You are on page 1of 47

BỘ CÔNG THƯƠNG

(Trước kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV)

1. Cử tri Tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Để các dự án nguồn 220kV và lưới điện 110kV
thực hiện theo quy hoạch phát triển điện lực tỉnh đã được duyệt đảm bảo sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, tạo điều kiện cho các Nhà đầu tư thực hiện các dự án
năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió…) trên địa bàn tỉnh đã được bổ sung quy
hoạch kết nối lưới thuận lợi; đề nghị Bộ Công Thương chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt
Nam, Tổng công ty Điện lực Miền Trung sớm thực hiện đầu tư theo dự án đã quy hoạch.
Trả lời (Tại CV 344/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Hiện nay Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Điện lực Miền Trung đang
thực hiện các thủ tục để đầu tư các công trình lưới điện đáp ứng tiến độ đã được duyệt
trong Tổng sơ đồ VII điều chỉnh và Quyết định số 3946/QĐ-BCT ngày 16 tháng 10 năm
2017 của Bộ Công Thương về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Đắk
Lắk giai đoạn 2016-2025, có xét đến 2035. Do vậy, Bộ Công Thương đề nghị UBND
tỉnh Đắk Lắk làm việc với Tập đoàn Điện lực Việt Nam về việc ưu tiên thực hiện dự án
lưới điện nào trên địa bàn tỉnh để đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Trên đây là trả lời của Bộ Công Thương đối với kiến nghị của cử tri Tỉnh Đắk Lắk,
trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Đắk Lắk để trả lời cử tri./.
2. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị quy định tất cả công trình thủy điện đều
phải gắn các thiết bị quan trắc theo dõi cảnh báo thực trạng xả nước từng ngày đặc biệt
vào mùa khô và mùa mưa. Đồng thời các công trình thủy điện khi xả nước vào mùa mưa
hoặc tích nước vào mùa khô gây hậu quả về tính mạng, tài sản thì chủ đầu tư phải chịu
trách nhiệm
Trả lời (Tại CV 343/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Hiện nay, việc lắp đặt thiết bị quan trắc đã được quy định tại Nghị định số
114/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ
chứa nước và Thông tư số 47/2017/TT-BTNMT ngày 07 tháng 11 năm 2017 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về giám sát, khai thác tài nguyên nước, cụ thể:
- Đập, hồ chứa nước có cửa van điều tiết lũ phải lắp đặt hệ thống giám sát vận
hành; thiết bị thông tin, cảnh báo an toàn cho đập và vùng hạ du đập (điểm e khoản 1
Điều 5 Nghị định 114)
- Đập, hồ chứa nước có cửa van điều tiết lũ đang khai thác mà chưa có hệ thống
giám sát vận hành, thiết bị thông tin, cảnh báo an toàn cho đập và vùng hạ du đập thì
phải lắp đặt chậm nhất sau 02 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành (khoản
3 Điều 20 Nghị định 114)
- Cơ sở có công trình hồ chứa khai thác nước mặt để phát điện với công suất lắp
máy trên 50kW phải lắp đặt hệ thống giám sát để giám sát những thông số: Mực nước
hồ, lưu lượng xả duy trì dòng chảy tối thiểu, lưu lượng xả qua nhà máy, lưu lượng xả
qua tràn ((Điều 2, Điều 5, Điều 9 Thông tư 47)
- Trong quá trình thẩm định, phê duyệt quy trình vận hành hồ chứa thủy điện thuộc
thẩm quyền, Bộ Công Thương đã yêu cầu chủ đầu tư bổ sung các nội dung về lắp đặt
thiết bị quan trắc theo quy định vào quy trình vận hành hồ chứa.
Như vậy, theo quy định hiện hành về lắp đặt hệ thống giám sát, trong đó có giám
sát việc xả nước, Bộ Công Thương với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về thủy
điện đã và đang chỉ đạo các chủ đập thủy điện và đề nghị UBND các tỉnh có công trình
thủy điện chỉ đạo, đôn đốc theo thẩm quyền để các chủ đập thủy điện trên địa bàn thực
hiện đúng, đầy đủ các quy định về lắp đặt hệ thống giám sát.
Quá trình vận hành hồ chứa thủy điện nếu không tuân thủ theo đúng quy trình vận
hành hồ chứa và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý an toàn đập, hồ chứa thủy
điện do cơ quan có thẩm quyền ban hành, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì chủ
đầu tư phải chịu trách nhiệm và bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Tùy theo mức độ thiệt hại và lỗi của chủ đập, chủ đập thủy điện có thể phải bồi thường
theo quy định tại Bộ Luật Dân sự hoặc cá nhân người có trách nhiệm sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
3, 16, 18, 23. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị:
3. Cử tri đề nghị dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện xem xét sử dụng khí hóa lỏng
(LNG) thay cho sử dụng than để hạn chế ô nhiễm môi trường (dự kiến xây dựng tại ấp
Long Ninh, xã Long Hựu Đông, Huyện Cần Đước.
16. Đối với các dự án năng lượng nói chung và dự án năng lượng mặt trời nói
riêng đề nghị xem xét phân cấp thẩm quyền phê duyệt dự án cho Bộ Công Thương
18. Đề nghị Bộ Công Thương bãi bỏ Thông tư số 35/2015/TT-BCT vì hiện nay
công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh và cả nước do ngành Tài nguyên và Môi
trường quản lý, kể từ khi Thông tư số 35/2015/TT-BCT được ban hành không áp dụng
vào thực tế và chồng chéo với nhiệm vụ của ngành Tài nguyên và Môi trường
23. Cử tri đề nghị nâng độ võng đường dây truyền tải điện 500, 220 kV tại điểm
giao cắt với tuyến tránh Quốc lộ 50, tại lý trình Km13+400. Hiện tại vị trí này có độ
tĩnh không an toàn là 4m, không đảm bảo cho phương tiện xe container có kích thước
từ 40 feet lưu thông
Trả lời (Tại CV 345/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Câu số 3
Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia điều chỉnh đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2016, tại tỉnh Long
An quy hoạch xây dựng 02 nhà máy nhiệt điện than. Sau khi có một số ý kiến chưa đồng
thuận của địa phương, Bộ Công Thương đã giao Công ty Cổ phần tư vấn điện 2 (PECC2)
nghiên cứu, lập quy hoạch Trung tâm điện lực Long An. Theo hồ sơ quy hoạch PECC2
hoàn thành, trình Bộ Công Thương tháng 3 năm 2016, địa điểm ấp Long Ninh, xã Long
Hựu Đông, Huyện Cần Đước không phù hợp với điều kiện để quy hoạch xây dựng nhà
máy nhiệt điện sử dụng khí LNG.
Câu số 16
Theo quy định hiện nay, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung quy hoạch đối
với các dự án điện có công suất trên 50 MW và Bộ Công Thương phê duyệt bổ sung quy
hoạch đối với những dự án nguồn điện có công suất từ 50 MW trở xuống.
Tại tỉnh Long An, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt bổ sung quy hoạch dự án
điện mặt trời GAIA công suất 100,5 MW (Văn bản số 1475/TTg-CN ngày 25 tháng 10
năm 2018), dự án điện mặt trời Europlast công suất 50 MWp (Quyết định số 137/QĐ-

2
BCT ngày 12 tháng 01 năm 2018), dự án điện mặt trời TTC Đức Huệ 1 công suất 49
MWp (852/QĐ-BCT ngày 19 tháng 3 năm 2018), dự án điện mặt trời BCG Băng Dương
công suất 40,6 MWp (4741/QĐ-BCT ngày 20 tháng 12 năm 2017), dự án điện mặt trời
Solar Park 01, 02, 03, 04 (4720/QĐ-BCT ngày 21 tháng 12 năm 2018).
Việc phân cấp thẩm quyền phê duyệt dự án như đề nghị của cử tri cần phải báo
cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
Câu số 18
Thông tư số 35/2015/TT-BCT ngày 27 tháng 10 năm 2015 của Bộ Công Thương
quy định về môi trường ngành công thương được ban hành thay thế Quy chế tạm thời
về bảo vệ môi trường ngành công thương, đóng góp quan trọng cho công tác bảo vệ môi
trường ngành công thương. Trong quá trình triển khai thực hiện từ năm 2015 tới nay,
Bộ Công Thương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho các đối tượng Sở Công Thương các
tỉnh, thành phố, trong đó có Sở Công Thương tỉnh Long An.
Tại Điều 17 của Thông tư quy định rõ trách nhiệm của Sở Công Thương như sau:
a) Chủ trì thực hiện kiểm tra theo chỉ đạo của UBND tỉnh hoặc phối hợp với cơ
quan quản lý môi trường của Bộ Công Thương kiểm tra việc thực hiện các quy định
pháp luật về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật và Thông tư này
b) Tổng hợp và xây dựng báo cáo công tác môi trường ngành công thương tại địa
phương gửi Bộ Công Thương theo quy định tại Phụ lục 4 ban hành kèm Thông tư này,
trước ngày 30/4 năm tiếp theo của năm báo cáo.
Như vậy, những nội dung thuộc trách nhiệm Sở Công Thương nêu trên là không
chồng chéo với nhiệm vụ của ngành tài nguyên và môi trường trên địa bàn tỉnh. Ngoài
ra, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Công Thương đã ký Chương trình phối
hợp công tác về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại giai đoạn 2017-2020 (văn bản
01/CTPH-BTNMT-BCT ngày 15 tháng 02 năm 2017 nhằm phối hợp giải quyết các công
việc liên quan trong quá trình chỉ đạo điều hành. Do đó, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh
Long An chỉ đạo các sở, ngành tăng cường phối hợp và trao đổi để thực hiện công tác
chuyên môn của mình đạt hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và
điều kiện cụ thể của địa phương.
Câu số 23
Theo quy định hiện hành về điện lực và giao thông đường bộ có quy định cụ thể
trị số độ cao treo dây tại vị trí giao chéo giữa đường dây dẫn điện trên không với đường
bộ, trị số cụ thể tùy thuộc vào cấp điện áp của đường dây và cấp của đường bộ, chủ đầu
tư xây dựng công trình sau có trách nhiệm thực hiện đúng quy định này.
- Đối với giao chéo đường dây 220 kV Nhơn Trạch - Nhà Bè và Nhơn Trạch - Mỹ
Tho 2 với Quốc lộ 50 trước cải tạo thì khoảng cách pha-đất của đường dây 220 kV khi
mang tải là 7,5 m. Tuy nhiên, khi tiến hành cải tạo, mở rộng Quốc lộ 50, Tổng công ty
Cửu Long đã làm việc với Công ty Truyền tải điện 4 (PTC4) đề nghị hỗ trợ khảo sát lập
phương án và dự toán nâng cao đường dây để đảm bảo quy định của Nghị định
14/2014/NĐ-CP hướng dẫn luật điện lực về an toàn điện và Quy phạm trang bị điện hiện
hành (do nâng cốt đường khi cải tạo dẫn đến vi phạm khoảng cách an toàn). Theo quy
định, việc nâng cao đường dây 220 kV thuộc tránh nhiệm của Tổng công ty Cửu Long.

