You are on page 1of 314

QUYỂN 1

THỜI CỔ SỬ
CHƢƠNG I

NƢỚC VĂN LANG VÀ CÁC VUA HÙNG

1 K hởi đầu thời đại đồng thau cách ngày nay vào
2 khoảng năm nghìn năm, nhiều bộ tộc Việt đã tới sinh
3 sống ở miền trung du và, miền đồng bằng châu thổ của
4 vùng Bắc Việt Nam ngày nay. Sử cũ gọi nhóm bộ tộc
5 Việt hỗn tạp nầy là Lạc Việt(1). Một nhóm tộc Việt
6 khác cũng đến sinh sống ở vùng Việt Bắc gọi là Tây
7 Âu hay Âu Việt(2).
8 Sử cũ Việt Nam cũng chép rằng, trƣớc đó, từ thời
9 Huỳnh Đế(3), khi bộ tộc ngƣời Hoa xâm chiếm nhiều bộ
10 tộc khác để lập thành đế quốc Trung Hoa (2697-2597
11 TCN) thì ở biên giới phía Tây Nam có 15 bộ lạc mà
12 Huỳnh Đế không thể thống thuộc đƣợc. Trong số 15
13 bộ lạc nầy, những bộ lạc Giao Chỉ, Gia Ninh và Văn
14 Lang là những bộ lạc có nhóm Lạc Việt tập trung
15 nhiều nhất.

16 V ào thời Trang vƣơng(4) nhà Chu ở Trung Hoa


17 (696-682 TCN), một tộc trƣởng Lạc Việt ở bộ lạc Văn
18 Lang gồm thâu và thống nhất các bộ lạc khác, dựng ra
19 nƣớc Văn Lang, xƣng là Hùng vƣơng; thủ đô đóng ở
20 Văn Lang, đặt tên quan chức: tƣớng văn gọi là Lạc
21 hầu(5), tƣớng võ gọi là Lạc tƣớng(6); phong tục sống đơn
22 giản, thuần hậu, chất phát(7). Những triều đại vua kế
23 tiếp của nƣớc Văn Lang đều gọi là Hùng vƣơng. Con
24 trai vua gọi là quan lang(8), con gái vua gọi là mị
1 nƣơng(9), các quan gọi là bồ chính(10). Đời đời cha
2 truyền con nối gọi là phụ đạo(11).
3 Nƣớc Văn Lang gồm có 15 bộ(12): Giao Chỉ, Việt
4 Thƣờng, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải,
5 Lục Hải, Thang Tuyền, Tân Xƣơng, Bình Văn, Cửu
6 Chân, Nhật Nam, Hoài Nam, Cửu Đức. Bộ Văn Lang
7 là thủ đô và là lãnh thổ hành chánh của triều đại nhà
8 Hùng.
9 Thời đại Văn Lang và các vua Hùng là giai đoạn
10 khởi đầu xây dựng nền tảng dân tộc, nền tảng văn hóa
11 và truyền thống tinh thần Việt Nam.
12 Kể từ năm Quý Mão (256 TCN), triều đại Hùng
13 vƣơng cuối cùng suy tàn. Thục Phán(13), một tộc trƣởng
14 của nhóm Âu Việt, tiến quân đánh đổ triều đại của nhà
15 Hùng, thành lập nƣớc Âu Lạc(14), tự xƣng là An Dƣơng
16 vƣơng, dời thủ đô về vùng Cổ Loa(15).

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

17 (1) Lạc Việt: nguồn gốc bộ tộc Lạc Việt không rõ từ đâu. Đại
18 Việt Sử Lƣợc viết: "Ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ma thuật chinh
19 phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng vương, đóng đô ở Văn Lang,
20 hiệu là nước Văn Lang"(ĐVSL/Q.I) và sách An Nam Chí Nguyên của
21 Cao Hùng Trƣng viết: "Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy
22 giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, làm chủ
23 các ruộng ấy gọi là Lạc vương, người phụ tá gọi là Lạc tướng, Lạc
24 hầu".
25 Có thể suy diễn nhƣ sau: một nhóm tộc Việt đến định cƣ và
26 sinh sống ở bộ lạc Gia Ninh; nhóm Việt tộc lần lần trở nên hùng mạnh
27 và lấn quyền cai trị tất cả ngƣời dân trong bộ lạc Gia Ninh do một
28 ngƣời đứng đầu của nhóm Việt tộc nắm giữ (ĐVSL gọi là "ngƣời lạ")
29 rồi từ Gia Ninh dùng mƣu chiếm cứ bộ lạc Giao Chỉ, bộ lạc Văn Lang
30 và các bộ lạc khác. Sau khi gồm thâu tất cả các bộ lạc, ngƣời lạ tự
31 xƣng là Hùng vƣơng, đặt tên nƣớc là Văn Lang, đóng đô ở Văn Lang
32 (Vùng Lâm Thao, Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay).
33 Lặp lại những truyện tích thần thoại hoang đƣờng trong dân
34 giang, sử cũ viết rằng: "vua Rồng của người Lạc tức Lạc Long Quân

VSTK - 3
1 lấy nàng Âu" (Âu cơ ; cơ: cô nàng) có lẽ là vì sử cũ muốn phản ảnh sự
2 tiếp xúc và mối liên hệ gắn bó từ lâu đời giữa bộ tộc Lạc Việt và bộ
3 tộc Âu Việt và cho thấy sự có mặt của tộc giống Lạc Việt xuất hiện
4 cùng một thời đại hoặc lâu hơn với tộc giống Âu Việt.
5 Câu hỏi đặt ra là: tại sao có giống tộc Lạc Việt và tại sao giống
6 tộc nầy lại tập trung nhiều ở vùng Giao Chỉ ? Lãnh thổ Giao Chỉ ở
7 đâu ?
8 Câu hỏi trên đƣợc đặt ra ngầm ý rằng lãnh thổ Giao Chỉ đã có
9 từ lâu, trƣớc khi có sự hiện diện của tộc giống Lạc Việt trên phần đất
10 nầy, hay nói một cách khác, ngƣời Giao Chỉ nguyên thủy không phải
11 là ngƣời Lạc Việt.
12 Đại Việt Sử Lƣợc (ĐVSL) viết: "Xưa, vào lúc vua Huỳnh Đế
13 tạo dựng đế quốc Trung Hoa, thấy rằng Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi
14 Bách Việt, không thể thống thuộc được cho nên mới coi ranh giới tiếp
15 giáp với 15 bộ lạc ở phía Tây Nam , (trong đó có bộ lạc Giao Chỉ)
16 như là giới hạn của đế quốc Trung Hoa.". Nhƣ vậy, vào thời đại của
17 Huỳnh Đế (vào khoảng 2697-2597 TCN), Giao Chỉ không bị rơi vào
18 vòng kiềm toả của tổ tiên nƣớc Trung Hoa.
19 Sách Kinh thƣ của Trung Hoa, thiên "Nghêu điển" chép: vua
20 Nghêu (2357-2258 TCN) sai Hi Thúc giữ việc suy trắc khí hậu ở Nam
21 Giao (Nam Giao: đất Giao ở phƣơng Nam) . Sách Sử Ký của Trung
22 Hoa chép: Năm Tân Mão thứ 6 (1110 TCN) đời Thành vương nhà
23 Chu, phía nam bộ lạc Giao Chỉ có Việt thường thị qua ba lần sứ dịch,
24 sang dâng chim trĩ trắng.
25 Theo những sự ghi chép đó thì lãnh thổ Giao Chỉ đã có trƣớc đời
26 nhà Đƣờng, tồn tại mãi tới đời nhà Chu (1122-256 TCN) và nằm kề
27 cận với lãnh thổ của bộ lạc Việt Thƣờng.
28 Vậy, giống tộc nguyên thủy ở Giao Chỉ là giống tộc nào ? Phải
29 chăng giống tộc nầy là giống tộc chính gốc của ngƣời Việt Nam
30 hiện nay ?
31 Các công trình khai quật và nghiên cứu các di chỉ khảo cổ gần đây
32 đã tìm thấy những dấu vết về giai đoạn của nhóm ngƣời nguyên thủy
33 trên đất nƣớc Việt Nam cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm. Ở núi
34 Đọ (Thanh Hóa) có rất nhiều công cụ đồ đá cũ, răng ngƣời vƣợn ở
35 Bình Gia (Lạng Sơn): ngƣời vƣợn khai thác đá ở sƣờn núi, mài đẽo
36 đơn sơ để tạo thành những công cụ chặt đẽo, rìu tay, bàn nạo. . để chặt
37 cây, vót nhọn tre, lao, gỗ . . .; hình dạng các công cụ rất thô sơ phản
38 ảnh thời đại non trẻ của lịch sử đang hình thành.
39 Dấu vết con ngƣời cùng với những động vật cổ đã hóa thạch phát
40 hiện đƣợc trong các hang Hùm (Yên Bái), hang Thung Lang (Ninh
41 Bình) cho thấy con ngƣời đã đi vào chế độ bộ tộc sơ khai cách nay
42 vào khoảng ba bốn vạn năm: nhƣ vậy tức là đã có những thị tộc, bộ
43 lạc sống trong hang động ở các miền rừng núi đá vôi. Khoảng 30 năm
44 gần đây, ngƣời ta đã khai quật đƣợc rất nhiều công cụ đồ đá ghè đẽo

VSTK - 4
1 thô sơ ở vùng đồi Vĩnh Phú, huyện Lâm Thao, xã Sơn Vi; đó là di tích
2 của nền văn hóa Sơn Vi: con ngƣời hang động từ các vùng Yên Bái,
3 Ninh Bình đã tiến ra sinh sống ở miền đồi núi trung du vốn trƣớc đây
4 là vùng rừng rậm trên thềm đất phù sa rất cổ của sông Hồng.
5 Những di chỉ về nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn cách nay
6 khoảng 10,000 năm cho thấy sự tiến triển kỹ thuật công cụ đồ đá đã
7 đạt đến mức tinh xảo (lƣỡi rìu mài tứ giác Bắc Sơn); những đồ gốm
8 đầu tiên nhồi nặn bằng tay và những vật dụng bằng tre, nứa (lao, cung
9 tên, thừng bện, gậy, cán) cũng đƣợc tìm thấy: nhƣ vậy, tre, nứa là một
10 trong những tài nguyên thiên nhiên trọng yếu rất cần cho việc sinh
11 tồn của nhóm ngƣời nguyên thủy cũng nhƣ những thời đại tiếp nối về
12 sau .
13 Di chỉ khai quật ở xã Quỳnh Văn thuộc huyện Huỳnh Lƣu (Nghệ
14 An), là nơi đầu tiên tìm thấy những cồn vỏ sò điệp do con ngƣời vứt
15 bỏ sau khi ăn; những mộ huyệt tròn khai quật từ giữa những cồn vỏ
16 sò, điệp đã tìm thấy một vài loại công cụ bằng đá và đồ trang sức
17 bằng vỏ ốc xuyên lỗ chôn theo ngƣời chết; di chỉ Quỳnh Văn cho thấy
18 rằng: cùng thời với những giống tộc và bộ lạc ở miền núi, còn có
19 những nhóm ngƣời nguyên thủy khác sống ở miền ven biển Đông.
20 Ở miền Bắc Việt Nam đã liên tiếp phát hiện đƣợc những di chỉ của
21 thời đại đồ đồng thau, ở miền trung du, ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc
22 Trung bộ qua các giai đoạn Phùng Nguyên/ tỉnh Vĩnh Phú (khởi đầu
23 thời đại đồng thau), Đồng Đậu/ tỉnh Vĩnh Phú (khoảng giữa thời đại
24 đồng thau), Gò Mun/ tỉnh Vĩnh Phú (thời kỳ phát triển), Đông Sơn/
25 tỉnh Thanh Hóa (cuối thời đại đồng thau, đầu thời đại đồ sắt). Các di
26 chỉ đó có có số tuổi cách ngày nay từ khoảng 2,400 đến 3,400 năm
27 tức là trƣớc thời đại của Huỳnh Đế dựng nƣớc Trung Hoa. Trong giai
28 đoạn Phùng Nguyên, các đồ đá tìm thấy đã đạt tới tới mức hoàn hảo:
29 những lƣỡi rìu, đục đƣợc mài, giũa, khoan, cắt khá tinh vi và có phẩm
30 chất cao; các đồ trang sức nhƣ vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi bằng đá
31 đƣợc trau chuốt, tiện mài rất đẹp; các loại đồ gốm có những hình dạng
32 độc đáo, trang trí với những nét hoa văn sắc xảo và bền chắc: chén,
33 nồi, hủ, ly tách. . . có thể đã đƣợc nhào nặn bằng kỹ thuật bàn xoay
34 tròn mà hiện nay nhiều nơi trên thế giới vẫn còn dùng trong lãnh vực
35 chế tạo đồ gốm.
36 Trong những giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, bên cạnh đồ đá hoàn
37 thiện cũng đồng thời tìm thấy công cụ, vũ khí bằng đồng thau nhƣ:
38 lƣỡi câu, liềm, rìu, đục, mũi giáo, tên và trong những di chỉ khảo cổ
39 thời đại đồng thau cũng đã tìm thấy nhiều xƣơng động vật nhƣ xƣơng
40 heo, chó, trâu, bò, vỏ trấu, hạt gạo, hạt đậu, hạt trám. . vân. vân . . .
41 Nhƣ vậy, rõ ràng là có dấu tích của con ngƣời nguyên thủy trên đất
42 nƣớc Việt Nam thời cổ. Nƣớc Việt Nam thời cổ có phải là lãnh thổ
43 Giao Chỉ hay không? Và nhóm ngƣời nguyên thủy trên lãnh thổ Việt
44 Nam nầy có phải là ngƣời Lạc Việt ngày xƣa hay không?

VSTK - 5
1 Từ thời Huỳnh Đế, qua thời nhà Đƣờng thì Nam Giao hay Giao
2 Chỉ đã hiện hữu và sau đó trở thành một bộ trong 15 bộ tộc của triều
3 đại Hùng Vƣơng. Theo Nguyễn Thiên Túng chú thích Dƣ Địa Chí của
4 Nguyễn Trải thì Giao Chỉ thời Hùng vƣơng là vùng Sơn Nam (Sơn
5 Nam gồm vùng đất các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và tỉnh
6 Hà Đông/nay thuộc tỉnh Hà Tây). Theo A.Schreiner trong Abrégé de
7 l' Histoire d' Annam thì Giao Chỉ nay là Hà Nội, Nam Định và Hƣng
8 An hay Hƣng Yên.
9 Đa số thuyết cũ đều cho rằng ngƣời Lạc Việt từ ở nơi khác đến lập
10 nghiệp ở vùng Bắc Việt Nam (tức Giao Chỉ) chƣa lâu lắm nhƣng
11 không xác định rõ hay khẳng định dứt khoát họ cũng là một trong
12 nhóm tộc Việt giống nhƣ Đông Việt, Mân Việt, Âu Việt, U Việt, Vu
13 Việt, Nam Việt . . .Sách sử cũ của Trung Hoa không thấy nói tới Lạc
14 Việt và Âu Lạc mà chỉ thấy nói tới đất Nam Giao, Giao Chỉ hoặc đất
15 An Nam. Sách Đại Việt Sử Lƣợc của ta cũng viết rằng: " Xưa, Huỳnh
16 Đế lập quốc...thấy Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt không thể
17 thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc tây nam gồm có 15 bộ lạc
18 là: 1/ Giao Chỉ, 2/ Việt Thường, 3/ Vũ Ninh, 4/ Quân Ninh, 5/ Gia
19 Ninh, 6/ Ninh Hải, 7/ Lục Hải, 8/ Thang Tuyền, 9/ Tân Xương, 10/
20 Bình Văn, 11/ Văn Lang, 12/ Cửu Chân, 13/ Nhật Nam, 14/ Hoài
21 Nam, 15/ Cửu Đức ". Nhƣ vậy, ngƣời Giao Chỉ không phải là một
22 trong những tộc giống Bách Việt giống nhƣ ngƣời của Văn Lang, và
23 những bộ tộc khác cùng thời với bộ tộc Giao Chỉ cũng không thuộc
24 nhóm Bách Việt.
25 Khởi đầu thời đại Tây Lịch, ngƣời ta vẫn còn thấy chế độ Lạc
26 tƣớng tồn tại. Vào thời đại nầy các "bộ lạc" chuyển thành huyện và lôi
27 kéo theo sự thay đổi danh hiệu Lạc tƣớng thành huyện lệnh hay huyện
28 trƣởng. Sử sách cũ ghi ngƣời phụ tá vua Hùng là "bộ chúa" hay "phụ
29 đạo" tƣơng tự nhƣ các chức pơ tao, mơ tao, bơ tao, tạo, đạo . . . của
30 các thủ lĩnh dân tộc miền núi trong nƣớc Việt Nam trƣớc đây không
31 lâu lắm và đó là các chức vụ kế truyền theo huyết tộc. Sử cũ cũng
32 chép rằng, dƣới thời Hùng Vƣơng, những ngƣời giúp việc gọi là "bồ
33 chính". Trƣớc năm 1945, nhiều vùng ở Bắc bộ còn gọi chánh tổng là
34 bồ đình. Bộ tộc Gia-rai ở Tây nguyên, ngƣời có trách nhiệm cai quản
35 một số buôn, plây gọi là pô-ta-rinh.
36 Cũng theo sử cũ thì con trai của Hùng vƣơng gọi là "quan lang",
37 con gái vua gọi là "mỵ nƣơng". Trƣớc năm 1945 ở vùng đồng bào
38 Mƣờng vẫn còn tồn tại chế độ lang đạo: con cả của chi ngành trƣởng
39 cai trị một mƣờng và gọi là lang cun, và con cả của ngành thứ cai
40 quản những xóm nhỏ gọi là lang đạo. Con trai của lang cun hay lang
41 đạo cũng gọi là lang; con gái của các lang gọi là nàng (cô nàng, mệ
42 nàng). Nhƣ thế, xã hội Lạc Việt đời Hùng vƣơng có thể có những nét
43 tƣơng đồng với chế độ lang đạo của ngƣời Mƣờng trƣớc năm 1945.

VSTK - 6
1 Cho đến thế kỷ thứ 8, ờ miền Ba Vì tỉnh Hà Tây vẫn còn chế độ
2 quan lang. Cũng theo sách cũ, tổ tiên của Phùng Hƣng "Bố Cái đại
3 vƣơng" đời đời làm tù trƣởng châu Đƣờng Lâm (nay là Cam Lâm, Ba
4 Vì) gọi là quan lang. (theo Giao Châu ký của Triệu Công/ dẫn trong
5 Việt điện u linh/ Lý Tế Xuyên).
6 Sách Abrégé de L'histoire d'Annam (Tiết yếu lịch sử của ngƣời An
7 nam), Alfred Schreiner viết: "Les fils des rois de la dynastie des Hồng
8 Bàng prenaient le titre de quang lang et les filles celui de mĩ nàng;
9 c'est le titre que portent encore actuellement les chefs et leurs femmes
10 chez les tribus Mường du Tonkin (dịch: những ngƣời con trai của các
11 vua triều đại Hồng Bàng [tức là các vua Hùng] mang danh hiệu là
12 quang lang và những ngƣời con gái là mĩ nƣơng; đó là danh hiệu mà
13 hiện nay vẫn đƣợc dùng để gọi các tù trƣởng bộ tộc ngƣời Mƣờng và
14 những ngƣời vợ của họ ở Bắc kỳ).(Alfred Schreiner/Abrégé de
15 l'Histoire d'Annam/ 2è.Édit./ 1906/ trang 11). Có 2 điểm chú ý ở đây:
16 1/ Tác giả dùng chữ quang không phải là quan và ghi chú quang:
17 briller, nghĩa là chiếu sáng, sáng lạng. 2/ Dùng chữ Mĩ không phải là
18 Mị và ghi chú Mĩ: grâce, nghĩa là dịu dàng, dễ thƣơng. Tƣ liệu đƣợc
19 tái bản vào năm 1906, nhƣ vậy cũng có thể rút ra đƣợc một thực tế:
20 trƣớc năm 1906, dân tộc Mƣờng ở Bắc phần vẫn còn tồn tại những
21 danh hiệu quan lang và mị nƣơng.
22 Tóm lại, có thể nói rằng ngƣời Lạc Việt không phải là ngƣời Việt
23 Nam nguyên thủy thuần giống. Ngƣời Việt Nam nguyên thủy thuần
24 giống đã pha trộn, phối chủng với nhiều giống tộc Việt khác nhau từ
25 nhóm Bách Việt tách ra, phiêu lƣu, luân lạc rồi đến định cƣ và sinh
26 sống ở Giao Chỉ, ở Văn Lang từ thời Huỳnh Đế lập quốc ở Trung Hoa
27 và đã tạo sinh ra một giống tộc mới. Lãnh thổ Giao Chỉ, cũng nhƣ
28 lãnh thổ Văn Lang trở thành các bộ lạc hợp chủng riêng rẽ với một
29 giống tộc mới mà sử sách cũ của Trung Hoa gọi là dân Lạc ở Giao
30 Chỉ. Dân Lạc ở đây rất có thể ngƣời Trung Hoa muốn ám chỉ nhóm
31 ngƣời Việt bị ruồng bỏ, nhóm ngƣời Việt chạy loạn, lƣu lạc xuống
32 phía Tây Nam sinh sống chung đụng một cách an bình với ngƣời Việt
33 Nam nguyên thủy, tập trung đông đảo nhất ở bộ lạc Giao Chỉ.
34 Giống tộc ngƣời Lạc đối với ngƣời Hoa là ngƣời tạp chủng ở Giao
35 Chỉ cho nên trong sách sử cũ của họ vẫn tiếp tục gọi chung là dân
36 Giao Chỉ và về sau thì gọi là An Nam quốc. Khi ngƣời Việt Nam bắt
37 đầu chép sử, thì chữ Lạc đƣợc ghép thêm chữ Việt dùng để chỉ hợp
38 chủng ngƣời Việt Nam kể từ thời các vua Hùng, tức là dân Lạc Việt.
39 (2)Âu Việt: theo Sử Ký của Tƣ Mã Thiên thì vào thời Hiền vƣơng
40 nhà Chu ở Trung Hoa, nƣớc Sở diệt nƣớc Việt. Con cháu nƣớc Việt
41 chạy đi, phân tán làm tộc trƣởng ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau và
42

VSTK - 7
1 thƣờng có hiệu là Âu Việt, hoặc Mân Việt, đó là dòng dõi của Câu
2 Tiễn nƣớc Việt xƣa. Câu Tiễn là vua nƣớc Việt thời Xuân Thu bên
3 Trung Hoa, là ngƣời có chí, quyết ý diệt kẻ thủ là nƣớc Ngô, chịu
4 ngậm đắng nuốt cay trăm bề tủi nhục, dâng nạp ngƣời đẹp Tây Thi
5 cho vua Ngô để áp dụng kế mỹ nhân, khiến vua Ngô mê mẩn nhan sắc
6 bỏ phế quốc chính. Kết cục Câu Tiễn diệt đƣợc Ngô.

7 (3)Huỳnh Đế: sử sách cũ gọi là Hoàng Đế. Chữ hoàng có 2 nghĩa: 1/-
8 là màu vàng. 2/- là nhà vua. Chữ đế cũng có nghĩa là vua. Ở đây
9 VSTK dùng chữ Huỳnh cũng có nghĩa là màu vàng thì có thể đúng
10 hơn vì trong sách vở thƣờng thấy có những vua gọi là Hắc (đen) đế,
11 Xích (đỏ) đế. . .v.v . . .

12 (4) Trang vƣơng nhà Chu: tên Đà, con của Hoàng vƣơng.

13 (5) Lạc hầu: sách Việt Sử Cƣơng Mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng
14 trích dẫn rằng: "Giao Quảng Ký chép: Giao chỉ có Lạc điền (ruộng
15 Lạc), theo nước triều lên xuống mà trồng cấy. Người cày cấy ruộng
16 Lạc gọi là Lạc dân. Người cai trị chung gọi là Lạc vương, phó vương
17 là Lạc hầu và Lạc tướng để thống trị theo phép. Thái bình hoàn vũ
18 ký chép: người Văn Lang thường ở, ngủ dưới cây, trao đổi mua bán
19 không hai giá. Theo đó thì thời Hùng vương chỗ ở chưa có nhà cửa".

20 (6) Lạc tƣớng: xem chú thích (3) ở trên.

21 (7) Phong tục đơn giản, thuần hậu, chất phát: xem chú thích trên.

22 (8) Quan lang: xem chú thích (1)/ trang 4/ từ câu 24.

23 (9) Mị nƣơng: xem chú thích (1).

24 (10) Bố chính: xem chú thích (1).


25

26 (11) Phụ đạo: xem chú thích (1)

27 (12)Mƣời lăm bộ: chép theo ĐVSL. Đại Việt Sử Ký Toàn thƣ
28 (ĐVSKTT) cũng chép là 15 bộ nhƣng có 5 bộ khác với ĐVSL là:
29 Chu Diên, Phúc Lộc, Dƣơng Tuyền, Vũ Định và Tân Hƣng. Đại Việt
30 Sử Ký Tiền Biên thời Nguyễn Tây Sơn (ĐVSKTB), Khâm Định Việt
31 Sử Thông Giám Cƣơng Mục thời Nguyễn Gia Long (KĐVSTGCM),
32 Việt Sử Cƣơng Mục Toát yếu của Đặng Xuân Bảng (VSCMTY) tất
33 cả đều ghi 15 bộ theo ĐVSKTT.
34 Theo Dƣ Địa Chí của Nguyễn Trãi thì 15 bộ nầy là:

VSTK - 8
1 1. Giao Chỉ: là vùng Sơn Nam, nay là Hà Nội, Nam Định và
2 Hƣng Yên.
3 2. Chu Diên: gồm phần đất tỉnh Sơn Tây cũ (nay thuộc Hà
4 Tây), phần lớn đất Vĩnh Yên và Phúc Yên cũ (nay thuộc tỉnh Vĩnh
5 Phúc) và một phần đất tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc tỉnh Hà Tây).
6 3. Phúc Lộc: Sơn Tây.
7 4. Vũ Ninh: Kinh Bắc, nay là Bắc Ninh.. Có thời huyện Gia
8 Lâm của Hà Nội cũng thuộc xứ Kinh Bắc.
9 5. Việt Thƣờng: Thuận Hóa tức là Quảng Trị, Thừa Thiên.
10 6. Ninh Hải: An Bang hay Yên Bang, nay là Quảng Yên. Tỉnh
11 Quảng Yên cũ bao gồm cả đất huyện Thủy Nguyên của Hải Phòng
12 ngày nay. Yên Bang bao gồm phần lớn đất của tỉnh Quảng Ninh và
13 một phần đất Hải Phòng ngày nay.
14 7. Dƣơng Tuyền: Hải Dƣơng.
15 8. Lục Hải: Lạng Sơn.
16 9. Vũ Định: Thái Nguyên, Cao Bằng.
17 10. Hoài Hoan: nay là Hà Tĩnh.
18 11. Cửu Chân: Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình.
19 12. Tân Hƣng: Hƣng Hoá, Tuyên Quang
20 13. Cửu Đức: Hà Tỉnh, Quảng Bình.
21 14. Bình Văn: chƣa rõ là ở đâu.
22 15. Văn Lang: vùng Lâm Thao, Bạch Hạc của tỉnh Vĩnh Phú
23 ngày nay. Vùng nầy sử sách cũ còn gọi là Phong Châu. Lời cẩn án
24 trong KĐVSTGCM viết: "Phong Châu sử cũ chua là Bạch Hạc.
25 Đường thư /Địa ly chí chép: Phong Châu thống lĩnh năm huyện. Sách
26 Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử triều nhà Tống (bên Tàu) chép:
27 Quận Thừa Hóa Phong Châu xưa là nước Văn Lang. Như thế thì
28 Phong Châu tức là địa hạt phủ Vĩnh Tường (nay thuộc Vĩnh Phúc) và
29 phủ Lâm Thao thuộc tỉnh Sơn Tây bây giờ ".

30 (13)Thục Phán: lai lịch cho đến nay vẫn còn mờ ám, sử sách cũ chƣa
31 giải quyết một cách rõ ràng. VSL viết: " Cuối đời nhà Chu, Hùng
32 vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay. Phán đắp
33 thành ở Việt Thường, lấy hiệu là An Dương vương và không còn chịu
34 thần phục nhà Chu nữa ".
35 ĐVSKTT chép: "Họ Thục, tên Phán, người Ba Thục".
36 ĐVSKTB viết: "An Dương Vương, húy Phán, người Ba Thục, ở
37 ngôi 50 năm. Sử cũ (tức ĐVSKTT) chép là họ Thục. Không đúng".
38 Việt Sử Tiêu Án (VSTA) của Ngô Thời Sĩ viết: "An Dương Vương
39 tên là Phán, người Ba Thục, ở ngôi vua 50 năm, lúc trước vua Thục
40 cầu kết hôn với con gái Hùng vương mà không được, lấy làm giận
41 lắm cho nên thường đánh nhau với Hùng vương đều bị thua trận, dặn
42 lại con cháu phải diệt cho được nước Văn Lang".

VSTK - 9
1 Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: ". . .còn bảo rằng Thục vương
2 đây là người ở Ba Thục thì không phải".
3 Trong VSCMTY, Đặng Xuân Bảng có lời xét nhƣ sau: "Ba Thục
4 nay là tỉnh Tứ Xuyên (Trung Hoa), cách nước Văn Lang gần hai
5 nghìn dặm, ngăn cách bởi các nước Dạ Lang, Đan Vu, Cùng, Tạc,
6 nếu Phán quả là người Ba Thục thì làm thế nào có thể mang quân từ
7 xa, vượt qua các nước ấy mà thôn tính Văn Lang? Phán có thể thôn
8 tính Văn Lang thì Văn Lang với nước của Phán hẳn là không xa nhau.
9 Hơn nữa, sau khi Phán diệt nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc.
10 Lạc tức là Văn Lang, Âu tức là Tây Âu mà Tây Âu là châu Uất Lâm
11 của Quảng Tây. Uất Lâm giáp giới với Văn Lang cho nên mới đem
12 quân diệt được Văn Lang và lấy quốc hiệu là chữ Âu đặt trước chữ
13 Lạc. Có lẽ là người Tây Âu, họ Thục, tên Phán, còn gọi là Thục
14 vương thì không đúng".

15 A.Schreiner trong Abrégé de l'Histoire d'Annam viết: "Un point,


16 toutefois, sur lequel tout le monde semble d'accord, c'est que le
17 royaume de Văn Lang n' occupait pas tout le pays de Giao Chỉ, était
18 aussi habité par d'autres tribus ne formant pas avec ce royaume et
19 entre elles un compact corps de nation. Quoique les gens de Văn
20 Lang et toutes ces tribus fussent de même race, celles-ci étaient, les
21 unes indépendantes, les autres soumises à des voisins"(sách đã dẫn/
22 trang 13)

23 (dịch: Ngƣời ta đã đồng ý ở một điểm là thời trƣớc vƣơng quốc Văn
24 Lang không làm chủ hoàn toàn lãnh thổ Giao Chỉ vì ở Giao Chỉ cũng
25 còn có sự hiện hữu của nhiều bộ lạc khác nữa; những bộ lạc nầy
26 không những độc lập với nhau, mà cũng không cùng với vƣơng quốc
27 Văn Lang kết hợp thành một quốc gia vững chắc. Cho dù ngƣời dân
28 của Văn Lang và ngƣời dân của các bộ lạc đó có cùng một giống tộc
29 thì vẫn có những nhóm bộ lạc độc lập và những nhóm phụ dung vào
30 những bộ lạc kế cận).
31 Cũng theo A.Schreiner thì vào thời đại Hồng Bàng và có thể trƣớc
32 đó nữa, trong bộ lạc Giao Chỉ, ở về phía Tây Bắc có một vùng gọi là
33 Thục hay Ba Thục. Đời Hùng vƣơng, vƣơng quốc Ba Thục là chƣ hầu
34 của nƣớc Văn Lang. (Principauté vassale de Văn Lang). Theo sự ghi
35 chú trong dấu ngoặc của tác giả thì Ba Thục là vùng Cao Bằng.
36 Rồi Ba Thục và Văn Lang có mối hiềm khích vì chuyện hôn nhân
37 giữa hai nƣớc, Ba Thục lần lần tách xa khỏi vòng kiềm chế của Văn
38 Lang và sau đó tuyên chiến nhƣng mãi cho tới đời Thục Phán, Ba
39 Thục mới diệt đƣợc Văn Lang để lập ra nƣớc Âu Lạc.

40 (14) Âu Lạc: là sự hợp nhất hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt.

VSTK - 10
1 Hai tộc Lạc Việt và Âu Việt rất gần gũi với nhau. Lãnh thổ của hai
2 bộ tộc nằm cạnh nhau. Sử sách cũ Việt Nam ghi chép chuyện dân
3 gian về vua Rồng của bộ tộc Lạc (Lạc Long quân) lấy một Cô nàng
4 của bộ tộc Âu (Âu Cơ, Âu: là Âu Việt; Cơ: là Cô, hay Nàng) cho
5 thấy sự tiếp xúc và mối liên hệ gắn bó từ lâu đời giữa ngƣời Lạc Việt
6 và ngƣời Âu Việt và theo đó thì cả hai bộ tộc đều ở trong nhóm Bách
7 Việt.
8 Quách Phác đời nhà Tấn ở Trung Hoa (thế kỷ III) chú giải sách
9 Phƣơng Ngôn của Dƣơng Hùng (thế kỷ I) viết: "Tây Âu chỉ là một
10 nhánh khác của Lạc Việt. Mặc dù có một nhóm dân Âu Lạc sinh sống
11 ở Quảng Đông và Quảng Tây nhưng đa số đến định cư và sinh sống
12 trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Họ sống chung đụng với nhau.
13 Người Âu Việt cũng chế tạo đồ đồng thau, canh tác nghề nông, chăn
14 nuôi gia súc, đánh bắt cá như người Lạc Việt. Người Âu Việt cũng có
15 tục cắt tóc, xăm mình, mặc áo khoét cổ chui đầu, khuy nút áo đính bên
16 trái giống như người Lạc Việt. Giữa người Âu Việt và Lạc Việt có sự
17 giao dịch kinh tế, văn hóa, hôn nhân nhưng cũng không tránh khỏi
18 những bất đồng, xung đột đi đến chỗ dùng vũ lực, lấn áp xâm phạm
19 giữa hai bộ tộc. Lạc Việt có trình độ phát triển văn hóa, xã hội nhanh
20 và tiến bộ hơn Âu Việt."

21 (14)Cổ Loa: tại Phong Khê, phủ Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh, nay còn
22 di tích ở huyện Đông Anh, ở ngoại thành Hà Nội khoảng 15-20 cây
23 số, nằm ở bờ phía trái của sông Hoàng (Hoàng giang, còn gọi là sông
24 Thiếp hay Ngũ huyện khê, trƣớc kia là một nhánh quan trọng của
25 sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu và chảy vào sông Lục
26 đầu ở phía Đông) tức là nằm vào giữa quốc l số 2 và đƣờng xe lửa
27 Hà Nội-Lào Cai hiện nay.
28 Sử sách cũ viết rằng thành có 9 lớp. Tuy nhiên di tích còn lại đến
29 nay, không kể những ụ công sự và những đoạn thành lũy tản mát
30 riêng rẽ, chỉ có 3 vòng tƣờng thành đắp bằng đất với một chu vi tổng
31 cộng vào khoảng 15,000-16,000 thƣớc (vòng thành ngoài: khoảng
32 7,500 thƣớc; vòng thành thứ nhì: khoảng 6,200 thƣớc; vòng thành thứ
33 ba: khoảng 1,500 thƣớc). Ở nhiều chỗ, chân vòng thành rất dầy và
34 đƣợc kè chận bằng đá, phía trên đầu bờ thành rộng và khá cao với
35 nhiều ụ đất nhô ra phía ngoài để làm điếm canh hay công sự phòng
36 thủ. Phía ngoài mỗi lũy thành có hào sâu, rộng, ghép nối vào với sông
37 Hoàng thành một mạng lƣới đƣờng thủy thuyền bè có thể lƣu thông
38 đƣợc; trong hệ thống hào sông nầy có vùng Đầm Cả rộng mênh mông
39 có thể dùng làm bến đậu cho hàng trăm thuyền bè.
40 Ngoài công trình xây dựng thành Cổ Loa độc đáo, năm 1959, ở
41 cách chân bờ tƣờng thành Cổ Loa vài trăm mét về phía Nam, ngƣời ta
42 đã khai quật đƣợc một kho hầm đầu mũi tên đồng gồm đến hàng chục
43 ngàn chiếc với nhiều hình dạng khác nhau, đầu mũi tên có chuôi rộng

VSTK - 11
1 để cắm vào cán. Mũi tên đồng đƣợc chế tạo hàng loạt nhƣ vậy có
2 nghĩa là kỹ thuật luyện đồng vào thời đó đã phát triển cao, nguyên
3 liệu đồng dồi dào và thừa thãi.
4 Thành Cổ loa là một công trình kiến trúc quy mô, rộng lớn và sáng
5 tạo của ngƣời dân Âu Lạc. Số lƣợng đất đá đào đắp, chuyên chở đòi
6 hỏi một số lƣợng nhân công hằng trăm ngàn ngƣời để lao dịch. Khi
7 xây cất thành , những điều kiện khắc nghiệt về địa hình của vùng Cổ
8 Loa nhƣ sông rạch, gò cồn, đầm lầy, vực sâu đã đƣợc nghiên cứu để
9 vận dụng phù hợp: dùng sông và vực sâu làm hào, dùng gò cồn làm
10 lũy chắn, dùng kỹ thuật nền đá tảng để kê chân thành ở những nơi
11 đầm lầy để tƣởng thành đƣợc vững chắc.
12 Thành Cổ Loa cũng là một chiến lũy quân sự độc đáo, một công
13 trình phòng ngự kiên cố và lợi hại: là một căn cứ bộ binh gồm có
14 nhiều công trình phòng vệ nhƣ lũy, hào, ụ công sự, tuyến bảo vệ hàng
15 đầu bên ngoài vòng thành. Cổ Loa đồng thời cũng là một căn cứ thủy
16 quân quan trọng với một hệ thống kinh hào bao bọc toả ra và liên kết
17 với sông Hoàng, ngƣợc sông Hồng, xuôi dòng sông Cầu để ra biển:
18 thuyền chiến có thể di động khắp ba vòng hào sâu để điều hợp công
19 tác chiến đấu với bộ binh.
20 Song song với kỹ thuật xây thành đắp lũy, ngƣời Âu Lạc cũng đã
21 có một sự tiến bộ rất nhanh trên lãnh vực chế tạo vũ khí và kỹ thuật
22 quốc phòng: ngoài việc dùng cung tên theo lối cũ, ngƣời Âu Lạc đã
23 chế tạo đƣợc một loại nỏ, một lần bắn đƣợc nhiều phát đồng loạt rất
24 lợi hại và vì thế loại nỏ đã đƣợc dân gian thần thánh hóa truyền tụng
25 với truyện rùa vàng cho móng để Thục Phán dùng làm nỏ thần bắn ra
26 một phát giết chết hàng ngàn quân địch. Những sử gia của ta ngày xƣa
27 nếu đã phát hiện thấy những khối lƣợng mũi tên đồng nầy thì có lẽ đã
28 không đƣa câu chuyện thần thoại "nỏ thần móng rùa" vào quốc sử.
29 Thời phong kiến ở bên Âu Châu cũng đã có những loại lẫy nỏ bắn ra
30 một phát nhiều mũi tên cùng một lúc và mũi tên cũng đƣợc chế tạo
31 bằng sắt hay đồng để có thể xuyên thủng áo giáp của quân địch.
32 Cổ Loa đƣợc xây dựng thành nhiều tầng, nhiều lớp: vua và hoàng
33 cung của vua ở khu trung tâm có nhiều vòng thành bên ngoài bảo vệ.
34 Quan lại ở giữa khu thành trong và tháng giữa còn quân đi thì canh
35 giữ ngày đêm trên 3 vòng thành ngoài và đóng doanh trại bên ngoài
36 vòng thành giữa.
37 Dƣới chân thành, ở nhiều đoạn, các nhà khảo cổ khai quật đƣợc
38 nhiều di tích cho thấy đây cũng là một địa điểm cƣ trú đã có trƣớc khi
39 thành Cổ Loa đƣợc xây, thuộc về buổi đầu thời đại đồ sắt. Điều đó
40 cũng có thể suy diễn đƣợc rằng ngƣời dân đen trong nƣớc Âu Lạc bị
41 dời đi ra ngoài bờ thành để vua chiếm đất xây thành: theo chuyện xƣa
42 tích cũ trong dân gian ở Liên Hà (nay thuộc làng Quậy, huyện Đông
43 Anh, Hà Nội) thì ngày xƣa dân làng Quậy ở phía bên trong thành Cổ
44 Loa phải dời đi xuống Liên Hà để vua lấy đất xây thành. Từ những

VSTK - 12
1 điểm trên ngƣời ta có thể suy đoán rằng xã hội Lạc Việt là một xã hội
2 có phân chia giai cấp: vua, quan, quân, dân. Chế độ chính trị xã hội
3 của nƣớc Âu Lạc căn bản vẫn giống nhƣ chế độ chính trị xã hội của
4 nƣớc Văn Lang nhƣng kinh đô nhà vua đƣợc dời xuống miền đồng
5 bằng và đƣợc xây dựng có kỹ thuật và quy mô hơn. Bộ máy chính
6 quyền trung ƣơng tức triều đình của nhà vua nƣớc Âu Lạc đƣợc tổ
7 chức tốt hơn: về việc nầy, sử cũ chỉ ghi lại một ngƣời tƣớng phụ tá
8 cho vua An Dƣơng Vƣơng nhƣ tƣớng Cao Lỗ (có sách gọi là Cao
9 Thông) cố vấn trong việc quốc phòng (chế ra lẫy nỏ). Lãnh thổ Âu
10 Lạc cũng vẫn chia thành từng khu vực gọi là bộ và vẫn giao cho các
11 Lạc hầu, Lạc tƣớng cai trị nhƣ cũ. Lạc hầu, Lạc tƣớng đƣợc kế truyền
12 theo huyết tộc. Hạ tầng căn bản của nƣớc Âu Lạc giống nhƣ nƣớc
13 Văn Lang cũ là các làng, xã hay làng, chạ. Cổ Loa ngày xƣa là một
14 xã và có tên là chạ chủ hay khạ klủ tức là xã của chủ. Cổ âm học cho
15 biết chữ chủ còn đƣợc đọc là klủ, rồi từ đó biến âm và rồi đƣợc phiên
16 âm là khả klủ, kim lủ, cổ loa. Các chuyện đời xƣa trong dân gian gọi
17 An dƣơng vƣơng là vua chủ, thành Cổ loa là thành chủ. Làng của Chủ
18 thì đất cao, làng Quậy đất trũng và tục ngữ cũng có câu "Quậy ủ chủ
19 tƣơi, Quậy cƣời chủ khóc" có nghĩa là nếu mƣa nhiều thì cây cối của
20 chủ làng đƣợc tốt tƣơi vì nằm trên thế đất cao còn ruộng đồng, vƣờn
21 cây của ngƣời dân ở Quậy thì bị ngập nƣớc úng thối vì ở dƣới thế đất
22 trũng và ngƣợc lại khi nắng nhiều thì đồng Chủ sẽ bị hạn.

23 Tóm lại, xã hội nƣớc Âu Lạc cũng nhƣ xã hội nƣớc Văn Lang
24 là những xã hội trong đó đã có sự hiện diện và tham dự của dân tộc
25 Việt Nam thời nguyên thủy với một thể chế chính trị chuyên chế;
26 trong xã hội đó, hạ tầng cơ sở nồng cốt là làng xã, bao gồm phần lớn
27 là miền Bắc bộ và Bắc Trung bộ ngày nay.

*
KHẢO LUẬN :

LÃNH THỔ VĂN LANG TRONG SỬ CŨ

28 Sử cũ ĐVSKTT viết: "Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn
29 Lang, chia nước làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Phúc Lộc, Ninh
30 Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Tân Hưng, Vũ Ninh, Cửu
31 Chân, Hoài Nam, Việt Thường, Bình Văn, Cửu Đức, Văn Lang...còn
32 bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô. Nước Văn Lang lúc bấy giờ
33 Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam
34 tiếp nước Hồ Tôn" (NK1,3a).
35 ĐVSL đƣợc xem nhƣ là có trƣớc ĐVSKTT cũng có chép 15 bộ
36 nhƣng gọi là 15 bô lạc và có 5 bộ khác với ĐVSKTT là: Chu Diên,

VSTK - 13
1 Phúc Lộc, Dƣơng Tuyền, Vũ Định và Tân Hƣng. Điểm khác biệt quan
2 trọng là ĐVSL không đề cập gì đến nƣớc Văn Lang cũng nhƣ cƣơng
3 giới của nƣớc nầy, tức là trong ĐVSL chỉ có bộ lạc Văn Lang nằm
4 phía ngoài cõi ranh giới các lãnh thổ của những giống tộc Việt còn
5 đƣợc gọi là Bách Việt.
6 Trong ĐVSL có một đoạn rất đáng chú ý: "Đến đời Thành Vương
7 nhà Chu, Việt Thường thị mới đem dâng chim trĩ trắng,. . . sách Xuân
8 Thu gọi thị tộc nầy là Khuyết địa(1) và sách Đái Ký(2) gọi là Điêu
9 đề(3)" (ĐVSL/QI/ Những sự thay đổi đầu tiên của đất nƣớc/ bản dịch
10 Việt ngữ năm 1972 của Nguyễn Gia Tƣờng đã đƣợc hiệu đính).
11 (1) Khuyết địa: đất trống, có ý nói rằng bộ tộc (hay thị tộc) Việt Thƣờng vào thời đó
12 dân cƣ còn thƣa thớt, hoang sơ; và nhƣ thế cũng có thể suy diễn đƣợc rằng bộ lạc
13 Giao Chỉ và bộ lạc Văn Lang cũng ở vào một tình trạng hoang sơ nhƣ bộ tộc Việt
14 Thƣờng.

15 (2) Đái Ký: nguyên là sách Lễ ký của Khổng Tử ghi chép về đời Xuân Thu và sau
16 nầy đƣợc hai chú cháu họ Đái đời nhà Hán sắp xếp viết lại thành sách Đái Ký.

17 (3) Điêu đề: Điêu là xăm, khắc, chạm, trổ. Đề là cái trán. Điêu đề tức là chạm khắc
18 lên trán, ý muốn nói dân Việt Thƣờng có tục xăm, chạm lên trán và do đó ngƣời ta có
19 thể suy diễn rằng dân của 14 bộ lạc khác kề cận với bộ lạc Việt Thƣờng trong đó có
20 bộ lạc Giao Chỉ và bộ lạc Văn Lang cũng có tục xăm mình giống nhƣ dân Việt
21 Thƣờng. ĐVSKTT chép rằng: Bấy giờ dân ở rừng núi thấy ở sông ngòi, khe suối đều
22 có tôm cá nên đua nhau đi bắt lấy để ăn, thường bị giống thuồng luồng làm hại. Dân
23 chúng báo bẩm lên vua. Vua bèn phán: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc;
24 thủy tộc ưa loài giống với chúng và ghét loài khác với chúng cho nên mới có thói ấy".
25 Vua bèn dạy lấy mực vẽ những hình thủy quái vào thân thể. Từ đấy giống thuồng
26 luồng không còn hại dân nữa. Tục vẽ xăm mình của người Bách Việt có lẽ bắt đầu từ
27 đấy (NK/ QI/ 3a, 3b).

*
28 Lối viết của ĐVSKTT có ý nhƣ bắt buộc ngƣời ta phải hiểu rằng
29 Hùng vƣơng là ngƣời cai trị tất cả các bộ tộc Việt còn đƣợc gọi là
30 Bách Việt và luôn cả 15 bộ tộc ở phía Tây Nam ngoài bờ cõi của
31 những vùng lãnh thổ của nhóm Bách Việt. Từ xƣa mãi cho tới đời
32 Thành vƣơng của nhà Chu bên Tàu, không thấy sử sách nào của họ
33 nói tới một nƣớc Văn Lang riêng rẽ mà chỉ đề cập đến những lãnh thổ
34 khuyết địa nhƣ đất Nam Giao và Việt Thƣờng thị mà thôi. Giao Chỉ
35 hay Nam Giao, Việt Thƣờng thị, Văn Lang và 13 bộ lạc khác nữa,
36 tất cả là 15 bộ tộc riêng rẽ chƣa bị sáp nhập vào nƣớc Trung Hoa
37 vào thời đại Huỳnh Đế lập quốc trong khi toàn thể lãnh thổ của
38 tất cả các bộ tộc trong nhóm Bách Việt bị ngƣời Hoa xâm chiếm
39 và đồng hóa.
40 Nƣớc Văn Lang chỉ xuất hiện từ thời Trang vƣơng nhà Chu (696-
41 682 TCN) cai trị nƣớc Trung Hoa nhƣng ranh giới của nƣớc Văn
42 Lang thì không thể trải dài rộng lớn nhƣ ĐVSKTT đã viết .

VSTK - 14
1 Các sử gia trong Quốc sử quán triều Nguyễn nhận định rằng sử
2 cũ(4) đã phô trƣơng phóng đại địa giới của lãnh thổ Văn Lang. Cẩn
3 án(5) trong KĐVSTGCM viết: "Từ đời nhà Trần (1225-1399) và nhà
4 Lê (1428-1527) về trước, cương vực(6) của nước ta phía Đông giáp
5 biển, phía Tây giáp Vân Nam, phía Tây Nam giáp Lão Qua, phía Bắc
6 giáp Quảng Tây, phía Tây Bắc giáp Quảng Đông. Sách Thiên hạ
7 quận quốc(7) và những sách địa dư chép: An Nam phía Đông giáp
8 biển, phía Tây giáp tỉnh Vân Nam và nước Lão Qua, phía Nam giáp
9 nước Chiêm Thành, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Tây thì đại lược cũng
10 giống nhau.
11 Đến Quốc triều ta(8) liệt thánh(9) gây dựng cơ đồ ở miền Nam, rồi
12 Thế tổ Cao hoàng đế(10) ta đại định đất nước, gồm thâu toàn cả nước
13 Việt(11) : Đông giáp biển cả, Tây giáp Vân Nam, Nam giáp Cao Miên,
14 Bắc giáp Lưỡng Quảng(12) , bờ cõi rộng lớn chưa có đời nào trước
15 đó được như vậy, nhưng vẫn còn cách Động Đình và Ba Thục xa lắm,
16 thế mà sử cũ chép nước Văn Lang phía Tây giáp Ba Thục, phía Bắc
17 giáp Động Đình thì như vậy chẳng phải lá trái ngược quá nhiều với
18 sự thật sao? Ở đây, Động Đình giáp Lưỡng Hồ(13), đúng ra là ở phía
19 Bắc Bách Việt(14) còn Ba Thục vì bị đất Tuấn Điền ngăn cách cho nên
20 không thể nào liền đất nhau. Sử cũ phóng đại khoa trương cũng
21 giống như việc Thục Vương sau đây đều là những sự loan truyền
22 không đúng, chưa truy cứu được. Huống hồ mười lăm bộ đã phân
23 chia đều nằm trong địa hạt Giao Chỉ và Chu Diên, không có bộ nào
24 nằm ở phương Bắc, như thế cũng đủ chứng tỏ là không đúng sự thật."
25 (CM/TB.I/4b)
26 Mở đầu phần Dƣ Địa chí trong Lịch Triều Hiến Chƣơng Loại Chí,
27 Phan Huy Chú viết : "(Tôi)Thường khảo: từ đời Triệu Vũ (Triệu Đà)
28 trở về trước, đất Ngũ Lĩnh đều là cõi đất của Việt. Đến khi Triệu đã
29 mất nước thì các đời về sau chỉ có vùng Giao Nam".
30 ĐVSKTB viết: "Nhà Tần (246-207 TCN) lúc đó thấy mối lợi ở đất Việt
31 nhiều châu báu, (ở đây có ý nói là vùng đất của các bộ tộc thuộc nhóm Bách
32 Việt) muốn lấy đất ấy đặt thành quận huyện của mình. . .sai hiệu úy Đồ Thƣ
33 và giám quân ngự sử Lục Dận tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, giết vua nƣớc Tây
34 Âu là Dịch Hu Tống, đánh chiếm vùng đất của đám dân lục lƣơng (dân lục
35 lƣơng có nghĩa là dân hung bạo. Ở đây ám chỉ ngƣời (đọc tiếp trang 35). . . .
36 .....

(4) Sử cũ: chỉ chung những bộ sử làm trƣớc KĐVSTGCM mà


ĐVSKTT là chính yếu.
37 (5) Cẩn Án: những lời bàn luận của những sử gia trong Quốc sử quán triều
38 Nguyễn.
39 (6) Cƣơng Vực: địa giới, ranh giới.
40 (7) Sách Thiên hạ quận quốc: của tác giả ngƣời Hoa là Cố Viêm Vũ (1613-
41 1682).
42 (8) Quốc triều ta: triều Nguyễn Gia Long.
43

VSTK - 15
1 (9) Liệt thánh: các chúa Nguyễn trƣớc Gia Long.
2 (10) Thế tổ Cao hoàng đê: tức là Gia Long.
3 (11) Nƣớc Việt: Việt Nam.
4 (12) Lƣỡng Quảng: hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
5 (13) Lƣỡng Hồ: hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc.
6 (14) Bách Việt: thời cổ xƣa giống tộc Việt gồm có nhiều nhóm sống trong
7 các vùng đất Hồ Nam, Chiết Giang, Phúc Kiến, và Lƣỡng Quảng nhƣ Đông
8 Việt, Mân Việt, Âu Việt, Tây Việt . . . .v.v. . . . . . . .gọi chung là Bách Việt
9 (Bách là 100, là nhiều).

Bản đồ Giao Châu, Champa và Phù Nam


vào thế kỷ thứ IV

VSTK - 16
GIAO CHÂU-TRƢỜNG CHÂU-ÁI CHÂU
THỜI VIỆT NAM BỊ NHÀ ĐƢỜNG TRUNG HOA ĐÔ HỘ
(618-907)

VSTK - 17
Nƣớc Việt Nam ở thế Kỷ I - II

GHI CHÚ
Tên quận . . . .GIAO CHỈ
Tên huyện . . . MÊ LINH

VSTK - 18
Di tích ngƣời tiền sử ở các nƣớc Đông Dƣơng

(2)
(1)

(4)

(3)

(1) Xƣơng sọ (có thể thuộc giống tộc Mélanésien). (2) Dụng cụ bằng xƣơng.
(3 & 4) xƣơng và võ sò khai quật đƣợc ở Cầu Giác-Thanh Hóa.
(Hình trích đăng từ tập chí Đô Thành Hiếu Cổ Tập San-BAVH/ 1934)

VSTK - 19
BẢN ĐỒ KHU DI TÍCH THÀNH CỔ LOA

VSTK - 20
ĐỒ ĐÁ CŨ NÚI ĐỌ

Bàn nạo

Rìu tay

Công cụ chặt thô

VSTK - 21
VĂN HÓA HÒA BÌNH

Công cụ bằng xương Công cụ đá cuội ghè đẽo

VĂN HÓA HẠ LONG

VĂN HÓA BẮC SƠN

Rìu có vai & rìu có nấc


(Hạ Long-Quảng Ninh)

Rìu mà lưỡi Mũi khoan bằng đá


(Tràng Kinh-Hải Phòng)

VSTK - 22
GIAI ĐOẠN ĐỒNG ĐẬU

Khuôn dúc lÜ«i rìu

Mũi lao bằng xÜÖng


có ngạnh

MÛi nh†n và
lÜ«i rìu b¢ng ÇÒng khuôn đúc mũi tên

Hoa væn trang trí trên Çồ gốm

Mũi tên đồng Hoa tai bằng đá

VSTK - 23
GIAI ĐOẠN GÕ MUN
Mũi tên bằng đồng

LÜ«i qua b¢ng ÇÒng

Hoa væn trang trí trên ÇÒ gÓm

TÜ®ng con gà b¢ng ÇÒng Hoa væ trang trí trên ÇÒ gôm


(tìm thấy ở Vình Quang-Hà Tây)

VSTK - 24
TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ

VSTK - 25
VæN HóA ñÔNG S÷N

Đồ gốm

Mũi giáo đồng

Vòng đeo tai bằng đá

Vòng tay bằng đồng


Dao bằng đồng

VSTK - 26
GIAI ĐOẠN PHÙNG NGUYÊN

Dụng cụ xe chỉ và hòn bi gốm


Mũi nhọn và lÜ«i rìu
mài nhỏ

Bàn mài

TÜ®ng đá
(Văn Điển)

Vòng đeo tai

Đồ đựng bằng đất nung

Hạt chuỗi

VSTK - 27
VæN HóA ÇÔNG SÖN

TrÓng ÇÒng Ng†c LÛ

VSTK - 28
VĂN HÓA ĐÔNG SƠN

Mặt Trống đồng Hoàng Hạ

Chi tiết trên mặt trống Ngọc Lũ

VSTK - 29
TrÓng ÇÒng ª bäo tàng viŒn Sài Gòn Chi ti‰t hình chåm trên
trÓng ÇÒng Ng†c LÛ

MÛi tên ÇÒng tìm thÃy dܧi


TÜ®ng ngÜ©i cõng nhau
chân thành
C° Loa

VSTK - 30
MẶT TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ

Chi tiết trên trống đồng Ngọc Lũ

VSTK - 31
Thåp ÇÒng tìm thÃy ª ñào ThÎnh-Yên Bái

VSTK - 32
VæN H¹A B¡C SÖN

ñøc vÛm b¢ng ÇÒng LÜ«i rìu b¢ng ÇÒng

Rìu b¢ng ÇÒng


LÜ«i cuÓc b¢ng s¡t

Rìu lÜ«i xéo


b¢ng ÇÒng

LÜ«i rìu b¢ng


s¡t

Có th‹ Çây là dång


m¶t lÜ«i cày b¢ng
ÇÒng

VSTK - 33
Bên trong một hầm mộ cổ thời nhà Hán khai quật năm 1933 ở Lạc Ý (Vĩnh Yên).
Những chum hủ đựng các loại hạt ngũ cốc. Hai lỗ trống là cửa sổ để cho hồn người
quá cố đi, đến. (Ảnh trích từ tập chí Đô Thành Hiếu Cổ Tập San-BAVH; 1934)

VSTK - 34
Những đầu hình tượng và mãnh trang trí bằng đất nung tráng men khai quật được ở
vùng thành Cổ Loa. (Ảnh trích từ tập Đô Thành Hiếu Cổ Tập San-BAVH; 1934)

KHẢO LUẬN : (tiếp theo từ trang 15)


VSTK - 35
1 .. . . .dân ở vùng Ngũ Lĩnh), đặt ra thành Quế Lâm (nay là tỉnh Quảng
2 Tây), Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là một
3 phần đất của Quảng Tây và Nam Quế Châu hiện nay). Người của các
4 bộ tộc thuộc nhóm Bách Việt đều chạy trốn hết vào rừng núi, không ai
5 chịu theo nhà Tần, bí mật cử người tuấn kiệt đánh trả quân Tần, giết
6 được Đồ Thư. . . Nhà Tần phải cử Nhâm Ngao và Triệu Đà sang đóng
7 giữ vùng Ngũ Lĩnh (ĐVSKTB/ NK/ q.I/ 14a,b).
8 Theo Tiền Hán Thƣ thì vùng đất Ngũ Lĩnh là vùng đất nằm giữa 2
9 quận Giao Chỉ và Hợp Phố, là địa bàn sinh tụ của nhóm bộ tộc Việt
10 mà sử cũ gọi là Bách Việt. Theo sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu
11 Khứ Phi (nhà Tống) thì đời Hán Vũ đế đã xắn bớt đất Nam Hải (tức
12 Quảng Đông) và cắt một phần đất của Tƣợng Quận (tức là Giao Chỉ
13 vào đời Tần) để lập thành quận Hợp Phố. Nhƣ vậy có nghĩa là trƣớc
14 khi bị Triệu Đà xăm chiếm, thì đã có nhóm tộc Bách Việt đến sinh
15 sống ở Giao Chỉ trên phần đất bị nhà Hán cắt xén để tạo ra quận Hợp
16 Phố.
17 Nhƣ thế, có thể nói rằng nhóm tộc Bách Việt không phải là ngƣời
18 Giao Chỉ nguyên thủy mặc dù đã có sự hiện diện của ngƣời Bách Việt
19 trên phần đất Giao Chỉ rất lâu, đa số là giống tộc Âu Việt, ngay từ
20 trƣớc khi Giao Chỉ bị Triệu Đà xâm chiếm.
21 Một suy diễn khác: phần đất Giao Chỉ bị sáp nhập vào quận Hợp
22 Phố của Trung Hoa là vùng đất mà trƣớc đó Hùng vƣơng đã phong
23 cấp cho một tộc trƣởng của nhóm đa số Âu Việt là Thục Phán cai
24 quản, nhƣ là một vùng lãnh thổ chƣ hầu của nƣớc Văn Lang và từ
25 vùng đất nầy, có thể là vùng Cao Bằng ngày nay, Thục Phán đã tiến
26 quân xâm lăng nƣớc Văn Lang để lập ra nƣớc Âu Lạc.
27 Trong ĐVSKTB, Ngô Thời Sĩ có lời bàn nhƣ sau :"Đất Giao Nam
28 từ đời Huỳnh Đế Chuyên Húc cho đến nhà Chu chỉ sai sứ tiến cống,
29 tự thành một nước riêng. Ngay như hùng mạnh như nhà Tần, uy lực
30 của Tần Thủy Hoàng trong ngoài 9 châu, đánh đâu thắng đó, ra hiệu
31 lệnh gọi thì có ai mà dám kháng cự không đến thần phục, nhưng
32 ngay cả đem hết binh lực của tướng Tần Vương Tiễn để bình thiên hạ
33 thì cũng chỉ mở mang được đến vùng Bách Việt mà thôi chứ không
34 đến được Giao Chỉ" (ĐVSKTB/TB/MK/Q.II/ 10b). Nhƣ vậy, theo Ngô
35 Thời Sĩ thì ngƣời Giao Chỉ không thuộc giống tộc của nhóm Bách
36 Việt. Cũng theo Ngô Thời Sĩ thì " Giao Nam ta ở ngoài Ngũ Lĩnh ".
37 Tóm lại, ngoại trừ Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ, đa số sử sách cũ
38 trƣớc và sau ĐVSKTT đều cho rằng nƣớc Văn Lang của triều đại
39 Hùng Vƣơng chỉ có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, tức là vùng
40 Bắc Việt Nam hiện nay và ngƣời Văn Lang không phải là ngƣời thuộc
41 nhóm Bách Việt mặc dù ở vào thời đại nầy đã có nhiều giống tộc của
42 nhóm Bách Việt lƣu lạc đến kiếm sống trên lãnh thổ Văn Lang và
43 đồng hóa với ngƣời Văn Lang.

VSTK - 36
KỶ HỒNG BÀNG TRONG SỬ CŨ

1 Kỷ Hồng Bàng trong phần Ngoại Kỷ do Ngô Sĩ Liên đầu tiên đƣa
2 vào ĐVSKTT đƣợc viết nhƣ sau :

KINH DƢƠNG VƢƠNG

3 Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông(a). Nhâm Tuất(b), năm
4 thứ 1. Xƣa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh
5 ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phƣơng Nam, đến Ngũ Lĩnh (c)
6 lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dƣơng Vƣơng]. Vua là bậc
7 thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua
8 cố nhƣờng cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế
9 Nghi là con nối ngôi cai quản phƣơng Bắc, phong cho vua làm Kinh
10 Dƣơng Vƣơng, cai quản phƣơng Nam, gọi là nƣớc Xích Quỷ.
11 Vua lấy con gái Động Đình quân tên là Thần Long(d) sinh ra Lạc
12 Long Quân.
13 (Xét : Đƣờng Kỷ chép : Thời Kinh Dƣơng Vƣơng có ngƣời Đàn bà
14 chăn dê, tự xƣng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của
15 Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thƣ nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân.
16 Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã
17 từ lâu rồi).

LẠC LONG QUÂN

18
VSTK - 37
1 Tên húy là Sùng Lảm, con của Kinh Dƣơng Vƣơng.Vua lấy con
2 gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm
3 trứng)(e), là tổ của Bách Việt(f).
4 Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng ."Ta là giống rồng, nàng là giống
5 tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia
6 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép
7 là về Nam Hải), phong con trƣởng làm Hùng Vƣơng, nối ngôi
8 vua.{ĐVSKTT/ NK 1/ 1b , 2a}

(a)Thần Nông: Theo truyện thần thoại Trung Hoa thì Thần Nông là
một trong 5 ông Đế (ngũ Đế) ở thời thƣợng cổ và là ngƣời đầu tiên đã
dạy ngƣời Hoa cày bừa làm nghề nông, đƣợc họ tôn sùng nhƣ thần
linh và gọi là Thần Nông, cũng đƣợc gọi là Viêm Đế.

9 (b)Nhâm Tuất: Xét câu kết về kỷ Hồng Bàng (NK1, 5b) thì từ năm
10 Nhâm Tuất đến năm Quý Mão (258 TCN ) cộng 2622 năm. Vậy năm
11 Nhâm Tuất nầy ngang với năm 2879-TCN. Đây là một niên đại phỏng
12 chừng không có nền tảng. Trong phần Phàm Lệ của Ngô Sĩ Liên có
13 đoạn viết: "Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của nước
14 Đại Việt, cùng với Đế Nghi đồng thời, cho nên chép năm đầu ngang
15 với năm đầu của Đế Nghi." Cùng thời với Đế Nghi là thời nào? Căn
16 cứ vào đâu để cho rằng thời của Đế Nghi khởi đầu vào năm Nhâm
17 Tuất (2879- TCN )? (Vấn đề nầy sẽ đƣợc phân tích chi tiết trong phần
18 khảo luận về Lạc Long Quân và Âu Cơ)
19 (c)Ngũ Lĩnh: Theo tự điển Hán-Việt thì Ngũ Lĩnh là 5 đỉnh núi có thể
20 thông ra đƣờng cái. Sách viết về địa lý Nam Khang Ký của Đặng Đức
21 Minh đời nhà Tấn ở Trung Hoa viết : "Ngũ Lĩnh là 5 ngọn núi: Đài
22 Lĩnh ở Đại Dũ, Kỵ Điền ở Quế Dương, Đô Bàng ở Cửu Chân (nay là
23 tỉnh Thanh Hóa), Mạnh Chữ ở Lâm Hạ, Việt Thành ở Thủy An. Trong
24 5 ngọn núi, ngọn núi có tên Đô Bàng nằm ở vùng Cửu Chân. Xem
25 bản đồ thì biên giới lãnh thổ của nƣớc Trung Hoa về đời nhà Tần chạy
26 dài xuống tận phía Đông Nam giáp giới với lãnh thổ Việt Thƣờng và
27 vị trí Cửu Chân khi bị sáp nhập vào nƣớc Trung Hoa về đời Tam
28 Quốc thì nằm vào khoảng giữa hai tỉnh Thanh Hóa-Nghệ An của nƣớc
29 Việt Nam hiện nay. Cho đến hiện giờ không thấy có ngọn núi nào tên
30 là Đô Bàng nằm trong địa phận của hai tỉnh Thanh Hóa-Nghệ An
31 đƣợc chép trên những sách Địa dƣ của Việt Nam.
32 LTHCLC/ Địa Dƣ Chí/Phan Huy Chú viết về một vùng có tên là
33 trấn Thanh Hoa (không phải là Thanh Hóa) nhƣ sau: "Nguyên trước là
34 đất Tượng Quận. Tần, Hán gọi là quận Cửu Chân, Lương đặt là Châu
35 Ái, Tùy gọi là Cửu Chân, Đường lại đổi là châu Ái. . . . . .Thanh
36 Hoa mạch núi cao vót, sông lớn lượn quanh, biển ở phía Đông, Ai
37 Lao sát phía Tây, Bắc giáp trấn Sơn Nam (Sơn Nam:đời cổ là nƣớc Lạc

VSTK - 38
1 Long, Hán đặt là quận Giao Chỉ, Tùy cũng là Giao Chỉ, Đƣờng đổi là Giao Châu),
2 Nam giáp đạo Nghệ An (Sơn Nam đời cổ là nƣớc Việt Thƣờng) Tần thuộc về
3 Tượng Quận, Hán là Quận Cửu Đức, Lương đổi là Đức Châu, Tùy gọi là
4 Nhật Nam, Đường lần lượt gọi là Hoan Châu rồi Diễn Châu, triều nhà Đinh
5 của Việt Nam cũng theo như thế, cho đến đời Lê Thái Tôn/ năm 1030 đổi là
6 Nghệ An . . ."
7 Nhƣ vậy ngọn núi Đô Bàng có thể nằm ở một nơi nào đó bên kia
8 biên giới phía Bắc trên phần đất của Trung Quốc và từ ngọn núi đó có
9 đƣờng đi thông xuống tới một vùng ở Cửu Chân có tên là Đô Bàng.
10 Một điểm cần lƣu ý là vùng Nhật Nam (Nghệ An) nằm sát ranh giới
11 với nƣớc Chiêm Thành (mà nƣớc Trung Hoa đời Tần gọi là nƣớc
12 Việt Thƣờng và đời Ngủ Quý gọi là nƣớc Hoài Vƣơng). Nƣớc nầy có
13 một thành đô tên là Đồ Bàn. Vậy vùng Đô Bàng phải chăng là vùng
14 Đồ Bàn của nƣớc Chiêm Thành thời cổ. Hiện nay ở huyện Lam Sơn
15 tỉnh Hồ Nam ở Trung Hoa cũng có một ngọn núi gọi là Đô Bàng.
16 (d) Thần Long: Bản gốc ĐVSKTT bằng chữ nho (chữ Hán) viết: "Thú
17 Động Đình Quân nữ viết Thần Long" có nghĩa: Thần Long là con gái
18 của Động Đình Quân. Nhƣng ở đoạn Sử thần Ngô Sĩ Liên nói thì lại
19 viết: "Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà
20 sinh ra Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt... "Vương
21 (Kinh Dƣơng Vƣơng) lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân
22 " nghĩa là Động Đình Quân có tên là Thần Long.
23 LTHCLC/Nhân Vật Chí viết: "Kinh Dương Vương lấy con gái
24 Động Đình Quân đẻ ra Lạc Long Quân" không đề cập đến tên của
25 ngƣời con gái.
26 Việt Sử Tiêu Án (VSTA), Ngô Thì Sĩ viết: "Đến như việc Kinh
27 Dương Vương lấy con gái Động Đình. . ." : không đề cập gì đến tên
28 của ngƣời con gái.
29 KĐVSTGCM (1884) cũng không có tên của ngƣời đàn bà nầy:
30 "Kinh Dương Vương sinh ra Sùng Lảm lên nối ngôi xưng là Lạc Long
31 Quân."
32 Với Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (ĐNQSDC) thì Thần Long là một
33 phụ nữ:
34 "Động Đình sớm kết với nàng Thần Long."
35 Với Việt Nam Sử Lƣợc (VNSL), Trần Trọng Kim (1882-1953) thì:
36 "Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm
37 Tuất (2879 trƣớc Tây Lịch) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ ."
38 Việt Nam Văn Hoá Sử Cƣơng (VNVHSC)của Đào Duy Anh
39 (1938) rồi Việt Sử Tân Biên (VSTB) của Phạm Văn Sơn (1956) cũng
40 là Long Nữ .
41 (e)Trăm trứng: ĐVSKTT viết " sinh ra trăm con trai ". Đây là chú
42 thích từ bản gốc chữ Nho.
43 LTHCLC/ Nhân Vật Chí viết: "sinh được một trăm trai " và chú
44 thích ở dƣới là "một bọc trăm trứng".

VSTK - 39
1 KĐVSTGCM bỏ không chép hiện tƣợng sinh đẻ quái đản nầy.
2 ĐNQSDC viết :
3 "Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
4 Noản bào dù chuyện hoang đường,
5 Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?"

6 (f)Bách Việt: Thay vì giải thích chữ Bách Việt, ĐVSKTT từ thời Ngô
7 Sĩ Liên cho đến về sau, những nhà viết sử cũng nhƣ những ngƣời sao
8 chép lại sử cũ, đã không ngần ngại liên kết vào hiện tƣợng Lạc Long
9 Quân lấy Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai để đi
10 tới một kết luận: trăm đứa con trai đó là tổ của Bách Việt.

11 Hãy xét về sự kết hợp Lạc Long Quân-Âu Cơ .

12 ĐVSKTT viết: " Vua (Lạc Long Quân) lấy con gái của Đế Lai là
13 Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của
14 Bách Việt " (ĐVSKTT/NK.I/2a).

15 Sử cố nầy Ngô Sỉ Liên đã căn cứ vào đâu để chép ra?

16 Đời nhà Đƣờng (618-906) bên Trung Hoa có một cốt truyện tựa là
17 Liễu Nghị do Lý Triều Nghi viết nhƣ sau:
18 "Khoảng năm 676-678 (đời Đƣờng Cao Tông), có một nho sinh thi
19 rớt tên là Liễu Nghị. Trên đường trở về quê hương, Liễu Nghị tìm đến
20 thăm một người quen ở Kinh Dương (Tên một huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây
21 bên Trung Hoa ngày nay). Đang đi thì gặp một người đàn bà chăn dê bên
22 đường. Người đàn bà đó kể cho Liễu Nghị biết mình là con gái của
23 vua Động Đình, lấy chồng là con của vua Kinh Xuyên, bị nhà chồng
24 ức hiếp đối xử tệ bạc cho nên bây giờ nhờ Liễu Nghị mang thơ về cho
25 cha để kể rõ sự tình đau khổ của mình. Liễu Nghị nhận lời đưa thơ.
26 Sau đó em của vua Động Đình là vua ở vùng sông Tiền Đường biết
27 được chuyện tệ bạc đó liền đem quân đến đánh vua Kinh Xuyên để
28 trừng phạt và nuốt chết người chồng của cháu gái xong rồi trở về có ý
29 muốn gả Long Nữ cho Liễu Nghị để trả ơn về việc đưa thơ nhưng
30 Liễu Nghị từ chối. Liễu Nghị lần lượt cưới Trương Thị rồi Hàn Thị
31 nhưng cả hai người đều bị chết non. Liễu Nghị dời chỗ ở đến Kim
32 Lăng rồi cưới Lư Thị. Liễu Nghị nhận thấy Lư Thị rất giống Long Nữ
33 nhưng không tìm hỏi để biết đúng sai. Hơn một năm sau, Lư Thị sinh
34 được một con. Cho tới lúc đó Lư Thị mới chịu nhận là Long Nữ. Sau
35 đó vợ chồng cùng nhau về chầu vua Động Đình rồi đưa nhau đến ở
36 Nam Hải . Vào khoảng năm 713-714 (đời Đƣờng Huyền Tông) vợ
37 chồng lại trở về chầu vua Động Đình và từ đó không ai biết tung tích
38 của họ nữa".

VSTK - 40
1 Trong truyện Liễu Nghị có một chi tiết không rõ ràng: Long Nữ có
2 phải là ngƣời đàn bà chăn dê, tức là con gái của vua Động Đình hay là
3 con gái của em trai vua Động Đình tức là vua sông Tiền Đƣờng? Sử
4 sách cũ đều cho Long Nữ đƣợc làm con gái của vua Động Đình có lẽ
5 vì giống rồng không thể ở trong sông nông cạn nhƣ sông Tiền Đƣờng
6 trong truyện Liễu Nghị nhƣng giống rồng chỉ ở nơi hồ sâu hoặc biển
7 lớn.
8 Những nhân vật trong truyện Liễu Nghị lại thấy xuất hiện trong
9 truyện Hồng Bàng Thị của tập sách truyện cổ tích dân gian Lĩnh Nam
10 Chích Quái do một tác giả Việt Nam vào thời Lý-Trần soạn. Hồng
11 Bàng Thị Truyện trong LNCQ đƣợc viết nhƣ sau:
12 "Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi,
13 sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà
14 Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, bẩm
15 tính thông minh, Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố
16 từ, xin nhường cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi để trị
17 đất Bắc. Lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để cai trị đất
18 Nam, lấy hiệu là Xích Quỷ.
19 Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy phủ, lấy con gái vua Hồ
20 Động Đình Long Vương sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân,
21 cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất. Lạc
22 Long Quân dạy dân việc cày cấy làm ruộng trồng dâu, đặt ra thứ bậc
23 vua tôi, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng. Có khi trở về thủy phủ mà
24 trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có
25 việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà không lại cứu
26 chúng tôi ". Long Quân tới ngay, sự linh hiển cảm ứng của Long
27 Quân, người đời không ai lường nổi .
28 Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc phương. Nhân
29 khi thiên hạ vô sự Đế Lai bèn sai bề tôi là Xuy Vưu thay mình trông
30 coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam .
31 Khi đó, Long Quân đã về thủy phủ, trong nước không có chúa. Đế
32 Lai bèn để ái nữ là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du
33 thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân
34 cầm dị thú, tê giác, voi, đồi mồi, vàng, bạc, hồ tiêu, quê, thạch nhũ,
35 các loại cây trầm, đàn, các loại sơn hào hải vật không thiếu thứ gì,
36 khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng. Đế Lai rất thích, vui quên
37 trở về.
38 Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không
39 được yên sống như xưa mới cùng nhau gọi Long Quân rằng: ”Bố ơi
40 ở đâu mà để cho người phương Bắc xâm nhiễu dân! ”. Long Quân đột
41 nhiên trở về, thấy Âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui
42 mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ
43 hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống thổi sáo , cung
44 điện dựng lên .

VSTK - 41
1 Âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long
2 Đài Nha. Đế Lai trở về nơi hành tại không thấy Âu Cơ, sai quần thần
3 đi tim khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành
4 trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ quái, rồng rắn, hổ voi làm cho bọn
5 đi tìm đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về.
6 Đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là
7 Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình
8 thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên
9 Viên dùng da thú làm trống trận, Xuy Vưu bèn sợ hãi chạy về đất
10 Trác Lộc. Đế Vu Dõng xăm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở
11 Phan Tuyền đánh ba trận thì bị thua, bị giáng phong ở đất Lạc Ấp rồi
12 chết ở đó. Dòng họ Thần Nông tới đây thì hết .
13 Long Quân lấy Âu Cơ một năm thì đẻ ra một cái bọc, cho là
14 điềm chẳng lành, vứt ra cánh đồng, qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra
15 một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà
16 nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẻ kỳ dị,
17 người nào cũng trí dũng song toàn, ai nấy đều kính trọng cho là
18 điềm phi thường .
19 Long Quân ở lâu dưới Thủy quốc; vợ con ở lại trên mặt đất muốn
20 về đất Bắc. Về tới biên giới, Hoàng Đế nghe nói, rất sợ hãi, cho binh
21 ra chặn cửa ải .
22 Mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay lại nước Nam mà gọi
23 Long Quân rằng: "Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm
24 buồn khổ thế này". Long Quân bổng trở về, gặp nhau ở đất Tương.
25 Âu Cơ nói: "Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được
26 trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, khiến
27 cho kẻ vô phu vô phụ nầy chỉ biết thương cho phận mình".
28 Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống
29 Tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng
30 thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được,
31 nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về Thủy phủ, năm mươi con
32 theo nàng về trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống biển, hữu sự
33 báo cho nhau biết đừng quên nhau". Trăm con vâng theo, sau đó từ
34 biệt nhau mà đi .
35 Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch
36 Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là
37 Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, Đông giáp Nam Hải, Tây tới
38 Ba Thục, Bắc tới Động Đình hồ, Nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm
39 Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là Quận) là Việt Thường, Giao
40 Chỉ, Chu Diên,Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải,
41 Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm,
42 Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, đặt các em còn lại làm tướng
43 văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là
44 quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính,

VSTK - 42
1 thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn,
2 đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là
3 Hùng Vương, không hề thay đổi.
4 Lúc ấy, dân sống ở rừng và chân núi, xuống nước đánh cá thường
5 bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: " Giống sơn man và
6 giống thủy tộc khác hẳn nhau, giống thủy tộc yêu kẻ giống mình ghét
7 kẻ khác mình cho nên hại nhau đó ". Bèn bảo người đời lấy mực xăm
8 vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quốc. Từ đó, dân
9 không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách
10 Việt cũng bắt đầu từ đấy. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
11 ..............................
12 . . . . . . .Trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt
13 vậy."

14 Trên đây là hai loại thể truyện tiểu thuyết văn chƣơng cho nên
15 ngƣời viết đã dùng óc tƣởng tƣợng của mình để đi từ chỗ không
16 có mà tạo ra các nhân vật cho cốt truyện. Tác giả LNCQ nhất
17 định đã có dựa vào truyện Liễu Nghị rồi cắt xén, thêm bớt để viết
18 thành Hồng Bàng Thị Truyện.

19 Trong truyện Liễu Nghị có những tên nhân vật nhƣ con vua Động
20 Đình, Long Nữ, các địa danh nhƣ Kinh Dƣơng, Nam Hải và đặc
21 biệt hai nhân vật chính trong truyện là Liễu Nghị và Long Nữ rốt
22 cuộc trở thành vợ chồng và sinh đƣợc một đứa con nhƣng không thấy
23 nói là con trai hay con gái. Truyện chấm dứt sau khi vợ chồng Liễu
24 Nghị trở về để chầu bái vua Động Đình một lần chót rồi biệt tâm biệt
25 tích luôn từ đó.
26 Ở Hồng Bàng Thị Truyện địa danh Kinh Dƣơng trong truyện
27 Liễu Nghị đƣợc nhào nặn thành danh tƣớc Kinh Dƣơng Vƣơng để
28 ban cấp cho đứa con rơi của Đế Minh(a). Ngƣời nho sinh Liễu Nghị
29 thì biến thành đứa con rơi của Đế Minh và đổi tên thành Lộc Tục
30 và đƣợc cấp phong vƣơng tƣớc Kinh Dƣơng Vƣơng nhƣ vừa kể
31 Trong truyện Liễu Nghị; Long Nữ là dâu của vua Kinh Xuyên tức là
32 gái đã có chồng nhƣng lại nhờ gia đình mình giết chồng đi và sau đó
33 giấu tung tích thật của mình để tái giá với Liễu Nghị cho đến lúc hai
34 ngƣời có con với nhau mới thú thật mình là Long Nữ. Vua Động
35 Đình của truyện Liễu Nghị thì trở thành vua rồng Long Vƣơng
36 trong LNCQ.
37 Hai vợ chồng Liễu Nghị - Long Nữ có một đứa con và LNCQ đặt
38 tên cho đứa con nầy là Sùng Lảm hiệu là Lạc Long Quân. Truyện của
39 hai vợ chồng Liễu Nghị chấm dứt sau khi họ về thăm vua Động Đình
40 lần cuối cùng rồi từ đó biệt tâm mất tích luôn.
41 LNCQ lại không chấm dứt nhƣ thế nhƣng lại kéo dài chằng chịt
42 dây dƣa với những trò phù phép thần thông biến hóa và đầy dẫy ma

VSTK - 43
1 tinh quỷ quái, rồng rắn hùm beo. Quái đản và phản khoa học nhất
2 là sự kết hợp giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ để sinh ra một cái
3 bọc, cho là điềm xấu nên đem vứt ra cánh đồng, sáu bảy ngày sau
4 bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai mới
5 đem về nhà nuôi, không cần cho bú mớm nhƣng những đứa con
6 vẫn lớn đẹp.
7 Vì mẹ của Lạc Long Quân là con gái của Long Vƣơng hay vua
8 rồng, một loại thú bò sát, cho nên Lạc Long Quân là kết tinh máu mủ
9 của loài bò sát, do đó những đứa con của Lạc Long Quân nếu có thật
10 sự thì nhất định phải là những con quái vật ngƣời không ra ngƣời, thú
11 không ra thú, trông đẹp đẽ kỳ dị (nguyên văn). Chỉ có loài bò sát nhƣ
12 thuồng luồng, rắn rết, rùa, ba ba, đồi mồi mới đẻ đƣợc hằng trăm
13 trứng rồi vùi chôn xuống đất cát để cho trứng tự động nở ra con.
14 Đây là một sự phối hợp bệnh hoạn phản khoa học, một sự phối
15 hợp chỉ có thể có trong các loại truyện ký hay tiểu thuyết văn
16 chƣơng giả tƣởng để giải trí mua vui nhƣ truyện Liễu Nghị hoặc
17 Hồng Bàng Thị Truyện trong LNCQ mà thôi. Chỉ có những ngƣời
18 chất phát, mê tín dị đoan hay những kẻ chậm tiến ngây ngô và cố
19 chấp mới cho rằng những chuyện nhƣ thế là có thật. Hồng Bàng
20 Thị Truyện trong LNCQ là một loại phóng tác vá víu, đầu voi
21 đuôi chuột, chỉ đáng đƣợc xếp vào hàng những truyện cổ tích mà
22 ông bà dùng để kể chuyện để ru ngủ cho cháu chắt của mình.
23 Trƣớc Ngô Sĩ Liên, Hồ Tông Thốc(b) đã chép lại thế phá của Hồng
24 Bàng Thị nhƣng viết riêng vào một tập chí có tên là Việt Nam Thế
25 Chí (VNTC) song song với bộ Việt Sử Cƣơng Mục. (VSCM)
26 Ngô Sĩ Liên có đề cập đến tên của Hồ Tông Thốc trong bài tựa
27 nhƣ sau: "Văn Hưu là tay đại bút ở thời Trần, Phu Tiên là bậc lão
28 thần của thánh triều (Lê triều), đều vâng chiếu chỉ mà biên chép lịch
29 sử nước nhà, tất là tìm tòi các sử còn lại, tóm gộp mọi sách để cho
30 người xem đời sau không còn thắc mắc gì mới phải thế mà ghi chép
31 còn có chỗ chưa đủ, ý nghĩa còn có chỗ chưa đúng, lời văn còn có
32 chỗ chưa ổn nên kẻ thức giả không thể không còn ân hận. Riêng có
33 Hồ Tông Thốc làm sách Việt Sử Cương Mục, chép việc cẩn thận, mà
34 có phương pháp, bàn việc xác đáng mà không rườm rà, kể cũng đã
35 khá, nhưng sau cuộc binh hỏa, sách ấy không còn. . . . ."(LTHCLC/
36 Văn Tịch Chí/Trích dẫn bài Tựa của Ngô Sĩ Liên).
37 Nhƣ vậy, ngoài hai bộ sử do Lê Văn Hƣu, Phan Phu Tiên biên
38 soạn, Ngô Sĩ Liên cũng đã có dịp đọc VSCM của Hồ Tông Thốc
39 nhƣng vào lúc Ngô Sĩ Liên theo lệnh Lê Thánh Tông để biên soạn
40 ĐVSKTT thì VSCM không còn nữa. VSCM có viết gì về họ Hồng
41 Bàng hay không? Nhất định là không vì Hồ Tông Thốc đã viết
42 riêng thế phá Hồng Bàng Thị vào VNTC; hơn nữa, nếu đã có phần
43 đó trong VSCM thì Ngô Sĩ Liên khó có thể tự nhận là mình viết thêm
44 phần Ngoại Kỷ nầy vào quốc sử. Nhƣ vậy có thể suy định rằng Hồ

VSTK - 44
1 Tông Thốc đã không viết Kỷ Hồng Bàng Thị vào VSCM nhƣng vào
2 cuối đời Trần thì thế phả của họ Hồng Bàng đƣợc Hồ Tông Thốc chép
3 lại trong một tập chí riêng có tên là VNTC.

*
4 Vậy Ngô Sĩ Liên đã dựa vào đâu, LNCQ, VSCM, hay VNTC để
5 viết Kỷ Hồng Bàng thị ?
6 Trả lời câu hỏi nầy có nghĩa là đi tìm thời gian xuất hiện trƣớc sau
7 của những tác phẩm đó.
8 VSCM và VNTC xuất hiện vào cuối đời nhà Trần còn LNCQ là do
9 ai viết và xuất hiện từ bao giờ ? Nếu cuối đời Trần chƣa có LNCQ thì
10 Hồ Tông Thốc đã dựa vào đâu để viết VNTC ?
11 Bài tựa / VNTC của Hồ Tông Thốc viết: "Sách chép về thế phả
12 vốn có từ lâu, cốt xét các đời đã qua, để rõ nguồn gốc lưu truyền, kê
13 cứu những điều truyền văn, để rõ những tiêu chuẩn xưa nay. Hiềm vì
14 chuyện tin chuyện nghi lẫn nhau, có điều chưa hợp hẳn với lòng
15 người. Nhưng việc đời biến đổi khác nhau thì làm sao lại khỏi có
16 những điều quái gở. Nghìn năm về sau, khó lòng biết được đầy đủ, mà
17 tìm trong sách vở cũng không thể tra cứu vào đâu. Bởi vậy ghi chép
18 về nguồn gốc thực là nhọc lòng lắm. Có người hỏi tôi rằng: Bỏ cái lạ
19 giữ cái thường là đạo của thánh hiền, tại sao ông lại câu nệ theo cũ,
20 không nêu rõ lời mới để đổi hẳn thói mê hoặc của đời? Tôi đáp rằng:
21 Thời thái cổ còn hổn mang, chưa phân biệt trời đất, ngay Trung Quốc
22 cũng còn có nhiều thuyết hoang đường, như những chuyện vá trời.(a),
23 húc núi(b), lấy chân ngao làm cột trời(c) và mười mặt trời cùng mọc.(d)
24 v .v. ., đời sau cứ theo sách mà bàn luận, không kê cứu vào đâu được,
25 đúng hay không đúng, vẫn còn ghi chép trong sử sách. Huống chi đất
26 Việt ta ở vào cõi xa, sự hiểu biết cũng khác, từ đời Hồng Bàng thời
27 gian xa cách, trong lúc mới mở mang, sách vở chưa đủ, lễ nhạc chưa
28 làm, nếu cho là có thực thì bởi đâu mà biết? Nếu cho là không có, thì
29 do đâu mà xét ra? Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm
30 lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả
31 ký từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm giữ
32 đó để chờ các bực quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị
33 để mê hoặc người đời. Đọc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy
34 nghiệm thì ngọc và đá đều sẽ rõ ràng, những hình tiếng bóng vang
35 của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ.
36 Vả lại, nước Nam ta ở vào dải đất nóng nực, trong cõi mênh mông,
37 vua sáng suốt đời nào cũng có. Dẫu rằng núi sông rộng lớn, chia biệt
38 mỗi lúc một khác, nhưng từ xưa đến nay, chỉ căn cứ vào tục truyền, và
39 dấu vết hỏi việc về dĩ vãng thì nhờ các cụ già kể truyện, xét nghiệm ở
40 tương lai thì có những đền miếu cúng thờ. Tôi quên mình hẹp hòi quê
41 hủ, chép sơ lược những chuyện ngụ ngôn, những điều truyền thuyết,

VSTK - 45
1 muốn đợi các bậc cao minh học rộng tiến bộ sau nầy, nhận rõ xét kỹ,
2 mới có thể biết được trước sau mà không tự lầm lẫn. Nếu có ai sửa lại
3 cho tập nầy được đúng, cho lời chép được hay, đẽo gọt kỹ càng, rồi
4 đem in ra, để mọi người thấy rõ việc xưa nay và hiểu thấu lẽ huyền
5 vi, thì đó cũng là một bộ sử ký trong chuyện ký chăng ! Vậy làm tựa ".

6 (a) Vá trời: bà Nữ Oa (trong truyện thần thoại của Tàu) luyện đá 5 màu để vá trời.
7 (b) Húc núi: Cung Công cùng Chuyên Húc tranh nhau làm đế, Cung Công tức mình
8 lấy đầu húc vào núi Bất Chu, núi ấy bị lở.
9 (c) Lấy chân ngao làm cột trời: bà Nữ Oa chặt chân con ngao (loài rùa biển) để làm
10 bốn cái cột ở bốn phƣơng trời.
11 (d) Mƣời mặt trời: thời đế Nghiêu 10 mặt trời đều mọc, Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn
12 rơi đƣợc 9, chỉ còn 1 cái nhƣ ngày nay.

KHẢO LUẬN: (tiếp theo)

13 Hồ Tông Thốc tuổi trẻ, đỗ đạt cao, rất có tài danh, giữ chức An
14 Phủ Sứ dƣới thời Trần Nghệ Tông (1370-1372), đƣợc thăng chức
15 nhiều lần đến chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ (1386/ đời Trần Phế Đế)
16 (ĐVSKTT/BK/Q.3/9b). Hồ Quý Ly tiếm ngôi năm 1400 thì Hồ Tông
17 Thốc thôi làm quan, thọ 80 tuổi, mất tại nhà.
18 Giả định rằng ông đậu Thái học sinh vào năm 1370 lúc 23 tuổi,
19 tức là sinh năm 1370 - 23 = 1347 và chết vào năm 1347 + 80 = 1427;
20 từ đó suy ra rằng VSCM đƣợc viết trong khoảng 1370-1400 (tức là
21 trong khi giữ chức vụ Hàn lâm học sĩ phụng chỉ) và VNTC đƣợc viết
22 trong khoảng 1400-1413. Năm 1413 là năm cuối cùng của nhà hậu
23 Trần (Trần Quí Khoách/Khoác) mà cũng là lúc giặc nhà Minh vừa
24 thôn tính xong nƣớc Đại Việt
25 Cùng chung một tình trạng với nhiều sách cổ, nguồn gốc lai lịch
26 của LNCQ cũng mơ hồ rất khó truy cứu. Đây là một tập truyện chép
27 lại những truyền thuyết và truyện cổ tích từ ngàn năm về trƣớc. Theo
28 tên gọi, LNCQ có nghĩa là lƣợm lặt những điều kỳ lạ ở đất Lĩnh Nam.
29 Theo nghĩa hẹp, ngƣời Tàu gọi vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh của
30 Trung quốc là Lĩnh Nam. Thời cổ, vùng phía Nam Ngũ Lĩnh bao gồm
31 cả những thuộc địa của Bắc phƣơng trong đó có cả lãnh thổ Việt
32 Nam. Nhƣ vậy, có thể nói rằng giới hạn không gian của những chuyện
33 trong LNCQ là từ vùng Hoa Nam trở xuống tới biên giới phía Bắc của
34 nƣớc Chiêm Thành ngày xƣa (mà vào đời Tấn, ngƣời Tàu gọi là nƣớc
35 Việt Thƣờng). Đây là một tác phẩm cổ xƣa viết bằng chữ Hoa còn gọi
36 là chữ Hán hay chữ Nho).
37 Vấn đề ở đây là khởi điểm của thời gian ghi chép trên giấy mực
38 những điều kỳ lạ đó ở Việt Nam. Bài tựa của Vũ Quỳnh trong Lĩnh
39 Nam Chích Quái Liệt truyện viết :
40 ". ..Những truyện chép ở đây là sử trong truyện chăng? Bắt đầu có
41 từ thời nào? Tên họ người hoàn thành là gì đều không thấy ghi rõ ?
42 Viết ra đầu tiên là những bậc tài cao học rộng ở đời Lý, Trần (thế kỷ
VSTK - 46
1 XI đến XIV). Còn những nhà nhuận sắc là các bậc quân tử bác nhã
2 hiếu cổ ngày nay ".
3 Những bậc tài cao học rộng ở đời Lý, Trần là ai? Các bậc quân tử
4 bác nhã hiếu cổ ngày nay là ai?
5 Đó là những nhà Nho có tiếng tâm cùng thời với Vũ Quỳnh vào
6 lúc Vũ Quỳnh viết bài tựa trên LNCQ/ trong khoảng 1452 là năm sinh
7 của Vũ Quỳnh tới năm Hồng Đức thứ 23/ 1492). Những ngƣời Nho
8 học đỗ đạt cao làm quan lớn đƣợc sử cũ đời nhà Lý xƣớng danh rất là
9 hiếm hoi: Bùi Hựu/ Văn Minh Đại Học sĩ / 1054; Lê Văn Thịnh
10 trúng tuyển Tam trƣờng / Minh Kinh bác học / 1075, Mạc Hiển Tích/
11 Hàn lâm học sĩ/ 1086 (Tống Nguyên Hựu/ năm thứ 1).
12 Trong thời nhà Lý, sử cũ chép ghi rất nhiều về việc xây cất chùa,
13 và vào lúc nầy Phật giáo đƣợc ƣu thế hơn Nho giáo; những hiện tƣợng
14 thiên nhiên đƣợc ghi vào sử thƣờng nhuốm đầy tính cách dị đoan
15 huyền hoặc. Chỉ lấy riêng một trƣờng hợp của Lê Văn Thịnh bị ghép
16 tội phản nghịch cũng thấy đƣợc ảnh hƣởng mãnh liệt của sự mê tín dị
17 đoan vào thời đó kéo dài cho đến đời Lý Nhân Tông: Bính Tý / Hội
18 Phong năm thứ 5 / 1096. Mùa Xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm
19 phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm,
20 ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám
21 mây mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy
22 giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi
23 người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi! "Người đánh cá là Mục Thận
24 quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê văn Thịnh. Vua nghĩ
25 Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu
26 Thao Giang, thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất
27 ở Tây hồ làm thực ấp. Trước đây Văn Thịnh có gia nô nước Đại Lý có
28 phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí
29 nghịch".(ĐVSKTT/ BK.3/ 13 a).
30 Ở một đoạn khác, một chuyện phù phép quỉ quái đƣợc ghi nhƣ
31 sau: Quý Mùi/ Long Phù năm thứ 3/ 1103. Mùa Đông, tháng 10,
32 người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học được
33 thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại
34 chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai bèn Lý
35 Thường Kiệt đi đánh. Giác thua, trốn sang Chiêm Thành, dư đảng
36 đều bị dẹp yên." (n.t/13 b).
37 Những chuyện quái đản đƣợc chép vào sử từ đầu đời nhà Lý nhƣ
38 chuyện Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) có bà mẹ là họ Phạm đi chơi chùa
39 Tiêu Sơn cùng với ngƣời thần giao hợp rồi có thai sinh ra vua, lúc
40 mới 3 tuổi mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Vân và đƣợc ngƣời nầy nhận
41 làm con nuôi nên mới mang họ Lý. (ĐVSKTT/ BK2/ 1a), rồi đến
42 chuyện con chó sắc trắng có đốm đen kết thành hình hai chữ "Thiên
43 tử" mà kẻ thức giả (ngƣời học cao hiểu rộng) nói đó là điềm năm Tuất
44 sinh ngƣời làm thiên tử: Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất lên làm vua vì

VSTK - 47
1 thế cho rằng điềm báo trên lƣng con chó đó ứng nghiệm vào trƣờng
2 hợp của Công Uẩn. (nt/2a).
3 Phải chăng những nhà Nho có trọng trách viết lịch sử (tức là chép
4 sử theo từng ngày lịch) lúc đó không có thực tài, chỉ biết a dua nịnh
5 hót, vẽ rồng vẽ phƣợng cho đẹp lòng các vua? Lê Văn Hƣu đã gay gắt
6 phê phán thái độ nịnh hót ngu dốt đó: Lê Văn Hƣu nói: "Thời cổ, khi
7 thiên tử đã băng, xây lăng an táng linh cửu, hoặc gọi là Mậu Lăng
8 hoặc gọi là Xương Lăng; để văn chương ở các, hoặc gọi Hiển Mô,
9 hoặc gọi là Bảo Văn. Nay nhà Lý, lăng các đời chỉ gọi chung là Thọ
10 Lăng, các gọi là Long Đồ, có lẽ bấy giờ vua không có học mà các
11 Nho thần cũng không biết sửa chữa hoặc là không có sức kê cứu việc
12 cổ vậy". (ĐVSKTT/ BK.2/ 17b).
13 Ở một đoạn khác Lê Văn Hƣu nói: "Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Văn
14 Vương, Vũ Vương đều lấy một chữ làm hiệu, chưa từng thấy có tăng
15 thêm tôn hiệu bao giờ. Đế Vương thời sau thích khoe khoang mới có
16 tôn hiệu đến hơn vài chục chữ. Nhưng chỉ lấy công đức mà xưng
17 tụng, chưa bao giờ lấy đồ vật và tên man di xen chấp vào. Thái Tông
18 (Lý Thái Tông) chịu nhận cho bầy tôi dâng tám chữ Kim Dũng Ngân
19 Sinh, Nùng Bình Phiên Phục làm hiệu thì trong việc khoe khoang lại
20 thô bỉ nữa. Thái Tông không có học nên không biết, nhưng bọn Nho
21 thần dâng lên những chữ ấy để nịnh hót vua thì không thể bảo là
22 không có tội." (ĐVSKTT/ BK2/ 28a và 28b).
23 Ngay cả Ngô Sĩ Liên cũng cũng không chịu nổi những trò mê tín
24 quái đản dị kỳ đƣợc ghi vào sử sách: năm 1035, Lý Thái Tông xuống
25 chiếu phát 6 nghìn cân đồng để đúc chuông đặt ở chùa Trùng Quang.
26 Sử lúc đó viết: "Chuông đúc xong, sai người kéo đi đến chùa. Chuông
27 ấy không đợi sức người, tự di chuyển được, chỉ khoảnh khắc đã đến
28 chùa".
29 Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Phàm vật hình vuông thì đứng, hình
30 tròn thì đi, chuông có thể đi được là vì hình tròn. Có lẽ là kéo nó đi,
31 không nhọc đến sức người, như có thần giúp vậy. Nay ta hãy xem như
32 cây gỗ lớn mười mấy người khiêng không nổi, một người đẩy ngang
33 thì nó lăn mà đi. Chuông cũng thê, sư chùa muốn làm cho đạo mình
34 có vẻ thần diệu, mới nói phao lên như thế để đánh lừa mà thôi. Những
35 chuyện như dấu vết người thần, ánh sáng xá ly (xem BK.2/ 22b) cây
36 ưu đàm nở hoa, tượng Phật cổ nổi lên v.v. . .đều do các nhà sư ra cả.
37 Người cầm bút chép sử đương thời không xét lý lẽ, cứ theo thế mà
38 chép vào sử sách." (ĐVSKTT/BK2/ 24a).
39 Trƣớc Lê Văn Hƣu, những người cầm bút chép sử khởi sự từ
40 những thời đại cổ xƣa qua đến các thời đại Đinh, Lê, Lý là ai ?
41 Trong khoảng 1127-1233, Phật giáo rất thịnh hành và những
42 chuyện dị đoan, ma quỷ, thần linh, thƣờng đƣợc dùng để giải thích
43 những hiện tƣợng thiên nhiên ngoài dân gian cũng nhƣ những biến cố
44 lịch sử trong cung đình. Khởi đầu từ đời nhà Lý, việc biên chép lịch

VSTK - 48
1 sử nhất định là phải có. Trong quan chức triều Lý không có chức sử
2 quan để ghi chép những việc xảy ra trong triều theo thứ tự thời gian.
3 Năm 1088, Lý Nhân Tông đặt ra chức Thƣ gia thập hỏa, mƣời hỏa
4 thƣ gia. Theo Lê Quý Đôn giải thích thì giữ chức vụ nầy là ngƣời giúp
5 việc văn thƣ giấy tờ. Theo Phan Huy Chú thì thư gia các hỏa nhƣ nội
6 hỏa thư gia, ngự khố thư gia, chỉ hầu thư gia, nội thư gia, lệnh thư gia
7 là những chức quan tín cẩn làm việc ở trong (nội quan, làm việc riêng
8 cho vua và bên trong triều đình. Theo tự điển, hai chữ thƣ gia còn có
9 nghĩa là ngƣời trong nhà chuyên lo việc ghi chép văn bản giấy tờ.
10 Chữ Hoả còn có nghĩa là khẩn cấp quan trọng. Nhƣ vậy ghi chép
11 những việc khẩn trong trong triều có thể là nhiệm vụ của ngƣời thƣ
12 gia mà các đời sau gọi là sử quan chăng? Ở thời đại đó, những ngƣời
13 giữ chức vụ thƣ gia ít khi đƣợc kê tên vào sử lịch.
14 Trong thời đại nhà Lý, nhất là dƣới thời Lý Nhân Tông, xảy ra rất
15 nhiều chuyện quái đản dị đoan chẳng hạn nhƣ chuyện chuông Quy
16 Điền, chuyện rồng vàng bay từ điện Tử Thần đến điện Hi Long,
17 chuyện con rùa mắt có 6 con ngƣơi trên ức có 2 chữ Thiện Đế, hổ
18 biến thành ngƣời trong chuyện Lê Văn Thịnh làm chuyện phản
19 nghịch, quá nhiều hiện tƣợng phản khoa học đƣợc viết vào sử đến độ
20 Ngô Sĩ Liên phải bực bội lên tiếng:"Về thời đại thuận ngày xưa,
21 người làm vua biết giữ tín đạt thuận, tới được mức trung hòa, cho nên
22 bấy giờ trời không tiếc đạo, đất không tiếc của báu, móc ngọt tuôn sa,
23 rượu thơm suối chảy mà các vật điềm lành như rồng, phượng, rùa,
24 lân, không giống gì không đến. Thời Nhân Tông sao các vật điềm
25 lành nhiều đến thế?Là vì nhà vua thích, cho nên bầy tôi dâng xằng mà
26 thôi".(ĐVSKTT/ BK3/ 26b)
27 Xét những chuyện huyền hoặc rồng rắn, rùa cọp, kỳ lân, thần núi,
28 long vƣơng trong Việt Điện U Linh, trong Lĩnh Nam Chích Quái thì
29 tính chất và cung cách cách kể chuyện cũng không khác gì những
30 chuyện "xằng" đƣợc viết vào sử dƣới thời nhà Lý.
31 VĐUL đã dẫn chiếu rất nhiều tới sách Sử Ký của Đỗ Thiện. Đổ
32 Thiện nầy là ai?
33 ĐVSKTT có chép tên Đỗ Thiện vào cuối đời Lý Nhân Tông
34 (ĐVSKTT/BK3/27a). Đỗ Thiện là Nội nhân đƣợc sai đi báo cho
35 Sùng Hiền hầu về việc Lý Thần Tông kế vị ngôi vua của Lý Nhân
36 Tông. Tên gọi Nội nhân có thể là Nội Thƣ Gia, một chức vị tƣơng
37 tựa nhƣ chức vị sử quan sau nầy. Và nhƣ thế, có thể những biến cố
38 xảy ra trong cung đình qua những triều đại vua chúa từ trƣớc cho tới
39 lúc đó đƣợc nội nhân Đỗ Thiện biên chép lại và soạn thêm vào tập ký
40 sự của nhà vua mà về sau ngƣời ta gọi là Sử Ký của Đỗ Thiện. Những
41 chuyện quái đản trong Kỷ Hồng Bàng thị cũng rất có thể do Đỗ Thiện
42 dựa vào chuyện Liễu Nghị, sửa đổi, thêm thắc rồi đƣa vào tập ký sự
43 để làm đẹp lòng vua chúa triều đại nhà Lý lúc đó.

