You are on page 1of 13

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN: Cô Đinh Thị Điều

NHÓM 7
1. Lương Khắc Kỷ Cương – MSSV: K184020197
2. Nguyễn Thị Thu Hằng – MSSV: K184020202
3. Đặng Thị Phương Liên – MSSV: K184020209
4. Phan Thị Thảo Ngân – MSSV: K184020218
5. Nguyễn Đình An Thư – MSSV: K184020226
6. Lễ Nguyễn Ngọc Trân – MSSV: K184020228
7. Nguyễn Cẩm Vân – MSSV: K184020232
8. Nguyễn Lê Mỹ Duyên – MSSV: K184070908
9. Lý Đặng Thảo Khanh – MSSV: K184070916
10. Nguyễn Hữu Tuân – MSSV: K184091240
MỤC LỤC
I. Khái quát về văn hóa ...........................................................................................1
1. Định nghĩa văn hóa ...........................................................................................1
2. Tầm quan trọng của văn hóa ............................................................................1
II. Vai trò của văn hóa trong việc xây dựng xã hội mới .......................................2
III. Vai trò của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát triển yếu tố con người .......5
1. Bồi dưỡng yếu tố con người .............................................................................5
2. Phát triển yếu tố con người...............................................................................6
IV. Quá trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng, phát triển văn hóa ..........8
1. Thành tựu thời kì trước đổi mới .........................................................................8
2. Thành tựu thời kì đổi mới ...................................................................................9
V. Trách nhiệm của sinh viên phải làm để góp phần xây dưng một nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay ..............................................9
1. Những việc sinh viên nên làm ............................................................................9
2. Những việc sinh viên không nên làm ...............................................................11
I. Khái quát về văn hóa
1. Định nghĩa văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng
lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát
triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ bản là
"sản xuất vật chất" và "sản xuất tinh thần". Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần.
2. Tầm quan trọng của văn hóa
Văn hóa do con người sáng tạo ra. Văn hóa vừa phản ánh đời sống hiện thực con
người và xã hội, vừa thúc đẩy sự phát triển, sự hoàn thiện nhân cách, làm phong phú và
sâu sắc thêm các giá trị nhân bản, nhân đạo và nhân văn của đời sống xã hội.
Trong vài thập kỷ trước đây, có một số nước cho rằng: chỉ cần tăng trưởng kinh tế
với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử dụng khoa học công
nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện kết quả cho thấy, các quốc gia đó
đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt
trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức, văn hóa ngày càng tăng. Từ đó, kéo theo kinh tế phát
triển chậm lại, mất ổn định xã hội tăng lên và cuối cùng là sự phá sản của các kế hoạch
phát triển kinh tế, đất nước rơi vào tình trạng suy thoái, không phát triển được. Đây là quan
niệm sai khi cho rằng nên phát triển nhanh bằng cách hi sinh các giá trị văn hóa – xã hội
cho sự phát triển. Từ thực tế đó, một số nước đã lựa chọn mô hình: tăng trưởng kinh tế,
cùng với việc phát triển tài nguyên con người, bảo vệ môi trường sinh thái. Mô hình này,
tuy tăng trưởng kinh tế không nhanh, nhưng lại bền vững, xã hội ổn định. Đây là quan niệm
phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, được các nhà khoa học, các chính khách
thừa nhận. Từ đó, cho rằng: Phát triển là một quá trình nội sinh và tự hướng tâm của sự
tiến hóa toàn cục đặc thù cho mỗi xã hội. Vì vậy, cho nên ở đây có sự tương đồng về nghĩa
và khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển và văn hóa. Văn hóa bao trùm tất cả các
phương diện của hoạt động xã hội.
Đảng ta quan niệm: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng
tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn
thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách bản lĩnh Việt Nam, làm
rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Văn hóa bao gồm các lĩnh vực sau đây: Tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật, báo

1
chí truyền thông, di sản văn hóa, văn hóa tôn giáo, giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa…
Xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực của phát triển kinh
tế - xã hội.