3
Hiện nay, Tổng công ty Cửu Long chưa tiến hành nâng cao đường dây 220 kV. Do
đó, để đảm bảo an toàn cho đường dây truyền tải điện quốc gia 220kV, PTC4 đã làm
việc với các Sở ngành tỉnh Long An và các đơn vị liên quan thống nhất thông tuyến giao
thông nhưng yêu cầu lắp Barie cao 4m để khống chế các phương tiện vi phạm khoảng
cách an toàn.
Bộ Công Thương đã có văn bản 1838/ATMT-ATĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018
chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam rà soát, kiểm tra toàn hệ thống lưới điện, báo cáo,
đề xuất phương án xử lý đối với độ cao treo dây không đạt trị số quy định.
- Đối với đường dây 500 kV Nhà Bè - Mỹ Tho: khoảng cách giao chéo giữa đường
dây dẫn điện trên không với đường bộ đảm bảo quy định.
4. Cử tri Tỉnh Yên Bái kiến nghị: Cử tri đề nghị tiếp tục quan tâm đầu tư xây
dựng hệ thống điện lưới quốc gia về các thôn, bản chưa có điện của tỉnh Yên Bái (nhất
là đối với những thôn bản di dân xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà và các thôn, bản
đặc biệt khó khăn …).
Trả lời (Tại CV 346/BCT-KH ngày 15/01/2019)
1. Dự án Cấ p điê ̣n cho các thôn, bản chưa có điện tin̉ h Yên Bái được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư tại Công văn số 4284/VPCP-KTN ngày 28 tháng
6 năm 2011 của Văn phòng Chính phủ. Đây là Dự án thuộc Chương trình Cấp điện nông
thôn miền núi và hải đảo giai đoạn 2013 – 2020 theo Quyết định số 2081/QĐ-TTg ngày
08 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị Quyết số 73/NQ-CP ngày 26
tháng 8 năm 2016 của Chính phủ về phê duyệt Chương trình cấp điện nông thôn, miền
núi và hải đảo giai đoạn 2016 – 2020 (Chương trình).
Trên cơ sở thỏa thuận của Bộ Công Thương tại Văn bản số 9132/BCT-TCNL ngày
18 tháng 9 năm 2014, UBND tỉnh Yên Bái phê duyệt tại Quyết định số 1571/QĐ-UBND
ngày 14 tháng 10 năm 2011 và Quyết định (điều chỉnh) số 1910/QĐ-UBND ngày 22
tháng 10 năm 2014 về triển khai Dự án Cấ p điê ̣n cho các thôn, bản chưa có điện tin
̉ h
Yên Bái với tổng mức đầu tư là 574,29 tỷ với quy mô như sau: Cấp điện cho 154
thôn/bản thuộc 53 xã, trong 07 huyện/thị của tỉnh Yên Bái; Khối lượng đầu tư: số trạm
biến áp phân phối: 146 trạm biến áp; Đường dây trung áp: khoảng 338,844 km; Đường
dây hạ áp: khoảng 521 km; Số hộ dân được cấp điện mới: khoảng 11.961 hộ.
2. Theo Kế hoạch cấp vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020 bố trí hỗ trợ có mục tiêu
nguồn NSTW là 25 tỷ đồng và nguồn viện trợ không hoàn lại của EU là 70 tỷ đồng cho
giai đoạn 2018-2020.
- Đến năm 2017, đã hoàn thành cấp điện 1.532 hộ dân, thuộc 28 thôn, bản trên địa
bàn 8 xã thuộc 05 huyện của Tỉnh với tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 46,9 tỳ
đồng, trong đó: Ngân sách Trung ương đã cấp 40 tỷ đồng và Ngân sách Địa phương đã
cấp 6,9 tỷ đồng.
- Phần chưa cân đối được: Thực hiện Quyết định phê duyệt số 1740/QĐ-TTg ngày
13 tháng 12 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu Cấp điện
nông thôn, miền núi và hải đảo giai đoạn 2016 – 2020. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ
Công Thương phối hợp với các Bộ kế hoạch và Đầu tư, Tài chính trong việc vận động
các nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài để thực hiện
4
Chương trình, theo đó Bộ Công Thương đã làm việc với ADB và WB để triển khai
Chương trình. Trường hợp được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở các cam
kết cho vay ưu đãi của nhà tài trợ như trên, Chương trình sẽ đáp ứng đủ 100% nhu cầu
vốn để thực hiện Chương trình, trong đó có Dự án cấp điện nông thôn của tỉnh Yên Bái
và khu vực thủy điện Thác Bà.
+ Vốn vay ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): Thực hiện Văn bản số
3169/VPCP-QHQT ngày 03 tháng 4 năm 2017 của văn phòng Chính phủ về phê duyệt
chủ trương đầu tư Dự án “Hỗ trợ kỹ thuật (HTKT) kèm theo Dự án vốn vay Cấp điện
nông thôn, miền núi, hải đảo” vốn vay ưu đãi ADB giai đoạn 1 để vay khoảng 11.933
tỷ đồng (tương đương khoảng 475 triệu USD), ngày 12 tháng 5 năm 2017 Bộ Công
Thương đã ban hành quyết định số 1691/QĐ-BCT về phê duyệt Văn kiện Dự án HTKT,
trên cơ sở kết quả của Dự án HTKT Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét quyết định về điều kiện và thủ tục vay vốn ADB cho Chương trình.
+ Vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB): Bộ Công Thương đang làm việc với WB để
xem xét khoản vay cho Chương trình theo các điều kiện của WB khoảng 9.923 tỷ đồng
(tương đương khoảng 431 triệu USD).
Trên đây là trả lời của Bộ Công Thương đối với kiến nghị của cử tri Tỉnh Yên Bái,
trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Yên Bái để trả lời cử tri./.
5. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri huyện miền núi phía Tây Nghệ An đề
nghị các Bộ ngành liên quan nghiên cứu, xem xét lại việc quy hoạch, quy trình xả lũ của
các Nhà máy thủy điện trên địa bàn tỉnh Nghệ An có nhiều tác động xấu đến môi trường,
vì ngoài việc điều tiết lũ trên các con sông thì các nhà máy thủy điện khi xả gây ngập
úng lũ lụt vùng hạ du ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của nhân dân vùng bị ảnh hưởng.
Trong đó cử tri huyện Kỳ Sơn đề nghị không triển khai dự án thủy điện Mỹ Lý, thủy điện
Nậm Mô 1. Đồng thời, cử tri đề nghị các Bộ, ngành chức năng có ý kiến yêu cầu Chủ
đầu tư các dự án thủy điện phải có trách nhiệm hỗ trợ, bồi thường cho nhân dân bị thiệt
hại do việc xả lũ của các nhà máy thủy điện trong đợt bão lũ vừa qua trên địa bàn tỉnh
Nghệ An.
Trả lời (Tại CV 347/BCT-KH ngày 15/01/2019)
1. Về quy hoạch thủy điện
- Từ năm 2013 đến nay, Bộ Công Thương phối hợp với Ủy ban nhân dân (UBND)
các tỉnh có quy hoạch thủy điện rà soát lại quy hoạch thủy điện trên địa bàn từng tỉnh.
Đối với tỉnh Nghệ An, qua rà soát, Bộ Công Thương và UBND tỉnh Nghệ An thống nhất
loại khỏi quy hoạch 23 dự án thủy điện nhỏ do hiệu quả thấp, ảnh hưởng lớn đến môi
trường - xã hội.
- Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12 tháng
01 năm 2017 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý,
bảo vệ và phát triển rừng và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại
Thông báo số 191/TB-VPCP ngày 22 tháng 7 năm 2016 của Văn phòng Chính phủ tại
Hội nghị về các giải pháp khôi phục rừng bền vững vùng Tây Nguyên nhằm ứng phó
với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016-2020, Bộ Công Thương đã phối hợp với UBND các
5
tỉnh có dự án thủy điện trên địa bàn, trong đó có tỉnh Nghệ An tổ chức rà soát, đánh giá
toàn diện bao gồm cả các dự án đã được phê duyệt và các dự án đang được nghiên cứu,
khảo sát để xem xét đưa vào quy hoạch trên cơ sở tuân thủ nghiêm túc các nội dung chỉ
đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy đối với các dự
án thủy điện trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Bộ Công Thương sẽ chỉ đạo các cơ quan chuyên
môn của Bộ tiếp tục phối hợp với UBND và các cơ quan chức năng của tỉnh rà soát, nếu
không đảm bảo các tiêu chí về môi trường - xã hội sẽ kiên quyết loại khỏi quy hoạch,
trên cơ sở đó đề nghị UBND tỉnh thu hồi dự án thủy điện theo thẩm quyền.
2. Về thực hiện Quy trình xả lũ
a) Nguyên tắc chung:
- Trong mùa lũ, chủ sở hữu đập, hồ chứa thủy điện không được tích nước hồ chứa
vượt quá mực nước trước lũ (thường thấp hơn mực nước dâng bình thường và được quy
định cụ thể trong quy trình vận hành).
- Khi có bản tin dự báo lũ, chủ sở hữu đập, hồ chứa thủy điện phải vận hành xả
nước để đưa mực nước hồ chứa từ mực nước trước lũ về mực nước đón lũ (thường thấp
hơn mực nước trước lũ và được quy định cụ thể trong quy trình vận hành) để bảo đảm
khi lũ về hồ thì hồ chứa có dung tích trống để tham gia cắt/giảm/làm chậm lũ cho vùng
hạ du.
- Khi xuất hiện lũ phải duy trì lưu lượng xả nhỏ hơn lưu lượng về hồ để
cắt/giảm/làm chậm lũ cho hạ du.
- Trong quá trình lũ, nếu mực nước hồ tăng và đạt cao trình lớn nhất cho phép
(thường là mực nước gia cường và cũng được quy định cụ thể trong quy trình vận hành)
do trước đó duy trì lưu lượng xả nhỏ hơn lưu lượng về hồ thì tăng lưu lượng xả bằng lưu
lượng về hồ để mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất cho phép để bảo đảm
an toàn cho công trình, lúc này hồ chứa không còn vai trò điều tiết lũ (coi như không có
hồ chứa và lưu lượng lũ về hạ du bằng lưu lượng lũ tự nhiên) và cũng không gây lũ nhân
tạo làm thiệt hại thêm cho hạ du.
b) Thực tế vận hành các hồ chứa thủy điện trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Các chủ đập thủy điện đã thực hiện đúng trách nhiệm của chủ sở hữu đập, hồ chứa
thủy điện trong công tác cảnh báo, truyền tin, vận hành hồ chứa trong đó có vận hành
xả lũ theo quy trình vận hành được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên, thực
tế trong mùa lũ 2018 vẫn còn một số vùng hạ du thủy điện thuộc tỉnh Nghệ An do mưa
lũ lớn kéo dài, trên diện rộng (trên sông Cả có hồ chứa thủy điện Bản Vẽ cuối tháng 8
đầu tháng 9 năm 2018) nên ở giai đoạn đầu, hồ chứa thủy điện Bản Vẽ đã thực hiện tốt
vai trò cắt, giảm lũ cho hạ du đối với 3 trận lũ trước, tuy nhiên khi xảy ra trận lũ cuối
cùng cũng là trận lũ lớn nhất ngay sau khi hồ vừa cắt giảm lũ cho cơn bão số 4 thì khả
năng cắt giảm lũ cho hạ du gần như không còn. Việc xảy ra 2 trận lũ trong vòng nửa
tháng với lưu lượng đỉnh lũ đặc biệt lớn (trên 4.000 m3/s), tổng lượng lũ của cả 2 trận lũ
là trên 3 tỷ m3 nước, gấp 10 lần dung tích phòng lũ cho hạ du của hồ Bản Vẽ thì việc hồ
chứa thủy điện Bản Vẽ không thể cắt giảm lũ cho hạ du trong trận lũ cuối là khó tránh
khỏi.
6
3. Về bồi thường, hỗ trợ
a) Về bồi thường:
Quá trình vận hành hồ chứa thủy điện nếu không tuân thủ theo đúng quy trình vận
hành hồ chứa và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý an toàn đập, hồ chứa thủy
điện do cơ quan có thẩm quyền ban hành, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì chủ
đầu tư phải phải chịu trách nhiệm và bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật hiện
hành. Tùy theo mức độ thiệt hại và lỗi của chủ đập, chủ đập thủy điện có thể phải bồi
thường theo quy định tại Bộ Luật Dân sự hoặc cá nhân người có trách nhiệm sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
b) Về hỗ trợ:
Sau khi kết thúc lũ, các chủ đập thủy điện đã tích cực phối hợp với chính quyền
địa phương vùng hạ du trong việc rà soát, hỗ trợ để nhân dân sớm ổn định sinh hoạt, sản
xuất.
Cụ thể về hỗ trợ người dân vùng hạ du trong mùa lũ năm 2018 Thủy điện Bản Vẽ:
Sau khi kết thúc cơn bão số 4, Công ty Thủy điện Bản Vẽ đã hỗ trợ cho nhân dân bị ảnh
hưởng lũ lụt thông qua UBND tỉnh Nghệ An với số tiền 100 triệu đồng; Đối với trận lũ
cuối tháng 8 đến đầu tháng 9, để kịp thời chia sẻ khó khăn cho người dân bị thiệt hại do
lũ lụt, ngay trong khi xảy ra lũ, Công ty Thủy điện Bản Vẽ đã hỗ trợ 850 suất quà trị giá
120 triệu đồng; Công ty Thủy điện Bản Vẽ đã đề nghị và Tổng công ty Phát điện 1
(GENCO1) hỗ trợ 500 triệu đồng cho nhân dân vùng bị ảnh hưởng lũ lụt (400 triệu đồng
cho huyện Tương Dương và 100 triệu đồng cho huyện Con Cuông). Việc hỗ trợ cho
người dân vùng bị lũ lụt cũng được thực hiện thông qua các hình thức khác như phối
hợp với huyện đoàn Tương Dương tổ chức Tết Trung thu cho các cháu học sinh vùng
lũ (trị giá 50 triệu đồng), hỗ trợ huyện Tương Dương sửa lại trường mầm non xã Yên
Na 50 triệu đồng; Hỗ trợ gần 100 triệu cho lực lượng tham gia PCTT&TKCN trong
những đợt mưa lũ cho huyện Tương Dương và 3 xã Yên Na, Lượng Minh, Xá Lượng.
Ngoài ra, GENCO1 đã kêu gọi đóng góp của người lao động trong Tổng công ty, dự
kiến sẽ chuyển cho tỉnh Nghệ An 03 tỷ đồng để hỗ trợ nhân dân vùng hạ du Thủy điện
Bản Vẽ.
4. Về đề nghị dừng không triển khai dự án thủy điện Mỹ Lý, thủy điện Nậm Mô 1
Chính phủ hai nước Việt Nam và Lào đã xây dựng dự thảo Hiệp định liên Chính
phủ Việt Nam - Lào về đầu tư và quản lý vận hành các nhà máy thủy điện Mỹ Lý, Nậm
Mô 1 và tiến hành 02 phiên đàm phán. Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Năng lượng
& Mỏ Lào đã nhất trí và ký tắt dự thảo cuối cùng của Hiệp định (tháng 09 năm 2016):
- Về phía Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thay mặt Chính phủ
ký Nghị quyết số 87/NQ-CP ngày 05/10/2016 thông qua nội dung Hiệp định và ủy quyền
cho Lãnh đạo Bộ Công Thương thay mặt Chính phủ ký Hiệp định.
- Về phía Lào, sau khi thống nhất nội dung dự thảo Hiệp định, Bộ Năng lượng và
Mỏ Lào cho biết, phía Lào phải tiếp tục xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo
quy định. Phía Lào đã yêu cầu Chủ đầu tư Dự án thực hiện báo cáo đánh giá bổ sung về
tác động môi trường của phần Dự án trên lãnh thổ Lào để xem xét, quyết định trước khi
7
ký Hiệp định. Thực hiện yêu cầu này, Chủ đầu tư Dự án đã trình Bộ Năng lượng và Mỏ
Lào báo cáo đánh giá tác động môi trường xã hội (đã nộp hồ sơ và có giấy biên nhận
ngày số 074/ASA ngày 29/9/2016 từ phía Lào).
- Trong các cuộc họp triển khai Bản ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính
phủ Lào về hợp tác trong lĩnh vực điện năng được ký ngày 05 tháng 10 năm 2016 tại
Viêng Chăn, phía Việt Nam luôn đề nghị phía Lào sớm có ý kiến chính thức về việc ký
kết Hiệp định, tuy nhiên cho đến nay, phía Lào vẫn chưa có phản hồi. Do vậy hiện tại,
khả năng ký Hiệp định phụ thuộc vào phía Lào.
- Đến thời điểm hiện nay, Hiệp định Liên Chính phủ Việt Nam - Lào về đầu tư và
quản lý vận hành các Dự án thủy điện Mỹ Lý và Nậm Mô 1 vẫn chưa được phía Lào
xem xét để ký chính thức, do đó Chủ đầu tư các Dự án thủy điện Mỹ Lý và Nậm Mô 1
chưa thể triển khai thực hiện công tác giải phóng mặt bằng di dân tái định cư khu vực
xây dựng công trình. Do đặc thù của Dự án nằm trên biên giới giữa Việt Nam và Lào,
do vậy Chính phủ hai nước phải ký Hiệp định hợp tác về phát triển dự án thủy điện.
Hiện nay đang chờ phía Lào hoàn tất thủ tục và ấn định thời gian cụ thể để tiến hành ký
Hiệp định.
Đây là Dự án đã được Chính phủ hai nước Việt Nam, Lào thống nhất, thỏa thuận
đầu tư. Vì vậy, để dừng khảo sát đầu tư dự án thủy điện Mỹ Lý và Nậm Mô 1 thì cần
phải báo cáo Chính phủ hai nước xem xét, quyết định.
6. Cử tri các tỉnh Bình Dương, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh kiến
nghị: Cử tri đề nghị Nhà nước nên có biện pháp mạnh mẽ hơn, quyết tâm hơn nữa trong
công tác phòng, chống buôn lậu, sản xuất hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng
(nhất là hiện nay tình trạng thuốc tân dược (thuốc tây) giả vẫn trôi nỗi trên thị trường),
cương quyết và xử lý nghiêm minh với nạn nhập lậu hàng hóa, đặc biệt hàng Trung
Quốc vào Việt Nam không rõ nguồn gốc gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người tiêu
dùng và môi trường.
Trả lời (Tại CV 348/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Xác định hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến phát triển kinh tế, an ninh trật tự và an toàn xã hội nên ngay từ năm
2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 41/NQ-CP về đẩy mạnh công
tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới. Theo
đó, Chính phủ đã phân công cụ thể nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện,
đây là văn bản thể hiện quyết tâm chính trị cao và có tính toàn diện của Chính phủ nhằm
đẩy lùi vấn nạn buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, các Bộ ngành, địa
phương đã xây dựng kế hoạch thực hiện, bên cạnh đó, công tác kiểm tra, đôn đốc giám
sát việc thực hiện các chỉ đạo của cấp trên về công tác chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả trong tình hình mới được thực hiện thường xuyên, liên tục. Các vụ việc
phức tạp, nổi cộm đã được đồng chí Trưởng ban Chỉ đạo 389 quốc gia tổ chức các cuộc
họp đột xuất để chỉ đạo các cơ quan liên quan giải quyết kịp thời, đáp ứng yêu cầu rõ
ràng, minh bạch của người dân và dư luận xã hội.

8
Trong thời gian qua, Bô ̣ Công Thương đã ban hành kịp thời các Chỉ thị, Kế hoạch,
văn bản chỉ đạo về tăng cường kiể m tra, kiể m soát, xử lý nghiêm các hành vi vi pha ̣m
nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, trong đó, riêng năm
2018 đã ban hành các văn bản như: Kế hoạch số 216/KH-BCĐ389 về tăng cường công
tác phòng, chống buôn lậu, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất
lượng; Quyết định số 334/QĐ-BCT về đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm
trong sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo xuất xứ tại các địa bàn trọng điểm đến hết
năm 2020; Kế hoạch số 2915/KH-BCĐ389 về công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian
lận thương mại và hàng giả năm 2018; Văn bản chỉ đạo số 4899/BCT-QLTT về việc
tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển kinh doanh trái phép xì gà;
Văn bản số 2854/BCT-QLTT chỉ đạo tăng cường quản lý hàng hoá là hành lý, quà tặng
từ nước ngoài vào Việt Nam; Văn bản số 5492/BCT-QLTT chỉ đạo tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát, phát hiện các loại hàng hoá nhập khẩu, hàng không rõ nguồn gốc;
Văn bản chỉ đạo triển khai Kế hoạch 454/KH-BCĐ của Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia về
mở đợt cao điểm chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trước, trong và sau
Tết nguyên đán Kỷ Hợi 2019...
Lực lượng Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố đã nghiêm túc quán triê ̣t các chỉ
đa ̣o của cấp trên, kịp thời xây dựng và triển khai phương án, kế hoạch kiểm tra, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm; đã làm tốt công tác quản lý địa bàn, chú trọng kiểm tra, xử
lý các vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Một số lĩnh vực, mặt hàng
được tích cực đôn đốc, chỉ đạo gồm thuốc lá ngoại nhập lậu, gia cầm, an toàn thực phẩm,
phân bón, xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng, mỹ phẩ m, dươ ̣c phẩ m, thực phẩ m chức năng;
sản xuất, kinh doanh hàng giả, kém chất lượng; bán hàng đa cấp… Kết hợp với công tác
kiểm tra, xử lý vi phạm, lực lượng Quản lý thị trường tổ chức nhiều hoạt động tuyên
truyền, triển khai cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh ký cam kết không kinh doanh
hàng giả, hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng; đồng thời, xử lý nghiêm các tổ chức, cá
nhân đã thực hiện việc ký cam kết nhưng vẫn vi phạm.
Kết quả trong 03 năm thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-CP của Chính phủ, lực lượng
Quản lý thị trường cả nước đã kiểm tra trên 505.704 lượt, phát hiện, xử lý 300.699 vụ
vi phạm, thu nộp ngân sách trên 1.520 tỷ đồng. Một số mặt hàng có số lượng thu giữ lớn
gồm: gần 4,8 triệu bao thuốc lá ngoại; trên 182.000 chai rượu; 63.000 lon bia; 18.574
tấn và 218.000 chai phân bón; trên 3,6 triệu sản phẩm mỹ phẩm; trên 1.327.000 đồ chơi
trẻ em; trên 11,3 triệu mét vải; gần 780.000 đồ điện tử; trên 485 tấn và 454.000 con gia
cầm,… Trong đó, riêng năm 2018, lực lượng Quản lý thị trường cả nước kiểm tra
155.583 vụ; phát hiê ̣n, xử lý 91.867 vụ vi phạm; thu nộp ngân sách nhà nước 490,27 tỷ
đồng; ước trị giá hàng tịch thu chưa bán trên 92,5 tỷ đồng.
Trong thời gian tới, để xử lý có hiệu quả hơn tình trạng buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả, trong đó có mặt hàng thuốc tân dược, Bộ Công Thương cùng các Bộ
ngành, địa phương sẽ chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát,
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Xác định những nội dung trọng tâm là:

9
- Chỉ đạo thực hiện khẩn trương, nghiêm túc, triệt để các chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia về công tác chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả.
- Chỉ đạo các lực lượng chức năng tích cực chủ động phối hợp xây dựng, triển khai
đồng bộ các phương án, chuyên đề, kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát
thị trường, đặc biệt là Bộ đội biên phòng, Hải quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát, ngăn
chặn hàng lậu, hàng giả ngay từ tuyến biên giới đường biển và đường bộ; kiên quyết xử
lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm; thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo để có
thông tin kịp thời, chính xác phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành; tổ chức kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện các chương trình, kế hoạch để rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp
đấu tranh phù hợp với tình hình thực tiễn.
- Tiếp tục chỉ đạo rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật, cơ chế chính sách liên quan đến công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại,
hàng giả và an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo đảm tính khả thi và theo sát với tình hình
thực tế; tạo thuận lợi cho các lực lượng chức năng trong thực thi nhiệm vụ.
- Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, phòng chống các biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng của công chức thực thi; khen thưởng, động viên, nêu gương kịp thời đối với tập
thể, cá nhân có thành tích, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, bao che,
tiếp tay cho buôn lậu.
- Đề cao vai trò, trách nhiê ̣m của người đứng đầ u; xem xét, xử lý trách nhiệm người
đứng đầu, lãnh đạo, cơ quan chức năng và công chức trực tiếp quản lý địa bàn nếu để
xảy ra buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả an toàn vệ sinh thực phẩm phức tạp,
nghiêm trọng kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân mà không có giải pháp khắc phục
kiên quyết, hiệu quả.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho mọi
đối tượng, biến nhận thức về chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại thành ý
thức tự giác thường trực và hành động cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp,
mỗi người dân; đồng thời, công khai kết quả xử lý vi phạm trên phương tiện thông tin
đại chúng cho người dân biết.
7. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, hầu hết các hạn chế về thuế quan được xóa bỏ. Tuy nhiên đối với các nước phát
triển thì hàng rào phi thuế quan ngày càng chặt chẽ hơn để bảo vệ kinh tế của từng quốc
gia. Đối với Việt Nam hội nhập càng sâu nhưng hàng rào phi thuế quan chưa được quan
tâm đúng mức, hàng hóa nhập khẩu vào Việp Nam chưa được kiểm tra theo quy chuẩn
kỹ thuật Quốc gia nhằm bảo vệ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ Quyền lợi
Người tiêu dùng, chính điều này đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong nước và chưa bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam. Đề nghị các Bộ
ngành nghiên cứu để ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật bảo hộ hàng sản xuất trong nước.
Trả lời (Tại CV 349/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), do vậy phải
tuân thủ các quy định tại các Hiệp định của WTO, trong đó có Hiệp định hàng rào kỹ
10
thuật trong thương mại (Hiệp định TBT). TBT bao gồm các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu và/hoặc quy trình đánh giá sự
phù hợp của hàng hóa nhập khẩu đối với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (còn gọi là
biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm).
Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương chủ động
phối hợp nghiên cứu xây dựng, áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm quản lý chất lượng
hàng hóa nhập khẩu, nhất là đối với các mặt hàng không thiết yếu cần hạn chế nhập
khẩu, các mặt hàng trong nước đã sản xuất được và đáp ứng yêu cầu chất lượng; đảm
bảo hình thành một rào cản kỹ thuật ngăn chặn kịp thời việc nhập khẩu hàng hóa kém
chất lượng, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, máy móc, thiết bị và công nghệ
lạc hậu, có khả năng làm tổn hại môi trường, tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên liệu.
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, số lượng Tiêu chuẩn Việt Nam
(TCVN) hiện hành có trên 10.500 TCVN. Trong đó, tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc
tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài tiên tiến đạt 51% (ISO, IEC, CODEX).
Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) bắt buộc áp dụng được hình thành
và phát triển trên cơ sở quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và Luật
Chất lượng sản phẩm hàng hóa. Vai trò của các QCVN ngày càng trở nên quan trọng và
là công cụ quản lý của các Bộ, ngành nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý, ngăn chặn
các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ kém chất lượng ảnh hưởng đến môi trường sức khỏe,
bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích doanh nghiệp và người tiêu dùng. Theo lĩnh vực được
phân công, các Bộ, ngành đã và đang đẩy mạnh việc xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia, đến nay đã có khoảng 770 QCVN được ban hành.
Những quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam đã phần nào đáp
ứng được mục tiêu cung cấp những yêu cầu về kỹ thuật đối với sản phẩm, hàng hóa nhập
khẩu (hoặc trực tiếp hoặc tham chiếu những quy định về tiêu chuẩn) nhằm mục đích bảo
vệ cuộc sống và sức khỏe con người, bảo vệ môi trường sinh thái và đa dạng sinh học.
8. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị các cơ quan chức năng siết
chặt quản lý việc buôn lậu, tàng trữ, sử dụng pháo nổ; có chế tài xử lý nghiêm hành vi
thiếu trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan ở địa phương, cơ sở nếu
để xảy ra tình trạng buôn bán, tàng trữ và sử dụng pháo nổ trên địa bàn; vì thời gian
qua tình hình buôn lậu pháo nổ qua biên giới, nhất là đường biển vẫn diễn biến phức
tạp, việc sử dụng trái phép pháo nổ vào dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất vừa qua và các
lễ hội trong năm vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng nông thôn.
Trả lời (Tại CV 350/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, các Bộ ngành, địa
phương đã kịp thời xây dựng các kế hoạch, phương án đấu tranh chống buôn lậu, gian
lận thương mại và hàng giả, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh với các hành vi vi phạm về
buôn bán, tàng trữ, sử dụng pháo nổ.
Trong thời gian qua, Bô ̣ Công Thương đã ban hành kịp thời các Chỉ thị, Kế hoạch,
văn bản chỉ đạo về tăng cường kiể m tra, kiể m soát, xử lý nghiêm các hành vi vi pha ̣m
nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, trong đó, riêng năm
11
2018 đã ban hành các văn bản như: Kế hoạch số 2915/KH-BCĐ389 về công tác đấu
tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả năm 2018; văn bản số 5492/BCT-
QLTT chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện các loại hàng hoá nhập
khẩu, hàng không rõ nguồn gốc; văn bản chỉ đạo triển khai Kế hoạch 454/KH-BCĐ của
Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia về mở đợt cao điểm chống buôn lậu, gian lận thương mại và
hàng giả trước, trong và sau Tết nguyên đán Kỷ Hợi 2019...
Lực lượng Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố đã nghiêm túc quán triê ̣t các chỉ
đa ̣o của cấp trên, kịp thời xây dựng và triển khai phương án, kế hoạch kiểm tra, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm. Kết quả, riêng năm 2018, lực lượng Quản lý thị trường cả
nước kiểm tra 155.583 vụ; phát hiê ̣n, xử lý 91.867 vụ vi phạm; thu nộp ngân sách nhà
nước 490,27 tỷ đồng.
Trong thời gian tới, để xử lý có hiệu quả hơn tình trạng buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả, trong đó có mặt hàng cấm là pháo nổ, Bộ Công Thương cùng các Bộ
ngành, địa phương sẽ chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát,
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Xác định những nội dung trọng tâm là:
- Chỉ đạo thực hiện khẩn trương, nghiêm túc, triệt để các chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia về công tác chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả.
- Chỉ đạo các lực lượng chức năng tích cực chủ động phối hợp xây dựng, triển khai
đồng bộ các phương án, chuyên đề, kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát
thị trường, đặc biệt là Bộ đội biên phòng, Hải quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát, ngăn
chặn hàng lậu, hàng giả ngay từ tuyến biên giới đường biển và đường bộ; kiên quyết xử
lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm; thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo để có
thông tin kịp thời, chính xác phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành; tổ chức kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện các chương trình, kế hoạch để rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp
đấu tranh phù hợp với tình hình thực tiễn.
- Tiếp tục chỉ đạo rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật, cơ chế chính sách liên quan đến công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và
hàng giả, bảo đảm tính khả thi và theo sát với tình hình thực tế; tạo thuận lợi cho các lực
lượng chức năng trong thực thi nhiệm vụ.
- Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, phòng chống các biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng của công chức thực thi; khen thưởng, động viên, nêu gương kịp thời đối với tập
thể, cá nhân có thành tích, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, bao che,
tiếp tay cho buôn lậu, hàng cấm.
- Đề cao vai trò, trách nhiê ̣m của người đứng đầ u; xem xét, xử lý trách nhiệm người
đứng đầu, lãnh đạo, cơ quan chức năng và công chức trực tiếp quản lý địa bàn nếu để
xảy ra buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả phức tạp, nghiêm trọng kéo dài, gây bức
xúc trong nhân dân mà không có giải pháp khắc phục kiên quyết, hiệu quả.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho mọi
đối tượng, biến nhận thức về chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại thành ý
thức tự giác thường trực và hành động cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp,
12
mỗi người dân; đồng thời, công khai kết quả xử lý vi phạm trên phương tiện thông tin
đại chúng cho người dân biết.
9. Cử tri tỉnh An Giang, Điện Biên kiến nghị: Tình hình giá điện, xăng, dầu không
ổn định làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống người dân, nhất là người dân nghèo ở
nông thôn. Đề nghị có biện pháp để ổn định giá xăng, dầu hiện nay.
Trả lời (Tại CV 351/BCT-KH ngày 15/01/2019)
1. Về biện pháp ổn định giá xăng, dầu:
Nguyên tắc quản lý giá bán xăng dầu và trình tự điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu
được Chính phủ quy định rõ tại Điều 38 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9
năm 2014 về kinh doanh xăng dầu, trong đó nguyên tắc cơ bản là “Giá bán xăng dầu
được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Thời gian qua, Bộ Công Thương luôn phối hợp chặt chẽ, nhip̣ nhàng cùng Bộ Tài
chính trong công tác điều hành giá xăng dầu, đúng quy định của Nghị định số
83/2014/NĐ-CP và chỉ đa ̣o của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm nguyên tắc
giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, giá
xăng dầu trong nước phản ánh diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới.
Thực tế, giá xăng dầu thế giới thời gian vừa qua diễn biến phức tạp, có giai đoạn
tăng nhanh và mạnh nhưng giá bán xăng dầu trong nước không điều chỉnh tăng hoặc
tăng ở mức độ có chia sẻ giữa các bên tham gia thị trường, thông qua việc Nhà nước áp
dụng các biện pháp bình ổn giá bằng các công cụ tài chính (sử dụng hoặc tăng mức sử
dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu,…) nhằm giữ ổn định giá bán, góp phần kiềm chế mức
độ tăng giá của các mặt hàng xăng dầu, từ đó giảm thiểu tác động bất lợi đến phát triển
kinh tế - xã hội, đến mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã
hội.
Trong năm 2018, Quỹ Bình ổn giá xăng được chi sử dụng thường xuyên từ đầu
năm cho đến kỳ điều hành giá xăng dầu ngày 21 tháng 11 năm 2018 nhằm hạn chế tác
động tăng giá thành phẩm xăng dầu thế giới tới giá bán xăng dầu trong nước, góp phầ n
kiể m soát la ̣m phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Trước biến động của giá thành phẩm thế giới
xăng RON92 (dùng để pha chế xăng E5 RON92), Liên Bộ Công Thương - Tài chính đã
sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu để giữ ổn định giá xăng E5 RON92 trong 10 kỳ điều
hành trong năm 2018. Bình quân giá thành phẩm xăng dầu thế giới năm 2018 tăng 18,7-
31,5% so với năm 2017 trong khi giá bán lẻ xăng dầu trong nước chỉ tăng trung bình
10,5-25,6%. Đối với kỳ điều hành giá xăng dầu ngày 06 tháng 10 năm 2018, giá thành
phẩm xăng dầu thế giới tăng ở mức cao nhất từ cuối năm 2014, làm cho giá cơ sở mặt
hàng xăng E5RON92 tăng khoảng 2.238 đồng/lít so với giá bán tối đa tại kỳ điều hành
trước liền kề, tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP và thực hiện
chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Liên Bộ Công Thương - Tài chính quyết
định chỉ cho phép các thương nhân tăng 675 đồng/lít xăng E5RON92, còn lại chi Quỹ
Bình ổn giá xăng dầu 1.563 đồng/lít (xấp xỉ 70% mức giá tăng) để hỗ trợ giảm bớt mức
tăng giá.

13
10. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp các Bộ,
ngành liên quan tham mưu Chính phủ ban hành văn bản quy định xử lý đối với các đối
tượng vận chuyển thuốc lá không thể chấp hành quyết định xử phạt, do số đối tượng này
hầu hết là dân nghèo, không có tiền, tài sản để cưỡng chế; Hướng dẫn xử lý phương
tiện hết thời bị tạm giữ do vi phạm hành chính (các phương tiện này tạm giữ để làm cơ
sở thi hành quyết định xử phạt nhưng đối tượng không chấp hành quyết định do không
có khả năng nộp phạt. Có trường hợp, đối tượng đi khỏi địa phương, không rõ nơi cư
trú); Hoàn chỉnh và ban hành văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm tra và
xử phạt vi phạm hành chính của quản lý thị trường.
Trả lời (Tại CV 350/BCT-KH ngày 15/01/2019)
2. Về vấn đề xử phạt đối tượng vận chuyển thuốc lá
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 và khoản 1 Điều 77 Luật xử lý vi phạm hành
chính, trường hợp cá nhân bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng trở lên đang gặp khó khăn đặc
biệt, đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, bệnh hiểm nghèo,
tai nạn và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan,
tổ chức nơi người đó học tập, làm việc mà không có khả năng thi hành quyết định thì có
thể được xem xét giảm, miễn phần còn lại tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt.
Căn cứ quy định được viện dẫn trên, cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt có thể
áp dụng quy định của Điều 77 Luật xử lý vi phạm hành chính để quyết định miễn, giảm
tiền phạt đối với những cá nhân vi phạm hành chính đáp ứng các điều kiện do pháp luật
quy định.
- Về việc tạm giữ và xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm
giữ được thực hiện theo quy định tại Điều 125, Điều 126 Luật xử lý vi phạm hành chính,
Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về
quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ
tục hành chính và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Khoản 4 Điều 126 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: “Đối với tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính quá thời hạn tạm giữ nếu người vi phạm không đến
nhận mà không có lý do chính đáng hoặc trường hợp không xác định được người vi
phạm thì người ra quyết định tạm giữ phải thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ; trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo, niêm yết công khai, nếu người vi phạm không
đến nhận thì người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính để xử lý theo quy định tại Điều 82 của Luật này.”.
Như vậy, trình tự, thủ tục xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
quá thời hạn tạm giữ đã được pháp luật quy định cụ thể. Căn cứ quy định pháp luật có
liên quan, cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng để xử lý đối với các trường hợp cụ
thể.
- Thi hành Pháp lệnh Quản lý thị trường năm 2016, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được
giao quy định chi tiết như:
14
+ Nghị định số 148/2016/NĐ-CP ngày 04 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Quản lý thị trường;
+ Quyết định số 34/2018/QĐ-TTg ngày 10 tháng 8 năm 2018 của Thủ tướng Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Quản lý
thị trường trực thuộc Bộ Công Thương;
+ Thông tư số 32/2018/TT-BCT ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ
Công Thương quy định mẫu, quy cách, chế độ cấp phát, quản lý, sử dụng số hiệu, biển
hiệu, phù hiệu, cờ hiệu, cấp hiệu, trang phục của Quản lý thị trường;
+ Thông tư số 33/2018/TT-BCT ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ
Công Thương quy định về Thẻ kiểm tra thị trường;
+ Thông tư số 35/2018/TT-BCT ngày 12 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ
Công Thương quy định về nội dung, trình tự, thủ tục hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm
hành chính và các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng Quản lý thị trường v.v..
Năm 2019, Bộ Công Thương sẽ hoàn thành việc thực hiện rà soát, đánh giá và sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện đối với hệ thống văn bản quy phạm về tổ chức và hoạt động
của Quản lý thị trường nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng lực lượng Quản lý thị trường
chính quy, hiện đại, tổ chức chặt chẽ.
11. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ Công Thương tăng cường
thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu; kiểm soát nhập khẩu phù hợp; chú
trọng cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ,
giá trị gia tăng. Có giải pháp giảm thiểu tác động của chiến tranh thương mại Hoa Kỳ
- Trung Quốc. Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, đưa vào hoạt động các dự án sản
xuất công nghiệp quan trọng, tạo sức lan tỏa. Thực hiện các giải pháp, chính sách và
quản lý chặt chẽ thị trường trong nước, hệ thống phân phối bán lẻ và các hình thức kinh
doanh thương mại điện tử. Tích cực, chủ động kết nối, phát triển các kênh phân phối
sản phẩm hàng hóa Việt Nam; mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là đối với các loại
nông sản trong khoảng thời gian ngắn.
Trả lời (Tại CV 352/BCT-KH ngày 15/01/2019)
a) Đối với công tác thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu
Năm 2018, tình hình thế giới diễn biến phức tạp; xung đột xảy ra ở nhiều nơi; cạnh
tranh giữa các nước lớn diễn ra gay gắt. Kinh tế toàn cầu phục hồi nhưng chưa ổn định;
chủ nghĩa bảo hộ, chiến tranh thương mại gia tăng; khoa học công nghệ phát triển nhanh
và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Ở trong
nước, kế thừa thành tựu hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của ta lớn mạnh hơn nhiều,
nhưng vẫn còn những hạn chế, yếu kém tích tụ từ trước; thiên tai, bão lũ gây nhiều thiệt
hại cho sản xuất và đời sống. Trong bối cảnh đó, Chính phủ và các Bộ, ngành đã nỗ lực
triển khai nhiều giải pháp nhằm tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh, phát triển doanh nghiệp.

15
Về phía Bộ Công Thương, trong năm 2018, Bộ đã tích cực, chủ động triển khai
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu phù
hợp, có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, về cải cách thể chế, chính sách, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh, xuất khẩu của doanh nghiệp
Nhằm tạo điều kiện hoạt động thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu
và đẩy mạnh công tác cái cách thủ tục hành chính (TTHC) theo hướng đơn giản hóa,
hiện đại hóa, rút ngắn thời gian xử lý, giảm thiểu chi phí giao dịch hành chính, năm
2018, Bộ Công Thương đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành các Nghị định hướng
dẫn thi hành chi tiết Luật Quản lý ngoại thương. Đây là các văn bản quy phạm pháp
luật hàm chứa nhiều quan điểm, quy định mới về quản lý, điều hành hoạt động xuất nhập
khẩu; được xây dựng theo hướng hoàn thiện khung khổ pháp lý, cắt giảm các điều kiện
đầu tư kinh doanh, nhằm tạo thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu.
Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 quy định chi tiết một
số điều của Luật quản lý ngoại thương: thành phần hồ sơ, quy trình thủ tục, thời hạn cấp
phép của các TTHC được quy định rõ ràng, đơn giản, hạn chế các mẫu đơn, hạn chế các
yêu cầu chứng thực; giảm nhiều thành phần hồ sơ, giảm số ngày kiểm tra hồ sơ đối với
tất cả các TTHC; giảm thời gian cấp phép đối với một số TTHC,...
Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 quy định chi tiết về
hoạt động thương mại biên giới là Nghị định không có TTHC và đẩy mạnh phân cấp
cho địa phương trong quản lý hoạt động thương mại biên giới. Trong đó, loại bỏ quy
định các tỉnh phải xin ý kiến Bộ Công Thương trước khi công bố thời gian và mặt hàng
xuất nhập khẩu và điều chỉnh quy định theo hướng khuyến khích xuất nhập khẩu, hạn
chế nhập khẩu.
Nghị định số 31/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2018 quy định chi tết Luật
quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa áp dụng hình thức chứng nhận xuất xứ theo
hướng quản lý rủi ro trong quá trình cấp C/O, tạo thuận lợi tối đa cho thương nhân xuất
khẩu; đơn giản hóa các TTHC và thủ tục hóa TTHC quy định tại các Thông tư, văn bản
hướng dẫn về cấp C/O do Bộ Công Thương ban hành.
Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 2018 quy định về kinh
doanh xuất khẩu gạo hoàn thiê ̣n khung khổ pháp lý cho hoa ̣t đô ̣ng kinh doanh xuấ t khẩ u
ga ̣o và công tác điều hành xuất khẩu theo hướng mở, xây dựng thể chế kiế n ta ̣o, minh
bạch, ta ̣o thuâ ̣n lơ ̣i cho thương nhân tham gia xuất khẩu gạo.
Thứ hai, chủ động trong công tác điều hành, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy xuất khẩu;
chú trọng xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài để bảo vệ lợi ích chính
đáng của hàng xuất khẩu của Việt Nam
- Tháng 4 năm 2018, Bộ Công Thương đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổ
chức Hội nghị toàn quốc về các giải pháp tổng thể thúc đẩy xuất khẩu. Trên cơ sở chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính
phủ ban hành Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2018 của Thủ tướng Chính
phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu.
16
Hiện nay, thực hiện phân công tại Chỉ thị số 25/CT-TTg, Bộ Công Thương đang
theo dõi, đôn đốc các Bộ, ngành triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp được nêu
tại Chỉ thị.
- Bộ Công Thương luôn theo dõi sát tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, kịp
thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất xuất khẩu. Bộ Công Thương
cũng đã tổ chức các buổi làm việc tại trụ sở của Bộ, tổ chức các Đoàn công tác làm việc
với một số địa phương nhằm nắm bắt thông tin về xuất nhập khẩu, các khó khăn, vướng
mắc cũng như biện pháp để thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu; chủ động hỗ trợ các doanh
nghiệp trong nhiều lĩnh vực (như mía đường, gạo, xơ sợi...) mở rộng xuất khẩu hàng
hóa cũng như có những giải pháp kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa (như vướng mắc của Samsung trong khai báo hóa
chất và giấy phép nhập khẩu tiền chất khi mua từ nội địa,…).
- Tháng 10 năm 2018, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên
quan tổ chức chuỗi sự kiện quốc tế về mặt hàng gạo, bao gồm Hội nghị quốc tế mặt hàng
gạo Việt Nam và phối hợp với Tạp chí The Rice Trader (TRT) tổ chức Hội nghị gạo thế
giới lần thứ 10. Việc phối hợp với Tạp chí The Rice Trader tổ chức Hội nghị gạo thế
giới lần thứ 10 là một biện pháp để xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh gạo Việt
Nam. Đồng thời, việc tổ chức tại Việt Nam cũng giúp có nhiều doanh nghiệp Việt Nam
được tham dự sự kiện này, từ đó tiếp cận với cách tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất
khẩu hiện đại, học hỏi ứng dụng khoa học công nghệ và xây dựng thương hiệu từ các
chuyên gia và doanh nghiệp hàng đầu.
- Bộ Công Thương đã và đang xử lý một số vụ kiện tương đối phức tạp, trong đó
có các vụ việc rà soát hàng năm thuế chống bán phá giá cá tra, tôm của Hoa Kỳ (gần
đây nhất là rà soát thuế chống bán phá giá với cá tra lần thứ 14 và với tôm lần thứ 12).
Mặt khác, Bộ Công Thương cũng đang phối hợp với Hiệp hội VASEP, các Bộ, ngành
liên quan khởi kiện biện pháp Chống bán phá giá cá tra của Hoa Kỳ và Chương trình
thanh tra cá da trơn của Hoa Kỳ ra Tổ chức thương mại thế giới để bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng cho sản phẩm, cho doanh nghiệp của Việt Nam. Các kết quả tích cực mà
Việt Nam đã đạt được trong quá trình đấu tranh quyết liệt với phía Hoa Kỳ tại WTO
không chỉ tạo ra nhiều cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho doanh nghiệp mà còn thể hiện vai
trò quan trọng của Chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các tình huống
phát sinh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
- Bộ Công Thương đã và đang phối hợp tích cực với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ động nắm bắt tình hình áp dụng các rào cản kỹ thuật, biện pháp bảo hộ
mậu dịch của các nước nhập khẩu để đấu tranh có hiệu quả, đã đạt được những kết quả
đáng kể trong việc mở cửa thị trường, tạo thêm “sân chơi” cho các mặt hàng xuất khẩu
Việt Nam. Trong đó phải kể đến việc Bộ Công Thương đã yêu cầu Ấn Độ nới lỏng việc
áp dụng giá nhập khẩu tối thiểu đối với hồ tiêu và không áp dụng tăng cường kiểm soát
quản lý nhập khẩu đối với điều của Việt Nam; đã hoàn tất việc thâm nhập thị trường
mới cho một số trái cây của Việt Nam như thanh long, chôm chôm, nhãn, vải, vú sữa
vào Mỹ; vải, xoài, thanh long vào Úc; xoài, thanh long vào Nhật Bản, Hàn Quốc, New
Zealand...; tư vấn và hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam áp dụng biện pháp phòng vệ