VSTK - 49
1 Từ hƣớng suy luận nầy sẽ đi tới một hệ luận khác là hai tập truyện
2 ký VĐUL và LNCQ có dựa vào tập ký sự (Sử Ký) của Đỗ Thiện để
3 viết về những chuyện thần kỳ cổ tích xảy ra trong kỷ Hồng Bàng - An
4 Dƣơng Vƣơng - Triệu Đà cho đến hết đời Lý Nhân Tông (1127).
5 Sau thời Đỗ Thiện, những biến cố lịch sử từ năm 1128 cho đến hết
6 triều Lý (Lý Chiêu Hoàng/ 1225) do ai viết?
7 Nhất định là phải có ngƣời tiếp nối việc biên chép. Tuy nhiên vấn
8 đề chủ yếu ở đây là phần chép về Hồng Bàng - Thục An Dƣơng
9 Vƣơng trong tập ký sự cuả Đỗ Thiện có còn đƣợc giữ lại hay không?
10 Bởi vì trong giai đoạn tiếp theo, Lê Văn Hƣu sau khi đã trùng tu (sửa
11 chữa và soạn lại), thì kỷ viết về Hồng Bàng-Thục An Dƣơng Vƣơng
12 biến mất trong Đại Việt Sử Ký. Có điều gì sai mà phải sửa chữa? Lê
13 Văn Hƣu đã cắt bỏ bớt đi hay bổ túc nhiều thêm? Đƣơng nhiên là Lê
14 Văn Hƣu phải dùng nhũng sử liệu sẵn có từ các thời trƣớc mà cũng là
15 điều hợp lý khi cho rằng Lê văn Hƣu đã dựa vào Sử Ký của Đỗ Thiện
16 hoặc là đã lấy những sự ghi chép tiếp nối của một sử quan nào đó
17 trong triều đại nhà Trần làm căn bản cho việc tu soạn của mình.
18 Trong niên hiệu Kiến Trung thứ 6 thời Trần Thái Tông/ 1230
19 (ĐVSKTT viết Kiến Trung năm thứ 5 là sai), ĐVSKTT viết: "Mùa
20 xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc
21 Triều Thông Chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển". Và tiếp
22 theo: Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10
23 quyển.(BK.5/6a). Không thấy nói ai là ngƣời phụ trách khảo soạn, ghi
24 chép; những công tác vừa kể cũng đã làm xong trƣớc khi Trần Chu
25 Phổ và Lê Văn Hƣu xuất thân làm quan với triều đình nhà Trần bởi
26 vì Năm 1231 ĐVSKTT ghi: "Tháng 2 (âm lịch) thi thái học sinh. Đỗ
27 đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lư Diễm; đệ nhị giáp là Đặng Diễn,
28 Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ. (BK.5/7b). Đến năm
29 1247, Lê Văn Hƣu mới đỗ bảng nhãn. (BK5/ 15b).
30 Vào năm 1251 thì Trần Chu Phổ đang giữ chức ngự sử. Trong một
31 dịp vua mở tiệc yến ở nội điện có sự tham dự đầy đủ bá quan, đến khi
32 say rƣợu mọi ngƣời đều đứng dậy dang tay hát múa. Ngự sử Trần
33 Chu Phổ cũng dang tay theo mọi ngƣời, không hát câu gì khác, chỉ
34 nói:"Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng" (ĐVSKTT/BK.5/18a). Sử
35 quan ở đây nhất định là quan ngự sử mà khi hát ca Trần Chu Phổ tự
36 gọi mình một cách ngắn gọn là sử quan. Không nên hiểu lời ca Sử
37 quan của Trần Chu Phổ nhƣ là ám chỉ một ngƣời quan lại chuyên lo
38 về việc ghi chép lịch sử để rồi đi đến kết luận rằng Trần Chu Phổ
39 cũng là một Sử quan ghi chép lịch sử. Ngô sĩ Liên đã phê phán tƣ
40 cách của Trần Chu Phổ nhƣ sau: "Ngự sử là bề tôi giữ việc can ngăn,
41 chức phận là phải uốn nắn, đã không nói thì thôi, lại còn vào hùa với
42 họ thì kỷ cương của triều đình để đâu?" (BK5/18b). Ngoài ra nếu cho
43 rằng Trần Chu Phổ cũng là Trần Tấn (Trần Tấn tác giả của một tập

VSTK - 50
1 chí có tên là Việt Chí) thì đó là một sự gán ghép gƣợng gạo không có
2 chứng cớ vững chắc.
3 Rất nhiều ngƣời kể cả ngƣời ngoại quốc khi khảo cứu về sử cũ của
4 Việt Nam đã dây dƣa ghép nối lẫn lộn hai cái tên Trần Tấn và Trần
5 Chu Phổ là tác giả của Việt Chí nhằm mục đích giải thích cơ sở mà
6 Lê Văn Hƣu đã dùng làm nền tảng cho công tác trùng tu quốc sử.
7 Tên ngƣời Trần Tấn, tên sách Việt Chí xuất hiện trong tập chí An
8 Nam Chí Lƣợc của Lê Trắc viết sau khi chạy trốn sang Trung Hoa.
9 Trong An Nam Chí lƣợc có đoạn viết: "Trần Tấn được Thái Vương
10 (Trần Thái Tông) dùng làm tả tàng, thăng đến hàn trưởng, từng làm
11 (tác) sách Việt Chí. Và : Lê Hưu là người có tài đức, làm phó quan
12 của Chiêu Minh Vương (Trần Quang Khải), thăng làm kiểm pháp
13 quan, sửa (tu) sách Việt Chí".
14 Có thể đời nhà Trần có những sách và tập chí theo thứ tự thời gian
15 nhƣ sau :
16  Ký sự hay Sử ký: của Đỗ Thiện (đến cuối đời Lý Nhân Tông/
17 1127) trong đó có kỷ Hồng Bàng-Thục An Dƣơng Vƣơng-Triệu Đà ;
18  Quốc triều thông chế, 20 quyển: không có tên ngƣời biên
19 soạn (Trần Thái Tông /1230) ;
20  Việt chí: có hay không có phần viết về kỷ Hồng Bàng-Thục An
21 Dƣơng Vƣơng-Triệu Đà. Điều đó cũng không quan trọng bởi vì phần nầy đã
22 bị biến mất hẳn trong ĐVSK do Lê Văn Hƣu biên soạn và nhƣ thế tƣởng
23 cũng không còn nên bận tâm gì về tên ngƣời viết ra quyển Việt Chí .

24 Vấn đề còn lại ở đây là:

25 Tại sao kỷ HỒNG BÀNG - THỤC PHÁN bị xóa bỏ dƣới đời


26 nhà Trần rồi lại tái xuất hiện trong ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên ?

27 Đây là một vấn đề nghiêm trọng cần phải giải quyết dứt khoát
28 một lần cho xong để đánh tan những điều trá mị trong sử cũ của
29 Việt Nam kéo dài hơn mấy trăm năm qua, kể từ đời Lê Thánh
30 Tông (1460-1497) đến nay.

31 Từ phần lƣợc khảo đã viết ở trên đƣa đến một suy luận: Kỷ Hồng
32 Bàng-Thục Phán khởi mầm xuất hiện trong chính sử từ đời nhà Lý.
33 Câu hỏi đặt ra: Tại sao lại lấy đời nhà Lý làm điểm móc khởi đầu?
34 Bởi vì những điêu dối trá mị dân đã thấy xuất hiện rất sớm, có thể là
35 trƣớc đời nhà Lý nữa, để chuẩn bị cho việc ra đời của triều đại Lý
36 Công Uẩn .
37 ĐVSKTT viết: "Tháng ấy (tháng 10 năm Kỷ Dậu/Cảnh Thụy năm
38 thứ 2 /1009-TL), ngày Quý Sửu, Ly Công Uẩn tự lập làm vua. Trước
39 đây ở hương Diên Uẩn, Châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người
40 hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: Thụ căn diểu diểu, mộc
41 biểu thanh thanh. . . .".
VSTK - 51
1 Theo Sƣ Vạn Hạnh giải thích thì: mấy câu nầy ý nói là vua (Lê
2 Ngọa Triều) thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi
3 lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn
4 mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/BK.1/31b).
5 Đoạn kế tiếp viết: Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: "Mới rồi tôi
6 thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp.
7 Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng
8 thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh
9 giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải thân vệ thì còn
10 ai đương nỗi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy
11 chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may mắn nghìn
12 năm có một". Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn
13 Hạnh dấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ mới nẩy ra
14 lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ.(ĐVSKTT/BK.1/
15 32a).
16 Câu cuối cùng của đoạn trên "Song từ đấy. . . " nhất định phải là
17 bút tích của ngƣời chép sử đời sau viết ra để phê phán thái độ ám
18 muội của Lý Công Uẩn.
19 Rồi chuyện bà mẹ đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với ngƣời thần giao
20 hợp mang thai sinh ra Công Uẩn và vì sợ tiếng đời thị phi con mình là
21 con hoang không có họ, không có cha cho nên mới bồng đến cho Lý
22 Khánh Vân nhận làm con để đƣợc mang họ Lý.
23 Vậy ngƣời cha thật, ngƣời cha xác thịt phàm tục của Công
24 Uẩn là ai? Nhất định ngƣời nầy phải có nhƣng vì một tình lý trắc trở
25 nào đó mà phải lánh mặt dấu tên và trút hết tội lỗi cho một ông thần
26 bá vơ không có tiếng tăm nơi chùa Tiêu Sơn. (ĐVSKTT/BK.2/1a).
27 Rồi đến chuyện con chó sắc trắng có đốm lông đen kết thành hai
28 chữ Thiên tử để ứng điềm Công Uẩn sẽ làm vua (sđd/1b,2a).
29 Có hai cách suy đoán về nguồn gốc của tất cả những chuyện quái
30 dị kể trên :
31 1.- Những chuyện dị đoan đó đƣợc tung ra từ lúc Công Uẩn còn
32 nằm trong bụng mẹ hoặc vào lúc mới sinh ra. Nhƣ vậy tức là phải có
33 ngƣời sắp xếp, đạo diễn tung tin đồn nhảm nhí về việc ngƣời giao hợp
34 với thần linh, lại cho ngƣơi dùng sắt nung đỏ vạch vỏ cây ghi khắc lời
35 sấm rồi phao truyền giải thích lƣơng lẹo nhằm tác động lên tinh thần
36 mê tín mù quáng của ngƣời dân chất phác kém chữ ít học; nhuộm
37 lông chó để loan truyền rằng ngƣời làm vua của triều đại mới sắp tới
38 không phải là ngƣời xuất phát từ đám dân cùng đinh hạ giới; ngƣời đó
39 là thiên tử, là con trời bởi vì chỉ có con cháu của ông trời mới đƣợc
40 làm vua và cũng chỉ có con cháu của ông trời làm vua thì mới đƣợc
41 dƣ luận thế gian công nhận là chính thống.
42 Ngƣời chủ động làm công tác tuyên truyền đó phải là ngƣời mƣu
43 lƣợc, có học, nhất là phải có liên hệ mật thiết với Công Uẩn. Ngoại
44 trừ ngƣời mẹ thì chỉ có 2 ngƣời có liên hệ nhiêu với Công Uẩn: sƣ

VSTK - 52
1 Vạn Hạnh và Lý Khánh Vân (theo KĐVSTGCM thì Lý Khánh Vân
2 cũng là một ông sƣ). Trong hai ngƣời, thì sƣ Vạn Hạnh nổi bật, là
3 quân sƣ cố vấn của Công Uẩn; chẳng những thế, mối liên hệ giữa nhà
4 sƣ với Công Uẩn chẳng khác nào nhƣ ruột thịt thân thiết, nhƣ cha ruột
5 lo cho tƣơng lai của đứa con trai với một hoài bảo là đƣợc nhìn thấy
6 đứa con đƣợc công thành danh toại trƣớc khi mình nhắm mắt lìa đời.
7 Nhƣng làm sao để những chuyện quái dị đó đƣợc truyền đi
8 trong dân gian?
9 Chùa miếu lúc đó là nơi dân chúng tụ tập đi lễ và nghe rao giảng
10 kinh kệ, thuyết pháp đồng thời cũng là trung tâm truyền tin và xuất
11 phát những chuyện linh thiên quái dị. Ngƣời dân chất phác sùng đạo,
12 kiêng thần, sợ thánh cho nên rất tin tƣởng những chuyện do những
13 nhà tu hành đức cao trọng vọng kể lại hoặc chép lên giấy mực rồi đọc
14 cho nghe.
15 2.- Những chuyện quái đản đó có thể xuất hiện sau khi Lý Công
16 Uẩn đã lên ngôi vua. Nhƣ vậy một trong hai trƣờng hợp sau đây có
17 thể xảy ra :
18 Trường hợp thứ nhất: Ngƣời viết và loan truyền là một ngƣời thân
19 thuộc tín cẩn của Công Uẩn chuyên giữ vai trò tuyên truyền đánh
20 bóng cho chế độ mới, tạo một ánh hào quang lừa đảo bao phủ để che
21 dấu tông tích thật của một bề tôi tiếm nghịch phản chủ đồng thời
22 khoác cho ngƣời mới một hình tƣợng uy linh thần thánh kèm theo một
23 uy lực cai trị trấn áp tối thƣợng chỉ thua kém ông trời một bậc mà
24 thôi. Công tác tuyên truyền nầy phải đƣợc thực hiện và phổ biến ngay
25 trong lúc đó để dập tắt dƣ luận đàm tiếu trong dân gian và củng cố
26 nền đế chính vừa mới tiếm đoạt đƣợc.
27 Trời Phật, tiên thánh, thần ma, quỷ sứ, rùa phƣợng, hổ rồng, cùng
28 với cả một thế giới huyền hoặc đã đƣợc tận dụng để tạo ra những
29 truyện tích dị thƣờng quái đản. Những truyện quái đản đó một mặt
30 đƣợc loan truyền ra ngoài dân chúng qua trung gian các chùa miếu,
31 đền miếu và một mặt khác thì đƣợc ghi chép vào điển lịch(a) của triều
32 cung để lƣu truyền hậu thế. Trong giai đoạn nầy nhất định là những
33 nhà sƣ và những kẻ quyến thuộc hay nội nhân giữ nhiệm vụ then chốt
34 mà nổi bật hơn cả là sƣ Vạn Hạnh và ngƣời anh của Công Uẩn.
35 Những chữ nhƣ Sử Quan, Quốc Sử hay Sử Ký chƣa xuất hiện trong
36 giai đoạn nầy.
37 Một điều cần chú ý ở đây là cách viết vả kể lại những câu chuyện:
38 không dùng thể giả định gián tiếp tục truyền(b) nhƣng lại dùng thể
39 khẳng định trực tiếp trƣớc đó có nghĩa là ngƣời viết hoặc kể chuyện
40 phải sống trong cùng một không gian và thời gian với những nhân vật
41 trong truyện. Ngoài ra, trình độ dân trí lúc đó còn thấp, rất ít ngƣời
42 biết đọc chữ Hán (chữ Nho) cho nên những chuyện mê tín, dị đoan,
43 quái đản chỉ có thể miệng truyền miệng trong dân gian chứ không thể
44 phổ biến bằng các hình thức sách vở hay tập truyện để cho dân chúng

VSTK - 53
1 đọc. Sách truyện loại nầy nếu có thì cũng chỉ nhắm vào một thiểu số
2 tầng lớp có học biết đọc, biết viết chữ Hán mà thôi tức là những thành
3 phần quan lại trong triều đình và những nhà sƣ ở các chùa chiền đã và
4 đang đƣợc xây cất rầm rộ khắp nơi lúc đó. Trong trƣờng hợp nầy thì
5 những âm mƣu bàn định, những mẫu đối thoại có tính cách xúi giục,
6 những ý đồ thầm kín, những cung cách bợ đỡ của đám phản thần dứt
7 khoát là không đƣợc đồn đãi ra ngoài mà cũng không đƣợc phép kê
8 khai ghi chép vào điển sách.
9 (a) Điển lịch: sách ghi chép những công việc cũ theo thời gian của tờ lịch.
10 (b) Tục truyền: Tục có nghĩa là làm theo, bắt chƣớc, nối tiếp, nối đời. . Tục truyền có nghĩa
11 là nối tiếp đƣợc kể lại bằng miệng trong dân gian.

12 Trường hợp thứ hai: ngƣời chép lại những truyện tích thần ma từ
13 đời Lý Công Uẩn thuộc về một triều đại sau nầy bởi vì nội dung đoạn
14 viết về Lý Công Uẩn ngày nay đọc đƣợc gồm có hai lối văn tƣơng
15 nghịch đƣợc ghép chung vào:

16 1/- Vào lúc Lê Ngọa Triều vừa mới chết (1009), ĐVSKTT chép
17 về Lý Công Uẩn nhƣ sau: Mùa Đông tháng 10, ngày Tân Hợi, vua
18 băng ở tẩm điện gọi là Ngọa Triều, vì vua mắc bệnh trĩ phải nằm mà
19 coi chầu (Dã sử chép: vua say đắm tửu sắc phát ra bệnh trĩ).Tháng
20 ấy, ngày Quý Sửu, Lý Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương
21 Diên Uẩn, châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem
22 kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: "Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh
23 thanh, hoa đào mộc lạc, thập bát tử thành, Đông a nhập địa, mộc dị
24 tái sinh, Chấn cung kiến nhật, Đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian,
25 thiên hạ thái bình." (Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây
26 hoa đào rụng, mƣời tám hạt thành, cành Đông xuống đất, cây khác lại
27 sinh, Đông mặt trời mọc, Tây sao che hình, khoảng sáu bảy năm,
28 thiên hạ thái bình). Sư Vạn Hạnh đoán riêng rằng: Hoa, đào, mộc
29 ghép với nhau là chữ Lê, Thập, bát, tử là chữ Lý, Đông A là họ Trần,
30 nhập địa là giặc phương Bắc vào cướp (nghi vấn: lấy chữ nào để
31 dịch ra là giặc phƣơng Bắc? Nhập địa tại sao lại là vào cƣớp ? tại sao
32 tách rời 2 chữ nhập địa nầy để đoán là giặc phƣơng Bắc vào cƣớp?
33 Hay là ý muốn nói họ Trần đến từ đất Trung Quốc không phải
34 ngƣời của nƣớc ta?), mộc dị tái sinh là họ Lê (mộc dị?) khác lại nổi
35 lên. . . . . . Mấy câu nầy ý nói là vua thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh
36 (Lê Ngọa Triều và Lý Công Uẩn) họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở
37 phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6,
38 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/NK.1/ 30b, 31b).
39 ĐVSKTT ghi sƣ Vạn Hạnh tự đoán riêng, rồi KĐVSTGCM cũng
40 ghi sƣ Vạn Hạnh tán riêng. Có nghĩa là Sƣ Vạn Hạnh tự viết ra ý kiến
41 của mình rồi lƣu giữ ở chùa mà về sau ngƣời khác mới chép lại những
42 lời đoán đó đem vào sử. Những lời xúi bẩy và tâm sự của sƣ Vạn
43 Hạnh với Công Uẩn, những cuộc đối thoại và âm mƣu đoạt triều giữa

VSTK - 54
1 Công Uẩn và bọn Đào Cam Mộc không thể nào do sƣ Vạn Hạnh hay
2 do thân thích của Công Uẩn viết ra một cách tách bạch trên sử sách.
3 Lại nữa, chính ngay cả Lê Ngọa Triều khi ăn quả khế lại thấy hột
4 mận (chữ Lý có nghĩa là cây mận ) cũng có ngẫm nghĩ tới lời sấm do
5 sƣ Vạn Hạnh diễn giảng cho nên mới ngầm tìm dòng dõi họ Lý mà
6 giết đi nhƣng Công Uẩn ở ngay bên mình, thế mà không biết.
7 (ĐVSKTT/NK.1/32a,32b và CM/CB.2/5): âm mƣu soán nghịch đã
8 nẩy mầm từ lúc nhà tiền Lê còn nắm giữ quyền cai trị; Lê Ngọa Triều
9 biết đƣợc âm mƣu đó do sƣ Vạn Hạnh chủ xƣớng cho nên sƣ Vạn
10 Hạnh mới phải chạy trốn (ĐVSKTT/BK.1/32a); ngƣời mà Lê Ngọa
11 Triều ngầm tìm để giết là sƣ Vạn Hạnh chứ không phải là dòng dõi họ
12 Lý. Sau khi việc đoạt ngôi thành công, đoạn viết về Lê Ngọa Triều ăn
13 quả khế mới đƣợc sƣ Vạn Hạnh sáng tác thêm để che lắp đi hành vi
14 phản nghịch của mình; không lẽ nào Lê Ngọa Triều u mê đến độ
15 không biết Công Uẩn mang họ Lý đang ở ngay bên cạnh mình ?
16 2/- Sau khi chép lại việc Công Uẩn đƣa giấu Vạn Hạnh, ĐVSKTT
17 có mộ đoạn văn phê phán nhƣ sau: Song từ đây cũng lấy thế tự phụ
18 mới nẩy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ
19 (BK1/32 a). KĐVSTGCM cũng viết tƣơng tựa: Sợ lời đó lộ liễu,
20 Công Uẩn sai người giấu sư Vạn Hạnh đi; nhưng cũng lấy thế làm tự
21 phụ (CBII/5). Lời phê phán không thể nào do sƣ Vạn Hạnh hay một
22 kẻ nào khác viết ra dƣới triều Lý Công Uẩn.
23 Tất cả những luận cứ nêu lên ở phần trên chú trọng vào những
24 điểm chính sau đây :
25 1. - Những truyện quái đản phản khoa học đã có từ cuối đời tiền
26 Lê rồi đầu đời nhà Lý đƣợc tận dụng làm phƣơng tiện tuyên truyền
27 tung ra nhân gian qua môi giới các nhà sƣ trong những dịp tiếp xúc
28 với dân chúng những khi giảng đạo, niệm kinh đồng thời những
29 truyện đó cũng đƣợc ghi chép để phổ biến và lƣu giữ ở các chùa
30 chiền khắp nơi.;
31 2.- Tất cả những những truyện ký đó chỉ nhằm một mục đích
32 tuyên truyền thổi phồng cho một chế độ tùy theo mỗi triều đại vì thế
33 cho nên phải vận dụng tất cả mọi mánh khóe lừa đảo kỳ dị, lấy râu
34 ông cắm sừng bà để tạo ra những sự thật giả dối.
35 3.- Về sau, khi việc ghi chép lịch sử đƣợc giao cho ngƣời có học
36 đang làm quan tại triều thì những ngƣời nầy lại phải viết theo lệnh ý
37 của vua chúa: những gì đã ghi chép từ trƣớc dù quái đản nhƣng xét ra
38 có lợi cho tâm tiếng của ông vua thì phải sao chép giữ lại chứ không
39 đƣợc tự quyền cắt xén hay xóa bỏ .
40 4.- Trong bối cảnh đó, những truyện ký thần kỳ quái đản khác nhƣ
41 những truyện trong Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái cũng
42 khởi đầu đƣợc truyền tụng trong dân gian từ thời đại nhà Lý nhất là
43 từ đời Lý Thái Tông cho đến cuối đời Lý Nhân Tông. (1028-1127).

VSTK - 55
1 VĐUL đã viện dẫn rất nhiều tới sách Ký sự (mà sử cũ gọi là Sử
2 Ký) của Đỗ Thiện và nhƣ đã viết ở phần trên LNCQ nhất định cũng
3 có tham khảo vào tập Ký sự của Đỗ Thiện để viết về những sự tích từ
4 Hồng Bàng thị, An Dƣơng Vƣơng, Triệu Đà và những truyện khác
5 cho đến cuối đời Lý Nhân Tông hay nói khác đi trong tập Ký sự của
6 Đỗ Thiện (1127-?) có viết về Kỷ Hồng Bàng và Thục An Dƣơng
7 Vƣơng. Sự suy đoán nhƣ thế là hợp lý bởi vì với một Lý Thái Tổ (Lý
8 Công Uẩn) sùng kính Phật pháp, mê tín dị đoan, khoe khoang (lấy tôn
9 hiệu đến 50 chữ), một Lý Thái Tông hợm mình thái quá, một Lý
10 Nhân Tông mê thích mộng mị điềm lành thì những chuyện viết ra
11 trong kỷ Hồng Bàng nhằm mục đích tâng bốc nâng cao cung cách
12 thiên tử cho nhà họ Lý là một việc ghi chép phải có trong tập Ký sự
13 của Đỗ Thiện hoặc trong đống tập sách của các nhà sƣ biên soạn cất
14 giữ nơi các đình miếu chùa chiền.
15 Trong bài Tựa viết trên LNCQ, Vũ Quỳnh đã ƣớc đoán một cách
16 hữu lý nhƣ sau :
17 "Viết ra (những chuyện tích trong LNCQ) đầu tiên là những bậc
18 tài cao học rộng ở đời Lý Trần. Còn những nhà nhuận sắc là các bậc
19 quân tử hiếu cổ ngày nay."
20 Các bậc tài cao học rộng ở đời Lý thì những nhà sƣ chiếm đa số.
21 Còn những nhà nho học nổi tiếng đƣợc làm quan tại triều thì rất hiếm
22 chỉ có một Đỗ Thiện mà nhiều ngƣời, kể cả ngƣời ngoại quốc, cho là
23 tác giả của tập Sử Ký.
24 Trong triều đại nhà Trần, đời Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế có
25 một danh nho nổi bật là Hồ Tông Thốc làm sách Việt Sử Cƣơng Mục
26 và Việt Nam Thế Chí.
27 Việt Nam Thế Chí, quyển thứ nhất chép gia phả 18 đời họ
28 Hồng Bàng và quyển thứ hai chép gia phả của họ Triệu.
29 Các bậc quân tử (quân tử có nghĩa là nhà nho) hiếu cổ ngày nay
30 tức là những nhà nho già lão thuộc về các triều đại trƣớc còn sống sót
31 và những nhà nho cùng thời với Vũ Quỳnh có để tâm khảo cứu, trùng
32 tu, các loại văn tịch cổ xƣa. Những nhà nho cũ có tâm tiếng còn sống
33 sót cho đến thời của Vũ Quỳnh là những ai?
34 Theo thứ tự thời gian trƣớc sau, tên tuổi của những nhà nho có
35 dính líu vào việc ghi chép quốc sử từ đời Lý cho đến thời của Vũ
36 Quỳnh có thể truy cứu đƣợc trên sử sách gồm có:

37 1. Đỗ Thiện: (1127/ Lý nhân Tông): có thể là tác giả của 1 tập ký


38 sự thƣờng đƣợc gọi là Sử Ký; cũng cần phải kể đến những nhà sƣ tăm
39 tiếng thời đó nhƣ Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân và những tác giả (chƣa
40 đƣợc sử sách xác định rõ ràng dứt khoát) của VĐUL, LNCQ.

41 2. Trần Chu Phổ: giữ chức ngự sử (1251) dƣới thời Trần Thái
42 Tông (1225-1258) thƣờng đƣợc gán ghép cùng với Trần Tấn để trở

VSTK - 56
1 thành tác giả một tập chí có tên là Việt Chí; cách gán ghép nầy không
2 có nền tảng, không đáng tin

3 3. Lê Văn Hƣu (1230 - 1322): chính thức đƣợc giao nhiệm vụ


4 soạn bộ Đại Việt Sử Ký gồm 30 (?) quyển, chép từ đời Triệu Đà
5 (207-136 TCN) đến đời Lý Chiêu Hoàng (1224-1225), hoàn thành và
6 trình lên Trần Thánh Tông năm 1272.

7 4. Lê Trắc: tự Cảnh Cao, ngƣời Ái Châu, Thanh hóa, dòng họ


8 Nguyễn Phu nguyên là quan lại của ngƣời Hoa, đƣợc ban cấp chức
9 thứ sử Giao Châu dƣới thời Đông Tấn, đƣợc ngƣời cậu tên là Lê
10 Phụng nuôi dƣỡng mới đổi lấy họ Lê. Làm tham mƣu cho Trần Kiện
11 (cháu nội Trần Thái Tông) trấn giữ Nghệ An. Năm 1285 (đời Trần
12 Nhân Tông) khi tƣớng nhà Nguyên là Toa Đô từ đất Chiêm Thành
13 kéo quân sang đánh Nghệ An, Trần Kiện cùng Lê Tắc đem gia quyến
14 đón đƣờng đầu hàng. Sau Lê Trắc chạy theo quân Nguyên về Trung
15 Hoa, đƣợc vua nhà Nguyên phong cho quan hàm rồi đến sống luôn ở
16 Hàm Dƣơng (thuộc tỉnh Hồ Bắc); soạn quyển An Nam Chí Lƣợc
17 trong đó có chép từ họ Hồng Bàng nhƣng vì viết theo kiểu viết ngƣời
18 Trung Quốc nên chỉ viết rằng 15 bộ là những bộ lạc rải rác sống tập
19 hợp trên vùng lãnh thổ Phong Châu.

20 5. Hồ Tông Thốc: đỗ Thái học sinh đời Trần Nghệ Tông (1370-
21 1372), đƣợc bổ nhiệm giữ chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ năm 1386
22 đời Trần Phế Đế, là tác giả của Việt Sử Cƣơng Mục (VSCM) và Việt
23 Nam Thế Chí (VNTC). VNTC đƣợc Hồ Tông Thốc soạn vào cuối đời
24 Trần (1413/ đời Trần Quý Khoách) gồm 2 quyển, quyển nhất chép thế
25 phá 18 đời họ Hồng Bàng, quyển nhì chép thế phá của họ Triệu.

26 6. Phan Phu Tiên: đỗ Thái học sinh khoa thi cuối cùng của triều
27 nhà Trần. Theo LTHCLC/ Khoa Mục Chí đời Trần / Phan Huy Chú
28 thì khóa thi Thái học sinh cuối cùng của triều Trần là vào năm Quang
29 Thái thứ 6 tháng 2 (Trần Thuận Tông) tức là năm 1393. Rồi lại đậu
30 khoa Minh kinh năm 1429 (Lê Thái Tổ). Năm 1448 đời Lê Nhân
31 Tông (1443-1459) về kinh giữ chức Trí quốc sử viện. Năm 1455 Lê
32 Nhân Tông sai Phan Phu Tiên soạn và chép nối tiếp từ đời Trần Thái
33 Tông (1225-1257) trở xuống cho đến lúc giặc Minh bị đánh bật rút
34 chạy về nƣớc, gồm có 10 quyển gọi là Sử Ký Tục Biên (tên gọi bộ sử
35 theo LTHCLC của Phan Huy Chú).

36 7. Ngô Sĩ Liên: Theo sách Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì
37 Ngô Sĩ Liên thọ 98 tuổi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi
38 (1418 - 1427), đỗ đồng tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3
39 (1442) đời Lê Thái Tông (1434 - 1442). Giữ chức Đô Ngự Sử (chánh

VSTK - 57
1 nhất phẩm) từ đời Lê Nhân Tông (1443 -1459) tiếp tục chức đó trong
2 giai đoạn Lê Nghi Dân tiếm quyền (từ cuối năm 1459 đến giữa năm
3 1460) qua đến đầu đời Lê Thánh Tông (1461). Từ năm 1461 đến năm
4 1479 Ngô Sĩ Liên vẫn còn đƣợc làm quan nhƣng lần lƣợt với những
5 chức vụ khác thấp hơn chức vụ Đô Ngự Sử nhƣ Lễ bộ hữu thị Lang
6 (tòng tam phẩm/ tòng có nghĩa là theo, phụ tá), Triều liệt đại phu, một
7 chức vụ không có thứ bậc đƣợc ban kèm thêm vào một chức vụ chính
8 thức khác (Theo LTHCLC thì năm Hồng Đức thứ 2 tức là năm 1471,
9 Lê Thánh Tông ấn định chế độ các chức quan và tƣớc vị thì chức
10 Triều liệt đại phu đƣợc ban cấp kèm thêm cho những quan tƣớc từ
11 hàng tòng tứ phẩm), Quốc tử giám tƣ nghiệp (tòng ngũ phẩm) kiêm
12 Sử quan tu soạn (chánh bát phẩm). Theo lệnh của Lê Thánh Tông,
13 Ngô Sĩ Liên soạn và hoàn thành Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ vào năm
14 1479, gồm có 15 quyển, chia thành 2 phần :

15 Phần I: Ngoại Kỷ (phần ngoài): 5 quyển từ họ Hồng Bàng cho đến


16 khi giặc Minh bị đánh đuổi chạy về Tàu (năm 938). Quyển I Ngoại
17 Kỷ gồm có Kỷ Hồng Bàng và Kỷ Thục Phán là phần viết thêm
18 của Ngô Sĩ Liên.

19 Phần II: Bản Kỷ (phần chính): 10 quyển, chép từ đời Ngô Quyền
20 đến Lê Thái Tổ lên ngôi (939-1428).

21 8. Kiều Phú: sinh năm 1450, đỗ Tiến sĩ lúc 25 tuổi. Năm 1492 viết
22 Tựa cho tập truyện Lĩnh Nam Chích Quái.

23 9. Vũ Quỳnh: sinh năm 1453, đỗ tiến sĩ năm 1478 (đời Hồng Đức
24 thứ 9, làm quan đến thƣợng thƣ kiêm Quốc tử giám tƣ nghiệp và Sử
25 quan đô Tổng tài. Năm 1510 theo lệnh Lê Tƣơng Dực bắt đầu soạn bộ
26 Đại Việt Thông Giám Thông Khảo (ĐVTGTK) và hoàn thành 1511,
27 gồm 26 quyển.

28 Nhƣ vậy, các bậc quân tử hiếu cổ ngày nay mà Vũ Quỳnh đề cập
29 trong bài tựa viết trên LNCQ có thể là Hồ Tông Thốc, Phan Phú Tiên,
30 Ngô Sĩ Liên, Kiều Phú trong đó ngƣời đáng đƣợc chú ý nhất là Hồ
31 Tông Thốc, tác giả bộ Việt Sử Cƣơng Mục và 2 tập Việt Nam Thế
32 Chí.

33 Tại sao Lê Văn Hƣu không đƣa kỷ Hồng Bàng-Thục Phán vào
34 Đại Việt Sử Ký của ông ?

35 Bài Tựa Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ/ Ngoại Kỷ của Ngô Sĩ Liên
36 năm Hồng Đức thứ 10 /Kỷ Hợi (1479) chép :". . . . . .Đến triều Trần
37 Thái Tông mới sai học sĩ Lê Văn Hưu soạn lại (trùng tu) từ Triệu Vũ

VSTK - 58
1 đế trở xuống đến năm đầu Lý Chiêu Hoàng." (ĐVSKTT/Quyển
2 Thủ/Tựa của Ngô Sĩ Liên/1a ,1b)(LLTHCLC /QXLIII/ Văn Tịch Chí/
3 Loại Kinh Sử/ Phan Huy Chú).

4 Trùng tu theo tự điển Hán Việt có nghĩa là dọn sửa lại cái cũ, sắp
5 xếp lại việc cũ. Theo nghĩa nầy thì Lê Văn Hƣu đã tham khảo các sử
6 liệu cũ cùng với những truyện ký đƣợc ghi chép hiện còn cất giữ
7 trong các chùa chiền mà các sử gia thời đó gọi là những điều tục
8 truyền được ghi chép, cất giữ trong dân gian để sửa lại rồi soạn thành
9 một bộ sử gọi là Đại Việt Sử Ký. Không cần phải thắc mắc dài dòng
10 về mối quan hệ giữa ĐVSK với những thƣ tịch đƣơng thời. Công tác
11 khoa học nào cũng đòi hỏi một sự khảo cứu tìm tòi sâu rộng trong
12 thực tế, tham khảo những việc cũ trong sách vở vân . . .vân . . . Đó là
13 phong thái thiết yếu có tính cách kỹ luật và kỹ thuật mà bất cứ nhà
14 khoa học nào cũng phải trải qua. Viết sử cũng là mộ công tác khoa
15 học cho nên dựa vào những tài liệu thƣ tịch đã có từ trƣớc còn giữ lại
16 đƣợc cho đến đƣơng thời khi viết bộ sử ĐVSK chỉ là những hoạt động
17 cần thiết mà Lê Văn Hƣu phải làm.
18 Lấy điểm móc 1230 là năm sinh của Lê Văn Hƣu thì những tài liệu
19 đƣơng thời mà Lê Văn Hƣu đã tham khảo rất có thể gồm có các thƣ
20 tịch sau đây :
21 1. Tập Ký sự của Đổ Thiện (từ trƣớc thƣờng gọi là Sử Ký của
22 Đỗ Thiện) từ đời Lý nhân Tông (1027 - 1127);
23 2. Những tập truyện ký từ cuối đời Lý qua đầu đời Trần dựa
24 vào tập Ký sự của Đổ Thiện nhƣ những truyện viết bởi các nhà tu
25 hành trong các chùa tự, đình miếu (thƣờng đƣợc gọi là chuyện cổ dân
26 gian hay tục truyền) kể cả các tập truyện VĐUL và LNCQ
27 3. Quốc Triều Thông Chế, 20 quyển và Quốc Triều Thƣờng Lễ,
28 10 quyển. Tất cả đƣợc soạn xong vào năm 1230 đời Trần Thái Tông.
29 4. Việt Chí hay Việt Sử Lƣợc (1225-1558).

30 Nhiều ngƣời khảo cứu về thƣ tịch cổ Việt Nam đã bàn luận rất
31 nhiều về mối liên hệ giữa Đại Việt Sử Ký do Lê Văn Hƣu biên soạn
32 với những loại văn tịch ở thời đó. Việc làm nầy không có ích lợi thực
33 tiễn bởi vì tất cả những thƣ tịch mà họ đƣa ra nhất định là phải xuất
34 hiện thứ tự trƣớc sau theo thời gian dù có hay không có Lê Văn Hƣu.
35 Vấn đề ở đây là mức xác tín có thể chấp nhận đƣợc về những gì đƣợc
36 viết ra trong các loại thƣ tịch đó. Có một điều không thể phủ nhận
37 đƣợc là ngay cả những việc xảy ra trong các triều đại phong kiến Việt
38 Nam do những ngƣời Việt Nam dù có học, có liêm sĩ nhƣng vì bị một
39 áp lực nào đó phải ghi lại hằng hà sa số điều che lắp sai sự thật huống
40 hồ lại là những chuyện cổ tích xa xƣa đầy dẫy tính cách quái đản dị
41 đoan phản khoa học mà phần lớn do ngoại bang từ Bắc phƣơng phổ
42 cập trong dân gian bằng giấy bút hoặc bằng lời phao đồn truyền

VSTK - 59
1 miệng qua trung gian của những ngƣời tu hành kém đức hạnh và đầy
2 tham vọng.
*
3 Khi đƣợc lệnh soạn ĐVSK, Lê Văn Hƣu chịu hai áp lực:
4 1/- Áp lực ngoại hƣớng tức là áp lực của nhà vua, ngƣời ra lệnh
5 cho Lê Văn Hƣu soạn sử.
6 2/- Áp lực nội tại do hệ tƣ tƣởng Nho giáo bắt đầu phát triển mạnh,
7 đối chọi với Phật giáo và Đạo giáo.

8 A) Lê Văn Hƣu soạn sử dƣới áp lực của nhà vua:

9 Nếu Trần Cảnh cũng là một ngƣời do thần linh tạo ra thì Lê Văn
10 Hƣu sẽ viết theo đƣờng lối nào? Thân thế của Trần Cảnh (vua đầu tiên
11 của nhà Trần tức Trần Thái Tông) đƣợc viết trong ĐVSKTT nhƣ sau :
12 Họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu chính
13 triều Lý (hầu cận) , được Chiêu Hoàng nhường ngôi . . . .
14 Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người
15 Quế Lâm), có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc (sau nầy là xã
16 Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), phủ Thiên Trường, sinh ra
17 Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua
18 là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần,
19 Kiến Gia thứ 8 triều Lý (tức là năm 1218, năm sinh của Trần Cảnh).
20 Vì có chú họ là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ, nên vua được
21 vào hầu trong cung. Chiêu Hoàng thấy vua thì ưa (ĐVSKTT/BK5/
22 1a). KĐVSTGCM cũng chép tƣơng tự nhƣ thế .
23 So sánh giữa Lý Công Uẩn và Trần Cảnh thì thấy rõ rệt nét khác
24 biệt về thân cách:
25 Một ngƣời xuất thân từ dòng giống con thần cháu thánh, là con
26 trời, số phải làm vua, còn một ngƣời từ hạng thứ dân lao động lam lũ
27 từ dƣới thấp nhoi lên quyền cao tột đỉnh. Cả hai giống nhau ở một
28 điểm: tiếm ngôi của ngƣời khác mà không phải mất một giọt máu; cả
29 hai, kẻ dùng chƣớc quỷ, ngƣời dùng mƣu gian để đạt mục tiêu và
30 thành công. Cả hai đều có một ngƣời già giặn đầy kinh nghiệm đứng
31 sau lƣng để bày mƣu thâm hiểm, dâng kế xảo quyệt, xúi giục giựt
32 dây: Công Uẩn có Vạn Hạnh, Trần Cảnh có Thủ Độ; Vạn Hạnh và
33 Thủ Độ là những nhà đạo diễn đại tài ma mảnh trong tấn tuồng phản
34 loạn cƣớp ngôi.
35 Một bên thì đoạt quyền ra mặt rồi vì e sợ dƣ luận cho nên phải
36 bày ra chuyện mua thần bán thánh phản tự nhiên; còn một bên thì
37 ngầm chiếm đoạt bằng cách che đậy dƣới hình thức vợ không có khả
38 năng cai trị nên nhƣờng ngôi cho chồng, trên thực tế có vẻ hợp lý hơn
39 và danh chánh ngôn thuận hơn. Một bên xƣng mình là con thần cháu
40 thánh đƣơng nhiên phải làm vua; còn một bên là dân đen phàm tục

VSTK - 60
1 quá hiển nhiên khó có thể che đậy nên cần phải có chính danh để làm
2 tấm bình phong thay thế.
3 Tuy nhiên sự thay thế không quá dễ dàng bởi vì quần chúng thời
4 đó đã bị nhồi sọ quá lâu, kể từ lúc dƣới ách cai trị của đám Bắc
5 phƣơng, quan niệm vua là con trời hầu nhƣ đã đƣợc đa số dƣ luận
6 chấp nhận. Muốn xoay trở tình thế thì phải chứng tỏ đƣợc rằng quan
7 niệm thiên tử là một quan niệm ngụy tạo mơ hồ không có giá trị.
8 Chứng tỏ bằng cách nào? Chỉ cần không đá động gì tới hoặc nghiêm
9 khắc phê phán hay bỏ đi những dấu vết gợi lại những ý niệm phản
10 khoa học đó. Và đây chính là điều mà Lê Văn Hƣu phải làm khi chép
11 sử theo quan điểm và đƣờng hƣớng của triều đại nhà Trần .
12 Nhƣ vậy, những truyện huyền hoặc quái đản trong các thƣ tịch
13 đƣơng thời để thỏa mãn bản chất kiêu căng tự tôn tự đại cá nhân
14 muốn sánh ngang vai vế với đám vua chúa Bắc phƣơng hoặc là để
15 lấp liếm che dấu thân thế của một cá nhân hay gia phả của một triều
16 đại, tất cả sẽ bị loại bỏ; nếu cần sao chép lại thì nhất định phải có
17 những lời phê phán gắt gao nhằm mục đích vạch trần những điểm u
18 dốt trá ngụy. Đƣa đến một hệ quả đƣơng nhiên là Kỷ Hồng Bàng -
19 Thục Phán không có trong ĐVSK do Lê Văn Hƣu tu soạn dƣới triều
20 đại nhà Trần .

21 B) Lê Văn Hƣu chép sử với vị thế của một nhà Nho :

22 Qua những đoạn viết phê luận của Lê Văn Hƣu ngƣời ta có thể
23 thấy đƣợc ông là một ngƣời thẳng thắn không nịnh hót bợ đỡ, khách
24 quan không thiên vị, có tinh thần khoa học không tin những điều xằng
25 bậy, chống đối dị đoan mê tín.

26 Về việc Triệu Đà chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xƣng đế một phƣơng,
27 muốn ngang hàng với nhà Hán, Lê Văn Hƣu phê luận nhƣ sau :
28 Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành
29 phong tục mặc áo đi mũ, đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể
30 lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là
31 bậc vua giỏi trong Ngũ đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua
32 hiền trong Tam đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất
33 rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế
34 khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà
35 Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho
36 nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước
37 Việt sau nầy nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập
38 việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng
39 nhân, thì giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại
40 ngấp nghé được. (ĐVSKTT/NK.2/ 8 a ,b)

VSTK - 61
1 Những lời nói trên đây của Lê Văn Hƣu cần phải đƣợc hiểu là một
2 sự nhận định và đánh giá một sử kiện thuộc về quá khứ dƣới nhản
3 quan của một nhà Nho trung thực có sĩ khí, không dua nịnh bợ đỡ,
4 không lơ lửng lừng chừng. Không ca tụng mù quáng nhân vật Triệu
5 Đà nhƣng Lê Văn Hƣu gợi lên một điểm: Triệu Đà là mầm móng đầu
6 tiên có tác dụng khơi dậy ý thức độc lập tự chủ đang nằm ngủ yên
7 trong tiềm thức của ngƣời dân Âu Lạc ở về phía Nam nƣớc Trung
8 Hoa. Đối với lịch sử của Trung Hoa, Triệu Đà là một tên phản tặc,
9 đối với lịch sử của Âu Lạc thì Triệu Đà trƣớc sau vẫn là một kẻ
10 đại diện của thế lực thực dân phƣơng Bắc. Dù chỉ là một tên
11 huyện lệnh tầm thƣờng hay là một vƣơng bá hùng cứ một phƣơng
12 thì chân tƣớng thực dân của Triệu Đà vẫn không thể nào che dấu
13 nỗi dƣới con mắt của ngƣời dân Âu Lạc đang bị ách thực dân
14 Trung Hoa thống trị ở thời đó.

15 Những chuyện giành giựt cát cứ, chia đất cắt vùng, tranh bá đồ
16 vƣơng, qua phân thiên hạ là những chuyện nội bộ của đám thực dân
17 Trung Hoa và Triệu Đà nhờ mƣu mô khôn khéo cho nên đã thành
18 công trong việc thành lập một kiểu triều đình thực dân "con" riêng
19 cho mình tách rời khỏi triều đình thực dân "mẹ" ở bên Trung Hoa.
20 Nhƣ vậy, nếu Triệu Đà có thể làm loạn để ra riêng một mình đƣợc
21 thì ngƣời dân Âu Lạc bị trị cũng có thể bắt chƣớc theo gƣơng Triệu
22 Đà để vùng lên đánh đuổi bọn đế quốc thực dân dành lại tự do, độc
23 lập, tự chủ và nếu thành công thì công của Triệu Đà quả thật là to
24 lắm! Đây mới đúng là ngụ ý mà Lê Văn Hƣu thực sự muốn nói; Lê
25 Văn Hƣu không ngộ nhận coi họ Triệu nhƣ một triều đại của ngƣời
26 Âu Lạc, Lê Văn Hƣu tán tụng công lao của Triệu Đà không phải vì
27 Triệu Đà là ân nhân của dân tộc Việt Nam. Công lao to tác của Triệu
28 Đà chỉ là một lối trích dẫn của Lê Văn Hƣu có ngụ ý mỉa mai hơn là
29 một nghĩa cử tuyên xƣng biết ơn.
30 Ngƣời ta đã hấp tấp phê phán gay gắt Lê Văn Hƣu và những
31 ngƣời nối tiếp Lê Văn Hƣu là sai lầm khi dành riêng một Kỷ để chép
32 về họ Triệu. Kỷ chỉ là một móc thời gian giống nhƣ thời kỳ, giai đoạn,
33 ở vào một thời điểm nào đó. Thử không dùng kiểu viết "kỷ Nhà Triệu
34 Đà " nhƣng lại viết theo kiểu " Thời kỳ từ năm Giáp Ngọ đến năm
35 Bính Thìn" thì sao? Có lẽ phải giỏi độn giáp bói số lắm thì mới suy ra
36 đƣợc năm Giáp Ngọ là một trong những năm 387 TCN, 327 TCN,
37 267 TCN, 207 TCN, 147 TCN, 87 TCN, vân . . .vân . . .và năm Bính
38 Thìn cũng thế. Thời đó chƣa biết dùng dƣơng lịch, vậy nếu xác định
39 đƣợc năm Nhâm Ngọ và năm Bính Thìn rồi thì phải viết thế nào để
40 ngƣời đọc biết đƣợc móc thời gian những sự việc xảy ra trong giai
41 đoạn đó?
42 Còn nữa, đem Triệu Đà và con cháu của nhân vật nầy vào quốc sử
43 không đồng nghĩa với một sự phê chuẩn công nhận họ là một triều đại

VSTK - 62
1 của dân tộc Lạc Việt. Kỷ nhà Triệu cần đƣợc chép lại trƣớc hết là vì
2 lãnh thổ riêng của Lạc Việt đang nằm trong vùng đất chiếm cứ của
3 Triệu Đà và hơn hết ảnh hƣởng của sự làm loạn nổi dậy của Triệu Đà
4 đối với Lê Văn Hƣu có thể là một mẫu gƣơng hay ít nữa cũng là một
5 mầm móng khởi đầu đánh thức tinh thần yêu nƣớc, ý thức dân tộc Âu
6 Lạc đang bị chìm đắm ru ngủ triền miên từ hằng ngàn năm về trƣớc.
7 Về Sĩ Nhiếp cũng thế. Không có sự ngộ nhận nhƣng là một thực
8 tế mà bất cứ một nho sĩ nghiêm minh nào cũng có bổn phận phải
9 ghi lại dù ngƣời Thầy đó là Tây, Trung Hoa hay Ấn độ: dạy cho
10 một chữ cũng đã là thầy rồi ! Có lẽ ít có ai phủ nhận điều nầy.
11 Trong Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thời Sĩ đã kịch liệt phê phán nhƣ
12 sau: "Đến như việc tán tụng công lao của Triệu Đà đã xướng ra cơ
13 nghiệp đế vương trước tiên, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế,
14 Ngô Sĩ Liên tiếp tục theo kiểu đó không sửa đổi, rồi Lê Tung trong bài
15 Tổng Luận, Đặng Minh Khiêm làm thơ vịnh sử cứ thay nhau mà đê`
16 cao Triệu Đà là vua chúa của nước ta. Trải qua hằng ngàn năm
17 không ai cải chính, vì thế tôi phải biện bạch kỹ càng". (VSTA/Ngô
18 Thời Sĩ).
19 Những ngƣời chép sử thời Tây Sơn đã đồng ý chấp nhận quan
20 điểm nầy của Ngô Thời Sĩ. Một số ngƣời khảo sử gần đây cũng có
21 những nhận xét tƣơng tựa nhƣ Ngô Thời Sĩ. Tuy nhiên chính những
22 ngƣời đi sau Lê Văn Hƣu mới đáng gọi là mờ mịt hấp tấp hiểu lầm tƣ
23 tƣởng của Lê Văn Hƣu.
24 Ngoài ra, khi dùng Triệu Đà là một mẫu gƣơng, Lê Văn Hƣu đã
25 cho thấy hoài bảo và sự băn khoăn bứt rứt của một nhà nho cho nền
26 độc lập tự chủ của đất nƣớc. Sự băn khoăn bứt rứt nầy rõ rệt hơn khi
27 Lê Văn Hƣu nói về hai chị em Trƣng Trắc và Trƣng Nhị: Lê Văn Hƣu
28 nói: "Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận
29 Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều
30 hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể
31 thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng
32 nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, vào khoảng trên một nghìn
33 năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu, bó tay, làm tôi tớ cho người phương
34 Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi
35 ! Có thể xem như tự mình tiêu diệt lấy mình vậy".
36 Trong tin thần đó, sự khởi đầu nền quốc thống cho một triều đại
37 vƣơng quyền đƣợc Lê Văn Hƣu nhắc tới một cách tự hào trân trọng
38 không thuộc về những triều đại hoang đƣờng của họ Hồng Bàng, của
39 Thục Phán, của Triệu Đà, của Sĩ Nhiếp nhƣng chính là triều đại Đinh
40 Tiên Hoàng, một nền quốc thống thực sự, chính thức, tiên khởi của
41 đất nƣớc Việt Nam thời đó.
42 Lê Văn Hƣu nói: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn
43 người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có
44 chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân

VSTK - 63
1 phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan,
2 đặt sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại
3 sinh ra bật thánh triết để tiếp nối (theo sau) quốc thống của Triệu
4 Vương chăng?"

5 Tóm lại, khi soạn bọ Đại Việt Sử Ký Lê Văn Hƣu chịu ảnh hƣởng
6 của hai nguồn áp lực :

7  Áp lực ngoại hƣớng, tức là áp lực từ nhà vua, ngƣời ra lệnh


8 cho Lê Văn Hƣu soạn sử; vì thế những dấu vết nào trong các thƣ tịch
9 hay sử sách cũ đƣợc viết nhằm trau chuốt, tâng bốc thế phá của những
10 triều đại đi trƣớc nhƣng xét thấy có hại cho thể thống của triều đại
11 mới thì Lê Văn Hƣu không đƣợc chép lại;

12  Áp lực từ hệ tƣ tƣởng Nho giáo vào lúc nầy bắt đầu phát
13 triển mạnh, đối chọi với Phật giáo và Đạo giáo đang thịnh hành:
14 những trò dối trá, những chuyện mê tín dị đoan, những chuyện thần
15 ma rồng rắn quái dị phản khoa học dƣới nhãn hiệu Truyện dân gian
16 hoặc Dã Sử, tất cả những thứ nhảm nhí đó không thể nào dung hợp
17 với một nhà nho có sĩ khí nhƣ Lê Văn Hƣu. Vì thế, kỷ Hồng Bàng, kỷ
18 Thục Phán dù trƣớc đó đã đƣợc chép lại trên giấy mực hay đã đƣợc kể
19 lại theo tục truyền thì Lê Văn Hƣu cũng không thể hùa theo để lặp lại
20 trong tiến trình biên soạn quốc sử của mình.
21 Thời phong kiến, áp lực của nhà vua thƣờng là một thứ áp lực
22 tuyệt đối một chiều, ít khi dung hợp đƣợc với sĩ khí của các nho quan.
23 Tuy nhiên ở đây, do một hoàn cảnh đặc biệt, áp lực đó lại biến thành
24 một trợ lực hổ tƣơng, thích hợp cho một nho sĩ viết sử nhƣ Lê Văn
25 Hƣu. Vì thế, Đại Việt Sử Ký do Lê Văn Hƣu biên soạn mới đƣợc vua
26 xuống chiếu khen ngợi (BK5/33a,33b).
27 Lê Văn Hƣu mất vào năm Nhâm Tuất (1322).

28 Năm 1455, Lê Nhân Tông sai Phan Phu Tiên soạn tiếp từ Trần
29 Thái Tông cho đến khi giặc Tàu nhà Minh bị đánh đuổi chạy về xứ
30 tức là trong giai đoạn từ năm 1226 đến năm 1427 (ĐVSKTT/BK11/
31 90a). Theo Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú thì bộ sử do Phan Phu Tiên
32 biên soạn gồm 10 quyển. Nhƣ thế, quốc sử vào thờì của Lê Nhân
33 Tông gồm có bộ sử nguyên vẹn Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hƣu và
34 bộ sử viết nối tiếp theo là Sử Ký Tục Biên (tên gọi theo Lê Quý
35 Đôn và Phan Huy Chú) 10 quyển của Phan Phú Tiên cũng có nghĩa là
36 trong bộ quốc sử cho tới lúc nầy vẫn không có kỷ Hồng Bàng và kỷ
37 Thục Phán.

VSTK - 64
1 Ở đây vẫn còn một nghi vấn mà đến nay vẫn chƣa thể giải đáp:
2 nếu thật sự Phan Phu Tiên chỉ viết nối thêm thì bộ quốc sử vào đời Lê
3 Nhân Tông gồm cả thảy là 40 quyển. Con số 30 quyển của bộ Đại
4 Việt Sử Ký do Lê Văn Hƣu biên soạn đã khiến cho nhiều ngƣời khi
5 nghiên cứu về thƣ tịch cũ của Việt Nam phải thắc mắc và đặt nghi
6 vấn. Trong khi đa số những ngƣời nầy đã mò mẫm quanh co tốn công
7 vô ích để tìm xem Lê Văn Hƣu có hay không có dựa vào tài liệu sử
8 sách đƣơng thời để viết ĐVSK thì một ngƣời Nhật cho rằng bộ sử đó
9 của Lê Văn Hƣu không có quá 9 quyển mà cũng rất có thể chỉ có 3
10 quyển mà thôi (Yamamoto Tatsuru, Việt Sử Lƣợc và Đại Việt Sử Ký,
11 Đông Dƣơng học báo số tháng 4/ 1932, trang 62-63, do một ngƣời
12 Hoa là Trần Kim Hoà trích dẫn trong bài viết có tên là Đại Việt sử ký
13 toàn thƣ chi soạn tu dữ truyền bản).
14 Gần đây có ngƣời lại viết rằng: "Vì các thư tịch cũ Việt Nam đều
15 chép ĐVSK của Lê Văn Hưu gồm có 30 quyển cho nên không thể phủ
16 nhận được những ghi chép thống nhất trong thư tịch Việt Nam". Các
17 loại thƣ tịch cũ nếu kê khai đầy đủ ở đây thì nhất định phải là tất cả
18 những loại thƣ tịch ra đời sau ĐVSK của Lê Văn Hƣu nhƣ: VSCM
19 của Hồ Tông Thốc, ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, ĐVTG của Vũ
20 Quỳnh, VIỆT SỬ KHẢO GIÁM của Nguyễn Địch Tâm, ĐVTGTL
21 của Lê Tung, Việt Sử Toàn Thƣ Bản Kỷ Tục Biên của Phạm Công
22 Trứ, Sử Ký Tục Biên của Lê Hy, KĐVSTGCM của Quốc sử Quán
23 triều Nguyễn. Trong số đó chỉ có ĐVSKTT và KĐVSTGCM đƣợc in
24 thành sách và có viết rõ ràng con số 30 quyển. Nghệ Văn Chí của Lê
25 Quý Đôn và LTHCLC của Phan Huy Chú đều ghi là 30 quyển.
26 Viết kiểu nhƣ thế là viết buông xuôi, viết cho xong chuyện không
27 giúp ích đƣợc gì thêm để giải quyết vấn đề. Hơn nữa, chắc gì những
28 thƣ tịch cổ Việt Nam mà ngƣời viết đƣa ra nhƣ ĐVSKTT, VSTGCM,
29 Nghệ Văn Chí của Lê Quý Đôn, Văn Tịch Chí của Phan Huy Chú có
30 một mức độ khả tín có thể chấp nhận đƣợc? Cũng ngƣời nầy lại đƣa
31 ra một bản tóm lƣợc quá trình tu soạn của bộ ĐVSKTT từ Lê Văn
32 Hƣu (1272) cho đến lúc đƣợc in ra (1697) trong đó phần đóng góp của
33 Lê Văn Hƣu đƣợc ghi nhƣ sau:

34 Phần Ngoại Kỷ toàn thƣ:


35 Quyển 1: do Ngô Sĩ Liên biên soạn (1479) [ĐVSKTT ]
36 Quyển 2, quyển 3, quyển 4, quyển 5: do Lê Văn Hƣu biên soạn
37 (1272) [ĐVSK ]

38 Phần Bản kỷ toàn thƣ:


39 Quyển 1, 2, 3, 4: do Lê Văn Hƣu biên soạn
40 Quyển 5 đến quyển 9: do Phan Phu Tiên biên soạn (1455) [SKTB ]

VSTK - 65
1 Bản tóm lƣợc nầy cho thấy là trong bản ĐVSKTT đƣợc in vào
2 năm 1679, rõ ràng là ĐVSK của Lê Văn Hƣu chỉ có 8 quyển mà
3 thôi, không phải 30 quyển. Vậy, con số 30 nầy từ đâu ra? Ngƣời nào
4 đã viết con số đó vào ĐVSKTT và viết vào lúc nào ?
5 Ngô Sĩ Liên ngƣời đầu tiên sửa đổi bộ ĐVSK của Lê Văn Hƣu và
6 bộ SKTB của Phan Phu Tiên nhƣng lại không thấy Ngô Sĩ Liên nói gì
7 về cấu trúc và số lƣợng của 2 bộ sử nầy.
8 Có một khác biệt là con số 10 quyển của Phan Phu Tiên không
9 thấy đƣợc kê khai trong ĐVSKTT nhƣ con số 30 quyển của Lê Văn
10 Hƣu mà chỉ viết: "Ất Hợi, [Diên Ninh] năm thứ 2, (1455), (Minh
11 Cảnh Thái năm thứ 6). Sai Phan Phu Tiên soạn bộ Đại Việt Sử Ký, từ
12 thời Trần Thái Tông đến khi ngƣời Minh về nƣớc (ĐVSKTT/BK
13 /Q.11/90a). Không hiểu năm 1455 là năm khởi sự viết hay là năm đã
14 hoàn tất việc biên soạn? LTHCLC cũng chép b sử SKTB của Phan
15 Phu Tiên gồm có 10 quyển.
16 KĐVSTGCM lại viết: "Ất Hợi, năm thứ 2. (Minh, năm Cảnh Thái
17 thứ 6). Sai Quốc tử bác sĩ Phan Phu Tiên sửa lại (nguyên văn là tu)
18 bộ Việt sử (Sử cũ không chép tháng). Bộ Việt sử nầy chép từ đời Trần
19 Thái Tông (1225-1257) đến lúc người Minh rút về nước (1427), gồm
20 10 quyển"(KĐVSTGCM/ChB/Q 18).

21 Có 4 thƣ tịch cũ cần lƣu ý:


22 4. ĐVSKTT đƣợc in vào năm 1679,
23 2. Vân Đàm Loại Ngữ của Lê Quý Đôn. Năm sinh của Lê Quý
24 Đôn là 1726,
25 3. LTHCLC của Phan Huy Chú: bắt đầu soạn năm 1809, hoàn
26 thành năm 1819,
27 4. KĐVSTGCM: bắt đầu soạn năm 1856, soạn xong năm 1881, in
28 năm 1884.
29 Nhƣ vậy, nếu con số 30 quyển của ĐVSK đƣợc Lê Quý Đôn đề
30 cập tới thì nhất định là đã chép từ ĐVSKTT.
31 Đến lƣợt Phan Huy Chú thì nó có thể đƣợc chép thẳng từ
32 ĐVSKTT mà cũng có thể là sao chép lại từ Lê Quý Đôn.
33 Sau cùng là những nhà viết sử ở triều Nguyễn đã tham chiếu cả ba
34 thƣ tịch vừa kể để đem con số 30 quyển đó vào KĐVSTGCM.

35 Có thể là từ Lê Văn Hƣu kéo dài xuống tới Lê Hy có một nguồn


36 thƣ tịch nào đó rất gần gũi hoặc ở vào cùng một thời điểm với bộ sử
37 cuả Lê Văn Hƣu khiến cho ngƣời sau phải lầm lẫn lấy số lƣợng của
38 nguồn thƣ tịch đó để gán ghép cho vào bộ sử của Lê Văn Hƣu hoặc là
39 bộ sử của Lê Văn Hƣu đã đƣợc ghi chép nhƣ là một trong những đề
40 mục của một bộ thƣ tịch nào đó gồm có 30 quyển. Căn cứ vào đâu
41 để đƣa ra giả định nhƣ thế?

VSTK - 66
1 Trƣớc hết, các quan lại thời phong kiến giữ nhiệm vụ ghi chép tất
2 các công việc của vua chúa và triều đình đã dùng phƣơng pháp biên
3 niên để ghi chép. Theo phƣơng pháp nầy thì tất cả mọi sự kiện tạp loại
4 đều đƣợc trình bày sắp xếp theo tuần tự thời gian. Những việc khác
5 nội dung, không liên hệ gì với nhau đƣợc chép chung với nhau vào
6 làm một. Những việc đó đƣợc chép chung chỉ vì một lý do duy nhất:
7 đã xảy ra cùng trong một ngày, một tháng hoặc một năm.
8 Bài tựa của Lê Quý Đôn trong Lê Triều Thông Sử đã viết về
9 phƣơng pháp đó nhƣ sau: "Nước Việt ta từ dựng nước đặt quan làm
10 sử, nối tiếp nhau đều dùng thể biên niên ký sự như sử đời Lý của Lê
11 Văn Hưu, sử đời Trần của Phan Phu Tiên. . ." (Trích dẫn từ
12 LTHCLC/Văn Tịch Chi/Lê Triều Thông Sử/Tựa/ Lê Quý Đôn). Phan
13 Huy Chú cũng xét luận về cách ghi chép theo lối biên niên nhƣ sau:
14 "Xét: Thể thức làm sử, không có truyện chí thì không thể chép được
15 đầy đủ. . . .Sử cũ nước ta chỉ dùng thể biên niên, công việc các triều
16 chỉ chép tóm tắt, cho nên đầu đuôi việc duyên cách, gốc ngọn việc
17 thành bại, khó lòng khảo cứu, cả đến điển chương chế độ cũng không
18 khảo chứng vào đâu được"(LTHCLC/Văn Tịch Chí/ Lê Triều Thông
19 Sử ).
20 Nhƣ đã đề cập, trong niên hiệu Kiến Trung thứ 6 đời Trần Thái
21 Tông/ 1230, ĐVVSKTT có 2 đoạn viết nhƣ sau:
22 "Mùa Xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn
23 thành Quốc triều thông chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20
24 quyển" và: "Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường
25 lễ, 10 quyển " (BK5/ 6a).
26 KKĐVSTGCM cũng ghi việc soạn Sách Thông Chế . . ., tất cả 20
27 quyển nhƣng không đề cập tới 10 quyển của bộ Quốc triều thƣờng lễ.
28 LTHCLC của Phan Huy Chú cũng gọi là Quốc triều thông chế, 20
29 quyển; còn Quốc triều thƣờng lễ thì gọi là Kiến trung thƣờng lễ, 10
30 quyển.
31 Theo ĐVSKTT, " năm 1272 Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong
32 bộ ĐVSK từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng
33 lên, vua xuống chiếu khen ngợi" có nghĩa là thời gian nhận sắc chỉ để
34 khởi đầu công tác biên soạn nhất định phải là một khoảng thời gian
35 trƣớc 1272, trong lúc Lê Văn Hƣu giữ chức vụ Quốc sử viện giám tu.

36 Khảo xét các luật lệ của triều trƣớc, sửa đổi hình luật lễ nghi, chép
37 công việc của quốc triều, 3 công tác nầy nhất định phải là những công
38 tác lâu dài bắt đầu từ năm 1230 nhƣng không thấy ghi thời gian hoàn
39 tất. Tuy nhiên, ở năm 1244 ĐVSKTT ghi rằng: "Định các cách thức
40 về luật hình" tức là chỉ có 1 trong 3 công tác kể trên đƣợc hoàn tất vào
41 năm 1244 (Khảo xét các luật lệ của triều trƣớc và sửa đổi hình luật).
42 Vào lúc Lê Văn Hƣu đỗ bảng nhãn năm 1247 rồi giữ chức vụ Kiểm
43 pháp quan (kiểm soát luật pháp) thì 2 công tác sửa đổi lễ nghi và chép

VSTK - 67
1 công việc của quốc triều vẫn còn tiếp tục tiến hành và Lê Văn Hƣu dù
2 là ngƣời đến sau chắc phải có tham dự một phần nào vào 2 công tác lở
3 dở nầy rồi tiếp sau đó mới bắt đầu tu soạn bộ ĐVSK để rồi hoàn
4 thành cùng một lúc tất cả các công tác vào năm 1272. Với phƣơng
5 pháp ghi chép biên niên, rất có thể những quyển sử của Lê Văn Hƣu
6 đã đƣợc nhập đem chung vào trong tổng số 30 quyển của 2 bộ Quốc
7 triều thông chế (20 quyển) và Quốc triều thƣờng lễ (10 quyển) .
8 KĐVSTGCM không đề cập tới 10 quyển Quốc triều thƣờng lễ mà
9 lại ghi nhƣ sau: "Canh Dần năm thứ 6 (1230), tháng 3, mùa xuân.
10 Định thể lệ làm ra sách Thông Chí và các sách chép về việc hình, việc
11 lễ."
12 Đó là đoạn viết trong phần Cƣơng; trong phần Mục (Mục có nghĩa
13 là chi tiết) viết tiếp: "Khảo cứu các lệ luật đời trước, định thể lệ làm
14 ra sách Thông Chế, và sửa đổi các sách hình luật, lễ nghi, tất cả 20
15 quyển". Từ đó đƣa ra 2 suy đoán :
16 1. Hoặc là từ năm 1230 đến 1244 bộ Quốc triều thông chế và
17 thƣờng lễ (gộp chung chứ không tách riêng) đƣợc soạn xong, tất cả
18 chỉ có 20 quyển ;
19 2. 10 quyển Quốc triều thƣờng lễ theo ĐVSKTT (hay Kiên trung
20 thƣờng lễ theo LTHCLC) có thể là 10 quyển ĐVSK của Lê Văn Hƣu .
21 Sau cùng, trong lời chua nói về Sử Sách, KĐVSTG viết: "Theo
22 phần Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
23 Huy Chú thì từ đời Trần trở về trước, các đời thường có điển chương
24 và sử sách :
25 Quốc triều thông lễ 10 quyển Trần Thái Tông
26 Kiến trung thường lễ 10 quyển Trần Thái Tông
27 Đại Việt Sử Ký 30 quyển (?) Lê Văn Hưu. . . . . .
28 . . . . . . . . . . . . . Những sách kê trên mà người Minh tịch thu mất, nay
29 không biết nội dung ra sao".
30 Con số 30 quyển ĐVSK của Lê Văn Hƣu có thể là một sự suy
31 đoán nhập chung vào số thƣ tịch đƣợc soạn cùng thời với bộ ĐVSK:
32 có thể do Ngô Sĩ Liên khởi đầu và viết ra trên ĐVSKTT rồi những
33 ngƣời kế tiếp cứ để nguyên nhƣ thế hay nói khác đi, bộ sử của Lê
34 Văn Hƣu chỉ có 10 quyển mà thôi nhƣng vì bị phƣơng Bắc cƣớp
35 mất không còn dấu vết gì trong sách sử ở nƣớc Việt Nam cho
36 nên các ngƣời viết sử, bắt đầu từ Ngô Sĩ Liên rồi đến những ngƣời
37 chép sử về sau, đã suy định và chấp nhận là bộ sử ĐVSK của Lê
38 Văn Hƣu gồm có 30 quyển.
39 Có thể tóm lƣợc phần kê cứu nầy nhƣ sau :

40  Lê Văn Hƣu không đƣa kỷ Hồng Bàng-Thục Phán vào ĐVSK


41 là vì chịu ảnh hƣởng của hai nguồn áp lực tƣơng hổ nhau :
42 a/ Áp lực của Trần Thái Tông ,
43 b/ Áp lực của hệ tƣ tƣởng Nho giáo.

VSTK - 68
1  Con số 30 quyển ĐVSK của Lê Văn Hƣu đƣợc liệt kê trên
2 ĐVSKTT là một con số suy đoán tổng gộp đáng dị nghị.

Hồ Tông Thốc với Việt Sử Cƣơng Mục

3 Kế tiếp Lê Văn Hƣu là Hồ Tông Thốc, tác giả bộ Việt Sử Cƣơng


4 Mục và Việt Nam Thế Chí . Có 2 điểm cần nêu ra :
5 1/ VSCM gồm có 10 quyển ,
6 2/ VNTC gồm có 2 quyển chép thế phả của 18 đời họ Hồng Bàng
7 và họ Triệu.
8 Rõ ràng là cho đến giai đoạn nầy kỷ Hồng Bàng và Thục Phán
9 cũng không đƣợc Hồ Tông Thốc đƣa vào chính sử nhƣng lại chép
10 riêng ra trong VNTC.
11 VSCM chép gì thì không thấy nói, chỉ nghe Ngô Sĩ Liên khen ngợi
12 trong bài tựa ĐVSKTT. Đây có thể là một công tác tu sửa và soạn lại
13 bộ sử của Lê Văn Hƣu mà cũng có thể là một công tác biên soạn mới
14 từ đời Trần Thái Tông đến khi quân Minh bị đuổi về nƣớc (1226-
15 1427). Vì thế cho nên VSCM của Hồ Tông Thốc chỉ có 10 quyển.
16 Điều nầy càng củng cố thêm sự suy đoán đã viết ở phần trên: ĐVSK
17 của Lê Văn Hƣu gồm có 10 quyển chứ không phải là 30 quyển.

Phan Phu Tiên với Sử Ký Tục Biên

18 Đổ Thái học sinh (Tiến sĩ) vào khoa thi cuối cùng của nhà Trần
19 (Trần Thuận Tông/1388-1398) vào lúc Lê (Hồ)Quý Ly làm Phụ chính
20 Thái sƣ. Theo LTHCLC/ Phan Huy Chú thì khoa thi Thái học sinh
21 cuối cùng ở đời Trần là đời vua Trần Thuận Tông, năm Quang Thái
22 thứ 6, tháng 2 tức là năm 1393. (LTHCLC/Khoa Mục Chí đời
23 Trần/Phan Huy Chú). Năm 1455, Lê Nhân Tông sai Phan Phu Tiên
24 soạn Sử Ký Tục Biên (tên gọi theo LTHCLC/Phan Huy Chú) giai
25 đoạn từ 1226 đến 1427 tức là chép từ đời Trần Thái Tông đến khi
26 quân Minh bị đánh đuổi về nƣớc (BK11/ 90a). Theo Lê Quý Đôn và
27 Phan Huy Chú thì bộ sử của Phan Phu Tiên gồm có 10 quyển. Trong
28 ĐVSKTT không thấy ghi con số 10 quyển nầy.
29 KĐVSTGCM lại ghi: Ất Hợi, năm thứ 2 (1455). Sai Quốc tử bác sĩ
30 Phan Phu Tiên sửa lại bộ Việt sử (Sử cũ không chép tháng)".
31 Bộ Việt sử chép từ đời Trần Thái Tông (1225-1257) đến lúc ngƣời
32 Minh rút về nƣớc (1427), gồm 10 quyển (CB /Q.18 / 29). Sửa lại bộ
33 Việt Sử chứ không phải soạn nhƣ ĐVSKTT đã viết mà cũng không

VSTK - 69
1 phải chép tiếp nhƣ Ngô Sĩ Liên đã viết trong lời tựa của mình. Sửa lại
2 bộ Việt Sử ở đây có thể là sửa lại bộ Việt Sử Cƣơng Mục của Trần
3 Tông Thốc đã soạn trƣớc đó thành bộ Sử Ký Tục Biên.
4 Nhƣ vậy có thể suy định rằng phần biên soạn của Hồ Tông Thốc
5 trong VSCM là phần kế tục bộ sử của Lê Văn Hƣu và soạn chép từ
6 đời Trần Thái Tông cho tới lúc quân Minh chạy về nƣớc (1225-1427).
7 Phan Phu Tiên chỉ tu soạn chứ không ghép thêm gì vào bộ SKTB
8 tức là trong bộ sử mới nầy vẫn chƣa có kỷ Hồng Bàng và kỷ Thục
9 Phán.
10 Năm 1455 (Lê Nhân Tông/1443-1459) là năm Phan Phu Tiên bắt
11 đầu công tác tu soạn nhƣng sử sách, thƣ tịch cũ chẳng thấy nói gì về
12 thời gian hoàn tất bộ sử .

13 Bộ sử của Phan Phu Tiên cũng không đƣợc chính thức chấp nhận
14 bởi các triều đại Trần, Lê. Tại sao ?

15 Quá trình làm quan của Phan Phu Tiên trải qua nhiều giai đoạn :

16 Giai đoạn 1: Đời Trần từ năm 1396 đến năm 1400 (Trần Thuận
17 Tông/1388-1398 và Trần Thiếu Đế/1398-1400).
18 Giai đoạn 2: Dƣới thời họ Hồ tiếm ngôi nhà Trần từ 1400 đến
19 1407 (Hồ Quý Ly / 1400-1401 và Hồ Hán Thƣơng / 1401-1407);.
20 Giai đoạn 3: Dƣới thời Hậu Trần từ năm 1407-1413 (Trần Triệu
21 Cơ Giản định Đế và Trần Quý Khoách) và thời thuộc nhà Minh 1414-
22 1427.
23 Giai đoạn 4: Đời nhà Lê :
24  Từ 1429 đến 1459,
25  Nghi Dân tiếm ngôi (1459-1460) ,
26  Từ 1460 đến 1479 (Lê Thánh Tông / 1469-1497)

27 Giai đoạn 1: Từ năm 1396 đến năm 1400

28 Lê Quý Ly có hai bà cô đƣợc vua Trần Minh Tông lấy làm cung
29 nhân. Bà chị tên là Minh Từ sinh ra Trần Nghệ Tông, bà em tên là
30 Đôn Từ sinh ra Trần Duệ Tông. Khi mới lên ngôi vua (1370) Trần
31 Nghệ Tông rất tín nhiệm Quý Ly, bổ dụng Lê Quý Ly làm Khu Mật
32 Viện đại sứ và gả em gái là công chúa Huy Ninh cho Quý Ly.Trong
33 mộ thời gian thật ngắn, Quý Ly lại đƣợc thăng chức Trung Tuyên
34 quốc thƣợng hầu.
35 Trong thời gian nầy (tháng Mƣời/ Tân Hợi/ 1371) vua Trần Nghệ
36 Tông đã có quan tu sử là Phan Nghĩa (Soạn Quốc Triều thông chế).
37 Năm 1372 bổ nhiệm Hồ Tông Thốc làm Hàn lâm viện học sĩ. Kế đó
38 Trần Nghệ Tông lên làm thái thƣợng hoàng nhƣờng ngôi vua cho

VSTK - 70
1 Trần Duệ Tông. Năm 1375 Trần Duệ Tông phong cho Quý Ly làm
2 tham mƣu quân sự. (ĐVSKTT/BK/Q.7/ 41b).
3 Năm 1377 Trần Duệ Tông tự mình cầm quân đánh giặc Chiêm
4 Thành, bị địch bao vây và chết trong trận. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu
5 quân không đến cứu lo trốn chạy thoát chết. Quý Ly đốc quân chở
6 lƣơng nghe tin vua bị chết trận liền bỏ trốn về trƣớc. Trần Nghệ Tông
7 lập con trƣởng của Trần Duệ Tông lên nối ngôi vua tức là Trần Phế
8 Đế (1377) . Năm 1379 Phế Đế ban cho Quý Ly chức Tiểu tƣ không
9 kiêm Hành khu mật đại sứ nhƣ cũ. Đố Tử Bình bỏ chạy không cứu
10 vua đƣợc tha tội chết chỉ bị phạt tội đồ làm lính nhƣng sau đó không
11 lâu lại đƣợc Phế Đế trọng dụng trở lại, khi Bình chết (1380) lại đƣợc
12 truy tặng Thiếu Bảo và đƣợc đƣa vào Văn Miếu để cúng thờ. Phan
13 Phu Tiên nói:
14 "Các bậc danh nho các đời nếu có công trạng bài trừ những sự
15 truyền tụng hoang đường dị đoan, giữ được đạo thống thì mới được
16 tòng tự ở Văn Miếu, mục đích là làm sáng tỏ đạo học có ngọn nguồn.
17 . . . . .Đến như Tử Bình là hạng nhảm nhí luồn cúi, tham lam bòn rút
18 của công, là kẻ gian thần phản vua hại nước mà sao lai được xen lẫn
19 vào chỗ đó ?" ( Ghi Chú: Tử Bình ăn cắp rồi dấu ỉm đi 10 mâm vàng
20 của vua Chiêm Thành Chế Bông Nga triều cống cho Trần Duệ Tông
21 rồi tâu láo là Bồng Nga ngạo mạn hỗn xƣợc. Trần Duệ Tông nổi giận
22 mới nhất quyết tự mình cầm quân đánh giặc Chiêm và bị chết tại mặt
23 trận).
24 Năm 1384 Thƣợng hoàng Trần Nghệ Tông cho thi Thái học sinh ở
25 chùa Vạn Phúc núi Tiên Dƣ lấy đỗ 30 ngƣời; năm 1386 Hồ Tông
26 Thốc đƣợc phong Hàn lâm học sĩ phụng chỉ. (ĐVSKTT/BK/QVII/7a,
27 9b)
28 Thấy Quý Ly dựa thế Thƣợng hoàng để tự do thao túng, Trần Phế
29 Đế mƣu định trừ khử Quý Ly. Âm mƣu bại lộ, Quý Ly giả bộ khóc
30 lóc với Thƣợng hoàng Trần Nghệ Tông. Nghệ Tông nghe lời sàm tấu
31 truất ngôi Phế Đế, giáng làm Linh Đức Vƣơng, lập con út của Nghệ
32 Tông là Chiêm Định Vƣơng Ngung lên ngôi vua tức là Trần Thuận
33 Tông (1388). Linh Đức vƣơng sau đó bị thắt cổ chết còn các tƣớng sĩ
34 trung thành đều bị giết hại.
35 Năm 1390 đô tƣớng Trần Khắc Chân đại thắng quân Chiêm ở Hải
36 Triều, giết đƣợc vua Chiêm Chế Bồng Nga.
37  Năm 1393 thi Thái học sinh, cho đỗ 30 ngƣời. Nhƣ vậy Phan
38 Phu Tiên phải là mộ trong số 30 ngƣời nầy và nếu đƣợc bổ dụng thì
39 có thì chỉ là một hạng quan lại tập sự cấp thấp chƣa có danh vọng gì
40 nhiều vì vào đời Trần dù đã có đặt khoa cử nhƣng sự bổ dụng không
41 bắt buộc phải có khoa cử. (LTHCLC/Phan Huy Chú/ Quan Chức Chí
42 /đƣờng xuất thân).
43  Tháng 12, ngày 15 năm Giáp Tuất (1394) thƣợng hoàng Trần
44 Nghệ Tông qua đời.

VSTK - 71
1 Giai đoạn 2: Hồ Quý Ly cƣớp ngôi nhà Trần (1400-1407)

2 Cuối Năm 1397 Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông dời kinh đô đến
3 phủ Thanh Hóa rồi đầu năm 1398 lại ép vua thoái vị nhƣờng ngôi cho
4 hoàng thái tử An tức là Trần Thiếu Đế mới có 3 tuổi, Quý Ly nắm
5 trọn quyền nhiếp chính. Năm 1399 giết Thuận Tông và tự xƣng là
6 Quốc Tổ Chƣơng Hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, dùng nghi vệ nhà
7 vua để ra vào, con là Hán Thƣơng xƣng là Nhiếp thái phó. Đến tháng
8 2 năm Canh Thìn (1400) Quý Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xƣng vua thay
9 ngôi nhà Trần, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu,
10 đổi thành họ Hồ.
11 Phan Phu Tiên nói: "Khổng Tử nói : Không phải ma nhà mình mà
12 cúng là siểm nịnh .. . . .Là vì họ hàng xa xôi, các đời biến đổi, khó mà
13 tin chắc được. Quý Ly lại nhận là dòng dõi xa của Hồ Công Mẫn, tế
14 Ngu Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời để tiếm ngôi thật không gì
15 to bằng."
16 Mùa Thu tháng 8 Canh Thìn (1400) Quý Ly mở khoa thi Thái học
17 sinh. Sau đó nhƣờng ngôi cho Hồ Hán Thƣơng (1401-1407) để lên
18 làm Thái thƣợng hoàng cùng coi chính sự.
19 Mùa Đông tháng 12 năm Tân Tỵ (1401) bổ nhiệm Nguyễn Phi
20 Khanh làm Hàn Lâm học sĩ.
21 Mùa Thu tháng 7 năm Bính Tuất (1406) Hồ Hán Thƣơng Gọi các
22 quan cũ chờ lệnh bổ dụng (ĐVSKTT/BK/Q.7/52b).
23 Phan Phu Tiên cũng ở trong nhóm các quan lại cũ chờ lệnh bổ
24 dụng nầy. Đây là một chi tiết khá rõ để suy định thân phận của Phan
25 Phu Tiên vào thời Hồ Quý Ly cƣớp ngôi nhà Trần: nhiều quan viên cũ
26 của triều Trần không đƣợc Hồ Quý Ly thu dụng trở lại và họ phải ở
27 trong tƣ thế nghe ngóng chờ thời cho đến khi có lệnh của Hồ hán
28 Thƣơng gọi họ đợi lệnh bổ dụng. Có nghĩa là sau khi nhà Trần mất
29 ngôi, một số quan của triều cũ không còn đƣợc Quý Ly tin dùng.
30 Về phía các quan văn triều cũ, dù họ có căm hận bất phục kẻ cƣớp
31 ngôi thì họ cũng phải đè nén im hơi: một cử chỉ, một hành động
32 chống đối dù là tiêu cực cũng sẽ tự chuốc họa vào thân. Kẻ phản
33 nghịch đắc thắng đã không truy giết, giam nhốt mà còn mở đƣờng cho
34 họ đƣợc tái bổ dụng thì nhất định là một dịp may rất hiếm, khó có
35 ngƣời to gan ra mặt chối từ. Đây là may mắn thứ nhất của họ kể cả
36 Phan Phu Tiên.
37 Tuy nhiên lệnh nầy của Hồ Hán Thƣơng chƣa kịp thực hiện thì
38 giặc Minh lại gây hấn sang đánh. Quý Ly, Hán Thƣơng và con cháu
39 cùng họ hàng đều bị giặc nhà Minh bắt. Những quan lại của Quý Ly
40 và Hán Thƣơng ngƣời ra hàng, ngƣời bị bắt hoặc tự tử vì không chịu
41 nhục. Vua, quan nhà Hồ bị bắt đem về Kim Lăng (bên Trung Quốc);
42

VSTK - 72
1

2 Quý Ly bị giam nhốt, rồi sau đó bị đày làm lính ở Quảng Tây còn con
3 cháu và các tƣớng sĩ tất cả đƣợc giặc nhà Minh tha.

4 Giai đoạn 3: Thời kỳ Hậu Trần và thuộc Minh


5 (1407-1413 và 1414-1427)

6 Lệnh tái bổ dụng của Hồ Hán Thƣơng chƣa kịp thi hành thì giặc
7 nhà Minh lại tìm cớ mang quân sang đánh để trừng phạt Hồ về việc
8 cƣớp ngôi nhà Trần. Đây là một mối đại bất hạnh cho dân tộc Đại
9 Việt nhƣng lại là một sự may mắn thứ nhì cho đám cựu trào của nhà
10 Trần bởi vì dƣới mắt của giặc nhà Minh họ là đám quan lại cũ của nhà
11 Trần đã bỏ đi ẩn dật, không chịu hàng phục, không chịu hợp tác với
12 họ Hồ cho nên sau khi chiến thắng có thể là giặc Minh đã không bắt
13 giữ họ mang về Kim Lăng. Sau đó giặc Minh truy tìm những ngƣời
14 ẩn dật ở rừng núi, ngƣời tài giỏi, thông minh, có tiếng tâm, đã quen
15 thuộc việc quan. . . . để đƣa về Kim Lăng, dụ dỗ, ban cấp quan chức
16 rồi đƣa trở về nƣớc cho làm quan ở các phủ, châu, huyện, nghĩa là
17 làm thuộc hạ bù nhìn cho giặc nhà Minh. Rất nhiều ngƣời có chút
18 tiếng tâm, hám danh, tham quyền đã tranh giành nhau ra đầu thú giặc
19 nhà Minh. Khi giặc nhà Minh đã bị đánh đuổi ra khỏi bờ cõi, vua Lê
20 Thái Tổ (Lê Lợi) đã thẳng tay trừng trị đám quan lại bù nhìn theo
21 ngoại bang nầy. (ĐVSKTT/BK/Q.9/ 6a). Nếu Phan Phu Tiên cũng ở
22 vào trong đám quan lại của triều Trần hùa theo nhà Hồ rồi sau lại ra
23 đầu thú hợp tác với giặc nhà Minh thì Phan Phu Tiên đã không thể
24 nào thoát khỏi sự trừng phạt của Lê Thái Tổ để rồi còn đƣợc phép ghi
25 danh kỳ thi Minh Kinh đầu tiên của triều Hậu Lê.

26 Giai đoạn 4: Từ năm 1427 đến 1497 (Lê Lợi - Lê Thánh Tông)

27 Phan Phu Tiên trúng tuyển kỳ thi Minh Minh khoa đầu tiên năm
28 1429 (Lê thái Tổ/Thuận Thiên) và đƣợc làm quan với chức An phủ
29 phó sứ phủ Thiên Trƣờng.
30 Thái Tổ lại bắt các quan văn võ từ hàng tứ phẩm trở xuống phải
31 vào thi Minh kinh khoa, nghĩa là quan văn thì phải thi kinh sử .quan
32 võ thì phải thi vũ kinh. Ở các lộ cũng mở khoa thi Minh kinh để cho
33 những người ẩn dật ra ứng thí mà chọn lấy nhân tài .
34 Đây là một điểm móc quan trọng. Có thể suy luận rằng nhờ
35 dịp thi cử nầy mà Phan Phu Tiên mới đƣợc triều Lê thu dụng
36 trở lại.

VSTK - 73
1  Năm 1448 về kinh giữ chức vụ Quốc tử giám bác sĩ tƣ Quốc
2 Sử viện, vừa dạy học ở Quốc tử Giám vừa trông nôm Quốc sử viện.
3  Năm 1455 Lê Nhân Tông (1443-1459) sai Phan Phu Tiên
4 soạn bộ quốc sử giai đoạn từ vua Thái Tông nhà Trần cho đến khi bị
5 thuộc vào nhà Minh, cả thảy là 10 quyển.
6  Năm 1459 Lạng Sơn Vƣơng Nghi Dân sát hại vua Lê Nhân
7 Tông để cƣớp ngôi.
8  Có thể là Phan Phu Tiên vừa viết xong bộ sử (1443-1459)
9 nhƣng vua Lê Nhân Tông chƣa kịp phê duyệt thì bị Nghi Dân mƣu
10 hại .
*
11 Thân phận Phan Phu Tiên sau khi Nghi Dân soán ngôi (1459)

12 ĐVSKTT viết: "Ngày mồng 7 tháng 10, Lạng Sơn Vương Nghi
13 Dân tự lập lên ngôi Hoàng đế, đại xá, đổi niên hiệu là Thiên Hưng..
14 (Từ mồng 3 trở về trƣớc là niên hiệu Diên Ninh năm thứ 6, từ mồng
15 7 tháng 10 trở đi là niên hiệu Thiên Hƣng năm thứ 1 của Nghi Dân).
16 Ban ân rộng rãi cho các quan văn võ trong ngoài mỗi người một tư "
17 (ĐVSKTT/BKTL/Q.XI /96b).
18 Nhất định là Nghi Dân và Phan Phu Tiên có quen biết nhau
19 bởi vì sau khi Lê nhân Tông bắt đầu đích thân coi chính sự (ngày 21
20 tháng 2 năm Quý Dậu/1453) đã sai Phan Phu Tiên soạn bộ quốc sử
21 vào năm 1455. Kế đến, vào năm Bính Tý, mùa Xuân, tháng Giêng
22 (1456) Lê Nhân Tông ban đại yến cho các quan và trong buổi tiệc đó
23 Lạng Sơn Vƣơng Nghi Dân cũng đƣợc mời dự. (ĐVSKTT/
24 BK/Q.11/90a). Nghi Dân nhất định có biết rõ trọng trách soạn sử của
25 Phan Phu Tiên trƣớc khi có việc cƣớp ngôi xảy ra.
26 Sau khi cƣớp ngôi, Nghi Dân có"ban ân rộng rãi" thăng chức
27 cho Phan Phu Tiên hay không? Chắc chắn là có bởi vì Phan Phu
28 Tiên lúc đó chỉ là một hạng quan văn trong tay không có một tấc sắt
29 làm sao dám chống đối ra mặt vì thế đành phải im hơi lặng tiếng thủ
30 phận làm một hàng thần dƣới quyền của kẻ soán nghịch. Về chuyện
31 soán nghịch của Nghi Dân, Phan Phu Tiên có lời bàn nhƣ sau: "Nhân
32 Tông lên nối ngôi vua vào tuổi ấu thơ, bên trong có mẫu hậu buông
33 rèm trông coi chính sự, bên ngoài các đại thần đồng lòng phò tá trị
34 nước, cho nên trong khoảng 17 năm, thiên hạ thái bình, an cư lạc
35 nghiệp, xứng đáng là vị vua nhân từ, đến lúc cuối đời bị lũ vô lại
36 Đồn, Ban xướng xuất, khiến Lệ Đức hầu Nghi Dân đang đêm bắt
37 thang trèo thành, lẻn vào cung cấm, vua và Tuyên Từ hoàng thái hậu
38 đều bị hại. Thương thay" (ĐVSKTT/BK/Q.11/ 96b).
39 Lời bàn nầy không buộc tội nghiêm khắc Nghi Dân nhƣng nhắm
40 vào những kẻ chủ xƣớng xúi giục Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng.
41 Thái độ phê phán nhẹ nhàng của Phan Phu Tiên đối với Nghi Dân
42 càng củng cố thêm sự suy diễn về việc Phan Phu Tiên có nhận ân tƣớc

VSTK - 74
1 của kẻ đoạt ngôi. Hơn nữa, Nghi Dân cũng thuộc dòng chính thống
2 của nhà Lê (Con trƣởng của Lê Thái Tông và đúng ra là đông cung
3 thái tử chính thống): việc tranh ngôi đoạt vị chỉ là một sự lủng củng
4 thuộc nội vi của gia đình hoàng tộc nhà Lê chứ ngôi vua vẫn chƣa bị
5 lọt vào vào tay kẻ ngoại tộc: nhận ân tƣớc và tùng phục Nghi Dân
6 thì vẫn còn là quân thần của nhà Lê.
7 Năm 1460 (mồng 6 tháng 6 năm Canh Thìn, "các đại thần là bọn
8 Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa diệt bọn phản nghịch Đồn, Ban.
9 Giáng Nghi Dân xuống tước hầu. Đón Gia Vương lên ngôi hoàng đế
10 ". (ĐVSKTT/BK/Q.12/2a),(Gia Vƣơng là tƣớc hiệu của Lê thánh
11 Tông lúc bấy giờ).
12 Trong cuộc xƣớng nghĩa hai kẻ phản nghịch chủ chốt Đồn, Ban và
13 bè đảng phản nghịch Trần Lăng bị nhóm xƣớng nghĩa giết chết. Thân
14 phận của Phan Phu Tiên ra sao khi xảy ra biến cố xƣớng nghĩa nầy?
15 Nhƣ đã đề cập ở phần trên, Phan Phu Tiên có viết những nhận định
16 của mình về việc Nghi Dân cƣớp ngôi. Sự nhận định nhất định phải
17 đụng chạm tới nhóm chủ xƣớng Đồn, Ban. Những lời bàn đó khó có
18 thể đƣợc viết trong thời gian Nghi Dân chiếm quyền cai trị mà chỉ có
19 thể đƣợc viết vào thời khởi đầu của triều Lê Thánh Tông, sau khi
20 Nghi Dân bị hạ bệ và nhóm Đồn, Ban đã bị tiêu diệt. Cũng trong lời
21 bàn đó Phan Phú Tiên đã gọi Nghi Dân là Lệ Đức hầu: đây là tƣớc vị
22 của Nghi Dân đƣợc vua Lê Thánh Tông cấp cho sau khi bị giáng. Vậy
23 có thể suy diễn rằng Phan Phu Tiên vẫn còn sống sót vào lúc khởi
24 đầu triều đại Lê Thánh Tông, không bị nhóm xƣớng nghĩa bắt
25 giết dù trƣớc đây đã ở lại tiếp tục phục vụ cho kẻ bội nghịch.

*
26 Thân phận của Phan Phu Tiên dƣới triều đại Lê Thánh Tông
27 (1460-1497)

28 Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi vua thì thân phận của Phan Phu
29 Tiên ra sao ?
30 Lúc mới lên ngôi vua, Lê Thánh Tông liền định tội Lê Đắc Ninh vì
31 Đắc Ninh giữ cấm binh không biết phòng vệ cho Lê nhân Tông lại
32 tiếp tay giúp bọn phản nghịch (ĐVSKTT/BK/Q.12/2b).
33 Kê đến là việc tấu trình để cứu xét ban thƣởng những ngƣời có
34 công trong việc giáng phế Nghi Dân và đƣa Thánh Tông lên ngôi.
35 Khi xét đến việc thăng chức cho các quan cũ có công với nhà Lê hiện
36 tại chức hay đã chết, Lê Thánh Tông đã gạt bỏ tên của Lê Ê, Lê Thụ,
37 Đỗ Bí, Lê Ngang theo lệ công thần đã chết. Lý do gạt bỏ là vì những
38 ngƣời nầy bất lực không thành công trong mƣu đồ lật đổ Nghi
39 Dân: bị bại lộ, tất cả đều bị Nghi Dân giết chết. Thánh Tông đã so
40 sánh tội của những ngƣời nầy ngang với tội của Triệu Thuẫn Thời
41 Xuân Thu chiến quốc bên Trung Hoa ngày xƣa: Vua nước Tần là Linh

VSTK - 75
1 Công định hại Thuẫn, Thuẫn bỏ trốn. Sau Triệu Xuân giết Linh Công,
2 đón Thuẫn về phục chức. Tuy Thuẫn không giết vua (Linh Công),
3 nhưng sử quan nước Tần vẫn chép là Thuẫn giết vua vì cho Thuẫn
4 cùng là một chí hướng với Xuyên (ĐVSKTT/BK/Q.12/ 6a, 6b).
5 Đó là cách đối xử của vua Lê Thánh Tông với các cựu thần võ
6 quan của nhà Lê trong biến cố soán nghịch của Nghi Dân. Thái độ đối
7 xử, thƣởng phạt nầy rất khe khắt, độc đoán và tàn ác, không cần xét
8 tới tình lý nhất là đối với những ngƣời đã hy sinh trong cuộc dẹp loạn
9 Nghi Dân.
10 Sự khe khắt và độc đoán nầy Lê Thánh Tông có áp dụng đối với
11 các cựu thần quan văn của nhà Lê hay không?

12 Hai trƣờng hợp có thể xảy ra :

13 1- Phan Phu Tiên quá già lão nên đƣợc bỏ lơ không bị Lê Thánh
14 Tông hặc tội và tạm thời để cho ở yên chức vị cũ nhƣng không giao
15 thêm nhiệm vụ mới.
16 2- Bị định tội, bãi chức hoặc bị xử tội chết.

17 Trường hợp 1: Phan Phu Tiên quá già lão

18 Cho đến khi Nghi Dân làm việc soán nghịch thì Phan Phu Tiên đã
19 là một bậc lão nho thần từng phục vụ qua nhiều triều đại; cùng mộ
20 phƣơng pháp suy định năm sinh giống nhƣ đã áp dụng cho Ngô Sĩ
21 Liên thì lúc Lê Thánh Tông lên ngôi (1460) Phan Phu Tiên có thể đã
22 vào khoảng 90-95 tuổi. Với những lời lẽ phê phán về biến cố soán
23 nghịch của Nghi Dân nhƣ đã đề cập ở phần trên thì Phan Phu Tiên
24 vẫn còn sống sót trong những ngày tháng đầu của triều đại Lê Thánh
25 Tông. Trong giai đoạn nầy, cũng giống nhƣ ở mỗi chế độ khác, mối
26 quan tâm bức thiết nhất của một ngƣời cầm đầu một thể chế mới là
27 loại bỏ những nguy cơ xét ra có hại cho tƣơng lai của ngƣời đứng đầu
28 triều đại mới. Những nguy cơ đó thƣờng phát xuất từ các ngƣời nắm
29 quyền chỉ huy quân sự tức là các hàng quan võ còn sót lại của các
30 triều đại trƣớc. Do đó, sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã thực hành
31 ngay việc thƣởng phạt thật nghiêm khắt công tội trong hàng quan võ
32 và tạm thời để yên chƣa xét tới công tội của các ngƣời trong hàng
33 quan văn.Trong bối cảnh vàng thau lẫn lộn đó Phan Phú Tiên đã sống
34 sót.

35 Trường hợp 2 : Phan Phu Tiên bị định tội, bãi chức hoặc bị xử
36 tội chết

37 Sau khi loạn Nghi Dân bị dẹp yên, không thấy sách vở nào nói tới
38 Phan Phu Tiên nữa. Một điểm cần lƣu ý là cuối năm 1460, Lê Thánh

VSTK - 76
1 Tông ra lệnh cho Nguyễn Bá Ký và Hoàng Sằn Phu hiệu định miếu
2 húy và ngự danh: Hoàng Sằn Phu lúc đó là Hoàng môn thị lang kiêm
3 luôn chức vụ Quốc sử viện đồng tu quốc sử. Nhiệm vụ nầy đúng lý
4 phải giao cho Phan Phu Tiên. (Phan Phu Tiên nếu đƣợc Lê thánh
5 Tông để yên ở nguyên vị vẫn là Quốc tử giám bác sĩ tƣ Quốc sử viện
6 một chức vụ Phan Phu Tiên đƣợc ban cấp từ năm 1448 dƣới triều Lê
7 Nhân Tông). Sự kiện nầy có thể là:
8  Phan Phu Tiên đã quá già yếu nên Thánh Tông để yên không
9 dùng tới nữa và công trình soạn sử của Phan Phu Tiên cũng không
10 đƣợc Lê Thánh Tông chấp nhận, đƣa chứa cất ở Đông các.
11  Hoặc là Phan Phu Tiên đã bị thất sủng sa thải cho về hƣu
12 hoặc cũng có thể Phan Phu Tiên lúc đó chỉ còn đƣợc giao cho một
13 công tác thứ yếu ở Quốc Sử Viện trong chƣơng trình thu thập, sƣu
14 tầm các sách vở, giấy tờ còn sót lại, tìm tòi những dã sử, thu thập
15 những truyện ký cổ kim còn chứa ở các nhà riêng trong dân chúng .
16 Rồi đến những năm đầu của niên hiệu Quang Thuận (1460-1469),
17 Lê Thánh Tông lại xuống chiếu tìm tòi những dã sử, thu thập những
18 truyện ký cổ kim còn chứa ở các nhà tƣ nhân để đem về chứa cất ở
19 kho sách riêng của vua để dùng trong việc tham khảo. Lại ra lệnh các
20 Nho thần thảo luận biên chép, sắp xếp.

21 Trong suốt quá trình quan lại của mình, Phan Phu Tiên đã trải qua
22 nhiều cuộc thay ngôi đổi chủ do giặc ngoài, giặc trong chủ xƣớng và
23 lần nào thì Phan Phu Tiên cũng thoát khỏi sự trừng phạt của các phe
24 phái trong những cuộc chém giết tranh giành quyền lực đó:
25 Lúc Quí Ly tiếm ngôi thì sao? (1400-1407) (7 năm). Trong thời
26 hậu Trần (1407-1413) (7 năm) Phan Phu Tiên làm gì? Rồi trong thời
27 thuộc Minh (1414-1427) (14 năm) thì Phan Phu Tiên ở đâu? Và gần
28 nhất là sự soán nghịch của Nghi Dân?
29 Dù muốn tìm một lý do chính đáng nào để chứng minh biện bạch
30 thì cũng khó có thể che dấu nổi hình ảnh của một nhà nho hữu tài vô
31 đức, không có tiết khí: bất trung, bất hiếu, luồn cuối, xu thời, len lỏi,
32 gió chiều nào che theo chiều đó. Nhất định là Lê Thánh Tông đã xét
33 nghiệm lòng trung quân của Phan Phu Tiên với một thái độ nghi ngờ
34 nhƣ thế cho nên dù công trình soạn sử của Phan Phu Tiên có giá trị
35 mấy đi chăng nữa thì cũng không đáng đƣợc Lê Thánh Tông ngó tới.
36 Tuy nhiên, không thấy sử sách nói gì về thái độ đối xử của Lê
37 Thánh Tông đối với trƣờng hợp của Phan Phu Tiên mà cũng không ai
38 biết bằng cách nào mà Phan Phu Tiên thoát đƣợc sự trách cứ của Lê
39 Thánh Tông và thoát hiểm nhƣ những lần trƣớc?

40 Câu trả lời là: Phan Phu Tiên đã đƣợc Lê Thánh Tông làm ngơ
41 không buộc tội quở trách một cách công khai nhƣng chỉ còn đối xử
42 với Phan Phu Tiên nhƣ một lão nho tuổi tác già yếu bất lực chỉ còn

VSTK - 77
1 dùng đƣợc trong những công tác văn hóa không quan trọng chẳng
2 hạn nhƣ công tác thu góp dã sử và các truyện, cùng các nhà nho khác
3 thảo luận biên xếp thƣ tịch thu lƣợm đƣợc rồi mang vào cất giữ ở nhà
4 chứa sách của triều đình để dùng làm tài liệu tham khảo về sau.
5 Rõ ràng là Lê Thánh Tông đã không chấp nhận bộ sử do Phan Phu
6 Tiên biên soạn. Lý do không chấp nhận có thể là vì ngƣời soạn ra bộ
7 sử đó trong quá khứ đã có những hành vi a dua theo bọn phản nghịch,
8 đức độ không tốt.
9 Hoặc là công trình soạn sử của Phan Phu Tiên đã bỏ sót không ghi
10 chép một sử cố nào đó khiến cho Lê Thánh Tông không hài lòng? Sự
11 thiếu sót đó mà theo Lê Thánh Tông nhất định phải là mộ thiếu sót
12 nghiêm trọng gây tai tiếng xấu cho dòng dõi bề thế vƣơng tộc của nhà
13 Lê nói riêng và cho tất cả vƣơng triều đã có từ trƣớc nói chung.

14 Có thể tóm lƣợc phần kê cứu về Phan Phu Tiên nhƣ sau :

15 1. Phan Phu Tiên chỉ tu sửa bộ Việt Sử của Hồ Tông Thốc,


16 2. Bộ Sử của Phan Phu Tiên gọi là Sử Ký Tục Biên và gồm có 10
17 quyển,
18 3. Lê Thánh Tông không chấp nhận bộ sử do Phan Phu Tiên biên
19 soạn.
20 4. Lý do không chấp nhận có thể là vì ngƣời soạn ra bộ sử đó trong
21 quá khứ đã có những hành vi a dua theo bọn phản nghịch, đức độ
22 không tốt hoặc là công trình soạn sử của Phan Phu Tiên đã bỏ sót
23 không ghi chép một sử cố nào đó khiến cho Lê Thánh Tông không
24 hài lòng.

25 Ngô Sĩ Liên với Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ

26 Theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì Ngô Sĩ Liên:
Thọ: 98 tuổi
27 Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn : (1418-1427). Có thể vào lúc nầy
28 ông vào khoảng 15-17 tuổi.
29 Đỗ tiến sĩ đời Lê Thái Tông (1434-1442= 1442 tức là năm Đại
30 bảo thứ 2.
31 Xét những sử gia sau thời Ngô Sĩ Liên thì thấy :
32 Kiều Phú đỗ tiến sĩ lúc 25 tuổi : sinh năm 1450, (đỗ tiến sĩ năm
33 1475)
34 Vũ Quỳnh đỗ tiến sĩ lúc 26 tuổi : sinh năm 1452, (đỗ tiên sĩ năm
35 1478)
36 Vậy có thể cho rằng Ngô Sĩ Liên đỗ tiến sĩ vào khoảng tuổi 26-30,
37 trung bình là tuổi 28. Từ đó có thể suy đoán năm sinh của Ngô Sĩ
38 Liên :

VSTK - 78
1 Năm đỗ tiến sĩ là năm : 1442
2 Đỗ tiến sĩ vào lúc : - 28 tuổi
3 ______
4 Vậy năm sinh có thể là : 1414 = 1414
5 Và năm ông chết có thể là : +98 tuổi = 1512

6 Bài tựa sách ĐVSKKTT, Ngô Sĩ Liên có đề cập đến công tác thu
7 nhặt tài liệu, sách cũ trong dân chúng nhƣ sau :
8 ". . .Hoàng thượng (Lê Thánh Tông) trung hưng cơ nghiệp, sùng
9 nho trọng đạo, chăm sóc sách vở, khảo xét văn chương, khoảng năm
10 Quang Thuận (1460-1469) xuống chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện
11 ký xưa nay do các tư nhân cất giữ đều ra lệnh dâng cả lên để sẵn
12 tham khảo. Lại sai các nho thần thảo luận biên sắp. Thần lúc trước ở
13 Sử viện đã được dự vào việc ấy. Đến khi thần lại vào sử viện thì sách
14 ấy dâng lên chứa ở Đông các, không được trông thấy nữa."
15 (ĐVSKTT/QT/Tựa/ 1a).
16 Từ những lời viết tựa của Ngô Sĩ Liên có những điểm đáng chú ý
17 nhƣ sau :
18 Cho tới những năm đầu của niên hiệu Quang Thuận (1459-1460)
19 thì:
20  Phan Phu Tiên vẫn còn sống sót sau biến cố Nghi Dân. (Đã đề
21 cập ở phần trên)
22  Ngô Sĩ Liên vẫn tiếp tục đƣợc giữ chức vụ Đô Ngự sử đã
23 đƣợc phong cấp từ đời Lê nhân Tông. Sau khi Nghi Dân soán ngôi,
24 Ngô Sĩ Liên lại đƣợc tiếp tục giữ chức vụ cũ, có nghĩa là cho đến đầu
25 niên hiệu Quang Thuận, sau khi Nghi Dân bị hạ bệ (1459-1460), Ngô
26 Sĩ Liên chƣa có dính líu gì đến việc soạn sử.
27  Khi Lê Thánh Tông ra lệnh tìm kiếm thu nhặt tài liệu, sách
28 xƣa truyện cũ trong dân gian (khoảng 1460-1469) thì Phan Phú Tiên
29 có thể ở trong nhóm "Các Nho thần thảo luận biên xếp". Ngô Sĩ Liên
30 cũng có tham dự :" Thần lúc trước ở Sử viện đã được dự vào việc ấy
31 ". Cần chú ý rằng bài tựa của Ngô Sĩ Liên viết vào năm 1479 (Niên
32 hiệu Hồng Đức thứ 10). Nhƣ vậy, ta có thể xác định rằng sau khi Lê
33 Thánh Tông nắm giữ quyền hành đã ân xá tội chết cho cả Phan Phu
34 Tiên và Ngô Sĩ Liên nữa. Lúc đó Phan Phu Tiên đã quá già yếu cho
35 nên chỉ đƣợc giao phó một công tác văn hóa không quan trọng còn
36 Ngô Sĩ Liên thì chỉ bị giáng chức và cũng bị đƣa vào sử viện để cùng
37 làm công tác văn hóa cùng với nhóm Nho thần thất sủng.

38 Căn cứ vào đâu để cho rằng Ngô Sĩ Liên bị giáng chức?

39 Theo LTHCLC/Quan chức chí/ Phan Huy Chú (Quan chế đời
40 Hồng Đức/Văn giai/ trang 451) thì chức Ngự sử là chức vụ cao -

VSTK - 79
1 chánh tam phẩm - chức vụ khá quan trọng của một cận thần gần gũi
2 và tín cẩn của vua. Chức tả hữu thị lang là tòng tam phẩm cũng là
3 một chức quan cao nhƣng chỉ là hàng phụ tá không có quyền hành
4 rộng rãi nhƣ hàng chánh phẩm. Quốc tử giám tư nghiệp là tòng ngũ
5 phẩm. Không thấy nói về phẩm cấp của chức vụ Sử quan tu soạn và
6 rất có thể là chức vụ nầy so với chức vụ Hàn lâm viện tu soạn cũng
7 chỉ là một và xếp vào hàng chánh bát phẩm.( đây là theo cách sắp xếp
8 của thời Hồng Đức không thấy viết rõ về quan cách của chức sử quan
9 tu soạn. Tuy nhiên trong khoảng niên hiệu Bảo Thái 1720-1729 thời
10 Lê Dụ Tông /1706-1729 thì Quốc tử giám tƣ nghiệp xếp hàng tòng
11 ngũ phẩm còn sử quan tu soạn thuộc hàng chánh bát phẩm.
12 (LTHCLC/trang 457, 458). Chức Đại phu chỉ là một chức hàm dùng
13 để ban thêm cho một quan lại giữ nhiệm vụ cố vấn nhƣng không có
14 phẩm trật cho chức nầy.

15 Chức vụ của Ngô Sĩ Liên theo thứ tự thời gian nhƣ sau :

16 1443-1459 (Lê Nhân Tông ): Đô ngự sử (chánh tam phẩm).