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Nhân dân nước chúng tôi có
ý chí phi thường là do lòng tự trọng muốn sống làm người chứ không chịu làm nô lệ. Điều
này cũng đúng với những nhà tri thức nước chúng tôi thiết tha với nền văn hóa dân tộc,…
Có lẽ phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa,… Nền
văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ”. Những khẳng định
đó của Người đã nói lên vai trò quan trọng của văn hóa trong công cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc cũng như trong công cuộc hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
II. Vai trò của văn hóa trong việc xây dựng xã hội mới
Văn hoá là hệ thống những giá trị chuẩn mực xã hội biểu hiện ra trong mọi lối sống
vật chất và tinh thần của một cộng đồng người hay một quốc gia. Văn hoá phải là các giá
trị chuẩn mực.Vì vậy, quá trình quản lý các hoạt động văn hóa nói chung của Nhà nước và
xã hội trở thành yêu cầu tất yếu nhằm duy trì, phát huy và định hướng phát triển văn hóa
phù hợp với truyền thống dân tộc và thực tiễn đòi hỏi phải có sự hài hòa, hợp lý giữa truyền
thống và hiện đại trong điều kiện hiện nay. Ngay từ những năm 1943, trong bản “Đề cương
về văn hoá Việt Nam” do đồng chí Trường Chinh trực tiếp soạn thảo đã đặt văn hoá ngang
tầm với những lĩnh vực quan trọng: Kinh tế-Chính trị-Văn hoá. Năm 1945, trong phiên họp
đầu tiên của quốc hội nước VN DCCH, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 6 nhiệm vụ cấp
bách, trong đó đã có 2 nhiệm vụ liên quan đến Văn hoá: Diệt giặc dốt và giáo dục lại tinh
thần cho nhân dân. Khi nói đến vai trò của văn hoá Đảng ta đã khẳng đinh: Văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Kế thừa và
phát triển 5 quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9
khóa XI đã nêu ra quan điểm sau:
* Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và hội nhập quốc tế. Quan
điểm này đã chỉ rõ vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển xã hội:
- Thứ nhất, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội:
+ Là cơ sở để xác lập các giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức xã hội thượng tôn
pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng quyền con người, quyền công dân. Là cơ sở để tạo
nên “sức mạnh mềm” trong phát triển
+ Theo ý kiến của nguyên tổng giám đốc UNESCO: Văn hoá thể hiện và phản ánh một
cách tổng quát, sống động mọi mặt của của cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ và đang
diễn ra trong hiện tại; qua bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền

2
thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của dân tộc mình.
Các giá trị nói trên trở thành nền tảng của dân tộc vì nó được thấm nhuần trong mỗi con
người và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; được vật
chất hoá và khẳng định vữg chắc trong cấu trúc của từng dân tộc, đồng thời nó tác động
hàng ngày đến uộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã
hội – văn hóa.
=> Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức
sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua khó khăn, thử thách để ko
ngừng phát triển. Vì vậy chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, để các giá trị vh trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xhã hội,
trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người
mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đủ sức đề kháng để đẩy lùi các hiện tượng
tiêu cực,chống lại sự xâm nhập của các tư tưởng phản tiến bộ.
Ví dụ: Tháng Văn hoá giao thông. Bộ giao thông và Uỷ ban ATGT quốc gia đã lấy chủ đề
tháng 9 năm 2009 là tháng Văn hoá giao thông, nhằm đưa yếu tố văn hóa vào lĩnh vực giao
thông, xây dựng một môi trường trong đó người vi phạm biết ngượng và bị người khác phê
phán; xây dựng thói quen chấp hành luật giao thông một cách tự giác.