17
thương mại, chống bán phá giá đối với thịt gà nhập khẩu, tránh ảnh hưởng bất lợi đến
ngành chăn nuôi trong nước.
Hiện nay, Bộ Công Thương đang tích cực phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tiếp tục đàm phán hỗ trợ mở cửa thị trường cho nhiều mặt hàng nông
thủy sản như trứng gia cầm, hoa quả, thịt... vào các thị trường tiềm năng, đồng thời triển
khai các giải pháp quyết liệt để ứng phó, tháo gỡ vướng mắc về thị trường như Chương
trình thanh tra cá da trơn, “thẻ vàng” của EU...
Thứ ba, chủ động, tăng cường công tác nắm bắt thông tin, cảnh báo sớm các tín
hiệu thị trường để tận dụng cơ hội từ các FTA cũng như chủ động ứng phó với các biến
động của thị trường
- Bộ Công Thương với chức năng quản lý nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời đảm nhiệm vai trò là Thường trực Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế
về kinh tế, đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức nhiều Hội
thảo cung cấp thông tin về các FTA đã ký kết tại nhiều địa phương, qua đó giúp các cán
bộ quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và đông đảo tầng lớp nhân dân kịp thời
nắm bắt thông tin, hiểu hơn về các cơ hội từ FTA có thể tận dụng để đẩy mạnh xuất
khẩu. Ngoài ra, Bộ Công Thương chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị truyền
thông như Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam kịp thời định hướng
thông tin về công tác hỗ trợ tiêu thụ, xuất khẩu nông sản, tránh gây ảnh hưởng bất lợi
đến ngành hàng.
- Bộ Công Thương với hệ thống cơ quan Thương vụ ở nước ngoài luôn theo dõi
sát tình hình, kịp thời, chủ động hỗ trợ giải quyết, tháo gỡ các rào cản thương mại; kịp
thời thông tin về chính sách, các rào cản kỹ thuật mới của thị trường nhập khẩu tới các
Hiệp hội, doanh nghiệp. Đồng thời, Bộ đã và đang tích cực rà soát, nắm bắt thông tin và
đưa ra cảnh báo sớm về các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá,
chống trợ cấp, tự vệ và các rào cản phi quan thuế của các nước đối với hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam nhằm giúp các doanh nghiệp có thể chủ động ứng phó với các vụ
kiện, giảm thiểu thiệt hại do các vụ kiện về phòng vệ thương mại gây ra.
- Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục chủ trì đàm phán, ký kết các
Hiệp định thương mại tự do (cụ thể là Hiệp định FTA Việt Nam - Israel; Hiệp định FTA
Việt Nam - Cuba, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP), góp phần mở
rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tận dụng hiệu quả các cơ hội thị trường và
các ưu đãi theo các cam kết quốc tế.
Việc mở cửa thị trường thông qua các FTA không chỉ góp phần thu hút, thúc đẩy
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam gia tăng nhanh chóng mà còn tạo điều
kiện cho việc chuyển giao công nghệ từ bên ngoài thông qua sự đầu tư của các công ty
đa quốc gia, nâng cao sự phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng
dụng của Việt Nam.
Thứ tư, về quản lý nhập khẩu
Bộ Công Thương đã và đang tiếp tục chủ động theo dõi sát tình hình nhập khẩu,
kịp thời phát hiện những mặt hàng nhập khẩu gia tăng đột biến và làm rõ nguyên nhân,
18
chủ động tham mưu Chính phủ, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai thực
hiện các biện pháp kịp thời nhằm tăng cường quản lý, kiểm soát phù hợp với cam kết
quốc tế.
b) Đối với diễn biến phức tạp của xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc
Cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc có tác động lên thương mại toàn
cầu, trong đó tác động đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam không chỉ giới
hạn trong quan hệ thương mại trực tiếp với Hoa Kỳ, Trung Quốc mà trên cả các thị
trường thứ ba. Tác động nhìn chung là đa chiều, có cả những thuận lợi, tuy nhiên có thể
nhìn nhận là mặt khó khăn, thách thức cho xuất nhập khẩu của ta là nhiều hơn. Mức độ
ảnh hưởng còn phụ thuộc vào các động thái của Hoa Kỳ và Trung Quốc trong thời gian
tới cũng như về diện mặt hàng cụ thể bị hai bên áp thuế nhập khẩu bổ sung.
Ngay từ cuối tháng 3 khi có thông tin Hoa Kỳ quyết định áp dụng gói biện pháp
nhằm siết chặt thương mại và đầu tư với Trung Quốc căn cứ theo Mục 301 - Đạo luật
Thương mại Hoa Kỳ 1974 và đặc biệt là thời điểm đầu tháng 4 khi Trung Quốc đáp trả
bằng việc tăng thuế 128 mặt hàng có xuất xứ Hoa Kỳ, Bộ Công Thương đã thường
xuyên có báo cáo Thủ tướng Chính phủ cập nhật, đánh giá tình hình, động thái của các
nước và tác động đến nền kinh tế Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ Công Thương đã chỉ đạo thành lập Tổ công tác của Bộ Công Thương
nghiên cứu, đánh giá tác động của xung đột thương mại toàn cầu đến nền kinh tế Việt
Nam. Tổ công tác đã, đang và sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến tình hình thế giới, nhận
định các kịch bản có thể xảy ra; theo dõi, đánh giá động thái của các nước xuất khẩu,
nhập khẩu; đánh giá khả năng, cơ hội xuất khẩu sang các thị trường để kịp thời đề xuất,
tham mưu cho Bộ Công Thương, Chính phủ có các biện pháp ứng phó kịp thời.
Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục theo dõi, kịp thời tham mưu Chính
phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong việc
triển khai các biện pháp: i) Đẩy mạnh các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt
Nam, trong đó có thị trường Hoa Kỳ và Trung Quốc; ii) Tăng cường xúc tiến thương
mại, kết nối với các doanh nghiệp, Hiệp hội tại Hoa Kỳ để đẩy mạnh nhập khẩu các mặt
hàng có thế mạnh, chất lượng cao của Hoa Kỳ, đặc biệt là các mặt hàng Hoa Kỳ bị Trung
Quốc áp thuế nhập khẩu bổ sung, để nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu, công nghệ
phục vụ sản xuất, chế biến, giảm phụ thuộc vào một số thị trường nhập khẩu truyền
thống; iii) Tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chuyển tải bất hợp pháp và tăng cường
quản lý chặt chẽ để hạn chế tình trạng gian lận xuất xứ đối với một số hàng hóa từ các
thị trường khác mượn xuất xứ Việt Nam để xuất sang Hoa Kỳ, đặc biệt chú trọng tới các
mặt hàng trong các danh mục mà Hoa Kỳ áp thuế nhập khẩu bổ sung với hàng hóa Trung
Quốc.
Đối với thị trường trong nước, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục theo dõi sát biến động
của nhập khẩu, tác động đến cung cầu trong nước, đề xuất biện pháp quản lý nhập khẩu,
phòng vệ thương mại trong trường hợp cần thiết để bình ổn thị trường và bảo vệ hợp lý
sản xuất trong nước.

19
12. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ Công Thương chủ trì,
phối hợp với Bộ Xây dựng và các địa phương liên quan tăng cường rà soát, kiểm tra an
toàn, chất lượng hồ chứa, đập thủy điện, gắn trách nhiệm cụ thể trong quá trình vận
hành, điều tiết bảo đảm an toàn hồ đập, an toàn tính mạng và tài sản của người dân,
nhất là vào mùa mưa lũ sắp đến ở các tỉnh duyên hải miền Trung.
Trả lời (Tại CV 353/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội
Khóa XIII về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai
thác công trình thủy điện; Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 18 tháng 02 năm 2014 Ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13,
Bộ Công Thương với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về quản lý an toàn đập,
hồ chứa nước đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng và các địa phương có công trình
thủy điện thực hiện việc kiểm tra, đánh giá về công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây
dựng, quản lý vận hành các công trình thủy điện trên địa bàn cả nước; tổng hợp, báo cáo
Chính phủ tình hình vận hành, quản lý an toàn đập thủy điện theo đúng yêu cầu tại Nghị
quyết số 62/2013/QH13 và Nghị quyết số 11/NQ-CP.
Riêng năm 2018, Bộ Công Thương đã chủ trì và phối hợp với Ủy ban nhân dân
các tỉnh: Gia Lai, Lào Cai, Điện Biên, Lâm Đồng, Quảng Trị, Hà Giang, Đắk Lắk; Tập
đoàn Điện lực Việt Nam thực hiện kiểm tra việc tuân thủ quy định của pháp luật về an
toàn điện và đập, phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường tại 10 công trình thủy điện,
gồm Tà Thàng, Trung Thu, Nậm Mức, Ankroet, Lộc Phát, Bắc Mê, Sông Miện 5A,
Buôn Kuốp, Hòa Phú, Hạ Rào Quán. Đồng thời, Bộ Công Thương đã ban hành Công
văn số 1893/BCT-ATMT ngày 14 tháng 3 năm 2018 chỉ đạo các chủ đập thực hiện công
tác quản lý an toàn đập thủy điện, cập nhật thông tin thủy văn vận hành hồ chứa thủy
điện, giao Sở Công Thương các tỉnh kiểm tra công tác quản lý an toàn đập, vận hành hồ
chứa thủy điện trên địa bàn.
Về việc gắn trách nhiệm cụ thể trong quá trình vận hành, điều tiết bảo đảm an toàn
hồ đập, an toàn tính mạng và tài sản của người dân, hiện nay, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức
trong từng công việc cụ thể về quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa thủy điện như
trách nhiệm thông báo, cảnh báo, truyền tin trước khi vận hành xả lũ; xây dựng, phê
duyệt và thực hiện các phương án phòng chống thiên tai, ứng phó với tình huống khẩn
cấp; quan trắc, kiểm tra, kiểm định đập; rà soát, hiệu chỉnh quy trình vận hành hồ chứa
thủy điện… tổ chức, cá nhân nào trong quá trình quản lý, vận hành hồ chứa thủy điện
nếu không thực hiện đúng trách nhiệm theo quy định, căn cứ vào mức độ vi phạm, hậu
quả của hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật (xử lý hành chính hoặc
hình sự).
13, 17, 27. Cử tri các tỉnh Hậu Giang, Trà Vinh kiến nghị:
Câu số 13
Cây mía là nguồn thu nhập chính của hơn 10.000 hộ nông dân tỉnh Hậu Giang,
diện tích trồng mía trên địa bàn tỉnh khoảng 10580 ha, tập trung chủ yếu tại các huyện

20
Phụng Hiệp, Long Mỹ, thị xã Ngã bảy và thành phố Vị Thanh, có 03 nhà máy sản xuất
nguyên liệu, là cây trồng chủ lực của tỉnh hơn 20 năm qua, người nông dân đã có cuộc
sống ổn định gắn bó với nghề trồng mía nhờ sự hỗ trợ tốt từ các Bộ, ngành và địa
phương. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngành mía đường Việt Nam, cây mía và hạt
đường vẫn chưa có những chính sách tốt như các nước trong khu vực, trong hoàn cảnh
đó ngành mía đường nước ta còn non trẻ và thiếu nhiều cơ chế hỗ trợ, thiếu hành lang
pháp lý nhưng phải đối đầu với hội nhập quốc tế và gian lận thương mại, nông dân
trồng mía và doanh nghiệp mía đường phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Hiện tại lượng đường nhập lậu vào nước ta ước tính hàng năm khoảng 50.000 tấn, chủ
yếu từ các tỉnh giáp biên giới với Campuchia, khi nhập lậu vào nước ta với giá bán rẻ
hơn 1000 đồng/kg. Bên cạnh đó, Chính phủ cho thực hiện việc tạm nhập tái xuất đường
nhưng kiểm soát không tốt dẫn đến lượng đường tạm nhập và lượng đường nhập lậu
được tiêu thụ trong nước rất lớn gây khó khăn cho sản xuất đường trong nước. Đề nghị
Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan và các địa phương đẩy mạnh việc chống
buôn lậu đường trong nước, có chủ trương tạm hoãn việc nhập khẩu đường kể cả việc
tạm nhập tái xuất do lượng đường tồn kho trong nước quá lớn, áp dụng thuế nhập khẩu
và kiểm soát hạn ngạch đối với các chất ngọt thay thế đường, miễn thuế giá trị gia tăng
xuống 0% (mức 5% như hiện nay rất cao) đối với các sản phẩm đường trong nước, có
biện pháp nới lỏng tín dụng và áp dụng lãi suất vay ưu đãi cho người trồng mía, có chủ
trương điều chỉnh giá điện sinh khối và thành lập quỹ phát triển mía đường.
Câu số 27
Tạm hoãn việc nhập khẩu đường kể cả việc tạm nhập, tái xuất do nguồn cung
trong nước đang dư thừa và gian lận thương mại phức tạp.
Câu số 17
Hiện nay xuất khẩu nông sản của Việt Nam năm 2018 sẽ tiếp tục đối diện với
nhiều khó khăn, thách thức mới. Đó là, yêu cầu về chất lượng sản phẩm, chủng loại
hàng hoá, cho thấy xu hướng các nước tăng cường áp dụng các rào cản thương mại và
kỹ thuật đối với nhiều loại nông sản của Việt Nam; chi phí sản xuất (như điện, nước,
nguyên liệu đầu vào) cũng như chi phí vận chuyển đều tăng...Bên cạnh đó việc quy
hoạch vùng sản xuất nông sản chất lượng cao chưa được quan tâm đúng mức, còn tình
trạng tự phát manh mún, nhỏ lẻ chưa được cơ quan quản lý nhà nước hỗ trợ nhiều về
vốn, kỹ thuật, cây con giống... tỷ lệ nông sản, thủy sản đạt chuẩn nhập khẩu theo yêu
cầu còn ít; năng lực tài chính,năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản còn yếu...Nhằm giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân
kiến nghị Chính phủ sớm có chủ trương cho phép lập các sàn giao dịch nông sản tại
nước ngoài nhằm tạo thế cạnh tranh, góp phần vào việc quảng bá thương hiệu sản phẩm
nông sản Việt Nam trên trường quốc tế.
Trả lời (Tại CV 354/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Câu số 13 và 27
Theo đánh giá chung, tổng nhu cầu đường hàng năm trong giai đoạn 2011-2018
dao động ở mức 1,3-1,5 triệu tấn (cho cả sản xuất và tiêu dùng), tăng trưởng trung bình