17 1459-1460 (Nghi Dân): Đô Ngự Sử.
18 1461: (tháng 8 năm Tân Tỵ/ Quang Thuận/ năm thứ 2) bị Lê
19 Thánh Tông trách cứ nặng nề và bị giáng xuống chức Lễ bộ hữu thị
20 lang (tòng tam phẩm):từ hàng chánh xuống hàng tòng, từ một chức
21 danh rất trọng vọng, tai mắt của vua ở Ngự Sử Đài, có thể tra xét tất
22 cả các hàng bá quan văn võ nay bị biếm xuống một chức vị phụ tá
23 (tòng) ở bộ Lễ chuyên giữ việc lễ nghi, tế tự, lễ mừng, tiệc yến, việc
24 học, việc thi cử, các chi tiết về áo mũ. . . tức là một chức vị không
25 quan trọng, một chức vị không dính líu gì đến nền an ninh nội chính
26 của Lê Thánh Tông.
27 Về việc trách cứ nầy ĐVSKTT viết:
28 "Vua (Lê Thánh Tông) dụ bảo Đô ngự sử đài là bọn Ngô Sĩ Liên
29 và Nghiêm Nhân Thọ rằng: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức độ,
30 tuân theo điển cũ của thánh tổ Thần Tông nên mới tế Giao vào đầu
31 mùa xuân. Các ngươi lại bảo tổ tông tế Giao cũng không đáng theo!
32 Các ngươi bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang, thế là các ngươi
33 theo đạo chết, mang lòng không vua. Vã lại, khi Lệ Đức hầu [Nghi
34 Dân] cướp ngôi, Ngô Sĩ Liên chẳng vì hắn trổ tài phong hiến đó sao?
35 Ưu đãi trọng lắm! Nhân Thọ không vì hắn trù hoạch nơi màn trướng
36 đó ư ? Ngôi chức cao lắm! Nay Lệ Đức hầu mất nước về tay ta, các
37 ngươi không biết vì ăn lộc mà chết theo hắn lại đi thờ ta. Nếu không
38 nói ra, trong lòng các ngươi không tự hổ thẹn mà chết ư? Thực là bọn
39 gian thần bán nước!" (ĐVSKTT/BK/Q.12/ 8a, 8b)
40 Tội trạng gian thần bán nƣớc là một tội rất nặng mà hầu hết trong
41 các triều đại phong kiến đều áp dụng án tử hình đối với kẻ tội phạm.

VSTK - 80
1 Nhƣ vậy thì tại sao Ngô Sĩ Liên và kể cả Phan Phu Tiên lại thoát đƣợc
2 tội chết?
3 Trong cách xử sự với những quan lại cũ, Lê Thánh Tông là một
4 ông vua khôn ngoan, sáng suốt và rất bản lĩnh trong thuật dùng ngƣời.
5 Kể lại vụ biếm chức Binh bộ tả thị lang Nguyễn Đình Mỹ, ĐVSKTT
6 viết :
7 Vua dụ rằng: "Đồ dùng thì chuộng thứ mới, dùng người thì nên
8 dùng người cũ. Nho thần tuổi già như bọn các ngươi còn mấy người
9 đâu, mà ngươi phạm tội cũng là sau vụ phạm tội của Ngô Sĩ Liên và
10 Nguyễn Thiện thôi. Pháp ty giữ công bằng, theo luật phải giáng bãi,
11 nhưng ta thì tiếc tài ngươi, sai đổi thành lệnh biếm chức. Pháp luật là
12 phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi đều phải theo, ngươi nên
13 nhớ lấy" (ĐVSKTT/BK/ Q.12/16a). (Giáp Thân/Quang Thuận/ năm
14 thứ 5 [1464]).

15 1462- . . . : Quốc tử giám tƣ nghiệp (tòng tứ phẩm) kèm chức


16 Triều liệt đại phu, một chức hàm không có thứ bậc và rất có thể là
17 không có bổng lộc (Theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì năm Hồng
18 Đức thứ 2 /1471, Lê Thánh Tông định quan chế và các tƣớc thì chức
19 hàm Triều liệt đại phu đƣợc ban cấp kèm thêm cho những quan lại có
20 hàng tòng tứ phẩm). Cũng theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì chức
21 vụ Quốc tử giám theo lệnh của nhà vua trông coi nhà Văn miếu, rèn
22 tập sĩ tử, hàng tháng theo đúng kỳ cho tập làm văn để gây dựng nhân
23 tài, giúp việc thực dụng cho nƣớc. Đây cũng chỉ là một chức vụ không
24 quan trọng và Ngô Sĩ Liên cũng chỉ đƣợc xếp đứng về hàng phụ tá
25 (tòng) chứ không đƣợc trọn quyền nắm giữ.

26 1462-1469: Trong khoảng thời gian nầy, Lê Thánh Tông xuống


27 chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện xƣa tích cũ cất giữ trong dân gian,
28 ra lệnh dâng nạp cho triều đình để sẵn mà dùng trong việc tham khảo
29 rồi sai các Nho thần thảo luận biên xếp. Chính là cũng trong dịp nầy
30 Ngô Sĩ Liên đƣợc kiêm nhiệm thêm chức vụ Sử quan tu soạn (chánh
31 bát phẩm) sung vào sử quán để tham dự vào công tác sƣu tập đó.
32 Trong việc xuống chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện xƣa tích cũ
33 có thể là Lê Thánh Tông đã áp dụng một chính sách tịch thu, bài
34 trừ, thiêu hủy các nguồn văn hóa phẩm và tất cả các loại sách vở
35 hiện đang có trong dân chúng mà Lê Thánh Tông cho rằng có hại
36 cho chế độ cai trị của mình nhƣng sử cũ lại che dấu viết rằng công
37 tác tịch thu chỉ là một công tác thu thập tài liệu để chuẩn bị cho
38 việc viết sử.

39 Một điểm then chốt cần lƣu ý đặc biệt: quốc sử viện có ba chức
40 phẩm khác nhau là Sử quan tu soạn, sử quan tu sử, sử quan đồng tu
41 sử. Sử quan tu soạn là ngƣời có trách nhiệm trong việc sửa chữa sử

VSTK - 81
1 cũ, viết bổ túc thêm những phần thiếu sót rồi sắp soạn lại thành sử
2 mới. Với cƣơng vị sử quan tu soạn, Ngô Sĩ Liên phải là ngƣời then
3 chốt. Rất có thể là trong thời gian khởi đầu của công tác nầy Phan Phu
4 Tiên vẫn còn sống và hiện diện trong nhóm nho thần kể trên. Tuy
5 nhiên công tác của Ngô Sĩ Liên đã bị giáng đoạn vì phải vắng mặt về
6 nhà lo việc tang chế. Trong khi vắng mặt Ngô Sĩ Liên thì công tác
7 tu soạn vẫn tiếp tục và hoàn thành rồi chỉ đƣợc mang cất chứa ở
8 Đông các: phải chăng đây là một bộ sử mới của nhà nƣớc mà
9 trong đó vẫn còn có sự đóng góp của Phan Phu Tiên và vai trò
10 của Phan Phu Tiên đến đây kể nhƣ đã chấm dứt?

11 Nhƣng tại sao Lê Thánh Tông vẫn không chịu phê chuẩn, không
12 dùng tới. Công trình đó biến đi đâu? Ngô Sĩ Liên viết: "Đến khi thần
13 lại vào Sử viện thì sách ấy đã dâng lên chứa ở Đông các, không được
14 trông thấy nữa."
15 Giải thích tình trạng không đƣợc dùng tới nhƣ thế nào? Công trình
16 sắp soạn và tu sửa của nhóm nho thần có thực sự đƣợc mang cất ở
17 Đông các hay Lê Thánh Tông đã xé bỏ ?
18 Để giải thích nguyên ủy của các nghi vấn vừa kể, có những điểm
19 sau đây cần đƣợc nêu ra:

20 1. Tiêu chuẩn viết sử của Lê Thánh Tông là gì?


21 2. Tại sao Ngô Sĩ Liên viết thêm phần Ngoại Kỷ ?

22 1/ Tiêu chuẩn viết sử của Lê Thánh Tông là gì?

23 Một thái độ thƣờng thấy ở những ngƣời viết sử thời phong kiến: dù
24 biết rằng những ngƣời đi trƣớc đã viết sai, viết mù mờ, sao đi chép lại
25 từ những tài liệu không có giá trị khoa học nhƣng những kẻ tiếp nối
26 theo sau vẫn không dám truất bỏ đi một cách dứt khoát mà vẫn giữ lại
27 những loại truyện, những lời truyền tụng huyền hoặc mập mờ đó với
28 một thái độ nửa tin, nửa nghi, không dứt khoát. Tuy nhiên nếu xét cho
29 kỹ thì vẫn thấy đƣợc thái độ đó phản phất sự gò bó miễn cƣỡng đối với
30 một nhà khoa học chân chính, vì nhà viết sử cũng là một nhà khoa học.
31 Rõ ràng là những sử gia thời phong kiến đã không đƣợc tự do, độc
32 lập và vô tƣ trong việc suy nghĩ và viết lách của mình. Họ viết theo ý
33 của ngƣời ra lệnh và những ngƣời ra lệnh lại là những kẻ cao ngạo lúc
34 nào cũng muốn cất mình lên ngang hàng vai với với ngoại bang
35 phƣơng Bắc. Sự cao ngạo không phát xuất từ niềm tự hào của dân tộc
36 Việt Nam nhƣng chính là từ bản chất tự tôn tự đại của một nhóm thiểu
37 số phong kiến nắm quyền cai trị. Thêm vào đó, Nho Giáo lại là một
38 yếu tố tác động khác cũng mạnh không kém gì với tính tự tôn mặc
39 cảm của nhóm thiểu số cai trị khiến cho những ngƣời Nho học bị
40 chìm đắm, bị lôi cuốn theo kẻ cầm quyền đƣơng thời, bởi vì Nho giáo

VSTK - 82
1 là học thuyết tạo dựng ngƣời cai trị, tạo dựng ngƣời quân tử và
2 nguyên tắc cai trị phải là chính danh(1). Khi nhà Nho bỏ qua nguyên
3 tắc cai trị nầy, thì không còn đƣợc coi nhƣ một ngƣời quân tử nữa .
4 Bị ép mình vào hai khuôn khổ vừa kể, những sử gia thời phong
5 kiến đã phải tiếp tục cúi đầu theo vết chân của những ngƣời đi trƣớc:
6 thêm vào đó củng cố những cái đã có thì đƣợc nhƣng cắt bớt để gột
7 bỏ những sự mờ ám nửa tin nửa nghi thì chẳng ai có gan để khởi
8 xƣớng và dù có khởi xƣớng và sửa đổi (trùng tu) thực sự thì cũng ít
9 khi đƣợc chấp nhận. Trong bối cảnh đó, Lê Văn Hƣu, Phan Phú Tiên,
10 Ngô Sĩ Liên và những nhà viết sử kế tiếp đã Tu soạn nền sử học Việt
11 Nam thời phong kiến.

12 (1) Chính danh: tức là đúng với ý nghĩa của hai chữ quân tử. Con ngƣời chỉ đạt đến
13 bậc quân tử bằng hai nổ lực thông hiểu và đạo đức.

14 Qua những lời trách cứ mà Lê Thành Tông nhắm vào những ngƣời
15 trong Đô Ngự Sử Đài là Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ cũng nhƣ
16 trong dịp biếm chức Binh Bộ Tả Thị Lang Nguyễn Đình Mỹ ngƣời ta
17 có thể suy định đƣợc quan điểm của Lê Thánh Tông về nguồn gốc
18 dân tộc và thuật dùng ngƣời nhƣ sau:

19  Đối với Lê Thánh Tông gốc gác của những ngƣời đƣợc quyền
20 sở hữu ngôi vua không cùng một gốc gác với dân tộc đang ở dƣới
21 quyền cai trị của ông vua đó. Phải là con trời "thiên tử" thì mới đƣợc
22 làm vua tức là ngƣời thay mặt ông trời để thi hành đạo lý dƣới trần
23 thế. Vua là hình ảnh tiêu biểu của một dân tộc có tầng cấp, có đạo lý.
24 Một dân tộc không có tôn ti trật tự, không có viền mối kỷ cƣơng là
25 một dân tộc man di không biết vua, không biết trời đất. Kẻ tự nhận
26 mình là phiên rợ, man di, không có đạo lý thì kẻ đó là kẻ không vua,
27 vô đạo, mất gốc đáng ghép vào tộI chết tƣơng đƣơng với tội gian thần
28 bán nƣớc.

29 Đây là một quan điểm yếm trá độc đoán dùng để chối bỏ nguồn
30 gốc, cội rễ thực sự của mình, để bôi vẽ bề thế gốc gác của một cá
31 nhân hay của một dòng họ gia tộc đang nắm quyền thống trị. Không
32 lý nào Lê Thánh Tông cũng là một ngƣời học cao hiểu rộng mà lại
33 không có đƣợc một ý niệm sơ đẳng về nguồn gốc dân tộc, về vị trí
34 nguyên thủy của lãnh thổ Việt Nam hay sao?
35 Những sách vở nghiên cứu về nguồn gốc lãnh thổ và dân tộc Việt
36 Nam cho thấy :

37 Về mặt lãnh thổ, Việt Nam đƣợc cấu tạo và phát triển trên thềm
38 đất của vùng Nam Á và Đông Nam Á, vùng đất gọi là Bách Việt cùng
39 thời với những lãnh thổ Việt khác phân cách với vùng Bắc Á bởi con
40 sông có tên là Dƣơng Tử Giang chạy dài từ Đông sang Tây và vùng
VSTK - 83
1 lãnh thổ phía Nam giáp giới với lãnh thổ của bộ tộc Lâm Ấp (Chàm).
2 Vùng phía Bắc sông Dƣơng Tử là địa bàn khởi nghiệp của bộ tộc
3 Trung Hoa (bộ tộc Pawa=Hoa).

4 Về mặt nhân chủng, tộc Việt Nam đƣợc tạo dựng trong phạm vi
5 hình thành những chủng tộc ở phía Đông trải qua nhiều thế hệ và giai
6 đoạn:
7 1. Chủng Indonesian vùng Đông Nam Á vào khoảng trên dƣới
8 10,000 năm trƣớc Tây lịch, do sự phối hợp của chủng Indonesian
9 nguyên thủy (Melanesian) + chủng Australoid+ chủng Mongoloid
10 (một trong những dòng chủng Á Châu ở gần vùng Mông Cổ, không
11 phải ngƣời Mông Cổ hiện nay);
12 2. Chủng Nam Á (Austroasian ) vùng Nam nƣớc Tàu và vùng
13 phía Bắc Việt Nam vào khoảng trên dƣới 4,000 năm trƣớc Tây lịch,
14 do sự phối hợp của một nhóm chủng Indonesian + dòng chủng Á từ
15 phía Bắc ;
3. Chủng Nam Á phân tách ra thành các chủng Việt nhƣ Ngô
Việt, Mân Việt, Âu Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Bách Việt , vân . . .vân.
16 4. Chủng Bách Việt ở vùng cực Nam qua những tiến trình phối
17 chủng với những dân tộc địa phƣơng nguyên thủy tạo thành các chủng
18 tộc Việt Nam, Việt Mƣờng, Việt Tày, Việt Thái, Việt Mèo, Việt Dao,
19 vân . . .vân. Cũng trong giai đoạn nầy, nhóm chủng Indonesian di
20 chuyển dọc về phía Nam dãy Trƣờng Sơn bắt đầu sinh sống lập
21 nghiệp lâu dần trở thành các tộc chủng riêng nhƣ Chàm, Ê Đê, Gia
22 Rai , vân . . vân.

23 Theo sự nghiên cứu trên đây thì nguồn gốc của chủng tộc Việt bắt
24 đầu từ một tổng hợp của nhiều nguồn gốc nhân chủng khác nhau qua
25 một thời gian dài để thành chủng Nam Á rồi dần dần qua nhiều thời
26 đại phối chủng mà thành các chủng tộc Việt ở phía Nam sông Dƣơng
27 Tử gọi là Bách Việt. Lãnh thổ của chủng Bách Việt bị bộ tộc ngƣời
28 Pawa (Pawa =Hoa tức là ngƣời Hoa bây giờ) từ phía Bắc sông Dƣơng
29 Tử tràn xuống xăm chiếm và bành trƣớng mãi về phía cực Nam, trải
30 qua nhiều thời đại trở thành thuộc địa của ngƣời ngƣời Hoa với cƣơng
31 giới kéo dài từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam xuống tới
32 biên giới miền Bắc Việt Nam ngày nay.
33 Một tài liệu nghiên cứu về ngôn ngữ của chủng tộc Việt Nam cho
34 biết rằng :
35 "Tổ tiên người An Nam (tiếng Pháp là les Annamites) là kết quả sự
36 lai giống của dân Thái-Shan miền Nam nước Trung Hoa với đa số thổ
37 dân địa phương miền núi và miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung
38 Việt. Những thổ dân đó thuộc giống Thi Lãng còn gọi là Mon (Mán,
39 Mƣờng) (Les Langues du Monde/1887/ Lacouperie).

VSTK - 84
1 Sự phối trộn giữa chủng Thái-Shan và Thi Lãng cũng giống nhƣ sự phối
2 trộn và phân hóa của chủng Nam Á (Austroasian) thành các tộc chủng Việt
3 rồi các chủng tộc Việt phiêu bạc về phƣơng Nam lại phối chủng với
4 các tộc giống Việt Nam nguyên thủy ở địa phƣơng để tạo thành các
5 sắc tộc Việt Nam ngày nay. Các giống tộc địa phƣơng ở vùng Bắc
6 Bắc Việt, Bắc Trung Việt, Bắc Lào, Bắc Thái hay gọi chung là tộc
7 giống Thi Lãng, một giống tộc lâu đời đã hiện diện từ thời đại tạo
8 chủng Indonesian vùng Đông Nam Á Châu.
9 Con cháu giống Australoid mà điển hình là thổ dân Úc
10 Aboriginees vẫn còn sinh tồn ở Úc Châu cũng nhƣ giống Thi Lãng
11 vẫn còn tồn tại đƣợc ở tại một số vùng bờ biển của Miến Điện và một
12 số ở phía Tây thủ đô Bangkok Thái Lan: tiếng nói của họ hiện nay,
13 ngôn ngữ Mon, rất giống với ngôn ngữ Việt Nam.
14 Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên viết: "Tại Bắc Kỳ, công cụ đá tìm được
15 ở những cuộc khai quật cho thấy những cư dân có quan hệ với người
16 Indonesian và người Melanesian ở kề nhau tại thời tiền sử. . .Nhưng
17 nguồn gốc dân tộc Việt Nam vẫn cực kỳ mù mịch. . ."
18 Hợp lý hơn hết là chấp nhận sự thiếu hiểu biết của chúng ta về
19 nguồn gốc xa xôi của người Việt Nam, những người chắc chắn là đã
20 được kết tạo qua nhiều sự tạp giao và công nhận rằng tổ tiên của
21 những người Việt Nam nầy đã cư ngụ tại miền trung, đồng bằng Bắc
22 Kỳ từ một thời đại rất xa. Có quan hệ với ngữ tộc Thái, là bà con rất
23 gần với người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa, Người Việt Nam
24 hiện nay chẳng qua chỉ là người Mường đã bị đồng hoá với người
25 Hán (ngƣời Hoa) và có lẽ là lai giống nhiều."(Connaissance de
26 l'Indochine/La Civilisation annamite /1939/ par Nguyễn Văn Huyên, Docteur
27 ès-lettres, Membre de L' École Francaise d'Extrême-Orient).
28 Ở thời đại Lê Thánh Tông không thấy có một nhà Nho tài giỏi
29 nào thâm cứu về chủng tộc xác thực của ngƣời Việt Nam. Có thể vì
30 đây là một vấn đề quá lớn và quá xa đối với họ cho nên dù có nghĩ tới
31 nhƣng vì hoàn cảnh lúc đó không thích hợp cho một sự thâm cứu nhƣ
32 vậy khiến họ phải bịt mắt khép tai. Bằng chứng sự hiểu biết của họ có
33 thể thấy đƣợc qua việc Lê Văn Hƣu rồi Hồ Tông Thốc gạt bỏ kỷ
34 Hồng Bàng thị ra ngoài bộ Sử của họ, và nhất là qua những lời phát
35 biểu "Nƣớc ta thuộc hàng phiên ban" hoặc "tế Giao cũng là không
36 phải " của Đô ngự sử Ngô Sĩ Liên trong khi đang giữ vai trò cố vấn
37 cho Lê Thánh Tông; rồi đến các nhà Nho viết sử tiến bộ của thời nhà
38 Tây Sơn, của thời nhà Nguyễn cũng không bừa bãi lầm lẫn về nguồn
39 gốc thực sự của tộc chủng Việt Nam.
40 Sử cũ cho thấy Lê Thánh Tông là một nhà nho sáng chói, uyên
41 bác, thấy xa, hiểu rộng và là ngƣời biến Nho giáo thành quốc giáo thì
42 đúng ra Lê Thánh Tông phải đƣợc coi nhƣ là một ngƣời quân tử đầu
43 đoàn thống lãnh guồng máy cai trị lúc đó bởi vì mục đích của Nho
44 giáo là đào tạo ngƣời cai trị tốt tức là ngƣời cai trị có đạo đức, một
45 ngƣời quân tử chính danh. Để thành quân tử thì phải tu thân tức là
VSTK - 85
1 phải đạt đƣợc Đạo và Đức. Nếu một trong hai yếu tố nầy khiếm
2 khuyết hoặc hà tị, tai tiếng dị nghị thì sẽ bị xem là quân tử trá hình, là
3 ngụy quân tử. Muốn đạt tới cái Đức thì quan trọng hơn hết là phải biết
4 kiềm chế mình tức là loại bỏ khỏi bản thân ý thức vƣợt trên ngƣời
5 khác, đè nén sự khoe khoang hợm mình, bỏ đi sự tạo thù gây oán, chế
6 ngự sự thèm muốn cao ngạo.

7 Vì khoe khoang hợm mình muốn vƣợt trên ngƣời khác, vì cao
8 ngạo thèm muốn đƣợc cao trọng ngang vai vế với dòng dõi vua chúa
9 bên Trung Quốc cho nên cái đức của ngƣời quân tử Lê Thánh Tông
10 đã bị tì ố, và Nho giáo đã bị Lê Thánh Tông làm biến dạng theo chiều
11 hƣớng cá nhân độc tôn, không dân chủ, thần thánh hóa vai trò ngƣời
12 lãnh đạo.
13 Từ đời nhà Đinh, lúc dân tộc Việt Nam dành đƣợc độc lập thì nền
14 văn minh của ngƣời Hoa đã đƣợc tiếp nhập hoàn toàn. Nền quân chủ
15 chuyên chế đƣợc dựng lên trong nƣớc, vua lấy danh hiệu Hoàng Đế
16 giống nhƣ vua Trung Hoa và cũng có những quyền hành giống nhƣ
17 thế.
18 Trong thể chế quân chủ thì Hoàng Đế là Thiên Tử tức là con của
19 ông trời. Thiên Tử thay trời hành đạo, trị dân. Chỉ có Hoàng Đế mới
20 đƣợc ông trời trao quyền; tất cả mọi ngƣời khác kể cả những thần
21 thánh quỷ ma trong nƣớc đều dƣới quyền của Hoàng Đế. Vua là cha
22 mẹ của dân cho nên có quyền tuyệt đối trên sinh mạng và tài sản của
23 dân.
24 Giống nhƣ ngƣời chủ gia đình phải thờ cúng tổ tiên, vua cũng phải
25 thờ cúng tổ tiên của mình. Bởi vì tổ tiên chính tông và cao trọng nhất
26 của vua là ông trời cho nên cách thức thờ cúng tế lễ ông trời phải
27 đƣợc tổ chức một cách đặc biệt long trọng: lễ tế Giao. Bài bác việc lễ
28 tế Giao có nghĩa là không chấp nhận có trời, không tin vua là con của
29 ông trời.
30 Lời dụ trách cứ nặng nề của Lê Thánh Tông là một bản án treo tử
31 hình, một sự cảnh cáo nghiêm khắc sẽ đeo đẳng và ám ảnh Ngô Sĩ
32 Liên rất lâu và tạo áp lực nặng nề vào công tác biên soạn bộ
33 ĐVSKTT.

34  "Đồ dùng thì chọn thứ mới, dùng người thì nên dùng người
35 cũ. . . . Nho thần tuổi già như bọn ngươi còn mấy người đâu . . .", đó
36 là quan điểm của Lê Thánh Tông về thuật dùng ngƣời. Đồ dùng ở đây
37 bao gồm cả những bộ quốc sử của Lê Văn Hƣu, của Hồ Tông Thốc,
38 của Phan Phu Tiên nhƣng đó là những bộ sử cũ nên không đƣợc dùng
39 tới; ngƣời cũ đƣợc dùng lại nhƣng phải là những ngƣời có học thức
40 uyên bác có kinh nghiệm nhƣ Phan Phu Tiên, Nguyễn Đình Mỹ, Ngô
41 Sĩ Liên. Dù những hạng ngƣời nầy có phạm lỗi nghiêm trọng nhƣng

VSTK - 86
1 vì họ chỉ là một nhóm nhỏ quan văn già yếu còn sót lại, không có khả
2 năng làm loạn cho nên mới đƣợc tha tội tù hoặc tội chết.

3 Cách dùng ngƣời của Lê Thánh Tông không phát xuất từ đức nhân
4 ái của ngƣời quân tử nhƣng lại chính là một phƣơng pháp hăm dọa
5 nham hiểm để bắt ngƣời khác phải run sợ tuân phục. Sự run sợ tuân
6 phục nầy đƣợc thấy trong bài biểu dâng sách ĐVSKTT của Ngô Sĩ
7 Liên :
8 "Lễ bộ hữu thị lang, triều liệt đại phu kiêm Quốc tử giám tư
9 nghiệp, kiêm Sử quan tu soạn, thần Ngô Sĩ Liên nay đội ơn thánh
10 thượng cất nhắc cho thần chức vụ ở Sử quán, thần đem hai bộ Đại
11 Việt Sử Ký trước đây, tham khảo thêm các dã sử, soạn thành sách Đại
12 Việt sử ký toàn thư, kính cẩn chép làm 15 quyển dâng tiến. Thần Ngô
13 Sĩ Liên thật là sợ hãi, cuối rập đầu dâng lời tâu : . . . . . . . . . . . . . . . . .
14 . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . .
15 Thần Ngô Sĩ Liên tình dưới khôn xiết, trông trời ngước thánh, cảm
16 kích sợ hãi rất mực, kính cẩn sửa đóng thành pho, gói kín toàn bộ,
17 kèm theo tờ biểu dâng lên.
18 Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), tiết Đông chí
19 "(ĐVSKTT/Q.Thủ/1a/Biểu dâng sách ĐVSKTT).

20 Có thể tóm lƣợc phần kê cứu về Ngô Sĩ Liên nhƣ sau :

21 1. Trƣớc Ngô Sĩ Liên đã có sẵn nhiều bộ sử ký kể luôn cả bộ sử


22 của nhóm nho thần biên soạn với sự tiếp tục có mặt của Phan Phu
23 Tiên và sự tham gia nửa chừng của Ngô Sĩ Liên. Những bộ sử nầy
24 không đƣợc Lê Thánh Tông công nhận vì không viết ra gốc tích thần
25 thánh của các vua chúa đã và đang nắm quyền thống trị dân tộc Đại
26 Việt.

27 2. Ngô Sĩ Liên là một nhà Nho có sĩ khí, ngay thẳng, trung thực
28 trong khi giữ chức Đô Ngự Sử. Các đức tình nầy đã bị cùn lụt co cụm
29 lại sau khi bị Lê Thánh Tôn trách cứ một cách nặng nề thậm tệ. Sự
30 trách cứ nầy là một bản án treo tử hình ám ảnh và ảnh hƣởng sâu đậm
31 khiến cho Ngô Sĩ Liên khi đƣợc Lê Thánh Tông giao phó nhiệm vụ
32 biên soạn ĐVSKTT đã phải dẹp bỏ sĩ khí của mộ nhà Nho chính danh
33 để viết sử theo ý hƣớng của Lê Thánh Tông.

34 3. Ngô Sĩ Liên là sử gia đầu tiên đƣa kỷ Hồng Bàng Thị và Thục
35 Phán vào quốc sử để thỏa mãn bản chất cao ngạo, hợm mình của Lê
36 Thánh Tông.

VSTK - 87
HẬU QUẢ CỦA VIỆC ĐƢA KỶ HỒNG BÀNG THỊ
VÀO CHÍNH SỬ

1 Trƣớc và sau, kể cả Ngô Sĩ Liên, theo tuần tự thời gian đã có nhiều


2 ý kiến phê luận về những điều quái đản viết trong kỷ Hồng Bàng.

3  Hồ Tông Thốc: đỗ Thái học sinh đời Trần Nghệ Tông và làm
4 quan nhà Trần cho dến khi Hồ Quý Ly cƣớp ngôi (1370-1399); tác giả
5 tập truyện ký Nam Việt Thế Chí và bộ Việt Sử Cƣơng Mục. Nam Việt
6 Thế Chí (NVTC) có 2 quyển. Quyển đầu chép thế phả 18 đời họ Hồng
7 Bàng. Bài tựa NVTC có đoạn viết :
8 "Sách chép về thê phả vốn có từ lâu, cốt xét các đời đã qua, để rõ
9 nguồn gốc lưu truyền, kê cứu những điều truyền văn, để rõ những tiêu
10 chuẩn xưa nay. Hiềm vì chuyện tin chuyện nghi lẫn nhau, có điều
11 chưa hợp hẳn với lòng người .Nhưng việc đời biến đổi khác nhau thì
12 làm sao lại khỏi có những điều quái gở. Nghìn năm về sau, khó lòng
13 biết được đầy đủ, mà tìm trong sách vở cũng không thể tra cứu vào
14 đâu . . . . . . . Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm lặt ở
15 tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả kỷ
16 từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm giữ
17 đó để chờ các bực quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị
18 để mê hoặc người đời. Đọc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy
19 nghiệm thì ngọc và đá đều sẽ rõ ràng, những hình tiếng bóng vang
20 của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ v. . v . . . "

21  Ngô Sĩ Liên: trong bài tựa sách ĐVSKTT, Ngô Sĩ Liên cũng
22 phải đề cập tới tính cách quái đản của kỷ Hồng Bàng thị do chính tay
23 mình lần đầu tiên chép vào quốc sử:
24 ". . . . Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh
25 chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương.
26 Nhưng vì thiếu sử sách biên chép mà sự thực đều nghe truyền miệng,
27 lời ghi có phần quái đản, sự việc có khi quên sót, cho đến viết chữ
28 không đúng, ghi chép rườm rà, chỉ làm loạn mắt, còn dùng làm gương
29 sao được.."
30 Khi phê luận về việc Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, trong đoạn Sử
31 thần Ngô Sĩ Liên nói có đoạn viết nhƣ sau về tính cách vô luân của sự
32 kết hôn nầy:

33 "Xét sách Thông giám ngoại kỷ nói: "Đế Lai là con Đế Nghi"; cứ
34 theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương Vương là em ruột của Đế Nghi,
35 thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc chưa
36 đặt mà như thế chăng ?"

37 Ở một đoạn khác Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:

VSTK - 88
1 "Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm phiên giậu, chia nước làm
2 15 bộ. Ở 15 bộ ấy đều có trưởng và tá. Vua theo thứ bậc cắt đặt các
3 con để cai trị . . .Còn như việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất là quái
4 đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ
5 để truyền lại sự nghi ngờ thôi." (ĐVSKTT/NK/Q.1/ 5a).

6  Vũ Quỳnh (1452-1516): trong ĐVSKTT, Vũ Quỳnh không


7 để lại mộ ý kiến nào về Kỷ Hồng Bàng Thị. Tuy nhiên, theo thứ tự
8 thời gian,Vũ Quỳnh là một trong những ngƣời đã hiệu chính tập
9 truyện ký Lĩnh Nam Chích Quái trong đó có truyện Hồng Bàng thị
10 truyện mà hầu hết các nhân vật đều đƣợc viết lại trong ĐVSKTT.
11 Theo Vũ Quỳnh thì những truyện trong LNCQ "có quan hệ đến
12 cương thường, đến phong hoá không phải là nhỏ" coi như là những
13 mẩu truyện luân lý chỉ dùng "để tiện xem ở trong nhà mà thôi"
14 (LTHCLC/Văn tịch chí/ bài tựa LNCQ).

15  Hồ Sĩ Dƣơng (1621-1681): trùng tu sách Lam Sơn Thực Lục


16 do Lê Lợi ngự chế. Trong khoảng 1663-1665 có tham dự vào việc
17 biên tu bộ ĐVSK Bản Kỷ Tục Biên do Phạm Công Trứ đứng làm
18 Tổng tài (Sử gia/VNVHSY/1941/Dƣơng Quảng Hàm). Trong bài tựa
19 của bản trùng tu LSTL có đoạn viết:
20 "Ôi! Quyển Lam Sơn Thực Lục nầy không nói chuyện hoang
21 đường như Lĩnh Nam Chích Quái, không chép những điều quái loạn
22 như Việt Điện U Linh tập"(Lam Sơn Thực Lục/ LTHCLC, đd).
23 Năm 1676, Hồ Sĩ Dƣơng đƣợc giao cho nhiệm vụ "trông coi
24 việc sửa Quốc sử " nhƣng công việc chƣa xong thì mất vào năm
25 1681 và nhiệm vụ đó đƣợc giao cho Lê Hy. Nếu Hồ Sĩ Dƣơng
26 không chết thí có thể Kỷ Hồng Bàng đả biến mất trong ĐVSKTT.

27  Ngô Thời Sĩ: (1725-1780): tự Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong hay
28 Nhị Thanh cƣ sĩ, ngƣời phủ Thanh Oai (Hà Đông), đậu tiến sĩ năm 41
29 tuổi (1766/ đời Lê Hiến Tông/ Cảnh hƣng thứ 27), tác giả Việt Sử
30 Tiêu Án là sách khảo sát, phê bình các bộ sử cũ từ trƣớc cho đến năm
31 1418. Ngô Thời Sĩ viết:
32 "Tục truyền thuở trước nước Việt ta có vua đầu tiên là Kinh
33 Dương Vương. Cháu ba đời của Viêm đế là Minh đế lúc đi tuần thú
34 miền Nam gặp tiên nữ họ Vụ bèn lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục
35 là người đoan chính cho nên Minh đế yêu thương muốn lập làm người
36 kế ngôi nhưng Lộc Tục nhường cho anh là Nghi. Minh đế bèn phong
37 cho Lộc Tục làm vua tại Nam Việt gọi là Kinh Dương Vương. Con
38 của Kinh Dương Vương là Sùng Lảm nối ngôi gọi là vua Lạc Long. . .
39 .cứ như truyện chép ở thời đó, vua Lạc Long về ở trong động nước,
40 khi dân có việc cần thì kêu to lên "Bố ở đâu, lại đây với ta "thì Long
41 Quân lại ngay.

VSTK - 89
1 Lúc bấy giờ Đế Lai đi tuần du xem phong cảnh núi sông. Nàng Cơ
2 ở tại hành cung một mình. Người trong nước khổ vì bị người phương
3 Bắc quấy nhiễu cho nên lại gọi Long Quân ra. Long Quân ra trông
4 thấy nàng Cơ đẹp mà bằng lòng lấy, đưa về cho ở trong biển (Sử
5 kiêng không nói chuyện ấy ra, chỉ nói là lấy con gái Đế Lai, là vì
6 xấu hổ việc trai gái chim chuột không khác gì cầm thú, đều là việc
7 không nên nói ra, không bằng bỏ đi thì hơn). . . . . .
8 Ở một đoạn khác, Ngô Thời Sĩ lại dùng những lý luận so sánh kèm
9 theo những lời lẽ nặng nề để bênh vực những truyện kỳ quái dị
10 thƣờng đó:
11 "Sử chép Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên sinh ra Kinh Dương Vương
12 còn sử nhà Nguyên Ngụy thì chép: tục ngữ nói Cát Phân Hoàng Đế
13 không vợ, hai điều nầy cũng giống như nhau. Đại để các bậc thánh
14 thần là do khí thiêng tạo dựng có khác thường nhân nhưng thấy còn
15 có lý. Còn như chuyện Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình,
16 Lạc Long lấy Âu Cơ, loài ở dưới nước lấy loài ở trên cạn, thần
17 thánh ăn ở chung chạ với người, lời đó có vẻ không phù hợp với lẽ
18 thường.
19 Theo tôi nghĩ thì: trời đất từ dựng mở, nước ta nhân văn ở sau
20 Trung Quốc, nước lục đời Nghiêu chưa bình, cái vạc xưa vua Vũ chưa
21 đúc, mênh mông biển Quế Hải vẫn là tổ rồng rắn ma quỉ tụ hợp,
22 những chuyện kỳ quái sao lại không có. Chuyện đời Chu nước dãi con
23 rồng tụ lại mà sinh ra người con gái còn có được, huống hồ là đời
24 Kinh Dương Lạc Long ? Việc tựa hồ lạ mà không phải lạ và cũng
25 không nên tự coi mình là hẹp hòi như con hạ trùng thì mới phải ".
26 Âu Cơ là con gái của Đế Lai mà Đế Lai là con của Đế Nghi, Đế
27 Nghi là anh cùng cha khác mẹ với Kinh Dƣơng Vƣơng ; nhƣ vậy Lạc
28 Long Quân là chú của Âu Cơ: chú lấy cháu gái, một hành vi vô luân
29 trái đạo đức mà chỉ có loài cầm thú hạ trùng không có lƣơng tri mới
30 làm nhƣ thế mà ngay cả Ngô Thời Sĩ cũng đã phải đồng ý không còn
31 cách nào để biện bạch hành vi trai gái chim chuột không khác gì loài
32 cầm thú đó. Loài ở dƣới nƣớc lấy loài ở trên cạn, rồi đẻ ra trăm trứng
33 đem vứt ra ngoài đồng để tự động nở ra thành một trăm quái thai đẹp
34 kỳ dị mà không cần phải bú mớm nuôi nấng. Đây rõ ràng là một sự
35 phối chủng bệnh hoạn, quái đản, phản khoa học mà chỉ có những
36 ngƣời đầu óc bệnh hoạn, hẹp hòi, chậm tiến mới cho là có thật, mới
37 cho là không phải lạ.

38  Quốc Sử Quán Triều Nguyễn và vua Tự Đức (1856-1884):

39 Bản Tấu Nghị cuả nhóm quan lại đƣợc tuyển chọn để biên soạn bộ
40 KĐVSTGCM có đoạn viết :
41 "Nay vâng tra cứu sử cũ thì đời Hồng Bàng có những tên là Kinh
42 Dương Vương và Lạc Long Quân. Nhưng đó là thuộc về đời thượng

VSTK - 90
1 cổ, vẫn còn hỗn độn mơ hồ, tác giả do từ chỗ không hư bày đặt ra,
2 rồi lại vì sợ không đủ cho người ta tin, nên phải dựa vào truyện Liễu
3 Nghị(1) đời Đường của người viết tiểu thuyết để làm chứng cớ. Cứ
4 như Kinh Dương Vương thuộc nước Tần, Động Đình thuộc nước Sở,
5 có liên quan gì với nước ta đâu? Huống chi những chuyện lạ lùng
6 quái gở, rất mực trái lẽ thường, thế thì vịnh vào chỗ nào được để
7 nghiểm nhiên cho rằng những người ấy là những nhà vua đầu tiên đã
8 xây dựng nước nhà và lập nền chính thống(2)? (ĐVSTGCM/T.N/Q.Thủ/
9 3b,4a) . . .
10 Duy bề tôi là Đặng Quốc Lang thiết nghĩ về đời họ Hồng Bàng, có
11 Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương; vẫn biết rằng
12 triều đại đã quá xa xôi, mà cũng không có văn tự lưu truyền, những
13 việc được chép lại phần nhiều là hoang đường quái đản cả. Nhưng
14 các vua đó đã thành lập kinh đô, gây dựng nước nhà, trải qua cũng
15 phải nhiều năm lắm, thế thì cũng đề là những vua đầu tiên của nước
16 Việt ta. Trong quá khứ, sử thần triều Lê là Ngô Sĩ Liên đã biên soạn
17 Đại Việt Sử Ký vào năm thứ 10 niên hiệu Hồng Đức (1479). Vào lúc
18 đương thời Thánh Tông Thuần Hoàng Đế yêu chuộng văn học, ban lệnh
19 sưu tìm các loại sách dã sử cùng với các loại sách truyện ký xưa nay
20 cất giữ trong dân chúng để tham khảo đầy đủ. Bộ sách đó rõ ràng đã
21 khởi đầu từ Hồng Bàng, lấy Kinh Dương Vương như là vua khởi đầu
22 chính thống(2) của quốc gia.Vào thời đó, đình thần quan lại thâm nho
23 đông đảo trọng vọng và có uy tín thế mà chẳng có ai lên tiếng một lời
24 chê bai. Hơn nữa bộ sách ấy được soạn từ hơn ba trăm năm trước,
25 trải qua những năm Hồng Thuận, Cảnh Trị đời nhà Lê, đã hai lần
26 ban lệnh các nho thần biên soạn khảo cứu và sửa chữa, thế mà trong
27 giai đoạn đó thiếu chi những người có họ thức uyên bác vậy mà cũng
28 chẳng có một sự thay đổi nào cả. Như vậy bộ sử cũ do Sĩ Liên biên
29 soạn thiết tưởng cũng không phải là từ chỗ không có chứng cớ mà ra.
30 Nay, nếu chỉ khởi đầu chép từ đời Hùng Vương mà thôi còn thời hai
31 vua Kinh Dương và Lạc Long chỉ chép phụ ở phía dưới thì e rằng khó
32 làm được đầy đủ thứ tự các đời và tỏ rõ nguồn gốc . . . . Chúng tôi
33 xin trộm nghĩ rằng về thời đại Hồng Bàng thì nên khởi sự chép từ hai
34 đời vua Kinh Dương và Lạc Long, tóm lượt những việc có lý liên tiếp
35 đế thời Hùng Vương hầu làm sáng tỏ nguồn gốc nền chính thống của
36 quốc gia. Còn như những chuyện hoang đường quái lạ thì nên chép
37 phụ vào ở phía dưới của phần Mục nhằm để gìn giữ lại những truyền
38 thuyết đó. . . " (VSTGCM/nt/7a,b)

39 (1) Truyện Liễu Nghị: xem phần trên


40 (2) Chính thống: thống nhất thiên hạ, liền nối về một mồi. Ở đây chỉ dòng dõi chính
41 của một họ đƣợc truyền ngôi vua.

42  Vua Tự Đức:

VSTK - 91
1 Trong Dụ Chỉ(1) ban xuống lần thứ nhì về việc biên soạn bộ
2 DVSTGCM, Tự Đức có ý kiến nhƣ sau :
3 "Biên chép lịch sử là một việc lớn. Việc tra cứu chuyện xưa để viết
4 lại sử có liên quan tới việc làm mẫu mực dạy bảo lại vừa ngụ ý
5 khuyên răn, trách phạt. Vậy, phần nghĩa lý thể lệ cần phải rõ ràng và
6 chính đáng, những điều đáng ghi chép hay gạt bỏ thì phải thi hành
7 một cách nghiêm chỉnh và công tâm..
8 Lần nầy Phan Thanh Giản(2) cùng các đình thần trông coi việc sửa
9 chữa biên chép Việt sử dâng trình lên bản Phàm lệ(3). Trẫm đã duyệt
10 xem kỹ, thấy ý kiến của các sử quan có chỗ hợp nhau, có chỗ không
11 cùng một ý kiến nhưng bên nào cũng có cái đúng cái sai. Nếu không
12 dựa vào sự cùng nhau bàn thảo mà lại để một mình ta phân định, thì
13 lấy gì làm mẫu mực nêu gương sáng cho trăm đời noi theo và làm sao
14 để mà định cán cân cho người cầm bút ?
15 Sử cũ nước Việt ta chép lại việc Kinh Dương Vương và Lạc Long,
16 hoặc còn lại hay mất đi, nhưng nếu hãy còn thì tốt hơn là không nên
17 bàn luận tới. Vậy mà sử cũ lại cứ khăn khăn chép bằng hàng chữ lớn
18 và trong những việc được chép đó phần nhiều lại là những chuyện
19 trâu quỷ rắn thần, những thuyết hoang đường quái lạ, trái với lẽ bình
20 thường. Vậy thì, nếu theo ý bỏ điều quái dị giữ việc bình thường thì
21 đối với người làm sử viết kiểu như thế có được hay không ?. . . ."
22 Lời phê bình của Tự Đức về việc Âu Cơ đẻ ra một trăm trứng nở
23 thành một trăm con trai nhƣ sau :
24 "Kinh Thi có câu: Tắc bách tu nam (hằng trăm con trai) thì đó chỉ
25 là lời chúc tụng có nhiều con trai, xét sự thì chưa đến số đó, huống
26 chi lại nói là đẻ ra một trăm trứng? Nếu quả thật có như vậy thì có
27 khác gì loại cầm thú chứ làm sao gọi được đó là con người? Ngay cả
28 đến chuyện nuốt trứng chim én hay giẫm lên dấu chân người khổng lồ
29 cũng chưa quái đản đến mức như thế. Như vậy chuyện này so với
30 chuyện mình rắn đầu người, mình người đầu trâu thì cũng đều là một
31 loại hoang đường không thể kê cứu được".

*
32 (1)Dụ chỉ: lệnh viết của vua ban xuống cho các cấp dƣới của triều đình.
33 (2)Phan Thanh Giản: (1796-1867), ngƣời huyện Vĩnh Bình, tỉnh Vĩnh Long, đỗ
34 tiến sĩ năm 1826. Làm quan đến chức Hiệp biện Đại học sĩ. Năm 1867 tự tử chết vì
35 không chịu đầu hàng giặc Pháp.
36 (3)Phàm lệ: bài viết ở đầu sách để trình bày thể lệ về việc biên soạn quyển sách
37 đó.

38 Trên đây là dƣ luận của những ngƣời có tiếng tăm ở thời phong
39 kiến về việc đƣa kỷ Hồng Bàng vào lịch sử các triều đại vua chúa Việt
40 Nam thời xƣa. Một cách tổng quát thì hầu hết các dƣ luận thời nầy

VSTK - 92
1 đều ẩn hiện dấu vế khó chịu, lúng túng về tính cách quái đản, phản
2 khoa học của những cách thức phối chủng dị loại giữa ngƣời và thú.
3 Tuy biết là sai nhƣng họ vẫn phải nhắm mắt chép vào, ngƣời đầu tiên
4 là Ngô Sĩ Liên thì do áp lực của một Lê Thánh Tông cao ngạo hợm
5 mình, những ngƣời nối tiếp chép lại vì vẫn còn phải ép mình dƣới
6 một triều Lê kéo dài. Suốt quá trình kiến tạo bộ Đại Việt Sử Ký Toàn
7 Thƣ chẳng có một danh nho nào dám can đảm lên tiếng về những
8 hiện tƣợng quái vật đƣợc tôn xƣng là quốc tổ của lãnh thổ Văn Lang.
9 Đó không phải là một sự lầm lẫn ngay tình kéo dài nhƣng chính là
10 một hành vi cố tình lƣờng gạt man trá không có dân tộc tính. Chủ chốt
11 của sự lƣờng gạt lịch sử nầy là nhóm vua chúa phong kiến triều Lê do
12 Lê Thánh Tông khởi xƣớng vì bản chất hợm hỉnh cao ngạo cùng với
13 sự ám ảnh dai dẳng của ý tƣởng Chính Thống, sản phẩm của bọn vua
14 chúa thực dân Bắc phƣơng du nhập vào nƣớc Việt Nam.
15 Những sử gia có trình độ học vấn cao, với phong cách của một nhà
16 Nho chính danh có sĩ khí từ Ngô Sĩ Liên cho đến Lê Hy chỉ là những
17 công cụ ghi chép của ngƣời chủ xƣớng. Họ có băn khoăn, nghi ngờ,
18 khó chịu nhƣng không thể làm gì khác hơn đƣợc mà chỉ còn có một
19 cách là dĩ nghi truyền nghi, "ngờ để truyền ngờ" để tự bào chữa cho
20 việc ghi chép gƣợng ép của mình. Chỉ có những ngƣời hẹp hòi, chậm
21 tiến, trên đội dƣới đạp mới cố tình tìm những lý lẽ ngu ngơ để bênh
22 vực những chuyện ma trâu thần rắn, những chuyện phối sinh trái luân
23 thƣờng đạo lý, phản khoa học để gieo vào đầu óc của những thế hệ
24 mai sau bắt phải tin theo những cái sai của cha ông mình ngày trƣớc.
25 Chẳng thà chịu mang tiếng bụng dạ hẹp hòi giống nhƣ bụng dạ của
26 loài hạ trùng theo kiểu nói của Ngô Thời Sĩ còn hơn là phải tin những
27 chuyện ma trơi phản khoa học , những chuyện súc vật phản đạo lý.
28 Cũng có ngƣời không tin là chuyện có thật nhƣ Đặng Quốc Lang
29 trong quốc sử quán triều Nguyễn nhƣng vì những ngƣời khác đã ghi
30 nhƣ thế từ bao nhiêu thế hệ rồi, có thể là đúng vì thế nên tiếp tục giữ
31 lại thì mới có thể chứng minh đƣợc tính cách liên tục của quốc thống.
32 Đến lƣợt Tự Đức đƣợc xem là một ông vua tiến bộ cũng không
33 dứt khoát quyết định xoá bỏ hẳn theo nguyên tắc bỏ điều quái dị, giữ
34 việc bình thường mà lại cho phép chép về hai triều đại của Kinh
35 Dƣơng và Lạc Long bằng hai hàng chữ nhỏ ở phần dƣới đời Hùng
36 Vƣơng để hợp với nghĩa "ngờ để truyền ngờ" và mặc nhiên chấp nhận
37 con Rồng cháu Thánh là tổ tiên và là nguồn gốc nền chính thống của
38 nƣớc Việt Nam.
*

39  Phan Huy Chú

40 Nổi tiếng là bác học nhƣng cũng mặc nhiên chấp nhận những
41 chuyện rồng rắn, thuồng luồng để đem vào bộ LTHCLC (1821) của

VSTK - 93
1 mình. Trong bài dẫn thứ tự các chí Phan Huy Chú đã đồng hoá nƣớc
2 Việt ta với lãnh thổ Văn Lang và lối viết lại tiếp tục nhƣ lối viết của
3 những ngƣời cũ: "Nước Việt ta từ trước ở vào cõi xa phong khí có
4 phần chậm hơn (so với Trung Quốc). Từ đời Thương, Chu trở về
5 trước, còn là rừng rậm chầm lầy, chỗ rồng rắn ở. Khi ấy, hoặc xen
6 lẫn dưới sông trên cạn, hoặc chia ở miền núi, miền biển, bờ cõi chưa
7 được rõ ràng. Tới khi dựng nước Văn Lang mới chia ra từng bộ
8 nhưng quy mô đời cổ đều hãy còn sơ sài. . ." Kế đến, trong phần Nhân
9 vật chí, những cá nhân nhƣ Kinh Dƣơng Vƣơng, Lạc Long Quân,
10 Hùng Vƣơng đƣợc sao chép lại từ sử sách thƣ tịch cũ đã có từ trƣớc.

*
11  Theo sau Phan Huy Chú là những ngƣời viết, sửa đổi hoặc
12 thêm bớt sách Đại Nam Quốc Sử Diễn ca (1857-1873), đƣợc viết
13 bằng quốc ngữ theo lối thơ "lục bát" (Câu 6 chữ và câu 8 chữ trong
14 đó chữ thứ 6 của câu 8 chữ ở dƣới phải ăn vần với chữ cuối cùng của
15 câu 6 chữ liền ở trên và ngƣợc lại chữ cuối của câu 6 chữ phải ăn vần
16 với chữ thứ 6 của câu 8 chữ liền ở trên).
17 Quyển nầy chép từ đời Hồng Bàng đến hết đời Hậu Lê. Đoạn chép
18 về Kinh Dƣơng Vƣơng và Lạc Long Quân đƣợc viết nhƣ sau :

19 Kể từ trời mở Viêm bang (1)


20 Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra.
21 Cháu đời Viêm đế thứ ba,
22 Nối dòng Hỏa đức(2) gọi là Đế Minh.
23 Quan phong(3) khi giá Nam thành,
24 Hay đâu Mai lĩnh(4) duyên sinh Lam kiều(5).
25 Vụ tiên vừa thuở đào yêu(6)
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
26 Dòng thần sánh với người tiên,
27 Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra
28 Phong làm quân trưởng(7) nước ta,
29 Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương.
30 Hóa cơ(8) dựng mối luân thường,
31 Động Đình sớm kết với nàng Thần Long
32 Bến hoa ứng vẻ lưu hồng(9)
33 Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì.
34 Lạc Long lại sánh Âu Ky,
35 Trăm trai điềm ứng hùng bi(10) lạ thường.
36 Noản bào(11) dù chuyện hoang đường,
37 Ví xem huyền điểu(12) sinh Thương khác gì ?

38 (1) Viêm Bang: nƣớc ờ vùng nóng. Ở đây ý nói nƣớc Việt Nam.
39 (2) Hoả đức: dòng dõi vua Thần Nông lấy lửa làm hiệu còn gọi Viêm đế.
40 (3) Quan phong: đi quan sát phong tục của dân chúng.

VSTK - 94
1 (4) Mai lĩnh: tên một dãy núi ở miền Nam nƣớc Tàu.
2 (5) Lam kiều: Bùi Hằng gặp tiên là Vân Anh ở Lam Kiều cho nên địa danh nầy
3 đƣợc xem là tƣợng trƣng cho duyên phận may mắn vợ chồng.
4 (6) Đào yêu: trái đào đang chín, ý nói tuổi con gái lấy chồng.
5 (7) Quân trƣởng: vua
6 (8) Hóa cơ: nền móng cho phong tục và văn hóa.
7 (9) Lƣu hồng: cầu vòng trời. Chuyện cổ tích kể rằng có ngƣời đàn bà nằm mơ
8 thấy cầu vòng trôi ở bến Hoa, sau sinh ra con làm vua. Ở đây ý nói điềm tốt
9 sắp sinh đƣợc con quý.
10 (10) Hùng bi: giống gấu. Dị đoan cho rằng nằm mơ thấy gấu là điềm sinh con
11 trai.
12 (11) Noản bào: bọc trứng. Ở đây chỉ việc Âu Cơ đẻ ra một bọc có trăm trứng sau
13 nở thành một trăm con trai.
14 (12) Huyền điểu: chim long đen; tổ tiên nhà Thƣơng bên Tàu nằm mơ thấy mình
15 nuốt trứng chim long đen cho nên con cháu về sau đều làm vua.

16 Nhƣ thế là những chuyện hoang đƣờng dối trá vẫn tiếp tục hiện
17 hữu cho đến hết thế kỷ thứ 19 mặc dầu trong thế kỷ nầy đã có nhiều
18 sự tham dự và đóng góp của những ngƣời thuộc trào lƣu tiến bộ trên
19 đất nƣớc Việt Nam đang trên đà phát triển.
20 Rồi bắt đầu sang thế kỷ 20 tân tiến hơn thì ngoài một thiểu sồ
21 ngƣời hủ nho, những điều kỳ dị phản khoa học trƣớc kia tƣởng chừng
22 nhƣ không còn ai lƣu ý tới nữa nhƣng kỳ dị thay, chúng lại tái xuất
23 hiện trên Việt Nam Sử Lƣợc (1925) của Trần Trọng Kim(1) điều quan
24 trọng đáng phải nói ở đây là lần tái xuất hiện nầy lại có một không
25 gian phổ biến rộng lớn hơn trong đại khối quần chúng sau khi cách
26 viết chữ Việt Nam theo mẫu tự la tinh đã trở thành quốc ngữ.
27 Trong bài Tựa VNSL có đoạn viết nhƣ sau :
28 "Nhưng dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có sử ta thì cũng có thể
29 bởi đó mà biết được những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà
30 khảo cứu được nhiều việc quan hệ đến vận mệnh nước mình từ xưa
31 đến nay xoay vần ra làm sao. Hiềm vì sử nước ta thì làm bằng chữ
32 Nho cả, mà chữ Nho thì từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi.
33 Hiện nay số người đọc được chữ Nho còn nhiều, mà trong nước còn
34 không có mấy người biết chuyện nước nhà, huống chi mai sau nầy
35 chữ Nho bỏ không học nữa, thì sự khảo cứu về những việc quan hệ
36 đến lịch sử nước mình sẽ khó biết bao nhiêu!
37 Nay nhân sự học ở nước ta đã thay đổi, chữ quốc ngữ(2) đã phổ
38 thông cả trong nước, chi bằng ta lấy tiếng nước nhà mà kể chuyện
39 nước nhà, ta soạn ra bộ Việt Nam Sử Lược, xếp đặt theo thứ tự, chia
40 ra từng thời đại, đặt thành chương, thành mục rõ ràng, để ai ai cũng
41 có thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện, khiến cho sự
42 học sử của người mình được tiện lợi hơn trước.
43 . . . Thời đại thứ nhất là Thượng cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng
44 cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời đại ấy, từ chương thứ III (có

VSTK - 95
1 lẽ là từ chƣơng I đến chƣơng III thì đúng hơn), bàn về xã hội nước
2 Tàu trước đời nhà Tần, phần nhiều là những chuyện hoang đường
3 huyền hoặc cả. Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà
4 chép lại, chứ không có di tích gì mà khảo cứu cho đích xác. Tuy vậy,
5 soạn giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê bình một đôi
6 câu để tỏ cho đọc giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là
7 xác thực."
8 Khi viết về họ Hồng Bàng, Trần trọng Kim nhận định nhƣ sau:
9 "Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là truyện xác
10 thực". Và để kết thúc chƣơng I tác giả lại viết:
11 "Tóm lại mà xét, nước ta khởi đầu có quốc sử từ cuối thập tam thế
12 kỷ đến đời vua Thánh Tông nhà Trần, mới có quan Hàn lâm học sĩ là
13 Lê Văn Hưu soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký, chép từ Triệu Võ vương
14 đến Lê Chiêu Hoàng. Hai trăm rưởi năm về sau lại có ông Ngô Sĩ
15 Liên, làm quan Lễ bộ tả thị lang đời vua Thánh Tông nhà Lê, soạn lại
16 bộ Đại Việt sử ký: chép từ họ Hồng bàng đến vua Lê Thái tổ. Nghĩa
17 là từ ông Ngô Sĩ Liên, ở về thập ngũ thế kỷ trở đi, thì sử ta mới chép
18 truyện về đời thượng cổ. Xem thế thì đủ biết những truyện về đời ấy
19 khó lòng mà đích xác được. Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt nhạnh
20 những truyện hoang đường tục truyền lại, cho nên những truyện ấy
21 toàn là truyện có thần tiên quỉ quái, trái với lẽ tự nhiên cả.
22 Nhưng ta phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt,
23 ai cũng muốn tìm cái gốc tích của mình ở chỗ thần tiên để cho vẻ
24 vang cái chủng loại của mình. Chắc cũng bởi lẽ ấy mà sử ta chép
25 rằng họ Hồng Bàng là con tiên cháu rồng ..v . v . . .
26 Nay ta theo sử cũ mà chép mọi truyện, người xem sử nên phân biệt
27 truyện nào là truyện thực, truyện nào là truyện đặt ra, thì sự học mới
28 có lợi vậy ".

29 Từ Ngô Sĩ Liên cho đến thời Trần Trọng Kim, bộ ĐVSKTT bị thu
30 nhỏ ngắn lại và chỉ có 1 thay đổi quan trọng: đƣợc viết bằng chữ quốc
31 ngữ thay vì viết bằng chữ Nho.

32 (1) Trần Tọng Kim (1882-1953): hiệu là Lệ Thần, cũng là tác giả quyển Nho
33 Giáo.
34 (2) Chữ quốc ngữ: tức là chữ viết Việt Nam theo mẫu tự La mã (Roman
35 alphabets). Xem bài đọc thêm về việc sáng tác chữ quốc ngữ.

36  Năm 1938, Đào Duy Anh trong Việt Nam Văn Hóa Sử
37 Cƣơng lại tiếp nối theo kiểu Tục truyền và viết :
38 "Theo tục truyền thì người Việt Nam là nòi giống Tiên Rồng. Vua
39 đầu tiên họ Hồng Bàng nước Xích Quỷ là Lộc Tục tức Kinh Dương
40 Vương v.v. . ."

VSTK - 96
1 Lần nầy thì ngƣời Việt Nam là nòi giống tiên rồng chứ không
2 phải chỉ riêng những ngƣời có số làm vua mới đƣợc coi là con rồng
3 cháu tiên.

4  Trong La Civilisation annamite (Nền Văn Minh của ngƣời


5 An Nam) của tiến sĩ văn khoa Nguyễn Văn Huyên xuất bản năm
6 1944 viết lƣớt rất nhanh về tổ tiên và lãnh thổ của ngƣời Việt Nam
7 nhƣ sau :
8 "Tổ tiên người Việt ngày nay chẳng phải là cư dân đầu tiên của
9 vùng đất hiện tạo thành quốc gia mà chúng ta gọi là nước Việt Nam.
10 Ngay tên gọi lãnh thổ cũng đã thay đổi nhiều lần. Ở hai thế kỷ cuối
11 cùng trước Tây lịch, nước nầy tên là Văn Lang v.v . ."
12 Nhƣng ở một đoạn khác, sau khi phê bình các nhà viết sử biên niên
13 Việt Nam đã tô điểm tác phẩm lịch sử của họ bằng những truyền
14 thuyết thì những chuyện rồng rắn lại tái xuất hiện:
15 " Đất nước chúng ta, mà người Tàu gọi là Giao Chỉ, có vua đầu
16 tiên là chắt của Thần Nông, được xem như là ông thần nghề nông ở
17 bên Tàu. Ông vua nầy kết hôn với Động Đình Quân, con gái nòi
18 rồng, và sinh một con trai nối ngôi với tên gọi Lạc Long Quân. Vị nầy
19 kết hôn với Âu Cơ. Bà đẻ liền một lần một trăm quả trứng nở thành
20 trăm con trai. Con trai trưởng của Lạc Long Quân trị vì với danh
21 hiệu Hùng Vương. Đây là vương triều Hồng Bàng liên tiếp cung cấp
22 mười tám đời vua cho nước Nam, lúc đó gọi là Văn Lang v.v. . ."

23 Tác giả La Civilisation Annamite không biết phải giải thích thế
24 nào cho ngƣời ngoại quốc có đầu óc khoa họ (nhất là những ngƣời
25 Pháp) về hiện tƣợng nòi rồng phối chủng với ngƣời và đẻ ra một trăm
26 trứng nở thành trăm con trai? Chẳng lẽ chỉ nhún vai để nói với họ
27 rằng đó là do truyền thuyết! Đã nhƣ thế thì tác giả tốn công làm gì để
28 nghiên cứu viết thêm một chƣơng dài về Chủng tộc Việt.

29  Năm 1956, đến lƣợt Phạm Văn Sơn nép mình dƣới cái khiên
30 che tục truyền để sao chép lại những điệu xƣa vào Việt Sử Tân Biên
31 mà khỏi phải sợ dƣ luận cho mình là kẻ chậm tiến.

32  Có thể có ngƣời sẽ lập luận rằng những sự huyền hoặc


33 quái dị đó phải đƣợc hiểu là truyện chứ không phải là sử .

34 Lê Văn Hƣu đã hiểu nhƣ thế, Phan Phu Tiên đã hiểu nhƣ thế, mà
35 ngay cả Ngô Sĩ Liên cũng đã hiểu nhƣ thế và đặc biệt hơn hết là Hồ
36 Tông Thốc đã chép riêng họ Hồng Bàng vào một tập chí khác với bộ
37 Việt Sử Cƣơng Mục của mình.

VSTK - 97
1 Tuy nhiên, nếu đem những truyện đó vào sử rồi bảo rằng không
2 nên hiểu nó là sử không khác gì bắt ép ngƣời khác uống ly nƣớc biển
3 mà phải mỉm cƣời khen ngọt !

4  Cũng có thể có ngƣời cho rằng những sử cố huyền thoại là


5 những biểu hiệu rất ý nghĩa nhằm nêu cao lịch sử lâu đời của đất
6 nƣớc và tuyên xƣng niềm tự tôn dân tộc.

7 Nếu nhƣ vậy thì chẳng thà nói rằng dân tộc Việt Nam là thủy tổ
8 của tất cả các dân tộc khác và đất nƣớc Việt Nam là cái nôi nguyên
9 thủy của loài ngƣời thì ta sẽ có một nền lịch sử lâu đời nhất mà niềm
10 kiêu hãnh tự tôn dân tộc cũng đƣợc coi nhƣ là vô địch tuyệt đỉnh.


11 Tóm lại :

12 Những biến cố lịch sử phải tự nó hình thành chứ không thể do cá


13 nhân tạo ra. Kẻ ghi lại những sử cố đó phải trung thực không man trá
14 và nhất là không phải tùy thuộc hay dựa vào bất cứ một áp lực nào đó
15 để bóp méo lịch sử. Những biến cố Lịch Sử không phải chỉ gồm
16 những việc xảy ra nơi cung đình vua chúa mà phải bao gồm tất cả mọi
17 hoạt động sinh sống của một cộng đồng dân tộc thuần nhất trong đó
18 vua chúa cũng chỉ là một thành viên không có sự phân biệt kỳ thị về
19 đẳng cấp, thế phá, dòng dõi.
20 Các bộ sử cũ chỉ là lịch sử của vua chúa cung đình thời phong
21 kiến. Mặc dù từ đó ta có thể nhìn thấy đƣợc phần nào dĩ vãng của dân
22 tộc nhƣng tính cách trá ngụy về nguồn gốc thần tiên của dân tộc đƣợc
23 đem vào những bộ sử đó kéo dài hằng bao nhiêu thế hệ đã và vẫn còn
24 tạo ra trong dân gian Việt Nam một ảnh hƣởng tâm lý tác hại khó lòng
25 gột rửa: kẻ nào còn hồ nghi thì kẻ đó sẽ bị dƣ luận ngƣời Việt Nam
26 lên án là kẻ mất cội quên nguồn, bóp méo Lịch Sử, phạm thƣợng đến
27 tiền nhân.

28 Tính cách trá ngụy mơ hồ về thế phá các dòng họ đế vƣơng trong
29 sử cũ đƣợc núp bóng dƣới cái vỏ chính thống, một mặt để có thể nắm
30 độc quyền cai trị và mặt khác tạo ra ảo tƣởng về một nguồn gốc chủng
31 tộc cao trọng tiêm nhập vào đám thần dân ngây thật, dị đoan, mê tín.
32 Chiêu bài chính thống đó vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay đối với
33 một số ngƣời cho dù ngƣời dân Việt Nam bây giờ đang tiến bộ kịp
34 thời với trào lƣu tiến bộ của thế giới.

35 Niềm tự hào dân tộc không thể đặt trên căn bản chủng tộc bởi vì
36 nó sẽ tạo ra mặc cảm tự tôn siêu đẳng, tự cho mình có quyền đứng

VSTK - 98
1 trên các dân tộc khác mà hậu quả là gây ra những bối cảnh diệt chủng
2 tàn khốc hoặc những cuộc gây hấn xâm lƣợc bạo tàn.

3 Dân Việt Nam nhất định là phải có một nguồn gốc chủng tộc lâu
4 đời nhƣng cũng nhất định không thể là con cháu sinh ra từ các loại
5 rồng rắn thuồng luồng phối chủng với yêu tinh quỷ quái.

6 Dân tộc Việt Nam tự hào không phải là vì mình đƣợc thuộc về
7 chủng tộc cao sang thần thánh lừa phỉnh do vua chúa thời phong kiến
8 ban cho nhƣng chính là tinh thần quật khởi đánh đuổi ngoại xâm, ý
9 chí bền bỉ thoát khỏi sự đồng hóa, cùng với bản tính tự lực, tự cƣờng
10 mới là những yếu tố thực sự hiển nhiên kết tạo niềm tự hào dân tộc.

11 Dù thủy tổ ta có là Mƣờng, Mán, hay thuộc hàng phiên rợ Man Di


12 nhƣng ngƣời Việt Nam thuộc về loài ngƣời biết suy nghĩ, một con
13 ngƣời đích thật đúng nghĩa chứ không phải là con cháu của loài bò
14 sát.
15 Thời đại nhà Hùng và lãnh thổ Văn Lang nếu vẫn đƣợc đề cập tới
16 không phải là vì nhà Hùng đƣợc thừa nhận là thủy tổ của bộ tộc Việt
17 Nam và lãnh thổ Văn Lang là lãnh thổ nƣớc Việt Nam trƣớc thời
18 nƣớc Việt Nam có sử nhƣng chính là vì trong thời đại Văn Lang đã có
19 sự hiện hữu của bộ tộc chính tông Việt Nam cùng chung một số phận
20 bị trị nhƣ các bộ tộc Việt khác và vì lãnh thổ thực sự của bộ tộc Việt
21 Nam nằm trong lãnh thổ Văn Lang đang bị phƣơng Bắc đô hộ thống
22 trị.
23 Hùng Vƣơng thủy tổ của dân tộc Việt Nam chỉ là một sản phẩm
24 lừa dối hủ lậu thuộc về dĩ vãng và chỉ còn có mỗi một công dụng thực
25 tế là dùng làm điểm móc bắt đầu cho việc luân lƣu dòng lịch sử của
26 các triều đại phong kiến Việt Nam.
*
27 Tất cả những suy định và khảo luận ở trên để đi tới một kết luận
28 rằng:
29 1/- Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên là một sản phẩm tƣởng
30 tƣợng phản khoa học.
31 2/- Chủng tộc Việt Nam không phải là một trong những tộc chủng
32 Bách Việt từ phía Bắc đi xuống.
33 3/- Chủng tộc nguyên thủy Việt Nam có trƣớc chủng tộc Pa Wa
34 và các chủng tộc Việt khác.
35 4/- Và điều đáng chú trọng hơn hết là khoa học hiện đại gần đây
36 lại khám phá ra đƣợc rằng tổ tiên ngƣời Hoa có thể là phát xuất từ
37 chủng tộc Việt Nam nguyên thủy, từ phía Nam đi lên phía Bắc.

VSTK - 99
1 Kết luận 1, 2, 3 VSTK đã truy cứu dứt khoát ở phần trên. Nay chỉ
2 cần truy cứu phần kết luận thứ 4.
3 Các ngành khoa học tiến bộ ngày nay nhƣ Nhân chủng học và Di
4 truyền học đã đƣa ra những chứng cớ "vật chất" chính xác để chứng
5 minh cho khám phá mới mẻ nầỵ
6 Trƣớc hết, tổng hợp các lý thuyết về sự tiến hóa của nguồn gốc
7 loài ngƣời thì 3 loại ngƣời cổ xƣa nhất gọi là ngƣời vƣợn đã đƣợc
8 tìm thấy ở Đông Phi Châu:

9 1/- Ngƣời vƣợn Proteo - Anthropus xuất hiện cách nay từ 1 triệu
10 năm trở về trƣớc.
11 2/- Ngƣời vƣợn Arche - Anthropus xuất hiện cách nay vào
12 khoảng từ 100 ngàn năm đến 1 triệu năm.
13 3/- Ngƣời vƣợn Paleo - Anthropus xuất hiện cách nay trong
14 khoảng 40 ngàn năm đến 100 ngàn năm.
15 Gần hơn hết là ngƣời vƣợn Neo-Anthropus có hình tƣợng giống
16 nhƣ con ngƣời ngày nay với tên khoa học gọi là Homo - Sapiens -
17 Erectus.

18 Theo nhiều nhà nhân chủng học thì con ngƣời hiện đại là kết quả
19 của sự tiến hóa của ngƣời vƣợn cổ xƣa theo tiến trình thay đổi
20 sapiens.

21 Câu hỏi đặt ra: tiến trình sapiens là gì ?

22 Nhân chủng đặt ra lý thuyết về tiến trình Sapiens nhƣng chƣa thể
23 giải thích rõ ràng tiến trình thay đổi đó. Phải đợi đến khi có khoa Di
24 Truyền Học DNA - (DEOXYRIBO NUCLEIC ACID) ra đời ngƣời ta
25 mới có đƣợc sự giải thích thỏa đáng.
26 Khoa Di Truyền học DNA tân tiến ngày nay đã có thể giải thích
27 đƣợc mối liên hệ cấu trúc giữa ngƣời Vƣợn Phi Châu với cấu trúc của
28 Con Ngƣời Hiện Đại cũng nhƣ đã làm sáng tỏ tại sao có nhiều sắc dân
29 trên thế giới với nhiều loại màu da khác nhau trong khi chỉ có một
30 Ông Tổ của nhân loại phát tích từ vùng đất Phi Châu.

31 Theo Di Truyền học DNA thì con ngƣời hiện đại có 23 cặp vòng
32 xoắn nhiểm thể Chromosomes và ngƣời vƣợn thời thƣợng cổ có 24
33 cặp. Trong số 24 cặp vòng xoắn nầy của ngƣời vƣợn, có 5 cặp vòng
34 xoắn giống với chúng ta hiện nay.
35 Chính sự thay đổi của những cặp vòng xoắn nầy là nguyên nhân
36 tạo ra tiến trình thay đổi Sapiens, làm biến dạng hình dáng và cấu trúc
37 ngƣời vƣợn Phi Châu.

VSTK - 100
1 Cái gì đã làm thay đổi các các cặp vòng xoắn nhiễm thể ở bên
2 trong thân xác ông Tổ Phi Châu của loài ngƣời?

3 * Trƣớc hết, phải nói tới những loại tia phóng xạ nhƣ phóng xạ
4 nguyên tử, tia sáng X, tia Cực Tím và nhiều loại tia phóng xạ khác
5 nữa từ ngoại tầng không gian xuyên lớp khí quyển xăm nhập vào mặt
6 địa cầu. Các loại tia phóng xạ nầy có tác dụng tàn phá nhiều loại tế
7 bào trong cơ thể của nhân loại. Một kinh nghiệm về sự tác hại của tia
8 phóng xạ rất gần gũi với chúng ta: mỗi khi ta đi chụp hình phổi, tim,
9 gan, óc não. . . bằng quang tuyến X chúng ta sẽ bị bần thần khó chịu,
10 có khi đƣa tới tình trạng ói mửa, nhứt đầu bởi vì tia phóng xạ quang
11 tuyến X khi xuyên qua thân xác chúng ta đã tiêu diệt hàng triệu triệu
12 tế bào hồng huyết cầu và biến chúng ta thành ngƣời bị mất máu.
13 Những ngƣời da trắng muốn có một màu da nâu "thời trang" đã chịu
14 phơi mình dƣới các loại bóng đèn phát ra tia hồng ngoại tuyến hoặc ra
15 bờ biển phơi mình dƣới ánh nắng chói chang. Những tác hại về phóng
16 xạ nguyên tử trong thời buổi hiện nay đã tạo ra những hình ảnh dị
17 dạng khủng khiếp khiến cho con ngƣời hiện đại phải lo âu run sợ.

18 * Thiên nhiên trên mặt địa cầu cũng có những quy luật riêng của
19 nó và chính những quy luật nầy cũng làm thay đổi cấu trúc di truyền
20 DNA chẳng hạn nhƣ những độc chất lấy ra từ các khoáng sản, hầm
21 mỏ gây bệnh ung thƣ, các loại vi trùng gây mầm bệnh, các loại vi
22 khuẩn giết ngƣời lan tràn khắp thế giới . . .v.v . . .

23 Tất cả những nguyên do từ ngoại tầng khí quyển hợp cùng những
24 tai họa thiên nhiên có ngay trên mặt địa cầu, tất cả đã tác động lên ông
25 Tổ Phi Châu của loài ngƣời, liên tục qua thời gian cho tới một lúc nào
26 đó, sự tác động nầy đạt tới một mức gọi là điểm đột biến của diễn
27 trình thay đổi DNA mà khoa học Di Truyền gọi là Spontanious Point
28 of Mutation để tự động làm biến đổi các cấu trúc DNA của loại
29 ngƣời vƣợn Homo Erectus thành những cấu trúc của ngƣời vƣợn
30 Homo-Sapiens rồi tiếp tục tiến lần lên đến bậc thang của con ngƣời
31 hiện đại ngày nay. Sự đột biến di truyền nầy chỉ xảy ra cách nay
32 khoảng 100 ngàn năm hay từ thời đại ngƣời vƣợn Paleo-Anthropus.
33 Các loại ngƣời vƣợn trƣớc đó vì không có khả năng tự động làm biến
34 đổi cấu trúc DNA theo không gian, thời gian và điều kiện thiên nhiên
35 cho nên đã bị tuyệt tích.
36 Nhƣ vậy, Di Truyền học tân tiến ngày nay đã chứng minh đƣợc
37 rằng ngƣời vƣợn Paleo-Anthropus của các nhà nhân chủng học đã
38 chuyển hóa thành ngƣời hiện đại theo tiến trình thay đổi cấu trúc
39 DNA.

VSTK - 101
1 Ông tổ Phi Châu của loài ngƣời theo thời gian và nhu cầu mƣu
2 sinh đã phân tán đi khắp nơi trên mặt địa cầu, chia thành từng nhóm,
3 từng đợt, từng giai đoạn khác nhau:
4

5 -Nhóm qua Á Châu thành ngƣời da vàng.

6 -Nhóm qua Âu Châu thành ngƣời da trắng.

7 -Nhóm xuống phía Nam Phi Châu và qua các hải đảo để trở thành
8 những sắc dân màu nâu Negro-Australoid.

9 Hai câu hỏi đặt ra:

10 1/ -Làm cách nào ông tổ Phi Châu tới đƣợc các vùng đất liền Đông
11 Nam Á Châu và các hải đảo ở phía Nam nhƣ Úc Châu, Java (Nam
12 Dƣơng), Borneo, Phi Luật Tân . . . ?

13 2/ -Cùng một ông tổ Phi Châu mà ra nhƣng tại sao lại có Trắng,
14 Đen, Vàng, Đỏ, tóc ngay, tóc quắn, mũi lõ, mũi tẹt, mắt xanh, mắt
15 nâu, ngƣời lùn, ngƣời thấp . . .?

16 Câu hỏi 1: Làm cách nào ông tổ Phi Châu tới được các vùng đất
17 liền Đông Nam Á Châu và các hải đảo ở phía Nam như Úc Châu,
18 Java (Nam Dương), Borneo, Phi Luật Tân . . . ?

19 Họ đi thuyền, đi ghe ?
20 Hay họ dùng đƣờng bộ ?

21 Trả lời câu hỏi nầy tức là đi tìm vai trò của biển hay nói khác đi là
22 đi tìm sự thay đổi của mực nƣớc đại dƣơng trong tiến trình hình thành
23 các vùng đất liền và hải đảo hiện nay.

24 Nhìn trên bản đồ vùng Đông Nam Á Châu hiện nay, ngƣời ta đã
25 khám phá ra đƣợc rằng:
26 -Ở phía Nam, giữa Việt Nam và vùng quần đảo Nam Dƣơng chỉ
27 cách nhau bằng một vùng biển nông.
28 -Giữa mũi đất cuối cùng của Việt Nam là mũi Cà Mau và khúc
29 ruột Mã Lai, hay vịnh Thái Lan ngày nay, chỗ sâu nhất chƣa quá 50
30 mét.
31 -Ở phía Bắc nơi có đảo Hải Nam của Trung Quốc và vùng Vịnh
32 Bắc Bộ của Việt Nam các nhà địa chất khảo cổ học đã tìm thấy rằng
33 địa chất hình thành của khu vực Vịnh Hạ Long gắn liền với vai trò
34 của mực nƣớc biển, đáng chú ý một cách đặc biệt là sự thay đổi của

VSTK - 102
1 mực nƣớc Đại Dƣơng qua hàng triệu năm để kết tạo thành những môi
2 trƣờng sinh sống khác nhau qua nhiều thời đại cổ xƣa.
3 Năm 1931, nhà nữ khảo cổ học M.Colani đã đăng trong tập san
4 BEFEO một bài viết với đề mục Recherches sur le Préhistorique
5 Indochinois, trong đó bà đã đặt một giả thuyết rằng đồng bằng châu
6 thổ sông Hồng thời xa xƣa có thể là một vịnh biển cũ. Đến năm 1936,
7 một nhà khảo cổ học khác lại thêm rằng châu thổ sông Hồng trải qua
8 2 giai đoạn hình thành: Giai đoạn 1 thuộc thời kỳ băng hà Wurm và
9 trong thời kỳ đó mực nƣớc biển hạ thấp đáng kể khiến cho nhiều đồng
10 bằng rộng lớn ngày trƣớc bị tràn ngập dƣới lòng biển nay lại trồi lên
11 và các vùng biển từ phía Nam, đảo Borneo, Java (Nam Dƣơng) trở
12 thành những nhánh sông chảy tới vùng đồng bằng trồi lên vừa kể.
13 Đến cuối giai đoạn băng hà tan biến còn gọi là thời kỳ Flandrian,
14 tƣơng ứng với thời đại đồ đá mới (thời kỳ của nền văn hóa Hòa Bình,
15 Bắc Sơn), nƣớc biển lại dâng cao tiến trở vào nền các vùng châu thổ
16 cũ.
17 Nhà khảo cổ học P.W Fairbridge vào năm 1962, trong sách The
18 Level of the Sea World and change for climate, xuất bản ở Luân Đốn,
19 đã đƣa ra một bảng kê khai giả định về mực nƣớc biển thế giới so với
20 ngày nay nhƣ sau:
21 *13,000 năm trƣớc thấp hơn bây giờ -50m
22 *10,400 " -40m
23 *9000-10,000 " -30m
24 *7500 " -20m
25 *7000 " -10m
26 *5000-6000 năm trƣớc cao hơn bây giờ +3.5m
27 *4,000 " +3.5m
28 *3,000 thắp hơn bây giờ -3m
29 *2,000 " -1.5m
30 *1000 năm trƣớc đây cao hơn bây giờ +0.50m
31 *Hiện tại : 0m

32 Các giả định của những nhà khảo cổ vừa kể trên giúp ta có thể suy
33 định rằng cách nay từ 7,000 đến 13,000 năm, nhờ vào hiện tƣợng mặt
34 nƣớc biển hạ thắp trong khoảng từ -50 mét đến -10 mét các thềm lục
35 địa ở vùng Đông Nam Á Châu cao hơn mặt nƣớc biển và nhờ vậy
36 ông tổ Phi Châu từ phía Đông Nam Á và các hải đảo phía Nam rất có
37 khả năng đi tới vùng mũi Cà Mau, vùng Vịnh Hạ Long và vùng đồng
38 bằng sông Hồng của nƣớc Việt Nam ngày nay trƣớc khi tiếp tục thiên
39 di về hƣớng Bắc để qua lục địa Trung Quốc. Suy định nầy để xóa
40 tan lý thuyết vô căn cứ cho rằng tổ tiên ngƣời Việt Nam phát
41 nguồn từ tổ tiên của ngƣời Hoa hoặc từ trong nhóm Bách Việt bởi
42 vì thủy tổ của ngƣời Việt Nam cũng nằm trong một quy luật tiến
43 hóa chung của loài ngƣời hay nói khác đi chỉ có một ông tổ Phi

VSTK - 103
1 Châu là ông tổ chung của nhân loại, cũng là ông tổ của các dân
2 tộc vùng Đông Nam Á Châu bao gồm dân tộc Việt Nam.

3 Câu hỏi 2 : Cùng một ông tổ Phi Châu mà ra nhưng tại sao lại có
4 Trắng, Đen, Vàng, Đỏ, tóc ngay, tóc quắn, mũi lỏ, mũi tẹt, mắt xanh,
5 mắt nâu, người lùn, người thấp . . .?

6 Các nhà nhân chủng học cho rằng vì ảnh hƣởng của 2 loại môi
7 sinh: môi sinh bên ngoài và môi sinh thâm nhập vào bên trong cơ thể
8 của con ngƣời.
9 * Môi sinh bên ngoài nhƣ khí hậu, thời tiết, dinh dƣỡng, ánh nắng
10 mặt trời tác động lên hình dạng, da, tóc, mặt mũi của loài ngƣời ở
11 mỗi vùng khác nhau trên mặt địa cầu.

12 * Các hình thức môi sinh xâm nhập cơ thể nhƣ vi trùng, vi khuẩn,
13 các tia phóng xạ, các loại hóa chất, độc chất làm biến đổi các nhiễm
14 sắc thể DNA kéo theo sự biến đổi về hình dạng, màu da, râu tóc, bệnh
15 tật, trí óc và bản tính của con ngƣời. Những nhiễm sắc thể một khi đã
16 bị thay đổi thì sẽ tồn tại rất lâu trong con ngƣời, di truyền lại cho các
17 thế hệ mai sau cho tới khi đạt tới mộ tiến trình thay đổi bộc phát mới.

*Nhƣ vậy phải chăng tổ tiên của ngƣời Trung Hoa là ngƣời
Việt Nam ?

18 Cách đây khoảng 4 năm, nhà Di truyền học, giáo sƣ J.Y.CHU và


19 những ngƣời đồng nghiệp của ông thuộc các trƣờng đại học và trung
20 tâm nghiên cứu lớn ở Trung Quốc đã đƣa ra một bài tƣờng trình
21 nghiên cứu về Di Truyền học DNA đăng trong tập chí The National
22 Academy of Science-USA, số phát hành 20, tháng 7 năm 1988, trong
23 đó ông CHU viết rằng:
24 "Nevertheless, genetic evidence does not support an
25 independance origin HOMO-SAPIENS in China.
26 The phylogeny also suggested that it is more likely that
27 ancestor of the populations currently residing in East China
28 entered from South-East Asia". (Tạm dịch: Tuy vậy, với chứng cớ
29 khám phá bằng di truyền học cũng chƣa có gì để yểm trợ cho sự hiện
30 hữu đơn độc của một ngƣời vƣợn nguyên thủy HOMO-SAPIENS ở
31 Trung Hoa. Khảo cổ học trƣớc đây cũng cho rằng tổ tiên của dân cƣ
32 ở vùng phía Đông Trung Hoa hiện nay đã đến từ vùng Đông Nam
33 Á Châu.)

34 Khám phá của ông CHU có 2 ý nghĩa:


35 1/- Ông tổ Phi Châu không có đặt chân tới lãnh thổ Trung Hoa.

VSTK - 104
1 2/- Tổ tiên của dân Trung Hoa ở vùng phía Đông của nƣớc nầy đến
2 từ vùng Đông Nam Á.

3 Nếu nhƣ vậy thì:


4 1-/ Vùng biên giới Đông Bắc của nƣớc Việt Nam tức là vùng
5 Quảng Ninh, vùng Vịnh Hạ Long, vùng đảo Hải Nam hiện nay là
6 một trong những địa bàn mà ông tổ Phi Châu đã đặt chân tới
7 trƣớc rồi sau đó có thể con cháu của ông tổ Phi Châu ở Việt Nam
8 mới tiếp tục thiên di lên phía Bắc để xâm nhập vào nƣớc Trung
9 Hoa hiện nay và lại gặp và phối chủng với ông tổ Phi Châu của
10 các vùng Trung Á từ phía Tây Bắc thiên di sang để tạo ra chủng
11 tộc ngƣời Hoa.

12 2-/ Cũng không có gì gọi là nghịch lý để nói rằng ông tổ Phi


13 Châu-Việt Nam khi tiến lên phía Bắc đã chiếm cứ một vùng rộng
14 lớn trải dài từ phía Đông Bắc bao gồm có các vùng Liêm Châu,
15 Bắc Hải (sử cũ gọi là Hợp Phố), Ung Châu, Khâm Châu, Quảng
16 Đông và ở phía Tây Bắc bao gồm các vùng Quảng Tây, Vân
17 Nam. Các vùng đất nầy ngày nay đã bị ngƣời Hoa xâm chiếm và
18 sáp nhập vào nƣớc Trung Hoa và tổ tiên cha ông của ngƣời Việt
19 Nam đã từng nhiều phen đứng lên đòi lại chủ quyền lãnh thổ khi
20 thì bằng vũ lực nhƣ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng đi sâu vào
21 vùng Lĩnh Nam và cuộc tiến quân của Thái Öy Lý Thƣờng Kiệt
22 đi sâu vào các vùng Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu, khi thì
23 bằng đƣờng lối ngoại giao kèm theo hậu thuẫn sức mạnh quân sự
24 nhƣ việc Hoàng đế Quang Trung chuẩn bị tái chiếm các vùng
25 Quảng Đông, Quảng Tây hoặc việc đòi đất của hoàng đế Gia
26 Long dƣới hình thức ngoại giao khéo léo yêu cầu ngƣời Trung
27 Hoa phải công nhận nƣớc Việt Nam là lãnh thổ Nam Việt thuở
28 trƣớc do tên thực dân con của Trung Hoa là Triệu Đà xâm chiếm
29 bao gồm cả các vùng Quảng Tây và Quảng Đông..

30 Ông bà dân tộc Việt Nam thƣờng gọi ngƣời Hoa là Chú Ba phải
31 chăng có ý nói họ thuộc hàng vai em, sinh sau đẻ muộn, là huyết tộc
32 của ngƣời Việt Nam?
33 Tóm lại:
34 * Thủy tổ dân tộc Việt Nam không thể là rồng rắn phối chủng với
35 thần tiên, phản khoa học.
36 * Thủy tổ Việt Nam không phải phát xuất từ nƣớc Trung Hoa.
37 * Thủy tổ Việt Nam không thuộc nhóm Bách Việt .
38 * Thủy tổ của ngƣời Hoa có thể phát xuất từ Việt Nam.
39 * Thủy tổ Việt Nam là ngƣời chính gốc thuần chủng chƣa bị pha trộn
40 nhƣ chủng tộc ngƣời Hoa.

VSTK - 105
VSTK - 106
CÁC DÃU V‰T CH» VI‰T CûA NGÜ©I VIŒT NAM

(a) DÃu v‰t ch» vi‰t trên quä ÇÒng Thanh Hóa
(b) Ch» vi‰t hoa trên Çá ª Sa-pa
(c) Ch» vi‰t trên trÓng ÇÒng LÛng Cú (Hà Tuyên)
(d) Kš hiŒu væn t¿ trên lÜ«i cày ñông SÖn
(e) " rìu ñông SÖn
(f) 24 ch» cái MÜ©ng (Thanh Hóa)
(g) Væn t¿ th¡t nút cûa ngÜ©i Chàm H' Rê (Nghïa Bình)

VSTK - 107
BẢN ĐỒ PHÁT TRIỂN CÁC SẮC TỘC
VÙNG ĐÔNG Á & ĐÔNG NAM Á

VSTK - 108
 NHỮNG DI CHỈ VỀ THỜI CỔ SỬ
Ở MIỀN NAM VIỆT NAM

1 Những di chỉ thời cổ sử của miền Nam Việt Nam đã đƣợc các nhà
2 khảo cổ Pháp khai quật và nghiên cứu từ trƣớc 1975:
3 -Khi đào móng xây nền nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn (xây xong năm
4 1880) ngƣời ta đã tìm thấy những công cụ đồ đá, đồ gốm và xƣơng
5 ngƣời trong các chum, vò gốm. Silvestre.J trong sách L'Empire
6 d'Annam et le Peuple annamite, trang 283, phát hành ở Paris, 1889
7 cho biết là các xƣơng ngƣời đó là của những đứa trẻ đƣợc chôn cất
8 trong những chum, những vò bằng đất nung. Theo một tác giả ngƣời
9 Pháp khác là Mallaret thì cách chôn cất nhƣ thế là một tập tục lâu đời.
10 Ngày nay không biết ai là ngƣời đang giữ các di chỉ nầỵ
11 -Năm 1888, trong khuôn viên toà Đô Chính Sài Gòn ngƣời ta đã
12 khai quật đƣợc một chiếc cuốc có vai, kích thƣớc lớn, bằng đá. (theo
13 Mallaret.L, trong L' Archeologie du Delta du Mekong, 1963, trang
14 425 - 428).
15 -Ở đồn Cây Mai, một ngƣời Pháp là Aymonnier đã tìm thấy
16 những công cụ thời tiền sử, nhƣ rìu đồng, cuốc, mai, đục giống với
17 những hiện vật khảo cổ ở Somron Sen gần biển Hồ ở Cao Miên.
18 -Năm 1890, trong khi đào nền xây cất Khám Lớn Sài Gòn (nay là
19 Thƣ Viện Quốc Gia), ngƣời ta tìm đƣợc một cuốc/mai có vai và một
20 rìu có vai.
21 -Nơi Thảo Cầm Viên của Sài Gòn ngày trƣớc, ngƣời ta đã tìm
22 thấy những công cụ đá mài (Holbe.I, BAVH số 1 trang 43-54. Huế,
23 1915).
24 Cùng với một số di chỉ khác trong phạm vi thành phố Sài Gòn,
25 tất cả cho thấy rằng con ngƣời đã hiện diện trên đất Sài Gòn ngày nay
26 kể từ thời xa xƣa, tại nhiều nơi, qua nhiều thời điểm tiền sử khác
27 nhau.
28 Các di chỉ khảo cổ khai quật từ các nơi khác của miền Nam Việt
29 Nam nhƣ ở các vùng đất quanh tỉnh Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ Dầu
30 Một, Chợ Lớn, Gia Định, Bà Rịa, hợp thành một bộ sƣu tập khảo cổ
31 gọi là bộ sƣu tập Mongeot-Holbé, trong đó có nhiều chiếc rìu bằng
32 đồng. Bộ sƣu tập khác của Chénieux gồm nhiều hiện vật khai quật
33 đƣợc ở Xóm Cai, Bến Gỗ, Bình Đa, Lò Gạch, cù lao Rùa, Bến Cá do E.T
34 Hamy (1897, trang 48-52) mô tả lại.
35 Những di chỉ tìm đƣợc sau năm 1975 nhƣ:
36 - Di chỉ Ngãi Thắng thuộc bờ trái sông Đồng Nai do dân cƣ ở đó
37 đào thấy trong những năm 70 gồm có nhiều rìu có vai và cuốc có vai,
38 đục, đá mài . . . nhƣng không có đồ đồng.
39 - Đi ngƣợc bờ phía mặt sông Đồng Nai là di chỉ Cù Lao Rùa, cách
40 Biên Hòa khoảng hơn 5 cây số về hƣớng Tây Bắc. Đa số các di vật

VSTK - 109
1 tìm thấy đều bằng đá trong đó rìu chiếm số lƣợng nhiều nhất, một vài
2 hiện vật linh tinh nhƣ dao phay, dao có cạnh sắc; đồ gốm nhƣ nồi, đồ
3 đựng, thìa, bi gốm, dọi xe chỉ, chì móc lƣới .
4 - Những di chỉ đào đƣợc ở Mỹ Lộc (hay Gò Đá) ở quận Tân
5 Uyên/ Biên Hòa, Thái Hƣng, Phƣớc Tân, ở Cái Vạn thuộc huyện
6 Long Thành, ở Phƣớc Lễ, Phƣớc Hải, ở Bàu Thành/Bà Rịa, ở An Sơn
7 và Rạch Núi thuộc Long An và nhiều địa điểm khác, tất cả đều cho
8 thấy đa số các công cụ khai quật đƣợc đều bằng đá: ngƣời cổ ở Bến
9 Đò, Cù Lao Rùa, Phƣớc Tân, Ngãi Thắng. . . đã sử dụng những loại
10 công cụ bằng đá và dụng cụ gốm (đất nung). Rất hiếm công cụ bằng
11 đồng. Căn cứ vào chiếc lƣỡi câu bằng đá (Barthère,1911, trang 8) và
12 hòn chì lƣới, ngƣời ta có thể suy đoán rằng ngƣời cổ miền Nam cũng
13 sinh sống bằng nghề câu cá hay ngƣ nghiệp. Phải chăng họ dùng
14 những hòn bi bằng đất nung để đi săn bằng dàn ná hay óng thổi ?
15 - Gần đây, di chỉ ở Cầu Sắt ở xã Bình Lộc, quận Xuân Lộc, cách
16 Sài Gòn khoảng 60 cây số về phía Đông Bắc (cách tỉnh Xuân Lộc
17 khoảng 10 cây số về phía Tây Bắc) chính quyền Việt Nam đã tìm thấy
18 hơn 700 công cụ đồ đá, nhƣng không có dấu vết kim loại, nhà cửa,
19 mộ táng.
20 - Cuộc phát hiện các di tích khảo cổ học mới nhất (1978) là những
21 cuộc khai quật ở An Sơn (Long An) . Ở nơi nầy có 2 loại di tích khảo
22 cổ chính: các bếp than tro và những ngôi mộ rất xƣa. Bếp than tro,
23 với niên đại cách ngày nay khoảng 2855 năm, thuộc loại có kích
24 thƣớc lớn với nhiều xƣơng răng động vật, võ các loại nhuyễn thể, và
25 xƣơng ngƣời: đây là những lò bếp ngoài trời, có thể là đƣợc dùng cho
26 một nhóm hay một đoàn ngƣời, một tập thể. Ba ngôi mộ cổ đƣợc
27 khai quật : ngôi mộ 1 của một bé gái 12 – 14 tuổi; ngôi mộ 2 của một
28 phụ nữ trƣởng thành; ngôi mộ 3 của một em bé khoảng 1 – 2 tuổi.
29 Trong ngôi mộ 1 và 2 có nhiều đồ vật đƣợc chôn theo. Những hiện
30 vật khác đƣợc tìm thấy gồm có các loại đồ dùng bằng đá nhƣ rìu,
31 cuốc, đục, vòng tay, bàn mài, bằng xƣơng, bằng sừng, đất nung, gốm.
32 Kỹ thuật chế tạo khá tinh vi và tốt. Những vật bằng xƣơng, sừng thú
33 nhƣ lƣỡi câu (xƣơng chó, sừng hƣu), vòng tay làm bằng yếm rùa hay
34 sừng hƣu hoặc bằng vỏ sò, trai. Nhiều loại đồ gốm và đất nung vẫn
35 còn nguyên vẹn. Các hài cốt ngƣời ở An Sơn là những dấu tích về con
36 ngƣời cổ xƣa đƣợc tìm thấy ở miền Đông Nam Kỳ: ngƣời cổ miền
37 Nam ở giai đoạn An Sơn đã có một trình đệ phát triển cao hơn về kỹ
38 thuật sản xuất.
39 - Di chỉ đồ đồng Dốc Chùa ở xã Tân Mỹ, quận Tân Uyên với niên
40 đại cách ngày nay vào khoản trên dƣới 3,145 năm, đƣợc chính quyền
41 Việt Nam tìm thấy vào năm 1976. Di tích ở đây gồm có nhiều ngôi
42 mộ táng. Hiện vật trong mộ gồm có đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đá quý,
43 hạt chuỗi. Về di vật thì có: hiện vật bằng đá nhƣ rìu/bôn, đục; dao;
44 mũi nhọn; công cụ lƣỡi hẹp; chày; hòn ghè; đá hình đa diện; quả cân;

VSTK - 110
1 bàn mài; vòng tay; hạt chuỗi; tƣợng động vật; khuôn đúc. Hiện vật
2 bằng đồng nhƣ rìu; giáo; lao; qua đồng; dao; tƣợng động vật; vòng
3 tay; lục lạc . . .Hiện vật gốm và đất nung nhƣ dọ xe chỉ; hòn bi hình
4 cầu; mãnh gốm tròn; bàn xoay; con dấu; nồi; chậu; bình; đĩa . . .
5 - Di chỉ Suối Chồn ở xã Xuân Bình, huyện Xuân Lộc, thuộc thời
6 đại đồng thau, cùng một thời đại với di chỉ Dốc Chùa. Tại Suối Chồn,
7 ngƣời ta tìm thấy những hiện vật bằng đồng nhƣ rìu xoè cán nhỏ;
8 khuôn đúc để đúc lƣỡi rìu, lƣỡi hái, chuông nhỏ. Hiện vật bằng đá nhƣ
9 rìu đá, bàn mài, chày để nghiền, hòn ghè đập. Đồ gốm đƣợc chế tạo
10 bằng bàn xoay. Cũng ở di chỉ Suối Chồn ngƣời ta cũng tìm thấy rìu
11 sắt, kiếm sắt, mũi nhọn, liềm sắt, hoa tai bằng đá, hạt chuỗi đá: nhƣ
12 vậy, với di chỉ Suối Chồn, ngƣời ta thấy có 2 khu vực di tích có niên
13 đại khác nhau: Suối Chồn sớm của thời đại đồ đồng và Suối Chồn
14 muộn của thời đại đồ sắt.
15 Từ những di chỉ của thời đại đá mới và kim khí ở miền Nam Việt Nam
16 đƣợc tìm thấy từ trƣớc tới nay vừa đƣợc trích dẫn một cách tổng quát ở phần
17 trên, có thể suy diễn rằng cách ngày nay từ khoảng 5,000 và 2,500 năm
18 ngƣời cổ đã có mặt ở vùng nầy. Ở khu vực đất cao nhƣ Cầu Sắt (xã Bình
19 Lộc, quận Xuân Lộc) vào khoảng 5,000 năm trƣớc đây đã có những dấu hiệu
20 về nông nghiệp với những công cụ dao hái. Tiếp theo, ngƣời cổ bắt đầu
21 dùng thuật luyện kim với những khuôn đúc (di chỉ Hàng Gòn; niên đại trên
22 dƣới 3900 năm). Từ 2,500 năm, ngƣời cổ đi vào thời đại kim khí (di chỉ Suối
23 Chồn, Núi Đá, Dầu Giây) Với những công cụ bằng Đồng và sắt mặc dù vẫn
24 còn một số ít loại công cụ đồ dùng bằng đá. Ở vùng địa hình trung bình, dọc
25 theo lƣu vực sông đồng Nai, cách nay khoảng 3,000 năm đã có mặt ngƣời cổ
26 ở Dốc Chùa, Bến Đò, Bình Đa cùng với thời đại đá mới.
27 Ở các vùng địa hình thấp, với các di chỉ ở Cái Vạn (xã Phƣớc
28 Thọ, quận Long Thành), An Sơn, Rạch Núi thuộc vùng ngập nƣớc
29 ven biển, kinh tế của ngƣời cổ miền Nam dựa vào thiên nhiên: săn bắt
30 và đánh cá ven biển; xử dụng công cụ bằng đá và đã biết dùng xƣơng
31 thú vật để chế tạo công cụ nhƣ lƣỡi câu , dùi .
32 Di chỉ Dốc chùa (quận Tân Uyên) cho thấy giai đoạn phát triển
33 cao của thời đại đồng thau ở đồng bằng miền Nam Việt Nam.
34 Theo kết quả nghiên cứu về ngƣời cổ trên những chiếc sọ cổ thì
35 những di cốt ngƣời ở An Sơn (có niên đại trên dƣới 2750 năm) có
36 nhiều nét tƣơng đồng với sọ ngƣời trong thời đại văn hóa Bắc Sơn và
37 sọ ngƣời Thƣợng miền Nam Việt Nam hiện nay, thƣờng đƣợc xếp vào
38 loại hình nhân chủng Indonésien. Vào năm 1984, những sọ cổ tìm
39 đƣợc ở Óc Eo (An Giang), ở Gò Tháp (Đồng Tháp) cũng có những
40 dáng nét của ngƣời Thƣợng thuộc chủng Indonésien.
41 Ngoài ra cũng cần ghi thêm rằng năm 1934, ngƣời ta đã tìm thấy
42 1 trống đồng tại Bình Phú ở Thủ Dầu Một và 1 trống đồng ở Vũng
43 Tàu (năm 1980). Tại Long Giao (xã Xuân Tân, quận Xuân Lộc),
44 chính quyền Việt Nam cũng khai quật đƣợc một số lƣợng lớn những
45 lƣỡi qua bằng đồng: đây là một loại vũ khí dùng để tấn công theo

VSTK - 111
1 những thế bổ, chém và móc. Hiện nay ngƣời ta chƣa xác định đƣợc
2 một cách chắc chắn xem ngƣời cổ ở vùng Đồng Nai đã sản xuất ra
3 hay tiếp nhập loại lƣỡi qua nầy.

DI CHỈ KHẢO CỔ BÌNH ĐA

Thanh đàn bằng đá (Bình Đa-Thủ Đức)

Ghi Chú:
* Đƣợc tìm thấy vào tháng 1 năm 1979.
* Niên đại: 3,000 - 2,500 năm cách ngày naỵ
* Chất liệu làm đàn: đá phiến thạch ở núi Châu Thới.
* Suy diễn: do ngƣời địa phƣơng chế tạo.
* Ngƣời khai quật: Nguyễn Văn Long.
* Theo bài viết của Nguyễn Văn Long đăng trên tập chí Những Phát hiện
Khảo Cổ Học năm 1980, Hà Nội, 1980.

VSTK - 112
SỌ NGƢỜI CỔ Ở AN SƠN

Hai sọ nữ
12-14 tuổi

Nhìn trƣớc mặt


Nhìn bên trái

Ba sọ nữ đã
trƣởng thành

Nhìn trƣớc mặt


Nhìn bên trái

Nhìn từ trên xuống

Ghi chú:
Theo các tác giả Lê Trung Khá, Nguyễn Lân Cƣờng và Võ Hƣng nghiên cứu
(trong Di cốt người cổ An Sơn, 1978, trang 81- 95) thì:
* Đƣợc khai quật vào đầu năm 1978.
* Là những di tích duy nhứt về ngƣời ở miền đông Nam Kỳ.
* Có niên đại vào khoảng trên dƣới 2,750 năm cách ngày naỵ .
* Có những đặc điểm giống với lớp ngƣời indonésien trong văn hóa Bắc
Sơn và sọ ngƣời Thƣợng hiện nay.

VSTK - 113
DI CHỈ CẦU SẮT

Rìu vai

Rìu / bôn không vai

Dao hái

Bát chân cao

Mũi nhọn

Cốc
Ghi Chú:
* Trích dẫn từ tạp chí Khảo Cổ Học, số 4/1977.
* Căn cứ vào vào số nông cụ đá, rìu/bôn, dao hái và đồ dùng bằng gốm, có
thể suy diễn ngƣời cổ ở Cầu Sắt là những cƣ dân nông nghiệp.

VSTK - 114
DI CHỈ DỐC CHÙA

Quả cân bằng đá

Rìu đá không vai

Lƣỡi rìu bằng đồng

Rìu đá có vai

Mũi lao bằng đồng

Lƣỡi cuốc bằng đá có vai Mũi giáo bằng đồng

Ghi Chú:
* Khai quật năm 1976 (Nguyễn Văn Long,Những Phát hiện Khảo Cổ Học
năm 1976, trang 136-132, Hà Nội, 1976).
* Niên đại khoảng trên dƣới 3,145 năm cách ngày naỵ
* Số lƣợng khuôn đúc đồng (74 chiếc) và đồ đồng (68 hiện vật) thuộc
hàng rất phong phú ở Đông Dƣơng và Đông Nam Á cùng với một số
lƣợng lớn các loại vũ khí tấn công nhƣ giáo, lao, qua.

VSTK - 115
DI CHỈ SUỐI CHỒN

Hoa tai

Hoa tai

Hạt chuỗi Hạt chuỗi Hạt chuỗi

Vòng tay
Vòng tay

Lƣỡi kiếm bằng sắt


Lƣỡi rìu bằng đồng-thau
Ghi chú:
* Khai quật năm 1978. (Nguyễn Mạnh Lợi, Đỗ Bá Nghiệp và Nguyễn Văn
Long, Những phát hiện KCH ở miền Nam, 1978, trang 179-190).
* Cùng một niên đại với di chỉ Dốc Chùa.
* Khu Suối Chồn muộn (thời đại sắt) gồm các hiện vật nhƣ: kiếm sắt, rìu sắt,
hoa tai bằng đá, hạt chuỗi đá, rìu đá.
* Khu Suối Chồn Sớm (thời đại đồng – thau) gồm các hiện vật bằng đồng nhƣ
rìu xòe cán nhỏ, khuôn đúc đồng; đồ đá nhƣ rìu đá, bàn mài, chài nghiền.

VSTK - 116
DI CHỈ GÕ THÁP VÀ ÓC EO

Sọ cổ ở Óc Eo
Sọ cổ ở Óc Eo

Tƣợng ngƣời bằng đá ở Cần Giuộc


Ghi chú:
* Hai chuyên gia khảo cổ Việt Nam là Hồ Sĩ Khải và Lê Trung Khá tìm thấy 2 sọ
cổ ở Gò Tháp (Đồng Tháp) và ở Óc Eo (An Giang) vào năm 1984 trên các khu di chỉ
văn hóa Óc Eo.
* Có những đặc điểm của những ngƣời Thƣợng hiện naỵ

VSTK - 117
DI CHỈ LONG GIAO

Hai trong số những lƣỡi qua đồng tìm thấy ở Long Giao
(xã Xuân Tân, quận Xuân Lộc)

Ghi Chú:
* Qua là loại vũ khí tấn công dùng để bổ, chém và móc.

VSTK - 118
DI CHỈ Ở BÀU TRÕ

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

VSTK - 119
DI CHỈ Ở PHONG NHA

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

VSTK - 120
DI CHỈ QUẢNG BÌNH

Thời đại đồ đồng


Ghi chú:
* (1): Tay cán mũi giáo; (2), (3), (4): Lƣỡi giáo bằng đồng.
* Các di vật nầy đƣợc trƣng bày ở viện bảo tàng Khải Định ở Huế.
* Hình trích từ tập san BAVH, số tháng 1, 1936.
* Hiện vật số (3) là di chỉ ở Cƣơng Hà (Bố Trạch, Đồng Hới)

VSTK - 121
DI CHỈ CƢƠNG HÀ (Bố Trạch, Đồng Hới)

Ghi chú:
* (5) : Lƣỡi giáo bằng sắt, tay cán giáo bằng đồng.
* (1) và (2): lƣỡi rìu bằng đồng hình tam giác
* (3), (6), (4), (7): lƣỡi rìu bằng đồng.
* Các di vật đƣợc trƣng bày ở viện bảo tàng Huế
* Hình trích từ tập san BAVH, số tháng 1, 1936.

