Professional Documents
Culture Documents
Lịch Sử Giáo Hội Qua 100 Trình Thuật - Josef Holzer
Lịch Sử Giáo Hội Qua 100 Trình Thuật - Josef Holzer
LỜI NGỎ
Đã có rất nhiều tác giả và nhóm tác giả nghiên cứu và trình bày LỊCH SỬ GIÁO
HỘI một cách toàn diện, đầy đủ và phong phú, dưới nhiều góc độ khác nhau: khi
làm tài liệu tham chiếu cho Khoa Giáo Hội học (Ecclesiology); khi song hành với
Lịch Sử Kitô giáo (Christianisme) nhưng chuyên sâu hơn về nghiên cứu sự kiện, thời
đại, mang tính bác học, trong khi lịch sử Kitô giáo thiên về suy tư, củng cố nhận
thức về nguồn gốc,ý nghĩa và “sứ mệnh” của Giáo Hội và của Kitô hữu, đặc biệt là
tín hữu Công giáo. Josef Holzer thì khác: ông chọn lựa trong kho tàng đồ sộ những
biến cố, những sự kiện, những sự việc trong dòng lịch sử 2000 năm của Giáo Hội,
những cái mà ông xét là có thể tóm gọn một khuynh hướng, một trào lưu, một nội
dung liên quan hoặc có thể móc nối, liên kết với những sự kiện, biến cố tương tự, rồi
ông “kể” cho người đọc nghe và suy nghĩ. Mỗi câu chuyện không chỉ như một trình
thuật, mà như một cuốn phim sống động, dẫn người đọc như nghe nhìn (thính thị)
được những gì trước đây ta tưởng là phức tạp, lộn xộn và chẳng mấy gắn kết nhau,
do khác nhau về thời gian và không gian. Tóm tại, Ông có công trong việc xâu chuỗi
các sự kiện, biến cố, con người, để qua 100 TRÌNH THUẬT, giúp người đọc bình
thường nhất cũng nắm được những gì xảy ra trong và với Giáo Hội qua mọi thời đại,
qua 2000 năm, VỀ MỘT VẤN ĐỀ đã từng (và ngày nay cũng như trong tương lai)
ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của Giáo Hội xét về mặt “hữu hình” (cơ cấu) lẫn
vô hình (Nhiệm Thể Chúa Kitô và là Bí Tích) và hoàn toàn có khả năng tái diễn. Xét
về bố cục, chắc chắn đây là một cách làm mới mẻ, có thể không được một số người
đồng tình với tên gọi “long trọng” Lịch sử Giáo Hội, mà cho rằng đúng hơn nó
giống như tập hợp những chuyện tản mạn trong lịch sử 2000 năm của Giáo Hội. Nếu
khắt khe, thì cũng có thể đưa ra những nhận định như thế, nhưng khi gấp sách lại,
chúng ta mới nhận ra rằng kiến thức đầy những lỗ hổng lớn về Giáo Hội, về lịch sử
Giáo Hội trước nay đã được lấp đầy, nhiều vùng tối đã được soi sáng và nhiều thắc
mắc đã tìm được đáp số. Vì thế, BTGH quyết định chọn cuốn sách này và giới thiệu
đến bạn đọc. BTGH kính mong nhận được những hồi âm của người đọc về cuốn sách
này và/hoặc về từng chương.
MỤC LỤC
Để tiện theo dõi, xin xem MỤC LỤC dưới đây:
TRÌNH THUẬT 1
Giáo Hội là "đoàn dân lữ hành“, luôn trên đường, không bao giờ toàn hảo. Trong quá
trình lịch sử 2000 năm, Giáo Hội đã nhiều lần đi xa đường Tin Mừng, nhưng dù vậy
Giáo hội cũng đã đạt đích của mình. Và dù có bị bách hại một cách tàn bạo hay bằng
những lệnh án thâm độc, Giáo Hội cũng đã không vì thế mà bị tiêu vong. Đặc biệt,
Giáo Hội đã không suy tàn vì bị truy nã. Lịch sử Giáo Hội thời sơ khai đã minh
chứng điều đó.
Điều người Rôma cho là cứng đầu, đối với Kitô hữu lại là trung thành với Chúa họ.
Vì vậy mà Galenus, một y sĩ đồng thời với các tù nhân Xili đã viết: “Uốn thẳng lại
một cái đà cong còn dễ hơn là bắt người theo Kitô thay đổi ý kiến“. Tertullian, một
luật gia ở Karthago, theo Kitô giáo từ năm 190, cũng đã viết: “Khi một Kitô hữu bị
tố cáo, họ vui mừng. Khi bị xử, họ không biện minh. Khi bị chất vấn, họ tự thú. Khi
bị kết án, họ cám ơn“.
TRÌNH THUẬT 4 - 5
TRÌNH THUẬT 4
Công đồng Chung đầu tiên được triệu tập ngày 20-5-325 tại Nixêa thuộc Tiểu Á. Các
giám mục nghị phụ họp trong điện mùa hè của hoàng đế. Eusebius ghi lại: “Khi tất
cả các bậc vị vọng an toạ, nghị trường lặng im chờ hoàng đế. Khi hiệu báo hoàng đế
tới nổi lên, tất cả đứng dậy. Và Hoàng đế như một thiên thần từ trời xuống bước vào
giữa hội trường, áo bào đỏ sáng rực lên với những kim tuyến vàng và đá quý. Mọi
con mắt ngỡ ngàng đổ dồn vào ngài. Nhưng ngài dịu dàng và thân thiện nhìn họ rồi
nói với một giọng nhẹ nhàng: Thưa các bạn, mong muốn cao cả nhất của trẫm là
được chung vui với hội nghị của các bạn. Đối với trẫm, tranh chấp nội bộ trong
Giáo hội Chúa nguy hiểm hơn mọi trận chiến ghê gớm ngoài đời khác, nó làm đau
khổ hơn bất cứ một trận chiến nào khác ngoài đời...“.
Không phải Giáo hoàng, nhưng chính Hoàng đế chưa rửa tội đã đích thân gửi giấy
mời các giám mục về họp công đồng chung thứ nhất này. Đồng thời, ông cũng ra
lệnh cho tất cả những ai về họp được quyền sử dụng thư hoàng đế và họ được đối xử
như những công chức cao cấp. Khoảng 220 giám mục đáp lời mời về dự. Từ phương
Đông có giám mục của Syri, Kiliki, Phơniki, Lybi và Thêbai. Giám mục Thêôđoret
cho biết, trong số họ, có Paulus ở Nêôxêsarêat với hai bàn tay liệt, vì ngón bị cắt
bằng sắt nung đỏ trong thời bách hại. Cả Giám mục Paphnutius cũng tới, ngài bị đâm
hư một mắt trong “thời bất hợp pháp”. Và cả nhiều người khác nữa “mang dấu
thương tích của Chúa trên thân thể mình”. Từ phương Tây chỉ có 5 giám mục tới,
một từ Tây Ban Nha. Giáo hoàng Silvestê vì tuổi già không tới được, cử hai linh mục
Vitus và Vinzenz đại diện.
TRÌNH THUẬT 5
Giám mục Thêôđoret viết trong cuốn “Lịch sử các thầy tu”: Simeon, với biệt hiệu
“Người trên cột gỗ”, là một người khắp Đế quốc Rôma đều biết, bởi vì những điều
ông làm “vượt khỏi khả năng tự nhiên con người”. Chẳng hạn, vì số người tìm tới
nghe và xem ông càng ngày càng đông và họ cố sờ vào áo choàng để “được ơn
lành”, ông nghĩ tới việc dựng cọc cao đứng trên đó. Ban đầu cọc cao độ sáu sải (sải
= 60 - 80 cm), sau lên 12 rồi tới 20 sải. Cuối cùng đạt tới 36 sải. Cao như thế “ là vì
ông muốn thoát khỏi những ham muốn trần tục để bay bổng lên trời”.
Để đứng vững, ông buộc vào cọc một thanh gỗ để tựa rồi lấy dây cuốn mình vào đó
và ở riết trên đó suốt 40 ngày. Tuy nhiên, “để được ơn trời nhiều hơn nữa”, ông
quyết định ở thêm 40 ngày nữa, mà “chẳng ăn uống gì cả, chỉ sống nhờ lòng cậy tin
và ơn Chúa". Thêôđoret kết bài tường thuật: “Ngày đêm Simeon đứng trên đó, mọi
người nhìn ngắm: một trò ảo thuật mới và lạ lùng cho thế giới”.
TRÌNH THUẬT 6
TRÌNH THUẬT 7
Đang ghé chơi nhà bạn ở gần Milano, Antịnh nghe vọng từ vườn nhà bên cạnh tiếng
một em nhỏ: “Cầm lấy! Đọc đi!” Ông giáo sư Aurelius Antịnh cố nặn óc xem đó là
trò chơi gì. Nghĩ mãi chẳng ra. Bỗng ông chợt nhớ tới chuyện nhà ẩn tu Antôn.
Athanasius thuật lại rằng Antôn chỉ vì một câu trong Sách Thánh mà biến cải cuộc
đời. Antịnh liền bước tới cầm cuốn Sách Thánh, giở ra gặp ngay đoạn của Tông đồ
Phaolô: “Chúng ta đừng sống trong ăn uống say sưa và cãi vã, nhưng anh em hãy
tới với Đức Giêsu Kitô và đừng để xác thịt làm cớ cho những ham muốn của mình!”
“Tôi chẳng muốn và cũng chẳng cần đọc tiếp nữa”, Antịnh sau này viết lại như thế
trong tập “Confessiones” của mình, bởi vì “vừa đọc xong câu đó, hồn tôi bỗng sáng
lên và vững tin, và mọi bóng đêm ngờ vực tan biến”. Sách Thánh, bao lâu nay ông
chẳng coi ra gì vì ngôn ngữ “tầm thường” của nó, cuối cùng đã thấm vào tâm ông.
Con đường trở về thật dài, khó khăn và đầy lạc lối. Antịnh lúc đó 32 tuổi, đang thả
mình giữa một cuộc sống thật sôi nổi. Ngày nay, ông là một trong những vị thánh lớn
nhất của Giáo Hội. Ông là người ảnh hưởng quyết định trên thần học và Kitô giáo
trong những thế kỷ tới.
TRÌNH THUẬT 8 - 9
TRÌNH THUẬT 8
AMBROSIÔ GIẢI THOÁT GIÁO HỘI KHỎI "VÒNG TAY" CỦA HOÀNG ĐẾ
Antịnh vào đạo, rõ ràng là nhờ lời cầu nguyện liên lỉ của người mẹ. Nhưng, bên cạnh
đó, ảnh hưởng của giám mục Ambrôsiô cũng là một yếu tố quyết định.
GIÁM MỤC "NGOÀI Ý MUỐN"
Ambrôsiô sinh năm 339 ở thành phố Trier (Đức), con của vị công chức hành chính
cao cấp nhất của Đế quốc Rôma tại Gallien. Mẹ ông là một tín hữu Kitô. Sau khi
chồng mất, bà đưa con về sống tại Rôma. Năm 32 tuổi, Ambrôsiô làm Toàn quyền
miền bắc Ý, trấn tại Milano. Là người trách nhiệm phần an ninh công cộng, ông tới
Nhà thờ Chính toà để can thiệp vụ tranh chấp giữa tín hữu Kitô và người theo phe
Arius trong việc bầu giám mục mới, thay giám mục theo phái Arius là Auxentius vừa
mới mất. Bên nào cũng muốn chọn người của mình lên. Ambrôsiô lúc đó còn là một
dự tòng nên không có quyền bầu. Nhưng bỗng nhiên có tiếng hô giữa đám hội nghị:
“Phải bầu Ambrôsiô làm giám mục!” Ông ngỡ ngàng phản đối việc “đột kích” đó,
nhưng rồi cả hội nghị tán thành lời đề nghị. Ambrôsiô nhận phép rửa, sau một tuần,
lên làm giám mục.
THUẬT TRÌNH 9
“Đêm khuya văng vẳng lời ca; giữa dòng nước bạc bên thành (Co)zensa. Lòng sông
rộn rã tiếng ca; xoáy vào con nước chan hoà vang vang...“. Mấy câu thơ của August
ở Platen tả cảnh chôn Alarich, vua người Tây Goten, trong dòng sông Busento gần
thành Cozensa. Các sử gia cho rằng đám táng lãng mạn kia không thể chỉ là một sự
tưởng tượng.
Năm 410, khi mang quân tới đánh Ý, Alarich, lúc đó khoảng 40 tuổi, bị đau “... và
bất ngờ mất khi tóc hung còn chấm vai“. Để có thể chôn vua cùng những vật quý
ngay dưới lòng sông, quân Tây Goten đã tạm thời chuyển dòng nước. Họ chôn vua
với nguyên áo bào và gươm trên tay. Sau đó, cho nước chảy trở lại và giết luôn
những nô lệ đào mộ, để không ai về sau nhận ra chỗ mai táng. Để “không một tên Rô
ma hám của nào đụng tới mộ ngài”, như lời cắt nghĩa của thi sĩ August.
QUAN GERMAN (ĐỨC) TỚI TRƯỚC CỬA RÔMA
Những chuyển dịch sinh cư lớn của các bộ lạc tây và đông German, mà chúng ta gọi
là cuộc đại di cư của các dân tộc, là hậu quả của cuộc tấn công của dân Hung nô vào
năm 375. Dân này đến từ các thảo nguyên Á châu và thoạt tiên đánh thắng dân Đông
Goten. Dân Tây Goten dời cư để tránh hiểm hoạ, được phép của Hoàng đế Rôma về
định cư ở miền hạ lưu sông Donau (Danuble). Chẳng lâu sau, họ chống lại sự cai trị
của Đế quốc Rôma, đánh tan đạo quân Rôma ở trận gần Adrianopel (378) và tiến vào
Hylạp. Rồi kéo tới Ý qua ngã Illyrien thuộc Đế quốc Phía Đông. Năm 408, họ xuất
hiện lần đầu tiên trước cửa Rôma và vây thành. Alarich đi vòng qua Ravenna, thủ đô
khá kiên cố thời đó, để tới vây chặt 12 cửa thành Rôma, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế từ
ngoài. Dân số Rôma lúc đó độ một triệu; chẳng bao lâu xác người chết đói nằm rải
rác khắp đường phố. Dân ngoại giáo Rôma cố dùng bùa phép để lái sấm sét từ trời
đánh xuống các doanh trại quân German, nhưng không thành công.
Alarich cho bắn tin vào thành là ông chỉ thôi vây hãm sau khi nhận đủ số vàng, bạc
và tất cả các nô lệ người German. Alarich nhận được 2.500 ký vàng, 15.000 ký bạc,
4.000 tấm lụa, 3.000 tấm da đã nhuộm và 1.500 ký hạt tiêu.
TRÌNH THUẬT 10 - 11
TRÌNH THUẬT 10
Trong tỉnh Noricum thuộc Đế quốc Rôma, ngày nay là vùng bắc Áo, từ lâu nay xuất
hiện thầy tu tên là Sêvêrin. Ông tới từ phương đông, nhưng không ai biết rõ từ đâu.
Ông ra tay giúp đỡ dân chúng trong vùng gặp khó khăn vì những đợt di cư lớn.
Nhiều người tìm tới để được an ủi hoặc xin lời cầu nguyện. “Trong số những người
tới có cả Odovacar (Odoaker), một thanh niên cao lớn, nghèo xơ”, theo lời kể của
Eugippius, một người đương thời, “Anh ta vừa khom lưng cúi đầu để khỏi đụng trần
lều vừa nghe vị tu hành nói về tương lai sáng lạn của mình. Trước khi từ giã, thầy tu
nói với anh: ‘Hãy tới Ý, đi đi! Nay anh còn phải ăn bận rách rưới, nhưng mai đây
anh sẽ giàu có’”. Chuyện xảy ra tại Favianis, có lẽ ở Mautern gần Krems (Áo).
Odoaker là con một sứ thần của Attila trong cung hoàng đế Theodosius II. Sau khi
cha mất, chàng Odoaker 36 tuổi sống đời lang thang cùng với đồng bào German ở
Noricum, cho đến khi nghe Sêvêrin tiên báo về cuộc đổi đời của mình. Odoaker đi Ý,
vào phục vụ trong cung Đế quốc Rôma phía Tây và chẳng bao lâu được cử làm chỉ
huy trưởng đạo quân hậu cần người Đức ở Ý, và đạo quân này đã tôn anh lên làm
vua. Năm 476, Odoaker hất Romulus, hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Rôma phía
Tây, khỏi ngai và đuổi về hưu. Romulus, cũng trùng tên với vị sáng lập thành Rôma,
chỉ được cái “điển trai” và quá trẻ nên được người ta gọi là “Augustulus” (Ông
hoàng con).
Trong khi Đế quốc Rôma phía Đông còn cầm cự được cho tới năm 1453 (sụp đổ khi
bị người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Konstantinôp), Đế quốc phía Tây bị anh người
Đức Odoaker đảo chính không tốn một giọt máu vào thế kỷ 5.
Vì Odoaker chấp nhận ưu quyền của Đế quốc phía Đông nên ông trị vì ở Ý với tư
cách chính thức là “Chỉ huy trưởng quân đội hoàng đế ở Ý”. Ông cũng nhận mình
chỉ là “vua” mà thôi. Nhớ lại công ơn tiên tri trước đây, Odoaker liền viết cho
Sêvêrin một lá thư, trong đó “cho phép” vị tu sĩ muốn bất cứ gì thì cứ nói cho ông
biết.
Với trí thông minh, Odoaker đã nỗ lực xoa dịu thảm cảnh bần cùng của dân Ý và đưa
Đế quốc phía Tây vào một bước đường mới.
Việc sụp đổ của Đế quốc phía Tây đặt ra cho chúng ta câu hỏi, vì đâu một đế quốc
hoàn vũ lại có thể dễ dàng tiêu vong như thế.
TRÌNH THUẬT 11
Năm 529, hoàng đế Justinianô I đóng cửa trường triết học cuối cùng của dân ngoại ở
Athen (Hylạp). Cùng năm đó, một người đàn ông trạc 50 tuổi lên núi Cassinus phía
nam thành Rôma lập tu viện. Và tu viện này sẽ đưa tinh thần Kitô giáo trải khắp Âu
châu. Người đó là Biển Đức đất Nursia. Trên núi còn có một đền cổ thờ thần Apollo.
Biển Đức cho đập tượng, đốt đền rồi xây lên một Nhà thờ kính Thánh Martin thành
Tours. Ông cho xây một nhà nguyện nhỏ kính Gioan ngay trên chỗ bàn thờ cũ và đặt
viên đá đầu tiên cho Tu viện Monte Cassino.
Rôma sa đoạ
Biển Đức, con một gia đình quý tộc rô ma miền quê, sinh khoảng năm 480 ở Nursia
thuộc Umbrien miền trung Ý và được gởi đi học ở Rôma. Rôma thời đó bắt đầu lặn
ngụp trong truỵ lạc.
Cuộc phân rẽ đầu tiên giữa Rôma và Byzanz, thoạt tiên chỉ kéo dài 35 năm, xảy ra
dưới thời Giáo hoàng Fêlixê II (483-492). Nỗ lực thống hợp của Giáo hoàng
Anastasiô II (496-498) đã tạo nên một chia rẽ nguy hiểm trong giáo triều, sau khi
ngài mất. Đa số trong giáo triều chọn Symmacô người Sardinien làm giáo hoàng và
phong chức tại Lateran. Một nhóm cảm tình với Byzanz lại chọn một vị Laurentiô
nào đó làm giáo hàong và tấn phong ở Thánh đường Maria Maggiore. Hai phe kéo
xuống đường tấn công nhau ác liệt, gây rối loạn cả thành. Hai giáo hoàng đành xin
quyết định của Theoderich và Hoàng đế đã chọn Symmacô. Hội đồng (Synode) ở
Rôma năm 499 đã hoan hô nhiệt liệt quyết định của Hoàng đế và đã ra một quyết
nghị đầu tiên cấm giáo dân không được ảnh hưởng lên việc bầu giáo hoàng. Cậu
Biển Đức, phần vì chẳng hiểu tại sao trong Giáo Hội lại có thể có chuyện như thế,
phần vì cuộc sống buông thả của đồng bạn làm cậu choáng váng, nên đã chạy trốn
khỏi Rôma. Một trăm năm trước đó Thánh Paulinô ở Nola cũng đã viết: Ai muốn vào
Nước Chúa, phải tránh Rôma.
TRÌNH THUẬT 13
VĂN HOÁ ĐỨC GIÁN TIẾP ẢNH HƯỞNG LÊN GIÁO HỘI
Thử ý Chúa
Ở miền nam Ý có cuộc cãi vã về đức tin giữa một linh mục Công giáo và một linh
mục thuộc phái Arius. Vì chẳng ai thuyết phục được ai nên cuối cùng linh mục Công
giáo đề nghị “thi nhúng tay vào nước sôi” để xem Chúa phán định ai thắng. Cuộc
tranh tài sẽ diễn ra ngày hôm sau. Ông Công giáo sợ thua, kín đáo lấy mỡ thoa vào
tay để tránh bị phỏng. Ông phái Arius biết được, “la toáng lên”. Trong thâm tâm,
ông này cũng sợ không dám nhúng tay vào nước sôi. Sử kể tiếp: Rồi một linh mục
Công giáo từ Ravenna tới, nhận đấu, và “may mắn thắng cuộc”.
Về Kunigunde, vợ hoàng đế Heinrich II, có câu chuyện như sau: Khi bị chồng cáo
buộc tội ngoại tình, bà liền chứng minh sự vô tội của mình bằng cách bước chân trần
qua mấy chiếc lưỡi cày nung đỏ. Lạ thay chân bà đã không hề hấn gì cả. Theo lối cá
cuộc thời đó, nếu bị phỏng, đương sự sẽ được bó vết thương bằng sáp đã được làm
phép. Nếu sau 3 ngày mà vết thương lành thì được coi là vô tội.
Người ta thường dùng lửa và nước để thử xem phụ nữ có giữ tiết hạnh không. Các bà
phải mang một mớ than hồng hay một miếng sắt nung đỏ hay phải bước chân trần
qua 9 lưỡi cày nung đỏ. Hoặc bị buộc tay trái với chân phải rồi thẩy xuống nước. Nếu
chìm là vô tội. Nếu nổi trên mặt nước là có tội, bởi vì nước thuần khiết “không muốn
nhận” bà. Thời diệt phù thuỷ, người ta hay dùng cách thử nước, vì người ta tin rằng
một phù thuỷ có quỷ trong người thì chẳng còn thân lượng. Một lối thử nữa bằng
nước sôi gọi là “nhặt nhẫn”. Người bị kết tội phải nhúng tay trần vào nồi nước đang
sôi để nhặt cái nhẫn dưới đáy nồi lên.
TRÌNH THUẬT 14
Bônifaxiô dùng búa đốn ngã cây sồi thờ thần sét ở Geismar. Đám dân Đức đứng xem
chung quanh hoảng hốt, nín thở chờ sét từ trời xuống đánh chết tay nhà tu phạm
thượng này. Nhưng họ thất vọng vì sét đã không tới. Một số đông trong đám dân Đức
đó đã chịu rửa tội, vì tin rằng như thế là Chúa đã ở về phe Kitô giáo. Bônifaxiô cho
dựng trên chỗ cây sồi cũ một thập giá. Ông dùng gỗ cây sồi làm một nhà nguyện gần
Fritzlar.
Bônifaxiô không phải là người đầu tiên giảng đạo nơi dân Đức. Trước đó, các tu sĩ
Ái Nhĩ Lan (Ireland) và Tô Cách Lan (Scotland) đã tới giảng trên vùng phía bắc dãy
Alpes này rồi. Điển hình trong số đó là tu sĩ Kolumban.
Grêgôriô sinh năm 540 từ một gia đình đại quý tộc ở Rôma và thuộc dòng trực tiếp
của Giáo hoàng Fêlixê III. Fêlixê III đã lập gia đình trước khi được phong phó tế.
Năm 32 tuổi, Grêgôriô trở thành tỉnh trưởng Rôma, công chức cao cấp nhất của
thành phố. Nhưng ông không lấy đó làm thoả mãn, vì tâm hồn cảm thấy trống vắng
và vẫn khao khát một cái gì đó. Sau khi bố mất, ông biến dinh đang ở thành một tu
viện Biển Đức “Tu viện Anrê” và trở thành một tu sĩ của dòng mình, năm 35 tuổi.
Ông thực hành một cuộc sống quá khắc khổ khiến bị liệt chân và không ăn chay nổi,
vì cứ bị bất tỉnh.
Nhưng cuộc sống tu viện không được lâu. Giáo hoàng Pêlagiô II, một người gốc
Goten, đã kéo ông ra triều, phong phó tế rồi giao cho cai quản một trong 7 địa phận
Rôma. Grêgôriô phẩm bình về chuyện này: “Chúng tôi trong thâm tâm muốn sống
cuộc đời tĩnh lặng nhưng lại bị kéo ra để chiếm đoạt lòng người”. Giáo hoàng sau đó
lại cử thầy làm khâm sứ tại cung hoàng đế Tibêrius II ở Konstantinôp. Vai trò làm
con thoi giữa Giáo hoàng với Hoàng đế quả không dễ dàng. Sau khi hết nhiệm vụ trở
về năm 585, Grêgôriô vào lại tu viện, nhưng tiếp tục làm cố vấn cho Giáo hoàng, cho
tới khi vị này bất chợt mất và dân cũng như giáo sĩ Rôma đồng thanh bầu thầy lên
làm Giáo hoàng kế vị. Grêgôriô ban đầu từ chối. Nhưng rồi chấp nhận sau khi hoàng
đế Mauritius, người được thầy rửa tội khi đang làm khâm sứ ở Konstantinôp, tuyên
bố hài lòng về cuộc bầu. Grêgôriô trở thành giáo hoàng trong một thời mà người
đương thời chỉ bằng lòng hoặc chỉ khen một người nào đó sau khi họ đã chết. Tình
cảnh Rôma lúc đó thật khó sống.
TRÌNH THUẬT 16
Chưa đầy 80 năm sau ngày Mô-ha-mét mất, người Ả-rập hồi giáo năm 711 từ Phi
châu qua ngã Gibraltar tiến vào Tây-ban-nha. Không đầy 4 năm chiến-đấu, họ làm
chủ gần hết Vương-quốc Tây-Goten (một phần đất ở Tây-ban-nha). Ý của họ là băng
qua Vương-quốc Franken tiến vào trung Âu bắt tay với cánh quân khác của họ từ
Kon-stan-ti-nôp tiến vào Âu châu. Âu châu ở vào thế gọng kìm. Cơ-nguy bị Islam
(Hồi giáo) nuốt trửng như trước đó họ đã nuốt trửng Đông-phương và Phi châu
không còn xa.
Năm 711 người Hồi giáo cất quân từ tảng đá ở eo biển Gibraltar, tảng đá ngày nay
mang tên là Tarik (dschebel al Tarik), tên của vị thủ-lĩnh của họ. Năm 720 họ chiếm
Narbonne thuộc Pháp và tiến tới Toulouse mà không gặp chống-cự lớn nào cả. Lúc
đó Chlodwig đã mất từ lâu. Những người nối ngôi không có khả-năng bảo-vệ
phương tây và thế-giới . Ngay cả chuyện trị nước, họ giao cho những quần-thần cao
cấp trong cung. Một trong những quần-thần uy-quyền này là Karl (tiếng pháp
Charles), sau này được gọi là "Martell" ("Búa"), bởi vì ông đã có công chận đứng
cuộc tiến công của người Islam và đã cứu được giáo-hội phương tây.
TRÌNH THUẬT 17
Đạo Islam, bằng các cuộc "thánh chiến" và trong một thời-gian ngắn đã nuốt trửng
gần trọn cả Giáo-hội phương đông và đẩy Giáo-hội phương tây tới bờ diệt-vong,
được khai-sinh bởi Mô-ha-mét. Mô-ha-mét cho hay ông đã được thượng-đế Allah
"mạc-khải" để lập đạo.
Sinh ở Mekka
Mô-ha-mét sinh khoảng năm 570 ở Mekka. Bố ông là một tiểu thương, mất trên một
chuyến đi buôn tới Medina sau ngày Mô-ha-mét sinh được hai tháng. Mekka là
trung-tâm kinh-tế của bán-đảo Ả-rập; nơi đây cũng có một khối sa-thạch lạ, từ nhiều
trăm năm nay đã trở thành một vật thiêng đối với người Ả-rập. Đó là một tảng đá
đen, được xây ghép vào góc phía đông của toà nhà hình khối Kaaba. Tục truyền xưa
kia đá trắng như tuyết, nhưng tội-lỗi loài người đã làm nó đen lại. Một huyền-thoại
cổ kể rằng Chúa đã trao nó cho ông A-dong khi ông này bị đuổi khỏi địa-đàng. Ngay
từ đầu, đá được dâng cho một thượng-đế mà thôi, nhưng về sau, vào thời Mô-ha-mét,
có tới 350 ảnh thần được treo lên đó. Từ khi còn niên-thiếu Mô-ha-mét đã tỏ ra rất
bực về chuyện lạm thần đó.
Cha mất, để lại gia-tài cho Mô-ha-mét gồm 5 con lạc-đà và một người tớ gái. Vài
năm sau mẹ cũng mất, Mô-ha-mét ở với ông; rồi ông chết, về sống với bác. 25 tuổi,
Mô-ha-mét vào giúp việc cho một bà goá lớn hơn mình 15 tuổi và đã cưới bà làm vợ.
Cậu Mô-ha-mét được kể là người "điển trai nhất" Mekka. Da cậu trắng hơn da mọi
người. Một đôi tài-liệu cũng nói cậu bị chứng động-kinh.
Nhận cưới bà chủ, Mô-ha-mét từ nay không còn lo-lắng về mặt kinh-tế. Vì vợ chánh
đã có tuổi, Mô-ha-mét sau này còn lấy thêm 13 cô vợ nữa. Luật thời đó cho phép đàn
ông muốn lấy bao nhiêu vợ tuỳ ý, miễn là có thể lo-lắng được cho họ. Vợ được coi
như một "vật sở-hữu" của chồng, muốn dứt lúc nào cũng được, với bất cứ lí-do nào,
chẳng hạn như ngáy to hoặc có tật nói sảng trong khi ngủ. Về sau, Mô-ha-mét ra luật
hạn chế mỗi ông chỉ tối-đa được cưới bốn bà, dĩ nhiên đầy-tớ gái thì không kể, muốn
bao nhiêu cũng được.
