấn định số tiền vay nhiều nhất là năm triệu
đồng, phát hành làm năm kỳ, lãi suất không được quá 5%.
- Sắc lệnh số 68-SL, bãi bỏ Điều 9 Sắc lệnh số 40 ngày
29-3-1946, thay bằng Điều 9 mới về trình tự thủ tục việc bắt
giam, điều tra, lập và gửi hồ sơ đối với những người bị bắt
về tội “xét thấy lời nói hay việc làm của họ nguy hại tới trị an
hay kháng chiến”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.136.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen bà Bá Huy đã hăng hái
giúp ruộng đất, trâu bò, thóc lúa, tiền bạc để lập một trại an
dưỡng cho thương binh.
Bức thư có đoạn:
“Như thế là bà đã giúp sức vào công việc giữ gìn Tổ quốc.
Như thế là bà đã làm kiểu mẫu cho đồng bào thực hành
cái khẩu hiệu:
“Có tiền giúp tiền, có sức giúp sức,
Đồng tâm hiệp lực, kháng chiến thành công””.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.13.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.206.

80
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 7, ngày 30
Nhân dịp Đảng Xã hội họp Đại hội toàn quốc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi thư chào mừng đại hội, bày tỏ niềm phấn
khởi “thấy các đồng chí trong Đảng Xã hội Việt Nam đều
hăng hái tham gia kháng chiến cứu quốc và ra sức thực hiện
đại đoàn kết”, và “trân trọng chúc quý Đảng càng ngày càng 1947
phát triển”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.14.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.207.

Tháng 8, ngày 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi các chiến sĩ và nhân dân
Nam Dương7 bày tỏ sự đồng tình ủng hộ cuộc chiến đấu bảo vệ
độc lập, tự do của “anh em Nam Dương” và “tin chắc rằng cuộc
kháng chiến anh dũng của nhân dân Nam Dương sẽ thắng lợi,
cũng như tin chắc rằng cuộc kháng chiến, cứu quốc của nhân
dân Việt Nam nhất định sẽ thành công”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.16.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.208-209.

Tháng 8, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 234-SL/M, bổ nhiệm
ông Tôn Đức Thắng, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ, giữ chức
Thanh tra đặc biệt toàn quốc.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 5
Nhân dịp giới báo chí họp đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi thư chúc mừng.

81
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong thư, Người nêu cụ thể năm nhiệm vụ của giới báo
chí và căn dặn những người làm báo khi viết “lời lẽ phải phổ
thông, dễ hiểu, đường hoàng, vui vẻ, làm cho người xem báo
có thú vị mà lại có bổ ích”.
Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh số 236-SL/M, quy định ông
Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia có quyền hạn và chức vụ như một
Bộ trưởng và là một thành viên của Hội đồng Liên bộ1) trong
Hội đồng Chính phủ.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.17.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.210-211.

Tháng 8, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng Hội nghị bình
dân học vụ Khu XII.
Người khen ngợi các cán bộ bình dân học vụ về những
thành tích đã đạt được và mong các Ủy ban, các đoàn thể
và toàn thể đồng bào Khu XII cùng góp sức phát triển bình
dân học vụ. “Như thế thì về mặt trận văn hóa, chúng ta cũng
sẽ thắng lợi như về các mặt trận khác trong cuộc trường kỳ
kháng chiến”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.18.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.212-213.

Tháng 8, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Phó Chủ tịch Chính
phủ Ấn Độ Nêru, nhân ngày Ấn Độ tuyên bố độc lập.

1) Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ ngày 5-7-1947, Hội đồng Liên
bộ gồm các vị Bộ trưởng các Bộ Nội vụ, Quốc phòng, Tài chính, Kinh tế,
Tư pháp; nay thêm ông Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia.

82
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bức điện có đoạn: “Tin tưởng vào mối cảm tình và tình
đoàn kết giữa các dân tộc Ấn Độ và Á châu, dân tộc Việt Nam
cương quyết tranh đấu cho được thống nhất và độc lập”.
Cùng ngày, Người gửi điện mừng tới ông Ginnát - Toàn
quyền Pakixtan, nhân ngày Pakixtan tuyên bố độc lập.
Bức điện viết: “Thay mặt dân tộc Việt Nam và riêng tôi 1947
nữa, tôi trân trọng yêu cầu Ngài nhận và chuyển cho nhân dân
Pakixtan lời chúc tụng nhiệt liệt và lời chào mừng thân ái của
chúng tôi”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.19-20.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.214-215.

Tháng 8, ngày 17
Tại châu Tự Do (Sơn Dương, Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn về công tác
tuyên truyền, việc kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, vấn đề giúp
đỡ đồng bào Việt Bắc, lương của cán bộ và một số vấn đề về tài
chính, tư pháp.
Cùng ngày, Người viết thư Gửi các bạn thanh niên nhân
Hội nghị thanh niên Việt Nam, nhấn mạnh đến vai trò của
thanh niên đối với tương lai của đất nước và những phẩm
chất đạo đức cần phải có ở thanh niên. Người khuyên
thanh niên:
“Chớ đặt những chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc
nghe sướng tai nhưng không thực hiện được.
Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc
gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ
thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành
được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm
không được”.

83
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 74-SL, bổ


nhiệm ông Khuất Duy Tiến làm Cục trưởng Ngoại thương Cục.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.216-217.

Tháng 8, ngày 19
Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết Thư gửi đồng bào toàn quốc và Thư gửi đồng bào
Việt Bắc.
Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, sau khi nêu bật ý nghĩa
của Cách mạng Tháng Tám, Người viết:
“Nay cuộc trường kỳ kháng chiến phải tiếp tục cái nhiệm vụ
vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám: Phải làm cho nền Dân chủ
Cộng hòa chắc chắn, phải làm cho quyền thống nhất độc lập
vững vàng... Chúng ta có cái chí quật cường không núng của
dân tộc, chúng ta có sự đoàn kết của toàn dân. Chúng ta có cái
lòng hy sinh cảm tử của chiến sĩ ở tiền tuyến. Chúng ta có cái
sức kiên quyết nhẫn nại của đồng bào ở hậu phương. Đó là
những vũ khí luôn luôn chiến thắng quân thù, chứ không lực
lượng nào chiến thắng được những vũ khí đó... Chúng ta dám
trả cái giá cho thắng lợi, thì chúng ta nhất định thắng lợi”.
Trong Thư gửi đồng bào Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhắc lại truyền thống cách mạng vẻ vang của nhân dân các dân
tộc Việt Bắc và dặn dò những công việc cần làm để Việt Bắc
tiếp tục góp phần vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
Cùng ngày, Người đã trả lời phỏng vấn của các nhà báo. Về
câu hỏi “Nghe nói có một bộ phận người Pháp ở đây muốn lập
một chính phủ bù nhìn, ý kiến của Chủ tịch đối với bọn người
ấy thế nào?”, Người nói:

84
TẬ P 4 : 1946 - 1950
“Một số thực dân phản động có thể có mưu mô đó. Nhưng
Cao ủy Bôlae là một nhà đại chính trị, chắc ông thừa biết các
kinh nghiệm chính phủ bù nhìn ở Nam Bộ, nó đã không giải
quyết được gì, mà chỉ làm kéo dài cuộc chiến tranh và ngăn trở
sự thân thiện giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Không lẽ một người
sáng suốt như Cao ủy Bôlae lại đi theo con đường đó”. 1947
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 75-SL,
cho phép ông Walter Rudy Stephen, kiều dân Đức, được nhập
quốc tịch Việt Nam và lấy tên là Lê Đức Nhân.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.23-24,
27-29.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.218-222.

Tháng 8, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Nguyễn Khánh Toàn.
Toàn văn bức thư như sau:
“Chú Lĩnh1),
Chú ốm đi ốm lại mãi. Mình lo cho sức khỏe của chú. Phải
gắng uống thuốc đi cho khỏi. Hoặc nhờ thầy thuốc tiêm cho.
Chớ để ốm mãi như vậy, chú đã yếu mà anh cũng lo.
Thân ái và quyết thắng
Ngày 20 tháng 8 năm 1947
ANH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.225.

1) Hồng Lĩnh, bí danh của ông Nguyễn Khánh Toàn, lúc này là Thứ trưởng
Bộ Giáo dục (B.T).

85
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 8, ngày 23
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 70-SL, cử Khu trưởng các Khu XI, XV, Khu phó
Khu VI và Chính trị ủy viên các Khu II, XII.
- Sắc lệnh số 71-SL, cử các Chính trị ủy viên các Khu VI,
VIII, IX.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 26
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Vui sống về
vấn đề y tế và quân y trong thời kỳ kháng chiến.
Người nói: “Theo tôi biết, thì y tế và quân y đều cố gắng
làm việc. Riêng về quân y, vì ở gần bộ đội và gần mặt trận đã
có những bác sĩ, y sĩ, y tá, dược sĩ và chị em khán hộ rất chịu
khó và gan góc, đối với anh em thương binh rất tử tế, đối với
công việc rất có tinh thần phụ trách. Đó là những điều đáng
nhớ, đáng khen. Tuy trong hoàn cảnh khó khăn, anh em y giới
đã tự chế được mấy thứ thuốc mới. Đó là một sự đáng mừng.
Y tế và quân y cần phải đoàn kết chặt chẽ, cộng tác mật
thiết, phải ra sức đào tạo cán bộ, phát minh thêm thuốc mới”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 76-SL, thành lập Đại đoàn Độc lập.
- Sắc lệnh số 77-SL, cử ông Hoàng Văn Thái - Tổng tham
mưu trưởng Quân đội quốc gia Việt Nam kiêm chức Đại đoàn
trưởng Đại đoàn Độc lập; ông Nguyễn Lâm Kính - nguyên
Tham mưu trưởng Chiến khu II, giữ chức Đại đoàn phó và ông
Lê Vinh Quốc - nguyên Chính ủy Trung đoàn 147, giữ chức
Chính ủy Đại đoàn.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.30.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.226.

86
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 8, ngày 28
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời báo Độc lập về việc mở rộng
Chính phủ.
Người nêu rõ: “Chính sách của Chính phủ trước sau vẫn là
đại đoàn kết. Đối với các vị quan lại cũ cũng như đối với tất cả
các giới đồng bào, những người có tài có đức thì Chính phủ
1947
đều hoan nghênh ra gánh việc nước”. Và khẳng định: “Trước
sự đại đoàn kết của Chính phủ và quốc dân đồng bào, mưu mô
chia rẽ của thực dân phản động Pháp nhất định thất bại”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.31.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.227.

Tháng 8, ngày 29
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định số 136-M/QĐ, cử
Tham chính Văn phòng Chủ tịch Chính phủ.
- Bản chụp Quyết định lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh
tụ của Đảng.

Tháng 8, ngày 30 (15-7 âm lịch)


Nhân ngày lễ Phật rằm tháng Bảy, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
Thư gửi Hội Phật tử Việt Nam. Người “kính cẩn cầu nguyện
Đức Phật bảo hộ Tổ quốc và đồng bào”, cảm ơn sự đóng góp
của đồng bào Phật giáo trong công cuộc kháng chiến cứu nước
và mong đồng bào “cố gắng thêm, cố gắng mãi” cho đến ngày
kháng chiến thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công.
Bức thư có đoạn:
“Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu
chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu,
diệt lũ ác ma.

87
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu,
kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để
cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc
lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của
Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái
khổ ải nô lệ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.228-229.

Tháng 8, trong tháng


Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi thư cho thiếu niên và nhi đồng cả nước biểu dương
những gương dũng cảm, hy sinh của nhiều cháu từ Nam đến
Bắc, khen ngợi những việc làm tốt và khuyên các cháu: “Việc
gì có ích cho kháng chiến, có ích cho Tổ quốc thì các cháu nên
gắng sức làm. Làm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Tuổi các
cháu còn nhỏ, thì các cháu làm những công việc nhỏ. Nhiều
công việc nhỏ cộng lại thành công việc to”.
Trong tháng, Người còn viết hai bức thư bằng thể thơ bốn
chữ gửi hai em nhi đồng liên lạc của bộ đội Chiến khu II là
Phạm Đỗ Hải1) và Lê Văn Thức2) đã lập công xuất sắc: dụ hàng
và bắt sống được lính Pháp.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.25.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.223-224, 230-231.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự Lễ khai mạc và huấn thị cho

1) Em Phạm Đỗ Hải bị giặc bắt trong khi đang làm nhiệm vụ, đã tìm cách
trốn thoát, lại lôi kéo được hai lính địch về theo cách mạng (B.T).
2) Em Lê Văn Thức đã dùng súng dọa Tây, bắt nó phải hàng, lấy được súng
mang về. Có tài liệu in là Lê Văn Thục (B.T).

88
TẬ P 4 : 1946 - 1950
lớp bổ túc cán bộ trung cấp toàn quân do Bộ Tổng chỉ huy tổ
chức tại xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1986, t.2, tr.127.

Tháng 9, ngày 2 1947


Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào toàn quốc
nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Quốc khánh nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Người kêu gọi đồng bào, chiến sĩ và kiều bào ở nước ngoài,
hãy tin tưởng vào vận mệnh vẻ vang của Tổ quốc, ra sức đoàn
kết, cố gắng thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính, góp phần vào
thắng lợi của công cuộc trường kỳ kháng chiến. Đồng thời,
Người thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam gửi lời chào
thân ái tới các dân tộc anh em châu Á, tới nhân dân Pháp, tới
dân tộc anh em các thuộc địa Pháp.
Người còn viết Thư gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, Gửi
Việt Mỹ ái hữu hội, Thư gửi Quân đội quốc gia Việt Nam nhân
dịp kỷ niệm Quốc khánh lần thứ hai và viết bài Cán bộ và đời
sống mới.
Trong Thư gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, Người động viên
đồng bào tiếp tục cố gắng để giữ vững danh hiệu vẻ vang là
căn cứ cách mạng trước kia và căn cứ kháng chiến ngày nay.
Trong thư Gửi Việt Mỹ ái hữu hội, Người viết:
“Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác thân ái của các
bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật, và chúng ta
mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc đấu tranh
của chúng ta chống thực dân phản động Pháp, giành thống
nhất và độc lập”.
Trong Thư gửi Quân đội quốc gia Việt Nam, Người khen
ngợi tinh thần yêu nước, dũng cảm, hy sinh và những chiến

89
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

công của quân đội trong hai năm qua, căn dặn cán bộ và
chiến sĩ những việc cần phải làm “để khỏi phụ lòng tin cậy
của Chính phủ, của đồng bào, và để trở nên một quân đội
tất thắng”.
Bài Cán bộ và đời sống mới nêu rõ: Cán bộ muốn làm việc,
muốn được dân tin, dân phục, dân yêu thì phải “tự mình làm
đúng đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong
sạch, chính đáng”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.32-38.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.232-243.

Tháng 9, ngày 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78-SL, ấn định số
lượng ủy viên và cách chỉ định các ủy viên trong Ủy ban kháng
chiến khu.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 4
Tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp ông Phạm Khắc
Hòe. Người hoan nghênh việc ông Hòe đã thoát ra được vùng
tự do tham gia kháng chiến.
Tối, trước khi đi ngủ, trong câu chuyện thân mật, Người
hỏi ông Hòe:
- Cái gì đã làm cho chú cương quyết đi ra vùng tự do tham
gia kháng chiến?
Nghe ông Hoè trả lời: yếu tố quyết định là hình ảnh và uy
tín của Người, Người không đồng ý và nói:
- Yếu tố quyết định nằm ngay trong bản thân chú. Đó là
lòng yêu nước của chú.

90
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 79-SL
và Sắc lệnh số 80-SL, cử hai ủy viên vào Ủy ban kháng chiến
Khu XIV.
- Phạm Khắc Hòe: Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc,
Hà Nội, 1983, tr.277.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
1947
Tháng 9, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 81-SL, bổ nhiệm
ông Khuất Duy Tiến làm Trưởng phòng Dân quân thuộc Bộ
Quốc phòng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 12
Tại Đại Từ (Thái Nguyên), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì
phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn về kế hoạch đề phòng cuộc
tấn công mùa đông của giặc Pháp, vấn đề tuyên dương công
trạng quân nhân, việc hưởng ứng cuộc vận động “Mùa đông
binh sĩ”, vấn đề ân xá ân giảm trong dịp Quốc khánh và một số
vấn đề liên quan đến Bộ Thương binh, Bộ Canh nông.
Trong ngày, Người viết Thư gửi đồng bào Liên khu III, biểu
dương những thành tích mà quân dân trong Liên khu đã đạt
được và căn dặn:
“Cũng như đường xa, đi đến nơi thì thường nhọc mệt, sự
nghiệp kháng chiến gần đến lúc thành công thì càng nhiều nỗi
gian nan.
Vậy nếu chúng ta đã đoàn kết, càng phải đoàn kết chặt chẽ
thêm, đã tiến bộ càng phải cố gắng mãi, chớ thấy thất bại mà
nản, chớ thấy đắc thắng mà kiêu. Phải luôn luôn cẩn thận,
luôn luôn cố gắng. Trước mặt trận cũng như ở hậu phương,
muôn người như một, đều cùng quyết tâm làm trọn nhiệm

91
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

vụ kháng chiến cứu quốc của mình. Như thế thì kháng chiến
nhất định thành công cũng như Cách mạng Tháng Tám thành
công vậy”.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Tài liệu lưu trữ của Bộ Ngoại giao, hồ sơ 68 (1945 - 1954), t.2.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.39.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.244-245.

Tháng 9, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng sáu Bộ trưởng họp Hội đồng
Liên bộ để bàn tiếp về chế độ doanh nghiệp nhà nước, chính
sách tài chính và một số vấn đề chưa được thảo luận tại phiên
họp Hội đồng Chính phủ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.173.

Tháng 9, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:


- Sắc lệnh số 82-SL, về việc sửa đổi Điều 7 trong Sắc lệnh
số 29b-SL, ngày 16-3-1947 thiết lập Ngoại thương Cục.
- Sắc lệnh số 83-SL, về việc thành lập Viện Huân chương
trực thuộc Phủ Chủ tịch.
- Sắc lệnh số 86-SL, về việc thành lập Việt Nam Quốc gia
Ngân hàng.
- Sắc lệnh số 87-SL, về việc đặt một khoản phụ cấp đặc biệt
tạm thời cho tất cả các nhân viên giúp việc Chính phủ đã được
lĩnh sinh hoạt phí hay lương bổng hằng tháng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

92
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 9, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời ông Lam Sơn1) báo tin
Người gửi biếu đồng bào trong vùng tạm chiếm Khu VII2) một
khăn mùi xoa thêu do các cháu nhi đồng Nghệ An tặng Người.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.217. 1947
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.246.

Tháng 9, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 88-SL, ấn định các hình
thức thưởng cho những gia đình có ba con trở lên tham gia
quân đội.
Cùng ngày, Người gửi cho bác sĩ Trần Hữu Tước bức thư
sau đây:
“Cher3) chú Tước,
Đã lâu không gặp lại không được tin tức, nhớ chú lắm. Hỏi
thăm, người thì nói chú khỏe, kẻ thì nói chú yếu, nhưng họ
cũng chỉ nghe nói thôi. Mong chú cho tôi biết tin tức.
Nói chú biết, chú mừng: Tôi vẫn mạnh khỏe luôn. Mấy anh
em cùng về một lần với chúng ta, chú Nghĩa và chú Huân4) làm

1) Hưởng ứng phong trào ủng hộ thương binh liệt sĩ, ông Lam Sơn, thay
mặt một số đồng bào trong vùng tạm chiếm Khu VII đã gửi số tiền
10.000 đồng để mua một cái cúc của chiếc áo lụa mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tặng cho Ngày thương binh liệt sĩ. Được biết Liên hiệp công
đoàn Bắc Kạn đã mua chiếc áo đó và đã tặng lại cho ông Cao Triều Phát -
đại biểu đồng bào Cao Đài Nam Bộ, nên Người đã gửi lá thư trên (B.T).
2) Khu VII gồm các tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định,
Chợ Lớn và Sài Gòn (cũ) (B.T).
3) Tiếng Pháp có nghĩa là “thân”, “thân ái” (B.T).
4) Trần Đại Nghĩa, Võ Quý Huân - những nhà trí thức ở Pháp đã cùng Chủ
tịch Hồ Chí Minh về nước tham gia kháng chiến sau khi Người dự Hội
nghị Phôngtennơblô (B.T).

93
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

việc rất hăng hái và đắc lực, đã giúp sức rất nhiều trong công
việc kháng chiến”.
Chào thân ái và quyết thắng
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại gia đình bác sĩ Trần
Hữu Tước.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.247.

Tháng 9, ngày 23
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào và chiến sĩ Nam
Bộ, miền Nam Trung Bộ nhân kỷ niệm tròn hai năm ngày Nam
Bộ kháng chiến8. Người biểu dương đồng bào và chiến sĩ miền
Nam đã chấp nhận hy sinh, phải chịu nhiều gian khổ, mà “lòng
yêu nước ngày càng nồng nàn, chí dũng cảm ngày càng bền
chặt, sức chiến đấu ngày càng tăng gia, chí quyết thắng ngày
càng vững chắc”. Nhân dịp này, Người kêu gọi những người
lầm đường lạc lối hãy mau tỉnh ngộ trở về với Tổ quốc.
Tối, Người chủ trì phiên họp bất thường của Hội đồng Chính
phủ bàn về chương trình hành động kỷ niệm ngày Nam Bộ
kháng chiến (ngày 23-9) và trao đổi ý kiến về thái độ đối với
Vĩnh Thụy (Bảo Đại).
Sau khi nghe ý kiến của nhiều đại biểu, Người kết luận:
“... Đối với thực dân Pháp xâm lược, chúng ta phải đánh. Đối
với nhân dân các giới, ta phải tìm cách giải thích cho họ rõ.
Với Vĩnh Thụy, ta vừa giải thích, đồng thời cần có những lời
khuyên bảo ông ta”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.40-41.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.248-249.

94
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 9, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cụ Võ Liêm Sơn - Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ bức thư
sau đây:
“Thưa cụ,
Ủy ban Trung ương Mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ 1947
chỉ quyên vải vóc hoặc chăn áo. Nhưng tôi không biết may,
không có vải, mà áo cũng chỉ có hai bộ đã cũ. Vậy tôi xin
quyên một tháng lương là 1.000 đồng, nhờ Cụ mua giùm vật
liệu và may giùm mấy chiếc chăn, áo cho chiến sĩ, gọi tỏ chút
lòng thành.
Đồng bào ta đã giúp nhiều lần. Lần này, mặc dầu hoàn cảnh
khó khăn, nhưng tôi rất mong đồng bào cũng ra sức giúp, để
cho chiến sĩ khỏi lạnh lùng và đủ ấm áp để ra sức xung phong
diệt địch.
Chúc Cụ mạnh khỏe, chúc Ủy ban Trung ương Mùa đông
kháng chiến giúp binh sĩ thành công.
Chào thân ái và quyết thắng.
Ngày 25 tháng 9 năm 1947
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 26
Trong thư gửi đồng bào xã N.L., huyện Hưng Nhân (nay
thuộc Hưng Hà) tỉnh Thái Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen
ngợi về thành tích xóa nạn mù chữ của xã và khuyên đồng
bào trong xã cố gắng học thêm cho tiến bộ nữa. Người mong
các xã khác trong huyện và trong tỉnh đều cố gắng để theo
kịp xã N.L.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.250.

95
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 9, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhi đồng cả nước nhân
dịp Tết Trung thu kháng chiến đầu tiên. “Thấy các cháu không
được ăn Tết, lòng Bác rất áy náy, và thêm căm giận bọn thực
dân phản động Pháp”. “Bác hứa với các cháu: Các bác, các
chú, toàn cả đồng bào, sẽ ra sức tranh đấu, để sớm đuổi bọn
thực dân phản động, để trường kỳ kháng chiến sớm thắng lợi,
thống nhất độc lập sớm thành công, để các cháu được ăn Tết
Trung thu vui vẻ như năm kia, năm ngoái”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.251-252.

Tháng 9, ngày 30
Tại Chợ Chu (Định Hóa, Thái Nguyên), sáng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh làm việc với các ông Nguyễn Lương Bằng, Lê Văn
Hiến, sau đó mời cơm hai người.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 90-SL, quy định quan hệ giữa Bộ Quốc phòng
và Bộ Tổng chỉ huy.
- Sắc lệnh số 237-SL/M, về việc cử Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến kiêm hành chính tỉnh Ninh Bình.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.184.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của ông S. Êli Mâysi
(S. Elie Maissie) - là phóng viên Hãng tin Mỹ International
News Service, về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, mối
quan hệ với Chính phủ Pháp, vai trò của Vĩnh Thụy...

96
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Về chính sách đối ngoại của nước Việt Nam, Người tuyên
bố: “Làm bạn với tất mọi nước dân chủ và không gây thù oán
với một ai”.
- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.42-43.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1947
2011, t.5, tr.255-257.

Tháng 9, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Cao Triều Phát,
đại biểu Quốc hội, Cố vấn Ủy ban kháng chiến hành chính
Nam Bộ, Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Nam Bộ, Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương “Cao Đài cứu quốc 12 phái
hợp nhất”.
Trong thư gửi đến “người bạn già ở miền Nam”, Người
viết: “Dù xa cách, Chính phủ và tôi lúc nào cũng nghĩ đến công
nghiệp1) của ông... Với sự đồng tâm nhất trí của toàn thể quốc
dân, ngày vinh quang của đất nước sẽ gần đây... Chúc ông
mạnh khỏe...
Tôi kính gửi tặng ông bức ảnh của tôi gọi là vật kỷ niệm mọn”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.253-254.

Tháng 10, khoảng đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh chuyển cơ quan ngay sau
khi nhận được thư “hỏa tốc” của ông Võ Nguyên Giáp do một
chiến sĩ giao thông phi ngựa đưa đến, báo tin địch sẽ nhảy dù
xuống một số địa điểm.

1) Sự nghiệp chung, công việc chung (B.T).

97
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Khoảng 3 giờ sáng hôm sau, Người cùng các chiến sĩ bảo
vệ, nhân viên, với tám gánh “hàng” lại ra đi.
- Theo Bác đi kháng chiến, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980,
tr.139-141.

Tháng 10, ngày 1


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 91-SL, quy định Ủy
ban kháng chiến và Ủy ban hành chính các cấp (tỉnh, huyện,
phủ hay châu, xã) “nay hợp lại thành Ủy ban kháng chiến kiêm
hành chính, viết tắt là UBKCKHC”.
Bản Sắc lệnh còn quy định cụ thể thành phần Ủy ban
kháng chiến kiêm hành chính mỗi cấp, việc bổ nhiệm hoặc
thay thế các thành viên trong Ủy ban, quan hệ giữa Ủy ban
các cấp.
Cùng ngày, Người gửi điện trả lời Chi bộ Đảng Xã hội Pháp
ở Sài Gòn1) nói rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam vẫn như
trước, không thay đổi, “ấy là nền độc lập và sự thống nhất của
nước Việt Nam, ấy là tinh thần hữu hảo, sự tin cậy và sự hợp
tác giữa hai dân tộc Việt - Pháp”.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.258.

Tháng 10, ngày 3


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 92-SL, cử Đổng lý sự vụ, Phó đổng lý sự vụ,
Đổng lý Văn phòng Bộ Thương binh, Cựu binh.
- Sắc lệnh số 93-SL, cử các ủy viên hành chính và ủy viên
nhân dân của Ủy ban kháng chiến hành chính Chiến khu I.

1) Chi bộ Đảng Xã hội Pháp ở Sài Gòn có gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức
điện yêu cầu Người cho biết lập trường của Chính phủ Việt Nam sau khi
thành lập Chính phủ mới.

98
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 94-SL, cử các ủy viên hành chính và ủy viên
nhân dân của Ủy ban kháng chiến hành chính Chiến khu II.
- Sắc lệnh số 95-SL, cử các ủy viên hành chính và ủy viên
nhân dân của Ủy ban kháng chiến hành chính Chiến khu III.
- Sắc lệnh số 96-SL, cử các ủy viên hành chính và ủy viên
nhân dân của Ủy ban kháng chiến hành chính Chiến khu X. 1947
- Sắc lệnh số 97-SL, cử các ủy viên hành chính và ủy viên
nhân dân của Ủy ban kháng chiến hành chính Chiến khu XI.
- Sắc lệnh số 98-SL, cử các ủy viên hành chính và ủy viên
nhân dân của Ủy ban kháng chiến hành chính Chiến khu XII.
- Sắc lệnh số 99-SL, cử Phó phòng Dân quân (Bộ Quốc phòng).
- Sắc lệnh số 100-SL, cử người vào Ban phụ trách Tây Nguyên.
- Sắc lệnh số 101-SL, về việc thành lập Sở Thương binh,
Cựu binh khu và Ty Thương binh, Cựu binh tỉnh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 8


Sau khi được tin địch tiến công lên Việt Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi bộ đội và nhân dân ra sức tiêu
diệt địch.
Người vạch trần ý đồ của địch là muốn hội quân ở Bắc Kạn,
tạo thành một cái ô bọc lấy Việt Bắc rồi khép chặt vòng vây,
dưới đánh lên, trên đánh xuống, để tiêu diệt chủ lực ta và phá
cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Người chỉ rõ: Chúng
mạnh về hai gọng kìm. Gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ
thành ô rách.
- Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1974, t.1, tr.317.
- Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp
và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân
đội nhân dân, 1995, tr.309.

99
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 10, khoảng ngày 8 đến ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Những điều cần chú ý cho cán bộ
chỉ huy cao cấp quân đội, căn dặn cách ứng xử của cán bộ đối
với người, đối với việc, đối với vật, đối với địch:
“Muốn được người, được việc, được vật, được địch phải
sáng suốt, chân tình, khôn khéo.
- Gắng sức học tập, khuyên nhau học tập.
- Khu này học kinh nghiệm khu kia.
- Chí công vô tư, đối với việc phải sáng suốt, đối với vật
không tham lam, làm kiểu mẫu cho bộ đội, cho nhân dân,
phải có kỷ luật. Người cán bộ phải chú ý chớ sợ khó khăn
nguy hiểm...”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Bộ Quốc phòng.

Tháng 10, trước ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ bế mạc lớp bổ túc cán bộ quân
sự trung cấp của quân đội. Nói chuyện trong buổi lễ, Người
căn dặn: Người cán bộ muốn tốt phải có đạo đức cách mạng.
Quân sự giỏi song nếu không có đạo đức cách mạng thì khó
thành công. Muốn có đạo đức cách mạng phải có năm điều:
Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm. Ngoài ra, phải biết tự phê bình
và phê bình, phải thật thà đoàn kết và biết giữ kỷ luật.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.259-261.

Tháng 10, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các ông Nguyễn Văn
Huyên - Bộ trưởng Quốc gia giáo dục, Tôn Thất Tùng - Thứ
trưởng Y tế, Hồ Đắc Di - Giám đốc Đại học, chuẩn bị tinh
thần cho thử thách chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông sắp đến.
Người viết: “Trong cuộc thử thách này, mỗi anh em ta phải tỏ

100
TẬ P 4 : 1946 - 1950
rõ cái chí khí “Bách chiết bất hồi”1), cái tinh thần “Nhẫn lao
nại khổ”2). Đối người, đối việc phải hết sức cẩn thận. Không
bao giờ cẩu thả, cầu vẹn3). Không sợ địch mà cũng tuyệt đối
không khinh địch”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định truy tặng Huân
chương Kháng chiến cho liệt sĩ Trần Bình, điệp báo viên Công 1947
an Hà Nội.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Quyết định lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.262-263.

Tháng 10, ngày 11


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Đảng đoàn Chính
phủ để thảo luận kế hoạch chuẩn bị đối phó cuộc tấn công của
Pháp, vấn đề di chuyển cơ quan Chính phủ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.190.

Tháng 10, ngày 15


Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về ở và làm việc tại xã Liên
Minh, huyện Võ Nhai (Thái Nguyên).
- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 17


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 263-SL/M, cử ông
Phạm Văn Đồng làm đặc phái viên của Chính phủ tại Nam
Trung Bộ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) “Bách chiết bất hồi”: Không sờn lòng, nao núng, dù gặp gian lao trắc trở (B.T).
2) “Nhẫn lao nại khổ”: Kiên trì chịu đựng khó khăn, gian khổ (B.T).
3) Không bao giờ cẩu thả, cầu vẹn: Không cẩu thả, không cầu toàn (B.T).

101
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 10, ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Hội nghị quân sự toàn
quốc. Người căn dặn cán bộ quân đội trên các mặt: đối với
người, đối với việc, đối với vật, đối với địch, đạo đức cách
mạng, liên lạc… và kết luận:
- Muốn dôi được người, muốn được việc, muốn thắng được
địch phải sáng suốt, chân tình khôn khéo.
- Gắng sức học tập, khuyên nhau học tập, khu này học kinh
nghiệm khu kia.
- Tu sửa mình cho kỳ giữ được chí công vô tư, đối với việc
phải sáng suốt, đối vật không tham lam, gắng làm kiểu mẫu,
làm kiểu mẫu cho bộ đội, cho nhân dân.
- Phải có kỷ luật.
- Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.264-265.

Tháng 10, ngày 21


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi hai cụ già du kích Kiến
An, khen ngợi: “Hai cụ thật xứng đáng với tổ tiên oanh liệt
của ta, các phụ lão đời Trần đời Lê, chẳng những kêu gọi con
cháu, mà tự mình hăng hái tay chống gậy, tay cầm dao giết
giặc cứu nước”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.222.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.266.

Tháng 10, ngày 27


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 264-SL/M, bổ nhiệm
ông Hoàng Văn Hoan làm Đặc phái viên Chính phủ tại Chiến
khu IV.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

102
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 10, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi những người Nam Bộ
trong quân đội Pháp, khuyên họ “lúc còn ở trong bộ đội địch,
thì cần phải tìm đủ mọi cách để giúp quân đội ta. Khi có cơ hội
thì lập tức chạy qua với bộ đội ta. Chính phủ và đồng bào luôn
luôn sẵn sàng hoan nghênh các bạn”.
1947
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.44.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.267.

Tháng 10, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn thành tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc1), ký bút danh X.Y.Z.
Cuốn sách gồm sáu phần:
1. Phê bình và sửa chữa: nêu lên tầm quan trọng của việc
tự phê bình và phê bình. Cách thức tiến hành. Những căn bệnh
cần phải sửa chữa trong lối làm việc của Đảng.
2. Mấy điều kinh nghiệm: nêu lên sáu bài học lớn:
- Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong.
- Có chính sách đúng đồng thời phải có cách làm đúng.
- Phải nghiên cứu kinh nghiệm đến tận gốc.
- Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái.
- Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu
trách nhiệm trước nhân dân.
- Sát quần chúng, hợp quần chúng.
3. Tư cách và đạo đức cách mạng: nêu 12 tiêu chuẩn của
một đảng chân chính cách mạng; nhiệm vụ của đảng viên và

1) Cuốn sách do Nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần đầu tiên năm 1948 (B.T).

103
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

cán bộ; năm điều nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; những khuyết
điểm cần sửa chữa và cách sửa chữa.
4. Vấn đề cán bộ: công tác huấn luyện cán bộ; bồi dưỡng
và sử dụng cán bộ; tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ; chính sách
cán bộ.
5. Cách lãnh đạo.
6. Chống thói ba hoa.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.269-346.

Tháng 11, ngày 1


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 102-SL, cho phép phát
hành tại Nam Bộ các tín phiếu loại một đồng, năm đồng, mười
đồng, hai mươi đồng, năm mươi đồng, một trăm đồng, năm
trăm đồng, có giá trị như giấy bạc Việt Nam. Tổng số giá trị tín
phiếu phát hành không được quá hai mươi triệu đồng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ để nghe
báo cáo về tình hình thế giới, tình hình nước Pháp, tình hình
sau cuộc tấn công của giặc Pháp lên Việt Bắc và bàn về kế
hoạch công tác quân sự, tài chính...
Theo đề nghị của Người, Chính phủ đã cử ông Phan Kế Toại
giữ chức quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự họp Hội đồng Chính phủ.

104
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong ngày, Người viết Thư gửi ông giám đốc và toàn thể
nam nữ giáo viên bình dân học vụ Khu III, khen ngợi thành tích
xóa nạn mù chữ trong toàn khu. Người mong “ông giám đốc,
các giáo viên và các cơ quan đoàn thể cố gắng làm thế nào để
chừng tháng 6 năm sau toàn thể nhân dân Khu III từ 8 tuổi trở
lên đều biết chữ”. 1947
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.223-224.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.347-348.

Tháng 11, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào xã Duyên
Trang, huyện Tiên Hưng, Thái Bình, khen ngợi về thành tích
toàn dân trong xã từ 8 tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ.
Người căn dặn: “Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết
càng nhiều càng tốt,... đồng bào trong xã gắng học thêm
thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư, chính trị, vệ sinh.
Đồng thời cố gắng tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.225.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.349.

Tháng 11, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký giấy ủy nhiệm cho các ông Vũ


Đình Hòe, Trần Đăng Khoa, Trần Huy Liệu đi kinh lý Khu I và
Khu XII.
- Bản chụp giấy ủy nhiệm lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

105
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 11, ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại xã Phú
Bình, huyện Định Hóa (Thái Nguyên).
- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 25


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 265-SL/M, sáp nhập
tỉnh Quảng Yên (gồm cả khu vực Hồng Gai) vào Chiến khu XII
về mọi phương diện kháng chiến, hành chính và quân sự.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 29


Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại Khuôn
Đào, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.84.

Tháng 12, đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ Bác gửi các cháu một
ngàn cái hôn gửi báo Xung phong, cơ quan của trẻ em yêu
nước tỉnh Hải Dương. Nguyên văn bài thơ như sau:

BÁC GỬI CÁC CHÁU MỘT NGÀN CÁI HÔN


Bác nhận được báo Xung phong,
Cảm ơn các cháu có lòng gửi cho.
Các cháu nghe Bác dặn dò:
Phải biết yêu nước, phải lo học hành,
Siêng làm việc, siêng tập tành,
Phải giữ kỷ luật, là thành cháu ngoan.

106
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bác yêu các cháu muôn vàn,
Bác gửi các cháu một ngàn cái hôn.

- Bài thơ được đánh máy trên một tấm danh thiếp của Bác Hồ,
một mặt in tên Người bằng chữ Hán, mặt đánh máy bài thơ
có in ba chữ “Hồ Chí Minh” bằng chữ quốc ngữ. Trong bản
chụp danh thiếp có chữ viết tay: “Đầu tháng XII-1947”. Bản 1947
chụp được công bố trong bài viết của Quản Tập, in trên báo
Thể thao & Văn hóa, số 65, ngày 1-6-2007.

Tháng 12, ngày 4


Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại Khuổi
Tẩu, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 7


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 612-MDB, về việc khen
thưởng các Chủ tịch và Ủy viên kháng chiến kiêm hành chính
cấp xã, nhân kỷ niệm một năm Ngày toàn quốc kháng chiến.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 8


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và trả lời phỏng vấn của các nhà
báo Việt Nam và nước ngoài.
Về cuộc gặp gỡ giữa Vĩnh Thụy và Cao ủy Pháp Bôlae1), trong
tuyên bố của Người có đoạn: “Chính phủ và nhân dân ta rất
mong Cố vấn Vĩnh Thụy không có những hành động trái ngược
với những lời Cố vấn đã thề trước Tổ quốc và trước đồng bào,
trái với nguyện vọng của dân tộc. Dù sao vận mệnh của dân tộc
sẽ không vì một người, hoặc một nhóm người mà thay đổi”.

1) Ngày 6 và 7-12-1947, Vĩnh Thụy đã có cuộc gặp gỡ với Cao ủy Pháp


Bôlae ở Vịnh Hạ Long (B.T).

107
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Cùng ngày, Người gửi điện chúc mừng Giám mục Lê Hữu
Từ nhân dịp lễ Thiên Chúa giáng sinh. Người chúc Giám mục
“mọi sự lành” để phụng sự Đức Chúa, để lãnh đạo đồng bào
Công giáo tham gia kháng chiến và nhờ chuyển lời chúc phúc
của Người tới toàn thể đồng bào Công giáo.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.350-352.

Tháng 12, ngày 9


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Ý kiến về Hội nghị hành chính,
căn dặn 7 việc cần làm trong Hội nghị Hành chính:
1- Cán bộ từ tỉnh đến làng, phải thực hành giải thích cho
dân hiểu: Vì sao phải trường kỳ kháng chiến? Toàn diện và
toàn dân kháng chiến (có người chưa hiểu toàn diện là gì).
2- Làm cho khắp nơi có không khí kháng chiến.
3- Phải làm cho dân hiểu: Kháng chiến nhất định thắng
lợi. Nhưng nhất định phải kinh qua một giai đoạn rất cực khổ.
Phải chuẩn bị tinh thần của dân, khi giai đoạn đó đến, dân khỏi
bi quan, ngã lòng.
4- Từ tỉnh đến làng, phải ra sức vận động (1) tăng gia sản
xuất, (2) giúp đỡ tản cư, (3) giúp đỡ gia đình chiến sĩ, (4) giữ
bí mật.
5- Lúc này hơn lúc nào hết, cán bộ từ trên đến dưới, phải:
Siêng năng, tiết kiệm,
Trong sạch, làm gương cho dân,
Làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
6- Nên bảo dân tham gia để dặn họ về quân sự: tiêu thổ,
phá hoại, vườn không nhà trống, v.v..

108
TẬ P 4 : 1946 - 1950
7- Trước lúc khai hội, mặc niệm các chiến sĩ hy sinh vì
nước. Trước khi bế mạc: Thơ chào các chiến sĩ.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.353.
1947
Tháng 12, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi Chính phủ Cao Miên giải
phóng1) nhiệt liệt hoan nghênh việc thành lập Ủy ban Giải
phóng Việt - Miên - Lào nhằm mục đích theo đuổi đến cùng
cuộc chiến đấu chung chống đế quốc và thực dân Pháp.
Bức thư có đoạn:
“Tôi tin chắc rằng các dân tộc ta, đã có sẵn một tinh thần
đấu tranh cao, lại gắng đi tới một sự cộng tác chặt chẽ thì
thắng lợi thế nào cũng về ta, và chúng ta nhất định sẽ giành
được độc lập cho đất nước”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 19


Nhân kỷ niệm một năm Ngày toàn quốc kháng chiến9,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến
sĩ cả nước.
Người kêu gọi các tầng lớp đồng bào, chiến sĩ cả nước hãy
ra sức phấn đấu, đóng góp cho kháng chiến, và trịnh trọng
tuyên bố:

1) Chủ tịch nước Cao Miên (Campuchia) giải phóng gửi Chủ tịch Hồ Chí
Minh bức thư báo tin Ủy ban Giải phóng Việt - Miên - Lào đã được thành
lập nhằm mục đích chiến đấu chống đế quốc và thực dân Pháp đang âm
mưu đặt lại nền thống trị của chúng ở Đông Dương. Ông tin tưởng vào sự
thắng lợi cuối cùng của nhân dân Campuchia và kêu gọi sự giúp đỡ của
nhân dân Việt Nam. Trên đây là thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh (B.T).

109
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

“Nhân dân Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân
dân Pháp, song nhân dân Việt Nam quyết không đầu hàng,
quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ một
lần nữa.
Và Chính phủ Hồ Chí Minh thề quyết lãnh đạo nhân dân và
quân đội chiến đấu đến cùng, để phá tan xiềng xích của bọn
thực dân, để tranh lại quyền thống nhất và độc lập. Chính phủ
Hồ Chí Minh quyết làm trọn cái nhiệm vụ vẻ vang mà quốc dân
đã giao cho, và quyết không phụ lòng tin cậy mà đồng bào đã
đặt vào Chính phủ”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết sáu bức thư: Thư
gửi cán bộ Khu I; Thư gửi đồng bào và tướng sĩ Khu II; Thư
gửi đồng bào và chiến sĩ Khu III; Thư gửi đồng bào và chiến
sĩ Khu X; Thư gửi đồng bào, vệ quốc quân, dân quân du kích,
cán bộ xung phong cảm tử Khu XI; Thư gửi đồng bào và
tướng sĩ Khu XII và bài Kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng
quân Việt Nam10.
Trong các bức thư, ngoài nội dung biểu dương quân dân
các vùng trong một năm kháng chiến vừa qua đã phát huy
tinh thần khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, hăng hái
chiến đấu, lập nhiều chiến công, Người đã thẳng thắn vạch rõ
những khuyết điểm cụ thể của từng vùng, phân tích nguyên
nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm cho “năm kháng
chiến mới”.
Trong bài Kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân Việt
Nam, Người nêu lên sự trưởng thành của lực lượng vũ trang
Việt Nam từ Giải phóng quân đến Vệ quốc quân, và căn dặn:
“Vệ quốc quân, dân quân du kích phải luôn luôn phát triển cái
kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí
khí quật cường tất thắng, cái đạo đức: trí, dũng, liêm, trung
của Giải phóng quân”.

110
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký thông tư gửi các Bộ
“Về việc cử các nhân viên làm việc đắc lực để khen thưởng”.
- Bản chụp thông tư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.46-55,
58-59.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.354-372.
1947

Tháng 12, khoảng ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời sáu câu hỏi của các nhà báo
về những kinh nghiệm trong một năm kháng chiến, về triển
vọng cuộc kháng chiến năm tới, về cuộc tấn công mùa đông
của địch...
Trả lời câu hỏi: “Theo Chủ tịch, kết quả cuộc hành quân mùa
đông của địch sẽ thế nào?”, Người khẳng định:
“Cũng như các cuộc hành quân khác, kết quả địch sẽ thất
bại, vì:
a) Địch chỉ hoạt động được mấy tháng. Sau mùa mưa thì
chúng hết thiên thời.
b) Việt Bắc địa thế hiểm trở quân địch không có địa lợi.
c) Địch càng lan rộng thì người càng thiếu, sức người càng
mỏng, chúng dễ bị tiêu diệt, chúng càng đánh lan ra, càng giở
thói tham ô tàn nhẫn, càng làm cho đồng bào ta, miền ngược
cũng như miền xuôi, đoàn kết chặt chẽ chống lại chúng, thế là
địch không có nhân hòa”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.56-57.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.368-369.

Tháng 12, ngày 23


Lời kêu gọi tướng sĩ Vệ quốc quân, dân quân du kích nhân
cuộc vận động luyện bộ đội lập chiến công của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đăng trên báo Vệ quốc quân, số 16.

111
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Người nêu rõ ý nghĩa của cuộc vận động luyện bộ đội lập
chiến công do Bộ Tổng chỉ huy quân đội phát động và kêu gọi
cán bộ chiến sĩ phải ra sức thi đua diệt giặc lập công.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.41.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.374.

Tháng 12, ngày 24


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào Công giáo nhân
dịp lễ Nôen 1947.
Bức thư có đoạn: “Chúng ta toàn dân, giáo cũng như
lương, đoàn kết kháng chiến để Tổ quốc được độc lập, tôn
giáo được tự do. Đức Chúa phù hộ chúng ta, chúng ta chắc sẽ
thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến, nhiều đồng bào Công giáo đã
hăng hái hy sinh. Tôi đề nghị toàn thể đồng bào Công giáo
trong kỳ lễ Nôen này cầu nguyện cho linh hồn các chiến sĩ
giáo và lương đã bỏ mình vì nước và cầu nguyện cho Tổ quốc
ta được thắng lợi”.
- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1949, t.2, tr.60.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.373.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh cử ông Phạm Ngọc Thạch làm phái
viên Chính phủ đi gặp lãnh đạo Thái Lan, Miến Điện1), Ấn Độ

1) Miến Điện: Nước Mianma. Trong những năm 1947 - 1948, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn dùng tên gọi Diến Điện cũng là Mianma ngày nay; sách báo
lúc đó cũng như vậy. Ban Biên tập giữ nguyên bản như sách báo và tài
liệu lưu trữ (B.T).

112
TẬ P 4 : 1946 - 1950
để vận động chính quyền các nước này giúp Việt Nam đặt cơ
quan đại diện Chính phủ và tổ chức Phòng thông tin1).
- Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.132.

Trong năm 1947


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tặng ba cụ lão du kích Cao Bằng
bốn câu thơ lục bát:
Tuổi cao chí khí càng cao,
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu.
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù,
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.200.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.375.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc và bài
Cảnh khuya. Nguyên văn hai bài thơ như sau:

1) Theo cuốn sách Ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2004, với sự giúp đỡ của Chính phủ và các đoàn thể sở tại,
có sự phối hợp tốt với các cơ quan đại diện, ta đã cử đại biểu đi tham
gia 12 hội nghị quốc tế và khu vực, đáng chú ý là Hội nghị Liên Á tháng
4-1947 tổ chức tại Niu Đêli (Ấn Độ), Hội nghị ESCAP (Hội đồng Kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương) tháng 1-1949 tổ chức tại Băng Cốc (Thái
Lan), Hội nghị Nhân dân thế giới đấu tranh cho hòa bình tổ chức tại Pari
(Pháp) tháng 4-1949, Hội nghị Liên hiệp công đoàn thế giới tổ chức tại
Milan (Italia) tháng 6-1949. Từ năm 1947 đến năm 1949, ta tổ chức
được 12 phòng thông tin ở Pari, Luân Đôn, Niu Oóc, Praha, Niu Đêli,
Rănggun, Băng Cốc, Xingapo, Hồng Kông, Tân Đảo. Với sự hỗ trợ của các
tổ chức dân chủ, các hội ái hữu sở tại và Việt kiều, các phòng thông tin
của ta đã cung cấp ra thế giới tin tức và hình ảnh cuộc kháng chiến của
ta, đường lối chính sách của ta (B.T).

113
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

CẢNH RỪNG VIỆT BẮC


Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

CẢNH KHUYA
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
- Thơ Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1967, tr.39-41.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.376-377.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Kinh nghiệm du kích Tàu,
Kinh nghiệm du kích Pháp.
- Hồ Chí Minh: Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang
nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970, tr.137-151,
184-204.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.379-418.

Cuối năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại bản Ca,
Bình Trung, Chợ Đồn (Bắc Kạn).
- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

114
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Cuối năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Việt Bắc anh dũng1) (ký
bút danh Tân Sinh).
Cuốn sách vạch rõ những thất bại của Pháp trong cuộc
phiêu lưu quân sự lên Việt Bắc, khái quát những nguyên nhân
quyết định thắng lợi và dự báo những âm mưu mới của địch. 1947
Tác giả nhắc nhở mọi người chớ kiêu căng, chủ quan khinh
địch, mà phải luôn luôn chuẩn bị, cẩn thận đề phòng, phải ra
sức sửa chữa những khuyết điểm và phát huy các ưu điểm,
làm trọn bổn phận công dân.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.421-450.

Cuối năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Giáo sư Hồ Đắc Di sau khi Trường
Đại học Y ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang) bị quân Pháp phá hủy.
Người nói: Nước nhà đang kháng chiến, còn gặp nhiều khó
khăn, các chú phải “tự lực cánh sinh”, bàn bạc với nhau, tự tìm
cách giải quyết. Chính phủ cũng sẽ cố gắng giúp đỡ.
- Báo Sức khỏe và đời sống, ngày 13-5-2000.

1) Cuốn sách do Tổng bộ Việt Minh xuất bản lần đầu tiên năm 1948 (B.T).

115
NĂM 1948

Tháng 1, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 103-SL, bãi bỏ chức Tổng Thanh tra lao động,
Giám đốc Ban Thanh tra - hành chính Bộ Lao động.
- Sắc lệnh số 104-SL, ấn định các nguyên tắc căn bản của
“Doanh nghiệp quốc gia”.
- Sắc lệnh số 105-SL, cử Phó Giám đốc Nha khẩn hoang, di dân.
- Sắc lệnh số 106-SL, cử ủy viên Ủy ban kháng chiến Khu III
thay bác sĩ Nguyễn Văn Vinh từ trần.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Tổng thống Liên bang
Miến Điện chúc mừng nhân Ngày Độc lập của Liên bang Miến
Điện và bày tỏ tình cảm biết ơn về sự ủng hộ tinh thần kiên
định đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.451.

Tháng 1, ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cụ Bùi Bằng Đoàn,
Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Người cho thêm ý kiến về

116
TẬ P 4 : 1946 - 1950
việc soạn thảo quyển Hành chính chỉ nam. Người thông báo
các ông Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng đều đã
gửi thư cho Người, họ đều mạnh khỏe và vui vẻ. Đồng thời,
Người chúc cụ Bùi Bằng Đoàn mạnh khỏe và xin cụ chuyển
lời hỏi thăm đến cụ Phan Kế Toại, cụ Vi Văn Định và các anh
em khác.
1948
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.452-453.

Tháng 1, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Dương Đức Hiền,
Tổng Thư ký Hội Liên Việt cho ý kiến về bức vẽ của Hội Liên
hiệp quốc dân Việt Nam. Nội dung bức thư như sau:
“Ý kiến về bức vẽ:
Khéo nhưng có mấy khuyết điểm:
1. Đoàn kết toàn dân phải đủ sĩ, nông, công, thương, binh.
Trong bức vẽ sót mất thương.
2. Nông và công đều đứng tay trái.
3. Hai chị phụ nữ Việt Bắc ngồi phơi nắng đọc báo. Thanh
nhàn quá không hợp với thời kỳ kháng chiến.
4. Mấy chữ “kế hoạch sản xuất” v.v. hơi rởm quá và khó
hiểu. Những người phổ thông sẽ đọc là KYNG và không hiểu
KYNG là gì.
Nếu chỉ viết sĩ, nông, công, thương, binh dưới mỗi hình vẽ
thì có lẽ phổ thông sẽ dễ hiểu hơn.
Mấy dòng chữ:
Dòng thứ hai và hai dòng cuối cùng không cần.
Tên Hội nên tách xa hình vẽ và nên viết to rõ ràng. Hội
Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Có lẽ không cần hai chữ

117
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trung ương vì nếu các địa phương có thể in thêm thì khuyên
họ nên in thêm, dán thêm cho khắp, kết quả sẽ rộng hơn.
Chào thân ái và quyết thắng
HỒ CHÍ MINH”
Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp với một số vị ủy viên
Trung ương về những vấn đề sẽ đưa ra thảo luận tại Hội nghị
Trung ương mở rộng.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.254.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.454.

Tháng 1, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (mở rộng) để đánh giá những chuyển biến
trong so sánh lực lượng giữa ta - địch và đề ra những nhiệm
vụ về chính trị, quân sự, kinh tế nhằm đẩy mạnh kháng chiến.
Nhớ lại kỷ niệm về kỳ họp này, ông Lê Văn Hiến ghi trong
nhật ký:
“Buổi sáng, Cụ cặm cụi chế cà phê và cho mỗi người một
cốc. Ấm bụng rồi, cùng với Cụ và các anh em đi đến địa điểm
hội nghị. Trong một khoảng rừng khác, một ngôi nhà của đồng
bào Mán, đã chật cả người. Ai nấy đều ra đón chào Cụ. Anh em
gặp nhau sau những ngày vất vả vì cuộc tấn công của địch, vui
mừng quá. Cụ bắt tay mọi người, rồi câu chuyện thân mật đậm
đà kéo dài chung quanh Cụ trong lúc gió rừng hắt vào lạnh
thấu xương”.
Trong ngày, Người viết thư gửi ông Đinh Công Phủ1). Bức
thư có đoạn:

1) Ông Đinh Công Phủ, người Mường, lang đạo vùng Mai Đà (Mai Sơn, Đà
Bắc, Hòa Bình) (B.T).

118
TẬ P 4 : 1946 - 1950
“Tôi rất vui lòng biết rằng: Gần đây, với sự chỉ đạo của Cụ,
và sự cố gắng của anh em cán bộ và toàn thể đồng bào, công
việc kháng chiến ở khu ta khá tiến bộ. Đánh được trận, giết
khá địch, cướp khá súng.
Tôi gửi biếu Cụ một chiếc áo trấn thủ. Áo này là của đồng
bào Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây biếu tôi. Cụ mặc ấm, cũng như tôi
mặc ấm”.
1948
- Tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.135.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.255.

Tháng 1, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều hành Hội nghị Trung
ương (mở rộng). Cuộc họp kéo dài đến tận 12 giờ đêm.
- Tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

Tháng 1, từ ngày 17 đến ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ
bàn một số vấn đề về nhân sự, việc phong quân hàm cho một
số tướng lĩnh, việc khen thưởng, vấn đề tài chính, ngân sách
năm 1948, vấn đề nông nghiệp và các vấn đề về giao thông,
giáo dục, tư pháp, y tế.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 107-SL, bổ nhiệm ông Lê Thiết Hùng làm Tổng
Thanh tra và ông Trần Tử Bình làm Phó Tổng Thanh tra quân
đội toàn quốc.

119
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 108-SL, bổ nhiệm ông Trần Hiệu làm Cục


trưởng Cục Tình báo thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia
Việt Nam.
- Sắc lệnh số 109-SL, bổ nhiệm ông Lê Thiết Hùng - Tổng
Thanh tra quân đội toàn quốc, kiêm chức Hiệu trưởng Trường
Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn.
- Sắc lệnh số 110-SL, phong quân hàm Đại tướng cho ông
Võ Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân
tự vệ, kể từ ngày 20-1-1948.
- Sắc lệnh số 111-SL, phong quân hàm Thiếu tướng kể từ
ngày 1-1-1948 cho các ông Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu
trưởng Quân đội quốc gia Việt Nam; Nguyễn Sơn - Khu trưởng
Chiến khu IV; Hoàng Sâm - Khu trưởng Chiến khu II; Chu Văn
Tấn - Khu trưởng Chiến khu I.
- Sắc lệnh số 112-SL, phong quân hàm Thiếu tướng kể từ
ngày 1-1-1948 cho các ông Trần Tử Bình - Trưởng phòng kiểm
tra cán bộ; Văn Tiến Dũng - Cục trưởng Cục Chính trị; Lê Hiến
Mai - Chính ủy viên Khu II.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 113-SL, quy định tổ chức, nhiệm vụ của Cục
Quân huấn trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia
Việt Nam.
- Sắc lệnh số 114-SL, bổ nhiệm ông Hoàng Đạo Thúy -
nguyên Hiệu trưởng Trường Lục quân trung học Trần Quốc
Tuấn giữ chức Cục trưởng Cục Quân huấn thuộc Bộ Tổng chỉ
huy Quân đội quốc gia Việt Nam.
- Sắc lệnh số 115-SL, phong quân hàm Trung tướng cho
ông Nguyễn Bình - Khu trưởng Chiến khu VII kiêm Ủy viên
quân sự Nam Bộ.

120
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 116-SL, đặt hệ thống quân hàm dành cho
các nhân viên thuộc Bộ Quốc phòng không phải là quân nhân
nhưng do nhiệm vụ có quan hệ trực tiếp thường xuyên với
quân đội. Hệ thống quân hàm này có các cấp bậc từ hạ sĩ đến
trung tướng.
- Sắc lệnh số 117-SL, phong quân hàm Thiếu tướng cho 1948
ông Trần Đại Nghĩa - Cục trưởng Cục Quân giới.
- Sắc lệnh số 118-SL, đổi Phòng Dân quân trực thuộc Bộ
Tổng chỉ huy thành Cục Dân quân.
- Sắc lệnh số 119-SL, đổi Phòng Kiểm tra trực thuộc Bộ
Tổng chỉ huy thành Cục Tổng Thanh tra Quân đội quốc gia
Việt Nam.
- Sắc lệnh số 120-SL, về việc hợp nhất các khu thành liên
khu.
- Sắc lệnh số 121-SL, cử các ủy viên Ủy ban kháng chiến
kiêm hành chính miền Nam Trung Bộ.
- Sắc lệnh số 122-SL, về việc cử các Liên khu trưởng, Liên
khu phó, Chính trị ủy viên Liên khu của các Liên khu I, III, X
và điều động một số cán bộ quân đội về nhận công tác tại Bộ
Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam.
- Sắc lệnh số 123-SL, cử các ủy viên Ủy ban kháng chiến
kiêm hành chính Liên khu X.
- Sắc lệnh số 124-SL, cử các ủy viên Ủy ban kháng chiến
kiêm hành chính Liên khu I.
- Sắc lệnh số 125-SL, cử các ủy viên Ủy ban kháng chiến
kiêm hành chính Liên khu III.
- Sắc lệnh số 126-SL, chính thức công nhận ông Lê Đình
Thám làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính Nam
Trung Bộ.
- Sắc lệnh số 127-SL, cử các ủy viên Ủy ban kháng chiến
kiêm hành chính Liên khu IV.

121
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 128-SL, chính thức công nhận ông Hồ Tùng


Mậu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính Liên
khu IV.
Cùng ngày, Người viết bức thư dưới đây gửi cụ Ưng Uý1)
ở Huế:
“Kính gửi cụ Ưng Úy tại Huế,
Trước hết, tôi xin gửi lời thăm sức khỏe của cụ và quý
quyến, xin chúc cụ được nhiều sức khỏe. Sau đây, xin mời cụ
tham gia kháng chiến để chúng ta tiếp tục sự nghiệp bỏ dở của
các vị tiền bối Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là đánh đuổi
thực dân Pháp để giành độc lập cho dân tộc, cho Tổ quốc.
Việt Bắc, ngày 25-1-1948
HỒ CHÍ MINH”
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bác Hồ trong lòng dân Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1990,
tr.129.

Tháng 1, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào Việt Bắc, kêu
gọi nhân dân đoàn kết để kháng chiến thành công.
Người tin tưởng: “Vì nỗi gian nan cực khổ mà giặc Pháp đã
gây nên, đồng bào ta sẽ đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, đồng tâm
hiệp lực hơn nữa, để ủng hộ kháng chiến hơn nữa, để trả nợ
nước và trả thù nhà.
Đến ngày kháng chiến thành công, Chính phủ và nhân
dân chúng ta sẽ cùng nhau kiến thiết lại, mới hơn, đẹp hơn.

1) Cựu quan chức Nam Triều, người trong Hoàng tộc, thân sinh nhà bác
học Bửu Hội. Sau khi nhận được thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ đã lên
chiến khu, ngày 26-2-1949 đã ra tuyên bố: “Tôi vốn là cựu quan chức
Nam Triều và là người trong Hoàng gia. Nay thực dân Pháp thực hiện
mưu mô lấy người Việt trị người Việt, tôi phẫn uất quá, nên tôi phải lìa
nhà lên chiến khu, nguyện theo Chính phủ để giúp một đôi phần hiểu
biết vào công cuộc kháng chiến cho đỡ nỗi phẫn uất trong lúc tuổi già...”.

122
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Có nước thì nhất định có nhà. Xin đồng bào chớ lo. Bây giờ
chúng ta hãy lo làm sao để tiêu diệt quân giặc cướp nước đốt
nhà đã”.
- Tài liệu lưu tại Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.455-456.
1948
Tháng 1, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Ty Giáo dục, các hiệu
trưởng, giáo viên và các cháu học trò Khu X.
Người khen ngợi những thành tích ngành giáo dục đã đạt
được, biểu dương cán bộ, giáo viên và học sinh trong Khu đã
“có nhiều sáng kiến tham gia công cuộc kháng chiến”, “đã áp
dụng Học với Hành, đã thực hiện kháng chiến bằng văn hóa,
văn hóa của kháng chiến”, và cảm ơn nhân dân địa phương
“mặc dầu những sự khó khăn thiếu thốn trong lúc này, đồng
bào đã ra sức ủng hộ giáo dục, ủng hộ kháng chiến”.
Người mong Khu X trở thành “một khu kiểu mẫu về mặt
giáo dục cũng như về mặt kháng chiến”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.457-458.

Tháng 2, đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thơ chúc Tết Mậu Tý tới đồng bào
và chiến sĩ cả nước:
Năm Hợi đã đi qua
Năm Tý vừa bước tới.
Gửi lời chúc đồng bào,
Kháng chiến được thắng lợi;
Toàn dân đại đoàn kết,
Cả nước dốc một lòng;

123
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Thống nhất chắc chắn được,


Độc lập quyết thành công.
- Hồ Chí Minh: Thơ chúc Tết, Bảo tàng Hồ Chí Minh, 1986,
tr.10.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.419.

Tháng 2, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết gửi ông Thứ trưởng Bộ Giao
thông - Công chính Đặng Phúc Thông bức thư:
“Chú Thông,
Tết nhất năm nay hoãn thịt xôi,
Tết sau, thắng lợi sẽ đền bồi.
Áo bạn biếu tôi, tôi biếu chú.
Chú mang cho ấm, cũng như tôi”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.459.

Tháng 2, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 129-SL, bổ sung Điều 1
Sắc lệnh số 03-SL, ngày 28-12-1946 về việc bầu lại Hội đồng
nhân dân xã.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 7 (28 tháng Chạp âm lịch)


Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đại biểu Ban Thường trực Quốc
hội, Hội đồng Chính phủ, Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ
Tổng chỉ huy... dự bữa cơm liên hoan tất niên và đón mừng
năm mới. Người kể những mẩu chuyện hồi hoạt động ở
Trung Quốc, ở châu Âu, những lần bị giam và những kỷ niệm
ngày Tết ở nơi đất khách quê người.

124
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bàn chuyện kháng chiến, Người nói: Trường kỳ kháng
chiến thì phải trường kỳ động viên. Động viên tinh thần, động
viên vật chất, động viên sức người, sức của để thực hiện toàn
dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, vừa kháng chiến vừa
kiến quốc, làm cho thế và lực của ta mau chuyển biến.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1948
1995, t.1, tr.270.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.134-135.

Tháng 2, ngày 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Ủy ban nhân dân tỉnh và
huyện ba tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh và Bắc Giang, vạch rõ những
khuyết điểm của các cấp chính quyền địa phương trên các mặt
quân sự, hành chính, kinh tế, văn hóa, y tế.
Người yêu cầu các cán bộ “cần phải căn cứ vào những
khuyết điểm nói trên và những khuyết điểm mình tự nhận
thấy, mà lập tức lập một chương trình thiết thực, bệnh nào
thuốc ấy để sửa chữa ngay những khuyết điểm đó”, và nhấn
mạnh: “Các đồng chí có thể làm, các đồng chí phải làm cho
kỳ được”.
- Văn kiện của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, 1970, tr.35.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.460-462.

Tháng 2, trước ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc Tết báo Cứu quốc Việt
Bắc. Người chúc mừng mọi người năm mới đoàn kết tốt, công
tác tốt.
- Tô Hoài: “Chúng tôi làm báo Cứu quốc Việt Bắc”, in trong
Thời gian và nhân chứng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994, tr.100.

125
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 2, ngày 10
Bài Thanh niên phải làm gì? của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký
bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật, số 89.
Người chỉ rõ những nguyên nhân đã khiến Đoàn Thanh
niên Việt Nam hoạt động còn kém hiệu quả, và nêu những
phẩm chất đòi hỏi thanh niên phải phấn đấu để xứng đáng là
chủ nhân tương lai của nước nhà.
Cùng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư (bằng tiếng
Pháp) gửi báo Bạn chiến đấu1), góp “một vài ý kiến nhỏ” về
hình thức và nội dung để tờ báo có thể tranh thủ được cảm
tình của độc giả.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.463-466.

Tháng 2, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 130-SL, bổ nhiệm ông Khuất Duy Tiến giữ
chức Đổng lý sự vụ Bộ Nội vụ kể từ ngày 1-2-1948.
- Sắc lệnh số 131-SL, về việc phân hạng các cấp đại uý, thiếu
tá, trung tá, đại tá và định lại thời hạn thăng cấp.
- Sắc lệnh số 132-SL, cử các ông Phạm Văn Bạch, Phạm
Ngọc Thuần, Nguyễn Bình, Kha Vạng Cân, Ung Văn Khiêm...
làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ; các
ông Cao Triều Phát, Nguyễn Bá Sang làm cố vấn của Ủy ban
kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ.
- Sắc lệnh số 133-SL, chuẩn y ông Phạm Văn Bạch làm Chủ
tịch, các ông Phạm Ngọc Thuần và Nguyễn Bình làm Phó Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ.

1) Tờ báo của ta xuất bản bằng tiếng Đức nhằm thức tỉnh lính lê dương
người Đức và người Áo trong quân đội viễn chinh Pháp ở Việt Nam (B.T).

126
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 134-SL, cử các ông Nguyễn Hữu Tạo, Nông Ích
Nhàn... làm Ủy viên nhân dân trong Ủy ban kháng chiến kiêm
hành chính Liên khu I.
- Sắc lệnh số 135-SL, cử các ông Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Xước...
làm Ủy viên nhân dân trong Ủy ban kháng chiến kiêm hành
chính Liên khu III.
1948
- Sắc lệnh số 136-SL, sửa đổi Điều 3 của Sắc lệnh số 04-SL,
ngày 28-12-1946 về việc ủy quyền cho Ủy ban kháng chiến
kiêm hành chính khu ân xá, ân giảm cho các tội phạm.
- Sắc lệnh số 137-SL, về việc thành lập Nha Trung ương
Hoa kiều vụ Việt Nam.
- Sắc lệnh số 138-SL, bổ nhiệm Tổng Giám đốc Trung ương
Hoa kiều vụ Việt Nam.
- Sắc lệnh số 140-SL, về việc nhận tặng phẩm ủng hộ kháng
chiến và việc sử dụng các thứ đó.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 20
Được tin Thủ tướng Ấn Độ Mahátma Ganđi từ trần, Chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi điện chia buồn với Chính phủ, nhân dân Ấn
Độ, gia đình Thủ tướng và báo tin “Chính phủ và Ban Thường
trực Quốc hội cũng như nhân dân và quân đội trong toàn cõi
Việt Nam đã tổ chức mít tinh tưởng niệm Mahátma Ganđi... ca
ngợi đạo đức và lòng yêu nước của nhà lãnh tụ vĩ đại”.
- Bản gốc bút tích bức điện lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc
gia I.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.468.

Tháng 2, ngày 24 (Rằm tháng Giêng Mậu Tý)


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen ngợi toàn thể bộ đội
Khu II và Khu III về thành tích đã xóa nạn mù chữ.

127
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong thư, Người nêu rõ: “Dốt nát cũng là kẻ địch. Địch dốt
nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch dốt nát tấn công ta về tinh
thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực. Địch
thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân.
Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù
quáng”. Người căn dặn: “Sự học hỏi là vô cùng... Một quân đội
văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch”.
Đêm, sau khi dự một cuộc hội nghị ở chốn “Yên ba thâm
xứ”, Người xuôi thuyền về căn cứ. Nhân trăng sáng cảnh đẹp,
Người làm bài thơ chữ Hán:

NGUYÊN TIÊU
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dịch thơ:

RẰM THÁNG GIÊNG


Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền1).
- Thơ Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1967, tr.60.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.467, 469-470.

Tháng 2, ngày 29
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ bắt đầu từ 18 giờ 30 phút và kết thúc vào 2 giờ sáng hôm
sau (1-3).

1) Bản dịch của Xuân Thủy (B.T).

128
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Hội đồng đã nghe Người đọc một báo cáo tổng hợp những
tin tức thế giới có liên quan đến tình hình Việt Nam và thảo luận
một số vấn đề quan trọng trong kế hoạch công tác năm 1948
của các bộ.
Sau khi tóm tắt những ý kiến đã trao đổi, Người yêu cầu
các bộ nghiêm túc thực hiện các kế hoạch, và phải phát động 1948
một phong trào thi đua ở các bộ cũng như trong toàn dân.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 140-SL, thành lập Cục tiếp tế vận tải đặt trong
Bộ Kinh tế và bãi bỏ Nha Tiếp tế được thành lập theo Nghị
định ngày 15-11-1946.
- Sắc lệnh số 141-SL, bổ nhiệm Cục trưởng Cục Tiếp tế
vận tải.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.283.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, trong tháng


Trong tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những bức thư sau:
1. Thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc, nhấn mạnh trách
nhiệm của người cán bộ tư pháp:
- Với tư cách là trí thức, cần phải “hy sinh đấu tranh, dũng
cảm hơn nữa” để nêu cao gương cho nhân dân.
- Với tư cách là viên chức của Chính phủ dân chủ cộng hòa,
phải “tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ”.
- Với tư cách là người phụ trách thi hành pháp luật, phải
nêu cao tấm gương “phụng công, thủ pháp1), chí công vô tư”
cho nhân dân noi theo.

1) Phụng công, thủ pháp: chăm lo việc công, giữ gìn pháp luật (B.T).

129
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

2. Thư gửi ông Nguyễn Văn Luân - Trưởng Khu bình dân
học vụ Khu III, cảm ơn về những quà tặng của ông Luân, của
giáo viên huyện Quỳnh Côi (nay thuộc huyện Quỳnh Phụ), Thái
Bình và về những lời chúc mừng năm mới của tất cả những
người làm công tác bình dân học vụ.
Người hứa sẽ có giải thưởng cho huyện nào đạt thành tích
xuất sắc trong việc thanh toán nạn mù chữ năm 1948.
3. Thư gửi nhi đồng, đề nghị các cháu tổ chức những đội
công tác Trần Quốc Toản.
Sau khi giải thích “Trần Quốc Toản là ai? Tổ chức thế nào,
và để làm gì?”, Người viết:
“Các cháu nên hiểu rằng: giúp đỡ đồng bào tức là tham
gia kháng chiến. Và do đó, các cháu sẽ luyện tập cái tinh thần
siêng năng và bác ái để sau này thành người công dân tốt của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”.
4. Thư gửi các đồng chí trong phái đoàn ngoại giao trước
khi đoàn lên đường1).
Người căn dặn mọi người phải đem hết tinh thần và nghị
lực khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết thương yêu nhau, cố
gắng làm tròn nhiệm vụ để xứng đáng lòng tin cậy của anh em
thanh niên, của đoàn thể và của đồng bào.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.234-235, 237-238.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí
Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.472-478.