VSTK - 122
DI CHỈ LẠC Ý (Vĩnh Yên)

Mộ cổ thời nhà Hán


Ghi Chú:
* Khai quật vào năm 1933 ở Lạc Ý tỉnh Vĩnh Yên
* Trích dẫn từ BAVH, tháng 12, năm 1934

VSTK - 123
DI CHỈ NGHI VỆ (Bắc Ninh)

Mẫu thành quách (?) và nhà ở (?) tim thấy trong các ngôi mộ
thời nhà Hán ở làng Nghi Vệ tỉnh Bắc Ninh.
(Trích dẫn từ BAVH, tháng 12, năm 1934)

VSTK - 124
QUYỂN I

CHƢƠNG II

T H Ụ C P H Á N(1)
(257 - 207 TTL)

1 Vào thời Nhà Chu ở Trung Hoa sắp bị nhà Tần


2 thay thế, khoảng năm 257 TTL, Thục Phán thôn tính
3 và chiếm cứ lãnh thổ Văn Lang, xƣng vƣơng, đổi tên
4 lãnh thổ là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (2), không
5 thần phục nhà Chu.
6 Năm 255 TTL, Thục Phán xây xong thành trì và
7 cung điện theo hình xoáy trôn ốc gọi là Loa thành. Ở
8 Trung Hoa, từ năm 255 đến năm 249 TTL nhà Chu đã
9 suy yếu (lúc nầy gọi là Đông Chu), các chƣ hầu (3) liệt
10 quốc(4) mỗi ngƣời làm vua một cõi, nƣớc Trung Hoa bị
11 chia cắt thành nhiều nƣớc riêng nhƣ Tần, Sở, Yên,
12 Triệu, Ngụy, Hàn, Tề.
13 Năm 249 TTL nhà Chu mất.
14 Khoảng năm 246 TTL vua nƣớc Tần là Lữ Chính
15 đánh chiếm tất cả sáu nƣớc kia, thống nhất nƣớc Trung
16 Hoa lên ngôi Đế (Tần Thủy Hoàng), bắt đầu xây dựng
17 Vạn Lý Trƣờng Thành để ngăn chận quân Hung Nô
18 quấy nhiễu.
19 Năm 214 TTL Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thƣ và Sử
20 Lộc đánh chiếm vùng đất từ Động Đình hồ sâu xuống
21 tận vùng Lĩnh Nam và miền Lục Lƣơng(5) của lãnh thổ
22 Âu Lạc(6) rồi đặt thành các quận Quế Lâm (Quảng
23 Tây), Nam Hải (Quảng Đông), và Tƣợng Quận (một
24 phần vùng đất phía Bắc của bộ Giao Chỉ), cho Nhâm
25 Ngao cai quản quận Nam Hải và Triệu Đà giữ chức
26 huyện lệnh huyện Long Xuyên.
VSTK - 125
1 Năm 210 TTL Tần Thủy Hoàng mất ở Sa Khâu. Tần
2 Nhị Thế Hồ Hợi kế ngôi. Nhâm Ngao cùng với Triệu
3 Đà liền đem quân sang đánh Thục Phán. Triệu Đà thua
4 trận ở núi Tiên Du(7) phủ Bắc Giang(8) còn Nhâm Ngao
5 vì không chịu nổi khí hậu phong thổ ngã bệnh nên phải
6 rút lui trở về .
7 Sau khi Triệu Đà đƣợc Nhâm Ngao giao hết binh
8 quyền liền đem quân đóng ở vùng núi Vũ Ninh(9) rồi
9 giả trá cầu hòa với Thục Phán. Thục Phán cắt một
10 phần đất lãnh thổ Âu Lạc từ sông Bình Giang (10) trở lên
11 phía Bắc để chia cho Triệu Đà cai trị còn từ sông Bình
12 Giang trở xuống miền Nam thì thuộc quyền cai trị của
13 Thục Phán.
14 Vì chiến lƣợc điều quân cung nỏ xung trận của Thục
15 Phán rất hiệu nghiệm cho nên Triệu Đà mới cầu hôn,
16 cho con trai sang ở rể nhà Thục Phán để làm gián điệp
17 dọ thám trận thế cung nỏ.
18 Năm 208 TTL Triệu Đà lại đem quân sang đánh,
19 phá vỡ đƣợc trận thế cung nỏ của Thục Phán, chiếm
20 trọn vẹn lãnh thổ Âu Lạc, lập ra lãnh thổ Nam Việt (11).
21 Thục Phán thua chạy rồi nhảy xuống biển tự tận.
22 Lãnh thổ Văn Lang qua đến thời Triệu Đà chỉ còn
23 có Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây),
24 Tƣợng Quận (vùng đất về phía Tây của Quảng Tây và
25 phía Nam Quý Châu) và toàn thể vùng đất của miền
26 Bắc Việt Nam ngày nay.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

27 (1)Thục Phán: ĐVSKTT chép: Họ Thục, tên húy là Phán, người đất
28 Ba Thục. KĐVSTGCM trong phần Cẩn án viết: Nước Thục từ năm
29 thứ 5 đời Thận Tỉnh Vương nhà Chu (316 TTL) đã bị nhà Tần diệt
30 rồi, sao còn có vua được? Huống chi từ đất Thục đến Văn Lang còn
31 có đất Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ Lang, đất Cùng Tác và
32 đất Nhiễm Mang (những đất nầy xƣa là đất man di, mọi rợ ở phía Tây
33 Nam, nay thuộc Vân Nam), cách nhau hai ba ngàn dặm thì làm sao
34 mà vua đất Thục có thể vượt ngang qua các nước ấy để sang đánh lấy

VSTK - 126
1 nước Văn Lang ? Sử cũ đã chép: "Cháu của Thục Vương là Phán",
2 lại chép: "An Dương Vương họ Thục, húy là Phán, người Ba Thục",
3 hoặc giả ngoài cõi Tây Bắc giáp với nước Văn Lang còn có họ Thục
4 nào khác mà sử cũ liền nhận là Thục Vương chăng? Còn nói rằng
5 Thục Vương là người đất Ba Thục thì không đúng."
6 (2) Phong Khê: Về sau là thành Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc
7 Ninh. Hiện nay Cổ Loa còn di tích ở huyện Đông Anh, Hà Nội.
8 (3) Chƣ hầu: nƣớc nhỏ chịu thần phục một nƣớc lớn nhƣng không bị
9 lệ thuộc hẳn vào nƣớc lớn nhƣ trƣờng hợp những nƣớc thuộc địa.
10 (4) Liệt quốc: các nƣớc.
11 (5) Lục Lƣơng: vùng đất của hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây bây
12 giờ tức là quận Nam Hải và quận Quế Lâm của Tần Thủy Hoàng.
13 (6) Âu Lạc: tức là lãnh thổ Văn Lang cũ.
14 (7) Tiên Du: ở huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc (LTHHCLC/
15 Dƣ địa chí).
16 (8) Bắc Giang: tức là Kinh Bắc vào thời nhà Đinh, nay là tỉnh Hà Bắc.
17 (9) Vũ Ninh: tức là huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc (lúc nầy
18 đã bị sáp nhập vào quận Nam Hải của Tần Thủy Hoàng) .
19 (10) Bình Giang: tức là sông Thiên Đức, phủ Từ Sơn, huyện Tiên Du,
20 làng Cổ Pháp (nay là Đình Bảng). LLTHCLC viết: "Sông Thiên Đức
21 (Bình Giang) từ dòng nhánh của sông Nhị chảy qua các huyện Đông
22 Ngàn, huyện Quế Dương, huyện Tiên Du rồi chảy vào sông Lục Đầu.
23 Từ đầu đời nhà Lê đặt châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức vì thế gọi
24 sông ở đây là sông Thiên Đức."
25 (11) Nam Việt: là lãnh thổ của Triệu Đà thời cổ xƣa, không phải là
26 vùng phía Nam của nƣớc Việt Nam ngày nay.

KHẢO LUẬ N:

THỤC PHÁN

27 Sở dĩ có sự thắc mắc tranh luận về gốc tích của Thục Phán là vì


28 ĐVSKTT đã phóng đại khi cho rằng lãnh thổ Văn Lang là lãnh thổ
29 Việt Nam trong thời thƣợng cổ chứ không phải ĐVSKTT phóng đại
30 cƣơng giới của lãnh thổ Văn Lang: cƣơng giới phía Tây Bắc của lãnh
31 thổ Văn Lang giáp liền với đất Ba Thục nhƣ vậy từ Ba Thục sang
32 đánh chiếm Văn Lang không có gì gọi là xa xôi trở ngại cả.
33 KĐVSTGCM cũng cho rằng lãnh thổ Văn Lang là nƣớc Việt Nam
34 nhƣng cƣơng giới thu hẹp lại với những lãnh thổ của 14 bộ tộc ở về
35 phía cực Nam nƣớc Trung Hoa với phía Bắc giáp Quảng Đông và
36 Quảng Tây, phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Vân Nam, phía Nam
37 giáp Chiêm Thành, tức là vùng Bắc nƣớc Việt Nam ngày nay. Vì thế,

VSTK - 127
1 nếu theo KĐVSTGCM thì hiển nhiên là lãnh thổ Ba Thục và lãnh thổ
2 Văn Lang cách biệt nhau quá xa.
3 Theo ĐVSKTT Thục Phán là ngƣời đất Ba Thục; theo một chú
4 thích trong LNCQ thì Ba Thục xƣa vốn là một nƣớc riêng, sau bị nhà
5 Tần diệt thì trở thành Thục Quận gồm có các phủ Thành Đô, Long
6 An, Đồng Xuyên, Nhã Châu của tỉnh Tứ Xuyên nƣớc Trung Hoa bây
7 giờ.
8 Lãnh Thổ Văn Lang qua tay Thục Phán chỉ trong vòng hơn 40
9 năm mà đã bị thu hẹp lại chƣa bằng lãnh thổ của vùng miền Bắc của
10 nƣớc Việt Nam bây giờ. KĐVSTGCM/TB.1/10 cho biết: trong khi
11 ngƣời của các bộ tộc Việt trong những vùng bị chiếm đóng không
12 chịu hợp tác, bỏ trốn vào rừng tổ chức đội ngũ để đánh lại quân Tần
13 và giết đƣợc Đồ Thƣ thì Thục Phán vẫn im hơi lặng tiếng chẳng dám
14 phản kháng hoặc đƣa quân chống cự khiến cho bộ tộc Giao Chỉ lúc
15 đó phải chịu một cổ hai tròng của hai đám ngoại xăm Thục, Tần, cả
16 hai đều cùng từ nƣớc Trung Hoa đến.
17 Xét cho cùng thì Thục Phán cũng là một kẻ ngoại bang, thừa cơ
18 hội nhà Chu suy yếu mà chiếm đoạt lãnh thổ Văn Lang với tham vọng
19 xƣng hùng xƣng bá, giống nhƣ những đám liệt quốc thời Đông Chu
20 bên Trung Hoa, cũng là một trong những nhóm thực dân xăm lƣợc từ
21 phƣơng Bắc chứ chẳng có công trạng gì với bộ tộc Việt Nam thời cổ
22 thế mà vẫn đƣợc dân chúng Việt Nam lập đền miếu tôn thờ.

VSTK - 128
QUYỂN I

CHƢƠNG III

T R I Ệ U ĐÀ
( 207 - 137 )

1 Triệu Đà là ngƣời Hoa, quê quán ở huyện Chân


2 Định. Năm 206 TTL, nhân lúc nhà Tần vừa mất và sau
3 khi đã diệt đƣợc Thục Phán, Triệu Đà liền sáp nhập
4 lãnh thổ Âu Lạc chung vào với các lãnh thổ Quế Lâm,
5 Tƣợng Quận, Nam Hải để thành lập một lãnh thổ mới
6 gọi là Nam Việt, xƣng vƣơng, đóng đô ở Phiên
7 Ngung(1) muốn sánh ngang hàng với Hán Bá vƣơng
8 Lƣu Bang và Sở Bá vƣơng Hạng Tịch đang tranh
9 hùng(2) giành ngôi đế ở Trung Hoa.
10 Năm 202 TTL, sau khi diệt nhà Tần, trừ đƣợc Sở Bá
11 Vƣơng, Hán Bá vƣơng Lƣu Bang lên ngôi hoàng đế
12 tức là Cao Tổ của nhà Hán, thống nhất nƣớc Trung
13 Hoa, bình định đƣợc thiên hạ, ngoại trừ lãnh thổ Nam
14 Việt vẫn do Triệu Đà chiếm giữ.
15 Năm 198 TTL, Triệu Đà cắt đặt sứ thần(3) cai quản
16 quận Giao Chỉ(4) và Quận Cửu Chân(5) ; quận Giao Chỉ
17 lúc nầy gồm có 9 bộ cũ của lãnh thổ Văn Lang ngày
18 trƣớc: Giao Chỉ, Chu Diên, Phúc Lộc, Vũ Ninh, Ninh
19 Hải, Dƣơng Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Tân Hƣng;
20 riêng Quận Cửu Chân thì gồm có 3 bộ Cửu Chân, Hoài
21 Hoan và Việt Thƣờng. Năm 195 TTL Hán Cao Tổ
22 mất, Hán Huệ Đế lên thay nhƣng vợ Hán Cao Tổ là Lữ
23 hậu quyền hành lấn áp Huệ Đế.
24 Sau khi Huệ Đế mất (188 TTL), Lữ hậu giữ trọn
25 quyền triều chính nhà Hán .
26 Năm 184 TTL Lữ hậu đóng cửa biên giới, cắt đứt
27 giao thƣơng với Nam Việt. Triệu Đà tức giận tự xƣng

VSTK - 129
1 Nam Việt hoàng đế (183 TTL) theo nghi vệ thiên tử,
2 phát quân đánh đất Trƣờng Sa(6), đốt phá một số quận
3 rồi rút về. Lữ hậu sai tƣớng Chu Tào đem quân sang
4 đánh Triệu Đà để trả thù vụ đánh Trƣờng Sa nhƣng
5 quân Hán không hạp phong thổ phƣơng Nam mắc
6 bệnh rất nhiều nên thua phải rút lui về. Triệu Đà thắng
7 thế liền thu phục đất Mân Việt(7) , chiếm đất Tây Âu(8) ,
8 thanh thế lừng lẫy, nghi vệ không kém gì hoàng đế nhà
9 Hán của nƣớc Trung Hoa.
10 Năm 180 TTL Lữ hậu mất, con của vợ lẻ Hán Cao
11 đế tên là Hằng lên kế nghiệp tức Hán Văn đế Hằng.
12 Sau khi sửa sang chăm sóc mồ mả tổ tiên của Triệu
13 Đà chôn cất ở Chân Định và cấp quan chức cho anh
14 em của họ Triệu ở Trung Hoa, Hán Văn đế sai Lục Giả
15 trở qua Nam Việt chiêu dụ Triệu Đà lập lại bang giao,
16 hai bên không gây hấn chiến tranh với nhau nữa. Triệu
17 Đà viết thƣ trả lời chịu thần phục làm chƣ hầu, đổi
18 tƣớc danh, bỏ đế hiệu, chịu triều cống và khi xƣng hô
19 gọi Hán đế là thiên tử bệ hạ.
20 Năm 137 TTL Triệu Đà mất, chôn ở Ngung Sơn(9);
21 con đích tôn là Triệu Hồ lên kế nghiệp gọi là Triệu
22 Văn Vƣơng Hồ. Năm 135 TTL vua đất Mân Việt lại
23 nổi dậy đánh phá vùng biên giới Nam Việt, Triệu Hồ
24 không dám tự quyết phải cầu Hán đế cứu viện. Quân
25 nhà Hán bắt giết vua Mân Việt xong bèn gởi uy lệnh
26 bắt Triệu Hồ sang chầu để thi hành bổn phận của một
27 chƣ hầu. Triệu Hồ cho con là Triệu Anh Tề thay mặt
28 sang chầu và làm con tin. Triệu Anh Tề ở lại bên
29 Trung Hoa, lấy vợ ngƣời Hoa là Cù Thị sinh ra Triệu
30 Hƣng. Cù Thị trƣớc đó đã thông dâm ăn nằm với quan
31 của Hán đế là An Quốc Thiếu Úy(10) .
32 Năm 125 TTL Triệu Hồ chết, Anh Tề từ bên Trung
33 Hoa trở về kế tục gọi là Triệu Minh Vƣơng Anh Tề,
34 phong vợ lẻ Cù Thị làm hoàng hậu, lập con thứ Triệu
VSTK - 130
1 Hƣng làm thế tử, phong cựu thần Lữ Gia(11) làm Thái
2 phó.
3 Năm 113 TTL, Triệu Anh Tề mất, Triệu Hƣng kế
4 nghiệp gọi là Triệu Ai Vƣơng, phong cho mẹ Cù thị
5 làm thái hậu lấn áp hết quyền hành của Triệu Hƣng.
6 Hán đế lại lệnh cho Triệu Hƣng sang chầu có ý ép
7 Nam Việt vào khuôn khổ của Hán triều. Triệu Hƣng
8 cho ngƣời đại diện đi thay vì thế Hán đế liền sai quan
9 An Quốc Thiếu Úy sang thúc hối đồng thời âm mƣu
10 với thái hậu Cù thị sáp nhập lãnh thổ Nam Việt vào
11 nƣớc Trung Hoa.
12 Lữ Gia và dƣ luận ở Nam Việt chống đối ý đồ sáp
13 nhập lãnh thổ; vì thế Cù thị một mặt viết thƣ trả lời
14 thần phục nhà Hán để lấy hậu thuẫn, một mặt sắp đặt
15 mƣu độc sát hại Lữ Gia .
16 Lữ Gia biết rõ âm mƣu và tình ý của Cù thị bèn khởi
17 xƣớng tạo phản, diệt Cù thị và Triệu Hồ, giết hết sứ
18 giả của Hán đế rồi lập con trƣởng của Anh Tề là Triệu
19 Kiến Đức lên kế tục. Mẹ của Kiến Đức là ngƣời từ một
20 trong các bộ tộc Việt.
21 Năm 111 TTL Hán đế sai nhiều tƣớng giỏi(12) chinh
22 phạt Nam Việt, hợp binh đánh Phiên Ngung trả đũa
23 việc Lữ Gia giết sứ giả của nhà Hán. Lữ Gia và Kiến
24 Đức đều bị bắt giết. Các quan sứ(13) của họ Triệu ở các
25 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam mang lễ vật và
26 sổ bộ ra xin hàng.
27 Kể từ lúc nầy, lãnh thổ Nam Việt là thuộc địa của
28 Trung Hoa dƣới quyền thống trị của nhà Hán và gọi là
29 bộ Giao Chỉ, gồm có 9 quận: Nam Hải, Thƣơng Ngô,
30 Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam,
31 Châu Nhai, Đạm Nhĩ. Mỗi quận đặt một thái thú để cai
32 trị.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

VSTK - 131
1 Phiên Ngung: thuộc quận Nam Hải, nay là phủ Quảng Châu tỉnh
(1)
2 Quảng Đông.
3 (2)Hán Sở tranh hùng: thời cổ, nƣớc Trung Hoa gồm có nhiều vùng
4 lãnh thổ riêng biệt gọi là những nƣớc chƣ hầu thuộc vòng kiềm toả
5 của một nƣớc mạnh nhƣng không bị lệ thuộc hoàn toàn nhƣ thân phận
6 của những nƣớc thuộc địa. Ngƣời cầm quyền nƣớc mạnh gọi là hoàng
7 đế; tất cả nƣớc chƣ hầu phải triều cống và chịu dƣới quyền sai khiến
8 của hoàng đế. Số nƣớc chƣ hầu mỗi thời một khác. Đến thời nhà Chu
9 (1122-256 TTL), nƣớc Trung Hoa cũng còn gần 100 nƣớc đƣợc
10 phong chƣ hầu và đƣợc chia ra làm nhiều thứ bậc tùy theo diện tích
11 của vùng lãnh thổ của mình hay đƣợc nƣớc lớn cắt ban cho: nƣớc lớn
12 đất rộng 100 dặm đƣợc gọi là Công, Hầu, nƣớc rộng cỡ trung 70 dặm
13 thì gọi là Bá v.v . . .
14 (3)Sứ thần: ngƣời đại diện của một quốc gia đi công tác ở nƣớc
15 ngoài.
16 (4) Quận Giao Chỉ : tức là toàn miền Bắc Việt Nam ngày nay.
17 Quận Cửu Chân: thời Triệu Đà gồm có Thanh Hóa, Nghệ An,
(5)
18 Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Còn hai bộ Bình Văn , Cửu
19 Đức thì không thấy chú giải trong sử cũ.
20 (6)Trƣờng Sa: là lãnh thổ của một chƣ hầu nhà Hán nay là phần đất
21 phía Đông tỉnh Hồ Nam bên Trung Hoa.
22 Mân Việt: tên một bộ tộc Việt vùng Phúc Kiến, Chiết Đông phía
(7)
23 Đông nƣớc Trung Hoa.
24 Tây Âu: theo chú giải của Nhan Sƣ Cổ (đời nhà Đƣơng) Tây Âu là
(8)
25 một phần của Lạc Việt.
26 Ngung Sơn: theo Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống,
(9)
27 Ngung Sơn cách huyện Nam Hải mộ dặm về phía Bắc. Theo sách
28 Ngô Lục, Phiên huyện ở Ngung Sơn là chỗ chôn Úy Đà.
29 (10)An Quốc Thiếu Öy: ĐVSKTT viết: "An Quốc là họ, Thiếu Úy là
30 tên" (NK/Q.II/13a). Tuy nhiên An Quốc Thiếu Öy có thể là một
31 chức tƣớc bên hàng quan võ giống nhu An Quốc Công, An Quốc
32 Thƣợng tƣớng . . .
33 (11) Lữ Gia: là ngƣời Hoa, từng đƣợc Hán đế ban tặng cho ấn bạc.

34

VSTK - 132
1 Tƣớng giỏi của Hán đế: gồm có tƣớng Phục ba Lộ Bác Đức, Lâu
(12)
2 Thuyền tƣớng Dƣơng Bộc, Qua Thuyền tƣớng Nghiêm, Hạ Lại tƣớng
3 Giáp, Trì Nghĩa hầu Quế. Tất cả đều tiến đánh Phiên Ngung.
4 (13)Các quan sứ: KĐVSTGCM có lời cẩn án rằng: "trước đây Triệu
5 Đà chỉ sai hai sứ quan để cai trị hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân mà
6 thôi. Ở đây ĐVSKTT lại nói sai ba quan sứ đem sổ h tịch của ba
7 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam ra hàng quân Hán thì thực
8 là trái ngược nhau". Cẩn án lại dẫn sách Thủy Kinh Chú của Lịch
9 Đạo Nguyên cũng chỉ ghi có hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, không
10 nói đến quận Nhật Nam.
11 Tuy nhiên chúng ta có thể nhận thấy rằng từ thời Triệu Đà thành
12 lập lãnh thổ Nam Việt cho đến thời Triệu Kiến Đức là một khoảng
13 thời gian dài 97 năm trải qua 5 đời. Trong khoảng gần một trăm năm
14 đó nhất định phải có sự thay đổi về việc cắt cử nhân sự để cai trị các
15 vùng đất nằm trong lãnh thổ Nam Việt. Thời Triệu Đà chỉ có hai sứ
16 trông coi Giao Chỉ và Cửu Chân nhƣng cho đến cuối thời họ Triệu
17 vào năm 111 TTL thì nhất định phải có thêm nhiều sứ khác để cai trị
18 nhiều vùng đất thuộc lãnh thổ Nam Việt trong đó quận Nhật Nam là
19 một trƣờng hợp cụ thể .

K H Ả O LU Ậ N

NHÂN VẬT TRIỆU ĐÀ

20 * Lê Văn Hƣu nói: "Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành
21 phong tục mặc áo đi mũ (nhƣ Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái
22 Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuần là người
23 Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ đế. Văn vương là người
24 Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam đại. Thế mới biết người giỏi trị
25 nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đất mà
26 thôi. Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) khai thác đất Việt ta mà tự xưng đế, đối
27 ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là lão phu, mở đầu cơ nghiệp đế
28 vương cho nước Việt ta công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm
29 vua nước Việt sau nầy nếu biết bắt chước Vũ đế mà giữ vững bờ cõi,
30 thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi
31 bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không
32 thể lại ngắp nghé được." (ĐVSKTT/NK/Q.2/ 8a)

33 * Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là ải hiểm
34 cửa ngõ của nước cũng như Hồ Lao của nước Trịnh, Hạ Dương của
35 nước Quắc. Làm vua nước Việt tất phải đặt quân chỗ hiểm để giữ
36 nước. Họ Triệu một khi đã không giữ được đất hiểm ấy thì nước mất
37 dòng tuyệt, bờ cõi bị chia cắt. Nước Việt ta lại bị phân chia, thành ra

VSTK - 133
1 cái thế Nam Bắc vậy. Sau nầy các bậc đế vương nổi dậy, chỗ đất
2 hiểm đã mất rồi khôi phục lại tất nhiên là khó. . . .; mà các nhà Đinh,
3 Lê, Lý, Trần chỉ có đất từ Giao Châu trở về Nam thôi, không khôi
4 phục được đất cũ của Triệu Vũ Đế, cái thế khiến như vậy."

5 * Vua Tự Đức trong KĐVSTGCM có lời phê nhƣ sau: "Xét chung
6 trước sau thì đất Việt của ta bị mất nhập vào nước Tàu đã hơn quá
7 nửa. Tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng có nhiều bậc lỗi
8 lạc xuất hiện ra đời, nhưng rốt cục cũng không có khả năng để lấy lại
9 được một tấc, thật đáng ân hận lắm . . ." (KĐVSTGCK/TB.2/ 4)

10 * Ngô Thời Sĩ bàn: "Xét sách Việt Chí, cách phía Tây huyện Hưng
11 Yên thuộc tỉnh Quảng Tây 40 dặm có một cái thành tương truyền do
12 Tần Thủy Hoàng đắp ra để ngăn cách nước Việt, chân móng xây
13 bằng đá, nền cũ hãy còn. Về phía Tây Nam cũng có thành của nước
14 Việt ta, phía Bắc cách thành của nhà Tần 20 dặm có cửa ải nghiêm
15 cấm, hai bên núi đứng cao, giữa chỉ vừa một con ngựa đi lọt, khi có
16 tuyết chỉ đi được đến đấy thôi, nếu có tuyết lớn, có khi chỉ đi được đến
17 quận Quế Lâm, không đi tới phía Nam được nữa. Lúc nhà Tần đắp
18 thành là vào lúc Tần Thủy hoàng chưa mở mang tới đất Dương Việt,
19 mà khí hậu của trời và hình thế của đất, đã có giới hạn Nam Bắc nhất
20 định rồi. Đến khi nhà Tần chia nước ta ra làm quận huyện, thì đất
21 Ngũ Lĩnh thành ra đất của Trung Quốc. Họ Triệu chiếm lấy đất ấy
22 của nhà Tần. Đến nhà Hán lại diệt họ Triệu mà lấy lại thì đất Giao
23 Nam ta lại ở ngoài Ngũ Lĩnh, Ngũ Lĩnh trước thuộc nhà Triệu sau lại
24 thuộc về nhà Hán vì Triệu mất nước. Như vậy, Ngũ Lĩnh vốn không
25 phải là địa giới của 3 . . . .quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
26 Nếu nhà Triệu giữ được thì ba quận ấy cũng chỉ là thuộc địa của
27 Triệu mà thôi. Sau nầy Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ có đất cũ từ Giao Châu
28 trở về phía Nam chứ không phải là do ở chỗ nhà Triệu để mất ở vùng
29 đất hiểm mà gây nên như thế. Nhà Triệu đặt hai viên sứ ở trong nước
30 Việt tức là đất của hai quận đời nay, thì sao lại cho rằng Ngũ Lĩnh là
31 chỗ hiểm của 3 quận được để rồi tiếc cho Đinh, Lê, Lý, Trần không
32 lấy lại được đất cũ ?" (LTHCLC/ Dƣ Địa Chí/ Lời bàn của Ngô Ngọ
33 Phong tức Ngô Thời Sĩ).

34 Trong Việt Sử Tiêu Án Ngô Thời Sĩ cũng có đoạn viết: "Đến như
35 việc tán tụng công lao của Triệu Đà đã xướng ra cơ nghiệp đế vương
36 trước tiên, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên cứ
37 theo cách chép nầy không thay đổi, rồi đến bài Tổng Luận của Lê Tu,
38 thơ vịnh sử, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng
39 cho Triệu Đà là bậc đế của nước ta. Qua hàng ngàn năm mà không
40 ai cải chính, vì thê mà tôi phải giải bày cho tường tận."

VSTK - 134
1 * Phan Huy Chú viết: "Thường khảo: từ đời Triệu Vũ trở về trước,
2 đất Ngũ Lĩnh đều là cõi đất của Việt. Đến khi Triệu đã mất nước thì
3 các đời sau chỉ có vùng Giao Nam, thế thì đất ở chỗ quan ải (chỗ biên
4 giới của hai nước)trước sau không giống nhau." (LTHCLC/ Dƣ Địa
5 chí/ Tựa của Phan Huy Chú)
6 Lời Án của Phan Huy Chú viết :". . .Nay xét các sách các sách dư
7 địa chí thì quận Nam Hải, Hợp Phố nay thuộc Cao Châu, Liêm Châu,
8 quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ nay thuộc Quỳnh Châu-Đạm Châu trong
9 địa giới tỉnh Quảng Đông, quận Thương Ngô, Uất Lâm nay thuộc tỉnh
10 Quảng Tây. Duy chỉ có quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam mới là
11 đất của ta:
12 Quận Giao Chỉ có 12 huyện: Lâm Biên, Liên Lâu, An Định, Câu
13 Lậu, Mi Linh, Khúc Dương, Bắc Đới, Kê Từ, Tây du, Chu Diên,
14 Phong Khê, Vọng Hải. (KĐVSTGCM chép là 10 huyện không có
15 Phong Khê, Vọng Hải)
16 Quận Cửu Chân có 5 huyện: Tư Phố, Cư Phong,, Hàm Hoan, Vô
17 Công, Vô Thiết. (KĐVSTGCM chép là 7 huyện, thêm 2 huyện Đô
18 Bàng, Dƣ Phát)
19 Quận Nhật Nam có 5 huyện: Chu Ngô, Tây Quyền, Tượng Lâm,
20 Lư Dung, Tỵ Ảnh."

21 *Trần Trọng Kim trong VNSL viết kết luận về thời cuối của dòng
22 họ Triệu Đà nhƣ sau :" . . .Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi
23 (tức là Triệu Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia) đều bị hại cả. Năm
24 ấy là năm Canh Ngọ (111 trƣớc Tây lịch), nước
Nam bị người Tàu chiếm lấy cải là Giao Chỉ bộ, chia ra làm 9 quận
và đặt quan cai trị như các châu quận bên Tàu vậy."

25 * Hoàng Xuân Hãn trong Đại Nam Quốc Sử Diễn ca có viết lời phê
26 bình nhƣ sau: "Đoạn sử nhà Triệu, các việc chép chắc đúng nhiều.
27 Bắc sử (tức là sử Trung Hoa) còn có nhiều tài liệu về "Úy Đà", và các
28 địa dư chí của Trung quốc hay kể mộ Úy Đà là một cổ tích ở Quảng
29 Châu. Nhưng đừng quên rằng Triệu Đà là tướng Tần theo Hán sau
30 khi Tần mất. Tuy đã lập nước riêng, nhưng đó có phải là nước ta
31 không? Các sử gia xưa nay có kẻ bàn không nên kể nhà Triệu là một
32 quốc triều, và chỉ cho là một kẻ ngoại xâm. Nhưng nếu bỏ qua tính
33 cách thiêng liêng của chữ triều đại và chỉ coi nó là một tư liệu lịch sử
34 thì tách

35 * Lê Văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử Lược Khảo xuất bản
36 năm 1972 viết nhƣ sau về Triệu Đà và lãnh thổ Nam Việt: "Triệu Đà
37 chiếm được Âu Lạc, chia thành 2 quận Giao Chỉ và Triệu Đà đóng đô
38 ngay trên đất Âu Lạc, cũng không thể nhận Triệu là một dòng vua
39 chính thống của ta, huống chi lại đóng ở Phiên Ngung. Việc Triệu

VSTK - 135
1 bênh vực dân Giao Chỉ đem quân đánh quận Trường Sa, đúng ra là
2 nại cớ để thử sức với Cửu Chân rồi gộp vào với quận Nam Hải lập
3 thành nước Nam Việt và lên ngôi xưng là Nam Việt Vương năm 207
4 đóng đô tại Phiên Ngung, tức là Quảng Châu, tỉnh lỵ Quảng Đông
5 bây giờ, cũng chỉ là việc riêng của Triệu. Sau đó Triệu lại xin thần
6 phục Hán triệu, thì trên nguyên tắc, Âu Lạc đã là một nước phụ dung
7 của Tần mà Nam Việt cũng là nước phụ dung của Hán. Đó là một
8 loại bán thực dân địa, còn giữ được phần nào quyền tự trị mà thôi."
9 (Lê Văn Siêu/VNVMSLLK/Tập Thƣợng/ trang 186/ xuất bản năm
10 1972).

Tổng luận quyển 1


THỜI ĐẠI CỔ SỬ
11 Kể từ thời Lê Văn Hƣu qua tới những thời gian gần đây, những
12 ngƣời chép sử, cùng với nhũng ngƣời có dính líu tới nền sử học của
13 nƣớc Việt Nam thời cổ đã bị hai chữ "quốc thống" và "cái tôi" ám
14 ảnh ràng buộc quá nhiều. Hãy thử đọc lại những ý kiến, những lời phê
15 luận thì sẽ thấy ngay điều đó.

16 * Lê Văn Hƣu viết: " Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) khai thác đất
17 Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư
18 xưng là lảo phu, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta công
19 ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau nầy nếu
20 biết bắt chước Vũ đế mà giữ vững bờ cõi,thiết lập việc quân quốc,
21 giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ
22 cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngắp nghé được ".
23 Cách viết nầy đã bị Ngô Thời Sĩ phê phán là tôn vinh công trạng
24 kẻ ngoại bang xâm lƣợc. Đây là một sự phê phán không chính xác của
25 Ngô Thời Sĩ. Lê Văn Hƣu không xem Triệu Đà là ngƣời mở đầu nền
26 đế chính của nƣớc Việt Nam bởi vì nếu đã công nhận thì những ngƣời
27 đi sau cứ tiếp nối, cần gì phải bắt chƣớc.
28 Kể công trạng của Triệu Đà ở đây là một cách nói mỉa: việc làm
29 của Triệu Đà chỉ đƣợc Lê Văn Hƣu xem nhƣ là một chiếc gƣơng soi
30 làm mẫu để thức tỉnh ý chí quật cƣờng, tự chủ, độc lập của bộ tộc
31 Việt Nam; trên phƣơng diện nầy, mặc dù Triệu Đà chiếm đoạt và
32 khai thác đất đai của bộ tộc Việt Nam rồi nhập chung vào với các
33 vùng đất khác để xƣng đế nhƣng kẻ ngoại bang xâm lƣợc nầy có thể
34 ví nhƣ là một tên thợ săn đã vô tình vẽ đƣờng cho hƣu chạy thoát khỏi
35 những bẫy rập của những tên thợ săn khác trong tƣơng lai xuất phát từ
36 Bắc phƣơng.

VSTK - 136
1 Lê Văn Hƣu đã không công nhận thời đại Văn Lang và thời đại Âu
2 Lạc thì không lý do gì Lê Văn Hƣu lại đi công nhận thời đại Nam
3 Việt hay nói theo kiểu "tƣ liệu lịch sử" của Hoàng Xuân Hãn thì Triệu
4 Đà chỉ đƣợc Lê Văn Hƣu xem là một tƣ liệu lịch sử đƣợc dùng làm
5 móc thời gian vì nó có liên hệ tới thân phận của lãnh thổ và bộ tộc
6 Việt Nam lúc đó nằm chìm trong lãnh thổ Nam Việt.

7 * Đến lƣợt Ngô Sĩ Liên thì: "Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là ải
8 hiểm cửa ngõ của nước cũng như Hồ Lao của nước Trịnh, Hạ Dương
9 của nước Quắc. Làm vua nước Việt tất phải đặt quân chỗ hiểm để giữ
10 nước. Họ Triệu một khi đã không giữ được đất hiểm ấy thì nước mất
11 dòng tuyệt, bờ cõi bị chia cắt. Nước Việt ta lại bị phân chia, thành ra
12 cái thế Nam Bắc vậy. Sau nầy các bậc đế vương nổi dậy, chỗ đất hiểm
13 đã mất rồi, khôi phục lại tất nhiên là khó. . . .; mà các nhà Đinh, Lê,
14 Lý, Trần chỉ có đất từ Giao châu trở về Nam thôi, không khôi phục
15 được đất cũ của Triệu Vũ đế, cái thế khiến như vậy."
16 Rõ ràng là đối với Ngô Sĩ Liên, vùng đất Ngũ Lĩnh cũng là vùng
17 đất của ta, của ngƣời Việt Nam, và nƣớc Việt Nam ta của Ngô Sĩ
18 Liên là lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà. Đây không phải là do sự
19 sai lầm của Ngô Sĩ Liên nhƣng chính là vì bàn tay cầm bút của Ngô Sĩ
20 Liên đã bị áp lực của Lê Thánh Tông uốn nắn. Một Ngô Sĩ Liên Đô
21 ngự sử khí khái trung thực khác với một Ngô Sĩ Liên sử gia lơ láo và
22 sợ chết.

23 * Vua Tự Đức trong KĐVSTGCM có lời phê nhƣ sau: "Xét chung
24 trước sau thì đất Việt của ta bị mất nhập vào nước Tàu đã hơn quá
25 nửa. Tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng có nhiều bậc lỗi
26 lạc xuất hiện ra đời, nhưng rốt cục cũng không có khả năng để lấy lại
27 được một tấc, thật đáng ân hận lắm . . ."

28 Đất Việt của ta hiểu theo gốc chữ Hán là bản Việt. Ở đây không
29 thể hiểu là vùng phía Bắc nƣớc Việt Nam ngày nay khi mà lời phê
30 phán Tự Đức nhắm về thời điểm của Triệu Đà. Mà cũng không cần
31 phải biện bạch bởi vì đó là tiêu biểu cho một bản chất cố hữu của đám
32 vua chúa phong kiến: tham vọng bành trƣớng lãnh thổ. Theo Tự
33 Đức, dòng dõi của Nguyễn Ánh, thì nƣớc Việt Nam dƣới triều
34 Nguyễn đáng lẽ ra phải lớn hơn gắp hai lần tức là biên giới phía Bắc
35 của nƣớc Việt Nam phải kéo dài và nới rộng sâu vào đất đai của nƣớc
36 Trung Hoa bây giờ.

37 * Với Ngô Thời Sĩ thì dứt khoát: "nước Việt ta gồm có Giao
38 Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam" ở phía Nam, không bao gồm vùng Ngũ
39 Lĩnh nhƣng cũng lại là thuộc địa của Triệu Đà nằm trong lãnh thổ
40 Nam Việt.

VSTK - 137
1 Tuy nhiên, việc Ngô Thời Sĩ bênh vực mạnh mẽ những điều quái đản
2 viết về họ Hồng Bàng khiến cho ngƣời ta phải nghi ngờ khả năng
3 nhận thức của Ngô Thời Sĩ .

4 Xét cho cùng thì có lẽ cũng không nên chê trách việc làm hùa theo
5 của những ngƣời chép sử nối tiếp theo sau Ngô Sĩ Liên kể luôn cả
6 Ngô Thời Sĩ, bởi vì trong lúc đang phục vụ dƣới triều đại của con
7 cháu Lê Thánh Tông thì họ cũng nhƣ Ngô thời Sĩ rất có thể cũng bị
8 răn đe một cách gián tiếp qua "bản án tử hình treo" chƣa cũ lắm mà
9 Lê Thánh Tông đã giằn mặt Ngô Sĩ Liên trƣớc đó.

10 *Phan Huy Chú viết: "Thường khảo: Từ đời Triệu Vũ trở về


11 trước, đất Ngũ Lĩnh đều là cõi đất của Việt. Đến khi Triệu đã mất
12 nước thì các đời sau chỉ có vùng Giao Nam, thế thì đất ở chỗ quan ải
13 trước sau không giống nhau. (LTHCLC/ Dƣ địa chí/Tựa của Phan
14 Huy Chú).
15 Cõi đất Việt trong bài tựa của Phan huy Chú là cõi đất của nƣớc
16 Việt Nam thời đó gồm các vùng Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và
17 vùng Ngũ Lĩnh và vì Triệu Đà để mất nƣớc Nam Việt nên các đời sau
18 chỉ còn có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam hay nói khác đi Phan Huy
19 Chú cũng cho rằng lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà là nƣớc Việt Nam
20 ngày đó. Hơn nữa, khi viết "Từ đời Triệu Vũ trở về trước" thì Phan
21 Huy Chú cũng đã cho rằng lãnh thổ Âu Lạc, cũng nhƣ lãnh thổ của bộ
22 Văn Lang đều là lãnh thổ của nƣớc Việt Nam ở vào thời cổ đại.
23 Sau đó, trong phần lời án Phan Huy Chú lại kết luận: "Duy chỉ có
24 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam mới là đất của ta".

25 Tính cách bất nhất nầy một lần nữa cho thấy áp lực kinh khủng của
26 vua chúa thời phong kiến đời đời áp đặt lên những nho quan yếu kém
27 bất lực trong tay không một tấc sắt. Áp lực chuyên chế độc đoán đó
28 nặng nề nhƣ một dấu ấn in lên trán bằng sắt nung đỏ khó thể xoá bỏ
29 một cách dễ dàng. Ở đây phản phất một Phan Huy Chú bị chèn ép
30 không biết tỏ cùng ai nhƣng cuối cùng rồi cũng vớt vác tự biện hộ cho
31 mình qua những lời án trái ngƣợc với những gì đã viết trong bài tựa.

32 *Trần Trọng Kim trong VNSL viết kết luận về thời cuối đời của
33 dòng họ Triệu Đà nhƣ sau: ". . .Quân nhà Hán đuổi theo bắt được,
34 vua tôi đều bị hại cả. Năm ấy là năm Canh Ngọ (111 tr.Tây lịch),
35 nước Nam bị người Tàu chiếm lấy cải là Giao Chỉ Bộ, chia ra làm 9
36 quận và đặt quan cai trị như các châu quận bên Tàu vậy."
37 Nƣớc Nam theo ý của Trần Trọng Kim là Giao Chỉ Bộ của nhà
38 Hán hay nói khác đi lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà hay toàn thể

VSTK - 138
1 lãnh thổ thuộc bộ Giao Chỉ của nhà Hán là lãnh thổ của Việt Nam thời
2 đó.

3 *Hoàng Xuân Hãn đã có một quan điểm đúng khi viết: "Xưa nay
4 người ta đã thiêng liêng hóa hai chữ triều đại ".
5 Tuy nhiên, phải nói thêm rằng tính cách thiêng liêng nầy không
6 xuất phát từ quần chúng nhƣng là một sản phẩm, một sự bày đặt của
7 một nhóm thiểu số cầm quyền thống trị và các sử gia - mà thân phận
8 cũng không khác gì nhiều lắm so với thân phận của những ngƣời dân
9 đen ngoài xã hội dƣới ách cai trị độc tài phong kiến - chỉ là những
10 công cụ, những óng loa tuyên truyền, những bầy tôi lơ láo run sợ,
11 những hình nộm dễ dạy, những cái máy viết theo nhịp điệu bấm
12 phiếm của kẻ nắm quyền cai trị, sinh sát trong tay.

13 Dù sao thì Hoàng Xuân Hãn cũng chƣa dứt khoát hẳn mà vẫn còn
14 e dè không biết có nên giữ hay bỏ hai chữ triều đại, giữ hay loại ra
15 triều đại của Triệu Đà. Và cũng giống nhƣ tình trạng của những ngƣời
16 cũ, Hoàng Xuân Hãn không dám có ý kiến riêng của mình về lãnh thổ
17 Nam Việt mà chỉ đặt nghi vấn "Tuy đã lập nước riêng, nhưng đó có
18 phải là nước ta không ?" rồi bỏ việc nầy sang một bên để cho ngƣời
19 khác trả lời. Rốt cuộc rồi nƣớc ta của Hoàng Xuân Hãn cũng giống
20 với biết bao nhiêu là nƣớc ta từ thời Lê Văn Hƣu cho đến nay.

21 *Lê Văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử Lƣợc Khảo xuất bản
22 năm 1972 viết nhƣ sau về Triệu Đà và lãnh thổ Nam Việt:
23 "Triệu Đà chiếm được Âu Lạc, chia thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu
24 Chân rồi gộp vào với quận Nam Hải lập thành nước Nam Việt và lên
25 ngôi xưng là Nam Việt Vương vào năm 207, đóng đô tại Phiên
26 Ngung, tức là Quản Châu, tỉnh lỵ Quảng Đông bây giờ. Dù Triệu Đà
27 đóng đô ngay trên đất Âu Lạc, cũng không thể nhận Triệu là một
28 dòng vua chính thống của ta, huống chi lại đóng ở Phiên Ngung. Việc
29 Triệu bênh vực dân Giao Chỉ đem quân đánh quận Trường Sa, đúng
30 ra là nại cớ để thử sức với Hán, cũng chỉ là việc riêng của Triệu. Sau
31 đó Triệu lại xin thần phục Hán triều, thì trên nguyên tắc, Âu Lạc đã là
32 một nước phụ dung của Tần mà Nam Việt cũng là nước phụ dung của
33 Hán. Đó là một loại bán thực dân địa, còn giữ được phần nào quyền
34 tự trị mà thôi." (Lê Văn Siêu/VNVMSLLK /Tập Thƣợng/ trang 186/
35 xuất bản năm 1972)

36 Từ Lê Văn Hƣu năm 1272 đến Lê Văn Siêu 1972, phải cần một
37 thời gian 700 năm dài đăng đẳng để bộ mặt thật thực dân thuộc địa
38 của Triệu Đà mớí đƣợc nói thẳng một cách tách bạch và thân phận
39 thuộc địa của lãnh thổ Việt Nam thời đó mới đƣợc đƣa ra ánh sáng.
40 Tuy nhiên, Lê Văn Siêu vẫn còn mập mờ và ngập ngừng về lãnh thổ

VSTK - 139
1 Âu Lạc của Thục Phán mà gốc tích và lý lịch của Thục Phán thì cũng
2 không khác gì nhiều lắm so với Triệu Đà
3 Tóm lại, từ lãnh thổ Văn Lang hay bộ thuộc địa Văn Lang, rồi lãnh
4 thổ Âu Lạc của Thục Phán và lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà, biết
5 bao nhiêu chuyện quỷ ma, rồng rắn, hổ rùa đƣợc vẽ vời thêu dệt ra
6 nhằm thần thánh hóa cá nhân hoặc để thiêng liêng hóa chế độ, kèm
7 theo những trò phối chủng cầm thú bệnh hoạn phản khoa học, với
8 những bày biện ru ngủ, mê muội hóa ngƣời dân, tất cả chỉ nhằm mục
9 đích vuốt ve và thỏa mãn bản chất cao ngạo hợm mình, tham vọng vô
10 bờ của nhóm vua chúa thời phong kiến nắm giữ độ quyền lãnh đạo
11 thống trị. Nếu chỉ kể từ thời đại Văn Lang, ngang với năm khởi đầu
12 của nhà Đƣờng bên Trung Hoa tức là vào khoảng từ năm 2359 TTL
13 cho đến năm 2000 Tây Lịch, tức đã hơn 4000 ngàn năm qua, sự man
14 trá trong sử cũ vẫn còn ảnh hƣởng dây dƣa vào nếp suy tƣ của dân tộc
15 Việt Nam mỗi khi muốn quay về dĩ vãng để tìm nguồn cội thực sự của
16 mình.
17 Sự cao ngạo tự hào về nguồn gốc thần thánh, về tƣ cách chính
18 thống của nhóm vua chúa thời phong kiến không phải là sản phẩm và
19 niềm tự hào thực sự, đúng đắn của dân tộc Việt Nam.

20 Dù tiền nhân của ngƣời Việt Nam có là Mán, Mƣờng hay


21 thuộc hàng Phiên Rợ nhƣ nhóm phƣơng Bắc đã khoác cho thì
22 ngƣời Việt Nam vẫn là một bộ tộc, một tập thể nhân loại biết suy
23 tƣ, khác với loài hạ trùng cầm thú, một bộ tộc rất tự hào về lòng
24 kiên trì chịu đựng ách ngoại xâm, hãnh diện về sức đề kháng bền
25 chí chống lại sự đồng hóa của nhóm ngƣời ngoại tộc xa lạ, tự tin
26 về sức mạnh đoàn kết đánh đuổi quân xâm lƣợc.
27 Tất cả những niềm tự hào đó gộp lại tạo thành quốc uy và
28 truyền thống của ngƣời Viện Nam chứ không phải quốc thống
29 huyền thoại cổ tích của nhóm đế vƣơng phong kiến, độc tài, chậm
30 tiến thời quá khứ.

VSTK - 140
Di vật bằng đất nung tráng men tìm thấy
ở khu thành Cổ Loa
(Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 141
Di vật bằng đất nung tráng men tìm thấy
ở khu thành Cổ Loa
(Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 142
Di vật bằng đất nung tráng men tìm thấy
ở khu thành Cổ Loa
(Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 143
NHÓM CHỦNG INDONÉSIEN

Đàn ông ngƣời Thƣợng Banhar


ở vùng cao nguyên Kontum
(Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San -BAVH1934)

VSTK - 144
NHÓM CHỦNG INDONÉSIEN

Đàn bà ngƣời Thƣợng Radhé


ở vùng cao nguyên Darlac
(Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 145
QUYỂN 1

THỜI ĐẠI THUỘC ĐỊA



CÁC PHONG TRÀO NỔI DẬY CỦA QUẦN CHÖNG
( 111 TTL - 931 TL )

CHƢƠNG I

THỜI KỲ THUỘC TÂY HÁN


( 111 TTL - 39 TL )

1 hà Hán diệt đƣợc Triệu Đà, lấy đất Nam Việt lập
2 ra bộ thuộc địa Giao Chỉ để cai quản 9 quận: Nam
3 Hải(1), Thƣơng Ngô(2), Uất Lâm(3), Hợp Phố(4), Giao
4 Chỉ(5), Cửu Chân(6), Nhật Nam(7), Châu Nhai(8), Đạm
5 Nhỉ(9).
6 Mỗi quận đặt một thái thú để cai trị. Hán quan đứng
7 đầu bộ Giao Chỉ tƣơng đƣơng với chức thứ sử(10 trong
8 Hán triều, trụ sở của bộ đặt tại Long Uyên (11). Mƣời
9 lăm bộ của nƣớc Âu Lạc trƣớc đây, nay nhà Hán lập
10 lại thành 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và
11 vẫn tiếp tục xử dụng các Lạc hầu, Lạc tƣớng để phụ tá
12 thái thú nhà Hán trong việc cai trị.
13 Trong thời nầy, những thái thú nhà Hán cai trị các
14 huyện đã dùng những đƣờng lối chính trị ve vuốt mị
15 dân nhằm mục đích ru ngủ những mầm móng nổi dậy
16 và cùng một lúc đồng hoá từ từ ngƣời dân trong các
17 lãnh thổ bị trị: Tích Quang(12) ở huyện Giao Chỉ có
18 nhiệm vụ phổ biến nhồi sọ văn hoá của Trung Hoa,
19 Nhâm Diên(13) ở huyện Cửu Chân bắt dân khai khẩn
20 đất hoang, tăng gia sản xuất nông phẩm che đậy giả
21 dối dƣới hình thức dạy ngƣời dân bản xứ kỹ thuật cày
22 cấy trồng trọt.

VSTK - 146
1 Khi Tích Quang hết thời hạn công tác và đƣợc
2 thuyên chuyển trở về Trung Hoa, thái thú Tô Định
3 đƣợc nhà Hán cử sang thay thế cai trị huyện Giao Chỉ
4 vào năm 34 TL.

VSTK - 147
CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

1 (1) Nam Hải: cai quản 6 huyện Phiên Ngung, Bác La, Trung Túc,
2 Long Xuyên, Tứ Hi, Yết Dƣơng. (nay là Quảng Đông)
3 (2) Thƣơng Ngô: cai quản 10 huyện Quảng Tín, Tạ Mộc, Cao Yêu,
4 Phong Dƣơng, Lâm Hạ, Đoan Khê, Phùng Thặng, Phú Xuyên, Lê
5 Phố, Mãnh Lăng (nay là Quảng Tây).
6 (3) Uất Lâm: cai quản 12 huyện Bồ Sơn, An Quảng, A Lâm, Quảng
7 Uất, Trung Lƣu, Quế Lâm, Đàm Trung, Lâm Trần, Định Chu, Tăng
8 Thực, Lĩnh Phƣơng, Ung Khê.(Quảng Tây)
9 (4) Hợp Phố: cai quản 5 huyện Từ Văn, Cao Lƣơng, Hợp Phố, Lâm
10 Doãn, Chu Lƣ.
11 (5) Giao Chỉ: cai quản 10 huyện Liên Thụ, An Định, Cẩu Lâu, Mê
12 Linh, Khúc Dƣơng, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên.
13 (6) Cửu Chân: cai quản 7 huyện Tƣ Phố, Cƣ Phong, Đô Bàng, Dƣ
14 Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên.
15 (7) Nhật Nam: cai quản 5 huyện Chu Ngô, Tị Ảnh, Lƣ Dung, Tây
16 Quyển, Tƣợng Lâm.
17 (8) Châu Nhai: là một huyện nằm trong đảo lớn Hải Nam bây giờ.
18 (9) Đạm Nhỉ: cũng là một huyện nằm trong đảo Hải Nam.
19 (10) Thứ sử: là chức quan đứng đầu một Châu hoặc Bô.
20 (11) Long Uyên: tức là Long Biên, thuộc huyện Giao Chỉ. Theo sách
21 Thủy Kinh Chú thì vào năm 208 đời nhà Hán, khi mới đắp thành
22 trong vùng có nhiều giống thuồng luồng rắn nƣớc sinh xôi nẩy nở
23 cùng khắp vì thế mới gọi là Long Uyên. Nhà Lý đóng đô ở đó nhƣng
24 đổi tên là Thăng Long, Nhà Trần nhà Lê cũng gọi là Thăng Long, nay
25 là Hà Nội.
26 (12) Tích Quang: ĐVSKTT viết: "Tích Quang người quận Hán
27 Trung, khi ở Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân".
28 (13) Nhâm Diên: ĐVSKTT viết: "Diên là người Uyển. Tục người Cửu
29 Chân chỉ làm nghề cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới dạy dân
30 khai khẩn ruộng đất, hằng năm cày trồng, trăm họ no đủ. Dân nghèo
31 không có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại cắt bớt bổng lộc
32 của mình để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2,000 người."

KHẢO LUẬ N:

33 Rất hiếm có những dƣ luận hay quan điểm bài bác hai ngƣời Hoa
34 thái thú Tích Quang và Nhâm Diên. Đa số chỉ biết khen và kể công
35 cho hai ngƣời Hoa nầy. Có lẽ vua Tự Đức là ngƣời đầu tiên và sớm
36 nhất không tin về những việc làm gọi là có ích lợi, có tình nghĩa của
37 Tích Quang và Nhâm Diên. Lời phê của vua Tự Đức viết: "Triệu Đà
VSTK - 148
1 vốn là người Tàu, làm vua trên nước Nam Việt và truyền nối ngót
2 trăm năm. Xem bức thư trả lời Hán Văn đế thì Triệu Đà vốn là người
3 có học thức có lẽ nào chưa biết dạy dân cày cấy cưới gả mà phải đợi
4 đến lược hai thái thú đó? Huống chi lại nói cùng thời đó có đã có tới
5 hơn hai ngàn người cưới hỏi lấy nhau. Xem thế thì đủ thấy rõ rằng
6 ghi chép không đúng sự thật, không đáng tin."

7 Hoàng Xuân Hãn ngƣời viết Tựa và Dẫn cho ĐNQSDC không
8 dám có một ý kiến nào về Tích Quang và Nhâm Diên.

9 Nguyễn Văn Huyên trong La Civilisation Annamite đã ngầm chấp


10 nhận công đức của hai gƣơng mặt thực dân ngƣời Tàu khi viết rằng:
11 "Các quan cai trị Trung Quốc chẳng phải bao giờ cũng là những tấm
12 gương thanh liêm". Những tấm gƣơng thanh liêm hiếm hoi ở đây nhất
13 định phải là Tích Quang và Nhâm Diên.

14 Lê Văn Siêu trong VNVMSLK là ngƣời đã có những lời đả kích


15 mạnh mẽ nhắm vào Triệu Đà và lãnh thổ Nam Việt nhƣng đến chỗ
16 nầy thì lại rơi vào trƣờng hợp của Nguyễn Văn Huyên: "Ngoài hai
17 người ấy thì toàn là tham quan ô lại trong guồng máy hành chính."
18 Bất cứ loại thực dân thuộc địa nào cũng chỉ có một mục tiêu duy
19 nhất là bóc lột tài nguyên, nhân lực của nƣớc bị trị để đƣa về chính
20 quốc. Khai hóa chỉ là một ngôn từ mỹ miều dối trá. Để đạt đƣợc mức
21 tối đa việc khai thác bóc lột, thực dân thuộc địa sẽ không từ khƣớc bất
22 kỳ hình thức, phƣơng pháp hoặc thủ đoạn lừa dối nào kể cả những
23 chiêu bài ve vuốt, mua chuộc và giáo dục. Tích Quang và Nhâm Diên
24 khai hoá ngƣời dân bị trị bằng phong tục tập quán của ngƣời Trung
25 Hoa để cho việc cai trị và bóc lột của họ đƣợc dễ dàng hơn thế thôi.

VSTK - 149
CHƢƠNG II

CUỘC NỔI DẬY CỦA QUẦN CHÖNG LẦN THỨ NHẤT

TRƢNG TRẮC - TRƢNG NHỊ


( 40 - 43 )

1 1. Chính sách cai trị của ngƣời Hán


2 trên lãnh thổ thuộc địa:

3 Vào lúc quân Tây Hán đánh chiêm lãnh thổ Nam
4 Việt, một quan lang(1) giống tộc ngƣời Việt là Đô Kê
5 lập công bắt Lữ Gia giao nộp cho tƣớng của nhà Tây
6 Hán để ra đầu phục. Quận trƣởng quận Thƣơng Ngô là
7 Triệu Quang nguyên là thân tộc của Triệu Đà và quận
8 trƣởng quận Quế Lâm là Cƣ Ông đều ra hàng rồi dụ
9 thêm nhiều bộ tộc Việt theo về hàng phục với nhà Hán.
10 Những ngƣời sứ đại diện Triệu Đà lúc trƣớc cai quản
11 các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cũng đem lễ
12 vật ra đầu hàng và đƣợc tƣớng nhà Hán Lộ Bác Đức
13 cho giữ chức cũ để tiếp tục cai trị dân nhƣ trƣớc.
14 Từ đó lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà trở thành
15 thuộc địa và sáp nhập vào nƣớc Trung Hoa. Chế độ
16 của Tây Hán lấy Châu hay Bộ thống trị các quận hay
17 huyện; ở châu, bộ thì đặt châu mục hay thứ sử, ở quận
18 thì đặt thái thú.
19 Lãnh thổ Nam Việt trở thành Giao Chỉ cai quản 9
20 quận, cử Thạch Đái làm thứ sử đầu tiên của bộ Giao
21 Chỉ, tạm thời giữ nguyên những ngƣời của chế độ cũ
22 cho tiếp tục việc cai quản các quận.
23 Trong thời kỳ nầy, ngƣời Hoa áp dụng chính sách
24 đồng hóa(2) dân bản xứ trên nhiều lãnh vực: kinh tế, xã
25 hội, văn hoá . . . bằng cách dùng hình thức mua chuộc,
26 khai hoá, truyền bá văn minh kỹ thuật để bắt dân bản
27 xứ phải cật lực khai thác tài nguyên thiên nhiên, khai
VSTK - 150
1 khẩn đất hoang để nới rộng diện tích trồng trọt, tăng
2 gia sản xuất nông nghiệp, rập theo phong tục, tập quán,
3 lễ giáo của ngƣời Hoa qua trung gian của các thứ sử,
4 thái thú, những ngƣời Hoa di dân kinh tế cùng với
5 những ngƣời trong các bộ tộc Việt trƣớc đây là quan
6 chức của Triệu Đà nay lại tiếp tục hợp tác với nhà Tây
7 Hán Ngoài ra nhà Tây Hán còn áp dụng chính sách
8 sáp nhập chủng tộc(3) bằng cách đƣa đủ hạng, đủ loại tù
9 nhân ngƣời Hoa từ chính quốc sang cho sống lẫn lộn
10 với dân bản xứ.
11 Năm 98 TTL Hán Vũ đế chết. Qua đến đời Hán
12 Chiêu đế bộ Giao Chỉ do Chu Chƣơng thống quản rồi
13 đến đời Hán Bình đế (1-5 TL) bộ nầy đƣợc trao cho
14 Đặng Nhƣợng với Tích Quang đƣợc cử làm thái thú
15 quận Giao Chỉ .
16 Khoảng năm thứ 8 TL, cháu của Hiếu Nguyên
17 hoàng hậu là Vƣơng Mãng(4) làm loạn cƣớp ngôi nhà
18 Tây Hán, thành lập nhà Tân với một chính sách cai trị
19 hà khắc khiến cho loạn lạc nổi lên khắp nơi ngay cả
20 bên trong các lãnh thổ thuộc địa. Thứ sử Đặng Nhƣợng
21 và thái thú Tích Quang cùng những quận thuộc quyền
22 quản trị của bộ Giao Chỉ đều đóng biên giới giữ lấy đất
23 quận của mình.
24 Sau khi diệt đƣợc Vƣơng Mãng (23 TL), vào
25 khoảng năm 29 TL Đông Hán đế Quang Vũ Lƣu Tú cử
26 tƣớng Sầm Bành sang chiêu dụ Đặng Nhƣợng, Tích
27 Quang và các thái thú khác trong bộ Giao Chỉ. Tất cả
28 đều chịu thần phục và đƣợc nhà Đông Hán phong tƣớc
29 Hầu. Trƣớc đó không lâu, Nhâm Diên đƣợc cử làm
30 thái thú quận Cửu Chân rồi đến năm 34 TL, nhà Đông
31 Hán thay thế Tích Quang, cử Tô Định sang làm thái
32 thú quận Giao Chỉ .

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN

VSTK - 151
1 (1) Quan Lang: con cháu của ngƣời đứng đầu một bộ tộc Việt (tộc
2 trƣởng).
3 (2) Chính sách đồng hoá: về việc nầy các sử sách cũ chỉ nói sơ lƣợc
4 qua chính sách mà Tích Quang và Nhâm Diên đã đem ra áp dụng ở
5 các quận Giao Chỉ và Cửu Chân. ĐVSKTT viết: "Tích Quang người
6 quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân. Lại lấy Nhâm
7 Diên làm thái thứ Cửu Chân. Diên là người huyện Uyển. Tục người
8 Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới
9 dạy cho dân khai khẩn rung đất hằng năm cấy trồng, trăm họ no đủ.
10 Dân nghèo không có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại bớt
11 bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2,000 người" (NK/
12 III/1b).
13 (3) Đồng hóa sáp nhập chủng tộc: năm 231 TL, Tiết Tông thời nhà
14 Ngô bên Tàu có viết về việc nầy nhƣ sau: "Hiếu Vũ (tức là Hán Vũ
15 đế. Các đế nhà Tây Hán thƣờng dùng chữ Hiếu đặt trƣớc tên của
16 mình) tru Lã Gia, khai cửu quận, thiết Giao Chỉ thứ sử, tỷ Trung
17 Quốc tội nhân, tạp cư kỳ gian, sảo sử học thư, tổ thông lễ hóa ".
18 (dịch: vua Vũ giết Lữ Gia, mở 9 quận, bổ thứ sử Giao Chỉ, đƣa tội
19 nhân Trung Quốc sang sống chung đụng hỗn tạp từ lúc đó, truyền bá
20 sử sách, tổ chức thông hiểu lễ nghi phong hóa).
21 Cũng cần nhắc lại là chính sách đƣa tù nhân tội phạm để thực hiện
22 chƣơng trình đồng hoá tiêu diệt chủng tộc đã có từ đời nhà Tần mà
23 Triệu Đà là ngƣời kế tục và thừa hƣởng chính sách đồng hoá chủng
24 tộc đó.
25 (4) Vƣơng Mãng: còn gọi là Cự Quản, cháu của Hiếu Nguyên hoàng
26 hậu, giữ chức đại tƣ mã nhà Tây Hán, chuyên quyền, tự tiện sinh sát,
27 phế truất Hán đế rồi tự lập làm vua, áp dụng chính sách hà khắc để cai
28 trị khiến hầu hết dân Trung Hoa đều chán ghét, loạn lạc xảy ra khắp
29 nơi trên đất Trung Hoa và ở các lãnh thổ thuộc địa. Sau bị Hán Quang
30 Vũ Lƣu Tú đánh bại rồi bị ám sát (9-23TL).

KHẢO LUẬN:

31 Sử sách cũ khi viết về đƣờng lối cai trị và chính sách đồng hóa của
32 ngƣời Hoa áp dụng vào các lãnh thổ thuộc địa chẳng những rất sơ
33 lƣợc mà lại còn tâng bốc biết ơn nữa. Từ Thục Phán, đến Triệu Đà rồi
34 Tích Quang, Nhâm Diên và ngay cả đám tù phạm ngƣời Hoa bị đày
35 biệt xứ đƣa qua sống lẫn lộn với các bộ tộc Việt ở các quận Giao Chỉ,
36 Cửu Chân, Nhật Nam, tất cả đều đƣợc xem nhƣ là những kẻ đi khai
37 hóa các dân tộc man di phiên rợ ở về phía cực Nam của nƣớc Trung
38 Hoa.

39 Cao Huy Diệu trong Việt Điện U Linh có tiếm bình rằng: "Từ khi
40 Triệu Vũ đế chế ngự 7 quận, đã đem Kinh Thi, Kinh Thư huấn hóa

VSTK - 152
1 quốc tục, Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân mới đem lễ nghĩa giáo
2 đạo quốc dân. Bởi vậy nước ta dần dần biết được rằng văn tự vẫn
3 hữu ích cho con người, lễ nhạc thì có quan hệ đến phong tục, rồi nhân
4 đó mà văn minh tiến triển lần lên ".

5 Sách Đại Nam Quốc Sử diễn ca viết về Tích Quang và Nhâm Diên
6 nhƣ sau:
7 Tuần tuyên mới có Tích Quang,
8 Dạy dân lễ nghĩa theo đường hoa phong,
9 Nhâm Diên theo việc canh nông,
10 Đổi nghề ngư liệp về trong khuê điền.
11 Sính nghi lại giúp bổng tiền,
12 Khiến người bần khổ thỏa nguyền thất gia.
13 Văn phong nhứt dấy gần xa,
14 Tự hai hiền thú ấy là khai tiên,
15 Luân hồi trăm có dư niên,
16 Trải qua Đông Hán thừa tuyên mấy người ?

17 Ở đoạn viết nầy, Hoàng Xuân Hãn đã dẫn giải rất tỉ mỉ rõ ràng
18 nhƣng lại không có ý kiến gì về hai khuôn mặt thật của Tích Quang
19 và Nhâm Diên.

20 Phan Huy Chú trong LTHCLC có nhận xét: "Xét trong thời thuộc
21 Đông Hán, có thái thú Giao Chỉ là Tích Quang dạy dân học lễ nghĩa.
22 Cửu Chân có Nhâm Diên dạy dân cày cấy trồng trọt và lễ phép. Họ
23 đều được dân dựng sinh từ. Ở Lĩnh Nam ta có văn phong thực bắt đầu
24 từ hai viên thái thú nầy".

25 Trần Trọng Kim trong VNSL viết: "Về đầu thế kỷ đệ nhất có hai
26 người sang làm thái thú trị dân có nhân chính. Một người tên là Tích
27 quang làm thái thú Giao Chỉ, một người tên là Nhâm Diên làm thái
28 thú quận Cửu Chân".

29 Chủ nghĩa bành trƣớng của thực dân thuộc địa không phải
30 chỉ có lấn đất cƣớp đoạt tài nguyên mà còn kèm theo kế hoạch
31 diệt chủng bằng đƣờng lối đồng hóa dƣới mọi hình thức giả trá kể
32 cả những hình thức văn hóa nhƣ ngôn ngữ, nghệ thuật, tôn giáo,
33 luân lý, sƣ phạm, và gửi ngƣời bản xứ qua mẫu quốc để du học
34 rồi trọng dụng khi những ngƣời nầy trở về hợp tác phục vụ cho
35 bộ thuộc địa. Tất cả những mƣu mô đồng hóa hiểm độc đó không
36 phải là khai hóa, không phải là ơn nghĩa, không phải là công đức
37 và vì thế không nên để cho các thế hệ mai sau phải tiếp tục lầm
38 lẫn nhớ ơn những ngƣời phƣơng Bắc thực dân xâm lƣợc đó.

VSTK - 153
2. Cuộc khởi dậy của quần chúng:

HAI BÀ TRƢNG

1 Năm 34 TL, Hán đế Quan Vũ sai Tô Định sang giữ


2 chức thái thú quận Giao Chỉ. Chính sách của Tô Định
3 là dùng luật pháp khe khắc ác độc để đàn áp, trói buộc
4 và đè bẹp dân bị trị kể cả lớp ngƣời bản xứ cầm đầu bộ
5 tộc Việt trong quận Giao Chỉ .
6 Trƣng Trắc(1) là con của tộc trƣởng huyện Mê Linh
7 có chồng là họ Thi(2) con trai của tộc trƣởng huyện Chu
8 Diên. Thi và Trƣng Trắc phối hợp cùng một lúc, khởi
9 mầm cho dân bản xứ nổi dậy chống lại việc cai trị hà
10 khắc của Tô Định. Phong trào chống đối mạnh mẽ loan
11 rộng ra nhiều quận huyện khác(3). Mặc dù Thi bị Tô
12 Định bắt giết nhƣng Trƣng Trắc cùng với em gái là
13 Trƣng Nhị vẫn tiếp tục cầm đầu cuộc nổi dậy, đánh
14 chiếm và giải phóng nhiều thành ấp, khiến cho Tô
15 Định khiếp sợ bỏ chạy về Trung Hoa(4). Quan bản xứ(5)
16 ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố vì sợ uy
17 thế đang lên của Trƣng Trắc và Trƣng Nhị cho nên
18 miễn cƣỡng hƣởng ứng theo.
19 Thứ sử bộ Giao Chỉ cố thủ Long Uyên(6) và một số
20 huyện phụ cận của quận Giao Chỉ(6) chờ quân nhà Hán
21 từ Trung Hoa sang cứu viện.
22 Năm 40 TL Trƣng Trắc tự lập làm vua, đóng đô ở
23 Mê Linh.
24 Vào cuối năm 41 TL, Đông Hán đế Quan Vũ sai
25 tƣớng Phục ba Mã Viện, phó tƣớng Lƣu Long, tƣớng
26 thủy quân Đoàn Chí sang đánh với sự tiếp tế và nộ ứng
27 của quân Hán hiện còn đồn trú cố thủ ở bộ Giao Chỉ
28 và ở quận Hợp Phố.
29 Đầu năm 42 TL, quân Mã Viện đến Lãng Bạc(7)
30 cùng quân Trƣng Trắc đánh nhau. Tuy nhiên quân dân

VSTK - 154
1 của Trƣng Trắc là một đoàn ngƣời ô hợp thiếu tổ chức
2 huấn luyện, thiếu kinh nghiệm, không tin tƣởng cấp
3 chỉ huy cho nên không thể đƣơng đầu nổi với quân
4 Hán dƣới sự điều binh của tƣớng Mã Viện tài giỏi,
5 nhiều kinh nghiệm chiến trận. Trƣng Trắc phải lui về
6 giữ đất Cấm Khê(8) nhƣng sau đó quân Mả Viện lại
7 truy đuổi; tàn quân kháng chiến hoàn toàn bại trận, chị
8 em họ Trƣng chết (43 TL). Quân nhà Hán tiếp tục truy
9 sát tàn quân đến huyện Cƣ Phong(9) thì hoàn toàn làm
10 chủ trận thế. Mã Viện cho dựng trụ đồng(10) làm móc
11 biên giới của vùng đất ở về phía Nam do quân Hán
12 chiếm đoạt.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

13 (1) Trƣng Trắc: ĐVSKTT: tên húy là Trắc, họ Trưng; nguyên là họ


14 Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh. KĐVSTGCM : Vương
15 vốn họ Lạc, lại có họ riêng là Trưng, con gái quan lạc tướng huyện
16 Mê Linh .
17 (2) Thi: ĐVSKTT, KĐVSTGCM viết: Thi Sách là ngƣời huyện Chu
18 Diên.
19 Tuy nhiên theo sách Thủy Kinh Chú của Trung Hoa thì : "Chu
20 Diên lạc tướng tử danh Thi, sách Mi Linh lạc tướng nữ danh Trưng
21 Trắc vi thê " (con Lạc tƣớng ở Chu Diên là Thi hỏi lấy [sách] con gái
22 Lạc tƣớng ở Mê Linh tên là Trắc làm vợ). Nhƣ vậy, có thể sử cũ đã
23 ghép chữ Sách với tên Thi nên mới gọi là Thi Sách.
24 (3) *Các bộ sử trƣớc đều viết: lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Có thể
25 là các vùng giáp biên giới với nƣớc Tàu hiện giờ.
26 (4) Tô Định chạy về Trung Quốc: KĐVSTGCM viết là Tô Định chạy
27 về Nam Hải trong khi ĐVSKTT lại viết rằng Nam Hải bị quân dân
28 nổi dậy đánh chiếm.
29 (5) Quan bản xứ ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam: những ngƣời
30 cai quản hai quận nầy ngày trƣớc đã từng đem lễ vật dâng hiến ra đầu

VSTK - 155
1 thú quân Hán để đƣợc cho giữ nguyên địa vị nhƣ cũ nay lại ra đầu
2 hàng hƣởng ứng theo phong trào nổi dậy của quần chúng.
3 (6) Cố thủ Long Uyên: ĐVSKTT không đề cập tới việc nầy.
4 KĐVSTGCM thì viết: Các thứ sử, thái thú ở quận Giao Chỉ đều tự lo
5 bảo toàn cho chính mình mà thôi. Nhƣ vậy, Trƣng Trắc chỉ chiếm
6 đƣợc những thành ấp ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và
7 toàn bộ huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ mà thôi. Thành Long Uyên
8 (tức Hà Nội bây giờ) vẫn còn nằm dƣới sự kiểm soát của quan quân
9 nhà Hán trong bộ Giao Chỉ đồn trú ở Long Uyên.
10 (7) Lãng Bạc: các bộ sử cũ đều cho Lãng Bạc là Hồ Tây hiện nay
11 nhƣng đây có thể là lầm lẫn bởi vì lúc đó vùng lãnh thổ hành chánh
12 Long Uyên tức Hà Nội bây giờ vẫn còn do quan quân ngƣời Hán
13 trong bộ Giao Chỉ đồn trú và cố thủ để chờ viện binh của Mã Viện
14 sang. Có ngƣời lại đoán Lãng Bạc ở vùng huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà
15 Bắc ngày nay.
(8) Cấm Khê: ở vào địa hạt phủ Vĩnh Tƣờng, tỉnh Vĩnh Yên.
16 (9) Cƣ Phong: thuộc địa hạt tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
17 (10) Cột đồng của Mã Viện: sách sử tài liệu cũ của Trung Hoa viết về
18 chuyện cột đồng nầy nhiều cách khác nhau. Cho đến ngày nay, ngoài
19 những lời đồn miệng vô chứng cớ, cột biên giới bằng đồng nầy đƣợc
20 dựng lên từ thời Mã Viện có lẽ đã bị xiêu tán mất đi không còn vết
21 tích gì nữa.

KHẢO LUẬN:

22 Lê Văn Hƣu nói: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng
23 mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh
24 Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn
25 tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương.
26 Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn
27 hai ngàn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người
28 phương Bắc há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay
29 sao ?"

30 Đến lƣợt Ngô Sĩ Liên thì lại có một cái nhìn sai lệch và thành kiến về
31 sự khởi xƣớng ngắn ngủi của Trƣng Trắc: "...nhưng vì là vua đàn bà,
32 không thể làm nên công tái tạo". Ngay cả căn nguyên thúc đẩy việc
33 khởi xƣơng cũng bị đánh giá thấp: " Vua khổ vì thái thú Tô Định dùng
34 pháp luật trói buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới cùng em gái là
35 Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở Châu ".
36 Ngô Thời Sĩ (1726-1780) cũng có một nhận định hẹp hòi nhƣ Ngô
37 Sĩ Liên: "Nhưng, tài đàn bà yếu ớt, đương khi vận nước còn bĩ nên
38 không làm xong công nghiệp" và "vợ trả thù chồng, em giúp việc chị

VSTK - 156
1 thì một vị là tiết phụ, một vị là nghĩa nữ đều ở vào cả một nhà, ấy mới
2 là kỳ cho ! " tức là theo Ngô Sĩ Liên và Ngô Thời Sĩ thì Trƣng Trắc
3 chỉ vì quyền lợi và thù hận riêng tƣ mà chống lại Tô Định chứ không
4 phải vì quyền lợi của dân bản xứ bị trị hay là vì lòng yêu nƣớc thƣơng
5 dân thúc đẩy. Dù sao thì cả hai sử gia nầy cũng đều phải công nhận
6 Trƣng Trắc là một hào kiệt hùng mạnh trong giới phụ nữ.

7 Nguyễn Nghiễm (1708-1775) trong Đại Việt Sử Ký Tiền Biên


8 (đời Tây Sơn, 1800) có lời bàn nhƣ sau: "Như bọn Tô Định, làm sao
9 dung túng chúng nó làm càng cho tới một ngày nào nữa được? Trưng
10 Vương nổi giận, khích lệ đồng bào, nghĩa binh đi tới đâu, gần xa đều
11 hưởng ứng, 50 thành Ngũ Lĩnh đều khôi phục được cả. Nhân dân
12 đang khổ sở lại trông thấy mặt trời! Quả thật bà là một bậc anh hùng
13 hơn người nhiều lắm. Dẫu rằng một đám quân mới tập hợp, vừa
14 nhóm lên đã tan vỡ, chứ cũng đã hả lòng phẫn uất của thần dân. .
15 .Còn bọn tu mi thời bấy giờ cứ vẫn cam chịu cúi đầu, bó tay, làm tôi
16 tớ cho người ta, thì chẳng đáng hổ thẹn lắm ru? "

17 Cao Huy Diệu (đời Lê Dụ Tông) viết: "Các triều vua Trung Hoa ở
18 xa cách, những quan thú lệnh cứ mặc sức tham tàn, lúc bấy giờ, cả
19 nước trăm trai mạnh khỏe này cũng phải đều làm hạng nô tỳ cho tên
20 sứ quân họ Tô kia.
21 Bà Trưng lấy tư cách là bậc vợ hiền "cử án tề mi ", vẫn mang một
22 mối thù bất cộng đái thiên. Quần thoa xướng nghĩa, khuê khổn đồng
23 thề, đuổi tên thứ sử, chiếm lại đô thành. Các miền Cửu Chân, Hợp
24 Phố lại được thấy rõ ánh sáng mặt trời. há chẳng phải là mộ bậc đại
25 trượng phu oanh oanh liệt liệt hay sao?
26 . . . Lã Trỉ nhà Hán, Vũ Anh nhà Đường đã hiệu lệnh được cả thiên
27 hạ, thét gầm như sấm gió song cả hai đề nhờ nơi nghiệp cả của các
28 tiên đế và khinh lờn sự ngây thơ của tự quân, rồi đem oai lực mà chế
29 kềm kẻ dưới, song rốt cuộc lại thì họ cũng chỉ là những người đắc tội
30 nghìn xưa. Trái lại, hai bà đây đã đưa ra mộ đoàn binh sĩ, chỉ có mộ
31 mai mà đã bình định được 56 thành trì, rủ xiêm cả miền Bách Việt,
32 nhìn phương Nam mà xưng Cô, với Triệu Vũ đế, Lý Nam Đế, cùng
33 tranh hơn kém, khiến cho đời sau phải chịu mà khen phục là Vương.
34 Mặc dù bị thảm bại, nhưng cái chính khí quảng đại quang minh cũng
35 đã lan tràn đầy vũ trụ khiến cho người đời sau thán phục hâm mộ mà
36 hung đúc hăng say thêm lên. Chí như những con gà mái gái sáng của
37 nhà Hán và nhà Đường có đáng làm đứa thị tỳ mũ hoa áo xanh mà
38 đẩy xe cho hai bà Trưng hay chăng ? "

39 Vua Tự Đức là ngƣời tự phụ nhƣng vẫn tôn trọng và khâm phục
40 mà phê rằng: "Hai bà Trưng là hạng quần thoa lại có thể hùng dũng
41 tâm chí khởi nghĩa, làm chấn động triều đình nhà Hán, tuy yếu thế

VSTK - 157
1 nghịch thời, cũng đủ hứng khởi lòng người lưu danh rạng rỡ ở sử
2 sách. Kìa những bọ đàn ông râu mày lại khúm núm làm tôi tớ người
3 ngoại tộc chẳng cũng mặt dày đáng hổ thẹn lắm sao ? "

4 Trần Trọng Kim cũng tỏ bày sự khâm phục trong Việt Nam Sử
5 Lƣợc: "Hai bà Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài trí của
6 người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà
7 Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời ".

8 Tƣởng không cần phải viết thêm một lời lẽ khen tặng nào nữa, mà
9 dù muốn viết thì không còn ý nào tốt đẹp hơn để mà chen vào. Tuy
10 nhiên ở đây cần phải phế bỏ thành kiến sai lầm và thiển cận cho rằng
11 Trƣng Trắc chỉ vì thù chồng mà xúi dục dân bản xứ làm loạn rồi vì là
12 đàn bà không có trí dũng, mƣu lƣợc nhƣ đàn ông cho nên bị thất bại.

13 Thử đặt câu hỏi: nếu nhƣ sau khi tƣớng Thi chồng của bà Trƣng
14 Trắc bị Tô Định giết hại để trừ mầm móng nổi loạn của dân bản xứ và
15 nếu Trƣng Trắc là một ngƣời đàn bà tầm thƣờng yên phận không dám
16 hó hé cựa quậy thì dân bản xứ có tự động đứng lên đánh đuổi Tô Định
17 hay không? Mặc dù sử cũ không nói rõ ai là ngƣời khởi động châm
18 ngọn lửa đầu tiên khơi dậy ý thức độc lập tự chủ đang ngủ yên trong
19 tâm não ngƣời dân bản xứ nhƣng khó có ai lại ngoan cố phủ nhận
20 ngƣời châm ngọn lửa đầu tiên đó là cả hai vợ chồng Thi-Trƣng Trắc.
21 Hai ngƣời vừa là vợ chồng vừa là cộng sự có cùng một chí hƣớng.Vì
22 thế nếu ngƣời nầy bị hy sinh nằm xuống thì ngƣời kia vẫn tiếp tục
23 mãnh liệt hơn, quyết chí hơn. Nếu Trƣng Trắc hy sinh trƣớc và thủ
24 lãnh Thi tiếp tục công cuộc khởi dậy thì những dƣ luận hẹp hòi đầy
25 thành kiến kia phải viết nhƣ thế nào?
26 Có ngƣời hỏi tại sao cuộc nổi dậy tồn tại quá ngắn ngủi, chỉ kéo
27 dài đƣợc 3 năm? Và cũng có nhiều ngƣời đã trả lời câu hỏi nầy:
28 Một ngƣời Pháp viết: <<Sau khi thắng được Tô Định, hai bà tạo
29 dựng một quốc gia tự chủ được 3 năm nhưng quốc gia đó không có sự
30 thống nhất. Nhóm tộc trưởng Giao Chỉ trước đó đã cùng hai bà đánh
31 đuổi thái thú họ Tô và bọn hợp tác tay sai, nhưng sau đó lại không
32 chịu phục chế độ chính trị của hai bà cho nên khi Mã Viện đưa quân
33 sang Giao Chỉ đê tái lập chính quyền đô hộ thì nhóm tộc trưởng vừa
34 kể lại ra đón tiếp quy phục.>>(H.G Maspéro/ An Nam Đô Hộ Phủ / tập
35 chí B.E.F.E.O/ số 11,12 / 1910). Nhận định nầy có phần hợp lý nhƣng
36 tác giả ngƣời ngoại quốc nầy đã viết một cách quá tổng quát khi cho
37 rằng chỉ có nhóm tộc trƣởng ở Giao Chỉ là những kẻ cơ hội trở cờ.
38 ĐVSKTT và KĐVSTGCM cho biết là Hán đế ra lệnh cho các quận
39 Trƣờng Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ sắm sửa đủ xe, thuyền, sửa sang cầu
40 đƣờng, khơi thông khe rạch sông núi, tích trữ lƣơng thực để yểm trợ
41 cho đoàn quân của Mã Viện, tức là cho tới lúc nầy Trƣng Trắc vẫn

VSTK - 158
1 chƣa triệt hạ và thu hồi đƣợc toàn quận Giao Chỉ vì quân Hán của bộ
2 thuộc địa vẫn tiếp tục cầm cự để chờ quân tiếp viện. Ngay cả quận
3 Hợp Phố cũng vẫn còn có sự hiện diện của quân Hán. Nhƣ vậy không
4 phải các hàng tộc trƣởng ở quận Giao Chỉ đã trở cờ phản phúc để tiếp
5 quân Mã Viện nhƣng chính là quân Hán đồn trú cố thủ của thứ sử bộ
6 Giao Chỉ phối hợp với quân Mã Viện để chuẩn bị phản công đánh trả
7 quân của Trƣng Trắc.
8 Lẽ dĩ nhiên là thời đại nào cũng có hạng ngƣời thừa cơ hội, đón
9 gió trở cờ và hạng ngƣời đó trong sử cũ thƣờng thấy xuất hiện ở các
10 quận Cửu Chân và Nhật Nam từ thời Triệu Đà xƣng hùng xƣng bá,
11 rồi qua thời Tích Quang, Nhâm Diên, Tô Định rồi lại hƣởng ứng theo
12 Trƣng Trắc và nhất định cũng chính là những hạng ngƣời nầy lại trở
13 mặt tiếp tay cho giặc ngoài phản lại Trƣng Trắc.
14 Nhƣ vậy, có thể nói rằng cuộc nổi dậy của quần chúng do tƣớng
15 Thi và Trƣng Trắc khởi động có thành công nhƣng không củng cố
16 đƣợc đƣợc lâu là vì:

17 1/ Chuẩn bị không chu đáo, quân dân không đƣợc huấn luyện về
18 kỹ thuật và kinh nghiệm quân sự. Không có kỹ thuật và kinh nghiệm
19 chiến trƣờng thì sẽ không có gan dạ chiến đấu khi đối đầu với một đối
20 phƣơng già dặn và đông đảo hơn .

21 2/ Tƣơng quan lực lƣợng giữa quân Hán thiện chiến so với đám
22 quân ô hợp của Trƣng Trắc có một cách biệt quá xa về quân số, về
23 chiến lƣợc và chiến thuật. Với số quân tăng viện của Mã Viện từ
24 Trung Hoa cộng thêm với đoàn quân cố thủ của bộ Giao Chỉ và rải rác
25 khắp nơi trong các quận khác của bộ Giao Chỉ.
26 Về chiến lƣợc thì quân Hán một mặt cầm cự, một mặt sửa đƣờng,
27 tích trữ lƣơng thực. Khi đánh thì quân Hán dùng chiến thuật ngoài
28 đánh vào trong đánh ra. Trong khi đó, với 3 năm nắm giữ những vùng
29 đất đã chiếm đƣợc thì sử sách cũ không thấy nói gì về việc vua Trƣng
30 Trắc có một kế hoạch lâu dài để nới rộng vùng đất hoặc gìn giữ những
31 vùng mình đang làm chủ.

32 3/ Sự trở cờ tiếp tay của những ngƣời bản xứ cơ hội đón gió làm
33 nội kích cho kẻ ngoại xăm.

34 Tóm lại, cho dù việc làm của tƣớng Thi và bà Trƣng Trắc có chính
35 nghĩa hay không thì công cuộc khởi xƣớng của họ cũng là ánh sáng
36 đích thật lần đầu tiên tỏ rõ sự có mặt của một dân tộc Việt chính tông
37 khác biệt hẳn với những bộ mặt của những ngƣời Trung Hoa đội lớp
38 dân bản xứ từ thời đại Văn Lang qua thời của Triệu Đà và kéo dài cho
39 đến thời Tô Định.

VSTK - 159
Tranh vẽ bà Triệu

VSTK - 160
CHƢƠNG III

BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI


( 43 - 544 )
THỜI KỲ THUỘC ĐÔNG HÁN
( 25 - 220 )

1 Trƣng Trắc cùng em gái là Trƣng Nhị chống cự


2 quân Hán, cô thế bị thua, cả hai đều chết. Mã Viện truy
3 đuổi, tàn quân rút lui đến huyện Cƣ Phong ở Cửu
4 Chân; tƣớng của Trƣng Trắc là Đô Dƣơng cũng phải
5 đầu hàng, toàn bộ quân của Trƣng Trắc tan rã.
6 Sau khi bình định xong, Mã Viện cắt đặt lại đất đai
7 ở huyện Tây Vu lập thêm hai huyện Phong Khê và
8 Vọng Hải, xây cất thành lũy ở huyện Phong Khê gọi là
9 thành Kiến Giang(1), đặt cột làm dấu móc biên giới(2)
10 tận cùng lãnh thổ thuộc địa của nhà Hán. Ba năm sau
11 Mã Viện về trung Hoa; lãnh thổ Nam Việt lại thuộc về
12 nhà Hán. Từ đó, chính sách cai trị của Đông Hán áp
13 dụng trên các lãnh thổ thuộc địa càng lúc càng trở nên
14 khắc nghiệt và bóc lột(3).
15 Lần lƣợt các thứ sử, cùng với bọn thái thú ngƣời
16 Hán thay phiên nhau tham nhũng vơ vét tài nguyên
17 báu vật, hành hạ dân bản xứ, gây căm phẫn, uất hận
18 khắp nơi nhƣng ngƣời dân bị trị không biết kêu la vào
19 đâu.
20 Năm 137, dân bản xứ bị trị ở các huyện Tƣợng Lâm,
21 Nhật Nam khởi dậy đánh phá quận huyện, giết đƣợc
22 trƣởng lại của nhà Hán. Thứ sử Phàn Diễn đem quân
23 đồn trú đánh dẹp nhƣng không thể dập tắt đƣợc phong
24 trào nổi dậy.
25 Năm 178, phong trào khởi dậy loan rộng ra tới quận
26 Giao Chỉ và Hợp Phố nhƣng chỉ kéo dài đƣợc 3 năm
27 thì bị thứ sử Chu Tuấn dẹp tan.

VSTK - 161
1 Năm 184 quân Hán đồn trú làm loạn bắt giết thứ sử
2 tham ô Chu Ngung.
3 Triều đình nhà Hán thấy không thể dùng quân sự để
4 trấn áp liền đổi sang chính sách dụ dỗ, mua chuộc,
5 vuốt ve để ly gián, chia rẽ ngƣời bản xứ, cử Giả Mạnh
6 Kiên làm thứ sử nhằm ổn định tình thế rồi sau đó chọn
7 ngƣời bản xứ muốn làm quan với triều Hán là Lý Tiến4
8 cho giữ chức thứ sử thay thế Mạnh Kiên.
9 Đời Đông Hán đế Hiến (190-219), ngƣời Hoa ở phủ
10 Quảng Tín, quận Thƣơng Ngô là Sĩ Nhiếp đƣợc cử
11 sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Năm 201 Trƣơng
12 Tân làm thứ sử bộ Giao Chỉ thay thế thứ sử Chu Phù
13 trƣớc đây bị dân bản xứ chống đối giết chết.
14 Theo đề nghị của Trƣơng Tân và Sĩ Nhiếp, năm 203
15 nhà Hán nâng cấp Bộ Giao Chỉ thành Châu Giao Chỉ
16 và đổi gọi là Giao Châu ngang hàng với các châu khác
17 ở Trung Hoa và phong Trƣơng Tân làm quan mục
18 Giao Châu. Tên Giao Châu bắt đầu có từ đó.
19 Sĩ Nhiếp lại tìm cách đƣa anh em họ hàng vào giữ
20 chức thái thú ở các quận Nam Hải , Hợp Phố, Cửu
21 Chân. Nhƣ vậy, hầu hết lãnh thổ Nam Việt của Triệu
22 Đà trƣớc đây nay do gia đình của Sĩ Nhiếp thống trị .
23 Sau khi Trƣơng Tân bị tƣớng Khu Cảnh giết chết,
24 Đông Hán đế giao cho Sĩ Nhiếp cai quản 7 quận và
25 vẫn đƣợc giữ chức thái thú quận Giao Chỉ nhƣ cũ. Sĩ
26 Nhiếp tiếp tục trung thành với nhà Đông Hán mặc dù
27 Trung Hoa lúc đó bắt đầu có sự phân tranh lãnh thổ.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

28 (1) Thành Kiến Giang: thành xây đắp giống nhƣ cái tổ kén tầm
29 (kiến).
30 (2) Cột móc biên giới: sử cũ chép: "Mã Viện dựng cột đồng để ghi địa
31 giới tận cùng của nhà Hán".
32 Sử sách Trung Hoa đã thêu dệt về cột móc biên giới nầy thành một
33 chuyện hoang đƣờng để tâng bốc công trạng của Mã Viện đồng thời

VSTK - 162
1 muốn làm nhục tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm của bộ tộc Việt
2 trong các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
3 Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên viết: "Mã Văn Uyên
4 (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất
5 phía Nam Trung Quốc."
6 Sách Nhất Thống Chí của đời nhà Thanh viết: " Tục truyền cột
7 đồng ở Cổ Sâm châu Khâm, Mã Viện có ghi khắc hàng chữ "Đồng
8 trụ chiết, Giao Chỉ diệt ", nghĩa là cột đồng đó nếu bị xiêu gãy thì dân
9 Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt. Và từ chuyện nầy lại vẽ vời thêm rằng ngƣời
10 Việt vì khiếp sợ lời hăm dọa của Mã Viện cho nên mỗi khi đi qua
11 chân cột đồng ấy cứ phải lấy đá bồi đắp lên mãi thành núi để giữ cho
12 cột đồng không bị xiêu vẹo đổ gãy.
13 Ngày nay không ai còn lạ gì về tài viết lách hồ lốn của các văn gia
14 Trung Hoa, không phải chỉ ở thời xƣa mà ngay trong cả trong thời đại
15 văn minh tiến bộ ngày nay vẫn còn thấy kiểu viết đó.
16 (3) Chính sách thuộc địa bóc lột của quan quân nhà Đông Hán:
17 sách Hậu Hán thƣ của Trung Hoa chép: "Trước kia, huyện lệnh huyện
18 Cư Phong là người tham lam, tàn bạo, không biết thế nào là chán".
19 ĐVSKTT và KĐVSTGCM viết về năm 184 (tức là vào đời Hán
20 Trung Bình ở Trung Hoa) nhƣ sau: <<Quân đồn trú ở quận Giao Chỉ
21 bắt thứ sử Châu Ngung giết đi rồi báo cáo kể tội tham tàn của Chu
22 Ngung lên Hán đế. Hán đế mới cử Mạnh Kiên sang làm thứ sử. Trước
23 kia, ai được cho sang làm thứ sử, thấy đất Giao Chỉ có nhiều châu
24 báu, cánh trả, ngà voi, sừng tê giác, vỏ đồi mồi, trầm hương, gỗ quý .
25 . . đều tham lam lo vơ vét, khai thác, bốc lột tận cùng để cho thật đầy
26 túi. Mạnh Kiên dò hỏi tình cảnh gây ra việc tạo phản của quân đồn
27 trú và được báo cáo rằng luật lệ hà khắc, thuế má quá nặng, dân
28 khốn khổ không biết kêu gào với ai cho nên hợp nhau để chống lại
29 chính sách ấy. Mạnh Kiên phủ dụ, vuốt ve dân chúng, giảm bớt thuế
30 khóa, giết tượng trưng một số quan lại tham ngược để xoa dịu lòng
31 câm phẫn của dân chúng rồi cắt đặt người chưa có thành tích xấu cho
32 giữ chức cai trị ở các quận huyện.>>
33 (4) Lý Tiến: ĐVSKTT chua thêm: (Lý Tiến là người Giao Châu ta
34 (tức Giao Chỉ).Theo sách Bách Việt Hiền Chí thì Lý Tiến là ngƣời
35 đất Cao Hƣng quận Giao Chỉ, khởi đầu đƣợc nhà Hán cho giữ chức
36 công tào (giữ nhiệm vụ tuyển lựa và thu dụng những ngƣời bản xứ có
37 công lao với triều đình nhà Hán) ở quận rồi lên chức lần lần đến kỵ đô
38 úy. Năm 137 đƣợc làm thái thú Linh Lăng rồi thái thú Giao Chỉ
39 (khoảng năm 184-189).

VSTK - 163
THỜI TAM QUỐC
( 220 - 265 )

1 Sau khi nhà Đông Hán mất ngôi, Trung Hoa bị phân
2 chia thành ba nƣớc: Bắc Ngụy, Tây Thục, Đông Ngô
3 và Giao Châu bấy giờ thuộc về Đông Ngô.
4 Năm 210, vua Đông Ngô là Tôn Quyền cử Bộ Chất
5 làm thứ sử Giao Châu, Sĩ Nhiếp đem anh em họ hàng
6 ra đầu phục, chịu triều cống .
7 Năm 226 Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy tự động xƣng
8 làm thái thú Giao Chỉ. Đông Ngô lại chia cắt Giao
9 Châu, đặt thêm một châu mới là Quảng Châu phong
10 cho Lữ Đại làm thứ sử Quảng Châu, Đái Lƣơng làm
11 thứ sử Giao Châu và Trần Thì làm thái thú Giao Chỉ
12 thay chỗ của Sĩ Nhiếp. Sĩ Huy chống đối việc cắt cử
13 sắp xếp mới của Đông Ngô do đó bị Lữ Đại bắt giết đi
14 cùng với tất cả anh em họ hàng. Đông Ngô lại bỏ
15 Quảng Châu lập lại Giao Châu nhƣ cũ. Lữ Đại dẹp yên
16 loạn Sĩ Huy lại tiến đánh quận Cửu Chân và đƣợc
17 Đông Ngô phong làm quan mục Giao Châu.
18 Năm 248, dân bản xứ do bà Triệu Ẩu(1) ở quận Cửu
19 Chân cầm đầu cuộc khởi dậy đánh phá thành ấp làm
20 rối động cả châu, quận. Đông Ngô cử thứ sử Lục Dậu
21 sang đánh dẹp rồi dùng chính sách mua chuộc ve vuốt
22 để trấn an quần chúng.
23 Năm 263 nhà Đông Hán mất.
24 Năm 264 Đông Ngô tách ba quận Nam Hải, Thƣơng
25 Ngô, Uất Lâm đặt làm Quảng Châu, đặt Châu trị ở
26 Phiên Ngung; lấy Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
27 Nam làm Giao Châu, Châu trị ở Long Biên. Lãnh thổ
28 Nam Việt của Triệu Đà ngày xƣa nay trở thành hai
29 châu: Quảng Châu và Giao Châu.
30 Năm 265 nhà Tấn cƣớp ngôi Bắc Ngụy rồi cử ngƣời
31 sang chiếm lĩnh Giao Châu. Đông Ngô nhiều lần giành
32 giựt với nhà Tấn nhƣng sau nhờ có Đào Hoàng (2) mới

VSTK - 164
1 lấy lại đƣợc Giao Chỉ lập ra quận Tân Xƣơng (3) rồi
2 bình định đƣợc luôn Giao Châu. Đào Hoàng đƣợc
3 Đông Ngô phong làm Giao Châu Mục.
4 Năm 280, Đông Ngô đầu hàng nhà Tấn; Đào Hoàng
5 cũng phải hàng phục theo và đƣợc nhà Tấn cho giữ
6 chức nhƣ cũ.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

7 (1) Triệu Ẩu: Theo sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời nhà
8 Tống thì: trong miền núi quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu,
9 vú dài 3 thước, không lấy chồng, tụ hợp đồ đảng đánh cướp các quận
10 huyện thường mặc áo vải mộc màu vàng, đi guốc, cưỡi voi, xong pha
11 trận mạc. Sau khi chết thành thần.
12 Sách Giao Chỉ Chí cũng chép giống nhƣ thế.
13 Theo Thanh Hóa kỳ thắng của Vƣơng Duy Trinh thì bà Triệu tức
14 là Lệ Hải Bà Vương, họ Triệu, húy Trinh , tự là Nữ Ẩu, em gái Triệu
15 Quốc Đạt.
16 (2) Đào Hoàng: con Đào Cơ, ngƣời Mạt Lăng thuộc Đan Dƣơng bên
17 Tàu.
18 (3) Tân Xƣơng: KĐVSTGCM viện dẫn theo lời chú thích của Hồ
19 Tam Tỉnh: Tân Xƣơng là Phong Châu, nay là đất tỉnh Sơn Tây.

KHẢO LUẬN :

20 Sách sử của ngƣời Trung Hoa lúc nào cũng tìm cách bôi nhọ hạ
21 nhục khi viết về những ngƣời chống đối chính sách đế quốc bành
22 trƣớng, chủ nghĩa thực dân thuộc địa của họ. Vua Tự Đức có lời phê
23 nhƣ sau: "Con gái nước ta, nhiều người hùng dũng khác thường. Bà
24 Triệu Ẩu cũng là người sánh vai được với hai bà Trưng. . .Nhưng nói
25 là vú dài ba thước thì cũng quái gở đáng cười".

VSTK - 165
THỜI ĐẠI THUỘC TẤN, TỐNG, TỀ, LƢƠNG
( 265 - 540 )

 NHÀ TẤN VÀ ĐÔNG TẤN (265-420)

1 Sau khi Đào Hoàng chết dân chúng bản xứ quận


2 Cửu Chân lại khởi dậy nhiều lần để chống đối nhƣng
3 sau đó lại bị dẹp yên và các thứ sử của nhà Tấn lại
4 dùng chính sách ve vuốt mua chuộc để xoa dịu các
5 phong trào nổi dậy của dân bản xứ.
6 Lúc nhà Tấn cai trị thì có loạn Ngũ Hồ nổi lên ở
7 phía Tây Bắc Trung Hoa. Khi nhà Tấn mất vào khoảng
8 năm 317 thì mất cả lãnh thổ phía Tây Bắc. Giao Châu
9 lại thuộc nhà Đông Tấn.
10 Chính sách cai trị đồng hóa của Đông Tấn cũng
11 giống nhƣ những thời trƣớc, có khi ve vuốt mua chuộc
12 nhƣng hầu hết chẳng những tham tàn bạo ngƣợc với
13 dân bị trị mà nôi bộ còn hám quyền tranh ăn chém giết
14 lẫn nhau.
15 Từ năm 102 thời Đông Hán, dân bản xứ ở huyện
16 Tƣợng Lâm thƣờng khởi dậy chống đối chính sách cai
17 trị của ngƣời Hán ở quận Nhật Nam; vì thế nhà Hán
18 phải đặt huyện lệnh ở Tƣợng Lâm để khống chế các
19 mầm móng chống đối. Huyện Tƣợng Lâm của nhà
20 Hán nguyên là lãnh thổ của bộ tộc Lâm Ấp(1).
21 Năm 399 ngƣời trƣởng bộ tộc Lâm Ấp là Phạm Hồ
22 Đạt khởi dậy đánh lấy quận Nhật Nam, Cửu Chân,
23 vây hãm Giao Châu, bị thái thú Giao Chỉ là Đỗ Viện
24 đánh lui nhƣng phong trào khởi dậy vẫn tiếp tục. Đỗ
25 Viện đƣợc nhà Đông Tấn cho giữ chức Giao Châu
26 mục.
27 Năm 420, Lƣu Dụ cƣớp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra
28 nhà Tống ở phía Nam Trung Hoa và Giao Châu thuộc
29 nhà Tống.

VSTK - 166
 TỐNG (420-479), TỀ (479-501), LƢƠNG (501-540)

1 Lúc bấy giờ về phía Bắc nƣớc Trung Hoa thì có nhà
2 Ngụy, nhà Tề, nhà Chu thay phiên nhau cai trị còn
3 phía Nam thì có nhà Tống, nhà Lƣơng và nhà Trần lần
4 lƣợt chia nhau cai trị. Vì vậy thời nầy còn gọi là thời
5 Nam Triều - Bắc Triều.
6 Năm 433 nhà Tống sai thứ sử Giao Châu Đàn Hòa
7 Chi cử binh đánh dẹp phong trào khởi dậy của bộ tộc
8 Lâm Ấp, cƣớp đƣợc vàng bạc châu báu rất nhiều.
9 Năm 479 nhà Tống mất ngôi về nhà Tề rồi nhà Tề
10 lại mất ngôi về nhà Lƣơng vào năm 502.
11 Năm 523 nhà Lƣơng cắt đất Giao Châu, đặt thêm Ái
12 Châu tức là đất của quận Cửu Chân.
13 Trải qua năm triều đại thực dân thuộc địa của Trung
14 Hoa, dƣới ách xâm lƣợc của Ngô, Tấn, Tống, Tề,
15 Lƣơng cộng lại tất cả là 314 năm, ngƣời dân của bộ
16 Giao Chỉ rồi kế đến đổi là Giao Châu không bao giờ có
17 đƣợc hòa bình dƣới chính sách cai trị hà khắc bóc lột
18 tận xƣơng tủy đè lên ngƣời dân bản xứ bị trị cộng thêm
19 sự tranh giành quyền lực giữa những ngƣời Trung Hoa
20 với nhau muốn xƣng hùng xƣng bá làm vua riêng một
21 cõi khiến cho dân tộc bản xứ càng thêm cùng cực oán
22 hận.

LÝ BÔN ( 544 - 548 )

23 Tổ tiên Lý Bôn là ngƣời Hoa, thời Tây Hán tránh


24 loạn chạy sang Giao Chỉ. Lý Bôn là quan của nhà
25 Lƣơng coi việc quân sự ở quận Cửu Đức. Vì bất mãn
26 không đƣợc trọng dụng cho nên mới liên kết với một
27 tộc trƣởng dân bản xứ là Triệu Túc ở huyện Chu Diên

VSTK - 167
1 khởi loạn đánh đuổi đám quan cai trị của nhà Lƣơng,
2 chiếm thành Long Biên, dẹp yên giặc Lâm Ấp quấy
3 phá ở biên giới rồi tự xƣng là Nam Việt đế vào năm
4 544, thiết đặt quan chức, sắp xếp triều chính, phong
5 cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều, làm tƣớng
6 văn, Phạm Tu làm tƣớng võ, lấy quốc hiệu là Vạn
7 Xuân(2), đặt niên hiệu là Thiên Đức, đóng đô ở Long
8 Biên.
9 Năm 545, nhà Lƣơng sai Dƣơng Phiêu và Trần Bá
10 Tiên sang đánh dẹp, Lý Bôn thua bỏ chạy về cố thủ ở
11 động Khuất Lạo(3) nhƣng chỉ cầm cự đƣợc đến năm
12 548 thì bị bệnh chết.


TRIỆU QUANG PHỤC ( 549 - 571 )

13 Quang Phục là con của Triệu Túc, ngƣời huyện Chu


14 Diên, tùy tƣớng của Lý Bôn. Khi thế quân nhà Lƣơng
15 đang mạnh, Quang Phục rút quân về cố thủ vùng Dạ
16 Trạch(4) rồi dùng chiến thuật du kích để đánh với quân
17 của tƣớng nhà Lƣơng Trần Bá Tiên.
18 Khi Lý Bôn mất, Quang Phục tự xƣng là Việt
19 vƣơng, tiếp tục đánh phá quân Lƣơng, chiếm lại thành
20 Long Biên.
21 Năm 571, Lý Phật Tử dùng kế nội gián rồi đem
22 quân đến đánh để tranh quyền; Triệu Quang Phục phải
23 thua chạy, tự sát chết ở cửa biển Đại Nha.(5)

LÝ PHẬT TỬ ( 571 - 602 )

VSTK - 168
1 Lý Phật Tử là em họ của Lý Bôn. Sau khi tạm giảng
2 hoà và phân ranh giới cai trị với Triệu Quang Phục,
3 Phật Tử cho gián điệp(6) dò xét quân tình của Quang
4 Phục rồi đem quân tràn sang để đánh úp.
5 Sau khi đã diệt đƣợc Quang Phục, năm 571, Phật Tử
6 theo hiệu Nam Đế trƣớc tự xƣng là Hậu Nam đế, dời
7 thủ đô từ Ô Diên về Phong Châu.
8 Trong lúc nầy nhà Tùy đã thống nhất và gồm thâu
9 cả Nam Bắc nƣớc Trung Hoa.
Năm 602 nhà Tùy cử tƣớng Lƣu Phƣơng sang
đánh. Phật Tử khiếp sợ phải quy hàng và bị bắt giải về
Trung Hoa, các hàng tƣớng tá của Phật Tử đều bị giết.
Giao Châu lại trở thành thuộc địa của nƣớc Trung Hoa.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

10 (1) Lâm Ấp: tên nƣớc Lâm Ấp đƣợc nhắc đến từ thời Đông Hán (Tấn
11 Thƣ/ Lâm Ấp truyện) ở phần đất mà thời Đông Hán gọi là huyện
12 Tƣợng Lâm, phía nam quận Nhật Nam. Đời Đƣờng, sử sách Tàu gọi
13 nƣớc nầy là Hoàn Vƣơng rồi Chiêm Thành.
14 KĐVSTGCM chú giải nhƣ sau: Xưa là quốc giới của Việt Thường
15 thị; đời Tần là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận; đời Hán đổi thành
16 huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam. Cuối đời Hán, con của một
17 viên công tào ở huyện Tượng Lâm là Khu Liên giết huyện quan (của
18 nhà Hán) tự xưng làm vua nước Lâm Ấp. Cháu ngoại Khu Liên là
19 Phạm Hùng kế tục làm vua. . . . ..Khoảng giữa niên hiệu Trinh Quán
20 (627-649) đời Đường, vua Lâm Ấp là Đầu Lê chết, con là Trấn Long
21 bị sát hại, người trong nước lập con nhà cô của Đầu Lê là Gia Cát
22 Địa làm vua, đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, thường sang xăm lấn An
23 Nam. Quan Đô hộ của nhà Đường là Trương Chu đánh dẹp được, vua
24 nước ấy mới bỏ Lâm Ấp, dời đến đất Chiêm, gọi là nước Chiêm
25 Thành.
26 (2) Vạn Xuân: theo sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký: huyện Long Biên có
27 đền Vạn Xuân do Lý Bôn người Giao Chỉ xây. KĐVSTGCM chua
28 thêm: Nay ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì có hồ Vạn Xuân còn gọi
29 là đầm Vạn Phúc. Vậy điện Vạn Xuân có lẽ ở đây.
30 (3) Động Khuất Lạo: ở vùng núi thuộc 2 xã Cổ Tiết, Văn Lang, huyện
31 Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú nay còn di tích mộ chôn và đền thờ Lý
32 Bôn ở gò Cô Bồng (trích chú dẫn trong ĐVSKTT).