21
giai đoạn 2011-2018 là 3%, chủ yếu do nhu cầu sử dụng đường làm nguyên liệu của các
doanh nghiệp chế biến sử dụng đường tăng, tốc độ tăng trung bình là 6,1%. Nguồn cung
cấp đường để phục vụ tiêu dùng và sản xuất chủ yếu là từ nguồn cung đường chế biến,
sản xuất trong nước, nguồn đường nhập khẩu chiếm chưa đến 10% tổng nhu cầu sử dụng
đường.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực để đổi mới, tăng cao năng suất, chất lượng
đường, sản xuất đường trong nước hiện nay về cơ bản đã đáp ứng đủ nhu cầu, nhưng
tốc độ đổi mới của ngành sản xuất mía đường còn chậm, ngành còn có nhiều yếu kém,
bất cập về giống mía, đường, năng suất... dẫn đến giá thành cao, hệ thống phân phối
đường cũng còn nhiều bất cập, sức cạnh tranh của ngành đường Việt Nam còn yếu so
với khu vực và thế giới, nhất là so với Thái Lan. Giá thành cao hơn so với giá đường
nhập khẩu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc mặc dù phải trả cho quyền sử dụng hạn
ngạch thuế quan (HNTQ) nhập khẩu đường, nộp 5% thuế nhập khẩu, 5% thuế VAT và
các chi phí liên quan để đưa đường nhập khẩu về kho như chi phí vận chuyển, bốc dỡ...
để nhập khẩu đường nhưng các doanh nghiệp vẫn tham gia các phiên đấu giá HNTQ
nhập khẩu đường.
Để hỗ trợ ngành sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành mía
đường trong tiến trình hội nhập, hạn chế ảnh hưởng đến đời sống của bà con nông dân
trồng mía. Bộ Công Thương đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ
đồng ý tạm dừng thực hiện cam kết xóa bỏ HNTQ mặt hàng đường trong ASEAN đến
hết ngày 31 tháng 12 năm 2019. Tuy nhiên, đây chỉ là phương án tình thế, giúp ngành
mía đường có thêm thời gian để chuẩn bị cho việc cơ cấu lại, tự nâng cao năng lực cạnh
tranh trước khi mở cửa thị trường do theo các khung khổ cam kết đã ký và sắp thực hiện
thì Việt Nam không thể áp dụng các biện pháp hạn ngạch hoặc cấm nhập khẩu được, chỉ
có thể dùng công cụ là hàng rào thuế quan - mặc dù công cụ này cũng sẽ phải giảm theo
lộ trình theo các cam kết hội nhập.
Đối với việc kinh doanh tạm nhập, tái xuất đường thực hiện theo quy định tại Nghị
định số 69/2018/NĐ-CP của Chính phủ (trước đây được thực hiện theo quy định tại
Nghị định số 187/2013/NĐ-CP). Theo đó, đường không phải là mặt hàng cấm kinh
doanh tạm nhập, tái xuất và thương nhân khi kinh doanh tạm nhập, tái xuất đường phải
được cấp Giấy phép kinh doanh tạm nhập, tái xuất. Năm 2018, Bộ Công Thương không
cấp phép cho doanh nghiệp tạm nhập, tái xuất đường. Đồng thời, Bộ Công Thương cũng
đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét gia hạn việc xuất khẩu mặt hàng đường qua
các địa điểm trên địa bàn tỉnh Lào Cai để tạo điều kiện xuất khẩu đường sản xuất trong
nước, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất đường trong tiêu thụ đường
sản xuất trong nước.
Câu số 17
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm
nông, lâm, thủy sản… là chủ trương chung, nhất quán của Chính phủ, đây cũng là một
trong những nội dung quan trọng trong công tác của Bộ Công Thương. Việc lập các sàn
giao dịch nông sản tại nước ngoài để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản, về
mặt pháp lý và các quy định quản lý trong lĩnh vực thương mại điện tử, việc doanh
22
nghiệp Việt Nam hay cá nhân Việt Nam đăng ký mở sàn giao dịch thương mại điện tử
ở nước ngoài hoặc sàn giao dịch nông sản ở nước ngoài không phải xin cấp phép ở Việt
Nam. Việc đăng ký, vận hành sàn giao dịch thương mại điện tử hoặc sàn giao dịch nông
sản ở nước ngoài được thực hiện theo các quy định pháp luật liên quan của nước sở tại.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp trong nước không có đủ nguồn
lực hoặc chưa có kinh nghiệm trong việc phát triển thương mại điện tử ở nước ngoài
(thương mại điện tử xuyên biên giới) thì việc tự xây dựng, vận hành sàn giao dịch thương
mại điện tử, sàn giao dịch nông sản ở nước ngoài là khá phức tạp, đòi hỏi nguồn lực và
vốn đầu tư lớn.
Để có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước tăng cường xuất khẩu nông sản
ra các thị trường nước ngoài thông qua thương mại điện tử xuyên biên giới, ngoài việc
tổ chức nhiều buổi đào tạo, hướng dẫn doanh nghiệp các tỉnh, địa phương phát triển
thương mại điện tử, Bộ Công Thương đã xây dựng một số chương trình, đề án hợp tác
với các sàn giao dịch thương mại điện tử lớn ở nước ngoài, các đối tác nhập khẩu ở nước
ngoài, đồng thời hướng dẫn trực tiếp, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường
xuất khẩu trên nền tảng các chương trình, đề án đã hợp tác. Việc phát triển hàng xuất
khẩu Việt Nam ở nước ngoài một mặt tạo nguồn thu cho doanh nghiệp, tăng thu nhập
cho nông dân, mặt khác góp phần vào việc quảng bá thương hiệu sản phẩm nông sản
Việt Nam ở nước ngoài.
14. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Nghiên cứu đề xuất xây dựng hoặc hướng dẫn
xây dựng các chính sách hỗ trợ tiểu thương kinh doanh tại các chợ đầu tư theo mô hình
xã hội hóa do hiện nay, hoạt động của tiểu thương tại các chợ xã hội hóa gặp nhiều khó
khăn và trên thực tế nhiều địa phương đã có quy định riêng về chính sách hỗ trợ đối với
đối tượng này. Vì vậy, nên xây dựng chính sách chung áp dụng thống nhất trong cả
nước.
Trả lời (Tại CV 355/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc xây dựng, cải tạo, nâng cấp các chợ
(theo quy định tại Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 về phát
triển và quản lý chợ, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 114/2009/NĐ-CP ngày 23
tháng 12 năm 2009), một số tỉnh thông qua cơ chế, chính sách đặc thù, đã khuyến khích,
tạo điều kiện để doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh bỏ vốn đầu tư xây dựng, khai
thác và quản lý chợ, góp phần tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng
thương mại của địa phương. Tuy nhiên, việc chuyển đổi mô hình quản lý chợ nhìn chung
còn chậm. Đế n cuố i năm 2017, cả nước có 8.539 chợ (chợ hạng I là 234 chợ chiếm 3%;
chợ hạng II là 888 chiếm 10% và chợ hạng III là 7.417 chiếm 87%), trong đó 1.337 chợ
do HTX và doanh nghiệp quản lý chợ (chiếm 15,9% trên tổng số chợ cả nước). Các chợ
được chuyển đổi mô hình và thực hiện xã hội hóa được đa phần là các chợ có quy mô
lớn, ở vị trí đắc địa.
Tuy nhiên, do ngân sách đầu tư cho công tác phát triển chợ còn hạn hẹp, các chính
sách của Nhà nước để hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển chợ
còn chưa đồng bộ và hạn chế; các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh của chợ ở mức
thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư, cải tạo chợ... Vì vậy, việc chuyển đổi mô hình,
23
xã hội hoá công tác đầu tư, quản lý, kinh doanh chợ là một xu hướng khách quan và cần
thiết trong quá trình phát triển, phù hợp với chủ trương của Chính phủ. Tuy nhiên, việc
lựa chọn mô hình tổ chức quản lý kinh doanh chợ phải phù hợp với định hướng phát
triển và chính sách hiện hành của nhà nước đối với chợ; phải phù hợp với điều kiện kinh
tế, văn hóa, xã hội của từng địa phương; bảo đảm góp phần phát triển, ổn định lâu dài
và bảo đảm khai thác có hiệu quả đối với hoạt động của chợ.
Về trách nhiệm quản lý nhà nước về chợ đã được quy định cụ thể tại Nghị định số
02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý
chợ, Nghị định số 114/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 02/2003/NĐ-CP. Theo đó, nội dung quản lý nhà nước về chợ cũng như trách
nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương đã được quy định cụ thể tại Chương IV. Cụ thể:
Điểm e, Điều 15, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm “Ban hành các cơ chế, chính
sách và giải pháp nhằm huy động, khai thác các nguồn lực của địa phương, nhất là
nguồn lực của các chủ thể sản xuất kinh doanh và nhân dân trên địa bàn để phát triển
mạng lưới chợ”. Với đặc thù 87% chợ ở nước ta hiện nay là chợ hạng III, trách nhiệm
quản lý chủ yếu thuộc UBND cấp xã, phường.
Về phía Bộ Công Thương đã thường xuyên quan tâm, lồng ghép thông qua các
Chương trình, Đề án để triển khai các hoạt động hỗ trợ cho các hộ kinh doanh tại chợ.
Cụ thể:
- Thực hiện Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển thương mại nông thôn: Giai đoạn 2016-2020: từ
năm 2016 tới nay đã triển khai đào tạo được khoảng 3.000 học viên là hộ kinh doanh tại
chợ (mục tiêu đặt ra là đào tạo 6.000 hộ). Các học viên được trang bị những kiến thức
cơ bản về cơ chế, chính sách của Nhà nước về phát triển và quản lý chợ, chính sách đối
với thương nhân nói chung và các hộ kinh doanh nói riêng; quy định về công tác bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, phòng cháy, chữa cháy; kiến thức
về quản trị kinh doanh và kiến thức cơ bản về xúc tiến thương mại.
- Thực hiện Chương trình Mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016-2020: Bộ Công
Thương đã đề xuất và triển khai nhiệm vụ “Tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm
cho các hộ kinh doanh thực phẩm tại chợ”. Từ năm 2016 tới nay Bộ đã tổ chức được 60
lớp bồi dưỡng kiến thức về an toàn thực phẩm tại hơn 20 tỉnh cho khoảng 6.000 hộ kinh
doanh tại chợ. Các học viên đã được bồi dưỡng kiến thức an toàn thực phẩm tại chợ, cập
nhật các quy định của nhà nước về quản lý an toàn thực phẩm nhằm góp phần nâng cao
nhận thức, ngăn ngừa tình trạng ô nhiễm trong bảo đảm an toàn thực phẩm tại chợ.
Ngoài ra, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 12070/VPCP
ngày 11 tháng 11 năm 2017 của Văn phòng Chính phủ, Bộ Công Thương hiện đang phối
hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan rà soát, đánh giá việc thực
hiện các Nghị định số 02/2003/NĐ- CP và Nghị định số 114/2009/NĐ-CP về phát triển
và quản lý chợ, đồng thời đề xuất phương án xây dựng Nghị định thay thế các Nghị định
(nêu trên) nhằm tháo gỡ các khó khăn vướng mắc và tạo điều kiện phát triển hệ thống
chợ trên toàn quốc.

24
15. Cử tri Tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Để tạo điều kiện thuận lợi phát triển nguồn
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, ít gây ảnh hưởng đến môi trường và hệ sinh thái
tự nhiên trên địa bàn tỉnh; đảm bảo ổn định môi trường và chính sách kêu gọi, thu hút
đầu tư và các quy định của pháp luật, đề nghị Bộ Công Thương, Thủ tướng Chính phủ
xem xét điều chỉnh các quy định liên quan theo hướng phân cấp cho các địa phương
thẩm quyền thẩm định, phê duyệt điều chỉnh, bổ sung vào quy hoạch phát triển điện lực
tỉnh các dự án điện năng lượng tái tạo trên địa bàn có quy mô công suất nhỏ (dưới 5
MW) hoặc dự án được đấu nối vào lưới trung áp của tỉnh.
Trả lời (Tại CV 356/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Để tạo điều kiện thuận lợi phát triển nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, ít
gây ảnh hưởng đến môi và kêu gọi, thu hút đầu tư trong lĩnh vực này, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2017 về cơ chế
hỗ trợ phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam và Quyết định số 39/2018/QĐ-
TTg ngày 10 tháng 09 năm 2018 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
37/2011/QĐ-TTg ngày 29 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ
phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam về cơ chế hỗ trợ các dự án điện gió tại Việt
Nam.
Do đặc thù các dự án năng lượng tái tạo phụ thuộc vào thời tiết, độ tin cậy cung
cấp điện không cao nên việc đấu nối các nhà máy vào lưới điện trung áp của địa phương
sẽ dẫn đến chất lượng điện áp, điện năng, dao động điện áp, dao động tần số không đảm
bảo theo quy định. Bên cạnh đó việc tập trung nhiều nhà máy có quy mô nhỏ tại một địa
điểm sẽ gây áp lực truyền tải công suất cục bộ lên lưới điện khu vực dự án. Do vậy, việc
phân cấp cho các địa phương thẩm quyền thẩm định, phê duyệt điều chỉnh, bổ sung vào
quy hoạch phát triển điện lực tỉnh các dự án điện năng lượng tái tạo trên địa bàn có quy
mô công suất nhỏ hoặc dự án được đấu nối vào lưới trung áp của địa phương là chưa
khả thi.
Trên đây là trả lời của Bộ Công Thương đối với kiến nghị của cử tri Tỉnh Hà Tĩnh,
trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Hà Tĩnh để trả lời cử tri./.
19, 20. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị:
Câu số 19:
Sau hơn 01 năm thực hiện Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của
Chính phủ về quản lý, phát triển cụm công nghiệp, đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng
mắc, ảnh hưởng đến công tác quản lý và phát triển cụm công nghiệp ở các địa phương,
như: các nội dung về quy hoạch phát triển CCN không phù hợp với Luật Quy hoạch mới
ban hành; chưa quy định cụ thể tiêu chí lựa chọn chủ đầu tư khi có nhiều doanh nghiệp,
hợp tác xã đề nghị làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; trường hợp địa bàn
cấp huyện đã thành lập CCN, muốn thành lập thêm CCN thì tỷ lệ lấp đầy trung bình của
các CCN phải đạt trên 50% hoặc tổng quỹ đất công nghiệp chưa cho thuê của các CCN
nhỏ hơn 50 ha; điều kiện ưu đãi, hỗ trợ đối với CCN làng nghề là tỷ lệ đăng ký lấp đầy
trên 80%, trong đó trên 60% của doanh nghiệp và hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất
hộ gia đình, cá nhân trong làng nghề, gây khó khăn cho nhà đầu tư hạ tầng CCN trong

25
việc vay vốn tín dụng của nhà nước do nguồn vốn này được thực hiện trong giai đoạn
đầu tư hạ tầng CCN, chưa đảm bảo tỷ lệ lấp đầy theo quy định nêu trên. Vì vậy, đề nghị
xem xét, sửa đổi các nội dung trên theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương
tổ chức thực hiện.
Câu 20
Rà soát, sửa đổi, ban hành các văn bản pháp luật cho phù hợp với quy định của
Bộ luật Hình sự 2015 như sửa đổi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy
định việc xử lý hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu.
Trả lời (Tại CV 357/BCT-KH ngày 15/01/2019)
1. Về thực hiện Nghị định số 68/2017/NĐ-CP
Để nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả phát triển cụm công nghiệp (CCN), ngày
25 tháng 5 năm 2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2017/NĐ-CP về quản lý,
phát triển CCN. Theo đó, bên cạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý quản lý CCN,
Nghị định 68/2017/NĐ-CP đã bổ sung thêm chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển CCN;
phân định rõ trách nhiệm quản lý của các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh; quy định giải
quyết các thủ tục triển khai dự án đầu tư hạ tầng và dự án đầu tư vào CCN theo nguyên
tắc đầu mối và cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Trong thời gian hơn 01 năm Nghị định được áp dụng đã đạt được những kết quả
nhất định như: chất lượng thu hút các dự án/doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, đầu tư sản
xuất vào trong CCN được nâng cao hơn; công tác quản lý CCN được nhận thức đúng
mức, thực hiện theo trình tự, quy định của pháp luật. Qua đó, thúc đẩy nhanh chóng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của các địa phương, nâng cao hiệu lực quản
lý, hiệu quả đầu tư phát triển CCN, hạn chế phát triển CCN tràn làn như trước đây.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai một số nội dung của Nghị định, các địa
phương đang gặp lúng túng, vướng mắc như: (1) Quy định về lập, thẩm định, phê duyệt
quy hoạch phát triển CCN nay không còn phù hợp với Luật Quy hoạch; (2) Việc lựa
chọn chủ đầu tư hạ tầng CCN khi có nhiều doanh nghiệp đăng ký làm chủ đầu tư cần
được hướng dẫn cụ thể hơn; (3) việc thành lập Ban quản lý CCN cấp huyện đối với các
CCN không có doanh nghiệp làm chủ đầu tư hạ tầng trong giai đoạn hiện nay gặp khó
khăn; (4) việc chuyển giao chủ đầu tư hạ tầng CCN có vốn đầu tư từ ngân sách sang
doanh nghiệp quản lý cần có hướng dẫn để các địa phương thực hiện,…
Về ý kiến của cử tri, Bộ Công Thương cho rằng, việc quy định tỷ lệ lấp đầy trung
bình của các CCN phải đạt trên 50% hoặc tổng quỹ đất công nghiệp chưa cho thuê của
các CCN phải nhỏ hơn 50 ha là nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng đất cũng như hiệu quả
đầu tư hạ tầng CCN. Quy định tỷ lệ đăng ký lấp đầy trên 80%, trong đó trên 60% của
doanh nghiệp và hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất hộ gia đình, cá nhân trong làng
nghề nhằm đảm bảo: (1) hiệu quả đầu tư hạ tầng CCN làng nghề; (2) chính sách ưu đãi,
hỗ trợ CCN làng nghề chủ yếu áp dụng cho các doanh nghiệp/cơ sở sản xuất của làng
nghề (không khuyến khích thu hút, di dời các doanh nghiệp/cơ sở sản xuất từ nơi khác
đến CCN làng nghề); (3) Việc xem xét thụ hưởng các ưu đãi, hỗ trợ đối với CCN làng
nghề sẽ thực hiện ngay khi UBND cấp huyện xác nhận đăng ký của các doanh nghiệp/cơ
26
sở sản xuất của làng nghề. Trong quá trình xây dựng Nghị định, các quy định này đã
được Chính phủ cân nhắc, tính toán kỹ đến yếu tố vùng, miền cả nước và cần phải có
mức cụ thể để thống nhất quản lý. Qua theo dõi, tổng hợp ở các địa phương khác cho
thấy, các quy định này đang phát huy tốt, chưa thấy vướng mắc.
Thực hiện trách nhiệm của mình, hiện nay Bộ Công Thương đã phối hợp với các
Bộ, ngành, địa phương hoàn thành báo cáo kết quả đánh giá 1 năm thực hiện Nghị định,
trong đó đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định
68/2017/NĐ-CP trong năm 2019, cho phù hợp Luật Quy hoạch và yêu cầu quản lý CCN
hiện nay.
2. Về sửa đổi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP
Để bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước
mới được ban hành trong giai đoạn vừa qua, hiện nay Bộ Công Thương đang chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Nghị
định thay thế Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 124/2015/NĐ-
CP ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 185/2013/NĐ-CP. Dự kiến Nghị định trên sẽ trình Chính phủ vào tháng 6 năm
2019.
21. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị: Điểm b, Khoản 1, Điều 190, 191, Bộ luật Hình
sự năm 2015 quy định định lượng đối với thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới
3.000 bao thì bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày
19/11/2015 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định hành vi buôn bán hàng cấm
là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 500 bao trở lên thì chuyển hồ sơ xử lý hình sự;
do chưa thống nhất về định lượng nên việc xử lý hình sự đối với các đối tượng sản xuất,
buôn bán, tàng trữ, vận chuyển thuốc lá nhập lậu còn khó khăn. Đề nghị Chính phủ sửa
đổi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP cho phù hợp với Bộ luật hình sự.
Trả lời (Tại CV 358/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Để bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước
mới được ban hành trong giai đoạn vừa qua, hiện nay Bộ Công Thương đang chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Nghị
định thay thế Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 124/2015/NĐ-
CP ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 185/2013/NĐ-CP. Dự kiến Nghị định trên sẽ trình Chính phủ vào tháng 6 năm
2019.

27
22. Cử tri Thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri đề nghị cho biết tiến độ, kết quả
xử lý 12 dự án có giá trị ngàn tỷ thua lỗ đến nay như thế nào.
Trả lời (Tại CV 359/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Sau gần 2 năm thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và hơn 1 năm thực hiện Đề án
xử lý các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương
theo Quyết định 1468/QDD-TTg ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ
cho thấy:
- Công tác chỉ đạo xử lý tồn tại, yếu kém ở các dự án, doanh nghiệp đã được thực
hiện thống nhất, đồng bộ, bảo đảm bám sát quan điểm, mục tiêu, nội dung chỉ đạo của
Bộ Chính trị và phương án, giải pháp xử lý các dự án, doanh nghiệp theo Đề án được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Các giải pháp xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án, doanh
nghiệp đã được triển khai thực hiện một cách tổng thể, toàn diện. Cùng với việc xử lý
các vấn đề về tài chính, quản trị, thị trường, hỗ trợ pháp lý, khoa học công nghệ, các vấn
đề về lao động việc làm, ổn định xã hội, bảo đảm môi trường, an ninh - quốc phòng đã
được tính tới để xử lý, qua đó tới nay đã tạo được những chuyển biến tích cực.
- Các dự án đi vào hoạt động đã bảo đảm duy trì việc làm và đời sống cho hàng
nghìn lao động, góp phần ổn định chính trị - xã hội tại địa phương, đồng thời tạo tiền đề
quan trọng cho việc thực hiện xử lý dứt điểm và có hiệu quả các dự án trong thời gian
tới theo kế hoạch và lộ trình đề ra, trong đó:
+ Trong số 6 nhà máy trước đây có hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thua lỗ
thì đến nay đã có 2 nhà máy hoạt động sản xuất kinh doanh bước đầu có lãi là Nhà máy
sản xuất phân bón DAP số 1 - Hải Phòng và Nhà máy thép Việt - Trung.
+ Trong số 3 dự án trước đây bị dừng sản xuất kinh doanh đến nay đã có 2 dự án
vận hành sản xuất trở lại (Dự án Nhà máy sản xuất xơ sợi polyester Đình Vũ và Dự án
nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Quảng Ngãi). Còn lại Dự án Nhà máy sản xuất
nhiên liệu sinh học Bình Phước cũng đã xử lý xong các khâu liên quan và sẵn sàng khởi
động để vận hành thương mại ngay khi thị trường thuận lợi.
- Việc xử lý các dự án đã bảo đảm thực hiện theo đúng nguyên tắc của cơ chế thị
trường; tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; Nhà nước không cấp thêm vốn
vào các dự án, đồng thời Chính phủ và Ban Chỉ đạo của Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện
việc rút thành công 1.000 tỷ đồng từ phần vốn góp của SCIC vào Dự án mở rộng sản
xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên.
- Một số vấn đề phức tạp, khó giải quyết về pháp lý ở các dự án cũng đã được các
đơn vị tập trung xử lý có hiệu quả, điển hình là việc hoàn tất đàm phán và ký kết chính
thức Hợp đồng liên doanh, Điều lệ liên doanh sửa đổi và qui định đề cử chức danh Tổng
Giám đốc ở Dự án Nhà máy thép Việt Trung vào tháng 12 năm 2017 sau một thời gian
dài bế tắc; Dự án nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ đã xử lý xong vấn đề tranh chấp
thực hiện Hợp đồng EPC với liên danh nhà thầu EPC (đứng đầu là Nhà thầu là Công ty
Xây dựng Hyundai (HEC)) và đã ký thỏa thuận hòa giải. Hiện hai bên đang hoàn tất quá
trình hòa giải tại Trọng tài quốc tế Singapore và Trung tâm hòa giải Việt Nam.
28
Trong thời gian tới, để đảm bảo thực hiện các phương án, lộ trình xử lý các dự án,
doanh nghiệp đã được phê duyệt tại Quyết định 1468/QDD-TTg ngày 29 tháng 9 năm
2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án xử lý các dự án, doanh nghiệp chậm
tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương, Bộ Công Thương sẽ cùng với các Bộ,
ngành và đơn vị liên quan theo chức năng nhiệm vụ được giao và theo phân công của
Ban Chỉ đạo, tiếp tục tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Trên đây là trả lời của Bộ Công Thương đối với kiến nghị của cử tri Thành phố Đà
Nẵng, trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Đà Nẵng để trả lời cử tri./.
25. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị có cơ chế phù hợp về giá khí và
nguồn khí phù hợp cho PVFCCo để mang lại hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
doanh trong dài hạn, tạo thuận lợi cho công tác thoái vốn của PVN tại PVFCCo theo
lộ trình.
Trả lời (Tại CV 361/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Hiện nay ở nước ta có 2 Nhà máy đạm sử dụng khí thiên nhiên là Nhà máy đạm
Phú Mỹ (vận hành từ năm 2004) và Nhà máy đạm Cà Mau (vận hành từ năm 2012). Cả
2 Nhà máy đều có công suất 800.000 tấn urê/năm và tiêu thụ khoảng 500 triệu m3
khí/năm. Hiện nay, Tổng công ty cổ phần Phân bón và Hóa chất dầu khí (PVFCCo)
quản lý, vận hành Nhà máy đạm Phú Mỹ và Công ty cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau
(PVCFC) quản lý, vận hành Nhà máy Cà Mau đều là các công ty cổ phần, hoạt động
theo Luật doanh nghiệp.
Quan điểm điều hành của Chính phủ và Bộ Công Thương đối với nguồn khí và giá
khí bán cho các nhà máy đạm là tuân thủ quy luật thị trường, theo thông lệ quốc tế, có
sự quản lý của Nhà nước, trên nguyên tắc minh bạch, công bằng đối với các hộ tiêu thụ
điện và đạm.
26. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Tăng cường công tác chống buôn lậu đường
tại các tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia vì nơi đây nạn buôn lậu đường
diễn biến rất phức tạp.
Trả lời (Tại CV 362/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Xác định hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến phát triển kinh tế, an ninh trật tự và an toàn xã hội nên ngay từ năm
2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 41/NQ-CP về đẩy mạnh công
tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới. Theo
đó, Chính phủ đã phân công cụ thể nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện,
đây là văn bản thể hiện quyết tâm chính trị cao và có tính toàn diện của Chính phủ nhằm
đẩy lùi vấn nạn buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, các Bộ ngành, địa
phương đã xây dựng kế hoạch thực hiện, bên cạnh đó, công tác kiểm tra, đôn đốc giám
sát việc thực hiện các chỉ đạo của cấp trên về công tác chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả trong tình hình mới được thực hiện thường xuyên, liên tục. Các vụ việc
phức tạp, nổi cộm đã được đồng chí Trưởng ban Chỉ đạo 389 quốc gia tổ chức các cuộc