- Thứ hai, văn hoá là động lực của sự phát triển bền vững
+ Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của mỗi dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự phát
triển của mỗi dân tộc phải vươn đến cái mới, tạo ra cái mới, nhưng cái mới được tạo ra
phải trên cơ sở của cái cũ, đó chính là cội nguồn văn hóa của mỗi dân tộc.
+ Là cơ sở để xác lập hệ giá trị phát triển cùng với cơ chế hoạt động tương ứng của từng
chủ thể trong xã hội (thể hiện những giá trị mà chủ thể đó tuân theo và hướng tới); tạo động
lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của từng chủ thể cũng như toàn xã hội với tư cách
là một hệ thống mở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Bản thân sự phát triển ko chỉ dựa vào các nhân tố thuần tuý kinh tế như vốn, khoa học,
kĩ thuật, nguyên vật liệu…mà còn phụ thuộc vào 1 nhân tố quan trọng nhất đó là con người.
Mà văn hoá lại nằm trong mỗi con người, trong chính tiềm năng sáng tạo, trong trình độ,
đạo đức, lối sống của con người. Do vậy sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào những
giá trị văn hoá được phát huy trong mỗi con người. Có thể nói, hàm lượg văn hóa trong các
lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế xh càng
hiện thực và bền vững bấy nhiêu.
- Thứ ba, văn hoá là mục tiêu của sự phát triển
+ Mục tiêu của Đảng và nhà nước ta là xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ,công bằng và văn minh” đây chính là mục tiêu văn hoá. Chiến lược phát triển kinh tế
3
- xã hội 1991-2000 xác định: mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người,
do con người”; “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xh, phát triển văn
hoá, bảo vệ môi trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa xh mới đảm bảo phát triển
bền vững, trường tồn.
+ Trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vấn thường lấn át mục tiêu văn hóa và
thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát
triểncủa nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp
hóa.
- Thứ tư, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội:
+ Để làm cho văn hoa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương
phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với sự phát triển kinh tế - xã hội
+ Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Xử lý tốt
mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.
+ Là cơ sở để xác lập hệ giá trị hợp tác và hội nhập quốc tế trên cơ sở nguyên tắc đặt lợi
ích quốc gia - dân tộc lên trên trên hết, đồng thời tôn trọng các lợi ích chính đáng của các
quốc gia - dân tộc khác, hợp tác bình đẳng cùng phát triển và cùng có lợi, cùng bảo vệ các
giá trị chung của nhân loại.
Kết luận: Thế giới ngày nay đang vận động rất nhanh, khoa học - kỹ thuật phát triển
rất mạnh mẽ, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế luôn đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu
mới cho xây dựng văn hóa, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng có không ít khó khăn, thách
thức cho phát triển văn hóa. Cùng với kinh tế phát triển, vị trí, vai trò của văn hóa ngày
càng nổi trội hơn, đòi hỏi chúng ta cần phải có cái nhìn sâu sắc, am tường về bản chất của
văn hóa, vai trò động lực của văn hóa, để từ đó xây dựng một mô hình phát triển hoàn
chỉnh, khắc phục những mô hình phát triển thiên lệch, chỉ chú trọng kinh tế, tuyệt đối hóa
kỹ thuật, phá vỡ sự cân bằng sinh thái và cạn kiệt tài nguyên. Tiến tới xây dựng mô hình
phát triển hài hòa và bền vững. Tiếp tục phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa vì sự phát
triển của xã hội Việt Nam, cần tăng cường nội lực văn hóa cho các chủ thể văn hóa và các
lĩnh vực hoạt động sống xã hội. Tạo cơ chế cho việc phát huy cao nhất tiềm năng động lực
của văn hóa: văn hóa lao động, văn hóa kinh doanh, văn hóa tổ chức - quản lý, văn hóa đạo
đức, văn hóa thẩm mỹ... trong mỗi chủ thể văn hóa. Thể chế hóa các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa như một cách thức phát huy động lực
văn hóa của toàn xã hội. Làm được điều này chính là huy động tối đa năng lực văn hóa
tiềm ẩn trong con người - dân tộc Việt Nam để xây dựng đất nước Việt Nam ngày một giàu
mạnh.