VSTK - 169
1 (4) Dạ Trạch: Chú giải trong ĐVSKTT ghi: Đầm Dạ Trạch cũng gọi
2 là Nhất Dạ Trạch, nay là bãi Màn Trò, huyện Châu Giang, tỉnh Hải
3 Hưng. Nhƣng ở 1 đoạn khác ĐVSKTT cũng viết: Đầm nầy ở huyện
4 Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm
5 che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người
6 ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt
7 trên cỏ nước mới có thể đến được . . ." (ĐVSKTT/NK/Q.4/17a,17b)
8 KĐVSTGCM: Theo sách Thanh Nhất Thống Chí, Dạ Trạch thuộc
9 huyện Đông Kết, phủ Kiến Xương. Thời Lương Vũ đế, Trần Bá Tiên
10 đánh Lý Bôn, Lý Bôn trốn vào trong chầm nầy, đêm đến đem quân ra
11 đánh; nhân thế gọi là Dạ Trạch. Đông kết là huyện Đông An phủ
12 Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên bây giờ.
13 (5) Cửa biển Đại Nha: chú thích trong ĐVSKTT: cũng có tên là Đại
14 Ác, thời Lý đổi là Đại An nay là cửa Liêu (cửa sông Đáy); huyện Đại
15 An thời Lê nay thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Hà.
16 KĐVSTGCM cũng chú thích tƣơng tựa và thêm:. . cửa Liêu thuộc
17 xã Quần Liêu hay cồn Liêu, nay thuộc Nam Định; huyện Đại An có
18 đền thờ Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục).
19 (6) Gián điệp: ĐVSKTT ghi lại công tác gián điệp nầy nhƣ sau: Vua ở
20 trong đầm thấy quân Lương không lui mới đốt cầu đảo, thế rồi có
21 điềm lành được mũ đầu mâu (a) móng rồng dùng để đánh giặc. Từ đó
22 quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai địch nổi (tục truyền móng rồng
23 của thần nhân trong đầm là Chữ Đồng Tử trao cho. Tiếp sau đó lại
24 chép rằng Phật Tử chịu hoà với Quang Phục rồi cầu hôn cho con trai
25 là Nhã Lang để cưới con gái Quang Phục là Cảo Nương và cho ở rể.
26 Sau Nhã Lang lợi dụng lòng tín cẩn của vợ bèn dò hỏi và đánh tráo
27 móng rồng rồi trở về bàn mưu với Phật Tử đánh úp Quang Phục. Vì
28 móng rồng đã mất nên Quang Phục bị thua trận và phải gieo mình
29 xuống biển .
30 (a) Mũ đầu mâu: mũ đội che chở đầu lúc đánh trận.


KHẢO LUẬN :

31  Chuyện rồng rắn thần ma quái dị bị quên đi một thời gian khá
32 dài nay lại tái xuất hiện trong truyện móng rồng, mũ đầu mâu của
33 Triệu Quang Phục. Các sử gia soạn KĐVSTGCM có phê phán về việc
34 nầy nhƣ sau: Sử cũ (tức ĐVSKTT) chép chuyện Việt Vương được cái
35 móng rồng của Chữ Đồng Tử cho; việc Nhã Lang sang gửi rể rồi lấy
36 trộm móng rồng; việc Triệu Việt Vương vì mất cái móng rồng mà bị

VSTK - 170
1 thua. Đem những việc ấy mà so với chuyện Thục An Dương Vương và
2 Triệu Trọng Thủy trước kia giống nhau như hệt, kỳ quái trái thường
3 không cần phải biện bạch thêm. Sử cũ phần nhiều chép đi chép lại,
4 sai hẳn sự thật đại loại nhiều như thế. Nay muốn dựa vào sử cũ tìm
5 chuyện đáng tin để truyền lại cho đời sau thì thật là khó lắm.

 Về lý lịch của Lý Bôn

6 Sử cũ viết rằng tổ tiên của Lý Bôn là người Hoa sang ở đất


7 phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam.
8 VNSL của Trần Trọng Kim thì viết :". thành ra người bản xứ."
9  Thân cách của Lý Bôn nếu so sánh với thân cách của Thục Phán,
10 Triệu Đà thì cũng không khác biệt gì nhiều. Ngƣời Hoa nào khi tới
11 phƣơng Nam rồi mà tránh khỏi không dậy lên lòng ham muốn xƣng
12 hùng xƣng bá làm chủ riêng mình một phƣơng khi thời cơ đƣa tới.
13 Xét cho cùng thì Lý Bôn cũng là ngƣời của đám thực dân thuộc địa từ
14 phƣơng Bắc nhƣng vì không đƣợc trọng dụng, bất mãn cho nên chiêu
15 dụ ngƣời bản xứ nhƣ tộc trƣởng Triệu Túc ở huyện Chu Diên hợp lực
16 cùng chống đối nhà Lƣơng.
17  Trong giai đoạn nầy hình ảnh khởi dậy của dân bản xứ không
18 phải là Lý Bôn, không phải Lý Phật Tử nhƣng chính là Triệu Quang
19 Phục, con của Triệu Túc.
20 Ngô Sĩ Liên phê luận về Triệu Quang Phục nhƣ sau :" . .Tiền Lý
21 Nam Đế đem việc quân ủy cho Triệu Việt Vương, Việt Vương thu nhặt
22 tàn quân giữ hiểm ở Dạ Trạch bùn lầy, đương đầu với Trần Bá Tiên
23 là người hùng một đời, cuối cùng bắt được tướng của y là Dương
24 Sàn. Tiên, người phương Bắc phải lui quân. . .
25 Những việc làm của Việt Vương (đối với Lý Phật Tử) đều là chính
26 nghĩa, giao hảo phải đạo, thăm viếng phải thời, há chẳng phải là đạo
27 trị yên lâu dài hay sao? Thế mà (Lý Phật Tử) lại dùng mưu gian của
28 Nhã Lang, vứt bỏ chính đạo nhân nghĩa, đánh cướp lấy nước, tuy
29 rằng lấy được, mà Nhã Lang thì chết
30 trước, bản thân (Lý Phật Tử) cũng không khỏi làm tù, có lợi gì
31 đâu?"(ĐVSKTT/NK. 4 / 21b).
32  Cao Huy Diệu tiếm bình nhƣ sau:". . thực hiểm ác thay dụng
33 tâm của Hậu Lý Nam đế (Lý Phật Tử). Triều nhà Trần ta sách phong
34 cho cả hai, vốn không hề phân biệt Giáp Ất chi, nhưng rộng xét
35 những điều đã chép thì Việt ương Triệu Quang Phục vẫn gần với
36 chính nghĩa hơn."
37  Và xét về chính sách ngƣời Trung Hoa cai trị trong thời thuộc
38 địa thì có thể lấy lời của Hoàng Cao Khải trong Gương Sử Nam viết
39 nhƣ sau: "Tuy thế dân nước ta thuở ấy còn man rợ, từ khi nước Tàu
40 sang cai trị, chẳng những làm cho ta hóa được cái sự giống nòi, mà
41 lại mở cho ta thấy đường giáo hóa, dẫu như Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, là

VSTK - 171
1 những người dạy cho ta lễ nghĩa, mới nên ra giống văn minh; dẫu đến
2 Lý Bân, Mã Kỳ làm cho ta oán thù, bởi sự oán thù ấy, mới nên cho ta
3 lấy sự độc lập.
4 Thế thì chung lại mà nói rằng: người hay người dở cũng đều là có
5 công với nước ta vậy.
6 Cách viết nầy Hoàng Cao Khải không nhằm mục đích ca tụng
7 công lao của nhóm thực dân đô hộ đến từ phƣơng Bắc mà chỉ coi họ
8 nhƣ những kẻ khơi mào làm gƣơng cho ngƣời Việt Nam nổi dậy để
9 dành lấy độc lập tự chủ cho mình trong tƣơng lai.

VSTK - 172
CHƢƠNG IV

BẮC THUỘC LẦN THỨ BA


( 603 - 939 )
THỜI KỲ THUỘC TÙY
(589 - 617)

1 Mãi đến năm 605 tƣớng nhà Tùy là Lƣu Phƣơng


2 mới bình định xong đất Giao Châu rồi đƣợc phong
3 chức chỉ huy quân sự ở đạo Hoan Châu(1) để cất binh
4 đánh dẹp lãnh thổ Lâm Ấp. Lúc khởi trận Lƣu Phƣơng
5 bị chận đánh ở sông Chà Lê(2) và thua cho nên sau đó
6 phải dùng thế trận đào hầm phục kích mới phá tan
7 đƣợc quân Lâm Ấp. Lƣu Phƣơng thắng trận tiến vào
8 kinh đô(3) của Lâm Ấp cƣớp bóc tài vật châu báu, vơ
9 vét vàng bạc, dựng ghi bia chiến công rồi kéo quân về
10 nhƣng mắc bệnh chết ở dọc đƣờng .

THỜI KỲ THUỘC NHÀ ĐƢỜNG


( 618 - 907 )

11 Năm 618, nhà Tùy mất, nhà Đƣờng lên thay, áp


12 dụng chính sách tham nhũng, bóc lột, ác nghiệt chƣa
13 từng có lên các lãnh thổ thuộc địa ở Giao Châu.
14 Khi nhà Tùy mất thái thú Giao Chỉ là Khâu Hoà(4)
15 xin thần phục nhà Đƣờng và đƣợc phong làm đại tổng
16 quản(5) Giao Châu.
17 Năm 622, nhà Đƣờng lấy 2 huyện của quận Nhật
18 Nam để lập Châu Trí, đặt riêng một thứ sử để cai trị và
19 đổi quận Giao Chỉ thành Giao Châu tổng quản phủ rồi
20 đến năm 679 lại đổi làm An Nam đô hộ phủ (6) chia
21 Giao Châu thành 12 châu :

VSTK - 173
1 1. Châu Lục cai quản 3 huyện(7) nay là Quảng Yên,
2 Lạng Sơn)
3 2. Châu Phong cai quản 5 huyện(8) (nay là Sơn
4 Tây)
5 3. Châu Ái cai quản 6 huyện (9) (nay là Thanh Hóa)
6 4. Châu Phúc Lộc cai quản 3 huyện(10) (nay thuộc
7 địa giới Thanh Hóa)
8 5. Châu Thang cai quản 3 huyện(11) (nay là Tuyên
9 Quang)
10 6. Châu Chi cai quản 7 huyện(12) (nay là Hƣng Hóa)
11 7. Châu Diễn cai quản 7 huyện(13) (nay là phủ Diễn
12 Châu, tỉnh Nghệ An)
13 8. Châu Vũ Nga cai quản 7 huyện(14) (nay là Thái
14 Nguyên)
15 9. Châu Hoan cai quản 4 huyện(15) (nay cũng thuộc
16 Nghệ An)
17 10.Châu Trƣờng cai quản 4 huyện(16) (nay cũng
18 thuộc Tuyên Quang)
19 11.Châu Vũ An cai quản 2 huyện(17) (có thể là tỉnh
20 Quảng Yên ngày nay)
21 12.Châu Giao cai quản 8 huyện(18) (nay là Hà Nội,
22 Nam Định, Thái Bình...)
23 Năm 722, dân bản xứ do Mai Thúc Loan (19) cầm đầu
24 liên kết với Lâm Ấp, Chân Lập khởi dậy chống chính
25 sách cai trị của nhà Đƣờng, đánh chiếm Châu Hoan,
26 xƣng là Hắc Đế nhƣng rồi bị dẹp tan ngay trong năm
27 đó.
28 Năm 757 nhà Đƣờng đổi An Nam đô hộ phủ thành
29 Trấn Nam đô hộ phủ.
30 Năm 767 các bộ tộc Côn Luân(20), Chà Bàn(21) đánh
31 phá vây hãm các vùng chung quanh Trấn Nam đô hộ
32 phủ. Kinh lƣợc sứ Trƣơng Bá Nghi cầu cứu với Cao
33 Chính Bình; Chính Bình từ châu Vũ Định đem quân
34 sang đánh và dẹp tan hết quân Côn Luân, Chà Bà ở
35 huyện Chu Diên; sau đó Trƣơng Bá Nghi xây đắp La
VSTK - 174
1 Thành để phòng ngự. Cũng vào lúc nầy, ở huyện
2 Đƣờng Lâm, châu Phúc Lộc dân bản xứ do anh em
3 Phùng Hƣng, Phùng Hải chủ xƣớng khởi dậy chống
4 đối và đánh nhau với quân đồn trú của nhà Đƣờng ở
5 Châu Vũ Định do Cao Chính Bình chỉ huy.
6 Năm 768 lại đổi Giao Châu (Trấn Nam đô hộ phủ)
7 thành An Nam đô hộ phủ.
8 Năm 791 quân và dân do anh em Phùng Hƣng cầm
9 đầu bao vây An Nam Đô hộ phủ. Cao Chính Bình quá
10 lo sợ phát bệnh chết. Anh em Phùng Hƣng chiếm đƣợc
11 trị sở của An Nam đô hộ phủ nhƣng đƣợc ít lâu thì
12 Phùng Hƣng mất.
13 Dân bản xứ tôn con của Phùng Hƣng là Phùng An
14 nối nghiệp lãnh đạo phong trào nổi dậy và tôn xƣng
15 Phùng Hƣng là Bố Cái Đại Vƣơng(22). Cùng trong năm
16 nầy, nhà Đƣờng sai Triệu Xƣơng sang làm đô hộ sứ,
17 Phùng An yếu hèn lại bị khuyến dụ, đem quân ra hàng.
18 Từ năm 801 đế năm 846 nhà Đƣờng lần lƣợt có
19 những đô hộ kinh lƣợc sứ sau đây sang Giao Châu:
20 Bùi Thái (801), Triệu Xƣơng (803) (lần thứ nhì),
21 Trƣơng Chu (808), Lý Tƣợng Cổ (819) rất tàn bạo hà
22 khắc, Lý Nguyên Gia (824), Hàn Ƣớc (828), Mã
23 Thực(836), Vũ Hồn (842), Bùi Nguyên Hựu (846).
24 Năm 846 bộ tộc Nam Chiếu(23) đánh phá Giao Châu
25 nhƣng Bùi Nguyên Hựu dẹp tan.
26 Năm 857, Tống Nhai đƣợc cử làm Kinh lƣợc sứ
27 nhƣng chỉ trong một thời gian ngắn lại đổi về Quảng
28 Châu.
29 Năm 858, nhà Đƣờng dùng Vƣơng Thức làm kinh
30 lƣợc đô hộ sứ. Dân bản xứ(24) Giao Châu vì chịu nhiều
31 đói kém, loạn lạc, cƣớp bóc, sƣu cao thuế nặng, cho
32 nên lại khởi dậy chống đối nhƣng bị Vƣơng Thức tàn
33 sát, đập tan. Sau đó Vƣơng Thức lại gia tăng thuế
34 khóa, bóc lột thêm nhiều hơn trƣớc để cống nạp cho

VSTK - 175
1 vƣơng triều nhà Đƣờng và nuôi quân(25) thuộc địa dồn
2 trú ở Giao Châu.
3 Năm 863 quân Nam Chiếu lại đánh phá phủ đô hộ.
4 Kinh lƣợc sứ Thái Tập thua trận, tự tử.
5 Nhà Đƣờng phải di tản An Nam đô hộ phủ về ở trấn
6 Hải Môn(26) trên lãnh thổ Trung Hoa rồi đổi thành Hành
7 Giao Châu còn quân nhà Đƣờng đồn trú ở Giao châu
8 thì rút chạy về giữ Tây Đạo(27).
9 Nam Chiếu sau hai lần chiếm Giao Châu vừa bắt
10 vừa giết quân nhà Đƣờng kể cả dân bản xứ Giao Châu
11 tất cả gần 150 ngàn ngƣời.
12 Sau khi thắng đƣợc quân nhà Đƣờng vua Nam
13 Chiếu Mông Thế Long cho thuộc hạ của mình là Đoàn
14 Tù Thiên ở lại nắm quyền cai trị Giao Châu cùng với
15 20 ngàn quân đồn trú. Giao Châu bây giờ lại trở thành
16 thuộc địa của Nam Chiếu.
17 Nhà Đƣờng lại đặt phủ đô hộ mới gọi là Hành Giao
18 Châu, bản doanh rút về đóng ở trấn Hải Môn. Rồi năm
19 864 dùng Cao Biền làm đô hộ kinh lƣợc chiêu thảo sứ
20 cai quản tất cả mọi công việc của Hành Giao Châu,
21 chuẩn bị lƣơng thực binh mã để sang đánh Nam Chiếu
22 chiếm lại Giao Châu.
23 Cuối năm 865, Cao Biền tiến quân theo đƣờng biển
24 đến Nam Định(28) chiếm Phong Châu, chém giết hàng
25 vạn dân bản xứ đang thu hoạch mùa màn, thu vét hết
26 lúa gạo đem về nuôi quân.
27 Năm 866, Cao Biền bình định xong Giao Châu, giết
28 đƣợc tiết độ sứ của Nam Chiếu là Đoàn Tù Thiên. Nhà
29 Đƣờng liền đặt một cơ quan quân sự ở Giao Châu gọi
30 là Tỉnh Hải quân(29) để thay thế Hành Giao Châu trong
31 việc cai trị và cử Cao Biền làm Tỉnh Hải quân Tiết độ
32 sứ.
33 An Nam đô hộ phủ từ đó đƣợc gọi là Tỉnh Hải quân
34 tiết trấn. Cao Biền bắt dân bản xứ lao công phục dịch
35 xây thành đắp lũy, vét sông, đào kinh, dùng chất nổ để
VSTK - 176
1 khai thông các thủy lộ, xây bến cảng, kiểm soát thuế
2 dịch để thu vét nhiều hơn trƣớc, áp dụng chính sách cai
3 trị độc tài phong kiến, bắt ngƣời dân bị trị tôn xƣng
4 mình nhƣ là một bậc vua con, một mình một cõi.
5 Năm 875 Cao Biền tiến cử Cao Tần sang thay.
6 Năm 880 quân nhà Đƣờng đồn trú ở phủ đô hộ nổi
7 loạn(30), tiết độ sứ lúc đó là Tăng Cổn phủ dụ dẹp yên(31).
8 Năm 892 Chu Toàn Dục sang thay.
9 Năm 905, ở Trung Hoa loạn lạc khắp nơi. Nhà
10 Đƣờng suy yếu, những kẻ có uy thề đều nổi lên xƣng
11 hùng xƣng bá mƣu đồ tranh đoạt đất đai lãnh thổ của
12 nhà Đƣờng. Khúc Thừa Dụ(32) gốc gác ở Hồng Châu(33)
13 nhân cơ hội nầy tự xƣng tiết độ sứ Giao Châu khi Chu
14 Toàn Dực vừa bị nhà Đƣờng bãi chức.
15 Năm 906 Nhà Đƣờng phải gia phong cho Khúc
16 Thừa Dụ chức đổng bình chƣơng sự tiết độ sứ.
17 Năm 907 anh của Chu Toàn Dực là Chu Toàn Trung
18 đoạt ngôi của nhà Đƣờng lập ra nhà hậu Lƣơng(34).

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN

19 (1) Hoan Châu: đời nhà Lý đổi là châu Nghệ An, đời Trần là trấn Lâm
20 Giang, nhà Lê là thừa tuyên Nghệ An. Nay là tỉnh Nghệ An.
21 (2) Sông Chà Lê: sách Thông Giám Tạp Lãm chú thích là ở phía Bắc
22 nƣớc Chiêm Thành ngày xƣa.
23 (3) Kinh đô của Lâm Ấp: không rõ ở đâu; tuy nhiên hiện nay nƣớc
24 Việt Nam có rất nhiều di tích thành cũ của vua Chiêm ở các tỉnh
25 Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Bình Định.
26 (5) Khâu Hoà: sách Đƣờng Thƣ của Trung Hoa khen Khâu Hòa là
27 ngƣời tốt khoan hậu, gần gũi với dân nhƣng sự thật lại là ngƣời tham
28 nhũng chuyên lo bòn rút, dụ dỗ dân tộc bản xứ để làm
29 giàu.(ĐVSKTT/NK.V/3a, KĐVSTGCM/TB.IV/16b)
30 (5) Tổng quản: giống nhƣ chức thứ sử.

VSTK - 177
1 (6) An Nam Đô hộ phủ: sách Đƣờng thƣ/Địa lý chí chép: là quận
2 Giao chỉ đời nhà Tùy; năm Vũ Đức thứ 5 đời nhà Đƣờng (622 TL)
3 đổi thành Giao Châu tổng quản phủ.
4 (7) Châu Lục: 3 huyện là Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh Hải.
5 (8) Châu Phong: 5 huyện là Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xƣơng, Cao
6 Sơn, Châu Lục.
7 (9) Châu Ái: 6 huyện là Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh,
8 Nhật Nam, Trƣờng Lâm.
9 (10) Châu Phúc Lộc: 3 huyện là Phúc Lộc, Đƣờng Lâm, Nhu Viễn.
10 (11) Châu Thang: 3 huyện là Dƣơng Tuyền, Lục Thủy, La Thiều.
11 (12) Châu Chi: 7 huyện là Hân Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc
12 Quang, Lạc Diễm, Ân Long (hay Mã Long, Tƣ Long), Đa Vân.
13 (13) Châu Diễn: 7 huyện là Trung Nghĩa, Long Trì, Tƣ Nông, Vũ
14 Động, Vũ Dung, Vũ Kim, Vũ Lang.
15 (14) Châu Vũ Nga: 7 huyện là Vũ Nga, Vũ Nghĩa, Vũ Di, Vũ Duyên,
16 Vũ Lao, Nhƣ Mã (hay Mã Thạch), Lƣơng Sơn.
17 (15) Châu Hoan: 4 huyện là Cửu Đức, Phố Dƣơng, Việt Thƣờng, Hoài
18 Hoan.
19 (16) Châu Trƣờng: 4 huyện là Văn Dƣơng, Đồng Thái, Trƣờng Sơn,
20 Kỳ Thƣờng.
21 (17) Châu Vũ An: 2 huyện là Vũ An, Lâm Giang.
22 (18) Châu Giao: 8 huyện là Tống Bình, Nam Định, Thái Bình, Giao
23 Chỉ, Chu Diên, Long Biên, Bình Đạo, Vũ Bình.
24 (19) Mai Thúc loan: ngƣời huyện Thiên Lộc nay là huyện Can Lộc
25 tỉnh Hà Tỉnh, sắc da đen đen nên gọi là Hắc đế.
26 (20) Côn Luân: các bộ tộc nầy gồm các quần đảo trong vùng Nam Hải
27 tức là vùng Đông Nam Á Châu bây giờ. Sử sách Trung Hoa gọi các
28 bộ tộc nầy là ngƣời Di ở các đảo châu Nam Hải, ngƣời rất đen, có
29 nhiều tộc giống khác nhau; Nam Man truyện trong Đƣờng Thƣ cũng
30 chép :Từ Lâm Áp trở về phía Nam, đầu tóc quăn, da đen, gọi chung là
31 Côn luân. Ngày nay ngoài hải phận tỉnh Vĩnh Long (Nam Việt Nam
32 ngày nay) vẫn còn hai cù lao Đại Côn Luân và Tiểu Côn Luân mà đa
33 số dân cƣ là ngƣời Tàu đã sinh cƣ lập nghiệp lâu đời ở đó.
34 (21) Chà Bà: phiên âm tên quần đảo Java tức là vùng Nam Dƣơng,
35 Borneo và Timor.
36 (22) Bố Cái đại vƣơng: ĐVSKTT chua: tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái
37 nên lấy hai chữ nầy làm hiệu.
38 (23) Nam Chiếu: ĐVSKTT chép: Người Nam Man là dân Nam Chiếu
39 gồm các bộ tộc người vùng Vân Nam bên Tàu. Theo lời chua của sách
40 Tàu Cƣơng Mục thì người Nam Chiếu là giống man di ở Ai Lao vị trí
41 ở phía Tây Diêu Châu. Theo Đƣờng Thƣ/ Địa lý chí thì Nam Chiếu ở
42 quận Vân Nam thuộc Diêu Châu, Đông Nam giáp Giao Chỉ, Tây Bắc
43 giáp Thổ Phồn (nay là Tây Tạng). Tiếng Man gọi vua là Chiếu. Ngày
44 trước có 6 Chiếu: Mông Tuấn,Việt Tích, Lãng Khung, Đăng Đạm, Thi

VSTK - 178
1 Lãng và Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở tận về phía Nam nên gọi Nam
2 Chiếu. Khoảng năm 713-741 Nam Chiếu lớn mạnh và sáp nhập hết 5
3 Chiếu kia vào chung làm một, thu phục nhiều Man khác, chiếm nƣớc
4 Thổ Phồn, tạo bất ổn khắp miền biên giới.
5 (24) Dân bản xứ Giao Châu: SKTT viết về cuộc khởi dậy nầy nhƣ
6 sau: Mùa thu, tháng 7, có bọn dân xấu nhiều lần nổi loạn, nói phao
7 rằng: " Nghe đồn kinh lược sứ Tống Nhai sai quân hoàng đầu (bịt
8 đầu bằng khăn màu vàng) vượt biên sang đánh úp châu ta". Rồi họ
9 đang đêm kéo nhau đến vây thành, đánh trống reo hò: " Vương Thức
10 hãy lui về Tàu" (nguyên văn là: Xin đuổi Thức về để bọn ta giữ thành
11 nầy chống giữ quân hoàng đầu phương Bắc)... Bấy giờ đói kém loạn
12 lạc liên tiếp, 6 năm không nộp thượng cung (là tiền, lụa nộp sang kinh
13 sƣ để cho vua nƣớc Trung Hoa chi dùng), trong quân không có khao
14 thưởng. Thức bắt đầu sửa sang việc thuế khóa, khao thưởng quân
15 lính." (ĐVSKTT/NK.V/ 9b)
16 (25) Nuôi quân: Theo truyện Nam Chiếu trong Đƣờng thƣ có đoạn
17 viết: "trước kia (tức là trƣớc năm 585) Lý Trác làm kinh lược sứ khắc
18 nghiệt tham ô, tự tư tự lợi, cứ mỗi đấu muối đổi lấy một con trâu".
19 (trích dẫn theo KDVSCM/TB.IV/ 37,38,39)
20 (26) Hải Môn: huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây bây giờ.
21 (27) Tây Đạo: tức là Ung Châu, nay là huyện nam Ninh, tỉnh Quảng
22 Tây.
23 (28) Nam Định: tên huyện do nhà Đƣờng đặt vào năm 621 (Đƣờng
24 Thƣ/Địa Lý Chí). Nam Định có núi Đông Cừu ở châu Gia Lâm (Thái
25 Bình hoàn vũ ký/Nhạc Sử). Nay thấy có núi Đông Cừu ở huyện Gia
26 Bình, tỉnh Bắc Ninh; vậy huyện Nam Định ở vào địa giới Gia Lâm và
27 Gia Bình.
28 (29) Tĩnh Hải Quân: có thể đây là một hình thức đặt một vùng lãnh
29 thổ dƣới quyền kiểm soát và cai trị của quân đội tƣơng tựa nhƣ quân
30 khu, quân trấn gần đây. Ngƣời cai trị là một võ quan có kinh nghiệm
31 chiến trận và áp dụng quân luật để ổn định vùng lãnh thổ vừa chiếm
32 đƣợc.
33 (30) Nổi loạn: ĐVSKTT chép: Quân phủ đô hộ làm loạn, tiết độ sứ
34 Tăng Cổn bỏ chạy khỏi thành. Các đạo quân nhà Đường đóng giữ
35 Ung Quảng thường tự ý bỏ về luôn.
36 (31) Tăng Cổn: ĐVSKTT viết là Tăng Cổn bỏ chạy. Chi tiết nầy của
37 ĐVSKTT có vẻ mâu thuẫn khó có thể chấp nhận đƣợc bởi lẽ nếu
38 Tăng Cổn bỏ nhiệm sở để trốn chạy thì trong khoảng thời gian 12
39 năm tử 880 đến 892 ai là ngƣời cai quản Giao Châu? Mặc khác
40 ĐVSKTT lại chua thêm rằng: Cổn là người biết vỗ dân, người trong
41 châu gọi là Tăng thượng thư; Cổn từng soạn sách Giao Châu ký, 1
42 thiên. KĐVSTGCM viết theo sách Tàu An Nam Kỷ Yếu của Cao
43 Hùng Trƣng: Tiết độ sứ Tăng Cổn phủ dụ được yên.

VSTK - 179
1 (32) Khúc Thừa Dụ: KĐVSTGCM viết: Họ Khúc là một họ lớn lâu
2 đời ở Hồng Châu. Nhân loạn lạc, nhân danh là hào trưởng mt xứ tự
3 xưng là tiết độ sứ, chịu thần phục nhà Đường, vua Đường nhân đó
4 trao cho chức tiết độ sứ . ĐVSK TT không đề cập gì tới tên Khúc
5 Thừa Dụ. Sách Thông Giám viết: Năm Thiên Hựu thứ 3 (906), nhà
6 Đường Gia phong cho Thừa Dụ chức đổng bình chương sự. Sách Vân
7 Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn chép: "Thừa Dụ tức là Tiên chúa.
8 Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ đều là con cháu".
9 (33) Hồng Châu: là tên củ. đời Lê là hai phủ Thƣợng Hồng và Hạ
10 Hồng thuộc tỉnh Hải Dƣơng.
11 (34) Hậu Lƣơng: gọi là hậu Lƣơng để phân biệt với nhà tiền Lƣơng
12 vào thời loạn trong năm 265-420 bên Trung Hoa

KHẢO LUẬN:

 VƢƠNG THỨC

13 Sách sử Trung Hoa đều ca tụng Vƣơng Thức: theo sách Cƣơng
14 Mục, Vƣơng Thức là ngƣời có tài năng và mƣu lƣợc. Theo truyện
15 Vƣơng Bá trong Đƣờng thƣ, Vƣơng Thức khi làm thứ sử ở Tân Châu
16 ở Trung Hoa Tàu, cứu sống mấy nghìn dân xiêu giạt vì thế nổi tiếng
17 đƣợc thăng làm đô hộ An Nam; một đoạn tiếp lại viết rằng: "Người
18 làm đô hộ trước, gặp lúc đang đại hạn, rung bị khô, lại làm lũy gỗ để
19 ngăn ngừa giặc cướp, bắt dân hằng năm nộp tiền. Đã không làm hoàn
20 thành cho kịp thời, lại hạch sách bắt dân đóng góp rất gắt gao".
21 ĐVSKTT cũng nhƣ KĐVSTGCM đều viết rằng: "Giao Châu bấy
22 giờ luôn luôn đói kém giặc giã, 6 năm liền không thu được thuế để
23 nộp về cho cấp trên, trong quân đội không hề khao thưởng. Vương
24 Thức mới sửa lễ cống, đãi quân sĩ ăn uống".
25 Rõ ràng là trƣớc khi Vƣơng Thức đƣợc cử sang, dân bản xứ bị trị ở
26 Giao Châu đã gánh chịu một chính sách cai trị bóc lột tàn khóc rồi mà
27 vẫn chƣa đủ cung cấp cho chính quyền thực dân thuộc địa. Đến khi
28 Vƣơng Thức nắm quyền cai trị đô hộ thì sự bóc lột vơ vét lại càng
29 nghiệt ngã hơn và nhờ thế mới có đủ lễ cống mà còn dƣ để nuôi ăn
30 đoàn quân viễn chinh của Trung Quốc đồn trú ở Giao Châu. Hậu quả
31 tất nhiên là dân bản xứ bị trị lại phải khởi dậy chống đối nhƣng sách
32 sử của Trung Quốc lại viết rằng cuộc khởi dậy lần nầy chỉ là một đám
33 gian dân, bọn dân xấu không chịu chăm lo làm ăn, sống ngoài vòng
34 luật pháp.

 CAO BIỀN

VSTK - 180
1 Theo truyện Cao Biền trong Đƣờng Thƣ, Biền có hiệu là Thiên Lý,
2 ngƣời U Châu, dòng họ trải nhiều đời theo nghiệp quân sự. Biền giỏi
3 cả về hai mặt chính trị và quân sự cho nên khi tình thế cấp bách đã
4 đƣợc cử thay thế kinh lƣợc sứ ngu dốt không có dũng lƣợc là Trƣơng
5 Nhân.
6 Bao giờ cũng vậy, sách sử Trung Hoa luôn luôn ca tụng, tôn xƣng
7 và thần thánh hóa những khuôn mặt đại diện của họ đi làm việc đô hộ
8 tại các nƣớc thuộc địa nhƣợc tiểu. Trên thực tế, Cao Biền cũng giống
9 nhƣ những thứ sử, châu mục từ các thời trƣớc, cũng vơ vét, hành hạ,
10 bóc lộ, hà khắc nhƣng lần nầy thì lại nặng nề hơn vạn lần bằng cách
11 áp đặt chế độ quân phiệt sắt thép, tàn bạo lên đầu lên cổ ngƣời dân bị
12 trị. Sử cũ không đề cập về những điều vừa kể nhƣng chỉ viết lại chính
13 sách cai trị của Cao Biền bằng cách chép lại những gì đã viết trong sử
14 sách Trung Hoa
15 Về việc nhà Đƣờng đặt Tỉnh Hải quân ở An Nam, ĐVSKTT chép:
16 ". . .đặt Tỉnh Hải quân ở Giao Châu, lấy Biền làm Tiết độ sứ (Từ đây
17 đến đời nhà Tống, An Nam gọi là Tỉnh Hải quân tiết trấn). Từ khi Lý
18 Trác xăm phạm quấy nhiễu khiến cho người Man (Nam Chiếu) gây
19 họa gần đến 10 năm, đến đây mới yên" (ĐVSKTT/NK.5/14b). Theo
20 sách Cƣơng Mục (của Tàu) thì: "Kể từ khi Lý Trác sách nhiễu nhân
21 dân, dân các Man nổi lên gần 10 năm; đến nay mới bình định xong,
22 nhà Đường đặt Tỉnh Hải quân ở An Nam, dùng Cao Biền làm tiết độ
23 sứ. Bắt đầu từ đây, An Nam đổi tên Tỉnh Hải quân tiết trấn ".
24 Cao Biền bắt dân bản xứ lao công phục dịch để xây đắp thành lũy
25 phòng thủ. Thành lũy nầy ĐVSKTT gọi là thành Đại La. Về việc Cao
26 Biền khi bắt dân vét sông, đào kinh, khai thông thủy lộ ĐVSKTT
27 chép: "Cao Biền bảo: Đạo trời giúp người thuận, thần linh phù kẻ
28 ngay. Nay khai đường biển để giúp cho việc sinh sống của dân, nếu
29 mình không vì lợi riêng thì việc làm có gì là khó ". Khởi công đào vét
30 thì có hai tảng đá lớn giăng dài đến mấy trượng, làm gãy đục, gãy
31 búa, người làm việc ngó nhau cả ngày không biết phải làm sao. Thế
32 rồi tự nhiên có sấm sét đánh liên tiếp mấy trăm tiếng, hai tảng đá lớn
33 đều vỡ nát. Phía Tây lại có hai tảng đá lớn đứng đối nhau sừng sững,
34 đám thợ phải bó tay không làm gì được. Lại có sấm sét như trước làm
35 cho hai tảng đá tan nát. Đường biển được khai thông vì thế gọi là
36 Thiên uy cảng (bến cảng oai trời)" (ĐVSKTT/NK5/15 a,b và 16 a).
37 Trong Đƣờng thƣ cũng có viết về chuyện Cao Biền đào sông kèm
38 theo với chuyện sấm sét thần uy nhƣ trong ĐVSKTT đã chép.
39 Vua Tự Đức phê bình nhƣ sau: "Con sông mà Biền đứng đào nay
40 ở vào đâu cũng không rõ. Nếu bảo là ở tỉnh Nghệ An bây giờ thì vẫn
41 còn nghẽn tắc nào đã thông suốt được gì đâu? Lời của sử cũ chép đây
42 so với lời truyện Cao Biền trong Đường thư khen là thần tiên cũng chỉ
43 là một lối hoang đường. Vậy mà sử cũ khen việc Biền đào cảng là
44 được trời giúp, thì đây cũng lại là truyền văn mà lại vi tin vậy". Cũng

VSTK - 181
1 trong Đƣờng thƣ/ Địa lý chí viết rằng: Ở huyện Bác Bạch có ghềnh
2 Bắc thú (Bắc thú than). Trong niên hiệu Hàm thông (860-873) nhà
3 Đường, Cao Biền mộ dân đục phẳng đá ngầm nguy hiểm dưới nước
4 để cho tàu bè lưu thông an toàn. Theo Thanh Nhất Thống Chí, thì
5 huyện Bác Bạch nay thuộc châu Uất Lâm (nay là tỉnh Quảng Tây).
6 Vậy thì nơi Cao Biền khai thông có thể là ở Bác Bạch để phá vỡ
7 ghềnh Bắc Thú tức là cái ghềnh nầy không nằm trong địa giới của
8 Giao Châu. Cũng có ngƣời cho rằng Thiết cảng ở Nghệ An còn đƣợc
9 gọi là Thiên uy cảng nhƣng chẳng có gì để chứng minh hai cảng nầy
10 là một.
11 Nhƣ vậy, chuyện Cao Biền cũng xếp vào cùng mộ loại với chuyện Liễu
12 Nghị trong sử sách của Trung Hoa và đã đƣợc ngƣời xƣa của ta thần thông
13 biến hóa thành những chi tiết quan trọng đƣa vào quốc sử trong khi chính
14 sách cai trị quân quản tàn bạo của Cao Biền thì lại chẳng thấy ai đƣa
15 ra ánh sáng. Chẳng những thế, chuyện sét đánh lại đƣợc Ngô Sĩ Liên
16 bênh vực và cho là chuyện đó là chuyện bình thƣờng, không có gì gọi
17 là lạ cả. Ngô Sĩ Liên nói: "Theo Kinh Dịch:"giữ điều tín mà nghĩ điều
18 thuận, thì trời sẽ giúp. Thế thì việc sét đánh đá lớn để giúp chẳng có
19 gì là lạ cả" (ĐVSKTT/NK.5/16a,b). Không còn ngạc nhiên nữa khi thấy
20 Ngô Sĩ Liên lập lại kiểu phê luận dị đoan huyền hoặc nhƣ thế trong
21 ĐVSKTT.
Bàn thờ thần bếp (Táo quân: 2 Ông một Bà) do người Trung Hoa
du nhập vào Việt Nam qua chính sách đồng hóa của họ

VSTK - 182
Bàn thờ thần Đất (Thổ Địa)

BỊ THUỘC NHÀ HẬU LƢƠNG


( 917 - 923 )

1 Năm 907, Hậu Lƣơng cử tiết độ sứ Quảng Châu là


2 Lƣu Ẩn kiêm nhiệm luôn chức tiết độ sứ Tỉnh Hải
3 Quân. Lƣu Ẩn liền sang chiếm giữ Phiên Ngung.
4 Trong thời nầy dòng họ của Khúc Thừa Dụ là Khúc
5 Hạo(35) đã chiếm giữ phủ trị của Tỉnh Hải Quân ở Giao
6 Châu từ tay tiết độ sứ của nhà Đƣờng là Độc Cô Tôn
7 rồi tự xƣng Tiết độ sứ.
8 Năm 911 Lƣu Ẩn mất, em là Lƣu Nham (sau đổi là
9 Lƣu Cung) thay thế rồi tách khỏi nhà Lƣơng, xƣng đế,
10 lập ra nhà Hậu Hán cũng gọi là Nam Hán.
11 Năm 917 Khúc Hạo chết, con là Khúc Thừa Mỹ lên
12 thay và thần phục nhà Lƣơng.

*
VSTK - 183
BỊ THUỘC NHÀ NAM HÁN
( 923 - 931 )

1 Năm 923 Nam Hán sai tƣớng Lý Khắc Chính đem


2 quân sang đánh Giao Châu, bắt đƣợc Khúc Thừa Mỹ.
3 Nam Hán cử Lý Tiến làm thứ sử, cùng với Lý Khắc
4 Chính chiếm giữ Giao Châu.
5 Năm 931, một tƣớng cũ của Khúc Hạo là Dƣơng
6 Diên Nghệ(36) chiêu mộ quân dân khởi dậy lần lƣợt
7 đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến rồi tự xƣng tiết
8 độ sứ, cai trị Giao Châu.
9 Năm 937 Dƣơng Diên Nghệ bị thuộc hạ của mình là
10 Kiều Công Tiện(37) giết chết và cƣớp quyền rồi chịu
11 thần phục Nam Hán.
12 Năm 938, một thuộc tƣớng khác của Dƣơng Diên
13 Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu cất quân đánh Kiều
14 Công Tiện. Công Tiện cầu cứu với Nam Hán. Vua
15 Nam Hán thừa dịp muốn đánh chiếm Giao Châu liền
16 cho con là Vạn Vƣơng Hoằng Tháo cử đại binh sang
17 đánh Ngô Quyền(38)
18 Sau khi diệt đƣợc Kiều Công Tiện, Ngô Quyền liền
19 chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng.
20 Ngô Quyền dùng kế giả thua từ cửa biển để dụ cho
21 địch đuổi theo sâu vào lòng sông Bạch Đằng (39) rồi
22 chận đƣờng rút lui và phản công. Đại quân của Nam
23 Hán tan nát, Hoằng Tháo bị Ngô Quyền đuổi bắt, giết
24 chết.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN

25 (35) KhúcHạo: ngƣời làng Cúc Bồ, huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hƣng
26 ngày nay. KDVSTGCM trích dẫn An Nam kỷ yếu ghi rằng: "Khúc
27 Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay
28 cho Độc Cô Tôn: đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt ở mỗi giáp

VSTK - 184
1 một viên quản giáp và một phó tri giáp để lo việc thu thuế"
2 (ĐVSTGCM/ TB5/ 15a)
3 (36) Dƣơng Diên Nghệ: theo KĐVSTGCM, Nghệ là ngƣời Ái Châu
4 tức Thanh Hóa. Sách An Nam kỷ yếu (viết tắt ANKY) chép là Dƣơng
5 Đình Nghệ.
6 (37) Kiều Công Tiện: theo ANKY, Tiện là ngƣời Phong Châu.
7 (38) Ngô Quyền: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều chép giống nhau:
8 "Ngô Quyền người huyện Đường Lâm (nay thuộc Ba Vì, tỉnh Hà
9 Tây), vừa là nha tướng vừa là con rể của Dương Đình Nghệ, được
10 Nghệ giao cho giữ Ái Châu. Khi Kiều Công Tiện giết Nghệ, Ngô
11 Quyền từ Ái Châu cất binh đến đánh và giết được Công Tiện".
12 (39) Sông Bạch Đằng: từ sông Lục Đầu thuộc tỉnh Bắc Ninh chia dòng
13 chảy vào tỉnh Hải Dƣơng: mộ nhánh theo sông Mỹ Giang, một nhánh
14 theo Châu Cốc Sơn ; rồi hai nhánh đó hợp lại ở xã Đoan Lễ tạo thành
15 sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng phía Nam giáp giới huyện Thủy
16 Đƣờng, tỉnh Hải Dƣơng; phía Bắc giáp giới huyện Yên Hƣng, tỉnh
17 Quảng Yên, chuyển về hƣớng Nam 29 dặm rồi đổ ra cửa biển Nam
18 Triệu.
19 Theo Dƣ địa Chí của Nguyễn Trãi, sông Bạch Đằng có tên gọi
20 khác nữa là sông Vân Cừ, rộng trên 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao,
21 cây cối dầy đặc um tùm suốt dọc hai bờ sông, đúng là một nơi hiểm
22 yếu suốt ra đến cửa biển. Ngô Vương Quyền đánh bại Hoằng Tháo,
23 Hưng Đạo Vương đời nhà Trần đánh bại quân Nguyên đều ở trên
24 sông Bạch Đằng nầy.
25 LTHCLC/ Dƣ Địa Chí/Phủ Kinh Môn và phủ Hải Đông/ của Phan
26 Huy Chú viết: "Huyện Thủy Đường, núi sông rải rác. . .phía Đông
27 đến sông Bạch Đằng, đối ngạn với trấn Quảng Yên. Sông Bạch Đằng
28 là nơi có tiếng nhất trong những chỗ xung yếu. Các đời, phần nhiều
29 lập nên chiến công ở chỗ nầy". Và tiếp theo: "Cửa sông Bạch Đằng
30 liên tiếp với trấn Hải Dương, sóng nước lưng trời, từng lượt núi đứng
31 sững, cảnh trí rất rộng thoáng. Ba huyện Hoa Phong, Yên Hưng và
32 Hoành Bồ chia ở hai bên tả hữu sông này.
33 Phía Đông cửa biển giáp giới châu Khâm, tỉnh Quảng Đông,
34 cách đó vài trăm dặm là đỉnh núi Phân Mao, chỗ Nam Bắc chia bờ
35 cõi từ trước. Nhà Mạc buổi đầu, đem dâng hai châu (châu Như Tích
36 và Thiện Lảm) bốn động (động Cổ Sâm, Tê Lẩm, Kim Lặc và Liễu
37 Cát) cho nhà Minh, cõi đất mới hẹp đi .

KHẢO LUẬN :

38 TRẬN CHIẾN SÔNG BẠCH ĐẰNG

39 Ngƣời viết sử cũng nhƣ ngƣời đọc sử đến đây tự nhiên thở phào,
40 hân hoan với chiến thắng của Ngô Quyền trên dòng sông Bạch Đằng
VSTK - 185
1 hùng dũng của tộc giống Việt Nam chính gốc sau hơn 3,000 năm dƣới
2 ách thuộc địa đô hộ của phƣơng Bắc (từ năm 2,359 TTL của thời đại
3 Văn Lang đến năm 938 TL với chiến thắng Bạch Đằng là 3,297 năm).
4 Lê Văn Hƣu nói: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới vừa được
5 kết hợp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu
6 Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người Tàu ở phương Bắc
7 không dám lại sang nữa. Chỉ cần một lần nổi giận vì tự ái dân tộc bị
8 xúc phạm mà yên định được cho dân, mưu đã giỏi mà đánh cũng rất
9 hay. Dù chỉ mới xưng vương, chưa kịp xưng đế và chưa đặt quốc hiệu
10 nhưng đây mới là chính thống thực sự và đúng nghĩa của nước Việt
11 ta ".
12 Ngô Sĩ Liên có lời bàn rằng: "Nhà Tiền Ngô khởi lên, không những
13 có công đánh giặc thắng lợi mà còn đặt trăm quan, chế định triều
14 nghi (nghi lễ trong triều đình) phẩm phục (đồ mặc) rõ thật là một quy
15 mô đế vương. Tuy nhiên ngôi vua lại không được lâu dài, chưa thấy
16 có thành quả nào về chính sách trị nước an dân, thật đáng tiếc ! "
17 Ngô Thời Sĩ viết: "Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù
18 cho chúa, đuổi quân Tàu xâm lược để cứu nước, xây dựng quốc gia,
19 đem lại chính thống, công nghiệp thật vĩ đại . Trận chiến thắng trên
20 sông Bạch Đằng là đầu mối cho công cuộc khôi phục quốc thống
21 ngày sau.
22 Những chiến công của những đời Đinh, Lê, Lý chính là noi theo
23 tiếng tâm lẫm liệt của trận đánh trên sông Bạch Đằng. Chiến tích lẫy
24 lừng nầy vang vội đến ngàn đời sau chứ đâu phải chỉ là chiến thắng
25 một thời mà thôi đâu ?"
26 Tuy nhiên, Tự Đức lại cảm thấy khó chịu về những sự tuyên xƣng
27 công trạng hiển hách của Ngô Quyền với chiến tích Bạch Đằng: "Ngô
28 Quyền gặp ngụy triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Tháo là tên
29 trẻ con hèn kém cho nên mới có được trận thắng trên sông Bạch
30 Đằng. Đó là gặp may mắn, đâu có gì đáng được ca tụng. Nếu gặp
31 phải tay Trần Bá Tiên mà bảo rằng không phải theo gót Lý Nam Đế,
32 Triệu Việt vương, thì ít có lắm". Ngƣời ta không ngạc nhiên về tƣ
33 cách phê phán tự tôn, tiền hậu bất nhất của Tự Đức: một mặt không
34 công nhận Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục là chính thống, một mặt lại
35 so sánh đánh giá cao thành tích chiến trận của ngƣời Hoa Trần Bá
36 Tiên để hạ thấp giá trị công trạng của Ngô Quyền. Chỉ có những kẻ
37 ngồi mát ăn bát vàng nhƣ Tự Đức mới không chịu công nhận chiến
38 thắng Bạch Đằng và tài năng hiếm có của Ngô Quyền: đây là bản chất
39 tự tôn cao ngạo hằng cửu khó gột rửa của đa số vua chúa thời phong
40 kiến vì vậy không cần phải ngạc nhiên .
41

VSTK - 186
Bài đọc thêm về chiến thắng của Ngô
Quyền trên sông Bạch Đằng
1

PHIÊN ÂM (hình 1)
Ngô Sĩ viết: Bạch Đằng chi tiệp, nải phục quốc thông trƣơng bản, Đinh, Lê, Lý,
Trần do tạ kỳ dƣ liệt yên. Vũ công chi thanh, thiên cổ vĩ quan, khi đặc khoa diệu ƣ nhất
nhi dỉ tai.
Chú Cổ xã danh, chú kiến thuộc Đƣờng Trinh nguyên thất niên. An Nam kỷ yếu
Ngô Quyền Ái châu nhân, vị tri thục thị .
Bạch Đằng Giang, tự Bắc Ninh Lục đầu giang phân lƣu nhập Hải Dƣơng, nhất tùng
Châu cốc sơn, hợp chủ Đoan Lễ xã, vi Bạch Đằng giang, nam Hải Dƣơng Thủy Đƣờng

Dịch Nghĩa trang 187 (Hình 1)

Lời bàn của Ngô Thời Sĩ: Trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng là đầu mối cho
việc lấy lại quốc thống ngày sau. Các đời Đinh, Lê, Lý, Trần còn nhờ tiếng tăm oanh
liệt nầy. Võ công thì lớn lao, cảnh trí thì hùng vĩ từ ngàn xƣa chứ đâu phải khoa trƣơng
rạng rỡ mt thời rồi thôi đâu.
Chú: Đường Lâm là tên xã ngày xƣa, lời chú xem thuộc Đƣờng niên hiệu Trinh
Nguyên năm thứ 7. Theo An nam kỷ yếu, Ngô Quyền ngƣời Ái Châu, không biết có
phải thế không.
Sông Bạch Đằng, từ sông Lục Đầu thuộc tỉnh Bắc Ninh, chia dòng chảy vào tỉnh
Hải Dƣơng, một nhánh theo con sông Mỹ, một nhánh qua Châu cốc sơn, rồi hợp lại
chảy vào xã Đoan Lễ tạo thành con sông Bạch Đằng. Sông nầy về phía Nam nằm
trong lãnh vực xã Thủy Đƣờng tỉnh Hải Dƣơng.

VSTK - 187
PHIÊN ÂM (Hình 2)
huyện giới, Bắc Quảng Yên, Yên Hƣng huyện giới, Nam chuyển nhị thập cửu lý, phóng
Nam Triệu hải khẩu. Nguyễn Trãi Địa lý chí, Bạch Đằng biệt hiệu Vân Cừ giang, quảng
nhị lý linh, quần sơn sừng tiếu, chúng thủy giao lƣu, ba đào tiếp thiên, thọ mộc tề
ngăn, chân hải đạo hiểm yếu xử dã. Tiến Ngô Vƣơng Quyền bại Hoằng Tháo, Trần
Hƣng đạo vƣơng bại Nguyên ninh ƣ thứ.
KỶ HỢI NGÔ VƢƠNG QUYỀN NGUYÊN NIÊN, TẤN THIÊN PHÚC TỨ NIÊN
Xuân, Ngô Quyền xƣng vƣơng, đô Cổ loa
Ngô sĩ tán viết: Vƣơng tru nội tặc dĩ phục chủ thù, điển ngoại địch dĩ.

DỊCH NGHĨA (Hình 2)

phía Bắc thuộc ranh giới huyện Yên Hƣng tỉnh quảng Yên, chuyển về Nam 29 dặm rồi
đổ ra cửa biển Nam Triệu. Theo Địa lý chi của Nguyễn Trãi, sông Bạch Đằng còn có
một biệt hiệu khác nữa là sông Vân Cừ rộng trên hai dặm, núi cao sừng sững, sóng
nƣớc ngất trời, cây xanh che phủ bên bờ, đúng là chỗ đƣờng biển hóc hiểm. Tiền Ngô
vƣơng Quyền đánh bại Hoằng Tháo, Trần Hƣng đạo vƣơng đánh bại quân Nguyên
đều xảy ra ở chốn nầy.
NĂM KỶ HỢI, NGÔ VƢƠNG QUYỀN NĂM THỨ 1 NHÀ TẤN, NIÊN HIỆU THIÊN
PHÚC THỨ 4
Mùa Xuân, Ngô Quyền xƣng vƣơng, đóng đô ở Cổ Loa
Ngô Thời Sĩ ca tụng rằng: Ngô vƣơng giết giặc trong nƣớc để trả thù chúa, giết
quân ngoại xâm . . .

VSTK - 188
PHIÊN ÂM (Hình 3)

thƣ quốc nạn, kiến bang phục thống, công liệt dĩ nhiên.
Chú: Cổ Loa, kiến An Dƣơng vƣơng tam niên.
Lập Dương thị vi hậu.

PHIÊN ÂM (Hình 3) tiếp theo

Dƣơng hậu Diên Nghệ chi nữ. Sơ Ngô vƣơng vi Diên Nghệ nha tƣớng. Nghệ dĩ nữ thế
chi, chi thị lập vi hậu.
Trí bách quan, chế triều nghi, định phục sắc.
GIÁP THÌN, NGÔ VƢƠNG LỤC NIÊN-TẤN, TỀ VƢƠNG KHAI VẠN NGUYÊN NIÊN.
Ngô vƣơng Quyền hoảng.
*
DỊCH NGHĨA (Hình 3)

cứu nguy nạn nƣớc, xây dựng quốc gia, phục hồi quốc thống, công nghiệp thật lớn lao.
Chú: Cổ Loa, xem An Dƣơng Vƣơng năm thứ 3.
Ngô vương lập bà họ Dương làm hoàng hậu.
Dƣơng hậu là con gái Diên Nghệ. Lúc đầu Ngô vƣơng là nha tƣớng của Diên Nghệ,
Diên Nghệ gả con gái cho. Đến bấy giờ vƣơng lập Dƣơng thị
làm hoàng hậu.
Đặt trăm quan, chế nghi lễ ở triều đình, ấn định màu sắc y phục.
NĂM GIÁP THÌN, NGÔ VƢƠNG NĂM THỨ 6-TẤN, TỀ VƢƠNG KHAI VẬN NĂM
THỨ 1.
Ngô vƣơng Quyền mất.

(Ghi chú: Các bài đọc thêm viết bằng chữ Nho ở trên đƣợc trích ra từ bộ
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Tiền Biên, Quyển thứ 5, tờ 19, 20)

VSTK - 189
Lăng Ngô Quyền (Hà Tây)

VSTK - 190
QUYỂN 1

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ


CHƢƠNG I

NHÀ NGÔ ( 939 - 965 )


&
LOẠN 12 SỨ QUÂN ( 966 - 967 )

1 N ăm 939, Ngô Quyền xƣng vƣơng, đóng đô ở Cổ


2 Loa, đặt quan chức, chế triều nghi, định phẩm phục,
3 lập Dƣơng thị(1) làm hoàng hậu, chỉnh đốn việc cai trị
4 trong nƣớc nhƣng chỉ làm vua đƣợc 6 năm thì mất
5 (944).
6 Năm 945, Dƣơng Tam Kha(2) cƣớp ngôi của Ngô
7 Quyền rồi xƣng là Bình Vƣơng. Con trƣởng của Ngô
8 Quyền là Xƣơng Ngập chạy về Nam Sách Giang(3), ẩn
9 náu tại nhà của Phạm Lệnh Công ở Trà Hƣơng (4).
10 Dƣơng Tam Kha nuôi con thứ của Ngô Quyền là
11 Xƣơng Văn làm con mình và truy lùng nhiều lƣợt để
12 bắt Xƣơng Ngập nhƣng không thành công.
13 Năm 950, Tam Kha sai Xƣơng Văn cùng hai quan
14 sứ Dƣơng Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc(5) đem quân đi
15 đánh hai thôn Đƣờng, Nguyễn ở Thái Bình(6)
16 Xƣơng Văn đem quân quay trở về đánh úp Tam Kha
17 nhƣng không giết mà phế xuống làm hầu công (7) ban
18 cho thực ấp(8) ở Chƣơng Dƣơng(9)
19 Năm 951, Xƣơng Văn lên ngôi vua xƣng là Nam
20 Tấn vƣơng rồi đón Xƣơng Ngập ở Trà Hƣơng về kinh
21 đô cùng cai trị. Xƣơng Ngập xƣng là Thiên Sách
22 vƣơng.

VSTK - 191
1 Bấy giờ trong nƣớc bắt đầu có loạn, mỗi ngƣời
2 chiếm giữ một vùng lãnh thổ riêng để làm chủ. Ở vùng
3 Hoa Lƣ, Minh Công Trần Lãm làm chủ và giao cho
4 Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh binh quyền. Xƣơng Xí và
5 Xƣơng Ngập đem quân tới đánh nhƣng không dẹp
6 đƣợc phải lui quân về.
7 Năm 954, Xƣơng Ngập mất, Xƣơng Văn liền thần
8 phục vua Nam Hán và đƣợc phong làm Tỉnh Hải quân
9 tiết độ sứ kiêm đô hộ.
10 Năm 965, Xƣơng Văn đem quân đi dẹp loạn ở Thái
11 Bình bị phục kích chết tại trận. Kể từ lúc đó, các đầu
12 lĩnh(10) ở các quận ấp đua nhau nổi dậy chiếm cứ khắp
13 nơi:
14 1. Ngô Xƣơng Xí(11) chiếm Bình Kiều; (nay ở huyện
15 Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá)
16 2. Kiều Công Hãn chiếm Phong Châu; (nay là huyện
17 Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú)
18 3. Nguyễn Khoan tự xƣng là Nguyễn Thái Bình
19 chiếm Tam Đái (12);
20 4. Ngô Nhật Khánh ở Đƣờng Lâm; (nay ở huyện Ba
21 Vì, tỉnh Hà Tây)
22 5. Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động; (có thể nay là huyện
23 Thanh Oai, tỉnh Hà Tây)
24 6. Lý Khuê ở Siêu Loại; (nay là huyện Thuận Thành,
25 tỉnh Hà Bắc)
26 7. Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du; (nay thuộc phủ Từ
27 Sơn, tỉnh Bắc Ninh)
28 8. Lữ Đƣờng chiếm Tế Giang; (nay thuộc huyện Mỹ
29 Vân, tỉnh Hải Hƣng)
30 9. Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt; (nay là huyện
31 Thang Trì, Hà Nội)
32 10. Kiều Thuận chiếm Hồi Hồ; (nay ở xã Trần Xá
33 huyện Hoa Khê, tỉnh Vĩnh Phú)
34 11. Phạm Bạch Hổ chiếm Đằng Châu; (nay là huyện
35 Kim Thi, tỉnh Hà Bắc)

VSTK - 192
1 12. Trần Lãm chiếm Bố Hải Khẩu. (nay là vùng thị xã
2 Thái Bình)

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

3 (1) Dƣơng thị: là con gái của Dƣơng Diên Nghệ.


4 (2) Dƣơng Tam Kha: ĐVSKTT chép là em của Dƣơng thị nhƣng
5 KĐVSTGCM thì viết là anh của Dƣơng thị. Theo Ngô Thời Sĩ trong
6 VSTA thì Tam Kha ngƣời làng Dƣơng Xá, huyện Đông Sơn, tỉnh
7 Thanh Hóa.
8 (3) Nam Sách Giang: nay thuộc các huyện Chí Linh và Nam Thanh
9 tỉnh Hải Hƣng.
10 (4) Trà Hƣơng: nay là huyện Kim Thành thuộc tỉnh Hải Hƣng.
11 (5) Đỗ Cảnh Thạc: ngƣời huyện Thuận Đức thuộc tỉnh Quảng Đông ở
12 Trung Hoa.
13 (6) Thái Bình: sử cũ giải thích rối loạn, chƣa rõ ở đâu. Hai thôn
14 Đƣờng Nguyễn không biết có phải là Đƣờng Lâm và Nam Nguyễn
15 huyện Ba Vì, Hà Tây hay không. Theo Địa lý chí/ Đƣờng thƣ thì
16 "Huyện Thái Bình bị cắt ra đặt làm Phong Khê" mà "Phong Khê thì
17 thuộc Phong Châu" tức là Thái Bình ngày xƣa nằm trong lãnh vực
18 của Phong Châu (nay là Sơn Tây).
19 (7) Hầu công: sử cũ viết là Chƣơng Dƣơng công.
20 (8) Thực ấp: phần đất đƣợc ban cấp cho ngƣời có tƣớc phong thu lợi
21 trên phần đất đó.
22 (9) Chƣơng Dƣơng: nay là tên một xã thuộc Thƣờng Tín, tỉnh Hà Tây
23 ở đó có bến Chƣơng Dƣơng bên hữu ngạn sông Hồng.
24 (10) Đầu lĩnh: ngƣời đứng đầu để thống lãnh việc cai trị trong một
25 vùng. Các bộ sử cũ đều gọi là Hùng trƣởng. Phải chăng Hùng trƣởng
26 nầy ở thời đại Văn Lang sử cũ gọi là Hùng vƣơng?
27 (11) Ngô Xƣơng Xí: con của Ngô Xƣơng Ngập.
28 (12) Tam Đái: nay ở vùng huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú.

VSTK - 193
CHƢƠNG II

NHÀ ĐINH ( 968 - 980 )

1. ĐINH TIÊN HOÀNG ( 968 - 979 )

1 Khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh hàng phục đƣợc


2 Phạm Phòng Át1, diệt Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động2, hạ
3 thành phá lũy, chiếm ấp lấy thôn, đánh thắng khắp nơi,
4 đƣợc tôn xƣng là Vạn Thắng Vƣơng.
5 Năm 968, sau khi dẹp tan hết các sứ quân, Đinh Bộ
6 Lĩnh tự lập lên ngôi đế, phong cho con Đinh Liễn làm
7 Nam Việt Vƣơng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng
8 đô ở Hoa Lƣ, xây cung điện, đặt triều nghi, ấn định các
9 chức quan văn, quan võ, quy định pháp luật và hình
10 phạt3.
11 Năm 970, ở Trung Hoa nhà Tống diệt nhà Nam
12 Hán. Để tránh giặc giã4, Đinh Bộ Lĩnh liền sai sứ sang
13 nhà Tống thiết lập bang giao; đặt niên hiệu 5, lập 5
14 hoàng hậu6.
15 Năm 971, phong cho Lê Hoàn(#) làm thập đạo
16 tƣớng7, Nguyễn Bặc làm định quốc công, Lƣu Cơ làm
17 phủ sĩ sứ8 cùng lập ra các cấp bậc tăng đạo9.
18 Năm 972, sai Đinh Liễn đi sứ sang Trung Quốc tặng
19 biếu nhà Tống nhiều sản vật hiếm và quý của Đại Cồ
20 Việt.
21 Năm 973, nhà Tống cử đại diện qua để công nhận
22 ngoại giao triều đại nhà Đinh10.
23 Năm 974, tổ chức các hàng ngũ quân đội chia thành
24 đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi đạo có 10 quân, mỗi quân
25 có 10 lữ, mỗi lữ có 10 tốt, mỗi tốt có 10 ngũ, mỗi ngũ
26 là 10 ngƣời .
27 Năm 975, sai Trịnh Tống đi sứ sang Trung Hoa.
28 Nhà Tống lại cử sứ qua phong tƣớc cho Đinh Liễn11
29 Năm 978, lập con nhỏ là Hạng Lang làm hoàng thái
30 tử, phong cho con thứ là Toàn làm Vệ Vƣơng.
VSTK - 194
1 Năm 979, Đinh Liễn bất bình về việc lập thái tử cho
2 nên sai ngƣời ngầm giết Hạng Lang. Tiếp sau đó Đỗ
3 Thích12 thừa cơ Đinh Bộ Lĩnh đang say rƣợu nằm ngủ
4 liền giết đi rồi giết luôn Đinh Liễn. Nguyễn Bặc bắt
5 đƣợc Đỗ Thích giết chết rồi cùng Lê Hoàn đƣa Vệ
6 vƣơng Toàn mới đƣợc 6 tuổi lên ngôi, truy tôn Đinh
7 Bộ Lĩnh là Tiên Hoàng đế, chôn ở sơn lăng Trƣờng
8 Yên13, tôn mẹ Dƣơng thị làm hoàng thái hậu.
2. ĐINH TOÀN ( 979 - 980 )

9 Con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Vệ vƣơng Đinh


10 Toàn nối ngôi vào lúc mới đƣợc 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp
11 chính, toàn quyền nắm giữ quân đội, tự do ra vào cung
12 cấm, tự xƣng là phó vƣơng.
13 Khi thấy Lê Hoàn tƣ thông với Dƣơng thái hậu14,
14 thao túng và vƣợt quyền vua nhỏ, các đại thần phụ
15 chính Nguyễn Bậc, Đinh Điền, Phạm Hạp hợp nhau
16 bàn định diệt trừ, kéo quân về kinh đô Hoa Lƣ.
17 Dƣơng thái hậu biết đƣợc tin liền tỏ lời xúi bẩy và
18 thúc hối Lê Hoàn đem quân đón đánh ở châu Ái. Đinh
19 Điền chết tại trận, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp bị Lê
20 Hoàn truy đuổi bắt đem về Hoa Lƣ xử tội chết.
21 Ngô Nhật Khánh15 trƣớc đây là một trong 12 sứ
22 quân chiếm cứ vùng huyện Đƣờng Lâm đã bị Đinh Bộ
23 Lĩnh dẹp tan nay lại đi cầu viện và đƣa quân ngoại
24 bang Chiêm Thành theo đƣờng biển trở về cƣớp phá,
25 vây đánh Hoa Lƣ nhƣng bị bão tố đắm thuyền chết ở
26 cửa biển Đại Nha và Tiểu Khang16.
27 Năm 980, nhà Tống cử tƣớng Hầu Nhân Bảo cùng
28 nhiều tƣớng khác hợp quân bốn hƣớng sang đánh bất
29 ngờ Đại Cồ Việt để thực hiện âm mƣu thôn tính17 đã
30 dự định từ lúc triều nhà Đinh đang có nội loạn Đỗ
31 Thích. Dƣơng thị lại thúc hối Lê Hoàn điều động quân
32 binh chống cự. Thừa cơ hội nầy Lê Hoàn đã sắp xếp

VSTK - 195
1 với bộ tƣớng của mình là Phạm Cự Lƣợng18 để chiếm
2 ngôi vua của nhà Đinh với sự đồng tình 19 của Dƣơng
3 thị. Nhà Đinh mất.


CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

4 1 Phạm Phòng Át: chiếm giữ Đằng Châu.


5 2 Đỗ Động: do Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ.
6 3 Hình phạt: sử cũ chép là đặt vạc dầu lớn đun sôi ở sân triều, nuôi
7 hổ dữ trong chuồng, kẻ nào phạm tội sẽ bị bỏ vào vạc dầu hoặc cho
8 hổ ăn.
9 4 Tránh giặc giã: sử cũ ĐVSKTT và KĐVSTG đều viết là nhà vua
10 nghe tin quân Tống đã diệt đƣợc nhà Nam Hán nên sợ mới sai sứ sang
11 giao hảo với Tống.
12 5 Đặt niên hiệu: niên hiệu Thái Bình (970 - 979).
13 6 Lập 5 hoàng hậu: Đan Gia, Trinh Minh, Kiểu Quốc, Cồ Quốc, Ca
14 Ông.
15 7 Thập đạo tƣớng: tƣớng cai quản 10 đạo quân. (Thập là 10 )
16 8 Phủ sĩ sứ: chức quan coi việc hình án và hình sự ở phủ cai trị. (Phủ
17 cai trị thời này có trụ sở ở thủ đô Hoa Lƣ. Sử cũ viết là đô hộ phủ sĩ
18 sứ tức là dùng tên phủ đô hộ thay vì phủ cai trị).
19 9 Các cấp bậc tăng đạo: KĐVSTGCM viết: nhà vua tôn sùng đạo
20 phật mới đặt phẩm cấp cho tăng nhân và đạo sĩ. ĐVSKTT viết: Tăng
21 thống(a) Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương
22 Ma Ni làm tăng lục(b), đạo sĩ Đặng Huyền Quang giữ chức Sùng chân
23 uy nghi(c) .
24 (a) Tăng thống: chức quan phong cho ngƣời đứng đầu Phật giáo.
25 (b) Tăng lục: chức quan trông coi Phật giáo dƣới chức tăng thống.
26 (c) Sùng chân uy nghi: chức quan trông coi về Đạo giáo.
27 # Lê Hoàn: ngƣời xã Bảo Thái, huyện Thanh Liêm nay thuộc tỉnh Hà
28 Nam.
29 10 Công nhận ngoại giao: Về việc nầy cả hai bộ sử cũ đều viết rằng
30 sứ nhà Tống sang để phong chức cho Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ
31 quận vƣơng và Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sƣ Tỉnh hải quân tiết độ
32 sứ An Nam đô hộ phủ .
33 11 Phong tƣớc cho Đinh Liễn(@): ban cho chức Khai Phủ nghi đồng
34 tam ti kiểm hiệu thái sƣ, Giao Chỉ quận vƣơng.
35 12 Đỗ Thích: ngƣời xã Đại Đê, huyện Thiên Bản, nay là huyện Vụ
36 Bản, tỉnh Hà Nam Ninh.

VSTK - 196
1 13 Sơn lăng Trƣờng Yên: ĐVSKTT viết là táng ở sơn lăng Trƣờng
2 Yên. KĐVSTGCM viết là Hoa Lƣ thay vì Trƣờng Yên.
3 Đời nhà Đinh chƣa có xã Trƣờng Yên. Cho đến đời nhà Lý (vào
4 khoảng năm 1010) mới đổi Hoa Lƣ làm Phủ Trƣờng Yên. Nhƣ vậy
5 ngƣời chép sử giai đoạn nầy trong ĐVSKTT có thể là ngƣời từ đời
6 nhà Lý, niên hiệu Thuận Thiên tức là từ năm 1010 trở về sau: ngƣời
7 chép là Trƣờng Yên trong ĐVSKTT đã không bị lầm nhƣ lời cẩn án
8 trong KĐVSTGCM đã hiệu đính.
9 14 Dƣơng thái hậu: trƣớc kia là con gái của Dƣơng Diên Nghệ, là vợ
10 và hoàng hậu của Ngô Quyền, kế đến là vợ của Đinh Tiên Hoàng (là 1
11 trong 5 hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng) và là mẹ của Đinh Toàn,
12 nay lại trở thành vợ của Lê Hoàn và đƣợc Lê Hoàn ban tƣớc vị hoàng
13 hậu.
14 15 Ngô Nhật Khánh: theo 2 bộ sử cũ ĐVSKTT và KĐVSTGCM thì
15 Ngô Nhật Khánh là con cháu của Ngô Quyền, mẹ Khánh là một trong
16 5 hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng.
17 Nhƣ vậy Nhật Khánh có thể là:
18 a/ con của Ngô Quyền với Dƣơng thị,
19 b/ con của một ngƣời vợ thứ của Ngô Quyền, mà sau nầy cũng là 1
20 trong 5 hoàng hậu của Đinh Bộ Lĩnh, tức là vợ chính và thứ của Ngô
21 Quyền đều trở thành hoàng hậu của Đinh Bộ Lĩnh.
22 c/ con của Ngô Xƣơng Văn hoặc con của Ngô Xƣơng Ngập; nếu
23 nhƣ thế thì Đinh Bộ Lĩnh lấy vợ của Ngô Quyền mà cũng lấy luôn
24 con dâu của Ngô Quyền (mẹ của Ngô Nhật Khánh) làm vợ, tạo ra
25 cảnh mẹ chồng (tức Dƣơng thị ) và con dâu thành 2 hoàng hậu ngang
26 hàng nhau.
27 16 Cửa Tiểu Khang: thuộc địa phận Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, nay là
28 cửa Kiền.
29 17 Âm mƣu thôn tính của Tống: sử cũ chép: "Trước đây, quan giữ
30 Ung Châu(a) nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thơ nói bên Giao Châu
31 đương có nội loạn (chỉ việc Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị Đỗ Thích
32 giết chết ), có thể nhân lúc nầy đem một ít quân sang đánh lấy. Nếu
33 không mưu tính sẽ lở mất cơ hội " (ĐVSKTT/ BK.1/ 9a ,
34 KĐVSTGCM/ CB.1/ 13).
35 18 Phạm Cự Lƣợng: em của Phạm Hạp đã bị Lê Hoàn bắt giết khi
36 dấy quân chống đối Lê Hoàn.
37 19 Sự Đồng tình của Dƣơng thị: ĐVVSKTT và KĐVSTGCM đều
38 viết: "Dương hậu thấy mọi người vui lòng liền sai lấy áo long cổn(b)
39 khoác lên mình Lê Hoàn, rồi chính Dương hậu đưa mời Lê Hoàn ngồi
40 vào ngai vàng(c) để lên ngôi hoàng đế " .
41 (a) Ung Châu: nay là huyện Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây bên Tàu.
42 (b) Áo long cổn: áo thêu hình rồng cuộn dành riêng cho vua chúa mặc.
43 (c) Ngai vàng: ghế sơn son thếp vàng dành cho vua ngồi.

VSTK - 197
KHẢO LUẬN về NHÀ ĐINH:

1 Lê Văn Hƣu nói: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn
2 người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có
3 chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân
4 phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan,
5 lập sáu quân, chế độ gần đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại tạo
6 ra bậc tài giỏi để tiếp nối quốc thống của Triệu Vương (Việt Vƣơng
7 Triệu Quang Phục) chăng?"
8 Sử cũ dùng chữ Triệu Vƣơng để gọi Triệu Quang Phục có thể
9 khiến ngƣời đọc lầm với Triệu Đà.
10 Nhƣ trên đã khảo luận, Triệu Đà là một trong những gƣơng mặt
11 thực dân thuộc địa đến từ nƣớc Trung Hoa rồi thừa cơ hội nổi lên
12 chiếm đoạt lãnh thổ Âu Lạc (tức là bộ Văn Lang) từ tay của Thục
13 Phán để xƣng hùng xƣng bá riêng mình một phƣơng tức là Triệu Vũ
14 Vƣơng. Triệu Đà là ngƣời chia phần quốc thống của triều đình ở bên
15 Trung Hoa chứ không phải là ngƣời lập ra nền quốc thống cho bộ tộc
16 Việt Nam lúc đó còn đang bị sáp nhập chung trong lãnh thổ Âu Lạc.
17 Vì vậy, ở đoạn nầy, Triệu Vƣơng mà Lê Văn Hƣu đã viết trong phần
18 Lê Văn Hưu nói phải là Việt Vƣơng Triệu Quang Phục.
19 Ở một đoạn khác, Lê Văn Hƣu cũng có lời bàn nhƣ sau: "Trời đất
20 cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi mới sinh muôn vật,
21 nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu sánh với ngôi vua, cho nên mới
22 có thể đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho thiên hạ. Từ
23 xưa chỉ lập một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói
24 lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương
25 thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nỗi chìm đắm
26 trong tình riêng, cùng lập 5 hoàng hậu. Sau đến hai triều Lê, Lý cũng
27 phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự
28 rối loạn thứ bậc vậy ".
29 Tự Đức có lời phê nhƣ sau: "Đạo trời ưa kẻ khiêm nhường, đạo ở
30 đời răn người tự mãn. Đinh Tiên Hoàng là người vô học, không có
31 mưu mô gì, chỉ quen dữ tợn, kiêu căng, đến nỗi cuối cùng cả hai cha
32 con đều bất đắc kỳ tử, mới được hai đời đã mất! Nhân đức và tàn bạo
33 thật khác nhau hẳn, đáng làm gương chung. Đinh kêu là Vạn Thắng,
34 Tần mong được Vạn Thế, xe trước xe sau cùng đi một vết, thiệt là tội
35 nghiệp! ".
36 Lại thấy một lần nữa sự tự tôn mặc cảm 'ngồi mát ăn bát vàng' của
37 Tự Đức. Trƣớc đây đã thấy kiểu cách phê bình tƣơng tựa của Tự Đức
38 đối với chiến thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng.

VSTK - 198
(@)NHÀ TỐNG PHONG TƢỚC CHO ĐINH BỘ LĨNH &
ĐINH LIỄN CÓ NHIỀU ĐIỂM MỜ ÁM

1 Năm 969, khi Đinh Bộ Lĩnh xƣng đế và phong cho Đinh Liễn làm
2 Nam Việt Vƣơng tức là vai vế của Đinh Bộ Lĩnh sánh ngang hàng
3 với một tƣớc đế của nƣớc Tàu lúc đó. Tuy nhiên, vì mới lên ngôi, việc
4 tổ chức nội trị chƣa ổn định cho nên Đinh Bộ Lĩnh mới chọn đƣờng
5 giao hảo cầu hoà với nhà Tống ở Trung Hoa
6 Tới lúc nầy, Đại Cồ Việt rất có thể là toàn vùng lãnh thổ Giao
7 Châu của nhà Đƣờng. Từ thời đại nhà Ngô ở Trung Hoa (264) lãnh
8 thổ Nam Việt của Triệu Đà bi cắt bớt đi ba vùng đất Nam Hải,
9 Thƣơng Ngô, Uất Lâm để lập thành Quảng Châu đặt châu trị ở Phiên
10 Ngung, phần còn lại là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phó
11 đặt thành Giao Châu, châu trị ở Long Biên. Thời Lý Bôn tự xƣng
12 vƣơng (544), lãnh thổ Giao Châu của nhà Ngô trở thành lãnh thổ Vạn
13 Xuân.
14 Nhà Đƣờng (679) chia đất Giao Châu thành 12 châu, lấy quận
15 Giao Chỉ cũ (quận Giao Chỉ bấy giờ gọi là châu Giao, không còn
16 gọi là quận Giao Chỉ nữa) làm trụ sở cho cơ quan thuộc địa An Nam
17 đô hộ phủ cai trị tất cả 12 châu.
18 Theo Ngô Thời Sĩ thì An Nam đô hộ phủ chỉ cai quản có 7 châu
19 nằm trong địa giới của nƣớc Việt Nam; 7 châu đó là: châu Giao Chỉ
20 (gọi tắt là châu Giao), châu Ái, châu Phúc Lộc, châu Hoan, châu
21 Phong, châu Lục, châu Diễn và châu Trƣờng. Năm châu còn lại: châu
22 Thang, châu Chi, châu Vũ Nga, châu Vũ An thì giáp giới châu Giao, ở
23 ngoài địa giới Việt Nam nhƣng cũng vẫn do An Nam đô hộ phủ ở
24 châu Giao Chỉ cai quản .
25 Thời nhà Lƣơng bên Trung Hoa (907), tình trạng lãnh thổ cũng
26 chia thành hai phần: Quảng Châu và Giao Châu. Quảng Châu gồm có
27 Nam Hải, Thƣơng Ngô, Uất Lâm do Lƣu Ẩn của nhà Lƣơng làm tiết
28 độ sứ, trụ sở ở Phiên Ngung. Trong khi đó Giao Châu của nhà Đƣờng
29 gồm 12 châu do Khúc Hạo chiếm giữ và tự xƣng là tiết độ sứ trụ sở ở
30 châu Giao Chỉ tức là An Nam đô hộ phủ trƣớc đây.
31 Khi Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ thần phục nhà Lƣơng
32 và đƣợc làm tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ cai quản 12 châu của Khúc
33 Hạo. Tình trạng lãnh thổ Giao Châu từ đây không có gì khác biệt mặc
34 dù có sự thay ngôi đổi chủ nhiều lần cho đến thời của Đinh Bộ Lĩnh.
35 Nhƣ vậy, khi lên ngôi hoàng đế (968), lãnh thổ Đại Cồ Việt của
36 Đinh Bộ Lĩnh là lãnh thổ 12 châu đã có từ thời Khúc Hạo tức là bao
37 gồm cả quận Hợp Phố và những châu giáp ranh ở phía Bắc nằm ngoài
38 biên giới lãnh thổ Việt Nam hiện giờ.
39 Sau khi Đinh Liễn đi sứ để thiết lập giao hảo với nhà Tống thì
40 Đinh Bộ Lĩnh chỉ đƣợc nhà Tống công nhận là Giao Chỉ Quận Vƣơng
41 còn Đinh Liễn thì đƣợc phong làm Kiểm hiệu thái sƣ Tỉnh Hải Quân

VSTK - 199
1 tiết độ sứ An Nam đô hộ tức là bây giờ Đinh Bộ Lĩnh trở thành một
2 chƣ hầu của nhà Tống và lãnh thổ cai trị chỉ còn có mt quận Giao Chỉ
3 hay châu Giao Chỉ. Tất cả 11 châu còn lại kể nhƣ là thuộc địa của nhà
4 Tống đặt dƣới quyền cai trị của bộ thuộc địa Tỉnh Hải quân An Nam
5 đô hộ do Đinh Liễn đại diện cho nhà Tống cai quản với chức tiết độ
6 sứ. Đây là một âm mƣu xảo quyệt và thâm độc của nhà Tống muốn
7 nhân cơ hội thiết đặt bang giao nầy để đặt lãnh thổ Đại Cồ Việt vào
8 quỹ đạo thuộc địa của họ.
9 Tuy nhiên, 11 châu do Đinh Liễn cai quản vẫn theo cách tổ chức
10 triều chính riêng của Đinh Bộ Lĩnh hoàng đế chứ không theo khuôn
11 khổ và thể chế áp dụng cho một vùng đất thuộc địa của nhà Tống.
12 Cuối cùng nhà Tống phải xem Đại Cồ Việt nhƣ là một lãnh thổ chƣ
13 hầu chứ không còn là một lãnh thổ thuộc địa nhƣ mƣu đồ của họ từ
14 trƣớc và phải công nhận nhƣng lại phong cho Đinh Liễn tƣớc vị Giao
15 Chỉ Quận Vƣơng. Thông thƣờng ngƣời cai trị lãnh thổ thuộc địa là
16 một quan lại giữ chức Tiết độ sứ hay thứ sử của triều đình Trung Hoa
17 và chính sách cai trị áp dụng cũng là chính sách của triều đình Trung
18 Hoa. Nhƣng, với các nƣớc chƣ hầu thì vua nƣớc Trung Hoa đƣợc tôn
19 là hoàng đế và có quyền ra lệnh, điều động các vƣơng bá làm chủ các
20 lãnh thổ chƣ hầu nhƣng không xen vào việc nội trị riêng của họ.
21 Nếu kể về thứ bậc thì chức vƣơng của một nƣớc chƣ hầu lớn hơn
22 chức thứ sử hay tiết độ sử của triều đình phƣơng Bắc và có quyền có
23 tiếng nói trong các kỳ hội chƣ hầu. Sử cũ cũng cho biết là sau khi
24 Đinh Liễn sai sứ sang nhà Tống lần thứ nhì (975) thì nhà Tống mới
25 phong cho Đinh Liễn chức Giao Chỉ Quận Vƣơng.
26 Có 3 vấn đề cần nêu ra :
27 1. Tại sao nhà Tống chịu để cho Đinh Liễn làm Giao Chỉ Quận
28 Vƣơng thay vì cho giữ chức tiết độ sứ của triều đình nhà Tống?
29 Có thể là Đinh Liễn đã trao đổi với nhà Tống một số vùng lãnh thổ
30 nào đó để đƣợc phong Vƣơng. Những vùng lãnh thổ trao đổi cho nhà
31 Tống có thể gồm có quận Hợp Phố và 5 châu giáp ranh ở phía Bắc
32 châu Giao Chỉ. (?)
33 2. Lý do gì mà chỉ đƣợc làm vua ở quận Giao Chỉ?
34 Có thể đƣa ra suy định nhƣ sau: Chức Nam Việt Vƣơng của Đinh
35 Liễn do Đinh Bộ Lĩnh ban cho để cai quản Quận Hợp Phố cùng với 5
36 châu ngoại biên và châu Giao Chỉ, trị sở ở châu Giao Chỉ. Các châu
37 còn lại thuộc quyền thống trị của hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh trị sở ở Hoa
38 Lƣ.
39 Sau khi đã dâng nạp quận Hợp Phố và 5 châu ngoại biên thì Đinh
40 Liễn chỉ còn lại có châu Giao Chỉ mà nhà Tống gọi là quận

VSTK - 200
1 Giao Chỉ khi phong cho Đinh Liễn làm Giao Chỉ quận vƣơng và cũng
2 kể từ đó trở về sau chỉ có Đinh Liễn luôn luôn phải đích thân đi sứ
3 sang triều bái vua Tống.
4 3. Còn chức Giao Chỉ quận Vƣơng trƣớc đây của Đinh Bộ
5 Lĩnh thì sao?
6 Đây là âm mƣu thâm độc của nhà Tống nhằm chia rẽ, ly gián, tạo
7 hiềm khích, nghi kỵ giữa cha con nhà họ Đinh: hủy bỏ tƣớc vƣơng đã
8 ban cho Bộ Lĩnh để ban cấp cho Đinh Liễn. Sự hiềm khích đã có xảy
9 ra thật sự vì Đinh Bộ Lĩnh đã bỏ Đinh Liễn (con trƣởng) để lập Hạng
10 Lang là con thứ làm thái tử kế tục ngôi đế của mình (978). Và Đinh
11 Liễn đã bất bình nên sai ngƣời ngầm giết Hạng Lang. Rõ ràng là Đinh
12 Liễn đã lộng hành và tự quyền mà Đinh Bộ Lĩnh cũng chẳng dám
13 phản ứng vì Đinh Liễn đang đƣợc ngoại bang hậu thuẫn. Vua Tự Đức
14 đã có lý khi tỏ ý nghi ngờ về việc nhà Tống phong Đinh Liễn làm
15 Giao Chỉ Quận Vƣơng và có lời phê rằng: "Sự thực bấy giờ thế nào
16 không rõ được, hoặc giả có điều gì giấu giếm mà như thế chăng?"
17 Trong ĐVSKTT không có ai đề cập đến các nghi vấn vừa kể mà
18 chỉ viết lại một cách đại lƣợc lời chế chỉ của nhà Tống nhƣ sau: " Họ
19 Đinh vốn thuộc hàng vọng tộc, gìn giữ được phương xa, có lòng hâm mộ
20 phong hóa văn minh Trung Hoa cho nên thường có ý muốn quy thuộc. Nay 9
21 châu đã hợp một, vùng Ngũ Lĩnh đã an bình cho nên họ Đinh mới sai sứ vượt
22 biển leo núi mà tới để dâng cống. Khen ngươi làm con biết giữ lễ phiên thần
23 cho nên ban tước cắt đất cho cha ngươi, xếp phẩm trật vào hàng được giữ
24 riêng binh quyền, tùy nghi tự quyết trong việc đánh dẹp, được hưởng bổng
25 cấp hoa lợi theo mức ngạch tỉnh phú(a) ".
26 Theo nhƣ ý của lời chế nầy thì rõ ràng là Đinh Liễn đã về đầu phục
27 và trở thành phiên thần của Tống triều để đƣợc ngƣời Tàu ban cho
28 chức tiết độ sứ. Lãnh thổ Đại Cồ Việt trên thực tế chỉ còn có một quận
29 Giao Chỉ duy nhất mà Tống Triều đã cắt ra để cấp phong cho Đinh Bộ
30 Lĩnh làm Giao Chỉ quận vƣơng. Việc làm nầy của Đinh Liễn là một
31 hành vi phản bội, tự ý không đƣợc Đinh Bộ Lĩnh phê chuẩn và vì thế
32 Đinh Bộ Lĩnh phải chuẩn bị đối phó bằng cách tổ chức, huấn luyện
33 quân sự với một triệu quân vào năm 974 và tiếp tục lập triều chế theo
34 ý riêng của mình (975). Có thể vì chuyện nầy mà Đinh Bộ Lĩnh đã
35 truất bỏ không lập Đinh Liễn làm thái tử.
36 Cũng rõ ràng là Đinh Bộ Lĩnh đã không thèm nhận chức Giao Chỉ
37 Quận Vƣơng của Tống triều. Đâu là bằng chứng? Với tƣớc phong
38 Giao chỉ quận Vƣơng, Đinh Bộ Lĩnh trở thành một chƣ hầu của Tống
39 triều và do đó phải đích thân đi sứ để làm bổn phận của một nƣớc chƣ
40 hầu. Đinh Bộ Lĩnh đã không làm nhƣ thế mà chỉ sai Trịnh Tú đi sứ
41 (975) với mục đích ngoại giao chứ không vì bắt buộc phải thi hành
42 một nghĩa vụ nào đối với Trung Hoa. Đinh Liễn sau nầy đƣợc Tống
43 triều phong Giao Chỉ quận Vƣơng đã phải hằng năm đích thân sang

VSTK - 201
1 chầu vua nhà Tống. ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết: "Tống sai
2 Cao Bảo Tự cùng bọn Vương Ngạn Phù đem chế văn sang gia phong
3 cho Đinh Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư,
4 Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, mỗi lần đi sứ sang Tống đều do
5 Đinh Liễn làm chủ "(KTT/BK.I/4b, KĐVSTGCM/CB.I/ 6).
6 KĐVSTGCM cũng có viết lời chế nầy kèm theo với lời bình chú
7 của nhóm sử gia của quốc sử quán triều Nguyễn nhƣ sau: "Sử Cương
8 Mục tục biên (Trung Quốc) chép rằng: Bộ Lĩnh đề cử con là Liễn làm
9 tiết độ sứ, rồi lại nhường ngôi cho con. Khi Nam Hán mất, Đinh Liễn
10 vào cống. Sách Đông Đô sự lược chép: Đinh Liễn nối ngôi cha. Lúc
11 nhà Tống đã bình định xong vùng đất Lĩnh Nam, Liễn bèn gởi sứ
12 sang xin thần phục.
13 Có lẽ lúc đó Đinh Tiên Hoàng cầm quyền cai trị trong nước, còn
14 việc bang giao trọng đại thì giao cho cả Đinh Liễn. Việc Tống phong
15 vương tước cho Đinh Liễn có thể là vì Tống muốn Liễn thay thế ngôi
16 vị của Bộ Lĩnh.
17 Về phần Đinh Bộ Lĩnh thì có lẽ vì đã tự xưng là Hoàng đế ở trong
18 nước rồi, nên cũng chẳng thắc mắc hay lý tới chuyện Tống phong
19 Vương tước cho Đinh Liễn".
20 Nhóm sử gia nhà Nguyễn chỉ nhìn vấn đề một cách hời hợt cho
21 nên đã giải thích quá đơn giản mà không dám nói thẳng ra Đinh
22 Liễn là một kẻ phản bội, bán nƣớc cầu vinh.

LÊ HOÀN

23 Sử cũ viết về việc Lê Hoàn tiếm ngôi nhà Đinh cũng tƣơng tựa
24 nhƣ chuyện nhà Tống lấy ngôi nhà Chu ở bên Tàu.
25 Lời phê của Tự Đức trong KĐVSTGCM viết về biến cố lịch sử
26 nầy nhƣ sau: "Bờ cõi Bắc (chỉ nƣớc Trung Hoa) Nam (chỉ lãnh thổ
27 Đại Cồ Việt) tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có
28 chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân
29 cây, sao mà giống chuyện ở bên Tống vậy ! Hay là người làm sử thấy
30 thế, gò ép gán ghép vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời
31 kia nào có ý làm ra như vậy ?"
32 Sử Trung Hoa viết chuyện Triệu Khuông Dẫn (tức Tống Thái Tổ)
33 nhƣ sau: "Vào thời Ngũ Đại (907-959) Triệu Khuông Dẫn đóng quân
34 ở Trần Kiều, say rượu ngủ suốt đêm, qua sáng hôm sau được các
35 tướng suy tôn làm hoàng đế. Khuông Dẫn chưa kịp phản ứng thì các
36 tướng đã khoác chiếc áo long bào lên người Khuông Dẫn rồi đồng
37 loạt phũ phục xuống tung hô".

VSTK - 202
1 Trƣớc đó, khi viết về Đinh Bộ Lĩnh thì hiện tƣợng rồng rắn thần
2 ma lại tái xuất hiện: "Bấy giờ chú của vua (vua = chỉ Đinh Bộ Lĩnh)
3 là Thúc Dự giữ sách Bông(a) chống đánh với vua (Đinh Bộ Lĩnh), vua
4 vì quân ít và thiếu kinh nghiệm không địch lại nên phải thua chạy. Khi
5 qua cầu Đầm Gia, cầu bị gãy vua bị sa lầy. Thúc Dự đuổi theo toan
6 đâm bổng thấy rồng vàng che phủ hai bên, Dự sợ quá phải rút lui ".
7 Ở một đoạn khác, ĐVSKTT cũng đƣa chuyện chiêm bao mộng mị
8 về lai lịch của tên Đỗ Thích để giải thích nguyên lai vì sao hắn giết
9 cha con họ Đinh. Ngay cả việc Đinh Bộ Lĩnh chết sớm cũng do hột
10 ngọc vớt đƣợc ở sông Giao Thủy và lời sấm ứng điềm báo trƣớc. Loại
11 sấm dự đoán vận mệnh nầy sẽ còn tiếp tục xuất hiện và lạ lùng thay,
12 lần nào cũng thế, đều đƣợc các thầy, các sƣ giải đoán.
13 (ĐVSKTT/BK/Q.1/6a,6b) (KĐVSTGCM/CB.1/18/Đỗ Thích).
14 Ngô Sĩ Liên sau khi phê phán những việc làm không đúng của
15 cha con nhà Đinh đã kết luận bằng một câu "sấm" rất là u mê:"Không
16 thế thì tội ác của Đỗ Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm được?"
17 Có thể các lời sấm kiểu nầy do Ngô Sĩ Liên lục lạo tìm đƣợc rồi đem
18 vào sử cho nên chúng mới đƣợc Ngô Sĩ Liên công nhận là có thật?
19 Ngoài ra các nhà viết sử cũ còn vẽ ra cho ngƣời ta thấy hình ảnh
20 một bộ tộc Việt ngày đó còn dã man rừng rú khi " Nguyễn Bặc bắt
21 được Đỗ Thích đem chém, đập nát xương, băm thịt ra từng mảnh,
22 chia cho người trong nước ăn, chẳng ai không tranh lấy mà nhai
23 nuốt". (ĐVSKTT/ đã dẫn). Không ngạc nhiên khi ngoại bang phƣơng
24 Bắc cho ngƣời mình là dân bán khai, man di, mọi rợ khi đọc đƣợc
25 những kiểu viết nhƣ thế.

VSTK - 203
CHƢƠNG III

NHÀ TIỀN LÊ ( 980 - 1009 )

1. LÊ HOÀN ( 980 - 1005 )

1 Ngƣời làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà


2 Nam. Năm 980, trong khi quân Tàu động binh chuẩn
3 bị gây hấn, Lê Hoàn âm mƣu xếp đặt với hạ thuộc (1)
4 cùng với sự hổ trợ@ của Dƣơng thị để tiếm ngôi nhà
5 Đinh rồi tự xƣng vua, truất phế Đinh Toàn xuống làm
6 Vệ Vƣơng thay niên hiệu 3 lần(2).
7 Để làm chậm sức tiến của quân nhà Tống, Lê Hoàn
8 liền gởi sứ sang để giả trá thƣơng lƣợng(3) nhƣng rồi bỏ
9 qua đi những điều kiện và đòi hỏi(4) của nhà Tống.
10 Năm 981, quân Tống từ nhiều hƣớng tràn sang xâm
11 lấn: hƣớng Lạng Sơn do Hầu Nhân Bảo và Tôn Hoàng
12 Hƣng, hƣớng Tây Kết do Trần Khâm Tộ, hƣớng sông
13 Bạch Đằng do Lƣu Trừng.
14 Lê Hoàn đích thân cầm quân chống cự, giết đƣợc
15 Hầu Nhân Bảo ở sông Chi Lăng, bắt sống đƣợc 2
16 tƣớng của quân Tống. Quân Tống thua phải rút chạy
17 về Trung Hoa.
18 Năm 982, Lê Hoàn lập Dƣơng thị làm hoàng hậu (5)
19 cùng với 4 hoàng hậu khác; gởi sứ sang nhà Tống để
20 tái lập bang giao che đậy dƣới danh nghĩa nhà Đinh
21 chứ không phải nhà Lê vì sợ quân Tống lại sang. Cùng
22 trong khoảng thời gian nầy, Lê Hoàn đem quân đánh
23 cƣớp và đốt phá(6) nƣớc Chiêm Thành.
24 Trong nƣớc năm đó có nạn đói trầm trọng.
25 Năm 983, lại cử sứ sang giao hảo với nhà Tống.
26 Trong nƣớc thì hoàn thành và khai thủy con kênh mới
27 trong vùng núi Đồng Cổ(7) và sông Ba Hoà(8).

VSTK - 204
1 Năm 984, đúc tiền Thiên Phúc(9), xây cung điện đền
2 đài, dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế tráng lệ (10) ở núi
3 Đại Vân(11).
4 Năm 985, bày ra hội đua thuyền và cử sứ sang Tống
5 xin thụ phong chức tiết trấn(12) tức là xin trở thành
6 thuộc địa của nhà Tống.
7 Năm 986, tuyển lính làm quân túc vệ, phong cho
8 Phạm Cự Lƣợng làm Thái Úy, lấy Từ Mục làm Thống
9 lãnh quân dân sự(13). Nhà Tống cử sứ sang phong cho
10 Lê Hoàn chức An Nam đô hộ Tỉnh Hải quân tiết độ sứ.
11 Nhƣ vậy là lãnh thổ Đại Cồ Việt nay trở thành nƣớc
12 An Nam thuộc địa của Trung Hoa và Lê Hoàn là quan
13 cai trị của nhà Tống nắm giữ Bộ thuộc địa Tỉnh Hải
14 quân.
15 Năm 987, Lê Hoàn cày ruộng tịch điền@ ở núi Đọi(a).
16 Năm 989, đổi niên hiệu là Hƣng Thống, lập Lê Long
17 Việt làm Nam Phong Vƣơng. Cùng năm nầy, nhà Tống
18 thăng chức thêm hai chữ Đặc Tiến(14) cho Lê Hoàn.
19 Năm 992, Lê Hoàn phong cấp cho các con :
20  Lê Long Đỉnh làm Khai Minh vƣơng ở Đằng
21 Châu(15), (con thứ 5)
22  Lê Long Đinh làm Ngự Man vƣơng cai quản
23 Phong Châu, (con thứ 4)
24  Lê Long Ngận làm Ngự Bắc vƣơng ở Phù Lan(16),
25 (con thứ 6)
26  Định Phiên vƣơng Lê Long Tung ở Ngũ Huyện
27 Giang(17), (con thứ 7)
28  Tƣ Doanh Thành phó vƣơng Lê Long Tƣơng ở Đỗ
29 Động(18), (con thứ 8)
30  Trung Quốc vƣơng Lê Long Kính ở Mạt Liên(19),
31 (con thứ 9)
32  Nam Quốc vƣơng Lê Long Mang ở Vũ Lũng(20),
33 (con thứ 10)
34  Hành Quân vƣơng Lê Long Đề ở Cổ Lãm(21), (con
35 thứ 11)
VSTK - 205
1  Phù Đái Vƣơng(22), ở Phù Đái(23), (con nuôi của Lê
2 Hoàn)
3 Năm 993, Lê Hoàn sai sứ sang cống và dâng tờ biểu
4 dối rằng Đinh Toàn đã nhƣờng ngôi cho họ Lê, nay xin
5 Tống thừa nhận. Tống ƣng thuận, sai sứ sang phong
6 cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ Quận Vƣơng tức là từ nay
7 là chƣ hầu(24) của nhà Tống.
8 Năm 997, nhà Tống lại thăng phong Lê Hoàn tƣớc
9 Nam Bình vƣơng. Năm nầy trong nƣớc bị nạn lục lớn
10 tàn phá nặng nề. Năm 998 lại có động đất.
11 Năm 1001, Vệ vƣơng Đinh Toàn mất ở Cử Long(25).
12 Năm 1002, đặt luật lệ, pháp lệnh, cắt đặt lại các đạo
13 thành lộ, phủ, châu.
14 Năm 1003, đào sông Đa Cái(26) ở Hoan Châu.
15 Năm 1004, lập Nam Phong vƣơng Lê Long Việt làm
16 thái tử.

2. LÊ LONG VIỆT ( 1005 )

17 Năm 1005, Lê Hoàn mất, vì không có tên thụy nên


18 chỉ gọi là Đại Hành hoàng đế, chôn ở Sơn Lăng Hoa
19 Lƣ. Anh em nhà Lê tranh giành quyền kế tục nhƣng
20 cuối cùng Lê Long Việt dẹp tan và lên ngôi nhƣng chỉ
21 đƣợc 3 ngày thì bị Lê Long Đỉnh giết chết, cƣớp ngôi.

3. LÊ LONG ĐỈNH ( 1005 - 1009 )

22 Sau khi tiếm ngôi của Long Việt, Long Đỉnh tự lập
23 làm vua, lập 4 hoàng hậu, dùng Lý Công Uẩn làm Tứ
24 sƣơng quân phó chỉ huy sứ.

VSTK - 206
1 Tự cầm quân đánh dẹp Lê Long Ngạn, chém Lê
2 Long Kính, thu phục Lê Long Đinh, đổi Đằng Châu
3 thành phủ Thái Bình rồi vƣợt sông Tham sang Ái Châu
4 giẹp yên giặc Cử Long(27).
5 Năm 1006, đặt lại quan chế và triều phục giống nhƣ
6 kiểu mẫu của nhà Tống (28). Lập con là Sạ làm Khai
7 Phong vƣơng, con nuôi là Thiệu Lý làm Sở vƣơng.
8 Năm 1007, nhà Tống phong cho Long Đỉnh làm
9 Giao Chỉ Quận vƣơng, kiêm nhiệm chức Tỉnh Hải
10 quân tiết độ sứ.
11 Năm 1009, đào sông từ cửa ải Chi Long(29) qua núi
12 Đính Sơn(30) đến giáp sông Vũ Lũng(31), đắp đƣờng,
13 dựng cột móc biên giới ở Ái Châu.
14 Cuối năm 1009, Lê Long Đỉnh mất, làm vua đƣợc 4
15 năm, thọ 24 tuổi. Lúc sống, Long Đỉnh là ngƣời hiếu
16 sát, bạo ngƣợc, tàn ác và dâm ô tột độ, lại mắc thêm
17 bệnh trĩ nặng ngồi không đƣợc cho nên mỗi lần thiết
18 triều phải nằm mà coi chầu nên đƣợc mệnh danh là
19 vua nằm hay Ngọa Triều.
20 Long Đỉnh mất, tả thân điện tiền chỉ huy sứ(32) Lý
21 Công Uẩn thừa cơ hội tiếm ngôi nhà Tiền Lê qua sự đề
22 xƣớng của ngƣời cận vệ(33) Đào Cam Mộc và sự ám
23 trợ của sƣ Vạn Hạnh(34).

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

24 1 Thuộc hạ của Lê Hoàn: là Phạm Cự Lƣợng, ngƣời huyện Chí linh,


25 Hải Dƣơng.
26 (@) Sự hổ trợ của Dƣơng thị: Dƣơng thị lấy áo long cổn khoác lên
27 mình Lê Hoàn và mời Lê Hoàn lên ngôi vua .
28 2 Thay niên hiệu 3 lần: Thiên Phúc (980-988), Hƣng Thống (989-
29 993), Ứng Thiên (994-1005).
30 3 Giả trá thƣơng lƣợng: sai sứ đem thƣ sang nhà Tống nói dối là thƣ
31 của Đinh Toàn xin Tống sắc phong đƣợc tiếp nối ngôi vị của Đinh Bộ
32 Lĩnh.
33 4 Những đòi hỏi của nhà Tống: Tống muốn Đinh Toàn làm thống
34 súy, Lê Hoàn làm phó hoặc Lê Hoàn phải cho mẹ con Đinh Toàn sang
35 Tống làm con tin rồi mới đƣợc sắc phong tiết độ sứ.

VSTK - 207
1 5 Lập Dƣơng thị làm hoàng hậu: là 1 trong 5 hoàng hậu của Lê
2 Hoàn tức là Đại Thắng Minh Hoàng hậu. Đại Thắng Minh là tên hiệu
3 của Đinh Bộ Lĩnh: Lê Hoàn chiếm luôn vợ của Đinh Bộ Lĩnh.
4 6 Cƣớp phá nƣớc Chiêm Thành: sử cũ viết: "Nhà vua tự mình cầm
5 quân đi đánh, chém được tướng Chiêm Bề Mi Thuế, vua Chiêm bỏ
6 chạy, ta bắt được rất nhiều tù binh và hằng trăm cung nữ, lấy được
7 vàng bạc châu báu vô số kể, sang phẳng thành trì, phá hủy hết các
8 nhà thờ tổ tiên vua chúa nước Chiêm; vừa đầy một năm mới về kinh
9 đô".
10 7 Núi Đồng Cổ: xã Đan Nê, huyện An Định, Thanh Hóa.
11 8 Sông Bà Hòa: huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa, nay là sông Đồng Hòa.
12 9 Đúc tiền Thiên Phúc: Thiên Phúc là niên hiệu thứ nhất của Lê
13 Hoàn (980-988).
14 10 Tráng lệ: lấy vàng bạc để dùng trong việc trang trí và xây cất.
15 11 Núi Đại Vân: huyện Hoa Lƣ, Hà Nam Ninh.
16 12 Chức tiết trấn: tức là chức tiết độ sứ diều khiển bộ đô hộ một
17 thuộc địa.
18 13 Thống lãnh quân dân sự: sử cũ viết là Tổng quản, tên gọi một
19 chức vụ thời nhà Đƣờng bên Tàu, chuyên giữ việc quân sự. Lê Hoàn
20 phỏng theo chức nầy nhƣng có thể ngoài quân đi chính quy còn còn
21 các tổ chức phòng vệ dân sự cho nên mới có chức thống lãnh quân
22 dân sự nầy. Cũng còn có nghĩa là cai trị toàn quân, toàn dân.
23 @ Ruộng tịch điền: ruộng dành riêng để vua chúa đích thân tự cày lấy
24 để thu hoa lợi dùng vào việc cúng tế của họ. Đây chỉ là một việc làm
25 tƣợng trƣng che mắt thế gian chứ lẽ nào vua chúa chịu đem công lao
26 khổ cực của mình cày cấy để thu hoạch cho đủ số chi dùng trong việc
27 cúng tế. Hành động cày ruộng nầy ngoài mục đích tuyên truyền, cũng
28 giống nhƣ các ngƣời có chức vụ cao ngày nay đi đặt một cách tƣợng
29 trƣng viên đá đầu tiên, hoặc đào cuốc đất đầu tiên cho sự khởi công
30 một công trình xây dựng. Sử cũ muốn quan trọng hóa việc làm của
31 vua chúa nên mới viết lại việc họ tự đi cày bừa nhƣ thế. Chẳng những
32 vậy còn vẽ vời thêm để tạo sự thần bí che phủ hành vi đi cày nầy:
33 "Lần đầu nhà vua cày ruộng tịch điền ở núi Đọi được một lọ vàng,
34 sau lại đi cày ở núi Bàn Hải lại được một hủ bạc, do đó đặt tên là
35 ruộng Vàng, ruộng Bạc.." (chữ Hoa gọi là kim ngân điền).
36 (a) Núi Đọi và núi Bàn Hải: Núi Đọi tên chữ Hoa là Đọi Sơn ở xã
37 Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà. Còn núi Bàn Hải thì không
38 thấy có thƣ tịch cũ nào cho biết là ở đâu.
39 14 Đặc Tiến: một chức quan lớn chỉ cấp cho các hàng chƣ hầu trung
40 thành vớí triều đình nhà Tống.
41 15 Đằng Châu: nay thuộc huyện Kim Thi, Hải Hƣng.
42 16 Phú Lan: xã Mỹ Vân, huyện Đƣờng Hào, tỉnh Hải Dƣơng, nay là
43 tỉnh Hƣng Yên.
44 17 Ngủ Huyện Giang: ở phía Nam huyện Yên Lãng, tỉnh Sơn Tây

VSTK - 208
1 18 Đỗ Động: xem chú giải trƣớc đây ở phần viết về 12 sứ quân.
2 19 Mạt Liên: nay là huyện Tiên Lữ, phủ Khoái Châu, Hƣng Yên.
3 20 Vũ Lũng: thuộc tỉnh Thanh Hóa.(KĐVSTGCM/CB.I/27)
4 21 Cổ Lãm: tức là châu Cổ Pháp thời Lý, nay là huyện Tiên Sơn, Hà
5 Bắc.
6 22 Phù Đái Vƣơng: KĐVSTGCM ghi chú: không rõ tên thực là gì.
7 23 Phù Đái: nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
8 24 Chƣ hầu: là nƣớc nhỏ đàn em của một nƣớc lớn.
9 25 Cử Long: tên gọi một dân tộc Mƣờng; nay thuộc phủ Quảng Hóa,
10 tỉnh Thanh Hóa.
11 26 Đa Cái: nay là xã Hƣơng Cái, thuộc huyện Hƣng Nguyên, tỉnh
12 Nghệ An.
13 27 Cửa Thần Đầu: tức cửa Thần Phù huyện Yên Mô, Ninh Bình nay
14 là cửa Chính Đại.
15 28 Theo kiểu mẫu của nhà Tống: tức là màu sắc của áo quần, cũng
16 nhƣ loại mũ nón của quan triều phải tùy theo phẩm trật thấp cao
17 giống nhƣ quy định của nhà Tống .
18 29 Cửa ải Chi Long: theo KĐVSTGCM, là tên cửa khẩu thuộc huyện
19 Chi Nga, nay là huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
20 30 Núi Đính: sử cũ không ghi chú.
21 31 Sông Vũ Lũng: xem chú thích ở trên
22 32 Điện tiền chỉ huy sứ: chức quan chỉ huy binh lính hộ vệ nơi điện
23 vua.
24 33 Cận vệ Đào Cam Mộc: tức là chức chi hậu, là kẻ hầu hạ vua, có
25 nhiệm vụ truyền lệnh của vua và hƣớng dẫn ngƣời ra vào trong cung
26 vua.
27 34 Sƣ Vạn Hạnh: có một lý lịch và hành tung rất đáng dị nghị, là
28 ngƣời cố vấn quan trọng và có một ảnh hƣởng rất lớn trong việc dàn
29 xếp để Lý Công Uẩn cƣớp ngôi nhà Tiền Lê.