29
họp đột xuất để chỉ đạo các cơ quan liên quan giải quyết kịp thời, đáp ứng yêu cầu rõ
ràng, minh bạch của người dân và dư luận xã hội.
Trong thời gian qua, Bô ̣ Công Thương đã ban hành kịp thời các Chỉ thị, Kế hoạch,
văn bản chỉ đạo về tăng cường kiể m tra, kiể m soát, xử lý nghiêm các hành vi vi pha ̣m
nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, trong đó, riêng năm
2018 đã ban hành các văn bản như: Quyết định số 334/QĐ-BCT về đấu tranh phòng,
chống các hành vi vi phạm trong sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo xuất xứ tại các
địa bàn trọng điểm đến hết năm 2020; Kế hoạch số 2915/KH-BCĐ389 về công tác đấu
tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả năm 2018; văn bản số 5492/BCT-
QLTT chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện các loại hàng hoá nhập
khẩu, hàng không rõ nguồn gốc; văn bản chỉ đạo triển khai Kế hoạch 454/KH-BCĐ của
Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia về mở đợt cao điểm chống buôn lậu, gian lận thương mại và
hàng giả trước, trong và sau Tết nguyên đán Kỷ Hợi 2019...
Lực lượng Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố đã nghiêm túc quán triê ̣t các chỉ
đa ̣o của cấp trên, kịp thời xây dựng và triển khai phương án, kế hoạch kiểm tra, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm; đã làm tốt công tác quản lý địa bàn, chú trọng kiểm tra, xử
lý các vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Kết hợp với công tác kiểm tra,
xử lý vi phạm, lực lượng Quản lý thị trường tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, triển
khai cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh ký cam kết không kinh doanh hàng giả, hàng
nhập lậu, hàng kém chất lượng; đồng thời, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân đã thực
hiện việc ký cam kết nhưng vẫn vi phạm. Kết quả, riêng năm 2018, lực lượng Quản lý
thị trường cả nước kiểm tra 155.583 vụ; phát hiê ̣n, xử lý 91.867 vụ vi phạm; thu nộp
ngân sách nhà nước 490,27 tỷ đồng.
Trong thời gian tới, để xử lý có hiệu quả hơn tình trạng buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả, trong đó có hành vi kinh doanh mặt hàng đường nhập lậu, Bộ Công
Thương cùng các Bộ ngành, địa phương sẽ chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng cường
kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Xác định những nội dung trọng
tâm là:
- Chỉ đạo thực hiện khẩn trương, nghiêm túc, triệt để các chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia về công tác chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả.
- Chỉ đạo các lực lượng chức năng tích cực chủ động phối hợp xây dựng, triển khai
đồng bộ các phương án, chuyên đề, kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát
thị trường, đặc biệt là Bộ đội biên phòng, Hải quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát, ngăn
chặn hàng lậu, hàng giả ngay từ tuyến biên giới đường biển và đường bộ; kiên quyết xử
lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm; thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo để có
thông tin kịp thời, chính xác phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành; tổ chức kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện các chương trình, kế hoạch để rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp
đấu tranh phù hợp với tình hình thực tiễn.
- Tiếp tục chỉ đạo rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật, cơ chế chính sách liên quan đến công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và

30
hàng giả, bảo đảm tính khả thi và theo sát với tình hình thực tế; tạo thuận lợi cho các lực
lượng chức năng trong thực thi nhiệm vụ.
- Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, phòng chống các biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng của công chức thực thi; khen thưởng, động viên, nêu gương kịp thời đối với tập
thể, cá nhân có thành tích, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, bao che,
tiếp tay cho buôn lậu.
- Đề cao vai trò, trách nhiê ̣m của người đứng đầ u; xem xét, xử lý trách nhiệm người
đứng đầu, lãnh đạo, cơ quan chức năng và công chức trực tiếp quản lý địa bàn nếu để
xảy ra buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả phức tạp, nghiêm trọng kéo dài, gây
bức xúc trong nhân dân mà không có giải pháp khắc phục kiên quyết, hiệu quả.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho mọi
đối tượng, biến nhận thức về chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại thành ý
thức tự giác thường trực và hành động cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp,
mỗi người dân; đồng thời, công khai kết quả xử lý vi phạm trên phương tiện thông tin
đại chúng cho người dân biết.
28. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị ban hành Thông tư hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ, quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm; Thông tư hướng dẫn Nghị định số
87/2018/NĐ-CP ngày 15/6/2015 của Chính phủ về kinh doanh khí.
Trả lời (Tại CV 363/BCT-KH ngày 15/01/2019)
- Về Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng
02 năm 2018 của Chính phủ hướng dẫn Luật An toàn thực phẩm, Bộ Công Thương đã
ban hành Thông tư số 43/2018/TT-BCT ngày 15 tháng 11 năm 2018 quy định về quản
lý an toàn thực phẩm thuộc trách nhiệm của Bộ Công Thương.
- Về Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 87/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng
6 năm 2015 của Chính phủ về kinh doanh khí: Hiện nay, Bộ Công Thương đang xây
dựng Thông tư ban hành chương trình, nội dung huấn luyện kỹ thuật an toàn trong hoạt
động kinh doanh khí (dự kiến ban hành trong Quý I năm 2019).
29. Cử tri Tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
31/2016/QH14 về dừng thực hiện chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận
từ cuối năm 2016 nhưng đến nay các Quyết định về quy hoạch địa điểm xây dựng các
nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận vẫn còn hiệu lực đang ảnh hưởng nhiều đến việc ổn
định sản xuất và đời sống của người dân vùng quy hoạch dự án điện hạt nhân. Đề nghị
Bộ Công Thương sớm thu hồi các Quyết định về quy hoạch các địa điểm xây dựng nhà
máy điện hạt nhân Ninh Thuận của Bộ như: Quyết định số 3849/QĐ-BCT; Quyết định
số 3850/QĐ-BCT phê duyệt quy hoạch địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh
Thuận 1, 2 và điều chỉnh tại Quyết định số 6070/QĐ-BCT ngày 17/6/2015.
Trả lời (Tại CV 364/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 416/TB-VPCP ngày
26 tháng 10 năm 2018 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ

31
tại buổi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận, trong đó giao Bộ Công Thương hủy
Quyết định số 6070/QĐ-BCT ngày 20 tháng 7 năm 2010 quy hoạch địa điểm xây dựng
Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2. Về vấn đề này, Bộ Công Thương đã có Văn
bản số 1030/BCT-ĐL ngày 4 tháng 12 năm 2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ với nội
dung như sau:
1. Về mặt pháp lý, Bộ Công Thương phê duyệt Quyết định số 6070/QĐ-BCT điều
chỉnh một số nội dung tại các Quyết định phê duyệt quy hoạch địa điểm các dự án nhà
máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 (gồm các Quyết định số 3849/QĐ-BCT và
3850/QĐ-BCT được ban hành cùng ngày 20 tháng 7 năm 2010). Theo đó, các quy hoạch
nói trên được phê duyệt trên cơ sở định hướng quy hoạch phát triển điện hạt nhân của
Việt Nam giai đoạn đến năm 2030 (Quyết định số 906/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm
2010) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó có nêu cụ thể các địa điểm Dự
án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2. Do vậy, khi hủy Quyết định số 6070/QĐ-BCT, cần
có chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về hiệu lực của Quyết định số 906/QĐ-TTg ngày
17 tháng 6 năm 2010.
2. Về các chỉ đạo liên quan khác của Chính phủ, theo Thông báo số 7191/VPCP-
CN ngày 10 tháng 7 năm 2017 của Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình
Dũng đã chỉ đạo Bộ Công Thương: "yêu cầu xem xét kỹ về chuyển đổi mặt bằng quy
hoạch địa điểm cho các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 để phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương nhưng thuận lợi cho việc thu hồi khi thực hiện các dự
án quan trọng quốc gia". Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng, ngày 25 tháng 7 năm
2017, Bộ Công Thương đã có Văn bản số 6624/BCT-TCNL đề nghị UBND tỉnh Ninh
Thuận xem xét kỹ và có đề xuất cụ thể về chuyển đổi mặt bằng quy hoạch địa điểm theo
chỉ đạo của Phó Thủ tướng, tuy nhiên, đến nay UBND tỉnh Ninh Thuận vẫn chưa có đề
xuất phương án cụ thể.
3. Để tiếp tục triển khai thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ Công Thương đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ:
- Lùi thời gian thực hiện hủy Quyết định 6070/QĐ-BCT và các quyết định liên
quan đến quy hoạch địa điểm xây dựng điện hạt nhân Ninh Thuận đến thời điểm thích
hợp, để Ban công tác liên ngành tiếp tục làm việc và xử lý các thông tin với đói tác Nga
và Nhật Bản.
- Giao UBND tỉnh Ninh Thuận lập Đề án chuyển đổi mặt bằng, mục đích sử dụng
đất cho các dự án để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhưng cần
phù hợp, thuận lợi cho việc thu hồi khi thực hiện các dự án quan trọng quốc gia; Bộ Kế
hoạch và đầu tư chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan thẩm định Đề án, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ trước ngày 30 tháng 12 năm 2018 như nhiệm vụ đã được giao tại
Thông báo số 416/TB-VPCP ngày 26 tháng 10 năm 2018.
30. Cử tri Tỉnh Sóc Trăng kiến nghị: Cử tri đề nghị sớm triển khai thực hiện Dự
án điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Sóc Trăng, thuộc chương trình cấp điện
nông thôn, miền núi, hải đảo theo Quyết định số 2081/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của
Thủ tướng Chính phủ.

32
Trả lời (Tại CV 365/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Dự án điện nông thôn tỉnh Sóc Trăng giao Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)
làm chủ đầu tư theo Quyết định số 2081/QĐ-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2013 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình cấp điện nông thôn, miền núi và hải đảo
giai đoạn 2013 -2020. Ngày 30 tháng 10 năm 2015, Bộ Công Thương phê duyệt Báo
cáo nghiên cứu khả thi tại Quyết định số 11830/QĐ-BCT với mục tiêu cấp điện cho
12.063 hộ dân nông thôn thuộc 274 thôn ấp của 80 xã trong 9 huyện, quy mô đầu tư:
491 trạm biến áp, 400 km đường dây trung thế và 575 km đường dây hạ thế với tổng
vốn khoảng 425 tỷ đồng thực hiện theo cơ chế 85% Ngân sách Trung ương 15% vốn
của chủ đầu tư. Một số kết quả đạt được như sau:
- Giai đoạn 2013 - 2015: Cùng với các dự án khác trong Chương trình “Cấp điện
nông thôn, miền núi và hải đảo giai đoạn 2015-2020” với kế hoạch giao vốn trung hạn
rất hạn chế từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho EVN, nên EVN chỉ bố trí vốn cho mức ưu
tiên là các đảo, xã đảo và các xã (gồm: Đảo Lý Sơn, Cù Lao Chàm), triển khai cấp điện
cho các xã (24/40 xã) chưa có điện lưới quốc gia và một số thôn bản đặc biệt khó khăn
vùng sâu vùng xa biên giới.
- Giai đoạn 2016 - 2020: Triển khai thực hiện Nghị quyết số 73/NQ-CP ngày 26
tháng 8 năm 2016 của Chính phủ về phê duyệt chủ trương đầu tư các Chương trình mục
tiêu giai đoạn 2016-2020, Bộ Công Thương đã lập Báo cáo nghiên cứu khả thi cho
Chương trình, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1740/QĐ-TTg ngày 13
tháng 12 năm 2018. Theo đó nguồn lực triển khai như sau:
+ Vốn Chương trình NSTW cân đối khoảng 15,4%;
+ Phần chưa cân đối được: Theo Quyết định phê duyệt số 1740/QĐ-TTg ngày 13
tháng 12 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu Cấp điện nông
thôn, miền núi và hải đảo giai đoạn 2016 - 2020. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công
Thương phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trong việc vận động các
nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài để thực hiện Chương
trình. Theo đó, Bộ Công Thương đã làm việc với Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
và Ngân hàng Thế giới (WB) để triển khai Chương trình. Trường hợp được các cấp có
thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở các cam kết cho vay ưu đãi của nhà tài trợ như trên,
Chương trình sẽ đáp ứng đủ 100% nhu cầu vốn để thực hiện Chương trình, trong đó có
Dự án cấp điện nông thôn của tỉnh Sóc Trăng. Đến nay, tiến độ triển khai như sau:
(1) Vốn vay ADB: Thực hiện Văn bản số 3169/VPCP-QHQT ngày 03 tháng 4 năm
2017 của Văn phòng Chính phủ về phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án “Hỗ trợ kỹ thuật
(HTKT) kèm theo Dự án vốn vay Cấp điện nông thôn, miền núi, hải đảo” vốn vay ưu
đãi ADB giai đoạn 1 để vay khoảng 11.933 tỷ đồng (tương đương khoảng 475 triệu
USD), ngày 12 tháng 5 năm 2017, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số
1691/QĐ-BCT về phê duyệt Văn kiện Dự án HTKT, trên cơ sở kết quả của Dự án
HTKT, Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định về điều kiện
và thủ tục vay vốn ADB cho Chương trình;

33
(2) Vốn vay WB: Bộ Công Thương đang làm việc với WB để xem xét khoản vay
cho Chương trình theo các điều kiện của WB khoảng 9.923 tỷ đồng (tương đương
khoảng 431 triệu USD).
Trên đây là trả lời của Bộ Công Thương đối với kiến nghị của cử tri Tỉnh Sóc
Trăng, trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Sóc Trăng để trả lời cử tri./.
31. Cử tri Tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị: Tính đến năm 2018, Thừa Thiên Huế
đã có 05 dự án điện mặt trời trình Bộ Công Thương thẩm định bổ sung quy hoạch phát
triển điện lực cấp tỉnh. Đến nay, đã có 02 dự án được thẩm định, bổ sung quy hoạch và
đang triển khai các thủ tục tiếp theo, dự kiến phát điện vào đầu năm 2019. Đây là các
dự án quan trọng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, phù hợp với điều kiện tự nhiên các
tỉnh duyên hải miền Trung, có khả năng đóng góp nguồn thu ngân sách từ năm 2019.
Theo Công văn số 3970/BCT-ĐL ngày 21/5/2018 của Bộ Công Thương thì hiện nay tạm
dừng thẩm định bổ sung quy hoạch các dự án điện mặt trời; như vậy khả năng đưa các
dự án điện mặt trời vào vận hành phát điện trước 30/6/2019 theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại Quyết định 11/2017/QĐ-TTg sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy kính đề nghị
Bộ Công Thương sớm hoàn thành thẩm định, phê duyệt bổ sung 03 dự án còn lại đã
trình Bộ Công Thương (02 dự án nhà máy điện mặt trời Phong Hòa và nhà máy điện
mặt trời Điền Môn đã được Cục ĐL&NLTT tổ chức thẩm định nhưng chưa được Bộ
Công Thương phê duyệt; dự án nhà máy điện mặt trời Phú Lộc đã trình Bộ nhưng chưa
được thẩm định) vào Quy hoạch phát triển điện lực Thừa Thiên Huế giai đoạn 2016-
2025 có xét đến năm 2035, tạo điều kiện phát triển kinh tế cho tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trả lời (Tại CV 366/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Thực hiện Thông báo số 174/TB-VPCP ngày 10 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng
Chính phủ và các Thông báo liên quan, Bộ Công Thương không được tiếp tục thẩm định
bổ sung quy hoạch các dự án điện mặt trời (ĐMT) riêng lẻ mà không có ý kiến của Thủ
tướng Chính phủ. Do vậy, Bộ Công Thương đã xây dựng Danh mục các dự án ĐMT và
đã trình Thủ tướng Chính phủ trình thẩm định tại các văn bản số 4614/BCT-ĐL ngày
11 tháng 6 năm 2018 và Văn bản số 7641/BCT-ĐL ngày 20 tháng 9 năm 2018. Hiện
nay, Bộ Công Thương đang chờ ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đối với danh mục dự
án được xem xét phê duyệt bổ sung quy hoạch.
32. Cử tri Tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Đề nghị điều chỉnh quy hoạch thuỷ điện
hợp lý để đảm bảo diện tích rừng đầu nguồn, quan tâm đến việc canh tác, định canh,
định cư của người dân tại các vùng thực hiện thủy điện; Kiểm tra chặt chẽ công tác
quản lý, vận hành các thủy điện để không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân,
nhất là trong việc xả lũ; Dừng việc khảo sát thiết kế xây dựng thủy điện Nam Động 1 và
Nam Động 2 vì mức độ ảnh hưởng đến đời sống nhân dân vùng ven sông quá lớn, như:
mất diện tích đất sản xuất, diện tích rừng bị chặt phá, nhiều công trình công cộng bị
ngập, ảnh hưởng lớn đến khu bảo tồn thiên nhiên hạt trần quý hiếm Nam Động, nguy
cơ mất an toàn vùng hạ lưu.
Trả lời (Tại CV 367/BCT-KH ngày 15/01/2019)