Qua tiếp-xúc buôn bán với người do-thái và ki-tô giáo, Mô-ha-mét chịu ảnh-hưởng
hai tôn-giáo này về sự hiện-diện một Chúa duy nhất mà người Ả-rập gọi là "Allah".
Vì vậy, câu tuyên-xưng đầu tiên của đạo ngài là: "Chẳng có Chúa nào ngoài Allah".
Chúa Allah của Mô-ha-mét được quan-niệm như một đấng tiền-định cho mỗi người
mọi sự từ đầu đến cuối. Vì không ai có thể thoát ra khỏi tiền-định ("Kismet") đó, nên
họ phải tùng-phục Chúa vô điều-kiện. Sự "tùng-phục" (= Islam) ý Chúa một cách
tuyệt-đối này được Mô-ha-mét dùng để đặt tên cho đạo mới của ngài.
Kinh Koran
Giao-tiếp với người do-thái và ki-tô giáo cũng đưa Mô-ha-mét tới nhận-thức phải có
một thứ Sách Thánh cho người Ả-rập. Người do-thái có Cựu-ước, ki-tô hữu có Tân-
ước, thì người Ả-rập có Koran.
Koran (= "đọc thuộc-lòng") không phải là một tập tín-lí, nhưng là sách ghi những
bổn-phận trong đời sống hàng ngày của một tín hữu islam phải chu-toàn. Như luật
Biển-đức trước đây chỉ cho dân Đức đường đi và mục-đích của cuộc sống, Koran
"cung-cấp sức mạnh tổ-chức ghê-gớm trong đời sống cho các dân-tộc bị Islam
chiếm" (G. Mensching). Koran được hình thành theo thời-gian. Mỗi lần Mô-ha-mét
được "mạc-khải", ông cho ghi lên một tờ giấy và công-bố. Sau khi ông mất, môn-đồ
gom lại và năm 650 đạo-chủ (Kalif) Othman chính-thức công-bố là một Sách thánh.
TRÌNH THUẬT 18 - 19
TRÌNH THUẬT 18
Phép rửa của Chlodwig (Clovis) quan-trọng cho việc ki-tô-hoá dân Franken (Pháp)
và phép rửa của Ethelbert quan-trọng cho dân Angel-sachsen (Anglo-Saxon) thế nào,
thì phép rửa của Widukind cũng quan-trọng như thế cho việc truyền đạo nơi người
Sachsen (Xắc-xông). Sử ghi việc rửa tội cho Widukind:
"Mấy người tò-mò nhận ra Widukind, khi ông đang luẩn-quẩn gần doanh-trại của
quân Franken bên kia bờ sông Elbe. Ông muốn xem người ki-tô thờ kính Chúa họ ra
sao. Lễ Giáng-sinh cận kề. Ông giả dạng làm người ăn-xin lẩn vào doanh-trại khi
trời vừa tảng-sáng, theo đám lính bước vào nhà thờ. Lễ-vật không phải là ngựa hay
bò, nhưng chỉ thấy Karl (đại-đế) và tuỳ-tùng quỳ gối trước bàn thờ để lãnh phép bí-
tích. Hương trầm xông nghi-ngút, tiếng hát của các linh-mục rộn-ràng buổi lễ thánh.
Widukind khoanh tay, lặng yên xúc-động. Ông tới quỳ rạp trước bàn thờ và nói với
những người dự lễ ngỡ-ngàng quây quanh: ‘Tôi là Widukind người Sachsen đây, hãy
rửa tội cho tôi để tôi cũng trở thành ki-tô hữu như các bạn !’ vua Karl liền ôm lấy
ông "giữa tiếng hoan-hô vang dậy doanh-trại Franken…"
TRÌNH THUẬT 19
"Anh em thân mến", giáo-chủ Lê-ô III ngày 23.12.800 bắt đầu lời thề vô tội của mình
bằng câu đó rồi nói tiếp trong xúc-động: "Anh em nghe đây đó có những người xấu
tố-giác tôi phạm trọng tội và họ tìm cách tiêu-diệt tôi. Để tìm hiểu những chuyện
này, lãnh-tụ và vua Karl trọng kính và đáng ca-ngợi đã đến cùng với các linh-mục
và các bậc vị-vọng của ngài. Tôi, Lê-ô, giám-mục Giáo-hội thánh Rô-ma, không để
cho ai xét xử hoặc áp-lực, nhưng hoàn-toàn tự-nguyện ra trước anh em và thề với
Chúa, đấng biết lương-tâm tôi, rằng tôi đã không tự mình hoặc ra lệnh cho ai phạm
những điều tố-cáo kia. Chúa là người chứng-giám cho tôi, chúng ta sẽ phải ra trước
toà phán-xét của Ngài và sẽ phải đứng trước mặt Ngài…"
TRÌNH THUẬT 20 - 21
TRÌNH THUẬT 20
“VINH DANH LUẬT CHÚA”. KARL LẬP ĐẠI QUỐC THỨ BA
Là một hoàng đế được Giáo hoàng xức dầu và là “Người bảo vệ Giáo Hội”, đại đế
Karl có vị trí quan trọng trong lịch sử Giáo Hội. Ông đã giúp Giáo Hội trải rộng ra
gần khắp Âu châu. Uy quyền và ảnh hưởng ông vươn tới đâu thì uy quyền và ảnh
hưởng giáo chủ và Giáo Hội ra tới đó. Cả hai quyện lẫn vào nhau. Đại quốc của ông
bao gồm toàn bộ đất Pháp và Đức cho đến gần hết Ý, chỉ trừ lại chút đất ở tận cùng
phiá nam nước này. Có thể đọ sức ngang ngửa với hai đế quốc thời đó là Đại quốc
Byzantin và Đại quốc Islam. Để bảo vệ đất đai, Karl lập ra những quận biên giới,
chẳng hạn như Quận Đông, sau này trở thành nước Áo, và Quận Tây Ban Nha, sau
khi đánh đuổi quân của Môhamét chạy sang bên kia dãy núi Pyrénee. Uy quyền của
Đại đế bao trùm cả xứ Boehmen, Hunggary cho tới bờ biển Dalmatin. Sẽ không có
hoàng đế trung cổ nào thống hợp được nhiều sắc dân và đất đai như đại đế Karl.
Đại đế mất
Einhard viết: “Gần cuối đời, khi gánh tuổi và bệnh đã nặng, ngài cho gọi con trai là
Ludwig tới, và sau khi đã có sự đồng ý của các vương công, long trọng công bố
trước các nhân vật quan trọng trong khắp Vương quốc Franken việc chuyển quyền
lại cho con. Ông cầm vương miện đội lên đầu con và xuống lệnh cho mọi người gọi
Ludwig là hoàng đế và Augustus. Sau khi hết lễ, ngài theo thói thường ra khu rừng
gần Aachen săn bắn, dù lúc đó tuổi đã cao. Ngài ở đó hết mùa thu và về lại Aachen
vào đầu tháng 11. Ngài muốn qua mùa đông tại đây. Nhưng vào tháng giêng, ngài bị
cảm nặng liệt gường. Ngài bỏ ăn vì vẫn thường nghĩ rằng nhịn ăn thì bệnh cảm sẽ
chóng khỏi hoặc ít ra sẽ giảm. Nhưng vì bệnh cảm, thêm vào đó đau hông và nhịn
đói, ngài uống rất ít, nên đã tắt thở sau 7 ngày đau, sau khi đã rước Thánh thể, vào
tuổi 72”. Đó là ngày 28-1-814.
TRÌNH THUẬT 21
Khi người Langobarden năm 753 kéo xuống vùng lãnh thổ do giáo chủ cai quản qua
sự uỷ quyền của hoàng đế đế quốc Rôma Phía Đông và vây hãm Rôma, Giáo hoàng
Stêphanô II, cũng như vị tiền nhiệm của ngài là Đại Giáo hoàng Grêgôriô 160 năm
về trước đã làm, kêu gọi dân cầu nguyện và chính ngài đi chân không dẫn đầu đoàn
rước vòng quanh khắp thành. Đồng thời ngài kêu gọi viện binh của Pippin (cha của
đại đế Karl sau này). Pippin đã được Giáo hoàng Xacaria, vị tiền nhiệm của Stêphanô
II, giúp nắm quyền cả Đại quốc Franken. Pippin sẽ có dịp trả ơn này.
“Quà tặng Pippin”, nguồn gốc của Quốc gia Giáo Hội
Giáo hoàng Stêphanô II thân chinh băng qua dãy Alpes đến Franken gặp vua Pippin
ở Ponthion. Pippin ra đón Giáo hoàng, quỳ rạp xuống đất. Đoạn ông cầm cương ngựa
của Giáo hoàng dắt đi một đoạn đường, một nghi lễ của triều đình phương Đông nói
lên sự quy phục. Tài liệu nước Franken không nói đến chuyện Pippin quỳ, mà viết
rằng Giáo hoàng đã rạp mình xuống chân Pippin van xin ông cứu giúp.
Pippin hứa tiếp cứu. Giáo hoàng liền xức dầu cho vua một lần nữa ở St. Denis và
tặng ông tước “Người bảo vệ Giáo Hội”. Sau khi trao đổi với các đại vương trong
vương quốc, Pippin trao cho Giáo hoàng một văn bản tặng đất. Tiếc thay văn bản này
đã sớm bị thất lạc.
Giữ lời, Pippin kéo quân tới Ý và đánh bại quân Langobarden. Ông tặng cho Giáo
hoàng phần đất chiếm được, theo như nội dung đã bàn ở Ponthion. Phần đất tặng
được gọi là “Tài sản (lãnh thổ) Thánh Phêrô”. Cùng với phần đất vốn có của Giáo
Hội, Giáo hoàng lập ra Quốc gia Giáo Hội.
Pippin đặt chìa khoá 6 thành chiếm được (kể cả Ravenna) và bản văn tặng đất trên
mộ Thánh Phêrô năm 756. Hoàng đế ở Konstantinôp phản đối, vì đất tặng trên lý
thuyết vẫn thuộc lãnh thổ của ông. Nhưng Pippin trả lời là “ông không vì một người
nào, cũng không vì hoàng đế (Konstantinôp) để tới đây chiến đấu, mà chỉ là vì lòng
sùng kính Thánh Phêrô, tới để xin ngài tha thứ tội đã phạm”. Chuyện tới đó đối với
Pippin kể như xong. Hơn nữa hoàng đế Phía Đông cũng đã chẳng làm gì để bảo vệ
các thành mình chống lại quân Langobarden.
Việc kết nghĩa giữa Giáo hoàng và vua Pippin xứ Franken, nghĩa là với một thế lực
ngoại quốc, và việc tôn ông này lên làm “Người bảo vệ Giáo Hội”, một tước mà lúc
đó chỉ dành cho hoàng đế Konstantinôp, nói lên cuộc chia tay dứt khoát từ nay giữa
Rôma và Konstantinôp. Vì thế, việc tặng phần đất vốn thuộc hoàng đế Phía Đông
cho Giáo hoàng cũng chẳng có gì là vô lý. Qua sự kiện tặng đất này, các giáo hoàng
về sau có lệ thuộc vào vua chúa Franken và sau này là các hoàng đế Đức, nhưng đối
lại các ngài được độc lập với Konstantinôp. Việc độc lập với phương Đông này quan
trọng hơn sự lệ thuộc phương Tây.
Kể từ năm 781, các chỉ dụ của giáo hoàng không còn phải ghi ngày tháng theo năm
trị vì của hoàng đế đế quốc Phương Đông nữa, nhưng là theo năm bắt đầu sứ vụ của
giáo hoàng.
TRÌNH THUẬT 22
Harald, vua Đan mạch, bị các lãnh chúa đuổi. Ông chạy xuống Đức cầu viện với
hoàng đế Ludwig (biệt danh “Người ngoan đạo”), con của đại đế Karl. Ludwig trị vì
Đại quốc Franken từ năm 814, đã thân mật đón tiếp Harald và khuyên ông vào đạo.
Năm 826, Harald và đoàn tuỳ tùng 400 người được rửa tội tại Mainz. Nhân cuộc rửa
tội này, Ludwig nghĩ đến việc truyền giáo cho các dân tộc phía bắc. Ông phái một vị
truyền giáo theo Harald về nước. Vị đó có lẽ tên là Ansgar (Oskar). Sử ghi lại: “Vị
đó được giới thiệu trước Hoàng đế và khi Hoàng đế hỏi có muốn đi theo Heriold
(Harald) để truyền giảng Phúc âm cho dân Đan mạch không, thì ông mạnh dạn trả
lời: thưa có”. Ansgar nhận lời, dù biết sứ mạng đó khá nguy hiểm.
Trong thế kỉ thứ 9 có 3 Vương quốc Slavơ quan trọng: Vương quốc Đại Maehren,
Nga và Bungari. Đại Maehren vào đạo đầu tiên. Nước này bao gồm Schlesien,
Boehmen, Maehren và một phần Hungari lợi kéo dài tới Nam Tư. Năm 902, Đại
Maehren bị quân Hung đánh tan, khi quân này từ phía đông tràn sang đuổi các bộ lạc
Slavơ tháo chạy lên phía bắc và xuống phía nam. Ngày nay người ta chia dân sla vơ
thành nhóm phía tây (Công giáo, gồm Tiệp, Slôvắc, Ba Lan), nhóm phía bắc (Chính
thống giáo, gồm Nga, Bạch Nga, Ukrain) và nhóm phía nam, gồm Krôát và Slôvêni
Công giáo, Sẹc và Bungari Chính thống giáo.
Cái mới tuyệt diệu trong phương pháp truyền đạo của Cyrill là đưa tiếng Slavơ vào
phụng vụ. Tài liệu trên cũng cho hay: “Giáo huấn Chúa càng phát triển thì con quỉ
ganh tị ngay từ đầu đã không chịu nổi chuyện tốt lành đó liền thấm vào da thịt con
người và bắt đầu nói xấu”. Điều này ám chỉ cơn bực dọc của các giám mục Franken.
Các giám mục này chống lại việc đưa tiếng Slavơ vào phụng vụ. Vì theo họ, chỉ có
ba thứ tiếng được dùng trong phụng vụ là Hêbrơ (Do Thái cổ), Hylạp và Latinh, ba
thứ chữ mà quân Dothái đã cho viết lên bảng gắn trên thập giá Chúa.
THUẬT 24 -25
TRÌNH THUẬT 24
Ngày 16-7-1054, “trong lúc các giáo sĩ chuẩn bị dâng lễ như thường lệ”, Hồng y
Humbert Silva Candida, sau khi đặt tờ vạ tuyệt thông lên bàn thờ Thánh đường Hagia
Sophia ở Konstantinôp, miệng vừa càu nhàu về sự ngang bướng của Kerullarius chân
vội vàng bước ra khỏi nguyện đường, cúi xuống “phủi buị dính chân”, rồi dõng dạc
nói: “Ước chi Chúa thấy mà phán xét chúng con!” Từ ngày đó, Giáo hội Chính
thống, cũng gọi là Giáo hội Hy Lạp, chia tay hẳn với Giáo hội Rôma. Michael
Kerullarius lúc đó là thượng phụ ở Konstantinôp, còn Humbert là bí thư và là sứ thần
của Giáo hoàng Lêô IX.
TRÌNH THUẬT 25
Lịch sử Giáo Hội cũng có mặt trái của nó. Giáo Hội trải qua giai đoạn đen tối nhất
trong thế kỷ thứ 10, cụ thể từ năm 882 tới 962. Người ta tưởng Giáo Hội đã không
trỗi dậy nổi sau những biến cố thời đó. Nhưng Giáo Hội đã đứng dậy được. Sự kiện
đó càng làm người ta tin vào nhiệm tích Giáo Hội. Vì nếu như Giáo Hội được xây
dựng thuần tuý trên một ý thức hệ của con người, thì nó chắc chắn đã sập rồi.
Theodora và Marozia
Theodora xuất thân từ một nhà quý tộc thế giá ở Rôma và là vợ của Theophylakt, bạo
chúa cầm quyền Rôma. Người ta kể bà là người giỏi, năng nổ và hám quyền. Nhờ bà
mà Sergiô III (904-911) và Gioan X (914-928) được chức giáo hoàng. Cả hai giáo
hoàng là người tình của bà và của con gái bà. Gioan X cũng bị giết như Gioan VIII
và Stêphanô VI trước đó, bởi Morozia, sau khi bị cô này tống vào ngục trong luỹ
Thiên thần (xây không xa điện Vatican) một thời gian dài. Trước đó, Gioan X còn
được thấy tận mắt Marozia giết anh mình. Gioan X cực lực chống lại các lãnh chúa
quyền quý Rôma nên đã bị thanh toán. Marozia chỉ hài lòng và đạt đích khi Gioan XI
lên ngai giáo hoàng, vì vị này là con mình. Gioan XI dù sao vẫn tốt hơn cha mẹ. Ngài
là một giáo hoàng tốt, cố gắng canh tân Giáo Hội. Một sử gia Pháp (Flodoard) viết về
triều đại Giáo hoàng này: “Không có bạo lực và hào quang”. Gioan XI giữ ghế giáo
hoàng từ năm 931 tới 935.
TRÌNH THUẬT 26 - 27
TRÌNH THUẬT 26
Đấy là một thời-kì xuống cấp trầm-trọng. Không những giáo-chủ bất xứng, mà cả
giám-mục, linh-mục, tu-sĩ cũng trong tình-trạng hư-đốn. Ám-sát, chém-giết không
còn là chuyện lạ trong giới giáo-sĩ. Trong một lá thư giáo-chủ A-le-xan-drô II kể
chuyện những linh-mục giết nhau và giết cả giám-mục, chuyện các viện-phụ tra-tấn
hoặc giết tu-sĩ mình.
TRÌNH THUẬT 27
Giáo-hội đã không chìm luôn trong thế-kỉ "đen", nhưng trái lại đã kinh qua một cuộc
hồi-sinh có một không hai. Sự "sống lại" này bắt nguồn từ một tu-viện vùng
Burgogne ở Pháp: Tu-viện Cluny.
Viện-phụ Odilo
cũng là một nhân-vật danh-tiếng của Cluny, sinh năm 962. Vì là con của một bá-
tước, Odilo có thể trở nên viện-phụ mà không cần phải tu-luyện khổ-hạnh trong một
tu-viện nào. Nhưng Majolus đã chinh-phục được ông vào dòng, làm linh-mục và
thành viện-phụ năm 994.
Odilo nhỏ người, khoẻ mạnh, bản-tính khắc-khổ. Nghiêm với mình nhưng rộng với
người. Ngài vẫn nói: "Nếu như tôi bị chửi, thì tôi muốn bị chửi vì cái khoan-dung
hơn là vì cái nghiêm-khắc của mình."
Odilo có quan-hệ khắp nơi. Ngài giữ liên-lạc với 6 giáo-chủ, 4 hoàng-đế, 5 vua và
nhiều ông hoàng, làm cố-vấn cho hoàng-đế Heinrich II và đã làm trung-gian cho
hoàng-đế Konrad II với vua Pháp Robert II. Một người đương thời viết về ngài:
"Odilo được yêu-mến bởi vua Pháp Norbert, bởi Adelheid, mẹ của các ông hoàng
nhà Ottonen, bởi hoàng-đế Đức Heinrich và cả hai ông hoàng Konrad và Heinrich,
bởi vua Hung-gia-lợi Stephan và vua Tây-ban-nha Sancho, dù hai người sau này
chưa thấy mặt ngài. Các giáo-chủ Sil-ve-stô, Biển-đức, Gio-an và Clê-men-tô kính-
trọng ngài như người anh."
Hoàng-đế Heinrich II vì kính-trọng đã tặng ngài một số tặng-vật riêng, nhưng ngài đã
bán đấu-giá để mua đồ ăn cho người nghèo trong nạn đói năm 1028-1033. Nạn đói
lúc đó thật trầm-trọng, đến nỗi nhiều người đã phải ăn thịt người, mặc dù luật-pháp
cấm với án tử. Odilo đích-thân đi từ thành này sang thành khác, làng này qua làng
khác để quyên của ăn cho dân đói.
Odilo cũng là người đã cho "tân trang toàn-bộ Cluny, trừ các tường nhà thờ". Ngài
hãnh-diện vì đã biến tu-viện bằng gỗ thành một công-trình bằng đá.
Viện-phụ Odilo chín lần băng núi Alpes sang Rô-ma, lần cuối cùng nhân lễ đăng-
quang hoàng-đế Heinrich III. Khi từ-giã Rô-ma, cụ già 84 tuổi bị té ngựa và trọng
thương. Nhưng sau bốn tháng lại lên đường. Chuyến về đi mất sáu tuần. Rồi lại tiếp
một vòng thăm các nhà con trực-thuộc nữa. Đêm giao-thừa năm 1048 ngài nằm chết
dưới đất trong bộ đồ mùa chay.
TRÌNH THUẬT 28
Năm 1076, xảy ra chuyện phải đến: cuộc xung đột công khai giữa giáo hoàng và
hoàng đế. Xung đột quả cần thiết, vì từ vai trò “che chở” thế quyền bây giờ muốn
“nắm” luôn Giáo Hội. Gánh thế quyền đã trở nên quá nặng khiến Giáo Hội phải tháo
gỡ, nếu không muốn mãi bị lệ thuộc.
Lại cấm hôn nhân giáo sĩ, mua bán chức tước và thế quyền bổ nhiệm giáo sĩ
Hai Thượng Hội đồng Mùa Chay năm 1075 và 1076 đã có quyết nghị dứt khoát đối
với việc linh mục lập gia đình, lệ mua bán chức tước và việc thế quyền bổ nhiệm
giáo sĩ. Tục mua bán và quyền định đặt của thế quyền bị thượng hội đồng kết án là
rối đạo. Quyết định Thượng Hội đồng về khoản độc thân gặp chống đối dữ dội của
giáo sĩ, đặc biệt nơi các giáo sĩ cấp thấp. Tổng Giám mục Giáo phận Mainz (Đức)
suýt mất mạng, khi buộc giáo sĩ mình bỏ vợ lẽ. Chỉ vài chục năm sau, chuyện giáo sĩ
có vợ có đào lại trở về tình trạng đương nhiên như trước đó.
Luật độc thân giúp giáo sĩ tránh gánh nặng và bận rộn gia đình. Cấm lệ mua bán
nhằm đưa giáo sĩ về với ơn gọi và khả năng thật sự của mình. Cấm việc nhúng tay
của thế quyền sẽ giúp giáo sĩ cấp cao thoát khỏi quyền lực các lãnh chúa và tránh
việc đời hoá giai tầng này. Đó là lần đầu tiên người ta nói đến nạn này. Cụ thể:
Thượng Hội đồng quyết nghị doạ tuyệt thông những ông vua nào chiếm giữ các giáo
phận và tu viện.
Hai kẻ mạnh miệng nhất đẩy Thượng Hội đồng đi tới những quyết định trên là Hồng
y Humbert và “thầy tu Hildebrand”, người về sau trở thành Giáo hoàng Grêgôriô VII.
TRÌNH THUẬT 29
Khi cơn gió canh tân Cluny thổi tới Rôma, giáo triều bừng lên sức sống mới, đặc biệt
với Giáo hoàng năng nổ Grêgôriô VII, người đã thẳng tay chống lại tục linh mục lập
gia đình, mua bán chức tước và quyền bổ nhiệm của thế quyền. Riêng điểm cuối sẽ
đụng lớn với thế quyền nước Đức - điều mà Giáo hoàng thật chẳng muốn. Vì vậy, lúc
đầu Grêgôriô VII muốn thương thảo với vua Đức để tìm ra một giải quyết ổn thoả
cho cả đôi bên. Chỉ khi Heinrich IV bất chấp và tự tay phong một linh mục lên làm
Tổng Giám mục Giáo phận Milano (Ý), lúc đó cuộc tranh chấp mới nổ ra.
Phân quyền
Cuộc tranh chấp quyền bính chỉ tạm kết thúc khi Giáo Hội và hoàng đế Heinrich V –
con Heinrich IV – ký “Thoả ước Worms” năm 1122, gồm các điểm sau: Giáo Hội
chọn giám mục, hoàng đế được phép dự lễ phong chức đó. Giáo Hội trao cho tân
giám mục mũ và gậy, tượng trưng cho quyền đạo, hoàng đế trao kiếm tượng trưng
cho quyền đời. Như vậy, từ nay trở đi hoàng đế hết vai trò “bảo hộ” đối với Giáo hội.
Heinrich IV sinh ngày 11-11-1050, được đưa lên ngai lúc 5 tuổi. Ông thực sự cai
quản Vương quốc lúc 15 tuổi. Uy quyền của ông đạt tới đỉnh cao sau khi Grêgôriô
VII mất. Nhưng kẻ thù mới của ông ở ngay trong gia đình ông. Thoạt tiên, ông bị con
trai đầu là Konrad chống; bị con thứ là Heinrich tống vào ngục để tiếm ngai vua.
Heinrich phải trốn, và cuối cùng bị con rể là thánh Leopold ở Áo truất chức. Heinrich
IV mất năm 56 tuổi. 5 năm dài xác ông bị bỏ mặc trong một nhà nguyện chưa làm
phép, vì khi chết ông còn đang mang vạ tuyệt thông. Chỉ sau khi bị công chúng làm
áp lực mạnh quá thì con ông, Heinrich V, mới xin giải vạ và đem chôn cất trọng thể
trong Nhà thờ Chính toà Speyer.
TRÌNH THUẬT 30 - 31
TRÌNH THUẬT 30
ÂU CHÂU CHIẾN ĐẤU VỚI QUÂN HUNG NÔ
Cuộc phong thánh đầu tiên
Thời đó, chỉ cần một uỷ ban giám mục cũng đủ để phong “thánh” cho Giám mục
Ulrich, mất năm 973 ở Augsburg (Đức). Nhưng vị giám mục kế nhiệm thứ ba sau
ngài muốn tên tuổi Ulrich được cả hoàn vũ tôn kính. Kỳ họp Hội đồng Latêran ở
Rôma năm 993, ông tới phúc trình tiểu sử và những biên bản phép lạ của cố Giám
mục. Giáo hoàng Gioan XV liền cho thảo một sắc chỉ chính thức công bố Ulrich là
thánh của Giáo hội Rôma. Đây là lần phong thánh mang tính cách “điển quy”
(canon) đầu tiên của Giáo hội Công giáo. Cho tới lúc đó, mỗi giáo phận, mỗi dòng tu
đều có quyền chọn “Thánh” cho mình. Việc phong thánh cho Ulrich lần này bởi tay
Giáo hoàng đã trở thành tiền lệ, vì từ đây về sau giáo triều Rôma giành lấy quyền xét
định và phong thánh. Các điều kiện phong thánh cũng được đưa ra từ đó và càng
ngày càng chặt chẽ hơn. Nhưng phải chờ tới sau này, thời Giáo hoàng Urbanô VIII,
mới có một quy chế phong thánh rõ ràng chi tiết vào năm 1634. Bởi lệ chọn thánh
trước thời Ulrich khá tự do nên có những vị ngày nay chúng ta thấy quả không xứng.
Về tiêu chuẩn chọn lựa, người ta đã ít quan tâm tới đức hạnh, nhưng chú trọng vào
công lao của họ đối với Giáo Hội. Trường hợp Ulrich cũng vậy. Ngài được dân tôn
kính vì đã có công bảo vệ thành Augsburg chống lại quân Hung nô, có công hàn gắn
những tàn phá của quân này đối với giáo phận, và tuy là giám mục và là một lãnh
chúa, ngài đã thi hành bổn phận tốt đẹp, không để đạo đời lẫn lộn.
Về lại Augsburg
Ulrich thuộc một gia đình quý tộc miền Schwaben, học ở tu viện nổi tiếng St. Gallen,
rồi về làm nhân viên tài chính và quản trị tài sản cho bác của mình là Giám mục
Augsburg. Khi người bác mất, Giáo hoàng giao giáo phận lại cho Ulrich trông coi,
nhưng chàng thanh niên 19 tuổi ấy không nhận, mà trái lại bỏ về miền quê sống với
mẹ goá. Chỉ sau khi người kế nhiệm bác mình mất, Ulrich mới chịu nhận chức Giám
mục Augsburg.
Không những vua Heinrich I, mà cả dân chúng lẫn giáo sĩ Augsburg đều muốn
Ulrich đứng đầu giáo phận. Là giám mục - lãnh chúa nhưng Ulrich đã không để mình
trở thành một cánh tay nối dài của vua. Khi được triệu về cung giúp vua, Ulrich khá
bối rối, vì phải bỏ dở việc xây dựng giáo phận mà từ 50 năm qua năm nào cũng bị
quân Hung nô cướp phá. Nhân khi một nhà thờ mới xây trong giáo phận bị sập, ông
liền cử người cháu thay thế mình ở cung vua rồi trở về lại Augsburg.
Trận Lechfeld
Với 3 đạo quân gồm 100.000 người, quân Hung nô tiến vào Bayern, rồi kéo tới
Augsburg. Họ mưu tính dùng Augsburg làm bàn đạp tiến hành những cuộc cướp phá
kế tiếp. Nhưng họ đã quên không nghĩ tới Ulrich, người vừa quyết định đích thân
đứng ra lãnh đạo việc bảo vệ thành. Ông cho xây tường quanh thành và mở những
cuộc rước cầu nguyện. Dân cầu nguyện ngày đêm. Khi các đợt tấn công của Hung nô
thất bại, Ulrich cho phản công. Ulrich đuổi quân Hung chạy dài về hướng đạo quân
của vua Otto đang tới. Vị giám mục 65 tuổi không đích thân lâm chiến, ông chỉ cưỡi
ngựa theo quân, tay không mang vũ khí, thân không mang áo giáp mà chỉ bận y phục
giám mục. Quân Đức chiến thắng hoàn toàn ở Lechfeld trong ngày lễ Thánh
Laurentiô (10-8-955). Giả như Ulrich không cầm cự được cho tới khi quân nhà vua
tới, thì quân Hung đã có thể sử dụng thành luỹ Augsburg để chống lại quân tiếp viện.
Sau trận Lechfeld, quân Hung không bao giờ bén mảng tới Đức nữa. Trong nửa thế
kỷ, nước Đức đã bị họ phá nát biết bao nhiêu là nhà thờ, tu viện và làng mạc. Sau 3
lần liên tiếp bại trận ở Hy Lạp, rợ Hung ngụ lại bình nguyên Hungari và trở thành
nông dân định cư. Từ một dân du mục, họ dần dần trở thành một dân tộc có văn hoá
của quốc gia Hungari ngày nay.