1) Đầu năm 1948, Chính phủ cử một đoàn ngoại giao đi các nước Thái Lan,
Mianma, Trung Quốc và Tiệp Khắc để tuyên truyền về cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gửi thư này cho đoàn (B.T).

130
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 2, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Đoàn 29 (Trung đoàn
Thủ đô) cảm ơn về thư báo cáo trận đánh thắng ngày 8-1-1948
và các chiến lợi phẩm của đơn vị gửi biếu. Người nhắc đơn vị
cần rút kinh nghiệm trận đánh và phải luôn luôn gần gũi dân,
phải làm cho dân mến, dân tin.
1948
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.483.

Tháng 2, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đại tá Nguyễn Dân, tức Frey -
quốc tịch Áo, đảng viên cộng sản Pháp, theo đội quân lê dương
sang tham chiến ở Đông Dương, đã bỏ sang hàng ngũ kháng
chiến Việt Nam.
Tại “Dinh Chủ tịch” là một nhà sàn trong cánh rừng Việt
Bắc, Người thân mật mời Nguyễn Dân hút thuốc lá, trao đổi về
công việc, kể chuyện mình đã có dịp đến Viên - Thủ đô nước Áo,
quê hương của Nguyễn Dân.
- Pierre Sergent: Un étrange monsieur Frey (Một ông Phrây
kỳ lạ), Fayard, 1982, tr.269.

Tháng 2, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị thông tin tuyên
truyền và báo chí toàn quốc.
Trong thư, Người chỉ rõ những khuyết điểm cụ thể của
công tác thông tin tuyên truyền và báo chí của ta thời gian
qua về mặt nhận thức, về nội dung, về cách làm... “Nói tóm
lại: Nội dung các tờ báo chưa phản ánh được sự sinh hoạt của

131
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

các tầng lớp dân chúng, chưa thành tờ báo của dân chúng”.
Người mong Hội nghị sẽ đề ra được một chương trình thiết
thực và đầy đủ để “thông tin, tuyên truyền và báo chí làm
tròn nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động, huấn luyện và lãnh đạo
nhân dân”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.479-482.

Tháng 2, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị tình báo toàn
quốc, biểu dương những cố gắng, sáng kiến, tiến bộ của các
cán bộ và nhắc nhở: “Từ trên xuống dưới, mọi người phải cố
gắng nghiên cứu học tập. Ta chớ giấu dốt, chớ xấu hổ, học hỏi
lẫn nhau, học hỏi người ngoài. Tổ chức của ta còn trẻ, kinh
nghiệm còn ít. Ta chỉ có một cách để theo kịp và đi quá người:
là ra sức học hỏi”.
- Tài liệu của Cục Tình báo, bản sao lưu tại Viện Hồ Chí Minh
và các lãnh tụ của Đảng.

Tháng 2, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thiếp chúc sức khỏe cụ Đinh
Công Huy1):
“Tôi gửi lời thân ái chúc cụ cùng các cháu mạnh khỏe và hỏi
thăm tất cả đồng bào trên đó”.
- Bản chụp bút tích thiếp thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Tiểu đoàn 223 (Đại đoàn
308) cảm ơn về thư báo cáo trận đánh thắng ngày 8-1-1948 và

1) Người Mường, Phó Chủ tịch, Hội trưởng Hội Liên Việt tỉnh Hòa Bình (B.T).

132
TẬ P 4 : 1946 - 1950
các chiến lợi phẩm của đơn vị gửi biếu. Người nhắc đơn vị cần
rút kinh nghiệm trận đánh và gần gũi nhân dân. Người mong
toàn thể tướng sĩ Đoàn 223 cố gắng để giật giải thưởng đầu
trong cuộc luyện quân đội lập chiến công.
- Bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1948
2011, t.5, tr.471.

Tháng 3, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để nghe các bộ trình bày chương trình hoạt động. Hội
đồng làm việc suốt ngày, đến nửa đêm vẫn chưa hết, phải kéo
sang ngày hôm sau.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.283.

Tháng 3, ngày 2
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp
của Hội đồng Chính phủ.
Chiều, Người bị sốt li bì.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 142-SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Tài chính.
- Sắc lệnh số 143-SL, bổ nhiệm Tổng Giám đốc quốc gia
Ngân hàng Việt Nam.
- Sắc lệnh số 144-SL, về việc nghiêm cấm lạm sát trâu bò
trong toàn cõi Việt Nam cho đến khi có lệnh mới.
- Sắc lệnh số 145-SL, giao nhiệm vụ cho Nha Khẩn hoang
di dân (thuộc Bộ Canh nông) tổ chức việc di dân đi khai
thác và phục hồi những vùng đất hoang hóa thuộc sở hữu
của Nhà nước.

133
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 146-SL, quy định nhiệm vụ của Tòa án quân


sự, Tòa án binh.
- Sắc lệnh số 147-SL, cho phép phát hành tại Nam Bộ
và lưu hành trong toàn quốc giấy bạc Việt Nam loại mới
một đồng, năm đồng, hai mươi đồng, năm mươi đồng và một
trăm đồng.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.284.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 3
Tuy còn mệt, phải nằm trên giường vì trận sốt đêm qua,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn yêu cầu những người đến thăm kể
lại các vấn đề đã bàn trong cuộc họp Hội đồng Chính phủ.
Trong ngày, đọc thư của ông Nguyễn Xiển, Phó Tổng thư
ký Đảng Xã hội Việt Nam (viết ngày 22-2-1948) nhận xét về
những khuyết điểm trong đạo đức và tác phong công tác của
một số cán bộ Mặt trận Việt Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi
ý kiến của mình bên lề bức thư: “Việt1). Những điều phê bình
trong thư này, không phải là quá đáng. Vậy chú và Thọ2) phải
bàn và thực hành cách sửa chữa ngay”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.285.
- Bản gốc bức thư của ông Nguyễn Xiển có bút tích của Chủ
tịch Hồ Chí Minh lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tháng 3, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Chính trị viên
toàn quốc lần thứ hai11, góp ý về công tác của chính trị viên.

1) Hoàng Quốc Việt (B.T).


2) Lê Đức Thọ (B.T).

134
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong thư, Người nhấn mạnh về ba nhiệm vụ chính của
người chính trị viên trong quân đội dù ở cấp bậc nào và nêu
những nội dung chính của các nhiệm vụ đó.
- Tài liệu của Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.50-51. 1948
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.484-485.

Tháng 3, trước ngày 14


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi hai bức điện mật cho Khu V.
Bức điện mật thứ nhất mang số 946/TRT. Toàn văn như sau:
“Mật điện gửi Khu V. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam gửi hai
ông Bảy Viễn và Mười Chi chỉ huy bộ đội Bình Xuyên.
1. Cảm ơn hai chú đã gửi điện chúc Tết tôi.
2. Tôi gửi lời thân ái khen ngợi toàn thể bộ đội Bình Xuyên
đã luôn luôn cố gắng và tôi chắc anh em sẽ luôn luôn cố gắng
thêm để lập nhiều chiến công mới và vẻ vang mới. Chính phủ
sẽ vui lòng ghi công những chiến sĩ anh hùng.
3. Tôi lại dặn anh em mọi việc đều đặt quyền lợi của Tổ
quốc lên trên hết, thì việc gì khó mấy cũng dễ giải quyết.
4. Bao giờ có vấn đề gì khó xử thì cứ điện Chính phủ và Bộ
Tổng chỉ huy.
5. Nhờ hai chú thay mặt tôi hỏi thăm gia quyến liệt sĩ Ba
Dương.
6. Chào thân ái và quyết thắng.
HỒ CHÍ MINH”.
Bức điện mật thứ hai mang số 947/TRT. Toàn văn như sau:
“Mật điện gửi Khu V. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam gửi
Trung tướng Nguyễn Bình.

135
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

1. Nhờ chú chuyển lời tôi khen ngợi toàn thể bộ đội đã
tham gia những trận thắng lớn: Sài Gòn - Đà Lạt, Sài Gòn - Sa Đéc
đầu tháng 3 (tháng 3-1948) và lời tôi khuyên bộ đội cố gắng
để lập nhiều chiến công mới.
2. Nhân dịp này, riêng tôi gửi lời dặn chú mọi việc phải cẩn
thận bàn bạc với anh em UBKCHC và các đồng chí phụ trách
quân sự để giữ đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách là nguyên tắc tối cao của chính quyền dân chủ ta: Mọi
việc đều đặt lợi quyền của Tổ quốc lên trên để thực hiện đại
đoàn kết giữa quân và dân cũng như trong quân đội.
3. Chào thân ái và quyết thắng.
HỒ CHÍ MINH”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.489-490.

Tháng 3, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Misen Décsini (Michele
Zecchini), bạn cũ người Italia, đảng viên Đảng Xã hội Pháp,
người đã giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc khi Người mới từ Anh sang
Pháp. Bức thư được gửi từ bưu điện Hồng Kông, qua địa chỉ
chị gái của Décsini ở Phlorăngxơ (Florence), Italia.
Trong thư, Người viết về cuộc kháng chiến của nhân dân
Việt Nam, khẳng định quyết tâm giành độc lập của dân tộc
mình; về bệnh phổi và những khó khăn Người phải chống đỡ
với khí hậu ẩm ướt ở chiến khu Việt Bắc.
- Michele Zecchini: Le caligraphe (Người viết chữ đẹp),
Planète Action, 3-1970, p. 23-28.

Tháng 3, sau ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chia buồn với ông Hồ Tùng
Mậu về việc người con trai duy nhất của ông là Hồ Mỹ Xuyên

136
TẬ P 4 : 1946 - 1950
đã hy sinh trong chuyến đi công tác của Đặc ủy đoàn Chính
phủ tại Liên khu X ngày 19-3-1948.
Bức thư viết: “Tôi rất đau xót trước việc cháu Xuyên chết.
Cháu Xuyên mất đi, chú mất một người con, tôi mất một người
cháu, nhân dân mất một chiến sĩ, Đoàn thể mất một cán bộ...”.
- Bản sao bút tích bức thư lưu tại gia đình họ Hồ ở Quỳnh 1948
Đôi, Nghệ An.
- Đời nối đời vì nước, Nxb. Nghệ An, 1996, tr.166.

Tháng 3, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 148-SL, bãi bỏ các danh từ phủ, châu, quận;
cấp trên xã và cấp dưới tỉnh nay thống nhất gọi là cấp huyện.
- Sắc lệnh số 149-SL, quy định bỏ chữ “kiêm” trong danh từ
“Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính”, và từ nay gọi Ủy ban
đó là “Ủy ban kháng chiến hành chính”.
- Sắc lệnh số 150-SL, quy định về tổ chức, quyền hạn, cách
làm việc của Hội đồng nhân dân trong vùng địch kiểm soát
hoặc bị uy hiếp.
- Sắc lệnh số 151-SL, quy định thành phần ủy viên Ủy ban
kháng chiến hành chính các cấp xã, huyện, tỉnh và liên khu.
- Sắc lệnh số 152-SL, về thể lệ bầu lại một hay nhiều ủy viên
Ủy ban kháng chiến hành chính mỗi cấp.
- Sắc lệnh số 153-SL, quy định những ủy viên Ủy ban kháng
chiến hành chính không ở trong Hội đồng nhân dân cấp tương
đương, đều được coi như hội viên Hội đồng nhân dân cấp ấy.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, trước ngày 29


Đọc trên báo Công dân, biết tin các thân hào, thân sĩ và
đồng bào thôn Hải Lạng, xã Vĩnh Thành có những việc làm

137
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

cụ thể tỏ rõ “chí kiên quyết kháng chiến, và tấm lòng vì nước


quên nhà”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi.
Bức thư có đoạn:
“Có nước thì sẽ có nhà... Đến ngày kháng chiến thắng lợi,
thống nhất và độc lập thành công, chúng ta sẽ cùng nhau xây
đắp nhà cửa, những phố làng đường hoàng và đẹp đẽ hơn,
xứng đáng với đời sống mới của nhân dân Việt Nam mới, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.496.

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị cán bộ Đảng
trong quân đội lần thứ tư. Trong thư, Người nhấn mạnh: Cuộc
kháng chiến đã dần dần chuyển sang giai đoạn mới, công việc
sẽ nhiều hơn và gay go hơn, cho nên các cán bộ đảng cần chuẩn
bị đầy đủ tinh thần, nghị lực, kế hoạch để lãnh đạo toàn quân
vượt khó khăn, giành thắng lợi. Quân đội ngày càng trưởng
thành và tiến bộ, đòi hỏi “các đồng chí cán bộ của Đảng ở các
cấp phải cố gắng tiến bộ hơn, để lãnh đạo bộ đội. Từ việc lớn
đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu”.
Trong tháng, Người còn gửi thư tới Hội nghị quân y, biểu
dương những cố gắng của nam nữ cán bộ quân y và góp một
số ý kiến cụ thể về nhiệm vụ người thầy thuốc, về tổ chức
quân y trong hoàn cảnh thiếu cán bộ chuyên môn, về phương
hướng phát triển của ngành. Người đề nghị: “Hội nghị sẽ định
một chương trình thiết thực để sửa chữa những khuyết điểm
và phát triển những ưu điểm của quân y, để làm cho quân y
ngày càng tiến bộ”.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.54.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.486-488.

138
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 3, trong tháng
Nhân đọc báo Dân quân của Khu III, biết lão du kích Đỗ
Như Thìn ở làng Tuấn Kiệt (Bình Giang, Hải Dương) đã 50
tuổi mà vẫn hăng hái tham gia du kích, có nhiều sáng kiến
và lập được nhiều chiến công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
thư khen ngợi ông Thìn và mong ông cố gắng lập thêm nhiều 1948
thành tích. Đồng thời, Người hô hào anh chị em du kích hãy
noi gương ông Thìn giết giặc lập công và mong rằng “có
những chiến sĩ lão thành như đồng chí Thìn làm kiểu mẫu.
Du kích Hải Dương sẽ cố gắng để trở nên du kích kiểu mẫu
trong toàn khu, toàn quốc”.
Người tặng ông Đỗ Như Thìn bốn chữ: “Lão đương ích tráng”1).
Trong tháng, Người còn gửi thư cho Trung đội du kích Kim
Thành, Hải Dương: “Cảm ơn các chú đã gửi biếu tôi 1 cái áo
mưa lấy của giặc. Quý hơn nữa, là các chú hứa: luôn luôn cố
gắng lấy vũ khí của địch giết địch”.
Người căn dặn:
“Các chú phải luôn luôn nhớ: Du kích là như cá; nhân dân
là như nước.
Muốn giết địch thắng trận, thì phải có đồng bào giúp mọi
mặt. Muốn được đồng bào vui lòng giúp, thì ta phải giúp đỡ
đồng bào, kính trọng đồng bào. Đó là con đường thắng lợi”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.491-492.

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện của một nhà báo nước
ngoài phỏng vấn về kết quả năm đầu tiên của cuộc kháng
chiến và triển vọng tình hình năm 1948.

1) Lão đương ích tráng: Càng già càng mạnh.

139
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Về triển vọng tình hình năm 1948, theo Người, cuộc chiến
có thể sẽ gay go hơn. “Song dù phải hy sinh và cực khổ mấy,
Chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng quyết kháng chiến đến
cùng để tranh kỳ được thống nhất và độc lập thực sự... Hơn
80 năm dưới quyền thống trị của Pháp, nhân dân Việt Nam đã
nếm đủ sỉ nhục và đau khổ. Nhân dân Việt Nam quyết không
chịu làm nô lệ lần nữa”.
- Tài liệu của Bộ Ngoại giao, lưu tại Phòng Lưu trữ Bộ
Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.493-495.

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen ngợi đồng bào An Phú
và Văn Giáo (Nghĩa Hưng) đã bỏ sự ăn uống hoang phí, đem
ruộng hậu và huê điền đấu giá được 3.000 đồng giúp quỹ Mùa
Đông binh sĩ. Người mong rằng: đồng bào sẽ hăng hái thi đua
tham gia các công việc kháng chiến, như tăng gia sản xuất,
giúp đỡ bộ đội, phát triển bình dân học vụ,…
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.248.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.497.

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Hoàng Mai - Giám
đốc Sở Công an Khu XII, nhận xét và góp ý kiến về hình thức và
nội dung tờ nội san Bạn dân của Công an Khu XII. Người lưu
ý, tờ báo “cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận
rõ công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và
dựa vào nhân dân mà làm việc” và “phải luôn luôn nhắc nhở

140
TẬ P 4 : 1946 - 1950
anh em rèn luyện tư cách đạo đức. Tư cách người công an cách
mệnh là:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành,
1948
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.
- Tài liệu lưu tại Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.406-407.

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn cho linh mục Lê Văn Yên
(Bắc Ninh), khen ngợi ông đã làm tròn nhiệm vụ một ủy viên
trong Ủy ban kháng chiến tỉnh Bắc Ninh, ra sức củng cố tinh
thần đại đoàn kết giữa đồng bào lương và giáo, luôn luôn tận
tâm săn sóc các anh em thương binh, mà không nhận lương
phụ cấp.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.500.

Khoảng tháng 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Nguyễn Sơn - Khu trưởng
Chiến khu IV, bức thiếp thư viết bằng chữ Hán dưới đây:
Tặng Sơn đệ:
Đảm dục đại
Tâm dục tế
Trí dục viên
Hạnh dục phương.

141
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Đại ý:
Tặng chú Sơn:
Cái gan cần phải to lớn
(nhưng) Cái tâm thì nên tế nhị, chín chắn,
Cái trí phải suy nghĩ cho toàn diện,
(và) Đức hạnh phải vuông vắn, ngay thẳng.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, trước ngày 4


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị dân quân
toàn quốc12, biểu dương những ưu điểm và thành tích
của phong trào chiến tranh du kích, đồng thời nêu những
khuyết điểm “cần phải sửa chữa ngay” về nhận thức, tổ chức
và huấn luyện.
Người đề ra bảy nhiệm vụ cụ thể, cũng là bảy nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, mà dân quân du kích phải thực hiện để làm
tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.508-510.

Tháng 4, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết 12 điều răn gửi anh chị em bộ
đội, cơ quan Chính phủ và các đoàn thể, yêu cầu mọi người ai
cũng cần phải nhớ và thực hành khi tiếp xúc hoặc sống chung
với dân.
12 điều răn gồm 6 điều không nên và 6 điều nên làm, sau
cùng là Bài thơ cổ động:
Mười hai điều trên,
Ai làm chả được.
Hễ người yêu nước,
Nhất quyết không quên.

142
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tập thành thói quen,
Muôn người như một.
Quân tốt dân tốt,
Muôn sự đều nên.
Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.
1948
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.501-502.

Tháng 4, ngày 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.325.

Tháng 4, ngày 12
Từ 18 giờ đến 21 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc
họp Hội đồng Liên bộ.
Sau đó, Người tổ chức một buổi ngâm thơ và trao đổi ý
kiến. Cuộc vui kéo dài đến quá nửa đêm.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.325.

Tháng 4, ngày 13
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng
Chính phủ bàn việc giúp đỡ Bình - Trị - Thiên, công tác bảo vệ
nội bộ, vấn đề khen thưởng, việc chuẩn bị kỷ niệm 1.000 ngày
kháng chiến và một số vấn đề về kinh tế, nội vụ, quốc phòng,
giáo dục, y tế, thi đua...
Chiều, do cơn sốt tái phát, Người không dự họp được.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.326.

143
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 4, ngày 14
Từ chiều đến 21 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự phiên
họp của Hội đồng Chính phủ.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 157-SL, bãi bỏ Ủy ban Hộ đê Trung ương và
thành lập ở mỗi khu, tỉnh, huyện, và nếu cần ở mỗi xã một Ủy
ban Hộ đê gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch và một ủy viên.
- Sắc lệnh số 158-SL, bổ nhiệm Quyền Tổng Thanh tra Tài chính.
- Sắc lệnh số 159-SL, quy định nhiệm vụ và quyền hạn
của Nha Tổng thanh tra Tài chính, của Tổng Thanh tra và các
thành viên.
- Sắc lệnh số 160-SL, cho phép phát hành trong cả nước
“Công phiếu kháng chiến” và quy định thể thức mua.
- Sắc lệnh số 161-SL, bổ nhiệm Giám đốc Nha Pháp chính
Bộ Nội vụ kể từ ngày 1-4-1948.
- Sắc lệnh số 162-SL, giải tán Ủy ban kháng chiến hành
chính thị xã Bắc Ninh và sửa đổi địa giới của thị xã.
- Sắc lệnh số 163-SL, tặng thưởng Huân chương Quân công
hạng Nhất cho ba đơn vị: Đội quân giải phóng; Đội quân du
kích Bắc Sơn và Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ.
- Sắc lệnh số 164-SL, bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Quang.
Tham mưu trưởng Chiến khu VIII (Nam Bộ) giữ chức Khu phó
Chiến khu VIII kể từ ngày 14-4-1948.
- Sắc lệnh số 165-SL, quy định Bộ Tổng chỉ huy Quân đội
quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam nay đổi là Bộ Tổng chỉ
huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam, ông Tổng Chỉ
huy quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam nay gọi là
Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam.
- Sắc lệnh số 166-SL, cấp thêm cho quỹ ngoại thương 15
triệu đồng để hoạt động.

144
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 167-SL, thủ tiêu tiền đồng ở Trung Bộ trong
thời hạn hai tháng.
- Sắc lệnh số 168-SL, nghiêm cấm và trừng phạt tệ đánh bạc.
- Sắc lệnh số 169-SL, về việc thành lập Sở Lao động ở mỗi
liên khu kháng chiến hành chính.
- Sắc lệnh số 170-SL, tổ chức lại Tòa án quân sự các cấp. 1948
- Sắc lệnh số 171-SL, quy định Nhà máy Phốt phát Nghệ An
của Bộ Canh nông là doanh nghiệp quốc gia đặc biệt.
- Sắc lệnh số 173-SL, bổ nhiệm Đổng lý Văn phòng Bộ Y tế.
- Sắc lệnh số 174-SL, sáp nhập Sở Địa chính Trung Bộ vào
Nha Địa chính thuộc Bộ Canh nông và bổ nhiệm Tổng Giám
đốc Nha Địa chính.
- Sắc lệnh số 175-SL, chuẩn y ông Nguyễn Khang làm Chủ
tịch và ông Nguyễn Duy Thân là Phó Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến hành chính Liên khu I.
- Sắc lệnh số 176-SL, gia hạn việc cấm chạy xe kéo.
- Sắc lệnh số 177-SL, quy định việc định tội xâm phạm tài
sản công dân.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.326.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 178-SL, cho phép ông
Burgi Anselm - kiều dân Thụy Sĩ, được nhập quốc tịch Việt
Nam và lấy tên là Nguyễn Chiến Sĩ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị Tổng bộ Việt Minh.

145
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong thư, Người nêu lại một số bài học kinh nghiệm thành
công của Việt Minh trong chính sách đối nội, đối ngoại, lợi
dụng mâu thuẫn của kẻ thù, đào tạo cán bộ, chính sách đại
đoàn kết... Đồng thời, Người chỉ ra những khuyết điểm cần chú
ý khắc phục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.503-505.

Tháng 4, ngày 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới gia đình cố Bộ trưởng Huỳnh
Thúc Kháng bức điện dưới đây:
“Gửi gia đình Huỳnh Bộ trưởng,
Nhân ngày giỗ đầu cố Bộ trưởng, thay mặt Chính phủ, tôi
kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ và xin gửi gia đình
Cụ lời chào thân ái và quyết thắng.
Ngày 21 tháng 4 năm 1948
HỒ CHÍ MINH”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.506.

Tháng 4, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 179-SL, bổ nhiệm ông
Lê Liêm, Phó Cục trưởng Cục Dân quân, giữ chức Cục trưởng
Cục Dân quân thay ông Khuất Duy Tiến.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 30
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 180-SL, bãi bỏ kể từ
ngày 30-4-1948, các loại giấy bạc Đông Dương do Đông Dương
Ngân hàng phát hành trước đây.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

146
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 4, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quân sự tập san. Bức
thư viết:
“Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông.
Thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay bị mù
quáng. 1948
Vậy cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực
hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm
cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm”.
Người còn căn dặn: “Muốn trở nên người quân nhân mới,
xứng đáng với cái vinh hạnh đứng trong quân đội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, thì mỗi chiến sĩ, từ trên đến dưới, các
cấp bậc đều phải nghiên cứu, học tập, luôn luôn cầu tiến bộ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.11.

Tháng 4, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị kiến trúc sư.
Bức thư có đoạn:
“Trong 4 điều quan trọng cho dân sinh: ở và đi là hai vấn
đề cũng cần thiết như ăn và mặc. Vì vậy kiến trúc là một việc
rất quan hệ... Tôi mong Hội nghị sẽ đi tới những kế hoạch thiết
thực với tình thế hiện tại và những chương trình kiến thiết
hợp với tương lai... đặc biệt là vấn đề nhà ở tại thôn quê, tìm ra
những kiểu nhà giản dị và cao ráo, sáng sủa và rẻ tiền”.
- Tư liệu lưu trữ của Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.507.

Tháng 4, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho gia đình bà Hoàng Hữu
Nam. Toàn văn bức thư như sau:

147
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

“Gửi gia đình bà Hoàng Hữu Nam,


Nhân ngày giỗ năm thứ nhất của chú Nam, Thứ trưởng
Bộ Nội vụ, tôi nhân danh tôi và thay mặt Chính phủ, kính cẩn
nghiêng mình trước anh hồn chú Nam và gửi lời thân ái thăm
thím và các cháu.
Tháng 4 năm 1948
HỒ CHÍ MINH”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.512.

Mùa hạ
Tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu quân
sự Bình - Trị - Thiên do ông Trần Văn Quang làm Trưởng đoàn.
Nói chuyện với Đoàn, Người nêu rõ: địch càng khủng bố
càn quét thì máu căm hờn của đồng bào ta càng sôi sục nhiều
hơn. Đó là một điều để ta chuyển được tình thế. Kháng chiến
của ta là toàn dân, toàn diện, cả nước kháng chiến. Từ Nam
Quan đến Cà Mau chỉ có một mặt trận. Nhưng từng nơi có hoàn
cảnh riêng. Có bại rồi mới có thắng. Có nhỏ rồi mới có to, có
tổ du kích ngày trước thì mới có lực lượng hùng hậu ngày nay.
Cũng vào mùa hè, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
tiếp Đoàn đại biểu quân, dân, chính Nam Bộ do ông Trần Văn
Trà làm Trưởng đoàn.
Người ân cần thăm hỏi Đoàn về tình hình đoàn kết nội bộ
và đoàn kết toàn dân, tình hình tổ chức dân quân, việc giúp đỡ
nhân dân nước bạn Campuchia.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.141-142.

Tháng 5, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua yêu nước.

148
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Lời kêu gọi có đoạn:
“Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và chí quật
cường chẳng kém ai.
Nay muốn tự cấp, tự túc, đi kịp người ta, thì chúng ta phải
đi mau.
Vì vậy, sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể 1948
quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức
tham gia cuộc Thi đua yêu nước, tức là tăng gia sản xuất”.
Cùng ngày, nhân ngày Quốc tế lao động (1-5), Người viết
Thư gửi đồng bào lao động toàn quốc, kêu gọi mọi người hăng
hái ra sức thi đua yêu nước, góp phần làm cho kháng chiến
chóng thắng lợi, thống nhất và độc lập chóng thành công.
- Bản gốc lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu
tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.1, tr.256-257.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.513-515.

Tháng 5, ngày 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Quốc Việt dặn
dò những nội dung cần thiết của số báo ra ngày 19-5-1948,
và việc tổ chức ngày kỷ niệm này ở những vùng Công giáo và
vùng địch tạm chiếm.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, trước ngày 3


Nhân việc một số lớn đồng bào theo giáo phái Hòa Hảo ở
Sa Đéc đã quay súng chống lại địch, trở về với hàng ngũ kháng
chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi đồng bào Cao
Đài, Hòa Hảo, nói rõ thái độ của Chính phủ là “rất hoan nghênh
những anh em đã tỉnh ngộ” và “Chính phủ cùng toàn quốc đồng

149
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

bào đang chờ đợi để hoan nghênh những người hiện đang lầm
đường theo giặc sẽ noi gương ái quốc của anh em Hòa Hảo đó”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.516.

Tháng 5, ngày 4
Trả lời bức thư của ông Trần Công Tường (Bộ Tư pháp)
xin ý kiến về cách giải quyết ân xá cho tù binh như thế nào,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi vào bức thư: “Nếu phiếu thuận và
phiếu phản đối ngang nhau, thì phải do Chủ tịch Chính phủ
quyết định”.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Đội lão du kích huyện
Yên Dũng, Bắc Giang, bày tỏ lòng thương tiếc bảy vị lão du kích
đã hy sinh vì nước. Thay mặt Chính phủ, Người biểu dương
công trạng của các vị và nêu rõ:
“Các cụ ấy đã hy sinh, nhưng lòng yêu nước, chí quật
cường, tinh thần dũng cảm của các cụ sẽ ở trong lòng tất cả
đồng bào, tất cả mọi người du kích. Và tiếng thơm của các cụ
sẽ giai truyền với non sông của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa thống nhất và độc lập”.
Cùng ngày, Người viết thư gửi cụ Chí Tài ở huyện Hải Hậu
(Nam Định). Bức thư viết:
“Tôi rất vui lòng khi được báo cáo rằng cụ đã quyên giúp
cho anh em du kích 100 thùng thóc, cử chỉ của cụ rất là đáng
quý, vậy tôi gửi lời khen ngợi và cảm ơn cụ. Tôi lại mong cụ kêu
gọi đồng bào trong làng và tự làm kiểu mẫu trong cuộc Thi đua
ái quốc này. Tôi chúc cụ mạnh khỏe và gửi cụ lời chào thân ái
và quyết thắng”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.517-519.

150
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 5, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 181-SL, cho phép phát
hành và lưu hành trên toàn cõi Việt Nam loại giấy bạc năm hào
và hai hào.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
1948
Tháng 5, trước ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh hai lần viết thư cho ông Lê Văn Hiến,
nói về việc cấp tiền cho dân quân, xét lương bổng cho các bác
sĩ, tìm cách giúp cơ quan vận tải tiếp tế được mau chóng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chia buồn tới ông Enpiđích
Quyrinô - Chủ tịch nước Philíppin, khi được tin Chủ tịch Rớcxa
(Roxar) từ trần. Bức điện viết:
“Nhân danh Chính phủ và nhân dân Việt Nam và riêng tôi,
xin ngài nhận chuyển cho Chính phủ và nhân dân Phi Luật Tân
những lời chia buồn thành thực của chúng tôi”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.340.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.520.

Tháng 5, giữa tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư phúc đáp cụ Phùng Lục1), một
phụ lão cứu quốc huyện Ứng Hòa, Hà Đông (nay thuộc thành
phố Hà Nội).

1) Ngày 10-2-1948 (mồng Một Tết Mậu Tý), cụ Phùng Lục đã gửi thư lên
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài lời chúc mừng năm mới, bức thư có đoạn:
“Nhờ ơn Tổ quốc, năm nay tôi hưởng thọ 90 tuổi, theo cổ tục tất phải
làm lễ thượng thọ; nhưng trong lúc này, nước nhà có việc, nên tôi miễn
sự tế lễ ăn uống, thành tâm đem món tiền 500 đồng kính dâng Chủ tịch
để sung vào Quỹ kháng chiến toàn quốc.
Ước mong món tiền nhỏ trên đây được thu nhận để giúp ích trong muôn
một thì lòng già rất được hân hoan...”.
Do hoàn cảnh kháng chiến, mãi tới tháng 5-1948, bức thư mới tới được tay
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Người đã viết lá thư phúc đáp trên.

151
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Toàn văn bức thư như sau:


“Kính gửi cụ Phùng Lục, phụ lão Cứu quốc Ứng Hòa, Hà Đông.
Thưa cụ,
Những vị thượng thọ như cụ là của quý vô giá của dân tộc
và nước nhà.
Trong ngày chúc thọ, cụ lại miễn sự tế lễ linh đình, mà đem
số tiền 500 đồng quyên vào Quỹ kháng chiến. Như thế là cụ đã
nêu cái gương hăng hái kháng chiến và cái gương sửa đổi cổ
tục thực hành đời sống mới cho toàn thể đồng bào noi theo.
Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc
cụ sống lâu và luôn luôn mạnh khỏe để kêu gọi con cháu ra sức
tham gia công việc kháng chiến và cứu quốc.
Cháu lại kính gửi cụ lời chào thân ái và quyết thắng.
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.521.

Tháng 5, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Lớp huấn luyện cán bộ
Việt Minh1). Nội dung lá thư như sau:
“Hà Nội, ngày 15-5-1948
Gởi anh chị em ở Ban huấn luyện Tổng bộ Việt Minh,
Tôi muốn đến thăm các bạn, nhưng đàng xa quá. Các bạn
muốn đến thăm tôi, thì đàng cũng không gần, và tôi thường
đi vắng.

1) Lớp huấn luyện do Tổng bộ Việt Minh tổ chức, mở từ tháng 2-1948 tại
ATK (An toàn khu) ở làng Quảng, huyện Định Hóa (Thái Nguyên). Vì là
khóa huấn luyện đầu tiên nên được đặt tên là “Khóa Hồ Chí Minh”. Tập
thể học viên đã quyết định viết thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ
nguyện vọng mong muốn được gặp Người. Người đã viết thư trả lời.

152
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Vậy các bạn cố gắng làm việc giỏi. Bao giờ tiện dịp, chúng
ta sẽ gặp nhau. Các bạn muốn biết ý kiến tôi về cách học hỏi,
công tác. Thì tóm tắt như sau:
Học cốt để mà hành. Thí dụ như chú hoặc cô nào là cán bộ
cấp huyện (cán bộ xã hay tỉnh cũng vậy) thì phải biết rõ ràng
trong huyện mình cần phải làm những việc gì. Rồi cố học hỏi
thảo luận kỹ càng về những việc ấy.
1948
Mỗi người cán bộ tốt, phải thực hành mấy điều:
1. Đối với mình: phải làm đúng cần kiệm liêm chính. Mọi
việc đều phải làm kiểu mẫu cho nhân dân. Phải luôn luôn cầu
tiến bộ.
2. Đối với công việc: phải cẩn thận, phải có kế hoạch kỹ
lưỡng. Phải có ngăn nắp, chớ bao biện, chớ hiếu danh, tự đắc.
3. Đối với dân chúng: phải tôn trọng dân chúng, học hỏi
dân chúng. Phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Luôn luôn
gần gũi dân chúng.
4. Đối với đoàn thể: phải tuyệt đối trung thành. Phải đặt
lợi ích của đoàn thể (tức là lợi ích của Tổ quốc) lên trên hết,
trước hết.
Mỗi ngày phải tự hỏi: Ta đã làm được việc gì có ích cho
đoàn thể, chưa làm thì phải gắng làm đi.
Người cán bộ phải có tinh thần chịu khổ, chịu khó. Phải
luôn luôn giữ tấm lòng chí công vô tư.
Cuộc thi đua ái quốc là dịp tốt cho các bạn trổ tài, trổ đức.
Tôi mong chờ xem chú nào, cô nào, sẽ có thành tích nhiều nhất.
Chào thân ái và quyết thắng.
HỒ CHÍ MINH”.
- Tạp chí Xưa và Nay, số 64, tháng 6-1999.

Tháng 5, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đại biểu các cơ quan trong ATK
(An toàn khu) đến chúc thọ nhân ngày sinh của Người.

153
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Cùng ngày, Người đến thăm và gặp gỡ các học viên lớp
huấn luyện cán bộ Việt Minh.
Ông Vũ Kỳ, thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã ghi lại
trong Nhật ký của mình một kỷ niệm về sinh nhật của Người
như sau:
“Hôm đó, tôi có mời một số đồng chí về ăn cơm với Bác,
nhưng có lẽ vì bận công tác đột xuất nên không ai đến được.
Nghĩ sinh nhật mà để Bác phải ngồi ăn cơm một mình, tôi đánh
bạo thưa với Bác:
- Thưa Bác, hôm nay cho phép cháu được ăn cơm với Bác.
Bác nheo cặp mắt hiền từ nhìn tôi, rồi tủm tỉm cười:
- Chú tự mời thì chú cứ đến.
... Trong bữa cơm hôm đó, tôi có tâm sự với Bác một số vấn
đề về đoàn kết của bộ phận phục vụ. Tôi thưa với Bác:
- Cháu làm việc với Bác đã khá lâu, nhưng chưa một lần
nào thấy Bác nặng lời với cháu. Thế mà chỉ có mấy anh em
Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi với nhau mà
thỉnh thoảng cháu lại cứ cáu gắt với anh em.
Bác vừa ăn vừa nghe tôi nói, rồi ôn tồn bảo tôi:
- Chú làm việc với Bác lâu, thì Bác làm việc với chú cũng lâu
chứ, thế mà Bác có thấy bao giờ chú cáu gắt với Bác đâu!
Tôi đang ngỡ ngàng về cách đặt vấn đề của Bác thì đã nghe
Bác nói tiếp, vẫn với giọng hiền từ:
- Hai bác cháu ta có gì khó khăn thì bàn bạc với nhau, cùng
giải quyết, việc gì mà phải nặng lời, việc gì mà phải cáu gắt. Đó
chính là do Bác tôn trọng chú, chú tôn trọng Bác. Vì vậy, chú
cứ tự nghĩ xem, trong quan hệ chú đã thật sự tôn trọng anh em
chưa? Theo Bác, sở dĩ chú hay cáu gắt với anh em, cái chính là
do chú chưa tôn trọng anh em đúng mức.

154
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Suy nghĩ về những lời dạy của Bác, tôi càng thấm thía. Nếu
quả đúng nóng là cá tính thì tại sao chỉ nóng với cấp dưới chứ
không bao giờ “dám” nóng với cấp trên?
Bữa ăn hôm ấy có thêm món chuối tiêu tráng miệng do tự
tay Bác trồng. Lúc ngồi vào bàn ăn, Bác đã thân mật dặn tôi
ăn cơm vừa phải còn để bụng ăn chuối tiêu. Vừa ăn chuối, Bác 1948
vừa hỏi tôi:
- Chú thấy chuối tiêu có ngon không?
- Thưa Bác, ngon lắm ạ!
- Thế Bác mời chú ăn cơm, không nói cho chú biết là sẽ có
chuối tiêu ăn tráng miệng, cứ để chú ăn no căng bụng, thì lúc
ăn chuối tiêu còn ngon nữa không?
- Thưa Bác, lúc đó thì bớt ngon ạ!
Bác lại tiếp tục hỏi:
- Bớt ngon mà Bác cứ bắt chú ăn, liệu chú có khó chịu
không?
- Thưa Bác, khó chịu ạ!
Bác cứ dắt dẫn như thế và Bác kết luận:
- Chuối tiêu ngon, nhưng ăn không đúng lúc cũng không
ngon, ăn không đúng cách lại càng không ngon. Tự phê bình
và phê bình cũng vậy. Phải đúng lúc và đúng cách. Và điều quan
trọng là phải biết tôn trọng lẫn nhau...”.
- Nhật ký Vũ Kỳ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Trần Đương: Những người được Bác Hồ đặt tên, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.118-120.

Tháng 5, sau ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn Quốc hội, Chính phủ,
đoàn thể, bộ đội, đồng bào trong cả nước và kiều bào ở nước
ngoài, đã chúc thọ Người nhân ngày sinh.

155
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Cuối bức thư, Người viết:


“Đồng bào yêu mến tôi, chúc thọ tôi, tôi biết lấy gì, nói gì để
báo đáp lại lòng thân ái ấy? Tôi chỉ có một cách báo đáp là kiên
quyết cùng đồng bào chịu cực chịu khổ, quyết cùng đồng bào
kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, quyết cùng đồng bào
tranh lại thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc, quyết cùng
đồng bào ra sức làm thế nào cho con cháu chúng ta bây giờ và
muôn đời về sau được sung sướng và tự do”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.546-547.

Tháng 5, ngày 23
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ và nói chuyện với ông Lê Văn
Hiến. Về việc Nguyễn Văn Xuân sắp sửa tổ chức chính phủ bù
nhìn, Người nói đại ý: Bôlae cần phải dựng lên một quái thai
để về quảng cáo bên Pháp. Bảo Đại đã bị chúng lợi dụng cái
tên. Nội bộ chúng sẽ lủng củng và chắc chắn cũng sẽ chẳng làm
nên trò trống gì. Thực dân Pháp muốn lừa bịp dân ta nhưng
không thể nào lừa bịp nổi.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.356.

Tháng 5, trước ngày 24


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết dự thảo báo cáo về tình hình thế
giới và trong nước để báo cáo trong phiên họp Hội đồng Chính
phủ sẽ họp vào ngày 27-5.
- Bản chụp bút tích dự thảo báo cáo l­ưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 24
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với ông Lê Văn Hiến
về bản báo cáo sẽ trình bày trước Hội đồng Chính phủ do

156
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người chuẩn bị. Xong việc, Người mời chụp ảnh chung giữa
vườn tăng gia của Người bên suối.
Chiều, Người trao đổi thêm với một số đồng chí khác, rồi
mời mọi người cùng ăn cơm. Trong không khí vui vẻ, Người
kể chuyện ở Trung Quốc, Pháp, những mẩu chuyện vui lúc bôn
ba ở nước ngoài và ân cần hỏi chuyện gia đình từng người. Vui 1948
câu chuyện, mọi người nhắc đến “chuyện riêng” của Người,
Người cười: “Mình chẳng phải thần thánh gì, cũng như tất cả
mọi người. Nhưng với hoàn cảnh này, còn điều kiện nào nghĩ
đến gia đình”. Rồi nói tiếp: “Gia đình nhỏ không thể được thì ta
cứ lo gia đình lớn đi vậy”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.356.

Tháng 5, trước ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Frères
D’Armes (Bạn chiến đấu):
Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?
Trả lời: Điều ác.
Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?
Trả lời: Điều thiện.
Hỏi: Chủ tịch cầu mong gì nhất?
Trả lời: Nền độc lập của nước tôi và của tất cả các nước
trên hoàn cầu.
Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ gì nhất?
Trả lời: Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết
và nhất thiết không được sợ gì.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.522.

157
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 5, ngày 25
Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dọn lên chỗ ở mới trên
một ngọn đồi con ở xóm Nà Lọm gần chân đèo Re, huyện Định
Hóa, Thái Nguyên. Đây là chỗ ở thứ 20 của Người trên chặng
đường trường kỳ kháng chiến.
15 giờ, Người đi họp Đảng đoàn Chính phủ, có bàn vấn đề
làm lễ phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp.
Tối, trong cuộc họp với Ban Vận động Thi đua ái quốc,
Người phát biểu ý kiến về mục đích thi đua, cách thi đua, kế
hoạch thi đua và hệ thống tổ chức thi đua.
- Nhật ký Vũ Kỳ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.357.

Tháng 5, ngày 26
Từ chiều đến nửa đêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp
của Việt Minh đoàn.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 182-SL, bổ nhiệm người giữ chức Tổng thanh
tra Bộ Canh nông thay ông Đào Thiện Thi được phép từ chức.
- Sắc lệnh số 183-SL, bổ nhiệm Phân khu trưởng Phân
khu IV và Chính ủy Phân khu IV.
- Sắc lệnh số 184-SL, bổ nhiệm ông Bằng Giang, đặc phái
viên Bộ Tổng chỉ huy, giữ chức Liên khu trưởng Liên khu X và
ông Vũ Hiền giữ chức Liên khu phó Liên khu X.
- Sắc lệnh số 185-SL, ấn định tạm thời thẩm quyền của Tòa
án sơ cấp và đệ nhị cấp trong thời kỳ chiến tranh.
- Sắc lệnh số 186-SL, ấn định quyền phạt các tội vi cảnh của
các Trưởng ban trật tự Ty Công an và Quận trưởng công an.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.357.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

158
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 5, ngày 27
8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khai mạc phiên họp Hội đồng
Chính phủ và đọc báo cáo trước Hội đồng. Báo cáo nêu những
nhận định về tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là âm
mưu mới của thực dân Pháp và bọn bù nhìn, cách đối phó của ta.
Đến nửa đêm phiên họp mới kết thúc. 1948
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.523-535.

Tháng 5, ngày 28
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp
của Hội đồng Chính phủ.
13 giờ, Người chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng cho
ông Võ Nguyên Giáp và trực tiếp đọc Sắc lệnh của Chủ tịch
nước. Phát biểu tại buổi lễ, Người nói: “Nhân danh Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại
tướng, để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc
dân phó thác cho”. Sau buổi lễ, Người tâm sự với mọi người,
đại ý: Các cụ ta qua bao thế hệ chiến đấu cho độc lập mà không
thành, nhắm mắt mà chưa thấy được dân tộc tự do. Chúng
ta may mắn hơn. Nhưng còn phải bao nhiêu hy sinh cố gắng.
Hôm nay việc phong tướng cho chú Giáp và các chú khác cũng
là kết quả của bao nhiêu hy sinh, chiến đấu của đồng bào, đồng
chí. Chúng ta phải cố gắng, phải quyết giành được độc lập, tự
do cho thỏa lòng những người đã mất.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 190-SL, tái lập Nha Thống kê trong Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 191-SL, bổ nhiệm Giám đốc Nha Thống kê
trong Bộ Kinh tế.

159
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 192-SL, cấm buôn bán, chuyên chở, tàng trữ
có tính chất buôn bán các xa xỉ phẩm ngoại hóa trong toàn cõi
Việt Nam.
- Sắc lệnh số 193-SL, về việc thiết lập Hội đồng sản xuất kỹ
nghệ của Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 194-SL, bãi bỏ Ủy ban hộ đê Trung ương trước
đây và thành lập ở mỗi liên khu, tỉnh, huyện, xã một Ủy ban
bảo vệ đê điều.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.359-360.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 29
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 188-SL, sửa đổi chế độ
lương của công chức nhằm cải thiện đời sống và đơn giản hóa
chế độ công chức.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 30
Bài Vài con số hay hay của Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ký bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật, số 94.
Bằng những số liệu cụ thể nêu rõ những thiệt hại về người
và của của Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trong
thời kỳ nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, về số “Pháp
gian” đã bị nhân dân Pháp trừng trị sau khi kháng chiến
thành công, về những chi phí khổng lồ cho bộ máy quân sự
của Pháp từ giữa năm 1946 sau khi phái phản động thắng
thế ở Pháp, những bất công và tiêu cực trong đời sống xã hội
Pháp..., bài báo vạch trần cái gọi là “đạo đức thanh liêm” của
thực dân Pháp.
- Báo Sự thật, số 94, ngày 30-5-1948.

160
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 5, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Trường Lục quân Trần
Quốc Tuấn nhân dịp nhà trường khai giảng khóa 4. Người nêu
rõ nhiệm vụ của trường “chẳng những phải cố gắng học tập
kỹ thuật cho ngày càng tiến bộ, mà còn phải giữ vững và phát
triển truyền thống vẻ vang của quân đội ta” và căn dặn: “Ở 1948
trường cũng phải có cuộc thi đua yêu nước. Giáo viên thì thi
đua tìm cách dạy cho dễ hiểu, cho chóng tiến bộ. Học sinh thì
thi đua học cho chóng, cho nhiều, cho tốt”.
Người tặng nhà trường sáu chữ: Trung với nước, hiếu
với dân.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.59-60.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.541-542.

Tháng 5, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ
S. Êli Mâysi (S. Elie Massie), phóng viên Hãng International
News Service. Một lần nữa, Người khẳng định: “Chiến tranh sẽ
chấm dứt ngay khi nào nước Việt Nam được độc lập và thống
nhất thực sự”. “Chúng tôi chiến đấu chống thực dân Pháp
nhưng bao giờ cũng là bạn của nước Pháp dân chủ”.
Trả lời câu hỏi: Nếu cuộc chiến tranh lại gay go trong thời
gian sắp tới thì Ngài tính sẽ trông cậy vào những sự hỗ trợ nào
trong thời gian sắp tới?, Người nêu rõ: “Chúng tôi bao giờ cũng
trông cậy vào chúng tôi và vào cái cảm tình tích cực của các
người dân chủ thế giới, trước hết của các người dân chủ Pháp”.
- Tài liệu của Bộ Ngoại giao, lưu tại Phòng Lưu trữ Bộ
Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.539-540.

161
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 5, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Vũ Trọng Khánh -
Giám đốc Tư pháp Liên khu X, chia buồn khi biết được tin bà
cụ thân sinh ông Khánh mất, biểu dương tinh thần vượt khó
của anh em thẩm phán và động viên ông Khánh trước tình
hình thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn đang ráo riết dụ
dỗ, lôi kéo giới trí thức.
Thư của Người có đoạn:
“Chú lo đến những việc đó, rất đúng. Thế thì những cán bộ
cao cấp như chú và các vị giám đốc khác có nhiệm vụ luôn luôn
giải thích và khuyên gắng các anh em tư pháp, sao cho xứng
đáng với nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người, xứng đáng với
lòng tin cậy của Chính phủ, xứng đáng với lịch sử, với đồng
bào, với Tổ quốc.
Ai chẳng muốn no cơm ấm áo. Nhưng sinh hoạt vật chất,
hết đời người đó là hết. Còn tiếng tăm xấu hay tốt, sẽ còn
truyền đến ngàn đời về sau...
Chúng ta có tinh thần vững vàng, tin tưởng chắc chắn thì
“phú quý không dụ dỗ được ta, nghèo khổ không lay động
được ta, oai lực không dọa nạt được ta”. Mà khó khăn gì chúng
ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.537-538.

Tháng 5, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến cụ Bùi Bằng Đoàn nhờ
góp ý kiến cho bản thảo Lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố của Người.
Nguyên văn bức thư gửi cụ Bùi Bằng Đoàn như sau:
“Kính gửi cụ Bùi, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội.

162
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tôi muốn có một bài truy điệu cụ Tố. Nhưng nhờ người
viết thì không biết nhờ ai. Tự viết lấy thì viết không được, vì
xưa nay tôi chưa hề tập viết văn tế.
Vậy tôi cứ bạo dạn thảo ra đây, trình cụ xem. Nếu có thể
sửa được thì xin cụ sửa giùm. Nếu không thể sửa, thì ta làm
văn xuôi vậy. 1948
Khi tôi thảo xong, đọc lại, nghe khá chướng tai. Vì đối với
cụ, tôi không dám giấu dốt, cho nên cứ gửi để cụ xem.
Mong kỳ hội đồng sau sẽ được gặp cụ. Kính chúc cụ mạnh
khỏe và xin cụ chuyển lời tôi hỏi thăm cụ Phan và cụ Vi1).
Chào thân ái và quyết thắng
Tháng 5 năm 1948
HỒ CHÍ MINH”.
Nguyên văn Lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố như sau:
“1. Than ôi!
Sương bay nghi ngút, sao Đẩu ám mờ.
Mây phủ mê man, Thái Sơn ngừng biếc.
Nhớ cụ xưa,
Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu
Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết
Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng
Phú quý công danh, cụ nào có thiết.
Đến ngày dân tộc giải phóng thành công
Thì cụ sẵn sàng ra tay giúp việc.
Giữ chức Bộ trưởng thì cụ ngày ngày gần gũi nhân dân
Đại biểu Quốc hội thì cụ luôn luôn tính bàn kiến thiết.

1) Cụ Phan Kế Toại và cụ Vi Văn Định (B.T).

163
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

2. Dân ta hết sức tôn trọng hòa bình.


Giặc Pháp dã tâm nên lưu huyết.
Từ ngày toàn quốc kháng chiến nổ bùng
Thì cụ tâm tâm hô hào đoàn kết:
Lũ Tây gặp nhà là đốt, gặp của là vơ
Thấy làng thì phá, thấy người thì giết.
Non sông gấm vóc há cam lòng chịu đọa đày
Con cháu Lạc Hồng, nào để thực dân khinh miệt.
Ngày này qua tháng khác, cụ đi động viên tinh thần dân
chúng khắp xa gần,
Xứ Bắc đến miền Nam, cụ đã trông thấy sức kháng chiến
ngày thêm mãnh liệt.
3. Quân địch ào ào tấn công
Trong vùng cụ đang làm việc.
Chúng tra tấn cụ, cực kỳ tàn khốc, dã man.
Cụ trả lời chúng bằng một nụ cười oanh liệt.
Chúng làm hại cụ, lịch sử Pháp muôn đời thêm một vết
xấu xa.
Cụ dù hy sinh, tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt.
Với cụ, dân tộc mất một người chí sĩ, thế giới mất một
người danh nho.
Cho nên Chính phủ khôn xiết nỗi buồn rầu, đồng bào
khôn xiết lòng thương tiếc.
4. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước anh linh cụ mà hứa rằng:
Từ đây, quốc dân ta đã đồng tâm, càng thêm đồng tâm.
Chính phủ ta đã kiên quyết, càng thêm kiên quyết.
Quyết trường kỳ kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn.
Quyết tranh thống nhất, độc lập cho nước nhà Việt Nam.

164
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Để anh linh cụ và những liệt sĩ đã hy sinh đều vui sướng
ở chốn suối vàng.
Và nền dân chủ cộng hòa của đất nước sẽ vững như vầng
nhật nguyệt”.
- Bản chụp công văn lưu của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ
lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. 1948
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.543-545.

Tháng 5, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn các cụ phụ lão xã
Vĩnh Đồng, châu Lương Sơn (nay thuộc huyện Kim Bôi), tỉnh
Hòa Bình đã gửi biếu Người mật ong.
Bức thư có đoạn:
“Lòng thân ái các cụ đối với tôi, khiến tôi rất cảm động. Tôi
mong rằng các cụ sẽ cố gắng đốc thúc con cháu hăng hái tham
gia cuộc Thi đua ái quốc, làm cho mọi người đủ ăn đủ mặc và
sẵn sàng giúp đỡ bộ đội và dân quân. Như thế là các cụ cũng
trực tiếp tham gia kháng chiến”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.536.

Tháng 6, đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị y tế liên khu họp
tại Liên khu X từ ngày 4 đến ngày 7-6-1948. Người nêu vài điểm
để Hội nghị thảo luận về cuộc Thi đua ái quốc trong ngành:
- Nay những thứ thuốc ta quen dùng, càng ngày càng hiếm,
vì vậy anh em y tế nên thi đua nhau tìm ra những thứ thuốc mà
nước ta sẵn có nhiên liệu.
- Cùng những thứ thuốc ta có, anh em nên thi đua nhau tìm
cách chữa chóng khỏi mà tốn ít thuốc.

165
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Những bệnh phổ thông nhất ở nước ta là: đau mắt, ghẻ,
kiết lỵ, tả, sốt cơn, sốt cảm, báng. Anh em nên thi đua nhau tìm
ra những thứ thuốc dễ sắm nhất và hiệu nghiệm nhất.
Ngoài ra, cách tổ chức làm việc, tuyên truyền vệ sinh, số
bệnh nhân được chữa khỏi; giúp đỡ dân chúng… đều là những
điểm cần đưa vào cuộc thi đua.
- Tài liệu lưu tại Văn phòng Chính phủ.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.548-549.

Tháng 6, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời tuyên bố sau khi Pháp lập Chính
phủ bù nhìn toàn quốc tại Hà Nội13.
Tuyên bố nêu rõ: Chính phủ và nhân dân Việt Nam “không
bao giờ thừa nhận những giấy tờ gì do bọn bù nhìn ấy ký kết
với bất cứ nước nào” và “sẽ theo pháp luật nước nhà trừng trị
bọn phản quốc ấy”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.550.

Tháng 6, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi nhân dân cả nước
và toàn thể các tướng sĩ nhân dịp 1.000 ngày kháng chiến.
Sau khi nhắc lại truyền thống đấu tranh kiên cường của
dân tộc Việt Nam, phân tích những điều kiện và hoàn cảnh của
cuộc kháng chiến hiện nay, tình hình địch - ta và triển vọng của
cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta, Lời kêu gọi viết:
“Chúng ta đủ điều kiện thắng lợi. Chúng ta chắc thắng lợi.
Song chúng ta phải biết rằng, càng gần đến thắng lợi thì càng
gay go. Mà gay go càng nhiều, thì thắng lợi càng to. Vì vậy,
mỗi một người quốc dân phải tẩy sạch cái thói: khi thì quá lạc

166
TẬ P 4 : 1946 - 1950
quan, khi thì quá bi quan. Phải tẩy sạch cái chứng cầu yên, gặp
sao hay vậy, muốn ăn quả mà biếng trồng cây.
Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự
cường mới tự do. Đã đoàn kết, ta phải đoàn kết chặt chẽ rộng
rãi thêm. Đã cố gắng, ta phải hăng hái mà cố gắng mãi. Mỗi một
người phải lấy việc xung phong trong phong trào Thi đua ái 1948
quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của mình, phải cố làm cho được.
Như vậy, thì kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc
nhất định thành công”.
- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng
Bộ trưởng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.551-554.

Tháng 6, ngày 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc14. Lời
kêu gọi nêu rõ mục đích, phương châm và khẩu hiệu của Thi
đua ái quốc, những nội dung thi đua cụ thể cho từng giới đồng
bào và hô hào mọi tầng lớp nhân dân ai cũng thi đua, ai cũng
tham gia kháng chiến và kiến quốc.
Người tin tưởng: “Với tinh thần quật cường và lực lượng
vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của
nhân dân và quân đội ta, chúng ta có thể thắng lợi, chúng ta
nhất định thắng lợi”.
Cùng ngày, Người gửi thư khen:
- Chiến sĩ Trần Văn Diên (tỉnh Nam Định) về thành tích
giết giặc, đánh địa lôi, diệt xe ôtô, xe tăng của địch và tặng anh
danh hiệu Anh hùng địa lôi.
- Cụ Nguyễn Văn Đản (xã Chí Minh, huyện Duyên Hà, Thái
Bình) về thành tích “thi đỗ thứ nhất trong giới phụ lão”, và
“mong cụ làm kiểu mẫu cho đồng bào trong tỉnh” trong cuộc
Thi đua ái quốc.

167
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Chị Phạm Thị Phượng (xã An Ninh, huyện Kiến Xương,


Thái Bình) “đã đỗ thứ nhất trong tỉnh”. “Mong cháu cố gắng
học thêm, và trong cuộc Thi đua ái quốc cháu cũng ra sức xung
phong như trong việc học bình dân học vụ”.
- Chị Phạm Thị Tỵ (xã Hợp Tiến, huyện Vũ Tiên, Thái Bình)
“thi quốc ngữ đỗ thứ nhì”. “Mong cháu cùng các chị em xung
phong trong cuộc Thi đua ái quốc, làm cho nổi tiếng phụ nữ
Thái Bình”.
- Bản gốc bút tích các bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản gốc Thư khen chiến sĩ Trần Văn Diên lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.555-558, 561-563.

Tháng 6, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với Hội nghị
cán bộ lần thứ năm và ở lại đây hai ngày.
- Nhật ký Vũ Kỳ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 198-SL, ấn định thủ
tục thiết lập hoặc sửa đổi địa giới các đơn vị kháng chiến
hành chính xã, huyện, tỉnh, thành phố, liên khu, trong thời
kỳ kháng chiến.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, trước ngày 14


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh em thương binh Trại
An dưỡng Liên khu X.
“Cảm ơn các chú đã gửi chè biếu tôi. Chè ngon lắm, vì tự
các chú đã sản xuất được. Tôi rất vui lòng, các chú hăng hái

168
TẬ P 4 : 1946 - 1950
tham gia cuộc Thi đua ái quốc, quyết chí đi đến tự cấp tự túc.
Tôi chắc các chú sẽ thành công”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.560.

Tháng 6, ngày 14
1948
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ
để đánh giá công việc của các bộ từ sau ngày kháng chiến, đặc
biệt là sự phối hợp chương trình hoạt động giữa các bộ.
Phát biểu tại cuộc họp, Người lưu ý về tình trạng thiếu sự
phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, cần khắc phục thiếu sót đó theo
nguyên tắc: tổ chức hợp lý, chỉ đạo hợp lý và thi hành hợp lý.
Chiều, Người dự bữa cơm do ông Võ Nguyên Giáp tổ
chức tại nhà riêng để mừng ông Phạm Ngọc Thạch mới đi
công tác về.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.372.

Tháng 6, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Bằng khen tặng cho bảy đơn vị,
tập thể và cá nhân1).
- Bản chụp Công văn số 1545 (tháng 6-1948) của Văn phòng
Chủ tịch Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) 1- Nhân dân, cán bộ bình dân học vụ xã Nghĩa Dân (Quảng Ngãi).
2- Ông Vương Kiêm Toàn, phụ trách Bình dân học vụ Khu X.
3- Tiểu đội lão thành Điền Lữ (Lạng Sơn).
4- Ông Hoàng Lao Tả ở Tú Lệ (Yên Bái).
5- Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Chủ tịch Hội Văn hóa kháng chiến.
6- Ông Phạm Phú Tiết, Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Nam
Trung Bộ.
7- Ông Trương Quang Hỷ, công đoàn hỏa xa Trung Bộ (B.T).

169
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 6, ngày 16
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Hội đồng liên
bộ. Một trong những vấn đề được bàn nhiều là biện pháp đối
phó với chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Xuân và thái độ đối với
Vĩnh Thụy.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.372.

Tháng 6, ngày 19
Nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, Chủ tịch Hồ
Chí Minh gửi thư cho các cán bộ và chiến sĩ, biểu dương
những cố gắng tiến bộ của bộ đội trong mùa “luyện quân
lập công” vừa qua. Những đơn vị có thành tích xuất sắc nhất
được Người nêu tên cụ thể. Người còn nhắc đến những đóng
góp của các đội du kích, phụ lão, phụ nữ, các cháu liên lạc
“đã làm cho thế giới biết rằng: người già, đàn bà và trẻ con
Việt Nam đều là những chiến sĩ yêu nước và dũng cảm, tranh
đấu hy sinh cho Tổ quốc”, và căn dặn mọi người “phải tiếp
tục tiến bộ mau hơn nữa, nhiều hơn nữa”, “phải thi đua nhau
đánh những trận to lớn hơn nữa, giết nhiều giặc, cướp nhiều
súng hơn nữa”.
Trong ngày, Người dự Lễ kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến,
cũng là Lễ phát động Thi đua ái quốc. Tại buổi lễ, Người nói
chuyện về tình hình, nhiệm vụ, giải thích về thi đua.
- Báo Vệ quốc quân, số 25, ngày 19-6-1948.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.564-565.

Tháng 6, ngày 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen đồng bào xã Giới Xuân
(Gia Định, Nam Bộ) về thành tích đã thanh toán xong nạn mù
chữ. Người mong các xã khác cố gắng noi gương Giới Xuân:

170
TẬ P 4 : 1946 - 1950
“Chúng ta cần phải đánh tan giặc dốt, cũng như đánh tan giặc
ngoại xâm”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.566.
1948
Tháng 6, trước ngày 22
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các khu về việc tổ chức
kỷ niệm 1.000 ngày chiến đấu của đồng bào miền Nam.
Bức thư có đoạn:
“Để nhớ đến bao nhiêu chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ và
miền Nam Trung Bộ đã bỏ mình vì nước trên bãi chiến trường
hoặc dưới sự tàn sát của quân giặc; để ghi công những chiến
sĩ đã tiên phong giữ vững nền độc lập và thống nhất của nước
nhà, toàn quốc sẽ long trọng kỷ niệm 1.000 ngày chiến đấu
của đồng bào miền Nam.
“Nhân dịp ấy, Chính phủ sẽ tuyên dương công trạng và
thăng thưởng các chiến sĩ miền Nam đã có công đặc biệt với
nước nhà. Các khu cần báo cáo gấp để Chính phủ xét”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.567.

Tháng 6, trước ngày 26


Nhân dịp Hội nghị kinh tế lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết thư gửi Hội nghị, nhấn mạnh:
“Chúng ta kháng chiến về mọi mặt. Kinh tế là một mặt trận
rất quan trọng.
Chúng ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kinh tế lại là một
ngành hoạt động tối quan trọng.
Bây giờ chúng ta phải có một nền kinh tế kháng chiến. Nền
kinh tế đó làm cơ sở cho nền kinh tế kiến quốc.

171
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Vì vậy chúng ta phải có chương trình kế hoạch kinh tế rất


thiết thực. Chúng ta phải làm cho “Thực túc binh cường”. Khi
đã có kế hoạch đó, thì chúng ta phải cố gắng thực hiện cho
kỳ được”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.568.

Tháng 6, trước ngày 30


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào các tỉnh có đê,
nhắc nhở mọi người phải coi việc giữ vững đê điều để chống
giặc lụt cũng là công việc kháng chiến, và mong đồng bào sẽ
quyết tâm vượt qua mọi khó khăn.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.569-570.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn ông Hướng Tề đã
biếu Người gói thuốc bổ và mong ông trong cuộc thi đua yêu
nước cố gắng tìm thêm các thứ thuốc cho dân.
- Bản gốc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Hoàng Đạo Thúy - Cục
trưởng Cục Thông tin Liên lạc, Bộ Quốc phòng đề nghị ông làm
Tổng thư ký cho Ban Vận động Thi đua ái quốc Trung ương.
Bức thư viết:
“Gửi ông Hoàng Đạo Thúy.
Lão đồng chí,
Nay có một việc rất quan trọng, cần một người có sáng
kiến, nhiều kinh nghiệm, và tính xốc vác. Tức là việc làm Tổng
Bí thư cho Ban Thi đua Trung ương.

172
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tôi muốn nhờ đồng chí phụ trách việc ấy. Chắc đồng chí sẽ
không từ chối. Vẫn biết bên Quốc phòng và Tổng chỉ huy cũng
cần đồng chí giúp. Song nếu đồng chí bằng lòng, thì tôi sẽ tìm
cách dàn xếp.
Chào thân ái và quyết thắng.
Tháng 6 năm 1948”.
1948
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.559.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen cháu Đặng Phúc Hải,
liên lạc viên huyện đội Kim Môn (Hải Dương), vì thành tích đã
giết được ba tên địch và giải vây cho một số người trong trận
đánh ngày 26-3-1948 ở Kim Môn.
Người tặng cho Đặng Phúc Hải danh hiệu Nhi đồng anh hùng
và căn dặn: “Cháu chớ vì được khen thưởng mà kiêu ngạo tự
đắc. Cháu phải khiêm tốn hơn, phải ra sức học tập thêm, phải
cố gắng để lập công thêm trong cuộc luyện quân lập công mới...
Như thế mới thật xứng đáng là cháu yêu của Bác”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.574.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Vũ Phạm Phổ1), Hội trưởng
Liên Việt huyện Lục Ngạn, Bắc Giang bức thiếp thư sau đây:
“Gửi ông Vũ Phạm Phổ, Hội trưởng Liên Việt Lục Ngạn,
Bắc Giang.

1) Vũ Phạm Phổ, người xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
Trước Cách mạng Tháng Tám, ông làm tri châu, rồi tri phủ Lục Ngạn
(Bắc Giang). Sau cách mạng, nhờ chính sách đại đoàn kết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, ông hăng hái tham gia công tác ở địa phương và đã có
những đóng góp tích cực (B.T).

173
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tôi rất vui lòng được Ủy ban kháng chiến hành chính Liên
khu X báo cáo rằng: Mặc dầu sức yếu, ngài vẫn ra sức giúp việc
kháng chiến, và đã giúp Ủy ban kháng chiến hành chính nhiều
sáng kiến tốt. Tôi mong rằng ngài sẽ cố gắng kêu gọi và giúp đỡ
đồng bào Lục Ngạn trong cuộc Thi đua ái quốc, làm cho huyện
nhà trở nên một huyện kiểu mẫu.
Chào thân ái và quyết thắng
6-1948
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp thiếp thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cụ Vũ Duy Thanh, người
xã Ba Xuyên (nay thuộc xã Dũng Tiến, huyện Thường Tín, Hà
Nội). Người viết:
“Tôi cảm ơn cụ đã gửi cho tôi 500 đồng để làm giải thưởng
cho bộ đội và đã quyên cho xã 50 đồng để thưởng đội du kích
xã, trong cuộc luyện quân lập công. Tôi lại cảm ơn cụ đã chịu
khó dạy học cho các cháu trong làng. Lòng tận tụy của cụ rất
là đáng kính. Tôi mong cụ hăng hái kêu gọi đồng bào trong xã
xung phong Thi đua ái quốc”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.572.

Giữa năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban chỉ huy Đoàn Nhạc binh bức
thư dưới đây:
“Gửi Ban chỉ huy Đoàn Nhạc binh,
Dạy dỗ, dìu dắt các em nhỏ là nhiệm vụ của những người
anh lớn tuổi. Đánh đập, sỉ nhục cấp dưới là quân đội của thời
trước. Nay các chú là quân đội của cách mạng rồi, cán bộ,

174
TẬ P 4 : 1946 - 1950
chiến sĩ phải đoàn kết, thương yêu đùm bọc nhau, coi như anh
em ruột thịt một nhà.
Bác cấm các chú từ nay về sau không được có hành động
quân phiệt với các em nhỏ nữa.
BÁC HỒ”1).
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1948
2011, t.5, tr.571.

Tháng 7, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Đảng đoàn Chính phủ để giải
quyết một số việc quan trọng trước khi Hội đồng Chính phủ
họp. Nội dung gồm các vấn đề: thành lập Hội đồng Quốc phòng
tối cao; hợp nhất hai Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy; cử
thứ trưởng tuyên truyền trong Chủ tịch phủ; cho ý kiến về Sắc
lệnh lưu hành đồng “Việt”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.382.

Tháng 7, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Việt Minh đoàn bàn
một số vấn đề sẽ đưa ra thảo luận tại Hội đồng Chính phủ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.382.

Tháng 7, ngày 6
9 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng
Chính phủ để đánh giá tình hình thế giới và trong nước, kiểm

1) Giữa năm 1948, hưởng ứng cuộc thi báo tường của Phòng Tuyên truyền
quân đội, nhạc sinh quân dự thi với tờ Tuổi xanh. Tờ báo đoạt giải nhất
và được Bác Hồ xem. Trong báo có một bức tranh của Nguyễn Thế Vinh
vẽ cảnh một nhạc binh lớn tuổi tát một nhạc sinh quân trong lúc học.
Người đã viết lá thư trên cho Ban chỉ huy Đoàn Nhạc binh (B.T).

175
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

điểm hoạt động của các bộ trong 1.000 ngày kháng chiến; vấn
đề nội chính, ngoại giao, kinh tế; việc thành lập Hội đồng Quốc
phòng tối cao; việc hợp nhất hai Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng
chỉ huy thành Bộ Quốc phòng, cử Bộ trưởng và Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng...
Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng
Quốc phòng tối cao.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.383.

Tháng 7, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 201-SL, về việc thành lập “Ban thi hành chính
sách bao vây kinh tế địch”.
- Sắc lệnh số 202-SL, cử ông Khuất Duy Tiến làm Đặc phái
viên Chính phủ thi hành chính sách bao vây kinh tế địch.
- Sắc lệnh số 203-SL, phong quân hàm Thiếu tướng cho
ông Lê Thiết Hùng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 199-SL, ấn định đơn vị tiền tệ Việt Nam là
đồng “Việt”. Sắc lệnh ghi rõ: “Đồng “Việt” là một đồng vàng cân
nặng 0g375 vàng nguyên chất”.
- Sắc lệnh số 200-SL, về việc trưng tập tất cả các công chức
tòng sự tại các công sở, kể cả các nhân viên Ủy ban kháng chiến
hành chính các cấp.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

176
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 7, ngày 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị giáo dục toàn quốc1).
Người nhấn mạnh đến yêu cầu phải xây dựng một nền giáo
dục kháng chiến và kiến quốc. Muốn vậy, cần phải “sửa đổi
triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp kháng
chiến và kiến quốc”. “Phải có sách kháng chiến và kiến quốc
1948
cho các trường”, “Phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo
nhân tài kháng chiến và kiến quốc”, “Phải đào tạo cán bộ mới
và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến và kiến quốc”,
“Phải có một chương trình để nâng cao thêm trình độ văn hóa
phổ thông của đồng bào”.
- Hồ Chí Minh: Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1972, tr.24-25.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.575-576.

Tháng 7, ngày 15
Nhân dịp 27-7, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi biểu
dương những hy sinh to lớn vì Tổ quốc và đồng bào của các
thương binh, tử sĩ và kêu gọi nhân dân cả nước hãy sẵn lòng
giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ cả về vật chất và
tinh thần để đền đáp lại công ơn đó.
Cùng ngày, Người viết Thư gửi Hội nghị văn hóa toàn quốc
lần thứ hai2), nêu rõ vai trò, nhiệm vụ của văn hóa trong sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc và căn dặn: “Chúng ta cần phải
xây đắp một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân.
Muốn đi đến kết quả đó, tôi thiết tưởng, các nhà văn hóa ta

1) Hội nghị giáo dục toàn quốc họp từ ngày 10 đến ngày 15-7-1948 tại Việt
Bắc (B.T).
2) Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai họp từ ngày 16 đến ngày 20-7-1948
tại Phú Thọ (B.T).

177
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng”. “Các nhà văn
hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để
biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn
để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho
hậu thế”.
Trong ngày, Người còn viết Thư gửi Đội Công an danh dự
Bắc Ninh, khen ngợi anh em về những thành tích đã đạt được
và mong mọi người cố gắng thi đua thực hiện khẩu hiệu “mỗi
ngày lập một chiến công”.
- Bút tích Thư gửi Đội Công an danh dự Bắc Ninh, lưu tại Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.577-579.

Tháng 7, ngày 30
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Giữ bí mật, ký
bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật, số 97.
Bài báo nhấn mạnh: “Chiến tranh thắng hay bại, một phần
lớn do biết giữ bí mật hay không biết giữ bí mật, mà quyết
định” và khẳng định: “Biết giữ bí mật, tức là ta đã nắm chắc
một phần lớn thắng lợi trong tay ta”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.581-582.