KHẢO LUẬN:

30 Những chuyện thần ma rồng rắn, những điềm dị đoan, những trò
31 chiêm bao báo trƣớc, những lời sấm truyền quái dị đã thấy xuất hiện
32 trong lịch sử từ thời nhà Tiền Lê.
33 Nói về thân thế lai lịch của Lê Hoàn, sử cũ viết: Trước kia, cha
34 vua là Mịch, mẹ là Đặng thị, khi mới có thai thấy trong bụng nở hoa
35 sen, chỉ chốc lát đã kết hạt bèn lấy chia cho mọi người, còn mình thì
36 không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào. Khi sinh ra con,
37 thấy con mặt mũi hình dáng khác thường, bảo với mọi người ta
38 rằng:" Thằng bé nầy lớn lên chắc sẽ làm nên sang cả, chỉ sợ tôi
39 không kịp được hưởng lộc của nó thôi! " Được vài năm thì Đặng thị
40 mất, rồi kế đến người cha cũng mất. Một viên quan họ Lê ở Ái Châu

VSTK - 209
1 thấy lạ, nói: "Tướng cách đứa nhỏ nầy thật là khác thường", nên
2 nhận làm con nuôi.
3 Gặp tiết trời lạnh rét, Lê Hoàn nằm cuộn mình trong chiếc cối úp
4 để ngủ, đang đêm có ánh sáng rực nhà, người cha nuôi lấy làm lạ ra
5 xem thì thấy có con rồng vàng che ấp bên trên. . ."
6 (ĐVSKTT/BK.I/13a, 13b), (KĐVSTGCM/CB.I/15.)
7 Chuyện rồng vàng che phủ để bảo vệ sƣởi ấm cho Lê Hoàn so với
8 chuyện rồng vàng che phủ để bảo vệ cho Đinh Bộ Lĩnh khi bị sa lầy
9 khỏi bị Thúc Dự giết, hai chuyện đều tƣơng tựa nhau và cả hai hai
10 Đinh, Lê đều là hai kẻ đoạt ngôi vua của ngƣời khác. Phải chăng
11 những lý do thần bí siêu hình là những công cụ mà những ngƣời viết
12 sử ngày xƣa đã dùng để giải thích và khuất lấp những hành vi bất
13 trung, bất nghĩa, man trá, lƣờng gạt của những kẻ đầy tham vọng
14 muốn cầm quyền thiên hạ ?
15 Xét về mặt cá nhân thì Đinh Bộ Lĩnh cƣớp ngôi nhà Ngô mà còn
16 cƣớp luôn vợ của Ngô Quyền (Dƣơng thị, con gái Dƣơng Diên Nghệ),
17 lập 5 hoàng hậu; Lê Hoàn cƣớp ngôi nhà Đinh, giựt luôn Dƣơng thị
18 rồi cũng lập 5 hoàng hậu. Ở đây có một điểm mờ ám khác nữa: 5
19 hoàng hậu của họ Đinh thì sử cũ liệt kê bằng tên hiệu nhƣ Đan Gia,
20 Trinh Minh, Kiểu Quốc, Cồ Quốc, Ca Ông; đến đời Lê Hoàn cũng liệt
21 kê 5 hoàng hậu nhƣng lại bằng tôn hiệu nhƣ Đại Thắng Minh hoàng
22 hậu (tức là Dƣơng thị, vợ cũ của Ngô Quyền và Đinh Bộ Lĩnh: Đại
23 thắng Minh là tên hiệu của Đinh Bộ Lĩnh), cùng với 4 hoàng hậu khác
24 là Phụng Càn Chí ly hoàng hậu, Thuận Thánh Minh Đạo hoàng hậu,
25 Trịnh Quốc hoàng hậu và Phạm hoàng hậu. Phải chăng 4 ngƣời đàn
26 bà nầy cũng là vợ cũ của Ngô Quyền rồi sang tay Đinh Bộ Lĩnh và
27 nay lại về tay của Lê Hoàn? Chuyện nầy rất có thể xảy ra bởi vì Ngô
28 Quyền không phải chỉ có một mình Dƣơng thị là vợ mà còn có những
29 vợ thứ khác nữa, có thể là 4 ngƣời vợ: vào lúc Ngô Quyền vừa mới
30 mất, KĐVSTGCM khi nói về việc Dƣơng Tam Kha cƣớp ngôi nhà
31 Ngô có đoạn viết: ". . .Các con vợ thứ của Ngô vương (Ngô Quyền) là
32 Nam Hưng, Kiền Hưng còn nhỏ đều theo Dương hậu ".
33 Còn nữa, hai con của Ngô Quyền là Ngô Xƣơng Ngập và Ngô
34 Xƣơng Văn đều có xƣng vƣơng và nhƣ vậy nhất định cũng có phong
35 tôn hiệu hoàng hậu hay hoàng phi cho vợ mình.
36 Chẳng lẽ Đinh Bộ Lĩnh rồi tới Lê Hoàn đã lần lƣợt thay nhau cƣớp
37 3 vợ của Ngô Quyền mà còn cập thêm 2 ngƣời vợ của Xƣơng Ngập
38 và Xƣơng Văn để rồi phong cả cho 5 ngƣời cùng làm hoàng hậu
39 ngang vai vế với nhau?
40 Một đoạn khác trong KĐVSTGCM viết: " Ngô Nhật Khánh là con
41 cháu của Ngô Quyền ( Khánh có thể là con của Ngô Xƣơng Ngập
42 hoặc của Ngô Xƣơng Văn), trước kia xưng là An Vương, cùng với các
43 sứ quân giữ đất tranh hùng, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp được Nhật

VSTK - 210
1 Khánh rồi mới lập mẹ của Nhật Khánh (có thể là vợ của Xƣơng Ngập
2 hoặc Xƣơng Văn) làm hoàng hậu ".
3 Lời bàn của Ngô Thời Sĩ viết: " Đại thắng Minh là tên hiệu của
4 Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ mình (Dƣơng
5 thị) thì thật không còn kiên nể chút gì hết! Sử sách ghi chép để tiếng
6 cười chê đến ngàn đời sau ".
7 Xét về mặt quốc gia dân tộc, độc lập tự chủ thì Lê Hoàn phải đƣợc
8 xếp xuống ngang hàng với con của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Liễn bởi vì
9 cả hai Đinh Liễn, Lê Hoàn đều quỳ lại vang xin để dâng hiến đất nƣớc
10 và dân tộc cho ngoại bang trong khi Đinh Bộ Lĩnh cứ ngang nhiên
11 xƣng đế, độc lập, một mình, không cầu cạnh xin xỏ mà cũng không
12 thèm đếm xỉa gì đến tƣớc phong của phƣơng Bắc. Hơn nữa, Đinh Bộ
13 Lĩnh còn chuẩn bị, tổ chức và huấn luyện 10 đạo quân trong nƣớc sẵn
14 sàng chờ đợi quân Tống gây hấn. Ở đây cần lập lại rằng, hai bộ sử cũ
15 đã viết lách một cách mơ hồ về công tác ngoại giao dƣới thời nhà
16 Đinh nhất là vai trò đi sứ của Đinh Liễn. Sử cũ thƣờng viết dƣới dạng:
17 " Vua sai sứ sang nhà Tống " hoặc " sai Nam Việt Vương Đinh
18 Liễn sang nhà Tống ". Đinh Bộ Lĩnh sai sứ sang Tống là vì nghi thức
19 ngoại giao giữa hai nƣớc bình đẳng với nhau chứ không giống nhƣ
20 việc triều cống của những nƣớc chƣ hầu hay những nƣớc thuộc địa.
21 Đến lƣợt Đinh Liễn đi sứ thì bắt đầu có trò ngoại giao đi đêm phản
22 bội: Đinh Liễn đã dâng nạp lãnh thổ Đại Cồ Việt để đƣợc trở thành
23 tay sai của ngoại bang. Còn Lê Đại Hành, cũng đã biết bao nhiêu lần
24 cầu cạnh vang xin để đƣợc trở thành một chƣ hầu của ngƣời Trung
25 Hoa. Nếu Đinh Liễn là một đứa con bội nghịch phản quốc thì Lê
26 Hoàn cũng là một gian thần vô đạo phản chủ, bán nƣớc cầu vinh.
27 Nói về công lao xứng đáng để đƣợc ngôi vị làm vua thì Lê Hoàn
28 còn thua Đinh Liễn vì Đinh Liễn có công trận mạc, theo Đinh Bộ
29 Lĩnh đánh Đông, dẹp Bắc, lại là con trƣởng của một dòng vua thì nhƣ
30 thế cũng có phần đúng nghĩa và đúng lý để kế ngôi Đinh Bộ Lĩnh.
31 Còn nhƣ Lê Hoàn thì núp dƣới vạt áo của ngƣời đàn bà rồi bày mƣu
32 thiết kế gian xảo để cƣớp vợ đoạt ngôi của ngƣời khác thì không còn
33 lý do nào để biện bạch, bào chữa.
34 Trong sử cũ, đoạn viết về việc Đinh Toàn bị trúng tên chết ngoài
35 mặt trận khi đi theo Lê Hoàn đánh giặc Cử Long, vua Tự Đức có lời
36 phê nhƣ sau: "Lê Hoàn lợi dụng cơ hội đã cướp lấy nước người ta, lại
37 không khéo đối đãi chúa cũ, đẫy vào chỗ chết, hỏi như vậy thì làm
38 sao mà Đinh Toàn tránh khỏi tử vong? Còn việc Lê Hoàn cất tiếng
39 kêu trời gieo mình xuống đất có vẻ như vì quá thương tiếc Đinh Toàn
40 thì cũng chỉ là một ngón giả trá mà thôi, làm sao qua mắt được công
41 luận nghìn thu." KĐVSTGCM/CB.I/ 34).


VSTK - 211
CHƢƠNG IV

NHÀ LÝ ( 1010 - 1225 )

1. LÝ CÔNG UẨN ( 1010 - 1028 )

1 Ngƣời làng Cổ Pháp, Bắc Giang; mẹ họ Phạm


2 không biết ăn nằm với ai có thai, sinh ra Công Uẩn và
3 phải đem cho ngƣời sƣ Lý Khánh Vân làm cha để
4 tránh tiếng con hoang và do đó mới mang họ Lý (1).
5 Lớn lên làm quan nhà Tiền Lê và đƣợc Lê Long Đỉnh
6 thăng lên đến chức điện tiền chỉ huy sứ(2).
7 Năm 1009, Lê Long Đỉnh mất. Lý Công Uẩn thừa
8 cơ hội tiếm ngôi nhà Tiền Lê qua sự đề xƣớng của
9 ngƣời cận vệ Đào Cam Mộc(3) và sự ám trợ của sƣ Vạn
10 Hạnh(4) .
11 Lý Công Uẩn lên ngôi vua tức là Lý Thái Tổ, đổi
12 niên hiệu là Thuận Thiên, lấy tôn hiệu dài hơn 50
13 chữ(5), truy tôn cha làm Hiển Khánh vƣơng, mẹ là
14 Phạm thị làm Minh Đức hoàng thái hậu. Lập 6 hoàng
15 hậu và lập con trƣởng Lý Phật Mã làm thái tử.
16 Phong Đào Cam Mộc làm Nghĩa tín hầu và gả con
17 gái là công chúa An Quốc cho Cam Mộc cùng ban
18 thƣởng cho các hàng tăng sĩ.
19 Năm 1010, sai sứ mang lễ vật sang Trung Hoa triều
20 cống để tỏ ý thần phục nhà Tống, triều thần nhà Tống
21 muốn từ chối nhƣng vua Tống cho rằng Lê hay Lý thì
22 cũng một hạng nhƣ nhau không có khác(6) gì cho nên
23 chịu nhận lễ vật triều cống.
24 Dời thủ đô từ Hoa Lƣ đến thành Đại La(7) và đổi tên
25 là thành Thăng Long(8), khởi công xây cất lầu đài cung
26 điện, đặt Hoa Lƣ làm phủ Trƣờng Yên, Châu Cổ Đức
27 làm phủ Thiên Đức rồi dựng chùa ở đó (9). Đổi mƣời

VSTK - 212
1 đạo trong nƣớc thành 24 lộ; đặt châu Ái, châu Hoan
2 thành trại ở vùng biên giới ngoài xa.
3 Cuối năm 1010 sứ nhà Tống sang sách phong cho
4 Lý Công Uẩn chức Giao Chỉ quận vƣơng kiêm Tỉnh
5 Hải quân tiết độ sứ.
6 Năm 1011, Lý Công Uẩn tự thống suất quân đi đánh
7 giặc Cử Long do châu mục Hà Trắc Tuấn chủ xƣớng
8 chống triều đình nhà Lý, Trắc Tuấn chạy thoát.
9 Năm 1012, tự cầm quân dẹp loạn ở Diễn Châu;
10 phong cấp cho Phật Mã làm Khai Thiên Vƣơng.
11 Năm 1013, đặt thể lệ thuế khóa(10) trong nƣớc.
12 Phong cho con là Bồ làm Khai Quốc vƣơng. Tự cầm
13 quân dẹp loạn ở Vị Long.
Năm 1014, sai Dực Thánh Vƣơng dẹp giặc Mán.
14 Năm 1015, Hà Trắc Tuấn lại nổi lên làm phản
15 nhƣng bị bắt đem về kinh đô xử chém bêu đầu ở chợ
16 Đông. Đào Cam Mộc chết, đƣợc truy phong thái sƣ Á
17 vƣơng.
18 Năm 1016, lập 3 hoàng hậu Tá Quốc, Lập Nguyên
19 và Lập Giáo(11). Nhận tƣớc phong Nam Bình vƣơng
20 của nhà Tống.
21 Năm 1018 cử ngƣời đi xin kinh Tam tạng.
22 Năm 1019, dựng thái miếu(12) ở Thiên Đức; xuống
23 chiếu khuyến khích(13), trợ giúp ngƣời dân trong nƣớc
24 xuất gia đi tu để trở thành tăng sĩ.
25 Cuối năm 1020 sai Phật Mã đi đánh Chiêm Thành,
26 tiến đến núi Long Tỵ (14), tàn sát, tiêu diệt quá nửa dân
27 số Chiêm Thành.
28 Năm 1022, Dực Thánh vƣơng đi đánh tộc Mán Đại
29 Nguyên Lịch(15).
30 Năm 1024, sai Phật Mã đi đánh châu Phong và sai
31 Khai quốc vƣơng Bồ đánh châu Đô Kim(16).
32 Năm 1025, lập trại giam các tù binh Chiêm Thành
33 gọi là trại Định Phiên ở phía Nam châu Hoan.
34 Sƣ Vạn Hạnh chết.
VSTK - 213
1 Năm 1026, truyền lệnh sửa lại gia phả(17) của họ nhà
2 vua; sai Phật Mã đánh châu Diễn .
3 Năm 1027, sai Phật Mã đánh châu Thất Nguyên(18
4 và sai Đông Chinh vƣơng Lực đánh châu Văn(19).
5 Năm 1028, Lý Công Uẩn mất, làm vua đƣợc 19
6 năm, thọ 55 tuổi .
CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:
7 1 Lý Công Uẩn: sử cũ viết rằng mẹ của Công Uẩn đi chơi chùa Tiêu
8 Sơn (tức là chùa Trƣờng Liêu, xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh
9 Bắc Ninh ) cùng với ngƣời thần giao hợp rồi có thai, sinh ra Công
10 Uẩn. Khi lên 3 tuổi đƣợc nhà sƣ Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi
11 cho nên mang họ Lý.
12 2 Điện tiền chỉ huy sứ: chức quan trực ban ở trƣớc điện nhà vua.
13 3 Cận vệ Đào Cam Mộc: vừa hầu hạ vừa bảo vệ an ninh gần bên
14 vua.
15 4 Sƣ Vạn Hạnh: ở chùa Lục Tổ cũng gọi là chùa Cổ Pháp, xã Đình
16 Bản, huyện Tiêu Sơn, tỉnh Hà Bắc, là nơi Công Uẩn đƣợc nhà sƣ nầy
17 dạy dỗ nhận làm học trò. Ở trên, sử viết rằng mẹ Công Uẩn đi chơi
18 chùa Tiêu Sơn mà chùa Tiêu Sơn với chùa Cổ Pháp cũng ở Tiêu Sơn
19 vậy 2 chùa nầy phải chăng là một? Và ngƣời thần ăn nằm với mẹ
20 Công Uẩn phải chăng là nhà sƣ Vạn Hạnh mà sử cũ đã ém nhẹm
21 không nói ra ?
22 5 Tôn hiệu dài 50 chữ: tôn hiệu nầy nhƣ sau: " Phụng thiên chí lý
23 ứng vạn tự tại thánh minh long hiện duệ văn anh vũ sùng nhân quảng
24 hiếu thiên hạ thái bình khâm minh quang trạch chương minh vạn
25 bang hiển ứng phù cảm uy chấn phiên
26 man duệ mưu thần trợ thánh trị tắc thiên đạo chính hoàng đế".
27 Tự Đức có lời phê về việc đặt tên hiệu nầy của Lý Công Uẩn: "Tôn
28 hiệu phiền phức dài dòng quá lắm, rất trái với lẽ thường, cũng rõ cái
29 thói bợ đỡ (của đám nịnh thần) ".
30 Ngô Sĩ Liên cũng có lời bàn về việc nầy: " Vua Nghiêu có tôn
31 hiệu là Phóng Huân, vua Thuấn là Trùng Hoa. Bề tôi đời sau lấy đức
32 hạnh mà tôn xưng vua đến hơn mười chữ đã là nhiều lắm rồi. Nay bầy
33 tôi (của Lý Công Uẩn) dâng tôn hiệu đến 50 chữ, thế là không biết kê
34 cứu cổ học mà chỉ biết nịnh vua. Lý Thái Tổ nhận mà không từ, đó là
35 muốn khoe khoang để cho đời sau không ai hơn được. Thế là sai. Sau,
36 tôn hiệu của Lý Thái Tông cũng gần đến 50 chữ là vì bắt chước ở
37 đây".
38 6 Cùng một hạng không có gì khác: ý muốn nói rằng họ Lê cƣớp
39 ngôi vua của nhà Đinh thì bây giờ họ Lý cƣớp ngôi vua của nhà Lê,
40 hai họ Lê và Lý đều là hạng ngƣời cƣớp giựt ngôi vua của ngƣời khác
41 thì cả hai đều giống nhau, công nhận ngƣời nầy hay ngƣời kia thì

VSTK - 214
1 cũng thế thôi, chẳng có gi thay đổi khác lạ. Đây là mộ thái độ khinh rẻ
2 của nhà Tống đối với những loại phản thần cƣớp ngôi của chủ.
3 7 Thành Đại La: đƣợc xây cất từ thời kinh lƣợc sứ Trƣơng Bá Nghi
4 (năm 767), trùng tu và sửa sang nhiều lần rồi lại đến phiên ngƣời Hoa
5 quân phiệt Cao Biền xây cất lại từ thời nhà Đƣờng (năm 866). La
6 thành của Cao Biền đắp có chu vi 1982 trƣợng và 5 thƣớc (7,000
7 mét), thân thành cao 2 trƣợng 6 thƣớc (8.50 mét), chân thành rộng 2
8 trƣợng 5 thƣớc (8.20 mét), tƣờng nhỏ xây ghép trên tƣờng lớn bốn
9 mặt cao 5 thƣớc 5 tấc, 55 gát canh, sáu nơi đắp lũy vòng ngoài, ba hào
10 lớn, hơn ba mƣơi đƣờng thông thƣơng tiếp ứng . Bên ngoài thành đắp
11 con đê vòng quanh chu vi 2,125 trƣợng 8 thƣớc (7,100 mét), với chiều
12 cao 1 trƣợng 5 thƣớc (hơn 4 mét), móng đê rộng 2 trƣợng (hơn 6 mét)
13 và cất hơn 40 vạn gian nhà. (1 trƣợng=10 thƣớc Tàu, 1 thƣớc Tàu =
14 0.333 mét Tây, vậy 1 trƣợng = 3.33 m/Tây).
15 8 Thành Thăng Long: theo sử cũ thì khi thuyền của Lý Công Uẩn
16 đến bên thành cũ Đại La có rồng hiện ra do đó Lý Công Uẩn đổi gọi
17 là thành Thăng Long (rồng bay lên).
18 9 Dựng chùa ở phủ Thiên Đức: Lý Công Uẩn phân phát tiền của để
19 lập dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại cho sửa chữa trùng tu tất cả
20 chùa quán bị đổ nát khắp nơi, lại lấy công quỹ giúp đỡ khuyến dụ dân
21 gian quy y, tạo ra vô số tăng sải, sƣ chùa, tiêu phí sức lực dân công
22 không thể nào kể hết đến độ Lê Văn Hƣu phải lên tiếng: "Của không
23 phải từ trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng
24 phải là vét máu mỡ của dân ư?" Tự Đức cũng phải tức bực lên tiếng
25 về việc nầy: "Ưu đãi và nịnh bợ Phật quá lắm, gây nên mối tệ về sau,
26 hay là Lý Thái Tổ mê muội tưởng mình là xuất thân từ của Phật
27 chăng? Dù sao cũng không phải là chính đạo".
28 10 Đặt thể lệ thuế khóa: phân loại, ấn định các loại ngạch thuế nhƣ:
29 thuế ao hồ, ruộng đất, thuê các bãi trồng dâu, thuế sản vật khai thác từ
30 vùng rừng núi, thuế quan, thuế sừng tê, ngà voi, hƣơng liệu ở các
31 vùng dân tộc thổ mán, thuế gỗ lâm sản và hoa quả miền núi. Giao cho
32 họ hàng vƣơng tộc quản đốc việc hành thâu các loại thuế nầy.
33 11 Hoàng hậu Lập Giáo: trƣớc đây sử cũ chép Lý Công Uẩn lập 6
34 hoàng hậu và Lập Giáo hoàng hậu đứng đầu, đồ mặc, xe kiệu đều
35 khác với các hoàng hậu kia. Ở đây lại chép lập thêm 3 hoàng hậu
36 trong đó lại có một Lập Giáo hoàng hậu, vậy Lập Giáo hoàng hậu
37 (năm 1009) trƣớc kia ở đâu? Rất có thể hoàng hậu Lập Giáo lúc trƣớc
38 (1016) đã bị thất sủng cho nên xuống hàng thứ 3 và bây giờ hoàng
39 hậu Tá Quốc là ngƣời đứng đầu.
40 12 Dựng thái miếu ở Thiên Đức: tức là nơi để thờ phụng tổ tiên
41 dòng họ nhà vua. Sử cũ chép là dựng nhà thái miếu ở lăng Thiên Đức.
42 Quốc sử quán triều Nguyễn cho rằng những sử gia của ĐVSKTT có lẽ
43 đã nhận lầm miếu thờ của họ nhà Lý dùng ở lăng tẩm trong vùng
44 Thiên Đức là nhà thái miếu bởi vì thông thƣờng thì nhà thái miếu phải

VSTK - 215
1 đƣợc dựng ở kinh đô, tức là ở Thăng Long. Tuy nhiên, trƣớc đó khi
2 Lý Công Uẩn vừa tiếm ngôi nhà tiền Lê thì kinh đô cũ là Hoa Lƣ, còn
3 phủ Thiên Đức thì trƣớc là châu Cổ Pháp.
4 KĐVSTGCM có đoạn viết: "Tháng 2, mùa xuân năm canh Tuất
5 (1010 TL), xa giá về châu Cổ Pháp, viếng lăng thái hậu, ra lệnh cắt
6 đất đặt làm thành một vùng cấm địa sơn lăng rộng lớn". Nhƣ thế tức
7 là lăng tẩm của dòng họ nhà Lý đã đƣợc thiết lập ở châu Cổ Pháp
8 trƣớc khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lƣ ra Thăng Long. Châu Cổ
9 Pháp đƣợc Lý Công Uẩn đổi thành phủ Thiên Đức và bỏ tiền xây rất
10 nhiều chùa chiền trong phủ nầy và nhƣ vậy cũng không có gì gọi là
11 lầm lẫn khi Công Uẩn lập nhà thái miếu kề cận với lăng tẩm của dòng
12 họ nhà Lý ở đó. Ngô Thời Sĩ chua rằng các vua triều Lý đều đƣa về
13 chôn ở phủ Thiên Đức gọi là Thọ Lăng.
14 13 Khuyến khích, giúp đỡ ngƣời dân trong cả nƣớc xuất gia: sử
15 cũ viết là độ dân trong nƣớc làm sƣ tăng. Trƣớc đó, chỉ độ dân ở kinh
16 đô, nay lại độ dân trong cả nƣớc, lập đàng giới ở chùa Vạn Thọ, mời
17 các tăng đồ đến thụ giới, phát vàng đúc chuông lớn đặt ở các chùa
18 Hƣng Thiên, Đại Giáo và Thắng Ngiêm (KĐVSTGCM/ CB.2/ 21).
19 14 Núi Long Tỵ: ở địa phận xã Thuần Chất, huyện Bình Chánh, nay
20 là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
21 15 Mán Đại nguyên lịch: một bộ tộc Mán ở vào khoảng giữa trại Nhƣ
22 Hồng và Trấn Triều Dƣơng. Trại Nhƣ Hồng là lãnh thổ của nhà Tống
23 ở phía tây Khâm Châu, giáp với trấn Nhƣ Tích cách châu Vĩnh An
24 của Giao Chỉ khoảng 20 dặm (KĐVSTGCM/ CB.2/ 23). Trấn Triều
25 Dƣơng tức là châu Vĩnh An nay là đất huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng
26 Bình.
27 16 Đô Kim: nay thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
28 17 Gia phả: sử cũ gọi là ngọc điệp, sổ ghi chép về gốc tích dòng dõi
29 của một họ vua.
30 18 Châu Thất Nguyên: nay là huyện Thất Khê, tỉnh Lạng Sơn.
31 19 Châu Văn: nay là châu Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn.

KHẢO LUẬN :
32 Gốc tích gia phả của Lý Công Uẩn đã đƣợc viết lại vào năm 1026
33 mà sử cũ gọi là ngọc điệp và gia phả nầy đã đƣợc đƣa vào sử sách một
34 cách chính thức mà không lý gì tới dƣ luận quần chúng của những thế
35 hệ mai sau. Dù đã đƣợc đề cập ở phần khảo luận về gia phả của họ
36 Hồng Bàng trƣớc đây nhƣng cũng cần dẫn chiếu lại phần nói về gốc
37 tích, dòng họ của Lý Công Uẩn. (xin đọc lại từ trang 51 hàng 31 đến hết
38 trang 55).
39 ĐVSKTT viết: "Tháng ấy (tháng 10 năm Kỷ Dậu/Cảnh Thụy năm
40 thứ 2 /1009-TL), ngày Quý Sửu, Ly Công Uẩn tự lập làm vua. Trước
41 đây ở hương Diên Uẩn, Châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người

VSTK - 216
1 hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: Thụ căn diểu diểu, mộc
2 biểu thanh thanh. . . .".
3 Theo Sƣ Vạn Hạnh giải thích thì: mấy câu nầy ý nói là vua (Lê
4 Ngọa Triều) thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi
5 lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn
6 mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/BK.1/31b).
7 Đoạn kế tiếp viết: Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: "Mới rồi
8 tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ
9 nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không
10 ai bằng thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang
11 nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải thân
12 vệ thì còn ai đương nỗi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư
13 thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may
14 mắn nghìn năm có một". Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người
15 anh đem Vạn Hạnh dấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ
16 mới nẩy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy
17 phụ.(ĐVSKTT/BK.1/ 32a).
18 Câu cuối cùng của đoạn nầy "Song từ đấy. . . " nhất định phải là
19 bút tích của ngƣời chép sử đời sau viết ra để phê phán thái độ ám
20 muội của Lý Công Uẩn.
21 Rồi chuyện bà mẹ đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với ngƣời thần giao
22 hợp mang thai sinh ra Công Uẩn và vì sợ tiếng đời thị phi con mình là
23 con hoang không có họ, không có cha cho nên mới bồng đến cho Lý
24 Khánh Vân nhận làm con để đƣợc mang họ Lý.
25 Vậy ngƣời cha thật, ngƣời cha xác thịt phàm tục của Công
26 Uẩn là ai? Nhất định ngƣời nầy phải có nhƣng vì một tình lý trắc trở
27 nào đó mà phải lánh mặt dấu tên và trút hết tội lỗi cho một ông thần
28 bá vơ không có tiếng tăm nơi chùa Tiêu Sơn. (ĐVSKTT/BK.2/1a).
29 Rồi đến chuyện con chó sắc trắng có đốm lông đen kết thành hai
30 chữ Thiên tử để ứng điềm Công Uẩn sẽ làm vua (ĐVSKTT/BK.1b,2a).
31 Có hai cách suy đoán về nguồn gốc của tất cả những chuyện quái
32 dị kể trên :
33 1.- Những chuyện dị đoan đó đƣợc tung ra từ lúc Công Uẩn còn
34 nằm trong bụng mẹ hoặc vào lúc mới sinh ra. Nhƣ vậy tức là phải có
35 ngƣời sắp xếp, đạo diễn tung tin đồn nhảm nhí về việc ngƣời giao hợp
36 với thần linh, lại cho ngƣơi dùng sắt nung đỏ vạch vỏ cây ghi khắc lời
37 sấm rồi phao truyền giải thích lƣơng lẹo nhằm tác động lên tinh thần
38 mê tín mù quáng của ngƣời dân chất phác kém chữ ít học; nhuộm
39 lông chó để loan truyền rằng ngƣời làm vua của triều đại mới sắp tới
40 không phải là ngƣời xuất phát từ đám dân cùng đinh hạ giới; ngƣời đó
41 là thiên tử, là con trời bởi vì chỉ có con cháu của ông trời mới đƣợc
42 làm vua và cũng chỉ có con cháu của ông trời làm vua thì mới đƣợc
43 dƣ luận thế gian công nhận là chính thống.

VSTK - 217
1 Ngƣời chủ động làm công tác tuyên truyền đó phải là ngƣời mƣu
2 lƣợc, có học, nhất là phải có liên hệ mật thiết với Công Uẩn. Ngoại
3 trừ ngƣời mẹ thì chỉ có 2 ngƣời có liên hệ nhiêu với Công Uẩn: sƣ
4 Vạn Hạnh và Lý Khánh Vân (theo KĐVSTGCM thì Lý Khánh Vân
5 cũng là một ông sƣ). Trong hai ngƣời, thì sƣ Vạn Hạnh nổi bật, là
6 quân sƣ cố vấn của Công Uẩn; chẳng những thế, mối liên hệ giữa nhà
7 sƣ nầy với Công Uẩn chẳng khác nào nhƣ ruột thịt thân thiết, nhƣ cha
8 ruột lo cho tƣơng lai của đứa con trai với một hoài bảo là đƣợc nhìn
9 thấy đứa con đƣợc công thành danh toại trƣớc khi mình nhắm mắt lìa
10 đời.
11 Nhƣng làm sao để những chuyện quái dị đó đƣợc truyền đi
12 trong dân gian?
13 Chùa chiền lúc đó là nơi dân chúng tụ tập đi lễ và nghe rao giảng
14 kinh kệ, thuyết pháp đồng thời cũng là trung tâm truyền tin và xuất
15 phát những chuyện linh thiên quái dị. Ngƣời dân chất phác sùng đạo,
16 kiêng thần, sợ thánh cho nên rất tin tƣởng những chuyện do những
17 nhà tu hành đức cao trọng vọng kể lại hoặc chép lên giấy mực rồi đọc
18 cho nghe.
19 2.- Những chuyện quái đản đó có thể xuất hiện sau khi Lý Công
20 Uẩn đã lên ngôi vua. Nhƣ vậy một trong hai trƣờng hợp sau đây có
21 thể xảy ra :
22 Trường hợp thứ nhất: Ngƣời viết và loan truyền là một ngƣời thân
23 thuộc tín cẩn của Công Uẩn chuyên giữ vai trò tuyên truyền đánh
24 bóng cho chế độ mới, tạo một ánh hào quang lừa đảo bao phủ để che
25 dấu tông tích thật của một bề tôi tiếm nghịch phản chủ đồng thời
26 khoác cho ngƣời mới một hình tƣợng uy linh thần thánh kèm theo một
27 uy lực cai trị trấn áp tối thƣợng chỉ thua kém ông trời một bậc mà
28 thôi. Công tác tuyên truyền nầy phải đƣợc thực hiện và phổ biến ngay
29 trong lúc đó để dập tắt dƣ luận đàm tiếu trong dân gian và củng cố
30 nền đế chính vừa mới tiếm đoạt đƣợc.
31 Trời Phật, tiên thánh, thần ma, quỷ sứ, rùa phƣợng, hổ rồng, cùng
32 với cả một thế giới huyền hoặc đã đƣợc tận dụng để tạo ra những
33 truyện tích dị thƣờng quái đản. Những truyện quái đản đó một mặt
34 đƣợc loan truyền ra ngoài dân chúng qua trung gian các chùa chiền,
35 đền miếu và một mặt khác thì đƣợc ghi chép vào điển lịch(a) của triều
36 cung để lƣu truyền hậu thế. Trong giai đoạn nầy nhất định là những
37 nhà sƣ và những kẻ quyến thuộc hay nội nhân giữ nhiệm vụ then chốt
38 mà nổi bật hơn cả là sƣ Vạn Hạnh và ngƣời anh của Công Uẩn.
39 Những chữ nhƣ Sử Quan, Quốc Sử hay Sử Ký chƣa xuất hiện trong
40 giai đoạn nầy.
41 Một điều cần chú ý ở đây là cách viết vả kể lại những câu chuyện:
42 không dùng thể giả định gián tiếp tục truyền(b) nhƣng lại dùng thể
43 khẳng định trực tiếp trƣớc đó có nghĩa là ngƣời viết hoặc kể chuyện
44 phải sống trong cùng một không gian và thời gian với những nhân vật

VSTK - 218
1 trong truyện. Ngoài ra, trình độ dân trí lúc đó còn thấp, rất ít ngƣời
2 biết đọc chữ Hán (chữ Nho) cho nên những chuyện mê tín, dị đoan,
3 quái đản chỉ có thể miệng truyền miệng trong dân gian chứ không thể
4 phổ biến bằng các hình thức sách vở hay tập truyện để cho dân chúng
5 đọc. Sách truyện loại nầy nếu có thì cũng chỉ nhắm vào một thiểu số
6 tầng lớp có học biết đọc, biết viết chữ Nho mà thôi tức là những thành
7 phần quan lại trong triều đình và những nhà sƣ ở các chùa chiền đã và
8 đang đƣợc xây cất rầm rộ khắp nơi lúc đó. Trong trƣờng hợp nầy thì
9 những âm mƣu bàn định, những mẫu đối thoại có tính cách xúi giục,
10 những ý đồ thầm kín, những cung cách bợ đỡ của đám phản thần dứt
11 khoát là không đƣợc đồn đãi ra ngoài mà cũng không đƣợc phép kê
12 khai ghi chép vào điển sách.
13 Trường hợp thứ hai: ngƣời chép lại những truyện tích thần ma từ
14 đời Lý Công Uẩn thuộc về một triều đại sau nầy bởi vì nội dung đoạn
15 viết về Lý Công Uẩn ngày nay đọc đƣợc gồm có hai lối văn tƣơng
16 nghịch đƣợc ghép chung vào:
17 1/- Vào lúc Lê Ngọa Triều vừa mới chết (1009), ĐVSKTT chép
18 về Lý Công Uẩn nhƣ sau: Mùa Đông tháng 10, ngày Tân Hợi, vua
19 băng ở tẩm điện gọi là Ngọa Triều, vì vua mắc bệnh trĩ phải nằm mà
20 coi chầu (Dã sử chép: vua say đắm tửu sắc phát ra bệnh trĩ).Tháng
21 ấy, ngày Quý Sửu, Lý Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương
22 Diên Uẩn, châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem
23 kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: "Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh
24 thanh, hoa đào mộc lạc, thập bát tử thành, Đông a nhập địa, mộc dị
25 tái sinh, Chấn cung kiến nhật, Đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian,
26 thiên hạ thái bình." (Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây
27 hoa đào rụng, mƣời tám hạt thành, cành Đông xuống đất, cây khác lại
28 sinh, Đông mặt trời mọc, Tây sao che hình, khoảng sáu bảy năm,
29 thiên hạ thái bình). Sư Vạn Hạnh đoán riêng rằng: Hoa, đào, mộc
30 ghép với nhau là chữ Lê, Thập, bát, tử là chữ Lý, Đông A là họ Trần,
31 nhập địa là giặc phương Bắc vào cướp (nghi vấn: lấy chữ nào để
32 dịch ra là giặc phƣơng Bắc? Nhập địa tại sao lại là vào cƣớp ? tại sao
33 tách rời 2 chữ nhập địa nầy để đoán là giặc phƣơng Bắc vào cƣớp?
34 Hay là ý muốn nói họ Trần đến từ đất Trung Quốc không phải
35 ngƣời của nƣớc ta?), mộc dị tái sinh là họ Lê (mộc dị?) khác lại nổi
36 lên. . . . . . Mấy câu nầy ý nói là vua thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh
37 (Lê Ngọa Triều và Lý Công Uẩn) họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở
38 phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6,
39 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/NK.1/ 30b, 31b).
40 ĐVSKTT ghi: sư Vạn Hạnh tự đoán riêng, rồi KĐVSTGCM cũng
41 ghi sư Vạn Hạnh tán riêng. Có nghĩa là Sƣ Vạn Hạnh tự viết ra ý kiến
42 của mình rồi lƣu giữ ở chùa mà sau nầy ngƣời khác mới chép lại
43 những lời đoán đó đem vào sử. Những lời xúi bẩy và tâm sự của sƣ

VSTK - 219
1 Vạn Hạnh với Công Uẩn, những cuộc đối thoại và âm mƣu đoạt triều
2 giữa Công Uẩn và bọn Đào Cam Mộc không thể nào do sƣ Vạn Hạnh
3 hay do thân thích của Công Uẩn viết ra một cách tách bạch trên sử
4 sách.
5 Lại nữa, chính ngay cả Lê Ngọa Triều khi ăn quả khế lại thấy hột
6 mận (chữ Lý có nghĩa là cây mận ) cũng có ngẫm nghĩ tới lời sấm do
7 sƣ Vạn Hạnh diễn giảng cho nên mới ngầm tìm dòng dõi họ Lý mà
8 giết đi nhƣng Công Uẩn ở ngay bên mình, thế mà không biết.
9 (ĐVSKTT/NK.1/32a,32b và CM/CB.2/5): âm mƣu soán nghịch đã nẩy
10 mầm từ lúc nhà tiền Lê còn nắm giữ quyền cai trị; Lê Ngọa Triều biết
11 đƣợc âm mƣu đó do sƣ Vạn Hạnh chủ xƣớng cho nên sƣ Vạn Hạnh
12 mới phải chạy trốn (ĐVSKTT/BK.1/32a); ngƣời mà Lê Ngọa Triều
13 ngầm tìm để giết là sƣ Vạn Hạnh chứ không phải là dòng dõi họ Lý.
14 Sau khi việc đoạt ngôi thành công, đoạn viết về Lê Ngọa Triều ăn quả
15 khế mới đƣợc sƣ Vạn Hạnh sáng tác thêm để che lắp m đi hành vi
16 phản nghịch của mình; không lẽ nào Lê Ngọa Triều u mê đến độ
17 không biết Công Uẩn mang họ Lý đang ở ngay bên cạnh mình?
18 2/- Sau khi chép lại việc Công Uẩn đƣa giấu Vạn Hạnh, ĐVSKTT
19 có mộ đoạn văn phê phán nhƣ sau: Song từ đây cũng lấy thế tự phụ
20 mới nẩy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ
21 (BK1/32 a). KĐVSTGCM cũng viết tƣơng tựa: Sợ lời đó lộ liễu, Công Uẩn
22 sai người giấu sư Vạn Hạnh đi; nhưng cũng lấy thế làm tự phụ (CBII/5). Lời
23 phê phán nầy không thể nào do sƣ Vạn Hạnh hay một kẻ nào khác
24 viết ra dƣới triều Lý Công Uẩn.
25 Tất cả những luận cứ nêu lên ở phần trên chú trọng vào những
26 điểm chính sau đây :
27 1. - Những truyện quái đản phản khoa học đã có từ cuối đời tiền
28 Lê rồi đầu đời nhà Lý đƣợc tận dụng làm phƣơng tiện tuyên truyền
29 tung ra nhân gian qua môi giới các nhà sƣ trong những dịp tiếp xúc
30 với dân chúng những khi giảng đạo, niệm kinh đồng thời những
31 truyện đó cũng đƣợc ghi chép để phổ biến và lƣu giữ ở các chùa
32 chiền khắp nơi.;
33 2.- Tất cả những những truyện ký đó chỉ nhằm một mục đích
34 tuyên truyền thổi phồng cho một chế độ tùy theo mỗi triều đại vì thế
35 cho nên phải vận dụng tất cả mọi mánh khóe lừa đảo kỳ dị, lấy râu
36 ông nầy cắm sừng bà kia để tạo ra những sự thật giả dối.
37 3.- Về sau, khi việc ghi chép lịch sử đƣợc giao cho ngƣời có học
38 đang làm quan tại triều thì những ngƣời nầy lại phải viết theo lệnh ý
39 của vua chúa: những gì đã ghi chép từ trƣớc dù quái đản nhƣng xét ra
40 có lợi cho tâm tiếng của ông vua thì phải sao chép giữ lại chứ không
41 đƣợc tự quyền cắt xén hay xóa bỏ .
42 4.- Trong bối cảnh đó, những truyện ký thần kỳ quái đản khác nhƣ
43 những truyện trong Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam chích quái cũng khởi

VSTK - 220
1 đầu đƣợc truyền tụng trong dân gian từ thời đại nhà Lý nhất là từ đời
2 Lý Thái Tông cho đến cuối đời Lý Nhân Tông. (1028-1127).

3 (a) Điển lịch: sách ghi chép những công việc cũ theo thời gian của tờ lịch.
4 (b) Tục truyền: Tục có nghĩa là làm theo, bắt chƣớc, nối tiếp, nối đời. . . Tục truyền có
5 nghĩa là nối tiếp kể lại trong dân gian.


2. LÝ THÁI TÔNG ( 1028 - 1054 )

6 Lý Công Uẩn vừa mất, việc tống táng chƣa xong thì
7 anh em vƣơng tộc(1) nhà họ Lý đã hiềm khích tranh
8 giành nhau ngôi vua.Võ Đức vƣơng, Dực Thánh
9 vƣơng và Đông Chinh vƣơng đem quân vây phục nội
10 thành để đánh úp Phật Mã nhƣng Vũ vệ tƣớng là Lê
11 Phụng Hiếu đã xong ra đánh dẹp, giết đƣợc Võ Đức
12 vƣơng; Dực Thánh vƣơng và Đông Chinh vƣơng chạy
13 thoát.
14 Lý Phật Mã lên ngôi tức là Lý Thái Tông, đổi niên
15 hiệu là Thiên Thành(2), lấy tôn hiệu dài 50 chữ; tha tội
16 và khôi phục vƣơng tƣớc cho Đông Chinh vƣơng và
17 Dực Thánh vƣơng. Đến lƣợt Khai Quốc Vƣơng Bồ tạo
18 phản bị bắt cũng đƣợc tha và cho phục chức nhƣ cũ.
19 Vì có những sự tạo phản nhƣ thế cho nên sau đó
20 Phật Mã qui tụ quân thần ở miếu Đồng Cổ bắt tuyên
21 thệ trung thành với nhà vua.
22 Đại xá và ban tiền và vải vóc cho dân chúng.
23 Lập Lý Nhật Tôn làm thái tử và lập 7 hoàng hậu. An
24 táng Lý Công Uẩn ở vùng lăng tẩm phủ Thiên Đức,
25 đặt miếu hiệu Công Uẩn là Thái Tổ
26 Ấn định các cấp bậc tăng đạo, tổ chức lại đội quân
27 phòng vệ thành nội ở kinh đô.
28 Năm 1029, để chiêu dụ các tộc trƣởng miền thƣợng
29 du, Lý Phật Mã đem công chúa Bình Dƣơng gả cho
30 châu mục Lạng châu, công chúa Kim Thành
VSTK - 221
1 gả cho châu mục Phong châu, và công chúa Trƣờng
2 Ninh gả cho châu mục Thƣợng Oai. Từ đó những cuộc
3 gả ép các công chúa để dụ dỗ mua chuộc các châu mục
4 trở thành một chính sách của dòng họ nhà Lý.
5 Giặc giã trong nƣớc xảy ra liên miên:
6 Năm 1029, giáp Đãn Nãi(3) ở châu Ái làm phản, Phật
7 Mã tự cầm quân dẹp yên.
8 Năm 1030, dân chúng ở châu Hoan khởi dậy chống
9 đối triều đình; các cuộc nổi dậy ở châu Định Nguyên
10 và châu Trệ Nguyên(4) vào năm 1033; ở Ái Châu năm
11 1035, ở đạo Lâm Tây(5) năm 1035; ở vùng Thảng Do,
12 Vạn Nhai, Vũ Lặc(6) thuộc châu Quảng Nguyên(7) anh
13 em Nùng Tồn Phúc(8) nổi loạn (1038-1039), tất cả đều
14 bị Lý Phật Tử cầm quân phá tan. Những cuộc nổi loạn
15 khác ở Văn Châu(8), ở Ái Châu (1042-1043) cũng đƣợc
16 dẹp yên. Con Nùng Tồn Phúc là Nùng Trí Cao (10) sống
17 sót lại nổi loạn rồi bị bắt nhƣng đƣợc tha và cho giữ
18 chức châu mục Quảng Nguyên kiêm quản động Lôi
19 Hỏa và châu Tƣ Lang(11).
20 Tham vọng bành trƣớng lãnh thổ và chính sách diệt
21 chủng của triều đại nầy cũng đƣợc thực hiện qua việc
22 Lý Phật Tử tự mình cầm quân xâm lƣợc nƣớc Chiêm
23 Thành lần thứ nhì vào năm 1044. Trong lần xâm lƣợc
24 nầy, thƣờng dân vô tội của Chiêm Thành bị tàn sát vô
25 số đến mức độ Lý Phật Tử phải ra lệnh chấm dứt việc
26 chém giết bừa bãi. Lý Phật Tử chiếm kinh đô Phật
27 Thệ(12), bắt hết vợ, tỳ thiếp và cung nữ của vua Chiêm
28 mang về nƣớc để hầu hạ phục dịch riêng cho mình
29 trong cung. Lần trƣớc (1020), cũng do Lý Phật Tử chỉ
30 huy, đoàn quân xâm lƣợc đã tiêu diệt quá nửa dân số
31 của Chiêm Thành.
32 Năm 1048, lại sai tƣớng Phùng Trí Năng xâm lƣợc
33 nƣớc Ai Lao, bắt ngƣời, lấy của mang về.

VSTK - 222
1 Nhiều chuyện dị đoan quái dị loan truyền trong dân
2 chúng nhƣ nền điện Kiền Nguyên bỏ hoang nay có
3 rồng hiện ra, trời mƣa ra gạo trắng thành đống (8) trƣớc
4 chùa Vạn Tuế, châu mục châu Hoan dâng kỳ lân (14),
5 rồng vàng lại hiện ra ở gác Đoan Minh (1053).
6 Xây cung điện đền đài(15), chùa miếu(16), lập đàn Xã
7 Tắc(17), tô đúc tƣợng Phật(18), đúc chuông đồng(19); tu
8 sửa pháp chế về thuế khóa(20), ban bố hình luật(21).
9 Năm 1054, Lý Thái Tông mất, ở ngôi đƣợc 27 năm,
10 thọ 55 tuổi .

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

11 (1) Vƣơng tộc; ngƣời trong dòng họ vua.


12 (2) Niên hiệu Thiên Thành: là niên hiệu đầu tiên của Lý Thái Tông
13 (1028-1033).
14 (3) Giáp Đãn Nãi: Không rõ ở đâu.
15 (4) Châu Định Nguyên, châu Trệ Nguyên: Không rõ ở đâu.
16 (5) Đạo Lâm Tây: đời Trần gọi là đạo Đà Giang, khi bị thuộc nhà
17 Minh gọi là châu Gia Hƣng, nay là đất Sơn La và Lai Châu.
18 (6) Châu Vũ Lặc và Châu Thảng Do: Châu Thảng Do giáp giới với
19 châu Quảng Nguyên. Châu Vạn Nhai: nay là phần đất huyện Bắc Sơn,
20 tỉnh Lạng Sơn và một phần thuộc huyện Vũ Nhai, tỉnh Bắc Thái.
21 Châu Vũ Lặc: không rõ ở đâu. Chú giải trong KDVSTGCM dựa vào
22 sách của ngƣời Hoa Đường Thư suy đoán rằng châu Thảng Do và
23 châu Vũ Lặc có lẽ ở vào địa hạt hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn ngày
24 nay.
25 (7) Châu Quảng Nguyên: nay là đất thuộc tỉnh Cao Bằng.
26 (8) Anh em Nùng Tồn Phúc: em là Nùng Tồn Lộc, em vợ là Đƣơng
27 Đạo. Sau đó Nùng Tồn Phúc diệt Tồn Lộ và Đƣơng Đạo, chiếm đất
28 của họ rồi tự xƣng hoàng đế, phong chức vƣơng cho các con, đổi châu
29 Thảng Do thành nƣớc Trƣờng Sinh không còn thần phục nhà Lý
30 nhƣng bị Lý Thái Tông đánh dẹp và giết chết vào năm 1039.
31 (9) Văn Châu, Ái Châu: Văn Châu nay là châu Văn Uyên, tỉnh Lạng
32 Sơn; Ái Châu nay là Thanh Hóa.
33 (10) Nùng Trí Cao: con của Nùng Tồn Phúc. Khi Nùng Tồn Phúc nổi
34 loạn bị giết, Nùng Trí Cao cùng mẹ chạy thoát trốn ở miền núi rồi
35 chiếm giữ châu Thảng Do đổi châu nầy thành nƣớc Đại Lịch nhƣng bị
36

VSTK - 223
1 bắt và đƣợc tha và cho giữ chức châu mục Quảng Nguyên. Năm 1043,
2 đƣợc Lê Thái Tông ban cho chức hàm (chỉ là một danh hiệu, không
3 phải là một chức việc) Thái bảo với ấn triện (giống nhƣ con dấu để
4 đống ấn ngày nay).
5 (11) Động Lôi Hỏa: KĐVSTGCM trích dẫn theo sử sách của Trung
6 Hoa thì động nầy ở phía Tây Bắc phủ Lạng Sơn; châu Tƣ Lang:
7 trƣớc thuộc tỉnh Thái Nguyên rồi thuộc tỉnh Cao Bằng. Nay là huyện
8 Thƣợng Lang và huyện Hạ Lang.
9 (12) Kinh đô Phật Thệ: theo sách Thanh Nhất Thống Chí/ An Nam
10 Cổ Tích, thành Phật Thệ là kinh đô cũ của nƣớc Chiêm Thành; nay ở
11 về địa phận xã Nguyệt Biều, huyện Hƣơng Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
12 (13) Mƣa ra gạo trắng thành đống trƣớc chùa Vạn Tuế: chùa Vạn
13 Tuế ở trong thành Thăng Long. Đây rõ ràng là mộ chuyện mua thần
14 bán thánh: có thể là nhà vua lấy của công lén lút đem dâng tặng cho
15 chùa chiền nhiều quá nên phải mƣợn chuyện ông trời mƣa ra gạo
16 thành đống để lấp liếm chuyện quá lạm.
17 (14) Kỳ lân: mộ trong bốn con thú mà ngƣời mê tín cho là linh thiên
18 (tứ linh: long, lân, quy, phụng).
19 (15) Xây cung điện đền đài: năm 1029 dựng điện Thiên An trên nền
20 điện cũ Kiền Nguyên đã bỏ hoang từ lâu nhƣng nay vì có rồng hiện ra
21 nên mới xây điện nầy. Về việc rồng hiện ra ở nền điện Kiền Nguyên,
22 vua Tự Đức phê: " Bậy ". Năm 1030 dựng điện Thiên Khánh.
23 (16) Xây chùa miếu: ĐVSKTT viết: "Xuống chiêu phát tiền thuê thợ
24 làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả là 150 chỗ ". Nguyên văn chữ
25 nho : ". . .Chiếu phát tiền nhảm công tạo tự quán vu hương ấp, phàm
26 bách ngũ thập sở."
27 KĐVSTGCM phần Cƣơng viết: "Tháng 8, mùa Thu. Các đền,
28 chùa làm xong ". Tiếp theo phần Mục viết: "Trước đó, từ Hoan Châu
29 trở về, nhà vua sai dựng chín trăm năm mươi chỗ (vu hương ấp cửu
30 bách ngũ thập sở). Nay đã làm xong, mở hội khánh thành ."
31 Chữ phàm theo tự điển có nghĩa là gồm tất cả. Chữ phàm và chữ
32 cửu (cửu là 9) dáng chữ viết gần giống nhau dễ đọc lầm và chép lầm.
33 Con số 150 thì hợp lý hơn bởi vì Lý Phật Mã tự cầm quân đi dẹp loạn
34 ở Hoan Châu và trở về vào tháng 2, mùa Xuân năm Tân Mùi (1031).
35 Từ tháng 2 đến tháng 8, trong vòng 6 tháng thì việc xây cất xong 150
36 chỗ là hợp lý và thực tế hơn so với số 950 chỗ nhƣ đƣợc chép trong
37 trong KĐVSTGCM.
38 Ngoài ra, Đại Việt Sử Ký Tiền Biên bản in đời Tây Sơn cũng chép
39 là "phàm bách ngủ thập sở" (không phải là Cửu)
40 (ĐVSKTB/BK.2/26.b). Việt Sử Lƣợc cũng chép tƣơng tựa:
41 ". . .tạo tự quán phàm nhất bách ngủ thập xứ"(VSL/Q.2/5).
42 Năm 1049, dựng chùa Diên Hựu, tức chùa một cột ở Hà Nội hiện
43 nay. Sử cũ chép rằng Lý Phật Mã nằm mộng thấy phật Quan Âm ngồi
44 trên tòa sen do đó nhà sƣ Thiền Tuệ khuyên Phật Mã làm chùa, dựng

VSTK - 224
1 cộ đá, làm toà sen đặt trên cột nhƣ đã thấy trong mộng. Còn hồ nƣớc
2 ở dƣới đài hoa sen thì đƣợc đào vào năm 1105, gọi là hồ Linh Chiểu.
3 Vòng ngoài cũng đào thêm hồ Bích Trì có cầu vồng để đi qua. Trƣớc
4 sân chùa có xây bảo tháp. Diên Hựu có nghĩa là kéo dài tuổi già, sống
5 lâu .
6 (17) Đàn Xã Tắc: tức là nền cao tế thổ thần (thần đất) và thần ngũ cốc
7 (5 loại hạt ăn đƣợc). Xã tắc còn có ý nghĩa tƣợng trƣng cho một nƣớc.
8 (18) Tạc tƣợng phật: năm 1036, mở hội Long Trì khánh thành pho
9 tƣợng phật Đại nguyên.
10 (19) Đúc chuông đồng: năm 1052, đặt một quả chuông lớn ở sân rồng
11 điện Thiên An cho dân, nếu bị oan ức thi đánh chuông để thấu tai vua.
12 (20) Pháp chế về thuế khóa: Năm 1038, làm ngự khố (kho chứa tài
13 vật của nhà vua). Năm 1042, ấn định mức thu thuế, cấm viên chức của
14 triều đình không đƣợc lạm thu (thu dƣ để ăn riêng). Dân phải đóng 10
15 phần nộp kho, và một phần thêm nữa gọi là hoành đầu (tiền hoa
16 hồng). Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm. Dân chúng tố giác sự lạm thu
17 thì đƣợc thƣởng trên tài vật ngang bằng với số lạm thu hoàn trả lại và
18 đƣợc miễn phối dịch trong vòng 3 năm (nghĩa vụ đóng thuế). Sự tố
19 cáo không bị giới hạn bởi thời gian: dù việc lạm thu đã xảy ra quá lâu,
20 nhƣng nếu bị khám phá hay tố giác bất kỳ lúc nào thì cũng phải tội.
21 Trong niên hiệu Minh Đạo năm thứ 1 (1042), đúc tiền Minh Đạo.
22 (21) Ban bố hình luật: song song với việc ấn định các pháp chế về
23 việc thu thuế, năm 1042, bộ Hình luật nhà Lý đƣợc ban hành và đƣợc
24 gọi là Hình thƣ gồm có 3 quyển (nay không còn) chia ra môn, loại,
25 biên chép thành từng điều, khoản.

KHẢO LUẬN :

26  Về việc anh em vƣơng tộc nhà Lý


27 tranh giành ngôi vua:

28 Lê Văn Hƣu viết: "Nhà Lý các con mẹ đích đều được phong tước
29 vương, các con mẹ thứ đều làm hoàng tử, mà không định rõ ngôi thái
30 tử. Đến lúc vua cha ốm nặng mới chọn một người trong hàng các con
31 cho vào để nối ngôi, truyền dần thành tục, không biết là ý thế nào. Có
32 người nói nhà Lý không đặt thái tử trước là vì muốn cho các con
33 chăm làm điều thiện. Nếu lập ngôi thái tử thì phận vua tôi đã định dù
34 có con hiền như Vi Tử cũng không biết xử trí như thế nào. Đáp rằng:
35 gốc thiên hạ đã định rồi mà còn có cái họa Dương Quảng giả hình
36 đạo đức để cướp ngôi của người kế vị chính danh huống chi ngôi thái
37 tử không lập trước đến khi vội vàng mới chọn lập, không may có việc
38 như ba phu nhân nài xin con khác, Từ Văn Thông cầm bút sửa di
39 chiếu thì dù muốn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (đọc tiếp nơi trang 226)
40

VSTK - 225
1 không bằng lòng cũng chẳng được nữa . . . Người làm chủ quốc gia
2 cần xem gương đó mà phòng xa" (ĐVSKTT/BK.2/13.a).
3 Về việc nầy vua Tự Đức cũng có lời phê luận: "Lúc nối ngôi vua
4 mà gặp chỗ phải đối xử với anh em ruột thịt khó khăn như thế, thật là
5 phiền nhiễu. Bấy giờ danh vị thái tử đã được ổn định từ lâu mà công
6 lao rõ rệt của Phật Mã trước đây cũng không ai có thể dị nghị, vậy
7 mà còn xảy ra biến loạn như thế huống chi là những trường hợp khác.
8 Lời bình luận của Lê Văn Hưu trong sử cũ quá câu nệ về việc Lý
9 Công Uẩn phong vương cho các con mà không xét kỹ vấn đề Lý Công
10 Uẩn có hay không có lập thái tử nối ngôi về sau".(KĐVSTGCM/CB.2/28).
11 ĐVSKTT/BK.I/34b viết về việc Lý Công Uẩn lên ngôi nhƣ sau:
12 "Lập 6 hoàng hậu, sách lập con trưởng là Phật Mã làm hoàng thái tử,
13 các con khác đều phong tước hầu (năm 1008)"
14 KĐVSTGCM/CB.2/7, 8 cũng viết: "Lập con là Phật Mã làm Thái
15 tử. Bãy giờ các con khác đều phong tước hầu, 13 người con gái đều
16 phong công chúa ".
17 Lời bàn của Lê Văn Hƣu ở trên rất có thể chỉ liên hệ tới việc về sau nầy
18 khi Lý Thần Tông lúc đau nặng sắp chết (vào năm 1138) đã nghe lời ba
19 ngƣời vợ là Cảm Thánh, Nhật Phong, Phụng Thánh phế bỏ Thiên Lộc trƣớc
20 đã đƣợc Thần Tông cho làm thái tử chính thức để kế ngôi. Ba bà vợ nầy đã
21 hối lộ cho tham tri chính sự Từ Văn Thông để sửa đổi di chiếu rồi chạy vào
22 quỳ bái khóc lóc với Thần Tông vào giờ chót để thúc hối xin đổi lập Thiên
23 Tộ làm thái tử. Nhƣ vậy, có thể hiểu ý của Lê Văn Hƣu nhƣ sau :
24  Lý Công Uẩn (1009) đã sắp đặt con cái đâu ra đó: con trƣởng
25 làm thái tử, các con khác đƣợc phong tƣớc vƣơng. . . vậy mà vẫn còn
26 có sự tranh dành để chiếm đoạt ngôi báu. Nay, Lý Thần Tông (1138),
27 trƣớc lập con thứ là Thiên Lộ làm thái tử, rồi lúc khẩn cấp lại nghe lời
28 xúi bẩy khóc than của 3 ngƣời đàn bà mà phế Thiên Lộc để lập con
29 đích là Thiên Tộ (tức là Lý Anh Tông) cho nối ngôi thì đây là một
30 việc làm thiển cận hấp tấp không biết phòng xa, dễ gây ra sự hiềm
31 khích trong vƣơng tộc.
32  Khi muốn tranh đoạt ngôi vị thì thƣờng tìm đủ mọi cớ, lý do
33 để biện bạch cho ý đồ tranh đoạt của mình. Ở đây, ba ngƣời vợ của
34 Thần Tông cũng viện dẫn một cách ma mảnh những lý do hợp đạo
35 hợp lý để khuynh đảo ý chí u mê của một ngƣời sắp chết chẳng khác
36 gì Dƣơng Quảng(a) làm ra vẻ có đức hạnh để giành giựt ngôi vua.
37  Khi ngôi thái tử đã định lập rồi thì không nên dị nghị gì nữa,
38 ngay cả con hiền nhƣ Vi Tử(b) cũng không còn quyền gì để can thiệp
39 vào quyết định của vua cha.
40 Nhƣ vậy, đoạn viết của Lê Văn Hƣu có thể đã đƣợc viết ở phần Lý
41 Thần Tông (1138) nhƣng những ngƣời nối tiếp Lê Văn Hƣu đã dời
42 đổi đem vào phần viết về Lý Công Uẩn (1009).
43 Ngoài ra, ĐVSKTT/BK.3/42a còn viết rằng: "Vua (Lý Thần Tông),
44 vì thế xuống chiếu rằng : Hoàng tử Thiên Tộ tuy tuổi còn thơ ấu,

VSTK - 226
1 nhưng là con đích, thiên hạ đều biết, nên cho nối nghiệp vua, còn
2 Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo Vương."
3 Không biết đây có phải là di chiếu đích thực của Lý Thần Tông
4 đang lúc thần trí u mê hay chỉ là một tờ di chiếu giả do Từ Văn Thông
5 ăn hối lộ thảo ra nhƣ thế rồi cầm tay ngƣời sắp chết ký tên vào? Sự
6 nghi ngờ không phải là vô căn cứ: ở triều đại nhà Lý, những hành vi
7 tranh ngôi đoạt vị lúc nào cũng đƣợc che đậy bƣng bít dƣới đủ mọi
8 hình thức ngay từ thời Lý Công Uẩn kể cả việc mua thần bán thánh.
9 Một lần bất tín, vạn lần khác cũng khó mà tin đƣợc. Ngƣời viết về
10 việc lập di chiếu có thể là một sử quan dƣới thời của Lý Anh Tông bi
11 bắt buộc phải viết lái đi là di chiếu do chính tay Lý Thần Tông ban
12 xuống để che dấu âm mƣu soán nghịch đoạt quyền kế vị của thái tử
13 Thiên Lộc để đƣa Lý Anh Tông lên ngôi vua. Nhìn lại một cách
14 khách quan thì rõ ràng là Lý Anh Tông đã cƣớp ngôi của thái tử Thiên
15 Lộc.
16 (a) Dƣơng Quảng: là con thứ của Tùy Văn Đế ở Trung Hoa, đáng lý ra
17 không đƣợc lập làm thái tử, nhƣng vì thái tử chính thức là Dƣơng Dũng tính
18 nết cao ngạo kiêu kỳ nên Tùy Văn Đế rất ghét. Dƣơng Quảng biết đƣợc cho
19 nên làm bộ ra vẻ là con ngƣời khiêm tốn đức hạnh để chiếm lòng tin yêu của
20 Tùy Văn Đế và vì thế đƣợc lập làm thái tử.
21 (b) Vi Tử: là anh của vua Trụ đời nhà Thƣơng ở Trung Hoa . Vua Trụ rất ác
22 độc và dâm loạn, Vi Tử khuyên can nhiều lần cho nên bị Trụ đuổi đi.
*
23  Việc quy tụ bầy tôi ở miếu thần Đồng Cổ
24 để bắt uống máu ăn thề trung thành với nhà vua

25 Đây là một hành vi dựa vào uy lực quỷ thần để ngăn chặn nội loạn.
26 Tự Đức đã phê phán hành vi nầy: "Việc lập miếu thờ thần đã là bậy
27 rồi, đến việc hội hợp thề nguyền lại càng bậy hơn nữa"
28 (KĐVSTGCM/CB.2/30).
*
29  Việc Xây dựng quá nhiều chùa chiền &
30 khuyến dụ ngƣời dân cả nƣớc đi tu

31 Ngày trƣớc, Lý Công Uẩn đã xây dựng rất nhiều chùa miếu và
32 khuyến dụ ngƣời dân cả nƣớc trở thành sƣ sải, tăng ni, tốn hao nhân
33 lực và tiền của quá nhiều. Nay đến phiên Lý Phật Mã cũng noi gƣơng
34 bắt chƣớc tiêu phí của cải sức lực để xây tháp cao, dựng chùa một cột,
35 điện, đền lộng lẫy không khác gì cung vua, xây cất thêm hơn trăm
36 chùa mới khiến trong nƣớc chỗ nào cũng có chùa, am, trợ cấp bổng
37 lộc, vải vóc, gạo thóc (trời mƣa ra gạo thành đống trƣớc sân chùa) cho
38 những ngƣời ăn không ở rỗi giả hình dƣới lớp áo nhà tu.
39 Lê Văn Hƣu nói: "Lý Công Uẩn lên ngôi mới có 2 năm, tông miếu
40 chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà đã lo dựng trước 8 chùa ở phủ
41 Thiên Đức, trùng tu chùa đình ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn

VSTK - 227
1 người ở kinh sư, tiêu phí của cải sức lực vô số kể vào việc dựng cộ
2 đắp nền. Của cải đâu phải từ trời rơi xuống như gạo rơi ở trước sân
3 chùa, sức lực đâu phải do quỷ thần biến hóa; của cải, công sức là mồ
4 hôi, là nước mắt, là máu mỡ của người dân cùng khổ. Thu vét của cải,
5 công lực của người dân bằng sưu cao, thuế nặng để tiêu xài hoang
6 phí vào những chuyện xây cất như vậy mà lại gọi là làm việc phúc
7 đức sao? Là người sáng nghiệp thì tự mình phải cần kiệm, làm gương
8 cho con cháu không nên xa xỉ lười biếng ăn ở không nhưng, vậy mà
9 Lý Công Uẩn lại đầu nêu như thế, chả trách đời sau (chỉ Lý Phật Mã)
10 xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ phật tráng lệ lộng
11 lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có người hủy bỏ thân
12 thể (chỉ việc hai nhà sƣ Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm làm lễ
13 tự thiêu: lấy tro xƣơng gọi là thất bảo đem thờ ở chùa Trƣờng Thánh.
14 Tự Đức phê phán việc nầy là "lầm lỗi quá lắm"), đổi cách ăn mặc, bỏ
15 sản nghiệp thân thích không lo làm ăn, dân chúng quá nửa làm sư sải,
16 tăng ni, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền. Như vậy nguồn gốc há
17 chẳng phải từ đó sao?"(CM/CB.2/39 và ĐVSKTT/BK.2/3b).
18 Năm 1041, khánh thành tƣợng phật vừa đƣợc đúc xong. Trƣớc đó
19 Lý Phật Mã đã sai tạc hơn một ngàn pho tƣợng phật, vẽ hơn một ngàn
20 bức tranh phật và may thêu hằng chục ngàn cờ phƣớng để treo ở các
21 chùa. (ĐVSKTT/BK.2II/29b và CM/CB.3/1).
22 Với số tƣợng, hình và cờ nhiều nhƣ thế thì ngƣời ta có thể hình
23 dung đƣợc con số hàng ngàn, hàng vạn ngôi chùa ở vào thời đó.
*
24  Về việc đặt tôn hiệu của nhà họ Lý

25 Lý Phật Mã còn làm hơn Lý Công Uẩn nữa. Tôn hiệu đầu tiên
26 của Phật Mã đã dài lê thê rồi, không thua gì tôn hiệu của Lý Công
27 Uẩn, vậy mà năm 1039 lại tăng thêm 8 chữ Kim Dũng Ngân Sinh,
28 Nùng Bình Phiên Phục (Vàng nổi, bạc sinh, dẹp họ Nùng, hàng phục
29 nƣớc lân cận [phiên] là nƣớc Chiêm Thành).
30 Lê Văn Hƣu nói: "Vua chúa thích khoe khoan mới có tôn hiệu đến
31 hơn vài chục chữ và dù vậy, thường thì cũng chỉ dựa vào công đức mà
32 xưng tụng chứ chưa từng thấy có vua nào lấy đồ vật như vàng bạc và
33 tên man di xen chắp vào. Phật Mã chịu nhận cho bầy tôi nịnh bợ
34 luồng cuối dâng thêm 8 chữ Kim Dũng Ngân Sinh, Nùng bình Phiên
35 Phục làm tôn hiệu thì trong việc khoe khoang lại thô bỉ nữa."
36 (ĐVSKTT/BK.2/28a)

*
37  Về nền luật pháp thời Lý Phật Mã
38 ngƣời ta thấy gì?

39 Trƣớc khi ban hành bộ luật Hình thƣ thì mọi việc kiện tụng, xử án
40 đƣợc Lý Phật Mã giao toàn quyền cho thái tử Lý Nhật Tôn và lấy điện
VSTK - 228
1 Quảng Vũ làm nơi xử kiện. Đây là một việc làm độc đoán, thất cách,
2 gia đình trị, và dĩ nhiên là không dân chủ.
3 Mặc dù ý niệm dân chủ chƣa đƣợc truyền bá rộng rãi trong thời
4 phong kiến nhƣng Ngô Sĩ Liên cũng phải cảm thấy khó chịu về việc
5 nầy: "Chức việc của thái tử, ngoài việc thăm hỏi hầu cơm cho vua cha
6 thì khi tại triều gọi là giám quốc, khi đem quân đánh trận thì gọi là
7 phủ quân chỉ có như thế thôi chứ chưa bao giờ nghe thấy được trao
8 cho nhiệm vụ xử kiện kiểu đó. Phàm việc xử kiện được giao cho hữu
9 ty. Thái Tông sai Khai Hoàng vương làm việc đó không phải là nhiệm
10 vụ của một thái tử đã thế còn dùng điện Quảng Vũ làm nơi xử kiện thì
11 lại là một việc làm thất cách không đúng chỗ." (ĐVSKTT/ BK.2 /
12 29a)
13 ĐVSKTT(BK/II/31a) viết: "Trước kia việc kiện tụng trong nước
14 phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, chuộng xử
15 nghiêm khắc, sai trái và lạm quyền, người dân thường phải chịu oan
16 ức, Thái Tông lấy làm thương xót mới sai Trung thư(a) sửa định luật
17 lệnh bằng cách tham bác và thêm bớt cho thích hợp với thời thế, chia
18 ra môn loại, chép rõ điều mục, làm thành bộ Hình thư của một triều
19 đại để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong có chiếu ban hành, tiện
20 lợi cho dân chúng. Kể từ đó phép xử án mới được rõ ràng."
21

22 KĐVSTGCM/CB.3/4 cũng viết giống nhƣ thế.


23 Theo các đoạn đoạn viết vừa kể trên, thì từ các triều đại trƣớc, tức là từ
24 đời nhà Đinh, nhà Lê và đời Lý Công Uẩn đã có luật, lệnh thành văn nhƣng
25 chỉ là những sự qui định hổ lốn bác tạp và tản mác rất khó cho ngƣời giữ
26 nhiệm vụ xử án áp dụng.
27 Có thể nhận định rằng: tất cả các luật lệnh qua các đời đều đƣợc
28 chế tài bằng hình sự và khi đƣợc san định thành sách thì gọi là Hình
29 luật hay Hình thƣ, trong đó bất cứ mộ điều lệnh hay một điều luật nào
30 cũng có kèm theo một hình phạt. Đây là một sự hỗn đồng giữa luật
31 pháp và hình pháp.
32 Sự hỗn đồng nầy là do hậu quả của sự bắt chƣớc chạy theo quan
33 niệm về luật pháp của Trung Hoa.
34 Ở thời cổ, ngƣời Trung Hoa quan niệm rằng luật đặt ra là chỉ nhằm
35 mục đích áp dụng cho các dân tộc man di chƣa đƣợc khai hóa ở các
36 nƣớc bị ngƣời Trung Hoa xăm chiếm bằng binh lực và đã biến các
37 nƣớc bị chiếm trở thành các thuộc địa của họ. Theo ngƣời Trung Hoa
38 thời đó, đối với ngƣời dân của các bộ tộc man di nầy thì không thể
39 khai hóa đƣợc bằng lễ nhạc mà phải dùng những hình phạt thật khe
40 khắc, tàn độc để trừng phạt .
41 Đem áp dụng quan niệm nầy, vào thời đại nhà Đinh, Đinh Tiên
42 Hoàng (968-979) đã dùng uy lực khe khắc, tàn độc đó để cai trị ngƣời
43 dân cho nên ra lệnh rằng: "Kẻ nào phạm tội thì bỏ vào nấu trong vạc
44 dầu đun sôi hoặc bỏ vào chuồng cho hổ báo ăn thịt ".

VSTK - 229
1 Thời Tiền Lê, Lê Long Đỉnh (1005-1009) dùng nhiều hình phạt
2 bạo ngƣợc để giết ngƣời nhƣ lấy rơm tẩm dầu quấn tròn tội nhân rồi
3 châm lửa đốt sống; bắt tù nhân trèo lên ngọn cây rồi ở dƣới chặt cây
4 cho tù nhân ngã chết; dùng dao cùn lóc thịt tội phạm từng mảnh một
5 để‹ không thể chết ngay đƣợc mà phải đau đớn kêu la thảm thiết; nhốt
6 tù binh vào chuồng rồi quăng xuống sông cho chết ngộp.
7 Tất cả những loại hình pháp từ các đời Đinh và Tiền Lê đã đƣợc
8 nhà Lý tiếp tục áp dụng cho đến lúc Lý Nhật Tôn đƣợc Lý Thái Tông
9 giao cho nhiệm vụ "quan tòa" xử á tội phạm hình sự các vụ kiện tụng
10 dân sự (1040/ thời Lý Phật Mã). Trong thời gian nầy, nhân khi khánh
11 thành các tƣợng phật vừa mới tạc xong, Lý Thái Tông đã đại xá tha
12 cho những ngƣời phạm tội đồ lƣu, điều nầy có thể suy diễn rằng các
13 triều đại trƣớc đây có áp dụng hình phạt đồ lƣu.
14 Tiếp theo năm 1042, trƣớc khi có bộ Hình Thƣ, Lý Thái Tông ra
15 điều lệ cấm quan lại thu thuế phù lạm và bị xử hình phạt áp dụng cho
16 tội ăn trộm. Quản giáp, chủ đô và ngƣời thu thuế nếu thu quá lệ đều bị
17 xử phạt nhƣ tội ăn trộm. Khố ty thu thuế lụa, nếu ăn lễ lấy lụa của
18 ngƣời ta thì cứ mỗi thƣớc lụa phạt 100 trƣợng; mỗi tấm lụa phạt phối
19 dịch một năm. Còn trên số đó thì cứ chiếu theo số tấm lụa đã lấy mà
20 tăng thêm số năm phối dịch (KĐVSTGCM /CB.3/6).
21 ĐVSKTT cũng chép nhƣ KĐVSTGCM nhƣng lại có thêm lệnh
22 phạt về tội đào ngũ (bỏ hàng ngũ quân đội đi trốn đi):
23 "Xuống chiếu rằng các quan chức đô (quan chỉ huy binh đi) ai bỏ
24 trốn thì phạt 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và xử ti đồ. Quân sĩ bỏ
25 trốn quá 1 năm thì bi xử 100 trượng, thích mặt 50 chữ, chưa đến mộ
26 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân
27 sĩ không theo xa giá cũng xử 100 trượng và bị thích mặt 10 chữ
28 (ĐVSKTT/BK.2/ 33b).
29 Các quân sĩ trước bị tội đồ nếu chạy trốn vào núi rừng đồng nội
30 rồi lại đi ăn cướp của người thì xử 100 trượng, thích vào mặt 30 chữ.
31 Người coi trấn mà bỏ trốn thì cũng phải tội như thế. Kẻ nào ăn trộm
32 trâu của công thì xử 100 trượng, 1 con phạt thành 2 con. Phạt đánh
33 50 trượng những người vắng mặt trong buổi hội thề trung thành với
34 nhà vua. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm với vợ người ta (vợ cả
35 hay vợ lẽ) người chồng bắt gặp đánh chết ngay tại trận thì người
36 chồng không phải tội." (ĐVSKTT/BK.2/ 30 a,b)
37 Trong các lệnh xử phạt vừa kể trên, việc ngƣời chồng đánh chết kẻ
38 gian dâm tại trận mà không bị xử phạt là một sự quy định khá đặc biệt
39 vì nó tƣơng tựa nhƣ trƣờng hợp động "lực chính đáng" trong các nền
40 luật pháp hiện đại tức là ở vào thời của Lý Phật Mã, luật pháp đã có
41 chú trọng đến động lực của tội phạm đánh chết ngƣời.
42 Bộ Hình Luật vào thời Lê Thánh Tông, thƣờng đƣợc gọi là bộ luật
43 Hồng Đức, sau nầy cũng có quy định tƣơng tựa: "Chủ nhà đánh chết
44 một người vô cớ đột nhập gia cư ban đêm thì không phải tội" (điều

VSTK - 230
1 450 Luật Hồng Đức). Sự quy định nầy trong luật H.Đ còn khe
2 khắc hơn: chi cần một ngƣời ban đêm vô cớ xâm nhập gia cƣ chứ
3 không cần phải có thêm một hành động phạm pháp nào khác của
4 kẻ xâm nhập.
5 Ngoài ra còn có những điều lệnh cấm khác nhƣ: không đƣợc mua
6 bán con trai dƣới 18 tuổi (hoàng nam) để làm nô bộc tƣ gia. Kẻ trộm
7 dùng sức đánh ngƣời để lấy của thì phải phạt 100 trƣợng, nếu chƣa
8 lấy đƣợc của mà làm ngƣời ta bị thƣơng thì phải tội lƣu.
9 Luật đời nhà Lý cũng có định rõ thể lệ cho chuộc tội bằng tiền.
10 Những ngƣời phạm vào tội thập ác (10 tội ác) thì không đƣợc tha,
11 không cho dùng tiền để chuộc tội và gồm có: những ngƣời trong hạng
12 tuổi 70-80 (nghĩa là dƣới 70 thì không đƣợc áp dụng cho chuộc tội
13 bằng tiền còn trên 80 tuổi thì sao?) và trong hạng tuổi 10-15 (dƣới 10
14 tuổi thì sao?), những ngƣời có nhƣợc tật (bệnh hao mòn, thân thể gầy
15 yếu đi đứng không vững), những ngƣời thuộc họ nhà vua từ bậc đại
16 công trở lên (anh em con chú con bác tức là hạng tang phục thứ 3 phải
17 để tang 9 tháng). Sự quy định nầy chứng tỏ rằng trong Hình Thƣ
18 (nay không còn) của nhà Lý có quy định 10 tội ác.
19 Theo điều 2 của luật Hồng Đức/Lê Thánh Tông sao chép lại điều 2
20 của luật nhà Đƣờng và luật Gia Long/nhà Nguyễn, sao chép lại điều 2
21 của luật nhà Thanh bên , thì 10 tội ác là :
22 1. Âm mƣu phản quốc: mƣu làm nghiêng đổ xã tắc và trong
23 thời phong kiến có nghĩa là mƣu hại nhà vua ;
24 2. Mƣu đại nghịch: giết vua kể cả âm mƣu phá hủy tôn miếu,
25 sơn lăng, đền đài, cung điện, tức là mƣu hại tổ tiên của nhà vua; mƣu
26 giết cha ;
27 3. Phản bội: theo giặc ;
28 4. Hung ác bạo nghịch: đánh đập hay âm mƣu giết ông bà, cha
29 mẹ, bác, chú, thím, cô, anh chị em, ông bà cha mẹ bên chồng ;
30 5. Bất đạo: vô cớ giết ba ngƣời trong gia đình mình, hủy hoại
31 thân xác, bỏ thuốc độc, bùa mê để hại ngƣời ;
32 6. Đại bất kính: ăn trộm đồ thờ trong lăng miếu hoặc đồ ngự
33 dụng (vật dụng của nhà vua), làm giả ấn tín của vua, pha chế thuốc
34 cho nhà vua không đúng cách, nấu nƣớng các món ăn cho nhà vua
35 không đúng tiêu chuẩn cấm đoán, không giữ gìn tu bổ thuyền của nhà
36 vua, chỉ trích vua và không giữ lễ với sứ giả thay mặt nhà vua.
37 7. Bất hiếu: tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, không theo lời
38 dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn ông bà cha mẹ; cƣới hỏi, vui chơi, ăn
39 diện, tiệc tùng trong lúc có tang cha mẹ; dấu tang ông bà cha mẹ để
40 khỏi phải tỏ rõ sự tiếc thƣơng; nói dối rằng mình đang chịu tang ông
41 bà cha mẹ.
42 8. Bất mục: giết hay bán những ngƣời trong họ từ hàng để tang
43 3 tháng trở lên (từ hàng ty ma trở lên); đánh đập và tố cáo chồng và
44 những ngƣời trong họ từ hàng tang tiểu công trở lên đến hàng đại

VSTK - 231
1 công (tiểu công : họ hàng phải để tang 5 tháng, áo may bằng vải thô;
2 đại công: để tang 9 tháng, áo may bằng vải thô).
3 9. Bất nghĩa: giết quan cai trị đang tại chức trong địa hạt; giết
4 thầy dạy học của mình; đƣợc tin tang chồng mà không thƣơng xót lại
5 cứ vui chơi ăn mặc nhƣ bình thƣờng cùng là lấy chồng khác.
6 10. Nội loạn: gian dâm với ngƣời trong họ từ hàng tang tiểu công
7 trở lên hay với nàng hầu của cha ông.
8 Các tội trong thập ác bị coi nhƣ là những tội quá độc ác vì vậy
9 những trƣờng hợp miễn giảm, khoan hồng, bát nghị (tức là 8 trƣờng
10 hợp nghị xét để giảm hình phạt), chuộc tội bằng tiền đƣợc dự liệu
11 trong bộ luật đều không đƣợc phép áp dụng cho thập ác tội, dù phạm
12 nhân đã quá 70 tuổi hay dƣới 15 tuổi hoặc bị phế tật.
13 Luật Hồng Đức cũng nhƣ luật Gia Long đã dành ƣu đãi cho 8 hạng
14 tội nhân do địa vị của họ trong xã hội và gọi là bát nghị, tức là 8
15 trƣờng hợp đƣợc quan xử án cứu xét về địa vị, công trạng, tài năng
16 của họ trong phiên xử. Tám trƣờng hợp xét nghị nầy đều thấy trong
17 cổ luật nhà Đƣờng và nhà Thanh bên Tàu. Chiếu lệnh đời nhà Lý đã
18 đề cập tới trƣờng hợp thập ác, do đó có thể suy diễn rằng trong bộ
19 Hình thƣ của nhà Lý chắc chắn phải có quy định trƣờng hợp bát nghị
20 chép lại từ luật của nhà Đƣờng.
21 Trong luật Hồng Đức, chƣơng Danh lệ, điều 3 quy định 8 trƣờng
22 hợp nghị xét nhƣ sau:
23 1. Nghị thân: là họ tôn thất từ hàng đản miên (họ hàng nhà vua
24 trong vòng 5 thế hệ) trở lên; họ hàng của hoàng thái hậu từ hàng phải
25 để tang ty ma (3 tháng); họ hàng của hoàng hậu từ tiểu công (5 tháng)
26 trở lên. Nguyên văn: "Nhứt viết nghị thân, vị hoàng đản miên dĩ
27 thượng, thân hoàng thái hậu ty ma dĩ thượng, thân hoàng hậu tiểu
28 công dĩ thượng thân".
29 2. Nghị cố: là những ngƣời cũ có công giúp triều đình lâu năm
30 hoặc những quan lại từ các triều trƣớc: "Nhị viết nghị cố, vị cố
31 cựu".
32 3. Nghị hiền: ngƣời có đức độ lớn: "Tam viết nghị hiền, vị hữu
33 đại đức hạnh".
34 4. Nghị năng: ngƣời có tài, có sự nghiệp lớn, có năng lực trong
35 quân đội hoặc trong việc hành chánh cai trị: "Tứ viết nghị năng, vị
36 hữu đại tài nghiệp".
37 5. Nghị công: những ngƣời có công trạng lớn trong việc quân:
38 "Ngũ viết nghị công, vị hữu đại công quân".
39 6. Nghị quý: những quan chức sự từ tam phẩm trở lên, những
40 tản quan (chức quan ít việc nhƣ quan dạy học, quan hàn lâm) hay
41 quan lại từ nhị phẩm trở lên: "Lục viết nghị quý, vị cơ sự quan tam
42 phẩm dĩ thượng, tản quan cập tước nhị phẩm dĩ thượng giã".
43 7. Nghị cần: những ngƣời siêng năng cần cù, chịu khó chăm
44 chỉ: "Thất viết nghị cần, vị hữu đại cần lao".

VSTK - 232
1 8. Nghị tân: những con cháu nối tiếp từ các triều trƣớc, đƣợc
2 coi là tân khách của triều sau: "Bát viết nghị tân, vị thừa tiên đại chi
3 hậu vi quốc tân giả".
4 Những ƣu đãi trong trƣờng hợp bát nghị nhƣ sau:
5 Điều 4 luật Hồng Đức định rằng: Những ai thuộc 8 trƣờng hợp
6 vừa nói, nếu phạm tử tội, lúc xét án cho mỗi trƣờng hợp thì trƣớc hết
7 phải tấu trình lên vua để vua xét định. Quan nghị án xét tình lý nghị
8 tội theo nhƣ luật pháp quy định nhƣng không đƣợc quyết định. Ai
9 mắc tội lƣu trở xuống thì giảm một bậc. Kẻ nào phạm tội thập ác thì
10 không đƣợc cho áp dụng điều luật nầy. (Chư bát nghị giả phạm tử tội
11 giai điều sở tọa, cập ứng nghị chi trạng, tiền tấu thỉnh nghị, định tấu
12 tài [nghị giả nguyên tình nghị tội xứng định hình chi luật, chi chánh
13 bất quyết chi]. Lưu tội dĩ hạ giảm nhất đẳng. Kỳ phạm thập ác giả,
14 bất dụng thứ luật.)
15 Điều 5 luật Hồng Đức cũng nới rộng sự biệt đãi để áp dụng cho
16 các bà vợ của Hoàng Thái Tử (là ngƣời con đƣợc chỉ định để nối ngôi
17 của vua cha) từ hàng đại công (để tang 9 tháng) trở lên. Nếu những
18 ngƣời nầy phạm tội chết (tử hình) thì quan án cũng phải tâu lên vua
19 xét định. Nếu đáng xử tội lƣu (đài đi xa khỏi nơi đang ăn ở sinh sống)
20 trở xuống, thì xử giảm đi một bậc. Phạm tội thập ác, giết ngƣời, gian
21 dâm trong cung cấm, ăn trộm đồ đạt trong cung điện, ăn của hối lộ đút
22 lót trái phép thì không áp dụng điều luật nầy.
23 Điều 6 luật Hồng Đức định rằng: Họ hàng của vua, của hoàng thái
24 hậu thuộc nghị thân thì đƣợc miễn tội đánh bằng roi, trƣợng, thích chữ
25 mực lên mặt. Nếu là thân thuộc của hoàng hậu thì cho chuộc tội bằng
26 tiền. (Chư nghị thân giả phạm tội, kỳ hoàng đế thân, hoàng thái hậu
27 thân, xuy trượng thích mặc tịnh miễn. Hoàng hậu thân thính thục.)
28 Đàn bà nhờ có chồng làm quan có phẩm trật nếu phạm tội thì đƣợc
29 nghị giảm tùy theo phẩm trật của chồng. Tuy nhiên nếu phạm tội với
30 ông bà cha mẹ chồng hay những ngƣời thân thích để tang từ bậc đại
31 công trở lên thì không đƣợc hƣởng sự áp dụng của điều luật đó. (Đ.7
32 Luật H.Đ)
33 Luật Gia Long sao chép lại từ luật của đời nhà Thanh cũng quy
34 định tƣơng tựa nhƣ luật Hồng Đức đã sao chép lại từ luật của đời nhà
35 Đƣờng ở Trung Hoa. Nhƣ thế, bộ Hình Thƣ của nhà Lý, trong đó có
36 10 tội "thập ác" thì dĩ nhiên phải có bát nghị và 8 điều bát nghị nầy tất
37 cũng chỉ là những sự sao chép lại từ luật lệ của Trung Hoa đã có từ
38 trƣớc cho đến đời nhà Đƣờng.
39 Trong phần Hình Luật Chí /LTHCLC, Phan Huy Chú có nhận xét:
40 "Lệ bát nghị bắt đầu ở chương Thu quan (tên gọi một chức quan vào
41 đời nhà Chu ở Trung Hoa) trong sách Chu Lễ (sách chép về chế độ
42 quan quyền dƣới đời nhà Chu), cốt để châm chước tình nghĩa, thẩm
43 lượng công trạng, tài năng, là cách cân nhắc trong việc dụng hình và
44 việc giáo hoá nhân luân, cho nên hình pháp ở các đời tiếp theo sau

VSTK - 233
1 đều lấy tám điều ấy làm chuẩn để theo đó mà phán xét cũng như đối
2 xử với những người có công lao danh vọng khi phạm tội ".
3 Ở một nhận xét khác, Phan Huy Chú cũng viết: "Mục Tư khấu
4 trong sách Chu lễ chép: phàm là người cùng họ với vua mà có tội thì
5 không được xử tội ở chợ; phàm là mệnh phu mệnh phụ (quan ở cấp
6 bậc cao nhƣ khanh, đại phu và sĩ; hoặc đàn bà có tƣớc phẩm) thì
7 không phải bị giam giữ ở ngục, vì lẽ yêu người thân, quý người sang
8 để phân biệt với người thường. Đó là một chính sách lành mạnh
9 phong tục, tạo đức liêm sĩ cho mọi người.. Luật văn đời sau đại khái
10 cũng rập theo hướng ấy, cho nên những điều xét nghị áp dụng cho
11 người thân người hiền đều có châm chước cả". (Phan Huy Chú/
12 LTHCLC/ Danh Lệ/ Hình Luật Chí). Ở phần viết về thập ác cũng có
13 nhận xét: "Danh hiệu thập ác không phải từ xưa đã có, mà được đặt
14 ra (ở Trung Hoa ) từ đời nhà Tề (479-502 TCN) và được kê rõ từ đời
15 nhà Tùy. Nhà Đường noi theo, đặt làm luật lệnh, rồi các đời sau theo
16 mãi ".
17 Dƣ luận về sau đã đỗ xô khen tụng luật Hồng Đức của triều đại Lê
18 Thánh Tông là tân kỳ, sáng tạo và chê bỏ bộ luật của Gia Long, cho
19 rằng Gia Long đã sao chép lại luật lệ của ngƣời Mãn Thanh ở Trung
20 Hoa không có gì mới mẻ, không có sự sáng tạo. Dƣ luận nầy là một
21 dƣ luận thiên lệch có tính cách "bên thƣơng bên ghét" bởi vì nếu xét
22 cho tới tận cùng thì các nền luật pháp của các triều đại phong kiến ở
23 Việt Nam từ thời cổ xƣa cho đến đời Lê Thánh Tông, qua đầu đời các
24 chúa Nguyễn rồi đến triều đại Gia Long đều lấy các nền luật pháp tàn
25 độc của đám phong kiến phƣơng Bắc để đặt lên đầu lên cổ của ngƣời
26 dân Việt Nam chứ không riêng gì bộ luật Gia Long.

27  Các loại hình phạt dƣới triều đại nhà Lý là những hình
28 phạt nào ?

29 Nhƣ đã khảo luận ở phần trên, luật đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà
30 Lý cũng giống nhƣ luật lệ các triều đại nhà Hậu Lê/ Luật Hồng Đức,
31 nhà Nguyễn/Luật Gia Long, gọi chung là cổ luật Việt Nam đã bắt
32 chƣớc những loại hình phạt trong cổ luật Trung Hoa gọi chung là ngũ
33 hình (5 hình phạt). Năm hình phạt nầy đã có ở nƣớc Trung Hoa từ đời
34 thƣợng cổ và đã biến chuyển theo thời gian và lịch sử cho đến đời nhà
35 Đƣờng với bộ Đƣờng Luật Sớ Nghị, gồm 30 quyển, 500 điều.
36 Trong thời thƣợng cổ, ngƣời Trung Hoa đặt ra các hình phạt là chỉ
37 để áp dụng riêng cho các dân tộc "man di, mọi rợ" trong các vùng
38 lãnh thổ thuộc địa của nƣớc Trung Hoa mà thôi còn ngƣời Hoa thì đã
39 "văn minh tiến bộ rồi" cho nên không cần có những hình phạt đó. Lúc
40 đó hình phạt cũng chia làm 5 loại rất khốc liệt :

VSTK - 234
1 1. Đại hình thi hành trong quân đội, áp dụng cho tội tử hình;
2 2. Xử chém bằng lƣỡi búa (phủ việt);
3 3. Cắt bỏ một bộ phận của cơ thể của phạm nhân bằng lƣỡi
4 dao hay lƣỡi cƣa (đao cứ) ;
5 4. Chạm, đục lên mặt bằng đục hay bằng lƣỡi khoan (toản
6 lạc);
7 5. Đánh bằng roi da hoặc bằng gậy (tiên phốc).
8 Thời Hoàng Đế (hay Huỳnh Đế, vua đầu tiên của ngƣời Trung
9 Hoa) dựng nƣớc (2700-2600 TCN) thì bỏ năm loại hình phạt cũ và lấy
10 năm loại hình phạt của bộ tộc ngƣời Miêu để cai trị và áp dụng cho bộ
11 tộc nầy. Năm hình phạt nầy cũng tàn độc không kém gì năm loại hình
12 phạt đã có từ trƣớc và gồm có :
13 1. Thích chữ vào mặt (Mặc) ;
14 2. Xèo mũi (Tỵ) ;
15 3. Chặt chân (Phi) ;
16 4. Cắt bỏ bộ sinh dục (Cung) ;
17 5. Tử hình (Đại tịch).
18 Năm hình phạt nầy vẫn đƣợc tiếp tục áp dụng dƣới các đời nhà Hạ,
19 Thƣơng.
20 Dƣới đời nhà Chu (khoảng năm 1050 TCN), bộ luật hình viết đầu
21 tiên của Trung Hoa đƣợc ban bố. Đến đời nhà Tần, ngoài những hình
22 phạt của ngƣời Miêu lại còn bày thêm nhiều hình phạt mới khốc liệt
23 hơn nhƣ xử chém 3 họ (tru di tam tộc), phanh thây xé xát (thể giải).
24 Các hình thức ác độc tƣơng tựa nhƣ vừa kể đã đƣợc nhà Tiền Lê (Lê
25 Long Đỉnh) đem ra áp dụng.
26 Nhà Hán, ban hành bộ Cửu Chƣơng Luật, bãi bỏ những hình
27 phạt quá ác độc nhƣ chạm khắc lên mặt, xẻo mũi, chặt chân, thiến bỏ
28 bộ sinh dục. Đến đời Võ Hậu lại bãi bỏ hình phạt chém 3 họ. Dƣới
29 thời nhà Ngụy, nhà Tùy các hình phạt của ngƣời Miêu chỉ còn đƣợc
30 giữ lại ba hình phạt: roi da, gậy và tử hình .
31 Đến đời nhà Đƣờng, hình luật của ngƣời Trung Hoa mới phát triển
32 các loại hình phạt đầy đủ và rõ ràng. Đây cũng là một bộ luật nền tảng
33 mà các triều đại sau nhƣ Tống, Nguyên, Minh và Mãn Thanh bên
34 Trung Hoa đã dùng để lập định các bộ luật của họ. Bộ Luật đời nhà
35 Đƣờng đã có một ảnh hƣởng rất lớn đối với cổ luật Việt Nam kể từ
36 thời đại tự chủ.

VSTK - 235
3. LÝ THÁNH TÔNG ( 1054 - 1072 )

1 Tên húy là Nhật Tôn(1), mẹ họ Mai. Nhật Tôn lên


2 ngôi tức là Lý Thánh Tông, đổi quốc hiệu là Đại
3 Việt(2), tôn mẹ làm Kim Thiên hoàng thái hậu, đổi niên
4 hiệu là Long Thụy Thái Bình. Cấp quan tƣớc cho
5 những cựu thần phục vụ ở đông cung(3) tùy theo thứ
6 bậc; ban cho Bùi Văn Hựu làm Văn minh điện đại học
7 sĩ(4) .
8 Năm 1055, cải thiện chế độ nhà tù. Nƣớc Chiêm
9 Thành sang triều cống. Sứ nhà Tống sang giao hữu và
10 tƣớc phong cho Lý Thánh Tông làm Giao Chỉ quận
11 vƣơng.
12 Năm 1056, nƣớc Chân Lập sang triều cống; xuống
13 chiếu tăng gia sản xuất nông nghiệp. Dựng chùa Sùng
14 Khánh với tháp cao 12 tầng ở phƣờng Bảo Thiên(5),
15 trích trong kho một vạn hai nghìn cân đồng để đúc
16 chuông lớn. Nhà vua tự làm bài minh(6) để ghi khắc
17 vào chuông..
18 Năm 1057, sai sứ sang Trung Hoa giao hữu đáp lễ
19 nhà Tống, đồng thời đem theo thú lạ(7) để làm quà biếu,
20 Tống triều không nhận.
21 Năm 1059, xảy ra những vụ tranh chấp và động binh
22 ở các vùng phía Bắc giáp giới với Trung Hoa (8).
23 Đặt kiểu mẫu triều phục, quy định quân hiệu(9).
24 Năm 1060, lại tranh chấp, động binh ở biên giới
25 phía Bắc(10).
26 Xây cung điện ở cạnh hồ Dâm Đàm(11) để dùng làm
27 nơi thƣởng ngoạn, vui chơi.
28 Năm 1061, tuyển chọn con gái từ ngoài dân gian,
29 bắt 12 ngƣời để sung vào hậu cung.
30 Năm 1064, cử sứ thần sang Trung Hoa mừng vua
31 nhà Tống lên ngôi (Tống Anh Tông).
VSTK - 236
1 Năm 1065, lập con là Kiền Đức làm thái tử(12),
2 phong cho mẹ của Kiền Đức là Ỷ Lan phu Nhân(13) làm
3 thần phi nhƣng lại thƣờng hay gọi là nguyên phi (14).
4 Năm 1066 thƣơng gia ngoại quốc từ Gia Va (quần
5 đảo Nam Dƣơng) tới buôn bán(15).
6 Năm 1067, bộ tộc Ngƣu Hống(16) và nƣớc Ai Lao
7 mang vàng, bạc, trầm hƣơng, sừng tê, ngà voi sang tiến
8 cống. Sứ nhà Tống sang để tƣớc phong Lý Thánh
9 Tông chức Nam Bình Vƣơng. Cũng trong năm nầy bổ
10 nhiệm và cấp lƣơng bổng cho những quan lại giữ việc
11 hình ngục(17).
12 Năm 1069, Lý Thánh Tông đích thân cầm quân sang
13 xăm lăng nƣớc Chiêm Thành, bắt đƣợc vua Chiêm là
14 Chế Củ(18) và dân chúng đem về. Chế Củ phải chịu mất
15 ba châu Địa Lý(19), Ma Linh(20), Bố Chính(21) để đƣợc
16 tha cho trở về nƣớc.
17 Cuối năm 1070, lập Văn Miếu(22), tạc tƣợng Chu
18 Công, Khổng Tử(23), cùng với Nhan Tử, Tăng Tử, Tử
19 Tƣ, Mạnh Tử(24) cùng vẽ hình 72 ngƣời học trò giỏi
20 của của Khổng Tử(25) và cho hoàng thái tử Kiền Đức
21 đến nơi đó để học tập.
22 Năm 1071, sứ Chiêm Thành sang dâng lễ cống.
23 Cùng năm đó, quy định lễ nộp tiền chuộc tội theo thứ
24 bậc khác nhau(26).
25 Năm 1072, Lý Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên,
26 miếu hiệu là Thánh Tông, ở ngôi 17 năm, thọ 50 tuổi.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN

27 (1) Lý Nhật Tôn: là Khai Hoàng vƣơng, con trƣởng của Lý Thái
28 Tông.
29 (2) Đại Việt: trƣớc kia nhà Đinh thống nhất lãnh thổ đặt quốc hiệu là
30 Đại Cồ Việt và các triều đại sau đều vẫn giữ nguyên
31 quốc hiệu đó cho đến đời Lý Thánh Tông mới đổi là Đại Việt.
32 (3) Đông Cung: là chỗ ở của một ngƣời con vua đƣợc lập làm thái tử
33 để kế ngôi vua cha. Sách kể chuyện thần thoại Thần dị kinh viết rằng:

VSTK - 237
1 ở ngoài khơi biển Đông có một hòn đảo lớn gọi là Đông Minh, trên
2 hòn đảo đó có lầu đài cung điện xây bằng đá xanh và treo một bản
3 hiệu viết hàng chữ "Thiên địa trưởng nam chi cung" có nghĩa là cung
4 điện dành cho con trai trưởng của trời đất. Vì thế mới gọi thái tử là
5 Đông cung hoàng tử.
6 (4) Văn minh điện đại học sĩ: một chức quan văn do Lý Thái Tông
7 đặt ra. Sử cũ không thấy nói rõ về chức chế của ngạch quan nầy.
8 LTHCLC/Quan Chức Chí / Phan Huy Chú cho biết: Quan chế triều
9 Lý đại lược văn võ đều có 9 phẩm trật. . .Phía quan văn có bộ thượng
10 thư, tả hữu tham tri. . .bộ thị lang, tả hữu phúc tâm, nội thường thị,
11 phủ sĩ sứ, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ. . .Các chức kể trên đều là
12 những chức quan trọng làm việc ở trong triều.
13 (5) Tháp Bảo Thiên: ở thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xƣơng, Hà Nội;
14 ngày nay dấu vết vẫn còn.
15 (6) Bài minh: bài văn khắc trên các đồ kim loại nhƣ lƣ đồng, chuông
16 đồng hoặc trên các bia bằng đá.
17 (7) Thú lạ: ĐVSKTT viết: "Sai sứ đem con thú lạ sang biếu nhà
18 Tống và nói là con lân. Tư Mã Quang nói: nếu là con lân thực mà
19 xuất hiện không đúng thời thì cũng chẳng lấy gì làm điềm tốt, nếu
20 không phải lân, thì làm cho người phương xa chê cười".
21 KĐVSTGCM cũng viết: "Đem con thú lạ sang biếu nhà Tống nhưng
22 nói gạt đó là con lân."
23 (8) Tranh chấp và động binh: ĐVSKTT viết: Mùa Xuân, tháng 3
24 (năm Kỷ Hợi/1059) đánh Khâm Châu của nhà Tống, đe dọa khiêu
25 khích, diễn võ dương uy rồi về vì ghét nhà Tống phản phúc tráo trở.
26 KĐVSTGCM cũng viết nhƣ thế. Lý do động binh là vì ghét nhà Tống
27 phản phúc tráo trở nhƣng không cho biết nhà Tống tráo trở về chuyện
28 gì.
29 (9) Đặt kiểu mẫu triều phục và quy định quân hiệu:
30 *Kiểu mẫu triều phục: quy định kiểu mũ nón phải đội và giày hia
31 phải mang cho các quan khi vào chầu vua, rập theo kiểu của ngƣời
32 Tàu đời nhà Đƣờng gọi là mũ phốc đầu còn gọi là mũ cánh chuồn.
33 *Quy định quân hiệu: tức là đặt tên hiệu quân binh tùy theo từng
34 loại, ngành và gồm có: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện,
35 Phụng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lƣợc, Vạn Tiệp, chia thành tả quân,
36 hữu quân, trên trán quân sĩ đều thích chữ "Thiên tử quân ".
37 Sách Vân Đài Loại Ngữ Lê Quý Đôn trích dẫn truyện Thái Diên
38 Khánh nhƣ sau: "Diên Khánh từng bắt chước theo cách tổ chức và
39 phép dùng binh của An Nam: bộ đội chia ra cho 9 tướng chỉ huy
40 trong đó gồm có nhiều binh chủng như chính binh (quân chính quy),
41 cung nỏ (chuyên môn bắn cung tên), kỵ binh (quân cƣỡi ngựa). Tướng
42 chỉ huy từ quân bộ đến quân kỵ khí giới đều giống nhau, gộp lại thành
43 100 đội chia thành tả (cánh trái), hữu (cánh phải), tiền (đi đầu), hậu
44 (phía sau). Mỗi đội đều có quân trú chiếm (chiếm đóng và giữ) và

VSTK - 238
1 quân tác chiến (tấn công). Còn người và ngựa của quân Phiên thì
2 chia riêng làm đội khác nhau không cho lẫn lộn với quân khác để
3 phòng sự biến loạn, gần đâu thì cho lệ thuộc vào đó. Quân già yếu thì
4 đóng giữ thành trại. Diên Khánh đem binh pháp ấy trình bày tường
5 tận với vua nhà Tống, vua Tống (Tống Thần Tông/1068-1085) khen
6 là hay. Binh pháp của triều Lý được Trung Quốc bắt chước theo như
7 thế". Vua Tự Đức /KĐVSTGCM phê rằng truyện Diên Khánh là viết
8 láo, không thực.
9 (10) Tranh chấp, động binh ở vùng biên giới phía Bắc giáp ranh
10 nƣớc Tàu: ĐVSKTT viết: "Mùa Xuân, năm Canh Tý (1060), châu
11 mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đi bắt những binh lính bỏ trốn
12 vào đất Tống, bắt được chỉ huy sứ của Tống là
13 Dương Bảo Tài với binh lính và trâu ngựa đem về. Mùa Thu, tháng 7,
14 quân Tống sang xăm lấn, không được phải cử sứ giả đến Ung Châu
15 đàm phán yêu cầu nhà Lý trả lại chỉ huy sứ Bảo Tài nhưng Lý Thánh
16 Tông không thuận nghe theo" (BK/3I/ 2b). Chuyện nầy vua Tự Đức
17 cũng cho là sử cũ viết láo, không thể tin đƣợc (KĐVSTGCM/CB.3/24)
18 (11) Hồ Dâm Đàm: đời Lê đổi gọi là Tây Hồ tức là Hồ Tây tỉnh Hà
19 Nội ngày nay.
20 (12) Kiền Đức: tức là Lý Nhân Tông.

21 (13)Ỷ Lan phu nhân: ĐVSKTT viết: "Tục truyền rằng vua nhân đi
22 chơi các nơi chùa quán cúng khấn cầu tự nhưng chưa thấy hiệu
23 nghiệm. Vua đi tới nơi nào thì trai gái đều đổ xô đến xem nườm nượp,
24 duy chỉ có một người con gái hái dâu cứ đứng nép mình trốn trong
25 bụi cỏ lan. Vua thấy thế mới gọi đưa vào cung, được vua yêu thương
26 đặc biệt và phong làm Ỷ Lan phu nhân. Bấy giờ vua (Lý Thánh Tông)
27 đã lớn tuổi nhưng chưa có con trai nối dõi, sai chi hậu nội nhân
28 Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu
29 nhân có mang sinh hoàng tử Càn Đức tức Lý Nhân Tông. ( tục truyền
30 vua muốn có con trai, sai Nguyễn Bông đem hương cầu đảo ở chùa
31 Thánh Chúa. Nhà sư hướng dẫn bày cho Nguyễn Bông cách làm cho
32 người thụ thai, Nguyễn Bông áp dụng theo sự bày vẽ của nhà sư, việc
33 phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa.. Người đời sau gọi chỗ
34 ấy là Đồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm (nay thuộc
35 Hà Nội), Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn"
36 (BK.3/3a).
37 (14)Thần phi, nguyên phi: thần phi là ngƣời phi đƣợc vua yêu
38 chuộng, nguyên phi là ngƣời phi đứng đầu các hàng phu nhân. Dƣới
39 chế độ phong kiến, những ngƣời vợ của vua có nhiều cấp bậc khác
40 nhau: vợ cả gọi là hoàng hậu, dƣới hoàng hậu có ba ngƣời vợ nữa gọi
41 là phi hoặc phu nhân.