34
1. Về điều chỉnh quy hoạch thuỷ điện hợp lý để đảm bảo diện tích rừng đầu nguồn,
quan tâm đến việc canh tác, định canh, định cư của người dân tại các vùng thực hiện
thủy điện: Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương phối hợp với UBND các
tỉnh rà soát lại quy hoạch thủy điện, kiên quyết loại khỏi quy hoạch các dự án thủy điện
(DATĐ) chiếm nhiều diện tích đất hoặc có ảnh hưởng lớn đến môi trường, kinh tế, xã
hội và đã có báo cáo kết quả trước Quốc hội tại các Kỳ họp Quốc hội khóa XIII và khóa
XIV. Hiện nay Chính phủ đang tiếp tục chỉ đạo Bộ Công Thương phối hợp tốt hơn nữa
với UBND các tỉnh có DATĐ để rà soát, đánh giá công tác quản lý quy hoạch và đầu tư
xây dựng các DATĐ theo tiêu chí đặt ra. Tính đến thời điểm hiện nay, Bộ Công Thương
và UBND các tỉnh đã thống nhất loại khỏi quy hoạch 474 DATĐ và 213 địa điểm tiềm
năng có ảnh hưởng lớn đến môi trường - xã hội. Thời gian gần đây, Bộ Công Thương
đang xem xét kỹ các chỉ tiêu về kinh tế - kỹ thuật và các tiêu chí về môi trường - xã hội
đối với các DATĐ để kiên quyết loại bỏ hoặc điều chỉnh hợp lý trong quá trình thẩm
định phê duyệt quy hoạch thủy điện.
Hiện nay UBND các tỉnh vẫn đang tiếp tục rà soát quy hoạch thủy điện trên địa
bàn quản lý để xem xét thu hồi chủ trương đầu tư đối với các dự án đã quá hạn theo hạn
trong Giấy chứng nhận đầu tư được cấp mà Chủ đầu tư không triển khai thực hiện; Các
dự án thuộc danh mục được đầu tư trong giai đoạn 2015 - 2020 và đang trong quá trình
nghiên cứu đầu tư giai đoạn sau năm 2020 vẫn được tiếp tục rà soát, đánh giá tình hình
thực hiện và kết quả nghiên cứu đầu tư để có phương án điều chỉnh hợp lý hoặc xem xét
thu hồi để loại khỏi quy hoạch theo đúng các yêu cầu đã được nêu ra trong Nghị quyết
62/2013/QH13 của Quốc hội.
2. Về kiểm tra chặt chẽ công tác quản lý, vận hành các thủy điện để không làm ảnh
hưởng đến cuộc sống của người dân, nhất là trong việc xả lũ: Triển khai Kế hoạch hành
động của ngành Công Thương triển khai thực hiện Nghị quyết 33 của Quốc hội trong
lĩnh vực thủy điện, thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã chủ trì phối hợp với các tỉnh
Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Phước, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và Tập đoàn Điện
lực Việt Nam (EVN) tổ chức các đợt kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ các quy định về
quản lý chất lượng công trình trong công tác khảo sát, thiết kế, thi công, nghiệm thu,
quản lý an toàn; giải quyết sự cố khi thi công công trình và cam kết về môi trường đối
với các dự án/công trình thủy điện; giải quyết các vướng mắc hoặc phát sinh trong quá
trình đầu tư xây dựng, vận hành khai thác đối với các DATĐ: An Khê - Ka Nak (173
MW); Sê San 3 (260 MW); Sê San 3A (108 MW); Đăk Srông 3A (10,2 MW); Hà Tây
(13 MW); Alin B1 (42 MW); A Lin B2 (20 MW); Sông Tranh 3 (62 MW); Sông Bung
5 (57 MW); Đăk Pring (7,5 MW); Sông Bung 2 (100 MW), Đồng Văn (28 MW), Nhạn
Hạc (59 MW), Thác Mơ mở rộng (75 MW), Nậm Củm 4 (54 MW), Bảo Lâm 3 (46
MW), Sơn Trà 1 (60 MW), Đại Bình (15 MW), Vĩnh Sơn (66 MW), Hạ Rào Quán (6,4
MW), Bản Mới (5 MW).
3. Đối với các Dự án thủy điện Nam Động 1 và Dự án thủy điện Nam Động 2: Các
dự án đã được Bộ Công Thương bổ sung quy hoạch tại Quyết định số 3202A/QĐ-BCT
ngày 17 tháng 8 năm 2017 và Dự án thủy điện Bản Khả được bổ sung quy hoạch tại
Quyết định số 2601/QĐ-BCT ngày 27 tháng 7 năm 2018 là các dự án thủy điện nhỏ,
35
thuộc bậc thang sông Luồng. Hồ sơ nghiên cứu quy hoạch các dự án tuân thủ các tiêu
chí quy định của Chính phủ, Bộ Công Thương về các tác động ảnh hưởng đến diện tích
đất đai, di dân - tái định cư; các dự án lựa chọn công nghệ khai thác thủy năng phù hợp
để đảm bảo vấn đề xả lũ, thủy lợi, dòng chảy môi trường,.. nên đã được Bộ Công Thương
chấp thuận, phê duyệt bổ sung quy hoạch.
Hiện nay, thực hiện các chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh
Thanh Hóa, Sở Công Thương tỉnh Thanh Hóa chưa xem xét, đề xuất chủ trương đầu tư
của các dự án nêu trên, mà tiếp tục yêu cầu rà soát kỹ, đánh giá thận trọng, chi tiết tác
động ảnh hưởng môi trường-xã hội, thống kê đầy đủ diện tích các loại đất đai, cơ sở hạ
tầng bị ảnh hưởng và đưa ra các biện pháp giảm thiểu, khắc phục. Đặc biệt, phải lấy ý
kiến tham vấn cộng đồng nhân dân và lập phương án sinh kế cho người dân bị ảnh
hưởng; trong đó, nghiên cứu, xây dựng các phương án sản xuất phù hợp với điều kiện
cụ thể của từng vùng, giúp hộ dân bị ảnh hưởng lựa chọn mô hình sản xuất bảo đảm thu
nhập ổn định lâu dài, cuộc sống tốt hơn khi không có dự án.
Trường hợp các dự án có ảnh hưởng, tác động lớn tới môi trường xã hội, không
đảm bảo phương án sinh kế cho người dân, không được sự đồng thuận nhất trí của cộng
đồng nhân dân vùng dự án thì đề xuất không chấp thuận chủ trương đầu tư và loại bỏ
khỏi quy hoạch.
33, 34. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị:
Câu số 33:
Nghị định số 08/2018/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi các Nghị định về điều kiện
đầu tư kinh doanh do Bộ Công Thương quản lý được ban hành nhưng chưa có Thông
tư hướng dẫn cụ thể các tiêu chí như về diện tích, quy mô, khoảng cách; đề nghị Bộ
Công Thương nghiên cứu sớm ban hành để các địa phương căn cứ thực hiện.
Câu 34:
Nghị định số 67/2013/NĐ-CP, ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá về kinh doanh
thuốc lá được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 106/2017/NĐ-CP ngày
14/9/2017 của Chính phủ đã có sự thay đổi, bãi bỏ, cắt giảm các điều kiện kinh doanh.
Do vậy, kiến nghị Bộ Công Thương sửa đổi nội dung đánh giá, kiểm tra tại Thông tư số
21/2013/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định chi tiết một số điều của Nghị định số
67/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng chống
tác hại của thuốc lá về kinh doanh thuốc lá cho phù hợp với các quy đi ̣nh tại Nghi ̣ đi ̣nh
nêu trên.
Trả lời (Tại CV 368/BCT-KH ngày 15/01/2019)
1. Về Nghị định số 08/2018/NĐ-CP
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2018
về sửa đổi một số Nghị định liên quan đến Điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ Công Thương, trong đó bãi bỏ, sửa đổi các điều kiện có liên
quan đến các lĩnh vực như sau:

36
- Đối với kinh doanh xăng dầu: Quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng
dầu, các Điều kiện sản xuất xăng dầu, Điều kiện đối với cửa hàng xăng dầu,...
- Đối với kinh doanh thuốc lá: Điều kiện cấp Giấy phép chế biến nguyên liệu thuốc
lá, Điều kiện cấp Giấy phép sản xuất sản phẩm thuốc lá, Điều kiện cấp Giấy phép mua
bán sản phẩm thuốc lá...
- Đối với lĩnh vực điện lực: Quản lý, thực hiện quy hoạch phát triển điện lực, Điều
kiện cấp giấy phép hoạt động phát điện,...
- Và các lĩnh vực khác như: Nhượng quyền thương mại, Thương mại điện tử, Hóa
chất, Vật liệu nổ công nghiệp,...
Ngoài ra, Nghị định không giao Bộ Công Thương ban hành Thông tư quy định các
nội dung trên. Tuy nhiên, để đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực
theo phân công của Chính phủ, Bộ Công Thương đang xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia để quy định tiêu chí về diện tích, quy mô, khoảng cách đối với các quy định
được bãi bỏ theo Nghị định số 08/2018/NĐ-CP.
2. Về Thông tư số 21/2013/TT-BCT
Bộ Công Thương đã hoàn thiện và đang trình để ban hành Thông tư thay thế Thông
tư số 21/2013/TT-BCT quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 67/2013/NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng chống tác hại của thuốc
lá.
35. Cử tri Thành phố Cần Thơ kiến nghị: Phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu
tham mưu Chính phủ ban hành chính sách giá ưu đãi đối với xăng sinh học E5 (thấp
hơn giá xăng A95 ít nhất 5.000 đồng/1lít), để khuyến khích người dân sử dụng, góp phần
bảo vệ môi trường và phát triển sản xuất xăng sinh học E5.
Trả lời (Tại CV 369/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Hiện nay, thuế bảo vê ̣ môi trường đố i với xăng E5RON92 đang đươ ̣c tính cơ ho ̣c
bằ ng 95% thuế bảo vê ̣ môi trường của xăng khoáng; thuế tiêu thụ đặc biệt của xăng
E5RON92 là 8%, thấp hơn 2% so với xăng khoáng. Các ưu đãi về thuế nêu trên cũng
chỉ tạo điều kiện cho giá xăng E5RON92 thấp hơn giá xăng khoáng RON95 khoảng 321
đồng/lít (trong đó, thuế bảo vệ môi trường 150 đồng/lít, thuế tiêu thụ đặc biệt 171
đồng/lít).
Thời gian qua, Liên Bộ Công Thương - Tài chính chủ yếu phải sử dụng nguồn từ
Quỹ Bình ổn giá xăng dầu bù chéo cho xăng E5RON92 để tạo chênh lệch giá xăng
E5RON92 thấp hơn xăng RON95 khoảng 1.300-1.500 đồng/lít nhằm khuyến khích
người tiêu dùng sử dụng xăng E5RON92 do ưu đãi về thuế chỉ tạo được chênh lệch giá
xăng E5RON92 thấp hơn giá xăng RON95 ở mức nhỏ như nêu trên.
Để tiếp tục khuyến khích người tiêu dùng hưởng ứng sử dụng nhiên liệu sinh học
nói chung và xăng E5RON92 nói riêng, Bộ Công Thương đã kiến nghị Thủ tướng Chính
phủ chỉ đạo Bộ Tài chính khẩ n trương nghiên cứu, đề xuất giảm thuế bảo vệ môi trường
đối với nhiên liệu sinh học nói chung và xăng E5RON92 nói riêng, làm cơ sở căn bản
và bền vững nhằm tạo chênh lệch giá xăng E5RON92 thấp hơn xăng RON95, đủ để
37
khuyến khích người tiêu dùng tích cực sử dụng nhiên liệu sinh học, qua đó góp phần
giảm thiểu ô nhiễm môi trường theo tinh thần Quyế t đinḥ số 53/2012/QĐ-TTg ngày 22
tháng 11 năm 2012 của Thủ tướng Chiń h phủ, Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg ngày
20 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển
nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025.
37. Cử tri Tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Tuyến đường từ thôn Sơn Hải (xã Phước
Dinh, huyện Thuận Nam) đến thôn Văn Lâm (xã Phước Nam, huyện Thuận Nam) và từ
thôn Vĩnh Trường (xã Phước Dinh) đến tuyến đường ven biển trong quá trình chuẩn bị
thực hiện Dự án điện hạt nhân có nhiều xe lưu thông nên đang bị xuống cấp nghiêm
trọng. Cử tri kiến nghị Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương quan tâm, bố trí vốn để
địa phương cải tạo, nâng cấp 02 tuyến đường trên.
Trả lời (Tại CV 364/BCT-KH ngày 15/01/2019)
Bộ Công Thương ủng hộ việc UBND tỉnh Ninh Thuận báo cáo Chính phủ giao Bộ
Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính bố trí vốn để cải tạo, sửa chữa các tuyến đường nói
trên để tạo thuận lợi cho người dân đi lại sinh hoạt và phục vụ sản xuất.
Trên đây là trả lời của Bộ Công Thương đối với kiến nghị của cử tri Tỉnh Ninh
Thuận, trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Ninh Thuận để trả lời cử tri./.

BỘ CÔNG THƯƠNG
(Sau kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV)
1. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ có thêm nhiều
chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào ngành công nghiệp chế
tạo, sản xuất ô tô, đặc biệt là các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, đề nghị Chính
phủ quan tâm, có chính sách phù hợp để sớm đưa Hải Phòng trở thành một trong những
trung tâm sản xuất, chế tạo ô tô hàng đầu Châu Á.
Trả lời (Tại CV 1520/BCT-KH ngày 8/3/2019)
Ngày 16 tháng 07 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1168/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến
năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035”, mục tiêu của Chiến lược là xây dựng ngành công
nghiệp ô tô Việt Nam trở thành:
+ Ngành công nghiệp quan trọng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo anh ninh quốc phòng của đất nước;
+ Đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa về các loại xe có lợi thế cạnh tranh, tham gia
xuất khẩu, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp khác và nâng
cao năng lực cạnh tranh để trở thành nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng trong chuỗi sản
xuất công nghiệp ô tô thế giới.
Triển khai thực hiện Chiến lược, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật, tiêu biểu là:

38
+ Nghị định số 116/2017/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2017 của Chính phủ quy
định điều kiện sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng
ô tô;
+ Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ về
phát triển công nghiệp hỗ trợ quy định rõ danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu
tiên phát triển, trong đó có ô tô;
+ Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016
của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa
và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Bằng các giải pháp đồng bộ nêu trên, đến nay thị trường đã có sự tham gia tích cực
và rộng rãi của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có một số công
ty trong nước như Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco), Công ty cổ phần Huyndai
Thành Công, Tập đoàn Vingroup,…và các tập đoàn ô tô lớn trên thế giới (Toyota, Ford,
Honda, Mitsubishi,...). Tổng năng lực sản xuất - lắp ráp ô tô khoảng 600 ngàn xe/năm,
gồm hầu hết các chủng loại xe con, xe tải và xe khách. Một số chủng loại xe đã đạt được
tỷ lệ nội địa hóa tương đối cao như xe tải đến 7 tấn tỷ lệ nội địa hóa đạt 55%; xe khách
từ 24 chỗ ngồi trở lên, tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 55%, cơ bản đáp ứng mục tiêu
đề ra vào năm 2020. Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia,
Myanmar, Trung Mỹ,... đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng tỷ USD/năm và giải
quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trực tiếp, tạo tiền đề quan trọng
cho việc xây dựng và phát triển ngành sản xuất - lắp ráp ô tô.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, tăng sức cạnh tranh của các
dòng xe lắp ráp trong nước, hình thành các tổ hợp sản xuất, lắp ráp ô tô tầm cỡ khu vực
(trong đó có Hải Phòng), Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính nghiên
cứu, đề xuất Chính phủ xem xét xây dựng các chính sách mới nhằm khuyến khích ngành
sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước trong thời gian tới, cụ thể:
+ Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2017 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01
tháng 9 năm 2016 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi,
Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn
ngạch thuế quan theo hướng rà soát, bổ sung Danh mục các linh kiện mà thực tế các
doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô phải nhập khẩu do trong nước chưa sản xuất được,
đặc biệt là các linh kiện phục vụ việc sản xuất ô tô điện để được xem xét hưởng ưu đãi
thuế nhập khẩu.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định các điều kiện để linh kiện phục vụ sản xuất ô tô điện
được hưởng mức thuế suất thuế nhập khẩu 0% theo Chương trình ưu đãi thuế tại Nghị
định số 125/2017/NĐ-CP như điều kiện về công suất động cơ và thông số kỹ thuật khác
(tương tự như các điều kiện về mức tiêu hao nhiên liệu, dung tích động cơ đối với xe sử
dụng động cơ đốt trong…).