Tháng 7, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thăm hỏi và biếu quà ông Bộ
trưởng Bồ Xuân Luật khi nghe tin ông bị ốm.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi báo Vệ quốc quân căn
dặn: “Báo “Vệ quốc quân” phải là người bạn thân thiết của mỗi

178
TẬ P 4 : 1946 - 1950
một chiến sĩ Vệ quốc quân. Vì vậy cần phải đi sát với sự sinh
hoạt và sự phát triển của Vệ quốc quân”. “Mỗi một chiến sĩ Vệ
quốc quân phải là một người bạn thân thiết của báo “Vệ quốc
quân”. Vì vậy phải giúp cho báo “Vệ quốc quân” phát triển”.
- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1975, tr.87.
1948
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.583.

Tháng 7, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho thương, bệnh binh.
Người động viên và khuyên nhủ anh em yên tâm điều trị cho
hồi phục sức khỏe, đồng thời nên tranh thủ học tập để sau này
có thể tiếp tục tham gia công tác giúp ích cho Tổ quốc, “trở nên
người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng
chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.1, tr.226.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.584.

Tháng 8, trước ngày 9


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị quân sự toàn
quốc lần thứ năm1), căn dặn mọi người “sẽ rút kinh nghiệm
đầy đủ, đặt kế hoạch thiết thực cho giai đoạn mới của cuộc
kháng chiến”.
Trong thời gian diễn ra Hội nghị, Người đã đến thăm và nói
chuyện. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tư cách của cán bộ chỉ
huy: “Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là:
Phải: Trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”.
Về công tác của người tướng, Người căn dặn: với kỷ luật,
phải giữ nghiêm từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, thưởng

1) Hội nghị họp trong tháng 8-1948 (B.T).

179
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

phạt phải công minh, “chớ vì ưa ai mà thưởng, ghét ai mà


phạt, ai hẩu với mình thì dùng, ai trực tính nói ngay thì bỏ”;
với binh sĩ, “thì lời ăn tiếng nói, niềm vui, nỗi buồn, quần áo,
nhất nhất phải biết rõ và hết sức chăm nom”, phải đồng cam
cộng khổ; với dân, phải làm cho bộ đội được dân yêu, dân
tin, dân phục; với kẻ thù, tuyệt đối không được khinh địch,
““Sư tử muốn bắt con chuột cũng phải dùng hết sức mới bắt
được” khinh địch thì nhất định sẽ thất bại”; phải biết rõ địch
và phải hết sức giữ bí mật.
- Hồ Chủ tịch với lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.65-67.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.585, 594-596.

Tháng 8, ngày 12
Khoảng 10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự Hội nghị cán
bộ Trung ương lần thứ năm, bàn về việc phối hợp tác chiến
giữa bộ đội chủ lực với dân quân du kích.
Trưa, Người đi thăm phòng ăn của các đại biểu.
Chiều, Người nói chuyện với Hội nghị về hai vấn đề: cán bộ
cần nêu cao tinh thần tự kiểm điểm và phê bình; cán bộ với
vấn đề thi đua ái quốc.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.339.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.140.

Tháng 8, ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Đảng đoàn Chính
phủ, giải quyết một số vấn đề liên quan tới các khu.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.400.

180
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 8, ngày 17
8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Quốc phòng
tối cao.
10 giờ, Người chủ trì phiên họp của Hội đồng Chính phủ để
nghe báo cáo của một số bộ và bàn về các vấn đề: tiếp tế cho
miền ngược, chuẩn bị đối phó cuộc tấn công Thu - Đông của 1948
giặc, công việc của Bộ Tư pháp, việc mở thêm một số trường
chuyên nghiệp, v.v..
Tối, Chủ tịch chủ trì cuộc họp riêng của Hội đồng Quốc
phòng tối cao thảo luận tiếp nguyên tắc tổ chức và quyền hạn,
nhiệm vụ của Hội đồng để hôm sau trình Hội đồng Chính phủ.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.401.

Tháng 8, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội
đồng Chính phủ. Trong lời phát biểu bế mạc, Người đặc biệt
nhấn mạnh ý nghĩa việc Hội đồng Chính phủ thông qua Sắc
lệnh thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 205-SL, ấn
định thể lệ trục xuất ngoại kiều và những trường hợp ngoại
kiều có thể bị trục xuất khỏi Việt Nam.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.401.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 19
Nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư tới đồng bào cả nước.

181
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Bức thư có đoạn:


“Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi
chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân.
Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái
nền tảng dân chủ cộng hòa và thống nhất độc lập. Noi gương
cách mạng 1776 của Mỹ cũng như cách mạng 1789 của Pháp,
theo gót cách mạng 1911 của Tầu, nay cuộc trường kỳ kháng
chiến phải tiếp tục cái nhiệm vụ vẻ vang của Cách mạng
Tháng Tám”.
Cùng ngày, Người tiếp các nhà báo Việt Nam và nước ngoài,
thông báo chính sách của Chính phủ về các vấn đề: hộ đê,
thương binh liệt sĩ và tình hình chiến sự ở một số mặt trận
thời gian gần đây.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 206-SL,
thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao gồm: Chủ tịch Hội đồng
(do Chủ tịch Chính phủ kiêm chức), Phó Chủ tịch Hội đồng
(ông Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Tài chính) và bốn Ủy viên Hội
đồng là các ông Phan Kế Toại (quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ),
Phan Anh (Bộ trưởng Bộ Kinh tế), Đại tướng Võ Nguyên Giáp
(Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy Quân đội quốc
gia và Dân quân Việt Nam) và Tạ Quang Bửu (Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng).
Sắc lệnh ghi rõ nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Quốc
phòng tối cao.
- Tài liệu lưu trữ của Bộ Ngoại giao. Hồ sơ 68 (1945 - 1954), t.2.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 207-SL, cử ông Hoàng Đạo Thúy vào Ban vận
động Thi đua ái quốc Trung ương, thay ông Nguyễn Xiển.

182
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 208-SL, bãi bỏ Điều 2 và Điều 3 trong Sắc lệnh
số 134-SL, ngày 24-7-1946 về phụ cấp hằng tháng cho các ủy
viên Ủy ban hành chính các cấp; ấn định chế độ phụ cấp mới.
- Sắc lệnh số 209-SL, quy định khoản phụ cấp chính hằng
tháng cho các nhân viên công tác ở Văn phòng Chủ tịch Chính
phủ và Văn phòng các Bộ trưởng thay cho những quy định 1948
trong Sắc lệnh số 137-SL, ký ngày 24-7-1946.
- Sắc lệnh số 210-SL, quy định thể lệ bầu thư ký trong Ủy
ban kháng chiến hành chính xã; ấn định thành phần và nhiệm
vụ của Ban Thường vụ Ủy ban kháng chiến hành chính xã.
- Sắc lệnh số 211-SL, ấn định cách chỉ định các ủy viên hành
chính trong Ủy ban kháng chiến hành chính xã, huyện và tỉnh
tại những vùng địch tạm chiếm.
- Sắc lệnh số 212-SL, đặt xã Phúc Hòa (huyện Nghi Lộc) và
xã Xuân Triều (huyện Thanh Chương) thuộc tỉnh Nghệ An.
- Sắc lệnh số 213-SL, cử người tạm kiêm chức Phó Đổng lý
sự vụ Bộ Nội vụ.
- Sắc lệnh số 214-SL, cử Chánh văn phòng Bộ Tổng chỉ huy
kiêm Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 215-SL, quy định những quyền lợi đặc biệt cho
những người nước ngoài có đóng góp vào công cuộc kháng
chiến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Sắc lệnh số 216-SL, đặt ra “Huân chương Kháng chiến” để
thưởng cho những người Việt Nam có công với quân đội hoặc
các tổ chức quốc phòng và kháng chiến. Huân chương Kháng
chiến có ba loại: hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba.
- Sắc lệnh số 217-SL, bổ sung Điều 3 của Sắc lệnh số
180-SL, ngày 30-4-1948 về việc lưu hành và tàng trữ giấy bạc
Đông Dương.
- Sắc lệnh số 218-SL, sửa đổi thuế nhập nội các mặt hàng
ngoại.

183
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 219-SL, về việc đặt “phụ thu kháng chiến”.


- Sắc lệnh số 220-SL, quy định lại giá biểu các loại tem thuế.
- Sắc lệnh số 221-SL, giao quyền cho Bộ trưởng Bộ Kinh tế,
Bộ Nội vụ được phép ban hành những thể lệ đặc biệt hạn chế
sự tự do buôn bán trong nội địa.
- Sắc lệnh số 222-SL, cấm chỉ mọi sự buôn bán với địch.
- Sắc lệnh số 223-SL, sửa đổi Sắc lệnh số 53-SL, ngày 1-6-1947
về tổ chức Ngoại thương Cục.
- Sắc lệnh số 224-SL, sửa đổi Sắc lệnh số 140-SL, ngày
29-2-1948 về thành lập Cục Tiếp tế vận tải.
- Sắc lệnh số 225-SL, cấp 20 triệu đồng cho Cục Tiếp tế
vận tải.
- Sắc lệnh số 226-SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 227-SL và 228-SL, bổ nhiệm hai Phó Đổng lý
sự vụ Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 229-SL, bổ nhiệm Giám đốc mới của Nha
Khoáng chất kỹ nghệ thuộc Bộ Kinh tế, thay thế Giám đốc cũ
được phép từ chức.
- Sắc lệnh số 230-SL, sửa đổi về tổ chức Tư pháp công an.
- Sắc lệnh số 231-SL, sửa đổi Điều 3 của Sắc lệnh số 191-SL,
ngày 16-2-1947 về tổ chức Tòa án binh cấp khu.
- Sắc lệnh số 232-SL, về việc ân giảm cho một số phạm
nhân nhân dịp kỷ niệm lần thứ ba Cách mạng Tháng Tám và
Quốc khánh 2-9.
- Sắc lệnh số 233-SL, bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới Tiểu
học vụ, thay Giám đốc cũ được cử giữ chức vụ khác.
- Sắc lệnh số 234-SL, mở “Trường Y sĩ Việt Nam” để đào tạo
cán bộ y tế cho các cơ quan dân y và quân y.
- Sắc lệnh số 235-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý sự vụ Bộ Canh
nông.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

184
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 8, trước ngày 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giải thưởng tặng một số đơn vị
bộ đội ở Nam Bộ nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến.
Trong số đó có một đơn vị cảm tử quân “đã hoạt động hăng hái
trong trung tâm điểm Sài Gòn, mặc dầu phản động Pháp luôn
luôn khủng bố, chăng rất nhiều lưới để bắt nhân viên Chính 1948
phủ ta”.
- Báo Cứu quốc, số 1019, ngày 21-8-1948.

Tháng 8, ngày 24
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi ông Tôn Thất
Phùng, nhân viên hỏa xa, đã chế được một thứ thuốc chống
bệnh sốt rét. “Thế là ông đã lập được công trong Thi đua ái
quốc”. Đồng thời, Người cũng khen ngợi nhân viên hỏa xa đã
tận tụy làm việc trong hoàn cảnh khó khăn và căn dặn:
“Trong lúc đồng bào không quản lao khổ, anh dũng kháng
chiến để tranh độc lập thống nhất cho Tổ quốc, mỗi người cán
bộ của ta phải thực hành khẩu hiệu cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư, thì kháng chiến nhất định mau thắng lợi”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.586.

Tháng 8, ngày 26
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhi đồng tỉnh Yên Bái.
Người tỏ ý rất vui vì đã nhận được thư của các cháu báo tin
nhiều bạn nhỏ đã tham gia tổ chức Đội và đã biết chữ. Người
mong các cháu “trong năm nay làm cho được hai việc: gắng tổ
chức 10.000 cháu và cháu nào cũng cố học cho biết chữ”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 237-SL,
chuyển huyện Thủy Nguyên (thuộc tỉnh Kiến An) và huyện
Nam Sách (thuộc tỉnh Hải Dương) trước sáp nhập vào Liên

185
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

khu I, nay lại sáp nhập về Liên khu III và các đơn vị tỉnh cũ. Thị
xã và địa phận trường bay Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh nay
sáp nhập vào thành phố Hà Nội và do Liên khu III quản lý về
mọi phương diện.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.587.

Tháng 8, ngày 28
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 238-SL, bổ nhiệm ông Đặng Việt Châu làm
Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu VI, thay
ông Trần Hữu Dực nhận nhiệm vụ khác.
- Sắc lệnh số 239-SL, bổ nhiệm ông Lê Văn Giạng, nguyên
Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu X, giữ chức
Chánh văn phòng Hội đồng Quốc phòng tối cao.
- Sắc lệnh số 240-SL, cử ông Nguyễn Quang Tạo, trợ lý văn
phòng Ủy ban hành chính Bắc Bộ, làm Ủy viên Ủy ban kháng
chiến hành chính Liên khu X, thay ông Lê Văn Giạng nhận công
tác mới.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, trong tháng


Nhận được báo cáo tỉnh Hà Tĩnh có mấy làng xóa xong
nạn mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi và cảm
ơn ông Trưởng ty Bình dân học vụ Hà Tĩnh, các cán bộ trong
Ty và toàn thể nam nữ giáo viên. Người góp thêm một số ý
kiến về công tác bình dân học vụ ở Hà Tĩnh, hứa sẽ có giải
thưởng cho huyện nào có thành tích xóa nạn mù chữ và nhờ
ông Trưởng ty “thông tri cho đồng bào trong tỉnh biết để mọi
người đều cố gắng”.

186
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong tháng, Người còn gửi thư cho đồng bào huyện Quỳnh
Côi (nay thuộc huyện Quỳnh Phụ) tỉnh Thái Bình, khen ngợi
1)

các nam nữ giáo viên cùng toàn thể đồng bào Quỳnh Côi “đã
làm kiểu mẫu trong cuộc đấu tranh chống giặc dốt” và khuyên
đồng bào “cố gắng học thêm nữa cho tiến bộ thêm nữa”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1948
1958, t.I, tr.267-270.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.590-593.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh chị em cán bộ bình
dân học vụ trong dịp phát động thi đua ái quốc. Người căn dặn:
“Các chiến sĩ nam nữ B.D.H.V2) trước đã lập công nhiều. Tôi
mong rằng trong cuộc Thi đua ái quốc, các chiến sĩ sẽ hăng hái
xung phong, diệt cho hết giặc dốt”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.270.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.599.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Trại Nhi đồng nghệ thuật I.
Bức thư viết:
“Gửi nhi đồng nghệ thuật,
Những bài nhạc, bài ca các cháu gửi, Bác đều nhận được cả.
Bác nhớ đã trả lời rồi. Nay nhận được thư các cháu mới gửi,

1) Huyện Quỳnh Côi là huyện đầu tiên trong cả nước đã thanh toán xong
nạn mù chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư, bằng khen và tặng
phẩm (B.T).
2) Bình dân học vụ (B.T).

187
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

biết các cháu đều tham gia Thi đua ái quốc, Bác rất vui lòng.
Bác khuyên các cháu luôn luôn cố gắng cho tiến bộ và chúc các
cháu luôn mạnh khỏe.
Bác hôn các cháu.
Tháng 8 năm 1948
BÁC HỒ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.5, tr.600.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn Đoàn di cư sản xuất
ấp Mỹ Lộc, Thái Nguyên đã gửi biếu Người “một chiếc võng
rất đẹp”.
Người mong mọi người “hăng hái xung phong Thi đua ái
quốc, trước để tự cấp tự túc, sau để giúp sức vào kháng chiến
và xây dựng kinh tế nước nhà, sao cho Đoàn di cư sản xuất ấp
Mỹ Lộc trở nên một đoàn kiểu mẫu”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn Trung đoàn 101
Thừa Thiên đã gửi biếu Người một chiếc khăn. Người mong
“Trong cuộc Thi đua ái quốc, luyện quân lập công này các chú
cố gắng diệt nhiều giặc, cướp nhiều súng hơn, giật cho kỳ được
giải vinh dự mà tôi và Chính phủ đã sẵn sàng khen thưởng”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.598.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn ông Bộ trưởng Bộ
Giao thông Công chính và anh chị em nhân viên bưu điện đã

188
TẬ P 4 : 1946 - 1950
biếu Người một cái máy chuyển điện tự chế tạo được. “Việc đó
tỏ rằng: Nếu ta cố gắng, thì ta sẽ có nhiều thành công tốt đẹp”.
Người mong “toàn thể anh em trong Bộ Giao thông Công chính
sẽ hăng hái xung phong Thi đua ái quốc làm cho mọi người và
mọi việc đều tiến bộ, và làm cho Bộ mình trở nên một Bộ kiểu
mẫu, cả về công việc và về tinh thần”.
1948
- Bản gốc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.597.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bức thư dưới đây cho bác sĩ Trần
Hữu Tước:
“Gửi bác sĩ Tước,
Tôi gửi biếu chú một cái áo. Áo này là do đồng bào biếu
tôi. Chú phải cẩn thận giữ sức khỏe. Tôi đã dặn anh em địa
phương, chú cần gì cứ hỏi họ. Chớ nên câu nệ. Tôi mạnh khỏe
như thường.
Chào thân ái và quyết thắng
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại gia đình bác sĩ Trần
Hữu Tước.

Tháng 9, ngày 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm Độc
lập 2-9-1948.
Người biểu dương sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân mà
nhờ nó “cách mệnh thành công”, “kháng chiến sẽ thắng lợi”,
khẳng định quyết tâm của nhân dân ta “quyết kháng chiến cho
đến thắng lợi cuối cùng” và kêu gọi mọi người “càng gần bước
thắng lợi, con đường kháng chiến càng gay go. Chúng ta càng
phải động viên toàn thể lực lượng tinh thần và vật chất để đẩy

189
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

tới công việc kháng chiến, và để xây đắp nền tảng cho công
việc kháng chiến”.
Cùng ngày, Người gửi thư cho Nam nữ chiến sĩ bình dân học
vụ, khen ngợi thành tích trong ba năm đã thanh toán nạn mù
chữ cho gần tám triệu người và căn dặn mọi người cố gắng thi
đua xóa nhanh nạn mù chữ, tiến thêm một bước mới trong nội
dung dạy đối với đồng bào đã thoát nạn mù chữ.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.274.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.601-605.

Tháng 9, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ.
Sau khi thuật lại âm mưu và thủ đoạn của địch trong cuộc
tấn công lên Việt Bắc, diễn biến chiến dịch, thất bại của địch
và thắng lợi của ta, Người viết: “Đó là nhờ Đức Chúa phù hộ
nước ta mà phạt bọn thực dân hung ác. Hai là nhờ tướng sĩ ta
dũng cảm, đồng bào ta hăng hái... Sau nữa là nhờ ta đã đoán
trước mưu mô của địch để đề phòng sẵn. Vẫn biết địch sẽ tấn
công nhiều lần nhiều nơi nữa, ta còn phải kinh qua nhiều bước
gay go nữa, nhưng với sự phù hộ của Đức Chúa, với sự cương
quyết của dân và quân ta, với sự giúp đỡ của những bậc lão
thành như cụ, thì sớm hoặc muộn ta cũng thắng lợi”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.606-607.

Tháng 9, trước ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn linh mục Thuyết và
đồng bào lương giáo xã Hưng Thái, huyện Trấn Yên (Yên Bái)

190
TẬ P 4 : 1946 - 1950
đã gửi biếu Người cao và mật ong. Người mong, “với sự chỉ
đạo của cụ và các vị thân hào thân sĩ, đồng bào sẽ hăng hái
xung phong Thi đua ái quốc, làm cho xã Hưng Thái thành một
xã kiểu mẫu”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.608.
1948
Tháng 9, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định cử một Phái đoàn của
Chính phủ do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm trưởng đoàn vào
Nam Bộ úy lạo đồng bào và chiến sĩ, kiểm tra các công việc
kháng chiến và hành chính.
Cùng ngày, nhân dịp Phái đoàn Chính phủ vào Nam, Người
viết bốn lá thư, gửi:
- Đồng bào Nam Bộ.
- Các ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, các
tỉnh, quận và xã ở Nam Bộ.
- Các tướng sĩ vệ quốc quân và dân quân du kích Nam Bộ.
- Các cháu nam nữ thanh niên và nhi đồng Nam Bộ.
Các bức thư đều nhiệt liệt ca ngợi tinh thần anh dũng kháng
chiến của đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, các cháu thanh niên, nhi
đồng Nam Bộ và kêu gọi mọi người hăng hái thi đua góp phần
làm cho kháng chiến mau thắng lợi.
Trong ngày, Người còn gửi thư cảm ơn đồng bào Trại sản
xuất Nghệ An đã gửi biếu Người màn, tất, áo. Người mong mỗi
người thi đua với nhau, các trại thi đua với nhau, “như thế
nhất định tiến bộ và thành công”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Tài liệu lưu trữ của Bộ Nội vụ.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.609-616.

191
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 9, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các cháu nhi đồng cả
nước nhân dịp Tết Trung thu.
Cuối thư, Người viết:
“Đến ngày kháng chiến thắng lợi, thống nhất và độc lập
thành công, Bác cháu ta sẽ cùng nhau ăn những Tết Trung
thu tưng bừng vui vẻ. Vinh hoa bõ lúc phong trần. Bác chúc
các cháu vui vẻ, mạnh khỏe và gửi các cháu nhiều cái hôn
Trung thu”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.617.

Tháng 9, ngày 23
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân kỷ niệm ba năm
ngày Nam Bộ kháng chiến.
Người biểu dương quân và dân Nam Bộ trong ba năm qua
mặc dầu hoàn cảnh rất khó khăn, “chẳng những giữ vững, mà
còn phát triển tinh thần đoàn kết và chí khí hy sinh, mà lại
ngày càng thêm mạnh, chẳng những chống cự với giặc, mà còn
chiến thắng giặc”, đánh những trận làm cho địch phải “kinh
hồn mất vía”.
Cùng ngày, trong bài viết Cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách (ký tên X.Y.Z.), đăng trên báo Sự thật số 100,
Người chỉ rõ:
“Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc
đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn
xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn
đi đôi với nhau”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.618-621.

192
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 9, ngày 24
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị về việc tổ chức Ban quân sự
Nam Bộ.
“Tên và thành phần: để phù hợp với hệ thống chung, Ban
quân sự Nam Bộ gọi là Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Nhiệm vụ và quyền hạn trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ:
1948
1. Về làm việc, theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Nghĩa là kế hoạch chủ trương phải đưa ra thảo luận
trong Ban Thường vụ hay Bộ Tư lệnh tùy điều kiện.
2. Chính ủy có quyền quyết định tối hậu. Nhưng trong lúc
dùng quyền ấy, cần trọng uy tín của Tư lệnh và Phó Tư lệnh và
không lấn át sáng kiến chuyên môn”.
- Tài liệu lưu trữ của Bộ Quốc phòng. Hồ sơ 76 (1-48 - 12-48).
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp
và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.139.

Tháng 9, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ để
chuẩn bị nội dung cho phiên họp Hội đồng Chính phủ sắp tới.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.435.

Tháng 9, ngày 28 và ngày 29


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Hội đồng
Quốc phòng tối cao để bàn về kế hoạch thu - đông và
chương trình năm 1949, việc tổ chức bộ máy kháng chiến
hành chính, vấn đề tiếp tế cho Việt Bắc, kế hoạch bảo vệ cơ
quan và mùa màng...
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.436.

193
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 9, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh điều khiển phiên họp của Hội đồng
Chính phủ để nghe báo cáo và thảo luận về tình hình thế giới,
tình hình quân sự và chiến dịch mùa hè, tình hình nội trị, tình
hình kinh tế...
Cuộc họp kéo dài suốt cả ngày cho đến 9 giờ đêm mới nghỉ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.436.

Tháng 9, trong tháng

Nhận được báo cáo cụ Tạ Quang Yên ở Nam Định có tám


người con, sáu người tham gia kháng chiến trong đó bốn
người đã hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất xúc động. Thay mặt
Chính phủ, Người viết thư khen ngợi và tặng cụ Yên tám chữ:
“Một nhà trung hiếu.
Muôn thuở thơm danh”.
Người còn tặng cụ một chiếc áo của đồng bào đã biếu Người.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tháng 9, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội Liên Việt huyện Mỹ
Lộc (Nam Định), khen ngợi về thành tích Hội đã vận động
được 114 người lầm đường trở về với Tổ quốc và mong “Hội
kêu gọi toàn thể đồng bào trong huyện hăng hái xung phong
“Thi đua ái quốc” làm cho Mỹ Lộc tiến lên về mọi mặt và trở
nên một huyện kiểu mẫu”.
- Tài liệu của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Nam Hà.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.623.

194
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 10, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội
đồng Chính phủ.
Phát biểu về vấn đề thi đua, Người nêu rõ: Hiện nay nhiều
người vẫn chưa hiểu rõ về việc thi đua. Phong trào bình dân
học vụ thi đua có kết quả là vì có nhiều cán bộ mà đều là cán bộ
1948
trong dân. Cho nên, trong việc vận động thi đua cần phải tránh
xu hướng “bàn giấy”, “công chức hóa”. Cán bộ thi đua cũng nên
đào tạo như cán bộ bình dân học vụ, lấy người địa phương
mà huấn luyện. Quân đội và nhân viên các cơ quan cũng có
trách nhiệm vận động thi đua. Cần có sự phối hợp thống nhất
chương trình thi đua thì thi đua mới có kết quả rõ rệt.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 2


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội
đồng Chính phủ.
Tối, Người dự liên hoan lửa trại, xem vở kịch vui do anh
em trong trung đội bảo vệ biểu diễn chào mừng Hội đồng
Chính phủ.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.435.

Tháng 10, ngày 3


Hội đồng Chính phủ họp tiếp dưới quyền chủ trì của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Khoảng 9 giờ, Chủ tịch cùng các vị trong Ban Thường
trực Quốc hội và Chính phủ đón Đoàn đại biểu Nam Bộ do

195
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

ông Phạm Hùng làm Trưởng đoàn. Người ra tận ngoài cửa đón
Đoàn, xúc động ôm hôn từng người. Sau đó, Người trực tiếp
nghe ba báo cáo của Đoàn về tình hình quân sự, hoạt động của
Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, tình hình các đoàn thể.
Trưa, Người dự cơm thân mật với Đoàn, thăm hỏi tình hình
từng đại biểu.
Chiều, Người gặp gỡ và nói chuyện với Đoàn trước khi
Đoàn chia về các bộ phận để tìm hiểu công việc.
- Tài liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.437-438.

Tháng 10, từ ngày 4 và ngày 5


Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với Thường vụ Trung ương
Đảng để nghe báo cáo về công tác chính quyền và soạn thảo
một số nghị quyết.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.438.

Tháng 10, từ ngày 11 đến ngày 12


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi một số ý kiến sơ lược về Thi đua
ái quốc tới Hội nghị Thi đua ái quốc họp từ ngày 11 đến ngày
12-10-1948 tại Việt Bắc. Nguyên văn ý kiến được viết như sau:
“Ý kiến sơ lược về Thi đua ái quốc:
Trước nhất cần có cán bộ.
Muốn có cán bộ cần phải huấn luyện.
Cần huấn luyện người địa phương để làm cán bộ địa phương.
Kế hoạch h.l1) sau đây, có thể quá giản đơn, nhưng có thể
làm được. Nguyên tắc nó là: lan ra dần dần. Do 1 làng lan đến

1) H.l: Người viết tắt chữ “huấn luyện” (B.T).

196
TẬ P 4 : 1946 - 1950
3 làng. Do 3 làng lan đến 9 làng, cứ như thế mãi. Thí dụ: Lớp
huấn luyện đầu tiên, với 6 cán bộ ta sẵn có, 2 cán bộ làng ấy, 3
làng xung quanh, 1 làng gởi 2 cán bộ đến huấn luyện = 14 cán
bộ, 4 làng.
H.l xong, 14 cán bộ đó đi làm, trong 4 làng. Trừ làng nơi Ban
huấn luyện, 3 làng kia trong lúc thực hành, mỗi làng phải gọi 1948
3 làng xung quanh mỗi làng gởi 2 cán bộ đến tham gia để học
kinh nghiệm. Thế là lần 2 đã có 32 cán bộ của 12 làng vừa học
vừa làm.
Đến lần 3, 32 cán bộ của 12 làng kia về thực hành mỗi làng
lại gọi 3 làng xung quanh gởi mỗi làng 2 cán bộ đến “tập sự”.
Thế là: 12 làng x 3 làng x 2 cán bộ = 72 cán bộ vừa làm vừa học.
Sau đó thi đua đã lan đến 36 làng.
Trong 72 cán bộ mới, ta sẽ chọn những người giỏi, chừng 7
người, thêm vào 6 cán bộ căn bản của ta, thành nhóm cán bộ
lưu động, để đi giúp đỡ và kiểm tra.
Theo cách đó, thì 1 là Ban T.Ư1) chỉ phải nuôi những cán bộ
lưu động. 2 là đúng nguyên tắc người địa phương làm cán bộ
địa phương. 3 là chắc chắn thiết thực. 4 là có những làng thi
đua với nhau, để làm kiểu mẫu cho các địa phương khác.
Nếu 1 lần huấn luyện là 7 ngày, thì trong một tháng đầu đã
có được 270 cán bộ cho 36 làng. Trừ cán bộ đoàn thể gửi đến,
cán bộ địa phương tự cung cấp lấy, cho nên không tốn tiền.
Tài liệu h.l:
Ngoài tài liệu về thi đua nên cho học nghiên cứu “Người cán
bộ V.M2) xã” và “Hành chính xã”.
Kiểm điểm: Mỗi tháng, nên họp cán bộ trong một huyện để
rút kinh nghiệm.
Ban h.l: Nên lưu động. Lần này ở huyện A, sau ở huyện B v.v.

1) T.Ư: Trung ương.


2) V.M: Việt Minh.

197
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Làm như vậy, lúc đầu thì như hình nhỏ hẹp và lâu chậm.
Nhưng khách quan và thiết thực, mau chóng và rộng khắp.
Cách h.l:
Một ngày lý luận, tiếp đến một ngày thực hành.
Cần có chương trình sắp đặt kỹ lưỡng và thiết thực.
Các giáo viên cần đi sát với học viên.
Tư cách học viên: có uy tín trong làng và có năng lực.
Đoàn thể cần thông tri cho các làng chọn lọc.
- Nội san thông tin tư liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh, số 9,
2005.

Tháng 10, ngày 12


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 241-SL, về việc thành lập “Ban Trung ương
bao vây kinh tế địch”.
- Sắc lệnh số 242-SL, sửa đổi một số điểm trong Chương 1,
Chương 2, Chương 3 của Sắc lệnh số 20-SL, ngày 16-2-1947 về
chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 14


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 243-SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Lao động.
- Sắc lệnh số 244-SL, trích ở Quỹ toàn quốc 30 triệu đồng
và cấp cho Nha Tín dụng sản xuất làm tiền quyên trợ (lần
thứ hai).
- Sắc lệnh số 245-SL, ấn định chế độ phụ cấp mới cho các vị
trong Ban Thường vụ và Thường trực Quốc hội.
- Sắc lệnh số 246-SL, ấn định chế độ phụ cấp mới cho các
vị Bộ trưởng và Thứ trưởng các Bộ và Tổng chỉ huy Quân đội
quốc gia và Dân quân Việt Nam.

198
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 247-SL, cho phép ông Siegfried Idlefeld, kiều
dân Đức, được nhập quốc tịch Việt Nam và lấy tên là Nguyễn
Đức Việt.
- Sắc lệnh số 248-SL, tặng thưởng Huân chương Quân
công hạng Ba cho Thiếu tướng, Cục trưởng Cục quân giới
Trần Đại Nghĩa. 1948
- Sắc lệnh số 249-SL, bổ nhiệm Khu trưởng và Khu phó
Khu IX.
- Sắc lệnh số 250-SL, bổ nhiệm Liên khu phó Liên khu I.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 15


Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Chủ nghĩa cá
nhân, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 101.
Người phê phán một số biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân
và góp ý kiến về cách thức khắc phục căn bệnh nguy hiểm đó.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.624-626.

Tháng 10, ngày 22


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 252-SL, bãi chức Giám đốc Ban Pháp chế Bộ
Lao động của ông Nguyễn Lê Giang.
- Sắc lệnh số 253-SL, chuẩn y để ông Lê Xuân Hưu từ chức
Phó Đổng lý sự vụ Bộ Thương binh và Cựu binh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 29


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi liền hai bức thư “hỏa tốc” cho ông
Lê Văn Hiến báo tin địch đang tập trung quân và sắp nhảy dù.
Người căn dặn nên có kế hoạch cho các cơ quan, nhà máy để

199
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

tránh sự phá hoại của địch và yêu cầu ông Lê Văn Hiến, nhân
danh Hội đồng Quốc phòng tối cao, thảo lời kêu gọi gửi quân
dân cả nước chuẩn bị sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công thu -
đông của giặc.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
2011, t.1, tr.450-451.

Tháng 10, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “thơ riêng” gửi ông Bộ trưởng Bộ
Tư pháp Vũ Đình Hòe.
Nội dung như sau:
“Chú Hòe thân mến,
Việc ân xá, ân giảm ở Thái Bình như thế là xong. Ông Giám
đốc Vũ Văn Huyền đã tỏ ra rất tận tâm với chức vụ thì Chính
phủ nên khen... Nhưng... vừa rồi ông ấy làm quá đáng, thì
chúng ta phải phê bình để giúp ông ấy sửa chữa và tiến bộ.
Ngoài sự phê bình bằng công văn, có lẽ chú nên lấy tình
nghĩa bầu bạn mà nói riêng cho ông ấy biết rõ thái độ của
Chính phủ.
Kính chúc chú, ông cụ mạnh khỏe, hỏi thăm thím và hôn
các cháu”.
- Tạp chí Xưa và Nay, tháng 5-1997.

Tháng 10, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Nguyễn Sơn Hà, đại
biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên:
“Thưa cụ,
Tôi cảm ơn cụ đã gởi biếu tôi 1 chiếc áo mưa do cụ chế ra.
Tôi mong cụ sẽ tìm cách chế áo mưa cho mau, cho nhiều, cho
tốt và rẻ để làm kiểu mẫu cho các nhà công nghệ ta trong cuộc

200
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Thi đua ái quốc. Đồng thời, tôi mong cụ kêu gọi giúp đỡ đồng
bào Thái Nguyên hăng hái xung phong thi đua.
Chào thân ái và quyết thắng
Tháng 10 năm 1948
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại gia đình ông Nguyễn 1948
Sơn Hà.

Tháng 10, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào và chiến sĩ tỉnh
Cao Bằng. Người khuyên đồng bào phải chuẩn bị vườn không
nhà trống, không để cho địch lợi dụng một người nào, một vật
gì. Phải cẩn thận phòng gian, phải giúp đỡ bộ đội, các cơ quan
phải quân sự hóa triệt để, phải luôn luôn gần gũi và giúp đỡ
dân. Quân và dân đều phải hăng hái thực hành Thi đua ái quốc.
- Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.627-628.

Tháng 11, ngày 13


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cụ Hoàng Hữu Kiệt và
các cụ trong Tỉnh hội cứu quốc Quảng Trị.
Bức thư viết:
“Kính gửi cụ Hoàng Hữu Kiệt,
Các cụ đã tuổi cao tóc bạc, mà vẫn hăng hái tham gia kháng
chiến. Thật là xứng đáng với bô lão đời nhà Trần. Thật là lão
đương ích tráng. Một dân tộc mà già trẻ một lòng, kiên quyết
như dân ta thì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất
và độc lập nhất định thành công. Chúc các cụ mạnh khỏe và
sống lâu.
Chào thân ái và quyết thắng
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

201
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 11, ngày 15


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào huyện Cẩm
Xuyên, Hà Tĩnh, khen ngợi đồng bào toàn huyện đã thanh toán
xong nạn mù chữ và kêu gọi mọi người tiếp tục cố gắng hơn
nữa để Cẩm Xuyên trở thành kiểu mẫu trên cả ba mặt trận:
diệt giặc dốt, diệt giặc đói và diệt giặc ngoại xâm.
Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Bệnh tự kiêu, tự ái,
ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 102.
Bài báo có đoạn:
“Mỗi một người và tất cả mọi người chúng ta phải tẩy cho
sạch bệnh tự kiêu, “tự ái”. Đó là hai thứ bệnh rất nguy hiểm
cho đạo đức và công việc.
Thang thuốc thánh để chữa bệnh này gồm có bốn vị là:
a) Thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê
bình mình.
b) Cố gắng sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm.
c) Luôn luôn cố gắng học hỏi để luôn luôn tiến bộ.
d) Thực hành đoàn kết”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.277-278.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.629-633.

Tháng 11, ngày 16


Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Hội đồng Quốc
phòng tối cao để thảo luận về kế hoạch đối phó các cuộc tiến
công quân sự của Pháp.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.459.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.

202
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 11, ngày 17
Chủ tịch Hồ Chí Minh khai mạc và chủ trì phiên họp của Hội
đồng Chính phủ kiểm điểm công tác năm 1948 và bàn chương
trình công tác năm 1949.
Kết thúc phiên họp, Người nhắc nhở phải chú ý vấn đề giữ
bí mật các văn kiện của Nhà nước và hết sức đề cao cảnh giác. 1948
Họp xong, Người ra về ngay mặc dầu đêm đã khuya và
rét mướt.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.1, tr.460.

Tháng 11, ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 254-SL, quy định về tổ chức, nhiệm vụ và
quyền hạn, cách làm việc và sự phân công của tổ chức chính
quyền nhân dân các cấp trong thời kỳ kháng chiến (Hội đồng
nhân dân, Ủy ban kháng chiến hành chính).
- Sắc lệnh số 255-SL, quy định về tổ chức và cách làm việc
của Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính các
cấp trong vùng địch tạm thời kiểm soát hoặc uy hiếp.
- Sắc lệnh số 256-SL, quy định Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
khi xét thấy cần thiết, có thể phát hành “Quân dụng phiếu”
trong thời kỳ chiến tranh.
- Sắc lệnh số 257-SL, cấm chỉ mọi sự tích trữ có tính chất
đầu cơ những hàng hóa cần thiết cho đời sống nhân dân.
- Sắc lệnh số 258-SL, quy định cách tổ chức công an quân
pháp trong thời kỳ kháng chiến.
- Sắc lệnh số 259-SL, ấn định mức sinh hoạt phí tối thiểu
cho một quân nhân mỗi ngày và mức phụ cấp hằng tháng
(hưởng theo cấp bậc).

203
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 260-SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ


Canh nông.
- Sắc lệnh số 261-SL, ấn định mức lương cho những người
không phải công chức đang làm việc tại các cơ quan bộ, kỳ,
khu và tỉnh.
- Sắc lệnh số 264-SL, bổ khuyết về tổ chức Tòa án binh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Ninh Bình,
khen ngợi về thành tích hộ đê. Người mong đồng bào “tiếp tục
và phát triển chí khí xung phong ấy trong phong trào Thi đua
ái quốc để:
Diệt giặc đói,
Diệt giặc dốt,
Diệt giặc ngoại xâm”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.634.

Tháng 11, ngày 22


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 262-SL, bổ nhiệm ông
Trần Hữu Dực làm Đổng lý sự vụ Bộ Nội vụ thay ông Khuất
Duy Tiến được cử làm nhiệm vụ khác.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 28


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cụ Lê Thước, Chủ tịch Ủy
ban tăng gia sản xuất Thanh Hóa, giải thích về lý do của việc
phải giảm tô và ý nghĩa của Nghị định giảm địa tô 25% của
Liên bộ Nội vụ và Canh nông ngày 28-11-1946.

204
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bức thư có đoạn:
“Giảm địa tô 25% đã công bình và lợi cho cả điền chủ lẫn
nông dân, thì không có lẽ gì mà sinh mối chia rẽ; càng không
có lẽ gì mà các điền chủ lại chán nản, hoặc bỏ ruộng không cày.
Lực lượng kháng chiến chống ngoại xâm, một phần là nhờ
giới “hữu sản nông dân”, nhưng một phần lớn cũng nhờ giới 1948
trung nông và bần nông. Người có tiền giúp tiền, người có sức
giúp sức - Thế là đại đoàn kết”.
Cuối thư, Người nhờ cụ Lê Thước giải thích cho những vị
điền chủ nào chưa hiểu thấu đáo.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Trung đội du
kích Kim Thành (Hải Dương), khen ngợi anh em “đánh giao
thông vận tải của địch rất hay, và đã thắng được nhiều trận”.
Người khuyên anh em cố gắng hơn nữa, và hứa sẽ có một
phần thưởng đặc biệt tặng cho đơn vị “mỗi một lần phá được
một đầu tàu xe lửa”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.635, 640-641.

Tháng 11, ngày 30


Bài Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay
của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ký bút danh X.Y.Z.), đăng trên báo
Sự thật, số 103, đề cập đến công tác kiểm tra.
Bài báo chỉ rõ: Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng
lợi, nhưng khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc
thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, việc
lựa chọn cán bộ và do công tác kiểm tra. Nếu ba điều ấy làm
không tốt, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích. Để công việc
kiểm tra đạt kết quả, phải có cách kiểm tra và cán bộ kiểm tra.
“Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc

205
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”. Và “Nếu tổ chức sự kiểm


tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ
gấp mười gấp trăm”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.636-638.

Tháng 11, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư và tặng áo lụa cho Cục trưởng
Cục quân chính Phan Tử Lăng.
Thư Người viết: “Áo lụa này do đồng bào biếu Bác, nay Bác
tặng lại chú. Chúc chú đánh giặc giỏi và tiến bộ nữa”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng.

Tháng 11, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn cụ Kiều Hữu Hỷ1).
Bức thư có đoạn:
“Tôi cảm ơn cụ đã viết thư thăm hỏi tôi. Tôi vẫn được mạnh
khỏe và chắc cụ cũng luôn bình yên.
Tôi rất lấy làm tiếc vì chiến sự chưa được gặp cụ”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Tôn Đức Thắng,
Trưởng ban Vận động Thi đua ái quốc Trung ương, trao đổi về
công tác huấn luyện cán bộ, về cách huấn luyện, về việc khen
thưởng và các danh hiệu thi đua.

1) Cụ Kiều Hữu Hỷ: thân sĩ Liên khu IV, thành viên của Hội giúp binh sĩ bị
nạn, ở Trung Bộ ra để chờ công tác. Cụ viết thư thăm sức khỏe Chủ tịch
và Người đã viết thư trả lời.

206
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Kèm theo thư, Người vẽ sơ đồ một huyện với 64 làng làm
ví dụ để minh họa cụ thể các bước huấn luyện theo gợi ý của
Người trong thư.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1948
2011, t.5, tr.642-645.

Tháng 11, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi đồng bào huyện Phù
Cừ tỉnh Hưng Yên khen ngợi đã thanh toán xong nạn mù chữ.
Người đã chỉ ra, có được thắng lợi vẻ vang đó là do sự sốt
sắng giúp đỡ của các cụ phụ lão, các vị thi hào thân sĩ và các
đoàn thể, các cơ quan, sự hăng hái của toàn thể đồng bào
và sự cố gắng của nam nữ chiến sĩ bình dân học vụ. Sau đó,
Người đã khuyên đồng bào cố gắng tiếp tục học thêm cho
tiến bộ, đồng thời mỗi người xung phong Thi đua ái quốc làm
cho huyện Phù Cừ trở thành huyện kiểu mẫu trong công cuộc
diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm.
- Bản đánh máy lưu tại Văn phòng Chính phủ.
- Bác Hồ với Hưng Yên, Hưng Yên với Bác Hồ, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.52.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.639.

Tháng 11, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi Đội du kích Thủ
đô và những người đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp sức vào
cuộc tấn công đêm 4-11-1948 vào Hà Nội, thực hiện lời thách
thức Thi đua ái quốc với các Đội du kích Sài Gòn, Chợ Lớn,
Huế, Hải Phòng...

207
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Bức thư có đoạn:


“Hà Nội là quả tim quân sự, chính trị và kinh tế của địch. Du
kích Thủ đô và Vệ quốc quân cần phải thường khuấy rối quả
tim của địch cho đến ngày tổng phản công.
Du kích Thủ đô đã oanh liệt lập công lần đầu. Tôi chắc rằng
từ nay du kích Thủ đô sẽ lập công nhiều hơn nữa, to hơn nữa”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.647.

Tháng 11, trong tháng


Được ông Chánh Văn phòng Chủ tịch Chính phủ Phan Mỹ
báo cáo là bác sĩ Đỗ Xuân Hợp gửi biếu Người một quả bóng
chuyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cảm ơn.
Bức thư viết:
“Cám ơn chú đã gửi biếu tôi một quả bóng. Độ này tôi khỏe
hơn lúc ở Thủ đô. Tôi sẽ tập đánh bóng cho khỏe hơn nữa. Các
chú Thi đua ái quốc kết quả như thế nào? Gửi lời thăm thím và
hôn các cháu.
Chào thân ái và quyết thắng”.
- Đỗ Xuân Hợp: “Bác Hồ luôn theo dõi từng bước trưởng
thành của tôi”, in trong Bác vẫn cùng chúng cháu hành
quân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr.96.

Tháng 11, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi đồng bào và nam
nữ giáo viên bình dân học vụ xã Thanh Nông, huyện Lương
Sơn (nay thuộc huyện Kim Bôi), tỉnh Hòa Bình đã thanh toán
xong nạn mù chữ sớm nhất trong huyện.
Bức thư có đoạn:
“Tôi khuyên đồng bào cố gắng học thêm và hăng hái xung
phong Thi đua ái quốc để diệt giặc đói và giặc ngoại xâm, cũng
như đồng bào đã hăng hái diệt giặc dốt vậy.

208
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tôi lại mong đồng bào các xã khác trong tỉnh Hòa Bình cố
gắng thi đua với xã Thanh Nông làm cho tỉnh ta tiến bộ vẻ
vang và mau chóng”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1958, t.I, tr.278.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.646. 1948

Tháng 12, ngày 2


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Cù Huy Cận, góp
ý kiến rất cụ thể và chi tiết về bản “Nội quy kiểu mẫu Quỹ
nghĩa thương”1).
Kết luận, Người viết: “Nói tóm lại: Phải làm Nội quy giản
đơn hơn, thì dân mới dễ hiểu, dễ làm hơn”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc
gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.648-649.

Tháng 12, ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 265-SL, quy định Ủy
ban kháng chiến hành chính Hà Nội là một Ủy ban kháng chiến
hành chính thành phố, thuộc Ủy ban kháng chiến hành chính
Liên khu III.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến
sĩ cả nước nhân kỷ niệm hai năm Ngày toàn quốc kháng chiến.

1) Quỹ do nông dân tự nguyện đóng góp (bằng thóc) trong kháng chiến,
dùng vào mục đích giúp bà con nông dân địa phương gặp khó khăn
vay (B.T).

209
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Phân tích những diễn biến chính trị, quân sự, kinh tế giữa
ta và địch qua hai năm kháng chiến, Người khẳng định:
“NĂM ĐẦU là vất vả,
NĂM THỨ HAI là tiến bộ”
và tiên đoán tình hình cuộc chiến sắp tới:
“NĂM THỨ BA sẽ là năm bước gần đến thắng lợi hoàn toàn”.
Người kêu gọi toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước chớ
chủ quan, khinh địch, hãy hăng hái xung phong thi đua ái quốc
để giành lấy thắng lợi cuối cùng.
Cùng ngày, Người gửi điện tới nhân dân Pháp tố cáo những
hành động “khủng khiếp ngu dại” của thực dân Pháp đã gây ra
trong cuộc chiến tranh “đang giày vò tâm can hai dân tộc” nhằm
mục đích “lừa bịp dân tộc Pháp, chia rẽ dân tộc Việt Nam”.
Bức điện một lần nữa nêu rõ quyết tâm chiến đấu của nhân
dân Việt Nam, và khẳng định “một quốc gia đã nhất định tranh
thủ độc lập tự do cho mình thì nó phải chiến thắng, không gì
cản nổi”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.650-656.

Tháng 12, trước ngày 20


Được tin Giám mục Hồ Ngọc Cẩn từ trần, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gửi điện chia buồn tới Tòa Giám mục Bùi Chu.
Người lấy làm tiếc vì chiến sự không thể về dự đám tang
của Giám mục và đã nhờ Ủy ban kháng chiến hành chính Liên
khu III thay mặt đến dự lễ và chia buồn cùng đồng bào Công
giáo địa phận Bùi Chu.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.657.

Tháng 12, ngày 25


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào Công giáo cả
nước nhân ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh.

210
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bức thư có đoạn:
“Hôm nay, đồng bào lễ Chúa trong một bầu không khí chiến
tranh, vì giặc Pháp còn đang giày xéo trên đất nước ta. Song
rồi đây, thắng lợi sẽ cho chúng ta lễ Chúa long trọng hơn, trong
một bầu không khí vui vẻ và tươi sáng của một nước hoàn
toàn thống nhất và độc lập.
1948
Vậy đồng bào hãy cùng tôi cầu nguyện Chúa cho ngày thắng
lợi sắp tới của dân tộc. Tôi cầu nguyện Chúa luôn luôn ban
phúc lành cho đồng bào”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.658.

Tháng 12, trong tháng


Nhận được quà biếu của gia đình ông Đỗ Đình Thiện, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức thư sau:
“Gửi chú thím Thiện,
Cảm ơn chú thím đã gửi biếu một bộ áo rất đẹp, nhất là cái
gì cũng tự tay mình làm lấy.
Nghe nói các cháu thêu khéo, Bác gửi lời khen các cháu và
hôn các cháu.
Thân ái
12/48
BÁC”.
- Bản gốc bút tích bức thư lưu tại gia đình ông Đỗ Đình Thiện.

Tháng 12, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn Trại dinh điền Sông
Soi đã gửi biếu cam và dặn dò mọi người “phải gắng làm tròn
nhiệm vụ của chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.659.

211
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong năm
Lấy bút danh Lê Quyết Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
cuốn sách nhan đề Một đoạn lịch sử Việt Nam từ 1847 đến 1947.
Đây là một tác phẩm lịch sử trình bày những sự kiện chủ
yếu trong 100 năm, kể từ khi thực dân Pháp bắt đầu thực hiện
âm mưu xâm lược Việt Nam (năm 1847) đến khi chúng đánh
lên Việt Bắc (năm 1947) trong cuộc xâm lăng lần thứ hai. So
sánh hai thời kỳ - “Thời kỳ quân chủ” và “Chế độ dân chủ”, tác
giả chỉ rõ: “Thực dân Pháp cứ lầm tưởng rằng Việt Nam ngày
nay cũng yếu ớt như Việt Nam trong thời kỳ quân chủ, chúng
tưởng rằng, chính phủ dân chủ cũng nhút nhát như triều đình
nhà vua”.
- Lê Quyết Thắng: Một đoạn lịch sử Việt Nam từ 1847 đến
1947, Việt Bắc. Bản sao đánh máy lưu tại Thư viện Quốc gia.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bốn bài thơ chữ Hán: Thu dạ,
Báo tiệp, Tặng Bùi Công, Tặng Võ Công. Nguyên văn các bài thơ
như sau:

THU DẠ
Trù hoạch canh thâm tiệm đắc nhàn,
Thu phong thu vũ báo thu hàn.
Hốt văn thu địch sơn tiền hưởng,
Du kích quy lai tửu vị tàn.
Dịch thơ:

ĐÊM THU
Bàn việc canh chầy mới tạm ngơi,
Gió mưa thu báo lạnh thu rồi.
Còi thu bỗng rúc vang từng núi,
Du kích về thôn, rượu chửa vơi.

212
TẬ P 4 : 1946 - 1950
BÁO TIỆP
Nguyệt thôi song vấn: - Thi thành vị?
- Quân vụ nhưng mang vị tố thi.
Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng,
Chính thị Liên khu báo tiệp thì.
1948
Dịch thơ:

TIN THẮNG TRẬN


Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
- Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.

TẶNG BÙI CÔNG


Khán thư sơn điểu thê song hãn,
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì.
Tiệp báo tần lai lao dịch mã,
Tư công tức cảnh tặng tân thi.
Dịch thơ:

TẶNG CỤ BÙI BẰNG ĐOÀN


Xem sách, chim rừng vào cửa đậu,
Phê văn, hoa núi ghé nghiên soi.
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa,
Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.

TẶNG VÕ CÔNG
Thiên lý công tầm ngã,
Bách cảm nhất ngôn trung!
Sự dân nguyện tận hiếu,

213
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sự quốc nguyện tận trung.


Công lai ngã hân hỉ,
Công khứ ngã tư công.
Tặng công chỉ nhất cú:
“Kháng chiến tất thành công”.
Dịch thơ:

TẶNG CỤ VÕ LIÊM SƠN


Ngàn dặm cụ tìm đến,
Một lời trăm cảm thông.
Thờ dân tròn đạo hiếu,
Thờ nước vẹn lòng trung.
Cụ đến tôi mừng rỡ,
Cụ đi, tôi nhớ nhung.
Một câu xin tặng cụ:
“Kháng chiến ắt thành công”.
- Thơ Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1967, tr.61, 63,
66, 68.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.661-665.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính
Lê Văn Hiến. Bức thư có đoạn: “Chú phải cấp tốc sửa lại việc
phát tiền cho bộ đội ở Khu IV. Tình hình không thể để kéo dài
như thế nữa. Vì sao Nha Ngân chánh không chịu phát tiền, để
bộ đội phải vất vả?”
- Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.660.

214
NĂM 1949

Tháng 1, ngày 1
Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư chúc
mừng năm mới tới toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Trong thư, Người nêu những nhiệm vụ cụ thể đối với chiến
sĩ, đồng bào, các cụ phụ lão, cán bộ, các cháu thanh niên và nhi
đồng trong năm 1949, và kêu gọi “mọi người đều ra sức thi
đua với tinh thần mới lực lượng mới để đưa kháng chiến và
kiến quốc đến nhiều thắng lợi mới và thành công mới”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.1.

Tháng 1, ngày 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh rời xã Trung Trực, huyện Yên Sơn
(Tuyên Quang) chuyển về Lũng Tầu, xã Tân Trào, huyện Sơn
Dương (Tuyên Quang).
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.87.

Tháng 1, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ bế mạc Hội nghị cán bộ Đảng
lần thứ sáu15. Trong lời phát biểu, Người nêu rõ: “Hội nghị có
đủ đại biểu Trung, Nam, Bắc... về dự, đó là một điểm tốt.
Những vấn đề thảo luận thì nhiều, nhưng đều hướng vào
một đường đi: Kháng chiến thắng lợi, xây dựng dân chủ mới
để tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

215
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sau khi đề ra những việc khẩn yếu của Đảng phải làm trong
năm về mặt quân sự, công tác chấn chỉnh bộ máy chính quyền
từ dưới lên trên, về chính sách kinh tế tài chính, việc chỉnh
đốn các đoàn thể quần chúng, Người đặc biệt nhấn mạnh vai
trò của Đảng và đảng viên: “Đảng ví như cái máy phát điện,
các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn
sáng”, “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán
chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến... Đồng chí ta phải học
lấy bốn đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính”. Người căn dặn:
“Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một
người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa
là nghiêm túc và tự giác. Các đồng chí chúng ta cần phải ra sức
giữ gìn kỷ luật sắt của Đảng”.
- Hồ Chí Minh: Vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1970, tr.83-85.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.15-17.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.87.

Tháng 1, ngày 24
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ các đại biểu về họp Hội đồng
Chính phủ.
Cùng ngày, Người tặng Bằng khen cho chị Nguyễn Thị Hợi
(tức Minh Tâm) ở Mai Đà, Hòa Bình “là một cán bộ kiểu mẫu,
đã tổ chức dân chúng chống giặc, lập lại và giữ vững chính
quyền nhân dân ở địa phương”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.12.
- Tỉnh ủy Hà Sơn Bình: Bác Hồ với Hà Sơn Bình, 1990, tr.25.

Tháng 1, ngày 25
Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Hội đồng
Chính phủ.

216
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Đọc báo cáo trước Hội đồng, Người nêu những nhận định
về tình hình và nhiệm vụ chung của năm 1948 và những nhiệm
vụ của năm 1949 về các mặt: nội chính, quân sự, ngoại giao,
dân sinh, văn hóa giáo dục, xã hội, ngân sách; quy định cách
làm việc trong các bộ, các ban của Chính phủ.
Nhận định về tình hình năm 1948, Người chỉ rõ: “Đó là 1949
năm đầu của giai đoạn cầm cự”, năm “đã đặt cơ sở vững vàng
cho sự chuẩn bị tổng phản công thắng lợi của ta”.
Về những nhiệm vụ trước mắt, Người nhấn mạnh vấn đề
phải “củng cố đại đoàn kết”, “vận động nhân dân vùng địch
tạm chiếm đóng tham gia kháng chiến”, “mở rộng công tác
tuyên truyền, củng cố chính quyền nhân dân”, “tăng cường bộ
đội, phát triển dân quân, xây dựng lý luận quân sự”, “xây dựng
lý luận pháp lý dân chủ. Huấn luyện và đào tạo cán bộ tư pháp,
thảo những bộ luật dân chủ”...
Tối, Người dự lễ truy điệu Giám mục Hồ Ngọc Cẩn vừa mới
qua đời.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.13.

Tháng 1, trước ngày 26


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm anh em ở Văn phòng Phủ
Chủ tịch, giữa lúc anh em đang họp bàn việc tổ chức đón Tết
Kỷ Sửu.
Người nói:
- Tết năm nay các chú tổ chức vui thế nào? Đã bàn mục
pháo chưa? Tết phải có pháo chứ!
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Đồng chí Trưởng ban tổ
chức Tết thưa:

217
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Ở rừng thế này, kiếm đâu ra pháo ạ.


Chủ tịch cười, chỉ tay ra rừng nứa bảo mọi người:
- Kia kìa, pháo ở rừng thiếu gì...
Sau khi Người ra về, anh em ra rừng chặt nứa, bó lại thành
những ống ngắn, chuẩn bị cho đêm lửa trại liên hoan Tết.
- Cục Chính trị Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang: Những
ngày được gần Bác, Hà Nội, 1970, tr.51.

Tháng 1, ngày 26
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội
đồng Chính phủ, thảo luận các vấn đề lớn trong chương trình
hoạt động năm 1949.
Tối, Người dự “bữa tiệc” tiễn các đại biểu Nam Bộ và cũng
là bữa “ăn Tết” của Chính phủ. Sau đó, dự lửa trại với khá
nhiều trò vui.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.13.

Tháng 1, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp với Hội đồng Quốc phòng tối
cao, giải quyết một số vấn đề quan trọng và bí mật.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.13.

Tháng 1, ngày 28 (Ba mươi Tết)


Giao thừa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc Tết cán
bộ, nhân viên Văn phòng Phủ Chủ tịch.
Anh em đốt lửa liên hoan. Nứa bén lửa nổ lốp đốp như
pháo.
Chúc Tết mọi người xong, Người lấy cam mừng tuổi mỗi
đồng chí một quả và nói:

218
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Quà Tết của đồng bào tặng Bác, Bác biếu các chú.
- Cục Chính trị Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang: Những
ngày được gần Bác, Hà Nội, 1990, tr.52.

Tháng 1, ngày 29 (mồng Một Tết Kỷ Sửu)


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cán bộ, nhân viên Văn phòng 1949
Phủ Chủ tịch đến chúc Tết. Sau khi nói chuyện về tình hình thế
giới, tình hình kháng chiến trong nước, Người bảo anh em:
- Các chú ra sân chơi bóng chuyền. Bác làm trọng tài cho.
Người giao hẹn:
- Bên nào thắng, Bác thưởng cho mỗi người một điếu thuốc
lá thơm.
Trận đấu diễn ra sôi nổi, vui vẻ. Mãn cuộc, bên thắng xếp
hàng, báo cáo:
- Thưa Bác, chúng cháu thắng ạ.
Bên thua cũng xếp hàng đứng nghiêm:
- Thưa Bác, chúng cháu cũng thắng ạ.
Cả những chiến sĩ không có chân trong hai đội và những
anh em khác trong cơ quan cũng xếp hàng, thưa:
- Thưa Bác, chúng cháu cũng thắng ạ.
Người lắc đầu “chịu” anh em, rồi vui vẻ nói:
- Đúng! Năm nay là năm đại thắng lợi, không ai thua cả! Bác
thưởng tất cả!
- Cục Chính trị Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang: Những
ngày được gần Bác, Hà Nội, 1990, tr.53.

Tháng 1, trong tháng


Được báo cáo về thành tích của Hồng Sinh, nữ du kích xã
Ngũ Lão, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, một mình diệt 16 tên
giặc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư khen ngợi Hồng Sinh và

219
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

khuyên Hồng Sinh “cố gắng thêm, diệt cho được hai lần 16 tên
giặc để lập công trong cuộc Thi đua ái quốc năm nay”.
Người mong “nam nữ du kích Cao Bằng đều cố gắng thi
đua, theo cho kịp Hồng Sinh, diệt cho nhiều giặc, cướp cho
nhiều súng”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.18.

Tháng 1, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các điền chủ huyện Yên
Dũng (Bắc Giang), “rất vui lòng biết rằng đồng bào điền chủ
chẳng những sẵn sàng giảm địa tô 25 phần trăm, mà còn hết
sức giúp tá điền cơm ăn, việc làm”.
Người mong “điền chủ sẽ hăng hái xung phong Thi đua
ái quốc, lãnh đạo sự cải tạo nghề nông, để tăng gia sản xuất
cho nhiều. Như thế thì đã ích quốc, lại lợi dân. Như thế là
chủ điền giúp cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc mau
thành công”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.20.

Tháng 1, trong tháng


Nhân dịp Trường cán bộ, dân quân Lê Bình bế mạc khóa 2,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư căn dặn: muốn đánh thắng giặc,
“trước nhất và mọi việc phải dựa vào nhân dân. Vậy mỗi cán
bộ và mọi chiến sĩ dân quân du kích phải làm cho dân tin, dân
phục, dân yêu”. “Hai là phải tổ chức chặt chẽ, tập luyện hẳn hoi,
chuẩn bị chu đáo. Hễ có giặc là đánh. Đánh khéo, đánh gan,
đánh mạnh, đánh dai, đánh cho tan giặc”.
Người hứa sẽ dành một giải thưởng đặc biệt cho cán bộ,
dân quân nào lập công to nhất trong sáu tháng đầu năm 1949.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.19.

220
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 1, trong tháng
Trong bài Đảng ta, ký bút danh Trần Thắng Lợi, đăng trên
Tạp chí Sinh hoạt nội bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điểm lại
lịch sử phong trào công nhân Việt Nam từ năm 1917 đến việc
đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng phe đa số trong Đảng Xã hội
Pháp thành lập Đảng Cộng sản Pháp năm 19211), tổ chức Hội 1949
Việt Nam Cách mạng Thanh niên năm 1925, thống nhất các
tổ chức cộng sản ở Việt Nam năm 1930, cao trào 1930 - 1931
và Xôviết Nghệ - Tĩnh, cao trào kháng Nhật và vũ trang khởi
nghĩa giành chính quyền năm 1945.
Cuối bài, Người viết: “Năm nay, Đảng ta mới 19 tuổi. Nhưng
suốt 19 năm ấy, năm nào cũng là một năm đấu tranh dũng
cảm. Kinh qua bao nhiêu cơn sóng gió, bao nhiêu bước khó
khăn, càng nhiều gian nan, Đảng ta càng nhiều rèn luyện, càng
thêm vững chắc và rộng lớn. Nhờ chính sách đúng, lãnh đạo
chắc, kỷ luật nghiêm, nhờ tư tưởng thống nhất, mà Đảng ta và
dân tộc ta được những thắng lợi vẻ vang ngày nay.
Tuy vậy, chúng ta tuyệt đối không được tự kiêu, tự đại.
Chúng ta có nhiều thành công, nhưng chúng ta cũng còn
nhiều khuyết điểm. Mỗi đồng chí ta cần phải mạnh dạn và
thành thật kiểm điểm mình, kiểm điểm đồng chí mình...
Sứ mệnh của Đảng ta rất to. Công việc Đảng ta rất nhiều.
Đảng đòi hỏi chúng ta phải làm trọn nhiệm vụ của đảng viên.
Không có vinh dự nào to bằng cái vinh hạnh được làm đảng
viên của Đảng Cộng sản. Vì vậy, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, làm
công việc gì, chúng ta cũng phải kiên quyết làm cho xứng đáng
với vinh hạnh ấy”.
- Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.2-6.

1) Đảng Xã hội Pháp tiến hành Đại hội lần thứ XVIII từ ngày 25 đến ngày
30-12-1920 (B.T).

221
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 1, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp các đồng chí Võ Nguyên Giáp,
Hoàng Văn Thái, Phan Phác nghe báo cáo về việc thành lập cơ
sở ban đầu của Không quân.
Người dặn: “Ta đã định làm cái gì thì phải làm cho được.
Ban đầu chỉ nên là Ban nghiên cứu Không quân thôi”.
- Hàng không dân dụng Việt Nam - Những chặng đường lịch sử,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.30.

Tháng 1, cuối tháng


Nhân đón Xuân Kỷ Sửu, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Thơ
chúc Tết:
Kháng chiến lại thêm một năm mới,
Thi đua ái quốc thêm tiến tới.
Động viên lực lượng và tinh thần.
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.
Người người thi đua,
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.23.

Tháng 1, cuối tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Chính phủ, quân đội và
đồng bào cả nước, gửi Thư chúc Tết đồng bào trong vùng tạm
bị địch chiếm.
Trong thư, Người bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước cảnh
các giới đồng bào vùng tạm chiếm “phải riêng chịu sự lạnh

222
TẬ P 4 : 1946 - 1950
lùng, nhục nhã, cơ cực, tức buồn dưới gót sắt lũ quỷ thực dân
tàn bạo”.
Bức thư có đoạn:
“Tôi rất đau lòng thương xót đồng bào tạm lâm vào hoàn
cảnh ấy, vì lũ thực dân hung ác, nhưng một phần cũng vì tôi,
người phụ trách số phận đồng bào, chưa lập tức xua đuổi 1949
được loài thú dữ và cứu vớt ngay đồng bào ra khỏi địa ngục
thực dân”.
Người trịnh trọng hứa với đồng bào: “Chính phủ và quân
đội ta kiên quyết kháng chiến đến cùng, để tranh lại thống nhất
và độc lập cho Tổ quốc, để mau mau giải phóng đồng bào”.
Người thiết tha khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ, giữ vững
tinh thần, giúp đỡ chiến sĩ ta, sẵn sàng để diệt địch. “Bất kỳ
già trẻ gái trai, mỗi người Việt Nam ở trong vùng tạm bị địch
chiếm phải là người đào mồ chôn quân địch. Sự giải phóng của
đồng bào, một phần do Chính phủ ta phụ trách, mà một phần
cũng ở trong tay đồng bào. Mà ngày giải phóng ấy sẽ không xa”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, t.6, tr.27-28.

Tháng 1, cuối tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư chúc Tết các cháu nhi đồng
toàn quốc.
Người khen ngợi nhi đồng Việt Nam trong những năm vừa
qua có nhiều tiến bộ, nhiều cháu đã oanh liệt hy sinh cho Tổ
quốc, nhiều cháu đã lập chiến công được thưởng huân chương,
hàng nghìn cháu hăng hái giúp việc cho bộ đội và cơ quan, các
cháu đều sốt sắng tham gia Thi đua ái quốc. “Các cháu đã xứng
đáng là dòng dõi Phù Đổng Thiên Vương, Trần Quốc Toản.
Thật xứng đáng là nhi đồng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.29-30.

223
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 1, cuối tháng

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh G.Z., nhan đề
Thêu gấm và cho than đăng trên báo Sự thật, số Xuân Kỷ Sửu.
Với lối viết châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc, tác giả
vạch trần tâm địa của đế quốc Mỹ đối với các bạn “đồng
minh” của mình qua mẩu chuyện về hai chuyến đi Mỹ của bà
Tưởng Giới Thạch. Một chuyến lúc “ông Tưởng đang có thế
lực to lớn”, bà ta đã được người Mỹ đưa lên chín tầng mây,
“đã thêu thêm hoa trên bức gấm đã sẵn đẹp”; và một chuyến
lúc ông Tưởng thất thế, người Mỹ đã đón bà ta “không kèn,
không trống, không tiếp rước, không hoan nghênh, mà chỉ
có lạnh lùng và nhạo báng”... “chẳng ai cho họ một chút than
đỡ rét”.
- Báo Sự thật, số Xuân Kỷ Sửu năm 1949.

Tháng 1, cuối tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của các nhà báo sau
phiên họp đầu năm của Hội đồng Chính phủ1).
Về thái độ của ta đối với Vĩnh Thụy, Người nói: “Ông Vĩnh
Thụy đã trịnh trọng thề trung thành với Tổ quốc, với nhân dân
và Chính phủ. Nếu ông ấy cam tâm buôn dân bán nước, thì ông
ấy sẽ bị tội phản quốc như những kẻ phản quốc khác”.
Được hỏi về tình hình Trung Quốc, Người nói: “Nhân dân
Trung Hoa là một phần nhân dân toàn thế giới. Dân chủ Trung
Hoa thắng lợi, ắt sẽ có ảnh hưởng lớn đến toàn thế giới mà
Việt Nam ta là một bộ phận”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.24-26.

1) Hội đồng Chính phủ họp phiên đầu năm ngày 25-1-1949 (B.T).

224
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 2, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 02-SL, về việc thành lập Trường Cao đẳng
Kỹ thuật.
- Sắc lệnh số 03-SL, bổ nhiệm Phó Cục trưởng Cục Chính trị
Bộ Quốc phòng. 1949
- Sắc lệnh số 04-SL, bổ nhiệm Phó Cục trưởng Cục Tình báo
Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 05-SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Quốc
phòng kiêm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc
gia và Dân quân Việt Nam thay ông Lê Trọng Nghĩa được cử
giữ chức vụ khác.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, sau ngày 2


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của Hãng
thông tấn Anh Reuter gửi ngày 2-2-1949 từ Pari.
Người nêu rõ lập trường của Việt Nam là “không nhìn
nhận” những cuộc đàm phán giữa cựu Hoàng đế Bảo Đại với
Chính phủ Pháp và cho rằng Bảo Đại đã “tự cách chức” tối cao
cố vấn của Chính phủ Việt Nam rồi.
Trả lời câu hỏi về thái độ của Chính phủ Việt Nam đối với
hiện tình Trung Hoa và Chính phủ Trung Hoa tương lai, Người
khẳng định: “Vì điều kiện địa lý, lịch sử, kinh tế, v.v. đã mấy
nghìn năm, dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa như là
bà con thân thích. Chính phủ Trung Hoa nào được nhân dân
Trung Hoa ủng hộ thì Chính phủ Việt Nam sẽ thừa nhận chính
phủ ấy”.
- Tài liệu lưu tại Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.31-32.

225
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 2, ngày 5

Nhận được báo cáo Hà Tĩnh có sáu huyện xóa được từ 85


đến 99% nạn mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Ủy
ban kháng chiến hành chính tỉnh (nhờ Ủy ban kháng chiến
hành chính Liên khu IV chuyển) khen ngợi thành tích nói trên
và động viên nam nữ giáo viên cố gắng thi đua đến cuối tháng 6
cả tỉnh thanh toán xong nạn mù chữ.
Người hứa sẽ có giải thưởng đặc biệt cho tỉnh.
- Bản sao công văn của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ lưu tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, trước ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy nhiệm Phòng Bí thư Văn phòng


Chủ tịch Chính phủ gửi đăng báo lời cảm ơn đồng bào, các
đoàn thể và ngoại kiều đã gửi điện, thư và quà mừng năm mới
tới Người trong dịp Tết Kỷ Sửu1).
- Báo Cứu quốc, số 1162, ngày 9-2-1949.

Tháng 2, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Đội lão quân huyện Nam
Đàn mới được thành lập.
Người góp ý: Đội lão quân cần phải tổ chức quy củ và
công tác thiết thực nhằm vào ba điểm chính: quân sự, kinh tế,

1) Trong dịp Tết Kỷ Sửu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận được 120.541 điện
và thư chúc Tết, trong đó có 1.302 bức thư của đồng bào vùng địch tạm
chiếm, 216 thư của những nhóm người Việt Nam đang trong hàng ngũ
quân địch, 126 thư của ngoại kiều và 37 thư của các hàng binh, tù binh
người Đức, Angiêri, Marốc...
Người cũng nhận được 52.122 quà Tết, trong đó có 3.010 món quà là của
đồng bào vùng địch tạm chiếm.

226
TẬ P 4 : 1946 - 1950
văn hóa. “Nhiệm vụ chính của Đội lão quân là làm cho phong
trào Thi đua ái quốc sôi nổi, rộng khắp, thiết thực, bền bỉ để
làm cho giai đoạn cầm cự mau thắng lợi và để chuẩn bị đầy đủ
cho cuộc tổng phản công”.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh, Ban Nghiên cứu Lịch sử 1949
Đảng Nghệ Tĩnh, 1977, tr.35-36.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.33.

Tháng 2, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:


- Sắc lệnh số 06-SL, ấn định việc chi thu năm 1949.
- Sắc lệnh số 07-SL, cho phép một kiều dân Trung Hoa được
nhập quốc tịch Việt Nam.
- Sắc lệnh số 08-SL, cấm không được bán quá giá tối đa do
Chính phủ quy định những mặt hàng cần thiết cho đời sống
nhân dân và công cuộc kháng chiến.
- Sắc lệnh số 09-SL, ấn định một số nguyên tắc tổ chức
doanh nghiệp quốc gia.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời báo France Soir về việc Bảo
Đại hợp tác với Pháp, về tình hình Trung Quốc và Inđônêxia.
Nói về điều kiện để có thể thỏa mãn nguyện vọng của
nhân dân Việt Nam, Chủ tịch chỉ rõ: “Chỉ có độc lập thật sự
và thống nhất thật sự mới có thể làm thỏa mãn nguyện vọng
Việt Nam”.