VSTK - 239
1 (15) Buôn bán: ĐVSKTT viết: "lái buôn người Trão Oa (phiên âm
2 tên quần đảo Java, Nam Dƣơng) dâng ngọc châu dạ quang, trả tiền
3 giá một vạn quan."
4 (16) Bộ tộc Ngƣu Hống: một bộ tộc ngƣời Thái ở vùng Sơn La. Trong
5 tộc ngữ Thái có chữ Ngù Háu có nghĩa là con rắn hổ mang. Ngƣu
6 Hống ngày nay là Yên Châu, tỉnh Hƣng Hóa.
7 (17) Cấp lƣơng bổng cho các quan coi việc hình ngục:
8 LTHCLC/Quan chức chí/Lệ cấp bổng lộc/ Phan Huy Chú viết: "Lý
9 Thánh Tông, năm Long Chương thứ 2 (1067), cấp bổng lộc cho các
10 quan Đô hộ phủ sĩ sứ mỗi người mỗi năm 50 quan tiền, 100 bó lúa và
11 cá muối mọi thức; cho ngục lại mỗi người 20 quan tiền, 100 bó lúa để
12 cho họ giữ gìn đức liêm khiết ".
13 Ngô Thời Sĩ nói:" Thời Lý các quan trong ngoài đều không có
14 lương bổng. Quan trong thì bất chừng vua thưởng cho, quan ngoài thì
15 giao cho dân ngoài một vùng để thu thuế ruộng đất, hồ ao để hưởng
16 lợi. Đến đây các hình ngục quan mới được cấp bổng hằng năm ".
17 (18) Chế Củ: tức vua Chiêm Thành Rudravarman thứ IV.
18 (19) Châu Địa Lý: xƣa là đất Việt Thƣờng; đời nhà Tống là châu Địa
19 Lý của Chiêm Thành; nhà Lý đổi là Lâm Bình; nhà Trần là Tân Bình;
20 thời thuộc Minh vẫn là châu Tân Bình; nhà Lê đổi là Tiên Bình; nay
21 là huyện Lệ Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình.
22 (20) Châu Ma Linh: nay là huyện Bến Hải, tỉnh Quảng Trị.
23 (21) Châu Bố Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch,
24 Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
25 (22) Lập Văn Miếu: ở về phía Nam Thăng Long thành, nay là Văn
26 Miếu Hà Nội.
27 (23) Khổng Tử: (551-479 TCN), tên là Khƣu, ngƣời nƣớc Lỗ ( nay
28 thuộc tỉnh Sơn Đông bên Trung Hoa, làm quan Đại tƣ khấu coi việc
29 hình sự thăng lên đến hàng nhiếp tƣớng nhƣng sau bị vua Lỗ không
30 trọng dùng nên phải bỏ đi và lân la trong gần 15 năm sang các nƣớc
31 chƣ hầu tìm đƣờng làm quan nhƣng cũng chẳng đƣợc nơi nào trọng
32 dụng. Khổng Tử quay trở về nƣớc Lỗ thu dụng và dạy học trò, chép
33 Kinh Thi và viết sách Xuân Thu. Khổng Tử không phải là ngƣời sáng
34 lập ra Nho giáo nhƣng chỉ viết lại, tăng bổ và sắp đặt thành hệ thống
35 những lời dạy bảo của những ngƣời có đạo đức từ đời thƣợng cổ để
36 truyền dạy cho những ngƣời học trò riêng của mình. Về sau, ngƣời ta
37 vẫn coi Khổng Tử nhƣ là sƣ tổ của Nho giáo.
38 (24) Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tƣ và Mạnh Tử: là 4 ngƣời học trò lớn
39 của Khổng Tử cũng đƣợc thờ phụng ở Văn Miếu cùng với Khổng Tử.
40 *Tăng Tử tên là Sâm tự Tử Dƣ, viết sách Hiếu Kinh chép những
41 lời dạy của Khổng Tử về đạo hiếu. Trong 4 ngƣời nầy, Mạnh Tử là
42 ngƣời nổi bật.
43 *Mạnh Tử (372-289 TCN) tên là Kha, ngƣời đất Châu (nay thuộc
44 tỉnh Sơn Đông) vào thời Chiến quốc, học trò của Tử Tƣ (cháu đích

VSTK - 240
1 tôn của Khổng Tử ), chép sách Trung Dung một bộ sách trong Tứ
2 Thư. (Tứ Thƣ gồm có: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử
3 ). Mạnh Tử thấu hiểu đạo lý của Khổng Tử, có tài hùng biện, thƣờng
4 đi khắp các nƣớc chƣ hầu để truyền bá các tƣ tƣởng cứu đời của
5 ngƣời xƣa nhƣng cũng giống nhƣ thân phận của Khổng Tử, Mạnh Tử
6 chẳng đƣợc nƣớc nào trọng dụng. Lúc về già, Mạnh Tử thấy rằng các
7 tƣ tƣởng cứu đời trong đạo đó khó có thể thực hành đƣợc trên thực tế
8 cho nên lại quay trở về nƣớc mình dạy học và viết ra sách Mạnh Tử.
9 (25) 72 học trò giỏi của Khổng Tử: sử sách cũ gọi là Thất thập nhị
10 hiền, bảy mƣơi hai ngƣời hiền triết.
11 (26) Lệ nộp tiền để chuộc tội: cuối năm 1042 triều Lý Thái Tông đã
12 định rõ thể lệ cho chuộc tiền nhƣ sau: " Phàm dân chúng, người nào
13 từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người có tật nguyền và người có
14 họ hàng thân thuộc với nhà vua mà phải để tang từ hạng đại công trở
15 lên (để tang 9 tháng), nếu phạm tội thì cho chuộc tội nhưng nếu phạm
16 một trong thập ác tội thì không được theo lệ nầy ". (xem lại Lý Thái
17 Tông, trang 281/ chú thích 21 và phần khảo luận số 5, trang 286 về
18 nền luật pháp thời Lý Phật Tử). Nay dƣới triều Lý Thánh Tông lại
19 định thêm: người được cho phép chuộc tội phải tuỳ theo thứ bậc tội
20 nặng nhẹ mà phải nộp tiền nhiều hay ít.

KHẢO LUẬN:

21  Về việc tranh chấp và động binh ở vùng giáp giới


22 với nƣớc Trung Hoa trong những năm 1059, 1060

23 Ngô Thời Sĩ trong Việt Sử Tiêu Án đã suy diễn việc động binh đó
24 nhƣ sau: "Trong khoảng thời gian đó nhà Tống sai sứ sang tước
25 phong (1055) rồi Lý Thánh Tông lại cho người sang Tống để đáp lễ
26 (1057), chưa thấy có chuyện gì gọi là phản phúc tráo trở; hay có thể
27 là việc xuất quân sang Khâm Châu là ý định của Lý Thái Tông từ
28 trước nay Lý Thánh Tông muốn thực hiện ý định của cha mình, muốn
29 thử sức về mặt quân sự với Tống nhưng chưa làm được đấy thôi ".
30 Có thể Ngô Thời Sĩ đã tham chiếu việc Nùng Trí Cao làm phản
31 (1052) từ thời Lý Thái Tông để suy diễn nhƣ thế.
32 Về việc phản loạn của Nùng Trí Cao ĐVSKTT viết nhƣ sau:
33 "Nhâm Thìn (1052). Mùa hạ, tháng 4, Nùng Trí Cao làm phản, tự
34 xưng là Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam, tràn sang đất
35 Tống cướp phá trại Hoành Sơn (nay là huyện Hoành, tỉnh Quảng Tây,
36 Trung Quốc), vây hãm các châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô,
37 Khang, Đoan, Củng, Tầm (tất cả châu nầy nay đều thuộc tỉnh Quảng
38 Tây) "(BK.2/ 38a). "Vua nhà Tống lo sợ. Vua (Lý Thái Tông) xin đem
39 quân đánh giúp, vua Tống chấp thuận nhưng sau đó tướng nhà Tống
40 là Địch Thanh đã phân tích lợi hại về nguy cơ quân nước ngoài lấy cớ

VSTK - 241
1 đem quân vào giúp rồi nhân cơ hội đó mà dấy loạn. Lời cố vấn của
2 Địch Thanh khiến cho vua Tống thay đổi ý kiến và xuống chiếu hủy bỏ
3 cuộc viện binh của vua (Lý Thái Tông) và giao cho Địch Thanh đem
4 quân đánh dẹp khiến cho Nùng Trí Cao phải đốt thành trốn
5 chạy."(BK.2/ 39a)."Mùa Đông, tháng 10, năm Quý Tỵ (1053), Nùng
6 Trí Cao sai người đến vua Lý Thái Tông cầu quân để chống với quân
7 của Địch Thanh. Vua xuống chiếu cho chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân
8 cứu viện. Địch Thanh lại đánh tan quân của Nùng Trí Cao. Trí Cao
9 chạy sang nước Đại Lý; người nước Đại Lý bắt và chém đầu Trí Cao
10 nạp cho vua Tống . . . Mẹ , em và con của Trí Cao đều bị giết. Họ
11 Nùng bị diệt từ đấy"(ĐVSKTT/BK.2/ 38b và KĐVSTG CM/ CB.3/ 16).
*
12 Khách quan mà xét thì vua nhà Tống là ngƣời rất khôn ngoan sáng
13 suốt, đã biết nghe theo lời cố vấn can ngăn của bề tôi, còn Địch Thanh
14 là một tƣớng giỏi có mƣu lƣợc và biết phòng xa. Việc vua Tống hủy
15 bỏ sự cứu viện quân sự của ngoại bang là một hành động chính đáng
16 và kịp thời không có gì gọi là tráo trở phản phúc nhƣ sử cũ
17 (ĐVSKTT) đã viết để che dấu hành động chiến tranh gây hấn ở biên
18 giới của Lý Thánh Tông vào năm 1059 với lý do là lỗi ở nhà Tống
19 trƣớc đây (1052) đã tráo trở phản phúc với cha mình (Lý Thái Tông).
20 Xét cho cùng, chính Lý Thái Tông mới là kẻ tráo trở phản phúc:
21 lúc đầu thì tình nguyện đem viện binh sang giúp vua Tống để đánh
22 dẹp Nùng Trí Cao nhƣng khi vua Tống bãi bỏ việc viện binh thì lại
23 hùa theo và giúp quân cho Nùng Trí Cao đánh với quân nhà Tống. Tại
24 sao lại có sự thay lòng đổi dạ, sớm đầu tối đánh nhƣ thế ? Bởi vì dƣới
25 chiêu bài cứu viện, Lý Thái Tông nhất định đã có một ý đồ đen tối
26 khác: nhân cơ hội để tiến chiếm lãnh thổ của nhà Tống. Ý đồ “làm
27 loạn” nầy của Lý Thái Tông có lẽ bị Địch Thanh khám phá ra cho nên
28 vua Tống đã nghe theo lời cố vấn của Địch Thanh mà bãi bỏ không
29 nhận sự cứu viện và không cho đoàn quân của Lý Thái Tông tràn qua
30 lãnh thổ của mình. Bị lộ chân tƣớng phản phúc tráo trở, năm 1053 Lý
31 Thái Tông đã về hùa với Nùng Trí Cao để đánh Tống. Quân của Lý
32 Thái Tông do tƣớng Vũ Nhị chỉ huy hợp với tàn quân của Nùng Trí
33 Cao đã bị tƣớng Địch Thanh nhà Tống chận đánh tan vỡ. Trí Cao phải
34 chạy trốn qua nƣớc Đại Lý và chết ở đó còn thân thuộc thì bị ngƣời
35 của vua Tống truy lùng bắt trọn hết ngay trên lãnh thổ của nƣớc Đại
36 Ly. Sử cũ không thấy đá động gì tới việc bại trận nhục nhã đầy tai
37 tiếng của Lý Thái Tông mà chỉ viết ra sự thua chạy của Nùng Trí Cao.

*
38  Một nghi vấn về việc Nùng Trí Cao làm phản rồi
39 dấy động xâm chiếm đất của nhà Tống:

VSTK - 242
1 Nùng Trí Cao có làm phản thực sự hay chỉ là một trò mƣu mẹo
2 sắp xếp giả trá của triều đình nhà Lý để bành trƣớng lãnh thổ sang đất
3 Tống?
4 ĐVSKTT viết: "Năm ấy (1042), Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A
5 Nùng từ động Lôi Hỏa lại về chiếm cứ châu Thảng Do, đổi châu ấy
6 làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng đi đánh, bắt sống được Trí Cao
7 đem về kinh sư. Vua thương tình vì cha là Tồn Phúc và anh là Trí
8 Thông đều đã bị xử tội chết nên tha tội, lại cho giữ châu Quảng
9 Nguyên như cũ, lại phụ thêm cho 4 động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và
10 châu Tư Lang nữa " (ĐVSKTT\ BK.2/30a).
11 Ngoài ra Lý Thái Tông còn ban cho Trí Cao ấn tín, phong cho làm
12 Thái Bảo và cuối năm 1044, Thái Bảo Nùng Trí Cao vẫn còn về chầu
13 vua. Rồi không hiểu vì lý do gì, năm 1048 Trí Cao lại làm phản chiếm
14 giữ động Vật Ác rồi lại đầu hàng nhƣng không thấy ĐVSKTT nói gì
15 tới việc xử phạt hay tha tội việc làm phản lần nầy. KĐVSTGCM thì
16 viết rằng Trí Cao giữ động Vật Ác, làm phản, tiếm xƣng là nƣớc Đại
17 Nam, Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh không đƣợc, phải
18 rút về và Trí Cao xin phụ theo nhà Tống nhƣng vua Tống không nhận.
19 Trí Cao bèn cùng đồ đảng định mƣu lấn cƣớp lãnh thổ của nhà Tống,
20 đánh hãm đƣợc Ung Châu (KĐVSTGCM/CB.3/13). Đoạn nầy
21 KĐVSTGCM viết ở thời điểm năm 1048 trong khi việc Trí Cao lấn
22 chiếm đất Tống đƣợc ĐVSKTT viết ở thời điểm năm 1052. Nhƣ vậy,
23 nếu theo KDVSTGCM thì Trí Cao chƣa bị Lý Thái Tông khuất phục
24 và đầu hàng trong lần tạo phản năm 1048 hay nói khác đi, lần nầy
25 đoàn quân bình định dẹp loạn của Lý Thái Tông đã bại trận và sử cũ
26 đã ém nhẹm việc thất bại rồi viết ngƣợc lại bằng cách dùng các hiện
27 tƣợng thần ma quỷ quái để phù trợ cho đoàn quân của Quách Thịnh
28 Dật: "Nùng Trí Cao làm phản, chiếm giữ động Vật Ác. Sai thái úy
29 Quách Thịnh Dật đi đánh. Vừa mới giao chiến thì trời đất bỗng tối
30 tăm, rồi có sấm sét nổi lên đánh vào trong động, thân thể các tù
31 trưởng động ấy bị xé tan, cả động kinh hãi. Trí Cao phải
32 hàng"(ĐVSKTT/BK.2/37a).
33 Nếu Trí Cao đã xin hàng nhà Lý thì lý do gì mà sau đó lại xin
34 hàng nhà Tống ?
35 Có thể suy diễn về việc làm phản và đánh Tống của Nùng Trí Cao
36 nhƣ sau :
37 Suy diễn 1: Động Vật Ác cũng nằm trong tỉnh Cao Bằng với
38 những châu, động mà Lý Thái Tông ban cho Nùng Trí Cao cai quản.
39 Trí Cao muốn bành trƣớng vùng lãnh thổ cai quản của mình cho nên
40 mới lấn chiếm động Vật Ác có thể là do một động trƣởng khác do Lý
41 Thái Tông giao cho trách nhiệm cai quản. Hành động của Trí Cao bị
42 coi nhƣ là một sự phản nghịch cho nên năm 1048 Lý Thái Tông sai
43 Quách Thịnh Dật đi đánh nhƣng bị quân của Trí Nông đánh bại, phải

VSTK - 243
1 rút về. Đến năm 1052 Trí Cao tràn sang đánh chiếm Ung Châu và
2 Quế Châu của Nhà Tống rồi tung quân đi cƣớp bóc khắp nơi.
3 Nhƣ thế, trong 4 năm khoảng từ 1048 đến 1052, Nùng Trí Cao đã
4 tách rời khỏi triều đình nhà Lý, chiếm thêm đất nhà Tống rồi lập ra
5 nƣớc Đại Nam tự lên ngôi hoàng đế và đƣa thƣ xin thần phục nhà
6 Tống để đƣợc làm tiết độ sứ cai quản Ung Châu và Quế Châu. Vua
7 Tống đã muốn nhận cho Trí Cao đầu hàng nhƣng tƣớng Địch Thanh
8 đã ngăn và xin cầm quân đánh dẹp. Trí Cao bị Địch Thanh đánh thua
9 phải chạy sang nƣớc Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam) nhƣng bị ngƣời
10 của nhà Tống truy tìm và tiêu diệt hết dòng họ Nùng.
11 Suy diễn 2: Có thể khi Trí Cao bị Địch Thanh đánh bại đã chạy
12 sang trốn tránh ở nƣớc Đại Lý và nhờ nƣớc Đại Lý giúp để đánh lại
13 quân Tống nhƣng không đƣợc, lại bị ngƣời của Đại Lý bắt giết và
14 giao nạp cho nhà Tống: có thể những nhà viết sử về đời nhà Lý đã
15 viết lệch lạc đi: thay vì viết Nùng Trí Cao nhờ nƣớc Đại Lý viện
16 binh, thì lại viết Trí Cao xin nhà Lý (lúc đó là Lý Thái Tông) giúp
17 quân với mục đích che đậy hành động thừa cơ hội Trí Cao trốn chạy
18 để đem quân tràn sang đánh chiếm Ung Châu và Quế Châu nhƣng lại
19 bị Địch Thanh đánh bại và lần bại trận nầy của Lý Thái Tông sử cũ đã
20 dấu nhẹm đi không nói tới.
21 Sử Cương Mục Tục Biên của Trung Hoa viết về Nùng Trí Cao nhƣ
22 sau: "Trí Cao đánh phá Ung Châu, chiếm được châu lỵ và tự xưng là
23 Nhân Huệ hoàng đế, đổi niên hiệu là Khải Lịch rồi tiếp tục quấy phá
24 cướp bóc nhiều châu huyện khác khiến dân chúng phải khiếp sợ bỏ
25 chạy. Các châu Hoàng, Quý, Đăng, Ngô, Khang, Đoan, Cung, Tầm
26 đều bị chiếm cứ rồi đến Quảng Châu cũng bị vây hãm nhưng không
27 thể hạ nổi nên Trí Cao rút về trú giữ Ung Châu. Vua Tống hay tin liền
28 cử Dư Tỉnh, Dương Điền, Tôn Miện tìm cách dẹp loạn nhưng không
29 thể nào đánh bại Trí Cao. Trí Cao đưa thư xin làm tiết độ sứ ở Ung
30 Châu và Quế Châu, vua Tống đã toan nhận nhưng Địch Thanh ngăn
31 lại và xin cầm quân đánh dẹp Trí Cao. Trí Cao thua chạy sang nước
32 Đại Lý. Hai năm sau Dư Tỉnh lùng bắt được mẹ, em và con của Trí
33 Cao rồi cho người sang tận nước Đại Lý truy nã Trí Cao nhưng bấy
34 giờ Trí Cao đã chết. Người Tống lấy đầu Trí Cao mang về Kinh đô
35 rồi tru diệt hết gia đình họ hàng họ Nùng. Họ Nùng bị diệt từ đấy".
36 Không thấy sách nầy nói việc Trí Cao xin viện binh với Lý Thái Tông
37 mà cũng không thấy đề cập tới việc quân Tống và quân nhà Lý đánh
38 nhau trong vụ Nùng Trí Cao.
39 Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: "Nếu đích thật nhà Lý đã đem
40 quân ra ngoài biên giới đánh nhau với Tống thì việc biên cương là
41 trọng đại, nhà Tống có lẽ nào lại dìm đi được hay sao? Đoạn nầy sử
42 cũ ghi chép mờ ám, cứ để đó, sẽ khảo sau." (KĐVSTGCM/CB.3/18).

VSTK - 244
 Về việc Ỷ Lan phu nhân có thai sau khi
Lý Thánh Tông sai chi hậu nội nhân Nguyễn Bông
làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa

1 Đây là một sự thai nghén sinh đẻ mờ ám khác trong vƣơng tộc nhà
2 Lý. Việc sinh đẻ lần nầy cũng lại do các nhà sƣ nhúng tay vào để làm
3 cho làm Ỷ Lan phu nhân mang thai và sinh ra Càn Đức (Lý Nhân
4 Tông). Thật là lạ lùng và quái dị khi một ông sƣ ở chùa Thánh Chúa
5 lại dạy cho Nguyễn Bông cách thức làm cho một ngƣời đàn bà có thai
6 gọi là đầu thai thác hóa và sau đó không biết Nguyễn Bông áp dụng
7 nhƣ thế nào mà lại khiến cho Ỷ Lan phu nhân mang thai.
8 Sử cũ viết rằng sau đó việc bị phát giác, Nguyễn Bông bị Lý
9 Thánh Tông xử chém ngay ở trƣớc cửa chùa. Nguyễn Bông đã làm
10 chuyện xằng bậy gì mà phải bị tội chém đầu ? Phải chăng các ông sƣ
11 ở chùa Thánh Chúa đã dàn xếp để cho Nguyễn Bông ăn nằm với Ỷ
12 Lan phu nhân mà sử cũ gọi là đầu thai thác hóa (ủy thác cho ngƣời
13 khác không phải là chồng mình làm cho thụ thai). Nhƣ vậy có phải
14 ngƣời cha sinh lý của Càn Đức là Nguyễn Bông? Chuyện sinh đẻ
15 lần nầy so với chuyện sinh đẻ ra ông tổ vƣơng tộc nhà họ Lý (Lý
16 Công Uẩn) thì cũng không khác xa nhau nhiều.
17 Đến năm 1068, đến lƣợc hoàng tử Minh Nhân sinh ra thì sử cũ lại
18 chú rằng "không rõ tên" và "đó là người em cùng mẹ với Càn Đức"
19 (ĐVSKTT/BK.3/4b); nhƣ thế tức là mẹ của Minh Nhân là Ỷ Lan,
20 nhƣng cha của ngƣời con đó có phải là Lý Thánh Tông không?
21 Nếu không phải, mà Nguyễn Bông cũng không còn, vậy thì ngƣời
22 cha sinh lý của Minh Nhân là ai? Không lý Ỷ Lan cũng ăn nằm
23 với thần nhân để sinh ra Minh Nhân giống nhƣ mẹ của Lý Công
24 Uẩn ngày trƣớc?

4. LÝ NHÂN TÔNG ( 1072 - 1127 )

25 Hoàng thái tử Càn Đức mới đƣợc 7 tuổi lên ngôi


26 trƣớc linh cửu tức là Lý Nhân Tông, đổi niên hiệu mới
27 là Thái Ninh năm thứ 1, tôn vợ cả của Lý Thánh Tông
28 là Dƣơng thị làm hoàng thái hậu và tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan
29 làm hoàng thái phi. Lý Nhân Tông còn nhỏ, thái hậu
30 họ Dƣơng cầm quyền nhiếp chính với thái sƣ Lý Đạo
31 Thành(1) làm phụ chính.

VSTK - 245
1 Năm 1073, Ỷ Lan ganh ghét gièm pha xúi giục Lý
2 Nhân Tông bắt giam, rồi bức chết hoàng thái hậu họ
3 Dƣơng rồi đƣa Ỷ Lan lên thay thế gọi là Linh nhân
4 hoàng thái hậu(2).
5 Sứ nhà Tống sang sách phong Lý Nhân Tông làm
6 Giao Chỉ quận vƣơng.
7 Giáng chức Lý Đạo Thành xuống làm Tả gián nghị
8 đại phu rồi đƣa xuống làm tri châu Nghệ An(3).
9 Năm 1074, lại dùng Lý Đạo Thành làm Thái phó
10 Bình chƣơng quân quốc trọng sự(a) .
11 Năm 1075, tuyển lấy những ngƣời minh kinh bác
12 học(b) và mở kỳ thi nho học tam trƣờng(4), Lê Văn
13 Thịnh đỗ đầu, đƣợc lựa chọn vào hầu để trông lo việc
14 giáo dục của vua.
15 Tháng 8, mùa Thu năm Ất Mão (1075), sai Lý
16 Thƣờng Kiệt đánh Chiêm Thành nhƣng không đánh
17 thắng mà chỉ vẽ đƣợc bản đồ 3 châu Bố Chính, Địa Lý,
18 Ma Linh rồi rút quân về. Sau đó Ly Nhân Tông đổi
19 Địa Lý làm châu Lâm Bình, Ma Linh làm châu Minh
20 Linh rồi chiêu mộ di dân đến các nơi đó ở. Phong cho
21 Lý Thƣờng Kiệt chức Thái úy.
22 Tháng 11, mùa Đông năm Ất Mão (1075), sai Lý
23 Thƣờng Kiệt, Tôn Đản đem quân sang đánh nhà Tống,
24 phá đƣợc Khâm Châu, Liêm Châu; Tôn Đản vây hãm
25 Ung Châu. Đô giám tỉnh Quảng Tây là Trƣơng Thủ
26 Tiết đem quân đến giải cứu Ung Châu nhƣng bị Lý
27 Thƣờng Kiệt chận đánh ở cửa ải Côn Luân, chém chết
28 Trƣơng Thủ Tiết tại trận. Ung Châu bị quân nhà Lý
29 chiếm đóng vào tháng Giêng mùa Xuân năm Bính
30 Thìn (1076), tàn sát hết dân chúng trong thành. Lý
31 Thƣờng Kiệt cùng với Tôn Đản bắt sống ngƣời ở 3
32 châu ấy làm tù binh rồi kéo quân về. Lý do của cuộc
33 chiến nầy là vì nhà Tống, thừa cơ hội quân nhà Lý bị
34 suy yếu mỏi mệt sau khi đánh dẹp Chiêm Thành ở 3
35 châu Ma Linh, Bố Chính, Địa Lý, muốn đƣa quân sang
VSTK - 246
1 xâm lăng nhƣng Lý Nhân Tông biết đƣợc mƣu đồ đó
2 cho nên mới ra tay trƣớc, sai Lý Thƣờng Kiệt và Tôn
3 Đản thống lĩnh hơn trăm ngàn quân binh sang đánh các
4 châu Khâm, Liêm, Ung của nhà Tống.
5 Tháng 4, mùa Hạ năm Bính Thìn (1076), lập Quốc
6 Tử Giám và tuyển bổ những quan văn có học vào đó
7 đồng thời cũng lựa chọn nhân sĩ trong nƣớc để cai
8 quản quân và dân.
9 Tháng 12, mùa Đông, năm Bính Thìn (1076), quân
10 nhà Tống dùng Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu
11 Tiết làm phó sứ cùng với 9 tƣớng khác liên minh với
12 nƣớc Chiêm Thành và nƣớc Chân Lập sang lấn cƣớp
13 và xăm nhập nhƣng bị quân của Lý Thƣờng Kiệt đánh
14 tan ở sông Nhƣ Nguyệt(5), phải lui quân.
15 Tháng 3 năm Đinh Tỵ (1077), quân Tống lại tràn
16 sang phía Tây, đánh chiếm các châu Quảng Nguyên,
17 Tƣ Lang, Tô Châu, Mậu Châu và huyện Quang Lang,
18 tiến quân đến sông Phú Lƣơng(6) đánh nhau dằn co với
19 quân nhà Lý. Quân nhà Lý bị thiệt hại nhiều trong trận
20 chiến cho nên sai sứ đến doanh trại quân Tống cầu hòa,
21 xin ngƣng đánh nhau.
22 Tháng 12, mùa Đông năm Đinh Tỵ (1077), quân
23 Tống vì không hạp phong thổ địa phƣơng, vừa chết
24 bệnh và chết trận quá nhiều mà cũng không thể tiến
25 quân thêm đƣợc nữa cho nên thỏa thuận ngƣng chiến.
26 Tháng Giêng, năm Mậu Ngọ (1078), tu sửa lại thành
27 Đại La(7).
28 Sai sứ sang Tống điều đình việc trao trả lại những
29 châu huyện và tù binh do Tống đánh chiếm đƣợc trong
30 trận chiến năm Đinh Tỵ (1077) nhƣng Tống đòi trả lại
31 những tù binh ngƣời Tống bị bắt ở các trận đánh tại
32 các châu Khâm, Liêm, Ung ngày trƣớc(8).
33 Mùa Xuân năm Kỷ Mùi (1079), sau khi đã trả một
34 số tù binh cho nhà Tống bị bắt mang về từ các châu
35 Khâm, Liêm, Ung, nhà Tống mới chịu trả lại cho nhà
VSTK - 247
1 Lý châu Quảng Nguyên (nhà Tống đã đổi tên là Thuận
2 Châu(9)).
3 Năm 1081, thái phó Ly Đạo Thành mất.
4 Mùa hè năm Giáp Tý (1084), sai binh bộ thị lang Lê
5 Văn Thịnh sang Tống bàn định việc cƣơng giới. Nhà
6 Tống trả lại cho nhà Lý thêm 6 huyện và 3 động(10).


CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

7 (1) Lý Đạo Thành: ngƣời huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh.
8 (2) Linh Nhân hoàng thái hậu: ĐVSKTT viết:<<Linh Nhân (Ỷ Lan)
9 có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự mới kêu
10 với vua rằng: "Mẹ đây khó nhọc cho con mới có được ngày nay, bây
11 giờ để cho người khác ngồi hưởng phú quý, còn mẹ đây thì bỏ vào
12 đâu?". Vua còn nhỏ, không biết phân biệt phải trái liền giam Dương
13 thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương rồi bắt ép phải
14 chết để chôn theo ở nơi chôn Thánh Tông>>(BK3.7a). KĐVSTGCM
15 có lời phê nhƣ sau: "Từ chuyện nầy thì biết được rằng trước đây sử cũ
16 nói nguyên phi giúp việc nội trị (khi Lý Thánh Tông vắng mặt ở triều
17 đình để cầm quân đi đánh Chiêm Thành), rõ không phải là Ỷ Lan.
18 Còn Dương thị dưới thời Lý Thánh Tông cũng chưa nghe nói được
19 lập làm hoàng hậu, như thế phải chăng sử cũ đã ghi chép thiếu sót?"
20 (3) Giáng truất thái sƣ Lý Đạo Thành: cả hai bộ sử cũ đều không
21 nêu rõ lý do vì sao Lý Đạo Thành bị giáng chức.
22 (4) Thi Tam trƣờng: ba đợt thi; không thấy sử sách cũ nói về thể
23 thức loại thi cử nầy nhƣ thế nào. Trong LTHCLC/ Khoa Mục Chí,
24 Phan Huy Chu xét: " Từ Lý Nhân Tông đến Lý Anh Tông (1075-
25 1152), phép thi bấy giờ chưa có cách thức nhất định. Thảng hoặc có
26 chiếu của vua cho được cử học trò vào thi, nhà vua tự làm giám khảo
27 ở điện đình. Sử chép không rõ, nên không khảo được".
28 (a) Bình Chƣơng quân quốc trọng sự: là chức tể tƣớng bên hàng quan
29 võ nhƣng ở cấp cao hơn chức tể tƣớng thƣờng.
30 (b) Minh kinh bác học: giỏi về kinh sử.
31 (5)Sông Nhƣ Nguyệt: ở về phía Đông Bắc huyện Yên Phong, tỉnh
32 Bắc Ninh, sát gần với xã Nhƣ Nguyệt. Chú thích trong ĐVSKTT là
33 sông Cầu.

VSTK - 248
1 (6) Sông Phú Lƣơng: đầu sông liền với sông Bạch Hạc tỉnh Sơn
2 Tây, cuối sông thông với sông Đại Hoàng tỉnh Nam Định tuông ra
3 biển. Nay là sông Nhị Hà thuộc Hà Nội.
4 (7) Thành Đại La: là tên cũ từ thời Cao Biền. Lý Công Uẩn đã đổi
5 gọi là Thăng Long nhƣng ĐVSKTT vẫn dùng tên cũ Đại La.
6 (8) Trả lại đất và trao đổi tù binh: về việc nầy ĐVSKTT viết: "Mậu
7 Ngọ, năm thứ 3 (1078), sai sứ sang Tống biếu 5 con voi đã được huấn
8 luyện thuần thục để xin trả lại những châu Quảng Nguyên, Tô Mậu và
9 tù binh bị quân Tống bắt đi". Tiếp theo, năm Kỷ Mùi (1079),
10 ĐVSKTT viết: "Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta" (tức là châu
11 Quảng Nguyên, nhà Tống đổi làm Thuận Châu), rồi đến năm Tân Dậu
12 (1081) thì viết: "Trả lại cho nhà Tống dân và lính bị bắt ở ba châu
13 Ung, Khâm, Liêm vì nhà Tống đã trả lại cho ta các châu Quảng
14 Nguyên". Nhƣ thế, theo ĐVSKTT thì nhà Lý chỉ trả lại những tù binh
15 ngƣời Tống sau khi nhà Tống đã trả lại châu Quảng Nguyên và tù
16 binh ngƣời của nhà Lý. Kiểu cách viết nhƣ thế ngầm có ý rằng nhà Lý
17 có ƣu thế hơn nhà Tống trong vấn đề thƣơng lƣợng trao trả đất đai và
18 tù binh giữa hai bên: có ý muốn nói rằng nhà Tống phải thi hành trƣớc
19 những đòi hỏi của nhà Lý đƣa ra rồi sau đó nhà Lý mới cứu xét những
20 yêu cầu của nhà Tống.
21 Tuy nhiên, Sử Cƣơng Mục Tục Biên của Trung Hoa thì chép
22 ngƣợc lại: Tháng 9, mùa thu, Mậu Ngọ (1078), năm Nguyên Phong
23 thứ 1 triều Tống, Giao Chỉ dâng biểu xin lại những đất đã mất, nhà
24 Tống không ưng thuận. Sau đó ít lâu, Kiền Đức (Lý Nhân Tông) trả
25 lại những dân và tù binh bị bắt từ ngày trước cho nên Tống mới cho
26 lại Thuận Châu. Nhƣ vậy từ mùa Thu năm Mậu Ngọ (1078) cho tới
27 "sau đó ít lâu" có nghĩa là cuối năm Mậu Ngọ (1078) hoặc đầu năm
28 Kỷ Mùi (1079) thì nhà Lý phải thi hành việc trao trả tù binh trƣớc để
29 đƣợc nhà Tống bằng lòng trả lại Thuận Châu (tức là châu Quảng
30 Nguyên) chứ không phải là đợi đến năm Tân Dậu (1081) mới trả lại
31 ngƣời và tù binh cho nhà Tống nhƣ ĐVSKTT đã chép. Vì thế, những
32 tác giả KĐVSTGCM cho rằng ĐVSKTT là ghi chép không đúng sự
33 thực.
34 Thực ra, đây chỉ là vấn đề sĩ diện và tự ái cho nên phía nào cũng
35 muốn tỏ ra cho hậu thế biết là phía bên mình ở trong thế mạnh trong
36 khi thƣơng lƣợng ngoại giao. Dù sao, khi KĐVSTGCM đã dựa vào
37 sách sử của Trung Hoa (Sử Cương Mục Tục Biên) để phê phán thì
38 cũng không chắc đã chính xác trung thực.
39 Ngƣời ta chỉ có thể suy luận nhƣ sau: cuối năm 1078, sứ Nhà Lý
40 sang để đàm phán thƣơng lƣợng với nhà Tống; nội dung cuộc đàm
41 phán là việc trao trả đất đai và tù binh giữa 2 nƣớc.
42 Nhà Lý yêu cầu trả lại các châu Quảng Nguyên, châu Tô Mậu
43 cùng tù binh bị bắt từ các châu đó; nhà Tống yêu cầu trả hết những
44 thƣờng dân và tù binh mà nhà Lý đã bắt ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm

VSTK - 249
1 (KĐVS chép rằng nhà Tống yêu cầu giao trả hơn 1,000 ngƣời bị bắt
2 từ các châu Ung, Khâm Liêm). Hai bên có thể đã thỏa thuận ký kết
3 nhƣ thế và mãi đến năm 1079 mới thi hành. Tuy nhiên, trong đợt nầy
4 nhà Lý chỉ mới giao trả cho nhà Tống hơn 200 ngƣời và vì thế nhà
5 Tống cũng chỉ trao trả cho nhà Lý một phần lãnh thổ của châu Quảng
6 Nguyên (Tống đã đổi tên thành Thuận châu). Những châu khác nhƣ
7 Tƣ Lang, Tô châu, Mậu châu và huyện Quang Lang cũng do quân
8 Tống chiếm cùng mộ lúc với châu Quảng Nguyên thì Nhà Tống vẫn
9 còn chiếm giữ. Trong đợt trao đổi lần thứ nhì vào năm 1081, sau khi
10 nhà Lý chịu trả hết số tù binh bắt đƣợc ở Khâm, Liêm, Ung thì lúc đó
11 nhà Tống mới chịu trả cho nhà Lý thêm 4 châu và một huyện (phần
12 còn lại của châu Quảng Nguyên, châu Tƣ Lang, Tô châu, Mậu châu
13 và huyện Quang Lang mà ĐVSKTT chép gộp chung là "các châu ở
14 Quảng Nguyên" ).
15 (9) Thuận Châu: ĐVSKTT chú rằng: "tức là châu Quảng Nguyên,
16 nhà Tống đổi làm Thuận Châu". Còn KĐVSTGCM viết: "Trước
17 đây, bọn Quách Quỳ sang xăm lấn các châu Quảng Nguyên đều mất
18 về tay nhà Tống, Tống đổi Quảng Nguyên làm Thuận Châu...". Lối
19 viết nhƣ thế của 2 b sử cũ khiến cho ngƣời đọc bị lạc hƣớng: tại sao
20 lại là các châu Quảng Nguyên? Phải chăng nhà Tống đã gộp chung
21 các châu đã chiếm đƣợc để lập thành một châu duy nhất là Thuận
22 Châu mà trong đó châu Quảng Nguyên cũ của nhà Lý chỉ là một vùng
23 trong Thuận Châu của nhà Tống? Chính những điểm mù mờ nầy càng
24 khiến cho ngƣời đọc thắc mắc hơn khi nhà Lý lại sai Lê Văn Thịnh
25 sang Tống bàn về việc biên cƣơng vào năm Giáp Tý (1084).
26 (10) Nhà Tống trả lại cho nhà Lý 6 huyện, 3 động: ĐVSKTT chép:
27 Giáp Tý, Anh Vũ Chiêu Thắng, năm thứ 9 (1084), mùa hạ, tháng 6,
28 sai thị lang bộ binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình nghị bàn với
29 người nhà Tống về vấn đề cương giới giữa hai nước....Định biên giới.
30 Nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện và 3 động. Người Tống có thơ
31 rằng:"Nhân tham Giao Chỉ tượng, khướt thất Quảng Nguyên kim"
32 (tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên). KĐVSTGCM thì trích
33 dẫn hai câu thơ vừa kể ở đoạn chép nhà Tống trả lại cho nhà Lý châu
34 Quảng Nguyên vào năm 1079 rồi sau mới chép việc nhà Tống trao trả
35 6 huyện 3 động sau nầy vào năm 1084.
36 Nhƣ vậy, theo ĐVSKTT và căn cứ vào 2 câu thơ trên thì 6 huyện 3
37 động hoặc nằm chung trong châu Quảng Nguyên cũ của nhà Lý
38 nhƣng nhà Tống đã cắt xén phân chia lại để làm thành Thuận Châu
39 với 6 huyện 3 động và một châu Quảng Nguyên mới bị thu hẹp. Hoặc
40 giả 6 huyện 3 động là tổng số đất đay của các châu Tƣ Lang, Tô
41 Châu, Mậu Châu và huyện Quang Lang bị quân Tống chiếm đƣợc
42 cùng một lúc với châu Quảng Nguyên và đến nay (1084) nhà Tống
43 mới chịu trả lại cho nhà Lý; bởi lẽ trƣớc 1084, ĐVSKTT không đề
44 cập đến việc nhà Tống có hay không có trả lại các châu huyện đó

VSTK - 250
1 cùng một lúc với châu Quảng Nguyên (đã bị nhà Tông thu hẹp) vào
2 năm 1081. KĐVSTGCM trích dẫn 2 câu thơ kể trên đặt ở năm 1079
3 là năm nhà Tống trả lại châu Quảng Nguyên cho nhà Lý có nghĩa là 6
4 huyện 3 động đƣợc trả lại vào năm 1084 không có dính líu gì đến
5 châu Quảng Nguyên nhƣng lại là những phần đất khác cũng bị nhà
6 Tống đánh chiếm.
7 Lời cẩn án trong KĐVSTGCM trích dẫn: "Theo sách Danh tiết lục
8 của Trần Kế Đằng, Lê Văn Thịnh sang Quảng Tây hội nghị với tuần
9 kiểm ti nhà Tống là Thanh Trác; vua Tống hạ chiếu trả lại cho ta 6
10 huyện ở Bảo Lạc và 6 động ở Túc Tang " (CB.3/ 44). Tiếp theo,
11 KĐVSTGCM viết trong lời cẩn án nhƣ sau: "Theo sử Cương Mục Tục
12 Biên (Trung quốc) và sách Giao Chỉ di biên, quân Tống sang xăm
13 lược, chiếm lấy các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Châu, Mậu
14 Châu và huyện Quang Lang (4 châu, 1 huyện). Nhà Tống đổi Quảng
15 Nguyên làm Thuận Châu. Nay xét: về châu Tư Lang và huyện Quang
16 Lang không thấy các sách nói đến việc trả lại, hay là khi nhà Tống
17 đổi Quảng Nguyên làm Thuận Châu thì cũng gộp cả Châu Tư Lang
18 và huyện Quang Lang mà chia đặt làm huyện và động; vậy 6 huyện và
19 3 động có phải là đất ấy chăng?
20 Còn 6 huyện Bảo Lạc và 6 động Túc Tang trong Danh Ký Lục thì
21 không nghe nói nhà Tống xăm chiếm bao giờ, thì làm gì có việc trả
22 lại? "
23 LTHCLC của Phan Huy Chú chép: "Năm thứ 6 (1081), nhà Tống
24 đem 4 Châu 1 huyện trả lại cho ta . Trước kia, khi Quách Quỳ xăm
25 lược nước ta thì các châu huyện đó mất vào nhà Tống, nhà Tống đổi
26 châu Quảng Nguyên làm Thuận Châu, sai cáp môn sứ Đào Bật làm
27 tri châu, còn các châu khác đều để tên cũ. Đến khi được trả lại tù
28 binh ở các châu Ung, Khâm, Liêm thì nhà Tống mới chịu trả tất cả
29 đất đã chiếm. Năm thứ 9 (1084), mùa hạ tháng 6, sai binh bộ thị lang
30 là Lê Văn Thịnh sang Tống bàn về việc biên cương, tuần kiểm hữu
31 giang của Tống là Thành Trác đến hội ở Quảng Tây, bàn về việc
32 cương giới các châu Thuận An, Quy Hoá; vua Tống đem 6 huyện Bảo
33 Lạc, 6 động Túc Tang là đất ngoài cửa ải trả lại cho nước ta."
34 (LTHCLC/ Bang Giao Chí/Việc Biên Cƣơng). Nhƣ thế, theo Phan
35 Huy Chú thì việc Lê Văn Thịnh sang Tống năm 1084 bàn về vấn đề
36 biên cƣơng giữa hai nƣớc là mộ công tác ngoại giao khác với công tác
37 năm 1078 của Đào Tông Nguyên đem cống vua Tống năm con voi để
38 xin trả lại các châu, huyện và những dân ở các nơi đó bị bắt .
39 Có những nghi vấn sau đây :
40  Những phần đất 6 huyện 3 động nằm ở đâu và bị nhà Tống
41 chiếm giữ từ bao giờ ? Có phải là 6 huyện thuộc Bảo Lộc và 6 động
42 thuộc Túc Tang? Bảo Lộc và Túc Tang là châu hay huyện dƣới thời
43 nhà Lý ?

VSTK - 251
1  Việc bàn định cƣơng giới ở các châu Thuận An, Quy Hóa
2 đƣợc viết lại trong LTHCLC của Phan Huy Chú nhƣng không thấy 2
3 châu nầy đƣợc đề cập tới trong 2 bộ sử cũ, tại sao?
4 Theo lời chua trong KĐVSTGCM thì Bảo Lạc thuộc tỉnh Tuyên
5 Quang, còn Túc Tang thì không rõ là ở đâu. Nhƣ vậy không thể cho
6 rằng 6 huyện Bảo Lộc và 6 động Túc Tang là những phần đất thuộc
7 châu Tƣ Lang và huyện Quang Lang nhƣ sự suy đoán viết trong lời
8 cẩn án vì châu Tƣ Lang thuộc tỉnh Thái Nguyên còn huyện Quang
9 Lang thì thuộc tỉnh Lạng Sơn.
10 Do đó có thể suy luận rằng: trong cuộc chiến biên giới năm 1075
11 và 1076, Nhà Lý chỉ đánh phá các châu Ung, Khâm, Liêm và bắt
12 ngƣời đem về, còn nhà Tống thì đem quân sang đánh trả đũa rồi
13 chiếm giữ nhiều châu, huyện và động ở các tỉnh biên giới của nhà Lý
14 ở các vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hƣng
15 Hoá. Sau đó, nhà Tống trả lại những châu động qua hai lần thƣơng
16 lƣợng với sứ của nhà Lý :
17 Lần thứ nhứt: do Đào Tông Nguyên đại diện sang Tống năm
18 1078, nhƣng mãi đến 1081 nhà Tống mới chịu trả cho nhà Lý 4 châu
19 1 huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn gồm có châu Quảng
20 Nguyên (Cao Bằng), Tô Châu, Mậu Châu (Cao Bằng-Lạng Sơn), Tƣ
21 Lang (Thái Nguyên-Cao Bằng) và huyện Quang Lang (Lạng Sơn).
22 Lần thứ nhì: lần nầy nhà Lý do binh bộ thị Lang Lê Văn Thịnh
23 đại diện năm 1084 và nhà Tống trả lại cho nhà Lý 6 huyện ở châu Bảo
24 Lạc (Tuyên Quang), 6 động ở Túc Tang (không khảo đƣợc) và những
25 phần đất khác ở các châu Thuận An, Quy Hóa ( Hƣng Hóa).

KHẢO LUẬN :

26 Đời nhà Lý nổi bật một tƣớng tài giỏi hiếm có là Lý Thƣờng Kiệt:
27 đánh Tống chiếm các châu Khâm, Liêm, Ung, chém tƣớng của Tống
28 là Trƣơng Thủ Tiết ở cửa Côn Lôn, đánh tan quân Tống ở sông Nhƣ
29 Nguyệt, chận đƣờng tiến quân của địch ở sông Phú Lƣơng. Sau những
30 trận đánh ở biên giới với quân nhà Lý do Lý Thƣờng Kiệt thống lãnh,
31 nhà Tống dù không bị thua hẳn nhƣng thanh thế quân sự của nhà Lý
32 cũng làm cho nhà Tống kiên nể và vì thế cho nên đã chịu ngồi xuống
33 bàn hội nghị để cùng nhà Lý bàn bạc thƣơng lƣợng, giải quyết vấn đề
34 biên cƣơng lãnh thổ giữa 2 nƣớc.
35 Ngô Sĩ Liên nói: "Nước ta với Trung Quốc nhiều lần đánh nhau.
36 Từ Lý Nam Đế trở về trước, khi được khi thua bất chừng, sự tích đã
37 xa xưa. Về sau Ngô Quyền thắng trận ở Bạch Đằng, Lê Đại Hành
38 thắng trận ở Lạng Sơn, Trần Nhân Tông đánh bại Toa Đô, bắt sống Ô
39 Mã Nhi, đuổi chạy Thoát Hoan, đều là đánh tan giặc mạnh đương
40 trên thế hoành hành; tỏ rằng thế nước của ta không ai có thể xăm

VSTK - 252
1 phạm và những chiến tích đó đã để lại tiếng hay nhưng đều là xảy ra
2 khi giặc chủ động đến xăm lấn mà ta bất đắc dĩ phải đối phó. Còn
3 như bày trận ngang nhiên tỏ rõ, điều động hơn mười vạn quân đi sâu
4 vào đất người, đánh tan ba châu như bẻ cành cây khô, kẻ địch không
5 dám đối đầu chống cự hoặc đuổi theo thì tài dùng binh như thế thật là
6 hiếm có ở nước ta. Cũng vì thế, nước ta thường coi chiến dịch Ung
7 Liêm như là một thành tích quân sự hạng nhất xưa nay" (LTHCLC/
8 Bang Giao Chí/ Việc Biên Cƣơng/ Phan Huy Chú).
9 Phan Huy Chú cũng có những lời nhận xét nhƣ sau: "Việc biên
10 giới ở đời Lý, được nhà Tống trả lại đất đai rất nhiều. Trước hết là
11 nhờ có uy thắng trận, người trung châu hoảng sợ khiến cho nhà Tống
12 khâm phục, sau nữa lại có sứ thần khéo léo trong việc ngoại giao bàn
13 bạc cho nên yêu cầu gì cũng đạt được, khiến cho Trung Quốc không
14 còn tranh cải mà phải chịu phục, thế lực Nam Giao được mạnh. Căn
15 cứ vào đó thì biết được thế cường thịnh thời bấy giờ" (LTHCLC/ đã
16 dẫn chiếu ở trên).

LÝ NHÂN TÔNG (tiếp theo)

17 Năm 1085, cho Lê Văn Thịnh làm Thái Sƣ.


18 Năm 1086 tuyển ngƣời có văn học để sung vào làm
19 quan ở Hàn Lâm Viện. Mạc Hiển Tích đỗ đầu đƣợc bổ
20 làm Hàn Lâm viện học sĩ.
21 Năm 1087, dựng bí thƣ các. Sứ nhà Tống sang
22 phong cho Lý Nhân Tông chức Nam Bình vƣơng.
23 Năm 1088, ban tƣớc hiệu Quốc sƣ cho nhà sƣ Khô
24 Đầu(1) để làm cố vấn cho vua bàn định việc cai trị
25 nƣớc.
26 Năm 1089, quy định các chức quan(2) văn võ, quan
27 hầu vua và các chức tạp lƣu. Đào sông Lãnh Kinh(3).
28 Nhà Tống xâm phạm vào châu Thạch Tê(4).
29 Năm 1092, ấn định rõ thể lệ về việc thu tô, cứ mỗi
30 mẫu ruộng thu 3 thăng(5) lúa dùng để nuôi quân.

VSTK - 253
1 Năm 1094, sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang
2 Chiêm Thành đòi lễ triều cống vì Chiêm Thành chậm
3 trễ.
4 Năm 1095, đại hạn, giảm thuế tô; thả tù phạm.
5 Năm 1096, thái sƣ Lê Văn Thịnh mƣu phản(6), bị bắt
6 đƣa đi an trí ở Thao Giang(7).
7 Năm 1097, ra lệnh kiểm điểm và quy định lại những
8 thể lệ vệ điện chƣơng(8) cũ.
9 Năm 1101, dùng Lý Thƣờng Kiệt(9) kiêm chức nội
10 thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự.
11 Sửa chùa Diên Hựu; sai hoàng hậu cùng các phi tần
12 lập đàn trai giới ăn chay để cầu tự(10).
13 Năm 1103, Lý Giác làm phản ở Diễn Châu, Lý
14 Nhân Tông lại cử Lý Thƣờng Kiệt đi dẹp. Lý Giác
15 thua phải chạy sang Chiêm Thành và xúi giục vua
16 Chiêm là Chế Ma Na đem quân đánh phá biên giới,
17 lấy lại 3 châu mà ngày trƣớc vua Chiêm là Chế Củ đã
18 dâng dƣới thời Lý Thánh Tông.
19 Năm 1104, Lý Thƣờng Kiệt lại đem quân dẹp tan
20 quân Chiêm Thành, Chế Ma Na phải hoàn trả ba châu
21 đã chiếm.
22 Năm 1105, Lý Thƣờng Kiệt mất.
23 Năm 1108, đắp đê ngăn nƣớc sông ở phƣờng Cơ
24 Xá(11).
25 Năm 1117, hoàng thái hậu Linh Nhân Ỷ Lan mất.
26 Khi làm lễ hỏa táng, bắt 3 ngƣời hầu gái phải chịu
27 thiêu sống theo tục tuận táng(12).
28 Lập con của Sùng Hiền hầu là Lý Dƣơng Hoán (13)
29 làm hoàng thái tử.
30 Năm 1119, Lý Nhân Tông tự cầm quân đánh động
31 Ma Sa và bắt sống đƣợc động trƣởng Ngụy Bàng vì
32 Ngụy Bàng không giữ lễ cống.
33 Năm 1125, đầu lĩnh châu Quảng Nguyên là Mạc
34 Hiền phạm tội bỏ trốn cùng gia quyến và đồ đảng chạy
35 sang động Cống thuộc Ung Châu của Nhà Tống.
VSTK - 254
1 Ngƣời của nhà Tống bắt đƣợc giải giao trở về cho nhà
2 Lý, Lý Nhân Tông phạt Mạc Hiền tội lƣu, đày đi châu
3 Nghệ An, còn vợ con thì bắt làm nô dịch trong các nhà
4 quan.
5 Xuống chiếu quy định hình phạt về việc đánh chết
6 ngƣời: đánh 100 trƣợng và phải tội đồ.
7 Năm 1127, Lý Nhân Tông mất. Di lệnh chỉ cho
8 phép để tang 3 ngày mà thôi và không đƣợc xây lăng
9 tẩm(14) riêng.
10 Thái tử Lý Dƣơng Hoán lên ngôi tức là Lý Thần
11 Tông.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

12 (1) Quốc sƣ Khô Đầu: KĐVSTGCM chua: "Không rõ là tên hay


13 hiệu của ông sư nầy. Phần mục viết: Nhà vua sùng đạo Phật, tôn thầy
14 chùa làm quốc sư, thường bàn hỏi về việc nước. Cũng giống như Lê
15 Đại Hành đối với nhà sư Ngô Khuông Việt".
16 (2) Định các chức quan: dƣới thời Lý Nhân Tông, năm 1087 đặt
17 Hàn Lâm viện; năm 1088 đặt mƣời hỏa thƣ gia nhƣ: nội hoả thƣ gia,
18 ngự khố thƣ gia, chi hầu thƣ gia, nội thƣ gia, lệnh thƣ gia (duyên cách
19 cách và nhiệm vụ các chức thƣ gia nầy sử sách cũ không thấy giải
20 thích rõ ràng).
21 Theo Phan Huy Chú/LTHCLC, năm 1089 quy định các chức quan
22 nhƣ tụng quan (quan hầu cận vua), tạp lƣu (tức là chức quan không
23 phải là quan văn hay quan võ, chẳng hạn nhƣ các chức quan ban cấp
24 cho các đạo sĩ, sƣ tăng). Năm 1101, chức quan Nội thi phán thủ đô áp
25 nha hành điện nội ngoại đô tri sự ban cấp cho Lý Thƣờng Kiệt: theo
26 sách Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn chỉ giải thích sơ lƣợc chức
27 Hành điện nội ngoại là một chức quan trong ban cấp cho ngƣời có vai
28 vế lớn thân thích của vua, còn phán thủ đô áp nha thì chức chế ra sao
29 chƣa rõ.
30 Năm 1105, khi Lý Thƣờng Kiệt chết thì đƣợc truy tặng chức
31 Kiểm hiệu Bình chƣơng quân quốc trọng sự mà theo Phan Huy Chú
32 thì chức nầy chỉ phong cho những quan viên quan trọng và có danh
33 giá.
34 Cũng theo Phan Huy Chú: Quan chế triều Lý đại lƣợc nhƣ sau:
35 phẩm trật các hàng quan văn, quan võ đều có 9 phẩm. Ba chức thái là

VSTK - 255
1 thái sư, thái phó, thái bảo; ba chức thiếu là thiếu sư, thiếu phó, thiếu
2 bảo cùng với các chức thái úy, thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri
3 sự, kiểm hiệu bình chương sự đều là những chức trọng yếu của văn võ
4 đại thần.
5 Ban văn có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và
6 trung thư thị lang, bộ thị lang, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ
7 sứ, điện học sĩ, hàn lâm họ sĩ, vệ đại phu, thư gia các hỏa, thừa trực
8 lang, thừa tín lang đề là các chức quan trong tức là làm việc tại triều.
9 Các chức làm việc bên ngoài triều thì có tri phủ, phán phủ và tri
10 châu.
11 Phía hàng quan võ thì có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu
12 mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng,
13 tướng quân các vệ (có các hiệu Uy vệ, Kiêu vệ, Định thắng), chỉ huy
14 sứ, vũ vệ hỏa đầu, các binh tào Vũ Tiệp và Vũ Lâm; những hàng quan
15 võ nầy làm việc tại triều. Lại có các quan binh và trấn thủ các lộ, các
16 trấn, các trại là những chức quan ngoài nhưng phẩm trật và cấp bậc
17 thì không khảo được (THCLC/Quan chức chí triều Lý).
18 (3) Sông Lãnh Kinh: theo Dƣ địa chí/ Nguyễn Trãi thì sông nầy
19 thuộc tỉnh Thái Nguyên nhƣng không biết đích xác ở chỗ nào.
20 (4) Châu Thạch Tê: Không rõ ở đâu. Có ý kiến đoán chừng là miền
21 Thạch Lam cũ của tỉnh Cao Bằng.
22 (5) Thăng: đơn vị đo lƣờng các loại lúa, gạo, nếp ngày xƣa.
23 (6) Lê Văn Thịnh mƣu phản: chuyện rất hoang đƣờng và quái dị.
24 ĐVSKTT viết: "Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ
25 xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng
26 ghe chèo tới, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo phóng ra. Giây lát
27 sau, mây mù tan thì thấy trong ghe có con hổ, ai nấy đề sợ hãi kêu
28 nguy. Người đánh cá tên Mục Thận liền quăng lưới trùm lên con hổ,
29 nhưng lại ra là thái sư Lê Văn Thịnh. Ngày trước Lê Văn Thịnh có gia
30 nô người gốc nước Đại Lý có pháp thuật kỳ lạ đã truyền pháp thuật
31 đó cho Lê Văn Thịnh mưu chuyện phản nghịch."
32 (7) Thao giang: nay là huyện Tam Thanh, Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú.
33 (8) Điển chƣơng: là những thể lệ cách thức về chính sự của một triều
34 đại.
35 (9) Lý Thƣờng Kiệt: ĐVSKTT và KĐVSTGCM và LTHCLC đề
36 viết giống nhau về Lý Thƣờng Kiệt nhƣng không nói rõ lý lịch và chỉ
37 có LTHCLC viết rõ Lý Thƣờng Kiệt tự thiến (cắt bỏ bộ phận sinh
38 dục) để thành hoạn quan Hoàng môn chi hậu cận kề bên vua. Các
39 sách đó cho biết ông là ngƣời phƣờng Thái Hoà (ở huyện Thọ Xƣơng,
40 phía Tây thành Thăng Long, nay là phía Nam đê Bách Thảo ở Hà
41 Nội), lập đƣợc nhiều công trạng đƣợc Lý Thánh Tông nhận làm anh
42 em kết nghĩa, làm quan qua 3 triều đại nhà Lý đƣợc thăng chức nhiều
43 lần lên đế chức Thái Úy rồi chế.

VSTK - 256
1 Mộ chí của Đỗ Anh Vũ ở làng Yên Lạc, phủ Khoái Châu tỉnh
2 Hƣng Yên cho biết rằng: thân sinh của Thƣờng Kiệt họ Quách, quê ở
3 huyện Câu Lậu, thuộc Tế Giang, làm thái Úy đời Lý Thái Tông, đƣợc
4 vua ban quốc tính, tức là đƣợc bỏ họ Quách để mang họ Lý của vua.
5 Khảo xét thời Lý Thái Tông, năm mậu Tý (1048), mùa Thu tháng
6 9, Nùng Trí Cao làm phản chiếm giữ động Vật Ác, Lý Thái Tông sai
7 thái úy Quách Thịnh Dật đi đánh. Nhƣ vậy, có thể suy đoán khá vững
8 rằng Quách Thịnh Dật hay Lý Thịnh Dật là thân sinh của Quách
9 Thƣờng Kiệt hay Lý Thƣờng Kiệt tức là vào khoảng năm 1048-1054
10 đời Lý Thái Tông, Lý Thƣờng Kiệt đƣơng thời là một thanh niên bảnh
11 bao trong lứa tuổi từ 12 đến 18 tuổi (Lý Thƣờng Kiệt sinh năm 1036
12 và mất năm 1105/ theo VNVHSY/ Dƣơng Quảng Hàm) và đƣợc xem
13 nhƣ là nghĩa tử của Lý Thái Tông vì cha của Kiệt đã thành anh em kết
14 nghĩa của Lý Thái Tông rồi. Đến trào của Lý Thánh Tông 1054-1072,
15 thì trên danh nghĩa Lý Thƣờng Kiệt đƣợc tập ấm danh vị nghĩa đệ của
16 thiên tử, tức là em nuôi của Lý Thánh Tông (sinh năm 1023, lớn hơn
17 Lý Thƣờng Kiệt 13 tuổi). Do đó, danh vị thiên tử nghĩa đệ trong sử
18 cũ phải đƣợc hiểu Lý Thƣờng Kiệt là nghĩa đệ của vua Lý Thánh
19 Tông hay nói khác đi Kiệt đƣợc xem nhƣ là nghĩa nam/ con nuôi của
20 vua Lý Thái Tông.
21 (10) Cầu tự: khấn vái thần linh, tiên, phật cho đƣợc sinh con nối dõi
22 dòng họ.
23 (11) Đê Cơ Xá: đoạn đê sông Hồng ở phƣờng Cơ Xá, huyện Thọ
24 Xƣơng, nay ở vào khoảng gần cầu Long Biên (bãi Cơ Xá) thuộc Hà
25 Nội.
26 (12) Tuận táng: chôn sống hoặc thiêu sống cho chết theo một ngƣời
27 khác. Đây là một tục lệ dã man rừng rú, đem đồ vật hoặc ngƣời thật
28 còn sống để chôn theo kẻ chết.
29 ĐVSKTT viết: "Mùa thu tháng 7, ngày 25, Ỷ Lan hoàng thái hậu
30 băng, làm lễ hỏa táng đồng thời bắt 3 người hầu gái chôn sống theo."
31 (13) Sùng Hiền hầu và Lý Dƣơng Hoán: ĐVSKTT viết: "Bấy giờ
32 vua (Lý Nhân Tông) tuổi đã nhiều mà chưa có con trai nối dõi, xuống
33 chiếu chọn con trai của những người trong tôn thất (con trai của các
34 hầu tƣớc Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu,
35 Thành Hƣng) để lập làm con nối ngôi. (thái tử). Bấy giờ con trai của
36 Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh
37 lợi, vua rất yêu cho nên được lập làm hoàng thái tử vào năm 1117.
38 Trước đó, em vua là Sùng Hiền hầu (không rõ tên) cũng chưa có con
39 trai, gặp lúc nhà sư núi Thạch Thất(a) là Từ Đạo Hạnh tới chơi nhà,
40 bèn nói với nhà sư về việc cầu tự. Đạo Hạnh dặn rằng bao giờ vợ của
41 Sùng Hiền sắp đến ngày sinh thì báo cho nhà sư biết trước để nhà sư
42 cầu khẩn với sơn thần. Sau đó vợ Sùng Hiền có thai, trở dạ mãi không
43 đẻ được. Sùng Hiền nhớ lại lời Đạo Hạnh dặn từ trước cho nên sai
44 người tới núi Thạch Thất để báo với nhà sư. Đạo Hạnh lập tức thay

VSTK - 257
1 áo tắm rửa, vào hang núi trút xác mà qua đời . Sau đó vợ của Sùng
2 Hiền sinh được con trai tức là Dương Hoán. Người làng cho là việc
3 lạ giữ xác Đạo Hạnh trong lõm đá để thờ. Nay núi Phật Tích là chỗ
4 ấy. (ĐVSKTT/BK.3/16a, 17b và 18b).
5 (14) Lăng tẩm: nơi chôn cất vua chúa thời phong kiến.

KHẢO LUẬN :

 Ỷ Lan thái hậu:

6 Lý lịch của ngƣời đàn bà nầy từ trƣớc đã rất là mù mờ mà việc


7 sinh nở ra Lý Nhân Tông còn kỳ dị và mờ ám hơn. Khi Lý Thánh
8 Tông cầm quân đánh Chiêm Thành, sử cũ chép rằng nguyên phi của
9 vua thay mặt tạm thời coi việc nội trị. Nguyên phi là ngƣời vợ thứ
10 đứng đầu các hàng vợ thứ khác của vua, còn vợ cả của vua gọi là
11 hoàng hậu, dƣới hoàng hậu còn có 3 ngƣời vợ thứ gọi là phi hoặc phu
12 nhân. Còn gọi là thần phi tức là ngƣời vợ thứ đƣợc vua yêu quý đặc
13 biệt chứ không phải là nguyên phi. Không thấy sử cũ nói gi tới việc
14 Lý Thánh Tông có hay không có lập hoàng hậu. Nhƣ vậy nguyên phi
15 thay mặt vua tạm thời coi việc nội trị lúc Lý Thánh Tông vắng mặt
16 nhất định không phải là Ỷ Lan vì Ỷ Lan lúc đó (năm Kỷ Dậu/ 1069)
17 chỉ là một thần phi và nguyên phi lúc đó là Dƣơng phi mà sau nầy
18 (năm 1072) đƣợc Lý Nhân Tông tôn làm Dƣơng thái hậu và Ỷ Lan,
19 mẹ đẻ của Lý Nhân Tông đƣợc tôn làm hoàng thái phi tức là Ỷ Lan
20 vẫn còn tiếp tục ở dƣới quyền của Dƣơng thái hậu. Chính vì thế mà Ỷ
21 Lan đã suy bì ganh tị, xúi bẩy Lý Nhân Tông giam giữ Dƣơng Thái
22 hậu rồi bức phải chết (năm 1073).
23

 Thái tử Lý Dƣơng Hoán và sƣ Đạo Hạnh:

24 Lại thêm một trò thụ thai sinh đẻ do một ông sƣ xếp đặt. Vƣơng
25 tộc nhà Lý đời nào cũng có những chuyện huyền hoặc quái dị, từ ông
26 tổ Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) có bà mẹ ăn nằm lang chạ ở nơi chùa
27 chiền rồi trút hết tội lỗi cho một ông thần bá vơ, rồi đến phiên Phật
28 Mã (Lý Thái Tông) có 7 nốt ruồi sau gáy nhƣ chòm sao Bắc đẩu, áo
29 bào của Phật Mã ban cho ngƣời khác có rồng vàng hiện ra ở mắc áo,
30 dấu ngƣời thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm, rồng hiện lên ở điện Càn
31 Nguyên, mƣa gạo trắng thành đống trƣớc bậc thềm chùa Vạn Tuế .
32 Nhật Tôn (Lý Thánh Tông) có bà mẹ nằm chiêm bao thấy mặt
33 trăng rơi vào bụng mà có mang rồi đẻ ra Nhật Tôn. Chuyện thai
34 nghén của Ỷ Lan đẻ ra Càn Đức (Lý Nhân Tông) là một trò sắp xếp
35 dâm dật bẩn thiểu làm nhơ nhuốc nơi thờ phƣợng tôn nghiêm đƣợc
36 che đậy lấp liếm dƣới mỹ từ thụ thai thác hóa. Nay lại đến lƣợt ông

VSTK - 258
1 sƣ Đạo Hạnh dùng pháp thuật trúc xác chui vào bụng bà vợ của Sùng
2 Hiền hầu đầu thai đẻ ra Dƣơng Hoán (Lý Thần Tông).

 Về thành tích cai trị và xây dựng đất nƣớc


của Lý Nhân Tông:

3 Lý Nhân Tông là một ông vua giỏi của triều đại nhà Lý. Mặc dù
4 phải bận bịu nhiều về mặt quân sự nhƣng cũng không bỏ qua những
5 việc trong nƣớc: đắp đê Cơ xá, thƣờng xuyên theo dõi việc nông
6 nghiệp, gặt hái, cấm giết trâu làm thịt và ấn định hình phạt về tội ăn
7 trộm trâu, di dân đến các vùng đất mới chiếm ở phía Nam. Nhiều năm
8 đƣợc mùa to, không nghe nói dân chúng bị nạn đói.
9 Năm 1075, khởi đầu chế độ thi cử để chọn ngƣời tài ra làm quan
10 và lập quốc tử giám để dạy học và Hàn Lâm viện để trông nôm lãnh
11 vực văn học và phong hóa.
12 Về mặt biên cƣơng lãnh thổ thì bành trƣớng và củng cố các vùng
13 đất chiếm đƣợc ở phía Nam bằng cách vẽ bản đồ nhập vào lãnh thổ
14 của nhà Lý các châu Ma Linh, Bố Chính, Địa Lý đã chiếm đƣợc của
15 Chiêm Thành. Ở phía Bắc thì Nhà Tống của nƣớc Tàu phải kiên sợ
16 mà trả lại cho nhà Lý nhiều vùng lãnh thổ ở vùng biên giới giữa 2
17 nƣớc. Về mặt quân sự thì có những tƣớng tài giỏi nhƣ Lý Thƣờng
18 Kiệt, Tôn Đản. Về mặt ngoại giao thì có sứ thần tài giỏi khôn khéo
19 nhƣ Lê Văn Thịnh; trong việc nội trị thì có ngƣời phụ tá nhiều kinh
20 nghiệm và trung thành làm cố vấn nhƣ Lý Đạo Thành .
21 Những điểm yếu kém của Lý Nhân Tông là sùng đạo đến mức trở
22 thành cuồng tín, theo vết cũ của cha ông tiếp tục giữ thói mê tín dị
23 đoan, thích điềm lành, bắt chƣớc áp dụng những lễ tục vô nhân của
24 ngoại bang trong việc tế táng tiên nhân.


5. LÝ THẦN TÔNG ( 1128 - 1138 )

25 Tên húy là Dƣơng Hoán, cháu gọi Lý Thánh Tông


26 bằng ông, gọi Lý Nhân Tông bằng bác, con của Sùng
27 Hiền hầu; mẹ đẻ của Dƣơng Hoán họ Đỗ. Khi vừa
28 đƣợc 2 tuổi, Lý Nhân Tông đem vào nuôi trong cung
29 nội và lập làm hoàng thái tử. Nối ngôi vua tức là Lý
30 Thần Tông, đổi niên hiệu là Thiên Thuận (1128-1132),

VSTK - 259
1 đại xá tù phạm, trả lại ruộng đất của dân bị xung công
2 từ trƣớc. Áp dụng trở lại chính sách quân binh thay
3 phiên nhau sản xuất nông phẩm theo chế độ đã có qua
4 các đời nhà Lý.
5 Giặc Chân Lập quấy nhiễu ở bến Ba Đầu nhƣng bị
6 tƣớng Lý Công Bình đánh tan, rồi lại tiếp tục gây rối ở
7 hƣơng Đỗ Giang nhƣng cũng bị đánh dẹp.
8 Năm 1129, tôn Sùng Hiền hầu làm thái thƣợng
9 hoàng và mẹ ruột là Đỗ thị làm hoàng thái hậu.
10 Năm 1130, sứ nhà Tống sang sách phong cho Lý
11 Thần Tông làm Giao Chỉ Quận Vƣơng.
12 Năm 1132, Chân Lạp và Chiêm Thành lại cƣớp phá
13 quấy nhiễu nhƣng bị phá tan.
14 Hoàng tử Thiên Lộc sinh. Sứ Tống lại sang tăng
15 phong tƣớc Nam Bình Vƣơng(1) cho Lý Thần Tông.
16 Năm 1133, đổi niên hiệu là Thiên Chƣơng Bảo Tự.
17 Năm 1135, hai nƣớc Chân Lạp và Chiêm Thành
18 sang cống.
19 Năm 1136, nhà sƣ Minh Không(2) chữa khỏi bệnh
20 cho Lý Thần Tông đƣợc phong làm quốc sƣ.
21 Phu nhân Cảm Thánh(3) vợ thứ của Lý Thần Tông,
22 sinh con trai tên đặt tên là Thiên Tộ.
23 Năm 1138, Lý Thần Tông trở bệnh nặng. Trong lúc
24 Thần Tông thần trí không còn sáng suốt đã lập Thiên
25 Tộ làm thái tử do âm mƣu(4) sắp xếp của Cảm Thánh
26 cùng với 2 bà vợ thứ khác nữa là Nhật Phụng và Phụng
27 Thánh, giáng phong thái tử cũ Thiên Lộc làm Minh
28 Đạo vƣơng.
29 Ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), Lý Thần
30 Tông mất. Thái tử Thiên Tộ lên ngôi tức là Lý Anh
31 Tông.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:

VSTK - 260
1 (1) Phong tƣớc Nam Bình Vƣơng: năm 1130, nhà Tống đã sắc
2 phong cho Lý Thần Tông tƣớc Giao Chỉ quận Vƣơng. Lần nầy, năm
3 1132 lại cho sứ sang sắc phong tƣớc Nam Bình Vƣơng nhƣng trong
4 ĐVSKTT chép sai là sắc phong tƣớc Giao Chỉ quận vƣơng.
5 (2) Sƣ Minh Không: ĐVSKTT viết: "tục truyền khi nhà sư Từ Đạo
6 Hạnh sắp trút xác đem thuốc làm phù phép rồi giao cho học trò là
7 Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn rằng 20 năm sau nếu thấy
8 quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc nầy"
9 (ĐVSKTT/BK.3/39b). KĐVSTGCM cũng viết: "Nhà vua có tật,
10 không có thuốc chữa nhưng Minh Không chữa khỏi cho nên được vua
11 ban hiệu quốc sư. Lại miễn tô dịch cho vài trăm họ để cho Minh
12 Không được quyền xử dụng" (KĐVSTGCM/CB.4/31).
13 Minh Không ngƣời huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, làm sƣ chùa
14 Giao Thủy (huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định). Cũng cần lặp lại rằng,
15 nếu tin theo sử cũ ghi chép một cách nhảm nhí thì Lý Thần Tông là
16 hóa thân của nhà sƣ Đạo Hạnh còn nhà sƣ Minh Không là học trò của
17 Đạo Hạnh. Sách Lĩnh Nam chích quái viết về mối liên hệ giữa Đạo
18 Hạnh và Minh Không nhƣ sau: "Xưa ở làng Đàm Xá, huyện Đại
19 Hoàng (còn gọi là Gia Viễn) đất Trường An có người tên là Nguyễn
20 Chí Thành ở chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không quốc sư, lúc ít
21 tuổi đi học hỏi đó đây gặp được Đạo Hạnh truyền dạy cho đạo giáo
22 hơn hai mươi năm. Đạo Hạnh thấy người tiết tháo bèn truyền cho tâm
23 ấn lại đặt tên cho. Kịp tới lúc Đạo Hạnh sắp tạ thế nên mới bảo Minh
24 Không rằng: .....Ta nay xuất thế ở địa vị làm thầy người ta, bệnh trái
25 kiếp sau ắt là khó thể tránh phải mang vào thân. Ta với ngươi có
26 duyên, nên sau nầy hãy cứu trợ cho nhau. Đạo hạnh đã hóa kiếp (hoá
27 kiếp thành Lý Thần Tông), Minh Không trở về chùa cày ruộng hơn
28 hai mươi năm ẩn hơi ngậm tiếng. Khi đó Lý Thần Tông bỗng mắc
29 bệnh lạ, tâm thần rối loạn, kêu la gầm thét ghê rợn. Những thầy thuốc
30 giỏi trong dân gian được lênh gọi tới rất nhiều, hết người nầy tới
31 người khác nhưng tất cả đều chịu bó tay. Khi ấy có đứa trẻ hát rao
32 rằng: Dục trị thiên tử bệnh, tu đắc Nguyễn Minh Không nghĩa là
33 muốn chữa bệnh cho vua thì phải tìm cho được ông sư Nguyễn Minh
34 Không. Triều đình bèn cho sứ đi tìm được Minh Không. . . . Khi gặp
35 Lý Thần Tông, Minh Không hét lớn: Kẻ đại trượng phu đã được tôn
36 lên ngôi thiên tử, giàu sang lẫy lừng khắp bốn bể cớ sao còn phát
37 bệnh cuồng loạn như thế? Vua nghe hét rất run sợ. Minh Không bèn
38 lấy một cái vạt dầu lớn đun sôi sùng sục, dùng tay khuấy vào dầu mấy
39 lần rồi vẩy lên khắp thân thể của vua, bệnh tức thì lành mạnh. Vua
40 bèn phong cho Minh Không làm quốc sư, ban lộc mấy trăm hộ để
41 thưởng công" (LNCQ/Vũ Quỳnh-Kiều Phú).
42 (3) Cảm Thánh phu nhân: đƣợc nói tới 2 lần trong ĐVSKTT; lần
43 đầu là lúc ngƣời đàn bà nầy âm mƣu cùng với hai ngƣời đàn bà khác
44 lật đổ ngôi thái tử của Thiên Lộc để đƣa Thiên Tộ lên thay thế; trong

VSTK - 261
1 lần nầy, Cảm Thánh đƣợc gọi là phu nhân nghĩa là không đƣợc Lý
2 Thần Tông lập làm hoàng hậu. Tên của Cảm Thánh đƣợc đề cập tới
3 lần thứ nhì khi Thiên Tộ lên ngôi vua vào lúc 3 tuổi: tôn mẹ là Cảm
4 Thánh phu nhân họ Lê (Lê Thị) làm hoàng thái hậu. KĐVSTGCM
5 cũng chép giống nhƣ thế.
6 Tại sao lại gọi Cảm Thánh phu nhân mà cò kèm thêm họ Lê trong
7 ĐVSKTT và Lê thị trong KĐVSTGCM? Lê Thị nầy là ai?
8 Vào lúc Lý Thần Tông mới lên ngôi (năm 1128), ĐVSKTT có
9 đoạn viết nhƣ sau: Lập Lý thị làm hoàng hậu. Trước đó, vua sai vợ
10 chồng viên ngoại lang Lý Khánh Thần đi đón con gái của điện tiền
11 chỉ huy sứ Lý Sơn, và vợ chồng viên ngoại lang Trần Ngọc Độ đi đón
12 con gái của Lê Xương là cháu chú bác của thái úy Lê Bá Ngọc. Sách
13 lập con gái của Lý Sơn làm Lệ Thiên hoàng hậu, con gái của Lê
14 Xương làm Minh Bảo phu nhân (ĐVSKTT/BK.3/30a,b). Nhƣ vậy phải
15 chăng Cảm Thánh phu nhân họ Lê chính là Minh Bảo phu nhân, con
16 gái của Lê Xƣơng?
17 Còn thân phận của Lệ Thiên hoàng hậu họ Lý ra sao mà không
18 thấy nhắc tới vào lúc Lý Anh Tông (tức Thiên Tộ) lên ngôi vua?
19 ĐVSKTT có đoạn viết: Hoàng hậu Lệ Thiên và phu nhân Minh Bảo
20 về thăm nhà rồi không thấy nói có trở lại cung nội hay không và từ đó
21 không thấy nhắc nhở gì thêm đến tên của 2 ngƣời nầy nữa.
22 Vào năm 1132, ĐVSKTT có một đoạn ngắn viết nhƣ sau: Thượng thư
23 Lý Nguyên bị tội, chết ở trong ngục vì con gái của Nguyên là thứ phi
24 (vợ thứ) Chương Anh có tội(BK.III/37b). KĐVSTGCM cũng viết
25 giống nhƣ thế.
26 Thứ Phi Chƣơng Anh nầy là ai? Xét thấy cùng một thời gian
27 trong năm 1132, một trong những ngƣời vợ của Lý Thần Tông sinh ra
28 Thiên Lộc là đứa con trai đầu tiên của Lý Thần Tông. Ngƣời vợ nầy
29 nếu theo nhƣ sử cũ thì là một ngƣời vợ thứ bởi vì sử cũ gọi Thiên Lộc
30 là hoàng thứ trưởng tử Thiên Lộc sinh, sau phong làm Minh Đạo
31 vƣơng (hoàng tử là con vua, thứ là do một thứ phi hay vợ thứ sinh ra,
32 trƣởng có nghĩa là đứa con trai đầu lòng và đƣợc xem là con trai
33 trƣởng nếu những bà vợ chính mà sử cũ gọi là vợ đích của Lý Thần
34 Tông không có hoặc chƣa có con trai. Nhƣ vậy, thứ phi Chƣơng
35 Anh phải chăng là mẹ đẻ ra Thiên Lộc ?
36 Những kiểu viết lách hổ lốn, không đầu không đuôi giống nhƣ trên
37 trong hai bộ sử cũ có thể tìm thấy nhan nhản khắp nơi khiến cho
38 ngƣời đọc phải lắc đầu bực bội khi muốn tìm hiểu sự thật về những
39 trò ghen tƣơng, những âm mƣu hại nhau để tranh ngôi đoạt vị giữa
40 những ngƣời đàn bà vợ lớn, vợ nhỏ, nàng hầu bên trong cung vua.
41 Những điều xấu xa nhơ nhớp nhƣ thế lúc nào cũng đƣợc những nhà
42 viết sử thời phong kiến, mà đa số phải theo lệnh của vua, tìm cách che
43 đậy bằng cách viết lách qua loa, lộn xộn, bóp méo sự thật.

VSTK - 262
1 (4) Âm mƣu phế lập của Cảm Thánh: Ngô Sĩ Liên nói: "Lý Thần
2 Tông nối nghiệp lớn của vua trước, làm vua vào lúc đất nước thái
3 bình, bỏ con đích còn bú mớm, muốn lập con thứ đã trưởng thành vì
4 không muốn lầm lỗi như ngày trước vì non dạ, nhưng rốt cuộc chí ấy
5 không thành. Từ Văn Thông ăn hối lộ thì rõ thật rành rành không thể
6 chối cải. Những bọn bề tôi gian xảo cấu kết với hạng người trong
7 cung đình làm hỏng dự định của người khác thì từ trước tới nay triều
8 nào cũng có". (ĐVSKTT/BK.3/42 a,b).
9 Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: "Sử cũ chép: trước kia đã lập
10 Thiên Lộc làm con kế tự rồi dưới lại chép phong cho thái tử Thiên
11 Lộc làm Minh Đạo vương. Như vậy, Thiên Lộc đã chính thức được
12 lựa chọn làm đông cung từ lâu rồi nhưng chẳng ai biết được lập từ
13 bao giờ vì sử cũ bỏ sót không chép. Còn Thiên Tộ là con của phu
14 nhân họ Lê nhưng trong tờ di chiếu ở đây lại viết là con vợ đích, thế
15 là sử cũ chép không rõ; như vậy hẳn cứ để lại, người sau sẽ sưu
16 khảo"(KĐVSTGCM/CB.4/34).

KHẢO LUẬN :

17  Ở triều đại của Lý Thần Tông ngƣời ta lại thấy những âm


18 mƣu xảo trá, những sự ghen tuông nhớp nhơ của những ngƣời đàn bà
19 vƣơng tộc. Ở đây nổi bật một ngƣời đàn bà dâm ô nham hiểm khác
20 nữa của thời đại phong kiến: đó là Cảm Thánh, mẹ ruột của Thiên Tộ
21 tức là mẹ của Lý Anh Tông.
22 Qua những chú giải và khảo xét ở phần trên, ngƣời ta có thể suy
23 diễn nhƣ sau :
24  Dƣới đời Lý Thần Tông, vợ cả chính thức của Thần Tông là
25 Lệ Thiên hoàng hậu họ Lý, con gái của Lý Sơn.
26  Lý Sơn và thƣợng thƣ Lý Đông có thể là anh em hoặc cùng
27 dòng họ với nhau. Do đó con gái Lý Đông là Chương Anh cùng Lệ
28 Thiên hoàng hậu cũng là chị em và 2 ngƣời đàn bà nầy về cùng một
29 bè với nhau .
30  Chƣơng Anh đƣợc Thần Tông đem vào cung cho làm tỳ thiếp
31 hầu hạ gần gũi bên cạnh và có con với nhau là Thiên Lộc. Trong khi
32 Lệ Thiên hoàng hậu cùng những bà vợ đích khác nhƣ Minh Bảo phu
33 nhân, Nhật phụng phu nhân, Phụng Thánh phu nhân chƣa ai sinh
34 đƣợc con trai, cho nên con trai của Chƣơng Anh là Thiên Lộ đƣợc sử
35 cũ xem nhƣ là hoàng thái tử sẽ nối ngôi vua của Lý Thần Tông .
36  Minh Bảo, Nhật Phụng và Phụng Thánh về hùa với nhau
37 thành mộ cánh ngầm chống đối Chƣơng Anh và Lệ Thiên. Hai nhóm
38 đàn bà nầy ghen tuông với nhau đến mức trầm trọng làm liên lụy đến
39 cha của Chƣơng Anh là thƣợng thƣ Lý Đông bị giam vào ngục và
40 chết trong đó. Lý Thần Tông tức giận giáng chức rồi đuổi cả Lệ Thiên
41 hoàng hậu và Minh Bảo phu nhân đi mà sử cũ viết là hai ngƣời về

VSTK - 263
1 thăm nhà. Tên tuổi của Minh Bảo phu nhân từ đó đƣợc những ngƣời
2 viết sử quên đi và về sau này sẽ tái xuất hiện và đƣợc thay thế bằng
3 một tên hiệu khác do Lý Anh Tông (Thiên Tộ) ban cho Minh Bảo vào
4 lúc lên ngôi vua để xóa lắp đi những hành động ghen tƣơng xấu xa
5 của ngƣời đàn bà nầy. Nhƣ vậy, Minh Bảo phu nhân có thể là Cảm
6 Thánh phu nhân mà cũng là Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê, là mẹ
7 đẻ Thiên Tộ Lý Anh Tông: Minh Bảo phu nhân, Cảm Thánh phu
8 nhân, Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê trƣớc sau rất có thể chỉ là mộ
9 ngƣời, một ngƣời đàn bà chọc trời khuấy nƣớc và dâm loạn trải qua 2
10 triều Lý Thần Tông và Lý Anh Tông.
11  Còn một chi tiết mờ ám khác cũng gây nghi ngờ không kém:
12 ĐVSKTT viết lƣớt qua rất nhanh về việc sinh ra của Thiên Tộ: Hoàng
13 trưởng tử Thiên Tộ sinh. Các quan dâng vàng bạc tiền lụa và biếu
14 mừng nhƣng không nói là do ai sinh ra
15 Thiên Tộ.
16 Nhƣ trên đã khảo xét, Minh Bảo tức là Cảm Thánh bị Lý Thần Tông đuổi
17 đi về thăm nhà dài hạn từ năm 1128 mà không nghe sử cũ nói tới ngày,
18 tháng, hay năm trở lại hoàng cung của ngƣời đàn bà nầy. Làm sao Cảm
19 Thánh có thai đƣợc với Lý Thần Tông trong mộ khoảng thời gian 8 năm dài
20 cách biệt từ năm 1128 cho tới lúc sinh ra Thiên Tộ là năm 1136 ? Nhƣ vậy
21 rất có thể Thiên Tộ không phải là máu mủ của Lý Thần Tông mà lại là con
22 cái của ai đó đã tƣ tình với Cảm Thánh .
23  Mỗi ông vua nhà Lý đều có một tông tích nếu không kỳ dị,
24 quái đản thì cũng mơ hồ, ám muội đáng dị nghị.
25 ĐVSK TT viết về Lý Thần Tông nhƣ sau: "Khi mới lên ngôi hãy
26 còn trẻ dại, đến khi lớn lên tư chất thông minh, độ lượng cho nên việc
27 sửa sang chính sự, cách dùng người hiền đức có tài, thủy chung
28 nghiêm chính, ngay thẳng kỹ càng. Dù bị ác tật nhưng cũng có số trời
29 giúp nên được chữa lành. Tuy nhiên lại ưu chung điềm lành, quá tôn
30 sùng đạo Phật cho nên chẳng đáng quý gì." (ĐVSKTT/BK.3/ 28a,b).
31 LTHCLC/Phan Huy Chú viết: "Khi ông lên ngôi, năm đầu còn có
32 tính trẻ. Đến lúc trưởng thành sửa sang việc nước, biết cách dùng
33 người tài giỏi. Nhưng vua chuộng đạo Phật, thích điềm lành, bị mê
34 hoặc nhiều quá cho nên đánh thắng được giặc mà lại quy công cho
35 Phật, kẻ dâng hưu mà cho quan tước. Nói tới chuyện nầy người
36 người đều chê bai." (LTHCLC/Nhân Vật Chí/Phan Huy Chú). (Hồi
37 đó, có Lý An Dậu dâng hƣu trắng, Lý Thần Tông ban cho chức đại
38 liêu ban, và Lý Lộ làm kẻ dẫn đƣờng chỉ chỗ để bắt hƣu trắng cũng
39 đƣợc ban chức đại liêu ban).
40 Trong mỗi đời của các vua nhà Lý thì lúc nào cũng có rồng vàng,
41 rùa trắng, hƣu trắng, chim sẻ trắng, ngựa trắng bờm đen có cựa, tất cả
42 đều đƣợc coi là những con thú linh thiêng mà các vua nhà Lý ƣa
43 thích. Ngoài ra một ông sƣ chỉ nhờ có chuyện chữa bệnh mà đƣợc Lý
44 Thần Tông phong cho làm quốc sƣ thì thật là quá đáng.

VSTK - 264
6. LÝ ANH TÔNG ( 1138 - 1175 )
Niên hiệu: Thiệu Minh (1138-1139)
Đại Định (1140-1162)
Chính Long Bảo Ứng (1163-1173)
Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175)

1 Năm Mậu Ngọ, tháng 10 mùa Đông (1138), Thiên


2 Tộ mới đƣợc 3 tuổi lên ngôi tức là Lý Anh Tông, đổi
3 niên hiệu mới là Thiệu Minh năm thứ 1. Đại xá thiên
4 hạ. Tôn mẹ đẻ là Cảm Thánh phu nhân họ Lê làm
5 hoàng thái hậu(1); thái hậu thay vua cầm quyền việc cai
6 trị.
7 Hội hợp quan quân ở điện Thiên An bắt tuyên thệ
8 trung thành với vua. Sai sứ sang nhà Tống để báo tang
9 Lý Thần Tông và việc Thiên Tộ mới lên nối ngôi vua.
10 Năm Kỷ Mùi, Thiệu minh năm thứ 2 (1139), sứ nhà
11 Tống sang sách phong cho Lý Anh Tông làm Giao Chỉ
12 quận vƣơng.
Năm Canh Thân, tháng 2 (1140), đổi niên hiệu là
Đại Định năm thứ 1.
13 Tháng ba, mùa Xuân, Cảm Thánh hoàng thái hậu họ
14 Lê vì có tình ý(2) riêng cho nên dùng Đỗ Anh Vũ làm
15 Cung điện lệnh cai quản các việc trong ngoài cung vua
16 và cung hoàng thái hậu. Đỗ Anh Vũ(3) là em ruột của
17 Đỗ thái hậu(4) .
18 Cuối năm Canh Thân (1140), Thân Lợi(5) đánh
19 chiếm các châu, động vùng biên giới Thái Nguyên,
20 Tây Nông, Lục Lệnh, Thƣợng Nguyên, Hạ Nông rồi tự
21 xƣng vƣơng, lập đế hiệu là Bình vƣơng, sắc phong cho
22 vợ làm hoàng hậu, cho con làm vƣơng hầu, xếp đặt
23 quan tƣớc thành một triều đình riêng biệt (1141).
24 Tháng 2, năm Tân Dậu (1141), Lý Anh Tông sai 2
25 tƣớng Lƣ Vũ Nhĩ và Hứa Viêm đem quân tiến hai mặt
VSTK - 265
1 thủy bộ đánh dẹp. Thân Lợi giết đƣợc tƣớng của nhà
2 Lý là Tô Tiệm ở sông Bắc Đà(6) nhƣng phải rút về châu
3 Thƣợng Nguyên cố thủ. Vũ Nhĩ chỉ mới chiếm lại
4 đƣợc châu Tây Nông và hạ đƣợc ải Bác Nhự(7) nhƣng
5 thủy binh lại thua to ở Bồ Đình(8) cho nên Vũ Nhĩ phải
6 rút về. Thân Lợi chiếm lại châu Tây Nông, rồi đánh lấy
7 Phú Lƣơng(9) vây hãm kinh đô. Lý Anh Tông sai Đỗ
8 Anh Vũ đem quân đón đánh quân Thân Lợi ở Quảng
9 Dịch(10). Quân Thân Lợi thua nặng. Thân Lợi thoát thân
10 một mình chạy về châu Lục Lệnh, bị Anh Vũ truy lùng
11 phải chạy sang châu Lạng nhƣng sau đó cùng với
12 nhiều đồ đảng bị thái phó Tô Hiến Thành bắt đƣợc giải
13 về kinh chịu án xử chém. Lƣ Vũ Nhĩ hối lộ (11) cho vua
14 để chạy tội thua trận bằng cách dâng hƣu trắng và ngọc
15 quý.
16 Tháng 12, năm Nhâm Tuất (1142), quy định thể lệ
17 cầm thế, mua bán ruộng đất.
18 Quý Hợi (1143), tổ chức ba nhà thành một bảo để
19 kiểm soát nhau về việc thi hành lệnh cấm tự tiện mổ
20 trâu bò làm thịt trong các dịp hội hè cúng tế.
21 Cử Dƣơng Tử Minh cai quản việc hành chính các
22 động dọc theo vùng biên giới;
23 Năm Giáp Tý (1144), gả công chúa Thiều Dung cho
24 Dƣơng Tử Minh và phong cho chức phò mã lang.
25 Ất Sửu, tháng 8 (1145), một ngƣời thổ bên đất Tống
26 là Đàm Hữu Lƣợng trốn sang châu Tƣ Lang rồi cƣớp
27 phá Quảng Nguyên. Chính quyền của nhà Tống ở
28 Quảng Tây viết thƣ yêu cầu nhà Lý cho quân đi bắt.
29 Lý Anh Tông sai phò mã Dƣơng Tự Minh đánh dẹp,
30 bắt đƣợc nhiều đồ đảng của Hữu Lƣợng. Hữu Lƣợng
31 chạy thoát nhƣng sau đó bị ngƣời của nhà Tống ở Ung
32 Châu dụ cho ra hàng rồi bắt giết đi.
33 Đinh Mão, tháng 11 (1147), bà nội của Lý Anh
34 Tông là hoàng thái hậu họ Đỗ mất đƣợc đặt tên thụy là
35 Chiêu Hiếu.
VSTK - 266
1 Kỷ Tỵ, mùa Xuân (1149), thuyền buôn ngoại quốc
2 từ các nƣớc Trão Oa(12) và Tiêm La(13) vào Hải Đông
3 xin phép ở lại buôn bán. Nhà Lý bèn lập trang trại trên
4 một cù lao để cho họ ở gọi là trang Vân Đồn.
5 Canh Ngọ, tháng 9 (1150), ngƣời nƣớc Chân Lập
6 vào cƣớp Nghệ An nhƣng không chịu nổi khí hậu
7 chƣớng độc, bị chết quá nhiều nên tự tan rã.
8 Năm Tân Mùi, tháng 11 (1151), sinh trƣởng hoàng
9 tử Lý Long Xƣởng(14).
10 Triều thần do điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái chủ
11 xƣớng, mƣu định diệt trừ Đỗ Anh Vũ vì Anh Vũ dựa
12 thế Cảm Thánh thái hậu họ Lê để lộng hành, kiêu căng
13 và vƣợt quyền nhà vua. Anh Vũ bị bắt giam ngục
14 nhƣng Cảm Thánh thái hậu đã đem vàng đút lót cho
15 Vũ Đái để Anh Vũ khỏi bị giết mà chỉ bị tội đày đi làm
16 ruộng(15) rồi sau đó Cảm Thánh lại cố tình mở nhiều
17 dịp ân xá tha tù phạm để Anh Vũ cũng đƣợc tha tội,
18 phục hồi chức vụ thái úy phụ chính, đƣợc Cảm Thánh
19 yêu dùng hơn, lại càng phóng túng lộng quyền hơn
20 trƣớc. Anh Vũ tổ chức riêng đội phụng quốc vệ riêng
21 của mình chuyên đi bắt ngƣời để giam nhốt rồi tấu
22 trình láo lên Lý Anh Tông để bắt giết Vũ Đái, cho đi
23 đày, giáng chức những ngƣời theo hùa với Vũ Đái
24 chống lại Anh Vũ ngày trƣớc .
25 Nhâm Thân, tháng 10 (1152), Lý Anh Tông muốn
26 nƣớc Chiêm Thành trở thành chƣ hầu của mình cho
27 nên sai thƣợng chế Lý Mông đem quân ở Thanh Hóa,
28 Nghệ An yểm trợ cho ngƣời Chiêm Thành là Ung
29 Minh Điệp(16) trở về xứ lật đổ vua nƣớc Chiêm hiện tại
30 là Bì La Bút(17). Việc lật đổ thất bại, Lý Mông và Ung
31 Minh Điệp bị vua nƣớc Chiêm giết chết.
32 Giáp Tuất, tháng 10 (1154), vua nƣớc Chiêm chịu
33 thần phục và sang triều cống nhà Lý.
34 Đinh Sửu (1157), xuống chiếu quy định luật lệnh(18).
35 Mậu Dần, tháng 8 (1158), Đỗ Anh Vũ chết.
VSTK - 267
1 Kỷ Mão, tháng 5 (1159), Tô Hiến Thành đánh dẹp
2 giặc Ngƣu Hống và Ai Lao sang cƣớp phá và đƣợc Lý
3 Anh Tông phong chức thái úy.
4 Giáp Thân, tháng 7 (1164), nhà Tống thăng phong
5 cho Lý Anh Tông làm An Nam Quốc Vƣơng, đổi Giao
6 Chỉ làm An Nam quốc(19).
7 Mậu Tý, tháng 8 (1168), sứ nhà Tống và sứ nƣớc
8 Kim cùng sang một lúc. Lý Anh Tông đón tiếp hai sứ
9 thần cùng mộ nghi thức ngoại giao nhƣng riêng rẽ,
10 không để cho họ gặp nhau.
11 Quý Tý, tháng 5 (1173), Lý Long Trát(20) sinh.
12 Giáp Ngọ, tháng 2 (1174), đổi niên hiệu là Thiên
13 Cảm Chi Bảo năm thứ 1; truất phế thái tử Lý Long
14 Xƣởng làm thứ dân và giam ngục vì Long Xƣởng
15 thông dâm với một ngƣời phi của Lý Anh Tông.
16 Ất Mùi, tháng Giêng (1175), lập Lý Long Trát làm
17 đông cung hoàng thái tử; phong cho Tô Hiến Thành
18 làm tể tƣớng kèm thêm tƣớc vƣơng để phò giúp thái tử
19 Long Trát coi giữ chính sự về sau.
20 Tháng 4, vua đau nặng; hoàng hậu Đỗ Thụy Châu
21 đã nhiều lần xin hồi phục chức hoàng thái tử cho Long
22 Xƣởng, nay thừa dịp nầy lại xin nữa nhƣng Lý Anh
23 Tông không nghe theo .
24 Tháng 7 năm Ất Mùi (1175), Lý Anh Tông mất, di
25 chiếu cho Tô Hiến Thành làm phụ chính. Bây giờ đến
26 lƣợt Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê mƣu toan làm
27 việc phế lập bằng cách hối lộ đút lót cho vợ của Tô
28 Hiến Thành để dụ Hiến Thành nghe theo nhƣng bị
29 quyết liệt cự tuyệt, âm mƣu phế lập thất bại.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:


30 (1)Cảm Thánh phu nhân hoàng thái hậu: là phu nhân của Lý
31 Thần Tông, mẹ đẻ của Thiên Tộ tức Lý Anh Tông. Cảm Thánh chƣa
32 bao giờ đƣợc Lý Thần Tông ban chức hoàng hậu. Sau khi Lý Anh
VSTK - 268
1 Tông lên ngôi Cảm Thánh mới đƣợc tôn làm hoàng thái hậu nhƣng
2 không thấy sử cũ viết một cách rõ ràng tôn hiệu của Cảm Thánh khi
3 dƣợc tôn lên làm hoàng thái hậu mà chỉ gọi là hoàng thái hậu họ Lê
4 tức là bà nội của Lý Cao Tông sau nầy. Cảm Thánh hoàng thái hậu họ
5 Lê dƣới triều Lý Cao Tông đƣợc sử cũ gọi là Chiêu Linh hoàng thái
6 hậu. Nhƣ vậy dƣới triều Lý Cao Tông có 2 hoàng thái hậu: một là
7 hoàng thái hậu Chiêu Thiên Chí Ly Đỗ Thụy Châu, mẹ ruột của Lý
8 Cao Tông; hai là Chiêu Linh hoàng thái hậu bà nội của Lý Cao Tông
9 tức là hoàng thái hậu họ Lê hay Cảm Thánh phu nhân họ Lê cũng là
10 một.
11 (2) Tình ý riêng của hoàng thái hậu họ Lê (Cảm Thánh): CM ghi
12 rõ Đỗ Anh Vũ là em của Đỗ thái hậu (Đỗ thái hậu nầy có thể là Đỗ
13 Thụy Châu = vợ Lý Anh Tông). Đỗ thái hậu là mẹ của Lý Thần Tông,
14 tức là mẹ chồng của Lê thái hậu. (KĐVSTGCM/CB.4/35).
15 Theo bản dịch ĐVSKTB/Bản Kỷ/Q.4 đời Tây Sơn, nơi trang 278
16 của nhà xuất bản KHXH Hà Nội thì Đỗ Anh Vũ là con trai của Đỗ
17 thái hậu. Có thể bản dịch nầy không đúng bởi vì không lý Anh Vũ lấy
18 họ mẹ là họ Đỗ?
19 Có thể suy diễn nhƣ sau: có 2 thái hậu họ Đỗ:
20 *Một bà họ Đỗ chết vào năm Đinh Mão (1147), là vợ của Sùng
21 Hiền Hầu, mẹ sinh của Thiên Tộ (Lý Thần Tông). Bà nầy có hai
22 ngƣời em: 1/-em gái Đỗ Thụy Châu (sau nầy là vợ của Lý Anh Tông,
23 tức là mẹ của Lý Cao Tông đƣợc Cao tông tôn là Chiêu Thiên Chí Lý
24 hoàng thái hậu); 2/- em trai Đỗ Anh Vũ, kẻ
25 thông dâm với Lê thị Chiêu Linh hoàng thái hậu vợ của Lý Thần
26 Tông .
27 *Bà họ Đỗ thứ 2 tức là Đỗ Thụy Châu, chị của Đỗ Anh Vũ nhƣ
28 vừa kể trên.
VSTA của Ngô Thời Sĩ có ghi chú về Lê thái hậu nhƣ sau: "Anh
29 Vũ người đẹp, khéo múa hát, đời vua Lý Thần Tông được vào hầu gần
30 vua, bà Thái hậu họ Lê yêu tiếng hát và sắc đẹp cho nên muồn
31 tư thông với y đã lâu, nay sửa lại cung Quảng Từ rất là xa xỉ đẹp đẽ,
32 ngày đêm ăn nằm với Anh Vũ mà vua không biết". (VSTY/ Ngô Thời
33 Sĩ/ bản dịch của Hội Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu/ Sài
34 Gòn/1960/ trang 148).
35 (3) Đỗ Anh Vũ: xem chú thích(2) trên.
36 (4) Đỗ thái hậu: chị của Đỗ Anh Vũ, vợ của Sùng Hiền hầu, mẹ của
37 Lý Thần Tông; Lý Nhân Tông không có con trai cho nên lập con của
38 vợ chồng Sùng Hiền hầu lên làm thái tử, sau lên ngôi tức Lý Thần
39 Tông. Thái hậu họ Đỗ nầy mất vào năm Đinh Mão, tháng 11 (1147).
40 Nhƣ vậy vợ của Lý Anh Tông (Đỗ Thụy Châu) nếu thực sự là
41 em gái của Đỗ thái hậu thì vai vế của Đỗ Thụy Châu đối với Lý Anh
42 Tông sẽ là bà Dì (nếu là em gái của Đỗ thái hậu) thì cuộc hôn nhân
43 giữa Đỗ Thụy Châu và Lý Anh Tông là một sự phối hợp loạn luân.

VSTK - 269
1 Có thể vì muốn ém nhẹm sự xấu xa nầy mà những ngƣời ghi chép lịch
2 sử của triều đại nhà Lý đã ỡm ờ lƣớt nhanh không viết ra tên thật của
3 Đỗ Thụy Châu, ngƣời vợ loạn luân của Lý Anh Tông.
4 (5) Giặc Thân Lợi: Lời bàn Ngô Thời Sĩ viết trong ĐVSKTB nhƣ
5 sau: Năm Thiệu Hưng thứ 9 (1139) nhà Tống, Quảng Tây súy ty nói
6 rằng: "Thời Lý Nhân Tông có người cung thiếp sinh được con trai
7 nhưng không được Lý Nhân Tông thừa nhận. Khi Lý Thần Tông lên
8 ngôi, đứa con ấy chạy sang nước Đại Lý đổi họ tên là Triệu Trí Chi,
9 tự xưng là Nam Bình Vương. Khi Lý Thần Tông mất, Trí Chi bèn trở
10 về nước tranh ngôi vua với Lý Anh Tông. Anh Tông đem quân chống
11 lại, Trí Chi cầu viện với quân Tống. Súy Ty đem việc xin quân viện
12 của Trí Chi tâu lên nhưng vua Tống xuống chiếu từ chối. Vậy có lẽ
13 Trí Chi và Thân Lợi chỉ là một người vì khi trần tình để xin viện binh
14 của nhà Tống thì nói láo là con vợ lẻ của Lý Nhân Tông để lừa gạt
15 nhà Tống mà thôi. Còn như xưng hiệu Nam Bình Vương cũng là
16 chứng cớ hợp với sử chép Thân Lợi tiếm hiệu là Bình Vương nhưng
17 không biết rõ được gốc ngọn của Thân Lợi ra sao ". VSTGCM cũng
18 có trích dẫn lời bàn nầy của Ngô Thời Sỹ. (CM/4/37).
19 Không biết Ngô Thời Sĩ đã căn cứ vào đâu để trích dẫn lời nói của
20 ngƣời Tống rồi đoán chừng là Trí Chi và Thân Lợi là một ngƣời.
21 Trong ĐVSKTT, có mộ đoạn viết sơ lƣợc về việc Lý Nhân Tông tìm
22 con trai trong họ tôn thất để lập làm thái tử: "Xuống chiếu rằng: Trẫm
23 cai trị muôn dân mà đến nay chưa có con nối, ngôi báu của thiên hạ
24 không biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi con trai các hầu Sùng
25 Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn
26 người nào giỏi thì lập làm thái tử . Bấy giờ con Sùng Hiền Hầu là
27 Dương Hoán (tức là Lý Thần Tông sau nầy) mới lên 2 tuổi mà đã
28 thông minh lanh lợi, cho nên vua rất yêu bèn lập làm hoàng thái tử."
29 (ĐVSKTT/BK.3/18 a,b).
30 Một đoạn khác viết lƣớt nhanh nhƣ sau: Năm Giáp Thìn, tháng 9
31 (1124), Thành Khánh hầu (không rõ tên) chết. Tháng 12, phu nhân
32 của Thành Khánh Hầu là Hà thị uống thuốc độc chết theo chồng.
33 (BK.3/23a). Có các điểm sau đây rất đáng đƣợc chú ý:
34 a. Con trai của Thành Khánh hầu cũng đƣợc Lý Nhân Tông
35 tuyển chọn làm con nuôi để dự tranh ngôi vị hoàng tử nối ngôi vua.
36 ĐVSKTT không nói rõ lý do vì sao mà Thành Khánh hầu chết.
37 b. Tại sao vợ của Thành Khánh hầu là Hà thị phải uống thuốc
38 độc tự tử chết theo chồng ?
39 Từ những điểm vừa nêu trên, tông tích của Thân Lợi có thể suy
40 diễn nhƣ sau: con trai của Thành Khánh hầu có tên là Thân Lợi
41 không đƣợc Lý Nhân Tông chọn làm hoàng tử cho nên Thành Khánh
42 hầu bất mãn làm điều sằng bậy, bị Lý Nhân Tông xử tội chết, vợ là
43 Hà thị cũng bị liên lụy bắt phải tự xử bằng thuốc độc. Còn con trai
44 Thành Khánh Hầu là Thân Lợi chạy thoát đến chiếm giữ các châu dọc

VSTK - 270
1 biên giới nhƣ Thái Nguyên, Tây Nông, Thƣợng Nguyên và Hạ Nông,
2 thu nạp những kẻ trốn tránh, tuyển mộ thổ binh rồi năm 1141 tự xƣng
3 là Bình Vƣơng, lập thành một triều đình riêng biệt. Các động và châu
4 ở vùng biên giới theo về với Thân Lợi rất nhiều. Lý Anh Tông cử
5 ngƣời đánh dẹp Thân Lợi nhƣng thất bại. Thân Lợi đánh chiếm gần
6 hết những vùng ở tỉnh Bắc Thái (tức Thái Nguyên) ngày nay, chiếm
7 đóng phủ Phú Lƣơng và chuẩn bị tiến đánh Thăng Long nhƣng bị Đỗ
8 Anh Vũ chận đánh rồi kế tiếp bị Tô Hiến Thành truy bắt giải về kinh
9 đô xử chém.
10 (6) Sông Bác Đà: chú thích trong sử cũ đoán chừng là một đoạn sông
11 Cầu trong vùng đất huyện Phú Lƣơng, Bạch Thông ngày nay. Theo
12 Dƣ địa chí của Phan Huy Chú thì huyện Bạch Thông có một con sông
13 lớn (Phan Huy Chú gọi là nguồn nƣớc) bắt nguồn từ Trung Quốc chảy
14 ngang qua phủ Cao Bằng đến châu Bạch Thông rồi phân thành ba
15 nhánh chảy vào 2 cái hồ lớn (Phan Huy Chú gọi là biển) trong địa
16 phận của 2 xã Tiên Man và Nam Mẫu . Nhƣ thế, sông Bác Đà có thể
17 là con sông nầy.
18 (7) Ải Bác Nhự: không khảo đƣợc là ở chỗ nào. Có thể là một cửa ải
19 nhỏ nào đó ở Cao Bằng.
20 (8) Bồ Đình: không khảo đƣợc ở đâu.
21 (9) Phù Luơng: nay là huyện Phú Lƣơng, tỉnh Bắc Thái.
22 (10) Quảng Dịch: không khảo đƣợc.
23 (11) Lƣ Vũ Nhĩ hối lộ: dâng hƣơu trắng và ngọc quý để che đậy việc
24 thua trận của mình.
25 (12) Trão Oa: tức là Java, Nam Dƣơng bây giờ. Theo sử đời nhà Minh
26 ở Trung Hoa thì nƣớc Trão Oa hay Qua Oa ở về phía Tây Nam nƣớc
27 Chiêm Thành còn có tên khác là Hạ Cảng hoặc Thuận Tháp. Ngƣời
28 nƣớc nầy bẩm tính hung tợn, lớn bé đều cầm đeo dao mác, hể trái ý là
29 đâm chém nhau ngay. Theo sách Việt Chí thì Quỷ quốc trong kinh
30 Phật là nƣớc nầy.
31 (13) Tiêm La: ĐVSKTT dùng danh từ Xiêm La từ năm 1149 nhƣng
32 mãi tới cuối thế kỷ thứ 13 mới thấy thƣ tịch của Trung Hoa đề cập tới
33 nƣớc nầy nhƣng trong thời nhà Nguyên chỉ gọi là nƣớc Xiêm chứ
34 không phải là Xiêm La (Minh sử/Xiêm quốc truyện). Đời nhà Minh,
35 khoảng năm 1371, tên Xiêm La mới thấy xuất hiện. Minh Nhất Thống
36 Chí viết: Vào khoảng niên hiệu Chí Chính (1341-1368), nước Xiêm bị
37 nước La Học xăm chiếm và hợp nhất thành một nước Xiêm La Học".
38 Nhƣ vậy chữ Tiêm La trong ĐVSKTT đặt vào năm 1149 có thể không
39 phải là tên đã gọi mà ngƣời viết sử của nhà Lý đã dùng bởi vì vào
40 năm 1149 chƣa có nƣớc Tiêm La hay Xiêm La nhƣng lại có 2 nƣớc
41 riêng rẽ sát kề nhau là nƣớc Xiêm và nƣớc La Học. Nhƣ vậy, từ năm
42 1149 trở về trƣớc thì viết là nƣớc Xiêm rồi về sau có thể là bắt đầu là
43 do từ Ngô Sĩ Liên hoặc do các sử gia nối tiếp dƣới triều đại nhà Lê đã
44 sửa lại thành Tiêm La.