TRÌNH THUẬT 31
“Nôi cứu rỗi của chúng ta, quê hương của Thầy chúng ta, đất mẹ của Đạo đã bị dân
vô đạo chiếm đóng!” Giáo hoàng Urbanô II tuyên bố như thế ngày 25-11-1095 trước
cử toạ 14 tổng giám mục, 225 giám mục, 400 viện phụ và một đám đông vô số linh
mục, tu sĩ, giáo dân tề tựu ngoài trời Clermont ở Pháp. Urbanô II là người Pháp và
nguyên là Bề trên Tu viện Cluny.
TRÌNH THUẬT 32
Để chống lại đà đời hoá của đan viện Cluny, năm 1098, Robert ở Molesme lập ở
rừng Citeaux (Xitô) một đan viện khác thật nhặt nhiệm; đó là nhà mẹ của các nhà
Xitô về sau. Nhà này sẽ tiếp tục công cuộc cải cách của Cluny. Robert cho rằng các
tu sĩ chỉ cần mỗi ngày ngủ vài ba tiếng với áo quần đầy đủ là được. Với ông, ngủ là
chuyện “mất giờ”, ăn uống là một “nhơ nhuốc kín đáo”; nên cho các tu sĩ của ông
không những cần kiêng thịt, mà cả kiêng ăn cá, trứng và uống sữa. Dưới con mắt của
nhà Xitô, tu sĩ Cluny chỉ còn là “mù dắt mù”, một đám giả hình và chỉ thích nhậu.
Ai có lỗi?
Bernard vô cùng thất vọng về kết quả chuyến thánh chiến “của mình”: “Hình như
Chúa, vì tội lỗi chúng ta, đã quên lòng thương xót của Ngài và đã tới để phán xét thế
giới. Chúa cũng đã chẳng hề quan tâm tới danh Ngài, vì bọn ngoại đạo đã từng kêu:
Đâu là Chúa của người Kitô? Chúng ta hứa hẹn thành công, giờ nhận toàn đắng
cay”.
Trước thất bại chua cay đó, Bernard bị cáo buộc nặng nề nên tìm cách đổ lỗi cho
“Chúa phạt”. Ông cũng đổ lỗi cho các ông hoàng có mặt trong đoàn, cũng như cho sự
“cứng cổ” của chính dân thánh chiến, như dân Israel xưa khi được Môsê dẫn qua sa
mạc.
Ngày nay, ta lấy làm lạ khi thấy Bernard đổ lỗi cho người này người kia, mà đã
không kết án chính ngay việc thánh chiến. Vì Chúa đã nói trong Phúc Âm: “Hãy tra
gươm vào vỏ, vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Tiếc thay cũng chính vì sự hiểu lầm
câu này mà chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Bởi Bernard đã viết cho Giáo hoàng để động
viên ngài ra lệnh thánh chiến: “Chúa nói với Phêrô: Hãy tra gươm vào vỏ. Gươm
như vậy thuộc quyền Phêrô (cũng là quyền của Giáo hoàng). Con nghĩ, giờ là lúc
cần tuốt cả hai thanh gươm ra”.
TRÌNH THUẬT 33
Thánh chiến lần bốn: bị dân Venezia (Ý) chuyển mục tiêu
Cuộc viễn chinh lần thứ tư xảy ra 15 năm sau khi Giêrusalem bị người Thổ tái chiếm.
Giáo hoàng Innôxenxô III muốn tấn công Đất Thánh qua ngã đường thuỷ. Vì thế,
đoàn viễn chinh trước đó phải chiếm Aicập để tiệt đường tiếp viện. Năm 1202, thành
Venezia đứng ra chu cấp thuyền bè cho cuộc viễn chinh. Nhưng khi đoàn đang trên
biển, quân Venezia tự động chuyển mục tiêu. Họ bất chấp ý của Giáo hoàng và
những quyết định từ trước, chuyển hướng đoàn tàu về Konstantinôp, chiếm thành và
gây ra một cuộc tắm máu. Những ngày sau đó thành bị họ cướp phá “tàn bạo như
chưa từng thấy trong lịch sử trung cổ” (F.L. Ganshof). Một nhân chứng đương thời
viết: “Ngay cả quân hồi còn khoan nhượng hơn quân Kitô”. Chẳng còn chuyện
thánh chiến nữa, vì ở đây quân Kitô quay ra đánh nhau. Giáo hoàng Innoxenxô thất
kinh khi hay sự việc. Nhưng quân Venezia đã đạt mục tiêu của họ: biến Konstantinôp
thành một “Vương quốc hoàng đế Latinh”, chiếm được độc quyền ngoại thương ở
Đông phương và mua được các căn cứ ở quần đảo Joni, Kreta và dọc theo bờ biển
phía tây hướng đông. Hành động trên càng đào sâu hố ngăn cách giữa hai Giáo hội
Latinh và Hylạp. Nhưng mặc, quân Venezia chẳng màng gì đến điều đó.
Thánh chiến trẻ em: một “hí hoạ cười ra nước mắt”
Cũng nên nhắc cuộc viễn chinh của trẻ con. Sự kiện cho thấy thánh chiến đã biến
tính thành vô nghĩa cỡ nào. Năm 1212, em chăn chiên người pháp Stephan cho hay
được “thị kiến” phải đi giải phóng Đất Thánh. Bên Đức cũng có bé Nikolaus 10 tuổi
ở Koeln cho hay mình là sứ giả của Trời. Hàng đoàn hàng lũ trẻ em nghe theo tiếng
gọi của hai cậu này. Không hiểu sao cha mẹ các em cũng thoải mái để con cái ra đi
chu toàn sứ mệnh mà người lớn đã không làm được. Khoảng 10.000 em đi về cảng
Marseille, nơi người ta hứa sẽ chở sang Đất Thánh không mất tiền. Một phần đoàn
thuyền đã bị đắm. Những trẻ sống sót bị đưa sang Alexandria (Aicập) bán làm nô lệ.
Một hình ảnh thật buồn, một “hí hoạ” cười ra nước mắt cho lịch sử thánh chiến,
nhưng “cũng dễ hiểu đối với nếp nghĩ thời đó, kèm theo sự kiện lòng hăng say thánh
chiến đã chuyển sang các thành phần xã hội và các lứa tuổi khác”, nói theo sử gia
Waas.
TRÌNH THUẬT 34
CHẤM DỨT MỘT LẦM LẪN BI THẢM
Cuộc viễn chinh này thất bại, người ta lại nghĩ tới cuộc khác tiếp theo. Bảy năm sau
ngày thánh chiến trẻ con kết thúc thê thảm, lại có một đoàn tiến về Ai Cập và chiếm
luỹ Damiette trên cửa sông Nil. Nhưng đã không giữ Damiette được lâu, vì theo như
người ta nói, vua Friedrich II đã không tới. Ngày tấn phong vua, Friedrich hứa sẽ
tham gia đoàn quân, nhưng cuối cùng ông đã ở lại. Chỉ tới năm 1227, ông mới thực
hiện lời hứa, bởi trong lễ tấn phong hoàng đế, ông đã chấp nhận điều kiện nếu thất
hứa lần nữa thì bị tuyệt thông.
TRÌNH THUẬT 35
Phong trào thánh chiến không đạt mục tiêu chính trị và tôn giáo, nhưng nó đã chặn
được bước tiến của người Thổ vào Âu châu lùi lại hàng thế kỷ và mang lại ảnh
hưởng lớn cho nền kinh tế và văn hoá Âu châu. Ngoại thương Âu châu có được một
thị trường mới, khoa học đạt được những kiến thức quý và nghệ thuật cũng được
giàu thêm. Về mặt tôn giáo, thánh chiến là cơ hội hình thành các dòng hiệp sĩ.
Cũng như các vua Đức trong vụ “tranh chấp năng quyền”, William (với biệt danh
“Kẻ chiếm đoạt”) ở Anh với tư cách là vua đã thu tóm các giáo phận thành thuộc địa
của mình. Con ông, William II, còn bắt các giáo phận nộp tiền mới được phong chức.
Các chức vụ trong Giáo Hội trở thành mua bán và nhiều chỗ không được bổ nhiệm.
Thánh Anselm ở Canterbury cực lực chống lại, và cuối cùng vua Henri I đã phải
chấp nhận từ bỏ quyền phong chức trong Giáo Hội. Môn đồ của thánh nhân gọi
Anselm là “người dễ thương nhất thời đó và trên khắp thế giới”. Về chuyện thánh
chiến, quan điểm của Anselm là nên đối thoại với người Hồi và cố gắng bằng mọi
cách tránh đổ máu. Là nhà thần học, ngài chủ trương làm sao cho đức tin Kitô giáo
được thẩm thấu một cách dễ hiểu, vì vậy được người đời coi như là kẻ mở đường cho
kinh viện. Nhưng lối “chứng minh có Thiên chúa” của ngài ngày nay xem ra quả có
vấn đề. Anselm mất năm 1109 khi đang làm Tổng Giám mục Canterbury.
Sau một thời gian quan hệ đạo đời tốt đẹp, năm 1154, Henri II, cha của vua Richard
Loewenherz, lên ngôi lúc 21 tuổi. Henri II chủ trương kiểm soát Giáo Hội, và ông hi
vọng rằng Thomas Becket sẽ giúp ông trong việc đó. Với Henri II, nước Anh có một
vị vua người Pháp, không nói được chút tiếng anh nào cả.
Điềm xấu
Vì thái độ đó Thomas Becket bị mang ra xử trước toà ở Northampton với một cáo
trạng không đâu. Ông chống lại và trốn sang Pháp, tới Sens gặp Giáo hoàng
Alêxandrô III. Alêxandrô không đồng ý các điều khoản trong đại hội Clarendon,
nhưng đồng thời cho hay trong 16 điều có thể tạm chấp nhận được 7 điều, cho dù các
điều đó trái với giáo luật. Sau đó là những thương thảo khó khăn giữa vua Henri,
Giáo hoàng Alêxandrô và Thomas Becket. Các nhượng bộ của Giáo hoàng đã không
đưa tới một thoả hiệp nền tảng nào. Nhưng khi Giáo hoàng uỷ cho Thomas Becket
quyền ra vạ tuyệt thông cho vua và lệnh cấm cử hành phụng vụ cho cả nước, thì
Henri hứa rút lại các khoản Clarendon và trả lại tài sản cho Giáo Hội. Nghe thế,
Thomas Becket quyết định về lại giáo phận, sau 6 năm cách xa, dù biết rằng tương
lai nhiều chông gai. Ông viết cho vua: “Tôi trở về với lệnh cho phép của vua, có lẽ
để mà chết cho Giáo hội Anh được sống… Xin Chúa chúc lành cho ngài và con cái
ngài!”
Khi cập bờ Anh quốc, Thomas Becket được dân chúng nồng nhiệt đón rước về
Canterbury. Tuy nhiên ông biết kẻ thù sẽ không để yên và vua sẽ tìm cách biêu xấu
và triệt hạ mình. Trong bài giảng lễ Giáng Sinh năm 1170, ông xa gần nói về điều đó,
khi vừa khóc vừa cho hay ngày cứu rỗi của ông đã gần kề. Thật vậy, trước đó ông đã
nghe câu chuyện giữa Tổng Giám mục Giáo phận York với vua vào chiều tối hôm
qua. Khi Tổng Giám mục tâm sự với vua: “Bao lâu Thomas Becket còn sống thì đất
nước chưa yên và vua sẽ không thấy ngày sáng sủa”, thì vua giận đáp: “Thằng cha
được ta nuôi ăn lại giơ chân đạp lên ta”. Rồi quay sang quần thần: “Này những tên
hèn nhát ta đã nuôi và đã đạt tới danh vọng trong vương quốc ta, không tạo uy danh
cho ta thì chớ, mà còn để cho một tay linh mục mị dân làm nhục ta”. Vua trách thế
có ý gượm xem có ai sẵn sàng hành động cho mình không.
Cơn giận thực sự nổ ra khi Thomas Becket đòi các giám mục bị tuyệt thông (vì đã ký
vào văn bản Clarendon) phải thề lại trước Giáo hoàng lời hứa vâng lời, sau đó mới
được giải vạ. Những kẻ vốn ghét Thomas Becket hiểu những phát biểu tiêu cực của
vua như là một lối bật đèn xanh và họ đã thanh toán ông.
Kinh hoàng
Xảy ra ngày 29-12-1170. Bốn hiệp sĩ gốc Normandie xuất hiện đột ngột trước Toà
Tổng Giám mục Canterbury và đòi vào. Nhưng Thomas Becket cự: “Đe doạ của các
anh vô ích, ngay cả khi mọi lưỡi gươm nước Anh chỉa vào doạ cắt đầu tôi, thì chúng
cũng không làm tôi sợ mà làm trái luật Chúa công chính và hết vâng lời Giáo hoàng
là chủ chăn của tôi”.
Đám mưu sát sợ, rút đi, rồi trở lại với nhiều đồng bọn hơn. Bạn bè lúc đó đã đưa
Thomas Becket vào nhà thờ chính toà, vì họ tin rằng bọn kia không dám tiến vào
cung thánh. Khi họ định khoá chặn cửa nhà thờ thì Tổng Giám mục nói với họ:
“Chúng ta tới đây để chịu đau khổ chứ không phải để chiến đấu, và chúng ta sẽ
chiến thắng kẻ thù bằng đau khổ chứ không bằng chiến đấu”.
Nhờ cửa mở, bọn mưu sát đã vào được vào thánh đường. Ba tên trong bọn chém lên
đầu Tổng Giám mục, máu tuôn xối xả và ông gục xuống. Tên thứ tư đập nát sọ người
hấp hối. Trên đường tẩu thoát, chúng còn giết thêm một bé trai đang khóc trước vị
Tổng Giám mục bị ám sát.
Hình ảnh con thuyền giữa sóng gió ba đào quả đúng cho Giáo Hội. Hết khó khăn này
tới khó khăn khác suốt dòng lịch sử 2000 năm. Sau thánh chiến, tới một đe doạ mới:
lạc giáo.
Tín đồ Kathar
Lạc giáo quan trọng nhất thời trung cổ là phái Kathar (tiếng Hylạp Kathar có nghĩa là
“tinh khiết”). Giáo thuyết này được thương nhân và dân hành hương Đất Thánh
mang từ Đông phương về Âu châu. Đạo xuất hiện trước hết ở Koeln (Đức) năm 1143
rồi lan nhanh sang bắc Ý, nam Pháp, Tây Ban Nha và Anh. Vì tín đồ đạo này có căn
cứ ở thành phố Albi, miền nam Pháp, nên họ cũng được gọi là phái Albi.
Tín đồ Albi bận áo choàng đen, dấu chỉ để tang cho thế giới tội lỗi mà họ đang sống
trong đó. Họ đội mũ Đông phương, dấu vết nói lên nguồn gốc phương Đông của đạo.
Tín đồ Albi không để râu, nhưng tóc dài chấm vai.
Khi xuất hiện lần đầu ở Âu châu, người ta ngạc nhiên về lối sống nghèo và quá khắc
kỷ của họ. Những ai vốn bực mình vì sự giàu sang của Giáo Hội đều có cảm tình với
nhóm “tín đồ tốt lành” này.
TRÌNH THUẬT 38
Trên một chuyến du hành qua miền nam Pháp, Giám mục Diego và một thanh niên
tháp tùng vào trọ trong một lữ quán ở Toulouse, chủ quán là một tín đồ Albi. Thanh
niên đó có tên Đaminh. Đaminh đã nghe nhiều về tín đồ phái này nhưng chưa có dịp
tiếp xúc. Vì thế anh muốn nhân dịp này trực tiếp nói chuyện với họ. Sau một đêm
thức trắng chuyện trò, người chủ quán bằng lòng trở về lại với Giáo Hội. Đaminh tin
thành công này là do ơn của Chúa, nó nói lên khả năng đối thoại với người Kathar và
sự vô lí của cuộc chiến chống họ vừa nổ ra. Vấn đề là phải đối thoại trong chân thành
và khiêm tốn. Các sứ thần Giáo hoàng cũng đã thử nói chuyện với phái này nhưng
không thành, vì thái độ kiêu kì của các đại diện giáo triều.
Đa minh muốn đi theo con đường mới này: ngồi chung bàn nói chuyện với họ trong
bình đẳng và tương kính. Vì thực ra không hẳn chỉ tín đồ Kathar coi thế giới này là
của quỉ ma. Mà người “có đạo” nhiều khi cũng mang ý nghĩ đó, khi nhìn quanh thấy
toàn là tai ương, nghèo đói, cơ cực của kẻ bần hàn, khiến nhiều lúc họ không khỏi
nghi ngờ tình yêu và chương trình cứu rỗi của Chúa Kitô…
Trong lúc tín hữu Kitô và kathar đang say sưa chém nhau “trước cửa”, thì anh linh
mục trẻ ngồi chuyện trò với người chủ trong lữ quán bẩn thỉu. Một thời khắc quả là
lịch sử, vì cuộc gặp gỡ này đã khiến Đaminh về sau lập một dòng riêng cho mục tiêu
hoán cải con người bằng đối thoại.
TRÌNH THUẬT 39
PHONG TRÀO KHÓ NGHÈO MỚI LÀM NẢY SINH GIÁO PHÁI MỚI
Các giáo phái thời trung cổ thoạt tiên là những phản kháng của giáo dân chống lại
một Giáo Hội đang trên đỉnh cao quyền lực. Giáo hoàng Innôxenxô III thời đó quả là
một ông vua trên các vua trần thế. Giáo Hội không những quyền uy mà giàu sang
nữa, xa cách hoàn toàn với đám dân thường. Vì thế mà đòi hỏi đầu tiên của các giáo
phái là Giáo Hội phải trở lại cái nghèo của Giáo Hội ban đầu. Ai dám mạnh miệng hô
lên điều đó, tức thì dân chúng đoàn lũ theo ngay. Cũng thành công như phái Kathar,
Giáo phái Valdès đã từ Lyon nước Pháp lan nhanh ra Tây Ban Nha, bắc Ý, Flandres
và Đức. Phái này cũng chóng trở thành một phong trào quần chúng mạnh như chưa
từng thấy. Có lẽ một phần cũng nhờ sự thay đổi tương quan xã hội thời đó. Trong thế
kỉ 13, dân số Âu châu lần đầu tiên vượt mức 30 triệu. Trước thế kỉ 12, chỉ có Ý là có
thành phố, giờ ở Đức và Pháp cũng xuất hiện vài cái. Sự xuất hiện thành phố đẩy lùi
dần tương quan phong kiến và tạo nên một văn hoá thị dân mới. Ông hoàng bây giờ
không còn làm việc với chư hầu, nhưng là với “dân”. Lần đầu tiên mở ra một thứ
“đấu tranh giai cấp” (Hertling), trong đó không thiếu các phong trào “xã hội chủ
nghĩa” núp dưới áo giáo phái. Lãnh tụ của các phái này không phải là những nhà thần
học. Vadès là một thí dụ.
TRÌNH THUẬT 40
Năm 1210, Phanxicô tới trước Giáo hoàng Innôxenxô III để xin phép giảng, cũng
như trước đó 30 năm Pierre Valdès đã làm. Giáo hoàng ngần ngại khá lâu. Phanxicô
hiểu. Là vì gương Valdès hẳn còn đó.
Cái khó nghèo và nhiệt vọng rao giảng Lời Chúa của Phanxicô và mười hai anh em
theo anh có khác chăng nhiệt vọng và khó nghèo của Valdès? Phải chăng lại anh mù
dắt dân mù? Có sợ rằng ngày nào đó lại biến thành lạc giáo chăng?
Bổ túc những thiếu sót
Khi vị Giáo hoàng quyền thế nhất trong lịch sử Giáo Hội và anh ăn xin ở Assisi giáp
mặt nhau, không ai mang thành kiến gì nhau cả. Có sự đả thông trong cuộc đối thoại.
Không phải Giáo hoàng muốn chống lại một phong trào khó nghèo hay cản trở việc
canh tân Giáo Hội. Vì chính ngài đã triệu tập Công đồng cải cách ở Lateran.
Phanxicô không chống giáo quyền hoặc Giáo hoàng. Anh cũng không dị ứng với
giáo sĩ như tín đồ Valdès, cho dù ngay cả tầng giáo sĩ cấp thấp thời đó cũng khoác
vào người tấm áo trưởng giả thật khó coi. Thái độ tích cực của anh đối với giáo phẩm
thể hiện qua lời nhắn nhủ anh em: “Nếu anh em là con cái của hoà bình, anh em phải
chiếm được lòng của cả giáo dân lẫn giáo sĩ. Điều đó Chúa muốn hơn là mình chỉ
chiếm dân mà chọc giận giáo sĩ. Hãy bỏ qua những lỗi lầm và bổ túc những thiếu sót
của họ. Và khi làm, hãy làm trong khiêm nhượng”.
Giáo quyền cũng không chống Phanxicô. Cụ thể là họ đã đáp ứng yêu cầu cử cho
Phanxicô một hồng y bảo trợ. Nhờ vậy, dòng của Phanxicô đã luôn giữ được đường
hướng của giáo quyền. Chính Phanxicô cũng không bao giờ có ý định xa rời Giáo
Hội.
Bị cha từ bỏ
Khi đã rõ về đường mình đi, Phanxicô tặng y phục thương gia của mình cho một hiệp
sĩ nghèo và đổi áo choàng cho một người ăn xin. Thomas ở Celano (mất 1260) viết
trong cuốn sách nói về đời Phanxicô: “Chuyện đó làm cha anh không hài lòng và ông
kiện con ông với giám mục giáo phận. Ông quy Phanxicô tội vứt tiền qua cửa sổ, tội
lấy tiền của ông để xây nhà thờ. Trước mặt mọi người, Phanxicô liền cởi áo quần
đang mặc, quỳ xuống nói: ‘Này là lúc tôi có thể cầu nguyện kinh Lạy Cha một cách
đúng đắn, bởi tôi chẳng còn cha nào ngoài người Cha trên trời’”.
Nhà thờ mà Thomas ở Celano đề cập là nhà nguyện San Damiano cách Assisi một
cây số rưỡi. Phanxicô đã bí mật dùng tiền của cha để cho làm lại nhà nguyện, vì anh
bảo rằng đã nghe được lệnh của Chúa: “Phanxicô, hãy đi và xây cho Ta một nguyện
đường”. San Damiano về sau là điểm đầu tiên của dòng nữ thánh Clara (Klarissen),
còn gọi là dòng hai Phanxicô.
TRÌNH THUẬT 41
Năm 1210, khi Phanxicô đứng trước Giáo hoàng Innôxenxô III trình bày về lý tưởng
khó nghèo của dòng, Giáo hoàng tỏ ra ngờ vực. Và ngài đã có lý. Mười năm sau, từ
cuộc hành hương Đất Thánh về, Phanxicô ngỡ ngàng đứng trước một học viện lộng
lẫy do các bạn xây ở Bologna. Anh yêu cầu dọn đi tức khắc. Nhưng vì Hồng y bảo
trợ nhất quyết đòi giữ, cuối cùng Phanxicô đã phải thuận, và chính anh cử thánh
Antôn ở Padua làm giáo sư cho Học viện của dòng.
Mất vì bệnh
Sống đơn độc trên núi La Verna, ngày 14-9-1224, Phanxicô được Chúa trao ấn năm
dấu đanh ở tay, chân và cạnh sườn. Thêm vào đó, anh bị đau mắt, chứng bệnh mang
từ Đất Thánh về khiến anh gần như mù. Gan, lá lách và bao tử cũng đau. Một bạn
dòng thấy anh đau đớn, muốn xin Chúa cất bớt cho anh thì bị mắng: “Anh ơi, nếu
như tôi không biết lòng khiêm cung của anh, thì tôi đã cắt đứt mọi liên hệ cộng đoàn
với anh rồi, vì anh đã dám chê trách những điều Chúa gởi đến cho tôi”.
Hai năm sau, khi biết mình không còn sống được bao lâu, Phanxicô xin chuyển về
Portiunkula gần Assisi. Ở đó, bên cạnh dăm ba tu sĩ, anh nhận các bí tích và mất
ngày 3-10-1226, trong khi miệng đang ngâm nga Thánh vịnh.
Dòng ba
Dòng ba Phanxicô là một biến cố chính trị xã hội có ý nghĩa lớn, bởi thời đó chưa có
luật xã hội cũng như chưa có một cơ chế thiện nguyện nào ở tầm quốc gia. Dòng
gồm những giáo dân hoạt động ngoài các bức tường tu viện, tự khép mình vào cuộc
sống nhiệm nhặt, cầu nguyện và công tác bác ái cho người nghèo và tật bệnh. Trong
quá trình lịch sử, dòng đón nhận sự gia nhập của nhiều khuôn mặt lớn như Elisabeth
đất Thueringen, thi sĩ nổi danh người Ý Dante Alighieri, hoạ sĩ Giotto và vua Pháp
thánh Louis.
TRÌNH THUẬT 42
Năm 1226, một năm trước khi Phanxicô mất, Tổng Giám mục Giáo phận Koeln là
Engelbert bị người cháu chặn trấn lột khi đang cưỡi ngựa băng qua một cánh rừng.
Một đồng đảng của anh chém vào đầu Giám mục, anh khác chặt đứt cánh tay, một
anh khác lụi gươm vào bụng, và rồi tất cả cùng đâm vào thân thể vị Giám mục đang
nằm thoi thóp. Xác trần trụi của ông sau đó được người ta tìm thấy, bỏ trên chiếc xe
vừa chở phân, mang về.
Đúng một năm sau, tìm ra thủ phạm. Đương sự hối hận, muốn chuộc tội bằng cách
xin lý hình lần lượt chặt chân tay mình. Anh nhận 16 nhát búa, không kêu la. Rồi lý
hình buộc anh vào bánh xe. Cho đến chết, miệng anh không ngừng cầu nguyện. Đó là
một trong muôn vàn thí dụ về con người thời Trung Cổ: rất tàn bạo đối với kẻ khác,
mà cũng tàn bạo đối với chính mình khi phải chuộc tội.
Một thí dụ đạo đức điển hình của thời Trung Cổ là phong trào đánh tội. Phong trào
này nổi lên năm 1260 ở Perugia tại Ý rồi lan lên Đức, Áo, Ba Lan và Boehmen và trở
thành truyền thống trong dân cho đến thế kỷ 18.
TRÌNH THUẬT 43
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI CỦA TRUNG CỔ
Năm 1198, Innôxenxô III nhận chức Giáo hoàng, lúc mới 37 tuổi. Quá trẻ, nên anh
ca sĩ Walther đã phải buột miệng: “Trời ơi, Giáo hoàng trẻ quá! Chúa ơi, xin thương
lấy con cái hoàn vũ của Ngài!”
Anh ca sĩ đã lầm. Bởi Innôxenxô III là một trong những Giáo hoàng tên tuổi nhất
trong lịch sử Giáo Hội. Dưới thời ngài, uy tín Giáo Hội đối với thế giới đạt tới đỉnh
cao. Innôxenxô III bản chất là một lãnh tụ và nhà lãnh đạo thiên tài. Ý hướng ban đầu
của ngài chỉ là làm sao để tách được thần quyền ra khỏi thế quyền. Nhưng rồi tiến
thêm một bước nữa bắt thế quyền quy phục thần quyền, với phương châm: “Như mặt
trăng nhận ánh sáng từ mặt trời, uy quyền của vua chúa cũng xuất phát từ Giáo
hoàng”. Theo ngài, vua phải phục tùng Giáo hoàng, vì Giáo hoàng là người trách
nhiệm cuối cùng trước mặt Chúa về chuyện thiên hạ. Vì vậy, Innôxenxô III can thiệp
luôn vào chuyện chính trị hằng ngày của vua chúa.
Ngày 1-11-1215, ngài triệu tập Công đồng Lateran IV. Một sự kiện quan trọng. Công
đồng lớn nhất thời Trung Cổ này có 1.200 người tham dự, trong số đó có 404 giám
mục từ 80 giáo phận và hơn 800 viện phụ và bề trên dòng. Hoàng đế Friedrich II và
hoàng đế của Konstantinôp, các vua của Pháp, Hung, Giêrusalem, Cyprus và Anh
đều gửi đại biểu tới. Sự kiện có sự tham dự của 17 giám mục Ireland, 4 Scotland, 5
Ba Lan, 11 Hung và cả giám mục từ Livland và Estland cho thấy uy quyền Giáo
hoàng đã bao trùm hoàn vũ.
Công đồng có 3 cuộc họp khoáng đại và chỉ kéo dài trong vòng tháng 11. Lo ăn ở
một lúc cho từng ấy nghị phụ và bế mạc công đồng gọn gàng như thế đã là điểm son
nói lên tài tổ chức đặc biệt của Giáo hoàng và giáo triều.
Biết mình không còn sống lâu nữa, Giáo hoàng Innôxenxô III khai mạc Công đồng
bằng câu của Đức Giêsu: “Ta ước ao ăn mừng lễ Vượt qua này với anh em, trước khi
khổ nạn tới”. Ngày 16-7, ngài mất, lúc 55 tuổi.
Chủ đề Công đồng là việc công bố cuộc thánh chiến lần thứ năm và kết án lạc giáo
Kathar và Valdès. Công đồng cũng bàn tới các vấn đề liên quan tới các bí tích, Thánh
Thể, linh mục và phụng vụ. Thư mời họp có viết như sau: Diệt truỵ lạc, vun nhân
đức, trừ lợi dụng, làm mới thói tốt, trấn áp lạc giáo.
TRÌNH THUẬT 44
Thời Trung Cổ mới bắt đầu có đại học và chương trình nghiên cứu có hệ thống. Đó
là thêm một bằng chứng chống lại quan điểm coi Trung Cổ chỉ toàn màu đen. Tư duy
Trung Cổ hầu như chỉ khởi phát từ Giáo Hội, nên không lạ gì khoa học thời đó đa
phần xoay quanh vấn đề đức tin, chẳng hạn như về câu hỏi: Đức tin và lý trí có đi đôi
với nhau không, đức tin có thể giải thích bằng lý trí được không?