39
+ Đề xuất Quốc hội sửa đổi luật thuế tiêu thụ đặc biệt, theo đó sẽ không tính thuế
đối với phần linh kiện, phụ tùng nội địa hóa của ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước nhằm
giảm giá thành, tăng cường năng lực cạnh tranh cho sản phẩm trong nước so với ô tô
nguyên chiếc nhập khẩu.
2. Cử tri tỉnh Đắc Lắk kiến nghị: Cử tri đề nghị cần nghiên cứu ban hành luật về
chống hàng giả nhằm nâng cao, hoàn thiện khung pháp lý về lĩnh vực này, từ đó góp
phần giảm bớt vấn nạn hàng giả, hàng nhái đang tràn lan như hiện nay.
Trả lời (Tại CV 1521/BCT-KH ngày 8/3/2019)
Việc đề xuất ban hành Luật về chống hàng giả cần sự rà soát, nghiên cứu và sự
phối hợp của nhiều Bộ, ngành: Tư pháp, Công an, Khoa học và Công nghệ, Công
Thương, Quốc phòng… nhằm đảm bảo sự phù hợp, đồng bộ với Bộ luật Hình sự, Luật
Sở hữu trí tuệ, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá… Bộ Công Thương xin ghi nhận ý
kiến của cử tri để nghiên cứu, phối hợp với các Bộ, ngành thực hiện theo sự phân công
của Quốc hội và Chính phủ trong thời gian tới.
4. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ Công Thương nâng định mức
sử dụng điện sinh hoạt đối với hộ gia đình từ 50 kWh lên 100 kWh. Do hiện nay, nhu
cầu sử dụng điện của các hộ dân đã tăng nhiều so với trước kia, nhất là điện phục vụ
sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt thiết yếu của cuộc sống.
Trả lời (Tại CV 1522/BCT-KH ngày 8/3/2019)
Căn cứ theo Điều 31 của Luật Điện lực quy định:
“Giá bán lẻ điện do đơn vị bán lẻ điện xây dựng căn cứ khung giá của mức giá bán
lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng
Chính phủ quy định phù hợp với cấp độ phát triển của thị trường điện lực, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 62 của Luật này.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng khung giá của mức
giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định.”
Thực hiện quy định trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
28/2014/QĐ-TTg ngày 07 tháng 4 năm 2014 quy định về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2014). Theo quy định tại Khoản 4 Điều 3
Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg, giá bán lẻ điện cho nhóm khách hàng sử dụng điện
sinh hoạt gồm 6 bậc có mức giá tăng dần nhằm khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm,
hiệu quả.
Phần lớn lượng điện năng hiện nay đang được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu
hóa thạch, không tái tạo được như than đá, dầu mỏ, khí đốt là các nguồn tài nguyên có
hạn nên việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả được xem như là biện pháp quan
trọng và cần thiết. Nhằm khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, nhiều nước trên
thế giới áp dụng giá điện sinh hoạt theo các bậc tăng dần để phù hợp với các mức sử
dụng điện khác nhau của các hộ dân; hộ sử dụng điện càng nhiều, không tiết kiệm điện,
sử dụng các thiết bị tiêu hao nhiều năng lượng sẽ phải áp dụng giá điện cao hơn; ví dụ:

40
Nhật Bản áp dụng giá điện sinh hoạt bậc thang theo 3 bậc; Hàn Quốc, Hồng Kông, Nam
Phi áp dụng giá điện sinh hoạt bậc thang từ 6 đến 7 bậc; khu vực Asean áp dụng giá điện
sinh hoạt bậc thang từ 3 bậc đến 10 bậc.
Thực tế áp dụng trong những năm qua cho thấy việc áp dụng giá bán điện sinh hoạt
theo các bậc là đơn giản trong áp dụng nhưng vẫn đạt được mục tiêu khuyến khích sử
dụng điện tiết kiệm, hiệu quả. Có thể cho rằng, việc thiết kế giá bán điện sinh hoạt theo
các bậc là phù hợp trong giai đoạn hiện nay.
Trong các năm vừa qua, Bộ Công Thương nhận được một số ý kiến của các hộ sử
dụng điện, các cơ quan báo chí, các học giả đề nghị xem xét lại quy định các bậc thang
trong biểu giá điện sinh hoạt. Tiếp thu ý kiến góp ý này, Bộ Công Thương đã chỉ đạo
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nghiên cứu cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện,
trong đó có cải tiến cơ cấu biểu giá áp dụng cho khách hàng sinh hoạt.
Căn cứ số liệu thực tế thực hiện năm 2017 do Tập đoàn Điện lực Việt Nam cung
cấp, Bộ Công Thương đã tính toán tác động của các phương án điều chỉnh cơ cấu giá
bán lẻ điện sinh hoạt theo các kịch bản giảm từ 6 bậc xuống 5, 4, 3 bậc (trong đó có kịch
bản điều chỉnh mức sử dụng của bậc 1 từ 50 kWh lên 100 kWh như kiến nghị của cử
tri). Kết quả tính toán các kịch bản cho thấy việc điều chỉnh số bậc cũng như tăng mức
sử dụng của bậc 1 đều làm tăng số tiền từ ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ chính sách
xã hội và tiền điện phải trả tăng thêm hầu hết ảnh hưởng đến nhóm khách hàng thu nhập
trung bình, thấp từ 51 - 100 kWh/tháng và từ 201 - 300 kWh/tháng (khoảng 9,5 triệu hộ
chiếm tới 38,12% trên tổng số 24,93 triệu hộ sinh hoạt).
Cũng theo số liệu thống kê năm 2017 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam thì trên cả
nước, số hộ có mức sử dụng dưới 50 kWh/tháng là 4,1 triệu hộ, chiếm 16,44% tổng số
hộ sử dụng điện cho sinh hoạt với mức sử dụng bình quân là 27 kWh/hộ/tháng. Như
vậy, việc tiếp tục duy trì giá điện thấp hơn so với giá bán lẻ điện bình quân cho bậc dưới
50 kWh là cần thiết và phù hợp trong giai đoạn hiện nay nhằm đảm bảo chính sách hỗ
trợ cho những hộ này (theo quy định tại Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg thì giá điện
cho bậc 1 bằng 92% giá bán lẻ điện bình quân).
3, 5, 8. Cử tri các tỉnh: Tây Ninh, Vĩnh Long, Trà Vinh kiến nghị:
Câu số 3:
Tình trạng phân bón giả, kém chất lượng trên thị trường hiện nay không chỉ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến năng suất cây trồng của người dân mà ngay cả các doanh
nghiệp sản xuất phân bón lớn, làm ăn uy tín cũng bị ảnh hưởng. Cử tri tiếp tục đề nghị
các Bộ, ngành có liên quan rà soát lại các quy định pháp luật hiện hành có liên quan
đến lĩnh vực này để sửa đổi, bổ sung theo hướng có chế tài xử lý nghiêm khắc hơn nhằm
siết chặt, quản lý mặt hàng phân bón giả, kém chất lượng đang tràn lan trên thị trường
để bảo vệ quyền lợi cho người sản xuất.
Câu số 5:
Đề nghị tăng cường kiểm tra, xử lý và tăng mức phạt đối với các cơ sở sản xuất
hàng hóa kém chất lượng, hàng gian, hàng giả,….

41
Câu số 8:
Cử tri tiếp tục đề nghị cần có chế tài xử phạt mạnh hơn nữa, đủ sức răn đe đối với
các trường hợp sản xuất, mua bán thuốc bảo vệ thực vật, phân bón giả. Đồng thời, cần
tăng cường quản lý, kiểm soát, niêm yết giá bán các mặt hàng này, tránh tình trạng
doanh nghiệp, chủ cửa hàng vật tư nông nghiệp tự nâng giá bán.
Trả lời (Tại CV 1519/BCT-KH ngày 8/3/2019)
Hiện nay, Bộ Công Thương đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên
cứu, xây dựng, tham mưu trình Chính phủ xem xét ban hành Nghị định thay thế Nghị
định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP trong năm 2019.
Trong thời gian tới, để xử lý có hiệu quả hơn tình trạng buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả, trong đó có mặt hàng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, Bộ Công Thương
cùng các Bộ ngành, địa phương sẽ chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng cường kiểm
tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Xác định những nội dung trọng tâm
là:
+ Chỉ đạo thực hiện khẩn trương, nghiêm túc, triệt để các chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia về công tác chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả.
+ Chỉ đạo các lực lượng chức năng tích cực chủ động phối hợp xây dựng, triển
khai đồng bộ các phương án, chuyên đề, kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát thị trường, đặc biệt là Bộ đội biên phòng, Hải quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát,
ngăn chặn hàng lậu, hàng giả ngay từ tuyến biên giới đường biển và đường bộ; kiên
quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm; thực hiện tốt chế độ thông tin, báo
cáo để có thông tin kịp thời, chính xác phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành; tổ chức
kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các chương trình, kế hoạch để rút kinh nghiệm, đề ra
các giải pháp đấu tranh phù hợp với tình hình thực tiễn.
+ Tiếp tục chỉ đạo rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật, cơ chế chính sách liên quan đến công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và
hàng giả bảo đảm tính khả thi và theo sát với tình hình thực tế; tạo thuận lợi cho các lực
lượng chức năng trong thực thi nhiệm vụ.
+ Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, phòng chống các biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng của công chức thực thi; khen thưởng, động viên, nêu gương kịp thời đối với tập
thể, cá nhân có thành tích, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, bao che,
tiếp tay cho buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
+ Đề cao vai trò, trách nhiê ̣m của người đứng đầ u; xem xét, xử lý trách nhiệm
người đứng đầu, lãnh đạo, cơ quan chức năng và công chức trực tiếp quản lý địa bàn
nếu để xảy ra buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả phức tạp, nghiêm trọng kéo dài,
gây bức xúc trong nhân dân mà không có giải pháp khắc phục kiên quyết, hiệu quả.

42
+ Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho mọi
đối tượng, biến nhận thức về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả thành ý
thức tự giác thường trực và hành động cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp,
mỗi người dân; đồng thời, công khai kết quả xử lý vi phạm trên phương tiện thông tin
đại chúng cho người dân biết.
6. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị rà soát lại việc quy hoạch xây dựng
các dự án nhà máy điện cho phù hợp để không gây tác động xấu đến môi trường.
Trả lời (Tại CV 1523/BCT-KH ngày 8/3/2019)
Theo kết quả rà soát thủy điện tính đến tháng 10 năm 2018, Bộ Công Thương đã
cơ bản đánh giá đầy đủ trên phạm vi cả nước, đảm bảo các yêu cầu tại Nghị quyết số
62/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội khóa XIII về tăng cường công tác quản
lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện. Đặc biệt, thực
hiện nghiêm túc Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12 tháng 01 năm 2017 của Ban Bí thư về
tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng và chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Thông báo số 191/TB-VPCP ngày
22 tháng 7 năm 2016 của Văn phòng Chính phủ tại Hội nghị về các giải pháp khôi phục
rừng bền vững vùng Tây Nguyên nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016 -
2020, Bộ Công Thương đã phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh có Dự án thủy điện
trên địa bàn tổ chức rà soát, đánh giá toàn diện bao gồm cả các dự án đã được phê duyệt
và các dự án đang được nghiên cứu, khảo sát để xem xét đưa vào quy hoạch trên cơ sở
tuân thủ nghiêm túc các nội dung chỉ đạo của Ban bí thư và Thủ tướng Chính phủ. Cụ
thể tình hình quản lý quy hoạch trên địa bàn cả nước hiện nay như sau:
- Đối với các dự án thủy điện (DATĐ) có công suất lắp máy trên 30 MW: Hầu hết
DATĐ này nằm trên các lưu vực sông chính, sông lớn đã được Thủ tướng Chính phủ
hoặc Bộ Công Thương phê duyệt và đã đi vào vận hành phát điện.
- Đối với các DATĐ có công suất bằng hoặc nhỏ hơn 30 MW: Đặc điểm chung là
chủ yếu nằm trên địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn hoặc đặc biệt
khó khăn nên tài liệu cơ bản để lập quy hoạch còn hạn chế, điều kiện khảo sát thực địa
không thuận lợi... Trong khi cơ quan xây dựng quy hoạch (Sở Công Thương) các tỉnh
có dự án còn thiếu hoặc chưa có cán bộ chuyên môn; sự phối hợp giữa các Sở, ngành
của địa phương trong quá trình lập, xem xét quy hoạch cũng chưa thực sự chặt chẽ, vì
vậy, chất lượng quy hoạch thủy điện nhỏ bộc lộ khá nhiều hạn chế, không ít dự án phải
điều chỉnh sơ đồ khai thác và quy mô trong quá trình nghiên cứu đầu tư; mặt khác, do
tình hình phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết như giao thông, lưới điện... tại các khu vực
này còn chậm nên một số dự án nhỏ chưa đảm bảo khả thi.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương phối hợp với UBND các tỉnh
rà soát lại quy hoạch thủy điện, kiên quyết loại khỏi quy hoạch các DATĐ chiếm nhiều
diện tích đất hoặc có ảnh hưởng lớn đến môi trường, kinh tế, xã hội. Trên cơ sở kết quả
rà soát, Chính phủ đã liên tục báo cáo kết quả trước Quốc hội tại các Kỳ họp Quốc hội
khóa XIII và khóa XIV. Hiện nay Chính phủ đang tiếp tục chỉ đạo Bộ Công Thương
phối hợp tốt hơn nữa với UBND các tỉnh có DATĐ để rà soát, đánh giá công tác quản
lý quy hoạch và đầu tư xây dựng các DATĐ theo tiêu chí đặt ra. Tính đến thời điểm hết
43
năm 2018, Bộ Công Thương và UBND các tỉnh đã thống nhất loại khỏi quy hoạch 474
DATĐ và 213 địa điểm tiềm năng có ảnh hưởng lớn đến môi trường - xã hội. Thời gian
gần đây, Bộ Công Thương đang xem xét kỹ các chỉ tiêu về kinh tế - kỹ thuật và các tiêu
chí về môi trường - xã hội đối với các DATĐ để kiên quyết loại bỏ hoặc điều chỉnh hợp
lý trong quá trình thẩm định phê duyệt quy hoạch thủy điện.
Trong thời gian vừa qua, hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
tiềm năng phát triển thủy điện đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương chỉ đạo thực
hiện công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng thủy điện vừa và nhỏ theo đúng quy
định và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số tỉnh thường xuyên đề nghị
Bộ Công Thương bổ sung quy hoạch thuần tuý dựa trên đề xuất của các nhà đầu tư mà
chưa có cách tiếp cận, nghiên cứu tổng thể về khai thác tiềm năng thuỷ điện, chưa thực
sự phù hợp với quy hoạch điện lực của Tỉnh và đảm bảo phát triển kinh tế xã hội, bảo
vệ môi trường.
Để quản lý hiệu quả quy hoạch thủy điện theo Nghị quyết số 62, Bộ Công Thương
đã có văn bản đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tiềm năng
phát triển thủy điện tiếp tục chỉ đạo thực hiện một số nội dung sau:
- Nghiêm túc thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12 tháng 01 năm 2017 của Ban
Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng về việc tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với
công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc tại Thông báo số 191/TB-VPCP ngày 22 tháng 7 năm 2016 của Văn phòng
Chính phủ.
- Chưa xem xét, nghiên cứu để bổ sung vào quy hoạch đối với các DATĐ có quy
mô công suất nhỏ hơn hoặc bằng 3,0 MW.
- Việc xem xét để bổ sung các DATĐ vừa và nhỏ vào quy hoạch phải tuân thủ các
tiêu chí theo quy định tại Thông tư số 43/2012/TT-BCT ngày 27 tháng 12 năm 2012 của
Bộ Công Thương và đồng bộ với Quy hoạch phát triển điện lực của Tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
- Tờ trình và hồ sơ quy hoạch bổ sung nguồn thủy điện vừa và nhỏ trình đồng bộ
trong Quy hoạch phát triển điện lực Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (theo kỳ
quy hoạch 5 năm). Bộ Công Thương sẽ xem xét thẩm định song song Quy hoạch thủy
điện vừa và nhỏ và Quy hoạch phát triển điện lực Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
Hiện nay UBND các tỉnh vẫn đang tiếp tục rà soát quy hoạch thủy điện trên địa
bàn quản lý để xem xét thu hồi chủ trương đầu tư đối với các dự án đã quá hạn theo hạn
trong Giấy chứng nhận đầu tư được cấp mà Chủ đầu tư không triển khai thực hiện; Các
dự án thuộc danh mục được đầu tư trong giai đoạn 2015 - 2020 và đang trong quá trình
nghiên cứu đầu tư giai đoạn sau năm 2020 vẫn được tiếp tục rà soát, đánh giá tình hình
thực hiện và kết quả nghiên cứu đầu tư để có phương án điều chỉnh hợp lý hoặc xem xét
thu hồi để loại khỏi quy hoạch theo đúng các yêu cầu đã được nêu ra trong Nghị quyết
62 của Quốc hội.

44
Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Quy hoạch số
21/2017/QH14 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Theo đó, công tác lập,
thẩm định và phê duyệt được quy định như sau:
- Khoản 2, Điều 59: Quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh đã được
lập, thẩm định trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa được quyết định hoặc phê duyệt
thì được thực hiện quyết định hoặc phê duyệt theo quy định của Luật này.
- Khoản 2, Điều 58: Các quy định của Luật này về lập, thẩm định quy hoạch cấp
quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm
2018.
Căn cứ các quy định nêu trên, đối với công tác thẩm định, phê duyệt điều chỉnh bổ
sung quy hoạch các Dự án thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn các tỉnh trong cả nước, Bộ
Công Thương đang chỉ đạo thực hiện như sau:
- Đối với các DATĐ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt vẫn được tiếp tục xem
xét để điều chỉnh quy hoạch theo quy định hiện hành cho đến khi Luật Quy hoạch số
21/2017/QH14 có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 2019)
- Đối với các DATĐ đã được UBND tỉnh tổ chức nghiên cứu lập quy hoạch và
thẩm định trước ngày 01 tháng 3 năm 2018 để trình Bộ phê duyệt bổ sung quy hoạch thì
tiếp tục giải quyết theo thẩm quyền của Bộ Công Thương.
- Đối với các Dự án thủy điện được UBND tỉnh tổ chức nghiên cứu lập quy hoạch
sau ngày 01 tháng 3 năm 2018 sẽ được thực hiện theo Luật quy hoạch số 21/2017/QH14.
Hiện nay công tác thẩm định bổ sung quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch các Dự án
thủy điện đang tạm dừng do chưa có hướng dẫn chi tiết của Chính phủ về việc thực hiện
Luật Quy hoạch.
7. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Về tiếp nhận và hoàn trả vốn sau tiếp nhận,
bàn giao lưới điện nông thôn cho ngành điện quản lý: Cử tri tiếp tục phản ánh quy định
về tiếp nhận và hoàn trả vốn sau tiếp nhận, bàn giao lưới điện nông thôn cho ngành
điện quản lý tại Thông tư 06/2010/TTLT-BTC-BCT ngày 03 tháng 02 năm 2010 (nay là
Thông tư số 32/2013/TTLT-BTC-BCT) rất khó thực hiện. Cụ thể Thông tư số
32/2013/TTLT-BTC-BCT quy định: Hồ sơ hoàn trả bao gồm hồ sơ công trình và các
chứng từ chứng minh nguồn gốc vốn xây dựng công trình. Trên thực tế, phần lớn lưới
điện các xã xây dựng tự phát, hoặc thủ tục đầu tư không đúng trình tự công tác đầu tư
xây dựng theo quy định. Mặt khác, phần lớn lưới điện được xây dựng từ lâu nên hồ sơ,
chứng từ không có hoặc không đầy đủ, nên không chứng minh được nguồn vốn theo
hướng dẫn. Đề nghị Bộ Công Thương phối hợp cùng Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung một số quy định để có sự điều chỉnh hợp lý hơn và nhằm thực hiện tốt việc tiếp
nhận, phát triển hệ thống điện nông thôn.
Trả lời (Tại CV 1524/BCT-KH ngày 8/3/2019)
Theo Luật Quản lý tài sản công năm 2017, khi chuyển giao tài sản do tổ chức, cá
nhân tự đầu tư bàn giao sang cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hiện tại là Doanh
nghiệp nhà nước, tài sản sau bàn giao thuộc tài sản sở hữu của nhà nước. Do vậy, phải

45
đảm bảo nguyên tắc theo Điều 6 của Luật Quản lý tài sản công: “… phải được kiểm kê,
thống kê về hiện vật, ghi nhận thông tin phù hợp với tính chất, đặc điểm của tài sản…”.
Việc chuyển giao tài sản khi không có hồ sơ, chứng từ hoặc không đầy đủ, không chứng
minh được nguồn vốn sẽ không đủ điều kiện để thực hiện được việc chuyển giao tài sản
cho EVN. Đồng thời, khi điều chuyển tài sản sang EVN sẽ làm tăng/giảm vốn điều lệ
nên phải được Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, Bộ Tài chính thẩm định,
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định theo quy định tại Mục 5, điều 24, Nghị
định 99/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ về phân công, phân
cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh
nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Đề nghị cử tri có ý kiến với cơ quan chuyên môn của tỉnh Quảng ngãi xem xét
từng trường hợp cụ thể, báo cáo với UBND tỉnh để có văn bản gửi Ủy ban Quản lý vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp (là cơ quan được Chính phủ giao quyền, trách nhiệm của đại
diện chủ hữu nhà nước đối với đối với EVN theo Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày
29 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ), Bộ Tài chính và Bộ Công Thương để xem xét
theo thẩm quyền.

46
47

You might also like