227
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Cùng ngày, khi đọc duyệt một tờ truyền đơn địch vận của
ta do Văn phòng Chủ tịch Chính phủ đệ trình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh phê:
“Ta dụ quân Pháp hàng mà bảo nước nó mất, thì không
khéo. Mà như vậy cũng không đúng, vì chỉ có bọn phản động
Pháp chết, chứ nước Pháp dân chủ thì có chết đâu”.
- Bản sao công văn của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ lưu tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.35-36.

Tháng 2, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nam nữ học viên Trường
Y tá Liên khu I, căn dặn:
“Y tá chẳng những là một nghề nghiệp, mà lại là một nghĩa
vụ. Người y tá chẳng những giúp chữa bệnh mà còn phải phổ
biến vệ sinh. Việc giữ gìn và bồi dưỡng sức khỏe của dân tộc,
người y tá phải gánh một phần quan trọng. Vì vậy, y tá là những
chiến sĩ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi.
Những chiến sĩ y tá phải có chí chịu khổ, chịu khó. Phải giàu
lòng bác ái hy sinh”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.34.

Tháng 2, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ông Hồ Đức Thành,
công tác tại Trường Pháp lý, vì đã biên soạn xong cuốn sách
Trung Hoa sử lược.
- Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.37.

228
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 3, đầu tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các chiến sĩ Đường số 5,
khen ngợi thành tích đánh giặc của các chiến sĩ trong năm 1948
và mong rằng: “sang năm 1949,... phải cố gắng thêm, đánh nhiều
hơn, mạnh hơn để lập công to hơn nữa”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1949
2011, t.6, tr.42.

Tháng 3, đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời các câu hỏi của nhà báo Mỹ
Harôn Ixắc (Harold Issac) về cuộc đàm phán giữa Bảo Đại và
Pháp, về triển vọng cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam,
về mối quan hệ Trung - Việt.
Người nêu rõ: nhân dân Việt Nam “không cần biết đến cuộc
“đàm phán” ấy, nhân dân Việt Nam “chắc chắn có thể đánh quỵ
thực dân”... “Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng
của Việt Nam”... “Cũng như các nước khác, tình hình Tàu sẽ ảnh
hưởng đến Việt Nam ít hay nhiều. Ảnh hưởng thế nào thì chỉ
có tương lai mới có thể nói”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.43-44.

Tháng 3, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn
giải quyết một số vấn đề cấp bách, trong đó có vấn đề đối
phó với việc Pháp đưa Vĩnh Thụy về nước và làm rầm rộ để
đánh lừa quần chúng. Một chương trình giải thích để phản
động Pháp và quốc tế thấy rõ thái độ kiên quyết của Chính
phủ, đồng thời cũng để nhân dân khỏi bị mắc lừa, đã được
thông qua.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.28.

229
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, ngày 2 và ngày 3


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội
đồng Chính phủ, bàn các vấn đề về kinh tế, quân sự, chính trị
và tài chính.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.28.

Tháng 3, ngày 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn ngành tơ sợi Trung
ương (Bộ Kinh tế) đã gửi biếu Người “bộ áo dứa”. Người “mong
các bạn xung phong Thi đua ái quốc làm cho ngành tơ sợi phát
triển cho mau, cho tốt, cho nhiều để giải quyết vấn đề mặc cho
đồng bào. Đó là nhiệm vụ của các bạn trong công cuộc kháng
chiến và kiến quốc. Các bạn cố gắng thì quyết thành công”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.38.

Tháng 3, ngày 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 10-SL, cử ông Vương
Kiêm Toàn giữ chức Giám đốc Nha Bình dân học vụ, thay ông
Nguyễn Công Mỹ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 12-SL, về việc trừng trị tội ăn cắp các đồ quân
giới, quân trang, quân dụng trong thời chiến và thời bình.
- Sắc lệnh số 13-SL, về việc Kinh Môn trước sáp nhập vào
Liên khu I, nay lại để thuộc về tỉnh Hải Dương (Liên khu III),
về mọi phương diện.
- Sắc lệnh số 14-SL, ấn định: kể từ ngày 22-12-1948, đổi tên
Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành

230
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; các
Bộ chỉ huy liên khu quân sự đổi tên là Bộ Tư lệnh liên khu; danh
hiệu Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam đổi
tên là Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam;
Liên khu trưởng đổi tên là Tư lệnh liên khu.
- Sắc lệnh số 15-SL, hợp nhất hai xã Phú Thịnh (huyện 1949
Hưng Nguyên) và Nam Cường (huyện Nam Đàn) thành xã
Nam Hưng thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Sắc lệnh số 16-SL, về việc xá thuế điền thổ năm 1948 cho
các huyện thuộc nam phần tỉnh Bắc Ninh: Yên Thành, Gia Lâm,
Lang Tài, Gia Bình, thị trấn Ngọc Thụy.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 15
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Bệnh khẩu hiệu,
ký bút danh G., đăng trên báo Cứu quốc, số 1191.
Sau khi nêu lên tầm quan trọng và vai trò của khẩu hiệu
trong công tác tuyên truyền cổ động, Người phê phán một số
địa phương và một số cán bộ đã mắc “bệnh khẩu hiệu”, biểu
hiện ở chỗ đưa ra quá nhiều khẩu hiệu khó hiểu, không thiết
thực lại dài dòng.
- Báo Cứu quốc, số 1191, ngày 15-3-1949.

Tháng 3, ngày 17
Đọc lá đơn đề ngày 2-3-1949 của một công dân làm nghề
dệt ở xã Hòa Xá, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc
thành phố Hà Nội), khiếu nại về việc bị phạt vì đã đưa một số
vải lên tỉnh Phú Thọ bán, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê như sau:
“Giao địa phương xét lại. Nếu thật là vải họ tự dệt, không phải
hàng lậu, thì phải trả lại tiền cho họ”.
- Bản sao Công văn lưu của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ
lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

231
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, ngày 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 18-SL, cử Trung tướng Nguyễn Bình giữ chức
Tư lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
- Sắc lệnh số 19-SL, cử ông Trần Văn Trà giữ chức Phó Tư
lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
- Sắc lệnh số 20-SL, cử ông Phạm Ngọc Thuần giữ chức
Chính trị ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, trước ngày 26


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phóng viên Hãng Telepress,
Xtanlây Harixơn (Standley Harrisson), về những câu hỏi
liên quan đến điều kiện chấm dứt chiến tranh Việt Nam,
quan hệ giữa Việt Nam với các nước dân chủ nhân dân, v.v.,
Chủ tịch tuyên bố: “Pháp công nhận Việt Nam thống nhất
thực sự và độc lập thực sự thì chiến tranh sẽ lập tức chấm
dứt”. “Nền độc lập của Việt Nam luôn luôn là để củng cố hòa
bình thế giới”, “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước
nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách
thật thà”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.45-56.

Tháng 3, trước ngày 29


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn Liên đoàn lao động
Liên khu I đã biếu Người một thanh kiếm1). Người báo tin đã

1) Đây là thanh kiếm “Quyết thắng” do anh chị em công nhân xưởng Phan
Bôi thuộc Liên đoàn Lao động Liên khu I kính tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong phong trào Thi đua ái quốc (B.T).

232
TẬ P 4 : 1946 - 1950
nhân danh Liên đoàn gửi thanh kiếm đó “làm giải thưởng cho
bộ đội nào ở Nam Bộ lập chiến công to nhất trong năm nay”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.47.

Tháng 3, ngày 30 1949


Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội đồng Quốc phòng tối cao.
Vấn đề lớn là việc chuẩn bị cho Hội nghị kháng chiến hành
chính toàn quốc do Hội đồng Quốc phòng phụ trách.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.37.

Tháng 3, ngày 31

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Hội đồng
Chính phủ. Người đã báo cáo và phân tích tình hình thế giới
và trong nước.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.37.

Tháng 3, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của nhà báo
Mỹ Oantơ Bơrít (Walter Briggs) về những câu hỏi liên quan
đến việc Liên hợp quốc16 can thiệp vào Việt Nam, về Khối liên
hiệp Pháp, về quan hệ với Trung Quốc, v.v..
Đáp lại câu hỏi: Cụ có phải là một người cộng sản nữa
không?, Người nói: “Tôi luôn luôn là một người yêu nước,
tranh đấu cho độc lập và thống nhất thật sự của Tổ quốc tôi”.
- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.39-41.

233
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Nguyễn Sơn Hà, đại
biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên:
“Thưa cụ,
Tôi cảm ơn thư cụ viết ngày 10-3-1949. Tôi rất tán thành
việc cụ treo giải thưởng để khuyến khích thi đua diệt giặc dốt.
Tôi sẵn sàng dành 1 giải thưởng đặc biệt cho huyện nào
trong tỉnh Thái Nguyên thanh toán xong nạn mù chữ trước nhất.
Xin chúc cụ mạnh khỏe và gửi lời chào thân ái và quyết thắng.
Tháng 3 năm 1949
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại gia đình ông Nguyễn
Sơn Hà.

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn ông Vũ Hữu Đủng,
chủ hiệu chè Cộng Hòa, xã Phú Ninh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Định. Bức thư viết:
“Cảm ơn ông đã gửi chè biếu tôi. Nước ta sĩ, nông, công,
thương, binh đều phải Thi đua ái quốc. Tôi mong hiệu của ông
cũng thi đua, chế chè cho ngon, cho tốt, cho nhiều, để giúp sức
phát triển thương nghiệp của nước nhà. Thế cũng là ích lợi
cho kháng chiến và kiến quốc”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.48.

Tháng 3, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc
nhật báo về cái gọi là “Thỏa ước 8-3”­17 ký giữa Pháp và Bảo Đại
và “Nền hòa bình ở Việt Nam” do Bảo Đại đưa lại.
Người vạch rõ âm mưu của thực dân Pháp là muốn đặt lại
chế độ nô lệ ở Việt Nam một lần nữa. Vĩnh Thụy đã làm tay sai

234
TẬ P 4 : 1946 - 1950
cho thực dân Pháp, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam
tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng
sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước
buôn dân. Thứ thống nhất và độc lập giả hiệu chẳng lừa bịp
được ai, ngay cả với nhân dân Pháp và dư luận thế giới. Người
khẳng định: “Lúc nào quân đội thực dân Pháp hoàn toàn rút
khỏi đất nước Việt Nam, thì mới có thống nhất và độc lập”.
1949
“Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của
thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và
thống nhất thật sự”.
- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.49-50.

Tháng 4, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của
Hội đồng Chính phủ, thảo luận thông qua chương trình kinh tế
liên Bộ, kế hoạch quân sự và việc thay đổi nhân sự.
Cùng ngày, Người gửi thư cảm ơn Công đoàn vận tải Sông
Thao (Yên Bái) đã gửi biếu Người một áo trấn thủ rất đẹp.
Người căn dặn: Vận tải là một việc quan trọng cho Chính
phủ và nhân dân. Rất mong mọi người ra sức cố gắng và
thành công.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.37.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.51.

Tháng 4, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Lũng Tầu chuyển đến Khâu Lấu, xã
Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang).
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.88.

235
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 4, ngày 15
Bài Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng, ký bút danh L.T.
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên báo Sự thật, số 109.
Đề cập đến vấn đề phê bình, Người phê phán quan niệm
cho rằng việc phê bình công khai sẽ làm mất uy tín, mất thể
diện của người được phê bình và có thể sẽ bị địch lợi dụng.
Theo Người, nghĩ như thế là “ốm mà sợ thuốc”, là không hiểu
ý nghĩa và sức mạnh của phê bình.
Bài viết có đoạn:
“Một đoàn thể hoặc chính quyền mà che giấu khuyết điểm
của cán bộ mình, là một đoàn thể hoặc chính quyền yếu ớt,
thoái bộ. Đoàn thể và chính quyền có can đảm vạch rõ khuyết
điểm của cán bộ mình, có phương pháp sửa chữa cho cán bộ,
thì oai tín chẳng những không giảm bớt, mà lại thêm cao.
Cán bộ nào không dám công khai thừa nhận khuyết điểm
của mình, e sợ lời phê bình của đồng sự và của nhân dân,
không có can đảm sửa chữa khuyết điểm thì những người đó
không xứng đáng là cán bộ.
Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên
phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự phê bình, chưa đủ. Phải
hoan nghênh quần chúng phê bình nữa, thì sự phê bình mới
hoàn toàn”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.52-54.

Tháng 4, trước ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của báo
Tribune. Về câu hỏi “Khi Việt Nam đã hoàn toàn độc lập, thì
sẽ đối với người Pháp thế nào?”, Người tuyên bố: “Việt Nam
sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người
Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ

236
TẬ P 4 : 1946 - 1950
muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt
Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn. Song nhân dân
Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân phiệt.
Nói cho rõ hơn là: Cũng như những nước độc lập khác cự tuyệt
quân đội ngoại quốc đóng trên đất nước mình, nhân dân Việt
Nam kiên quyết cự tuyệt quân đội Pháp đóng ở Việt Nam”. 1949
- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.55-57.

Tháng 4, trước ngày 21


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Nhà in Vui Sống một cuốn
lịch kèm theo lá thư:
“Gửi anh em Nhà in Vui Sống.
Lịch này là thắng lợi phẩm của anh em du kích Thủ đô biếu
tôi. Tôi gửi tặng anh em. Giải thưởng này rất có ý nghĩa: mỗi
ngày anh em nhớ đến chiến sĩ đang xung phong giết giặc trước
mặt trận. Mỗi ngày anh em phải tiến bộ, phải tranh cho được
một thắng lợi để góp vào thắng lợi chung của kháng chiến và
kiến quốc.
Chào thân ái và quyết thắng
HỒ CHÍ MINH”.
- Báo Cứu quốc, ngày 21-4-1949.

Tháng 4, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 26-SL, sửa đổi thể lệ truy tố tội quan hệ mậu
dịch với vùng địch tạm chiếm.
- Sắc lệnh số 27-SL, thay đổi giá tem thuế biên lai.
- Sắc lệnh số 28-SL, cho phép ông Louis Fan, kiều dân Pháp,
được nhập quốc tịch Việt Nam.

237
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 29-SL, bổ sung Điều 5 Sắc lệnh số 254-SL, ngày


19-11-1948 về điều kiện bầu lại Hội đồng nhân dân tỉnh.
- Sắc lệnh số 30-SL, bác đơn xin ân xá tử hình của một
tội nhân.
- Sắc lệnh số 31-SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Quốc
gia Giáo dục.
- Sắc lệnh số 32-SL, tặng thưởng Huân chương Độc lập
hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba và Huân chương Kháng chiến
hạng Nhất cho một số đoàn thể, cá nhân, cơ quan, nhân dịp kỷ
niệm hai năm kháng chiến toàn quốc1).
- Sắc lệnh số 33-SL, sáp nhập Nha Thống kê, nguyên ở Bộ
Kinh tế, vào Chủ tịch phủ.
- Sắc lệnh số 34-SL, cử ông Nguyễn Thiếu Lân giữ chức
Giám đốc Nha Thống kê trong Chủ tịch phủ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) Được thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất: Liên hiệp công đoàn
Nam Bộ.
- Được thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì: Linh mục Nguyễn Bá
Luật - Phó Chủ tịch Liên đoàn Công giáo Nam Bộ; Cao Triều Phát - Cố
vấn Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Chủ tịch Cao Đài mười
hai phái hợp nhất; Lý Chính Thắng - cán bộ Tổng Công đoàn Nam Bộ;
Nguyễn Văn Tiếp - nguyên Chủ tịch Ủy ban hành chính Mỹ Tho.
- Được thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba: Phạm Văn Chiêu - Chủ
tịch Ủy ban hành chính tỉnh Gia Định; Bửu Doa - công an xung phong
tỉnh Khánh Hoà; Công Khắc Nhân - Phó kiểm soát Bưu điện Trung ương
Hà Nội; Nguyễn Ngọc Thại - thư ký Bưu điện Thuận Hóa.
- Được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất: Nhạc sĩ Văn Cao;
Dương Minh Châu - Ủy ban kháng chiến Tây Ninh; Lê Mua - liên lạc và
trinh sát viên tỉnh Khánh Hòa; Đặng Đình Kỳ - công an viên thành phố
Hà Nội; Trần Văn Tích - công an viên thành phố Hà Nội; Trần Kim Xuyến -
nguyên Phó Giám đốc Nha Thông tin Việt Nam.

238
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 4, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Trường Lục quân Trần
Quốc Tuấn nhân Lễ tốt nghiệp khóa 4 của nhà trường. Người
căn dặn:
“Các chú học rồi. Bây giờ phải hành. Trong lúc hành phải
1949
học thêm mãi.
Nhiệm vụ của các chú là: Giúp đẩy mạnh cuộc cầm cự và
chuẩn bị tổng phản công.
Mong các chú hăng hái thi đua làm tròn nhiệm vụ. Và muốn
làm tròn nhiệm vụ thì ngoài kỹ thuật, còn phải giữ vững đạo
đức của quân nhân là: trí, nhân, tín, dũng, liêm”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tháng 4, ngày 30
Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (1-5), Chủ tịch Hồ
Chí Minh gửi thư chúc mừng đồng bào và chiến sĩ.
Sau khi phân tích ý nghĩa ngày 1-5 ở nước ta, Người nêu
những nhiệm vụ chính của mọi tầng lớp nhân dân (binh, sĩ,
nông, công, thương) trong giai đoạn mới: Giai đoạn đẩy mạnh
cuộc cầm cự và tích cực chuẩn bị tổng phản công.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.58-60.

Tháng 4, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quân nhân học báo1). Bức
thư có đoạn: “Quân nhân phải biết võ, phải biết văn, võ là như
tay phải, văn là như tay trái của quân nhân. Biết võ, biết văn,

1) Tập san chuyên hướng dẫn bộ đội ta học văn hoá, do Cục Chính trị Bộ
Tổng tư lệnh xuất bản mỗi tháng một kỳ tại Việt Bắc, trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp.

239
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

mới là quân nhân hoàn toàn. Muốn biết thì phải thi đua học”.
Người căn dặn:
“Học không bao giờ cùng.
Học mãi để tiến bộ mãi.
Càng tiến bộ, càng thấy phải học thêm”.
Trong tháng, Người còn gửi thư tới đồng bào vùng Hà Nội,
nhờ Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Nội chuyển.
Bức thư có đoạn:
“Đồng bào trong và ngoài Hà Nội đương đầu với giặc Pháp
trước hết, lâu hơn hết.
Vì vậy, mà hy sinh, đau đớn, cực khổ nhiều hơn hết. Mà
cũng trung thành, gan góc, kiên quyết hơn hết”.
Người khuyên đồng bào vùng Hà Nội “trước đã cố gắng,
nay cố gắng thêm; trước đã đoàn kết, nay đoàn kết hơn; tìm
đủ mọi cách để phá hoại giặc, để giúp chiến sĩ ta”. Và tin tưởng
rằng: “Chúng ta chắc thắng, vì chúng ta quyết thắng”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.61-62.

Tháng 4, trong tháng


Theo đề nghị của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc
ở tỉnh Quảng Tây với phía Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng với Trung ương Đảng quyết định dùng bộ đội chủ lực của
quân khu Việt Bắc và bộ đội địa phương hai tỉnh Lạng Sơn, Hải
Ninh (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) mở chiến dịch “Thập vạn
đại sơn”, giúp Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mở rộng
vùng căn cứ Ung - Long - Khâm1).

1) Tên tắt của Ung Châu, Long Châu, Khâm Châu thuộc đất Quảng Tây
(Trung Quốc) (B.T).

240
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người căn dặn các cán bộ chỉ huy tham gia làm nghĩa vụ
quốc tế 10 chữ:
“Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi”.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.148. 1949
Tháng 4, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư trả lời ông Hoàng Phan Kính
và Trần Lê Hữu là cậu và dượng của Người.
Toàn văn bức thư như sau:
“Gởi Ô. Hoàng Phan Kính và Trần Lê Hữu xã Nam Liên,
huyện Nam Đàn.
Kính trả lời cậu và dượng,
1. Tôi rất cảm ơn cậu và dượng đã gửi thư cho tôi.
Tôi chưa về thăm quê được, không phải vì vô tình với quê
hương, nhưng vì lẽ này: Trong lúc giặc Pháp đang giày xéo
trên đất nước ta, thì phận sự của mọi người Việt Nam là “vì
nước quên nhà, vì công quên tư”. Là một người đầy tớ chung
của đồng bào, tôi càng phải như thế. Vì vậy, tôi chưa kịp viết
thư hoặc về thăm.
2. Nhân dân ta vừa đánh đổ chế độ phong kiến mấy nghìn
năm, và phá tan xiềng xích nô lệ gần một thế kỷ, để xây dựng
một nước Việt Nam mới.
Trong lúc lật đổ những tường vách cũ kỹ và đang xây
đắp ngôi lâu đài mới thì chắc không khỏi có những mụn
bào, gạch bể và những thứ ghét rác khác. Chúng ta sẽ quét
sạch dần dần.
Trong lúc kháng chiến và kiến quốc, nhân dân ta có
những thành công to lớn, vẻ vang, nhưng cũng không khỏi
có nhiều khuyết điểm. Chúng ta sửa chữa những khuyết điểm

241
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

ấy dần dần. Chúng ta nhất định sửa chữa được vì chúng ta


quyết tâm sửa chữa.
3. Bổn phận của tôi, Chính phủ cùng các cơ quan, đoàn thể
địa phương, mà cũng là bổn phận của mỗi người dân, là làm
những việc có ích cho đồng bào, cho Tổ quốc.
Vì vậy, tôi và Chính phủ cùng các cơ quan, đoàn thể địa
phương vui lòng nhận những phê bình, sáng kiến, đề nghị của
đồng bào.
Đồng thời, quốc dân thì có bổn phận triệt để thi hành mệnh
lệnh của Chính phủ.
4. Tôi rất mong cậu và dượng cùng các cụ phụ lão, các vị
thân hào, thân sĩ thường giúp tôi và Chính phủ bằng cách gửi
những phê bình, sáng kiến và đề nghị.
Tôi lại mong cậu, dượng cùng các cụ các vị đôn đốc giúp
đỡ đồng bào địa phương xung phong Thi đua ái quốc, làm cho
Nam Đàn thành một huyện kiểu mẫu, Nghệ An thành một tỉnh
kiểu mẫu trong mọi công việc kháng chiến và kiến quốc.
Kính gửi cậu và dượng và nhờ cậu và dượng chuyển đến
thân thích nội ngoại, các cụ các vị và đồng bào trong xã, trong
huyện lời chào thân ái và quyết thắng và cho các cháu nhi đồng
nhiều cái hôn.
Tháng 4 năm 1949
Cháu
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.65-66.

Tháng 4, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị kháng chiến
hành chính. Trong nội dung bức thư, Người nhắc lại vài điểm
chính trong nhiệm vụ khẩn cấp của các Ủy ban kháng chiến

242
TẬ P 4 : 1946 - 1950
hành chính: “Khu này phải thi đua với khu khác, tỉnh này phải
thi đua với tỉnh khác, ra sức động viên nhân lực, vật lực, tài lực
để ráo riết
Đẩy mạnh cuộc cầm cự,
Chuẩn bị tổng phản công,
Ra sức Thi đua ái quốc: Sửa chữa khuyết điểm, phát triển 1949
ưu điểm, để thực hiện cho kỳ được cái khẩu hiệu
Tất cả để chiến thắng”.
Người còn nhấn mạnh: Trong Hội nghị này có sự tham
gia của văn phòng các bộ, do đó, các văn phòng càng thấy
rõ vai trò của Chính phủ, càng hiểu rõ hơn tình hình của địa
phương. Cuối thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hội
nghị này là một cuộc sửa chữa, lau chùi, thêm dầu mỡ, thau
nước cho bộ máy kháng chiến hành chính của ra. Từ nay, các
địa phương sẽ thi đua với nhau, Trung ương sẽ thi đua với
địa phương... Nước ta lại phải thi đua với các nước dân chủ...
Chính phủ Trung ương và các ủy ban kháng chiến hành chính
phải cố gắng để theo kịp các nước bạn về mặt chính trị, kinh
tế, quân sự, v.v..”.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.63-64.

Tháng 4, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng các con ông bà Đỗ Đình
Thiện một cuốn sổ với dòng chữ viết trên trang đầu:
“Bác gửi các cháu nhiều cái hôn, và thưởng quyển này cho
cháu nào thêu giỏi nhất.
4-49
BÁC HỒ”.
- Hiện vật lưu tại gia đình ông Đỗ Đình Thiện.

243
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 5, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh chị em lao động
toàn quốc, biểu dương những đóng góp to lớn của công nhân
Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người tin
tưởng: “Trong thời kỳ đẩy mạnh cuộc cầm cự, chuẩn bị tổng
phản công này,... toàn thể công nhân ta sẽ Thi đua ái quốc hăng
hái gấp bội. Vì công nhân ta hiểu rằng ở nước ta, dân tộc được
giải phóng là bước đầu đi đến giai cấp được giải phóng”.
- Bản gốc lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.67-68.

Tháng 5, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương mở rộng
để thảo luận các đề án chính trị, chính quyền, kinh tế, v.v. sẽ
đưa ra Đại hội Đảng.
Được báo cáo: các sinh viên Trường Đại học Y khoa xung
phong tòng quân, Chủ tịch viết thư gửi sinh viên biểu dương
tinh thần yêu nước của anh em, và hứa sẽ tạo điều kiện công
tác thuận lợi để khỏi bị gián đoạn sự học tập.
Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 36-SL, về việc thành lập
“Quỹ tham gia kháng chiến”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.49.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.69.

Tháng 5, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự Hội nghị Trung ương
mở rộng.

244
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tối, trong buổi lễ mừng sinh nhật lần thứ 60 của cụ Tôn
Đức Thắng, Người tặng cụ Tôn một tên mới: Tôn Tất Thắng,
rồi cùng mọi người ngâm thơ, kể chuyện vui, ra câu đối. Câu
đối được Người khen hay và thưởng thuốc lá:
Giáp phải giải Pháp.
Hiến tài hái tiền1). 1949
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.49.

Tháng 5, ngày 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư khen các đơn vị bộ đội và dân
quân chiến thắng trên mặt trận Lạng Sơn, tiêu diệt các đồn Kỳ
Cùng, Đèo Khách, Ba Sơn, phá cầu Bản Trại, tiêu hủy đoàn vận
tải của địch trong trận Thất Khê.
Bức thư có đoạn:
“Trong công việc đẩy mạnh cuộc cầm cự, chuẩn bị tổng
phản công, các chú bắt đầu như thế là rất tốt, các chú cố gắng
cứ theo đà này mà tiến lên, để tranh lấy thắng lợi to hơn nữa”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 37-SL, đặt
Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Nội trực thuộc Chính phủ
Trung ương.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.70.

Tháng 5, ngày 15
Được báo cáo Hà Tĩnh là tỉnh thanh toán xong nạn mù
chữ sớm nhất trong cả nước, lại có nhiều thành tích đỡ đầu

1) Vế 1, hai chữ “Giáp phải” nói lái đi thì thành “giải pháp”, có nghĩa là Đại
tướng Võ Nguyên Giáp phải quét sạch giặc Pháp.
Vế 2 có nghĩa là Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến có tài kiếm ra nhiều tiền (B.T).

245
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

dân quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen ngợi toàn thể
đồng bào Hà Tĩnh và biểu dương là “tỉnh kiểu mẫu thi đua”.
Người mong quân và dân Hà Tĩnh sẽ đi đầu lập thêm nhiều
chiến công, và các tỉnh khác, “trước hết là Thanh, Nghệ sẽ thi
đua với Hà Tĩnh và sẽ thắng lợi như Hà Tĩnh”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.I, tr.294.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.71.

Tháng 5, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về bản Chương, xã Hùng Lợi,
huyện Yên Sơn (Tuyên Quang), sau một thời gian đi công tác
đến bản Pèo (Thái Nguyên).
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.89.

Tháng 5, ngày 17
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Việt Bắc. Người
cho biết lực lượng địch có chừng ba tiểu đoàn đánh lên Tuyên
Quang, quân ta đã phát triển du kích chiến và địa lôi chiến ở
dọc sông Lô làm chúng bị thương nhiều.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.89.

Tháng 5, trước ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Pháp Action
về thỏa ước giữa Chính phủ Pháp và Bảo Đại, về những nhiệm
vụ chính của Chính phủ Việt Nam, về lập trường của Chính
phủ Việt Nam với Chính phủ Pháp...
Trả lời câu hỏi: “Báo chí Pháp nói rằng, quân đội nhân
dân Trung Hoa hợp tác với quân đội Việt Nam trên biên giới

246
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Việt Nam, có đúng không?”, Người đáp: “Không phải. Nói thế
là sai. Toàn thế giới đều hiểu rằng bọn thực dân có thói quen
bày đặt những tin tưởng tượng để che đậy thất bại của chúng.
Quân giải phóng Trung Hoa đóng cách biên giới Việt Nam hai
đến ba nghìn kilômét. Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ dựa
vào sức mạnh của mình để giành thắng lợi”.
1949
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ Không đề, trả lời ý kiến
của một số cán bộ đề nghị tổ chức lễ mừng ngày sinh của Người.
Bài thơ như sau:

KHÔNG ĐỀ
Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà,
Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già.
Chờ cho kháng chiến thành công đã,
Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta.
- Thơ Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1967, tr.45.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.72, 77-79.

Tháng 5, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi phần thưởng cho ba nhân viên
Ủy ban kháng chiến hành chính các xã: Thanh Trì, Vĩnh Tuy,
Nam Dư Hạ (Hà Nội).
- Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội: Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thủ
đô Hà Nội, Hà Nội, 1985, tr.17.

Tháng 5, sau ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời cảm ơn các vị đại biểu Quốc
hội và đồng sự trong Chính phủ, đồng bào các nơi, các cơ quan,
đoàn thể và bộ đội, kiều bào ở nước ngoài và đồng bào trong
vùng địch tạm chiếm, các cháu thanh niên và nhi đồng, đã gửi
quà, gửi thư, gửi điện đến chúc mừng ngày sinh nhật của Người.

247
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Người hẹn: “Đến ngày toàn quốc ăn mừng hoàn toàn thắng
lợi, trong cuộc kỷ niệm to ấy, tôi sẽ vui vẻ tiếp đồng bào và
chiến sĩ, kèm thêm một kỷ niệm nhỏ là Ngày sinh nhật của tôi”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.80.

Tháng 5, ngày 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 38-SL, duyệt y để thi hành, kể từ ngày 1-1-1949,
Ngân sách toàn quốc tài khóa 1949.
- Sắc lệnh số 39-SL, cho phép Bộ Giao thông công chính
phát hành loại tem thư in hình “Chủ tịch Hồ Chí Minh” với số
lượng phát hành là 3 triệu, giá mỗi tem là 2 đồng.
- Sắc lệnh số 40-SL, về việc cử Ủy viên Ủy ban kháng chiến
hành chính Liên khu I.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 26
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 44-SL, chỉ định ông Lê
Viết Lượng làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Liên
khu IV, thay cụ Võ Liêm Sơn đã từ trần.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 30
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thế nào là Cần, ký bút
danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1255.
Sau lời khẳng định:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

248
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Người phân tích nội dung chữ Cần, mối quan hệ giữa Cần
và Chuyên, siêng năng và kế hoạch, chỉ rõ lười biếng là kẻ địch
của chữ Cần. Bằng những ví dụ sinh động, Người nêu lên kết 1949
quả to lớn nếu từng người, từng nhà và cả nước thực hiện
được chữ Cần.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.117-121.

Tháng 5, ngày 31
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thế nào là Kiệm, ký bút
danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1256.
Kiệm là thế nào? Quan hệ giữa Cần với Kiệm; Kiệm với Cần.
Tiết kiệm bằng cách nào? Muốn thực hành chữ Kiệm phải
chống các thói xấu nào?..., đó là những nội dung chính được
bài báo đề cập tới.
Trong phần kết luận, Người viết:
“Một mặt, chúng ta thi đua Kiệm,
Một mặt, chúng ta thi đua Cần.
Kết quả Cần cộng với Kiệm là: Bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ
ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành
công, nước ta sẽ mau giàu mạnh ngang hàng với các nước tiên
tiến trên thế giới... Cho nên người yêu nước thì phải thi đua
thực hành tiết kiệm”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị dân
quân toàn quốc, góp một số ý kiến về vấn đề dân quân.
Người nhấn mạnh, trong giai đoạn tích cực cầm cự và
chuẩn bị tổng phản công hiện nay, du kích chiến là chính, vì
vậy dân quân phải phát triển mạnh. Cuộc kháng chiến của ta

249
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

là cuộc chiến tranh nhân dân, vì vậy dân quân du kích cần ráo
riết hoạt động và phối hợp chặt chẽ với Vệ quốc quân.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.122-125.

Tháng 5, trong tháng


Nhận được thư của Ban Vận động thi đua ái quốc Trung
ương “xin 8 giải thưởng cho 3 tháng thi đua tích cực cầm cự”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi bên lề bức thư:
“Chỉ có ảnh và áo. Hỏi ông Thúy1) cần thứ gì”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.

Tháng 5, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới lớp học viết báo Huỳnh
Thúc Kháng, góp ý kiến về nhiệm vụ, mục đích, tôn chỉ, đối
tượng, nội dung, hình thức của báo chí, đồng thời chỉ ra những
khuyết điểm về nội dung và hình thức của các báo. Người
khuyên những người làm báo muốn viết báo tốt cần phải như
thế nào và nhấn mạnh: “Báo chí cũng phải thực hiện khẩu hiệu:
Tất cả để chiến thắng!”.
- Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận,
Nxb. Văn học, Hà Nội, 1981, tr.291-292.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.102-103.

Tháng 5, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn các cháu nhi đồng
Đội Thanh Bình (Tổ YS-65) đã gửi thư cho Người.

1) Tức ông Hoàng Đạo Thúy, lúc đó là Tổng thư ký Ban Thi đua ái quốc
Trung ương (B.T).

250
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người mong “các cháu thi đua nhau: hoạt động, lập công,
học tập” và căn dặn: “Các cháu cố gắng lên. Ngày Bác cháu ta
gặp nhau vui vẻ không xa đâu, vì ngày ta hoàn toàn thắng lợi
sắp đến gần”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1949
2011, t.6, tr.74.

Tháng 5, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào các tỉnh có đê,
biểu dương sự cố gắng chung của toàn thể đồng bào, nhờ đó
mà mấy năm liền đã tránh được nạn lụt, vì vậy mà tránh khỏi
nạn đói.
Dự báo năm nay, mực nước có thể to hơn, Người hô hào:
“Đồng bào hãy xung phong thi đua góp công, góp của, đắp đê,
giữ đê” để quyết thắng giặc lụt.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.75.

Tháng 5, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi phụ nữ cứu quốc Cao
Bằng, biểu dương tinh thần thi đua, ủng hộ bộ đội và dân
quân bằng lựu đạn, lương thực, khăn áo, bánh trái, đáng giá
140.000 đồng, nhiều bà cụ và chị em nhịn ăn để nuôi bộ đội.
Người mong toàn thể chị em phụ nữ Cao Bằng, xung phong
Thi đua ái quốc nhằm mục đích để diệt giặc dốt, diệt giặc đói.
Phụ nữ các tỉnh thi đua với phụ nữ Cao Bằng để làm nổi bật

251
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

vai trò vẻ vang của phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến
và kiến quốc.
- Báo Việt Nam độc lập tỉnh Cao Bằng, ngày 17-7-1949.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.76.

Tháng 6, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Khâu Lấu, xã Tân Trào, huyện
Sơn Dương (Tuyên Quang).
Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Thế nào là liêm, ký
bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1257.
Sau khi phân tích những nội dung mới của chữ Liêm và nêu
cụ thể của những hành vi bất liêm cùng tác hại của nó, bài báo
có đoạn:
“Để thực hiện chữ Liêm, cần có tuyên truyền và kiểm soát,
giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên.
Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì
quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà
thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp
“dĩ công vi tư”1).
Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu
mẫu cho dân.
“Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút
lót, thì “quan” dù không liêm cũng phải hóa ra Liêm.
Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm
soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm.

1) Dĩ công vi tư: lấy của công làm của riêng (B.T).

252
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất
kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.89.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.126-128.
1949
Tháng 6, ngày 2
Nhân ngày mở đầu cuộc vận động “Rèn cán chỉnh quân”
(rèn luyện cán bộ chấn chỉnh quân đội), Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư chúc toàn thể quân đội, dân quân và công nhân quốc
phòng hăng hái xung phong thi đua, thành công vẻ vang trong
cuộc vận động này.
Người nhắc nhở: “Sự thành công phần lớn là do cán bộ, vậy
cán bộ phải cố gắng hơn mọi người để làm kiểu mẫu cho mọi
người”.
Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Thế nào là Chính, ký
bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1258.
Bài báo có đoạn:
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn.
Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà”.
“Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần
có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả, mới là hoàn toàn. Một
người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là
người hoàn toàn”.
Người nêu những điều cần thiết để mỗi người thực hiện
được chữ Chính.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.107.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.129-131.

253
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 6, ngày 4
Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Trung
ương, lần lượt thảo luận các đề án về chính trị, dân sự, quân
vận, kinh tế.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.66.

Tháng 6, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp.
Ngày kỷ niệm sinh nhật của Người (19-5), đồng bào các nơi
gửi tới rất nhiều tặng phẩm. Người đem đến hội nghị một số.
Giờ nghỉ, quà ít người nhiều, Người cho “bốc thăm”, có người
trúng bộ quần áo lụa, có người trúng gói trà, người trúng chai
mật ong, v.v.. Không khí vui vẻ mà đầm ấm.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.66.

Tháng 6, ngày 6
Hội nghị Trung ương vẫn tiếp tục dưới sự điều khiển của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.66.

Tháng 6, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 46-SL, chuẩn y cho ông Lê Đức Mai thôi giữ
chức Ủy viên quân sự trong Ủy ban kháng chiến hành chính
miền Nam Trung Bộ và chỉ định người thay thế chức vụ trên.
- Sắc lệnh số 47-SL, hợp nhất hai xã Phong Mai và Phong
Khánh (huyện Phong Điền); hai thôn Phú Ân và Phú Lễ

254
TẬ P 4 : 1946 - 1950
(huyện Quảng Điền) thành một xã lấy tên là xã Phong Chương
thuộc huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên.
- Sắc lệnh số 48-SL, tạm thời tách huyện Lộc Bình ra khỏi
tỉnh Hải Ninh và sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
1949
Tháng 6, trước ngày 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Cứu quốc.
Về tình hình Trung Quốc, Người nêu rõ: “Tưởng Thống chế
thất bại vì không được lòng dân, Giải phóng quân thắng lợi vì
được toàn dân ủng hộ”.
Sau khi cho biết Giải phóng quân Trung Quốc đã đánh
chiếm được những căn cứ trọng yếu ở Hoa Nam như Hàng
Châu, Nam Xương, v.v.. Người tiên đoán: Cứ cái đà ấy thì cuộc
nội chiến Trung Quốc có thể kết liễu trong năm nay.
- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.104-106.

Tháng 6, từ ngày 14 đến ngày 16


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để nhận định về tình hình thế giới, trong nước, bàn một số
vấn đề của các Bộ: Quốc phòng, Tài chính, Nội chính...
Tổng kết phiên họp, Người nhấn mạnh:
a- Mọi việc muốn thành công cần phải trông vào dân. Các
kế hoạch chương trình cần phổ biến cho dân hiểu và vận động
dân tham gia.
b- Cán bộ cần chú ý giúp cho nhân viên quán xuyến công
việc, trông xa và trông rộng, nhìn rõ công việc chung.
c- Trong kế hoạch thi đua của các Bộ, cần phải chú ý việc
tuyên truyền trong dân...

255
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

d- Các Bộ và các cơ quan phải luôn luôn giữ bí mật, quân


sự hóa, chuẩn bị tinh thần và vật chất để sẵn sàng đối phó với
mọi chuyển biến của thời cuộc.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.68.

Tháng 6, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 49-SL, ban hành Bộ luật thuế trực thu áp dụng
trong cả nước kể từ ngày 1-1-1950.
- Sắc lệnh số 50-SL, về tổ chức của Bộ Quốc phòng. Sắc lệnh
ghi rõ nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, các cơ quan của Bộ Quốc
phòng, Bộ Tổng tham mưu và các Cục.
- Sắc lệnh số 51-SL, bổ nhiệm Đổng lý quân vụ Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 52-SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 53-SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Quốc
phòng kiêm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh, thay ông
Nguyễn Thương được cử giữ chức vụ khác.
- Sắc lệnh số 54-SL, cử ông Phan Phác, nguyên Cục trưởng
Cục Quân huấn, làm Quyền Tổng tham mưu phó Bộ Tổng
tham mưu.
- Sắc lệnh số 55-SL, cử Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa giữ
chức Giám đốc Nha Quân giới, Đại tá Vũ Văn Cẩn, giữ chức
Giám đốc Nha Quân dược, Đại tá Trần Dụ Châu giữ chức Giám
đốc Nha Quân nhu.
- Sắc lệnh số 56-SL, cử Đại tá Phan Tử Lăng, Cục trưởng
Cục Quân chính kiêm chức Cục trưởng Cục Quân nhu, Đại tá
Lê Khắc giữ chức Cục trưởng Cục Công binh, ông Hoàng Đạo
Thúy giữ chức Cục trưởng Cục Thông tin liên lạc.

256
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 57-SL, cử vào Bộ Chỉ huy Đại đoàn chủ lực1)
các ông:
+ Vương Thừa Vũ giữ chức Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy.
+ Lê Vinh Quốc giữ chức Phó chính ủy.
+ Cao Văn Khánh giữ chức Đại đoàn phó.
1949
- Sắc lệnh số 58-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 241-SL, ngày
12-10-1948, về việc thành lập Ban Trung ương bao vây
kinh tế địch.
- Sắc lệnh số 59-SL, bãi bỏ thể lệ hiện hành về sản xuất
diêm tiêu.
- Sắc lệnh số 60-SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 61-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý sự vụ Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 62-SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 63-SL, quy định: trong năm 1949 vẫn giữ
nguyên các biểu thuế điền thổ và các bách phân phụ thu vào
thuế điền thổ và thuế môn bài đã áp dụng trong năm 1948.
- Sắc lệnh số 64-SL, sáp nhập Nha Địa chính cùng với các cơ
quan phụ thuộc vào Bộ Tài chính.
- Sắc lệnh số 65, bổ nhiệm Phó Đổng lý sự vụ Bộ Tài chính.
- Sắc lệnh số 66-SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Tài chính.
- Sắc lệnh số 67-SL, định nguyên tắc kiểm soát những
nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo quân giới; những hình
thức xử phạt đối với những vụ vi phạm.
- Sắc lệnh số 68-SL, ấn định kế hoạch thực hành các công
tác thủy nông và thể lệ bảo vệ các công trình thủy nông.
- Sắc lệnh số 69-SL, cho phép bị can nhờ một công dân
không phải là luật sư bào chữa.

1) Tức Đại đoàn 308 - Đại đoàn Quân Tiên phong (B.T).

257
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 70-SL, tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng
Ba cho ông Phó Cục trưởng Cục Quân giới Nguyễn Ngọc Xuân.
- Sắc lệnh số 71-SL, bãi bỏ thuế tổng nội sản xuất.
- Sắc lệnh số 72-SL, về việc thành lập Hội đồng Tu luật
(gồm 25 người).
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 27
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 73-SL và Sắc lệnh số
74-SL, ân giảm cho hai phạm nhân đã bị tòa án binh Liên
khu IX kết án tử hình xuống 20 năm khổ sai.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh, với bút danh Lê Quyết Thắng, viết
xong cuốn sách Cần kiệm liêm chính1).
Cuốn sách gồm bốn chương: Cần, Kiệm, Liêm, Chính mà nội
dung đã được Người viết trong bốn bài báo: Thế nào là Cần,
Thế nào là Kiệm, Thế nào là Liêm, Thế nào là Chính, lần lượt
đăng trên báo Cứu quốc các ngày 30-5-1949, 31-5-1949, 1-6-
1949 và 2-6-1949.
Cuối sách, tác giả viết:
“Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt,
Con cháu mình sung sướng,
Gia đình mình no ấm,
Làng xóm mình thịnh vượng,
Nòi giống mình vẻ vang,
Nước nhà mình mạnh giàu.
Mục đích ấy tuy to lớn, nhưng rất thiết thực.

1) Cuốn sách do Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I xuất bản
năm 1949, Nhà xuất bản Sự thật xuất bản năm 1950 (B.T).

258
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Thiết thực, vì chúng ta nhất định đạt được.
Chúng ta nhất định đạt được, vì mỗi người và tất cả dân ta
đều Thi đua: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.115-131.

1949
Tháng 6, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của phóng viên báo
France Tireur về quan hệ giữa Việt Nam với Pháp và Trung
Quốc, về kết quả những cải cách xã hội ở Việt Nam, về bản ký
kết giữa Chính phủ Pháp và Bảo Đại.
Trả lời câu hỏi: “Cụ có sợ Trung Hoa và Liên Xô sẽ thống trị
Việt Nam không?”, Người nói: “Chúng tôi không sợ ai cả. Không
nước nào có thể thống trị được chúng tôi”.
- Trả lời tháng 6-1949. Tài liệu Lưu tại Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.132-133.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị thi đua ái quốc.
Sau khi biểu dương “phong trào khá cao và rộng, bộ đội,
đoàn thể, cơ quan và nhân dân hăng hái. Nhiều đơn vị đã có
kết quả khá”, Người nhận xét: “Tổ chức và lãnh đạo còn kém,
không phát triển được hết sáng kiến và năng lực của quần
chúng. Cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành, các đoàn thể, các
địa phương thiếu sự phối hợp với nhau, thiếu sự tổng kết kinh
nghiệm và trao đổi kinh nghiệm”.
Người mong Hội nghị bàn cách sửa chữa những khuyết
điểm ấy và mỗi cán bộ, mỗi người dân, mỗi ngành đều ra sức
thiết thực thi đua với tinh thần chuẩn bị tổng phản công.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.134.

259
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng nhà thơ Tú Mỡ một cuốn sổ
tay bọc da gáy vàng, chiến lợi phẩm của anh em bộ đội kính
biếu Người.
Trang đầu cuốn sổ, Người viết:
“Tặng Bút Chiến Đấu1)
Tháng 6-1949
HỒ CHÍ MINH”.
- Báo Cứu quốc, ngày 12-9-1949.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Ủy ban kháng chiến hành
chính liên tỉnh Sơn - Lai2) tấm ảnh chân dung Người.
Người ghi trên tấm ảnh:
“Gửi Ủy ban kháng chiến hành chính Sơn - Lai.
Thi đua thực hiện
Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Chí công vô tư”.
Người còn gửi thư tới toàn thể đồng bào, các cơ quan, đoàn
thể và cán bộ liên tỉnh Sơn - Lai.
Bức thư có đoạn: “Sơn - Lai tuy ở xa Chính phủ, nhưng lòng
Chính phủ vẫn gần Sơn - Lai. Chính phủ biết rằng: Nhân dân
Sơn - Lai đoàn kết và trung thành. Các cơ quan và đoàn thể
gần gũi dân chúng. Các cán bộ cố gắng và tận tụy. Nam nữ dân
quân du kích hăng hái diệt giặc lập công”.
Người nhắc nhở đồng bào Sơn - Lai “đã cố gắng, nay phải
cố gắng thêm, Thi đua ái quốc, tăng gia sản xuất, cố gắng học
tập, ra sức đánh giặc, đẩy mạnh cầm cự chuẩn bị tổng phản
công. Tất cả để chiến thắng”.

1) Một bút danh của nhà thơ Tú Mỡ (B.T).


2) Sơn - Lai: Sơn La và Lai Châu (B.T).

260
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Cuối thư, Chủ tịch tái bút: “Tôi gửi lời riêng hỏi thăm các cụ
phụ lão và hôn các cháu nhi đồng”.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La.

Khoảng giữa năm


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Chuẩn bị thu đông cho 1949
nhân dân và bộ đội, nói về những công việc phải làm ngay
để nhân dân và bộ đội đủ ăn, chuẩn bị đánh giặc trong mùa
thu đông này.
- Bản gốc lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu
tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.136-139.

Tháng 7, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 75-SL, quyết định sung
vào tài sản Nhà nước “những ruộng đất và tài sản phụ thuộc
tịch thu của những phạm nhân bị kết án về các tội làm phương
hại đến nền độc lập quốc gia”.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 5 và ngày 6


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Hội đồng
Quốc phòng, bàn giải quyết cấp tốc một số vấn đề về quân sự
và kinh tế.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.74.

Tháng 7, ngày 8
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Trở lại vấn đề
thi đua ái quốc, ký bút danh H.G., đăng trên báo Cứu quốc, chi
nhánh Thủ đô, số 14.

261
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Người nêu câu hỏi: “Đồng bào Thủ đô chúng ta có thể thi
đua được không, và phải thi đua thế nào?”. Trong lời giải đáp,
Người nhấn mạnh: đồng bào Thủ đô cần “Thi đua giết giặc, trừ
gian, phá tề. Thi đua phá hoại giặc, phá từ cái nhỏ đến cái to,
phá nhà máy, công sở, các cơ quan quân sự, kinh tế, chính trị
của địch và bù nhìn... thi đua gia nhập các tổ chức kháng chiến,
giúp đỡ chiến sĩ”...
- Báo Cứu quốc, chi nhánh Thủ đô, số 14, ngày 8-7-1949.

Tháng 7, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 78-SL, quy định mức giảm địa tô là 25% so
với mức địa tô trước ngày 19-8-1945, và cho phép thành lập
tại mỗi tỉnh một Hội đồng giảm tô để xét những việc khiếu nại
về giảm tô.
- Sắc lệnh số 79-SL, ấn định chế độ thuế trực thu tạm thời
áp dụng đối với ngoại kiều cho đến khi có lệnh mới.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 80-SL, chỉ định người
làm ủy viên trong Ủy ban kháng chiến hành chính thành phố
Hà Nội.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, trước ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của Hãng thông tấn
Ăngtara (Inđônêxia) về các vấn đề liên quan đến Đảng Việt
Minh, đến những chính sách của Chủ tịch.
Trả lời câu hỏi: Chủ tịch có cho rằng, Việt Nam và Pháp
có thể thỏa hiệp được với nhau không?, Người nói: Có, nếu

262
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Pháp thành thực công nhận độc lập và thống nhất thực sự
của Việt Nam. Trả lời câu hỏi cuối cùng, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nước Việt Nam độc lập muốn hợp tác thân thiện với
tất cả các nước anh em ở châu Á và giữ mối giao hảo với toàn
thế giới”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1949
2011, t.6, tr.140-143.

Tháng 7, ngày 20
4 giờ chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến tham gia họp Đảng
đoàn Chính phủ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.82.

Tháng 7, trước ngày 21


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Bộ trưởng Bộ Thương
binh Cựu binh Vũ Đình Tụng nhân Ngày thương binh 27-7.
Người nhờ Bộ trưởng chuyển lời thăm hỏi tới anh em
thương binh, và gửi tặng anh em một số khăn mặt, quần áo
của đồng bào các nơi gửi biếu Người, cùng một tháng lương
là 1.000 đồng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.162.

Tháng 7, từ ngày 21 đến ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự họp Đảng đoàn.


Ngày 21, trước khi họp, Đảng đoàn làm lễ truy điệu đồng
chí Đimitơrốp. Sau một phút mặc niệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của Đimitơrốp.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.82.

263
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 7, từ ngày 25 đến ngày 27


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp tháng 7 của Hội
đồng Chính phủ để nghe báo cáo về tình hình thế giới và trong
nước, kiểm điểm sự thi hành các nghị quyết của Hội đồng
Chính phủ lần trước, nghe báo cáo quyết định của Hội đồng
Quốc phòng tối cao, và thảo luận các vấn đề về quân sự, nội
chính, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Người đã báo cáo về diễn biến tình hình kinh tế và chính trị
của một số nước tư bản lớn như Anh, Pháp, Mỹ; việc Quân giải
phóng Trung Quốc đang chuẩn bị đánh xuống Hoa Nam và Hội
nghị hiệp thương chính trị Trung Quốc sắp khai mạc.
Về tình hình trong nước, Người nhận định: “Cũng như chim
muốn bay cần phải có hai cánh; một cuộc chiến tranh muốn
thắng lợi cần phải có hai lực lượng chính: quân sự và chính trị.
Ông Tôn Tử là một người thao lược giỏi nhất trong lịch sử và
trong thế giới, có nói: “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Vậy ta cần phải biết Pháp, biết ta”.
Sau khi dẫn lời của các chính khách Pháp và vài tờ báo thân
Pháp viết về tình hình Pháp, Người kết luận: Giặc Pháp mù
quáng về chính trị, thoái bộ về quân sự. Cả hai cái cánh của nó
đã yếu và chỉ có thể đưa nó đến thất bại. Bên ta chính trị rõ
ràng, quân sự tiến bộ mãi. Hai cái cánh của ta rất mạnh, ngày
càng mạnh thêm, cho nên ta nhất định thắng lợi. Thêm vào
đó, tình hình thế giới rất có lợi cho ta. Cánh ta đã vững, gió lại
thuận chiều, quân và dân ta hãy cố gắng lên. Thắng lợi vẻ vang
đã gần trước mắt.
Trong thời gian họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp đoàn đại
biểu kiều bào ở Xiêm1) do ông Nguyễn Nhu làm trưởng đoàn.
Người đã nghe báo cáo về tình hình của 70.000 Việt kiều sinh
sống ở Xiêm, việc chấp hành những nhiệm vụ được Chính phủ

1) Xiêm: Thái Lan (B.T).

264
TẬ P 4 : 1946 - 1950
giao phó, sự hy sinh, cố gắng, tinh thần yêu nước và một số
nguyện vọng của kiều bào.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.83.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1949
2011, t.6, tr.150-161.

Tháng 7, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị cán bộ kinh tế.
Người dặn dò: cán bộ kinh tế cần nắm thế chủ động để
thắng địch, cần phát huy tinh thần xung phong, cách làm việc
thi đua, cần chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch thiết thực để tăng
cường lực lượng kinh tế kháng chiến và mở mang nền kinh tế
kiến quốc.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.

Tháng 7, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh chị em học viên lớp
học viết báo Huỳnh Thúc Kháng sắp kết thúc.
Bức thư có đoạn: “Có thể thí dụ rằng: ba tháng này các bạn
đã học cửu chương. Còn muốn giỏi các phép tính thì phải học
nữa, phải học mãi.
Học ở đâu, học với ai?
Học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng.
Nếu các bạn viết báo mà quần chúng hiểu, quần chúng ham
đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, là các
bạn chưa thành công”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.163.

265
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 7, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi trại giáo dục (Nhờ ông
Bộ trưởng chuyển). Người mong rằng, với sự chỉ đạo của Bộ
trưởng và Thứ trưởng, Hội nghị sẽ tổng kết được những kinh
nghiệm phong phú để đặt một kế hoạch giáo dục thiết thực,
giúp kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc mau thành công.
Cuối thư, Người cũng mong các chiến sĩ trên mặt trận giáo dục
sẽ hăng hái thi đua với các chiến sĩ trên mặt trận khác để tranh
được một địa vị vẻ vang.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.166.

Tháng 7, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Phái đoàn diệt giặc dốt
hoạt động ở Bắc Giang1).
Người biểu dương cán bộ trong đoàn “cũng là một đội
quân hậu viện”, và dặn dò anh em: “Mỗi cán bộ phải là một
chiến sĩ”, “phải là một người tuyên truyền đắc lực về các công
việc kháng chiến kiến quốc”.
Người hứa sẽ có giải thưởng đặc biệt cho huyện nào thanh
toán nạn mù chữ trước nhất và cán bộ nào có thành tích xuất
sắc nhất.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.I, tr.300.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.164.

1) Có 30 cán bộ bình dân học vụ tổ chức thành một phái đoàn xung
phong đến tỉnh Bắc Giang với mục đích giúp Bắc Giang thanh toán
nạn mù chữ trong năm 1949. Biết tin này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi thư cho đoàn.

266
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 7, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho báo Quân du kích1) nêu
rõ nhiệm vụ, nội dung của tờ báo, đồng thời nhấn mạnh đến
nhiệm vụ của dân quân du kích trong giai đoạn đẩy mạnh cầm
cự, chuẩn bị tổng phản công.
Người mong “báo Quân du kích sẽ giúp dân quân du kích 1949
thi đua với Vệ quốc quân diệt cho nhiều giặc, cướp cho nhiều
súng, lập cho nhiều công”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Báo Quân du kích, số 19, tháng 9-1949.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.165.

Tháng 8, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua chuẩn bị tổng
phản công.
Sau khi nhắc lại ba mục đích của Thi đua ái quốc, kiểm điểm
những kết quả đạt được sau một năm thi đua và chỉ ra những
khuyết điểm chính của phong trào, Người kêu gọi:
“Hiện nay, kháng chiến đã đến thời kỳ đẩy mạnh cuộc cầm
cự, chuẩn bị tổng phản công, thì phong trào Thi đua ái quốc
cũng phải nhằm vào mục đích ấy. Vì vậy, chương trình thi đua
trong giai đoạn này vẫn là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc
ngoại xâm. Nhưng tiến lên một bước mạnh hơn... Tất cả mọi
việc ích lợi cho dân sinh quốc kế, quan hệ với kháng chiến kiến
quốc, ta đều phải thi đua. Thi đua phải là toàn dân, toàn diện.
Trong các việc thi đua ái quốc, cần phải nêu rõ tinh thần
cần, kiệm, liêm, chính.

1) Tờ báo của dân quân, du kích ra hằng tuần, do Cục Dân quân thuộc Bộ
Quốc phòng phát hành (B.T).

267
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Khẩu hiệu Thi đua ái quốc hiện nay là: Tất cả để chiến thắng.
Chiến thắng giặc thực dân. Chiến thắng giặc dốt. Chiến thắng
giặc đói. Chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.167-171.

Tháng 8, ngày 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 83-SL, bổ nhiệm Đại tá Vũ Hiển, quyền Tổng
tham mưu phó Quân đội quốc gia Việt Nam, giữ chức Phó Tư
lệnh Liên khu III thay Đại tá Hoàng Minh Thảo cử giữ chức
vụ khác.
- Sắc lệnh số 84-SL, bổ nhiệm Đại tá Hoàng Minh Thảo, Phó
Tư lệnh Liên khu III, giữ chức Tư lệnh Liên khu IV thay cho
Thiếu tướng Nguyễn Sơn cử giữ chức vụ khác.
- Sắc lệnh số 85-SL, bổ nhiệm Thiếu tướng Trần Đại
Nghĩa, Giám đốc Nha Quân giới, kiêm chức Cục trưởng Cục
pháo binh.
- Sắc lệnh số 86-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý quân vụ Bộ Quốc
phòng.
- Sắc lệnh số 87-SL, sửa đổi Điều 2 của Sắc lệnh số 206-SL,
ngày 19-8-1948 về việc thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao.
“Điều 2 mới” ghi rõ: Hội đồng Quốc phòng tối cao gồm các vị:
+ Chủ tịch Chính phủ: kiêm Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng
tối cao.
+ Ông Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng: Phó Chủ tịch.
+ Ông Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Tài chính: Ủy viên.
+ Ông Phan Kế Toại, Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Ủy viên.
+ Ông Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Kinh tế: Ủy viên.

268
TẬ P 4 : 1946 - 1950
+ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam:
Ủy viên.
+ Ông Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Ủy viên.
- Sắc lệnh số 88-SL, thêm vào Điều 8 khoản 2 của Sắc lệnh
số 131, ngày 20-6-1946 về trường hợp khám nhà khi phạm 1949
pháp quả tang; sửa đổi Điều 2 khoản 2 và Điều 6 của Sắc lệnh
số 13, ngày 24-1-1946 về thủ tục lập biên bản khám nhà.
- Sắc lệnh số 89-SL, bãi bỏ chức Tổng Thanh tra Bộ Canh nông.
- Sắc lệnh số 90-SL, chỉ định ủy viên Ủy ban kháng chiến
hành chính Hà Nội.
- Sắc lệnh số 91-SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Giao
thông công chính.
- Sắc lệnh số 92-SL, cho phép ông Hoàng Thiếu Sơn thôi
giữ chức Chánh Văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục.
- Sắc lệnh số 93-SL, về việc thành lập “Hội đồng xét cấp bậc
cho quân nhân”.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen về thành tích đắp đê của
đồng bào huyện Quỳnh Côi (nay thuộc Quỳnh Phụ), Thái Bình.
Người mong: “Đồng bào toàn huyện sẽ theo đà hăng hái ấy
mà đẩy mạnh cuộc Thi đua ái quốc, chuẩn bị Tổng phản công”...
“Đồng bào các huyện khác trong tỉnh phải thi đua với đồng
bào Quỳnh Côi. Cố làm cho Quỳnh Côi thành một huyện kiểu
mẫu và Thái Bình thành một tỉnh kiểu mẫu”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.172-173.

269
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 8, ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 95-SL, về việc thành
lập ngạch thanh tra lao động và kiểm soát lao động.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 96-SL, ân xá tội tử hình


cho một phạm nhân.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả
nước nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.
Nhấn mạnh đến những nhiệm vụ quan trọng của đồng bào,
cán bộ và chiến sĩ trong giai đoạn mới, Người kêu gọi Vệ quốc
quân và dân quân du kích phải thi đua đánh thật mạnh để tiêu
hao và tiêu diệt địch, đồng bào hậu phương phải thi đua thực
hiện khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng”, cán bộ các ngành và
các cơ quan phải thi đua thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Chí công vô tư. Mỗi người đều phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ,
mọi người đều phải thi đua làm tròn nhiệm vụ.
Nhân ngày lịch sử này, Người viết Thư gửi các cháu nhi
đồng, khuyên các cháu cố gắng thi đua học tập và làm việc hơn
nữa. “Ngày nay, người lớn kháng chiến để tranh lại độc lập thì
mai sau các cháu phải giữ vững nền độc lập của ta”.
Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Thất bại và thành
công, ký bút danh Lê Nhân, đăng trên báo Sự thật, số 117. Bài
báo khẳng định: “Cán bộ được dân tin, dân phục, dân yêu, thì
việc gì cũng thành công”.

270
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 97-SL, cử ông Lê Viết
Lượng giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên
khu IV, thay ông Hồ Tùng Mậu nhận công tác khác.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.5, tr.177-183.
1949
Tháng 8, ngày 20
Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc khánh 2-9, để có gạo khao
thưởng bộ đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy danh nghĩa cá nhân
viết thư gửi các cụ phụ lão, các vị thân sĩ, nam nữ đồng bào,
nhờ mỗi gia đình bán cho Người 10 kg gạo với những điều kiện:
định giá 1 kg là 50 đồng. Gia đình nghèo thì thôi. Đồng bào nào
bán giúp được nhiều thì càng hay. Đã bán thì phải nhận đủ tiền,
“vì tôi không muốn để đồng bào thiệt thòi nhiều quá”.
Cuối thư, Người gửi lời cảm ơn trước đồng bào và tin chắc
“đồng bào sẵn lòng giúp tôi việc đó”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 98-SL, ân giảm cho hai phạm nhân từ tội tử
hình xuống 15 năm khổ sai.
- Sắc lệnh số 99-SL, bác đơn xin ân giảm của Đặng Trần
Dương, nguyên Trưởng ty Công an tỉnh Hà Nam, đã bị Tòa án
Quân sự Liên khu III kết án tử hình vì đã lạm dụng chức quyền,
làm những điều sai trái.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.184-185.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Nghệ An.
Người cảm ơn đồng bào đã tặng Người món quà quý trong dịp
sinh nhật, đó là “thành tích thi đua bốn tháng đầu năm 1949”,

271
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

và khuyên đồng bào thi đua phải thiết thực, bền bỉ, rộng khắp;
tổ chức dân quân phải chặt chẽ, tập luyện hẳn hoi, vũ trang
đầy đủ...
Cuối thư, Người mong đồng bào trong tỉnh tiếp tục thi đua
và giúp nhau thi đua, “làm cho Nghệ An thành một tỉnh kiểu
mẫu trong mọi công việc kháng chiến và kiến quốc”.
- Tài liệu lưu trữ của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ Tĩnh: Bác Hồ với quê
hương Nghệ Tĩnh, Vinh, 1977, tr.38-39.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.187.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Canh nông Việt
Bắc, góp một số ý kiến:
- Việc đặt kế hoạch phải sát với tình hình và khả năng của
địa phương và của dân.
- Thành tích sản xuất phải được tổng kết.
- Cán bộ phải đi sát dân, bám dân và đề xuất được nhiều
phương pháp và biện pháp thi đua với tinh thần chiến sĩ xung
phong trong mọi việc.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.189-190.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào tỉnh Bắc Kạn
vừa được giải phóng1).

1) Ngày 9-8 địch rút khỏi Bắc Kạn. Bắc Kạn là thị xã đầu tiên được giải
phóng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

272
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người nêu rõ những nguyên nhân thắng lợi và nhắc nhở
quân và dân phải luôn luôn nhớ: “Càng thất bại thì giặc Pháp
càng liều mạng, càng dã man. Ta càng gần thắng lợi to, thì càng
phải đề phòng gặp khó khăn nhiều.
Vì vậy chúng ta tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch, chớ sơ
suất kiêu ngạo”. 1949
Trong tháng, Người còn viết thư cảm ơn và biểu dương cụ
Nguyễn Ban ở xã An Tường, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam, 77 tuổi, trong ba tháng đã học xong chữ quốc ngữ.
Bức thư có đoạn: “Cụ chẳng những làm kiểu mẫu siêng
năng cho con cháu mà lại còn tỏ cái ý chí hùng mạnh của dân
tộc Việt Nam... Cụ thật xứng đáng bốn chữ “lão đương ích
tráng”1). Cụ là một tượng trưng phúc đức của nước nhà”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.174-175, 188.

Tháng 8, trong tháng


Sau khi thị xã Bắc Kạn được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh có việc đi Ngân Sơn, qua Nà Phạc và nghỉ tối ở đây.
Nhân dân trong huyện chưa dọn về, một số nhà đã bị giặc
đốt cháy, bản làng xơ xác. Cán bộ huyện bàn nhau cất tạm
chiếc lán bên đường để Người nghỉ lại qua đêm. Chỉ một ngày,
lán đã dựng xong.
Trời gần tối, Chủ tịch cùng anh em trong đoàn tới nơi. Đồng
chí cán bộ huyện báo cáo với Người tình hình của địa phương.
Người nhắc nhở các cán bộ cần khẩn trương vận động đồng
bào mau trở lại quê, khai phá ruộng vườn cũ. Chỉ vào chiếc lán
mới dựng, Người hỏi:
- Nhà này của ai mới làm?
Đồng chí cán bộ huyện thưa:

1) Lão đương ích tráng: Già mà chí khí lại càng mạnh (B.T).

273
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Thưa Bác, cách đây dăm ba cây số mới có lán của đồng
bào. Chúng cháu dựng lán này để Bác nghỉ chân.
- Thế là các chú làm cho Bác xa dân. Chỉ có dăm ba cây số,
nhân dân đi lại được, sao Bác không đi được?
Sáng hôm sau, mới sáng dậy, Người đã đi bộ vào lán thăm
hỏi đồng bào.
- Chúng ta có Bác Hồ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1970, t.2, tr.64.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nữ du kích Bùi Thị Cúc
xã Ba Trại, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thành phố
Hà Nội).
Người khen dân quân du kích xã Ba Trại đã anh dũng diệt
giặc trong trận đánh ngày 16-2-1949, đặc biệt là “cháu Cúc đã
tiêu diệt được 8 tên giặc, để lập chiến công vẻ vang trong trận
ấy”, và mong rằng “toàn thể nam nữ du kích trong tỉnh sẽ hăng
hái thi đua diệt giặc lập công”.
Người thưởng cho Bùi Thị Cúc một chiếc khăn tay và hứa
sẽ có một giải thưởng đặc biệt gọi là Giải thưởng Chuẩn bị tổng
phản công cho chiến sĩ và đội du kích nào lập công to nhất từ
nay đến cuối năm.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.186.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị tình báo. Thư
có đoạn:
“1. Tình báo là tai và mắt của quân đội. Tai phải nghe
rõ, mắt phải thấy rõ tình hình của địch thì ta mới dễ đánh
thắng địch.

274
TẬ P 4 : 1946 - 1950
2. Người xưa nói: “Biết địch, biết ta, thì 100 trận ta thắng cả
100”. Biết địch là nhiệm vụ của tình báo.
3. Bên ta phải biết rõ bên địch, nhưng đồng thời không để
địch biết ta. Vì vậy, nhiệm vụ của tình báo là hết sức giữ kín
tình hình và tin tức của ta, không cho lọt đến địch.
Tình báo là một khoa học. Người làm tình báo ắt phải có 1949
bốn đức tính: bí mật, cẩn thận, khôn khéo, kiên nhẫn”.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh. H3-C7/14.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp
và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.323.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.191-192.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Chính phủ Pakixtan nhân
dịp kỷ niệm Ngày Độc lập của Pakixtan.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.193.

Tháng 9, ngày 2
Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm anh chị em cán bộ,
nhân viên Văn phòng Trung ương Đảng.
Người bước vào hội trường, ngồi xuống trước rồi bảo mọi
người ngồi xuống theo. Các cán bộ, thanh niên khỏe mạnh,
nhanh chân đến trước vây xung quanh Chủ tịch. Các chị, các
cô vì có các cháu nhỏ đi theo không chen kịp, đành ngồi phía
sau hội trường.
Khi được báo cáo là anh chị em đã đến đủ, Người nói:
- Để ổn định trật tự cho buổi “diễn thuyết” được thành
công, các cô các chú phải ngồi đúng vị trí của mình. Riêng diễn
giả được phép thay đổi chỗ.

275
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Người đứng dậy đi xuống cuối hội trường hô:


- Đằng sau, quay!
Rồi bắt đầu nói chuyện ngay.
Thế là các chị, các cô, các cháu nhỏ lại được gần Người nhất.
Trong ngày, Chủ tịch trực tiếp đánh máy trả lời tám câu
hỏi của phóng viên báo Praxa Thipatay (Thái Lan), ông
Naiut Thorn Pholkul, về tình hình cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam. Về mối quan hệ Việt - Thái, Người tuyên
bố: “Bao giờ Việt Nam cũng cần thân thiện với nước Thái,
và nước Thái thân thiện với Việt Nam, vì chúng ta là bà con
láng giềng”.
- Tài liệu lưu trữ của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Tài liệu lưu trữ của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ
Quốc phòng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.194-196.

Tháng 9, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ, báo cáo về tình hình thế giới trong hai tháng 7 và 8, nghe
báo cáo của các Bộ: Quốc phòng, Ngoại giao, Giáo dục, Nông
nghiệp, v.v. và thảo luận một số vấn đề liên quan tới các Bộ
trong chương trình công tác tháng 9.
Kết thúc Hội nghị, Chủ tịch nhắc lại những chỉ thị về việc
chuẩn bị thu - đông và nhắc Hội đồng lưu ý sự biến chuyển
nhanh chóng của thời cuộc để chuẩn bị đối phó với khó khăn,
cũng như để nắm kịp thời cơ giành chiến thắng.
Trong thời gian họp, Người cùng đại biểu Quốc hội và
Chính phủ tiếp Đoàn đại biểu kháng chiến hành chính Nam
Trung Bộ do cụ Lê Đình Thám dẫn đầu, nghe Đoàn báo cáo

276
TẬ P 4 : 1946 - 1950
tình hình kháng chiến ở địa phương và nhận tặng phẩm của
đồng bào, các cơ quan và đoàn thể địa phương.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.106. 1949
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.197-202.

Tháng 9, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 102-SL, về việc thành lập Hội đồng Giáo dục.
- Sắc lệnh số 103-SL, quy định Nhà máy phốt phát Nghệ An
là một doanh nghiệp quốc gia.
- Sắc lệnh số 104-SL, cấp thêm cho Cục tiếp tế vận tải 50
triệu đồng để dùng vào việc tiếp tế.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng bằng khen cho cán bộ công nhân
Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo1) về thành tích đã sản xuất
được những máy móc cần thiết cho kháng chiến.
- Báo Hà Nội mới, ngày 18-4-1990.

Tháng 9, ngày 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 105-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 246-SL, ngày
14-10-1948 và ấn định lại mức phí cấp hằng tháng của các vị
trong Chính phủ kể từ ngày 1-8-1949.

1) Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo lúc đó ở Tuyên Quang (B.T).

277
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 106-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 245-SL, ngày


14-10-1948 và ấn định lại mức phí cấp hằng tháng của các vị
trong Ban Thường trực Quốc hội kể từ ngày 1-8-1949.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 18
Tối, từ Khâu Lấu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thuyền xuôi theo
sông Đáy về huyện lỵ Sơn Dương để thăm lớp học của cán bộ
kháng chiến.
Trên sông, Người làm bài thơ:

ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG ĐÁY


Dòng sông lặng ngắt như tờ,
Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo.
Bốn bề phong cảnh vắng teo,
Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan.
Lòng riêng riêng những bàn hoàn,
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng.
Thuyền về, trời đã rạng đông,
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.91.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.6, tr.176.

Tháng 9, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Trung du1). Trong
thư, Người nêu rõ ý nghĩa của Hội nghị, phân tích tầm quan
trọng về quân sự và kinh tế của các tỉnh trung du, biểu dương
“đại đa số cán bộ, nhất là cán bộ Bắc Ninh, tinh thần vững chắc,

1) Hội nghị Trung du họp từ ngày 19 đến ngày 21-9-1949 (B.T).