Cho tới lúc đó tín hữu Kitô mặc nhiên chấp nhận tín điều của Giáo Hội, không nghĩ
suy. Qua các cuộc thánh chiến, dân phương Tây tiếp xúc và so sánh với nhiều dân
tộc, văn hoá, tôn giáo khác, nên bắt đầu mới đặt vấn đề. Học giả Ảrập Averoes (Ibn
Ruschd) đóng vai rất quan trọng trong việc giới thiệu các sách vở của Aristôt cho
phương Tây. Aristôt (mất 322 trước công nguyên) là một triết gia ngoại giáo và là đại
diện cho phái lý trí, vì ông không bị ràng buộc bởi các tín điều Kitô giáo. Averoes
bác bỏ quan điểm Chúa tạo dựng vũ trụ và linh hồn bất tử. Tư tưởng của Aristôt đã
làm sinh hoa kết quả nền triết và thần học Trung Cổ. Nhưng chủ trương của Averoes
thì trái lại bị Giáo Hội cực lực phủ nhận dưới mọi hình thức. Dù vậy chủ trương của
ông vẫn tồn tại mãi cho tới thời mới.
TRÌNH THUẬT 45
CÁC NHÀ THẦN HỌC XÂY NỀN CHO KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Mong ước lớn của các nhà thần học giữa thời Trung Cổ không chỉ là diễn dịch kinh
sách, nhưng đồng thời bắc một nhịp cầu giữa mạc khải Thiên Chúa và khả năng nhận
thức của con người. Việc “khám phá” ra trí năng của con người như là một phương
tiện nhận thức hợp pháp – bên cạnh các mạc khải Thiên Chúa – dẫn con người tới
việc nghiên cứu thiên nhiên một cách khoa học, nghĩa là dẫn tới việc đặt nền tảng
cho các khoa học tự nhiên.
TRÌNH THUẬT 46
Đã hai năm Giáo Hội không có Giáo hoàng. Năm 1294, nhà ẩn tu đạo đức Peter ở
Murrone được bầu lên ghế Giáo hoàng, hiệu là Xêlestinô V, đóng dinh ở Napoli.
Nhưng 5 tháng sau, ngài từ chức, vì nhận ra rằng chỉ có lòng đạo không thì chưa đủ
để điều hành một Giáo Hội trần thế. Và thời của ngài cũng là lúc tình cảm quốc gia
dân tộc trổi dậy, không nước nào còn muốn quy phục Giáo hoàng nữa. Người ta bảo
Xêlestinô V đạo đức như "thiên thần", nhưng hoàn toàn không có khả năng làm Giáo
hoàng. Không hơn không kém, ngài chỉ là một quả banh của các thế lực.
TRÌNH THUẬT 47
Kế nhiệm Bônifaxiô là Bênêđictô XI. Sau khi Bênêđictô XI mất, xảy ra một trong
những cuộc bầu cử Giáo hoàng khó khăn nhất trong lịch sử Giáo Hội. Sau 8 tháng ở
ghế Giáo hoàng, Bênêđictô XI mất ở Perunia, một thành phố miền trung nước Ý. Và
theo thông lệ thời đó, người kế vị sẽ được bầu ở nơi vị tiền nhiệm mất. Cuộc mật
nghị (các hồng y họp để bầu Giáo hoàng) ngày 17-7-1304 mang tầm quan trọng lớn,
vì nó mở màn cho bi kịch “lưu đày Avignon”.
TRÌNH THUẬT 48 - 49
TRÌNH THUẬT 48
MỤC TIÊU CỦA HỌ: KIỂM SOÁT HOÀN TOÀN GIÁO HỘI
William Ockham (1285-1347) là một người Anh và là tu sĩ dòng Phanxicô. Ông là
một trợ phó tế và là người mở đường cho chủ nghĩa quốc gia chuyên chế. Vì đưa ra
thuyết lạ, ông bị Viện trưởng Đại học Oxford, nơi ông giảng dạy, cáo tội rối đạo.
Năm 1324, William được triệu về Avignon để trả lời trước Giáo hoàng về thuyết của
mình. Hai năm sau, một uỷ ban gồm 6 nhà thần học kết án 51 trong số 56 luận chứng
của ông là sai lạc. Nhưng Giáo hoàng không tuyên án công khai, mà chỉ cấm ông
không được rời Avignon. Năm 1328, ông cùng với Michael ở Cesena, Tổng quyền
Dòng Phanxicô, trốn khỏi thành. Michael bị quản thúc ở Avignon vì chống lại Giáo
hoàng trong vụ tranh luận về lý tưởng khó nghèo của dòng Phanxicô. Gioan XXII
liền ra vạ cho cả hai. William tới trốn trong cung của Ludwig. Tục truyền khi tới với
Ludwig, ông đã thưa với vị này: “Hoàng đế bảo vệ tôi bằng kiếm, tôi sẽ bảo vệ lại
ngài bằng bút!” William và Marsilus là hai nhân vật có ảnh hưởng nhất đối với
Ludwig.
Marsilius Padua sinh năm 1275, học triết và y khoa ngay tại sinh quán Padua. Năm
1312, ông đậu bằng giáo sư (Magister) rồi lên làm Viện trưởng Đại học Paris. Tại
đây, ông bí mật viết tài liệu đả kích “Kẻ bảo vệ hoà bình” (Defensor pacis). Khi tên
mình bị lộ, ông trốn về Muenchen với vua Ludwig IV (1326). Bị Gioan XXII tuyệt
thông năm 1327.
Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Marsilius tranh đấu ít cho sự tách biệt thần quyền với
thế quyền, nhưng chủ yếu cho một Giáo hội quốc gia tự trị với sự ưu quyền của quốc
gia trên Giáo Hội và mục tiêu cuối cùng là thế quyền kiểm soát hoàn toàn Giáo Hội.
Trong “Defensor pacis”, ông đả kích ưu quyền của Giáo hoàng, bởi vì theo ông,
Phêrô đã chưa bao giờ đặt chân tới Rôma và ngai Giáo hoàng chỉ là một kết quả của
quá trình lịch sử. Marsilius dạy rằng, quyền tối cao trong Giáo Hội nằm ở công đồng
chung do hoàng đế triệu tập. Giáo hoàng chỉ là người thi hành quyết nghị công đồng.
VUA MỚI
Vào thời đó, xảy ra cảnh trong nhiều giáo phận và tu viện Đức có hai giám mục hoặc
hai viện phụ chống nhau, người theo vua kẻ theo Giáo hoàng. Không còn biết ai đúng
ai sai. Để chấm dứt tình trạng, Clêmentô VI yêu cầu các ông hoàng chọn một vua
mới. Yêu cầu của Giáo hoàng đã được thực hiện sau khi mọi người, ngay cả những
người gần gũi Ludwig nhất, đã dần bỏ ông. Vua mới, bầu năm 1346, là Karl IV đất
Boehmen thuộc nhà Luxemburg. Ludwig mất năm sau đó, nhân chuyến đi săn gấu
gần Muenchen. Karl IV được một sứ thần của Giáo hoàng Innôxenxô VI đội mũ đế
năm 1355. Năm sau, trong đại hội Vương quốc tại Metz hoàng đế Karl IV long trọng
đưa vào luật: kể từ nay chỉ có 7 ông hoàng nước Đức có quyền bầu vua. Đó là 3
Tổng Giám mục Giáo phận Koeln, Mainz, Trier và 4 ông hoàng: Vua Boehmen,
Dinh bá tước vùng Rhein, Quận công Sachsen Wittenberg và Bá tước Brandenburg.
Không ai đá động gì tới quyền Giáo hoàng trong lĩnh vực này.
TRÌNH THUẬT 49
Người đầu tiên nghĩ tới chuyện trở về Rôma là Urbanô V, Giáo hoàng từ năm 1362
tại Avignon. Ngài nguyên là một viện phụ Biển Đức và là người khá nhất trong các
vị ở Avignon. Cả ngài cũng được Petrarca và nữ thánh Brigitta ở Thuỵ Điển hối thúc
trở về. Thánh Brigitta nhân Năm Thánh 1350 đã tới định cư tại Rôma. Tuy nhiên,
hoàng đế Karl IV là người ảnh hưởng nhất trong việc khuyên nhủ Giáo hoàng trở về.
Ngày 23-5-1365 ông đích thân tới thăm Giáo hoàng tại Avignon và hứa sẽ cho lính
bảo vệ ngài trên đường về. Ngày 16-10-1367, Urbanô V về thăm Rôma hoang tàn,
chuyến trở về đầu tiên sau 63 năm. Vì điện Lateran không còn ở được nữa nên ngài
đã trú tại Vatican, chỗ mà ngày nay các Giáo hoàng vẫn ở.
Mãi tới 21-10-1368, Karl IV với một đoàn quân mới tới được Rôma và được Giáo
hoàng ra rước vào thành. Thoạt tiên, Urbanô V muốn ở lại luôn. Nhưng sau khi Karl
rời, tình hình chính trị Rôma trở nên quá bất ổn khiến ngài bỏ về lại Avignon.
Giáo hoàng mất 3 tháng sau đó. Dân coi cái chết đó là hình phạt của Chúa, vì Thánh
Brigitta đã cảnh cáo rằng nếu ngài bỏ Rôma thì sẽ chết sớm. Giáo hoàng Urbanô V
có vai trò quan trọng đặc biệt với nước Áo, vì ngài là người cổ vũ thành lập Đại học
Wien (năm 1365).
LÍ DO THẬT
Lý do thật của việc bầu Clêmentô VII sau đó vài tháng không phải xuất phát từ
chuyện hợp lệ hay không không hợp lệ, nhưng là từ sự hối hận của các hồng y vì đã
chọn lầm người. Urbanô VI hoàn toàn không đủ khả năng và tư cách để giữ vai trò
Giáo hoàng. Ngài sớm tỏ ra là người ương ngạnh, kém thông minh, cao ngạo và vô
tâm tới độ tàn ác. Khi hay một số hồng y muốn phế mình, Urbanô VI cho tống họ
vào ngục, tra tấn rồi giết 5 người trong số đó. Nhiều sử gia ngày nay nghi ngờ sự
bình thường tâm trí của vị Giáo hoàng này.
Vì sống ở Rôma căng thẳng quá, các hồng y lấy cớ không chịu nổi nóng nên đã kéo
nhau về Anagni. Ở đó, họ thảo một tuyên ngôn cho hay việc bầu Urbanô VI là do áp
lực nên không hợp lệ. Họ bầu lên ở Forni Giáo hoàng Clêmentô VII, 40 tuổi. Trong
khi đó, Catarina cùng với một đoàn 40 người tới Rôma khuyên Urbanô VI đưa người
nhiệt tâm muốn đổi mới vào giáo triều, nhưng Urbanô VI đã không hiểu và cũng
chẳng muốn làm gì. Clêmentô VII về ngụ tại Napoli. Bị săn đuổi, ngài bỏ sang
Avignon.
Từ đây khởi đầu một phân rẽ lớn ở phương Tây. Sử gia Tin lành Gregorovius nhận
định về phân rẽ này như sau: “Không một đế quốc thế quyền nào có thể sống còn nếu
gặp hoàn cảnh đó”.
TRÌNH THUẬT 50 - 51
TRÌNH THUẬT 50
Khác với Urbanô VI, Giáo hoàng đối đầu Clêmentô VII, được bầu lên ngày 9-8-1378
và đóng đô ở Avignon, là người vui tính và rất có khả năng lãnh đạo. Vua Pháp tìm
mọi cách nâng uy tín Clêmentô VII trước thế giới và tạo quần chúng cho ngài.
Giáo Hội hoàn vũ chia thành hai phe. Ý, Đức, Hung, các quốc gia Đông và Bắc Âu
và đặc biệt là Anh (đối địch của Pháp) ủng hộ Urbanô VI ở Rôma, người đã không
chịu từ chức sau khi Clêmentô VII được bầu. Clêmentô VII, trái lại, được hoan
nghênh ở Pháp, Burgogne, Savoie, Vương quốc Napoli, Scotland (kẻ thù của Anh) và
Vương quốc của nhà Habsburg, bởi vì Quận công Leopold III nước này, một vị
thánh, là người theo Clêmentô VII. Ngay cả các thánh thời đó cũng khó mà nắm
được ai là kẻ chính thống. Ngày nay, qua khảo sát lịch sử, vấn đề tương đối rõ ràng
hơn.
Kết quả cuộc bầu cử năm 1378 có thật do sức ép từ ngoài hay không, thật khó xác
định. Vì thế, Tổng Giám mục Giáo phận Toledo cho phép thay tên vị Giáo hoàng
được cầu và nhớ đến trong phụng vụ bằng câu “… cho vị nào là Giáo hoàng thật
sự”. Chính quyền Bồ Đào Nha, cũng vì sự mơ hồ đó, đã xoay chiều tình cảm gần
như hằng năm: 1380 ủng hộ Clêmentô VII, 1381 quay sang Urbanô, 1382 trở lại
Clêmentô VII, và từ 1385 dứt khoát theo Urbanô. Phân rẽ đi vào tới tận các các gia
đình và tiếp tục tồn tại sau khi cả hai vị đã mất.
TRÌNH THUẬT 51
Sigismund nhà Luxemburg, con trai hoàng đế Karl IV, lên làm vua Đức năm 1411.
Lúc đó, Giáo Hội hoàn vũ được “trị vì” bởi 3 Giáo hoàng một lúc: Grêgôriô XII,
Bênêđictô XIII và Gioan XXIII<!--[if !supportFootnotes]-->[1]<!--[endif]--> là
người kế vị Alexandrô V. Trước khi được chọn làm vua, Sigismund hứa sẽ bằng mọi
cách chấm dứt phân rẽ. Và theo ông, việc này chỉ thành khi cả ba Giáo hoàng chịu từ
chức. Sau đó sẽ triệu tập công đồng để bầu Giáo hoàng mới. Sigismund đề nghị họp
công đồng ở Konstanz, phần đất thuộc quyền mình, và hứa sẽ bảo đảm an ninh cho
tất cả những ai về họp. Giáo hoàng Gioan XXIII cho biết thêm rằng bá tước Friedrich
đất Tirol cũng sẵn sàng bảo đảm an ninh cho công đồng.
TRÌNH THUẬT 52
Công đồng Konstanz (1414-1418), cho tới lúc đó, là công đồng kéo dài nhất, ngoài
chuyện chấm dứt phân rẽ qua việc bầu lên Martin V, còn có những quyết nghị về
thuyết rối. Thuyết này xuất phát từ Anh và được linh mục quá khích Gioan Hus áp
dụng. Sau khi bị công đồng kết án. Gioan Hus bị thiêu sống công khai ở Konstanz
ngày 6-7-1415.
Ulrich ở Richenthal chứng kiến và ghi lại cái chết đó:
“Ngày thứ bảy sau ngày lễ thánh Ulrich, tháng 7-1415, công đồng lại họp. Cả
Hoàng đế chúng ta cũng có mặt. Cuộc họp bắt đầu từ giờ thứ sáu sau nửa đêm.
Công đồng cho triệu thầy Gioan Hus, kẻ rối đạo từ Boehmen (Tiệp), tới. Tên Hus
này đã đi trật hướng giáo huấn thánh của Chúa trong Thánh Kinh. Sách vở, những
lời giảng và dạy của y cho thấy đúng là một kẻ rối, phải có một bản án thật đáng cho
y. Án như thế này: Y là một kẻ rối, phải bị trừng trị vì sự xấu xa của y. Người ta (các
nghị phụ) giao y cho thế quyền và khẩn cầu Hoàng đế chúng ta đừng giết mà hãy tìm
cách giam giữ y”. Nhưng Sigismund yêu cầu công đồng đốt. Ông nói: “Thưa quý
đức Thầy khả kính. Các đức Thầy đã biết tên Hus và huấn giáo của hắn. Mỗi lời dạy
của hắn cũng đủ để kết án hắn rồi. Nếu hắn không chịu chối bỏ, thì một là đốt hoặc
quý ngài muốn làm gì hắn thì làm theo luật lệ của quý ngài. Nhưng tôi khuyên đừng
nên tin hắn, ngay cả khi hắn chấp nhận chối bỏ, riêng tôi thì chẳng bao giờ tin. Bởi
nếu để hắn trở lại Boehmen, hắn lại gây nguy hiểm hơn trước”.
Công đồng kết án Hus với những dòng như sau: „Bởi thánh Công đồng khẳng định
rằng Gioan Hus là người cứng lòng không sửa đổi, lại không chịu trở về trong lòng
Giáo Hội và từ bỏ lạc thuyết, nên Thánh Công đồng Constanz quyết định tước chức
(linh mục) và giáng cấp, và vì Giáo Hội không thể làm gì hơn nên chuyển giao ông
cho toà án đời“.
Sau đó, Sigismund giao Hus cho quận công Ludwig và ông này giao lại cho Toà án
Konstanz.
“Toà án ra lệnh cho các tư vấn và lý hình”, Ulrich Richenthal kể tiếp, “mang Hus đi
thiêu, nhưng không được bắt cởi hoặc tịch thu dây nịt, áo choàng, túi xách, tiền, quần
hoặc giày của ông. Lệnh được tuân giữ. Hus bận hai váy đen vải tốt, và một dây nịt ít
móc sắt, và mang hai con dao trong một bọc và một túi da trong đó hình như có chứa
gì đó. Ông đội một mũ giám mục trắng trên đầu, trên đó có vẽ hình hai con quỷ và
giữa có hàng chữ Heresiarcha, nghĩa gần như là: Tổng Giám mục của các kẻ rối”.
Hơn 1.000 dân quân vũ trang dẫn Hus ra trước thành. Tới pháp trường, “lý hình buộc
ông vào một thân gỗ đứng, đẩy vào dưới chân một chiếc ghế đẩu. Rồi lý hình mang
gỗ, rơm chất chung quanh ông, rưới vào một ít dầu cặn và châm lửa. Hus thét lên
rùng rợn và sớm chìm ngập trong lửa. Toàn thân Hus cháy thành tro, nhưng chiếc
mũ giám mục thì không. Lý hình cầm lên xé nát vứt vào lửa. Mũ cháy xông lên một
mùi khét không ai chịu nổi. Tất cả tro còn lại sau đó được đổ xuống sông Rhein”.
Qua tài liệu, rõ ràng công đồng chỉ kết án Hus rối đạo và xin vua đừng giết. Song
Sigismund đã giết, có thể vì ông lúc đó nghĩ như người Rôma vẫn quan niệm, là đế
quốc chỉ thống nhất khi tôn giáo còn thống nhất. Cái chết của Hus như vậy mang 2
tính cách: kẻ rối đạo và nhà cách mạng chính trị. Hơn nữa, Hus chết trong lúc Giáo
Hội không có Giáo hoàng chính thức. Ông bị hành hình hai ngày sau khi Grêgôriô từ
chức (mà chưa bao giờ bước chân tới Konstanz). Và mãi tới 2 năm sau (ngày 11-11-
1417), Martin V mới được bầu lên ghế Giáo hoàng.
TRÌNH THUẬT 53
16 năm sau ngày thiêu sống Gioan Hus ở Konstanz, đến lượt cô gái 19 tuổi ở Rouen,
Pháp, bị đốt. Đó là ngày 30-5-1431, lúc 9 giờ sáng. Jeanne Darc bước lên giàn hoả
cạnh Nhà thờ Chúa Cứu Thế. Theo lời những người có mặt, cô không ngớt “kêu to
tên Chúa Giêsu cho đến hơi thở cuối cùng, đến nỗi những người đứng chung quanh,
ngay cả đám kẻ thù người anh cũng không cầm được nước mắt”. Theo bản án của
toà, cô là kẻ “phản đạo”, “thờ tà thần” và ‘tay sai ma quỷ”. “Cô gái”, như người ta
vẫn gọi thời đó, thực ra là nạn nhân của một âm mưu người Anh, chứ chẳng mang tội
nào như họ quy kết cả.
Jeanne sinh ngày 6-1-1412 ở làng Domremy, bên cạnh sông Maas, vùng Lothringen,
con ông Darc, nông dân và là xã trưởng. Cô không được đi học nên không biết chữ.
Từ nhỏ đã phải ra đồng và phụ việc nhà cho cha mẹ. Jeanne rất khoẻ. Ở tuổi 13, cô
cho hay thường nghe “những tiếng nói” của tổng thiên thần Michael, Thánh
Catharina, Thánh Margarita hoặc của Chúa, tên những đấng mà cô đã biết tới qua các
buổi học giáo lý hoặc qua các tích truyện được nghe kể. Trong hồ sơ phong thánh
cho cô năm 1920, Giáo Hội không đề cập tới những tên thánh cụ thể đó thực ra điều
này không quan trọng, mà chỉ gọi đó là “những linh ứng từ trời cao”.
“Khi tôi 13 tuổi” lời cô kể trước toà, “tôi đã nghe tiếng gọi của Chúa hướng dẫn tôi.
Lúc đầu tôi hoảng sợ. Tiếng đó vang lên giữa trưa. Lúc đó là mùa hè, trong vườn
nhà cha tôi. Tiếng đó ra lệnh cho tôi phải phá vỡ vòng vây giải thoát cho Orleans”.
ÁN GIAN
25 năm sau, Giáo hoàng Kalixtô III cho xét lại bản án. Ngày 7-7-1456, Giáo Hội
công bố án kia là gian.
Sau đây là một số cung từ của những nhân chứng, trích từ hồ sơ điều tra:
“Vì Jeanne đã đánh bại quân Anh nhiều trận nên họ sợ đến nỗi phải bằng mọi giá
giết cô...
Lấy cớ làm đúng theo luật, người Anh đã đưa cô về xử ở Rouen là vùng đất do họ
kiểm soát...
Các quan toà, linh mục tuyên uý, cố vấn và những người liên hệ với toà khác đều lệ
thuộc người Anh và họ bị đe doạ nặng đến không thể tự do quyết định...
Ngay cả các thư ký toà cũng bị cấm ghi lại những cung từ có lợi cho Jeanne...
Rõ ràng nhiều phần cung từ bị cắt xén, xuyên tạc, xoá bỏ và không được ghi lại
trung thực nên khó lòng phản ảnh sự thật...”.
3 tháng sau khi Jeanne mất, Bourgogne ngưng đánh nhau với Pháp. Cuộc đình chiến
này 4 năm sau dẫn tới hiệp ước hoà bình ở Amiens. Hai người bạn của Jeanne là
Richemont và Dubois tiếp tục đánh đuổi người Anh ra khỏi những vùng chiếm đóng
và giải phóng hoàn toàn đất nước ngày 15-4-1450 qua trận Formigny. Sự hiện diện
của cô gái làng Domremy có ý nghĩa lớn trong lịch sử Giáo Hội: nếu người Anh tiếp
tục chiếm đóng thì cả nước Pháp đã phải chuyển sang Anh giáo rồi.
TRÌNH THUẬT 54
GIÁO CHỦ ĐỐI ĐẦU CUỐI CÙNG, HÌNH NỘM CỦA CHỦ TRƯƠNG ƯU
THẾ CÔNG ĐỒNG
Hai tháng sau khi "cô gái thành Orleans" chết, một công đồng mới được triệu tập ở
Basel. Mở đầu một phân rẽ mới. Sau khi triệu tập công đồng, Giáo hoàng Martinô V
mất ngày 20-2-1431.
Nghị trình Công đồng dự trù gồm thảo luận việc cải tổ Giáo Hội, hiểm hoạ xâm lăng
của quân Thổ Nhĩ Kỳ và hậu quả cuộc nổi dậy lan rộng của tín đồ theo Gioan Hus,
người bị kết án rối đạo và thiêu sống ở Konstanz.
Về mặt lịch sử Giáo Hội, Công đồng Basel được nói đến như là một nỗ lực thực hiện
chủ trương ưu quyền công đồng, nghĩa là coi công đồng cao hơn Giáo hoàng. Trong
nỗ lực tìm một lối thoát cho nạn phân rẽ và nâng vai trò Giáo hoàng lên, người ta đã
cổ xuý cho giải pháp ưu quyền công đồng tương đối. Nhưng thay vì chấm dứt phân
rẽ và mang lại sức sống cho quyền Giáo hoàng, thì Basel lại tạo thêm một phân rẽ
mới và gây ra một cuộc công khai chống lại Giáo hoàng.
TRÌNH THUẬT 55
Người Thổ, một giống dân Á châu, tràn tới Tiểu Á vào thế kỷ 13, nhận đạo Islam của
dân địa phương làm tôn giáo mình và lập nên ở đó một Vương quốc riêng, với thủ
lãnh là Osman. Từ đó, họ tiếp tục tấn chiếm vùng Balkan rồi Bungari. Năm 1451,
lãnh tụ Môhamét II lên nắm quyền. Ông là một thanh niên 21 tuổi đầy cao vọng. Vừa
lên ngai, ông cho trấn nước anh mình chết để tránh phiền toái về sau. Mộng của
Môhamét II là Âu châu. Nên ông quyết định phải lấy cho được Konstantinôp thuộc
Vương quốc Byzantin, cây cầu nối liền giữa lãnh thổ ông với Âu châu.
Ngày 7-4-1453, Môhamét bao vây Konstantinôp. 7000 quân Kitô của Hoàng đế
Konstantin XI (Đế quốc Rôma Phía Đông) phải trực diện với đạo quân Islam khổng
lồ 160.000 bộ binh (nhiều sử gia viết 300.000) và khoảng 30.000 kỵ binh. Ngoài ra,
quân Thổ còn có 12 súng đại bác với sức thẩy những viên đá nặng từ 100 đến 200 ký.
Đặc biệt là những súng thần công khổng lồ với khả năng bắn đạn nặng tới 500 ký.
Mỗi phát súng là một trận động đất. Không thành luỹ nào có thể đứng vững. Chỉ về
mặt mìn bẫy là Môhamét không thành công, vì quân Hylạp giữ thành, do một người
Đức chỉ huy, đã chế được mìn chống lại.
Ngày 29-5-1453, quân Thổ tấn công. Quân giữ thành hầu hết là người ngoại quốc:
Hylạp, Genua, Vênêxia, Kroát, Rôma và Tây Ban Nha. Dân địa phương tuôn trốn
vào các nhà thờ chờ đợi phép lạ. Đợt tấn công lần thứ ba của quân Thổ làm người
lính giữ thành gan dạ nhất, người Genua, bị thương. Lợi dụng tình hình rối loạn khi
ông này đang xuống thuyền để băng bó vết thương, quân Thổ tràn vào. Hoàng đế
Konstantin tử nạn khi đang cầm quân giữ một cửa thành. Tất cả tín hữu trốn trong
nguyện đường Sophia bị giết sạch một cách dã man. Hàng ngàn người khác bị bắt và
sau này bị bán làm nô lệ. Thành bị cướp phá suốt trong 3 ngày. Ngày 30-5, Môhamét
chiến thắng vào thành. Vừa bước vào thánh đường Hagia Sophia, ông nhảy cả hai
chân lên bàn thờ, cầu nguyện và tuyên bố biến nhà thờ thành nguyện đường Hồi giáo.
Để tìm xác Hoàng đế, binh lính Thổ đã phải rửa đầu mặt nhiều tử thi Kitô. Cuối cùng
họ nhận ra được Hoàng đế nhờ đôi giày tía có thêu hình chim ưng bằng vàng, chứ
mặt ngài thì bị chém nát không còn nhận ra được nữa. Họ chặt lấy đầu, mang đi khắp
Á châu để quảng bá sự chiến thắng của Hồi giáo trên Kitô giáo. Còn xác Hoàng đế
được họ cho mai táng với nghi lễ đầy đủ.
Cùng số phận như Hagia Sophia, tất cả những thánh đường khác đều bị biến thành
nguyện đường Hồi giáo. Konstantinôp dần khoác áo kiến trúc Hồi giáo và từ đây đổi
tên thành Istanbul.
Konstantinôp thất thủ có nghĩa là Đế quốc Rôma Phía Đông chấm dứt, sau hơn 1.000
năm hiện diện. Cũng có nghĩa là chấm hết những gì còn lại của một đế quốc hoàn vũ
Rôma. Cùng với sự thất thủ Konstantinôp, tiền đồn phía đông Âu châu rơi vào tay
Hồi giáo.
TRÌNH THUẬT 56
Sự vắng mặt các giáo hoàng ở Rôma trong thời gian lưu đày Avignon làm tinh thần
quốc gia tại Ý lên cao. Tinh thần này trước đó từ lâu đã bùng lên ở Đức, Pháp và
Boehmen (Tiệp) rồi. Bên cạnh Quốc gia Giáo Hội, giờ nảy sinh một lô cộng hoà
thành phố khác (ở Ý) như Firenze, Pisa, Milano, Napoli, Venezia và Genua. Cùng
với sự trổi dậy tinh thần quốc gia, con người quay ra say mê trở lại nền văn hoá lớn
đã một thời rộ nở trước khi đến. Họ muốn làm sống lại (= Phục hưng, Renaissance)
văn hoá đó.
Khởi đầu là chủ nghĩa nhân bản (Humanismus). Phục hưng ở phương diện này chủ
yếu là mặt văn chương. Người ta đi tìm tài liệu cổ, chép lại và góp vào thư viện.
Quan trọng nhất của “Phục hưng” là mặt chính trị và nghệ thuật. Nghệ thuật phục
hưng khởi đầu ở Firenze, nơi từ năm 1434 gia đình nhà băng De Medici có ảnh
hưởng lớn trên chính quyền thành phố. Nhiều công trình kiến trúc và nghệ thuật được
xây dựng trong thời Medici. Đến nay, chúng vẫn làm say mê ngạc nhiên bao du
khách đổ về thành phố bên bờ sông Arno này. Dưới thời Cosimo nhà Medici, nhà
kiến trúc Filippo Brunellesci xây tháp tròn của Nhà thờ Chính toà Firenze, một tác
phẩm kiến trúc tuyệt vời mà cho tới lúc đó không ai nghĩ có thể thực hiện nổi.
Brunellesci là nhà kiến trúc đầu tiên của thời phục hưng. Với việc xây tháp đó, ông
đưa nghệ thuật kiến trúc bước vào một con đường mới.
Kiến trúc gotic trước đây hướng về “chiều cao”. Nay Phục hưng quay về chiều
ngang. Con người lúc này muốn ở lại trên mặt đất, là nơi họ vẫn ở, chứ không còn
vươn vọng đến cái thinh không vô lý nữa. Nghệ thuật kiến trúc nói lên vũ trụ quan
mới: tiêu đích không còn là Thượng đế nữa, mà là sự hưởng thụ tự do ngay trên Trái
đất này. Luân lý đạo đức hay cuộc sống khổ hạnh không còn chút giá trị gì nữa. Cuộc
sống trần gian chẳng còn được quan niệm như là giai đoạn chuyển tiếp tới cuộc sống
đời đời mai sau, nhưng chính nó có một giá trị tự tại.