4
III. Vai trò của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát triển yếu tố con người
1. Bồi dưỡng yếu tố con người
Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng đầu của hầu
hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền tảng quan trọng nhất để thực
hiện chiến lược phát triển đó là nguồn lực con người. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng
minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát triển
theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn
đúng khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu
nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực con người, trong công cuộc đổi mới và phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con nguời,
coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước.
Con người là nhân tố quan trọng, là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa. Vẻ đẹp, sức
mạnh, trí tuệ của con người Việt Nam là những phẩm chất, đức tính quý báu cần được phát
huy. Trong chiến tranh cách mạng, người Việt Nam từng làm nên những chiến công vĩ đại,
trở thành biểu tượng của hòa bình, lương tâm của thời đại, được bạn bè quốc tế cảm phục,
mến mộ, tự hào. Và trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, những phẩm chất tốt đẹp
về lòng yêu nước, bản tính cần cù, chịu khó, sự thông minh, hiếu học, nỗ lực sáng tạo
không ngừng cùng với tinh thần nhân ái, khoan dung văn hóa,… vẫn đang được phát huy,
trở thành động lực to lớn để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Bên cạnh đó, với số dân
hơn 90 triệu, chủ yếu ở độ tuổi “lao động vàng”, lực lượng lao động trẻ, năng động, có tay
nghề, chịu khó học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của thế giới,… là những tiềm năng, thế mạnh
về nguồn lao động dồi dào, nhân lực rẻ, thu hút nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nước
ngoài. Mặt khác, sự gia tăng, lớn mạnh của đội ngũ những nhà khoa học trẻ, những nhà
nghiên cứu có tài đang dần thúc đẩy sự hình thành, phát triển nền kinh tế tri thức. Nhưng
trên hết, những vẻ đẹp về lòng nhân ái, khoan dung, yêu chuộng hòa bình; cách ứng xử lịch
thiệp, trọng tình; sự đồng lòng, chung tay giúp đỡ các quốc gia khi gặp hoạn nạn, khó khăn
là những thế mạnh tạo thành nguồn lực “sức mạnh mềm” để thu hút, chinh phục được tình
cảm và sự giúp đỡ, quý mến của các nước anh em.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, cũng đã có nhiều nhà tư tưởng lớn sớm nhận rõ
và luôn đề cao vai trò của con người, của quần chúng nhân dân. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi
đã từng ví sức dân như nước, đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Vận dụng
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và kế thừa những giá trị tinh hoa trong
truyền thống tư tưởng của dân tộc về con người, trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng

5
Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi con người là vốn quý nhất. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân. Quan điểm đó
thể hiện sự tin tưởng của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sức mạnh vô địch, tuyệt
đối của quần chúng nhân dân - những người làm nên lịch sử của dân tộc. Thực tế cho thấy,
những thắng lợi to lớn, những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam giành được
trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò của quần chúng nhân dân, với phương thức phát huy,
sử dụng nguồn lực con người một cách đúng đắn và hiệu quả của Đảng.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, một lần nữa, vai trò quan trọng của
nguồn lực con người tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định và phát huy.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã chỉ rõ rằng, con người là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển xã hội; rằng, phát
huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố quyết định
việc chúng ta có tranh thủ, tận dụng thành công những thuận lợi, cơ hội và vượt qua những
thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ thuộc đáng kể vào con người -
nguồn lực nội sinh đóng vai trò quan trọng và quyết định nhất. Đương nhiên, nguồn lực
nội sinh này cần được bồi dưỡng, phát triển về mặt chất lượng và sử dụng một cách hợp lý
mới phát huy được tiềm năng, hiệu quả to lớn của nó. Song, để làm được như vậy, cần có
sự đánh giá một cách đúng đắn, toàn diện và khách quan thực trạng nguồn nhân lực của
nước ta hiện nay; từ đó, có những giải pháp mang tính khả thi nhằm phát huy sức mạnh
của nguồn lực này.