278
TẬ P 4 : 1946 - 1950
tận tụy làm việc, hiểu các công tác, đi sát với dân”, đồng thời
chỉ ra những khuyết điểm ở nhiều địa phương và yêu cầu các
cán bộ phải kiên quyết tẩy trừ và giúp đồng chí mình tẩy trừ
những khuyết điểm đó. “Phải làm sao cho các tỉnh trung du
thành một phòng tuyến kiên cố của ta, một nghĩa địa mênh
mông của giặc”. 1949
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh
tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.203-204.

Tháng 9, ngày 23
Lời cảm ơn đồng bào của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc đồng
bào đã bán gạo rẻ giúp Người khao thưởng bộ đội nhân dịp
Quốc khánh, đăng trên báo Sự thật, số 119. Người viết:
“Sự thực là đồng bào khao thưởng bộ đội, chứ không phải
riêng tôi.
Một lần nữa nhân danh tôi và nhân danh bộ đội, tôi trân
trọng cảm ơn đồng bào, và gửi đồng bào lời chào thân ái và
quyết thắng”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 108-SL, bãi bỏ Hội đồng sản xuất kỹ nghệ
thuộc Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 109-SL, bổ sung về việc truy tố những vụ vi
phạm thể lệ mậu dịch.
- Sắc lệnh số 110-SL, về việc thành lập Ban Căn cứ địa
Việt Bắc.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.205.

279
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 9, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các đồng chí Liên khu IV,
nhân dịp ông Nguyễn Chí Thanh vào công tác.
Bức thư có đoạn:
“Xem lại những công việc trong thời kỳ vừa qua, các đồng
chí đã lượm được khá ưu điểm:
Như nội bộ đoàn kết hơn, Bình - Trị - Thiên được chấn
chỉnh hơn, sự lãnh đạo của đoàn thể tuy chưa được đều nhưng
đã bao khoát hơn trước.
Nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm như:
- Còn nhiều xu hướng cá nhân, bản vị, địa phương.
- Sự lãnh đạo về chính quyền, nhất là về kinh tế, không
được quán xuyến.
- Dân vận chưa được đầy đủ, Mặt trận chưa đoàn kết được
tất cả thân sĩ, trí thức.
- Một số cán bộ chưa thực hiện Cần Kiệm Liêm Chính, thậm
chí hủ hóa. Phần nhiều khuyết điểm do đó mà ra.
- Chưa vận dụng được cả nhân lực, vật lực, tài lực để phụng
sự kháng chiến, nhất là ở Thanh Hóa”.
Cuối thư, Người mong các đồng chí Liên khu IV kiên quyết
sửa chữa những khuyết điểm và phát huy những ưu điểm nói
trên, “thì mọi việc sẽ thành công”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh
và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.206.

Tháng 9, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhi đồng nhân dịp Tết
Trung thu kháng chiến lần thứ ba. Trong thư, Người viết:

280
TẬ P 4 : 1946 - 1950
“Trung thu năm nay, Bác cũng chưa có quà gì biếu các cháu.
Nhưng chắc rằng năm sau, các cháu sẽ có Tết Trung thu linh
đình là Tết Trung thu kháng chiến hoàn toàn thắng lợi.
Bác gửi các cháu nhiều cái hôn”.
Trong tháng, Người còn viết Thư gửi các Hội mẹ chiến sĩ
Liên khu IV, báo tin Người vẫn thường nhận được thư, quà của 1949
các cụ, các bà gửi cho, và được biết các cụ, các bà hăng hái Thi
đua ái quốc làm kiểu mẫu cho con cháu, vẫn cố gắng học chữ,
học làm tính, thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột
thịt. “Thật là đáng kính, đáng quý”.
Người mong rằng: “Khắp cả nước, các liên khu, các tỉnh,
các làng, ở đâu cũng có Hội mẹ chiến sĩ. Còn các chiến sĩ thì
phải hiếu với mẹ nuôi bằng cách thi đua giết nhiều giặc, cướp
nhiều súng, lập nhiều công làm cho rạng danh và đền bồi công
ơn của các bà mẹ chiến sĩ”.
- Bác Hồ với Bình Trị Thiên, Ban Nghiên cứu Lịch sử và Ty
Văn hóa Bình Trị Thiên, 1977, tr.20-21.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.235, 214.

Tháng 9, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi sinh viên Trường
Đại học Y khoa Việt Bắc.
- Báo Cứu quốc, ngày 28-9-1949.

Tháng 9, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và ghi trên trang đầu cuốn
Sổ Vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương1) lời dạy:
“Học để làm việc,
làm người,
làm cán bộ.

1) Nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (B.T).

281
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Học để phụng sự đoàn thể,


“ ” giai cấp và nhân dân,
“ ” Tổ quốc và nhân loại.
Muốn đạt mục đích, thì phải
Cần, kiệm, liêm, chính,
Chí công, vô tư.
Tháng 9 năm 1949
HỒ CHÍ MINH”.
- Bút tích ghi trong Sổ Vàng của Trường, lưu tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.208.

Tháng 9, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bức thư dưới đây gửi cụ Mai
Công Uyển, xã Hiệp Hòa, huyện Đại Từ (Thái Nguyên):
“Thưa cụ,
Cụ có lòng tốt biếu tôi 20 kilô gạo để khao thưởng bộ đội.
Tôi rất cảm ơn cụ. Nhưng tôi xin cụ phải nhận số tiền là 100
đồng. Nếu cụ không chịu nhận tiền, thì tôi không dám nhận
gạo của cụ. Vì lần này tôi nhờ đồng bào bán rẻ, chứ không phải
quyên của đồng bào. Cụ sẵn lòng giúp thì xin để lần khác, cụ
sẽ ủng hộ.
Chúc cụ mạnh khỏe và sống lâu.
Chào thân ái và quyết thắng
Tháng 9 năm 1949
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.209.

282
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 9, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Việt Bắc quyết thắng1), chỉ ra
những điều kiện Việt Bắc có thể chiến thắng địch. Song, như
Người nói, “điều kiện tuy sẵn, nhưng phải chuẩn bị đầy đủ mới
đánh thắng được”.
Chuẩn bị thế nào? Bài viết phân tích và đề ra những nhiệm
1949
vụ cụ thể của ba lực lượng quân sự Vệ quốc quân, bộ đội địa
phương và dân quân du kích, của “chiến sĩ nhà nông” trên mặt
trận sản xuất nông nghiệp.
Làm được những việc đó, như kết luận của bài viết, “Việt
Bắc quyết thắng, và Việt Bắc nhất định thắng”.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
- Bác Hồ với Bình Trị Thiên, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng và
Ty Văn hóa Bình Trị Thiên, 1977, tr.20-21.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.211-213.

Tháng 10, ngày 6


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để xem xét tình hình thế giới và trong nước tháng 9 vừa
qua, nghe báo cáo của các Bộ: Quốc phòng, Giao thông công
chính, ra nghị quyết về vấn đề tổ chức các Bộ; công tác thanh
tra và bàn chương trình công tác tháng 10.
Trong thời gian họp, Chủ tịch cùng Ban Thường trực Quốc
hội và Chính phủ đã tiếp Đoàn đại biểu Nam Bộ do ông Phạm
Hùng dẫn đầu, nghe Đoàn báo cáo về tình hình kháng chiến ở
Nam Bộ.

1) Bài viết cho chuyên mục Việt Bắc đánh thắng của các báo (B.T).

283
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Nói chuyện với Đoàn, Người khen ngợi các đại biểu trong
Đoàn, nhất là những hy sinh to lớn, những cố gắng bền bỉ của
quân dân Nam Bộ trong bốn năm kháng chiến và sự đoàn kết
chặt chẽ của toàn dân trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp độc
lập và thống nhất Tổ quốc.
Người đã mời Đoàn dự bữa cơm thân mật.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 111-SL, cử
ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.116.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.215-223.

Tháng 10, ngày 7


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội
đồng Chính phủ.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.117.

Tháng 10, ngày 8


Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp với Hội đồng Quốc phòng tối cao.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.118.

Tháng 10, ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh Điện gửi Chủ tịch Chính phủ và nhân
dân Trung Quốc nhân dịp lễ Song Thập. Bức điện có ghi: “Hoa -
Việt thân thiện muôn năm”.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.224.

284
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 10, ngày 13
Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các võ quan và chiến sĩ
Đội quân Bắc Phi độc lập1), đăng trên báo Cứu quốc, số 1370.
Người cảm ơn về những lời chúc mừng của họ nhân dịp kỷ
niệm Cách mạng Tháng Tám và chúc Đội quân Bắc Phi độc lập
lập được nhiều chiến công oanh liệt. 1949
Người tin chắc: với sự giúp đỡ của những người bạn Việt
Nam, với lòng quả cảm sẵn có và với kỷ luật sắt của họ, họ sẽ
xứng đáng với danh hiệu vẻ vang của quân đội Bắc Phi độc lập.
“Nước Việt Nam được giải phóng sẽ giúp cho sự giải phóng
nước các bạn được dễ dàng và cuộc chiến thắng của Việt Nam
sẽ giúp cho các bạn chiến thắng sau này”.
Cùng ngày, số báo trên còn đăng bức điện trả lời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về 21 câu hỏi của A. Xtinlơ (A. Steele), phóng viên
báo Mỹ New York Herald Tribune, về các vấn đề liên quan đến
lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết “cuộc xung đột”
giữa “Việt Minh và Pháp”; về sự giúp đỡ “Cộng sản Trung Hoa”...
Trả lời câu hỏi: Liên hợp quốc có thể giúp ích gì một cách có
hiệu quả để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam không? Người nói:
“Có, Liên hợp quốc có thể buộc Pháp phải tôn trọng những hiến
chương của mình và bắt Pháp phải rút quân đội khỏi Việt Nam.
Tôi muốn hỏi nhân dân Mỹ một câu này, và mong ông cho
biết những câu trả lời của nhân dân Mỹ: Nếu Pháp hoặc một
ai khác xâm phạm nước Mỹ, giết người đốt phá thành phố và
làng mạc Mỹ, với mục đích là để bắt Mỹ làm nô lệ, thì nhân dân
Mỹ sẽ đối phó như thế nào?”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.225-226, 227-231.

1) Gồm một số binh sĩ người Bắc Phi trong quân đội viễn chinh Pháp phản
chiến chạy sang phía Việt Nam. Họ được tổ chức lại để làm công tác
tuyên truyền, kêu gọi binh lính địch phản chiến.

285
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 10, giữa tháng


Được tin giặc Pháp nhảy dù xuống Phát Diệm, xâm phạm
đất Thánh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Công
giáo, vạch rõ âm mưu thâm độc của giặc định bôi nhọ đồng
bào, làm mọi người hiểu lầm đồng bào Công giáo phản Tổ
quốc, theo thực dân, nhằm gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ
tương tàn.
Người thông báo: “Chính phủ đang phái quân đội đến
đánh giặc thực dân, để cứu đồng bào Công giáo vùng này
khỏi xiềng xích của bọn ác quỷ” và yêu cầu đồng bào “cần
phải ra sức giúp đỡ bộ đội ta về mọi mặt để đánh tan lũ giặc,
để cứu mình, cứu nước”.
Cuối thư, Người viết: “Tôi cầu nguyện Đức Chúa phù hộ
đồng bào giữ vững tinh thần ái quốc, đủ sức chống lại giặc
Pháp, đặng làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng là:
Phụng sự Đức Chúa
Phụng sự Tổ quốc”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.236-237.

Tháng 10, ngày 15


Bài Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh X.Y.Z.,
đăng trên báo Sự thật, số 120.
Người trình bày ngắn gọn, súc tích những vấn đề cơ bản về
bản chất dân chủ của Nhà nước ta (mục Nước ta là nước dân
chủ), về nội dung của công tác dân vận (mục Dân vận là gì?),
về những người có trách nhiệm làm công tác dân vận (mục Ai
phụ trách dân vận?) và về những phẩm chất phải có ở những
người phụ trách dân vận (mục Dân vận phải thế nào?).

286
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Bài viết kết luận: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận
rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.232-234.
1949
Tháng 10, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở Hang Bòng, xã Tân


Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.92.

Tháng 10, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:


- Sắc lệnh số 114-SL, cử Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, Cục
trưởng Cục Chính trị, giữ chức Chính trị ủy viên Liên khu III
thay ông Lê Quang Hòa được cử giữ chức vụ khác.
- Sắc lệnh số 115-SL, chỉ định các ông: Phạm Văn Bạch làm
Chủ tịch, Phạm Ngọc Thuần làm Phó Chủ tịch, Nguyễn Bình
làm Ủy viên quân sự, các ông Ca Văn Thỉnh, Ung Văn Khiêm,
Nguyễn Thành Vinh và Kha Vạng Cân làm Ủy viên trong Ủy
ban kháng chiến hành chính Nam Bộ.
- Sắc lệnh số 116-SL, cử ông Lê Liêm, Cục trưởng Cục Dân
quân, kiêm chức Cục trưởng Cục Chính trị thay Thiếu tướng
Văn Tiến Dũng.
- Sắc lệnh số 117-SL, sửa đổi khoản 3, Điều 7 của Sắc
lệnh số 131-SL, ngày 20-7-1946, ghi rõ bốn trường hợp đặc
biệt các viên chức có thẩm quyền được phép vào nhà tư
nhân ban đêm.

287
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 118-SL, thành lập Ủy ban xí nghiệp tại các xí


nghiệp nhà nước.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 119-SL, cử ông Dương Quốc Chính giữ chức
Chính trị ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ thay ông Phạm Ngọc
Thuần chuyển công tác khác.
- Sắc lệnh số 120-SL, đặt một Ban Cố vấn bên cạnh Ủy ban
kháng chiến hành chính Nam Bộ, gồm các ông: Cao Triều Phát,
Nguyễn Văn Hưởng, Phạm Văn Chương và Lê Duẩn.
- Sắc lệnh số 121-SL, sửa đổi Điều 4 của Sắc lệnh số 33-SL,
ngày 22-3-1946, về việc chuẩn định cấp bậc, phù hiệu, cấp
hiệu cho quân đội.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 21


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 122-SL, bổ sung Điều 1
của Sắc lệnh số 26-SL, ngày 25-4-1949, về việc truy tố những
vụ vi phạm thể lệ mậu dịch.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 27


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 123-SL, quy định điều kiện những người được
phép chữa bệnh theo Tây y1).
- Sắc lệnh số 124-SL, quy định điều kiện cho phép những
người muốn mở “hiệu bào chế” thuốc chữa bệnh theo Tây y2).

1), 2) Nguyên văn sắc lệnh: “chữa bệnh theo lối Âu - Mỹ” (B.T).

288
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Các sắc lệnh trên đồng thời cũng quy định rõ hình phạt áp
dụng đối với những người chữa bệnh, bào chế thuốc trị bệnh
theo Tây y1) mà không có đủ các điều kiện đã quy định.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 31


1949
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Rút kinh nghiệm,
trao đổi kinh nghiệm, ký bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật,
số 121.
Từ những kinh nghiệm qua việc Người mua gạo khao
quân, bài báo nhấn mạnh: “Sau mỗi một việc cần phải rút
kinh nghiệm.
Kinh nghiệm riêng từng cán bộ, từng địa phương. Kinh
nghiệm chung tất cả các cán bộ và các địa phương. Kinh
nghiệm thất bại và kinh nghiệm thành công. Rồi tổng kết và
phổ biến những kinh nghiệm ấy cho khắp tất cả cán bộ, tất cả
địa phương. Mỗi cán bộ, mỗi địa phương sẽ học những kinh
nghiệm hay, tránh những kinh nghiệm dở, áp dụng những
kinh nghiệm cũ vào những công việc mới.
Như vậy khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng
thêm, công việc sẽ rất mau tiến bộ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.238-240.

Tháng 11, ngày 4


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 126-SL, quy định tất cả nam công dân Việt
Nam từ 18 tuổi đến 45 tuổi đều có nghĩa vụ phải phục vụ trong
quân đội một thời hạn là hai năm. Khi có chiến tranh, thời hạn
này có thể kéo dài cho đến hết chiến tranh.

1) Nguyên văn sắc lệnh: “chữa bệnh theo lối Âu - Mỹ” (B.T).

289
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sắc lệnh nêu rõ những trường hợp được hoãn nhập ngũ và
quy định các thủ tục gọi tòng quân phục vụ quân đội.
- Sắc lệnh số 127-SL, về việc hợp nhất Liên khu I và Liên
khu X thành Liên khu Việt Bắc, và thành lập Ủy ban kháng
chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.
- Sắc lệnh số 128-SL, cử các thành viên Ủy ban kháng chiến
hành chính Liên khu Việt Bắc.
- Sắc lệnh số 129-SL, cử cố vấn Ủy ban kháng chiến hành
chính Liên khu Việt Bắc.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 7


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 130-SL, sáp nhập huyện Thủy Nguyên thuộc
tỉnh Kiến An, huyện Nam Sách và huyện Kinh Môn thuộc tỉnh
Hải Dương vào tỉnh Quảng Yên.
- Sắc lệnh số 131-SL, trả lại tỉnh Bắc Ninh (Liên khu I)
huyện Gia Lâm (kể cả thị xã) trước đây đã sáp nhập vào tỉnh
Hưng Yên (Liên khu III).
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 9


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giáo viên và học viên lớp
“Chuẩn bị tổng phản công” của Trường Trung học Lục quân
Trần Quốc Tuấn1) nhân ngày khai giảng.
Người căn dặn các học viên:
“Luyện tập thân thể cho mạnh mẽ,
Nghiên cứu kỹ thuật cho thông thạo.

1) Nay là Trường Đại học Trần Quốc Tuấn (Trường Sĩ quan Lục quân I) (B.T).

290
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trau dồi tinh thần cho vững chắc.
Hun đúc đạo đức của người quân nhân cách mạng cho
vững vàng”.
Và “phải ra sức thi đua làm cho trọn nhiệm vụ để xứng
đáng cái tên lớp vẻ vang của các cháu, để xứng đáng với lòng
tin cậy mà Chính phủ và đồng bào đặt nơi các cháu”. 1949
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.242-243.

Tháng 11, ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi các nhân viên
và cơ quan quân, dân, chính, các đoàn thể nhân dân đã đánh
thắng giặc lụt.
Người nêu rõ: Đánh thắng giặc lụt là một thắng lợi bộ phận
trong thắng lợi chung của toàn dân kháng chiến, toàn diện
kháng chiến, là kết quả của sự hăng hái, cố gắng, đồng tâm và
sự phối hợp chặt chẽ giữa hành chính, chuyên môn, bộ đội,
đoàn thể và nhân dân.
Người mong mọi người, mọi cơ quan tiếp tục cố gắng thi
đua, sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để làm tốt hơn
công tác bảo vệ đê điều.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.244.

Tháng 11, ngày 11


Chủ tịch Hồ Chí Minh điện cho Đại diện Thông tấn xã Việt
Nam ở Băng Cốc khi được báo cáo Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã về
đến Thái Lan ngày 10-11. Nội dung bức điện như sau:
“Hồ Chủ tịch gửi lời chúc mừng bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã trở
về Tổ quốc”.
- Tạp chí An ninh thế giới, ngày 16-12-1999.

291
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 11, ngày 15


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo France
tireur (báo Du kích Pháp) ở Pari về các vấn đề liên quan đến
Việt Nam.
Trả lời câu hỏi: Xin Chủ tịch cho biết có phải việc đóng cửa
phái đoàn Việt Nam ở Pháp có nghĩa là Chính phủ Việt Nam
không hy vọng có thể điều đình, dàn xếp với Pháp không? Người
đã khẳng định: Nhân dân Việt Nam lúc nào cũng sẵn sàng hợp
tác thân ái với nhân dân Pháp.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.245-247.

Tháng 11, trước ngày 16


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Nguyên soái Xtalin chúc
mừng kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười18.
Bức điện viết:
“Nhân dịp Quốc khánh Liên Xô, thay mặt Chính phủ và
nhân dân Việt Nam, và nhân danh cá nhân tôi, tôi gửi Ngài và
Chính phủ và nhân dân Liên Xô lời chúc mừng hạnh phúc và
thịnh vượng”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.241.

Tháng 11, ngày 22


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 134-SL, cử vào Bộ Tư
lệnh quân đội địa phương và dân quân Liên khu Việt Bắc các
vị sau đây:
- Thiếu tướng Chu Văn Tấn: Chính trị ủy viên.
- Đại tá Lê Quảng Ba: Tư lệnh Liên khu.
- Đại tá Thanh Phong: Phó Tư lệnh Liên khu.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

292
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 11, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 135-SL, bãi bỏ Điều 9
của Sắc lệnh số 254-SL, ngày 19-11-1948, về thẩm quyền bãi
miễn của Hội đồng nhân dân xã và tỉnh, thay bằng Điều 9 mới
có sửa đổi và bổ sung.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. 1949

Tháng 11, ngày 27


Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Trung ương mở rộng,
thảo luận báo cáo của đồng chí Trường Chinh về tình hình mới
và nhiệm vụ mới.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.150.

Tháng 11, trước ngày 28


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị cán bộ nông
dân cứu quốc toàn quốc19, căn dặn các cán bộ làm công tác vận
động nông dân phải:
- Tổ chức nông dân thật chặt chẽ.
- Đoàn kết nông dân thật khăng khít.
- Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.
- Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của
nông dân, của Tổ quốc.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.I, tr.318-319.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.6, tr.248-249.

Tháng 11, ngày 28


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự Hội nghị Trung ương mở
rộng, nghe báo cáo của đồng chí Võ Nguyên Giáp về quân sự,

293
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

đánh giá tình hình chiến sự, định kế hoạch mới trong giai đoạn
sắp tới.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.150.

Tháng 11, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 136-SL, xác nhận giá
trị pháp lý của những điều khoản trong Sắc lệnh số 77-SL,
ngày 21-12-1945 và các sắc lệnh và quy lệ tiếp sau đối với Hội
đồng nhân dân thị xã và Hội đồng nhân dân thành phố, trừ
những sửa đổi được ghi trong các Điều 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11
trong bản Sắc lệnh này.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh treo giải thưởng cho đơn vị chiến đấu
giỏi của Thủ đô. Phần thưởng là một khẩu súng Thompson của
Đoàn đại biểu Nam Bộ tặng Người.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thủ đô Hà Nội, Sở Văn hóa - Thông
tin Hà Nội, tháng 5-1985, tr.17.

Tháng 11, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị cán bộ phụ
trách nhi đồng. Người đã nêu một vài ý kiến về cách dạy trẻ,
cần làm cho trẻ biết: yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng
lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa; đồng thời
phải giữ được toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên,
tự động, trẻ trung của chúng. Người khẳng định: “Giáo dục
nhi đồng là một khoa học. Vậy các bạn phải cố gắng học tập,
nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, để tiến bộ mãi. Nhất là

294
TẬ P 4 : 1946 - 1950
phải làm kiểu mẫu trong mọi việc. Như vậy, thì các bạn sẽ
thành công”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.I, tr.318-319.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.250-251. 1949
Tháng 12, ngày 1
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Giải thưởng
cháu Bác Hồ, đăng trên báo Vệ quốc quân, số 57.
Nhân dịp Tết Trung thu, các cháu nhi đồng xã Nam Hồng
gửi biếu Người một bộ áo nâu và biếu các chiến sĩ 1.400 đồng
để tặng đơn vị nào giết được nhiều giặc Pháp nhất. Người đã
quyết định dành cả áo và tiền (Người thêm 600 đồng nữa cho
đủ 2.000 đồng) để làm một giải thưởng gọi là “Giải thưởng cháu
Bác Hồ” tặng cho bộ đội Vệ quốc quân và dân quân du kích nào
đến cuối tháng 12-1949 giết được nhiều giặc, cướp được nhiều
súng, lập được nhiều công nhất ở mặt trận Trung du.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.252.

Tháng 12, ngày 2


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ,
dân quân du kích và đồng bào Đường số 4.
Người thay mặt Chính phủ, khen ngợi quân và dân địa
phương đã đánh thắng hai trận lớn ngày 3-9, ngày 17-9 và căn
dặn: Chớ vì thắng mà kiêu ngạo, chủ quan khinh địch; bộ đội
phải kính trọng và giúp đỡ dân; dân phải thương yêu và ủng
hộ bộ đội; quân và dân phải luôn luôn đoàn kết nhất trí.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.253.

295
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 12, ngày 5


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn tới Chủ tịch Mao Trạch
Đông, mừng Ngày thành lập Chính phủ nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa.
Bức điện viết:
“Tôi rất vui mừng được tin Chính phủ nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa thành lập. Thay mặt nhân dân và Chính
phủ Việt Nam, tôi kính mừng Ngài, Chính phủ và nhân dân
Trung Hoa.
Hai dân tộc Việt - Hoa có mối quan hệ anh em trải mấy
nghìn năm lịch sử. Từ đây, mối quan hệ ấy sẽ càng mật thiết để
phát triển tự do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, và để bảo vệ
dân chủ thế giới và hòa bình lâu dài”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.I, tr.324.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.254.

Tháng 12, ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Đảng đoàn Chính
phủ mở rộng.
Người nói về tình hình thế giới, những chuyển biến lớn có
lợi cho cuộc kháng chiến của ta, và sự cần thiết có một cuộc
kiểm điểm kỹ lưỡng công việc năm 1949 và định hướng mới
cho năm 1950.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.154.

Tháng 12, ngày 12


Buổi chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến huấn thị cho Hội nghị
Đảng đoàn, yêu cầu mọi người:

296
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Làm kế hoạch cho đầy đủ, thiết thực.
- Liên hệ giữa bộ phận với toàn cục.
- Mỗi người đều cố gắng làm nhiệm vụ để thực hiện kế
hoạch chung.
- Giữ bí mật.
- Tiến mạnh tới tổng phản công. Quân sự làm trọng tâm. 1949
- Thi đua để thực hiện kế hoạch.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.155.

Tháng 12, ngày 14


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138-SL, cho phép một
kiều dân Trung Hoa được nhập quốc tịch Việt Nam.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 16


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp cuối năm của Hội
đồng Chính phủ để đánh giá tình hình thế giới năm 1949;
nghe báo cáo tổng kết của các Bộ; nghe kiểm điểm của Chính
phủ về một năm chuẩn bị tổng phản công và ấn định những
điểm chính trong chương trình công tác năm 1950 nhằm
vào hai trọng tâm: tăng cường lực lượng quân sự và các lực
lượng kháng chiến để chuyển mạnh sang tổng phản công;
phát triển cơ sở dân chủ nhân dân để đảm bảo cho kháng
chiến thắng lợi.
Trong ý kiến phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví tình
hình thế giới trong năm 1949 như một ván cờ, trong đó hai
phe “trắng” “đỏ” đang giành giật với nhau, thế bên “đỏ” thắng
lợi rõ ràng, bên “trắng” càng ngày càng vào nước bí. Về tình
hình giữa ta và địch, Người nhận định lực lượng địch còn
mạnh nhờ sự viện trợ của Anh và Mỹ, nhưng thế của chúng

297
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

vẫn yếu. Lực lượng của ta còn kém địch vì ta không có sự


giúp đỡ của ai, nhưng thế của ta rất vững. Nếu ta cố gắng
thêm nữa, với một sự chuyển biến xảy ra có lợi cho sự kháng
chiến, cuộc tổng phản công sẽ chắc chắn thắng lợi. Cuộc cờ
thế giới ảnh hưởng rất lớn đến tình hình Việt Nam. Sang năm
mới, nhân dân Việt Nam, mọi người, mọi ngành, mọi nơi đều
phải ra sức thi đua chuẩn bị đầy đủ, để mau chuyển sang tổng
phản công, để chơi cho giặc Pháp một nước pháo trùng, thì
giặc Pháp nhất định sẽ hoàn toàn thất bại, kháng chiến nhất
định sẽ hoàn toàn thành công.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.156-157.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.255-259.

Tháng 12, ngày 17 và ngày 18


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội
đồng Chính phủ. Tổng kết phiên họp, Người chỉ thị:
1- Cần hợp lý hóa việc họp hành.
2- Chính quyền và đoàn thể nhân dân phải liên lạc mật
thiết và thiết thực hơn nữa. Làm cho mọi người dân đều hiểu
về chính sách của Chính phủ.
3- Hoạt động của các Bộ phải ăn khớp với nhau.
4- Tổ chức Thi đua ái quốc giữa các Bộ.
Trong ngày 18, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 138b-SL, về việc thành lập Ban Thanh tra
Chính phủ trực thuộc Phủ Thủ tướng.
- Sắc lệnh số 138c-SL, cử các vị có tên sau đây vào Ban
Thanh tra Chính phủ:

298
TẬ P 4 : 1946 - 1950
+ Tổng Thanh tra: cụ Hồ Tùng Mậu.
+ Tổng Thanh tra phó: ông Trần Đăng Ninh.
+ Thanh tra: ông Tô Quang Đẩu.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1949
1995, t.2, tr.159.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, trước ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản dự thảo Lời kêu gọi của Quốc
hội nhân ngày 19-12. Người góp ý kiến và sửa chữa trực tiếp
vào bản thảo, sau đó viết thư gửi ông Chánh văn phòng Chủ
tịch Chính phủ Phan Mỹ đề nghị “trình lại cụ Tôn1) và cụ Trực2),
xem hai cụ có đồng ý không, nếu hai cụ đồng ý thì gửi đi ngay
cho kịp thời”.
- Bản chụp bút tích bức thư gửi đồng chí Phan Mỹ lưu tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản thảo Lời kêu gọi của Quốc hội có bút tích sửa chữa
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ
Chí Minh.

Tháng 12, ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân dịp ba năm toàn
quốc kháng chiến.
Lời kêu gọi có đoạn:
“Bốn phần gian nan cực khổ, ta đã vượt được ba phần. Chỉ
còn một phần nữa. Nhưng phần này là phần cuối cùng, nó sẽ
gay go hơn.

1) Cụ Tôn: Tôn Đức Thắng (B.T).


2) Cụ Trực: Phạm Bá Trực (B.T).

299
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Với lực lượng đại đoàn kết của toàn dân, với chí khí anh
dũng của toàn quân, chúng ta quyết khắc phục phần khó khăn
cuối cùng này, cũng như chúng ta đã khắc phục những khó
khăn trong ba, bốn năm vừa qua.
Vượt khỏi phần khó khăn này, là ta hoàn toàn thắng lợi”.
Một lần nữa, Lời kêu gọi khẳng định quyết tâm chiến đấu
của nhân dân ta: “Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước
Việt Nam, thì Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn
toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thật sự”.
Cùng ngày, thư của Người Gửi đồng bào Công giáo toàn
quốc nhân dịp Lễ Nôen, đăng trên báo Sự thật, số 125.
Người gửi lời chúc phúc tới đồng bào Công giáo, cùng
đồng bào kính cẩn cầu nguyện Đức Chúa ban phúc cho đất
nước, và quả quyết tuyên bố với đồng bào rằng: “Ta nhất
định thắng lợi”.
Bức thư có đoạn:
“Chúng ta ăn tết Nôen này trong sự đau thương, vì giặc
Pháp đã tiến công Phát Diệm, đã xâm phạm đến đất Thánh
ta, và vì đồng bào Công giáo Phát Diệm, Bùi Chu và nhiều nơi
khác đang đau khổ dưới gót sắt của giặc Pháp dã man.
Vậy trong Tết Nôen này, chúng ta phải nhớ đến đồng bào
trong những nơi ấy, chúng ta phải đoàn kết hơn nữa, kiên
quyết hơn nữa, để giải phóng đất Thánh của chúng ta, và giải
phóng tất cả đất nước của chúng ta”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.260-263.

Tháng 12, ngày 21


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 140-SL, sửa đổi Điều 19 và 20 của Sắc lệnh số
71-SL, ngày 22-5-1946 về tổ chức và ấn định quy tắc Quân đội
quốc gia Việt Nam.

300
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 141-SL, bãi bỏ Nha hưu bổng và giao các vấn
đề về hưu bổng cho Văn phòng Bộ Tài chính phụ trách.
- Sắc lệnh số 142-SL, xác định tư cách Ủy viên tư pháp
công an cho các Trưởng Liên hạt lâm chính và Trưởng hạt
lâm chính.
- Sắc lệnh số 143-SL, đổi tên Nha Thương vụ và Nha Khoáng
1949
chất kỹ nghệ trong Sắc lệnh số 220-SL, ngày 16-11-1946 thành
Nha Thương mại và Nha Kỹ nghệ.
- Sắc lệnh số 144-SL, sửa đổi Điều 1 của Sắc lệnh số 69-SL,
ngày 18-6-1949, cho phép nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể
nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa cho mình
trước các tòa án (trừ Tòa án binh tại mặt trận) nếu được chánh
án thừa nhận.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và dân quân du kích nhân kỷ niệm Ngày thành lập
Quân giải phóng Việt Nam.
Điểm lại quá trình phát triển của quân đội ta, từ nhóm du
kích đầu tiên thành lập đến ngày nay trở thành một quân đội
lớn mạnh, Người chỉ rõ:
“Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà
chiến đấu, yêu nước, yêu dân, cho nên hy sinh kham khổ.
Quân đội ta luôn luôn giữ gìn và phát triển truyền thống
anh dũng của Quân giải phóng Việt Nam và đạo đức cách mạng
gồm trong mười điều kỷ luật”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 145-SL,
thành lập Nha Y tế thôn quê trong Bộ Y tế, có nhiệm vụ thực

301
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

hiện công tác y tế tại các xã như truyền bá vệ sinh và tân y học,
mở các nhà hộ sinh, lập các tủ thuốc và đào tạo cán bộ.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.83-84.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.264-265.

Tháng 12, ngày 24


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi nhân dân Pháp nhân dịp
lễ Nôen và năm mới 1950.
Sau khi vạch rõ những nguyên nhân của cuộc chiến, những
tội ác ghê tởm của thực dân Pháp đã gây ra ở Việt Nam, những
tổn thất về của cải, tính mạng của thanh niên Pháp, Chủ tịch
viết: “Chúng tôi biết rằng các bạn không tán thành cuộc chiến
tranh phi nghĩa này và các bạn thiết tha mong đợi hòa bình.
Chúng tôi cũng muốn hòa bình.
Vậy chúng ta hãy hợp sức lại.
Các bạn hãy chiến đấu kỳ cho đạt được mục đích mà các
bạn đã theo đuổi, đòi phải đình chỉ tức khắc cuộc chiến tranh
và phải cho ngay các thanh niên Pháp về nước.
Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ mở cuộc tấn công để quét
sạch bọn thực dân xâm lược khỏi đất nước chúng tôi.
Thực dân phản động sẽ bị thất bại.
Lúc đó hai dân tộc chúng ta sẽ có thể bắt tay nhau trong
hòa bình và nhất trí”.
Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 146-SL, quy định thuế
điền thổ năm 1950 thu bằng thóc, và ấn định thuế xuất cho
các loại ruộng đất.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.I, tr.331-332.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.266-267.

302
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 12, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho người cháu là Hồ Quang


Chính bức thư dưới đây:
“Gởi Hồ Quang Chính
Phòng mật mã, bộ Tổng Tư lệnh. 1949
Thơ tiếng ta của cháu, còn phải tập làm nhiều nữa, mới khá.
Thơ chữ Tàu của cháu, giống “văn chương thầy cúng”.
Khuyên cháu thi đua học tập và làm việc.
Thân ái”
- Bản chụp bút tích bức thư in trên báo Giáo dục và Thời đại,
số 21, ngày 23-5-1994.

Tháng 12, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 147-SL, quy định


cụ thể tại những nơi có tác chiến, cấp chỉ huy quân sự nào
thì có quyền ra chỉ thị về phương diện quân sự cho các
cấp kháng chiến hành chính và các cấp phụ trách cơ quan
chuyên môn nào.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:


- Sắc lệnh số 148-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 135-SL, ngày 24-7-1946
và ấn định cụ thể mức chi phí tiếp tân cho các cấp chính quyền
nhân dân, từ Ban Thường trực Quốc hội đến Ủy ban kháng
chiến hành chính huyện và thị xã.
- Sắc lệnh số 149-SL, tặng thưởng Huân chương Độc lập
hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba và Huân chương Kháng chiến

303
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

hạng Nhất cho một số tỉnh, đơn vị và cá nhân nhân dịp kỷ


niệm ba năm toàn quốc kháng chiến1).
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 31

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 150-SL, bổ sung những


quyền hạn và nhiệm vụ của Bộ trưởng Bộ Nội vụ đối với Ủy
ban kháng chiến hành chính các cấp.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn anh chị em thương
binh Liên khu III đã gửi áo biếu Người và khen ngợi tinh thần
cố gắng của anh chị em thương binh trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc.
Về món quà tặng của anh em, thư Người viết:
“Còn bộ áo anh em gửi biếu. Không nhận chăng? Thì anh
em tủi. Nhận lấy chăng? Thì tôi không yên lòng.

1) - Thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho tỉnh Thái Bình.
- Thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng
Ngãi, Phúc Yên.
- Thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba (truy tặng) cho ông Vũ Dương
Thành (Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Phú Thọ).
- Thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho các đơn vị: Đài
phát thanh tiếng nói Việt Nam, Công an tỉnh Thừa Thiên, Công đoàn
hỏa xa Nam Trung Bộ, Công đoàn Vạn Thắng (Thừa Thiên), ngành
Giao thông liên lạc Nam Bộ; và các ông bà Nguyễn Văn Hồng (Hải
Dương), Nguyễn Văn Tiết (Thủ Dầu Một), Nguyễn Văn Lương (Gia
Định), Nguyễn Thị Hoa tức Hồ Thị Bi (Gia Định), bác sĩ Nguyễn Văn
Hưởng (Nam Bộ).

304
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tôi định giải quyết thế này: nhờ các đoàn thể bán đấu giá
bộ áo ấy, bán được bao nhiêu tiền thì đưa dùng vào việc nghĩa”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.275.

Tháng 12, trong tháng


1949
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể Vệ quốc quân
và dân quân du kích báo tin: Trong phiên họp cuối năm, khi
kiểm điểm công tác chuẩn bị cho tổng phản công, Hội đồng
Chính phủ nhận thấy Vệ quốc quân và dân quân du kích đã
lập được nhiều chiến công, nên Chính phủ đã quyết định khen
ngợi toàn thể Quân đội quốc gia và Dân quân du kích. Người
rất vui lòng được thay mặt Chính phủ chuyển lời khen ngợi đó.
Bức thư viết tiếp:
“Năm mới là năm chuyển mạnh sang tổng phản công, tôi
chắc rằng toàn thể quân đội ta, với sự ủng hộ mạnh mẽ của
toàn dân sẽ ra sức thi đua lập những chiến công quyết định để
mau đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn đặng đáp
lại lòng tin cậy của đồng bào và Chính phủ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.268.

Tháng 12, trong tháng


Nhân dịp có đoàn đại biểu đi công tác vùng Công giáo, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Công giáo.
Người nêu rõ: “Nhờ sức đại đoàn kết của toàn dân và sự
hăng hái tham gia kháng chiến của mọi người, giáo cũng như
lương” mà kháng chiến ngày càng thắng lợi. Vì vậy, “đồng bào
lương cũng như giáo, đã đoàn kết phải đoàn kết khăng khít
hơn nữa, đã tham gia kháng chiến phải thi đua tham gia mạnh
hơn nữa”, để đến ngày Tổ quốc thống nhất và độc lập thực sự,

305
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

ai cũng có thể tự hào rằng mình đã góp một phần vào thắng
lợi chung.
- Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.270-271.

Tháng 12, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ,
tỏ ý lo lắng cho sự an toàn của Giám mục từ khi Pháp nhảy dù
xuống Bùi Chu - Phát Diệm. Người đề nghị: “Nếu cụ vui lòng ra
vùng tự do để cùng toàn dân kháng chiến chống Pháp thì tôi sẽ
ra lệnh cho địa phương rước cụ đi”, và khẳng định: “Còn Chính
phủ thì quyết dùng lực lượng để giải phóng đất Thánh, cũng
như để giải phóng toàn bộ đất nước ta”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.273.

Tháng 12, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị Công giáo, cho
biết Người rất muốn đến tham dự, “nhưng tiếc vì bận việc quá
không đến được. Vậy tôi có nhờ ông Bộ trưởng Hoàng Minh
Giám tới thay mặt tôi chúc phúc các vị và nhờ các vị chuyển lời
tôi chúc phúc cho đồng bào Công giáo”.
Người mong “các vị sẽ nỗ lực kêu gọi đồng bào lương và
giáo đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, thi đua tham gia kháng chiến
mạnh hơn nữa để mau đi đến thắng lợi hoàn toàn, để thực
hiện khẩu hiệu:
Phụng sự Đức Chúa
Phụng sự Tổ quốc”.
- Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.272.

306
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 12, trong tháng
Được tin Luật sư Phan Anh có thêm cậu con trai, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết thư mừng:
“Chú thím thêm một con
Các cháu thêm một em
1949
Bác Hồ thêm một cháu
Nước nhà thêm một công dân
Tương lai thêm một chiến sĩ”.
- Thơ ca chiến khu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội, 2001, tr.362.

Tháng 12, trong tháng


Nghe tin bác sĩ Trần Hữu Tước ốm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết thư hỏi thăm:
“Tôi gửi lời thăm chú. Nghe nói chú ốm, vậy chú phải nghỉ
một tháng để dưỡng bệnh. Chú Trần sẽ thu xếp giúp chú.
Đây là mệnh lệnh!
Chào thân ái và quyết thắng
Tháng 12 năm 1949
HỒ CHÍ MINH”
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại gia đình bác sĩ Trần
Hữu Tước.
- Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.276.

Tháng 12, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Đại tướng Tổng tư lệnh
Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam. Thư cho biết Người
đã gửi thưởng cho các trung đoàn 174; 148; 301 và liên trung
đoàn 80-83, mỗi trung đoàn một lá cờ và cho phép các trung

307
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

đoàn thêu vào lá cờ những trận thắng to nhất của Trung đoàn
mình. Người mong rằng, các trung đoàn khác sẽ thi đua với
nhau lập nhiều chiến công hơn nữa.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.269.

Tháng 12, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện đến Chính phủ Miến Điện
nhân dịp kỷ niệm Ngày độc lập của Miến Điện. Trong thư,
Người bày tỏ lòng biết ơn anh em Miến Điện về sự đoàn kết
hữu nghị với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt
Nam và khẳng định quan hệ anh em giữa hai nước ngày càng
được tăng cường và chặt chẽ.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.274.

Tháng 12, cuối tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với các ông Hoàng Quốc
Việt, Trần Danh Tuyên để nghe trình bày và trao đổi về kế
hoạch tiến hành Đại hội lần thứ nhất Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam.
Người căn dặn: “Cần tổ chức cho đoàn viên học tập nắm
chắc nội dung thi đua trong tình hình mới, tất cả chuẩn bị
cho tổng phản công. Đại hội phải hết sức tiết kiệm, tránh phô
trương hình thức và phải thật sự dân chủ, bình đẳng. Chú ý có
nữ đại biểu công nhân”.
Người tỏ ý tiếc không đến dự Đại hội được vì sắp phải đi
công tác xa, nhưng hứa sẽ có thư gửi Đại hội.
- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 1990, tr.262.

308
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị cán bộ dân vận.
Người đã giải thích rõ nhiệm vụ của cán bộ dân vận là gì? Để
thực hiện được nhiệm vụ đó, cán bộ dân vận phải làm thế nào
cho mọi người dân đều hiểu rõ, phải động viên toàn dân. Mỗi
cán bộ dân vận phải: 1949
1. Tự mình hiểu rõ 100 phần trăm chính sách ấy.
2. Hiểu rõ dân 100 phần trăm.
3. Có kế hoạch dân vận thật rõ ràng, thiết thực.
4. Tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính, làm cho dân tin, dân
phục, dân yêu, thì mọi người dân mới nghe.
- Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.278-279.

Trong năm
Với bút danh Trần Lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn Giấc
ngủ mười năm, một truyện ngắn mang tính chất viễn tưởng.
Truyện kể về cuộc đời của một nông dân miền núi tên là
Nông Văn Minh, trước cách mạng phải đi ở, sau tham gia Vệ
quốc quân, chiến đấu dũng cảm và bị thương trong trận đèo
Bông Lau cuối năm 1947, được đưa về Viện quân y điều trị. Do
vết thương quá nặng, anh bị hôn mê, sau mười năm mới tỉnh.
Con gái anh bây giờ đã là sinh viên y khoa, được đưa vào Viện
quân y chăm sóc anh.
Khi tỉnh dậy, anh được con gái kể lại cho nghe những gì đã
xảy ra trong mười năm qua: cuộc kháng chiến của quân dân ta
đã kết thúc thắng lợi, Pháp phải công nhận Việt Nam, ký hòa
ước với Chính phủ ta, nhân dân đang nô nức thi đua xây dựng
lại đất nước. Người vợ nghèo khổ của anh nay đã là chủ tịch
xã. Gia đình, quê hương, đất nước đều đã đổi thay.

309
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Anh chiến sĩ đèo Bông Lau năm xưa, nghe con gái kể
chuyện, nhìn thấy những thay đổi xung quanh..., trong lòng vô
cùng phấn khởi và cảm động.
- Trần Lực: Giấc ngủ mười năm, Tổng bộ Việt Minh, Việt Bắc,
1949. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Hồ Chí Minh: Truyện và ký, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1985.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.81-100.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi anh chị em công nhân
Công đoàn vận tải sông Lô (Tuyên Quang), hoan nghênh đề
nghị của các chị em mong được đóng đảm phụ tham gia kháng
chiến như nam giới. “Việc đó càng tỏ rõ lòng nồng nàn yêu
nước của chị em”, Người mong “chị em xung phong thi đua ái
quốc, thân ái đoàn kết, tổ chức công việc cho nhanh, cho khéo.
Mọi người đều học cho biết đọc, biết viết, làm tính, giữ bí mật
và giúp đỡ bộ đội”.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.25.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng ông Văn Trang1), cán bộ làm
công tác vận động Hoa kiều, một mảnh lụa Nam Định của đồng
bào dưới xuôi gửi biếu Người để ông may áo cho đứa con nhỏ
mới hơn một tuổi.
- Văn Trang: “Ở bên Hồ Chí Minh”, tạp chí Những vấn đề
quốc tế (Trung Quốc), số 1-1991.

1) Văn Trang là cán bộ người Trung Quốc, được cử sang Việt Nam công tác
từ năm 1948 đến năm 1967 mới về nước. Suốt 19 năm công tác tại Việt
Nam, ông may mắn có rất nhiều dịp sống gần Chủ tịch Hồ Chí Minh.

310
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chia buồn khi được tin ông
Hoàng Minh Châu, ủy viên trong Ban Thường trực Quốc hội
tạ thế. “Tôi thay mặt Chính phủ kính cẩn nghiêng mình trước
linh hồn ông Hoàng và gửi lời thân ái chia buồn với gia đình
ông Hoàng cùng đồng bào tỉnh Biên Hòa”. 1949
- Bản gốc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.277.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời bốn câu hỏi phỏng vấn của
một nhà báo Mỹ:
1. Hỏi: Xin hỏi Chủ tịch có chắc sẽ đánh thắng thực dân Pháp
không?
Đáp: Chắc thắng.
2. Hỏi: Chủ tịch đối với ông Bảo Đại thế nào?
Đáp: Về phương diện tư nhân, tôi với ông Vĩnh Thụy không
có thù hiềm gì hết. Nhưng về phương diện dân tộc, Vĩnh Thụy
là một người có tội phản quốc.
3. Hỏi: Chủ tịch thân Mỹ hay chống Mỹ?
Đáp: Tôi chỉ thân Việt.
Nhưng sau đây là ý riêng của chúng tôi: Trước kia chúng
tôi rất mến người Mỹ. Một là vì chúng tôi mến lời Tuyên ngôn
độc lập của nước Mỹ. Hai là vì chính sách sáng suốt của Tổng
thống Rudơven (Roosevelt) đối với các dân tộc nhỏ yếu. Ba
là vì thái độ thành thực của những người Mỹ đã cộng tác với
chúng tôi trong thời kỳ chống Nhật.
Nhưng nay tâm lý ấy hơi khác. Một là vì thái độ của những
người Mỹ quan trọng, như ông Bulit đã bày tỏ trong báo Life.
Hai là vì phần nhiều khí giới và lương thực quân đội Việt Nam
lấy được từ quân đội Pháp đều là do Mỹ tiếp tế. Ba là vì nhiều

311
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

người Mỹ hay tin những lời tuyên truyền giả dối của Pháp,
như nói Việt Nam theo mệnh lệnh Kremlin và Kominform1)).
Phải chăng, lúc tướng Washington và người Mỹ đánh Anh
để tranh độc lập cũng vì mệnh lệnh của Kremlin và Kominform.
4. Hỏi: Khi đã độc lập, Việt Nam sẽ hoan nghênh tư bản
ngoại quốc không?
Đáp: Sau 80 năm bị thực dân Pháp vơ vét, bóc lột và mấy
năm bị thực dân Pháp tàn phá, cướp bóc, nước Việt Nam độc
lập cần phải ra sức kiến thiết.
Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) thật thà muốn đưa tư
bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả
hai bên, thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh.
Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) mong đưa tư bản
đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ kiên quyết
cự tuyệt.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Tạp chí Quan hệ quốc tế, số 5-1991.

Cuối năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: Cách xem xét việc đời và cách
tu dưỡng của người cách mạng. Trong phần thứ nhất của bài
viết, Người chỉ rõ: “Đảng cách mạng là một đảng phấn đấu để
giải phóng dân tộc, giải phóng loài người, giải phóng giai cấp
cần lao. Vì vậy, mỗi đảng viên chẳng những cần phải phấn đấu
cho sự nghiệp cách mạng, mà còn phải phấn đấu cho cách xem
xét việc đời của chủ nghĩa cách mạng”. Muốn như vậy, trước
hết mỗi đảng viên tự mình phải nắm cho vững cách xem xét
ấy, và phải tin chắc vào tiền đồ cách mạng. Mỗi đảng viên cách
mạng ắt phải do sự giác ngộ của mình, do sự nghiên cứu chủ

1) Tên gọi tắt của Cục Thông tin Quốc tế Cộng sản, một tổ chức quốc tế do
các Đảng Cộng sản thỏa thuận thành lập sau khi Quốc tế Cộng sản giải
tán, làm nhiệm vụ giữ mối liên hệ giữa các đảng. Trụ sở đặt tại Praha
(Tiệp Khắc).

312
TẬ P 4 : 1946 - 1950
nghĩa Mác - Lênin, mà hiểu rõ địa vị và tác dụng của giai cấp
công nhân, hiểu rõ lợi ích của giải cấp công nhân, hiểu rõ chính
sách và mục đích của đảng mình.
Trong phần còn lại của bài viết, Người nhắc nhở việc đảng
viên rèn luyện và tu dưỡng chẳng những rất quan trọng cho
những đảng viên mới và không phải gốc vô sản, mà còn cần
cho những đảng viên cũ và những người đảng viên gốc vô sản.
1949
Vì Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội
sinh ra. Vì vậy, mỗi đảng viên đều có ít nhiều vết tích về tư
tưởng và tập quán của xã hội cũ, thường đụng chạm tới những
cái không tốt của xã hội cũ... nên đảng viên phải giữ vững đạo
đức cách mạng, cao nhất là chí công vô tư; phải nắm vững lập
trường và quan điểm của giai cấp vô sản. Ra sức tham gia đấu
tranh cách mạng, nghiên cứu chính trị. Muốn thành đảng viên
tốt, muốn thành một chiến sĩ xung phong trong sạch của giai
cấp vô sản, tất phải rèn luyện và tu dưỡng về mọi mặt… Người
còn nhấn mạnh những đảng viên không xuất thân từ giai cấp
vô sản càng phải đặc biệt rèn luyện, cải tạo tư tưởng đến cùng.
- Tài liệu lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.280-303.

Khoảng cuối năm


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chia buồn với gia đình ông
Phan Kế Toại khi được tin mẹ vợ ông từ trần.
- Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tháng 8-1990.

Khoảng cuối năm


Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thư từ, công văn do Triệu Hồng
Thắng1) mang tới. Khi Triệu Hồng Thắng đi xuống nhà, Người
nghe có tiếng ho, bèn gọi lại:
- Chú Thắng, vào đây Bác hỏi. Chú không có áo ấm à?

1) Chiến sĩ cảnh vệ Văn phòng Chủ tịch phủ (B.T).

313
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Triệu Hồng Thắng lúng túng chưa kịp trả lời, Người đặt bút
xuống bàn, đứng lên, đến bên giường lấy một cái áo trấn thủ
đem lại.
- Chú mặc cái áo này cho đỡ lạnh.
Triệu Hồng Thắng lắc đầu:
- Không, thưa Bác, cháu đang sức thanh niên, lại ở miền núi
quen chịu rét rồi. Bác có tuổi, cần mặc ấm...
Người chỉ vào chiếc áo đang mặc:
- Bác có cái áo này đủ rồi. Chú phải mặc áo này kẻo sinh bệnh...
Triệu Hồng Thắng cầm chiếc áo, ứa nước mắt.
- Lời kể của Triệu Hồng Thắng, in trong Nhớ công ơn Bác,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.92.

Khoảng cuối năm


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thiếp thư cho Ban Xung phong
Lào Bắc1).
Thiếp thư có đoạn:
“... Kiến lập căn cứ địa Lào độc lập là nhiệm vụ cần kíp. Ban
Xung phong Lào Bắc phải ra sức gây cơ sở quần chúng trong
vùng địch kiểm soát.
Tôi chúc Ban Xung phong Lào Bắc chóng thành công, khu
giải phóng Lào độc lập chóng thành lập”.
- Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1993, tr.14.
- Tư liệu lưu trữ của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam,
Bộ Quốc phòng.

1) Ban Xung phong Lào Bắc là tên một tổ chức phối hợp giữa Liên khu X
(Việt Nam) và Mặt trận Lào yêu nước.
Tờ thiếp thư không đề ngày tháng, nhưng theo Công văn số 3501/VP của
Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam và Công văn số 59/BCS,
chúng tôi cho rằng tờ thiếp thư được viết vào cuối năm 1949.

314
NĂM 1950

Tháng 1, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc mừng tới Đại hội Công
đoàn toàn quốc1).
Người góp một số ý kiến cụ thể về những việc chính mà
Đại hội cần làm và căn dặn: “Trong công việc kháng chiến và
kiến quốc, trong sự nghiệp xây dựng nền dân chủ mới, giai cấp
công nhân phải là người lãnh đạo. Vì vậy, mỗi nam, nữ công
nhân phải cố gắng học hỏi, tiến bộ, phải cố gắng xung phong
làm kiểu mẫu trong mọi việc để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của
giai cấp mình”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 01-SL cử
ông Đặng Phúc Thông - Thứ trưởng Bộ Giao thông Công chính,
kiêm chức Giám đốc Trường Cao đẳng Kỹ thuật.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.305-306.

Tháng 1, ngày 2
Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Tân Trào (châu Tự Do,
Tuyên Quang) đi Trùng Khánh, bắt đầu chuyến sang thăm
Trung Quốc và Liên Xô.

1) Đại hội Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khai mạc ngày 1-1-1950 tại
Việt Bắc, có gần 200 đại biểu tới dự (B.T).

315
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trước khi đi, Người gặp riêng một số đồng chí, dặn dò và
giao nhiệm vụ cụ thể trong thời gian Người đi công tác.
Chuyến đi của Người được giữ tuyệt đối bí mật và bố trí
bảo vệ chu đáo, vì quân Pháp vẫn còn chiếm đóng thị xã Cao
Bằng và kiểm soát gắt gao dọc biên giới Việt - Trung; bên đất
bạn cũng mới được giải phóng, tàn quân Quốc dân Đảng và
những toán thổ phỉ vẫn hoạt động. Người phải cải trang, mặc
quần áo chàm của người Nùng, đầu đội mũ nồi, dùng chiếc
khăn che nửa khuôn mặt.
Cùng đi với Người có ông Trần Đăng Ninh - Ủy viên Trung
ương, phụ trách hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam, bác
sĩ Chánh, đồng chí Nhất bảo vệ, cùng với năm, sáu người trợ lý.
Đoạn đường từ Tuyên Quang đến biên giới Trung - Việt,
Người chủ yếu đi bằng ngựa, nhiều lúc phải đi bộ rất vất vả.
- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 1990, tr.262-263.
- Nhật ký Vũ Kỳ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.133.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.

Tháng 1, ngày 6
Thư chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
đồng bào cả nước, toàn thể chiến sĩ, cán bộ, các cháu thanh
niên và nhi đồng nhân dịp Tết dương lịch, đăng trên báo
Sự thật, số 1261).

1) Chuyến đi Trung Quốc - Liên Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được
chuẩn bị từ cuối năm 1949. Do đó, một số văn kiện như bài viết, thư từ,
sắc lệnh trong thời gian đi công tác (từ tháng 1 đến đầu tháng 4-1950),
Người đã viết và ký sẵn từ trước.

316
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người viết: “Trong năm 1950, cuộc kháng chiến sẽ bước
sang giai đoạn mới. Vì vậy, mỗi một công dân Việt Nam, mỗi
một chiến sĩ Việt Nam phải đưa tất cả tinh thần và lực lượng
mới vào cuộc Thi đua ái quốc, để chuẩn bị mau chóng đầy đủ
đặng chuyển sang tổng phản công.
Năm mới là một năm quyết định. 1950
Mỗi người, mỗi ngành, mỗi nơi đều phải cố gắng làm tròn
bổn phận, thì năm mới chắc là một năm đại thắng lợi”.
Số báo trên còn đăng bài viết của Người nhan đề Bệnh máy
móc, ký bút danh A.G.
Sau khi nêu những ví dụ cụ thể, phân tích những nguyên
nhân và tác hại của bệnh máy móc, Người đưa ra đơn thuốc
dùng chữa trị căn bệnh này.
“Bất kỳ việc to việc nhỏ:
Phải xem xét kỹ lưỡng,
Phải bàn bạc kỹ lưỡng,
Phải hỏi dân kỹ lưỡng,
Phải giải thích kỹ lưỡng cho dân,
Phải luôn luôn gần gụi dân”.
Cùng ngày, Chủ tịch nhân danh nhân dân Việt Nam, Chính
phủ Việt Nam và cá nhân, gửi điện mừng ngày sinh lần thứ 70
của Thống chế I.V. Xtalin, “chúc Thống chế hạnh phúc và
trường thọ”.
- Báo Sự thật, số 126, ngày 6-1-1950.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.304, 307-309.

Tháng 1, ngày 14
Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời tuyên bố
của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Chính
phủ các nước trên thế giới.

317
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sau khi điểm lại quá trình lịch sử xây dựng chính quyền
nhân dân từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vạch trần sự
phản bội của thực dân Pháp, khẳng định sự đồng tình và ủng hộ
của nhân dân toàn thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam trong những năm qua, Lời tuyên bố có đoạn:
“Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với Chính
phủ các nước trên thế giới rằng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân
dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với
Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh
thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau
bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”.
- Báo Sự thật, số 127, ngày 25-1-1950.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.310-311.

Tháng 1, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị công an toàn
quốc1), góp ý kiến về công tác xây dựng bộ máy công an nhân
dân, cách tổ chức công an, về lề lối làm việc và quan hệ với
nhân dân.
Cùng ngày, Người nhận được Mật điện số 43/DL-15 của phái
viên Chính phủ Việt Nam ở Thái Lan chuyển hai câu hỏi của nhà
báo Solsander, phóng viên báo France Tireur ở Băng Cốc.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 03-SL, về
việc lập “Quỹ công lương” thay thế “Quỹ tham gia kháng chiến”.
- Bản gốc mật điện lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.312-313.

1) Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ năm họp từ ngày 21-1-1950 (B.T).

318
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 1, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đường Phục Hòa (Cao Bằng)
qua Thủy Khẩu sang huyện Long Châu1) (Trung Quốc).
Một đơn vị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thuộc
Quân khu Quảng Tây đã đến đón và làm nhiệm vụ hộ tống Người.
Tối, Người nghỉ tại Bộ Tư lệnh Phân khu Long Châu. 1950
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân dân,
số 15817, ngày 10-5-2005.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc - Biên
niên sự kiện, Hà Nội, 2004, tr.147.

Tháng 1, ngày 17
Sáng, từ Long Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi ôtô của Quân
giải phóng (Trung Quốc) đến Nam Ninh - thủ phủ của tỉnh
Quảng Tây.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 04-SL, quy định từ ngày 1-1-1950 cho đến khi
kháng chiến thành công, sẽ thu thêm vào thuế tem trước bạ
một số phụ thu kháng chiến.
- Sắc lệnh số 05-SL, về việc bổ nhiệm giám đốc mới Nha
Kỹ nghệ.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung
Quốc).
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc - Biên
niên sự kiện, Hà Nội, 2004, tr.147.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) Theo Hoàng Tranh trong Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng
quân, Bắc Kinh, 1987, bản tiếng Trung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Long
Châu ngày 19-1-1950.

319
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 1, ngày 18
Trưa, trên đường đi Nam Ninh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng
lại nghỉ ở xã Vĩnh Thiện.
Chiều, đi tiếp.
Tối, tới Nam Ninh, nghỉ tại Khách sạn Kim Sơn, đường
Dân Sinh.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân dân,
số 15817, ngày 10-5-2005.

Tháng 1, ngày 20
Tại cơ quan giao tế Nam Ninh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự tiệc
chiêu đãi do các tướng lĩnh cấp cao của Quân khu Hoa Nam và
Chủ tịch Quảng Tây tổ chức chào mừng Người. Trong buổi tiệc,
Người đã gặp người bạn cũ là tướng Trần Canh. Trần Canh rất
mừng. Vì sắp phải ra trận để giải phóng tiếp Vân Nam (lúc đó
còn trong tay Quốc dân Đảng Trung Quốc), Trần Canh đề nghị
chụp chung với Người một tấm ảnh kỷ niệm. Người còn viết
tặng vị tướng này một bài thơ chữ Hán1) và dịch ngay sang
tiếng Việt, đọc cho những người đi theo cùng nghe.
Lời dịch như sau:
Khi xưa gặp chú một thanh niên,
Nay chú cầm quân giữ soái quyền,
Trăm vạn hùng binh theo lệnh chú,
Giữ gìn cách mạng cõi Điền biên2).

1) Nguyên tác chữ Hán:


Đương niên ngộ quân nhất thanh niên,
Như kim thống binh ác soái quyền,
Hùng sư bách vạn tất thính lệnh,
Hãn vệ cách mạng cố Điền biên.
2) Điền: tên tỉnh Vân Nam. Điền biên: vùng biên cương tỉnh Vân Nam (B.T).

320
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị
toàn quốc của Đảng. Sau khi phân tích tình hình thế giới và
trong nước, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của năm mới là: hoàn
thành việc chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công” và nêu
những công việc trước mắt.
Người nhấn mạnh: “Riêng về Đảng, các đồng chí hãy kiểm 1950
thảo sự lãnh đạo của Đảng về chính trị và tổ chức, đề cao tinh
thần phê bình và tự phê bình trong Đảng, tổ chức việc học tập
lý luận và sửa đổi lối làm việc, để cho Đảng ta thành một lực
lượng rất mạnh, đưa dân tộc đến bước thành công”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 06-SL, về việc thành lập các công ty công tư
hợp doanh, trong đó Chính phủ hợp vốn với tư nhân để kinh
doanh theo kế hoạch kinh tế chung của Chính phủ.
- Sắc lệnh số 07-SL, về việc tổ chức lại văn phòng các bộ và
các cơ quan trực thuộc các bộ (trừ Bộ Quốc phòng).
- Sắc lệnh số 08-SL, về việc quy định hệ thống đo lường và
dụng cụ đo lường.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng
quân, Bắc Kinh, 1987, tr.125 (bản tiếng Trung).
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.316, 314-315.

Tháng 1, ngày 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Nam Ninh, đi ôtô đến Lai Tân. Từ
đây, Người đi tiếp lên Bắc Kinh bằng xe hỏa.
Sau khi tới Bắc Kinh, Người dừng lại ở đây hơn một tuần.
Thời gian lưu lại ở Bắc Kinh, Người có những buổi tiếp xúc
riêng với các nhà lãnh đạo Trung Quốc như Phó Chủ tịch

321
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Lưu Thiếu Kỳ, Tổng tư lệnh Chu Đức, Nhiếp Vĩnh Trăn, Liêu
Thừa Chí, Lý Duy Hán...1).
- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng
quân, Bắc Kinh, 1987, tr.125 (bản tiếng Trung).
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc (sách ảnh), Nxb. Đại
bách khoa toàn thư Trung Quốc, Bắc Kinh, 1995, tr.43-44.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.

Tháng 1, ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:


- Sắc lệnh số 09-SL, xác định tất cả các nguồn khoáng chất
ở Việt Nam đều thuộc sở hữu của Nhà nước.
- Sắc lệnh số 10-SL, về việc ân giảm và ân xá cho tù nhân
nhân ngày kỷ niệm lần thứ tư cuộc Cách mạng Tháng Tám và
ngày Độc lập 2-9.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 25

Tại Bắc Kinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được điện cám
ơn của Thống chế Xtalin về bức điện Người chúc mừng Thống
chế 70 tuổi.
Bức điện của Xtalin viết: “Nhân dịp lễ sinh nhật của tôi,
được điện chúc mừng của Chủ tịch, tôi kính lời cảm tạ”.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.

1) Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai lúc này đang ở Mátxcơva đàm phán và ký
kết Hiệp định hợp tác với Liên Xô (B.T).

322
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 1, trước ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa gửi điện mừng tới Tổng thống nước Cộng
hòa Ấn Độ nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh của Ấn Độ. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cầu chúc cho hạnh phúc và phồn vinh của đất
nước Ấn Độ.
1950
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.317.

Tháng 1, ngày 31

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:


- Sắc lệnh số 14-SL, ấn định phí cấp hằng tháng, kể từ ngày
1-8-1949, cho các Ủy viên trong Ủy ban hành chính và Ủy ban
kháng chiến hành chính các cấp.
- Sắc lệnh số 15-SL, đặt tại Liên khu Việt Bắc một Ban Căn
cứ địa, thay cho Ban Căn cứ địa đặt trong Chủ tịch phủ trước
đây theo Sắc lệnh số 110-SL, ngày 23-9-1949.
- Sắc lệnh số 16-SL và số 17-SL, chỉ định Ủy viên Ủy ban
kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.
- Sắc lệnh số 18-SL, cho phép một kiều dân Trung Hoa được
nhập quốc tịch Việt Nam.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Phòng Nam Bộ biểu
dương: “Anh chị em suốt năm làm việc khó nhọc, nhiều khi
thiếu thốn, nhưng ai cũng không phàn nàn, ai cũng cố gắng
làm tròn nhiệm vụ. Thế là rất tốt”.

323
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sau khi nhắc nhở “anh chị em cần phải hợp tác mật thiết
với các chiến sĩ trước mặt trận Nam Bộ”, Người căn dặn: “Năm
nay là năm ta phải chuyển mạnh sang tổng phản công, cho nên
anh chị em đã cố gắng còn phải cố gắng thêm”.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.

Tháng 2, ngày 1
Tại Bắc Kinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 20 năm
ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và tiệc chiêu đãi do
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.

Tháng 2, ngày 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Bắc Kinh, bí mật lên đường
tiếp tục chuyến đi sang Mátxcơva bằng tàu hỏa liên vận của
Trung Quốc.
Ông Trần Đăng Ninh được cùng đi với Người, các đồng chí
khác phải ở lại chờ.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.135.
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.

Tháng 2, ngày 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới đồng chí Xtalin, Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Bức điện có nội dung: Người
muốn đến Mátxcơva một cách bí mật, bởi vì theo Người, nếu
Pháp biết Người rời khỏi Việt Nam, họ sẽ có thể có những hành

324
TẬ P 4 : 1946 - 1950
động chính trị, quân sự. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhờ
đồng chí Xtalin tìm giải pháp tốt nhất để đến thăm Mátxcơva
một cách bí mật. Người cũng mong muốn được đến thẳng chỗ
đồng chí Xtalin khi tới Mátxcơva.
- Nội san Thông tin tư liệu, Bảo tàng Hồ Chí Minh, số 11,
tháng 2-2006 1950
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.321.

Tháng 2, ngày 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 19-SL, cho phép ông
Tổng giám đốc Nha Lâm chính thuộc Bộ Canh nông được từ
chức và cử người thay thế.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 20-SL, quyết định tổng động viên nhân lực, vật
lực, tài lực của toàn thể nhân dân để tiến tới tổng phản công.
Bản Sắc lệnh ghi rõ: “Tất cả nhân lực, vật lực, tài lực của
toàn thể nhân dân đều đặt dưới chế độ pháp luật đặc biệt
trong thời kỳ chiến tranh”.
- Sắc lệnh số 21-SL, bổ sung về thủ tục thiết lập hoặc sửa
đổi địa giới những đơn vị hành chính tỉnh và huyện.
- Sắc lệnh số 22-SL, đồng ý để ông Trần Hữu Phụng, Ủy viên
Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Nội, được từ chức.
- Sắc lệnh số 23-SL, cấp lần thứ tư cho Nha tín dụng sản
xuất số tiền 30 triệu đồng làm tiền quỹ.
- Sắc lệnh số 24-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý văn phòng Bộ
Giao thông Công chính.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

325
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 2, ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 25-SL, về việc sử dụng
ruộng đất vắng chủ trong thời kỳ kháng chiến.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, khoảng giữa tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Mátxcơva.
Tại Mátxcơva, làm việc với các nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ
tịch Hồ Chí Minh trình bày rõ tình hình Việt Nam và yêu cầu
bạn viện trợ vũ khí và đạn dược để đánh Pháp. Trước đây,
Liên Xô không hiểu rõ tình hình Việt Nam, sau khi nghe Người
trình bày, Xtalin tán thành đường lối chiến lược, sách lược của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tỏ thái độ đồng ý viện trợ cho Việt
Nam thông qua Trung Quốc.
Cũng trong thời gian ở Mátxcơva, Người đã gặp gỡ đại
diện Đảng Cộng sản Pháp và nhiều tổ chức quốc tế để tranh
thủ sự đồng tình và ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên
thế giới đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân
Việt Nam.
- Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.135.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- Tạp chí Viêm Hoàng xuân thu (Trung Quốc), số 10-1995.
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.149.

Tháng 2, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 26-SL, về việc thành lập Ban giảm tô xã.

326
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 27-SL, bổ nhiệm ông Đinh Đức Thiện làm Cục
trưởng Cục Vận tải.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 16
Tại Mátxcơva, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đại tiệc do Chính 1950
phủ Liên Xô tổ chức để mừng thắng lợi Hiệp ước hữu nghị
tương trợ đồng minh Xô - Trung vừa được ký kết, cũng là bữa
tiệc tiễn khách.
Dự bữa tiệc này, có đầy đủ các nhà lãnh đạo Liên Xô: Xtalin,
Malencốp, Môlôtốp, Khơrútsốp và nhiều nhân vật khác.
Xtalin tự sắp xếp, ngồi gần với Mao Trạch Đông, Hồ Chí
Minh và Chu Ân Lai.
Trong không khí vui vẻ, thân tình của bữa tiệc, Người nói
với Xtalin:
- Thưa đồng chí Xtalin, đồng chí còn có việc gì chỉ thị cho
Việt Nam nữa không?
- Tôi làm sao chỉ thị cho đồng chí được! - Xtalin cười đáp -
Đồng chí là Tổng thống, là Chủ tịch nước Việt Nam, quan chức
còn lớn hơn cả tôi kia đấy!
Hồ Chí Minh nói:
- Các đồng chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi
đang có mặt ở đây, tôi cũng mong được các đồng chí ký một
hiệp ước như thế.
Xtalin:
- Đồng chí đến Liên Xô thăm chúng tôi lần này là chuyến đi
bí mật. Nếu ký hiệp ước, người ta hỏi đồng chí đột ngột ở đâu
“hiện” ra, chúng tôi biết giải thích thế nào!
Hồ Chí Minh cười:
- Chuyện đó dễ lắm. Đồng chí cho chúng tôi lên máy bay
bay một vòng rồi đáp xuống sân bay, cử một số đồng chí ra đón
chúng tôi, cho các báo đưa tin này, thế là xong.

327
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Xtalin cả cười:
- Quả là sức tưởng tượng độc đáo của người phương Đông
các đồng chí!
Cùng ngày, tại Việt Nam, Sắc lệnh số 29-SL, bổ nhiệm Đổng
lý và Phó Đổng lý văn phòng Bộ Quốc phòng do Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký được công bố.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- Tạp chí Viêm Hoàng xuân thu, số 10-1995.
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 17

Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Mao Trạch Đông, Chu
Ân Lai đáp xe lửa liên vận rời Mátxcơva lên đường về nước.
- Hồi ký của Ngũ Tu Quyền và Trương Quảng Hoa (Trung Quốc).
- Tạp chí Viêm Hoàng xuân thu, số 10-1995.
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc - Biên
niên sự kiện, Hà Nội, 2004, tr.147.

Tháng 2, ngày 19

Thơ chúc năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào
và chiến sĩ cả nước nhân dịp Tết Canh Dần, đăng trên báo
Sự thật, số 128:
Kính chúc đồng bào năm mới,
Mọi người càng thêm phấn khởi,
Toàn dân xung phong thi đua,
Đẩy mạnh cuộc chuẩn bị tới,

328
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Chuyển mau sang tổng phản công,
Kháng chiến nhất định thắng lợi.
Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh số 30-SL, ấn định các bậc
lương của công chức làm việc trong các cơ quan của Chính phủ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1950
2011, t.6, tr.318.

Tháng 2, ngày 22
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được công điện bảy câu
phỏng vấn của báo Siam Nikora ở Băng Cốc hỏi về tình hình
Việt Nam.
- Bản gốc công điện lưu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Tháng 2, ngày 23
Nhân kỷ niệm lần thứ 32 Ngày thành lập Hồng quân Liên Xô,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, quân đội và dân
quân du kích Việt Nam gửi điện tới Chính phủ Liên Xô, nhiệt
liệt chúc mừng Hồng quân Liên Xô và Thống chế Xtalin.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.322.