Phục hưng đồng thời là giai đoạn của những khám phá lớn: Con người không còn
chấp nhận mọi chuyện như là những an bài định sẵn, nhưng bắt đầu thắc mắc tìm
hiểu cội nguồn. Và người ta đã khám phá ra kỹ thuật in sách, thuốc súng, la bàn. Nhờ
ngành in mà nền văn hoá mới được phổ biến nhanh rộng, mãi lên tới các vùng Bắc
Âu. Thuốc súng làm thay đổi chiến thuật chiến tranh của thời trung cổ. La bàn giúp
con người đi vòng quanh thế giới, nhờ vậy mà châu Mỹ được khám phá.
Là “con cái của thời đại” các giám mục và giáo hoàng thời đó cũng bị ảnh hưởng bởi
các khám phá. Cả xấu lẫn tốt. Do đó không lạ gì khi các giáo hoàng phục hưng sống
như là những ông hoàng của một quốc gia, và việc đạo thỉnh thoảng bị đẩy vào hậu
trường. Hồng y Nikôlêô ở Kues (Brixen) than với Giáo hoàng Piô II về tình trạng đó:
“Con chẳng hài lòng chút nào về những gì xảy ra trong giáo triều này. Mọi chuyện
đều hỏng, chẳng ai làm bổn phận mình. Người ta quan tâm tới giáo quy? kính sợ luật
lệ? chuyên tâm làm lễ? Tất cả đều do ham muốn và tham vọng thúc đẩy. Trong các
buổi họp, mỗi lần con nói đến chuyện cải tổ là bị cười”.
Ngay Piô II cũng là một đại biểu của Phục hưng. Enea Silvio Piccolomini, Giáo
hoàng Piô II, lên ngai năm 1458. Ngài xuất thân từ Siena và nổi tiếng khắp Âu châu
khi còn là thư ký của hoàng đế Friedrich III. Ngài là một nhà thơ, nhà văn, nhà sử và
địa lý, có tài ăn nói, một nhà chính trị khôn ngoan, một nhà ngoại giao uyển chuyển.
Một nhân vật với nhiều năng khiếu lạ lùng.
TRÌNH THUẬT 57
TRÌNH THUẬT 58
Khi 23 hồng y họp trong nguyện đường Sixtin để bầu người kế vị Innôxenxô VIII,
mất năm 1492, Giám mục Lionello, với một bài diễn văn cảm động, đã thống thiết
kêu gọi các hồng y cần đặc biệt ý thức trong việc bầu giáo hoàng mới: “Hỡi con gái
Zion, cơn đau của ngươi mênh mông như biển cả. Ai sẽ chữa lành ngươi? Cả Giáo
Hội hội hoàn vũ đang hướng mắt về các cha, hỡi các nghị phụ đáng kính. Hãy chọn
lấy một vị giáo hoàng thật uy tín để ngài chữa lành cho muôn dân!”.
Đêm ngày 10 rạng 11-8-1492, Rodrigo Borgia, tay ăn chơi nổi danh thành phố được
bầu lên ghế giáo hoàng, lấy hiệu Alexandrô VI. Ông đã tốn bao nhiêu của đút lót để
được bầu. Nhưng cuộc bỏ thăm hợp lệ.
CHA CỦA CESARE BORGIA
Rodrigo Borgia sinh năm 1430 ở Valencia, Tây Ban Nha. Ông được bác là Giáo
hoàng Kalixtô III phong hồng y và làm “Phó Thủ tướng Giáo hội Rôma” và là hồng
y giàu nhất thế giới thời đó. Khi được bầu, ông 62 tuổi và đã có 7 con. Dù vậy, sau
khi làm giáo hoàng còn sinh thêm 2 đứa nữa. Trong đám con nổi lên một anh tên
Cesare Borgia, với máu “quỷ dữ”: bạo tàn, tham quyền, ích kỷ, bất nhân và thành
công. Đúng là một “ông hoàng” theo nghĩa Machiavelli. Với sự uỷ thác của cha,
Cesare ra tay đưa cả Quốc gia Giáo Hội vào vòng kiểm soát của gia đình mình, bằng
cách không từ một tội ác nào. Một người Venecia ghi lại: “Mỗi đêm ở Rôma có 4, 5
giám mục, đức ông và những vị khác bị giết. Cả thành khiếp sợ vì ngài Quận công”.
Cesare là quận công xứ Valence và Romagna. Các con của Rodrigo đều được phong
tước và chia nắm những vị trí quan trọng.
Trái với Cesare là nữ quận công Lukrezia Borgia, con gái cưng của Rodrigo. Sử gia
Giáo hội Hugo Rahner viết về bà: “Thật bất công khi nói rằng bà trở thành đại biểu
của lối sống hư hỏng của thời phục hưng”. Bà cũng là hội viên dòng ba Phan Sinh.
Gia đình Borgia, dù vậy, sau này cũng có một vị thánh, Franz Borgia (1510-1572).
Ông là vị tổng quyền thứ ba của dòng Tên.
JULIÔ II TRIỆU TẬP ĐƯỢC NHỮNG NGHỆ NHÂN NỔI DANH NHẤT
THỜI ĐẠI
Người kế vị Piô III là Giuliano della Rovere, 64 tuổi, lên năm 1503 hiệu là Juliô II.
Ngài được bầu cũng nhờ đút lót. Trước khi làm giáo hoàng, ngài là một nhà lãnh đạo
chính trị và tướng lãnh và đã có 3 con gái ngoại hôn. Chuyện có con thời đó chẳng
mấy ai quan tâm. Người đương thời gọi ngài là “il terribile”, “ông lực lưỡng”. Ngài
là cháu của Giáo hoàng Xistô IV và tại vị 10 năm. Sau khi lên giáo hoàng, ngài có
một cuộc sống đạo đức không chê vào đâu được.
Juliô II có thân hình vạm vỡ, đầu lớn với đôi mắt to, hực lửa và luôn chiếu thẳng
xuống. Sứ thần xứ Venezia mô tả ngài là người thông minh, nhưng dễ nổi giận và bất
thường. Mà ngài là người khó lường thật, thay đổi quyết định như chong chóng. Đêm
nghĩ gì, sáng ra phải làm ngay. “Ngài là người quá can đảm, dễ giận và khó lường
đến nỗi không thể nào tả được. Mọi cái đều vượt bình thường, kể cả đam mê lẫn dự
phóng. Tính thiếu kiên nhẫn và giận dữ bất chợt của ngài làm tổn thương những
người chung quanh; nhưng người ta không ghét mà chỉ sợ ngài, vì ngài hoàn toàn
không nhỏ nhặt hoặc tư lợi. Năng lực ý chí của ngài bẻ cong mọi mọi thứ, cả tấm
thân vạm vỡ bị bệnh khớp xương của ngài cũng thường tạo nên cảm giác đó”
(Pastor).
Thành quả chính trị của ngài là lôi Quốc gia Giáo Hội ra khỏi bàn tay tàn bạo của
Cesare Borgia và bình định lãnh thổ. Chấm dứt các cuộc phản kháng của các lãnh
chúa. Cuộc phản kháng cuối cùng xảy ra năm 1453, làm Giáo hoàng Nikôlêô V sém
mất mạng.
Rôma thời đó là thủ đô một quốc gia. Dân số từ 17.500 năm 1420 tăng lên 53.000
vào năm 1525. Giáo hoàng được gọi là “Papa Re” (“Giáo hoàng – Vua”), là vua trên
mọi vua trần thế. Cũng vì là “Papa Re” nên giáo hoàng có quyền thu thuế và nhờ tiền
đó đã có thể thi hành một chính sách văn hoá tốn kém. Thời đó người ta nghĩ rằng về
mặt tôn giáo, tác phẩm nghệ thuật cũng có tác dụng truyền giáo, bởi vì chúng tỏ cho
thế giới thấy cái vĩ đại của ngai giáo hoàng.
Juliô II cũng mang tâm tư đó. Trong vai giáo hoàng, ngài tự thấy có bổn phận phải
tìm cách tôn vinh Giáo Hội và ngai giáo hoàng qua những tác phẩm nghệ thuật của
những hoạ sĩ lừng danh. Tên ngài gắn liền với việc xây mới Đền Thánh Phêrô. Ngày
18-4-1506, ngài đặt viên đá đầu tiên trước sự hiện diện của đông đảo quan khách.
Gần 2.000 công nhân ngày đêm tháo gỡ và mang đi từng viên gạch của nguyện
đường Phêrô cũ. Chỉ ngôi mộ là để nguyên. Trên nền nhà nguyện cũ này ngài sẽ xây
một thánh đường tân kỳ và lớn nhất thiên hạ. Khi Juliô mất (1513), nhà thờ mới chỉ
dựng được 4 cột cái làm đà chống mái vòm do Michael Angelo hoạ kiểu. Michael
Angelo trước đó đã nổi danh qua hai tác phẩm điêu khắc “David” và “Pietá”. Ông là
người đa tài, được uỷ việc vẽ kiểu vòm nhà nguyện và đặc biệt được Xitô IV trước
đó chọn vẽ tường cho nhà nguyện Sixtin.
Ngày 10-5-1508, Michael Angelo khởi công vẽ. Giáo hoàng thỉnh thoảng tới thăm
lúc ông đang nằm ngửa trên giá vẽ, sơn từ trần nhà nhỏ xuống đầy mặt. Người ta
thường nghe hai người cãi nhau kịch liệt, là vì Michael Angelo cũng bướng không
kém. Ngày 31-10-1511, bức hoạ trần kết thúc. Juliô lúc đó bệnh nặng, nhưng trước
khi mất cũng đã may mắn chiêm ngưỡng được tác phẩm tuyệt trần này. Một nghệ sĩ
khác có thể đã vẽ lên khía cạnh dễ dãi của lối sống phục hưng. Nhưng Michael
Angelo, vì quá chịu ảnh hưởng của bạn đồng hương là Savonarola nên tác phẩm của
ông chú trọng tới sự sa ngã và tội lỗi của con người. Để kiện toàn chủ đề sa ngã trong
bức “Tạo dựng Adong” ở trần nhà, Michael angelo sau này đã thực hiện trên tường
phía trước bức “Phán xét cuối cùng”.
TRÌNH THUẬT 59
Ngày 8-7-1520, Giáo hoàng Lêô X doạ tuyệt thông tiến sĩ Martin Luther, tu sĩ và là
giáo sư thần học ở Wittenberg, nếu trong vòng 60 ngày không rút lại những điểm sai
của mình. Trong sắc thư, giáo hoàng đồng thời ra lệnh đốt tất cả những tác phẩm
chứa đựng những sai lầm của ông. Ngoài ra, Luther còn bị cấm dạy và giảng, nếu
không chịu rút lại 41 điểm bị kiểm duyệt trong sách.
Trước khi ra vạ, người ta đem sách Luther ra đốt công khai, trước hết ở Rôma, sau ở
Koeln và Mainz. Luther không rút, mà còn tuyên bố: “Với tôi, mọi chuyện đã an bài.
Tôi khinh bỉ cái giận dữ của Rôma. Tôi chẳng bao giờ muốn bị so sánh hoặc dính
dáng với Rôma nữa. Họ cứ việc kết tội tôi và đốt sách tôi. Phía tôi, nếu sẵn lửa, tôi
cũng sẽ kết án và đốt hết mọi quyền hành của Rôma”.
Luther công khai bỏ Rôma. Ngày 10-12, ông mời các giáo sư và sinh viên đại học tập
trung trước cửa Elster ở Wittenberg lúc 10 giờ để chứng kiến cảnh môn sinh mình
đốt sách giáo luật và sách của các nhà thần học kinh viện. Sau cùng, chính tay Luther
ném dụ tuyệt thông của giáo hoàng vào lửa. Và toàn thể sinh viên đồng ca bài tạ ơn
“Te Deum”. Họ cắm một bản dụ khác vào một cây lao và một phiếu ân xá vào đầu
một cây gươm rồi mang lên xe chạy rảo khắp tỉnh Wittenberg.
Ngày 3-1-1521, Giáo hoàng Lêô X chính thức khai trừ Luther khỏi Giáo Hội. Cuộc
cải cách, “thảm hoạ lớn nhất từ ngày thành lập Giáo hội” (Lortz), bắt đầu.
Cải cách không phải là việc làm của một cá nhân đơn độc, nhưng đã là một tiến trình
khởi đi từ Joachim ở Fiore (mất 1202) qua Philipp IV, William ở Ockham, Marsilius
ở Padua, tín đồ Kathar, tín đồ Valdes tới Wiclif và Hus rồi Luther. Luther là người
châm ngòi thùng thuốc nổ đã chất chứa từ lâu.
TÌNH NHÂN
Linh mục quản xứ sống sao thì kẻ học nghề sống theo như vậy. Cả tốt lẫn xấu.
Chuyện có tình nhân trở thành phong trào đối với các linh mục thời đó. Giáo hoàng
Hadrianô VI sau này đã phải than: “Sa đoạ đã thành đương nhiên, đến nỗi những kẻ
trong cuộc chẳng còn ngửi được mùi tội nữa”.
Bởi thế, Công đồng Basel năm 1435 đã thông qua một tài liệu buộc các linh mục
phải bỏ tình nhân. Ai không tuân, bị cúp lương 3 tháng. Điểm này đã không mang kết
quả, vì thiếu điều kiện thi hành. “Nếu như việc huấn luyện linh mục được cải tổ và
nhờ đó linh mục được tuyển chọn kĩ hơn thì, về lâu về dài, sự vụ đã khả quan hơn”.
(Boelens).
TRÌNH THUẬT 60
Martin Luther trở thành nhà cải cách không phải do những bất cập trong Giáo Hội,
nhưng do những vấn nạn cá nhân. Cuộc đời ông cho thấy điều đó.
Martin chào đời ngày 10-11-1483 tại Eisleben và lớn lên ở Mansfeld, nơi cha ông là
Hans Luder (Lothar) di cư đến để tìm kế sinh nhai ngay trong năm Martin sinh. “Tôi
là con của một người nhà quê”, Luther kể, “ông cố, ông nội và cha tôi đều đích thực
là những nông dân”. Vì không phải là người được thừa hưởng gia tài, cha ông đã bỏ
quê đi tìm tương lai tại vùng mỏ đồng ở Mansfeld. Không rõ gia đình Luther có
nghèo thật không. Một đàng Luther viết: “Cha mẹ tôi quá nghèo. Mẹ luôn phải đi
lượm củi mang về. Các ngài đã dạy dỗ chúng tôi như thế. Các ngài đã phải làm việc
nặng nhọc. Lúc này chẳng còn ai trong thế gian phải làm cực như thế”. Đàng khác,
ở Mansfeld, cha ông sớm tậu được năm bảy cái mỏ và trở thành một chủ xí nghiệp
nhỏ. Ngày Martin dâng lễ đầu tay, cha ông tới dự với 20 kỵ mã đi theo và đã cúng
nhà dòng một số tiền lớn. Điều này cho thấy gia đình ông không nghèo.
Chuyện giáo dục gia đình cũng không rõ. Chính Luther viết: “Cha mẹ tôi dạy tôi rất
nghiêm, khiến tôi trở nên rụt rè. Một lần bị cha đánh roi đau quá làm tôi phải chạy
trốn và hận người, phải thật lâu sau cha con mới có thể làm hoà lại với nhau. Vì một
hạt dẻ nhỏ xíu mà một lần mẹ đánh tôi đến chảy máu. Nhưng các ngài cho vậy là tốt,
chỉ tội là các ngài không phân biệt được mức tội và hình phạt”. Dù sao, phải công
nhận Martin đã không phải chịu một sự giáo dục nặng nề hơn nhiều trẻ con thời đó.
Chỉ biết chắc một điều cậu là một thiếu niên nhạy cảm hơn nhiều trẻ khác. Thời đó
trong lớp học cũng còn dùng roi, giáo dục nhà trường cũng không vì thế mà được coi
là thô bạo. Thầy giáo lớp của cậu là Trebonius đã phải ngã mũ mình mỗi khi bước
vào lớp, vì trước mặt ông “toàn là các vị tỉnh trưởng, quận trưởng, thủ tướng, tiến sĩ
và viện trưởng tương lai”.
TU SĨ LUTHER
Sau mấy năm tiều học ở Mansfeld, năm 14 tuổi Martin được gởi tới học ở
Magdeburg. Một năm sau, được một gia đình người thân đưa về Eisenach ân cần
chăm sóc. Năm 1501, lúc lên 18, Martin vào Đại học Erfurt học “nghệ thuật tự do”,
nghĩa là các môn căn bản trước khi vào chuyên ngành. Ngày 20-5-1505, Martin bắt
đầu chuyên khoa luật học, môn mà cha cậu vẫn muốn cậu theo. Nhưng không hiểu
sao ngày 20-6 năm đó cậu bỏ học, về nhà. Trên đường về Erfurt ngày 2-6 cậu bị mắc
mưa ở làng Stotternheim. Một cơn sét thình lình đánh cậu ngã xuống đất, khiến cậu
hốt hoảng la lên: “Lạy nữ Thánh Anna, xin cứu con, con muốn đi tu!”.
Mặc cho cha và các bạn phản đối, 16 ngày sau Martin vào dòng ẩn tu Antịnh ở Erfurt
và ngày 4-4-1507 nhận chức linh mục. Tỉnh Erfurt thời đó có không dưới 8 dòng
nam! Riêng dòng Antịnh có 70 tu sĩ, một nửa số đó là linh mục.
Có lẽ Martin từ lâu đã ao ước đi tu. Cơn mưa ở Stotternheim chỉ là giọt nước cuối
làm tràn ly. Lý do sâu xa hơn khiến cậu đi tu là hy vọng đời sống ăn chay hãm mình
trong một tu viện sẽ giúp cho cậu thắng được nỗi ám ảnh bị quỷ ám.
Một đặc điểm giáo dục thời Luther là chuyện tin ma quỷ. Rất phổ biến. Martin do đó
cũng tin có tiên, thần, ma, quỷ sống đây đó khắp mặt đất. Một lần cậu viết: “Trong
nhiều quốc gia có những chỗ dành cho quỷ ở. Nước Phổ có nhiều tà thần, Lappland
đầy phù thuỷ. Ở quê tôi, trên ngọn núi Poltersberg, có một cái hồ, mỗi lần ném đá
xuống là gió nổi lên ào ào. Đó là nhà của quỉ ở, chúng bị giam ở đấy”. Mỗi lần nhà
thiếu bơ, sữa hay trứng là mẹ cậu lại bảo tà thần đã lấy mất của nhà mình.
Theo Martin, ma quỉ, qua tay sai của chúng là các mụ phù thuỷ, có thể “làm hại trẻ
con nhà nghèo nhiều cách ghê gớm hơn là chuyện bắt trẻ con phải mù hay bị nghẹt
tim. Vâng, nó có thể ngay cả trộm bắt một đứa trẻ lôi khỏi nôi rồi vào nằm trong
đó”. Sau này, Martin nhớ lại là đã thấy rõ ràng một con quỷ “bước ra” từ một người
bị nó ám.
Luther quả thực mang trong mình nỗi khắc khoải về cuộc đời. Niềm tin ma quỷ
không đâu của người thời đó lại càng làm khắc khoải của cậu thêm gia trọng.
KHIẾP SỢ CHÚA
Không chỉ sợ quỷ mà còn cả sợ Chúa. Luther nhớ lại: “Từ thuở nhỏ, chỉ cần nghe nói
đến tên Kitô thôi là cũng đủ cho tôi tái mặt khiếp sợ, vì tôi đã chỉ được dạy rằng
Chúa là một ông quan toà nghiêm khắc và dữ dằn”.
Thời đó, người ta tin rằng áo dòng là phương tiện tránh hoả ngục hữu hiệu nhất.
Ngay Tôma Aquino cũng cho rằng mặc áo dòng đồng nghĩa với rửa tội lần thứ hai,
vì áo đó làm người tội lỗi trở nên trong sạch. Sự kiện bá tước Wilhelm đất Anhalt
vào dòng cũng gây ấn tượng mạnh lên chàng thanh niên Martin. “Ông mang túi như
một con lừa”, Luther sau này viết về Bá tước, “ông ăn chay hãm mình đến gầy chỉ
còn xương và da, trông như một xác chết. Thấy ông, ai cũng xì xụp chiêm ngưỡng và
mắc cỡ cho lối sống của mình”.
Luther trở thành một một tu sĩ có lương tâm. Ông thú nhận: “(Nếu được phép) tôi sẽ
thức đêm, cầu nguyện, đọc sách và làm những việc khác cho đến chết”. Dù vậy, đời
sống tu cũng không thể giải thoát ông khỏi sự giày vò của lương tâm và hoả ngục. Sự
giày vò này không bắt nguồn từ thôi thúc dục vọng. Sự kiện suốt thời gian ở
Wittenberg ông chỉ giải tội cho 3 phụ nữ mà chẳng nhìn mặt họ nói lên điều đó. Điều
chính làm Luther lo sợ là: không làm trọn được những đòi hỏi của Chúa Kitô và do
đó sẽ bị luận phạt. Các bí tích và 21 vị thánh ông chọn để cầu khẩn: 3 vị mỗi ngày
cho suốt tuần lễ, cũng không cứu được ông ra khỏi nỗi khắc khoải.
Tâm trạng sợ hãi đã khiến Linh mục Luther chút nữa phải bỏ ngang thánh lễ đầu tay.
“Khi đọc đến câu: Chúng con dâng của lễ lên Chúa là Đấng hằng sống và chân
thật”, về sau ông nhớ lại, “tôi hoàn toàn rúng động và đâm hoảng. Tôi là ai mà dám
đưa mắt nhìn lên uy nhan Chúa?”
Về sau Luther quả quyết là nhà dòng đã dạy ông “làm việc lành phúc đức để được
tha tội và được rỗi”. Điểm này không đúng, bởi vì ngày nhập dòng, hẳn ông đã nghe
viện phụ nói: “Hãy hoàn thành việc lành mà Chúa đã khởi đầu trong con”, hoặc là:
“Xin Chúa hãy làm cho kẻ tôi tớ ân phước này nên xứng đáng, để anh luôn giữ được
mình nhờ sự thánh thiện mà Chúa đã tuôn đổ trong anh”.
NGHI VẤN ĐẦU TIÊN
Ba năm sau khi chịu chức, Luther theo thầy dạy sang Rôma. Chuyến đi này là do sự
bất đồng ý kiến trong dòng mà chỉ có giáo hoàng mới giải toả nổi. Lúc đó là thời của
Giáo hoàng Juliô II. Luther chẳng màng gì tới vẻ đẹp cổ kính và những nghệ thuật
phục hưng của thành. Ông chỉ để tâm tới sự phong phú của những phương cách giúp
rỗi linh hồn ở đây. Về sau ông viết: “Tôi như một thánh sống chạy hết nhà thờ này
sang nguyện đường kia, tin hết mọi thứ đọc thấy. Tôi không nhớ đã dâng một hay
mười lễ ở Rôma và lúc đó cảm thấy tiếc là bố mẹ còn sống, bởi tôi muốn cứu các
ngài ra khỏi lửa luyện tội bằng các thánh lễ mình dâng cùng các việc lành và tuân
giữ lề luật khác”. Đặc biệt ở Rôma ông muốn trấn an lương tâm bằng một cuộc xét
mình xưng tội quan trọng. Nhưng ông tức giận vì chẳng có ai ở đây chịu hiểu ông,
chịu quan tâm tới vấn nạn đức tin của ông cả. Cung cách vương giả của giáo triều
không làm ông bực mình bằng cái ngu dốt của giáo sĩ ở đây; giáo sĩ Ý ngày làm từ
sáu tới bảy lễ đọc như vẹt, trong khi “với tính cẩn trọng của người Đức” ông chỉ
dâng một lễ mà thôi.
Nghi vấn đầu tiên về lòng đạo đức “công giáo” chuộng hình thức của dân Rôma đã
đến với ông khi ông theo người ta quỳ leo lên “các bậc thang Pilatô” – tục truyền xưa
Chúa Kitô đứng trên đó - cứ mỗi bậc là phải hôn đất và đọc một kinh Lạy Cha. Khi
rán hết hơi lên tới đỉnh, ông buột miệng: “Mà có thật như thế không?”. Có thật “việc
làm” này đủ để đưa người chết ra khỏi lửa luyện tội không?
TRÌNH THUẬT 61
TRÌNH THUẬT 62
Nếu như không vì vụ giảng ân xá của linh mục đa minh Johann Tetzel khiến Luther
viết và phổ biến 95 “luận án” nổi tiếng của mình, thì cái nhận thức từ “biến cố trên
tháp” của Luther cũng đã ít ai quan tâm.
TRÌNH THUẬT 63
Tại thành phố Worms bên bờ sông Rhein, hai nhân vật đối diện nhau: Ông tiến sĩ
Martin Luther 38 tuổi và cậu hoàng đế Karl V 21 tuổi. Sau khi được bầu lên ngai
hoàng, Karl V cùng một đoàn tuỳ tùng đông đảo từ Tây Ban Nha kéo về Đức. Giáo
hoàng Lêô X đã tìm đủ cách để chống lại việc bầu Karl, nhưng không thành. Vì thế,
phe theo Luther hy vọng vị hoàng đế mới này sẽ có một chính sách bất thân thiện với
Rôma. Lúc đó Luther hân hoan:
“Chúa đã thương ban cho chúng ta một quý tộc trẻ làm lãnh tụ (và) như thế Ngài
mang đến cho ta hy vọng lớn”.
Nhưng Karl V đã đứng về phía giáo hoàng. Trong lúc Luther “sống theo kinh nghiệm
chủ quan của mình thì Karl trái lại không quen đặt đòi hỏi riêng tư của ông trên
cộng đoàn (Giáo Hội) và biết phân biệt giữa con người và chức vụ; Karl không bao
giờ để tình cảm bất thân thiện với con người giáo hoàng khiến ông coi thường chức
vụ thánh của ngài; đó là điểm hoàn toàn khác biệt giữa ông và Luther, người vẫn
luôn nhìn đời với cặp kính chủ quan của mình” (Franzen).
Kể từ ngày 3-1-1521, Luther đã bị vạ tuyệt thông, không còn ở trong Giáo Hội. Karl
muốn quyết định đó được thi hành trong toàn đế quốc, nhưng vì áp lực của vương
công xứ Sachsen là Friedrich (biệt danh “Người khôn ngoan”) nên đã sẵn sàng cho
Luther tới đại hội đế quốc tại Worms để trình bày quan điểm mình. Về sau, Hoàng đế
đổi quyết định, chỉ cho phép Luther tới đó để rút lại các quan điểm mà thôi. Trong
khi chờ đợi, vạ tuyệt thông vẫn chưa có giá trị.
TRÌNH THUẬT 64
Mùa Chay năm 1522, anh thợ in ở Zuerich tổ chức mời bạn bè tới nhậu xúc xích (thịt
nguội). Anh muốn làm thế để chứng tỏ sự “tự do” của những người tin lành. Ulrich
Zwingli cũng có mặt trong bữa nhậu, nhưng không ăn thịt. Bữa nhậu với chủ đích
chống lại luật mùa chay đó, sở dĩ có, là do ảnh hưởng những bài giảng của Zwingli,
người vẫn muốn đưa “cải cách” vào phần đất nói tiếng đức ở Thuỵ Sĩ. Có lẽ Zwingli
đã nghe và đọc sách của Luther, nhưng ông muốn một lối cải cách riêng của mình.
Xưa nay dân Thuỵ Sĩ vẫn muốn tự giải quyết vấn đề của họ, đặc biệt kể từ khi họ
được độc lập khỏi đế quốc Đức vào năm 1499.
TRÌNH THUẬT 65
Cuộc chiến tôn giáo đầu tiên giữa Công giáo và Tin lành mở màn với trận ở Kappel.
Tháng 4-1524, năm tổng ở Thuỵ Sĩ là Schwyz, Uri, Unterwalden, Zug và Luzern ở
Beckenried hợp nhau lại thành một liên minh Công giáo và sau đó, vào năm 1531,
tuyên chiến với nhà cải cách Ulrich Zwingli. Phía Zwingli có các thành phố Bern,
Konstanz, St. Gallen và Basel. Zwingli đích thân mang gươm búa ra trận và bị đâm
chết tại làng Kappel, lúc 47 tuổi. Dù Công giáo thắng, nhưng bản Thoả ước Hoà bình
công nhận đạo của hai bên bình đẳng nhau. Phía cải cách chỉ phải hứa “giữ hoà bình
và phải để cho các tổng Công giáo được giữ đạo thật của họ”. Chính Luther, người
đã không nói chuyện được với Zwingli, cũng đã lấy làm tiếc về sự rộng lượng của
phe Công giáo thắng thế. Ông viết: Zwingli “đã chết trong tình trạng đầy tội trọng và
nhục mạ Chúa”. Xét cho cùng Zwingli đã không làm gì khác hơn Luther…
Nhiều người trong tổng Zuerich xem trận thắng ở Kappel như là một dấu chỉ của
Chúa nên đã quay trở lại Công giáo. Một số người theo Zwingli, 5 năm sau, đã gia
nhập phe Calvin, khi ông này lập giáo hội mới, một tổ chức còn khắt khe hơn điều
mà Savonarola ở Firenze đòi hỏi trước đây. Một người đương thời mô tả việc nắm
quyền của Calvin:
“Khi ở Genève tôi để ý tới một chuyện quan trọng mà suốt đời về sau khó quên
được. Ngoài vẻ bề ngoài xem ra như một quốc gia tự do, Cộng hoà (Genève) có một
nét đẹp đặc biệt và có một nhà cải tạo gần bên toà án phong tục. Toà này có nhiệm
vụ hàng tuần điều tra mọi vi phạm phong tục, từ chuyện ăn chơi nhỏ nhặt nhất, của
người dân. Việc xét xử trước tiên do những cán bộ kiểm tra tiến hành, rồi tới các bô
lão và sau cùng do chính thành phố. Toà xét mức gia trọng và độ cứng cổ của tội
phạm để ra án cần thiết. Nhờ thế các loại cờ bạc, thề gian, chửi bới, hận thù, phá
phách, cãi lộn, thủ đoạn, lường gạt, lười biếng, chè chén, hoang phí, tức giận vô lối
và thô lỗ được ngăn chặn, chứ đùng nói chi đến những tội phạm lớn khác mà hầu như
chẳng bao giờ nghe thấy và rất hiếm xẩy ra. Nếu không để ý đến cái khác lạ tôn giáo
ở Genève, thì tôi đã chết mê chết mệt vì cái hài hoà phong tục của thành phố này”.