2. Phát triển yếu tố con người
Một là, thống nhất nhận thức về phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con
người là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện cho mỗi
người phát triển toàn diện, phát huy tối đa tài năng, năng lực của cá nhân cho sự nghiệp
xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt là phát huy năng lực nhận thức (năng lực trí tuệ, tư
duy, xử lý thông tin,...) và hoạt động thực tiễn (năng lực sống, làm việc, ứng xử, thích
nghi,...) của con người Việt Nam. Do vậy, khi phát huy được các năng lực của nhân tố con
người là phát huy được động lực phát triển của xã hội. Muốn vậy, phải đánh giá đúng năng
lực của từng người. Muốn đánh giá đúng năng lực của từng người cần căn cứ vào hiệu quả,
kết quả công việc mà người đó đảm nhiệm. Trên cơ sở đánh giá đúng năng lực của từng
người mới có giải pháp phát huy đúng sở trường của họ.

6
Hai là, giải quyết thỏa đáng lợi ích chính đáng, thiết thực của con người. Với mỗi
giai tầng, mỗi người đều có các lợi ích kinh tế, chính trị, tinh thần,v.v.. Trong đó, chú ý đặc
biệt tới lợi ích kinh tế. Giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội - dân tộc. Chúng
ta đều rõ, động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Lợi ích chính là
sản phẩm hoạt động của con người, là sự kết tinh, đối tượng hóa bản chất con người, là cái
mang quan hệ xã hội. Triết học Mác-Lênin cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên
trong xã hội, nó được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau và làm cơ sở cho việc xác
lập các quan hệ giữa họ. Do vậy, cái làm cho con người tích cực hoạt động chính là lợi ích.
Vì vậy, phát huy nhân tố con người đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng và hài hòa lợi íchcá
nhân - tập thể - xã hội - dân tộc. Tất nhiên chúng ta coi trọng lợi ích cá nhân chính đáng
nhưng chống chủ nghĩa cá nhân. Đồng thời, cũng chống việc tuyệt đối hóa lợi ích tập thể
mà quên lợi ích cá nhân chính đáng.
Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả,
thiết thực, tạo cơ hội cho mỗi người dân phát huy tối đa năng lực, sở trường đóng góp vào
sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực tế cho thấy bộ máy nhà nước cồng kềnh, quan liêu,
chồng chéo, kém hiệu quả sẽ là lực cản lớn đối với việc phát huy nhân tố con người. Bộ
máy cồng kềnh, quan liêu, tham nhũng thì không thể tuyển chọn được người thực tài, thực
giỏi, tâm huyết phục vụ, cống hiến cho đất nước. Phải có cơ chế minh bạch để tuyển chọn,
sàng lọc, hình thành được đội ngũ công chức nhà nước tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân,
phục vụ đất nước. Hiện thực hóa và cụ thể hóa chủ trương của Đại hội XII: “Rà soát, sửa
đổi, bổ sung chính sách với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá,
đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân
tài”. Thực hiệnđổi mới cơ chế, chính sách, xóa bỏ những rào cản, chính sách kìm hãm, trói
buộc nhân tố con người. Chẳng hạn như chính sách tiền lương,nếu tiền lương bình quân
chủ nghĩa, không phản ánh được hiệu quả công việc, tài năng, trình độ chuyên môn và thời
gian cống hiến thì sẽ không thể động viên, phát huy được nhân tố con người. Rà soát để
loại bỏ những cơ chế, chính sách tạo ra bất bình đẳng giữa các vùng, miền, đặc quyền, đặc
lợi, tham nhũng, quan liêu... Đồng thời, Nhà nước cần tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho mỗi người được phát huy năng lực, sở trường, tài năng, trí tuệ... của mình cho phát
triển đất nước. Như tạo không khí làm việc cởi mở, dân chủ, công khai; điều kiện làm việc
thuận lợi, phương tiện thông tin nhanh, kịp thời; bảo đảm cho mỗi người có quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm; quyền tự do sáng tạo, phát triển ý tưởng khoa học, tạo điều kiện cho
mỗi người phát huy hết tài năng sáng tạo.