Tháng 2, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị kháng chiến hành
chính toàn quốc.
Người chỉ rõ nhiệm vụ của Hội nghị:
“- Cần phải thật thà vạch rõ những khuyết điểm trong năm
vừa qua, để cùng nhau tìm cách sửa đổi.
- Nêu rõ những ưu điểm đã lượm được, để định kế hoạch
của năm 1950, quyết chuyển mạnh sang tổng phản công.

329
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Thảo luận kỹ lưỡng những vấn đề rất quan trọng như:


chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy chính quyền; sửa đổi và thống
nhất cách làm việc, thiết thực thực hiện quân dân chính nhất
trí; giải quyết vấn đề cán bộ; chỉnh đốn và đẩy mạnh phong
trào Thi đua ái quốc”.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.323.

Tháng 2, trong tháng

Nhân dịp Xuân Canh Dần, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho
báo Lao động trả lời những câu hỏi của báo về vai trò và nhiệm
vụ của giai cấp công nhân Việt Nam.
Người nhấn mạnh: “Để xứng đáng là một giai cấp lãnh đạo
thì công nhân ta phải xung phong trong mọi việc của nước nhà
và xã hội.
Năm nay là năm ta phải chuyển mạnh sang tổng phản công.
Tôi mong rằng mỗi một người và tất cả công nhân ta sẽ làm
tròn nhiệm vụ của một giai cấp tiên phong, để chung một phần
vẻ vang trong cuộc đại thắng của dân tộc”.
Nhân dịp Xuân Canh Dần, Người cũng viết Thư gửi họ
Lại xã Phù Vân, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, khen ngợi
thanh niên dòng họ đã hăng hái tòng quân bảo vệ đất nước.
Người thay mặt nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi lời
khen ngợi và cảm ơn. Cuối thư, Người mong rằng, các họ
trong nước Việt Nam, họ nào cũng biểu hiện tinh thần yêu
nước như họ Lại Phù Vân thì ta không cần phải đánh mà
giặc cũng phải lui.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.319-320.

330
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 2, trong tháng
Tại Mátxcơva, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng chí
Xuxlốp - Bí thư Đảng Cộng sản Nga (B)1).
Thư viết ngắn gọn, báo cáo với các nhà Lãnh đạo Liên Xô về
tình hình cách mạng Việt Nam, về những chủ trương, đường
lối của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chính phủ nước Việt 1950
Nam Dân chủ Cộng hòa đang tiến hành. Người đề nghị Liên Xô
giúp nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp: viện trợ kinh tế, giúp đào tạo cán bộ... và nhiều vấn
đề khác. Thư phác thảo những vấn đề cần cân nhắc trước khi
thực hiện...
- Bản dịch thư bằng tiếng Nga, lưu tại Lưu trữ lịch sử chính
trị xã hội Nga, Phông 82 (phông tài liệu Môlôtốp), mục lục 2,
hồ sơ 1157, tờ 79-82.
- Bản phôtô lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào tăng gia sản xuất.
Người chỉ rõ hai nhiệm vụ của đồng bào ở hậu phương để
góp phần cùng bộ đội và dân quân chuyển mạnh sang tổng
phản công:
1. Thi đua tăng gia sản xuất, “quyết thực hiện khẩu hiệu:
Toàn dân canh tác, bốn mùa canh tác”.

1) Ở đầu thư ghi: dịch từ tiếng Pháp, Mátxcơva, tháng 2-1950. Cũng ở trang
đầu bức thư có một số chữ viết tay bằng tiếng Nga, ghi: Gửi đồng chí
Môlôtốp, đồng chí Xtalin (và một số đồng chí khác, nhưng chữ Nga viết
khó đọc nên chưa xác định được tên những người này). Thư gửi đồng
chí Xuxlốp, do vậy bản gốc thư viết bằng tiếng Pháp có thể lưu ở chỗ
đồng chí Xuxlốp, bản dịch được chuyển cho một số đồng chí trong Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Nga (B). Bản dịch thư không có chữ ký, nhưng
qua nội dung thư, chúng tôi xác định đây là thư do Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết sau cuộc gặp của Người với đồng chí Xtalin vào tháng 2-1950.

331
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

2. Thi đua tiết kiệm, “tránh xa xỉ, phí phạm, để dành lương
thực cho bộ đội hoặc cho những lúc túng thiếu”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.324.

Tháng 3, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh về tới Bắc Kinh.


Cùng ngày, các Sắc lệnh do Người ký trước được công bố:
- Sắc lệnh số 32-SL, về việc thành lập Ban Chỉ huy mặt trận
điều khiển các đơn vị tham chiến.
- Sắc lệnh số 33-SL, bổ nhiệm Giám đốc Nha Y tế nông thôn.
- Sắc lệnh số 34-SL, bổ nhiệm ông Trần Văn Giàu giữ chức
Tổng Giám đốc Nha Thông tin Việt Nam thay bác sĩ Nguyễn
Tấn Gi Trọng chuyển công tác khác.
- “Chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”, báo Quân đội nhân
dân, số 15817, ngày 10-5-2005.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, sau ngày 4


Chủ tịch Hồ Chí Minh hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc
Chu Ân Lai.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc - Biên
niên sự kiện, Hà Nội, 2004, tr.148.

Tháng 3, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường về nước, kết thúc chuyến
đi thăm Trung Quốc và Liên Xô.
Rời Bắc Kinh, Người viết bài thơ chữ Hán: Ly Bắc Kinh.

332
TẬ P 4 : 1946 - 1950
LY BẮC KINH
Ký Bắc thiên tâm huyền hạo nguyệt,
Tâm tùy hạo nguyệt cộng du du.
Hạo nguyệt thùy phân vi lưỡng bán?
Bán tùy cựu hữu, bán chinh phu. 1950
Dịch thơ:

RỜI BẮC KINH


Trời Ký Bắc treo vầng trăng rọi,
Lòng theo trăng vời vợi sáng ngời.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa theo bạn cũ, nửa soi lữ hành1).
- Bản chụp bút tích bài thơ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc - Biên
niên sự kiện, Hà Nội, 2004, tr.148.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.325.

Tháng 3, ngày 12
Trên đường về nước, khi đi qua tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc),
nhìn thấy đồng xanh lúa tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm bài thơ
chữ Hán: Quá Hồ Bắc.

QUÁ HỒ BẮC
Ngã khứ điền gian đô bạch tuyết,
Ngã lai điền mạch dĩ thanh thanh.
Minh thiên cơ giới thế mộc giới,
Ức triệu nông gia lạc thái bình.

1) Bản dịch của Phan Văn Các (B.T).

333
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Dịch thơ:

QUA HỒ BẮC
Đồng ruộng khi đi đầy tuyết trắng,
Nay về lúa mạch đã xanh xanh.
Ngày mai cày máy thay cày gỗ,
Ức triệu nhà nông hưởng thái bình1).
- Bản chụp bút tích bài thơ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.326.

Tháng 3, ngày 13
Qua Trường Sa, thủ phủ tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc), Chủ
tịch Hồ Chí Minh làm bài thơ chữ Hán: Thập tam tảo, quá
Trường Sa.

THẬP TAM TẢO, QUÁ TRƯỜNG SA


Trường Sa quá khứ thị sa trường,
Nhất khối lâu đài nhất điểm thương.
Trung Quốc nhi kim dĩ giải phóng,
Trường Sa thử hậu miễn tang thương.
Dịch thơ:

SỚM MƯỜI BA, QUA TRƯỜNG SA


Trường Sa ngày trước chốn sa trường,
Mỗi dãy lâu đài một vết thương.
Trung Quốc ngày nay đà giải phóng,
Trường Sa sẽ hết cảnh tang thương2).
- Bản chụp bút tích bài thơ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.327.

1), 2) Bản dịch của Phan Văn Các (B.T).

334
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 3, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:


- Sắc lệnh số 36-SL, duyệt y và cho phép thi hành kể từ ngày
1-1-1950, ngân sách toàn quốc tài khóa 1950.
- Sắc lệnh số 37-SL, cho phép phát hành và lưu thông 1950
trong toàn cõi Việt Nam giấy bạc Việt Nam loại hai trăm đồng
(200 đồng).
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 17

Buổi trưa, đi qua Thiên Giang, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
bài thơ chữ Hán: Ngọ quá Thiên Giang.

NGỌ QUÁ THIÊN GIANG


Đáo Thiên Giang, thuyết Thiên Giang,
Thiên Giang giang ngạn mãn xuân sương,
Thiên lưỡng địch xa thành hắc tận,
Hồng quân trực đáo Trấn Nam Quan.
Dịch thơ:

BUỔI TRƯA QUA THIÊN GIANG


Đến Thiên Giang kể chuyện Thiên Giang,
Xuân tới bờ sông bát ngát sương,
Xe thù ngàn cỗ thành tro xám,
Hồng quân thẳng đến Trấn Nam Quan1).
- Bản chụp bút tích bài thơ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.328.

1) Bản dịch của Phan Văn Các (B.T).

335
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, ngày 22
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho nhân dân, Chính phủ và
quân đội Việt Nam gửi điện mừng Nguyên soái Xtalin khi được
tin Nguyên soái tái cử vào Xôviết tối cao.
Bức điện có đoạn: “Nhân dịp này, thay mặt Nhân dân,
Chính phủ, quân đội Việt Nam và nhân danh cá nhân, tôi xin
gửi Nguyên soái lời chào nồng nhiệt và lời chúc mừng tốt đẹp
nhất của chúng tôi”.
Trong ngày, với bút danh DIN (Thư ký Mặt trận Liên Việt
(Mặt trận dân tộc thống nhất) địa phương), Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi bài Nước Việt Nam đấu tranh cho nền độc lập của
mình (viết bằng tiếng Pháp) cho tạp chí Vì một nền hòa bình
lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân, cơ quan ngôn luận của
Cục Thông tin Quốc tế Cộng sản.
Bài viết gồm 10 đề mục: Mặt trận dân tộc thống nhất; Cuộc
Cách mạng Tháng Tám; Sự can thiệp của bọn phản động quốc
tế; Bọn thực dân Pháp bắt đầu cuộc chiến tranh; Chúng đã bị
sa lầy trong những khó khăn về quân sự; Những khó khăn về
chính trị; Và những khó khăn về kinh tế; Sự can thiệp của Mỹ
và mâu thuẫn giữa những tên kẻ cướp; Canh bạc của Mỹ; Việt
Nam sẽ thắng lợi.
Sau khi giới thiệu vắn tắt lịch sử đấu tranh cách mạng của
nhân dân Việt Nam từ năm 1940 đến năm 1950, phân tích các
mâu thuẫn và khó khăn của Pháp và Mỹ, những thắng lợi ngoại
giao to lớn của nhân dân Việt Nam vừa giành được, Người nêu
rõ quyết tâm: “Để giành lại nền độc lập dân tộc và sự thống
nhất đất nước của mình, nhân dân Việt Nam sẵn sàng đấu
tranh 10 năm, 15 năm, 20 năm hoặc hơn nữa, nếu cần thiết!”.
Kèm theo bản thảo bài báo, Người gửi một bức thư (đánh
máy bằng tiếng Pháp) cho Ban biên tập:
“Kính gửi Bộ biên tập tuần báo
Vì một nền hòa bình lâu dài
Vì một nền dân chủ nhân dân,

336
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Đồng chí Tổng biên tập thân mến,
Tôi không viết tiếng Pháp đã từ lâu, khá lâu. Lần này viết,
chắc tôi sẽ mắc nhiều lỗi. Mong đồng chí sửa hộ những lỗi đó.
Nếu thấy cần thiết, đồng chí có thể sử dụng tài liệu này để viết
lại hoàn toàn bài báo.
Tôi sẽ gửi tới đồng chí nhiều bài khác nữa, hoặc do tôi, 1950
hoặc do các đồng chí của tôi viết.
Về thù lao, tôi mong đồng chí gửi đều đặn cho chúng tôi
nhiều bản của tờ báo và những sách báo khác mà đồng chí có.
Chào thân ái
Ngày 22 tháng 3 năm 1950
HỒ CHÍ MINH
Tái bút: Nếu trong bài có những sai về chính trị, mong đồng
chí sửa hộ những sai đó và gửi cho chúng tôi lời phê bình. Xin
cảm ơn trước”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 40-SL, ấn định mức lương chính hằng tháng
của cán bộ các ngạch hành chính, sự nghiệp.
- Sắc lệnh số 41-SL, bổ nhiệm Đổng lý và Phó Đổng lý văn
phòng Bộ Tài chính.
- Sắc lệnh số 43-SL, bãi bỏ Điều 2 của Sắc lệnh số 216-SL,
ngày 20-8-1948 thay bằng Điều 2 mới, ghi rõ: Huân chương
Kháng chiến có ba hạng: hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba.
Hạng Nhất: do Chủ tịch nước tặng thưởng.
Hạng Nhì và hạng Ba: do Thủ tướng Chính phủ tặng thưởng.
- Sắc lệnh số 44-SL, bổ nhiệm ông Nguyễn Thanh Bình giữ
chức Cục trưởng Cục Quân nhu thay Đại tá Phan Tử Lăng.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bút tích tiếng Pháp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.329-340.

337
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 3, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46-SL, bổ nhiệm Đổng
lý và Phó Đổng lý văn phòng Bộ Kinh tế.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 29
Về tới gần Long Châu, một huyện của tỉnh Quảng Tây
(Trung Quốc) giáp giới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
bài thơ chữ Hán: Cận Long Châu.

CẬN LONG CHÂU


Viễn cách Long Châu tam thập lý,
Dĩ văn pháo hưởng dữ cơ thanh.
Việt Nam dân chúng chân anh dũng,
Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành.
Dịch thơ:

ĐẾN GẦN LONG CHÂU


Còn cách Long Châu ba chục dặm
Nghe tàu bay rú, pháo gầm rung,
Nhân dân nước Việt anh hùng thật,
Diệt thù, dựng nước ắt thành công1).
- Bản chụp bút tích bài thơ lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.341.

Tháng 4, ngày 1
Bài Quỹ công lương (ký bút danh T.L) của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đăng trên báo Sự thật, số 130, nêu rõ mục đích, ý nghĩa
của việc lập Quỹ công lương.

1) Bản dịch của Phan Văn Các (B.T).

338
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Kết luận, bài báo viết: “Quỹ công lương được nhân dân
hăng hái đóng góp nhanh chóng sẽ là một sức mạnh mới đẩy
nhanh cuộc chuẩn bị tiến sang giai đoạn cuối cùng và đảm bảo
cho tổng phản công thắng lợi hoàn toàn”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.342-343. 1950
Tháng 4, ngày 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Bắc Kạn, gặp gỡ và làm việc
với các đồng chí trong Tỉnh ủy.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, gửi điện mừng tới Chính phủ nước Cộng
hòa nhân dân Hunggari nhân ngày chiến thắng phát xít Hítle:
“Chúc nước Cộng hòa nhân dân Hung mau chóng thành công
vào việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xã hội
chủ nghĩa, góp phần lớn lao trong việc bảo vệ hòa bình và phát
triển dân chủ thế giới”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.344.

Tháng 4, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 49-SL, chỉ định Ủy viên Ủy ban kháng chiến
hành chính Liên khu IV.
- Sắc lệnh số 50-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý văn phòng Bộ
Thương binh và Cựu binh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

339
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 4, ngày 6 và ngày 7


Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp với Thường vụ Trung ương
Đảng để nghe báo cáo tình hình trong thời gian Người đi công
tác nước ngoài và một số nhiệm vụ cấp bách.
Trong ý kiến phát biểu, Người hoan nghênh việc triệu tập
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng và khẳng định những
kết quả của Hội nghị. Người nhấn mạnh: trong thời gian qua,
chúng ta đã thắng trong cuộc tổng phản công về chính trị,
nhân dân ta đồng lòng dốc sức cho kháng chiến, nhân dân thế
giới bước đầu thấy được tính chất chính nghĩa của cuộc kháng
chiến của chúng ta, lên án quân xâm lược. Cuộc tổng phản
công chính trị thắng lợi, chắc chắn sẽ giúp nhiều cho cuộc tổng
phản công bằng quân sự sắp tới. Người cũng tán thành chủ
trương lấy ngày 19-5 hằng năm làm ngày phát động thi đua
yêu nước, thi đua kháng chiến trong toàn quân và toàn dân,
nhưng căn dặn: phải giáo dục cho mọi người đừng lợi dụng
chuyện đó mà ăn uống xa xỉ, gây lãng phí tiền bạc và thì giờ
của dân.
- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 1990, tr.266-267.

Tháng 4, ngày 10
Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự Hội nghị Đảng đoàn
Chính phủ (Hội nghị bắt đầu từ chiều hôm trước). Người nói
rõ thêm về vấn đề ngoại giao và viện trợ.
Chiều, Người chủ trì phiên họp của Hội đồng Chính phủ.
Tối, Người đón Hoàng thân Lào Xuphanuvông và ông Chủ
tịch Đông Lào. Có tổ chức lửa trại, hát hò. Người thưởng thuốc
lá thơm cho các vị hát hay.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.216-217.

340
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 4, từ ngày 10 đến ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để thảo luận các vấn đề: tình hình thế giới, tình hình quân
sự, việc thực hiện chương trình ba tháng đầu năm và ra nghị
quyết về công tác ngoại giao, giáo dục, cải tổ bộ máy tư pháp,
giao thông công chính, nội vụ... 1950
Kết thúc phiên họp, Người nhắc nhở: chúng ta đang chuẩn
bị mọi mặt quân sự, chính trị, ngoại giao... để chuyển mạnh sang
tổng phản công. Địch cố tìm biết những công việc ta làm, do đó
cần phải giữ bí mật và nhắc cán bộ giữ bí mật. Địch có thể làm
những việc mạo hiểm, do đó cần phải quân sự hóa triệt để. Phải
làm tốt công tác động viên nhân dân, không động viên được dân
thì kế hoạch hay mấy cũng hỏng, lúc nào mọi kế hoạch đến tận
dân, dân thực hiện, lúc đó mới thật là tổng động viên.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.217.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.345-348.

Tháng 4, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 52-SL, bổ nhiệm Đổng lý và Phó Đổng lý văn
phòng Bộ Nội vụ.
- Sắc lệnh số 53-SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Lao động.
- Sắc lệnh số 54-SL, bổ nhiệm Đổng lý và Phó Đổng lý văn
phòng Bộ Canh nông.
- Sắc lệnh số 56-SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Giao
thông công chính.
- Sắc lệnh số 57-SL, thành lập Nha Vận tải trong Bộ Giao
thông công chính.

341
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 58-SL, thành lập Vụ Kiến trúc trong Bộ Giao


thông công chính.
- Sắc lệnh số 59-SL, bổ nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc Vụ
Kiến trúc.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 15
Bài Sinh viên Việt Nam tại Anh với Sắc lệnh tổng động viên
của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ký bút danh T.L), đăng trên báo
Sự thật, số 131.
Bài báo cho biết 14 sinh viên Việt Nam tuổi từ 18 đến 30
đang theo học ở trường đại học tại Luân Đôn, biết Chính phủ
công bố Sắc lệnh tổng động viên, đã đánh điện về ngỏ ý rất sẵn
sàng về nước để được nhập ngũ. “Dù xa xôi, tâm trí chúng tôi
vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc và lúc nào cũng sẵn sàng thi
hành những huấn lệnh của Chính phủ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.349.

Tháng 4, ngày 22
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm các đại biểu phụ nữ dự Đại
hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất1).
Người ân cần hỏi chuyện các đại biểu Nam Bộ, Khu V, miền
núi, miền xuôi, vùng tạm chiếm, vùng tự do...
Trước khi ra về, Người nói: “Bác chúc các cô chú mạnh
khỏe. Về địa phương, những chị em nào có thành tích, nhớ cho
Bác biết tin”.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.220.
- Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên,
1986, tr.95.

1) Đại hội họp từ ngày 18-4-1950 tại Cao Vân, Đại Từ, Thái Nguyên (B.T).

342
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 4, ngày 24
Từ 18 giờ đến 21 giờ 30 phút, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến
thăm và nói chuyện với học viên khóa II Trường Đảng Nguyễn
Ái Quốc tại Việt Bắc.
Trong lời phát biểu, Người đã chỉ ra một số thiếu sót của
nhà trường trong việc giảng dạy và gợi ý về cách tổ chức để 1950
đạt kết quả tốt hơn. Người căn dặn các học viên: “Việc học
không phải chỉ xem sách nhiều là được. Như vậy là lý luận
suông. Phải kết hợp thực tiễn với lý luận, học đi đôi với trao
đổi kinh nghiệm thực tế. Học phải tự giác và tự động”.
Người đặc biệt nhấn mạnh việc tu dưỡng phẩm chất của
người cán bộ: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính và gần gũi quần chúng,
hai điểm ấy các đồng chí phải làm cho được. Như thế mới xứng
đáng là người đảng viên, là người cách mạng”.
- Bài ghi buổi nói chuyện, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng.

Tháng 4, trong tháng


Tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đại diện Trung
ương Đảng Cộng sản Pháp Lêô Phighe (Léo Figuères). Trong
câu chuyện, Người nói:
“Chính là những thành viên ưu tú nhất đã ngã xuống.
Chúng tôi đã đối xử tốt nhất với tù binh Pháp trong điều kiện
có thể có. Bữa ăn của họ khá hơn bữa ăn của chiến sĩ chúng
tôi. Chúng tôi rất hiểu nỗi đau khổ của các bà mẹ, các gia đình
người Pháp có con em bị bắt làm tù binh...”.
- Charles Fourniau: Ho Chi Minh - Notre camarade (Hồ Chí
Minh - Người bạn của chúng ta), Editions Sociales, Paris,
1970, p. 134.

Tháng 5, ngày 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi anh em thương binh
Mặt trận Lê Hồng Phong, căn dặn anh em yên tâm điều trị và

343
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

“chúc các chú mau trở lại mạnh khỏe để đi đánh giặc lập công
thêm”. Người cũng cảm ơn các thầy thuốc và anh em khán hộ
đã chăm nom thương binh chu đáo.
Cùng ngày, Người viết Thư gửi các bạn phụ trách xe hơi Bắc
Kạn và Thư gửi đồng bào các xã Thượng Lũng, Xuân Quang,
Tiên Yên, Bằng Lang (mặt trận Lê Hồng Phong).
Với các đồng chí phụ trách xe hơi Bắc Kạn, Người nêu rõ
vinh dự và khen ngợi những cố gắng của nhóm phụ trách chiếc
xe hơi chạy đầu tiên ở Việt Bắc trong thời kỳ toàn quốc chuyển
mạnh sang phản công và căn dặn những điều cần ghi nhớ.
Với đồng bào các xã Thượng Lũng, Xuân Quang, Tiên Yên,
Bằng Lang, Người thay mặt Chính phủ cảm ơn và khen ngợi
đồng bào rất hăng hái ủng hộ kháng chiến, đã bán lương thực
rẻ cho bộ đội, ra sức tiếp tế cho bộ đội, vận tải và giúp đỡ các
chiến sĩ bị thương. Người mong đồng bào các xã khác đều thi
đua ủng hộ kháng chiến như bốn xã này.
Trong ngày, Người ký:
- Sắc lệnh số 61-SL, quy định trong thời kỳ kháng chiến, để
tiết kiệm thóc gạo và gia súc, cấm việc dùng gạo nấu rượu, cấm
tàng trữ, chuyên chở, tiêu thụ rượu nấu bằng gạo, cấm dùng
gạo vào việc làm bánh ngọt, kẹo, cốm, hồ vải...; hạn chế việc
giết trâu, bò, lợn.
- Sắc lệnh số 62-SL, bổ nhiệm ông Nguyễn Chánh làm Chính
ủy Liên khu V kể từ ngày 11-3-1950, thay ông Trần Lương điều
động sang công tác khác.
- Sắc lệnh số 64-SL, cử ông Trần Đăng Ninh, Phó Tổng
thanh tra Chính phủ, làm đặc phái viên Chính phủ phụ trách
công việc sửa chữa đường sá.
- Sắc lệnh số 65-SL, về việc cử phái đoàn của Chính phủ đi
thanh tra Liên khu Việt Bắc trong thời gian từ tháng 5-1950
đến hết tháng 6-1950 với nhiệm vụ giải thích và điều tra việc
tổng động viên và tình hình dân sinh.

344
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 65b-SL, đặt Huân chương Lao động để tặng
thưởng những người có thành tích đặc biệt trong hoạt động
trí óc và chân tay.
Huân chương Lao động có ba hạng: hạng Nhất, hạng Nhì,
hạng Ba.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. 1950
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bắc Thái: Bác Hồ với Bắc
Thái, Ty Văn hóa và Thông tin Bắc Thái, 1979, tr.9-10.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.351-354.

Tháng 5, ngày 4
Lời kêu gọi nhân ngày 1-5-1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đăng trên báo Cứu quốc, số 1539.
Lời kêu gọi có đoạn:
“Đồng bào lao động và toàn thể quốc dân ta cần phải hăng
hái tổng động viên để đánh tan bọn xâm lược, để đưa cuộc
kháng chiến thần thánh của ta mau đến thắng lợi hoàn toàn.
Như thế, tức là toàn thể lao động và nhân dân ta thiết thực
chen vai thích cánh với lao động và nhân sĩ thế giới để hoàn
thành sự nghiệp vĩ đại chung là bảo vệ dân chủ và hòa bình
thế giới”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.350.

Tháng 5, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Hội nghị toàn quốc lần thứ
nhất về công tác huấn luyện và học tập1).
Nói chuyện với Hội nghị, Người nhắc nhở: Công tác huấn
luyện phải thiết thực, phải chu đáo, phải hiểu rõ huấn luyện ai,

1) Hội nghị khai mạc ngày 6-5-1950 (B.T).

345
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

ai huấn luyện, huấn luyện gì, huấn luyện thế nào, tài liệu huấn
luyện ra sao. Phải chú ý hướng dẫn việc tự học và động cơ học
tập cho học viên. Cần sửa chữa ngay bệnh tham làm nhiều mà
không chu đáo. Phải biết “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”1), không
nên mở lớp huấn luyện lung tung, lớp thì quá đông, trình độ
chênh lệch, chương trình không sát... làm ảnh hưởng đến kết
quả của công tác huấn luyện.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.II, tr.12-20.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.355-363.

Tháng 5, ngày 9 và ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Trung ương chuẩn bị cho
Đại hội lần thứ II của Đảng.
Phát biểu ý kiến về việc đổi tên Đảng, Người nhấn mạnh:
“Đó là điều cần thiết..., bởi vì có như thế mới tập hợp được tất
cả các phần tử tiên tiến trong công nông, trí thức vào Đảng...
dễ kêu gọi dân tộc hơn, vì ta đang cần đoàn kết rộng rãi với
các tầng lớp”.
Tiếp đó, Người đề cập đến việc soạn thảo “Đảng Cương”,
chuẩn bị cho việc Đảng ra hoạt động công khai.
- Biên bản Hội nghị Trung ương ngày 9 và 10-5-1950, lưu tại
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Tài liệu bài nói tại Hội nghị lưu tại Kho Lưu trữ Bộ Quốc Phòng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.366-375.

Tháng 5, trước ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào Việt Bắc nhân
dịp Phái đoàn Chính phủ đến thanh tra Liên khu. Trong thư,

1) Quý hồ tinh, bất quý hồ đa: cần quý chất lượng hơn số lượng (B.T).

346
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người biểu dương “Việt Bắc ta là nơi có truyền thống cách
mạng anh dũng”, “đã đánh tan cuộc tiến công Thu - Đông của
giặc năm 1947”, “đã góp phần lớn vào cuộc thành công của
Cách mạng Tháng Tám và đang góp một phần lớn vào công
cuộc kháng chiến ngày nay”.
Nhân thắng lợi to lớn về chính trị mới giành được, đó là 1950
việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ mới công nhận
Việt Nam, Người kêu gọi bộ đội, cán bộ, và toàn thể nhân dân
“càng phải cố gắng thêm nữa, để chuẩn bị tiến mạnh sang tổng
phản công, để tranh lấy thắng lợi hoàn toàn về quân sự”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.364-365.

Tháng 5, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 66-SL, chia Cục Tình báo Bộ Quốc phòng làm
hai bộ phận: một bộ phận sáp nhập vào Nha Công an thuộc Bộ
Nội vụ và một bộ phận sáp nhập vào ngành Quân báo Bộ Tổng
tham mưu thuộc Bộ Quốc phòng.
- Sắc lệnh số 67-SL, bổ nhiệm ông Trần Văn Quang làm
Chính ủy Bộ Tư lệnh Đại đoàn 304 và Đại tá Hoàng Minh Thảo
làm Tư lệnh Đại đoàn 304.
- Sắc lệnh số 68-SL, về việc thành lập Ban Kinh tế Chính phủ.
- Sắc lệnh số 69-SL, đổi tên Nha Lâm chính thành Nha Thủy
lâm; Nha Thú y mục súc - ngư nghiệp thành Nha Chăn nuôi.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, giữa tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để xem xét tình hình thế giới tháng 4-1950 và nghe báo

347
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

cáo tình hình quân sự bốn tháng đầu năm, thảo luận và quyết
định một số vấn đề quan trọng về nội chính và kinh tế.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.

Tháng 5, sau ngày 15 trước ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đội Thiếu sinh Vệ quốc quân,
“Đội văn công Vệ Út” và Đội Thiếu nhi nghệ thuật Lưu Hữu
Phước đến chúc thọ Người.
Trưa và chiều, Người “đãi” các cháu một bữa cơm không
độn sắn.
Tối, sau khi xem các cháu biểu diễn, Người mời mỗi cháu
một bát cháo gà.
Các cháu đã kính tặng Người một cây sáo trúc.
- Báo Cựu chiến binh Việt Nam, ngày 16-5-1996.

Tháng 5, ngày 18
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Phòng triển lãm một số
ảnh chụp chân dung Người do Hội Văn nghệ tổ chức.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 72-SL, cấp lần thứ năm cho Nha tín dụng sản
xuất số tiền một trăm triệu đồng (100.000.000đ) làm tiền quỹ.
- Sắc lệnh số 73-SL, về việc thành lập Bộ Tư lệnh Bộ đội địa
phương Liên khu IV.
- Sắc lệnh số 74-SL, cử ông Lê Chưởng làm Chính ủy và
ông Trần Sâm làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh bộ đội địa phương
Liên khu IV.
- Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985,
tr.103.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

348
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 5, trước ngày 19
Trong một cuộc họp cán bộ các cơ quan Trung ương ở Thác
Dẫng (Tuyên Quang), nhân sắp đến ngày 19-5, mọi người chúc
thọ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người cảm ơn và đáp lại bằng bài
thơ Sáu mươi tuổi:
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán, 1950
So với ông Bành1) vẫn thiếu niên.
Ăn khỏe, ngủ ngon, làm việc khỏe,
Trần mà như thế kém gì tiên!
- Theo Hồi ức của Trần Văn Giàu, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.376.

Tháng 5, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự lễ chúc thọ mừng Người
tròn 60 tuổi do Chính phủ tổ chức tại “Chủ tịch phủ” trong “An
toàn khu” (Việt Bắc).
- Văn Trang: “Ở bên Hồ Chí Minh”, tạp chí Những vấn đề quốc
tế (Trung Quốc), tháng 1-1991.

Tháng 5, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cảm ơn Chủ tịch Mao Trạch
Đông, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Trung Quốc và
Hội Liên hiệp học sinh sinh viên Trung Quốc về những lời chúc
mừng nhân kỷ niệm lần thứ 60 ngày sinh của Người.
Cùng ngày, Người gửi thư cảm ơn Quốc hội, Chính phủ,
các đoàn thể, các cán bộ, đồng bào trong nước, ngoài nước và

1) Trong dân gian Trung Quốc có truyền tụng câu chuyện về cụ Bành tổ
sống thọ mấy trăm tuổi (B.T).

349
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

trong vùng tạm bị địch chiếm, đặc biệt với các cụ phụ lão, các
thanh thiếu niên và các cháu nhi đồng, đã gửi thư, gửi điện, gửi
quà chúc thọ Người.
Chủ tịch mong toàn thể chiến sĩ, toàn thể đồng bào, mọi
người đều giữ lời hứa với Người là ra sức thi đua thực hiện
chương trình Tổng động viên của Chính phủ, mọi người đều
nhằm vào một mục đích chung: Tất cả để chiến thắng.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 75-SL, bổ nhiệm Thư ký Ban Kinh tế - Tài
chính Chính phủ.
- Sắc lệnh số 76-SL, ban hành Bản quy chế công chức Việt
Nam, áp dụng từ ngày 1-5-1950.
- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng
quân, Bắc Kinh, 1987, tr.126 (bản tiếng Trung).
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.385-386.

Tháng 5, ngày 22
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 77-SL, về quy chế lương bậc, tuyển dụng, ngày
công, khen thưởng, kỷ luật... áp dụng đối với công nhân giúp
việc Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến.
- Sắc lệnh số 78-SL, bãi bỏ Ban căn cứ địa Việt Bắc được
thành lập theo Sắc lệnh số 15-SL, ngày 31-1-1950.
- Sắc lệnh số 79-SL, sửa đổi Điều 6 Bộ luật thuế trực thu
ban hành theo Sắc lệnh số 49-SL, ngày 18-6-1949.
- Sắc lệnh số 80-SL, ấn định “các cuộc bầu cử vào Hội đồng
nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân xã nay lại tiếp tục theo
như thể lệ ấn định trong Sắc lệnh số 63-SL, ngày 22-11-1945”.

350
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 81-SL, ấn định thang lương chung cho công
chức làm việc trong các cơ quan Chính phủ thi hành kể từ ngày
1-5-1950.
- Sắc lệnh số 82-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 105-SL, ngày 9-9-
1949 và ấn định lại mức phí cấp hằng tháng (được tính bằng
giá gạo) của các vị trong Chính phủ (Chủ tịch nước, Thủ tướng 1950
Chính phủ, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng).
- Sắc lệnh số 83-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 106-SL, ngày 9-9-
1949 và ấn định lại mức phí cấp hằng tháng (được tính bằng
giá gạo) của các vị trong ban Thường vụ Quốc hội (Trưởng
ban, Phó Trưởng ban, Ủy viên).
- Sắc lệnh số 84-SL, đổi tên Hội đồng giảm tô tỉnh và Ban
giảm tô xã thành Hội đồng giảm tô, giảm tức tỉnh và Ban giảm
tô, giảm tức xã.
- Sắc lệnh số 85-SL, về việc cải cách bộ máy tư pháp và luật
tố tụng.
- Sắc lệnh số 86-SL, bổ nhiệm Quyền Đổng lý và hai Phó
Đổng lý Văn phòng Bộ Ngoại giao.
- Sắc lệnh số 87-SL, bổ nhiệm Phó Giám đốc Nha Bưu điện
Việt Nam.
- Sắc lệnh số 88-SL, về việc lĩnh canh ruộng đất.
- Sắc lệnh số 89-SL, về việc giảm lãi, xóa nợ, hoãn nợ đối với
những việc vay mượn trước đây.
- Sắc lệnh số 90-SL, cấm bỏ hoang những ruộng đất có chủ
mà từ trước đến nay vẫn chưa trồng trọt.
- Sắc lệnh số 91-SL, ấn định phí cấp hằng tháng (được tính
bằng giá gạo) của các vị trong Ủy ban hành chính và Ủy ban
kháng chiến hành chính các cấp (khu, liên khu và khu Hà Nội,
tỉnh và thành phố, huyện, thị xã lớn và quận thuộc Hà Nội, thị
xã nhỏ và khu phố).

351
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 92-SL, ấn định mức lương chính hằng tháng


(được tính bằng giá gạo) của các vị giữ chức vụ trong Văn
phòng Chủ tịch phủ (Chánh, Phó Văn phòng, Bí thư), Văn
phòng Quốc hội và Thủ tướng phủ (Chánh, Phó Văn phòng,
Bí thư), Văn phòng các Bộ (Đổng lý, Phó Đổng lý, Thanh tra, Bí
thư, Bộ trưởng và Thứ trưởng), các Nha và Cục (Chánh, Phó
Giám đốc Nha, Cục trưởng, Phó Cục trưởng).
- Sắc lệnh số 93-SL, quy định “kể từ ngày ký Sắc lệnh này
cho đến khi kháng chiến thành công, tất cả công dân Việt Nam,
không phân biệt nam nữ, từ 16 đến 55 tuổi, đều có nghĩa vụ
kháng chiến, tức là phải tham gia làm các công vụ do nhu cầu
kháng chiến trực tiếp hay gián tiếp đặt ra”.
- Sắc lệnh số 94-SL, ấn định mức lương chính hằng tháng
(được tính bằng giá gạo), thi hành từ ngày 1-5-1950, của các vị
giữ chức Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng tại Văn phòng Chủ
tịch phủ, Văn phòng Quốc hội và Thủ tướng phủ, Văn phòng
các Bộ, các Nha hay Cục; Giám đốc, Phó Giám đốc Liên khu,
Chánh Văn phòng Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu,
Trưởng phòng Ủy ban kháng chiến hành chính và chuyên môn
của Liên khu; Trưởng, Phó ty, Chánh Văn phòng và Trưởng
phòng Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh hay thành phố.
- Sắc lệnh số 95-SL, ấn định mức lương chính hằng tháng
(được tính bằng giá gạo) của các vị trong Ban Thanh tra Chính
phủ và các phái viên thanh tra, thi hành từ ngày 1-5-1950.
- Sắc lệnh số 96-SL, thay đổi Điều 2 của Sắc lệnh số 14b-SL,
ngày 24-12-1949 về việc ấn định biểu thuế lũy tiến thu thuế
điền thổ.
- Sắc lệnh số 97-SL, sửa đổi một số quy lệ và chế định trong
dân luật cũ và thay thế bằng những nguyên tắc mới.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

352
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 5, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Ban Chấp hành Trung
ương Mặt trận Liên Việt và Tổng bộ Việt Minh, nêu ý kiến về
việc chuẩn bị thống nhất hai mặt trận Việt Minh, Liên Việt.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
1950
Tháng 5, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm Lớp đào tạo cán bộ mật mã
“Lê Lai” tại rừng Bản Cọ (Yên Thông, Định Hóa, Thái Nguyên).
Nói chuyện với cán bộ, học viên, Người căn dặn: “Mật mã là
một công tác cơ mật, quan trọng, vẻ vang. Bộ Tổng tham mưu
mở lớp học đông thế này là cần thiết. Các cô, các chú được
Trung ương Đảng, Bộ Tổng tin cậy, cần phải học tập và làm
việc tốt. Mật mã phải bí mật, nhanh chóng, chính xác. Các chú
làm mật mã phải bí mật và đoàn kết”.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm
Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 2004, tr.99.

Tháng 5, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi học viên Ban huấn luyện
công an, khen ngợi một số đồng chí đã cố gắng viết những mẩu
chuyện kể về “những việc oanh liệt của quân và dân ở các địa
phương” và gửi giải thưởng cho hai đồng chí.
Người nhận xét số người tham gia viết còn ít, cần phải chú
ý và cố gắng hơn nữa vì “công an là bạn dân”, công an cần phải
biết rõ những việc như vậy.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng.
- Tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.387.

353
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 5, cuối tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh đi từ Phú Thọ qua Đoan Hùng, đến
Phố Hiên. Người cùng anh em bảo vệ vào một ngôi nhà hoang
để nghỉ và giở cơm nắm ra ăn tối.
Thấy một đồng chí bảo vệ định rút phên liếp của nhà dân
để nhóm lửa đun nước, Người nói:
- Chú đun nước mà lại phá hoại nhà dân, hơn nữa đêm hôm
thế này đốt lửa không tiện.
- Báo Công an nhân dân, số 94, ngày 18-7-1990.

Tháng 5, cuối tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh đi ôtô từ Trạm Thản đến Ấm Thượng
(Phú Thọ) để thăm cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn 312.
Khoảng 5 giờ sáng, Người đến địa điểm đóng quân của Đại
đoàn, và đi thăm bộ đội ngay. Nhưng anh em vừa đánh trận về,
còn đang ngủ trong nhà dân, Người không cho đánh thức, chỉ
đứng lặng nhìn chiến sĩ đang chìm sâu trong giấc ngủ.
Sau khi gặp gỡ nói chuyện với bộ đội, Người dành cả buổi
chiều làm việc với Bộ Tư lệnh Đại đoàn.
- Tài liệu của Cục Chính trị Sư đoàn Chiến thắng.
- Kinh Chi: “Nhớ một chuyến đi bảo vệ Bác”, báo Công an
nhân dân, số 95, ngày 24-7-1990.

Tháng 6, ngày 1
Thư gửi thiếu nhi toàn quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng
trên báo Sự thật, số 134.
Trong thư, Người nêu rõ ý nghĩa của ngày 1-6 đối với thiếu
nhi thế giới, còn ở nước ta “vì giặc Pháp gây ra chiến tranh,
chúng nó đốt nhà, giết người cướp của. Vì vậy người lớn phải
kháng chiến, trẻ con cũng phải kháng chiến”. Người hứa với
các cháu: “Đến ngày đánh đuổi hết giặc Pháp, kháng chiến

354
TẬ P 4 : 1946 - 1950
thành công, thì Bác cùng Chính phủ và các đoàn thể cũng cố
gắng làm cho các cháu đều được no ấm, đều được vui chơi,
đều được học hành, đều được sung sướng”.
Số báo trên còn đăng bài Phải giữ bí mật của Người, với bút
danh X.Y.Z. Bài báo phân tích ý nghĩa của việc giữ bí mật, phê
phán thói ba hoa và yêu cầu “tất cả các cơ quan, bộ đội, tất cả 1950
các đoàn thể phải phụ trách thiết thực huấn luyện cho binh sĩ,
cán bộ và nhân dân điều lợi, điều hại và cách giữ bí mật. Mỗi
người phải coi việc giữ bí mật là một nghĩa vụ của mình đối
với Tổ quốc, đối với Chính phủ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.388, 389-391.

Tháng 6, ngày 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 103-SL, quy định Ủy
ban kháng chiến hành chính các cấp có nhiệm vụ lãnh đạo và
điều khiển các ngành chuyên môn cấp tương đương.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào các tỉnh có đê,
căn dặn: “Mùa lụt sắp đến, giữa lúc đồng bào đang tích cực
chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Giữ vững đê điều
để chống giặc lụt cũng là một việc chuẩn bị”.
Người tin tưởng đồng bào sẽ quyết tâm vượt qua mọi khó
khăn, cùng với chính quyền, chuyên môn, bộ đội, dân quân và
các đoàn thể nhân dân kiên quyết chống giặc lụt, cũng như
kiên quyết chống giặc ngoại xâm.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 105-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý văn phòng Bộ
Quốc phòng.

355
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 106-SL, quy định các hình phạt và các cấp tòa
án có thẩm quyền xét xử những người không tuân lệnh hay
chậm trễ làm nghĩa vụ quân sự, những người tự hủy hoại thân
thể hoặc dùng những thủ đoạn gian dối để hoãn làm nghĩa vụ
quân sự, những người lạm dụng quyền hạn trong việc ra lệnh
thi hành nghĩa vụ quân sự, những người tuyên truyền bằng lời
nói hay việc làm để người khác trốn nghĩa vụ quân sự.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.393.

Tháng 6, ngày 16
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 107-SL, chấp nhận
đơn xin từ chức của ông Lê Đình Thám, Chủ tịch, và Nguyễn
Văn Chi, Ủy viên Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 108-SL, ân giảm cho hai kiều dân Trung Hoa
từ án tử hình xuống 20 năm khổ sai.
- Sắc lệnh số 110-SL, chỉ định các Ủy viên Ủy ban kháng
chiến hành chính miền Nam Trung Bộ.
- Sắc lệnh số 111-SL, chỉ định các ông Nguyễn Duy Trinh và
Trần Đình Tri, nguyên Ủy viên, làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch
Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hoàng thân Xuphanuvông,
một người bạn rất thân của Người, thông báo phu nhân của

356
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Ngài đã viết cho Người một bức thư rất hay và cảm động và
nhờ Hoàng thân chuyển lời thăm hỏi thân thiết tới phu nhân
của Ngài, chuyển đến các cháu những cái hôn thắm thiết.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.392. 1950

Tháng 6, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào Thanh Hóa,
“vui lòng được báo cáo rằng: Đồng bào tỉnh nhà đã hăng hái
thi đua giúp đỡ bộ đội địa phương, đến nay đã ủng hộ một số
tiền ngoài 84 triệu đồng và một số trâu bò, ruộng đất”.
Người “thay mặt bộ đội địa phương cảm ơn đồng bào và
thay mặt Chính phủ khen ngợi đồng bào” và tin chắc rằng “với
sự lãnh đạo của các cụ phụ lão, với lòng sốt sắng của toàn dân
trong tỉnh, đồng bào sẽ làm tròn nhiệm vụ ấy, và sẽ cố gắng
tranh cho được cái địa vị vẻ vang là tỉnh kiểu mẫu, như đồng
bào đã hứa với tôi năm nọ”.
- Bác Hồ với Thanh Hóa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa,
tháng 5-1990, tr.30-31.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.394-395.

Tháng 6, trong tháng

Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: Chiến dịch này “Chỉ cho đánh thắng,
không cho đánh bại”.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp
và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.326.

357
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 7, đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng nhân dân Mỹ
nhân Ngày Độc lập của nước Mỹ (4-7-1776) với những lời tốt
đẹp nhất cùng lòng ngưỡng mộ và tình cảm bác ái chân thành.
Trong bức điện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tố cáo những thủ
đoạn tàn bạo hơn cả Hítle nhằm vào những người dân thường
của bọn thực dân Pháp. Qua đó, Người muốn cho người Mỹ
thấy được trách nhiệm của mình, dưới chiêu bài văn minh và
dân chủ, họ đang tiếp tay cho đế quốc Pháp tiến hành chiến
tranh thực dân tại Việt Nam. Cuối bức điện, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhân danh nền văn minh thực sự và nền dân chủ thực
sự mà Tổng thống Mỹ từng là người bảo vệ vĩ đại, kêu gọi nước
Mỹ hãy lên án cuộc chiến tranh thực dân mà nước Pháp đang
tiến hành dưới sự bảo trợ của Chính phủ Mỹ, một cuộc chiến
tranh làm tổn hại đến lợi ích và uy tín của nhân dân Mỹ.
- Tài liệu lưu tại Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.398-399.

Tháng 7, khoảng đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào Liên khu IV,
nhờ Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu chuyển1)).
Thư cho biết: Người rất đau lòng khi được biết ở một vài
nơi, cán bộ đã làm sai chỉ thị của Chính phủ và đường lối của
Đoàn thể, xa rời nhân dân, quen thói mệnh lệnh, thậm chí ép
uổng, cưỡng bức, bắt bớ dân. Người thành thật xin lỗi những
đồng bào bị oan ức và tự phê bình là đã giáo dục và lựa chọn
cán bộ chưa được chu đáo.

1) Trên đầu bức thư có ghi: “Thư này phải đưa đọc đến tận các xã trong
Liên khu, trước hết tại các xã đã xảy ra những việc ép uổng dân như đã
nêu rõ trong thư của Phó Thủ tướng. Khi đọc khắp rồi, phải báo cáo dư
luận của đồng bào thế nào. Không được đăng báo”.

358
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người khẳng định với đồng bào: “Nước ta là một nước dân
chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm...
Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo
lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam.
Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy”.
- Bác Hồ với Bình Trị Thiên, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng và 1950
Ty Văn hóa Bình Trị Thiên, 1977, tr.16-18.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.396-397.

Tháng 7, ngày 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ ngày 8-7-1950 để xem xét tình hình thế giới tháng 5 và
tháng 6-1950.
Người phát biểu: ở phương Tây có hai việc: kế hoạch
Schuman (tên của Bộ trưởng Ngoại giao Pháp) và Chính phủ
Biđôn (Bidault) đổ. Ở châu Á có mấy việc: Hội nghị Đông Nam
Á, Hội nghị tham chính ở Trung Quốc, chiến tranh Triều Tiên.
Người đã phân tích rõ tình hình thế giới và những ảnh hưởng
của nó đối với cách mạng Việt Nam như thế nào? Cuối bài nói,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Phản động Mỹ đã và đang
giúp thực dân Pháp. Vì thế, từ nay ta sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn trước nhưng chúng ta có quyết tâm và phương pháp để
giải quyết. Thứ hai, đế quốc Mỹ đã thua nhân dân Trung Quốc
thì chúng sẽ thua nhân dân Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc
đã thắng đế quốc Mỹ và phản động Tưởng, thì nhân dân Việt
Nam sẽ thắng đế quốc Mỹ và thực dân Pháp. Người khẳng định
tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam sẽ chiến thắng tất cả.
- Tài liệu gốc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.400-406.

359
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 7, từ ngày 8 đến ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để xem xét tình hình thế giới, kiểm điểm công tác Chính
phủ sáu tháng đầu năm, thông qua những công tác chính
trong sáu tháng cuối năm và giải quyết một số vấn đề quan
trọng khác.
Kết thúc phiên họp, Người nhắc lại các Bộ phải hết sức chú
ý vấn đề giữ bí mật Nhà nước, triệt để quân sự hóa, đề phòng
địch có thể mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc, vấn đề
đoàn kết nội bộ và kỷ luật chính quyền.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.253.

Tháng 7, ngày 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 112-SL, hợp nhất Nha Thuế trực thu, Nha
Trước bạ công sản điền thổ và Nha Địa chính thành một cơ
quan lấy tên là Nha Công sản - trực thu - địa chính.
- Sắc lệnh số 113-SL, bổ nhiệm Giám đốc và hai Phó Giám
đốc Nha Công sản - trực thu - địa chính.
- Sắc lệnh số 114-SL, bổ nhiệm Phó Giám đốc Trung học vụ
và Phó Giám đốc Tiểu học vụ.
- Sắc lệnh số 115-SL, đổi tên Viện Kháng nhiễm thú ngư
trực thuộc Nha Chăn nuôi thành Viện Thú y trực thuộc Bộ
Canh nông Trung ương và bổ nhiệm Giám đốc của Viện.
- Sắc lệnh số 116-SL, chấp nhận đơn xin từ chức của Tổng
Giám đốc Nha Chăn nuôi - bác sĩ Phạm Văn Huyến; bổ nhiệm
Tổng Giám đốc và Phó Giám đốc Nha Chăn nuôi.

360
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 117-SL, bổ nhiệm hai Phó Giám đốc Nha
Nông chính.
- Sắc lệnh số 118-SL, bổ nhiệm Phó Giám đốc Nha Thủy lâm.
- Sắc lệnh số 119-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý văn phòng Bộ
Lao động.
- Sắc lệnh số 120-SL, đổi tên Hội đồng Tạm cấp ruộng đất 1950
tỉnh và Ban Tạm cấp ruộng đất ở đồn điền của thực dân Pháp
và của những người bị kết án về các tội có phương hại đến nền
độc lập của quốc gia, thành Hội đồng Tạm cấp ruộng đất tỉnh
và Ban Tạm cấp ruộng đất xã hay đồn điền.
- Sắc lệnh số 121-SL, ấn định các cơ quan chức năng của
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; tổ
chức và nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị,
Tổng cục Cung cấp.
- Sắc lệnh số 122-SL, bổ nhiệm các ông:
Nguyễn Chí Thanh, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Bộ Tổng tư lệnh.
Trần Đăng Ninh, Phó Tổng thanh tra Chính phủ, kiêm chức
Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Bộ Tổng tư lệnh.
Lê Liêm, giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Bộ
Tổng tư lệnh.
- Sắc lệnh số 123-SL, bổ nhiệm các Cục trưởng, Phó Cục
trưởng, Chánh - Phó Văn phòng của Bộ Tổng tham mưu, Tổng
cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp, các binh chủng và Văn phòng
Bộ Tổng tư lệnh1).
- Sắc lệnh số 124-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 33-SL, ngày 25-4-1949
và Sắc lệnh số 34, ngày 25-4-1949. Thủ tướng Chính phủ sẽ ra
một nghị định ấn định một tổ chức tạm thời để theo dõi công
việc thống kê.

1) Danh sách gồm 35 vị có tên trong Sắc lệnh (B.T).

361
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 125-SL, quy định trách nhiệm của các cấp Ủy
ban kháng chiến hành chính và chuyên môn, các đơn vị bộ đội
và nhân dân ở địa phương khi có bệnh truyền nhiễm gia súc
phát sinh.
- Sắc lệnh số 126-SL, sửa đổi Điều 3 của Sắc lệnh số 82-SL,
ngày 22-5-1950 về phụ cấp gia đình các vị trong Chính phủ.
- Sắc lệnh số 127-SL, sửa đổi Điều 3 của Sắc lệnh số 83-SL,
ngày 22-5-1950 về phụ cấp gia đình các vị trong Ban Thường
trực Quốc hội.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Quốc
phòng tối cao để kiểm điểm tình hình công tác sáu tháng đầu
năm và định chương trình công tác sáu tháng cuối năm.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 128-SL,
quy định các hình phạt đối với người phạm tội bóc trộm, ăn
cắp, thủ tiêu công văn của Chính phủ và thư từ của tư nhân.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Quốc phòng tối cao họp ngày
14-7-1950, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 15
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Phải chữa cái
bệnh cấp bậc, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 136.
Người phân tích các biểu hiện, nguyên nhân, tác hại của
bệnh cấp bậc và nhấn mạnh: “Trong công việc cách mạng, công
việc kháng chiến kiến quốc, không có việc sang, việc hèn, mọi
việc đều quan trọng. Mọi người phải làm tròn nhiệm vụ của
mình”. Người còn giúp một “thang thuốc hay nhất” để trị căn
bệnh đó, ấy là:

362
TẬ P 4 : 1946 - 1950
“1. Dùng cách phê bình và tự phê bình để rửa sạch đầu óc
ngôi thứ, địa vị, và chủ nghĩa cá nhân.
2. Đặt công việc chung, lợi ích chung lên trên hết, trước hết”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.407-409.
1950
Tháng 7, trước ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Cứu quốc
về những kết quả thu được trong cuộc tổng động viên nhân
lực, vật lực, tài lực sáu tháng đầu năm 1950, về những nhiệm
vụ chính của nhân dân nói chung và của mỗi giới nói riêng
trong cuộc tổng động viên sáu tháng cuối năm.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.410-412.

Tháng 7, trước ngày 25


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời các nhà báo về vấn đề đế quốc
Mỹ can thiệp vào Đông Dương.
Người nêu rõ: “Lâu nay đế quốc Mỹ đã công khai can thiệp
vào Đông Dương. Lâu nay thực dân Pháp làm chiến tranh ở
Việt Nam, Miên1) và Ai Lao2) là nhờ tiền bạc, súng đạn Mỹ, và
theo chỉ thị của Mỹ. Nhưng đế quốc Mỹ càng ngày càng mưu
gạt thực dân Pháp để độc chiếm lấy Đông Dương. Vì lẽ đó mà
Mỹ càng ngày càng trực tiếp và tích cực can thiệp về mọi mặt:
quân sự, chính trị, kinh tế.
Và cũng vì lẽ đó mà mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với thực
dân Pháp ngày càng nhiều”.
Sau khi phân tích ảnh hưởng chính sách can thiệp của
Mỹ đối với nhân dân Đông Dương, Người chỉ rõ: các dân tộc

1) Miên: Campuchia (B.T).


2) Ai Lao: Lào (B.T).

363
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Đông Dương muốn độc lập thì phải đánh tan thực dân Pháp
là kẻ thù số một. Đồng thời phải chống bọn can thiệp Mỹ, phải
vạch rõ âm mưu của chúng, phải lột mặt nạ bọn tay sai, phải
đoàn kết chặt chẽ với nhau. “Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt
chẽ với dân tộc anh em Miên, Lào thì sức mạnh đó đủ đánh tan
thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
Đế quốc Mỹ đã thất bại ở Trung Quốc. Đế quốc Mỹ sẽ thất
bại ở Đông Dương”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.413-414.

Tháng 7, trước ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Ban Tổ chức Trung ương
ngày thương binh tử sĩ, nhắc nhở ý nghĩa ngày kỷ niệm này và
mong các đoàn thể, các giới đồng bào có nhiều hình thức để tỏ
lòng thương mến thương binh và gia đình các tử sĩ.
Nhân dịp này, Người gửi biếu một tháng lương để góp vào
quỹ tổ chức.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.415.

Tháng 7, ngày 27

Tại căn cứ địa Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Tướng
Trần Canh, Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, trước
khi Đoàn cùng với Bộ chỉ huy chiến dịch lên biên giới chuẩn bị
phương án tác chiến.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.152.
- Ảnh tư liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

364
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 7, ngày 30

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Xin chỉ thị, gửi
báo cáo, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 137.
Người chỉ rõ: trước khi làm không xin chỉ thị, khi làm rồi
không gửi báo cáo, như thế là vô kỷ luật, vô chính phủ, địa
1950
phương chủ nghĩa, trái nguyên tắc “tư tưởng nhất trí, hành
động nhất trí”.
Sau khi phân tích Vì sao phải xin chỉ thị Trung ương và Vì
sao phải báo cáo lên Trung ương, Người nhấn mạnh: “Xin chỉ
thị trước khi làm, gửi báo cáo khi làm xong - là một điều rất
cần thiết, để làm cho chính sách của Chính phủ và Đoàn thể
thấu suốt từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, để tránh bệnh
“bán thân bất toại”1) trong công việc, để tránh thất bại và để
lượm được nhiều thành công”. Vì vậy các cấp phải coi việc đó
là một trong những nhiệm vụ chính của mình.
Người còn hướng dẫn tỉ mỉ công việc nào thì xin chỉ thị ở
cấp nào, cách làm báo cáo thường, báo cáo định kỳ, báo cáo
phải đạt những yêu cầu gì, do ai viết, v.v..
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.416-418.

Tháng 7, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Điện chúc mừng quốc khánh
nước Cộng hòa Nhân dân Rumani. Bức thư có đoạn: “Chúng
tôi phấn khởi theo dõi những thắng lợi của nhân dân Rumani
đã đạt được trong công cuộc kiến thiết xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của đồng chí, của Đảng Công nhân
Rumani, với sự giúp đỡ anh em của Liên Xô vĩ đại”. Cuối thư,

1) Bán thân bất toại: Chứng bệnh liệt nửa người (B.T).

365
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi lời chúc nhân dân Rumani đạt
nhiều thắng lợi mới, góp phần bảo vệ hòa bình và dân chủ
thế giới.
- Tài liệu gốc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.419.

Tháng 8, ngày 2

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến địa điểm họp Hội nghị cán
bộ Trung ương lần thứ bảy1).
Tối, Người chủ trì phiên họp toàn thể tại hội trường.
Người lần lượt trả lời thắc mắc của mọi người và cuối cùng
tuyên bố hội nghị có nhiệm vụ nghiên cứu phương pháp thi
hành cho được việc Đảng ra công khai với tên mới là Đảng
Lao động Việt Nam.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 130-SL,
quy định lại những trường hợp Chủ tịch Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh được phép bắt giữ can phạm chính trị; trình
tự và thời hạn điều tra sự vụ của Ủy ban kháng chiến hành
chính tỉnh và liên khu.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.270.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

1) Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ bảy khai mạc ngày 1-8-1950 với
sự chủ trì của đồng chí Trường Chinh bàn mấy vấn đề quan trọng:
1- Đảng ra công khai và tên Đảng. 2- Chính cương của Đảng. Theo đề án
của Trung ương, khi ra công khai, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt
Nam. Cuộc thảo luận hết sức sôi nổi. Có hai ý kiến, một nửa chủ trương
giữ tên Đảng Cộng sản Đông Dương, nửa khác đồng ý với đề án của
Trung ương, không ý kiến nào được đa số (Theo Lê Văn Hiến: Nhật ký
của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t.2, tr.269).

366
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 8, ngày 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh lệnh cho Liên khu ủy Việt Bắc và các
tỉnh trong Liên khu “phải chỉnh đốn phát triển và củng cố du
kích các xã một cách thiết thực để:
- Ở vùng tự do thì chuẩn bị đánh địch trong thu - đông này.
1950
- Ở vùng tạm chiếm thì tích cực khuấy rối và đánh tỉa, làm
cho địch tiêu hao”.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bắc Thái: Bác Hồ với Bắc
Thái, Ty Văn hóa - Thông tin Bắc Thái, 1979, tr.11.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.420.

Tháng 8, ngày 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 131-SL, chuyển trả
huyện Mai Đà hiện thuộc Liên khu Việt Bắc cho tỉnh Hòa Bình
thuộc Liên khu III.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã Điện gửi Chính phủ nước Cộng
hòa Inđônêxia nhân ngày Inđônêxia giành được độc lập với lời
chào mừng chân thành nhất.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.421.

Tháng 8, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Cách
mạng Tháng Tám và Ngày độc lập (1950).
Lời kêu gọi điểm lại những nét lớn tình hình trong nước
và thế giới 5 năm qua, nêu bật ý nghĩa của Cách mạng

367
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng Tám và cuộc trường kỳ kháng chiến, đồng thời đề


ra những nhiệm vụ cần kíp cho toàn dân thực hiện để đi
tới thắng lợi hoàn toàn.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 132-SL, chỉ
định ông Ngô Duy Cảo làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành
chính Hà Nội.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.422-426.

Tháng 8, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 133-SL, bãi bỏ Nha Hoa kiều vụ được thành
lập trước đây theo Sắc lệnh số 137-SL, ngày 15-2-1948 và giao
cho Bộ Nội vụ, Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu và tỉnh
phụ trách công việc hành chính của ngành Hoa kiều vụ.
- Sắc lệnh số 134-SL, cử Thiếu tướng Trần Tử Bình, nguyên
Phó Tổng Thanh tra Quân đội quốc gia Việt Nam, làm Chính ủy
Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 25
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị các cán bộ phụ
trách nhi đồng toàn quốc.
Người căn dặn: Giáo dục nhi đồng là một khoa học. Cần
dạy cho các cháu biết “Yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao
động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hoá”, đồng thời “phải
giữ toàn vẹn tính vui vẻ hoạt bát, tự nhiên tự động trẻ trung
của chúng”.
Để làm được việc đó, Người yêu cầu các ban phụ trách nhi
đồng cần phải liên lạc với cha mẹ, và thầy giáo của các em.

368
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Chính phủ, các đoàn thể và tất cả đồng bào đều có trách nhiệm
giúp vào việc giáo dục nhi đồng. Phụ nữ, thanh niên phải là
người phụ trách chính, nhất là thanh niên. Cán bộ phụ trách
phải cố gắng học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, nhất
là phải làm kiểu mẫu trong mọi việc cho các em noi theo.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết bức thư (bằng 1950
tiếng Pháp) dưới đây cho Đại tá Nguyễn Dân ): 1)

“Đồng chí Nguyễn Dân thân mến,


Rất tiếc là không thể đến xiết chặt tay đồng chí trước khi
đồng chí lên đường. Hẳn là đồng chí biết rằng dù ở đây hay nơi
nào khác, tôi chắc rằng đồng chí sẽ đem hết khả năng có thể
của mình để phục vụ cho sự nghiệp của chúng ta.
Chúc đồng chí lên đường mạnh khỏe bình an.
Ngày 25 tháng 8 năm 1950
HỒ CHÍ MINH”.
- Pierre Sergent: Un etrange monsieur Frey (Một ông Phrây
lạ kỳ), Fayard, 1982, tr.108.
- Nội san thông tin tư liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh, số
tháng 3-2004.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.II, tr.26-27.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.427-428.

Tháng 8, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ Trung ương
Đảng chuẩn y phương án tác chiến của Chiến dịch Biên giới20.
Phân tích chủ trương đánh Đông Khê, Người chỉ rõ:
“Ta đánh vào Đông Khê là đánh vào nơi quân địch tương

1) Tên thật là Ernest Frey, quốc tịch Áo, đảng viên cộng sản, tham gia chiến
đấu trong quân đội Việt Nam, đã được nhập quốc tịch Việt Nam.

369
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên
tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải
cho quân đi ứng cứu, ta có cơ hội thuận lợi tiêu diệt chúng
trong vận động”.
- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1977, tr.400.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp
và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.326.

Cuối tháng 8, đầu tháng 9


Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi Chiến dịch Biên giới
(Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng).
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.152.

Tháng 9, ngày 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Hội đồng Chính
phủ để nhận định về tình hình thế giới và trong nước trong
thời gian qua, về tình hình và âm mưu của địch, bàn kế hoạch
đối phó của ta trong thu đông này, kế hoạch di chuyển cơ quan,
vấn đề tiếp tế lương thực.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi các
chiến sĩ Vệ quốc đoàn, bộ đội địa phương và dân quân du kích,
nêu rõ ý nghĩa quan trọng của Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng và
hô hào chiến sĩ ở mặt trận Cao - Bắc - Lạng cũng như ở các
mặt trận khác hãy ra sức thi đua giết giặc lập công, quyết tâm
thắng trận này.
Trong ngày, bài viết của Người nhan đề Phải tẩy sạch bệnh
quan liêu, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 140.

370
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tác giả phân tích nguyên nhân, biểu hiện, tác hại của căn
bệnh này và chỉ ra thang thuốc chữa bệnh quan liêu là:
“Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
- Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
- Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
1950
- Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công
vô tư”.
Nhân ngày Độc lập (2-9) Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
số 134b-SL, tặng thưởng Huân chương Độc Lập hạng Ba cho
Liên hiệp công đoàn thành Chợ Lớn, Liên đoàn cao su Nam
Bộ và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho Công đoàn
Đà Nẵng.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.291.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.II, tr.33-34.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.430-431, 432-434.

Tháng 9, ngày 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ và nhân dân
Việt Nam, gửi điện văn tới ông Păngđi1) Nêru - Thủ tướng
Ấn Độ, thăm hỏi nhân dân thành phố Asam vừa bị tai nạn
động đất2).
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.435.

1) Păngđi, từ thể hiện sự kính trọng và thân mật (B.T).


2) Tháng 8-1950, tại thành phố Asam (Ấn Độ) xảy ra nạn động đất, gây
thiệt hại lớn (B.T).

371
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 9, trước ngày 8


Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời những câu hỏi của nhà báo
Pháp Lêô Phighe liên quan đến chính sách đối ngoại của Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Người bày tỏ sự vui mừng, phấn khởi trước việc Liên Xô,
Trung Quốc và các nước dân chủ mới công nhận Việt Nam,
khẳng định mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương được dựa
trên nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn và tôn trọng độc lập quốc
gia của nhau.
Với nước Pháp, Người nêu rõ, chỉ cần quân đội Pháp rút
hết về nước là hòa bình sẽ được lập lại và hai nước Việt - Pháp
sẽ hợp tác trên lập trường anh em và bình đẳng.
Về việc đế quốc Mỹ công nhiên can thiệp vào nội tình Việt
Nam, theo Người, “việc can thiệp đó có tính chất xâm lược,
phản dân chủ và không Mỹ chút nào. Nhất định đế quốc Mỹ sẽ
thất bại như ở Trung Hoa trước đây”.
Người mong nhân dân các nước Bắc Phi và Đông Phi sẽ
đoàn kết lại để ngăn cản không cho thực dân Pháp đẩy thanh
niên nước họ vào cuộc chiến tranh “bẩn thỉu” ở Đông Dương
hay bất cứ một cuộc chiến tranh phi nghĩa nào; và hoan nghênh
phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam đang lan rộng ở
bên Pháp. “Nhân dân Pháp tranh đấu chống cuộc chiến tranh
ở Việt Nam cũng là tranh đấu cho hòa bình thế giới và độc lập
của nước Pháp”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.436-438.

Tháng 9, ngày 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Cao - Bắc - Lạng.
Người thay mặt Chính phủ và quân đội trân trọng cảm tạ
đồng bào ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn đã cố gắng rất
nhiều trong việc chuẩn bị cho chiến dịch, như góp quân lương,

372
TẬ P 4 : 1946 - 1950
sửa đường sá, vận tải, chuyên chở, giúp đỡ bộ đội, v.v., và kêu
gọi: “Toàn thể đồng bào ba tỉnh, các ủy ban kháng chiến và
hành chính, các đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp
tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận để quân ta giết nhiều
địch, đánh thắng to”.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bắc Thái: Bác Hồ với Bắc 1950
Thái, Ty Văn hóa - Thông tin Bắc Thái, 1978, tr.21.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.439.

Tháng 9, ngày 10
Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Sở Chỉ huy chiến dịch đặt
ở làng Tả Phầy Tử thuộc huyện Quảng Yên, phía bắc thị xã
Cao Bằng. Tại đây, Người đã phê chuẩn quyết tâm của Bộ Chỉ
huy chiến dịch gồm bốn bước: đánh Đông Khê; đánh quân tiếp
viện của địch lên Đông Khê; đánh Thất Khê, đánh Cao Bằng.
Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Chỉnh đốn Đoàn
thể và chính quyền, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật,
số 141.
Bài báo có đoạn:
“Người ta mỗi ngày ai cũng rửa mặt, vài hôm phải tắm giặt
để giữ cho thân thể sạch sẽ, mạnh khỏe.
Người cách mạng cũng thế, trước hết là cán bộ chính
quyền và Đoàn thể cách mạng, mỗi người cũng phải rửa các
mặt tinh thần, tư tưởng của mình, để tẩy sạch những chứng
bệnh, những khuyết điểm.
Chính quyền và Đoàn thể cũng cần thường thường rửa các
bộ máy của mình, để tẩy trừ những phần tử bất chính, đầu cơ,
và chỉnh đốn lại cách làm việc cho gọn gàng, mau chóng”.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.152.

373
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 9, ngày 11
Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị cán bộ chỉ huy cấp
trung đoàn và đại đoàn do Đảng ủy Bộ Chỉ huy chiến dịch triệu
tập để nghe phổ biến kế hoạch chiến dịch.
Người chỉ thị: “Chưa đánh thắng thì chưa được coi là đã
chuẩn bị xong. Quân sự thì phải chuẩn bị mãi. Thắng xong
chiến dịch này cũng mới chỉ là chuẩn bị xong một đợt; toàn
thắng mới là chuẩn bị xong... Trong quân sự phải kiên quyết
và bạo dạn. Bạo dạn, dũng cảm không phải là liều. Liều là dại.
Dũng cảm là khôn. Kiên quyết và bạo dạn không phải là một
người mà phải toàn bộ tất cả mọi người. Muốn toàn bộ kiên
quyết và bạo dạn thì phải có kỷ luật... Kỷ luật là động lực giữ
sức mạnh của bộ đội”.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng
quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1990, tr.153.
- Theo Bác đi chiến dịch, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980,
tr.246-249.

Tháng 9, ngày 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sở Chỉ huy chiến dịch để đến Mặt
trận Đông Khê, trực tiếp theo dõi bộ đội đánh trận mở màn
chiến dịch.
Người chỉ thị cho bộ đội: “Dù khó khăn đến đâu cũng kiên
quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu”.
- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1977, tr.404.

Tháng 9, ngày 15
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 135-SL, chỉ định người vào Ủy ban kháng
chiến hành chính Liên khu IV.

374
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 136-SL, chỉ định ông Hoàng Anh, nguyên Ủy
viên, làm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên
khu IV.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, trước ngày 16 1950


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trung đoàn 296 (Đoàn
Sông Lô). Trung đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, Chính ủy Trần
Độ cùng toàn thể cán bộ chiến sĩ Trung đoàn đã được Người
giao nhiệm vụ “phải đánh thắng trận mở màn của Chiến dịch
Biên giới”.
Người triệu tập đồng chí Hoàng Cầm - Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 130, tiểu đoàn chủ công đánh chiếm Phủ Thiên
(khu hành chính của huyện lỵ Đông Khê) - đến trạm thường
trực của Sở Chỉ huy tiền phương.
Sau khi nghe đồng chí Hoàng Cầm báo cáo tình hình chuẩn
bị chiến đấu của tiểu đoàn, Người hỏi:
- Chú có tin trận này ta nhất định thắng không?
Đồng chí Hoàng Cầm thưa:
- Báo cáo Bác, tin ạ.
Tiếp đó, Chủ tịch nói về tầm quan trọng của chiến dịch đối
với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta,
giải thích vì sao ta không lấy Cao Bằng làm hướng tiến công
chủ yếu, nhấn mạnh công tác nghi binh và bí mật...
- Báo Cựu chiến binh Thủ đô, số 44, tháng 5-1997.
- Bác của chúng ta, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985,
tr.123-125.

Tháng 9, ngày 16
6 giờ, khi tiếng súng tấn công căn cứ điểm Đông Khê đã nổ
mở màn cho Chiến dịch Biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đi quan sát trận đánh.

375
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Từ vị trí quan sát đặt trên một ngọn núi có thể nhìn rõ toàn
bộ các cứ điểm địch ở Đông Khê.
Trong lúc bộ binh của ta đánh các đồn Phìa Khóa, Yên
Ngựa, Cam Phầy thì pháo binh của ta bắn vào đồn chính để
phá hủy pháo và một phần công sự của địch. Địch chống cự
rất ác liệt. Đồn chính mờ mịt lửa khói. Máy bay địch lồng lộn
trút từng đợt bom xuống những nơi chúng nghi có quân ta.
Thả bom xong, máy bay địch tiếp tục bắn phá, có lúc chúng sà
xuống thấp, thấp hơn cả ngọn núi Người đứng quan sát. Người
như không để ý tới máy bay của địch, vẫn chăm chú theo dõi
tình hình chiến đấu và đối chiếu với bản đồ tác chiến.
Xế chiều, Người mới ra về.
Từ trận địa trở về, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm tướng
Trần Canh - người được Đảng và Chính phủ Trung Quốc cử
sang giúp Việt Nam trong Chiến dịch Biên giới. Người vui
vẻ chép tặng ông một bài thơ chữ Hán mới làm, nhan đề
Đăng Sơn.