Cực đoan hơn cả toà thẩm tra Công giáo
Hình phạt Calvin ra cho những việc làm vô luân và trái phong tục là nhà tù, chặt một
phần thân thể và chém đầu. Các ông khiêu vũ trong đám cưới hay chơi bun trong
mùa phục sinh cũng bị tống ngục. Trong vòng 5 năm (1541-1546) nhà nước Genève
của Calvin đã thi hành 58 án tử và 78 án trục xuất khỏi nước. Một nạn nhân nổi tiếng
của Calvin là y sĩ Tây Ban Nha và là nhà nghiên cứu thiên nhiên Michael Servet,
người đã trốn chạy toà thẩm tra ở Tây Ban Nha sang Genève lánh nạn. Calvin đã cho
thiêu sống ông này vì ông đã quả quyết Đức Ki tô chỉ là một con người mà thôi.
Melanchthon, bạn của Luther, đồng ý bản án này.
Calvin cáo buộc các lãnh chúa thiếu khoan nhượng đối với những người “cải cách”,
nhưng đồng thời lại yêu cầu các ông hoàng Tin lành tẩy cho sạch đạo Công giáo
trong lãnh địa của họ. Ông tuyên bố, chống lại những lãnh chúa “vô đạo” là một
“nghĩa vụ tôn giáo” và chẳng có gì phải sợ trước việc “giết bạo chúa”, khi kẻ bị thanh
toán đó là những tên lãnh chúa công giáo. Vì thế, không lạ gì về phía các ông hoàng
Công giáo cũng đã tìm mọi cách để triệt tiêu người cải cách. Đặc biệt ở Pháp, nơi vào
năm 1560 đã có hơn 2.000 cộng đoàn calvin và những người này có tên là
“Hugenotten” (Những đồng chí đã tuyên thệ = “Thệ phản”). Năm 1562, xảy ra cuộc
chiến tôn giáo thứ hai ở Pháp: chiến tranh chống lại thệ phản, trong đó dĩ nhiên
không phải chỉ có căn nguyên tôn giáo mà thôi, nhưng quyền lợi quốc gia và quốc tế
cũng đã nắm một vai trò không nhỏ. Cao điểm của cuộc chiến này là biến cố tai tiếng
gọi là Đêm Thánh Barthôlômêô (23/24-8-1572), đêm đã có hàng ngàn tín đồ thệ
phản bị đột kích giết hại. Cuộc chiến kết thúc với dụ Nantes (1598), qua đó vua
Henri IV, người đã trở lại công giáo và là vua đầu tiên thuộc dòng Bourbon ở Pháp,
đã cho thệ phản tự do sống đạo và cho phép họ được tham gia vào lĩnh vực công.
Thuyết tiền định: Tâm điểm của đạo Tin lành Calvin
Cũng như Luther, Calvin không chấp nhận một Giáo hội “hữu hình”. Trong tác phẩm
chính của ông viết năm 1536, Calvin cho rằng dấu chỉ của một Giáo hội thật là “việc
thuần tuý giảng Lời Chúa và quản trị một cách đúng luật các bí tích”. Khác với
Luther, Calvin giảng về một sự tiền định (Praedestination) của Chúa. “Tiền định là
việc Chúa ban hy vọng đời đời cho người này và dành sẵn hình phạt kiếp kiếp cho
người khác. Không ai, dù đạo đức chăng nữa, tránh được nó… Bởi vì con người
không được tạo dựng giống nhau, người này đã được hứa phần thưởng đời đời, kẻ
kia đã được định sẵn hình phạt kiếp kiếp”.
Luther chỉ mon men tới điểm tiền định này. Calvin, trái lại, đã đặt nó làm tâm điểm
của giáo huấn mình. Bởi không ai biết mình sẽ được thưởng hay sẽ bị phạt, nên theo
Calvin, Chúa đã cho có những dấu chỉ bề ngoài để biết điều đó. Một dấu chỉ “được
thưởng” là những ai tin vào giáo huấn ông và thuộc về "Giáo hội thệ phản" của ông.
Cuộc sống đạo hạnh nghiêm nhặt cũng là dấu chỉ được cứu. Nhưng sự cứu rỗi không
đến từ việc sống tu thân, mà vì cuộc sống đó chứng tỏ một niền tin thật sự. Ai không
sống đạo hạnh, nghĩa là người ấy không có lòng tin thật sự. Và ai không tin thì
đương nhiên phải sa hoả ngục. Cuối cùng, của cải và danh vọng trần thế cũng là dấu
chỉ được cứu, vì không lẽ Chúa lại phạt những người mà Ngài đã ban cho của cải và
danh vọng ở đời này!
Thuyết tiền định đã không cản trở lòng tin, mà trái lại, đã khiến tín đồ thệ phản thi
nhau sống đạo đức và nỗ lực làm ăn thành công để được rỗi.
Giáo lý Calvin, qua việc thúc đẩy làm ăn và danh vọng, đã đẩy nền kinh tế Thuỵ Sĩ
lên một cách không ngờ. Đây là cội nguồn của chủ nghĩa tư bản bước đầu và cũng là
tiền đề cho sự lớn mạnh của Anh và Hà Lan, hai nước đã dẫn đầu thế giới về thương
mại trong thế kỷ 16 và 17.
TRÌNH THUẬT 66
Khi Tin lành Luther đã tách được một phần lớn lãnh thổ Đức ra khỏi Giáo hội Công
giáo, Giáo hoàng Hadrianô VI đã cho sứ thần mình tuyên bố tại đại hội đế quốc ở
Nuernberg ngày 3-1-1523: “Chúng ta phải thú nhận rằng, sở dĩ Chúa để Giáo hội rơi
vào cuộc bách hại này là vì tội lỗi con người, nhất là tội lỗi của các linh mục và giám
mục. Hẳn chẳng phải vì Chúa không cứu nổi chúng ta, nhưng vì tội lỗi đã tách ta ra
khỏi Thiên Chúa khiến Ngài đã không nghe thấu tiếng ta... Hẳn chúng ta cũng biết,
ngay nơi Toà thánh này trong nhiều năm cũng đã xảy ra nhiều chuyện kinh tởm, lạm
dụng chuyện thánh thiêng, dẫm đạp giới răn Chúa, vâng, mọi chuyện đã trở nên
ngược đời. Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi con bệnh đã bung ra từ đầu xuống
thân thể, từ các giáo hoàng xuống giám mục... Tất cả chúng ta, giám mục và linh
mục, đã đi sai đường chính và đã từ lâu chẳng còn một ai còn nghĩ tới chuyện tốt
lành. Mỗi một chúng ta hãy tự hỏi tại sao mình đã sa ngã và hãy tự ra án cho mình,
chứ đừng đợi án phạt của Chúa trong ngày thịnh nộ của Ngài”.
Quân Thổ lần đầu tiên tới trước cửa thành Wien
Trong khi lính đánh thuê người đức cướp phá Rôma, ở Konstatinop lãnh tụ Suleiman
chuẩn bị tiến quân về Âu châu. Sau khi Hung thua quân Thổ ở trận Mohács, đại hội
Vương quốc Hung đã bầu một người có tên Janos Zapolya lên làm vua. Việc bầu này
có sự can thiệp của một ông vua ở Pháp. Suleiman giờ đây liên minh với vua Hung
mới và chẳng lâu sau đó đưa 250.000 quân tiến đến trước cửa thành Wien. Cả Âu
châu lo lắng, biết rằng Hồi giáo sẽ chẳng dừng lại ở Wiên, nhưng đã chẳng có một
tiếp cứu nào cho 16.000 quân dân giữ thành.
Vừa rải quân vây, Thổ vừa cho bắn tin vào thành: “Vào ngày thứ ba chúng ta sẽ vào
trong thành các ngươi để điểm tâm!”. Ba tuần dài kháng cự thành công, chỉ huy
thành là bá tước Niklas Salm cho bắn tin ra: “Đồ điểm tâm của các ngươi đã nguội!”.
Không lâu sau, Suleiman ra lệnh lui quân, vì ngày 17-10 tuyết bắt đầu rơi. Quân Thổ
sợ mùa đông trung Âu, nên Wien lần nữa lại thoát.
TRÌNH THUẬT 67
TRÌNH THUẬT 68
INHÃ (IGNATIUS)
TRÌNH THUẬT 69
Từ hơn 100 năm nay những lời kêu gọi triệu tập công đồng không ngừng vang lên.
Luther là người cuối cùng đã hai lần cất lên lời này. Cả hoàng đế Karl V và các đại
hội đại biểu đẳng cấp Đức cũng đòi hỏi gấp rút phải có công đồng chung. Nhưng
Giáo hoàng Klêmentô VII tìm mọi cách tránh né. Ngài sợ chủ trương ưu quyền công
đồng lại có dịp sống dậy. Thêm vào đó, đại hội đại biểu Đức ở Nuerenberg cứ đòi
cho được “công đồng chung, tự do và Kitô giáo phải triệu tập trên đất Đức”; với đòi
hỏi này có lẽ là họ muốn một công đồng không cần giáo hoàng và trong đó giáo dân
có quyền bỏ phiếu. Nếu vậy thì giáo hoàng không thể chấp nhận. Kinh nghiệm nhức
nhối của Công đồng Konstanz và Basel còn đó. Vì thế, phải đợi đến Phaolô III yêu
cầu triệu tập công đồng mới được thực hiện. Và như ta thấy qua diễn tiến của công
đồng, thì đó đã là một toàn thắng của ưu quyền giáo hoàng trên công đồng.
TRÌNH THUẬT 70
Tại Nhật
Tục truyền Xaviê có khiếu lạ lùng về ngôn ngữ. Dù vậy, thánh nhân đã rất khổ sở vì
tiếng nhật xa lạ. Trong một lá thư, ông cho hay đã phải cần 40 ngày mới học thuộc
được mười điều răn bằng tiếng này.
Những nhà thông thái nhật lễ phép lắng nghe Xaviê, tranh luận với ông, nhưng chẳng
ai quan tâm gì tới Kitô giáo. Sau một năm không đạt được kết quả đáng kể nào ở
Kagoshima, Xaviê tính chuyện tới gặp hoàng đế nước Nhật. Nhưng hoàng đế chỉ là
một vị biểu kiến, không có thực quyền. Tất cả quyền lực nằm trong tay các lãnh chúa
vùng. Nhật thời đó bao gồm khoảng 50 tiểu quốc, gần như độc lập với nhau. Biết
được điều này, Xaviê liền kết bạn với lãnh chúa ở Yamaguchi. Lần đầu tới thăm ông
này, Xaviê ăn bận trang trọng theo kiểu cách của một sứ thần giáo hoàng, vì biết rằng
người Nhật rất coi trọng bề ngoài. Nhưng cũng không thành công.
Trong thời gian ở Nhật, Phanxicô học được một bài học quan trọng hơn, đó là nếu
muốn thành công, người truyền giáo phải biết hội nhập văn hoá. Điều này cụ thể có
nghĩa là ông phải xuất hiện trước dân tộc có văn hoá cao này khác hơn khi xuất hiện
với dân chài mù chữ ở Ấn. Vì thế, ông đi tới với các sư sãi Phật giáo và học các ngôn
từ của họ để áp dụng cho đạo mình. Phương pháp hội nhập này đã được các nhà
truyền giáo dòng Tên sau này tiếp tục áp dụng và khai triển.
Dù gặp nhiều khó khăn lớn, năm 1570, Nhật đã có 30.000 tín hữu do 30 linh mục
dòng Tên hướng dẫn. Mười năm sau, số tín hữu tăng lên 150.000 và cứ tăng đều cho
tới cuộc tử đạo của Nagasaki ngày 15-2-1597. Dù phải trải qua nhiều cuộc bách hại,
năm 1614, số Kitô hữu ở Nhật đã lên tới gần 300.000 và năm 1601 người nhật đầu
tiên nhận chức linh mục. Khác với ngư dân thiếu may mắn ở Ấn, người Nhật vào đạo
với tất cả ý thức, chứ không phải vào vì lợi lộc.
Phanxicô còn học được một kinh nghiệm khác ở Nhật, là cội nguồn văn hoá của
nước này bắt nguồn từ Trung Hoa. Vì thế, năm 1551, ông trở lại Goa và lên đường
sang Trung Hoa vào ngày 17-4, dù vẫn biết rằng người Tây phương nào đặt chân lên
đất nước này sẽ bị tội chết. Xaviê liều lĩnh đút lót nhờ một thương buôn Bồ đưa sang.
Tháng 8, ông lên được hòn đảo Sancian ngoài khơi Trung Hoa. Ở đó, bị anh thông
dịch người Hoa bỏ rơi, nên Xaviê loay hoay mãi mà vẫn không vào được lục địa. Và
ông mất tại đó vì bệnh cúm khi mới 46 tuổi.
Sau nhiều cố gắng thất bại của nhiều giáo sĩ dòng Tên khác, hai Linh mục Michele
Ruggieri và Matteo Ricci cuối cùng đã vào được lục địa năm 1583. Hai ông áp dụng
phương pháp hội nhập, học tiếng, nghiên cứu đạo Khổng và giảng đạo trong bộ áo
nhà sư. Năm năm dài mà chỉ được 40 tín hữu! Truy nguyên lý do thất bại, các ông
hiểu ra là vì tấm áo cà sa, bởi dân Trung Hoa thời đó không ưa các nhà sư. Bỏ cà sa,
hai ông khoác lên mình áo nhà nho, rảo khắp nước giảng đạo. Ricci tìm mọi cách
bước vào được hoàng cung. Cho tới năm 1598, ông ngụ tại Nam Kinh. Ở đó, ông đã
vẽ một bản đồ nổi tiếng gọi là “Bản đồ vạn quốc”, trong đó nước Tàu nằm ở vị trí
trung tâm: Trung Quốc. Năm 1601, hoàng đế tặng Linh mục Ricci một căn nhà ở Bắc
Kinh và cho phép ông xây ở đó một nhà nguyện. Nhờ khả năng thiên văn, toán học
và địa lý, ông được hoàng cung trọng vọng. Ricci làm lịch, làm đồng hồ, vẽ bản đồ
và làm rất nhiều dụng cụ khác khiến vua quan càng thán phục. Cuốn “Giáo lý thật
của Chúa” của Ricci trở thành một cuốn sách cổ điển trong nền văn học Trung Hoa.
Khi Ricci mất (năm 1601, lúc 58 tuổi), cả Trung Hoa có 38.200 tín hữu.
Người thế chỗ Ricci là giáo sĩ dòng Tên người Đức Johann Adam Schall ở Bell
(1630-1666). Nhờ tài thiên văn và toán học, ông được tặng tước: “Giám đốc Viện
Toán học và Phòng Thiên văn, Thầy của các bí mật bầu trời và của Hội đồng Tôn
phủ và là Quan nhất phẩm với tước Hầu”.
Ý Chúa
Châu Âu, sau cuộc cải cách, chỉ còn lại 3 nước Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là
thuần Công giáo. Trong khi đó, nhờ khám phá những miền đất mới, Giáo Hội bất
ngờ được dịp bung ra khỏi Âu châu.
Thực dân Bồ và Tây Ban Nha đi tới đâu, các nhà truyền giáo theo tới đó. Những
khám phá và xâm chiếm đất đai không chỉ vì quyền lợi chính trị, quân sự và kinh tế,
mà còn cả tôn giáo. Nhưng tiếc thay, công cuộc truyền giáo dưới cây dù thực dân
thường với những phương cách tàn bạo và nhơ nhuốc đó đã tạo cho người ta cảm
tưởng rằng Giáo Hội đã cùng một bè một cánh với thực dân cướp bóc. Cảm tưởng
này cho đến ngày nay vẫn còn hằn sâu trong tâm trí của một số dân tộc.
Những nỗ lực chống lại của một số nhà truyền giáo lẻ loi cũng đã không làm đổi thay
được nhiều tình trạng đáng tiếc đó. Chẳng hạn như việc Xaviê chống lại sự tàn bạo
của thực dân Bồ. Giáo sĩ Las Casas (1474-1566) dòng Đaminh, cũng không thành
công trong việc đòi hỏi đối xử nhân đạo với thổ dân ở Mỹ châu. Petrus Claver (mất
năm 1654) được coi là “Người cha của dân da đen và nô lệ” cũng là một trong những
người tiên phong đòi tách chính trị ra khỏi truyền giáo.
TRÌNH THUẬT 71
Hai năm sau khi chuyển Công đồng Trento về Bologna, Giáo Hoàng Phaolô III mất.
Nhưng việc đổi mới của Giáo Hội mới chỉ bắt đầu. Ai là người sẽ tiếp tục và đưa
công cuộc này tới kết thúc?
Giáo hoàng đổi mới đầu tiên mất sau 21 ngày tại chức
Giáo hoàng Juliô III mất ngày 1-5-1555. Các hồng y đã bất chấp tình hình chính trị,
quyết bầu lên một vị có tinh thần đổi mới. Ba vị được đưa ra để chọn: Carafa,
Cervini và Pole. Nhưng Pole thì ở Anh; Carafa lại dữ quá; vì thế Marcello Cervini,
54 tuổi, đã được chọn. Ngài lấy tên mình làm hiệu, vì muốn mình trước sau vẫn là
một, một người trước đó và sau này vẫn quyết tâm phục hồi Giáo Hội.
Các sử gia coi Marcello II là vị giáo hoàng đổi mới đầu tiên. Để tránh tình trạng con
ông cháu cha (Nepotismus), ngài cấm người thân không được bén mảng tới Rôma.
Ông đưa ra nhiều biện pháp thắt lưng buộc bụng cho giáo triều. Nhưng tiếc thay ngài
mất chỉ sau 21 ngày nhận sứ vụ. Cái chết đột ngột đó đã khiến bề trên cả dòng
Âutinh là Seripando viết: Thiên chúa muốn qua cái chết đó cho thấy rằng sự cứu độ
của Giáo Hội không do con người mà có. Nhiều người đương thời khác đã dùng một
từ của thi sĩ Vergil ở Rôma để diễn dịch cái chết khó hiểu đó rằng Chúa chỉ muốn
“đưa” Marcel lô cho Giáo Hội thấy, chứ không muốn “tặng” ngài cho Giáo Hội.
Xác Giáo hoàng được chôn cất trong một hòm cổ. Pierluigi ở Palestrina đã sáng tác
bộ lễ nổi tiếng “Missa Papae Marcelli” để lưu danh ngài.
TRÌNH THUẬT 72
Ferdinand ở Áo
Năm 1556, hoàng đế Karl V thoái vị, nhường ngôi lại cho em là Ferdinand I và lui về
ở ẩn trong tu viện San Yuste ở Tây Ban Nha. Con ông là Philipp II, vua của Tây Ban
Nha, tháp tùng ông tới tu viện. Vương quốc Tây Ban Nha thời đó bao gồm cả Napoli,
Milano, Bourgogne, Hà Lan và các thuộc địa ở trung và nam Mỹ châu. Ferdinand I
lên làm hoàng đế, mở đầu nhà Habsburg ở Áo. Hoàng đế Karl triệu tập đại hội toàn
quốc tại Augsburg, nhưng đại hội này đã không do ông, nhưng do Ferdinand chủ toạ.
Ferdinand chào đời tại Tây Ban Nha, nhưng đóng dinh ở Innsbruck, sau đó ở Tiệp và
cuối cùng ở Wien. Ông lập gia đình tại Linz với cô Anna người Hung và có tất cả 15
người con. Trước cảnh đổi vợ như thay áo của Vua Henry VIII ở Anh, gương trung
tín vợ chồng của Ferdinand đã trở thành đề tài sôi nổi cho các ông hoàng bà chúa
thời đó. Trước những thắc mắc của họ, Ferdinand đáp: “Người có lòng đạo thì phải
giữ gắn bó gia đình. Thà tốn kém chút ít cho vợ hơn là đi mèo mỡ”.
Ferdinand làm lễ đăng quang ở Franfurt. Giáo hoàng Phaolô IV không công nhận
cuộc đăng quang này và việc thoái vị của Karl, viện lẽ là vì đã không xin phép giáo
hoàng trước. Ngài cũng cho rằng việc bầu Ferdinand đã không hợp pháp, vì hôm đó
có sự hiện diện của ba vương công (Kurfuersten) tin lành.
Sau khi gia tài dòng họ Habsburg được chia ra cho nhánh Tây Ban Nha và nhánh áo,
mũ đế tiếp tục nằm trong tay nhánh áo, dù rằng nhánh này chỉ là “bà con nghèo” của
dòng Habsburg Tây Ban Nha. Năm 1551 Ferdinand I mời dòng Tên vào Wien, nơi
nhiều nhà thờ đã bị Tin lành dọn sạch. Dòng Tên không những cất lên ở đây một
trường học, mà còn - để phù hợp với tâm tình dân Wien - cả một nhà hát để diễn kịch
cổ điển và kịch đạo. Khi nạn dịch hạch nổ ra tại Wien thì các giáo sĩ dòng Tên là
những người duy nhất ở lại trong thành và cố gắng dùng kí nin mà họ mang từ Tây
Ban Nha về để chữa bệnh. Dân thành gọi thuốc đó là “bột dòng tên”. Linh mục linh
hướng của Ferdinand I là Thánh Petrus Canisius, thuộc dòng Tên. Ferdinand đã cho
đúc hình Canisius lên con dấu của thành Wien để lưu danh ông.
Lãnh chúa ấn định tôn giáo
Trong đại hội toàn quốc ở Augsburg năm 1555 không có tranh luận về chuyện thần
học. Mục tiêu duy nhất của các ông hoàng Đức ở đại hội này là làm sao để giữ đế
quốc khỏi rã. Tất cả đã đi đến thoả thuận là hoàng đế và các ông hoàng công giáo
không được gây chiến với các lãnh chúa theo Tin lành và ngược lại, các ông hoàng
tin lành cũng không được làm áp lực hoặc gây chiến với các lãnh chúa Công giáo.
Các phái Tin lành khác như Calvin, Zwingli và phái Rửa tội không được công nhận
trong đại hội này. Họ phải đợi tới thoả ước Hoà bình Westfalen năm 1648 kết thúc
cuộc chiến tôn giáo 30 năm mới được hưởng quy chế bình đẳng.
Ngoài ra, người ta cũng đồng ý chỉ một mình lãnh chúa được phép tự do muốn theo
đạo nào tuỳ ý. Còn thần dân trong lãnh địa không được tự do đó. Hoặc là họ phải
chấp nhận theo đạo của lãnh chúa (“Cuius regio, eius religio” = Vùng nào đạo đó)
hoặc phải rời khỏi xứ. Nếu rời xứ, họ có quyền bán gia sản, chứ không bị truất hữu.
Trong trường hợp lãnh chúa là giáo sĩ - giám mục hay bề trên dòng - muốn bỏ theo
Tin lành thì thần dân không buộc phải theo đạo mới. Lãnh chúa đó trái lại phải từ
chức và trao tài sản lại cho vị kế nhiệm. Hoàng đế Ferdinand I đã quyết định “luật
trừ” đối với giáo sĩ này trước sự chống đối của phe Tin lành. Còn những lãnh chúa
giáo sĩ nào cho đến lúc đó đã theo Tin lành rồi thì, mặc cho phe Công giáo phản đối,
ông đã cho phép họ được tiếp tục giữ đất và chức tước.
Thoả ước Augsburg tưởng chỉ là một biện pháp tạm thời, nhưng nó đã trở thành vĩnh
viễn với những hệ quả lịch sử quan trọng. Chẳng có gì gọi là tương dung hay tự do
tôn giáo ở thoả ước này cả, bởi vì các lãnh chúa trong thực tế có quyền ấn định đạo
cho thần dân thuộc lãnh địa mình. Nhưng thoả ước đó đã tạm tạo được ổn định của
từng tiểu quốc trong một đế quốc mà lúc đó thực tế đã phân thành hai phe Tin lành
và Công giáo. Tôn giáo lúc đó vẫn còn là một yếu tố chính trị vô cùng quan trọng.
400 năm sau, Giáo hoàng Piô XII nói về thoả ước hoà bình đó: “Vì hạnh phúc sống
còn của cả đế quốc và Giáo Hội trong biên cương nước Đức mà các lãnh chúa Công
giáo đã đặt bút kí thoả ước”.
Một hậu quả nữa của thoả ước Augsburg là sự phân cách ngày càng xa giữa hai tôn
giáo, khiến nỗ lực đại kết ngày nay càng thêm khó khăn. Vì thoả ước mà hai bên đã
giành nhau tranh thủ cho được nhiều lãnh chúa về phe mình. Vì thế, phía Công giáo
đã tỏ ra dễ dãi cho việc thu tóm nhiều giáo phận vào trong tay một người. Với sự trợ
giúp của các giáo sĩ dòng Tên và Kapuzin, là những nhà giáo dục, linh hướng và là
cố vấn của các ông hoàng, Giáo hội công giáo tìm mọi cách để chận đứng ảnh hưởng
của Tin lành. Tin lành thì lại tìm đủ cách thấm nhập vào cứ địa công giáo. Tin lành
Calvin từ Thuỵ sĩ và Hoà lan cũng tìm cách len lỏi vào Đức, và họ đã thành công vào
được các vùng Pfalz, Hessen, Brandenburg và Bremen. Trong vòng 40 năm, người
dân trong các vùng này đã phải đổi đạo tới bốn lần: từ phái Luther chuyển sang
Calvin rồi lại về Luther...
Hệ quả cuối cùng và cay đắng nhất của thoả ước hoà bình Augsburg là cuộc chiến
tôn giáo, bắt nguồn từ sự bất đồng trong việc diễn dịch các điều khoản và đã đưa Âu
châu tới bờ diệt vong. Đặc biệt cuộc chiến ba mươi năm (1618-1648) đã làm tan
hoang nước Đức và mang đến cho người dân ở đây bao nhiêu đau thương mất mát.
Hẳn nhiên cuộc chiến đó đã chuyển từ tôn giáo dần sang thuần tuý chính trị quyền
lực.
Piô IV bế mạc Công đồng Trento
Giáo hoàng Piô IV kế vị Phaolô IV. Ngài là người Milano, mang tên Giovanni
Angelo Medici, nhưng không bà con gì với dòng họ Medici ở Firenze. Piô IV đứng
về phía cải cách, khôn ngoan và trung dung. Ngài đã rút lại nhiều biện pháp cứng rắn
của vị tiền nhiệm. Hai người cộng tác thân cận nhất của ngài là Hồng y Morone,
người đã bị Phaolô IV tống vào ngục luỹ Thiên thần và được Piô IV giải thoát, và
chính cháu ngài là Thánh Carlo Bôrmêô. Piô IV đã đội mũ hồng y cho Boromeô. Đây
quả là một trường hợp lạm dụng con ông cháu cha, nhưng là một lạm dụng thật bất
ngờ mang lại hồng ân cho Giáo Hội. Chính nhờ hai vị hồng y này mà Công đồng
Trento, đã kết thúc dai dẳng năm 1552, nay lại được tiếp tục và đã có được một bế
mạc khá tốt đẹp. Sau mười năm ngưng nghỉ, Công đồng đã được tái tục vào ngày 18-
1-1562 với sự hiện diện của 109 nghị phụ hồng y, giám mục và kéo dài mãi tới tháng
12 năm sau.
Trong phiên nhóm thứ ba và cuối cùng này Công đồng đã thông qua các sắc lệnh về
Thánh Thể, của lễ hy tế, phong chức linh mục, tính cách bí tích của hôn nhân, về
luyện tội, ân xá và về việc tôn kính các thánh, vật thánh và ảnh tượng. Công đồng đã
bác một đề nghị yêu cầu bỏ luật độc thân. Bổn phận của giám mục phải hiện diện
trong giáo phận, phải triệu tập công đồng miền và giáo phận và phải đều đặn đi thăm
viếng mục vụ đã được Công đồng thắt chặt hơn. Việc cho giáo dân rước máu thánh
trong nhiều giáo phận Đức đã được Công đồng cho phép nhưng với điều kiện nhất
định.
Biên bản Công đồng Trento đã được ký bởi 6 hồng y, 3 thượng phụ, 25 tổng giám
mục, 169 giám mục, 7 viện phụ và 7 tổng quyền dòng. Sau khi kí, các nghị phụ đồng
thanh tuyên bố: “Chúng tôi muốn mãi mãi công nhận niềm tin của Công đồng đại kết
thánh ở Trento, mãi mãi tuân giữ những sắc lệnh của Công đồng!”.
Hồng y Morone lo việc xin giáo hoàng ở Rôma phê chuẩn. Ngày 26-1-1564 phê
chuẩn đó được phổ biến bằng miệng và ngày 30-6 bằng văn thư. Các quyết nghị công
đồng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-5-1564. Petrus Canisius được uỷ thác mang
các sắc lệnh công đồng và văn thư phê chuẩn về cho các giám mục Đức.
Các quyết nghị đức tin của Công đồng đã giúp người công giáo có được những phân
biệt rõ ràng với giáo lý Tin lành và chúng đã như một luồng gió canh tân thổi vào
giáo sĩ và giáo dân. Nhưng Công đồng đã thất bại trong mục tiêu thứ ba: tái thống
nhất với Tin lành. Hai bên lúc đó đã xa nhau quá đi rồi.
TRÌNH THUẬT 73
Canisius là sứ giả của phái đoàn Toà Thánh ở Wien có nhiệm vụ mang các sắc chỉ và
bản phê chuẩn công đồng về cho các giám mục Đức. Trên đường đi từ Leipzig tới
Bamberg ông bị cướp tấn công và lấy mất túi tài liệu. Giáo hoàng phải cho chép lại
các văn bản và nhờ người khác mang sang Đức.
Cùng với Inhã ở Loyola, Petrus Canisius và Carlo Bôrômêô là 3 khuôn mặt hậu cải
cách đã mở đường đưa Giáo Hội vào một thời đại mới. Có được các sắc lệnh canh
tân của Công đồng là điều tốt, nhưng các tài liệu này chỉ giá trị khi chúng được thực
thi. Inhã là người Basque, Canisius người Đức còn Bôrômêô là người Ý. Inhã với
dòng Tên có công đưa đạo bung ra thế giới; Bôrômêô là nhà canh tân của Giáo hội Ý
và Canisius là người thứ hai sau Bonifacius được gọi là tông đồ của nước Đức.