VSTK - 271
1 Theo Thanh Nhất Thống Chí thì Tiêm La vào đời Tùy, Đƣờng gọi
2 là nƣớc Xích Thổ ở về phía Tây Nam nƣớc Chiêm Thành, rồi chia
3 thành hai nƣớc: nƣớc Tiêm và nƣớc La Học. Đời nhà Nguyên, trong
4 khoảng những năm 1295-1296, hai nƣớc nầy có đến chầu và triều
5 cống. Về sau, nƣớc La Học thôn tính và sáp nhập nƣớc Tiêm để lập ra
6 nƣớc Tiêm La Học, vào thời nhà Minh khoảng 1368-1398, Tiêm La
7 Học sang chầu vua nhà Minh và đƣợc nhà Minh ban cho ấn tƣớc
8 Tiêm La quốc vƣơng. Từ đó mới gọi là nƣớc Tiêm La.
9 (14) Lý Long Xƣởng: sinh vào năm Tân Mùi, tháng 11 (1151). Năm
10 1174 bị truất ngôi thái tử vì thông dâm với vợ của cha mình.
11 (15) Đày đi làm ruộng: sử cũ ĐVSKTT viết là bắt Đỗ Anh Vũ chịu
12 tội đồ làm cảo điền nhi tức là những ngƣời có tội bắt phải làm ruộng
13 cho chính quyền. Chữ cảo ở đây có thể là hiểu là cỏ và cảo điền nhi
14 có thể là ngƣời lao công tạp dịch, nhổ cỏ ngoài đồng ruộng chứ không
15 phải là ngƣời làm nghề nông cày cấy ruộng đất để trồng lúa gạo.
16 Chữ Cảo trong ĐVSKTT cũng có thể là Cảo xã (BK.5/6.a) hoặc
17 Cảo động (BK.10/ 28.a) mà KĐVSTG gọi là Tảo xã (nay là xã Nhật
18 Tảo, huyện Từ Liêm, Hà Nội) (CB.6/9). Nhƣ vậy, Cảo điền nhi có thể
19 là những ngƣời bị tội đày phải cày ruộng cho nhà nƣớc ở 1 vùng gọi
20 là Cảo xã (hay Tảo xã). KĐVSTGCM viết: Nhà vua xét Án Đỗ Anh
21 Vũ bắt chịu tội đồ làm điền nhi, không có chữ cảo nhƣ ở ĐVSKTT.
22 Cũng theo KĐVSTGCM trích dẫn lời chua của Ngô Thời Sĩ thì điền
23 nhi và lộ ông đều là những tội đồ dịch (CB.4/19).
24 (16) Ung Minh Điệp: ĐVSKTT và KĐVSTGCM chép là Ung Minh
25 Tá Điệp, ngƣời nƣớc Chiêm Thành nhƣng không nói rõ lý lịch..
26 (17) Chế Bì La Bút: vua nƣớc Chiêm Thành (1145-1170). Có sách nói
27 chính Ung Minh Điệp là Vansaraja, và Chế Bì La Bút là vua Chiêm
28 Jaya Harivarman I.
29 (18) Quy định luật lệnh vào năm 1157: các bộ sử cũ đều không có
30 chi tiết về lần quy định luật lệnh nầy; năm 1162 mới thấy xuống
31 chiếu định rằng kẻ nào tự động cắt bỏ bộ phận sinh dục (tự hoạn) thì
32 xử 80 trƣợng, thích 23 chữ lên cánh tay. (LTHCLC/Hình Luật Chí/Phan
33 Huy Chú)
34 (19) An Nam quốc: ngày xƣa ngƣời Trung Hoa gọi là Giao Chỉ; vua
35 Cao Tông nhà Đƣờng đặt làm An Nam Đô hộ phủ, tên gọi An Nam
36 bắt đầu có từ đó. Vua Hiếu Tông nhà Tống tƣớc phong cho Lý Anh
37 Tông tƣớc An Nam Quốc vƣơng thay thế tƣớc Giao Chỉ quận vƣơng
38 đã đƣợc dùng qua nhiều triều đại của các vua Trung Hoa trƣớc đây.
39 Đối với ngƣời Trung Hoa, sở dĩ có sự thay đổi tƣớc hiệu và quốc hiệu
40 từ Giao Chỉ quận vƣơng thành An Nam quốc vƣơng là vì lãnh thổ
41 Việt Nam dƣới triều đại Lý Anh Tông đã bành trƣớng dài thêm xuống
42 phía Nam chứ không phải chỉ còn lẩn quẩn ở quận Giao Chỉ nữa. Đây
43 chỉ là một thủ tục ngoại giao nhằm công nhận và hợp thức hoá những
44 vùng lãnh thổ mà các triều đại của nhà Lý đã xáp nhập vào lãnh thổ

VSTK - 272
1 Giao Chỉ bằng chính sách bành trƣớng. Trên thực tế, nếu ngƣời Trung
2 Hoa thực tình thì sự công nhận nầy đã phải làm từ trƣớc lâu lắm rồi
3 chứ không phải đợi cho đến lúc nhà Tống yếu thế muốn có đồng minh
4 để nhờ cậy về sau cho nên mới có sự thay đổi phong tƣớc hiệu cho Lý
5 Anh Tông là An Nam Quốc vƣơng. (nhà Tống lúc nầy gọi là Nam
6 Tống bởi vì Trung Hoa bắt đầu có loạn, nhà Nguyên nổi lên ở Mông
7 Cổ, ngƣời Kim vào chiếm Biện Kinh là kinh đô cũ của nhà Tống ở
8 phía Bắc vì thế nhà Tống suy yếu phải bỏ chạy xuống Lâm An ở về
9 phía Nam nƣớc Trung Hoa).
10 (20) Lý Long Trát: sinh vào ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173), con
11 thứ 6 của Lý Anh Tông, mẹ là Đỗ Thụy Châu.

KHẢO LUẬN :

12  Những điều dối trá trong sử cũ khi viết


13 về những ngƣời đàn bà trong cung đình thời nhà Lý

14 Dƣới triều Lý Anh Tông, sử cũ khi đề cập tới những ngƣời đàn
15 bà có liên hệ máu mủ với ông vua nầy đã viết rất lộn xộn, mơ hồ,
16 không đầu đuôi khiến cho ngƣời đọc phải chán nản lắc đầu khó chịu.
17 Đây là mt sự cố tình trơ trẽn vô liêm sĩ của những ngƣời viết sử thuê
18 dƣới các thời đại vua chúa phong kiến nhằm che lấp đi những trò dâm
19 loạn nhơ nhớp, những âm mƣu tranh quyền đoạt vị xấu xa xảy ra bên
20 trong nội vi gia đình vƣơng tộc. Những ngƣời đàn bà đƣợc sử cũ gọi
21 là Minh Bảo phu nhân họ Lê, Cảm Thánh phu nhân họ Lê, hoàng hậu
22 họ Lê, hoàng thái hậu họ Lê, rồi Chiêu Linh hoàng thái hậu hoặc có
23 tới hai hoàng thái hậu họ Đỗ, tất cả đã bị trộn lẫn đứt đoạn từng hồi
24 khiến cho tông tích của họ không còn có thể truy cứu một các dễ
25 dàng.

26 1/ Triều đại: Lý Công Uẩn


27 Cha: Vô danh
28 Mẹ: Họ Phạm
29 Vợ: Họ Lê
30 Con nối ngôi: Lý Phật Mã/ Con đích
31 2/ Triều đại: Lý Thái Tông
32 Cha: Lý Công Uẩn
33 Mẹ: Họ Lê
34 Vợ: Họ Mai
35 Con nối ngôi: Lý Nhật Tôn/ Con đích
36 3/ Triều đại: Lý Thánh Tông
37 Cha: Lý Thái Tông
38 Mẹ: Họ Mai/ Kim Thiên Thái hậu
39 Vợ: Họ Dƣơng/nguyên phi & Ỷ Lan thần phi
40 Con nối ngôi: ?

VSTK - 273
1 4/ Triều đại: Lý Nhân Tông
2 Cha: Có thể không phải là con của Lý Thánh Tông
3 Mẹ: Ỷ Lan phu nhân/ Ỷ Lan thái phi rồi Linh nhân thái hậu
4 Vợ: Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn Bảo và phu nhân Trần Anh
5 Con nối ngôi: không có con. Nuôi con trai của Sùng Hiền hầu: Dƣơng Hoán
6 5/ Triều đại: Lý Thần Tông
7 Cha: em trai của Lý Nhân Tông: Sùng Hiền Hầu
8 Mẹ: Họ Đỗ, mẹ đẻ và Trần Anh phu nhân là mẹ nuôi dƣỡng
9 Vợ: Họ Lý hoàng hậu; Minh Bảo họ Lê (Cảm Thánh phu nhân họ Lê), Nhật Phụng,
10 Phụng Thánh, Chƣơng Anh họ Lý (có thể là chị em họ với hoàng hậu họ Lý).
11 Con nối ngôi: 1/ Thiên Lộc (con trai đầu lòng/có thể mẹ đẻ là Chƣơng Anh). 2/
12 Thiên Tộ (con trai thứ nhì sinh ra sau Thiên Lộc, mẹ là Cảm Thánh Phu nhân
13 họ Lê.)
14 6/ Triều đại: Lý Anh Tông (Thiên Tộ)
15 Cha: Lý Thần Tông
16 Mẹ: Cảm Thánh phu nhân họ Lê/ Cảm Thánh hoàng thái hậu
17 Vợ: Hoàng hậu họ Đỗ (Có sách viết là Đỗ Thụy Châu)
18 Con nối ngôi: 1/- Long Xƣởng/con trƣởng: bị truất phế vì loạn luân với vợ của vua
19 cha Lý Thần Tông. 2/- Long Trác: con trai thứ 6 của Lý Anh Tông và hoàng
20 hậu họ Đỗ.
21 7/ Triều đại: Lý Cao Tông (Long Trác)
22 Cha: Lý Anh Tông
23 Mẹ: Hoàng thái hậu họ Đỗ (Đỗ Thụy Châu:
24 Vợ: An Toàn hoàng hậu họ Đàm
25 Con nối ngôi: tên là Sảm, sinh năm 1194, hoàng thái tử năm 1208.
26 8/ Triều đại: Lý Huệ Tông
27 Cha: Lý Cao Tông
28 Mẹ: An Toàn Hoàng thái hậu họ Đàm
29 Vợ: Thuận Trinh Phu nhân Trần thị (Dung)/ hoàng hậu Trần thị (sau lấy Trần Thủ
30 Độ trở thành Thiên Cực công chúa).
31 Con nối ngôi: Lý Chiêu Thánh, sinh năm 1218, con gái thứ, đƣợc lập thái tử năm
32 1224.
33 9/ Triều đại: Lý Chiêu Hoàng
34 Cha: Lý Huệ Tông
35 Mẹ: Hoàng hậu Trần thị (Dung)
36 Chồng: 1/- Trần Cảnh (Trần Thái Tông); 2/- Lê Phụ Trần (ngự sử đại phu đời Trần
37 Thái Tông)
38 Con nối ngôi: không có con, bị Trần Thủ Độ và Trần thị Dung phế xuống hàng công
39 chúa rồi gả cho Lê Phụ Trần.


7. LÝ CAO TÔNG ( 1176 - 1210 )
Niên hiệu: Trinh Phù (1176-1185)
Thiên Tư Gia Thụy (1186-1201)
Thiên Gia Bảo Hữu (1202-1204)
Trị Bình Long Ứng (1205-1210)
VSTK - 274
1 Thái tử Lý Long Trát mới đƣợc 3 tuổi, lên ngôi
2 trƣớc linh cửu tức là Lý Cao Tông, tôn mẹ Đỗ Thụy
3 Châu làm Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu; phong
4 cho em trai của mẹ là Đỗ An Di chức Thái sƣ đổng
5 bình chƣơng sự(1), tiếp tục dùng Tô Hiến Thành giữ
6 chức Thái Úy(2) . Hi hợp quan quân ở điện Thiên An
7 bắt phải tuyên thệ trung thành với vua mới.
8 Năm Mậu Tuất (1178), sau khi cả nƣớc vừa xong
9 hạn chịu tang Lý Anh Tông, Chiêu Linh (Cảm Thánh)
10 hoàng thái hậu liền bày tiệc cho các quan triều ở cung
11 điện riêng của mình để xúi giục truất phế Long Trát và
12 đƣa Long Xƣởng trở lại thay thế ngôi vua nhƣng các
13 quan vì sợ uy danh của Tô Hiến Thành nên không ai
14 chịu nghe theo Chiêu Linh.
15 Khi Tô Hiến Thành nằm bệnh, Chiêu Linh giả trá
16 vào thăm để dò xét tình ý về việc cắt đặt ngƣời cầm
17 đầu quân đội trong tƣơng lai. Tô Hiến Thành đề cử
18 gián nghị đại phu Trần Trung Tá(3), Chiêu Linh giả dối
19 khen ngợi Tô Hiến Thành là trung thần nhƣng rồi về
20 sau không thèm nghe theo sự để cử đó.
21 Năm Kỷ Hợi, tháng 6 (1179), thái úy Tô Hiến
22 Thành mất. Trong dịp tang chế nầy, vua bớt ăn ba
23 ngày, nghỉ lễ thiết triều 6 ngày rồi sau đó dùng cậu là
24 Đỗ An Di giữ nhiệm vụ phụ chính.
25 Năm Canh Tý (1180), lũ lụt và động đất .
26 Năm Tân Sửu (1181) có nạn đói.
27 Năm Nhâm Dần, tháng Giêng (1182), ban chức hiệu
28 "thầy của vua"(4) cho Lý Kính Tu. Chiêu Linh vì sợ uy
29 danh của Kính Tu cho nên từ đây về sau không còn
30 dám manh tâm tính chuyện phế lập nữa.
31 Năm Bính Ngọ, tháng Giêng (1186), sứ nhà Tống
32 sang sách phong ngay cho Lý Cao Tông tƣớc An Nam
33 Quốc Vƣơng, xem nhƣ Lý Cao Tông đƣợc theo lệ cha
34 truyền con nối, nay chỉ cần vua Tống hợp thức công
VSTK - 275
1 nhận, không còn phải qua giai đoạn tƣớc phong Nam
2 Bình vƣơng nhƣ ngày trƣớc nữa; đây là một biệt lệ
3 vua Tống ban cho Lý Cao Tông.
4 Tháng 3, đặt Đàm thị An Toàn làm nguyên phi.
5 Năm Mậu Thân (1188), hạn hán, động đất, bão lụt.
6 Năm tiếp theo (Kỷ Dậu/1189) lại có động đất.
7 Năm Canh Tuất, tháng Giêng (1190), hoàng thái hậu
8 Đỗ Thụy Châu(5) mất.
9 Năm Nhâm Tý (1192), đào vét, khơi sâu sông Tô
10 Lịch(6).
11 Năm Giáp Dần, tháng 7 (1194), nguyên phi họ Đàm
12 sinh con trai là Sảm, đƣợc Lý Cao Tông nâng lên chức
13 hoàng hậu.
14 Năm Ất Mão, tháng 2 (1195), thi tam giáo, lấy Nho
15 giáo, Phật giáo, Đạo giáo để thi, ai đỗ thì đƣợc bổ dụng
16 làm quan.
17 Năm Mậu Ngọ, tháng Giêng (1198), loại ra khỏi
18 triều chính những ngƣời đi tu đang giữ quan chức.
19 Tháng 7, lũ lụt.
20 Loạn Cao Xá nổi lên ở Diễn Châu và loạn ở châu
21 Đại Hoàng nhƣng đều bị đánh dẹp.
22 Năm Kỷ Mùi, tháng 7 (1199), lũ lụt, mùa màng bị
23 thiệt hại, dân chúng bị nạn đói trầm trọng.
24 Năm Canh Thân, tháng Giêng (1200), phải lấy gạo
25 thóc từ kho chứa của triều đình phát chẩn cho dân đói.
26 Tháng 7, mùa thu (1200), Chiêu Linh thái hậu mất.
27 Năm Quý Hợi (1202), tiêu phí tiền của, bắt dân lao
28 dịch để thực hiện những công trình xây cất lầu đài nầy,
29 cung điện kia, nhân dân khổ sở.
30 Tháng 7 mùa Thu, quân Chiêm Thành đến cửa biển
31 Cơ La(13) giả trá cầu viện rồi đánh úp, giết chết quan
32 quân của Lý Cao Tông, cƣớp bóc, sát hại vô số dân
33 chúng ở Nghệ An rồi rút đi.
34

VSTK - 276
1

2 Tháng 8, con trai thứ của Lý Cao Tông tên là Thầm


3 sinh.
4 Tháng 9 năm Quý Hợi, Phí Lang và Bảo Lƣơng
5 cùng nổi loạn ở châu Đại Hoàng. Triều đình đƣa quân
6 bình định nhƣng thua, hai tƣớng chỉ huy của triều đình
7 bị giết.
8 Năm Giáp Tý, tháng Giêng (1024), lại sai Đỗ Kính
9 Tu đi bình định châu Đại Hoàng nhƣng thất bại.
10 Năm Ất Sửu, tháng 3 (1205), dân quân bộ tộc thiểu
11 số trong lãnh thổ nhà Tống tràn sang cƣớp phá vùng
12 biên giới, dân chúng khổ sở lầm than chạy giặc cƣớp
13 nhƣng vua quan nhà Lý giả điếc làm ngơ, vua trên tiếp
14 tục ham mê xây dựng lâu đài nguy nga, vui chơi phung
15 phí với vợ cùng và bọn nịnh thần, còn quan quân dƣới
16 thì mặc tình vơ vét tham nhũng mua quan bán chức.
17 Giặc cƣớp nổi lên khắp nơi không còn cách nào để trấn
18 áp đƣợc nữa.
19 Năm Bính Dần, tháng 2 (1206), dùng kẻ tham ô
20 Đàm Dĩ Mông(15) làm thái bảo. Vua vẫn tiếp tục vui
21 chơi hoang đàng vô độ, không còn để ý tới tình hình
22 rối ren đang xảy ra trong khắp cả nƣớc.
23 Năm Đinh Mão, tháng Giêng (1207), bắt trai tráng
24 phải thi hành bổn phận đi lính(16) để tăng cƣờng và
25 dùng vào việc đánh dẹp giặc loạn và giặc cƣớp.
26 Tháng 10, bộ tộc ngƣời Man vùng núi Tản Viên ở
27 Châu Quốc Oai(17) quấy nhiễu cƣớp phá, triều đình
28 không thể dẹp đƣợc.
29 Năm Mậu Thìn, tháng Giêng (1208), lập con trai
30 Sảm làm hoàng tử.
31 Nạn đói lớn, dân chúng chết đói xác nằm la liệt
32 chồng chất khắp nơi.
33 Chỉ huy quân sự(18) ở Nghệ An là Phạm Du làm loạn,
34 vua sai quan hoạn(19) phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem
35 quân từ châu Đằng và châu Khoái đi đánh dẹp. Phạm
VSTK - 277
1 Du thua chạy sang Hồng châu. Bỉnh Di tịch thu và đốt
2 hết gia sản của Phạm Du.
3 Phạm Du hối lộ cho ngƣời trong triều khai xấu
4 Phạm Bỉnh Di và xin đƣợc về kinh đô để trình bày ủy
5 khúc(20). Lý Cao Tông nghe lời Phạm Du(21), lệnh gọi
6 Bỉnh Di về rồi bắt giam luôn với con trai là Phụ (22). Bộ
7 hạ của Bỉnh Di là bọn Quách Bốc đem quân xong vào
8 thành để giải cứu nhƣng đã muộn, cha con Bỉnh Di
9 đều bị giết trƣớc khi Lý Cao Tông cùng thái tử Sảm bị
10 truy đuổi chạy trốn ra bến Đông Bộ Đầu (23). Quách Bốc
11 liền lập con trai thứ của Lý Cao Tông là Thầm lên ngôi
12 vua; Đàm Dĩ Mông chịu thần phục và hợp tác với đám
13 chính quyền mới do Quách Bốc đƣa lên.
14 Lý Cao Tông chạy lánh sang vùng Quy Hoá giang (24)
15 còn thái tử Sảm thì chạy đến trú ẩn ở thôn Lƣu Gia (25) ở
16 Hải Ấp(26) rồi lấy con gái của Trần Lý làm vợ.
17 Sảm phong tƣớc cho anh em Trần Lý để sau đó anh
18 em Trần Lý(27) chiêu tập dân địa phƣơng dấy loạn, lấy
19 danh nghĩa giúp Lý Cao Tông diệt trừ bọn Quách Bốc,
20 khôi phục ngôi vua.
21 Lý Cao Tông đƣợc đƣa trở về ngôi cũ, xử tội Quách
22 Bốc cùng đồng bọn rồi cho ngƣời đến thôn Lƣu Gia
23 đón một mình(28) thái tử Sảm về kinh đô.
24 Năm Canh Ngọ, tháng 7 (1210), Lý Cao Tông mất,
25 ở ngôi 35 năm thọ 38 tuổi.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:


26 (1) Đổng bình chƣơng sự: chức quan tƣơng đƣơng với chức tể tƣớng,
27 cùng một nhiệm vụ giống nhau.
28 (2) Thái úy: chức quan võ đứng đầu quân đội, nay thƣờng gọi Tổng tƣ
29 lệnh quân đi.

VSTK - 278
1 (3) Trần Trung Tá: giữ chức Gián nghị đại phu, một chức quan đứng
2 hàng thứ hai trong một cơ quan gọi là Ngự sử đài, có nhiệm vụ bàn
3 luận, cố vấn cho nhà vua. Khi Tô Hiến Thành đau nặng, Tham tri
4 chính sự (một chức quan đứng hàng thứ 2 sau tể tƣớng) Vũ Tán
5 Đƣờng ngày đêm săn sóc ở bên còn Trần Trung Tá thì không có mặt ở
6 đấy vì mắc bận việc khác. Chiêu Linh giả trá đến thăm để dọ hỏi dự
7 định của Tô Hiến Thành về việc cắt cử ngƣời phụ chính sau nầy. Tô
8 Hiến Thành đề nghị Trần Trung Tá. Chiêu Linh bèn hỏi tại sao Vũ
9 Tán Đƣờng đêm ngày hầu hạ thuốc thang cho nhƣng không đƣợc đề
10 đạt? Tô Hiến Thành đáp rằng Vũ Tán Đƣờng chỉ giỏi việc coi sóc
11 ngƣời bệnh, còn ngƣời thay thế cho Tô Hiến Thành phải là Trần
12 Trung Tá.
13 (4) Thầy của vua: sử cũ gọi là đế sƣ .
14 (5) Hoàng thái hậu Đỗ Thụy Châu: ĐVSKTT và CM chỉ gọi là Đỗ
15 thị. Đại Việt Sử Lƣợc chép hoàng hậu họ Đỗ nầy tên là Thụy Châu
16 (ĐVSL.3/8).
17 (6) Sông Tô Lịch: một nhánh của sông Nhị Hà. Theo sách Thanh Nhất
18 Thống Chí thì sông nầy bắt đầu từ phía Đông thành phủ Giao Châu
19 chuyển hƣớng Tây chảy thẳng ra sông Nhuệ; có ngƣời tên là Tô Lịch
20 ở vùng đó nên gọi là sông Tô Lịch. Đầu niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-
21 1424) thời nhà Minh, Hoàng Phúc đào sâu thêm và đổi thành sông Lai
22 Tô. Nay về phía Đông Hà Nội, huyện Thọ Xƣơng có cửa sông Tô
23 Lịch, là chỗ phân lƣu của sông Nhị Hà.
24 (7) Thitam giáo: tức là tuyển lựa những ngƣời hiểu biết uyên bác về đạo giáo
25 thực sự để cho làm quan. Những ngƣời tu hành trƣớc đây đa số là những kẻ ít
26 học lại đƣợc các triều đại trƣớc cấp phong quan tƣớc bừa bãi, có lẽ vì thế
27 mới có việc mở khoa thi tam giáo nầy và tiếp liền sau đó (năm 1198) sa thải
28 rất nhiều những ngƣời tu hành không có công trạng gì nhƣng lại đang giữ
29 nhiều chức vụ cao trong triều đình theo lời tấu của Đàm Dĩ Mông.
30 KĐVSTGCM viết: "Mậu Ngọ, tháng giêng, mùa Xuân (1198), xuống chiếu
31 sa thải các thầy chùa theo lời tấu của Đàm Dĩ Mông (CB.5/26). ĐVSKTT:
32 xuống chiếu sa thải các tăng đồ....(BK.4/ 22a,b).
33 (8) Sa thải, loại bỏ... : xem chú giải (7) ở trên.
34 (9) Cao Xá: nay là Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Sử
35 cũ viết: Ngô Công Lý người làng Cao Xá thuộc Diễn Châu, tập hợp
36 bè đảng rồi cùng với đám Đinh Khả, Bùi Đô ở châu Đại Hoàng cùng
37 mộ lúc nổi lên chống đối triều đình. Đinh Khả tự xưng mình là con
38 cháu Đinh Tiên Hoàng, phô trương thế lực, dụ dỗ quần chúng đi theo.
39 Lý Cao Tông sai quân đi đánh dẹp (ĐVSKTT/BK.4/22b và
40 KĐVSTGCM/ CB.V/27).
41 (10) Châu Đại Hoàng: thuộc huyện Gia Viễn, nay là huyện Hoa Lƣ,
42 tỉnh Ninh Bình. Hai bộ sử cũ viết rằng: Phi Lang và Bảo Lương ở
43 châu Đại Hoàng vì tố cáo Đàm Dĩ Mông tham nhũng cho nên bị Dĩ
44 Mông bắt và đánh bằng roi để trả thù vì thế bọn Phí Lang căm tức mà
45 nổi loạn "(nhƣ trên BK/ 24a và CB.5/29).

VSTK - 279
1 (11) Chiêu Linh hoàng thái hậu mất: ngƣời đàn bà họ Lê dâm đảng
2 nầy liên tục quậy phá từ đầu đời Lý Thần Tông (năm 1128), kéo qua
3 hết đời Lý Anh Tông (1138-1175), rồi đến đời Lý Cao Tông vẫn tiếp
4 tục dấy động chuyện phế lập mãi cho đến năm 1200 mới chịu nhắm
5 mắt nằm xuống.
6 (12) Quân Chiêm Thành: hai bộ sử cũ viết rằng ngƣời Chiêm tên Bố
7 Trì(a) bị ngƣời chú Bố Điền(b) đuổi đi, vì thế phải cùng gia đình vƣợt
8 biển bằng thuyền đến cửa biển Cơ La xin cầu viện để trở về lấy lại
9 ngôi vua. Quan quân triều đình ở châu Nghệ An nghi ngờ có sự man
10 trá cho nên đem quân đánh úp nhƣng thất bại, bị Bố Trì giết chết. Dân
11 chúng ở Nghệ An kinh sợ chạy tán loạn và bị tàn sát vô số kể. Bố Trì
12 mặc sức cƣớp bóc rồi rút đi.
13 (a) (b) Bố Trì, Bố Điền: có sách viết Bố Trì chính là vua Chàm
14 Suryavarmadeva và Bố Điền là Ong Dhanapatigrama.
15 (13) Cửa biển Cơ La: đời nhà Trần là Kỳ La, nay là cửa Nhƣợng,
16 huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tỉnh.
17 (14) Giả trá cầu viện: xem chú thích (12) ở trên.
18 (15) Đàm Dĩ Mông tham nhũng: xem chú thích (10) ở trên.
19 (16) Bắt quân dịch: ĐVSKTT viết :. . .giặc cướp nổi như ong. Xuống
20 chiếu chọn các đinh nam, người nào khỏe mạnh thì bắt sung vào quân
21 ngũ, sai các quan thống quản để đi đánh giặc loạn và giặc cướp
22 (BK/4/24b,25a). KĐVSTGCM cũng viết giống nhƣ thế.
23 (17) Châu Quốc Oai: gồm có một phần đất huyện Ba Vì ngày nay và
24 các huyện Hoài Đức, Đan Phƣợng, Phúc Thọ, Thạch Thất và huyện
25 Quốc Oai bây giờ.
26 (18) Chỉ huy quân sự ở châu Nghệ An: KĐVSTGCM gọi là tri Nghệ
27 An quân.
28 (19) Quan hoạn: tức là loại quan không còn bộ phận sinh dục hầu hạ
29 cận kề bên vua và hoàng hậu. Bộ sinh dục phải cắt bỏ đi nhằm phòng
30 ngừa việc chung chạ bậy bạ giữa các loại quan nầy với hoàng hậu và
31 các cung nữ riêng của nhà vua. Các loại hoạn quan nầy thƣờng có
32 chức tƣớc và uy quyền rất lớn trong triều đình vì nhờ thƣờng trực ton
33 hót, bợ đỡ vua hoặc hoàng hậu và cũng thƣờng lạm quyền tự tung, tự
34 tác.
35 (20) Tƣờng trình ủy khúc: tức là trình bày tất cả mọi việc xảy ra cho
36 cấp trên đƣợc biết. KĐVSTGCM viết: Phạm Du ngầm sai người đến
37 kinh đô đem vàng bạc hối lộ đút lót cho bọn nội nhân để tâu vua rằng
38 Bĩnh Di tàn ác chém giết bừa bãi người vô tội và xin cho Phạm Du
39 được về để bày tỏ tình trạng oan ức của mình (CB.5/ 33).
40 (21) Phạm Du: chỉ huy quân sự ở châu Nghệ An.
41 (22) Con trai của Phạm Bỉnh Di tên là Phụ: Phạm Bỉnh Di là một
42 hoạn quan, vậy đứa con trai nầy có thể là con nuôi hoặc là con của
43 Bỉnh Di trƣớc khi bị cắt bỏ bộ sinh dục để đƣợc trở thành hoạn quan.

VSTK - 280
1 (23) Bến Đông Bộ Đầu: ở phía Đông thành Thăng Long, bên sông
2 Hồng, nay ở vào khoảng gần cầu Long Biên và dốc Hàng Than bây
3 giờ.
4 (24) Quy Hóa giang: hay sông Thao, nay là đoạn sông Hồng từ Việt
5 Trì trở lên. Vùng Quy Hoá giang tức là những miền núi Vĩnh Phú và
6 Yên Bái.
7 (25) Lƣu Gia thôn: nay là Lƣu Xá, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình.
8 Còn Hải Ấp thì không rõ là nơi nào ở Lƣ Xá.
9 (26) Hải Ấp: không truy cứu đƣợc.
10 (27) Trần Lý: làm nghề đánh bắt cá. Lúc đã phát đạt giàu có, đƣợc
11 nhiều ngƣời theo, tụ tập thành đội ngũ rồi cũng nổi lên làm loạn.
12 (28) Đón một mình thái tử Sảm về: sử cũ không nói rõ vì sao chỉ đón
13 có một mình thái tử Sảm về triều còn vợ của Sảm là Trần thị lại phải
14 ở lại nhà bố của mình là Trần Lý ở Lƣu Gia thôn. Đây cũng lại là sự
15 rối ren thốc mách do một ngƣời đàn bà gây ra. Ngƣời đó chính là mẹ
16 của thái tử Sảm, Đàm thị hoàng hậu. (Sau nầy trở thành An Toàn
17 hoàng thái hậu dƣới triều của Lý Huệ Tông).

KHẢO LUẬN :

 Về thành tích cai trị của Lý Cao Tông

18 ĐVSKTT viết về Lý Cao Tông nhƣ sau: Vua chơi bời vô độ, chính
19 sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, lụt lội, động đất
20 đói kém liêm miên hết năm nầy tới năm khác, cơ nghiệp nhà Lý bắt
21 đầu suy từ đây .
22 Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Cao Tông tuổi bé nối ngôi, Chiêu Linh
23 thái hậu rắp lòng phế lập, thân vua suýt nữa bị nguy. Nhờ có Tô Hiến
24 Thành vốn có quyền vị, nhận ký thác con côi, hết lòng phù trợ, ngôi
25 báu không lay, thiên hạ quy phục tức là phải có những lời cố vấn, dẫn
26 dắt tài giỏi cho vua. Đến khi Hiến Thành chết, Đỗ Kính Tu hầu hạ nơi
27 màn trướng, giúp vua sửa đức, đâu phải là không có người? Thế mà
28 vua miệt mài rong chơi, say đắm thanh sắc, ham tiền của, thích xây
29 dựng, làm gương tham nhũng biếng nhác, gây oán hận trong dân
30 chúng khiến cho cơ đồ nhà Lý phải suy sụp đi lần đến chỗ mất ngôi về
31 họ khác. Kinh thư có câu: ở trong mê sắc đẹp, ra ngoài ham săn bắn,
32 say sưa rượu chè, tuồng nhạc, thích phô trương hoa hòe xây dựng nhà
33 cao cửa đẹp, chỉ cần phạm một trong những điều ấy cũng đủ bại
34 vong. Vua phạm đủ các điều ấy, còn nói gì được nữa."
35 (ĐVSKTT/BK.4/27a).
36 Phan Huy Chú viết: Năm vua mới lên ngôi, nhờ người hiền tài phụ
37 giúp cho nên chính sự còn khả quan. Nhưng về sau ăn chơi quá độ,
38 bày nhiều việc thổ mộc, trộm giặc nổi lên như ong. Cơ nghiệp nhà Lý
39 từ đấy mới suy. (LTHCLC/Nhân Vật Chí)

VSTK - 281
1 VNSL/Trần Trọng Kim viết: Đến khi Cao Tông lớn lên cầm quyền
2 trị nước thì cứ hay đi săn bắn chơi bời, làm cung xây điện, bắt trăm
3 họ phải phục dịch khổ sở. Ngoài biên thì quân mường thổ ở bên Tàu
4 sang quấy nhiễu ở phía Bắc, người Chiêm Thành sang đánh ở phía
5 Nam; trong nước thì trộm cướp nổi lên như ong dấy. Vua tôi không ai
6 lo nghĩ gì đến việc chính trị, chỉ là những việc nhũng lạm, mua quan
7 bán chức, hà hiếp nhân dân, lấy tiền để làm những việc xa xỉ.
 Về ngƣời dàn bà họ Đàm dƣới triều đại của nhà Lý

8 ĐVSKTT chép: tháng 3, năm Bính Ngọ (1186), Lý Cao Tông sách
9 phong Đàm thị làm An Toàn nguyên phi (Đàm thị là con gái của
10 tƣớng quân Đàm Thì Phụng).
11 Lời chua trong KĐVSTGCM viết: Đàm thị: con gái tướng quân
12 Đàm Phụng, năm Trinh Phù thứ 11 (1186) được sách lập làm nguyên
13 phi.
14 Vào năm 1186, Lý Cao Tông chỉ mới có 13 tuổi (sinh năm 1173).
15 Sử sách cũ không nói gì tới hoàng hậu vợ đích của Lý Cao Tông lúc
16 Cao Tông ở lứa tuổi 13 nhƣng ông vua trẻ nít nầy chắc là phải có
17 hoàng hậu từ trƣớc năm 1186, bởi vì nếu chƣa có hoàng hậu thì Đàm
18 thị phải là ngƣời vợ đầu tiên của Lý Cao Tông nhƣng tại sao chỉ đƣợc
19 sắc phong là nguyên phi mà không là hoàng hậu? Vậy trƣớc Đàm thị
20 nguyên phi, ai là hoàng hậu của Lý Cao Tông? Đây có thể là một
21 nghi án xấu xa khác của vƣơng tộc nhà Lý bị ém nhẹm không đƣợc
22 viết ra trong sử cũ.
23 Năm 1194, Đàm thị sinh đƣợc thái tử Sảm nên đƣợc Lý Cao Tông
24 nâng lên chức hoàng hậu, tức An Toàn hoàng hậu. Một chi tiết khác
25 cũng khá ly kỳ: phải đợi cho Lý Cao Tông đúng 16 tuổi thì Đàm thị
26 nguyên phi mới sinh đƣợc thái tử Sảm. Theo tục lệ xấu và kinh
27 nghiệm chậm tiến ngày xƣa thì: nữ thập tam, nam thập lục (con gái
28 mƣời ba tuổi, con trai 16 tuổi). Đây là hai phái tuổi có thể dựng vợ gả
29 chồng để sinh con đẻ cái gọi là tuổi dậy thì; thành hôn dƣới hai lứa
30 tuổi nầy về mặt phong hoá là điều cấm kỵ còn về mặt sinh lý thì trai
31 gái dƣới lứa tuổi 13-16 không có khả năng tạo thai.
32 Vậy, có thể suy diễn nhƣ sau: Đàm thị đã là vợ của Lý Cao Tông
33 từ trƣớc (từ lúc mới lên ngôi vua khi vừa đƣợc 3 tuổi) nhƣng vì vào
34 lúc đó Lý Cao Tông còn chỉ là một đứa con nít quá non sữa chƣa biết
35 gì về chuyện vợ chồng, chƣa thể có con cho nên Đàm thị chỉ đƣợc ở
36 hàng nguyên phi. Chuyện nầy ngƣời chép sử dƣới triều Lý không
37 đƣợc phép viết ra vì trái với phong hoá, phản tự nhiên và có hại cho
38 gia thế của vƣơng tộc nhà Lý; phải đợi cho hai ngƣời đúng tuổi mới
39 đƣợc viết chuyện Đàm thị sinh ra thái tử Sảm và đƣợc tƣớc phong làm
40 An Toàn Hoàng hậu vào năm 1194 mà thôi.

 Về Đàm thị An Toàn hoàng hậu và Đàm Dĩ Mông

VSTK - 282
1 Hai ngƣời nầy cùng một họ Đàm, cùng đƣợc thăng quan tiến chức
2 dƣới triều Lý Cao Tông gần nhƣ song song cùng một lúc. Phải chăng
3 hai ngƣời có bà con họ hàng với nhau ?
4 Năm 1186, sử cũ nhắc tới việc Đàm thị đƣợc sách phong làm
5 nguyên phi thì Đàm Dĩ Mông đƣợc Lý Cao Tông phong chức Thái
6 phó. Rồi kể từ sau khi Đàm thị đƣợc nâng lên chức hoàng hậu, (năm
7 1194), Lý Cao Tông bắt đầu tin dùng và nghe theo Đàm Dĩ Mông:
8 năm 1198 sa thải các tăng đồ theo lời tâu của Đàm Dĩ Mông; năm
9 1203 giao trọn quyền cho Dĩ Mông đi giải quyết việc dẹp giặc Chiêm
10 Thành đến cửa biển Cơ La đánh phá; năm 1206 Dĩ Mông đƣợc phong
11 chức Thái Bảo.
12 Năm 1209, Quách Bốc làm loạn, Lý Cao Tông và hoàng tử Sảm
13 phải trốn chạy, Quách Bốc lập con trai thứ nhì của Lý Cao Tông là
14 Thầm lên ngôi và Đàm Dĩ Mông chịu thần phục vua mới và hợp tác
15 với bọn Quách Bốc. Sau khi Lý Cao Tông đã lấy lại ngôi vua, phản
16 thần Đàm Dĩ Mông không bị tội chết mà vẫn còn đƣợc Lý Cao Tông
17 ƣu ái và trọng dụng. Sau nầy, khi Đàm thị đã trở thành Hoàng thái hậu
18 (mẹ đẻ vua Lý Huệ Tông), Đàm Dĩ Mông đƣợc giữ chức Thái Úy trọn
19 quyền cùng với hoàng thái hậu họ Đàm trông coi việc nƣớc. Cả hai bộ
20 sử cũ đều viết rằng Đàm Dĩ Mông là ngƣời không có học thức, ngu
21 đần, nhu nhƣợc, lừng khừng vì thế chính sự mới ngày một đổ nát, đói
22 kém, giặc giã, cƣớp trộm xảy ra khắp nơi. Nhƣ vậy, Đàm thị An Toàn
23 hoàng hậu và Đàm Dĩ Mông có thể là anh chị em ruột hoặc có họ
24 hàng với nhau. Sử cũ cho biết rằng Đàm thị là con gái của tƣớng quân
25 Đàm Thì Phụng.
26 Lịch sử cho thấy, chỉ có anh em dòng họ của vợ hoặc của mẹ vua,
27 dù ngu si đần độn bất tài nhƣng lúc nào cũng đƣợc vua tin dùng đặt
28 vào những chức vụ tột đỉnh của triều đình. Đám ngƣời gia đình trị nầy
29 thƣờng là nguồn gốc của những trò dâm loạn bƣng bít, những âm mƣu
30 thô bỉ thay ngôi đổi chủ trong các triều đại vua chúa thời phong kiến.


8. LÝ HUỆ TÔNG ( 1211 - 1225 )
Niên hiệu : Kiến Gia (1221-1224)

31 Mùa Đông tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thái tử


32 Sảm lên ngôi trƣớc linh cửu tức là Lý Huệ Tông, bấy
33 giờ mới đƣợc 16 tuổi, tôn mẹ là là Đàm thị làm hoàng
34 thái hậu cùng nắm giữ chính sự.

VSTK - 283
1 Năm Tân Mùi, tháng Giêng (1211), đổi niên hiệu là
2 Kiến Gia năm thứ 1.
3 Sai Phạm Bố đi đón Trần thị vào cung lập làm
4 nguyên phi(1).
5 Tiếp tục dùng Đàm Dĩ Mông giữ chức Thái Úy cùng
6 Đàm thái hậu trông coi việc nƣớc; phong cho cậu của
7 Trần thị là Tô Trung Từ chức thái úy phụ chính kiêm
8 tƣớc Thuận lƣu bá; phong cho anh của Trần thị là Trần
9 Tự Khánh làm chƣơng thành hầu.
10 Năm Nhâm Thân, tháng 2 (1212), sai Đoàn
11 Thƣợng(2) đi châu Hồng dẹp giặc cƣớp. Đoàn Thƣợng
12 nhân cơ hội nầy làm phản tự xƣng vƣơng.
13 Năm Quý Dậu (1213), Đàm thị hoàng thái hậu và
14 nguyên phi Trần thị không thuận hòa với nhau, Trần
15 Tự Khánh biết đƣợc liền tự tiện đem quân về kinh đô
16 lấy tiếng là để xin rƣớc vua và em gái đi nơi khác. Lý
17 Huệ Tông nghi Khánh làm phản và nghe theo Đàm
18 thái hậu cho nên giáng Trần thị xuống hàng nô dịch (3)
19 và sai quân đuổi bắt Trần Tự Khánh. Tự Khánh nghe
20 tin ấy liền đích thân đi đến cửa cung vua lấy cớ là để
21 giải bày về việc không có lệnh vua tự tiện mang quân
22 về thủ đô. Lý Huệ Tông càng nghi thêm bèn cùng Đàm
23 thái hậu lánh trốn lên Lạng châu dẫn theo Trần thị để
24 làm con tin. Tự Khánh lại dẫn quân đuổi theo, lại lấy
25 cớ là để xin đón về nhƣ trƣớc, Lý Huệ Tông vẫn không
26 tin cho nên lại chạy trốn sang huyện Bình Hợp(4) .
27 Mùa Hạ tháng 5, năm Quý Dậu (1213), Trần Tự
28 Khánh đem quân đánh dẹp tan bọn Đinh Khả và Bùi
29 Đô(5) ở châu Diễn và châu Đại Hoàng.
30 Năm Bính Tý, mùa Xuân (1216), Lý Huệ Tông sau
31 khi trở lại hoàng cung, phong cho Trần thị làm Thuận
32 Trinh phu nhân, trái ý với thái hậu vì thái hậu rất ghét
33 Trần thị, coi Trần thị cùng với Trần Tự Khánh là một
34 bè đảng phản loạn, rồi tìm cách đầu độc nhƣng nhờ có
35 Huệ Tông che chở cho nên Trần thị không bị hại; thái
VSTK - 284
1 hậu lại sai ngƣời đến ra lệnh cho Trần thị phải tự sát
2 nhƣng Huệ Tông lại kịp thời ngăn chặn; sau đó Huệ
3 Tông cùng Trần thị bỏ hoàng cung đi trốn ở châu Cửu
4 Liên(6) rồi báo tin cho Trần Tự Khánh đến đón.
5 Mùa Hạ tháng 6, năm Bính Tý (1216), Trần thị sinh
6 con gái đầu lòng là công chúa Thuận Thiên ở châu
7 Cửu Liên.
8 Tháng 12 cùng năm, Trần Tự Khánh đƣa quân đến
9 đón rồi hộ tống đƣa vua và Trần thị trở về triều cung.
10 Trần thị đƣợc phong làm hoàng hậu, Tự Khánh đƣợc
11 chức Thái úy phụ chính, anh của Tự Khánh là Trần
12 Thừa đƣợc làm Nội thị.
13 Trần Tự Khánh và thƣợng tƣớng Phan Lân sửa sang
14 quân ngũ, chế tạo binh khí, thao luyện binh sĩ, thế quân
15 bắt đầu lớn mạnh.
16 Năm Mậu Dần, tháng 9 (1218), Trần thị hoàng hậu
17 sinh con gái thứ nhì là Chiêu Thánh; con gái lớn sinh ở
18 châu Cửu Liên ngày trƣớc tên là Thuận Thiên nay đã là
19 vợ(7) của Trần Liễu. Trần Liễu là con trƣởng của Trần
20 Thừa.
21 Lý Huệ Tông mắc bệnh tâm thần(8), rƣợu chè say sƣa
22 không còn biết gì tới việc triều đình, lại chƣa có thái
23 tử, nhà vua chỉ sinh đƣợc 2 công chúa cho nên phải
24 giao hết cả chính sự cho Trần Tự Khánh. Quyền bính
25 trong nƣớc từ nay về cả trong tay gia đình nhà họ
26 Trần.
27 Năm Quý Mùi, tháng 12 (1223),Trần Tự Khánh
28 chết. Anh của Trần thị hoàng hậu là nội thị Trần Thừa
29 đƣợc đƣa lên nắm giữ chức phụ quốc thái úy.
30 Năm Giáp Thân, mùa Đông (1224), lập Chiêu
31 Thánh công chúa làm Phật Kim thái tử. Dùng em của
32 hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm điện tiền chỉ huy sứ.
33 Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông
34 nhƣờng ngôi cho Chiêu Thánh rồi ra ở chùa Chân
35 Giáo(9). Lý Huệ Tông ở ngôi đƣợc 14 năm.
VSTK - 285
CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:
1 (1) Nguyên phi: vợ thứ của vua, nhỏ hơn hoàng hậu.
2 (2) Đoàn Thƣợng: ĐVSKTT chép là sai người cùng một vú nuôi là
3 Đoàn Thượng tức là mẹ của Đoàn Thƣợng cũng là mẹ nuôi dƣỡng
4 Huệ Tông hay nói khác đi Đoàn Thƣợng là anh em nuôi của Huệ
5 Tông.
6 (3) Nô dịch: sử cũ viết là ngự nữ, hay là tôi tớ phục dịch cho vua.
7 (4) Bình Hợp: không khảo đƣợc.
8 (5) Đinh Khả và Bùi Đô: năm Mậu Ngọ, tháng 7 (1198), ngƣời
9 hƣơng Cao Xá ở châu Diễn là Ngô Công Lý chiêu tập những dân sống
10 ngoài vòng luật pháp hợp cùng với Đinh Khả tự xƣng là thuộc dòng
11 họ Đinh Tiên Hoàng hợp và Bùi Đô cùng một lúc nổi dậy chống lại
12 triều đình. Theo ĐVSKTT thì các cuộc nổi dậy nầy đều dẹp yên đƣợc.
13 Còn KĐVSTGCM chỉ viết rằng nhà vua xuống chiếu xuất quân đi
14 đánh nhƣng không nói là có dẹp yên đƣợc hay không. Nay, ở năm
15 Quý Dậu (1213) ĐVSKTT lại viết rằng Trần Tự Khánh phá tan nhóm
16 chống đối Đinh Khả và Bùi Đô ở châu Diễn và châu Đại Hoàng trong
17 khi KĐVSTG không đề cập việc nầy ở thời điểm năm 1231.
18 Nhƣ vậy có thể suy đoán nhƣ sau: những cuộc nổi loạn của Đinh
19 Khả và Bùi Đô dù có bị quân của Lý Cao Tông đón và đánh dẹp
20 nhƣng chƣa bị tan rã hoàn toàn và sau đó Trần Tự Khánh mới tiêu
21 diệt đƣợc hết.
22 (6) Châu Cửu Liên: có thể là ở về phía tả ngạn sông Hồng gần cửa
23 Cửu Cao, trong vùng đất huyện Văn Giang ngày trƣớc, nay thuộc
24 huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hƣng.


9. LÝ CHIÊU HOÀNG ( 1225 )
Niên hiệu :Thiên Chương Hữu Đạo (1224-1225)

25 Chiêu Thánh còn gọi là Phật Kim mới đƣợc 7 tuổi,


26 lên ngôi vua vào năm Giáp Thân, tháng 10 (1224) tức
27 Lý Chiêu Hoàng, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu
28 Đạo năm thứ 1.
29 Năm Ất Dậu, tháng 10 (1225), thái hậu Trần thị
30 cùng với em họ là Trần Thủ Độ mƣu tính với nhau,
31 xuống chiếu tuyển chọn con em của các quan trong
32 ngoài để đƣa vào cung hầu hạ riêng cho vua; thừa dịp

VSTK - 286
1 nầy, Trần Thủ Độ và Trần thị đã đƣa những cháu chú,
2 cháu bác là Trần Bất Cập(1) làm Cận thị thƣ lục cục(2)
3 Chi hậu cục, Trần Thiêm(3) làm Chi hậu cục(4) và Trần
4 Cảnh(5) làm chính thủ(6). Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh
5 vì gần gũi nhau cho nên phải lòng nhau, ngày đêm làm
6 chuyện trai gái phòng the.
7 Tất cả những liên hệ giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu
8 Hoàng thì Trần Cảnh phải báo trình(7) cho Trần Thủ
9 Độ và Trần thị đƣợc rõ.
10 Ngày 21 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Thủ Độ
11 tuyên bố một cách bất ngờ với quần thần rằng Lý
12 Chiêu Hoàng và Trần Cảnh đã trở thành vợ chồng.
13 Mọi ngƣời đều sợ hãi, chỉ biết cúi đầu nghe theo. Quan
14 quân phải vào triều chúc mừng rồi nghe đọc chiếu của
15 Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi vua cho Trần Cảnh.
16 Cùng trong năm Ất Dậu nầy, mẹ đẻ của Trần Cảnh
17 là Lê thị lại sinh con trai tên là Nhật Hiệu(8).
18 Thời đại họ nhà Lý kéo dài từ Lý Công Uẩn năm
19 1010 đến Lý Chiêu Hoàng năm 1225, tất cả là 218 năm
20 thì mất về tay họ nhà Trần.

CHÖ GIẢI & KHẢO LUẬN:


21 (1) Trần Bất Cập: không rõ là con của ai. Có thể là con riêng của Thủ
22 Độ và Trần thị nhƣng che lắp đi mà viết là cháu gọi Thủ Độ bằng chú.
23 Cũng có thể là con vợ cả của Trần Thừa hoặc là con của Trần Tự
24 Khánh .
25 (2) Cận thị thƣ lục cục: chức của ngƣời hầu cận trong cung vua làm
26 những việc vặt vãnh nhƣ bƣng nƣớc rửa mặt, têm trầu, bƣng nƣớc...
27 cho vua.
28 (3) Trần Thiêm: không rõ là con của ai. (Có thể giống nhƣ ở chú
29 giải(1) ở trên.
30 (4) Chi hậu cục: nhƣ chú giải(2) trên.
31 (5) Trần Cảnh: con của Trần Thừa và mẹ là Lê thị, vợ thứ của Trần
32 Thừa.
33 (6) Chính thủ: nhƣ chú giải(2) trên.
34 (7) Báo trình: sử cũ viết: Trần Cảnh lên 8 tuổi đến phiên vào hầu,
35 Chiêu Hoàng thấy Cảnh liền đem lòng ưa thích cho nên đêm đến

VSTK - 287
1 thường gọi vào hầu để phục vụ và bỡn cợt. Trần Cảnh đem việc đó
2 mách lại Thủ Độ. Thủ Độ nói: "nếu quả thật như vậy thì họ ta một là
3 làm vua hoặc hai là sẽ bị giết sạch". Một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy
4 khăn đậy mâm trầu cau ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh nhận lấy, rồi
5 mách với Thủ Độ. Thủ Độ bèn đem gia thuộc họ hàng vào trong cung
6 cấm, sai đóng kín các cửa thành. Trăm quan tiến triều không vào
7 được. Thủ Độ nhân thế loan báo cho mọi người: bệ hạ đã có chồng
8 rồi. Các quan đều phải tuân theo và xin chọn ngày vào chầu làm lễ
9 yết kiến. Ngày 21 tháng 12, bầy tôi tiến triều, lạy mừng. Nhà vua
10 xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh (KĐVSTGCM/ CB.4/ 43).
11 (8) Nhật Hiệu: em cùng mẹ của Trần Cảnh.

KHẢO LUẬN:

 Nhóm ngƣời họ Trần âm mƣu


đoạt ngôi nhà họ Lý

12 KĐVSTGCM viết: Tổ phụ Trần Thừa là Kính người làng Tức


13 Mặc, sinh con tên là Hấp, Hấp sinh con là Lý, Lý sinh ra Thừa, Thừa
14 lấy vợ Lê thị sinh ra nhà vua (tức Trần Cảnh).
15 Ở một lời chua trƣớc lại ghi rằng: Trần Cảnh là con thứ của Trần
16 Thừa và là cháu họ của Trần Thủ Độ. Một lời chua khác cũng viết:
17 Trần Liễu là con cả của Trần Thừa. Con cả, con thứ phải chăng có
18 ý nói là con vợ cả, con vợ thứ hay là con cùng một mẹ nhƣng con
19 đầu tiên thì gọi là con cả còn những con sau đó đều gọi là con thứ
20 ? Dù sao đi chăng nữa thì rõ ràng Trần Liễu là anh cùng một cha với
21 Trần Cảnh vì năm Mậu Tý tháng 8 (1228), KĐVSTGCM viết: Vua
22 (tức Trần Cảnh) phong cho anh là Liễu làm Thái Úy. Tiếp Liền ngay
23 sau đó lại viết: Liễu đối với nhà vua, là hàng anh cả. Dưới triều nhà
24 Lý, Liễu lấy công chúa (tức Lý Thuận Thiên chị của vua Lý Chiêu
25 Hoàng) được phong phụng Kiều vương, nay phong là thái úy. Đó lá
26 nhánh thƣ nhất của dòng họ Trần Lý.
27 Nhánh thứ nhì là Trần Tự Khánh, con thứ (thứ nhì?) của Trần Lý.
28 Khánh đã đóng vai trò đi trƣớc mở đƣờng cho cả họ nhà Trần.
29 Nhánh thứ ba là Trần thị (có sách viết là Trần thị Dung), một
30 ngƣời đàn bà đẹp nhƣng vô luân, dâm đảng, mƣu mẹo, tàn nhẫn, một
31 ngƣời ngƣời vợ, một ngƣời mẹ vô trách nhiệm, một con cờ thí của họ
32 Trần dùng làm gián điệp bên trong cung đình họ nhà Lý.
33 Nhánh đặc biệt của dòng họ nhà Trần là nhánh Trần Thủ Độ. Vai
34 vế Trần Thủ Độ có thể là nhỏ hơn hết đối với các nhánh kia nhƣng lại
35 là kẻ lãnh đạo quan trọng nhất trong một chuỗi dài âm mƣu, sắp xếp
36 để đoạt ngôi và tận diệt dòng họ nhà Lý. Sử sách không thấy viết rõ
37 ràng lai lịch và chi nhánh gia tộc của Trần Thủ Độ mà chỉ viết một

VSTK - 288
1 cách gián tiếp Trần Thủ Độ là em họ của Trần thị tức là chú bác họ
2 của đám hậu sinh Trần Bất Cập, Trần Thiêm và Trần Cảnh.
3 Tông tích của Trần Thủ Độ đƣợc dấu kín thật kỹ khiến cho ngƣời
4 đời sau có quyền suy diễn rằng: Trần Thủ Độ là em ruột của Trần
5 thị (Dung) và nếu sự suy diễn nầy đúng thì Trần Thủ Độ phải
6 đƣợc xem là một loài cầm thú không có lƣơng tri, "nết xấu như
7 chó lợn, dạ độc như hùm beo" theo nhƣ lời phê bình của vua Tự Đức
8 trong KĐVSTGCM.

TRẦN KÍNH

Trần Hấp

Trần Lý (Vô Danh)

Trần Thừa Trần Tự Khánh Trần thị (Dung) Trần Thủ Độ

Trần Liễu Trần Cảnh Nhật Hiệu Lý Thuận Thiên Lý Chiêu Hoàng

 về cuộc kháng chiến chống giặc


Tống xâm lƣợc (1075 - 1077)

9 Nhà Tống bên Trung Hoa từ khi Vƣơng An Thạch cầm quyền tể
10 tƣớng đã có ý đồ xăm lăng nƣớc Đại Việt (đây là quốc hiệu của Việt
11 Nam có từ năm 1054 thời Lý Thánh Tông) nhất là ở các vùng biên
12 cƣơng giữa hai nƣớc nhằm mục đích gây thanh thế với các nƣớc Liêu,
13 nƣớc Hạ lúc đó đang uy hiếp vùng biên thùy phía Bắc và Tây Bắc của
14 nƣớc Trung Hoa.
15 Theo mƣu tính của Vƣơng An Thạch đƣợc ghi lại trong Tục tư trị
16 thông giám trường biên của Lý Đào thì: "Khi mà quân ta (tức quân
17 Tống) diệt được Giao Chỉ (tức nƣớc Đại Việt), thì uy thế của ta sẽ
18 vang vội khắp nơi. Lúc đó ta báo tin cho Thiểm Tây biết, quân dân
19 Thiểm Tây sẽ lên tinh thần và chí khí. Với chí khí ấy, ta sẽ tiêu diệt dễ
20 dàng nước Hạ và khi đã diệt được nước Hạ rồi thì còn ai dám quấy
21 nhiễu Trung quốc nữa."

VSTK - 289
1 Do đó nƣớc Đại Việt trở thành mục tiêu xâm lƣợc của quân Tống.
2 Quân Tống chuẩn bị việc xâm lƣợc rất thận trọng và chu đáo. Thành
3 Ung Châu (nay là Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây) và các vùng ven biển
4 nhƣ Khâm Châu, Liêm Châu (tỉnh Quảng Đông) cùng một lúc với các
5 vùng biên giới vùng Đông Bắc giữa hai nƣớc đƣợc quân Tống tổ chức
6 thành những cứ điểm quân sự và hậu trạm để làm những điểm xuất
7 quân cho các đạo quân xâm lƣợc. Ngoài ra quân Tống còn dùng chính
8 sách dụ dỗ mua chuộc các tộc trƣởng dân tộc thiểu số vùng biên giới
9 phía Bắc cũng nhƣ xúi giục Chiêm Thành quấy rối mặt phía Nam Đại
10 Việt.
11 Biết đƣợc âm mƣu và giả tâm của quân Tống, triều đình nhà Lý và
12 tể tƣớng Lý Thƣờng Kiệt đã dùng chiến sách ra tay trƣớc, không bị
13 động ngồi chờ giặc tới: trƣớc hết, nhà Lý chiêu hồi và đoàn kết đƣợc
14 các dân tộc vùng núi phía Bắc và Đông Bắc, tổ chức tăng cƣờng
15 phòng thủ thật chặt chẽ vùng biên cƣơng giữa hai nƣớc. Ở mặt biên
16 giới phía Nam, cử tƣớng Lý Thƣờng Kiệt mang quân đánh Chiêm
17 Thành để phá hủy âm mƣu liên minh giữa giặc Chiêm và giặc Tống,
18 đồng thời để củng cố các vùng đất Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý
19 (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ngày nay) mà vua Chiêm Chế Củ đã
20 dâng cho nhà Lý từ năm Kỷ Dậu (1069).
21 Với chủ trƣơng muốn tự vệ thì phải tấn công trƣớc và để đƣa quân
22 địch vào thế bị động, Lý Thƣờng Kiệt tổ chức một cuộc hành quân
23 quy mô đánh thẳng và bất ngờ vào lòng đất của nhà Tống rồi nhanh
24 chóng rút quân về để bố trí phóng thủ trong nƣớc. Mục tiêu tấn kích là
25 các trại biên giới của nhà Tống trên đất Trung Hoa, cửa biển Khâm
26 Châu, Liêm Châu và chủ yếu là thành Ung Châu.
27 Năm Ất Mão tháng 11 ( tức tháng 10 năm 1075 dƣơng lịch) hơn
28 một trăm ngàn quân thủy, bộ của Đại Việt đƣợc điều động trong
29 chiến dịch tấn kích nầy.
30 Quân đoàn bộ binh do tƣớng Tôn Đản và các lãnh tụ các dân tộc
31 thiểu số Lƣ Kỹ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An bất
32 ngờ tấn công các trại của quân Tống dọc theo vùng biên giới phía
33 Đông Bắc. Đoàn quân chủ lực của Lý Thƣờng Kiệt chỉ huy, xuất phát
34 từ châu Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) dùng đƣờng biển đổ quân
35 vào chiếm Khâm Châu, Liêm Châu. Song song với cuộc tấn kích nầy,
36 chiến dịch tuyên truyền chiêu hồi và giải thích về mục đích tự vệ qua
37 cuộc tiến đánh của quân Đại Việt vào lãnh thổ của Trung Hoa. Hai
38 đoàn quân thủy bộ sau đó từ hai hƣớng cùng tiến vây hãm thành Ung
39 Châu. Mùa Xuân, tháng Giêng năm Bính Thìn (tháng 3 năm 1076
40 dƣơng lịch) quân Đại Việt chiếm đƣợc thành Ung Châu. Lý Thƣờng
41 Kiệt ra lệnh phá hoại thành trì, thiêu hủy các kho tàng lƣơng thực,
42 chém giết quân Tống vô số, bắt rất nhiều tù binh và thƣờng dân của
43 nhà Tống trong thành Ung Châu rồi nhanh chóng rút quân trở về Đại
44 Việt.

VSTK - 290
1 Biết trƣớc nhà Tống thế nào cũng sẽ đƣa quân sang và liên kết với
2 Chiêm Thành để đánh trả thù, Lý Thƣờng Kiệt một mặt đƣa quân Đại
3 Việt bình định Chiêm Thành và kinh lý, vẽ bản đồ các vùng Bố
4 Chính, Địa Lý, Ma Linh đồng thời tổ chức công cuộc bố phòng để
5 ngăn chặn sự tấn công của Chiêm Thành.
6 Theo sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào thì quân
7 Tống điều động hơn 100 ngàn bộ binh, 10 ngàn kỵ binh, 200 ngàn dân
8 quân và một đạo thủy quân để tiến đánh trả thù và xâm lăng Đại Việt
9 từ các hƣớng Bắc và Đông Bắc (quanh vùng Cao Bằng, Lạng Sơn,
10 Quảng Ninh). Trên các hƣớng nầy, Lý Thƣờng Kiệt chỉ bố trí các lực
11 lƣợng du kích để kìm hãm và tiêu hao một phần lực lƣợng của quân
12 Tống.
13 Phòng tuyến chiến lƣợc trọng yếu của Lý Thƣờng Kiệt là các
14 đƣờng bộ từ Đông Bắc mà quân địch sẽ phải qua để tiến về thủ đô
15 Thăng Long, quan trọng nhất là vùng sông Nhƣ Nguyệt (nay là sông
16 Cầu). Vì thế trên bờ phía Nam của con sông nầy, từ cuối chân sƣờn
17 núi Tam Đảo đến sông Lục Nam (còn gọi là sông Lục Đầu), Lý
18 Thƣờng Kiệt đã xây dựng một chiến lũy kiên cố.
19 Cuối năm 1076, quân Tống tiến binh nhƣ vũ bảo vào đất Đại Việt
20 và nhanh chóng tràn xuống bờ phía Bắc sông Nhƣ Nguyệt đối đầu với
21 chiến lũy của Lý Thƣờng Kiệt, trên một trận tuyến dài mấy mƣơi cây
22 số từ bến đò Nhƣ Nguyệt đến chân núi Nham Biền. Quân địch không
23 thể phá vỡ chiến lũy Nhƣ Nguyệt, trong khi quân Đại Việt bắt đầu
24 bƣớc sang giai đoạn phản công khiến quân Tống bị bao vây và tổn
25 thất nặng nề phải rút chạy về phía bờ Bắc sông Nhƣ Nguyệt. Tuy
26 nhiên quân Tống tổ chức lại hàng ngũ và thay đổi chiến thuật để phản
27 công và tiến quân sát xuống sông Phú Lƣơng (nay là sông Nhị Hà)
28 khiến cho quân Đại Việt cũng bị thiệt hại khá nhiều. Dù vậy, quân
29 Tống cũng không thể tiến quân và lực lƣợng của họ càng lúc càng bị
30 tiêu hao bởi sức chiến đấu kiên cƣờng của quân dân Đại Việt. Sau
31 mấy tháng đánh vào sâu nƣớc Đại Việt, quân binh và dân binh của
32 nhà Tống đã bị tiêu hao hơn quá nửa, số còn lại thì đau ốm bệnh tật vì
33 không hạp với phong thổ khí hậu.
34 Chủ trƣơng không làm mệt sức và hao tổn xƣơng máu của quân
35 dân Đại Việt, Lý Thƣờng Kiệt chủ động điều đình cầu hòa với quân
36 Tống mặc dù đang thắng thế. Quân Tống vội vàng nhận lời lui về
37 nhƣng vẫn đặt quân ở lại giữ các vùng châu Quảng Nguyên, Tƣ Lãng
38 (nay là 2 huyện Thƣợng Lang và Hạ Lang tỉnh Cao Bằng), Tô Mậu
39 (nay là đất biên giới tỉnh Quảng Yên và các đất Nhƣ Tích, Thiếp
40 Lãng, Tƣ Lẫm thuộc châu Khâm của Trung Quốc), châu Môn (có thể
41 là ở Cao Lạng), Quang Lang (ngày nay ở Châu Ôn tỉnh Lạng Sơn có
42 thôn Quang Lang), những vùng đất mà quân Tống đã chiếm cứ từ lúc
43 khởi đầu cuộc xâm lăng Đại Việt.

VSTK - 291
BẢN ĐỒ NƢỚC ĐẠI VIỆT THỜI ĐẠI LÝ - TRẦN

VSTK - 292
VSTK - 293
VSTK - 294
VSTK - 295
LỜI GIỚI THIỆU

Chúng tôi trân trọng chào đón quý đọc giả đã chiếu cố đến với
Việt Sử Tân Khảo.
Sách nầy đến tay đọc giả là kết quả của một quá trình làm việc
nghiêm chỉnh, cật lực kéo dài qua nhiều năm, tháng, ngày, đêm không
ngơi nghỉ, kể từ lúc ý định " Viết Sử " manh nha trổi dậy trong đầu óc
cho đến lúc tạm gọi là viết xong giai đoạn một.
Có ngƣời sẽ nói rằng hiện tình sách sử Việt Nam ở trong nƣớc
cũng nhƣ ở ngoài nƣớc đã có nhiều rồi, tại sao lại còn đèo bòng múa
rìu qua mắt thợ?
Rất nhiều lý do thúc đẩy chúng tôi biên soạn sử cũ.
Lý do 1: thuộc về thực tế từ trƣớc tới nay ngƣời Việt Nam chúng
ta rất ít ngƣời chịu đọc sách sử cũ Việt Nam vì chúng quá rƣờm rà,
nhiêu khê, mờ mịt.
Lý do 2: các sách sử xƣa không có tính cách phổ cập.
Lý do 3: và quan trọng hơn hết là vì sử sách cũ bao che, không
trung thực.
Theo thứ tự thời gian xuất hiện, các loại sách sử cổ xƣa mà ngày
nay chúng ta biết đến gồm có:
- Đại Việt Sử Lƣợc (không biết tác giả)
- An Nam Chí Lƣợc của Lê Trắc
- Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hƣu
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ của Ngô Sĩ Liên và tiếp nối bởi các sử
quan của triều đại nhà Hậu Lê
- Đại Việt Sử Ký Tiền Biên dƣới triều đại Tây Sơn ngắn ngủi
- Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cƣơng Mục do quốc sử quán
triều Nguyễn biên soạn và ấn hành.
Ngoài ra, chúng ta còn có những công trình viết sử của Phan Phu
Tiên, Hồ Tông Thốc, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Đặng Xuân Bảng.
Tất cả các sách vừa kể đều đƣợc viết bằng chữ Hán thƣờng đƣợc
ngƣời xƣa của nƣớc ta tránh né gọi là chữ Nho tức là một loại chữ viết
và đọc đƣợc dùng cho các học sinh Việt Nam học chữ Tàu gọi là Nho
sinh và cũng đƣợc xem nhƣ là một loại chữ viết chính thức trong các
triều đình phong kiến Việt Nam. Nhà Nho, hoặc Nho quan là những
ngƣời có học, thấu hiểu kinh sách của Tàu, đọc thông, viết thạo chữ
Hán.
Chữ Nho là loại chữ của một tầng lớp xã hội đặc biệt, của tầng lớp
vua chúa, quan lƣu, phong kiến. Loại chữ viết và đọc nầy không phổ
cập trong đại đa số quần chúng cùng khổ Việt Nam. Các loại sử sách,
thƣ tịch cổ viết bằng chữ Nho không có một tác dụng thiết thực nào

VSTK - 296
ii

cho dân chúng nghèo đói thời đó vì họ không thể đọc và hiểu đƣợc
những loại sách nhƣ vậy. Chúng chỉ là những sản phẩm độc quyền
của nhóm ngƣời phong kiến cao ngạo, phô trƣơng, dùng sách vở,
truyện ký để tuyên truyền, đánh bóng cho chế độ. Các thế hệ theo sau,
nếu có cơ may đọc đƣợc những loại thƣ tịch, sử sách đó thì cũng khó
tìm thấy đƣợc điều hữu ích của dĩ vãng để đem áp dụng cho tƣơng lai.
Từ sau năm 1945, chữ Nho hay Hán văn vẫn còn đƣợc tiếp tục dạy
trong các trƣờng trung học ở miền Nam Việt Nam nhƣng cách dạy
của các bậc thầy Hán văn- thầy dạy chữ Nho- vào thời buổi nầy chỉ là
để lãnh lƣơng, kiếm cơm vì thế rất khó có những học sinh đọc thông,
viết thạo chữ Nho khi tốt nghiệp trung học. Những nhà Nho của cựu
trào chỉ còn lại một số rất ít và đa số không còn đất dung thân với mớ
gia tài chữ Nho của mình vì sự có mặt của chữ quốc ngữ, một loại
chữ viết và đọc tiếng Việt Nam theo mẫu tự La Tinh có bỏ thêm dấu.
Mãi đến năm 1960, tại miền Nam mới thấy xuất hiện bản phiên
dịch và chú giải một phần quyển cổ sử Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cƣơng Mục (quyển đầu và các quyển 1,2,3,4).
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, bộ sử KĐVSTGCM chƣa đƣợc
dịch ra quốc ngữ trong khi đó thì bộ sử nầy lại đƣợc ngƣời Pháp Abel
des Michels dịch ra tiếng Pháp dƣới nhan đề Annales Impériales de l'
Annam, xuất bản ở Versailles năm 1892.
Một ngƣời Pháp khác là Maurice Durand cũng đã bắt đầu dịch ra
tiếng Pháp bộ sử nầy, quyển thứ 1 dƣới nhan đề là Texte et
Commentaires du Miroir complet de l' Histoire du Viêt và cùng với
quy‹n thứ 2 ấn hành vào năm 1955.
Năm 1960 sách Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ đƣợc dịch và ấn
hành ở Sài Gòn trong khi đó thì tại miền Bắc Việt Nam sách
KĐVSTGCM đƣợc khảo đính, phiên dịch, chú thích toàn bộ và xuất
bản. Cũng trong năm 1960, sách Đại Việt Sử Lƣợc cũng đƣợc dịch và
xuất bản ở Hà Nội.
Năm 1967, ĐVSKTT đƣợc hiệu đính và dịch ra quốc ngữ và xuất
bản ở miền Bắc.
Tất cả công trình dịch thuật từ miền Bắc chẳng bao giờ tới tay
ngƣời dân miền Nam cho mãi đến sau năm 1975. Từ trƣớc năm 1945,
ngƣời dân miền Nam bình thƣờng chỉ biết đƣợc những quyển sử ký
do Trƣơng Vĩnh Ký viết bằng tiếng Pháp, quyển Đại Nam Quốc Sử
Diễn Ca viết theo thể văn vần và sách Việt Nam Sử Lƣợc của Trần
Trọng Kim. Ba quyển sách nầy chỉ là loại sách phổ thông, không có
tính cách khoa học: chỉ kể lại các sinh hoạt của nhóm vua chúa, quan
quyền thời phong kiến bằng cách tóm tắt các việc thay ngôi đổi chủ
hoặc các việc lớn xảy ra trong nƣớc Việt Nam rút từ các bộ sử lớn
nhƣ ĐVSKTT, Lê Sử Tục Biên hoặc Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cƣơng Mục từ thời cổ đến cuối đời triều đại nhà Nguyễn. Hoàn
VSTK - 297
iii

cảnh sống của ngƣời dân Việt Nam ngày trƣớc đã không đƣợc nói tới
một cách rõ ràng đầy đủ: sử cũ Việt Nam không phải là sử nói về con
ngƣời Việt Nam và đất nƣớc Việt Nam. Sử cũ của nƣớc Việt Nam
thời cổ chỉ là một công cụ dùng để kể công và bôi vẽ cho chế độ
phong kiến thối nát, và do đó mỗi triều đại phong kiến đều phải viết
đi, sửa lại, cắt bỏ, tiêu hủy những sử cố có thật nhƣng lại có hại cho
triều đại phong kiến đang nắm quyền làm chủ ngƣời dân và đất nƣớc
Việt Nam vào thời đó. Hậu quả là nƣớc Việt Nam chỉ có một loại sử
gọi là Chính Sử không ngay thẳng, không trung thực, những loại sách
sử do chính quyền phong kiến ra lệnh viết và do chính quyền phong
kiến phát hành.
Đọc sử cũ từ bản chữ Nho hay bằng bản dịch ra chữ quốc ngữ thì
cũng giống nhau, cùng một kiểu mà thôi; những điều dối trá, những
trò dâm bôn tồi tệ, những mƣu mô ác độc, những sự bóc lột cùng tột,
những tham vọng vô bờ bến, những chủ trƣơng diệt chủng tàn khốc,
những chính sách xăm lăng bành trƣớng lãnh thổ của nhóm vua chúa
thời phong kiến vẫn cứ tiếp tục bị ém nhẹm, luồn lách để qua mặt hậu
thế.
Những công trình viết sử riêng rẽ của những nhà Nho chân chính
thƣờng bị các chính quyền phong kiến dìm ém đi hoặc tiêu hủy rồi giả
trá hô lên rằng những tác phẩm đó bị thất lạc: các công trình viết sử
của Lê Văn Hƣu, Hồ Tông Thốc, của Phan Phu Tiên đã bị " thất lạc "
hoặc " bị quân giặc nhà Minh chiếm đoạt ", và có lẽ còn rất nhiều
công trình biên soạn âm thầm của nhiều sử gia khác nữa đã không bao
giờ đƣợc nhóm vua chúa phong kiến đƣa ra ánh sáng.
Năm 1497, khi Ngô Sĩ Liên - ngƣời bị Lê Thánh Tông lên án là
"kẻ gian thần bán nƣớc"- run rẩy tuân lệnh Lê Thánh Tông để soạn bộ
Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ thì bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hƣu vẫn
còn vì Ngô Sĩ Liên đã " lấy hai bộ sách tiên hiền ra, hiệu chính biên
soạn lại ": hai bộ sách tiên hiền ở đây tức là hai bộ sử của Lê Văn
Hƣu và của Phan Phu Tiên. Sau đó, bộ sử của Lê Văn Hƣu, bộ sử viết
đầu tiên của ngƣời Việt Nam, bị biến mất và thất truyền một cách kỳ
lạ. Còn bộ sử do Phan Phu Tiên biên soạn vào thời Lê Thánh Tông đã
bị chính Lê Thánh Thông vứt vào một xó không thèm ngó tới vì đối
với Lê Thánh Tông, Phan Phu Tiên là một kẻ luồn lọt, xu thời qua
nhiều triều đại, một ngƣời thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều về tình
trạng xấu xa hƣ đồi của nhóm vua chúa phong kiến lúc đó. Ngay cả
cái chết của Phan Phu Tiên cũng chẳng đƣợc nhắc tới trong chính sử
phong kiến. Trong tựa sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ của Ngô Sĩ
Liên có đoạn viết: " Khoảng năm Quang Thuận (1460-1469), ra lệnh
xuống chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện ký xưa nay do các tư nhân
cất giữ, đều ra lệnh dâng cả lên để sẵn tham khảo. Lại sai nho thần
thảo luận, biên xếp. Thần (Ngô Sĩ Liên) lúc trước ở Sử viện đã được
VSTK - 298
iv

dự vào các việc ấy. Đến khi thần trở lại Sử viện thì sách ấy đã dâng
lên chứa ở Đông Các, không còn được trông thấy nữa" (Quyển Thủ,
tờ 2a. Tựa của Ngô Sĩ Liên).
Trong nhóm nho thần thảo luận, biên xếp chắc là phải có Phan Phu
Tiên và trong những năm đầu của triều đại Lê Thánh Tông, các Nho
thần cũ, mới, trong đó có Phan Phu Tiên, đã đƣợc lệnh hợp nhau lại
để biên soạn một bộ sử mới dựa trên căn bản của bộ sử do Phan Phu
Tiên đã biên soạn từ thời gian của những triều vua trƣớc đó. Trong
giai đoạn đầu, Ngô Sĩ Liên có tham gia công trình biên soạn nầy
nhƣng nửa chừng phải rút lui vì bận rộn việc gia đình tang chế. Bộ sử
nầy có thể là do Phan Phu Tiên chủ trì một cách mặc nhiên vì vai vế
tuổi tác, kinh nghiệm, kiến thức và sở học của lão nho Phan Phu Tiên.
Bộ sử nầy đã bị Lê Thánh Tông vứt xó không công nhận nhƣ một bộ
quốc sử và cũng không cho ban hành có thể là vì viết không đúng y
của Lê Thánh Tông hoặc là trong bộ sử đó có những sự thật có hại
cho dòng họ nhà Hậu Lê nói chung và cho cá nhân của Lê Thánh
Tông nói riêng. Ngày nay, bộ sử đó không để lại một dấu vết nào
trong số sử sách cổ của Việt Nam.
Bộ Việt Sử Cƣơng Mục của Hồ Tông Thốc vẫn còn hiện hữu vào
thời điểm Ngô Sĩ Liên biên soạn ĐVSKTT, rồi cũng bị biến mất " vì
nạn binh lửa ". Đây là một bộ sử do một cá nhân biên soạn riêng biệt,
có thể khi viết đã không chịu đặt mình dƣới ảnh hƣởng của quyền lực
đƣơng thời và nhất định là phải có những sự thật làm phật lòng nhóm
vua chúa thời đại Hậu Lê, đặc biệt là với Lê Thánh Tông.
Hồ Tông Thốc cũng là tác giả của sách Việt nam Thế Chí soạn viết
từ đời Trần trong đó quyển 1 chép thế phả của họ Hồng Bàng, quyển
2 chép thế phả của Triệu Đà tức là những điều kỳ dị viết về họ Hồng
Bàng và họ Triệu đã đƣợc Hồ Tông Thốc viết riêng ra mà không đƣa
và bộ Việt Sử Cƣơng Mục của ông. Đây là một điểm khác biệt quan
trọng so với bộ ĐVSKTT do Ngô Sĩ Liên viết theo lệnh của Lê Thánh
Tông. Sự khác biệt nầy rất dễ hiểu: theo lệnh của Lê Thánh Tông Ngô
Sĩ Liên phải đè nén sĩ diện của một nhà Nho chân chính mà đƣa kỷ
Hồng Bàng kỳ dị quái gở vào ĐVSKTT để thần thánh hóa giai cấp
vua chúa phong kiến nói chung và dòng họ nhà Hậu Lê nói riêng, rất
phù hợp với bản chất cao ngạo hợm mình của Lê Thánh Tông. Hồ
Tông Thốc không công nhận dứt khoát thế phá của họ Hồng Bàng
nhƣ là một sự thật lịch sử và nhƣ thế đã đi ngƣợc lại bản chất cao
ngạo hợm mình của Lê Thánh Tông. Trong bài tựa VNTC, Hồ Tông
Thốc viết rằng: "Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm
lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ phả ký
của từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm
giữ đó để chờ các bực quân tử sau nầy, dám đâu xuyên tạc ra lời quái

VSTK - 299
v

dị để mê hoặc người đời. Đọc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy
nghiệm thì ngọc và đá đều sẽ rõ ràng, những hình tiếng bóng vang
của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ. Tôi quên mình
hẹp hòi quê hủ, chép sơ lược những chuyện ngụ ngôn, những điều
truyền thuyết, muốn đợi những bực cao minh học rộng tiến bộ sau
nầy, nhận rõ xét kỹ, mới có thể biết được trước sau mà không tự lầm
lẫn. Nếu có ai sửa lại cho được đúng, cho lời chép được hay, đẽo gọt
kỹ càng, rồi đem in ra để mọi người thấy rõ việc xưa nay và hiểu thấu
lẽ huyền vi, thì đó cũng là một bộ sử ký trong chuyện ký chăng! "
(LTHCLC/Phan Huy Chú/Văn tịch chí/Việt Nam Thế Chí/ bản dịch
năm 1992/ trang 163, 164).
Lê Thánh Tông dƣ biết rõ những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó truy
xét đó nhƣng vẫn ra lệnh cho Ngô Sĩ Liên đƣa vào ĐVSKTT và lại
còn có hằng khối điều mơ hồ trí trá khác, theo lệnh của ông vua cao
ngạo Lê Thánh Tông, nhồi nhét vào b sử ĐVSKTT rồi kể từ đó tình
trạng mơ hồ trí trá nầy đƣợc chép đi chép lại vào những bộ sử kế tiếp,
kéo dài qua nhiều thế kỷ về sau. Ảnh hƣởng của những sự dối trá đó
tiếp tục mãi cho đến thời buổi hiện đại ngày nay khiến cho nhiều
ngƣời Việt Nam vẫn còn tự nhận mình là con cháu, hậu duệ của nòi
rồng rắn phối chủng với các bậc tiên thánh siêu thực.
Chúng tôi không viết lại lịch sử của thời Việt Nam ở quá khứ.
Chúng tôi chỉ muốn góp phần tìm những sự thật, những điều dối trá
đƣợc chép đi chép lại trong sử sách Việt Nam. Đây là một công trình
lặp lại những gì tiền nhân đã thực hiện trong quá khứ nhƣng chúng tôi
đứng trên vị thế của một ngƣời đƣợc hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc
lập, hoàn toàn khách quan không bị một quyền lực chính trị nào lèo
lái, khác với thân phận của các sử thần trong những triều đại phong
kiến hoặc thân phận của những ngƣời viết sử bị gò bó dƣới những
quyền lực chính trị trong thời biểu văn minh hiện đại.
Những quan điểm của chúng tôi trong các phần khảo luận và chú
giải là những quan điểm cá nhân, có thể đi ngƣợc lại suy nghĩ của đọc
giả và chúng tôi thành khẩn tiếp nhận những phê phán đúng mức,
khách quan, có căn cứ và không bị thành kiến hoặc tình cảm chi phối.
Khi đi vào công trình biên soạn lớn lao nầy, chúng tôi là một kẻ
thám hiểm cô đơn và thiếu thốn đủ mọi mặt. Cô đơn vì không tìm
đƣợc một bạn đồng hành nào có cùng một hoài bảo để gánh vác chia
xẻ bớt gánh nặng. Chẳng những thế, có ngƣời lại cho rằng chúng tôi
là hạng ngƣời điên khùng, dở hơi, đi ngƣợc trở lại làm một việc đã
đƣợc thực hiện từ hơn mấy ngàn năm qua. Trƣớc chúng tôi không xa
lắm đã có ngƣời làm đƣợc việc nầy rồi nhƣng rất tiếc, kết quả cũng
vẫn chỉ là sao đi chép lại những gì đã đƣợc viết ra từ các bộ cổ sử
hoặc cũng đã có ngƣời dựa vào cổ sử viết lại sử nhằm mục đích đƣa

VSTK - 300
vi

đẩy hƣớng dẫn quần chúng đi theo các xu hƣớng chính trị mới.
Về vật chất, chúng tôi thiếu thốn phƣơng tiện và tài chánh trong
công tác thu thập tài liệu, trong công tác viết lách, in ấn. Các tài liệu
đƣợc kê khai trong phần Thƣ Mục là những tài liệu có thật đã đƣợc
lục lạo, sƣu tầm, mua lại, sao chép với số tiền dành dụm của một
ngƣời nghèo sống tha phƣơng ở đất khách quê ngƣời và dù đã cố gắng
hết sức, số tài liệu tham khảo vẫn còn thiếu sót. Nhƣng bù lại, chúng
tôi đã tham khảo một cách nghiêm chỉnh và cẩn trọng tất cả các loại
sách vở, báo chí, tài liệu có liên hệ đến lịch sử Việt Nam, không kỳ
thị, không phân biệt nguồn gốc, xuất xứ, tƣ cách chính trị, tên tuổi tác
giả.
Chúng tôi cũng đã trở về quê hƣơng và tìm cách đi tới thăm viếng
những địa danh, những di tích lịch sử đồng thời sƣu tầm thêm tài liệu
cho công trình biên khảo nầy.
Sau giai đoạn thu thập tài liệu là đến giai đoạn đọc, phân tích và
đánh giá tài liệu. Đây là một giai đoạn đau đầu vì phải đọc mt số
lƣợng sách khá lớn, vừa đọc vừa đánh dấu, ghi chép sơ khởi những
trọng điểm trong mỗi cuốn sách. Nếu cùng một trọng điểm mà lại xuất
hiện trong nhiều quyển sách khác nhau thì lại phải so chiếu để ghi ra
những điểm dị đồng rồi rút ra một kết luận hoặc một suy luận tƣơng
đối về trọng điểm đó. Và còn nhiều thứ nhức óc khác trong công tác
đọc và đánh giá nầy.
Công tác viết lách sơ khởi bằng tay là một công tác nhọc nhằn và
mệt mỏi, không giống nhƣ cách viết lách của những ngƣời nhà giàu
chỉ cần đọc ra những gì mình muốn viết rồi ngƣời khác sẽ ghi chép
lên giấy mực. Bản nháp sửa đi sửa lại liên miên nhiều lần mới đƣợc
chép lại bằng máy vi tính và chúng tôi cũng kiêm nhiệm luôn cả phần
đánh máy nầy.
Bản thảo viết xong, đƣa tới nhà xuất bản, bị lắc đầu: ngƣời Tây, họ
không đọc đƣợc chữ Việt Nam cho nên chẳng thèm quan tâm, không
nhận xuất bản. Đƣa tới bạn bè có máu mặt để nghị đứng ra bảo trợ
xuất bản thì bạn bè trề môi: thời nay ai mà chịu đọc ba cái thứ sử ký
lẩm cẩm nầy, nếu là một quyển tiểu thuyết khiêu dâm thì may ra còn
có ngƣời đọc. Kết quả là ngƣời viết phải tự gánh gồng việc in ấn, xuất
bản.
Đây là công trình sƣu khảo chỉ do một ngƣời thực hiện liên tục
trong nhiều năm, một công trình chƣa hoàn hảo và nhất định phải có
rất nhiều sai sót nghiêm trọng mặc dù chúng tôi đã xem đi, xem lại,
sửa sai, hiệu đính hằng trăm lần, thiêu đốt hằng chục ngàn sắp giấy đã
in xong và đang đợi đóng bìa thành sách. Mối lo âu lớn lao nhất của
chúng tôi là vấn đề tham khảo các bản dịch các quyển cổ sử và các
loại thƣ tịch từ chữ Nho ra chữ quốc ngữ: đa số chỉ đƣợc dịch thẳng

VSTK - 301
vii
và in ra bằng quốc ngữ còn hình dạng của bản chữ Nho ra thế nào thì
rất hiếm đƣợc trông thấy. Thảng hoặc đƣợc trông thấy bản viết bằng
chữ Nho nhƣng không có phần phiên âm thì chúng tôi cũng chỉ biết
ngơ ngẩn thở dài chứ không biết phải làm sao hơn. Trong các trƣờng
hợp có hoặc không có bản gốc bằng chữ Nho với phần phiên âm kèm
theo thì chúng tôi chỉ còn có một con đƣờng duy nhất là đặt trọn niềm
tin của mình vào tƣ cách đạo đức, danh dự, trách nhiệm, khả năng và
sĩ khí của các dịch giả thông bác chữ Nho - những nhà Nho chân
chính trong thời buổi nhiễu nhƣơng hiện tại.
Tìm đƣợc một bản dịch có kèm theo bản gốc chữ Nho với phần
phiên âm để đọc không khác gì việc mò kim trong sa mạc. Chúng tôi
không biết viết, không biết đọc chữ Nho. Tuy nhiên nếu phần chữ
Nho có phiên âm thì chúng tôi có thể truy tìm đƣợc ý nghĩa chính xác
của chữ đó qua kinh nghiệm hoặc qua tự điển Hán-Việt.
Đối với những tài liệu bằng tiếng Pháp hoặc bằng tiếng Anh thì
chúng tôi dễ thở hơn trong công tác đọc, hiểu và đánh giá. Tuy nhiên
những loại tài liệu nầy không đƣợc chúng tôi tin dùng bởi vì đa số họ
là những ngƣời ngoại quốc có nhiều thành kiến hẹp hòi, méo mó, và
thiên vị khi viết sử Việt Nam bằng tiếng mẫu quốc của họ.
Một ƣu tƣ khác cũng luôn luôn ám ảnh chúng tôi: lỗi chính tả và
bỏ dấu trong khi viết. Mặc dù đã xem đi xét lại nhiều lần nhƣng chắc
chắn lầm lỗi nầy vẫn còn tồn tại rất nhiều. Và đây là cái ngu khó sửa
đổi của ngƣời viết, mong đọc giả thông cảm và tha thứ.
Sau cùng là kỹ thuật in ấn để xuất bản. Việt Sử Tân Khảo là một
bộ sách đƣợc hoàn thành trong hoàn cảnh tự lực cánh sinh cho nên về
mặt hình thức, trình bày, Việt Sử Tân Khảo sẽ không thể nào sánh vai
với những loại sách do các công ty nhà nghề chuyên môn in ấn, phát
hành, xuất bản sách báo.
Chúng tôi không nhắm về lợi lộc vật chất khi thực hiện công trình
biên khảo nầy. Mục tiêu của chúng tôi khi viết Việt Sử Tân Khảo
không phải là thƣơng mại hay phần lợi lộc vật chất sẽ mang về cho
ngƣời viết nhƣng chính là phần thƣởng tinh thần mà chúng tôi mong
muốn sẽ đƣợc đọc giả ban tặng cho bằng cách thẳng thắn phê bình
xây dựng, bổ khuyết, sửa chữa những sai lầm và nhất là hỗ trợ cho
một bƣớc tiến tới trong việc tìm hiểu sự thật lịch sử của quê hƣơng
đất nƣớc Việt Nam.
Mùa Đông, ngày 1 tháng 9 dƣơng lịch năm 2001
Soạn giả Nguyễn Công Tánh

VSTK - 302
© 2003 Nguyễn Công Tánh
Soạn giả tự phát hành năm 2003 từ Tây Úc (Western Australia)

Đăng Ký (Legal Deposit): 27 October 2003 (Receipt No 1637)


Battye Library
State Library of Western Australia
Alexander Library Building
Perth Cultural Centre
PERTH WA 6000
Telephone: + 61 (0)8 9427 3107
Facsimile: + 61 (0)8 94273276
email: battref@mail.liswa.wa.gov.au
Title: VIỆT SỬ TÂN KHẢO + ĐỊA DƢ CHÍ TÂN KHẢO CHÚ
GIẢI VÀ

ISBN 0 - 9 7 5 1 6 5 0 - 0 - 3

VSTK - 303

T H Ƣ M Ụ C

NHỮNG TÀI LIỆU & THƢ SÁCH THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

Đại Việt Sử Lược. Bản dịch năm 1972 của Nguyễn Gia Tƣờng, do
Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính năm 1993.

LÊ TRẮC - An Nam Chí Lược. Bản dịch, Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu
Việt Nam, Viện Đại Học Huế, 1961.

LÝ TẾ XUYÊN - Việt Điện U Linh. Bản dịch của Lê Hữu Mục, Sài
Gòn, 1961.

NGÔ SĨ LIÊN & CÁC SỬ QUAN TRIỀU ĐẠI NHÀ HẬU LÊ -


Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Bản dịch từ ấn bản chữ Hán của đời nhà
Lê do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1998.

VŨ QUỲNH - KIỀU PHÚ - Lĩnh Nam Chích Quái. Bản chữ Việt do
Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San biên khảo năm 1986, Nhà xuất
bản văn học, Hà Nội 1990.

LÊ QUÝ ĐÔN - Đại Việt Thông Sử. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội 1978.

LÊ QUÝ ĐÔN - Kiến Văn Tiểu Lục. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội 1977.

LÊ QUÝ ĐÔN - Phủ Biên Tạp Lục. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội 1977.

NGÔ THỜI SỸ - Việt Sử Tiêu Án. Bản dịch của Hội Việt Nam
Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn 1960.

NGÔ THỜI SỸ - Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (khắc in trong thời Đại
Tây Sơn). Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1997.

NGÔ GIA VĂN PHÁI - Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Bản dịch, Nhà
xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1970.

VSTK - 304
ii

Lê Triều Hình Luật - Bản dịch. Viện sử học Việt Nam, Hà Nội 1995
và Nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội 1998.

PHAN HUY CHÚ - Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí. Bản dịch,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1992.

LÊ NGÔ CÁT, PHẠM ĐÌNH TOÁI - Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca.
Bản dịch từ bản chữ Nôm, Nhà xuất bản Trƣờng Thi, Sài Gòn 1956.

QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN do PHAN THANH GIẢN tổng


tài - Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Bản phiên âm và
dịch, Viện Khảo Cổ, Sài Gòn 1960, 1965, 1967,1974.

QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN do PHAN THANH GIẢN tổng


tài - Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Bản dịch, Viện Sử
Học, Hà Nội 1960 và 1998.

QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Chính Biên Liệt


Truyện, quyển 30. Bản phiên âm và dịch, Phủ Quốc vụ khanh đặc
trách văn hóa, Sài Gòn 1970.

TRỊNH HOÀI ĐỨC – Gia Định Thành Thông Chí. Bản dịch của Đỗ
Mộng Khƣơng, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Đào Duy Anh, 1964.

QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Thực Lục Tiền Biên. Bản
dịch, Viện Sử Học xuất bản; Hà Nội – 1962.

QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Thực Lục Chính


Biên. Bản dịch, Viện Sử Học xuất bản; Hà Nội – từ năm 1963 đến
năm 1978.

QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Nhất Thống Chí.


Bản dịch, Văn Hóa Tùng Thƣ, Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục
Sài Gòn xuất bản, Sài Gòn, từ năm 1959.

TU THƢ CỤC QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Sử Quốc Triều


Chánh Biên Toát Yếu. Ấn bản tiếng Việt, năm Khải Định thứ 9, 1925.

NỘI CÁC TRIỀU NGUYỄN - Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ/
Nhu Viễn. Bản dịch, bộ Văn Hóa Giáo Dục, Sài Gòn 1966.

NGUYỄN VĂN SIÊU – Phương Đình Địa Dư Chí . Bản dịch của
Ngô Mạnh Nghinh, Nhà xuất bản Tự Do, Sài Gòn – 1958.
VSTK - 305
iii

ĐẶNG XUÂN BẢNG - Sử Học Bị Khảo. Bản dịch, Viện sử học, Hà


Nội 1997.

ĐẶNG XUÂN BẢNG -Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu. Bản dịch, Viện
Nghiên Cứu Hán Nôm, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội
2000.

VIỆN KHẢO CỔ - Hồng Đức Bản Đồ, bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài
Gòn 1962.

TRẦN TRỌNG KIM - Một Cơn Gió Bụi - Hồi Ký (1943-1949), Nam
Vang, 1949.

TRẦN TRỌNG KIM - Việt Nam Sử Lược, bộ Giáo Dục, Sài Gòn
1971.

ĐÀO DUY ANH - Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, Sài Gòn 1951.
PHẠM VĂN SƠN - Việt Sử Toàn Thư. Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn
1960.

LÊ VĂN SIÊU - Việt Nam Văn Minh Sử. Bộ Giáo Dục, Sài Gòn,
1972.

BỬU CẦM - Quốc Hiệu Nước Ta từ An Nam đến Đại Nam. Phủ quốc
vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1969.

DƢƠNG QUẢNG HÀM - Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Hà Nội, 1941.

VŨ NGỌC PHAN - Tục Ngữ Ca Dao Dân Ca Việt Nam. Hà Nội,


1956.

NGUYỄN VĂN HUYÊN - La Civilisation annamite trong Những


Công Trình Nghiên Cứu của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên. Bản dịch,
Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1996.

VƢƠNG HỒNG SỂN – Sài Gòn Năm Xưa, Nhà Xuất bản Tự Do, Sài
Gòn, 1960.

PHAN KHOANG - Việt Nam Pháp Thuộc Sử, xuất bản năm 1961.

TRƢƠNG BÁ CẦN - Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Cảo,


xuất bản năm 1988.

VSTK - 306
iv

TẠ CHÍ ĐẠI TRƢỜNG - Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, ấn bản năm
1969.

NGUYỄN CÔNG TÁNH - Việt Sử Tân Khảo, Phần 1: Đại Cương,


quyển I & quyển II, ấn bản Úc Châu 2003 & 2005.

NGUYỄN CÔNG TÁNH - Việt Sử Tân Khảo, Phần 2: Chú Giải &
Khảo Luận, quyển I, II, III, IV, V, VI, VII, ấn bản Úc Châu 2003,
2004, 2005.

D.G.E.HALL, NGUYỄN PHÚC TÁN - Đông Nam Á Sử Lược. Bản


dịch, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1968.

NGUYỄN PHƢƠNG - Phương Pháp Sử học. Hội sử học Việt Nam.


Nhà xuất bản Sao Mai, Sài Gòn, 1974.

VŨ VĂN MẪU - Cổ Luật Việt Nam. Sài Gòn, 1975.

TRẦN VĂN GIÁP - Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm, Tập 1&2. Nhà
xuất bản Văn Hóa, Hà Nội, 1984, 1990.

BÌNH NGUYÊN LỘC - Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam.
Sài Gòn, 1971.

NGUYỄN KHẮC NGỮ - Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam. Montreal,
Canada, 1985.

THIỀU CHỬU - Hán Việt Tự Điển, ấn bản năm 1990.

TỪ ĐIỂN YẾU TỐ HÁN VIỆT THÔNG DỤNG - Hà Nội, 1991.

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT - Hà Nội-Đà Nẵng, 1995.

LÊ HUY TRÂN - Nhạc Khí Dân Tộc Việt Nam. Hà Nội, 1984.

HÀ HỮU NGA - Hạ Long Lịch Sử. Quảng Ninh, 2000.

HÀ HỮU NGA, NGUYỄN VĂN HẢO - Hạ Long Thời Tiền Sử.


Quảng Ninh, 1999.

VSTK - 307
v

Tài liệu tiếng Pháp:

L.CADIÈRE – Anthropologie Populaire Annamite, BEFEO 1915,


Volo.15, no 1, từ trang 1 đến trang 102.

L.CADIÈRE – Documents relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO


1912,Vol.12, no.1, từ trang 1 đến trang 82.

MADELEINE COLANI – Recherches sur le Préhistorique


Idochinois, BEFEO 1930, Tome 30, từ trang 299 đến trang 422.

VICTOR GOLOUBEV – L’Age du Bronze au Tonkin et dans le Nord


Ananam, BEFEO 1929, Vol.29, no.29,từ trang 1 đến trang 46.

VICTOR GOLOUBEV – Le Tambour Métallique de Hoàng Hạ,


BEFEO, 1940, Tome 40, no.2, từ trang 383 đến trang 409.

L.DE GRAMMONT – Onze Mois de Sous-Pré fecture en Base-


Cochinchine, Paris 1863.

W.J.M BUCH – La Compagnie des Indes néerlandaises et


L’Indochine, BEFEO, Vol.37, no.1, 1937, từ trang 121 đến trang 237.

JOHN BARROW - Voyage à La Cochinchine, Bản dịch & chú thích


bằng Pháp ngữ của ển I & II, nhà sách François Buisson ấn hành, Paris,
1807.
JOHN BARROW - A Voyage To Cochinchina in the years of 1792 &
1793, bản gốc Anh ngữ, quyển I & II, nhà xuất bản T.Cadell &
W.Davies in The Strand, London, 1806.
FRANCIS GARNIER - La Cochinchine Française en 1864, nhà xuất
bản E. Dentu & Challamel Ainé, Paris 1864, 1865.
FRANCIS GARNIER - De la Colonisation DE LA COCHINCHINE, nhà
xuất bản E. Dentu & Challamel Ainé, Paris 1864, 1865.

JEAN DUPUIS - La Conquête du Tonkin - par 27 Français, do tác


giả Jules GROS trích đăng và đề tựa từ Nhựt Ký của J.Dupuis, nhà
xuất bản Maurice Dreyfour, Paris, 1880.
TRƢƠNG VĨNH KÝ - Souvenirs Historiques sur Saigon et ses
environs, Imprimerie coloniale, Saigon, 1885.

VSTK - 308
vi
PAUL BONNETAIN - Au Tonkin, nhà xuất bản Victor Havard, Paris
1885.
H.FABRE DE NAVACELLE - Précis des Guerres de la France de
1848 à 1885/ Cochinchine,trang 321-345 và Tonkin, trang 347-384,
nhà xuất bản E.Plon, Nourrit & Cie, Paris, 1890.
PAULIN VIAL - Nos Premières Années au Tonkin, nhà xuất bản
Voiron/Baratier & Molaret, 1889.
A.LAUNAY - Histoire ancienne et moderne de l' Annam, Paris, 1889.
A.LAUNAY- Histoire générale de la Société des Missions
étrangères, Paris 1894.

A.SCHREINER - Abrégé de l' Histoire d' Annam, Saigon 1906.

JEAN BOUCHOT - SAIGON, sous la domination Cambodgienne et


Annanite, bài thuyết trình của tác giả trong một kỳ hội thảo tại Sài
Gòn vào ngày 9 tháng 5 dl năm 1926.

P. DEVILLERS - Histoire du Viêt Nam, Paris 1952

L'ŒUVRE des MISSIONAIRES ET DES MILITAIRES FRANÇAIS


- Petite Histoire de l' INDOCHINE- Trois siècles de présence Française
1624-1956. Tài liệu lấy xuống từ mạng lƣới Internet.

P.NEIS - Sur Les Frontièrs du Tonkin. Đăng trên mạng lƣới Internet ,
2003.
Tài liệu tiếng Anh:
RONG SYAMANANDA - A History of ThaiLand, fourth edition,
Bangkok 1981.

Tạp chí:
- Bulletins de l' Ecole française d'Extrême-Orient (B.E.F.E.O)
- Bulletins de la Société Géographique (B.S.G)
- Bulletins de la Société des Etudes Indochinoises (B.S.E.I)
- Bulletins des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H)
- La Nouvelle Revue 1884, 1886, 1890, 1901
- Le Tour du Monde1878, 1891,1894,1911
- L' Ami de la Religion, Journal et Revue Ecclésiastique, Politique et
Littéraire, tập thứ 182.

VSTK - 309
- Revue Maritime & Coloniale 1861, 1862,1863, 1866, 1867, 1869,
1872, 1873, 1876, 1878, 1883, 1885, 1886, 1888

-Quê Hƣơng.

Bảng Viết Tắt và Các Dấu Hiệu

Trƣớc Công Nguyên TCN


Việt Sử Lƣợc VSL
Việt Điện U Linh VĐUL
Lĩnh Nam Chích Quái LNCQ
Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ ĐVSKTT
Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cƣơng Mục KĐVSTGCM
Chính biên CB
Tiền biên TB
Quyển q.
Tờ t.
Lịch Triều Hiến Chƣơng Loại Chi LTHCLC
Sách đã dẫn sđd.
Cƣớc chú của soạn giả (. . . .)
Chú giải và Khảo Luận
(phần viết dƣới lằn gạch ngang
với nét chữ nhỏ cỡ số 9 hay 11). . . . A, B, a, b
Phần viết chính với nét chữ cỡ số 12 hay 13 A, B, c, d
Trích dẫn lời ngƣời khác viết bằng
chữ nghiêng trong dấu ngoặc kép. . . "Abcd. . . ."
Trích dẫn từ sách khác cũng
viết bằng chữ nghiêng . . . Abcd

VSTK - 310
NGUYỄN CÔNG TÁNH
CAO HỌC LUẬT KHOA (D.E.S)
Viện Đại Học Sài Gòn
D.E.S
Université de Saigon
Faculté de Droit

VSTK - 311
VSTK - 312
NGUYỄN CÔNG TÁNH

Bän ÇÒ nܧc ViŒt Nam th©i c°

VSTK - 313
Mục - Lục
VIỆT SỬ TÂN KHẢO
Phần 2 : Chú Giải & Khảo Luận

Quyển I

Thời Đại Cổ Sử
Trang
Chƣơng I Nƣớc Văn Lang
và các vua Hùng 2 - 125

Chƣơng II Thục Phán 126 - 128

Chƣơng III Triệu Đà 129 - 136

Tổng Luận Tập một 136 - 145

THỜI ĐẠI THUỘC ĐỊA &


CÁC PHONG TRÀO NỔI DẬY

Chƣơng I Thuộc Tây Hán 146 - 153

Chƣơng II Hai Bà Trƣng 154 - 160

Chƣơng III Bắc Thuộc lần thứ 2 161 - 172

Chƣơng IV Bắc Thuộc lần thứ 3 173 - 190

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ

Chƣơng I Nhà Ngô 191 - 193

Chƣơng II Nhà Đinh 194 - 203

Chƣơng III Nhà Tiền Lê 204 - 211

Chƣơng IV Nhà Lý 212 - 293

VSTK - 314
VSTK - 315

You might also like