ĐĂNG SƠN
Huề trượng đăng sơn quan trận địa,
Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân.
Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu1)
Thệ diệt sài lang xâm lược quân.
Dịch thơ:
LÊN NÚI
Chống gậy lên non xem trận địa,
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây.

1) Ngưu Đẩu: tức sao Khiên Ngưu và sao Bắc Đẩu, hai vì sao trong nhị thập
bát tú (B.T).

376
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu,
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy1).
- Đ.K.L.: Theo Bác đi chiến dịch, in trong Bác vẫn cùng chúng
cháu hành quân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984,
tr.122-123.
- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng
quân, Bắc Kinh, 1987, tr.128 (bản tiếng Trung). 1950
- Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990, tr.37.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.441.

Tháng 9, ngày 18
Sau khi quân ta chiếm hoàn toàn Đông Khê vào 10 giờ
sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ Chỉ huy chiến dịch:
“Có thể địch sẽ giành lại Đông Khê để giữ Cao Bằng, hoặc phải
đánh lên để đón quân Cao Bằng rút lui”. Người vạch ý đồ tác
chiến của ta là “nhử thú vào tròng” để “khép vòng lưới thép”
tiêu diệt chúng.
- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1977, tr.405.

Tháng 9, ngày 19
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 137-SL, sửa đổi Điều 6 của Sắc lệnh số 49-SL,
ngày 18-6-1949 và Điều 6 sửa đổi của Sắc lệnh số 79-SL,
ngày 22-5-1950 về cách tính thuế điền thổ của Bộ luật thuế
trực thu.
- Sắc lệnh số 138-SL, sửa đổi Điều 7 Bộ luật thuế trực thu
ban hành ngày 18-6-1949 theo Sắc lệnh số 49-SL.
- Sắc lệnh số 139-SL, cho phép phát hành trong toàn quốc
một công trái gọi là công trái quốc gia ghi bằng thóc và thu
bằng tiền hoặc thóc. Tổng số công trái phát hành ấn định là

1) Bản dịch của Xuân Diệu (B.T).

377
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

100.000 tấn thóc. Công trái được hưởng lãi năm 3% và sẽ


hoàn lại vốn sau 5 năm kể từ ngày mua.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các chiến sĩ bị thương
trong trận Đông Khê.
Lời thư có đoạn:
“Chính phủ, đồng bào đều nhớ ơn các chú. Tôi gửi lời khen
ngợi các chú và chúc các chú mau lành mạnh để trở lại hàng
ngũ tiếp tục chiến đấu giết giặc”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.442.

Tháng 9, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư khen đồng bào, tướng sĩ Nam
Bộ và Nam Trung Bộ “đã kháng chiến 5 năm và đang tiếp tục
củng cố bức Thành đồng của Tổ quốc”.
Bức thư có đoạn:
“Thực dân xâm lược Pháp dựa vào sự giúp đỡ của bọn can
thiệp Mỹ và bù nhìn phản quốc đã bao phen định phá vỡ bức
thành này. Nhưng chúng đã thất bại và bức Thành đồng càng
ngày càng trở nên vững chắc sau mỗi mưu mô xâm chiếm
của giặc.
Được như vậy là nhờ ở ý chí cương quyết của toàn dân, của
các tướng sĩ và đồng bào Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ và sự
đoàn kết của quân, dân với Chính phủ kháng chiến”.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.II, tr.36.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.443.

378
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 9, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi dân tỵ nạn hồi hương
nhân kỷ niệm ngày độc lập dân tộc. Bức thư có đoạn: “Trong
thời gian các bạn ở đây, chúng tôi đã làm hết sức để các bạn có
đời sống vật chất được thoải mái. Nếu chúng tôi không thực
hiện được điều đó thì cũng do đế quốc Pháp tìm mọi cách ngăn 1950
cản chúng tôi”. Trong thư, Người cũng chỉ rõ cách hồi hương
từng nhóm mà không thể đi cùng lúc là do những khó khăn về
vật chất. Cuối thư, Người viết: “Một khi hòa bình được lập lại,
những bạn nam nữ nào muốn trở lại đây làm việc và sống với
chúng tôi như những người bạn và những người cùng hợp tác
thì các bạn đó sẽ được tiếp đón thân mật”.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.444-445.

Tháng 9, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ, quân đội và
nhân dân Việt Nam gửi Điện mừng Quốc khánh nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa nhân ngày Quốc khánh của nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa 1-10-1950.
Trong thư, Người đã khẳng định: “Sự thành công của Trung
Quốc đã khuyến khích các dân tộc châu Á đấu tranh giành
phần thắng lợi và tăng thêm lòng tin tưởng của họ; và trước
hết đây là dấu báo hiệu sự giải phóng được thành công và ngày
vinh quang vĩ đại của dân tộc Việt Nam không còn xa nữa”.
Cuối thư, Người gửi lời chúc sức khỏe tới Chủ tịch nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lãnh đạo nhân dân kiến thiết
chủ nghĩa tân dân chủ thành công, bảo vệ dân chủ và hòa bình
vĩnh cửu của thế giới.
- Báo Cứu quốc số 1663, ngày 9-10-1950.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.446-447.

379
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 10, ngày 2


Trong Thư gửi nhi đồng toàn quốc dịp Tết Trung thu, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khen ngợi: “Trung thu này, các cháu tiến bộ
nhiều, cũng như kháng chiến ta tiến bộ nhiều”. Người tin chắc:
“Bất kỳ ở đâu, tinh thần các cháu cũng đều hăng hái vui vẻ. Vì
các cháu đều biết rằng: giặc Pháp và phản động Mỹ không thể
ăn cướp ông trăng Trung thu của các cháu”. Người hứa với nhi
đồng cả nước: “Đến ngày kháng chiến thắng lợi, thì Bác cháu
ta sẽ cùng nhau ăn những cái Tết Trung thu rất vui vẻ, sung
sướng tưng bừng”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.448-449.

Tháng 10, ngày 6


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới các chiến sĩ mặt trận
Cao - Bắc - Lạng sau khi Đông Khê được giải phóng, địch buộc
phải rút khỏi Cao Bằng.
Bức điện có đoạn:
“Hiện nay tình hình rất có lợi cho ta. Vậy các chiến sĩ phải
quyết tâm tiêu diệt địch cho kỳ hết để giành lấy toàn thắng.
Bác theo dõi cuộc chiến đấu anh dũng của các chú từng
giờ. Bác sẽ có giải thưởng đặc biệt cho những bộ đội và chiến
sĩ nào lập chiến công nhiều nhất”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 142-SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý văn phòng Bộ
Nội vụ thay ông Trần Hữu Dực được chỉ định giữ chức vụ khác.
- Sắc lệnh số 143-SL, bổ nhiệm ông Trần Hữu Dực, nguyên
Phó Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ giữ chức Phó Chủ nhiệm
Tổng cục Cung cấp Bộ Tổng tư lệnh.
- Sắc lệnh số 144-SL, thành lập trong Bộ Canh nông một vụ
hợp tác xã nông nghiệp chuyên trách về các tổ chức hợp tác
nông nghiệp trong toàn quốc.

380
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 145-SL, bổ nhiệm Giám đốc Vụ Hợp tác xã
nông nghiệp Bộ Canh nông.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.88.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1950
2011, t.6, tr.450.

Tháng 10, ngày 8


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các chiến sĩ ở mặt trận
Đông Khê sau khi binh đoàn Lơpagiơ bị tiêu diệt. Người viết:
“Từ ngày kháng chiến đến nay, trận này là trận đầu tiên bộ đội
ta đánh vận động liên tiếp luôn mấy ngày. Đó là một cuộc thử
thách lớn...
Các chú đã hoàn thành bảy phần mười cuộc thử thách một
cách dũng cảm. Các chú cố gắng mà tiêu diệt nốt binh đoàn
Sáctông nhé.
Bác và Tổng Tư lệnh đã ra lệnh khao các chú một bữa
thịt bò”.
Cùng ngày, Người làm việc với tướng Trần Canh, cố vấn
quân sự Trung Quốc.
- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng
quân, Bắc Kinh, 1987, tr.131 (bản tiếng Trung).
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.89.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.452.

Tháng 10, trước ngày 9


Trong không khí chiến thắng của Chiến dịch Biên giới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi tặng tướng Trần Canh một chai rượu
sâm banh chiến lợi phẩm kèm theo một bài thơ chữ Hán. Bài

381
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

thơ mượn ý bài Lương Châu từ của Vương Hàn, nhà thơ đời
Đường (Trung Quốc), để diễn tả vui mừng trước thắng lợi:

TẶNG TRẦN CANH ĐỒNG CHÍ


“Hương tân” mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Dịch thơ:

TẶNG ĐỒNG CHÍ TRẦN CANH


“Sâm banh” rượu ngọt chén lưu ly,
Toan nhắp, tỳ bà ngựa giục đi.
Say khướt sa trường cười chớ vội,
Chẳng cho địch thoát một tên về1).
- Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990,
tr.39-40.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.451.

Tháng 10, ngày 9


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết gửi tướng Trần Canh một bức
thư bằng chữ Hán. Toàn văn bức thư (dịch sang tiếng Việt)
như sau:
“Anh Đông2):
1- Cần đề phòng máy bay địch bắn phá.
2- Đề nghị viết tóm tắt lại thành văn bản mấy điểm trước
mắt chúng tôi cần làm mà hôm qua anh nói với tôi. Ví dụ:
a/ Khen thưởng bộ đội, động viên nhân dân
b/ Sửa đường, chuẩn bị “rời đô”

1) Bản dịch của Phan Văn Các (B.T).


2) Mật danh của tướng Trần Canh (B.T).

382
TẬ P 4 : 1946 - 1950
c/ Huấn luyện cán bộ, chấn chỉnh bộ đội...
d/ Tạm thời xác định phương hướng trận đánh sau, chuẩn
bị triển khai chiến dịch này...
Chúc anh mạnh khỏe.
9/10
Đinh của anh1)”. 1950
- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng
quân, Bắc Kinh, 1987, tr.131 (bản tiếng Trung).
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc (sách ảnh), Nxb. Đại
bách khoa toàn thư Trung Quốc, Bắc Kinh, 1995, tr.46.

Tháng 10, ngày 10


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 146-SL, chỉ định ông Trần Sâm, Tư lệnh Bộ
Tư lệnh địa phương Liên khu IV, làm Ủy viên quân sự Ủy ban
kháng chiến hành chính Liên khu IV.
- Sắc lệnh số 147-SL, quy định “các ủy viên Ủy ban kháng
chiến hành chính các cấp xã, tỉnh, từ nay trở đi lại bầu theo thể
lệ cũ như đã định trong Sắc lệnh số 63, ngày 22-11-1945 và
thủ tục giải quyết trong những trường hợp đặc biệt.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 11


Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Đại đoàn Thất Khê
(Đại đoàn 308).
Nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ, Người phân tích tình
hình thế giới, trong nước, ý nghĩa thắng lợi của Chiến dịch
Biên giới. Người nhắc nhở một số cán bộ không nên bắt chước
lối ăn mặc của địch dây dợ lằng nhằng ở vai, ở túi...
- Phạm Chí Nhân: Điện Biên Phủ - lắng đọng và suy ngẫm,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994, tr.36.

1) Mật danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (B.T).

383
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 10, ngày 12


Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Phan Phác,
Tổng Tham mưu phó, trực tiếp phụ trách Ban tham mưu Mặt
trận Biên giới, yêu cầu đưa Người đến gặp nhóm sĩ quan cao
cấp Pháp vừa bị ta bắt trong chiến dịch.
Sau đó, với danh nghĩa “Cố vấn chính trị của mặt trận”,
Người cải trang giống như một người bị thương ở đầu đến
gặp các tù binh: Trung tá Lơpagiơ, chỉ huy binh đoàn Baya và
Thiếu tá quân y Đuyarít.
Tiếp đó, Người gặp Trung tá Sáctông, chỉ huy trưởng phân
khu Cao Bằng.
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng.
- “Bác Hồ gặp các tù binh sĩ quan Pháp trong Chiến dịch Biên
giới”, tạp chí Lịch sử quân sự, số 22, tháng 10-1987.

Tháng 10, ngày 14


Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, gửi thư cảm ơn
và khen ngợi đồng bào Cao - Bắc - Lạng nhân dịp chiến thắng
trên chiến trường Biên giới.
Người căn dặn: “Để tiêu diệt hết giặc Pháp, để chống lại
bọn can thiệp Mỹ, để giải phóng hoàn toàn Tổ quốc, chúng
ta còn phải vượt qua bao nhiêu sự khó khăn, cực khổ nữa.
Chúng ta chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch”. Và kêu
gọi: “Đồng bào Cao - Bắc - Lạng đã làm kiểu mẫu trong việc
động viên nhân lực, vật lực, tài lực cho kháng chiến. Tôi chắc
rằng đồng bào ba tỉnh ta sẽ luôn luôn cố gắng thêm để giữ
lấy địa vị vẻ vang”.
Cùng ngày, với bí danh Đin, Người đã viết thư gửi đồng
chí Xtalin. Bằng những số liệu cụ thể, Người báo cáo những
thắng lợi bước đầu của quân và dân Việt Nam, cảm ơn sự giúp
đỡ của Bạn. Người viết: “Lần đầu tiên chúng tôi tiến hành một

384
TẬ P 4 : 1946 - 1950
trận đánh lớn, chúng tôi đã có những kinh nghiệm lớn và đã
thấy được một cách rõ hơn những hạn chế của mình. Với sự
giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, và tuân thủ học thuyết
Lênin - Xtalin, chúng tôi sẽ làm hết sức mình để khắc phục
những thiếu sót đó”,...
“Chúng tôi đang chuẩn bị cho trận đánh tiếp theo, sau khi 1950
các chiến sĩ của chúng tôi đã nghỉ ngơi một chút. Chúng tôi hứa
với đồng chí rằng sẽ cố gắng chiến đấu tốt hơn”.
Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo về công tác
chuẩn bị Đại hội lần thứ II của Đảng: “Vào khoảng tháng 12
chúng tôi sẽ tiến hành Đại hội toàn quốc, kỷ niệm ngày thành
lập Đảng mới của chúng tôi: Đảng Công nhân Việt Nam. Nhiệm
vụ hàng đầu của chúng tôi là cải tổ Đảng với 500.000 đảng viên
đã được thấm nhuần học thuyết Mác - Lênin (hiện giờ chúng tôi
có trên 750.000 đảng viên, nhưng rất nhiều đồng chí đó đã bị
khai trừ trong các cuộc chỉnh đảng).
Tôi hy vọng sẽ nhận được những cuốn sách mà đồng chí đã
hứa viết dành riêng cho chúng tôi. Tôi sẽ tự dịch chúng. Đây sẽ
là một quà tặng quý báu mà đồng chí dành cho chính đảng non
trẻ của chúng tôi”.
- Thư viết bằng tiếng Anh, lưu tại Lưu trữ Lịch sử chính trị
xã hội Nga, phông 558, mục lục 11, hồ sơ 295, tờ 7,8.
- Bản phôtô lưu tại Kho tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.453-454.

Tháng 10, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Hội nghị
tổng kết Chiến dịch Lê Hồng Phong II1).

1) Tức Chiến dịch Biên giới. Hội nghị họp từ ngày 23 đến ngày 28-10-1950
tại Lam Sơn (Cao Bằng) (B.T).

385
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong bài phát biểu, Người lưu ý một số điểm cụ thể cần
tổng kết: đề cao kỷ luật; triệt để thi hành mệnh lệnh cấp trên;
thương yêu đội viên; tôn trọng nhân dân; giữ gìn của công và
chiến lợi phẩm; thành thật tự phê bình và phê bình. Người
rút ra bài học kinh nghiệm lớn: 1- Trung ương lãnh đạo sáng
suốt. Các cấp địa phương chỉ đạo đúng đắn. Các cơ quan quân,
dân, chính đoàn kết, phối hợp chặt chẽ, hành động nhất trí;
2- Chiến sĩ ta rất hăng hái, anh dũng; 3- Nhân dân ta rất tốt;
4- Giặc chủ quan. Ngoài ra, Người còn đề cập một số điểm về
công tác tuyên truyền; chống tư tưởng chủ quan khinh địch;
phải tranh thủ thời gian và phải tuyệt đối giữ bí mật.
- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1960, t.II, tr.41-45.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.457-461.

Tháng 10, ngày 30

Trong Lời kêu gọi và khuyên nhủ các chiến sĩ, đăng trên
báo Sự thật, số 147, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Trong trận
này, ta đã giành hai thắng lợi: “Thắng lợi thứ nhất là chúng ta
đã tiêu diệt địch và đã giải phóng Cao Bằng, Đông Khê, Thất
Khê. Thắng lợi thứ hai là ta đã thấy rõ những ưu điểm và
khuyết điểm của ta”. Người căn dặn: “Chúng ta chớ vì thắng
lợi mà kiêu căng, chủ quan khinh địch. Chúng ta phải nhớ
rằng: trong toàn cuộc trường kỳ kháng chiến thì thắng lợi
này chỉ mới là một bước đầu. Chúng ta còn phải đánh và phải
thắng nhiều trận gay go hơn, to tát hơn nữa mới đi đến thắng
lợi hoàn toàn”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.455-456.

386
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 10, khoảng cuối tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Bệnh viện Thủy Khẩu1).
Người đi một vòng qua cả ba khu điều trị, đến tận giường
thăm hỏi từng thương binh bất động. Gặp gỡ và nói chuyện
với thương binh nhẹ tại vườn chuối của bệnh viện, Người báo
tin: “Quân ta thắng lợi rồi, ta không còn bị bao vây, cửa đã mở 1950
ra thế giới, Đảng và Bác không quên công lao của các chiến sĩ
đã ngã xuống hoặc bị thương tật”.
Sau đó, Chủ tịch tiếp chuyện thân mật với một số cán bộ,
nhân viên Trung Quốc công tác tại bệnh viện.
- Lịch sử Quân y viện 108 anh hùng, Tổng cục Hậu cần Quân
đội nhân dân Việt Nam, 1990, tr.15.

Tháng 11, đầu tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi các cán bộ Bắc Kạn, căn
dặn những việc phải làm như: thu mua thóc kịp thời, đắp
đường sửa đường, tranh thủ gặt hái, thực hiện “chén gạo tiết
kiệm”, tổ chức “quán nghỉ cán bộ”, chấn chỉnh lề lối làm việc,
“giản chính, tinh cán”. Người yêu cầu phải thường xuyên báo
cáo với Người kết quả những việc trên - cả khuyết điểm và
ưu điểm.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bắc Thái: Bác Hồ với Bắc
Thái, Ty Văn hóa - Thông tin Bắc Thái, 1979, tr.31-32.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.489-490.

Tháng 11, ngày 6


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới Đại nguyên
soái Xtalin nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười.

1) Bệnh viện của Bộ Quốc phòng đặt trên đất Trung Quốc, có nhiệm vụ cứu
chữa các thương binh trong Chiến dịch Biên giới. Bệnh viện có 60 cán
bộ nhân viên Trung Quốc giúp đỡ (B.T).

387
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 149-SL, bổ


nhiệm Phó Văn phòng Phủ Thủ tướng.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.462.

Tháng 11, ngày 7


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 150-SL, về việc giam
giữ phạm nhân và trách nhiệm của Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp
đối với việc tổ chức và kiểm soát các trại giam trong phạm vi
toàn quốc.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 9


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho họ Nguyễn Sinh khi
nhận được tin ông Nguyễn Sinh Khiêm mất. Toàn văn bức điện
như sau:
“Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước
nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể
trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ1) trước linh hồn anh và xin bà
con nguyên lượng2) cho một người con đã hy sinh tình nhà vì
phải lo việc nước.
Ngày 9 tháng 11 năm 1950
HỒ CHÍ MINH”.
- Bản chụp bức điện, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chủ tịch với quê hương, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
tỉnh Nghệ An, 1970, tr.24.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.463.

1) Bất đễ: không trọn tình anh em. Do cách phát âm của tiếng Nghệ An nên
chữ “bất đễ” được đọc thành “bất đệ” (B.T).
2) Nguyên lượng: thứ lỗi, tha thứ (B.T).

388
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 11, ngày 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định số 147-C/QĐ thành
lập Đoàn Thanh tra đặc biệt đi thanh tra việc sử dụng ngân
sách của Bộ Quốc phòng. Đoàn gồm:
- Ông Hồ Tùng Mậu, Tổng Thanh tra Chính phủ, Trưởng đoàn.
1950
- Ông Tô Quang Đẩu, Thanh tra Chính phủ, đoàn viên.
- Ông Trần Hữu Dực, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp,
đoàn viên.
- Bản chụp Quyết định lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 11


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các bạn nam nữ Pháp
đấu tranh cho hòa bình. Người nêu rõ:
“Cuộc chiến tranh trên đất nước chúng tôi sửa soạn cho
một cuộc chiến tranh đế quốc khác. Bởi vậy, trong khi chiến
đấu để bảo vệ hòa bình thế giới, các bạn đồng thời làm một
việc rất đúng là mở một chiến dịch mạnh mẽ đòi đình chỉ ngay
tức khắc cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Không phân biệt nam
nữ, trẻ già, thợ thuyền, nông dân hay trí thức, các bạn đã đoàn
kết để cùng góp phần cố gắng và quyết tâm của mình, chúng
tôi kính phục theo dõi các bạn.
Về phần chúng tôi, trong khi chiến đấu để giải phóng Tổ
quốc, chúng tôi đồng thời làm suy yếu đế quốc Pháp, một
trong những kẻ gây chiến tranh thế giới.
Tất cả chúng ta đều gắng sức theo đuổi một mục đích, nhất
định những cố gắng của chúng ta chẳng bao lâu sẽ đưa bọn đế
quốc đến chỗ thất bại hoàn toàn”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.464-465.

389
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 11, trước ngày 14


Nhân dịp nhà báo Lêô Phighe, đại diện Trung ương Đảng
Cộng sản Pháp sang thăm Việt Nam trở về Pháp, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết Thư gửi các bà mẹ và vợ Pháp có con và chồng
chết trận ở Việt Nam.
Thư cho biết, những binh lính sĩ quan Pháp bỏ mình trong
cuộc chiến tranh tại Việt Nam, chỉ có một số rất ít thi hài được
chở về cho gia đình họ, còn phần lớn đã bị bọn chỉ huy cho san
phẳng mồ mả để che giấu những thất bại to lớn của chúng.
Tất nhiên vẫn còn những nấm mồ thoát khỏi hành vi tàn bạo
ấy. Đối với những nấm mồ này, “chúng tôi tự coi có bổn phận
thiêng liêng phải giữ gìn nguyên vẹn để sau này, khi chiến
tranh chấm dứt, các bà có thể mang hài cốt của chồng con
mình về quê cha đất tổ”. Việc làm đó, “mong rằng có thể làm
dịu nhiều những nỗi đau khổ của các bà”.
Thư cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những bà mẹ và bà vợ
đã hăng hái đấu tranh đòi hồi hương đạo quân viễn chinh và
chấm dứt cuộc chiến tranh đầy tội ác này.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.469-470.

Tháng 11, ngày 14


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Công điện số 508/D cho đồng
bào Sơn Hà (Quảng Ngãi)­­­­­­­­­­­­ khi nhận được tin do sai lầm của
một số cán bộ nên một bộ phận đồng bào ở đây đã bị địch lợi
dụng, gây rối loạn trị an, làm hại đến đoàn kết.
Người khuyên đồng bào “mau mau tỉnh ngộ, trở về yên
phận làm ăn, chớ nghe lời giặc lừa phỉnh” và “rất mong đồng
bào nghe theo lời thân ái đoàn kết của tôi, mau mau quay về
với Chính phủ”.

390
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người đề nghị: “Nếu cán bộ địa phương có điều gì sai lầm,
nếu đồng bào có việc gì oan ức, thì đồng bào phái đại biểu đến
trình bày với tôi và Chính phủ... Tôi và Chính phủ sẽ trừng trị
những cán bộ có lỗi, và sẽ làm cho đồng bào khỏi oan ức”.
Cùng ngày, Người gửi Mật điện số 509/D cho cán bộ chính
quyền và đoàn thể miền Nam Trung Bộ, nêu những “khuyết 1950
điểm nặng” trong vụ Sơn Hà và trong việc động viên tài lực
của dân. Người yêu cầu các cán bộ “phải dùng phê bình và tự
phê bình, từ trên xuống, từ dưới lên, kiên quyết sửa chữa cho
kỳ sạch” những khuyết điểm đó.
- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng
Bộ trưởng.
- Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.466-467.

Tháng 11, trước ngày 15


Được tin một số đông binh sĩ Pháp ở Đông Dương về nước
đã thành lập một tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình, đòi hồi
hương các bạn đồng ngũ đang buộc phải tham gia cuộc chiến
ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới những người
bạn Pháp đó.
Bức thư có đoạn:
“Nhân dân Việt Nam rất biết ơn sự cố gắng của các bạn
cũng như đã biết ơn sự cố gắng của những bà mẹ và những
người lao động Pháp. Nhìn vào hành động của các bạn, nhân
dân Việt Nam thấy rằng mình đang có hàng triệu người bạn
trung thành ở ngay nước Pháp. Họ đã không bao giờ nhầm lẫn
bọn đế quốc Pháp với nhân dân Pháp mà họ muốn thắt chặt
mãi thêm mối dây thân hữu”.
- Báo Cứu quốc, số 1690, ngày 15-11-1950.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.471-472.

391
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 11, từ ngày 15 đến ngày 17


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính
phủ để nghe báo cáo tình hình thế giới và trong nước từ cuối
tháng 9 đến đầu tháng 11, tình hình quân sự trong mùa thu,
đặc biệt là về Chiến dịch Biên giới và bàn một số vấn đề quan
trọng khác.
Kiểm điểm về vụ Trần Dụ Châu1), sau khi nghe Bộ Quốc
phòng trình bày vụ án và nghe Hội đồng Chính phủ nhận xét,
cho ý kiến khắc phục, sửa chữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận
và rút ra một số bài học. Người nói đại ý: Về vụ Trần Dụ Châu,
chúng ta phải chịu một phần trách nhiệm, chúng ta không có
chính sách cán bộ đúng. Chúng ta sinh trưởng trong một xã
hội lạc hậu, nhiễm thực dân phong kiến, xã hội cũ hám danh
hám lợi, danh lợi dễ làm hư người... Bây giờ chúng ta dùng cán
bộ để cải tạo xã hội mà không có chính sách cải tạo cán bộ, đó
là khuyết điểm. Chính sách cán bộ thế nào? Lúc tìm người phải
tìm cả tài, cả đức, chú trọng tư tưởng. Nếu cán bộ biết thương
dân, tiếc của dân thì không xảy ra việc đáng tiếc. Đồng thời,
phải giáo dục, cải tạo, kiểm tra cán bộ.
Người yêu cầu phải đẩy mạnh việc tự phê bình và phê
bình: “Chúng ta hay nể nả. Mình chỉ biết mình thanh liêm là
đủ. Quan niệm “thanh cao tự thủ” là không đủ. Tất cả chúng ta
phụ trách trước nhân dân, trong anh em phải có tự phê bình
và phê bình... Phải mở cửa khuyến khích lãnh đạo tự phê bình
và phê bình”.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.473-485.

1) Trần Dụ Châu, nguyên Đại tá, Giám đốc Nha Quân nhu đã phạm tội tham
ô, biển thủ công quỹ (tiền kháng chiến) để sống xa hoa trụy lạc, ảnh
hưởng xấu đến uy tín của Đảng và quân đội. Tòa án binh đã truy tố và
kết án tử hình Trần Dụ Châu.

392
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Tháng 11, ngày 17
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị hòa bình ở
Việt Nam1).
Người khẳng định: “Muốn giữ gìn hòa bình một cách thiết
thực thì phải ra sức chống đế quốc chủ nghĩa”, và cuộc kháng
chiến Việt Nam chính là “đang chặt cái gốc chiến tranh đế 1950
quốc, đang giúp sức bảo vệ hòa bình”. Vì vậy, nhiệm vụ của
mọi người là “đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ toàn dân Việt Nam,
để kháng chiến lâu dài, để đánh tan bọn thực dân Pháp và bọn
can thiệp Mỹ”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 151-SL, bổ sung quyền hạn và lề lối làm việc
của Hội thẩm nhân dân các cấp huyện và tỉnh.
- Sắc lệnh số 152-SL, quy định việc truy tố những công
chức làm việc tại các cơ quan trung ương và các ngành thuộc
phạm vi liên khu bị phạm pháp.
- Sắc lệnh số 153-SL, quy định Hội đồng nhân dân tỉnh họp
thường kỳ ba tháng một lần.
- Sắc lệnh số 154-SL, quy định những kỷ luật đối với công
chức, quân nhân, dân thường làm lộ bí mật của cơ quan hay
công việc của Chính phủ.
- Sắc lệnh số 155-SL, về việc thành lập Tòa án quân sự
liên khu.
- Sắc lệnh số 156-SL, về việc thiết lập Tòa án nhân dân
liên khu.
- Sắc lệnh số 157-SL, về việc thiết lập Tòa án nhân dân vùng
tạm bị chiếm.
- Sắc lệnh số 158-SL, về việc đưa những cán bộ công nông
có thành tích, kinh nghiệm vào các ngạch thẩm phán theo đề
nghị của một Hội đồng tuyển chọn.

1) Đây là Hội nghị thành lập Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam,
họp ngày 19-11-1950 (B.T).

393
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

- Sắc lệnh số 159-SL, ấn định những trường hợp được ly


hôn, thủ tục ly hôn và hiệu lực của việc ly hôn.
- Sắc lệnh số 160-SL, về việc thành lập Vụ Hình - Hộ trong
Bộ Tư pháp.
- Sắc lệnh số 161-SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ
Tư pháp.
- Sắc lệnh số 162-SL, về việc thành lập Nha Công chính trực
thuộc Bộ Giao thông Công chính.
- Sắc lệnh số 163-SL, về việc hạn chế giết trâu bò trong toàn
quốc nhằm phát triển chăn nuôi, lợi cho tăng gia sản xuất và
hợp với chính sách tiết kiệm chung.
- Sắc lệnh số 164-SL, về việc cải tổ Nha khẩn hoang di dân
thành Sở doanh điền thuộc Bộ Canh nông.
- Sắc lệnh số 165-SL, bổ nhiệm ông Lê Duy Thước, Phó
Đổng lý văn phòng Bộ Canh nông, kiêm chức Giám đốc Sở
doanh điền thuộc Bộ Canh nông.
- Sắc lệnh số 166-SL, về việc tách Nha Kỹ nghệ thuộc Bộ
Kinh tế thành hai nha: Nha Công nghệ và Nha Tiểu công nghệ.
Mỗi nha do một Giám đốc và một Phó Giám đốc điều khiển.
- Sắc lệnh số 167-SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 221-SL, ngày
20-8-1948; cho phép Bộ trưởng Bộ Kinh tế, trong thời kỳ
kháng chiến, có thể ban hành bằng nghị định những thể lệ
đặc biệt để ngăn ngừa những luồng thương mại có hại cho
dân sinh.
- Sắc lệnh số 168-SL, về việc thành lập Sở Nội thương trực
thuộc Bộ Kinh tế.
- Sắc lệnh số 169-SL, sửa đổi Điều 2 và Điều 3 của Sắc lệnh
số 8-SL, ngày 23-2-1949 về việc hóa giá và thủ tục định giá
tối đa.
- Sắc lệnh số 170-SL, giao cho Ủy ban kháng chiến hành
chính tỉnh, tùy mức độ nghiêm trọng của các hạng phạm pháp,
có thể tịch thu, xử phạt hoặc truy tố bị can sau khi hỏi ý kiến
Ty Kinh tế.

394
TẬ P 4 : 1946 - 1950
- Sắc lệnh số 171-SL, ân giảm cho một phạm nhân từ tội tử
hình xuống khổ sai chung thân.
- Sắc lệnh số 172-SL, về việc thành lập trong Bộ Giáo dục
một Vụ Văn học Nghệ thuật gồm các ngành văn hóa (văn, sử,
địa, triết học, kinh tế học, ngôn ngữ, văn tự) và các ngành nghệ
thuật (âm nhạc, ca kịch, hội họa, kiến trúc). 1950
- Sắc lệnh số 173-SL, bổ nhiệm ông Hoài Thanh giữ chức
Giám đốc Vụ Văn học Nghệ thuật thuộc Bộ Giáo dục.
- Sắc lệnh số 174-SL, bổ nhiệm Phó Giám đốc Nha Bình dân
học vụ.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.6, tr.486-487.

Tháng 11, trước ngày 27


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các nhà báo trong nước và
nước ngoài.
Trả lời những câu hỏi về Chiến dịch Biên giới, Người nêu rõ
kết quả, nguyên nhân, ý nghĩa quan trọng của thắng lợi đó và
chỉ rõ: “Sau thắng lợi này, một điều mà quân và dân ta phải giữ
là tuyệt đối không được vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan,
khinh địch. Trái lại, chúng ta phải cố gắng hơn nữa, cẩn thận
hơn nữa, kiên quyết hơn nữa”.
Về kết quả thi đua trong năm, Người nói: “Thành tích rất
khá vì dân chúng rất hăng hái”. Tuy vậy, phong trào thi đua vẫn
còn nhiều khuyết điểm, như: đặt kế hoạch chưa sát; việc đôn
đốc theo dõi, giúp đỡ còn kém; việc tổng kết kinh nghiệm, trao
đổi kinh nghiệm làm chưa tốt. Chủ tịch nhấn mạnh: “Chúng ta
cố gắng sửa chữa những khuyết điểm đó - mà việc này thì các
báo chí phải gánh một phần trách nhiệm - thì Thi đua ái quốc
chắc sẽ có những thành tích tốt đẹp gấp bội”.
- Báo Sự thật, số 151, ngày 27-11-1950.

395
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 11, ngày 27


Bốn bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thư gửi chiến sĩ và
cán bộ Hòa Bình, Thư gửi chiến sĩ và cán bộ Lào Cai, Thư gửi
đồng bào Hòa Bình và Thư gửi đồng bào Lào Cai, đăng trên báo
Sự thật, số 151.
Trong các bức thư, Người thay mặt Chính phủ khen ngợi
chiến công của các chiến sĩ, cán bộ hai tỉnh Hòa Bình, Lào Cai;
thân ái an ủi toàn thể đồng bào hai tỉnh “đã mấy năm, đồng
bào sống cực khổ dưới gót sắt giặc Pháp dã man, chịu đủ sự
áp bức tàn nhẫn”; và căn dặn những công việc mà các chiến sĩ,
cán bộ và đồng bào hai tỉnh cần làm ngay.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.491-494.

Tháng 11, trong tháng

Sau chiến thắng Biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết gửi
luật sư Phan Anh mấy vần thơ:
Đất chuyển, trời xoay, bể mịt mù.
Thu này, kháng chiến đã ba thu.
Hoàn toàn thắng lợi, vài thu chắc.
Một túi thơ tiên, rượu một bù1)...
- Thơ ca chiến khu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 2001, tr.367.
- Báo Giáo dục và thời đại, ngày 13-12-1996.

Tháng 11, trong tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới toàn thể phụ lão xã Vĩnh
Đồng, châu Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

1) Một bầu (B.T).

396
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Người thăm hỏi và căn dặn đồng bào, quân đội, chính
quyền và đoàn thể trong tỉnh phải: đoàn kết chặt chẽ; thi đua
ủng hộ kháng chiến; thi đua tăng gia sản xuất; thi đua thực
hành cần, kiệm, liêm, chính và chớ chủ quan khinh địch, phải
cẩn thận đề phòng.
Người mong “mọi người cố gắng làm tròn nhiệm vụ để góp 1950
một phần xứng đáng vào cuộc kháng chiến thắng lợi, độc lập
thành công”.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Sơn Bình: Bác Hồ với cán
bộ và nhân dân các dân tộc Hà Sơn Bình, 1980, tr.28-29.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.495-496.

Tháng 12, ngày 1


Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 176-SL, bổ nhiệm Giám đốc Vụ Hình - Hộ Bộ
Tư pháp.
- Sắc lệnh số 177-SL, chuẩn y cho ông Dương Ngà, Ủy viên
Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Nội, được từ chức.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 17


Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm Hội nghị Ban Kinh tế
Chính phủ (họp từ ngày 15).
Tối, Người nói chuyện với hội nghị về tình hình thế giới.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.338.

Tháng 12, từ ngày 18 đến ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp cuối năm của Hội
đồng Chính phủ để xem xét tình hình thế giới từ cuối tháng 11

397
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

đến giữa tháng 12, kiểm điểm công tác của chính quyền trong
năm 1950, kiểm điểm tình hình một năm chuẩn bị tổng phản
công, thông qua chương trình hoạt động năm 1951 và quyết
định về một số vấn đề quan trọng.
Tổng kết Hội nghị, sau khi nhắc lại những nhiệm vụ nặng
nề của Chính phủ, của các cấp, các ngành, chính quyền, của các
đoàn thể và của toàn dân, Người kết luận:
Thi đua, đoàn kết mọi bề,
Hoàn toàn thắng lợi ắt về tay ta!
Tối ngày 19, để kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến,
Người cho tổ chức lửa trại và liên hoan văn nghệ. Các vị trong
Quốc hội và Chính phủ đều tham gia. Người cũng tham gia một
tiết mục: đọc thơ.
- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ lưu tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng,
1995, t.2, tr.338-339, 341.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.497-510.

Tháng 12, ngày 19


Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân ngày 19-12-1950.
Đánh giá sự thay đổi lực lượng giữa địch và ta mấy năm vừa
qua, Người chỉ rõ: “Tình thế bên địch ngày càng khó khăn”, còn
“ta đã từ bị động chuyển dần sang chủ động, từ thế yếu chuyển
dần sang thế mạnh, từ thế thủ chuyển dần sang thế công”.
Người kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước:
“Tuyệt đối chớ vì thắng mà kiêu căng, chủ quan, khinh địch.
Chúng ta phải nhớ rằng: càng gần thất bại, địch càng cố gắng,
càng hung dữ, càng liều mạng. Càng gần thắng lợi, ta càng gặp
nhiều sự gay go. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng tinh thần và
lực lượng để đối phó với những khó khăn mới”.

398
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Cùng ngày, nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân giải phóng
Việt Nam, Người gửi thư tới Quân đội quốc gia, bộ đội địa
phương và dân quân Việt Nam.
Bức thư có đoạn:
“Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà
chiến đấu, yêu nước, yêu dân nên hy sinh kham khổ. 1950
Quân đội ta luôn luôn giữ gìn và phát triển truyền thống
anh dũng của Quân giải phóng Việt Nam và đạo đức cách mạng
gồm 10 điều kỷ luật.
Với quân đội ấy, kháng chiến nhất định thắng lợi”.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 477-SL,
tặng thưởng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt
Nam, HUÂN CHƯƠNG HỒ CHÍ MINH HẠNG BA về thành tích:
“Đã chỉ huy quân đội và dân quân chiến thắng giặc trong 5 năm
kháng chiến trên các chiến trường, đặc biệt trong trận bảo vệ
Việt Bắc - Thu Đông 1947 và trong Chiến dịch giải phóng biên
giới mùa thu 1950”.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.511-514.

Tháng 12, ngày 20


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Liên khu IV do
ông Lê Viết Lượng, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
Liên khu IV làm Trưởng đoàn. Người nghe ông Lượng báo cáo
tình hình mọi mặt của các tỉnh trong Liên khu, và căn dặn các
vị trong Đoàn phải chú ý chăm lo sản xuất và chăm lo đời sống
của nhân dân, phải đi sát dân, giúp đỡ kế hoạch và động viên
nhân dân sản xuất, chiến đấu.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:
- Sắc lệnh số 180-SL, về việc truy tố trước Tòa án quân sự
những người đầu cơ tiền tệ, làm giấy bạc giả, lưu hành giấy

399
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

bạc giả, tàng trữ hay lưu hành những giấy bạc của địch đã có
lệnh cấm; những người có những hoạt động có tính cách phá
hoại nền tài chính quốc gia.
- Sắc lệnh số 181-SL, duyệt y và cho phép thi hành kể từ
ngày 1-1-1951 ngân sách toàn quốc tài khóa 1951.
- Sắc lệnh số 182-SL, ấn định mức thuế xuất các loại thuốc
lào, thuốc lá là 15% giá bán buôn.
- Sắc lệnh số 183-SL, bổ nhiệm Giám đốc Nha Công nghệ;
Giám đốc và Phó Giám đốc Nha Tiểu công nghệ.
- Sắc lệnh số 184-SL, bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm Tổng cục
Cung cấp Bộ Tổng tư lệnh.
- Sắc lệnh số 185-SL, chỉ định người vào Ủy ban kháng
chiến hành chính Liên khu III, thay ông Đặng Kim Giang được
cử giữ chức vụ khác.
- Sắc lệnh số 186-SL, cho phép Bộ Giao thông công chính
phát hành một loại tem thư có in hình Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ An: Nghệ An trong lòng
Bác, 1974, tr.14-18.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 23


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Hội nghị
kháng chiến hành chính toàn quốc.
- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 25


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Công giáo nhân
dịp lễ Nôen.
Bức thư có đoạn:
“Lâu nay, đồng bào đã ghi nhớ lời dạy của Đức Chúa và lời
kêu gọi của Tổ quốc, đã đoàn kết và kháng chiến.

400
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Ngày nay, cuộc kháng chiến cứu nước đang chuyển sang
giai đoạn mới, đồng bào càng phải vì Đức Chúa, vì Tổ quốc mà
đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, kháng chiến hăng hái hơn nữa, để
sớm đến ngày thắng lợi và thái bình”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.515.
1950
Tháng 12, trong tháng
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các tù binh và hàng binh
Âu Phi nhân dịp Nôen.
Bức thư viết:
“Các bạn,
Tôi gửi lời chúc các bạn một lễ Nôen vui vẻ. Tôi đã chỉ thị
cho các cấp có trách nhiệm cố gắng làm giảm bớt trong dịp lễ
này những sự thiếu thốn mà các bạn chia sẻ với nhân dân Việt
Nam đương kháng chiến.
Cũng chỉ tại bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngoan cố
kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, mà một lần nữa
ngày Chúa giáng sinh các bạn phải sống trong cách xa gia đình,
xa quê hương...
Nhân dân Việt Nam tha thiết với hòa bình, cho nên quyết
tâm đánh đuổi bọn đế quốc gây chiến.
Ngày giải phóng của dân tộc Việt Nam cũng sẽ là ngày trả
lại tự do cho các bạn, như các bạn hằng mong muốn.
Trong khi chờ đợi, các bạn hãy kiên tâm, hãy giữ gìn kỷ luật.
Một lần nữa tôi chúc các bạn một lễ Nôen vui vẻ và một
năm mới tốt lành.
Hồ Chí Minh”
- Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.516.

401
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tháng 12, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới các chiến sĩ và cán bộ
tham gia Chiến dịch Trung du21, căn dặn:
“Lần này các chú phải cố gắng hơn nữa, vì chiến dịch này
rất là quan trọng. Vả chăng, chiến dịch này là lần đầu tiên ta
đánh ở đồng bằng, và địch thì có chuẩn bị.
Chính vì lẽ đó mà ta quyết phải thắng”.
Người nhắc nhở:
“Mỗi một người, mỗi một đơn vị, mỗi một bộ phận đều phải:
Bí mật hơn
Nhanh chóng hơn
Kiên quyết hơn.
Chiến dịch này, các chú nhất định phải đánh thắng”.
- Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.99.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.517.

Tháng 12, trong tháng


Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hoàng thân Xuphanuvông,
cho biết Người rất muốn đến thăm Hoàng thân, nhưng công
việc cuối năm bận nên Hồ Chí Minh không thể thực hiện được.
Trong thư, Người tỏ ra rất vui mừng khi biết tin Hoàng thân rất
khỏe và làm việc rất hăng say. Người thông báo cho Hoàng thân
biết tinh thần chiến đấu rất đáng khâm phục, cũng như lòng
nhiệt huyết của đồng bào Việt Nam. Người rất vui và tự hào về
điều đó. Cuối thư, Người đã gửi tặng Hoàng thân Xuphanuvông
một đôi giày và lời chúc một năm mới tốt đẹp và hạnh phúc,
một năm mới thành công và thắng lợi. Tái bút: Người có gửi lời
hỏi thăm tới các cộng sự của Hoàng thân Xuphanuvông.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.518.

402
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ và nhân dân nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi Điện chúc mừng Tổng thống
nước Cộng hòa Ấn Độ khi biết tin Ngài Praxát được bầu làm
Tổng thống nước Cộng hòa Ấn Độ. Bức thư có đoạn: “Chúng
tôi xin gửi tới Ngài những lời chúc mừng nhiệt liệt nhất và 1950
chúc nhân dân Ấn Độ hòa bình, phồn vinh và thịnh vượng”.
Cũng trong năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi cán bộ
và nhân dân tỉnh Thái Bình khi nghe tin Liên khu III báo cáo
đồng bào Thái Bình thi đua có những kết quả tốt: thanh toán
nạn mù chữ, tự động góp tiền, góp sức, đắp đê v.v.. Người khen
ngợi và khuyên đồng bào ra sức thi đua thêm về mọi mặt, nhất
là hăng hái tham gia giúp đỡ bộ đội đánh giặc. Với những thành
tích đã đạt được, Chính phủ đã quyết định thưởng đồng bào
Thái Bình Huân chương Độc lập hạng Nhất. Cuối thư, Người
còn mong đồng bào các tỉnh khác trong Liên khu ra sức thi đua
với đồng bào Thái Bình.
- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.519-520.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử và đến giảng bài này tại lớp tập huấn do Ban Huấn
luyện Trung ương triệu tập. Người đã giải thích các vấn đề:
Duy vật là gì, biện chứng là gì? Về quan điểm đối lập giữa hai
phái duy tâm và phái duy vật trên các mặt liên hệ, mâu thuẫn,
vận động, chuyển hóa từ lượng đến chất của mọi sự vật và
hiện tượng. Từ đó, Người nhắc nhở cán bộ ta phải biết vận
dụng lý luận vào thực tiễn sao cho phù hợp với hoàn cảnh và
điều kiện của nước ta thì mới thành công. Ví như, “trong lúc

403
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là
một điều ngu ngốc”.
Bài giảng đi sâu vào phần duy vật lịch sử, là cách đem
phương pháp biện chứng của C. Mác vào xem xét các vấn đề
lịch sử và xã hội, từ đó nhắc nhở “chính sách của Đảng cách
mạng, lập trên những sự cần kíp của xã hội, trên cái lực lượng
chính của sự phát triển của xã hội chứ không phải lập trên
những lý luận mênh mông, trên những cái hảo tâm của những
hào kiệt nào”.
Phần thứ ba, Người nói về đặc điểm của sự sản xuất: sản
xuất luôn luôn thay đổi, nên tư tưởng, giáo dục, lý luận chính
trị, cũng đều thay đổi. Lịch sử xã hội là lịch sử của sự phát triển
cách sinh sản (tức phương thức sản xuất), tức là lịch sử của
những người sản xuất chứ không phải lịch sử của vua chúa.
Vì vậy, “Đảng cách mạng muốn thành một đảng chân chính thì
cần phải biết sự phát triển của sự sinh sản, luật phát triển kinh
tế của xã hội. Chương trình chính trị và hoạt động thực tế của
Đảng cách mạng phải làm theo những luật ấy”.
- Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Bộ Quốc phòng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.526-538.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho “chú Vĩnh”1), hỏi vấn đề
“áo và chăn cho chiến sĩ đã có bao nhiêu? Chừng nào thì có
đủ? Đoàn thể và Chính phủ có thể giúp bằng cách gì nữa để
bộ đội mau có áo, chăn? Gạo ăn mùa sau cho bộ đội yên tâm
rồi chứ?!”.
Cuối thư, Người không quên “hỏi thăm thím và hôn hai cháu”.
- Báo Cựu chiến binh Việt Nam, số 48, 1994.

1) Bí danh của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu (B.T).

404
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Trong năm
Nghe tin luật sư Phan Anh ốm nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi mấy vần thơ theo lối “Chinh phụ ngâm”:
Điện thường tới, Người chưa thấy tới.
Bức màn thưa từng dõi bóng dương.
1950
Bóng dương mấy lúc xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai.
- Thơ ca chiến khu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 2001, tr.363.

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ chữ Hán: Vô đề

VÔ ĐỀ
Sơn kính khách lai, hoa mãn địa,
Tùng lâm quân đáo, điểu xung thiên.
Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu,
Huề dũng giai đồng quán thái viên.
Dịch thơ:

KHÔNG ĐỀ
Đường non khách tới hoa đầy,
Rừng sâu quân đến, tung bay chim ngàn.
Việc quân, việc nước đã bàn,
Xách bương, dắt trẻ ra vườn tưới rau1).
- Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990,
tr.30-31.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.523.

1) Bản dịch của Xuân Thủy (B.T).

405
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Trong năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ chữ Hán: Tư chiến sĩ.

TƯ CHIẾN SĨ
Canh thâm lộ cấp như thu vũ,
Thần tảo sương nùng tự hải vân.
Khoái tống hàn sam cấp chiến sĩ,
Dương quang hòa noãn báo tân xuân.
Dịch thơ:

NHỚ CHIẾN SĨ
Đêm khuya móc tựa mưa thu,
Sớm sương dày đặc, mây mù biển dăng.
Mau mau gửi các chiến trường,
Áo cho chiến sĩ trên đường lập công.
Mặt trời tỏa ánh nắng hồng,
Báo tin xuân đến, mùa đông sắp tàn1).
- Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990, tr.33.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.6, tr.524.

1) Bản dịch của Sóng Hồng (B.T).

406
CHÚ THÍCH

BẢN CHỈ DẪN TÊN NGƯỜI

407
CHÚ THÍCH

1. Liên hiệp Pháp (Union Française): Do Pháp lập ra đầu


năm 1946 nhằm tập hợp và duy trì ảnh hưởng của Pháp ở các
nước thuộc địa cũ. Khối Liên hiệp Pháp bao gồm nước Pháp,
đất thuộc Pháp ở hải ngoại, và các quốc gia liên kết với Pháp.
Để tỏ thiện chí, đầu năm 1946, ta đồng ý tham gia Khối
Liên hiệp Pháp trên cơ sở Pháp công nhận nền độc lập và
thống nhất của ta. Lập trường của Việt Nam trong vấn đề này
là: với tư cách một nước trong khối, Việt Nam chịu ràng buộc
theo quy ước chứ không phải theo hiến pháp; không cần phải
có đại biểu trong Hội đồng liên bang nhưng phải có đặc sứ ở
Pháp; Việt Nam có thể nhận cố vấn Pháp, nhưng không thể bị
bắt buộc nhận họ ở tất cả các ngành hoạt động quốc gia; Việt
Nam có quyền gửi thẳng sứ thần ra nước ngoài, cũng có thể
nhờ Pháp thay mặt ngoại giao với một số nước nhất định, có
quyền gia nhập Liên hợp quốc, ký kết những hiệp ước liên
minh với các nước miễn là không nhằm mục đích chống lại
Pháp; về kinh tế, Việt Nam tiêu thụ hàng hóa của Pháp, cung
cấp nguyên liệu cho Pháp, đồng thời Pháp phải cung cấp máy
móc, dụng cụ, giúp đỡ phát triển kỹ nghệ cho Việt Nam, v.v..
Nước Pháp đã không chấp nhận Việt Nam tham gia Khối
Liên hiệp Pháp. Đến năm 1958, tổ chức này cũng không còn
tồn tại nữa. Tr.9.

408
TẬ P 4 : 1946 - 1950
2. Quốc hội Pháp tranh luận vấn đề Việt Nam: Ngày
13-3-1947, Quốc hội Pháp đã mở cuộc thảo luận về vấn đề
Việt Nam. Cuộc tranh luận đã diễn ra gay gắt giữa các đại biểu
của phái thực dân với những đại biểu dân chủ tiến bộ, đứng
đầu là Đảng Cộng sản Pháp. Phái phản động chủ trương đánh
Việt Nam và đánh đến một chừng mực nhất định nào đó mới
đàm phán, nhưng không đàm phán với Chính phủ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Còn Đảng Cộng sản và những người dân chủ tiến
bộ thì đề nghị phải dàn xếp ngay và dàn xếp với Chính phủ Hồ
Chí Minh và Việt Minh.
Sau nhiều cuộc tranh luận gay gắt, ngày 19-3-1947, Quốc
hội Pháp đã bỏ phiếu tán thành chính sách phản động của
Chính phủ Pháp. Đảng Cộng sản Pháp đã không bỏ phiếu để
phản đối chính sách phản động này. Tr.53.
3. Hội nghị dân quân, tự vệ, du kích toàn quốc: Họp ngày
24-5-1947 tại Việt Bắc. Hội nghị đã kiểm điểm hoạt động
của dân quân, tự vệ và du kích; bàn việc thống nhất tổ chức
dân quân, tự vệ và du kích trong cả nước; công bố 10 lời thề
danh dự và 12 điều kỷ luật dân vận của dân quân, tự vệ và
du kích. Tr.66.
4. Đảng Dân chủ Việt Nam: Tổ chức chính trị của giới trí
thức, công chức và tư sản dân tộc Việt Nam.
Với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng được
thành lập ngày 30-6-1944.
Tháng 7-1944, Đảng Dân chủ Việt Nam tự nguyện gia
nhập Mặt trận Việt Minh và cùng với các hội cứu quốc tiến
hành quá trình chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng Dân chủ

409
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc tăng
cường và củng cố khối đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân
tộc thống nhất, xây dựng và củng cố chính quyền, góp phần
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Chính
phủ Việt Nam.
Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ Việt Nam (từ ngày 18 đến
ngày 20-10-1988) - Đại hội cuối cùng, Đảng đã kết thúc 44
năm hoạt động và hoàn thành vai trò lịch sử. Tr.73.
5. Đảng Xã hội Việt Nam: Thành lập ngày 22-7-1946, nhằm
tập hợp giới trí thức Việt Nam yêu nước, sát cánh cùng toàn
dân bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đảng Xã hội Việt Nam
đã tự nguyện gia nhập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam và
có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ngày 15-10-1988, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội đã
diễn ra lễ mít tinh trọng thể kết thúc 42 năm hoạt động của
Đảng Xã hội Việt Nam. Tr.76.
6. Ngày thương binh liệt sĩ 27-7: Tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm Ngày thương
binh để nhân dân ta có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương
binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị trù bị gồm đại
biểu các cơ quan, các ngành ở trung ương, khối và tỉnh đã họp
ở Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên) bàn bạc và nhất trí đề nghị
lấy ngày 27-7-1947 làm “Ngày thương binh liệt sĩ” đầu tiên
trong cả nước.
Từ đó, ngày 27-7 hằng năm trở thành “Ngày thương binh
liệt sĩ”. Tr.78.
7. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Dương: Sau khi
Inđônêxia (Nam Dương) giành được độc lập, ngày 18-8-1945,
đế quốc Hà Lan núp sau lưng quân đội Anh tiến vào Inđônêxia

410
TẬ P 4 : 1946 - 1950
tìm cách khôi phục lại chế độ thực dân của họ ở nước này.
Ngày 2-7-1947, đế quốc Hà Lan huy động 20 vạn quân trang bị
vũ khí hiện đại, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Inđônêxia.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Inđônêxia bắt đầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi các chiến sĩ và nhân
dân Inđônêxia, bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ của Chính phủ và
nhân dân ta đối với cuộc chiến đấu của nhân dân Inđônêxia và
“tin chắc rằng cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Nam
Dương sẽ thắng lợi”. Tr.81.
8. Ngày Nam Bộ kháng chiến: Ngày 23-9-1945, thực dân
Pháp được quân đội Anh giúp sức đã nổ súng đánh chiếm trụ
sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ tại Sài Gòn.
Ngay chiều hôm đó, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ
và Ủy ban nhân dân Nam Bộ, nhân dân Sài Gòn đã tổng đình
công, không hợp tác với giặc Pháp. Một vạn rưỡi tự vệ cùng
nhân dân lập chướng ngại vật trên đường phố, đánh trả quyết
liệt quân xâm lược, mở đầu cuộc kháng chiến của đồng bào
Nam Bộ chống thực dân Pháp. Ngày 23-9 trở thành truyền
thống lịch sử - Ngày Nam Bộ kháng chiến. Tr.94.
9. Ngày toàn quốc kháng chiến: Sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, nhân dân ta cần có hòa bình để xây dựng đất nước.
Song, chỉ ba tuần sau ngày tuyên bố độc lập, thực dân Pháp đó
nổ súng xâm lược Nam Bộ. Chính phủ ta đã nhân nhượng và
ký với Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9
nhằm cứu vãn hòa bình. Nhưng với mưu đồ cướp nước ta một
lần nữa, thực dân Pháp ngày càng đẩy mạnh các hoạt động
quân sự.
Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực
dân Pháp, đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đáp lại lời kêu gọi cứu nước

411
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc ta đã nhất tề
đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ đó,
ngày 19-12 trở thành một ngày truyền thống lịch sử - Ngày
toàn quốc kháng chiến. Tr.109.
10. Ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam (22-12): Năm
1944, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển
thuận lợi, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng bùng
nổ và thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Chỉ thị thành lập
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”.
Chỉ thị nêu rõ: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”, hoạt động theo
nguyên tắc tập trung lực lượng, động viên toàn dân, vũ trang
toàn dân, xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương.
Về chiến thuật, vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nghi binh,
nhanh chóng, tích cực, bất ngờ. Chỉ thị nêu rõ tiền đồ của Đội
rất vẻ vang. Trong tương lai nó sẽ phát triển ra cả nước.
Theo chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22-12-
1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34
chiến sĩ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, được thành lập
tại một khu rừng nằm giữa tổng Trần Hưng Đạo và tổng Hoàng
Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, Cao Bằng, nay thuộc xã Cẩm
Lý, huyện Hòa An...
Dưới lá cờ đỏ sao vàng, toàn đội đã đọc 10 lời thề danh dự.
Ngay sau khi thành lập, đội quân cách mạng ấy đã đánh thắng
hai trận đầu tiên ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong
hai ngày 24 và 25-12-1944. Chiến thắng đầu tiên này đã cổ vũ
phong trào đánh đuổi thực dân Pháp, mở đường cho những
thắng lợi tiếp theo.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là tiền thân
của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22-12 trở thành ngày

412
TẬ P 4 : 1946 - 1950
truyền thống - Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tr.110.
11. Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ hai: Được tiến
hành từ ngày 6 đến ngày 11-3-1948 theo Chỉ thị của Trung
ương Đảng và Quân ủy Trung ương. Tham gia Hội nghị gồm
các chính trị viên quân khu và chính trị viên trung đoàn. Hội
nghị đã nghe và thảo luận báo cáo của Quân ủy Trung ương về
nhiệm vụ chiến lược, chiến thuật và công tác chính trị, nghe
một số báo cáo về tình hình trong nước và tình hình thế giới.
Hội nghị đã xác định nhiệm vụ của công tác chính trị trong
quân đội là phải bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chiến lược do
Quân ủy Trung ương đề ra, động viên toàn quân nêu cao tinh
thần anh dũng, đoàn kết, thống nhất, đồng cam cộng khổ,
chống quan liêu, chống quân phiệt.
Hội nghị ra Nghị quyết về hệ thống tổ chức công tác chính
trị, nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp ủy Đảng trong quân
đội, chế độ chính trị viên và việc tăng cường công tác đào tạo
cán bộ, bồi dưỡng chính trị viên và bồi dưỡng chính trị cho
cán bộ quân sự. Tr.134.
12. Hội nghị dân quân toàn quốc: Được tiến hành đầu
tháng 4-1948, theo chủ trương của Trung ương Đảng và Quân
ủy Trung ương, để đánh giá những mặt mạnh và mặt yếu của
phong trào du kích chiến tranh.
Hội nghị biểu dương những thành tích của dân quân, du
kích toàn quốc trong các công tác đánh giặc, trừ gian, tiễu phỉ,
phá tề, phá giao thông địch, tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc và
học tập bổ túc văn hoá; biểu dương những đơn vị và đội viên
du kích có nhiều thành tích xuất sắc.
Hội nghị cũng chỉ rõ những thiếu sót của dân quân du kích
là chưa phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, chưa chủ động

413
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

linh hoạt trong tác chiến mà còn nặng về hình thức trong tổ
chức và huấn luyện. Tr.142.
13. Pháp lập chính phủ bù nhìn: Do thất bại trong chiến
lược “đánh nhanh thắng nhanh”, thực dân Pháp tăng cường
thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, âm
mưu đưa Bảo Đại lên làm Quốc trưởng bù nhìn. Do mâu thuẫn
giữa Pháp và Mỹ, giữa bù nhìn Bảo Đại và bù nhìn Nguyễn Văn
Xuân ở Nam Bộ, việc đưa Bảo Đại ra đứng đầu chính quyền bù
nhìn chưa thành.
Ngày 5-6-1948, thực dân Pháp đã gấp rút dựng lên một
“Chính phủ trung ương” do Nguyễn Văn Xuân cầm đầu.
Ngày 7-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chính
phủ và nhân dân Việt Nam không thừa nhận bất cứ thứ giấy
tờ nào do bọn bù nhìn ký kết với bất kỳ nước nào và sẽ chiểu
theo pháp luật để trừng trị bọn phản quốc”. Tr.166.
14. Lời kêu gọi Thi đua ái quốc: Sau chiến thắng Việt Bắc
(thu đông 1947), theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ngày 27-3-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ
thị phát động phong trào thi đua ái quốc để động viên mọi lực
lượng phục vụ công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Chỉ thị
vạch rõ: “Mục đích Thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến
mau thắng lợi, kiến quốc mau thành công”.
Nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến toàn quốc, ngày
11-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi, chính thức
phát động cuộc vận động Thi đua ái quốc. Tr.167.
15. Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ sáu: Được
tiến hành từ ngày 14 đến ngày 18-1-1949. Dự Hội nghị có đại
biểu cán bộ toàn quốc và cán bộ cao cấp của Đảng trong các
ngành. Hội nghị đã nghe và thảo luận báo cáo của đồng chí
Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng và các báo cáo về quân sự,

414
TẬ P 4 : 1946 - 1950
chính quyền, mặt trận, công tác Đảng. Hội nghị cũng nêu
phương hướng và một số việc cụ thể để chuẩn bị cho Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ II sẽ họp vào đầu năm 1951.
Nhận định tổng quát về cuộc kháng chiến của nhân dân ta,
Hội nghị chỉ rõ: “Ta càng đánh càng mạnh”, “Pháp càng đánh
càng suy nhược”. So sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay
đổi có lợi cho ta. Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ta là phải “nỗ lực chuẩn bị, sẵn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt
đối không được bỏ lỡ cơ hội chiến lược”. Hội nghị khẳng định:
“Bất kể Mỹ dùng cách can thiệp gì, chúng ta cũng không sợ...
Mỹ cũng sẽ phải chia cái thất bại đau đớn nhục nhã với thực
dân Pháp ở Việt Nam”.
Hội nghị chủ trương “động viên mọi lực lượng tinh thần và
vật chất của toàn dân vào công cuộc kháng chiến kiến quốc với
khẩu hiệu: “Tất cả để đánh thắng””.
Về nhiệm vụ quân sự, Hội nghị quyết định: “Đánh mạnh
hơn nữa vào hậu phương địch, đánh vào các vị trí chiến lược,
cắt các đường giao thông quan trọng”. “Trung tâm công tác lúc
này là tiếp tục xây dựng bộ đội chủ lực”, phát triển và củng cố
dân quân du kích.
Về công tác kinh tế, tài chính, cần phải phát triển bộ phận
kinh tế nhà nước, nhất là công nghiệp quốc phòng, đẩy mạnh
sản xuất tự cấp, tự túc trong toàn quốc và từng địa phương,
xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tiếp tục thi hành
triệt để giảm tô, chuẩn bị cải cách ruộng đất.
Về công tác xây dựng Đảng, phải đặc biệt chú trọng đến
việc đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ chính trị và lý luận cho
cán bộ, đảng viên, củng cố chi bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới thăm và nói chuyện tại buổi lễ
bế mạc của Hội nghị. Tr.215.

415
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

16. Liên hợp quốc: Là một tổ chức quốc tế được thành lập
tại Hội nghị họp ở Xan Phranxixcô (Mỹ), từ ngày 24-4 đến
ngày 26-6-1945, trên cơ sở liên minh tự nguyện của các nước
có chủ quyền, nhằm giữ gìn hoà bình và phát triển sự hợp
tác giữa các nước. Đại diện của 51 nước đã ký tham gia Hiến
chương Liên hợp quốc. Hiến chương bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 24-10-1945. Vì vậy, ngày 24-10 hằng năm được gọi là
Ngày Liên hợp quốc.
Theo Hiến chương của Liên hợp quốc, nhiệm vụ của Liên
hợp quốc là giữ gìn hoà bình và an ninh bằng cách áp dụng
những biện pháp chung nhằm ngăn ngừa và loại trừ những
mối đe dọa với hòa bình và chống lại những hành động xâm
lược; phát triển quan hệ thân thiện giữa các dân tộc và thực
hiện sự hợp tác nhằm giải quyết những vấn đề quốc tế có tính
chất kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo cũng như phát triển sự
tôn trọng nhân quyền và quyền tự do căn bản của con người,
không phân biệt chủng tộc, nam nữ, tiếng nói và tín ngưỡng.
Liên hợp quốc thành lập theo nguyên tắc bình đẳng đối với tất
cả mọi hội viên và không can thiệp vào công việc nội bộ của
bất cứ nước nào.
Những cơ quan chủ yếu của Liên hợp quốc là: Đại hội đồng,
Hội đồng bảo an, Hội đồng kinh tế và xã hội, Tòa án quốc tế và
Ban thư ký... Trụ sở Liên hợp quốc đặt tại Niu Oóc (Mỹ).
Năm 1977, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia
nhập tổ chức quốc tế này. Việt Nam cùng các nước yêu chuộng
hoà bình đã và đang đấu tranh để bảo vệ những nguyên tắc
dân chủ của Liên hợp quốc. Tr.233.
17. Bản ký kết 8-3 giữa Pháp và Bảo Đại: Thực hiện âm
mưu chia rẽ lực lượng kháng chiến của ta, nhằm cứu vãn tình
thế nguy ngập trên chiến trường Đông Dương, năm 1949,

416
TẬ P 4 : 1946 - 1950
thực dân Pháp được sự giúp đỡ của Mỹ đã đưa Bảo Đại về Việt
Nam làm Quốc trưởng bù nhìn. Ngày 8-3-1949, Bảo Đại đã ký
với Tổng thống Pháp Ôriôn bản thỏa hiệp.
Nội dung cơ bản của bản thỏa hiệp là:
Về chính trị, Pháp công nhận “Việt Nam có toàn quyền cai
trị lấy mình nhưng phải có cố vấn chính trị Pháp bên cạnh”.
Về quân sự, Việt Nam có quân đội riêng, nhưng huấn
luyện viên phải là người Pháp; quân đội Pháp được đóng
trên đất Việt Nam và được hoàn toàn tự do hành động; lúc
có chiến tranh, tất cả quân đội Việt Nam đặt dưới sự chỉ huy
của người Pháp.
Về ngoại giao, đại sứ Pháp đại diện cho Việt Nam.
Về kinh tế, đồng tiền Việt Nam phải phụ thuộc vào đồng
phrăng, nghĩa là quyền phát hành giấy bạc vẫn ở trong tay
Ngân hàng Đông Dương.
Về văn hóa, các trường Việt Nam từ tiểu học đến đại học
phải học bằng tiếng Pháp, không được dùng tiếng Việt.
Về vấn đề thống nhất đất nước, công nhận Nam Bộ có chế
độ riêng, mọi thể chế do Pháp đặt ra sau cuộc khởi hấn ở Nam
Bộ năm 1945 vẫn giữ nguyên. Tr.234.
18. Cách mạng Tháng Mười: Cuộc cách mạng vô sản thắng
lợi đầu tiên trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích
Nga, đứng đầu là V.I. Lênin, ngày 7-11-1917 (tức ngày 25-10
theo lịch Nga), giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga
đã vùng dậy lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, thành lập
chính quyền Xôviết do V.I. Lênin đứng đầu. Cách mạng Tháng
Mười đã đập tan bộ máy thống trị của các giai cấp bóc lột, lập
nên nhà nước kiểu mới: Chính quyền Xôviết, một hình thức
của chuyên chính vô sản.

417
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã mở đầu cho một


thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng
Mười đã thức tỉnh giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân
các dân tộc bị áp bức, soi sáng con đường cho các dân tộc bị
nô dịch đi tới cách mạng giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Tr.292.
19. Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc: Họp từ
ngày 28-11 đến ngày 7-12-1949 tại Việt Bắc.
Hội nghị đã nghe và thảo luận báo cáo về tình hình và nhiệm
vụ của Hội nông dân cứu quốc trong giai đoạn mới, kiểm điểm
công tác của Hội từ khi thành lập. Hội nghị đã đề ra chương
trình hoạt động trong năm 1950, gồm sáu cuộc vận động lớn:
tăng gia sản xuất tự túc; nuôi dưỡng bộ đội; xây dựng hợp tác
xã; hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức; đào tạo cán bộ và
thanh toán nạn mù chữ. Tr.293.
20. Chiến dịch Biên giới: Tức Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng
(Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn), hay còn gọi là Chiến dịch
Lê Hồng Phong II, được tiến hành theo quyết định hồi tháng
6-1950 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan
trọng sinh lực địch, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc,
phá tan vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đối với ta.
Đầu tháng 9-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra
mặt trận.
Sáng ngày 16-9-1950, chiến dịch bắt đầu. Bộ đội ta đánh
chiếm Đông Khê, một căn cứ quan trọng của địch trên tuyến
phòng ngự đường số 4, nằm giữa Lạng Sơn và Cao Bằng. Bị
mất Đông Khê, quân Pháp quyết định rút khỏi Cao Bằng theo

418
TẬ P 4 : 1946 - 1950
kế hoạch: Một mặt dùng gần hết lực lượng dự bị còn lại ở Bắc
Bộ để mở cuộc hành binh Phốccơ (Phoque) lên chiếm thị xã
Thái Nguyên; mặt khác, dùng binh đoàn Lơpagiơ mở cuộc
hành binh Têredơ (Thérèse) từ Lạng Sơn theo đường số 4
rút về.
Sáng ngày 7-10-1950, quân ta tiêu diệt toàn bộ binh đoàn
Lơpagiơ tại Cốc Xá cách Đông Khê 7km. Chiều ngày 7-10-
1950, quân ta lại tiêu diệt gọn binh đoàn Sáctông tại cao điểm
477 ở gần Cốc Xá về phía tây. Binh đoàn từ Thất Khê lên ứng
cứu cũng bỏ chạy. Tại Thái Nguyên, quân địch bị quân ta chặn
đánh dữ dội, đã phải tháo lui.
Trong 13 ngày (từ ngày 10 đến ngày 23-10-1950), địch
liên tiếp bỏ các vị trí Thất Khê, Nà Lầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn,
Đình Lập, An Châu, rút về Tiên Yên ở khu vực duyên hải. Hệ
thống phòng tuyến đường số 4 của địch bị phá vỡ.
Trong Chiến dịch Biên giới, quân ta đã tiêu diệt và bắt
sống 8.000 tên địch (trong đó bắt sống 3.500 tên), tiêu diệt
gọn một nửa lực lượng cơ động chiến lược của địch ở Bắc
Đông Dương, thu nhiều vũ khí, giải phóng năm thị xã, 13 thị
trấn, nhiều vùng đất đai quan trọng, cả một dải biên giới bao
gồm 35 vạn dân. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng
cố. Cách mạng nước ta lần đầu tiên đã phá tan vòng vây của
chủ nghĩa đế quốc.
Chiến dịch Biên giới là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu
tiên của quân và dân ta, một chiến dịch đánh vận động, đánh
tiêu diệt xuất sắc, đạt hiệu suất chiến đấu cao, đánh dấu bước
phát triển mới về quyền chủ động của quân đội ta trên chiến
trường chính. Tr.369.
21. Chiến dịch trung du: còn gọi là Chiến dịch Trần Hưng
Đạo, diễn ra từ ngày 25-12-1950 đến ngày 17-1-1951, nhằm

419
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phát triển chiến tranh du
kích. Trong chiến dịch này, phía ta đã huy động năm trung
đoàn bộ đội chủ lực phối hợp với các lực lượng địa phương
đánh địch ở vùng Vĩnh Yên, Phúc Yên và Bắc Ninh. Chúng ta
đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch và qua chiến dịch
này, các lực lượng vũ trang của ta có thêm kinh nghiệm chiến
đấu. Tr.402.