RÌNH THUẬT 74
Têrêxa chào đời tháng 3-1515 tại tỉnh lị nhỏ Avila xứ Tây Ban Nha, trong một gia
đình gồm 11 chị em. Cùng năm đó, ở Đức, Johann Tetzel đang trên đường rao giảng
về ân xá, điểm gây bực bội cho Luther. Sáu năm sau, Magellan kết thúc chuyến hải
hành vòng quanh thế giới đầu tiên và trở về lại Tây Ban Nha. Kopernikus khám phá
ra trái đất không còn là trung tâm của vũ trụ, song chỉ là một hành tinh vô nghĩa của
hệ mặt trời. Vesalius chào đời trước Têrêxa một năm, người sau này là y sĩ riêng của
hoàng đế Karl V và là kẻ khai sinh ra khoa cơ thể học hiện đại.
Thế giới đang chuyển mình vào thời đại mới. Giữa lúc đó xuất hiện một Têrêxa,
người với những thị kiến lạ lùng đã có thể thấu hiểu được tận cùng kiếp người, tận
cùng mà nơi đó chỉ còn một mình con người đối diện với Thượng đế.
Vợ mất, ông Don Alonso Sanchez de Cepeda gởi Têrêxa vào nội trú trong một tu
viện an tịnh ở Avila. Đời sống khắt khe của nội trú đã khiến cô bé yêu đời phải la
lên: “Con chẳng muốn làm nữ tu một tí nào cả”. Về sau chị thú thật trong cuốn tiểu
sử của mình: chỉ nghĩ đến chuyện tu là đủ rùng mình. Vì cuốn tiểu sử mà chị đã phải
ra trước toà thẩm tra.
TRÌNH THUẬT 75
Năm 1572, Piô V mất, đúng mười năm trước khi Têrêxa ở Avila mất. Giáo hội Rôma
từ 300 năm nay mới có lại một vị thánh trên ghế giáo hoàng, dĩ nhiên thánh trong
tâm thức của thời đại đó.
Các lý do khác
Còn nhiều lý do khác giải thích việc Pháp vẫn tiếp tục là nước Công giáo, chứ không
phải chỉ riêng việc Henri đất Navarra vào đạo và lên ngai. Chia rẽ tôn giáo đã khiến
đất nước xé ra làm hai, khiến người Pháp bị dằn vặt. Thêm vào đó bao nhiêu nhà thờ
lộng lẫy bị phá, đất nước nhiều vùng tan hoang. Lại nữa đa số dân Pháp vốn khó
chấp nhận cái đạo đức khắt khe và lối sống khắc kỷ của Calvin. Nhiều người Pháp vì
thế đã trở lại với Công giáo, dù họ ghét cay ghét đắng dân Tây Ban Nha. Tây Ban
Nha thời đó được coi là đồng nghĩa với Công giáo. Điểm này đã khiến nhiều người
pháp chối từ hoặc đâm ra ghét Giáo hội Công giáo. Cuối cùng, công lao rao giảng và
những hoạt động từ thiện bác ái của các tu sĩ dòng Tên và dòng Kapuzin cũng đã góp
phần khuyến khích người dân trở lại đạo Công giáo.
TRÌNH THUẬT 76
MÂU THUẪN VỚI NGƯỜI THỔ VÀ NGƯỜI ANH
Trong thời Piô V, đất Âu chỗ nào cũng có xung đột. Pháp với cuộc chiến chống lại
Tin lành. Hà Lan và Anh cũng xung đột tôn giáo. Thêm vào đó Kitô giáo giờ đây lại
bị đạo Islam đe doạ.
Mary Ward, một “quà tặng của nước Anh cho Giáo Hội”
Mary Ward lớn lên giữa cơn bách hại Công giáo do Elisabeth I phát động ở Anh. Piô
XII năm 1951 gọi chị là “người đàn bà có một không hai mà Giáo hội Công giáo Anh
đã hiến tặng cho Giáo Hội hoàn vũ trong những giờ phút đen tối nhất của mình”.
Mary Ward chào đời năm 1585 ở lâu đài Old Mulwith trong một gia đình Công giáo
ở Anh. Khi Elisabeth I mất, chị được 18 tuổi. Cha mẹ chị đã nhiều lần bất chấp hiểm
nguy để cho các linh mục trốn trong nhà. Bà của chị bị tống ngục 14 năm dài vì đức
tin của mình.
Mary muốn đi tu, nhưng lúc đó ở Anh không còn tu viện nào nữa. Vì thế, cô bỏ sang
St. Omer ở Flandres (Bỉ). 21 tuổi, chị nhập tu hội Klara, tức dòng hai Phanxicô, ở
Pháp. Vì dòng uỷ cho việc đi ăn xin, chị thất vọng bỏ dòng và ra thu góm tiền bạc lập
riêng một nhà mới gần đó, gọi là Tu hội Klara người Anh và chính chị trở thành
người tập sự đầu tiên của tu hội. Nhưng chẳng bao lâu, chị biết mình trước sau gì
cũng phải rời chỗ này. “Tôi phải làm một cái gì khác”, chị nói, “nhưng cái gì thì chưa
biết mà cũng không thể nói ra được”.
Mary Ward về lại London, lao mình vào công tác tông đồ giáo dân. Chị thăm viếng
người bệnh, kẻ liệt và dạy trẻ con học. Càng ngày càng có nhiều chị em tới giúp.
Cùng với 7 chị em khác, chị quay trở lại St. Omer lập ngôi trường đầu tiên. “Các chị
người Anh”, tên người thời đó gọi nhóm của chị sống như những nữ tu, nhưng
không tách biệt trong phòng kín và không có những buổi ca nguyện. Các chị ăn bận
như những bà goá đương thời.
Trở lại London, Mary lập thêm một nhà ở đó. Người Anh giáo sớm để ý đến sinh
hoạt của chị. Tổng Giám mục Anh giáo ở Canterbury lúc đó tuyên bố chị đã làm hại
Giáo hội ông nhiều hơn các linh mục và ông muốn đổi một mình chị lấy 6 hoặc 7
linh mục dòng Tên. Đầu chị bị treo giá với một số tiền khá lớn. Dù vậy chị vẫn tiếp
tục lập các nhà khác ở Anh.
TRÌNH THUẬT 77
Ở Pháp, phong trào cải cách không tác động ào ạt như bên Đức, nên những bất công
còn tồn đọng lâu hơn. Làn sóng đổi mới Giáo hội thổi từ Tây Ban Nha và Ý từ từ
thấm vào đất Pháp, và cuối cùng nó đã được Vinh Sơn tạo thành một trận cuồng
phong cuốn theo nhiều giáo hữu.
Vinh sơn nhận ra rằng, đổi mới Giáo Hội cũng bao gồm việc đổi mới phương thức
giúp đỡ con người. Giúp người không chỉ là chuyện giữa cá nhân với cá nhân, nhưng
phải có tổ chức hẳn hoi. Vì thế, bất cứ đi tới đâu, Vinh Sơn cũng lập ra những cơ sở
bác ái, đặc biệt là Hội các Linh mục Lazarit và Dòng nữ Vinh Sơn. Đồng thời ông
cũng đổ hết tâm trí vào việc giáo dục quần chúng và cả linh mục. Thời đó, tình trạng
đào tạo linh mục xuống cấp thê thảm. Chính Vinh Sơn cũng chẳng có được một nền
tảng giáo dục vững khi nhận chức linh mục.
TRÌNH THUẬT 78
“NÀY NƯỚC ĐỨC, BÀ MẸ CỦA QUÁ NHIỀU PHÙ THUỶ, HÃY COI
CHỪNG!”
Benedikt Carpzow viết vào khoảng năm 1650 trong sách “Lối thi hành hình sự mới ở
Sachsen” của ông: “Cấp tra tấn thấp nhất là dùng dây buộc thật chặt các ngón tay.
Đau không thể tả. Lên cấp thứ hai, lý hình cho kéo giãn thang ra với hậu quả là tay
nạn nhân cũng bị căng ra theo làm các đốt xương bong ra, các ngón tay đứt rời khỏi
tay. Đây là lối tra tấn thông thường nhất và khi nghe nói đến chuyện tra tấn thì ta
phải hiểu là như thế. Cấp thứ ba và là cấp cao nhất là dùng bay nung đỏ hoặc lưu
huỳnh và lửa lột da, hoặc đóng dằm bằng gỗ thông vào dưới móng tay rồi châm lửa,
hậu quả là móng tay dộp rời khỏi thịt. Hoặc là trói gô nạn nhân vào thân một con bò
hoặc lừa bằng sắt rồi đốt trong bụng bò/lừa cho tới khi sắt đỏ lên. Đấy là một vài
trong nhiều cách tra tấn khá bài bản của lý hình". Sở dĩ Carpzow phải nói kỹ về các
lối tra tấn, mà theo ông, khá liều lượng đó, là vì ông nhận ra càng ngày càng có quá
nhiều vụ nạn nhân chết trong lúc bị tra tấn, gây ra bởi “các tay thẩm phán thiếu kinh
nghiệm và khát máu”. Họ “dùng đao phanh thây những phạm nhân vô phúc, chuyện
mà lòng kiên nhẫn con người không thể chấp nhận được. Như một con thú đã quen
mùi máu rồi cứ thèm uống thêm, họ thường say máu ra lệnh tăng gấp đôi số lượng tra
tấn”. Carpzow bản thân là một thẩm phán đời (không phải giáo sĩ) của toà thẩm tra
và nghe đâu đã kết án tử đến 10.000 nạn nhân. Nhưng dù thế, ông là người chủ
trương phải áp dụng những hình phạt mà theo ông phải có tính “nhân đạo” cho nạn
nhân. Carpzow là một tín hữu Tin lành và là người mở đường cho khoa hình luật ở
Đức. Nói lên điểm này là để cho thấy ngay những đầu óc trí thức thượng thặng Tin
lành thời đó cũng không thoát khỏi cơn loạn phù thuỷ. Một trường hợp Tin lành khác
nữa là nhà khoa học tự nhiên đồng thời là nhà toán học và thiên văn Johann Kepler
(+ 1630); ông này cũng chấp nhận có nạn phù thuỷ như Carpzow. Chính mẹ ông bị tố
về tội này, và may mắn lắm ông mới cứu được mẹ khỏi giàn hoả.
TRÌNH THUẬT 79
Vì “Dụ chống phù thuỷ” của Giáo hoàng Innôxenxô VIII không phân biệt rõ giữa
phù thuỷ thường (Hexenritt) và phù thuỷ có ngủ với quỷ (Teufelsbuhlschaft), nên hai
tu sĩ Đaminh ở Konstanz là Heinrich Institoris và Jacob Sprenger năm 1487 đã viết
một tài liệu mang tên “Hexenhammer” (Maleus maleficarum) để bổ túc thêm. “Tác
phẩm khốn nạn nhất trong nền văn chương thế giới” (Riezler) này một mặt đã làm
phong trào tin phù thuỷ bùng nổ mạnh, mặt khác đã đưa chiến dịch truy diệt trở thành
đẫm máu. Cuốn sách xuất hiện đầu tiên ở Strassburg và tới năm 1669 riêng ở Đức đã
tái bản tới 29 lần. Cũng nhờ việc phát minh kỹ thuật in thời đó mà sách được phổ
biến rộng rãi.
TRÌNH THUẬT 80
“VỤ GALILÊ”
“Tôi, Galilê, con của Vinzenzo Galileo ở Firenze, 70 tuổi, xin quỳ gối trước quý ngài
thẩm tra của thế giới Kitô giáo, những thẩm phán xét xử kẻ rối đạo”. Bằng những lời
đó, Galilê đã rút lại luận thuyết của mình vào ngày 22-6-1633. Rồi, tay đặt tay trên
Sách Thánh, ông tiếp:
“Tôi thề trước Phúc Âm là, với sự trợ lực của Chúa, tôi đã tin và còn đang tin vào
những gì Giáo hội thánh và tông truyền giảng dạy và coi là đúng.
Tôi bị luận tội rối đạo vì đã chủ trương và tin rằng mặt trời đứng một chỗ và là trung
tâm của vũ trụ, chứ không phải là trái đất đứng yên và là trung tâm...
Tôi thành tâm thề hứa từ bỏ mọi lầm lẫn và rối đạo.
Tôi hứa từ nay không loan truyền bằng lời nói hay chữ viết những gì có thể làm cho
tôi bị nghi ngờ về những tội như thế”.
Galilê lúc đó đã không dậm chân trên nền nhà và đã không nói câu “Eppur si muove”
(“Nhưng mà nó (quả đất) vẫn xoay!”), như truyền thuyết vẫn đồn. Trái lại, theo một
trình thuật có thật, ông đã rời phòng án “hoàn toàn rã rời, đầu nặng trĩu và không còn
nhuệ khí”. Galilê cuối cùng đã bị toà thẩm tra kết tội.
TRÌNH THUẬT 81
Năm 1623, đồng hương và là bạn của Galilê là Malfeo Barberini, 55 tuổi, ở Firenze
được bầu làm giáo hoàng, với hiệu là Urbanô VIII. Urbanô VIII có sức khoẻ phi
thường. Sức khoẻ đó đã giúp ngài lướt được bệnh sốt rét trong lúc ít nhất tám vị hồng
y đã chết vì nó. Bệnh sốt rét này các vị đã nhiễm phải trong thời gian họp mật viện để
bầu giáo hoàng. Urbanô VIII chả mấy khi triệu tập đoàn hồng y, vì vẫn cho rằng
mình thông thái hơn tất cả những vị đó hợp lại. Ngài cũng chẳng nghĩ ngợi gì trong
việc cho phép người ta tạc tượng mình dựng ở Kapitol. Khi được nhắc nhở rằng theo
một dụ năm 1590 thì chỉ sau khi giáo hoàng mất người ta mới quyết định xem có nên
tạc tượng hay không, ngài bảo dụ đó không ăn nhập gì đối với ông cả.
Galilê đặt tất cả hy vọng vào Urbanô và đề tặng ngài cuốn sách mới “Cái cân vàng”
của mình. Sách được Giáo hoàng khen và được uỷ ban kiểm duyệt cho phép in. Thế
là có một giáo chủ xem ra muốn tin "Quả đất quay" (Frank). Chính Urbanô VIII một
lần đã nói với Linh mục Đaminh Campanella: “Nếu mà là Ta thì đã không có vụ xử
năm 1616”. Cũng chính Urbanô VIII trong một tông thư ngắn đã mô tả Galilê là một
nhân vật “vinh quang toả tận trời và xuyên thấu địa cầu”.
Galilê vội vã tới Rôma và được Giáo hoàng tiếp chuyện riêng tới 6 lần. Dù vậy, cuối
cùng Giáo hoàng đã tuyên bố không chấp nhận lí thuyết mới đó vì còn thiếu chứng
cứ. Và rằng ngài chối từ nó trong tư cách một nhà khoa học chứ không phải là một
giáo hoàng.
RÌNH THUẬT 82
NĂM 1683, QUÂN HỒI GIÁO BỊ CHẶN ĐỨNG HOÀN TOÀN Ở WIEN
Một chuỗi thành luỹ kiên cố từ Belgrad tới Wien vẫn không cản được bước tiến của
quân Thổ Nhĩ Kì Hồi giáo. Đạo quân này đã tránh các đồn luỹ đó và tiến tới Wien
sớm hơn dự tính. Dân Wien hoảng hốt. Chuông của quân Hồi vang lên sáng chiều.
Từng đoàn người ty nạn từ các vùng phụ cận đổ xô vào thành phố. Hoàng đế
Leopold I một mặt trấn an dân chúng rồi bỏ đi săn vào ngày mồng 3 và 6-7-1683,
mặt khác đồng thời cho di chuyển kho tàng quốc gia khỏi thành phố và trưng thu
ngựa xe chuẩn bị cho hoàng gia chạy trốn.
Wien đứng trước một thử thách sống còn như chưa từng thấy trong lịch sử. Cũng như
lần trước, vào năm 1529, chính thành phố này sẽ quyết định Âu châu sẽ còn tiếp tục
là Kitô giáo hay sẽ trở thành Hồi giáo.
TRÌNH THUẬT 83
CÁC QUỐC GIA DÂN TỘC MUỐN ĐỨNG TRÊN GIÁO HOÀNG
Cho rằng mình vốn có những quyền đặc biệt, hàng giáo phẩm Pháp trong đại hội
chung năm 1682 tại Paris đã biểu quyết một “Điều khoản” 4 điểm mang tên “Các tự
do của Pháp”:
Thứ nhất: Chúa ban cho các giáo hoàng quyền đạo, vua không bị Giáo Hội chi phối
trong các việc đời. Giáo hoàng vì thế không có quyền cất chức vua và Giáo Hội
không có quyền cho phép thần dân được miễn tuân lệnh vua.
Thứ hai: Công đồng chung nhận quyền trực tiếp từ Chúa Kitô và có quyền hạn chế
năng quyền của giáo chủ. Giáo hoàng cũng phải tuân phục các án phạt do công đồng
chung đưa ra.
Thứ ba: Quyền hành của giáo hoàng được ấn định bởi luật Giáo Hội. Bên cạnh đó,
các nguyên tắc và thói quen đã có từ ngàn xưa của Giáo hội Pháp vẫn có giá trị.
Thứ tư: Giáo hoàng có ưu quyền trong các quyết định về vấn đề thuộc đức tin.
Nhưng quyết định của giáo hoàng vẫn có thể thay đổi khi chưa có sự chuẩn nhận của
Giáo Hội hoàn vũ.
“Điều khoản” được các giáo phẩm có mặt trong hội nghị nhất trí biểu quyết ngày 19-
3-1682. Ngày 20-3, vua Louis XIV công bố thành luật và chuyển tới các giám mục
Pháp. Giám mục Bossuet, gia sư của thái tử nối ngôi, là người đã soạn ra bản “Điều
khoản” này.
Louis XIV muốn bổ nhiệm tất cả giám mục
Nguyên nhân xung đột giữa Giáo hoàng Innôxenxô XI và vua Louis XIV là việc vua
muốn dành toàn quyền cho mình về Luật bổ nhiệm và quản trị (Regalienrecht) tại
Pháp. Từ thời Trung Cổ, vua Pháp có toàn quyền bổ nhiệm các nhân sự đạo (trừ nhân
sự cấp giáo xứ) trong các giáo phận miền bắc nước Pháp khi vị giám mục của các
giáo phận này qua đời, và cho đến lúc hoàn thành việc bổ nhiệm, vua được quyền
quản trị mọi chi thu của giáo phận. Công đồng Lyon thứ hai (1274) cấm mở rộng
quyền này. Nhưng năm 1673, vua Louis vẫn coi quyền đó thuộc nhà vua và ra lệnh
áp dụng nó cho toàn Vương quốc Pháp. Tất cả giám mục Pháp đều chấp hành ý của
vua. Chỉ trừ hai giám mục là Pavillon ở Alet và Caulet ở Pamiers. Louis XIV cho
triệu Caulet đến để hỏi tội, thì Caulet trốn biệt. Vua liền cho dựng hình Caulet ở chợ
tỉnh Pamiers, kết án tử hình và cho chặt đầu giám mục này một cách tượng trưng
bằng cách cắt đầu khỏi tấm hình nộm dựng giữa chợ.
Giáo hoàng đứng về phía hai giám mục và yêu cầu nhà vua rút lại dụ năm 1673.
Giám mục đoàn ở Pháp phản đối giáo hoàng và coi yêu cầu của ông là một xen lấn
vào nội bộ của Giáo hội Pháp. Vua Louis liền đó cho triệp tập đại hội chung nói trên
và đại hội đã thông qua “Điều khoản” và xác định việc áp dụng luật bổ nhiệm và
quản trị cho cả nước Pháp. Đại hội cũng đã làm sống lại chủ trương ưu thế công đồng
(điểm hai) và chống lại việc không sai lầm của giáo hoàng (điểm bốn). Một phần
cũng vì điểm cuối này mà Công đồng Vaticanô I (1869-1870) về sau đã đưa ra
chuyện bất khả ngộ của giáo hoàng. Người đương thời nhận định về “Điều khoản”:
hãy còn đứng trong Giáo Hội, nhưng đã chân trong chân ngoài ra khỏi Giáo Hội.
Chủ trương độc lập của Giáo hội Pháp đã bắt nguồn từ xa trước
Chủ trương này đã được vực dậy dưới thời Louis XIV. Gốc rễ của nó bắt nguồn từ
đời vua Philippe IV (với biệt danh “Người đẹp”). Trước đây, Philippe đã muốn giáo
hội trong vương quốc ông tách khỏi ảnh hưởng của giáo hoàng. Ông đã tuyên bố đại
ý như sau: nếu ông trở thành vua hoàn vũ thì giáo hoàng sẽ không còn là một thượng
phụ ăn lương của ông nữa. Mười năm sau khi Philippe mất, Marsilius ở Padua, người
đề xướng chủ nghĩa quốc gia chuyên chế, đã kêu gọi trong tác phẩm “Bảo vệ hoà
bình” (Defensor pacis) của ông việc thành lập một quốc gia độc lập với Rôma và
nắm toàn quyền trên cả giáo hội bản quốc. Ngoài ra, Marsilius cũng chủ trương mọi
giám mục đều có quyền như giáo hoàng và công đồng chung là định chế có thẩm
quyền cao nhất. Marsilius, như thế, không những chủ trương tách rời thế quyền và
thần quyền, nhưng cổ xuý cả cho sự thuần phục hoàn toàn của Giáo Hội vào thế
quyền. Dưới thời Louis XIII, một số tín hữu Công giáo ít nhiều nói đến việc độc lập
với Rôma, và năm 1614, giai cấp đệ tam đã đề nghị soạn một hiến pháp, theo đó nhà
nước Pháp chỉ còn thuần phục duy nhất một Thượng đế mà thôi. Mộng tuy không
thành, nhưng tư tưởng về một Giáo hội Pháp tự trị đó vẫn dai dẳng tồn tại.
TRÌNH THUẬT 84
GIẢI TÁN DÒNG TÊN, MỘT THẮNG LỢI CỦA ÁNH SÁNG
Ngày 21-7-1773, Giáo hoàng Klêmentô XIV “sau khi đã suy nghĩ kỹ, đã nắm vững
sự kiện và với năng quyền tông đồ” ra lệnh giải tán dòng Tên. Đây là một biến cố có
một không hai trong lịch sử Giáo Hội và là một chiến thắng vĩ đại của ảnh hưởng tư
tưởng thời đó, được gọi là “phong trào ánh sáng lý trí”.
Có nhiều nguyên do
Phong trào chống dòng Tên khởi đầu từ Bồ Đào Nha. Nguyên do là việc Tây Ban
Nha cắt bảy làng tự trị người da đỏ ở Paraguay do dòng Tên lãnh đạo cho Bồ Đào
Nha. Dân đa đỏ đã nổi dậy chống lại và dòng do đó đã bị gán cho tội xúi giục. Ngoài
ra dòng còn bị tố buôn bán trái phép và có can dự vào cuộc ám sát hụt nhà vua. Vì
thế, tài sản của dòng bị tịch thu, tất cả nhân sự - gồm những ai không chịu bỏ tu, đã
ra khỏi tù hoặc còn sống sót trên chuyến hải hành - bị đẩy lên tàu chở về trả cho
Quốc gia Giáo hội.
Ba năm sau (1762), dòng Tên bị trục xuất khỏi Pháp. Người ta gán cho họ trách
nhiệm làm hỏng cuộc truyền giáo ở đảo Martinique. Ở Pháp, ngay từ thế kỷ 16, dòng
đã bị chống đối mạnh. Nhiều biến cố nối tiếp ngày càng làm tăng lực chống này.
Năm 1756, bà Pompadour, vợ của một nhà kinh tài, trở thành người tình của vua
Louis XV. Bà nhờ đó đã nắm trong tay nhiều quyền lực. Dòng Tên vì chỉ trích
chuyện này nên bị bà ghét cay ghét đắng. Dòng Tên ở Pháp cũng bị tố có nhúng tay
vào việc ám sát hụt nhà vua. Năm 1762, tài sản dòng bị tịch thu và độ 3000 tu sĩ bị
trục xuất. Ngày 1-12, vua Louis tuyên bố giải tán dòng.
Ba năm sau đó, tới phiên Tây Ban Nha trục xuất dòng Tên. Dòng bị gán tội xúi dân
nổi loạn chống lại những bất công kinh tế và xã hội. Ngày 27-2-1767, nhà vua ra dụ
tịch thu tài sản và trục xuất dòng mà không nêu lý do. Vì Giáo hoàng Klêmentô XIII
không chịu nhận số tu sĩ này vào nước Giáo Hội nên họ “bị đày” ra đảo Korsika. Có
tất cả khoảng 2800 tu sĩ trong nước và 1600 trong các điểm truyền giáo ở hải ngoại
lâm vào tình trạng “bị đày” đó.
Tại Áo, nữ hoàng Maria Theresia phản đối việc trục xuất dòng Tên. Nhưng sau khi
con gái bà là Marie Antoinette kết hôn với thái tử Pháp vào năm 1770 thì bà vì quyền
lợi bang giao với Pháp đã không còn giữ nguyên ý: bà cho hay sẵn sàng đuổi dòng
nhưng phải có sự đồng ý của giáo hoàng Rôma.
Nước Phổ lúc này do đại vương Friedrich II cai trị. Ông này là người theo khuynh
hướng “ánh sáng” nên đã hoan hô việc Tây Ban Nha trục xuất dòng Tên. Nhưng lại
không muốn áp dụng gương đó ngay tại xứ mình. Ông viết trong một bức thư: “Phần
tôi, dù là một tay rối đạo, nhưng vẫn lấy làm vinh dự giữ lại những gì còn lại của
dòng Tên ở Schlesien. Cứ xem việc đuổi dòng ở Pháp, trong những năm đầu rốt cuộc
chỉ có hại cho việc giáo dục thanh thiếu niên... Các tu sĩ dòng Tên chỉ bị đuổi khi nào
ngài yêu cầu và tôi muốn chứng minh cho ngài thấy rằng chuyện này chỉ xảy ra vì
ganh tị, hiềm thù, mưu chước và cuối cùng là tư lợi mà thôi. Các linh mục và tu sĩ
dòng Tên là người thật thà, tôi muốn giữ mối tình cảm tốt đẹp...”.
Nữ hoàng Katharina II ở Nga cũng không trục xuất dòng. Dù mấy năm sau đó dòng
bị trục xuất khỏi Phổ, nhưng ở Nga thì không.
Cải tổ quá đà
Joseph II còn tiến hành nhiều cải tổ đáng vinh danh khác, như bỏ việc tra tấn và án
tử, lập một nhà mồ côi, một trường câm điếc và “bệnh viện đa khoa” ở Wien, bệnh
viện lớn nhất thế giới thời đó. Ông còn bỏ chế độ nông nô, quan tâm tới các tầng lớp
hạ lưu, đánh thuế giới quí tộc và lập ra chế độ cưỡng bách giáo dục.
Nhưng cải cách của ông đã đi quá xa, chẳng hạn như khi ông cấm các em nữ sinh
mặc yếm bó người, cấm các bà nội trợ nướng Lebkuchen (loại bánh ngọt có pha xô
cô la và quế), vì bánh này ăn khó tiêu, hoặc khi ông ra lệnh nắp quan tài chỉ được làm
bằng tấm gỗ phẳng, để tiết kiệm gỗ.
Theo sách báo thuật lại, Joseph là người rất thích làm nhục người khác hoặc đẩy
người ta vào chân tường. Ngay cả mẹ ông, nữ hoàng Maria Theresia, ông cũng không
từ. Ông cười cợt trên lòng đạo của bà. Ông luôn cho rằng chỉ có một mình ông biết
thần dân ông “cần” gì để được “hạnh phúc”.
TRÌNH THUẬT 86
TRÌNH THUẬT 87
Cuối tháng 12-1797, nhiều trăm người chống đối tụ họp trước dinh Joseph
Bonaparte, một người anh em của Napoleon, đòi tước quyền lãnh đạo của giáo hoàng
trên nước Giáo Hội. Họ đồng loạt hô đi hô lại: “Hoan hô Cộng hoà! Hoan hô Tự do!
Đả đảo Giáo hoàng!”. Tướng Pháp Duphot, lúc đó đang có mặt trong nhà Joseph
Bonaparte, ra đường nhập bọn và dẫn đầu đám đông. Khi quân đội giáo hoàng phản
ứng lại đám biểu tình và bắn tướng Duphot, tướng Berthier đất Ancona liền quay lại
chống Rôma; ngày 10-2-1798, ông chiếm Rôma chẳng tốn một viên đạn và tuyên bố
thành lập nền cộng hoà. Sau đó, quảng 300 người “yêu nước” tụ tập trên thao trường
Rômanum, tuyên bố cách chức giáo hoàng. Trong Nhà thờ Thánh Phêrô, dân cách
mạng hát vang bài ca “Tạ ơn” (Te Deum) mừng biến cố lập lại nền cộng hoà ở
Rôma. Người ta ra lệnh cho Giáo hoàng - người 16 năm trước đây sang Wien thương
thảo với hoàng đế Joseph II - phải rời Rôma trong vòng 3 ngày. Khi thấy Piô VI
không chịu đi và nghe ngài bảo rằng sẵn sàng chết ở Rôma, Berthier trả lời: “Ông
muốn chết ở đâu mà không được!”. Rồi ông cho bắt giữ Giáo hoàng. Linh mục
Baldassari, đổng lý Vatican thời đó, ghi lại sự kiện như sau:
“Sáng sớm trước khi mặt trời mọc ngày 16-2-1798, quân đội Pháp chiếm công
trường Phêrô. Họ cấm tất cả những ai từ thành phố hoặc vùng lân cận bước vào dinh
giáo hoàng và đồng thời không cho người ở trong đi ra ngoài. Từ công trường, quân
Pháp với đội hình chiến đấu, cờ xí tung bay và trống kèn ầm vang tiến vào dinh.
Chẳng bao lâu người ta thấy cờ tam tài tung bay trên dinh giáo hoàng hiền hoà...”.
Sau khi tước khí giới đội binh giáo hoàng, “việc canh phòng chỗ ở của Đức Thánh
Cha được giao lại cho quân đội quốc gia và đặc biệt cho mấy đại đội lính ô hợp nhất.
Chẳng mấy chốc bọn này ca hát ỏm tỏi, văng tục và tuôn ra những lời báng nhạo
Chúa thật đáng tởm. Mùi rượu lờm lợm và mùi thuốc lá bay vào tận phòng Đức
Thánh Cha ở...”.