Bốn là, phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ là phát huy vai trò là chủ, làm chủ của
nhân dân. Nhân dân có quyền học tập, lao động sáng tạo, quyền cống hiến, quyền phát huy
7
vai trò của chính mình,... Nếu nhân dân không phát huy được vai trò của chính mình thì
không thể nói đến phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người một nghĩa nào
đó cũng là phát huy vai trò của nhân dân. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ
gìn kỷ cương, kỷ luật, chống dân chủ hình thức. Đảng ta chủ trương:“Nâng cao năng lực
và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để
phát huy mạnh mẽ khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động
lực phát triển đất nước”. Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Dân chủ phải được thực hiện
đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”; “Thể chế hóa và nâng
cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện”. Trên cơ sở
đó, chúng ta mới phát huy tốt nhân tố con người cho phát triển đất nước.
Năm là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo,
dân tộc. Có phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thì mới phát huy được nhân
tố con người Việt Nam. Khi toàn dân tộc đoàn kết nhất trí thành một khối thống nhất thì sẽ
tạo ra sức mạnh vĩ đại của dân tộc. Phải coi thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm
điểm tương đồng để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nhân tố con
người. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, bảo
đảm mỗi người dân đều được hưởng thụ thành quả của đổi mới. Có chính sách cụ thể để
phát huy sức mạnh, lợi thế của từng giai tầng, từ công nhân, nông dân, trí thức đến người
Việt Nam ở nước ngoài. Đồng thời, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân tộc. Không để những
khác biệt tôn giáo, dân tộc thành những trở ngại trong phát huy nhân tố con người Việt
Nam. Đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết trong giải quyết vấn đề tôn giáo, dân tộc. Thực
hiện các chính sách bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa
quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Kiên quyết đấu tranh chống kỳ thị dân
tộc, kỳ thị tôn giáo, chống lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ phát huy có hiệu quả nhân tố con
người Việt Nam cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
IV. Quá trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng, phát triển văn hóa
1. Thành tựu thời kì trước đổi mới
- Đã xóa bỏ dần những mặt lạc hậu, những cái lỗi thời trong di sản văn hóa phong
kiến, trong nền văn hóa nô dịch của thực dân Pháp
- Bước đầu xây dựng nền văn hóa dân chủ mới với tính chất dân tộc, khoa học, đại
chúng
- Nhiều triệu đồng bào mù chữ đã biết đọc, biết viết

8
- Phát triển hệ thống giáo dục, cải cách phương pháp dạy học, thực hành rộng rãi đời
sống mới, bài trừ hủ tục, lạc hậu.
- Văn hóa cứu quốc đã động viên nhân dân tham gia tích cực vào kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược
- Trình độ văn hóa chung của xã hội đã được nâng cao lên một mức đáng kể. Lối sống
mới trở thành phổ biến, người với người sống có tình, có nghĩa, đoàn kết yêu thương
nhau.
=> Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ
là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của
chính sách văn hóa của Đảng, thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và nhân phẩm Việt Nam,
của những giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam
2. Thành tựu thời kì đổi mới
- Trong những năm qua, cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hóa mới đã bắt đầu được
tạo dựng
- Quá trình đổi mới tư duy về văn hóa, về xây dựng con người và nguồn nhân lực có
bước phát triển rõ rệt, môi trường văn hóa có những chuyển biến theo hướng tích
cực; hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng
- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới
- Quy mô giáo dục và đào tạo tăng ở tất cả các cấp, các bậc học
- Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông có chuyển biến, cơ sở vật chất – kĩ thuật
cho trường học trên cả nước được tăng cường đáng kể.