420
BẢN CHỈ DẪN TÊN NGƯỜI

B
BẢO ĐẠI (1913 - 1997): Tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy,
sinh tại Huế, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn; lên ngôi
năm 1925, thoái vị vào ngày 30-8-1945. Từ tháng 9-1945,
được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn của Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 3-1946,
ông được cử sang Trùng Khánh (Trung Quốc) thực hiện
chính sách ngoại giao của Chính phủ ta với chính quyền
Tưởng Giới Thạch. Sau chuyến đi này, Bảo Đại không về
nước mà đến Côn Minh, rồi sang Hồng Kông. Năm 1949,
Bảo Đại được Pháp đưa về Việt Nam làm Quốc trưởng bù
nhìn. Tháng 10-1955, bằng “trưng cầu dân ý”, Mỹ đã phế
truất Bảo Đại và đưa Ngô Đình Diệm lên thay. Sau đó, Bảo
Đại sang Pháp sống cuộc đời tha phương và mất tại Pari
trong cảnh cô đơn.
BLUM, LÊÔNG (Léon André Blum) (1872 - 1950): Nhà hoạt
động chính trị, thủ lĩnh của Đảng Xã hội Pháp, nhiều năm
làm chủ bút báo Le Populaire - cơ quan Trung ương của
Đảng Xã hội Pháp. Năm 1919, là hạ nghị sĩ. Tại Đại hội Tua
(năm 1920), thuộc phái thiểu số chống lại những người
cộng sản. Đứng đầu Chính phủ của Mặt trận Bình dân Pháp

421
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

(từ tháng 6-1936 đến tháng 6-1937). Tích cực đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ quyền dân chủ, nhưng
dao động trong việc gìn giữ những thành quả của Mặt trận
Bình dân. Bị Chính phủ Visy (Vichy) bắt, đày sang Đức
(1942 - 1945). Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông trở về
Pháp. Từ tháng 12-1946 đến năm 1947, ông là Thủ tướng
Chính phủ, chủ trương khôi phục quyền lợi của Pháp ở
Đông Dương.
BÔLAE, EMIN (Émile Bollaert) (1890 - 1978): Cao ủy Pháp ở
Đông Dương (từ tháng 3-1947 đến tháng 9-1948). Năm
1947, Bôlae gặp Bảo Đại ở Hạ Long, sắp đặt kế hoạch đưa
Bảo Đại làm Quốc trưởng chính quyền bù nhìn của thực
dân Pháp lập ra ở Việt Nam.
BÙI BẰNG ĐOÀN (1889 - 1955): Nhân sĩ yêu nước, quê ở
huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), đỗ cử
nhân năm 1906. Năm 1911, ông làm Tri huyện, rồi Tuần
phủ Ninh Bình. Năm 1933, ông làm Thượng thư Bộ hình.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông là thành viên
trong Ban Cố vấn Chính phủ, đại biểu Quốc hội khóa I,
được cử vào Ban Thường trực Quốc hội, rồi Trưởng Ban
Thường trực Quốc hội cho đến khi mất.
BÙI KỶ (1887 - 1960): Nhân sĩ yêu nước, nhà giáo, nhà nghiên
cứu văn học, quê ở tỉnh Hà Nam. Ông đậu cử nhân năm
1909, đậu phó bảng năm 1910, sau đó du học ở Pháp. Trở
về nước, ông phục vụ trong ngành giáo dục, viết sách, làm
báo. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông làm Chủ
tịch Hội Văn hóa kháng chiến Liên khu III, ủy viên Hội
Liên Việt Liên khu III. Hòa bình lập lại, ông được cử làm
Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Trung. Ông mất tại Hà Nội

422
TẬ P 4 : 1946 - 1950
năm 1960. Bùi Kỷ đã để lại nhiều tác phẩm khảo cứu văn
học và dịch thuật có giá trị với bút danh Ưu Thiên.

C
CHU ÂN LAI (1898 - 1976): Nhà hoạt động chính trị, nhà
ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là một
trong những người thành lập tổ chức Thanh niên Cách
mạng Trung Quốc tại Pháp. Sau khi về nước hoạt động,
ông được giao nhiều trọng trách: Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; Ủy viên Thường
trực Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương,... Từ năm
1949 đến năm 1976, ông làm Thủ tướng Chính phủ, từng
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao (1949 - 1958); Chủ tịch Ủy
ban toàn quốc Hội nghị chính trị hiệp thương Trung Quốc,
Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quân ủy
Trung ương. Ông cùng với Thủ tướng Ấn Độ Nêru đề xuất
năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình làm chuẩn mực cho
việc thiết lập và củng cố quan hệ giữa các nước. Ông dẫn
đầu đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa dự Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương.
Trong ngoại giao, ông đề xướng phương châm “cầu đồng
tồn dị” (tìm những điểm giống nhau, bảo lưu những điểm
bất đồng) để chỉ đạo và là biện pháp cơ bản giải quyết các
loại mâu thuẫn.
CHU ĐỨC (1886 - 1976): Nguyên soái, nhà hoạt động quân sự
Trung Quốc, tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1922),
tổ chức và lãnh đạo khởi nghĩa Nam Xương (năm 1927),
lãnh đạo Vạn lý trường chinh (1934 - 1936). Ông từng
nắm giữ nhiều trọng trách lớn: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,

423
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Tổng Tư lệnh Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc; Phó
Chủ tịch Chính phủ; Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa; Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng,... Nhiều
năm ông làm Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư.
CÙ HUY CẬN (1919 - 2005): Nhà hoạt động yêu nước, nhà thơ,
người quê xã Ân Phú, huyện Đức Thọ (từ năm 2000, xã
Ân Phú thuộc huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ông sớm
tham gia những hoạt động yêu nước. Tại Quốc dân đại hội
Tân Trào (1945) được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), ông được Đảng và Nhà
nước giao nhiều trọng trách như: Bộ trưởng Bộ Canh nông,
Bộ trưởng phụ trách văn hóa nghệ thuật, Chủ tịch Hội liên
hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông còn tham gia nhiều
hoạt động văn hóa quốc tế và là người có nhiều đóng góp
cho nền thơ hiện đại Việt Nam.

DUY TÂN (1900 - 1945): Tức Nguyễn Vĩnh San, vua thứ 11 nhà
Nguyễn từ năm 1907 đến năm 1916. Duy Tân là người yêu
nước và có tinh thần dân tộc. Năm 1916, cùng Thái Phiên
và Trần Cao Vân trong tổ chức Việt Nam Quang phục Hội
dựa vào số binh lính bị mộ sang Pháp tổ chức khởi nghĩa
ở Huế và miền Nam Trung Kỳ. Công việc bị bại lộ, khởi
nghĩa không thành, Duy Tân bị thực dân Pháp đày sang
đảo Rêuyniông (châu Phi). Duy Tân là người ham học và
có ý chí. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông gia nhập
quân đội Đồng minh chống phát xít; năm 1945, ông mất vì
tai nạn máy bay ở châu Phi.

424
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Đ
ĐÁCGIĂNGLIƠ, GIOÓCGIƠ TIƠRI (Georges Thierry d’
Argenlieu) (1889 - 1964): Thời thanh niên, ông làm lính
thủy chiến đấu ở Marốc. Trong Chiến tranh thế giới thứ
nhất, ông tham gia đội tàu chống tàu ngầm. Năm 1920,
ông đi tu, đến năm 1939, được gọi về làm thuyền trưởng
hải quân. Năm 1940, ông bị bắt rồi vượt ngục trốn sang
Anh, được Đờ Gôn bổ nhiệm làm Ủy viên Hội đồng kháng
chiến Pháp, Đô đốc hải quân Pháp. Ông làm Cao ủy Pháp
vùng Thái Bình Dương từ năm 1941 đến năm 1943, làm
Cao ủy Pháp ở Đông Dương từ năm 1945 đến năm 1947.
G.T. Đácgiăngliơ là người chỉ huy cuộc chiến tranh xâm
lược Đông Dương và bị thất bại trong chiến lược đánh
nhanh, thắng nhanh ở Việt Nam. Ông là tác giả cuốn Hồi
ký về Đông Dương (1945 - 1947).
ĐẶNG THAI MAI (1902 - 1984): Nhà nghiên cứu văn học, quê
ở Thanh Chương, Nghệ An. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao
đẳng Sư phạm Đông Dương tại Hà Nội, ông vào dạy học ở
Trường Quốc học Huế, tham gia Đảng Tân Việt, bị bắt và bị
kết án tù treo. Mãn hạn, ông ra Hà Nội tham gia lập Trường
tư thục Thăng Long. Vừa dạy học, vừa viết báo, ông là một
trong những người sáng lập phong trào truyền bá quốc
ngữ. Sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), ông đã giữ
nhiều chức vụ: Bộ trưởng Bộ Giáo dục Chính phủ Liên hiệp
kháng chiến (năm 1946), Chủ tịch Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh Thanh Hóa. Hòa bình lập lại (năm 1954),
ông tiếp tục đảm nhiệm nhiều cương vị quan trọng trên
mặt trận giáo dục và văn hóa: Giám đốc Đại học Sư phạm
Văn khoa, Chủ nhiệm khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp

425
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

và Đại học Sư phạm, Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam,
Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Ông
là đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa V.
ĐẶNG VĂN NGỮ (1910 - 1967): Quê ở làng An Cựu, ngoại
thành cố đô Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1937, ông
tốt nghiệp bác sĩ y khoa, tại Trường Đại học Y khoa Đông
Dương (tiền thân của Trường Đại học Y Hà Nội). Năm 1942,
ông làm Trưởng Labo (phòng thí nghiệm) Ký sinh trùng và
đã hoàn thành 19 công trình nghiên cứu khoa học nổi tiếng.
Năm 1943, ông du học tại Nhật Bản. Năm 1945, ông làm Hội
trưởng Hội Việt kiều yêu nước tại Nhật Bản. Năm 1949,
ông về nước tham gia kháng chiến chống Pháp, làm giảng
viên, Chủ nhiệm bộ môn Ký sinh trùng, Trường Đại học Y
khoa. Trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp
tại chiến khu Việt Bắc, ông đã nghiên cứu thành công
cách sản xuất ra thuốc kháng sinh Penicillin, góp phần rất
lớn trong điều trị chống nhiễm khuẩn cho thương binh và
nhân dân. Năm 1955, ông sáng lập Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng và côn trùng Việt Nam và làm Viện trưởng đầu tiên.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông tập trung
nghiên cứu phòng, chống và điều trị căn bệnh sốt rét tại
Việt Nam. Ngày 1-4-1967, ông hy sinh tại chiến trường
miền Nam khi đang nghiên cứu việc chống bệnh sốt rét
cho cán bộ, chiến sĩ ta. Ông được truy tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về y học.
ĐIMITƠRỐP, GHÊOÓCGHI (Georgi Dimitrov) (1882 - 1949):
Nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và Nhà
nước Bungari. Năm 1902, là đảng viên Đảng Xã hội dân

426
TẬ P 4 : 1946 - 1950
chủ Bungari. Năm 1909, ông làm Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Bungari. Năm 1923, ông tham
gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của công nhân và nông dân
Bungari. Sau khi khởi nghĩa thất bại, G. Đimitơrốp phải rời
Tổ quốc, tiếp tục hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Trong
những năm 1935 - 1943, ông làm Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Quốc tế Cộng sản. Từ năm 1942, ông lãnh đạo Mặt
trận Tổ quốc đoàn kết tất cả các lực lượng chống phát xít
ở Bungari. Sau khi Bungari được giải phóng (năm 1945),
ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản và là người lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc
Bungari.
ĐỖ ĐÌNH THIỆN (1903 - 1972): Sinh ở xã Cổ Nhuế, Từ Liêm,
Hà Nội. Ông theo học ở Pháp từ năm 1927 đến năm 1931,
bị Pháp bắt và trục xuất về nước vì hoạt động yêu nước.
Ông làm thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian
Người đi Pháp năm 1946.
ĐỜ GÔN, SÁCLƠ (Charles de Gaulle) (1890 - 1970): Nhà hoạt
động quân sự và chính trị Pháp. Năm 1912, tốt nghiệp
Trường Quân sự Xanh Xya. Tham gia Chiến tranh thế
giới thứ nhất. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, được
phong hàm Thiếu tướng (năm 1938). Tháng 6-1940, sau
khi phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ông thành lập tổ chức
kháng chiến chống phát xít Đức ở Luân Đôn và là người
lãnh đạo Ủy ban toàn quốc chỉ huy các lực lượng vũ trang
Pháp chống Đức. Từ tháng 8-1944 đến tháng 1-1946, ông
làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời Pháp. Năm 1947, ông
thành lập Đảng Tập hợp nhân dân Pháp, chủ trương phục
hồi quyền cai trị của đế quốc Pháp ở các thuộc địa cũ, bao

427
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

gồm cả Đông Dương. Sau cuộc chiến tranh ở Đông Dương


(năm 1954) và Angiêri (năm 1958), ông chủ trương và
thực hiện việc trao trả độc lập cho một số nước châu Phi.
Năm 1959, ông được bầu làm Tổng thống và tiếp tục trúng
cử vào năm 1965; theo đuổi đường lối bảo đảm tính độc
lập của nước Pháp trong các vấn đề chính yếu với các nước
Âu - Mỹ. Sáclơ Đờ Gôn từ chức tổng thống năm 1969.

G
GĂNGĐI, MÔHANĐÁT KARAMSAN (Mohandas Karamchand
Gandhi) (1869 - 1948): Nhà triết học, nhà văn, nhà hoạt
động nổi tiếng của phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ.
Để chống lại thực dân Anh, giành độc lập dân tộc,
M.K. Găngđi chủ trương không dùng bạo lực và không coi
bạo lực là phương thức đấu tranh chính trị. Trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Ấn Độ (1919 - 1922),
M.K. Găngđi trở thành lãnh tụ của Đảng Quốc đại và giữ
vai trò quan trọng trong việc biến đảng này thành một
tổ chức quần chúng chống đế quốc. Học thuyết đề kháng
tiêu cực của ông trở thành tư tưởng chính của Đảng Quốc
đại trong cuộc đấu tranh cho nền độc lập Ấn Độ. Năm
1946, ông tuyên bố là không nhất thiết chỉ dùng phương
pháp đấu tranh không bạo lực. M.K. Găngđi có ảnh hưởng
và uy tín lớn ở Ấn Độ, được nhân dân Ấn Độ suy tôn là
Mahátma nghĩa là “Tâm hồn vĩ đại”. Năm 1948, ông bị
bọn phản động ám sát.

H
HÀM NGHI (1871 - 1944): Tức Nguyễn Ưng Lịch, vua thứ 8
nhà Nguyễn, người đứng đầu phe chủ chiến chống thực

428
TẬ P 4 : 1946 - 1950
dân Pháp trong triều đình Huế. Khi kinh đô Huế thất thủ
(tháng 7-1885), Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết ra phía
Bắc tổ chức kháng chiến. Bị thực dân Pháp lùng bắt, phải
lánh ở vùng rừng núi tỉnh Quảng Bình, xuống Chiếu Cần
vương kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân chống Pháp.
Tháng 11-1888, bị thực dân Pháp bắt, sau đó đày sang
Angiê (thủ phủ của Angiêri ở Bắc Phi).
HOÀNG ĐẠO THÚY (1900 - 1994): Nhà giáo dục, nhà văn hóa,
nhà Hà Nội học, quê ở Hà Nội. Ông tốt nghiệp Trường Cao
đẳng Sư phạm Hà Nội năm 1920. Ông tổng ủy viên Hướng
đạo Đông Dương (1930 - 1945), đại biểu dự Đại hội Quốc
dân Tân Trào (tháng 8-1945), Giám đốc Trường Võ bị
Trần Quốc Tuấn khóa I (năm 1946), khóa III (năm 1947),
Cục trưởng Cục Quân huấn (năm 1948), Tổng Thư ký
Ban Thi đua Trung ương (tháng 8-1948), Cục trưởng Cục
Thông tin liên lạc (tháng 6-1949), được phong quân hàm
Đại tá năm 1958, là đại biểu Quốc hội khóa I, II.
HOÀNG HỮU NAM (1911 - 1947): Tức Phan Bôi, quê Điện
Bàn, Quảng Nam. Ông học ở Hà Nội và tham gia cách mạng.
Năm 1929, ông vào Sài Gòn rồi tham gia Đảng Cộng sản.
Năm 1930 - 1936, ông bị thực dân Pháp bắt tù khổ sai ở
Côn Đảo. Năm 1939, ông lại bị bắt đày ở Bắc Mê rồi đưa
sang Mađagátxca. Năm 1943, ông về Việt Bắc. Cách mạng
Tháng Tám thành công, ông làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ
trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Ông mất vì tai nạn
trên đường đi công tác (năm 1947).
HOÀNG MINH GIÁM (1904 - 1995): Quê ở xã Đông Ngạc,
huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng
Sư phạm Đông Dương, sau đó dạy học ở Phnôm Pênh

429
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

(Campuchia), Sài Gòn rồi trở ra Hà Nội vào những năm


1930, dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, là giáo viên,
Phó hiệu trưởng rồi Hiệu trưởng. Sau Cách mạng Tháng
Tám (năm 1945), ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng:
Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao (năm 1947), Bộ trưởng Bộ Văn hóa
(1955 - 1976), Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Ông
đã tham gia một số cuộc gặp gỡ đại diện của Việt Nam và
Pháp những năm 1945 - 1946.
HOÀNG QUỐC VIỆT (1905 - 1992): Tên thật là Hạ Bá Cang,
quê ở Đáp Cầu, Võ Giàng, Bắc Ninh (nay là phường Đáp
Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh), tham gia cách
mạng từ năm 1925 và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên năm 1928. Sau Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam (đầu năm 1930), ông được cử làm Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Cuối năm 1937, ông được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc
Kỳ1). Năm 1941, ông làm Ủy viên Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, đồng chí Hoàng
Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam2). Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951),
ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
làm Ủy viên Bộ Chính trị. Năm 1960, ông được bầu làm
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; năm 1961, làm Chủ tịch
Tổng Công đoàn Việt Nam. Năm 1976, ông được bầu lại
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng; từ năm 1977, làm

1), 2) Theo Hoàng Quốc Việt tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015,
tr.67, 126; 243-244 (B.T).

430
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam1); năm 1983, làm Chủ tịch danh dự
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông là
đại biểu Quốc hội từ khóa V đến khóa VIII. Ông được
tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân, huy
chương cao quý khác.
HOÀNG SÂM (1915 - 1969): Tên thật là Trần Văn Kỳ, Thiếu
tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, quê ở tỉnh Quảng Bình;
tham gia cách mạng lúc còn trẻ; năm 1942, làm Tỉnh ủy
viên tỉnh Bắc Kạn; năm 1944, làm Trung đội trưởng và sau
đó làm Đại đội trưởng Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân. Ông còn được cử giữ nhiều chức vụ trong quân đội:
Ủy viên Quân ủy Hội, phụ trách Quân khu 2 (năm 1945);
Chỉ huy trưởng Quân khu 3 (năm 1948); Phó Chủ tịch Ủy
ban quân chính Hải Phòng (năm 1955). Từ năm 1955 đến
năm 1969, ông làm Tư lệnh nhiều quân khu.
HOÀNG VĂN THÁI (1915 - 1986): Tên thật là Hoàng Văn
Xiêm, nhà hoạt động cách mạng và quân sự Việt Nam, Đại
tướng (năm 1980), quê ở Tân An, Tiền Hải, Thái Bình. Ông
tham gia cách mạng từ năm 1936, đảng viên Đảng Cộng
sản (năm 1936); tháng 9-1940, bị thực dân Pháp bắt giam
một thời gian. Năm 1941, ông học quân sự ở Trung Quốc;
tháng 12-1944, tham gia Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân, phụ trách công tác tham mưu, trinh sát. Từ
tháng 3 đến tháng 7-1945, ông chỉ huy cánh quân cướp
chính quyền ở Chợ Đồn, phụ trách Trường Quân chính
kháng Nhật ở Tân Trào. Tháng 8-1945, ông tham gia cướp
chính quyền ở Lục An Châu và đưa quân về phối hợp cướp
chính quyền ở Tuyên Quang. Tháng 10-1945, ông được

1) Theo Hoàng Quốc Việt tiểu sử, Sđd, tr.295-296, 344 (B.T).

431
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Chủ tịch Hồ Chí Minh giao tổ chức Bộ Tổng tham mưu. Ông
là Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân
Việt Nam (1945 - 1953). Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, ông làm Tham mưu trưởng các chiến dịch lớn
như Biên giới (năm 1950), Điện Biên Phủ (năm 1954).
Năm 1958, ông làm Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn;
năm 1960, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao của
Chính phủ. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông
đã trải qua các chức vụ như: Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân
khu 5; năm 1966, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam;
những năm 1967 - 1973, Phó Bí thư Trung ương Cục miền
Nam; Phó Bí thư Quân ủy miền Nam, chỉ đạo, chỉ huy nhiều
chiến dịch lớn ở Nam Bộ. Năm 1974, ông làm Thứ trưởng
Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, Ủy viên
Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương. Ông là tác giả của
một số tác phẩm chính trị và lịch sử quân sự có giá trị về
lịch sử quân sự hiện đại. Ông làm Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa II, IV, V;
đại biểu Quốc hội khóa VII; được tặng Huân chương Hồ Chí
Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, hạng Nhì, hạng
Ba; Huân chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều huân
chương cao quý khác.
HỒ TÙNG MẬU (1896 - 1951): Tên thật là Hồ Bá Cự, quê ở
làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông
tham gia cách mạng từ lúc còn trẻ và nhiều năm hoạt động
ở Thái Lan và Trung Quốc. Năm 1923, ông cùng một số
thanh niên Việt Nam yêu nước lập nhóm Tâm tâm xã và
là một trong những người đầu tiên tham gia Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên; là người giúp việc đắc lực của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc tổ chức các lớp huấn
luyện chính trị ở Quảng Châu (Trung Quốc). Sau Cách

432
TẬ P 4 : 1946 - 1950
mạng Tháng Tám, ông được Đảng và Nhà nước giao đảm
nhiệm nhiều chức vụ quan trọng: Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến hành chính Liên khu IV (năm 1946); Tổng Thanh tra
Ban Thanh tra Chính phủ (năm 1949); Chủ tịch Hội Việt -
Hoa hữu nghị; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(năm 1951). Tháng 7-1951, ông hy sinh trên đường đi công
tác. Ông được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương
Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh.
HUỲNH THÚC KHÁNG (1876 - 1947): Nhân sĩ yêu nước, sinh
ở làng Thạnh Bình, tổng Tiên Phước Thượng (nay là huyện
Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam. Ông đỗ giải nguyên năm
1900 và đỗ hoàng giáp năm 1904. Vì cùng với Phan Chu
Trinh, Trần Quý Cáp tham gia phong trào Duy Tân, ông bị
Pháp bắt và đày đi Côn Đảo 13 năm (1908 - 1921). Năm
1926, ông được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung
Kỳ, nhưng do chống lại Khâm sứ Pháp nên ông từ chức
và sáng lập ra tờ báo Tiếng dân ở Huế (1927 - 1943). Sau
Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã mời ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến với
cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
sang Pháp năm 1946, ông được trao quyền Chủ tịch nước.
Ông là một sáng lập viên và làm Hội trưởng Hội Liên hiệp
quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Năm 1947, ông lâm bệnh,
mất tại Quảng Ngãi khi đang trên đường đi công tác ở
miền Trung.

K
KHƠRÚTSỐP, NIKITA XÉCGÂYÊVÍCH (Nikita Sergeyevich
Khrushchyov) (1894 - 1971): Sinh ở Calinốpca thuộc tỉnh
Cuốcxcơ, công nhân mỏ vùng Đônbát. Năm 1918, ông gia

433
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

nhập Đảng Cộng sản và tham gia Hồng quân chiến đấu ở
mặt trận phía Nam. Sau nội chiến, ông đi học văn hóa và
làm công tác đảng ở vùng Đônbát và Kiép. Từ năm 1931,
ông làm Bí thư Đảng khu Bauman, khu Crátxnaia Prétnia
ở thành phố Mátxcơva. Từ năm 1932 đến năm 1934, ông
làm Bí thư thứ hai rồi Bí thư thứ nhất Thành ủy Mátxcơva.
Năm 1934, ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô. Năm 1938, ông làm Bí thư thứ nhất Đảng
Cộng sản Ucraina, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; năm
1939, làm Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông được phong Trung
tướng, làm Ủy viên Hội đồng Quân sự khu Kiép và mặt trận
Tây Nam, mặt trận Xtalingrát, Tổng chỉ huy lực lượng du
kích ở Ucraina. Năm 1947, ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Ucraina, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ucraina,
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
Năm 1949, ông được bầu lại làm Bí thư Đảng Cộng sản
Liên Xô, Bí thư thứ nhất Thành ủy Mátxcơva. Sau Đại
hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô, ông làm Ủy viên
Chủ tịch Đoàn và Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng
9-1953, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ tháng 2-1953
đến cuối năm 1964, ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Liên Xô, Ủy viên Chủ tịch Đoàn Xôviết tối cao Liên Xô.

L
LÊ BÌNH (1924 - 1945): Liệt sĩ cách mạng, người huyện
Hương Sơn, Hà Tĩnh. Đầu năm 1945, ông gia nhập Mặt
trận Việt Minh và sau đó được đưa vào Sài Gòn hoạt động.

434
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Cách mạng Tháng Tám thành công, Lê Bình được giao phụ
trách lực lượng an ninh quận Tân Bình rồi tỉnh Cần Thơ.
Ông đã hy sinh khi chỉ huy Đội tự vệ Cảm tử trong trận
đánh nổi tiếng hạ đồn Cái Răng (Châu Thành, Cần Thơ)
ngày 12-11-1945. Trường Huấn luyện dân quân Trung
ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được mang
tên Lê Bình.
LÊ ĐÌNH THÁM (1897 - 1969): Quê Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam. Sau khi học hết bậc thành chung ở Huế, ông ra Hà
Nội học và tốt nghiệp trường Y, rồi lại về làm việc tại bệnh
viện thành phố Huế. Ông là một trong những người thành
lập Hội Phật giáo ở Huế. Năm 1948, ông được cử giữ chức
Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ.
Năm 1949, ông được điều động lên Việt Bắc, lần lượt giữ
các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của
Việt Nam; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; Phó hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam.
LÊ ĐỨC THỌ (1911 - 1990): Tên thật là Phan Đình Khải; sinh
tại tỉnh Nam Định; năm 1929, ông được kết nạp vào Đông
Dương Cộng sản Đảng; từ năm 1930, bị địch bắt và giam
cầm tại các nhà tù ở Nam Định, Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo.
Ông tham gia mặt trận Việt Minh năm 1941. Năm 1944,
ông làm Ủy viên Trung ương Đảng. Năm 1948, ông được
cử vào Nam Bộ làm Phó Bí thư Xứ ủy kiêm Trưởng Ban Tổ
chức Xứ ủy; từ năm 1951, ông làm Ủy viên Trung ương
Đảng, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam; Ủy viên Bộ
Chính trị (năm 1956); Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
(năm 1960); Cố vấn đặc biệt Phái đoàn Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Pari về Việt Nam;

435
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

tháng 4-1975, làm đại diện Bộ Chính trị trong chiến dịch
Hồ Chí Minh; từ năm 1986 đến năm 1990, làm Cố vấn Ban
Chấp hành Trung ương Đảng.
LÊ HỮU TỪ (1896 - 1967): Sinh tại Di Loan (nay thuộc xã
Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh), tỉnh Quảng Trị. Từ tháng
11-1945, là giám mục địa phận Bùi Chu - Phát Diệm (Ninh
Bình). Sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), ông được
cử vào Ban Cố vấn Chính phủ. Lợi dụng danh nghĩa đó, Lê
Hữu Từ đã vận động giáo dân lập Giáo khu tự trị Bùi Chu -
Phát Diệm. Theo yêu cầu của Lê Hữu Từ, ngày 16-10-1949,
quân Pháp nhảy dù xuống Phát Diệm và đổ bộ lên Bùi Chu,
chiếm đóng trung tâm Công giáo ở đồng bằng Bắc Bộ. Năm
1954, Lê Hữu Từ di cư vào miền Nam và tiếp tục hoạt
động chống lại Tổ quốc.
LÊNIN, VLAĐIMIA ILÍCH (Vladimir Ilyich Lenin) (1870 - 1924):
Lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động
toàn thế giới, người sáng lập Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga
và Nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử loài người,
và sáng lập Quốc tế Cộng sản. Kế tục sự nghiệp của C. Mác
và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đấu tranh kiên quyết để bảo vệ
tinh thần cách mạng của chủ nghĩa Mác, chống lại mọi sự
xuyên tạc của bọn cơ hội chủ nghĩa và phát triển một cách
thiên tài cả ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác (triết học
mácxít, kinh tế chính trị học mácxít, và chủ nghĩa xã hội
khoa học), giải quyết đúng đắn về lý luận và thực tiễn các
vấn đề đặt ra cho cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa. V.I. Lênin đặc biệt chú ý và đã đưa ra nhiều luận
điểm quan trọng về phong trào đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc. Trong bản Sơ thảo lần thứ nhất

436
TẬ P 4 : 1946 - 1950
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
được trình bày tại Đại hội lần thứ II Quốc tế Cộng sản (năm
1920), V.I. Lênin đã nêu ra những vấn đề cơ bản của phong
trào giải phóng dân tộc.
LÊ THƯỚC (1890 - 1975): Quê huyện La Sơn, nay là huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thời nhỏ theo Hán học, đỗ giải
nguyên. Ông tốt nghiệp Thành chung tại Trường Quốc học
Huế, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, rồi dạy
học. Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, ông được
giao nhiều chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Tản cư, di cư tỉnh
Thanh Hóa, Chủ tịch Ủy ban Tăng gia sản xuất tỉnh Thanh
Hóa, Ủy viên Mặt trận Liên Việt toàn quốc... Năm 1954, ông
công tác ở Bộ Giáo dục, rồi Bộ Văn hóa; là tác giả của nhiều
công trình nghiên cứu văn học, sử học.
LÊ VĂN HIẾN (1904 - 1997): Quê xã Phước Ninh, Đà Nẵng,
xuất thân trong một gia đình lao động. Năm 1927, tham
gia chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hà Nội, bị
địch bắt nhưng được thả, phải chuyển vào làm việc ở Nha
Trang (năm 1929). Ông tiếp tục hoạt động và bị bắt lần thứ
hai, giam ở ngục Kon Tum (1930 - 1935). Năm 1940, ông
bị địch bắt lần thứ ba. Tháng 5-1945, ông tham gia chuẩn
bị khởi nghĩa ở Đà Nẵng. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám
(năm 1945) thành công, ông được giao nhiều trọng trách:
Bộ trưởng Bộ Lao động, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Đà Nẵng
(năm 1945), Bộ trưởng Bộ Tài chính (1946 - 1959), Phó
Chủ tịch Hội đồng quốc phòng tối cao (năm 1948), Phó Chủ
tịch Ủy ban Kế hoạch nhà nước (năm 1958). Từ năm 1962,
ông được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Vương quốc Lào trong suốt
15 năm liên tục (1962 - 1977).

437
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

LƠCLÉC, PHILÍP MARIƠ ĐỜ (Philippe Francois Marie Leclerc


de Hauteclocque) (1902 - 1947): Đại tướng Pháp, tham gia
cuộc kháng chiến chống phát xít Đức xâm lược nước Pháp
trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1944, cùng với
quân Đồng minh, Lơcléc đổ bộ lên Noócmăngđi và chỉ huy
Sư đoàn cơ giới 2 giải phóng Pari. Năm 1945, làm Tổng chỉ
huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương (từ tháng
8-1945 đến tháng 6-1946), nhân danh nước Pháp ký văn
bản đầu hàng của Nhật. Năm 1946, ông chỉ huy quân Pháp
ra Bắc Bộ thay thế quân Tưởng Giới Thạch (sau Hiệp định
sơ bộ ngày 6-3-1946). Ông chết năm 1947 vì tai nạn máy
bay. Năm 1952, ông được truy phong Thống chế.
LƯU THIẾU KỲ (1898 - 1969): Nhà hoạt động chính trị nổi
tiếng của Trung Quốc, người tỉnh Hồ Nam. Năm 1921, học
tại Trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô; và cũng trong
năm này, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm
1922, sau khi về nước, làm Khu ủy viên Khu ủy Hồ Nam,
lãnh đạo hai cuộc bãi công lớn của công nhân đường sắt
Quảng Châu - Vũ Hán và khu mỏ An Nguyên. Từng làm Phó
Chủ tịch Tổng Công hội toàn quốc (năm 1925); Chủ tịch
Tổng Công hội toàn quốc (năm 1932); Bí thư Đảng bộ Cục
Hoa Bắc (năm 1936); Bí thư Đảng bộ Cục Hoa Trung, Chính
ủy Tân Tứ quân (năm 1941); Bí thư Ban Bí thư Trung
ương Đảng và Phó Chủ tịch Quân ủy (năm 1943). Sau khi
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, từng giữ
các chức vụ: Phó Chủ tịch Chính phủ, Phó Chủ tịch Quân ủy
Trung ương, Chủ tịch danh dự Tổng Công hội toàn
quốc. Quốc hội khóa I nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa (năm 1954) đã bầu ông làm Ủy viên trưởng Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Tại Quốc hội khóa II (năm 1959) và

438
TẬ P 4 : 1946 - 1950
khóa III (năm 1965), ông được bầu làm Chủ tịch nước và
Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa. Ông làm Ủy viên Trung ương Đảng khóa V,
Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị các khóa VI và khóa VII,
Phó Chủ tịch Đảng khóa VIII. Ông bị thanh trừng trong
Đại cách mạng văn hóa vô sản. Mất tại Hồ Nam tháng
11-1969. Năm 1980, Hội nghị Trung ương lần thứ năm
khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tuyên bố khôi
phục tên tuổi và danh dự của ông.

MÁC, CÁC (Karl Marx) (1818 - 1883): Lãnh tụ thiên tài của
giai cấp công nhân thế giới, nhà tư tưởng vĩ đại nhất, người
cùng Ph. Ăngghen sáng lập nền triết học mới - triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ba bộ phận này có quan hệ
hữu cơ với nhau, cấu thành học thuyết Mác, trở thành hệ
tư tưởng, thế giới quan, lý luận về chiến lược và sách lược
của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
C. Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà trước hết
C. Mác là nhà cách mạng vĩ đại. Năm 1847, C. Mác và
Ph. Ăngghen tham gia sáng lập Liên đoàn những người cộng
sản. Năm 1864, C. Mác sáng lập và là linh hồn của Quốc tế
thứ nhất. C. Mác đã đấu tranh không khoan nhượng với
mọi thứ chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa vô chính phủ trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người đã hiến
dâng cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công
nhân và toàn thể loài người.

439
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

MAO TRẠCH ĐÔNG (1893 - 1976): Người tỉnh Hồ Nam, nhà


hoạt động cách mạng nổi tiếng Trung Quốc. Sau cách
mạng Tân Hợi (năm 1911), ông tham gia quân đội cách
mạng ở Hồ Nam. Năm 1921, ông tham gia Đại hội thành
lập Đảng Cộng sản Trung Quốc; Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (năm 1923); Ủy viên Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (năm 1933); là một
trong những người lãnh đạo cuộc Vạn lý trường chinh.
Tại hội nghị Đảng ở Tuân Nghĩa (tháng 1-1935), ông
được bầu vào Thường vụ Bộ Chính trị, sau đó làm Chủ
tịch Ủy ban Quân sự Trung ương. Ông làm Chủ tịch Bộ
Chính trị và Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (1943 -
1976). Ông là người chủ trương hợp tác với Quốc dân
Đảng để thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất và đưa
kháng chiến đến thắng lợi (1937 - 1945). Trong thời kỳ
nội chiến (1946 - 1949), ông cùng Đảng Cộng sản lãnh
đạo nhân dân và Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc
chiến thắng các lực lượng Quốc dân Đảng, buộc họ phải
chạy ra Đài Loan. Tháng 10-1949, ông tuyên bố thành
lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và được cử làm
Chủ tịch Hội đồng Chính phủ nhân dân Trung ương, sau
đó làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho
đến khi mất (năm 1976). Công lao và cống hiến của Mao
Trạch Đông đối với cách mạng Trung Quốc là rất to lớn,
nhưng những sai lầm trong các quan điểm của ông về
xây dựng kinh tế cuối những năm 50 và Đại cách mạng
văn hóa vô sản trong những năm 60 của thế kỷ XX cũng
gây nhiều tác hại.
MUTÊ, MARIUÝT (Marius Moutet) (1902 - 1969): Đảng viên
Đảng Xã hội Pháp, Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại

440
TẬ P 4 : 1946 - 1950
(Bộ Thuộc địa Pháp cũ) năm 1946. Trong dịp Chủ tịch Hồ
Chí Minh sang Pháp (từ tháng 6-1946 đến tháng 9-1946),
Người và M. Mutê đã có nhiều cuộc tiếp xúc. Bộ trưởng
M. Mutê là người đã ký Tạm ước ngày 14-9-1946 với Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đầu năm 1947, M. Mutê được Chính phủ
Pháp cử sang Đông Dương kiểm tra tình hình và đã từ chối
lời mời gặp gỡ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
MUÝT, PÔN (Paul Mus) (1902 - 1967): Học ở Hà Nội, thành
viên Trường Viễn Đông Bác Cổ từ năm 1926 đến đầu
những năm 1940. Về Pháp, tham gia cuộc kháng chiến
chống phát xít Đức xâm lược. Năm 1945, làm phái viên của
Đờ Gôn đến Việt Nam. Từ năm 1945 đến năm 1947, làm
Cố vấn chính trị của tướng P.M. Lơcléc và nhận nhiệm vụ
bên cạnh Đô đốc Đácgiăngliơ và Cao ủy Pháp Bôlae ở Đông
Dương. Năm 1947, P. Muýt làm đặc phái viên của Cao ủy
Pháp Bôlae trong cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại
Thái Nguyên.

N
NÊRU, GIAOAHÁCLAN (Jawaharlal Nehru) (1889 - 1964): Nhà
hoạt động chính trị nổi tiếng của Ấn Độ; là học trò và người
kế tục sự nghiệp của Găngđi trong cuộc đấu tranh giành và
bảo vệ độc lập dân tộc của Ấn Độ. Năm 1912, ông gia nhập
Đảng Quốc đại, làm Ủy viên Ủy ban toàn Ấn Độ của Đảng
(năm 1918) và Tổng Thư ký của Đảng trong những năm
1929 - 1930, 1935 - 1937, 1946, 1951 - 1954. Năm 1946,
ông tham gia thành lập Chính phủ lâm thời Ấn Độ, làm Phó
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Từ năm 1947 đến
năm 1964, G. Nêru làm Thủ tướng Ấn Độ. G. Nêru là người

441
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

có nhiều đóng góp vào sự nghiệp hòa bình thế giới, một
trong những người đề xướng 5 nguyên tắc chung sống hòa
bình và là một trong những người sáng lập tổ chức Phong
trào Không liên kết. Ông là người bạn thân thiết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh; là tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu
về phong trào dân tộc.
NGUYỄN BÌNH (1906 - 1951): Tên thật là Nguyễn Phương
Thảo, quê ở tỉnh Hưng Yên, Trung tướng Quân đội nhân
dân Việt Nam. Năm 1926, vì tham gia phong trào yêu nước,
ông bị đuổi học, sau sang Trung Quốc. Tham gia Quốc dân
Đảng (1929 - 1930) và cuộc khởi nghĩa Yên Bái, ông bị bắt
và đày đi Côn Đảo. Được trả tự do, ông tiếp tục hoạt động
cách mạng, tham gia lập chiến khu Đông Triều và làm Tư
lệnh trưởng. Ông là Ủy viên Ban Quân sự Nam Bộ kiêm Tư
lệnh trưởng Khu VII (1947 - 1951) và hy sinh trên đường
từ Nam Bộ ra chiến khu Việt Bắc.
NGUYỄN CHÍ THANH (1914 - 1967): Tên thật là Nguyễn Vịnh,
quê ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông tham
gia cách mạng từ năm 1934, gia nhập Đảng Cộng sản Đông
Dương năm 1937, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên năm 1938.
Tháng 8-1945, ông làm Ủy viên Trung ương Đảng và Bí
thư Xứ ủy Trung Kỳ; Bí thư Phân khu ủy Bình Trị Thiên
năm 1947; Bí thư Liên khu ủy Liên khu IV năm 1948; Chủ
nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
năm 1950. Năm 1961, ông phụ trách Ban Nông nghiệp của
Đảng; những năm 1964 - 1967, làm Bí thư Trung ương Cục
miền Nam; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa II, III; được phong
hàm Đại tướng năm 1959; có nhiều đóng góp trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông được tặng thưởng

442
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Huân chương Sao Vàng và nhiều huân, huy chương cao
quý khác.
NGUYỄN DUY TRINH (1910 - 1985): Nhà hoạt động chính trị
và ngoại giao, sinh tại tỉnh Hà Tĩnh1). Ông tham gia hoạt
động yêu nước và cách mạng năm 1927, vào Đảng Cộng
sản năm 19302), là Bí thư Huyện ủy Nghi Lộc (1930 - 1931);
bị địch bắt, bị kết án tù khổ sai và đày ở nhà tù Côn Đảo
(1935 - 1945)3). Ông là Ủy viên Trung ương Đảng từ năm
1951; Bí thư Trung ương Đảng từ năm 1955; Ủy viên Bộ
Chính trị từ năm 1956; Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà
nước từ năm 1958; Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại
giao (1965 - 1980).
NGUYỄN KHANG (1919 - 1976): Quê ở thôn Nguyên Kinh,
xã Minh Hưng, Kiến Xương, Thái Bình. Ông tham gia cách
mạng từ rất sớm. Năm 1939, là Ủy viên Thường vụ Thành
ủy Hà Nội. Năm 1941, ông bị bắt, kết án khổ sai và đày đi
Sơn La. Năm 1944, ông vượt ngục trở về tham gia Thường
vụ Xứ ủy Bắc Kỳ.
Tháng 8-1945, ông được phân công thay mặt Xứ ủy
Bắc Kỳ chỉ đạo khởi nghĩa ở một số tỉnh và trực tiếp tổ
chức chỉ đạo cuộc biểu tình giành chính quyền ở Hà Nội
ngày 19-8. Trong kháng chiến chống Pháp, ông lần lượt
giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bí thư Liên khu Việt Bắc,
Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (năm 1951), ông
được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Đại hội lần thứ III (năm 1960), ông trúng cử
Ủy viên chính thức.

1), 2), 3) Theo Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
t. 15, tr.736 (B.T).

443
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Từ năm 1957 đến năm 1960, ông là Đại sứ đặc mệnh


toàn quyền của nước ta tại các nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa và Cộng hòa nhân dân Mông Cổ.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông giữ chức Bộ trưởng
Phủ Thủ tướng cho tới năm 1976.
NGUYỄN LƯƠNG BẰNG (1904 - 1979): Tức Sao Đỏ, quê ở
xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Khi
lớn lên, ông làm công nhân tàu biển. Năm 1925, ông được
gặp Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (Trung Quốc) và bắt
đầu hoạt động cách mạng; được Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên cử về nước hoạt động. Năm 1928, từ Hải Phòng,
ông được tổ chức phái đi công tác tại Hồng Kông, Quảng
Châu, Thượng Hải. Ông gia nhập nhóm cộng sản đầu tiên
của người Việt Nam ở Trung Quốc.
Năm 1931, ông bị mật thám Pháp bắt đưa về nước và
bị kết án phát lưu chung thân1). Cuối năm 1932, ông vượt
ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng. Cuối năm 1933, ông
lại bị thực dân Pháp bắt, bị kết án tù chung thân và đày đi
Sơn La. Năm 1943, ông lại vượt ngục và trở về hoạt động
cách mạng. Năm 1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng,
ông được bổ sung vào “Ban lãnh đạo” làm thay công việc
của đồng chí Hoàng Văn Thụ đã bị địch bắt2). Tại Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa II) (tháng
7-1955), ông được bổ sung làm Ủy viên Trung ương Đảng,
làm Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương3).
Ông lần lượt giữ các chức vụ: Tổng Giám đốc Ngân
hàng quốc gia Việt Nam; Đại sứ đặc mệnh toàn quyền

1), 2), 3) Theo Nguyễn Lương Bằng tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2015, tr.78, 119, 211 (B.T).

444
TẬ P 4 : 1946 - 1950
nước Việt Nam tại Liên Xô; Tổng Thanh tra của Chính phủ.
Tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa III (tháng 9-1969),
ông được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Sau khi nước nhà thống nhất, Quốc hội khóa VI
cử ông làm Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
NGUYỄN SINH KHIÊM (1888 - 1950): Còn gọi là Nguyễn Tất
Đạt, quê ở Nam Đàn, Nghệ An, anh ruột Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Ông tham gia hoạt động chống Pháp trong tổ chức
của Đội Quyên, Đội Phấn và bị Pháp bắt giam năm 1914,
lĩnh án tù khổ sai 3 năm, sau tăng lên 9 năm. Năm 1920,
thực dân Pháp chuyển ông về giam lỏng ở Huế. Ở đây, ông
vẫn tiếp tục hoạt động yêu nước. Năm 1940, ông về quê, lại
bị chính quyền thực dân bắt giam đến năm 1941 mới được
tha. Cuối năm 1946, ông từ Nghệ An ra Hà Nội thăm Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
NGUYỄN SƠN (1908 - 1956), tên thật là Vũ Nguyên Bác. Các
tên khác là Lý Đức Lan, Hồng Thủy, Lam Giang... Quê ở
làng Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội. Thuở nhỏ, ông học ở Hà
Nội. Năm 1926, ông sang Trung Quốc tham gia lớp huấn
luyện ở Quảng Châu do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Sau đó,
ông được cử vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. Khởi
nghĩa Quảng Châu thất bại, ông tham gia chiến đấu tại Khu
căn cứ Đông Giang của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tham
gia cuộc Vạn lý trường chinh, trải qua nhiều công tác huấn
luyện chính trị, quân sự, tuyên truyền, báo chí, văn nghệ
trong Bát Lộ quân, Quân giải phóng Trung Quốc, là Ủy viên
Chính phủ công nông Xôviết Trung Quốc.
Năm 1945, ông về Việt Nam, được giao nhiệm vụ
Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Quốc phòng (1-1947),

445
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Chiến khu 5, Chiến khu 4. Tháng


1-1948, được phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội nhân
dân Việt Nam. Năm 1951 trở lại Trung Quốc công tác ở Bộ
Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Năm 1955 được Chính phủ Trung Quốc phong quân hàm
Thiếu tướng. Năm 1956 mất tại Hà Nội.
NGUYỄN VĂN TỐ (1889 - 1947): Quê ở Hà Đông (nay thuộc
Hà Nội). Thuở nhỏ, ông theo Hán học, sau chuyển sang Tây
học, đỗ bằng thành chung, làm việc tại Trường Viễn Đông
Bác Cổ Hà Nội.
Trước năm 1945, ông làm Hội trưởng Hội Truyền
bá quốc ngữ. Tháng 8-1945, ông được mời giữ chức Bộ
trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ lâm thời, làm đại
biểu Quốc hội khóa I, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, ông được cử làm Phó Chủ
tịch ủy ban tản cư di cư, rồi cùng Chính phủ rút lên Việt
Bắc tiếp tục tham gia kháng chiến. Mùa đông năm 1947,
quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, ông bị bắt và bị giặc
sát hại.
NGUYỄN XIỂN (1907 - 1997), giáo sư, kỹ sư khí tượng, nhà
hoạt động chính trị, quê ở Nam Đàn, Nghệ An. Năm 1928,
sau khi đỗ đầu tú tài toán học ở Hà Nội, ông được cấp học
bổng sang Pháp du học, tốt nghiệp về nước dạy học, sau
đó được tuyển vào ngạch kỹ sư khí tượng Đông Dương
(1937). Cách mạng Tháng Tám thành công, ông là Chủ
tịch Ủy ban hành chính Bắc Bộ kiêm Giám đốc Nha Khí
tượng Thủy văn đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, được cử tham
gia xây dựng và trực tiếp giảng dạy ở Trường Đại học

446
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp. Hòa bình lập lại,
ông là Giám đốc Nha Khí tượng, rồi Bộ trưởng Bộ Cứu tế,
Chủ tịch Ủy ban Vật lý Địa cầu Việt Nam, Chủ tịch Hội phổ
biến Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Chủ nhiệm báo Khoa
học thường thức.
Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VIII, Phó
Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ khóa II đến khóa VI
và Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII. Ông còn là Phó Tổng thư
ký (1946) và Tổng thư ký (1956 - 1988) Đảng Xã hội Việt
Nam, Ủy viên Ban Liên Việt toàn quốc (1947), Ủy viên Đoàn
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông đã được tặng thưởng nhiều huân, huy chương
cao quý của Việt Nam và nước ngoài. Năm 1996, ông được
nhận giải thưởng Hồ Chí Minh.

ÔRIÔN, VANHXĂNG (Vincent Auriol) (1884 - 1966): Đảng


viên Đảng Xã hội Pháp, nhà hoạt động chính trị, Bộ
trưởng trong Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp (1936 -
1938), Tổng thống Pháp (1947 - 1954). Trong thời
gian làm tổng thống, V. Ôriôn ra sắc luật loại trừ các bộ
trưởng là đảng viên cộng sản khỏi Chính phủ, ủng hộ
nước Pháp gia nhập khối NATO. Tháng 12-1958, ra khỏi
Đảng Xã hội Pháp.

PHAN ANH (1912 - 1990): Quê ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức


Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông làm
Chủ tịch Tổng hội Sinh viên; tốt nghiệp khoa Luật Đại học

447
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Đông Dương, Luật sư và Giáo sư Trường tư thục Thăng


Long (Hà Nội), thành viên tích cực của cuộc vận động
truyền bá quốc ngữ và phong trào thanh niên.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia thành lập Hội
Liên hiệp quốc dân Việt Nam, làm Chủ tịch Ủy ban Kiến
thiết quốc gia, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ
kháng chiến, Tổng Thư ký Phái đoàn Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đi dự Hội nghị Phôngtennơblô (Pháp).
Ông được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa I và khóa II, Phó
Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam khóa IV, đại biểu Quốc hội từ khóa II tới
khóa VIII.
Luật sư Phan Anh còn là một trong những người sáng
lập Hội Luật gia Việt Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Hội
Luật gia quốc tế, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Hòa bình
thế giới.
PHAN KẾ TOẠI (1899 - 1992): Quê ở thị xã Sơn Tây, Hà
Nội, nguyên Khâm sai Bắc Kỳ của triều đình Huế. Tháng
8-1945, ông từ chức Khâm sai và theo cách mạng. Trong
kháng chiến chống Pháp, được cử làm quyền Bộ trưởng
Bộ Nội vụ. Ông làm Ủy viên Hội đồng Quốc phòng tối cao
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1948.
Sau khi miền Bắc được giải phóng, ông được cử giữ chức
Bộ trưởng Bộ Nội vụ rồi Phó Thủ tướng Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1975.
PHẠM HÙNG (1912 - 1988): Tên thật là Phạm Văn Thiện; quê
ở tỉnh Vĩnh Long. Trong những năm 1928 - 1929, ông là

448
TẬ P 4 : 1946 - 1950
thành viên của tổ chức “Nam Kỳ học sinh Liên hiệp Hội”
và “Thanh niên Cộng sản Đoàn”. Năm 1930, ông được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị
địch bắt và kết án tử hình, sau giảm xuống án chung thân
khổ sai và đày ra Côn Đảo. Sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, ông được cử giữ nhiều chức vụ quan trọng trong
Đảng và Nhà nước: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Đảng từ năm 1951; Ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1956; Bộ
trưởng Phủ Thủ tướng từ năm 1957; Phó Thủ tướng từ
năm 1958; Bí thư Trung ương Cục miền Nam và Chính ủy
các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam từ năm 1967;
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng từ năm 1976, kiêm Bộ
trưởng Bộ Nội vụ từ năm 19801). Tháng 6-1987, ông được
bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; Chính ủy Bộ Chỉ huy chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử (tháng 4-1975); đại biểu Quốc hội
khóa II, III, VI, VII, VIII2). Do sự cống hiến to lớn đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc, ông được tặng thưởng Huân
chương Sao Vàng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
PHẠM NGỌC THẠCH (1909 - 1968): Bác sĩ, Anh hùng lao động;
sinh ở Quy Nhơn (Bình Định). Ông tốt nghiệp bác sĩ ở Pari
năm 1934. Năm 1936, ông về nước hoạt động cách mạng
và có nhiều hoạt động, cống hiến trong lĩnh vực y học.
Trước Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), ông vừa
hành nghề bác sĩ, vừa tham gia hoạt động cách mạng, là
một trong những sáng lập viên của tổ chức Thanh niên
Tiền phong Nam Bộ.

1), 2) Theo Phạm Hùng - người cộng sản trung kiên, nhà lãnh đạo có uy tín
lớn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.17, 18 (B.T).

449
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử giữ nhiều


chức vụ quan trọng: Bộ trưởng Bộ Y tế Chính phủ lâm thời,
Thứ trưởng Phủ Chủ tịch (năm 1949); Ủy viên Thường
vụ, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính đặc khu Sài
Gòn - Chợ Lớn (1950 - 1953), Bộ trưởng Bộ Y tế kiêm Viện
trưởng Viện chống lao Trung ương (năm 1958), Chủ tịch
Ủy ban điều tra tội ác của đế quốc Mỹ ở Việt Nam; đại biểu
Quốc hội khóa II và III. Ông còn tham gia nhiều hoạt động
trong lĩnh vực y học quốc tế. Ngày 7-11-1968, ông đã hy
sinh ở chiến trường miền Nam trong khi làm nhiệm vụ.
Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vì những
cống hiến trong lĩnh vực y học.
PHẠM VĂN BẠCH (1910 - 1987): Quê tỉnh Trà Vinh, đỗ cử
nhân luật tại Trường Đại học Liông (Pháp). Năm 1936, ông
về nước hành nghề luật sư, dạy học ở Cần Thơ và tham
gia phong trào yêu nước. Sau Cách mạng Tháng Tám (năm
1945), ông được cử giữ các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến hành chính Nam Bộ; sau này là Ủy viên Đoàn Chủ
tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.
PHẠM VĂN ĐỒNG (1906 - 2000): Nhà hoạt động chính trị
xuất sắc của Việt Nam; quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức,
tỉnh Quảng Ngãi. Ông được dự lớp huấn luyện chính trị do
Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu (Trung Quốc) và
được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Năm 1927, ông về nước, vào Nam Kỳ hoạt động. Khoảng
đầu năm 1929, ông được bầu vào Ban lãnh đạo chính thức
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ1). Ông bị địch

1) Theo Phạm Văn Đồng tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
tr.41 (B.T).

450
TẬ P 4 : 1946 - 1950
bắt năm 1929, bị kết án 10 năm tù và đày ra Côn Đảo. Năm
1936, ông được trả tự do, ra hoạt động công khai ở Hà Nội,
sau đó hoạt động ở miền Nam Trung Quốc (1940 - 1941).
Giữa năm 1941, ông về nước và tham gia tích cực vào việc
xây dựng căn cứ địa Việt Bắc.
Cách mạng Tháng Tám thành công (năm 1945), ông
được cử làm Bộ trưởng Bộ Tài chính Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945); Trưởng phái
đoàn Chính phủ tại Hội nghị Phôngtennơblô (năm1946);
Đặc phái viên của Chính phủ chỉ đạo chiến trường Nam
Trung Bộ1); Phó Thủ tướng Chính phủ (năm 1949); Phó
Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng (tháng 8-1949), kiêm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao (năm 1954); Trưởng phái đoàn
Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương
(năm 1954); Thủ tướng Chính phủ (1955 - 1981); Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (1981 - 1987); Ủy viên dự khuyết
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
(năm 1947); Ủy viên chính thức (năm 1949). Từ năm
1951 đến năm 1986, ông liên tục làm Ủy viên Trung ương
Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị; đại biểu Quốc hội từ khóa I đến
khóa VII. Từ năm 1987, ông làm Cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông được Nhà nước
tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân, huy
chương cao quý khác.
PHIGHE, LÊÔ (Léo Figuères) (1918 - 2011): Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Thư ký Đoàn
Thanh niên Cộng hòa Pháp, Phó Chủ tịch Đoàn Thanh
niên dân chủ quốc tế, nghị sĩ Quốc hội Pháp. Năm 1950,

1) Theo Phạm Văn Đồng tiểu sử, Sđd, tr.123 (B.T).

451
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

L. Phighe sang Việt Nam, thăm vùng giải phóng, trại tù


binh Pháp và được tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng
8-1950, ông bị bắt vì những hoạt động tuyên truyền chống
“cuộc chiến tranh bẩn thỉu” của Pháp ở Đông Dương. Sau
đó, được trả tự do. Miền Bắc được giải phóng, ông đã sang
thăm lại Việt Nam.

R
RAMAĐIÊ, PÔN (Paul Ramadier) (1888 - 1961): Nhà hoạt
động chính trị Pháp, đảng viên Đảng Xã hội Pháp, nghị sĩ
Quốc hội Pháp. Nhiều lần làm Bộ trưởng trong các Chính
phủ Pháp. Năm 1947, Ramađiê là Thủ tướng Chính phủ
liên hiệp và thực hiện việc loại những người cộng sản khỏi
Chính phủ; đưa nước Pháp tham gia khối NATO; đàn áp
phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa.

T
TẠ QUANG BỬU (1910 - 1986): Quê ở Nam Đàn, Nghệ An,
thuở nhỏ học ở Quảng Nam, Huế, được cấp học bổng du
học ở Pháp. Sau khi tốt nghiệp Trường Điện cao cấp Pari
(Pháp), Trường Đại học Oxford (Anh), năm 1940, ông trở
về dạy học ở Huế. Ông làm Ủy viên trưởng Hướng đạo sinh
Trung Kỳ, đóng góp nhiều công sức vào việc giáo dục lực
lượng thanh niên yêu nước. Tháng 4-1945, ông tham gia
thành lập Trường Quân sự Thanh niên tiền tuyến ở Huế -
chuẩn bị cán bộ quân sự cho cách mạng.
Sau cách mạng, ông được giao nhiều chức vụ quan
trọng: Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thành
viên của Phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị Phôngtennơblô

452
TẬ P 4 : 1946 - 1950
(năm 1946) và Hội nghị Giơnevơ (năm 1954), Hiệu trưởng
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp,... Ông là đại biểu Quốc hội từ
khóa I đến khóa VI, Phó Chủ tịch ủy ban bảo vệ hòa bình
thế giới của Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô.
Giáo sư Tạ Quang Bửu là tác giả của nhiều công trình khoa
học có giá trị.
THÀNH THÁI (1879 - 1954): Tức Nguyễn Bửu Lân, vua thứ 10
nhà Nguyễn năm 1889 - 1907. Thành Thái là người yêu
nước và có tinh thần dân tộc. Năm 1907, Thành Thái bị thực
dân Pháp đày sang đảo Rêuyniông (châu Phi). Năm 1947,
ông được đưa về miền Nam nhưng phải sống tại Sài Gòn;
mất ngày 24-3-1954.
TÔN ĐỨC THẮNG (1888 - 1980): Quê ở xã Mỹ Hòa Hưng, tỉnh
Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang). Năm 1916, đang
học ở Trường Bá Nghệ Sài Gòn, ông bị điều đi lính thợ
ở quân cảng Tulông, miền Nam nước Pháp1). Năm 1919,
ông tham gia cuộc binh biến của công nhân và thủy thủ
Pháp tại Biển Đen nhằm chống lại cuộc chiến tranh can
thiệp phản cách mạng của nhiều nước đế quốc vào nước
Nga Xôviết.
Năm 1920, ông trở về nước, xây dựng công hội bí mật
tại Sài Gòn - Chợ Lớn và lãnh đạo cuộc bãi công của công
nhân Ba Son (tháng 8-1925). Năm 1927, ông được kết
nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được cử
làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ Nam Kỳ2), bị thực dân
Pháp bắt ở Sài Gòn (năm 1928), kết án 20 năm tù khổ sai,
đày ra Côn Đảo.

1), 2) Theo Tôn Đức Thắng tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
tr.26-36, 67 (B.T).

453
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông thoát khỏi
nhà tù Côn Đảo và trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến.
Ông làm Phó trưởng Ban Thường trực Quốc hội (1946 -
1955); quyền Trưởng ban (1948 - 1955); Trưởng Ban
Thường trực Quốc hội (1955 - 1960); Phó hội trưởng Hội
Liên hiệp quốc dân Việt Nam (1946 - 1951); Chủ tịch Mặt
trận Liên Việt (1951 - 1955); Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955 - 1977); Chủ tịch danh
dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977 - 1981); Phó Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960 - 1969); Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1969 - 1980).
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam từ năm 1947 và từ khóa II đến khóa IV; đại
biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VI.
Ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Sao Vàng và nhiều huân chương cao quý khác.
TRẦN CANH (1903 - 1961): Người huyện Tương Hương, tỉnh
Hồ Nam, Trung Quốc. Năm 1922, ông tham gia Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố,
sau đó đi học ở Liên Xô. Sau khởi nghĩa Nam Xương (năm
1927), ông đã lần lượt giữ các chức vụ: Sư đoàn trưởng,
Hiệu trưởng Trường Hồng quân, Tư lệnh Binh đoàn,... Năm
1950, ông được cử giữ chức Cố vấn quân sự tại Việt Nam,
Phó Tư lệnh chí nguyện quân Trung Quốc chống Mỹ, giúp
Triều Tiên. Năm 1955, ông được phong quân hàm Đại
tướng. Năm 1959, ông làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
TRẦN ĐẠI NGHĨA (1913 - 1997): Tên thật là Phạm Quang Lễ,
một trong số trí thức yêu nước theo Chủ tịch Hồ Chí Minh

454
TẬ P 4 : 1946 - 1950
về nước năm 1946, Anh hùng Lao động (1952), kỹ sư quân
giới đầu tiên của Việt Nam, Cục trưởng đầu tiên Cục Quân
giới (1947), kiêm Cục trưởng Cục Pháo binh (1949), thiếu
tướng (1948). Ông quê xã Chấn Hiệp, huyện Tam Bình,
tỉnh Vĩnh Long. Gia nhập bộ đội năm 1946, đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam (1949), có công lớn trong việc
xây dựng ngành quân giới Việt Nam. Trong kháng chiến
chống Pháp, mặc dù kinh tế đất nước còn lạc hậu, không
có cơ sở khoa học - kỹ thuật, song ông đã nghiên cứu, thiết
kế và tổ chức sản xuất thành công nhiều loại vũ khí như
mìn, đạn, lựu đạn, bom phóng, súng bazôka, súng SKZ.
Hiệu trưởng đầu tiên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
(năm 1956). Năm 1964, là Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết
cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật
Nhà nước (1965 - 1972), Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học
Liên Xô (năm 1966), Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam
(1975 - 1983), Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1973 -
1974) và Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng (1974 - 1977),
Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
(1983 - 1988), đại biểu Quốc hội khóa II, III. Năm 1952,
ông được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh
hiệu Anh hùng Lao động. Năm 1996, ông được Nhà nước
trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1) về Cụm công
trình nghiên cứu chế tạo vũ khí trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 - 1954).
TRẦN ĐĂNG NINH (19101) - 1955): Quê quán Ứng Hòa, Hà
Đông (nay là Hà Nội). Tham gia hoạt động cách mạng từ
những năm 1930. Năm 1940, ông tham gia lãnh đạo cuộc

1) Theo Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.571 (B.T).

455
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

khởi nghĩa Bắc Sơn. Năm 1945, ông phụ trách chiến khu
Hoàng Hoa Thám, sau đó tham gia Ủy ban quân sự cách
mạng miền Bắc Đông Dương. Tháng 8-1945, ông làm Ủy
viên Ủy ban tổng khởi nghĩa. Năm 1947, ông được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng cử làm Phó Tổng
thanh tra Chính phủ và Trưởng Ban Kiểm tra của Đảng.
Cuối năm 1949, ông làm Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp1).
Tháng 2-1951, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Ông được tặng thưởng nhiều huân, huy
chương cao quý và được Nhà nước truy tặng Huân chương
Sao Vàng.
TRẦN HUY LIỆU (1901 - 1969): Nhà báo, nhà sử học, nhà hoạt
động chính trị, quê ở Vụ Bản, Nam Định. Ông tham gia hoạt
động yêu nước từ rất sớm, là một trong những yếu nhân
của Việt Nam Quốc dân Đảng ở Nam Kỳ. Năm 1928, thành
lập Cường học thư xã và bị Pháp bắt giam. Năm 1935, ông
ra tù và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương (năm 1936).
Tháng 8-1945, ông dự Đại hội quốc dân Tân Trào, được
cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng. Sau Cách
mạng Tháng Tám (năm 1945), ông làm Bộ trưởng Bộ
Tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời và là người thay
mặt Chính phủ lâm thời nhận ấn kiếm trong lễ thoái vị của
vua Bảo Đại. Trong kháng chiến chống Pháp, ông giữ nhiều
chức vụ khác nhau. Sau đó, ông làm Trưởng Ban nghiên
cứu Văn - Sử - Địa trực thuộc Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam,
Viện trưởng Viện Sử học.
TRẦN HỮU TƯỚC (1913 - 1983): Quê ở làng Bạch Mai, nay
thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ông học tại Đại học Y

1) Theo Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.571 (B.T).

456
TẬ P 4 : 1946 - 1950
khoa Pari. Năm 1946, ông là một trong những người theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước tham gia kháng chiến chống
Pháp và tham gia giảng dạy tại Đại học Y Dược ở chiến khu;
là Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội (1955 - 1969);
giáo sư Đại học Y Dược Hà Nội; một trong những người
đầu tiên xây dựng ngành tai - mũi - họng Việt Nam; là đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1960, đại biểu Quốc
hội, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Chủ tịch đầu tiên của Tổng hội Y học Việt Nam, Phó
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Ông được Nhà nước
trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ.
TRƯỜNG CHINH (1907 - 1988): Nhà hoạt động chính trị, nhà
báo, nhà thơ; tên thật là Đặng Xuân Khu (bút danh Sóng
Hồng); quê ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh
Nam Định. Ông tham gia hoạt động cách mạng (từ năm
1925), gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (năm
1927); bị địch bắt giam cầm tại các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La
(1930 - 1936). Từ tháng 3-1937, ông được cử làm Xứ ủy
viên Xứ ủy lâm thời Bắc Kỳ1); Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Đông Dương (1941 - 1951); Tổng Bí thư Đảng Lao động
Việt Nam (1951 - 1956); là Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm
Chủ nhiệm2) Ủy ban Khoa học Nhà nước (năm 1958). Tại
Đại hội III (năm 1960), Đại hội IV (năm 1976) và Đại hội V
(năm 1982), ông được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, làm Ủy viên Bộ Chính trị.
Từ năm 1960 đến năm 1981, ông làm Chủ tịch Ủy ban

1), 2) Theo Trường Chinh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
tr.85, 447 (B.T).

457
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Thường vụ Quốc hội. Tháng 3-19821), ông được bầu làm


Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Từ tháng 7-1986 đến trước Đại hội VI
của Đảng, ông làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 12-1986, ông làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Ông còn đảm nhận rất nhiều chức vụ khác do
Đảng và Nhà nước giao phó. Trường Chinh là người lãnh
đạo xuất sắc, mẫu mực; ông đã góp phần rất quan trọng
vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa cách mạng đi đến thắng lợi.
Ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Sao Vàng và nhiều huân chương cao quý khác.
TÚ MỠ (1900 - 1976): Tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh tại Hà
Nội trong một gia đình làm nghề thủ công. Lúc nhỏ, ông học
chữ Hán, sau học quốc ngữ. Ông đậu bằng Thành chung;
làm thư ký cho Sở Tài chính Pháp ở Hà Nội. Từ năm 1926,
ông xuất hiện trên văn đàn như một cây bút trào phúng.
Năm 1932, tham gia nhóm Tự lực Văn đoàn, cộng tác với
báo Phong hóa, Ngày nay, nổi danh với tập thơ châm biếm
Dòng nước ngược. Từ năm 1947, ông chuyển hẳn sang
công tác tuyên truyền đánh địch bằng thơ ca. Hòa bình lập
lại ở miền Bắc, ông tập trung vào đề tài chống Mỹ - ngụy,
đấu tranh thống nhất nước nhà. Năm 1957, ông giữ chức
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

V
VALUY, GIĂNG ÊCHIÊN (Jean-Étienne Valluy) (1899 - 1970):
Tướng Pháp, phục vụ trong quân đội Pháp ở nhiều thuộc
địa. Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông
Dương (từ tháng 6-1946 đến tháng 2-1948); được phong

1) Theo Trường Chinh tiểu sử, Sđd, tr.583 (B.T).

458
TẬ P 4 : 1946 - 1950
Đại tướng (năm 1955), chỉ huy quân đội khối Bắc Đại Tây
Dương (NATO) ở Trung Âu (1956 - 1960).
VÕ LIÊM SƠN (1888 - 1949): Nhân sĩ yêu nước, quê huyện
Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1912, ông làm Tri huyện
Duy Xuyên (Quảng Nam), sau đó từ quan về dạy học.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), ông làm Chủ tịch Hội
mùa Đông binh sĩ. Năm 1948, ông là Chủ tịch Mặt trận
Liên Việt Khu IV.
VÕ NGUYÊN GIÁP (1911 - 2013): Quê ở xã Lộc Thủy, huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông tham gia phong trào yêu
nước từ rất sớm và gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng,
hoạt động công khai tại Hà Nội (1936 - 1939). Năm 1940,
sang Trung Quốc, gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau đó cùng
với Người trở về tham gia xây dựng căn cứ địa Cao - Bắc -
Lạng. Tháng 12-1944, ông được đồng chí Hồ Chí Minh giao
nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Hội
nghị toàn quốc của Đảng (năm 1945), ông được bổ sung
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), ông được
cử giữ nhiều trọng trách trong bộ máy nhà nước: Bộ
trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Quân sự Ủy viên Hội, được
phong quân hàm Đại tướng (năm 1948); Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam. Từ Đại hội II (năm 1951) đến Đại hội VI
(năm 1986)1), ông liên tục được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Làm Ủy viên Bộ Chính trị các khóa II,
III, IV; Bí thư Quân ủy Trung ương; đại biểu Quốc hội từ
khóa I đến khóa VII.

1) Theo báo Nhân Dân, ngày 6-10-2013 (B.T).

459
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của


Đảng và dân tộc, ông được tặng thưởng Huân chương Sao
Vàng và nhiều huân, huy chương cao quý khác1).
VŨ ĐÌNH TỤNG (1895 - 1973): Quê ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định, trí thức Công giáo yêu nước. Sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công (năm 1945), ông tham gia cách
mạng và được cử làm Giám đốc Nha Y tế Bắc Bộ; làm Bộ
trưởng Bộ Thương binh, cựu binh; Chủ tịch Hội Chữ thập
đỏ Việt Nam (năm 1958), Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa
bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Ủy ban liên lạc toàn
quốc những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu
hòa bình.

X
XANHTƠNY, GIĂNG (Jean Sainteny) (1907 - 1978): Con rể
Toàn quyền Đông Dương A. Xarô. Nhân viên Nhà băng
Đông Dương từ năm 1929 - 1931. Trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, phục vụ trong phong trào kháng chiến Pháp.
Đứng đầu phái đoàn quân sự Pháp trong lực lượng Đồng
minh ở Côn Minh (Trung Quốc), gọi tắt là M.M5. Đến Việt
Nam từ năm 1945 đến năm 1947. Trong thời gian này,
Gi. Xanhtơny nhiều lần tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ông là thành viên của Pháp tại Hội nghị Giơnevơ năm
1954. Sau năm 1954, Gi. Xanhtơny làm Tổng lãnh sự Pháp
đầu tiên tại Hà Nội. Ông là người tổ chức tiếp xúc mật giữa
Henry Kítxinhgiơ và đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ở Pari năm 1969.

1) Theo báo Nhân Dân, ngày 6-10-2013 (B.T).

460
TẬ P 4 : 1946 - 1950
XTALIN, IÔXÍP VÍCHXARIÔNÔVÍCH (Iosif Vissarionovich
Stalin) (1879 - 1953): Nhà hoạt động chính trị, nhà lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô. Năm 1898,
ông gia nhập Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga rồi trở
thành đảng viên Bônsêvích sau Đại hội lần thứ II của Đảng.
Thời kỳ chuẩn bị tiến hành Cách mạng Tháng Mười Nga,
ông làm Ủy viên Trung tâm quân sự cách mạng. Trong
thời kỳ bị nước ngoài vũ trang can thiệp và nội chiến,
làm Ủy viên Hội đồng Quân sự cách mạng. Năm 1922, làm
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
(B) Nga. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1941 - 1945),
làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng và làm Ủy viên nhân
dân Bộ Quốc phòng Liên Xô, Tổng Tư lệnh tối cao các lực
lượng vũ trang Liên Xô. Xtalin còn là tác giả của nhiều tác
phẩm lý luận. Ông được ghi nhận là người có những cống
hiến to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước
Liên Xô; đồng thời cũng bị phê phán về một số sai lầm và
tệ sùng bái cá nhân.
XUPHANUVÔNG (Souphanouvong) (1909 - 1995): Nhà hoạt
động chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ tịch nước
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Chủ tịch Mặt trận Lào xây
dựng đất nước (Neo Lào Xangxạt). Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Xuphanuvông đã giữ nhiều
trọng trách: Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào, Chủ tịch
Mặt trận Lào yêu nước (Neo Lào Hắcxạt). Ông là đại biểu các
lực lượng cách mạng Lào tham gia các Chính phủ liên hiệp
Lào lần thứ nhất (1957 - 1958), lần thứ hai (1962 - 1964)
và lần thứ ba (1974 - 1975). Tháng 2-1972, ông được bầu
vào Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Theo tinh

461
HỒ CHÍ MINH B I Ê N NIÊN TIỂU SỬ

thần Hội nghị Viêng Chăn (tháng 3-1973), Xuphanuvông


được cử làm Chủ tịch Hội đồng Quốc gia chính trị liên hiệp.
Ngày 2-12-1975, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
thành lập, Hoàng thân Xuphanuvông được bầu làm Chủ
tịch nước và Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao. Từ năm
1991, ông giữ chức Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào cho đến khi qua đời. Ông là
người có nhiều cống hiến to lớn vào việc xây dựng và củng
cố quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam và được Đảng và Nhà
nước ta trao tặng Huân chương Sao Vàng.

462
MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . V

NĂM 1946 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1

NĂM 1947 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8

NĂM 1948 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 116

NĂM 1949 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 215

NĂM 1950 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 315

CHÚ THÍCH VÀ BẢN CHỈ DẪN TÊN NGƯỜI . . . . . . . . . . . . . . 407

Chú thích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 408

Bản chỉ dẫn tên người . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 421

463

You might also like