Rồi “anh thủ quỹ khét tiếng” gốc Thuỵ Sĩ của quân đội Pháp ở Ý đi lục soát khắp
dinh tìm của quý. “Khi gặp một phòng không người canh nào chịu mở, y doạ sẽ lấy
búa đập cửa vào”. Giáo hoàng liền ra lệnh trao chìa khoá cho y. Sau khi vơ vét tất cả
những gì tìm thấy, “y vui vẻ tiến đến gần Đức Thánh Cha, tì cùi chỏ lên bàn rồi nói
với Piô VI: ‘Tình hình rất nguy hiểm, ông nên rời Rôma thì hơn’. Ngoài ra, y cho
biết thêm, cách mạng cần trưng dụng phòng ốc và Giáo hoàng có nguy cơ trở thành
nạn nhân của cuộc nổi dậy của dân chúng. Giáo hoàng liền trả lời anh ta: “Chúng tôi
chỉ ở vài ba phòng trong toà nhà này. Tất cả còn lại đều trong tay người Pháp. Riêng
đối với an ninh bản thân thì chúng tôi không sợ một chút gì từ phía dân Rôma cả. Là
kẻ đứng đầu Hội Thánh, chúng tôi mang trách nhiệm lớn và sẽ không bao giờ rời bỏ
ngai thánh Phêrô này!”
Bất ngờ vì thái độ của Giáo hoàng, anh thủ quỹ lắp bắp trong miệng rồi lái đề tài
sang chuyện các vật quý của Giáo hoàng: “Xin lỗi, tôi chưa lục soát phòng ngủ của
ông!”. Piô VI đích thân dẫn y vào phòng, mở tráp cho y thấy chẳng có gì đáng giá
ngoài chiếc nhẫn mục tử. Và y lặng lẽ bước ra khỏi căn phòng.
Đêm hôm đó họ chuẩn bị mang Giáo hoàng đi lưu đày. “Cuối cùng, chiếc xe chở
Giáo hoàng chuyển bánh”, Baldassari kể tiếp, “trước và sau xe là hai đội kị binh
hùng hậu, tới hai uỷ viên đại diện, rồi tới đoàn tháp tùng Đức Thánh Cha và cuối
cùng thêm một đội kỵ binh nữa. Chúng tôi đau đớn, tim như muốn bung ra khỏi lồng
ngực. Chúng tôi quỳ rạp xuống để nhận phép lành, và ngày 20-2-1798, quảng một
giờ trước khi ngày bắt đầu, Giáo hoàng Piô VI giã biệt Vatican và thành Rôma”.
TRÌNH THUẬT 88
“Người ta để giáo hoàng cưỡi ngựa về Paris như một ông linh mục phó xứ làng quê
nhận được lệnh giám mục về dâng lễ”, Hồng y Bộ trưởng Ercole Consalvi đã viết
như thế về cách Napoleon triệu giáo hoàng về Paris để xức dầu phong đế cho mình.
Trước đây, chấp chánh đoàn tìm cách dẹp bỏ ngai giáo hoàng. Nay Napoleon lại
“quàng ách vào ngai đó để biến nó thành một công cụ cho quyền lực toàn trị của
ông” (Ranke). Thái độ coi thường của Pháp được chứng tỏ qua câu của tướng
Lafayette Napoleon một lần nói thẳng với giáo hoàng: “Ông chỉ có việc nhận tội
thôi! Chiếc bình xức dầu nhỏ này đáng được đập vỡ trên đầu ông. Ông chỉ muốn có
vậy!”.
Năm 1804, khi muốn trở thành hoàng đế nước Pháp, tướng Napoleon đã yêu cầu
Giáo hoàng Piô VII về Paris làm lễ phong đế cho mình. Chưa bao giờ một giáo
hoàng đã tới Wien để xức dầu phong đế (cho hoàng đế đế quốc Đức). Nhưng lần này
Piô VII chịu đến Paris, là vì ngài hy vọng có dịp gặp riêng để yêu cầu Napoleon bỏ đi
một số điểm trong danh sách “khoản (77)” của ông. Song chuyến đi này cũng thất bại
như chuyến đi sang Áo của vị tiền nhiệm Piô VI trước đây. Napoleon muốn trở thành
một quân vương chính danh qua việc xức dầu đội mũ. Ông bắt giáo hoàng phải tuyên
bố bỏ tước “Đế chính Rôma của Quốc gia Đức” (hoàng đế Rôma), dù rằng tước này
đang thuộc về hoàng đế Joseph II nước Áo. Ngày 6-8-1806, Joseph II tuyên bố tự
nguyện từ chối tước hoàng đế nước Đức, để giúp Giáo hoàng đỡ khó khăn trong
quyết định đó.
Trong lễ tấn phong tại Nhà thờ Đức Bà Paris, Napoleon chỉ cho phép giáo hoàng xức
dầu mà thôi, còn vương miện thì tự tay ông cầm đội lên đầu. Nữ quận công đất
Abrantes viết về biến cố đó như sau: “Giáo hoàng là người đầu tiên bước vào nhà
thờ. Không thể tưởng tượng được có sự xuất hiện nào uy nghi và đáng kính hơn hình
ảnh của Piô VII... Napoleon tỏ ra thật thanh thả... Chỉ có buổi lễ lâu làm ông cảm
thấy mệt, và tôi để ý nhiều lần thấy ông muốn ngáp nhưng cố nén. Khi giáo hoàng
xức dầu ba lần lên đầu và tay ông, nhìn qua ánh mắt ông, tôi biết ông là người hơn ai
hết muốn lau ngay những vết dầu đó. Tôi là người hiểu rõ thái độ thường biểu hiện
qua gương mặt của ông nên tôi cam đoan nhận xét mình đúng...”.
TRÌNH THUẬT 89
Năm 1809, Napoleon sát nhập Quốc gia Giáo Hội (nước Giáo Hội) vào Pháp. Đại hội
Wien (1814) đã bãi bỏ việc sát nhập đó và trả lại đất cho giáo hoàng, trừ phần đất
Avignon và Venaissin vẫn tiếp tục nằm trong tay người Pháp. Nhưng số phận của
Quốc gia Giáo Hội cũng chẳng kéo dài. Nó chấm dứt vào ngày 20-9-1870, sau hơn
1000 năm hiện diện. Từ đây nó bị sát nhập vào Vương quốc Ý vừa mới hình thành.
Các Vương quốc trên lãnh thổ Ý trước khi thống nhất Ý
TRÌNH THUẬT 90
Sau khi thành phố Rôma và Quốc gia Giáo Hội bị chiếm ngày 20-9-1870, Giáo
hoàng Piô IX ẩn mình trong điện Vatican và tự coi mình như một “tù nhân”. Mọi cố
gắng thương thảo với vị “vua mới của nước Ý” theo sự thúc dục của Hồng y Quốc vụ
khanh Antonelli đều bị Piô IX khăng khăng từ chối: “Non possumus”!
Không thể chờ được sự thay đổi ý kiến về phía giáo hoàng, vì ngài cương quyết
không chịu từ bỏ Quốc gia Giáo Hội, vương triều Ý đại lợi ngày 13-5-1871 đã đưa ra
một “Đạo luật bảo đảm” để ấn định quyền hạn và vai trò của giáo hoàng. Qua luật
đó, vua Viktor Emanuel, người đã bị giáo hoàng dứt phép thông công, đề nghị giáo
hoàng vẫn tiếp tục có hoàn toàn chủ quyền, được trả tiền hưu bổng hằng năm, được
tự do liên lạc với các giám mục trên thế giới, tự do thi hành sứ vụ, tự do bổ nhiệm
các giám mục ở Ý, không buộc phải tuyên thệ trung thành trước chính phủ Ý, và
ngoài ra điện Vatican, điện Lateran và điện Castel Gandolfo sẽ là sở hữu của giáo
hoàng.
Hai ngày sau, Piô IX bác bỏ đề nghị đó. Vì vậy, “vấn đề Rôma” vẫn bế tắc cho mãi
tới khi có hiệp ước Lateran được ký kết giữa Piô XI và Mussolini vào năm 1929.
Để làm ra vẻ không công nhận chính phủ mới, năm 1874 Giáo hoàng Piô IX ký sắc
lệnh “Non expedit” cấm tất cả tín hữu Công giáo Ý tham gia bầu cử chính trị. Lệnh
này có hiệu lực mãi đến năm 1905. Hậu quả không lường của lệnh đó là đã giúp cho
các phần tử chống Giáo Hội chiếm được đa số trong quốc hội Ý một cách dễ dàng.
Kể từ đây, Quốc gia Giáo Hội chấm dứt. Piô IX đã cố tìm mọi cách để bảo vệ uy
quyền đời của mình. Nhưng ý Chúa lại “khôn ngoan” hơn, vì rồi ra sẽ thấy, uy quyền
đó thật ra chỉ là một gánh nặng vô ích, càng ngày càng trở nên quá tải cho giáo hoàng
và Giáo Hội và là đầu mối bất hoà giữa các thế lực. Cuối cùng, giáo hoàng không là
một ông hoàng trần thế nữa mà chỉ còn là một “giáo hoàng thuần tuý”, chỉ còn là vị
lãnh đạo tinh thần của Giáo Hội. Đã qua rồi cái thời mà người ta vẫn cho rằng uy
quyền và tự do của giáo hoàng chỉ có được bằng cách liên minh với một thế lực trần
thế lớn mạnh. Cái lo ngại của Piô IX cũng không xảy ra. Ngài sợ nếu mất vương
quyền đời thì sẽ bị lệ thuộc nước Ý. Trái lại, việc giải tán Quốc gia Giáo Hội đã
mang lại cho giáo hoàng một thứ uy quyền tinh thần, như hiện nay ta đang thấy.
TRÌNH THUẬT 91
“Tuyệt diệu, không thể tả được”, đó là cảm tưởng của Giám mục Ullathorne, Giáo
phận Birmingham (Anh), về buổi lễ khai mạc Công đồng Vatican I ngày 8-12-1869.
Cánh phải Nhà thờ Thánh Phêrô ở Rôma được biến thành chỗ họp công đồng. Các
nghị phụ ngồi 8 hàng theo thang cấp, mặc áo choàng kim tuyến lấp lánh và đội mão
giám mục màu trắng. Giám mục kể tiếp: “Cả thế giới chưa từng thấy một hội nghị
đông đảo các đấng bậc cao dày học vấn và kinh nghiệm như thế”.
Có 774 giám mục trong tổng số khoảng 1.050 giám mục trên toàn thế giới về Rôma
dự công đồng. Nhờ có xe lửa và tàu thuỷ chạy bằng hơi nước mà nhiều giám mục ở
các địa phương xa xôi lần đầu tiên đã đến được Rôma. Hội trường muôn màu muôn
vẻ: 146 giám mục từ các nước Ănglô Xắc xông, 30 vị đến từ Trung và Nam Mỹ, 49
vị từ Hoa Kỳ, 50 vị từ châu Úc, 41 vị từ Ấn Độ và Viễn Đông, 9 vị từ Phi châu. Các
nghị phụ người Ý chiếm 35%. Năm vị chủ tịch tiểu ban, tất cả các thư ký, 2/3 cố vấn
và chuyên viên công đồng đều là người Ý. Chức vụ tổng thư ký công đồng do một
người nước ngoài đảm trách, đó là Giám mục Joseph Feßler, Giáo phận St. Poelten
(Áo).
Đắn đo và do dự
Piô IX đã đắn đo rất lâu trước khi quyết định triệu tập công đồng. Mãi cho đến ngày
26-6-1867, trong dịp có khoảng 500 giám mục trên thế giới về Rôma dự lễ giỗ 1800
năm hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, ngài mới công khai hoá ý định. Một năm
sau, ngài ra tông thư công bố chính thức công đồng sẽ khai mạc ngày 8-12-1869.
Các nhà cầm quyền châu Âu hồi hộp hướng nhìn về Rôma. Thủ tướng Bayern (Đức)
là ông hoàng Hohenlohe lưu ý công đồng chớ nên quyết định về chuyện “không sai
lầm của giáo hoàng”, bởi vì theo ông, một quyết định như thế sẽ có ảnh hưởng lớn
đến tình hình chính trị các quốc gia. Đồng thời ông yêu cầu các nhà cầm quyền khác
nên chung tay hành động để ngăn chặn Công đồng về điểm này. Kế hoạch của ông
thất bại, vì nước Áo và nuớc Phổ chần chờ không muốn tham gia.
TRÌNH THUẬT 92
NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO THỦ CỰU TÁCH RA KHỎI GIÁO HỘI RÔMA
Ngày 18-7-1870, Công đồng Vatican I công bố tín điều không sai lầm của giáo
hoàng. Ngày hôm trước đó chiến tranh Đức-Pháp bùng nổ khiến nhiều nghị phụ phải
trở về quê hương. Công đồng phải bỏ dở. Tới ngày 20-9-1870, khi quân Ý chiếm
Rôma, Công đồng ngưng luôn. Hoàn cảnh bên ngoài đó đã khiến Công đồng chỉ thảo
luận được về vị thế của giáo hoàng trong nội bộ Giáo Hội mà thôi, không còn thì giờ
để bàn chuyện liên quan tới giám mục đoàn. Công đồng Vatican I đã để lại ấn tượng
là chức giám mục bị coi nhẹ. Hơn nữa, trước đó, Piô IX vẫn thường quyết định mọi
chuyện một mình và hiếm khi tham khảo các hồng y. Đại sứ Pháp đã ta thán về điểm
này: “Chưa bao giờ vai trò hồng y bị xem nhẹ như thế. Họ chẳng còn chút ảnh hưởng
nào nữa”.
Ưu quyền của giáo hoàng được Công đồng Vatican I định nghĩa như là “quyền toàn
diện, chính thức, trực tiếp” trên toàn thể Giáo Hội và trên từng giáo phận. Công đồng
còn tuyên bố rằng quyền này bao gồm không những lĩnh vực đức tin và phong hoá
đạo đức, mà còn cả lĩnh vực kỷ luật và lãnh đạo Giáo Hội và rằng giám mục phải
vâng phục giáo hoàng “không những chỉ về đức tin và phong hoá đạo đức, mà còn cả
về lối sống và việc điều hành Giáo Hội nữa”. Với định nghĩa này thì quyền của giám
mục ở địa phương không bị giới hạn, nhưng được đưa vào cơ chế Giáo Hội hoàn vũ
và tuỳ thuộc vào cơ chế đó.
Vấn đề bỏ ngỏ của Vatican I về tương quan giữa ưu quyền của giáo hoàng đối với
giám mục đoàn đã trở thành một đề mục quan trọng trong Công đồng Vatican II.
Ngoài ra, Công đồng Vatican I cũng còn để tồn đọng nhiều vấn đề khác nữa, vì trong
tổng số 51 lược đồ nghị sự chỉ mới thảo luận và biểu quyết được có 2.
Cao điểm quyền bính của giáo hoàng trong Giáo Hội
Dù những người Công giáo cũ tuyên bố tách lià khỏi Rôma, dù nước Áo tuyên bố
huỷ bỏ thoả ước đã ký với Vatican năm 1855 vì “đối tác kết ước đã thay đổi” (nghĩa
là Giáo hội Công giáo Rôma đã trở thành một nhà nước quân chủ, vì, với quyền
không sai lầm, giáo hoàng giờ thành như một ông vua. Chú thích của người dịch),
mối rạn nứt giữa Giáo Hội và nền văn hoá mới của thế giới đã không xảy ra như
người ta hằng lo ngại (Aubert). Uy quyền của giáo hoàng trong Giáo Hội lên cao như
chưa từng thấy, mà không kéo theo bất lợi đáng kể nào. Uy quyền đó cũng chẳng hề
hấn gì sau khi Rôma bị Garibaldi chiếm và khi Quốc gia Giáo Hội cáo chung. Nhưng
ngược lại, càng mất uy quyền đời, thì uy tín đạo đức của giáo hoàng càng tăng. Rốt
cuộc, người ta hiểu ra rằng quyền bính thật sự của giáo hoàng chẳng phải là do
nương nhờ vào một cường quốc chính trị nào cả.
TRÌNH THUẬT 93
NGƯỜI CÔNG GIÁO TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA TỰ
DO BUÔNG THẢ
Ngày 7-8-1873, Giáo hoàng Piô IX viết cho hoàng đế Đức Wilhelm I: “Thưa hoàng
đế, những quy định do chính phủ ngài ban hành gần đây cứ nhằm phá hoại Giáo hội
Công giáo. Tôi suy nghĩ mãi cố tìm xem nguyên do từ đâu đưa đến những biện pháp
cứng rắn đó, mà đành chịu, không thể tìm ra”.
TRÌNH THUẬT 94
Trong một bản tường trình năm 1844 về tình trạng của những thợ dệt vùng Schlesien
(trước thuộc Đức, nay thuộc Ba Lan) có ghi rằng “từ 7 năm nay và hơn nữa” họ
không thể sắm thêm được cái quần cái áo nào, cho dù họ chỉ còn trên người “mấy
miếng vải che thân rách nát, vá chằng vá đụp” và họ mắc cở không dám bước vào
nhà thờ. Bản báo cáo còn cho biết đồ ăn của họ là khoai tây loại dành cho súc vật và
bột cám dành cho gia súc, thảng hoặc năm đôi ba lần dịp phục sinh, hiện xuống và
giáng sinh họ mới có một chút thịt... “và chỉ có khoảng 250 gram thịt cho một gia
đình với 5 hoặc 6 miệng ăn”. Rất thường thấy các công nhân phải sống bằng “gốc rễ
khoai tây sùng thối”.
Tuyệt vọng vì hoàn cảnh sống của mình, đám thợ dệt thủ công Schlesien kéo nhau
phá huỷ các nhà máy dệt lụa của dân Lyon. Họ tưởng làm thế mình may ra mới thoát
cảnh bế tắc.
Đặc biệt, việc phát minh ra máy chạy bằng hơi nước của James Watt năm 1769 đã
làm thay đổi hoàn toàn cơ cấu kinh tế (“cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ nhất”) và
tạo ra những vấn đề xã hội gay gắt.
Từ khi biết dùng sức mạnh của hơi nước như là một nguồn năng lượng thì kinh tế
không còn bị lệ thuộc vào nước và gió nữa, hai thứ vốn chẳng phải đâu đâu và lúc
nào cũng có để mà sử dụng. Lực hơi nước đã tạo ra cách mạng không những về
phương thức sản xuất mà còn cả mặt giao thông, rất cần thiết cho kinh tế. Năm 1807,
tàu hơi nước đầu tiên lướt chạy trên dòng sông Hudson. Năm 1814, Stephenson chế
tạo xong đầu máy xe lửa đầu tiên. Anh quốc là nước đầu tiên kỹ nghệ hoá. Nước này
suốt trong một thời gian dài được coi là “xưởng máy của thế giới”.
Kỹ nghệ hoá làm nảy sinh một giai tầng mới trong xã hội: công nhân. Cùng với 3
giai tầng có sẵn là quý tộc, thị dân và nông dân, công nhân là giai tầng thứ tư trong
xã hội. Điều kiện lao động đã cơ cực, công nhân lại còn phải canh cánh lo cho sự
sống còn của mình. Gặp khi bị bệnh hoặc thất nghiệp, cả gia đình họ kể như cùng
đường. Để đủ sống, nhiều khi chồng phải đẩy vợ và con vào nhà máy. Lương bổng
chẳng bao nhiêu, nhưng nhiều vấn nạn xã hội khác từ đó lại nẩy thêm.
TRÌNH THUẬT 95
Lần can thiệp cuối cùng của một hoàng đế vào việc bầu giáo hoàng
Năm 1903 Lêô XIII mất, thọ 93 tuổi. Các hồng y họp ngày 1-8 để bầu giáo hoàng
mới. Trong vòng bỏ phiếu đầu, Hồng y Quốc vụ khanh Mariano Rampolla được 24
phiếu, Hồng y Thượng phụ Giuseppe Sarto, Giáo phận Venezia, được 5 phiếu. Buổi
chiều bầu lại, Hồng y Rampolla được 29 phiếu, Thượng phụ Sarto được 10 phiếu.
Thấy số phiếu của Hồng y Rampolla cứ tăng mãi, Hồng y Puzyna, Giáo phận Krakau
(thuộc đế quốc Áo) nhân danh hoàng đế nước Áo Frank Joseph I lưu ý các hồng y
trước vòng bỏ phiếu thứ ba là hoàng đế cảm thấy “kém thoải mái hơn” nếu Hồng y
Rampolla thắng cử. Lời cảnh cáo này là một lối phủ quyết của hoàng đế ở Wien.
Hồng y Rampolla lên tiếng phản đối "sự chuyên quyền" của một hoàng đế dân sự
nhúng tay vào cuộc bầu giáo hoàng. Ông phản đối, vì mong có một cuộc bầu cử độc
lập, không có can thiệp từ bên ngoài, chứ không nhất thiết vì muốn làm giáo hoàng.
Theo ông, không ai biết rõ hơn mình những khó khăn của triều đại sắp tới, nhưng
mong mọi người đừng bầu ông.
Vòng bầu kế tiếp, Hồng y Rampolla được thêm một phiếu. Trong những lần bầu sau,
số phiếu của ông chỉ còn 24. Lần bầu thứ bảy cũng là lần quyết định diễn ra vào ngày
4-8: Hồng y Sarto được 50 phiếu trên tổng số 62 vị hiện diện, Hồng y Rampolla chỉ
còn 10 phiếu. Cuộc bầu kết thúc, mặc dù Hồng y Sarto đã nhiều lần khẳng định rằng
mình không đủ khả năng trong chức vụ cao trọng ấy. Trong lần bầu ông được 21
phiếu, ông “bật khóc, mặt tái xanh, chân tay run rẩy” van xin các hồng y đừng bỏ cho
ông nữa vì gánh nặng đối với ông quá lớn. Và khi số phiếu dồn cho ông cứ tăng dần,
ông xúc động: “Tôi không xứng đáng. Tôi không có khả năng. Xin các ngài quên tôi
đi! Bầu cho tôi thì Giáo hội sẽ đổ nát!”
Cuối cùng Hồng y Sarto cũng phải chấp nhận kết quả cuộc bầu, lấy danh hiệu là Piô
X. Khi lên đường đi Rôma dự mật viện, hồng y đã mua vé xe khứ hồi, vì tin chắc là
sẽ không được chọn làm giáo hoàng. Và để từ nay không còn tái diễn cảnh như lần
bầu ngài, ngày 20-1-1904, ngài huỷ bỏ quyền phủ quyết của hoàng đế nước Áo và
cấm hẳn trong tương lai không một thế lực dân sự nào trên thế giới được phép can dự
vào việc bầu giáo hoàng.
Những người ủng hộ Hồng y Rampolla là những vị muốn đường lối của Lêô XIII
được tiếp tục. Các hồng y người Pháp ủng hộ ông vì trong cương vị quốc vụ khanh
ông tỏ ra thân thiện với nước Pháp. Các hồng y Tây Ban Nha ủng hộ, vì ông đã từng
là khâm sứ Toà Thánh ở Madrid, đã quen biết và quý trọng ông. Nhưng hoàng đế Áo
lại không ưa ông. Ở thủ đô Wien người ta trách cứ ông có đường lối ủng hộ người
Slavơ ở vùng Balkan. Hồng y Puzyna muốn cản ngăn bầu Rampolla vì cho rằng vị
này ủng hộ nước Nga mà hy sinh quyền lợi của Ba Lan. Ban đầu hoàng đế Frank
Joseph I ngần ngại chưa dám dùng quyền phủ quyết. Sau đó hoàng đế ngã theo
thuyết phục của Hồng y Puzyna.
Những hồng y ủng hộ Hồng y Sarto đều mong có một giáo hoàng mới thuần “tôn
giáo”, một vị có nhiều kinh nghiệm mục vụ lên để kế nhiệm người “chính trị” Lêô
XIII. Các hồng y này cũng nhắc nhớ rằng chính Lêô XIII cũng đã nhiều lần kín đáo
ngỏ ý nên chọn Thượng phụ Venezia (Sarto).
TRÌNH THUẬT 96
PIÔ XI LỘT MẶT NẠ CHỦ NGHĨA QUỐC XÃ VÀ CHỦ THUYẾT CỘNG SẢN
TRÌNH THUẬT 97
CUỘC BÁCH HẠI KITÔ HỮU RỘNG LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ 2000
NĂM
Ngày 30-1-1933, Adolf Hitler trở thành thủ tướng của Đế quốc Đức. Joseph
Goebbels, khi ấy là giám đốc chính trị thành phố Bá Linh, mô tả chiến thắng nắm
quyền đó như sau: “Quả gần như một giấc mơ. Con đường Wilhelm đã thuộc về
chúng tôi. Lãnh tụ đã làm việc trong dinh thủ tướng. Chúng tôi đứng ở cửa sổ trên
cao. Nhiều trăm ngàn người trong ánh đuốc bập bùng diễn hành ngang qua vị chủ
tịch già nua (Hindenburg) và vị thủ tướng trẻ (Hitler), miệng hô to những lời ca ngợi
và cám ơn. Quốc gia bừng dậy! Nước Đức đã thức tỉnh! Không thể tả được những gì
đang rạo rực trong tim chúng tôi. Chúng tôi vừa muốn khóc, vừa muốn cười. Cái
đêm kỳ diệu ấy trôi qua trong niềm hân hoan ngây ngất điên cuồng...”.
TRÌNH THUẬT 98
Khi đoàn rước xem ra dài vô tận từ trong điện Vatican tiến ra giữa Công trường
Thánh Phêrô để từ đó tiến vào cửa chính của vương cung thánh đường thì chuông
của tất cả các nhà thờ trong thành phố Rôma đổ liên hồi. Đi đầu cuộc rước là các
thành viên trong Giáo triều Rôma trong áo choàng phụng vụ, rồi đến các nghị phụ
mặc lễ phục màu trắng gồm: bề trên các dòng tu, giám mục, thượng phụ, sau cùng là
các hồng y. Các hồng y thầy sáu mặc áo ngắn màu tím. Các hồng y linh mục mặc áo
lễ. Các hồng y giám mục mặc áo choàng màu khói trắng. Sau cùng là Giáo hoàng
Gioan XXIII ngồi trên kiệu. Ngài cũng đội mão giám mục. Đến trước tiền đường
Nhà thờ Thánh Phêrô, ngài xuống kiệu, đi bộ vào vương cung thánh đường, nơi các
nghị phụ đã an vị ngay gian giữa thánh đường. Trước đây, 700 nghị phụ của Công
đồng Vatican I (1870) còn ngồi ở cánh phải nhà thờ. Cánh giữa nguyện đường lớn
nhất thế giới này vừa đủ chỗ cho gần 3.000 nghị phụ của lần họp thứ hai này. Quả là
một kỷ lục trong lịch sử các công đồng. Trong số 2.540 nghị phụ chính thức có
khoảng 38% nghị phụ thuộc châu Âu, 31% thuộc châu Mỹ, 20% thuộc Á và Úc châu,
10% thuộc châu Phi, và khoảng một phần ba là các giám mục dòng.
Khoảng 12 giờ 30 ngày 11-10-1962, Gioan XXIII đọc diễn văn khai mạc Công đồng
chung lần thứ 21 của Giáo hội Công giáo: “Hôm nay, Giáo Hội mẹ thánh hân hoan
vui mừng vì nhờ thánh ý Chúa quan phòng đặc biệt mà chúng ta có được ngày hằng
mong đợi này”. Vị giáo hoàng 77 tuổi này nghĩ rằng chỉ trong vòng 3 tháng ngài có
thể tuyên bố kết thúc Công đồng.
TRÌNH THUẬT 99
“Tôi hết sức đau buồn báo tin cùng quý vị, Giáo hoàng Phaolô VI đã giã từ chúng ta
ngày hôm nay, mồng 6-8-1978 lúc 20 giờ 40 phút”. Bằng lời vắn gọn đó người phát
ngôn Toà Thánh đã loan báo cho thế giới biết về cái chết của Đức Thánh Cha. Phaolô
VI, 81 tuổi, mất vì đứng tim tại Castel Gandolfo. Thông điệp cuối cùng của ngài là
những lời chia sẻ về số phận của những người đói khát và đau khổ mà “số lượng
đang càng ngày càng gia tăng một cách đáng sợ” và số phận của những người
“không thể hoà nhập vào xã hội được”.
Lúc rời Vatican đi nghỉ ở Castel Gandolfo, Phaolô VI đã có linh cảm là sẽ không trở
lại nữa. Ngài nói: “Tôi ra đi nhưng không biết có trở về hay không và không biết về
bằng cách nào”.
Ngày 21-6-1963, Hồng y đoàn bầu Hồng y Giovanni Battista Montini lên kế vị với
danh hiệu là Phaolô VI. Hồng y Montini đã được mọi người chú ý từ lâu, có thể nói
ngài đã được nhắc đến từ sau khi Piô XII mất, dù lúc ấy ngài chưa có tước hồng y.
Phaolô VI lên với một gánh nặng quá tải của Gioan XXIII để lại. Gánh nặng đó là
Công đồng Vatican II. Ngày 29-9, ngài khai mạc khoá họp thứ hai của Công đồng
với những lời như sau: “Chúng ta sẽ không khi nào quên những đường hướng mà
ngài (Gioan XXIII) với tư cách là người khai sinh Công đồng đã khôn ngoan chỉ
bảo”. Những “đường hướng” đó là: đào sâu việc nhận diện Giáo Hội, canh tân nội
tình Giáo Hội, hỗ trợ việc hiệp nhất Kitô hữu và đối thoại với thế giới.
Chỉ trong những năm cuối cùng thế giới mới hiểu được...
Ngay từ nhỏ Phaolô VI đã yếu về thể lý và tâm lý. Dù vậy, cho đến những ngày cuối
đời ngài vẫn không chịu giữ gìn sức khoẻ. Hồng y Koenig (Giáo phận Wien, nước
Áo) phát biểu về Đức Phaolô VI sau khi ngài từ trần: “Dù không to khoẻ như vị tiền
nhiệm, ngài vẫn không xa cách mọi người. Có lẽ chưa có vị giáo hoàng nào phấn đấu
cho tình thương và sự thông cảm giữa con người với con người như ngài. Hai cánh
tay từ tốn và rụt rè giang rộng của ngài là một biểu tượng. Ngài cũng không được
những người trong nhà thương mến như vị tiền nhiệm. Chỉ mãi tới những năm cuối
đời thế giới mới biết rằng mình đã có được một giáo hoàng như thế nào”.
[1] Theo Niên giám Thống kê của Bộ Truyền giáo Vatican, dân số thế giới năm 2000
có 6.005.049.000 người, với 1.999.566.000 Kitô hữu. Trong số Kitô hữu này gồm
1.056.920.000 Công giáo, 342.035.000 Tin lành, 215.129.000 Chính thống,
79.650.000 Anh giáo và 6.688.000 Công giáo không thuộc Rôma.