- Dân trí tiếp tục được nâng cao
- Khoa học và công nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội
- Văn hóa phát triển, việc xây dựng đời sống văn hóa và nếp sống văn minh có tiến
bộ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước
=> Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng văn hóa chứng tỏ đường lối và các chính
sách văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định hướng
đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hóa
V. Trách nhiệm của sinh viên phải làm để góp phần xây dưng một nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay
1. Những việc sinh viên nên làm
- Mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ
năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn
luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan

9
trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những
hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
- Đẩy mạnh tổ chức các cuộc thi tìm hiểu liên quan lịch sử hào hùng, truyền thống
văn hóa của đất nước, của quê hương. Hơn nữa, phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt
trong tổ chức các hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp thu những mặt tích cực,
tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ
và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương
thân, tương ái trong tuổi trẻ.
- Tạo nhiều hơn nữa các sân chơi lành mạnh để đáp ứng nhu cầu học tập, vui chơi và
giải trí của hội viên, sinh viên. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để sinh viên đăng
ký và tham gia nghiên cứu, thực hiện các đề tài khoa học, trong đó chú trọng các đề
tài liên quan bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Đào tạo những cán bộ nòng cốt của Hội sinh viên, phải là những người tiên phong
đi đầu, làm gương trong công tác này, chủ động xây dựng tác phong, lối sống đẹp,
sống có ích... và động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng.
- Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc mình. Đi đôi với việc sử dụng
ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích đồng bào, các dân tộc thiểu số học tập,
hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói chữ viết của dân tộc mình.
- Đặc biệt, ở những vùng sâu, vùng xa, những nơi khó khăn còn tồn tại nhiều phong
tục, tập quán, hủ tục lạc hậu thì thanh niên, sinh viên tình nguyện là những người
xung phong, tổ chức các lớp tình nguyện dạy con chữ cho các đồng bào; đưa văn
hóa truyền thống cùng những giá trị đạo đức hiện đại vào lối sống của người dân,
qua đó làm cầu nối, gắn kết miền ngược với miền xuôi.
- Tích cực học tập, nghiên cứu về truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc để có cái
nhìn đúng đắn về văn hóa dân tộc.
- Một xã hội có văn hóa, một cộng đồng có văn hóa, một cá nhân có văn hóa, một nền
văn hóa, một thời đại văn hóa trước hết phải sống và làm việc theo cái đúng. Tuyên
truyền, vận động, loại bỏ các thói hư, tật xấu thường gặp ở bộ phận giới trẻ hiện
nay. Sống có đạo đức thì văn hóa mới có cơ sở để phát huy.
- Xây dựng và phát triển văn hóa văn nghệ tại địa phương, trường học và các vùng
tỉnh lẻ.
- Phát trển và quản lý tốt các phương tiện truyền thông.

10
- Tích cực giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa; tiếp thu những giá trị văn hóa tốt đẹp
để làm phong phú hơn văn hóa nước nhà.
- Phải nhận thức rõ ý nghĩa tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay; tích cực nghiên cứu, tìm hiểu bản sắc văn hóa
dân tộc, tham gia vào các lễ hội văn hóa tây, ta.
2. Những việc sinh viên không nên làm
- Không bắt chước, đua đòi theo các trào lưu nước ngoài, làm phai mờ đi những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
- Không để bị lôi kéo, cổ súy bởi các thế lực thù địch bên ngoài nhằm chống phá chế
độ, hủy hoại dân tộc từ bên trong.
- Không pha trộn các loại ngôn ngữ làm mất đi vẻ trong sáng vốn có của tiếng Việt.
- Không hội nhập, tiếp thu, du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực, không phù
hợp thuần phong, mỹ tục của dân tộc; đua đòi theo các trào lưu nước ngoài, làm
phai mờ đi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.

11

You might also like