You are on page 1of 122

Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

NHỮNG CÂU TRUYỆN VỀ


BẢN CHẤT CỦA HIỆN THỰC

LÝ THUYẾT HIỆN THỰC TỔNG THỂ

(Một số giả thiết về cơ chế tồn tại của thế giới quan)

Vũ Trọng Hải
Ngày 02 tháng 08 năm 2016

0
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

LỜI NÓI ĐẦU


--- o0o ---
Kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ tại Châu Âu đến nay, nền khoa học
nhân loại đã nhanh chóng đạt được nhiều thành tựu phát triển to lớn. Tầm hiểu biết của
con người về thế giới tự nhiên đã ngày càng được mở rộng ở cả cấp độ vi mô (các hạt hạ
nguyên tử) cho đến tầm vĩ mô (không gian bên ngoài vũ trụ). Đã có rất nhiều những khám
phá trong tất cả mọi lĩnh vực làm cho đời sống xã hội loài người ngày càng trở nên tiện
nghi hiện đại hơn. Đến nay, tuy nói rằng nền văn minh của chúng ta đã đạt được những
thành tựu khoa học vô cùng to lớn nhưng chắc chắn một điều là những hiểu biết của chúng
ta về thế giới tự nhiên cũng như vũ trụ vẫn còn rất hạn chế so với những điều chưa biết.
Vẫn còn rất rất nhiều những hiện tượng bí ẩn đang diễn ra trong thế giới tự nhiên luôn
làm cho các nhà khoa học ngày nay phải bối rối vì không thể lý giải được bằng các kiến
thức hiện có, những điều đó làm họ đi vào bế tắc và đã có những suy đoán lập luận mang
chiều hướng mê tín trong khoa học. Và tất nhiên sự hiểu biết của loài người sẽ luôn tỷ lệ
nghịch với sự mê tín, chỉ khi con người mơ hồ không hiểu rõ vấn đề thì sự mê tín mới ngự
trị, vì vậy nên đã đến lúc chúng ta rất cần phải hiểu rõ, làm rõ về tất cả những gì đang thực
sự diễn ra trong thế giới hiện thực tổng thể rộng lớn vô tận cũng như cái cách thức mà bản
chất thực tại đang vận hành trong tự nhiên diễn ra như thế nào?
Có một số đối tượng tự nhiên mà nền khoa học vật lý ngày nay (dựa trên nền tảng duy
vật biện chứng) chưa thể tiếp cận, chưa nghiên cứu hoặc chưa có khả năng nghiên cứu.
Chính những tư duy định kiến bảo thủ của khoa học duy vật đã dẫn đến việc con người
tiếp cận không đúng phương pháp (không có cơ sở luận cần thiết) để giải thích một cách
thỏa đáng những câu hỏi về các hiện tượng siêu nhiên vẫn đang diễn ra như: sự sống sau
cái chết có tồn tại hay không, linh hồn là gì, tâm thức có phải là sản phẩm của não bộ hay
không, sự sống bắt nguồn từ đâu, con người từ đâu đến, nguồn gốc cấu thành vũ trụ là gì,
và những năng lực phi thường của một số người là như thế nào ???… những điều đó vẫn
luôn hiện hữu và trở thành những dấu hỏi lớn thách thức nền khoa học hiện đại. Đối mặt
với những vấn đề nhạy cảm này thì đa số những người làm khoa học thường lảng tránh,
im lặng hoặc trả lời theo các dạng lý luận khuôn mẫu định kiến cố hữu.
Khi nhắc đến những điều không thể lý giải đó thì những ai theo chủ nghĩa định kiến
duy vật biện chứng luôn cố gắng đưa ra những câu trả lời mang tính ngộ nhận, mơ hồ,
chung chung và không lấy gì là chắc chắn. Họ thường gán ghép những hiện tượng kỳ bí
siêu nhiên đang thực sự hiện hữu khách quan vào một khuôn khổ chuẩn mực những lý
thuyết đơn giản sẵn có hoặc thậm chí là phủ nhận và cho rằng đó chỉ là ảo giác. Họ không
hề tin vào những điều người khác tận mắt chứng kiến và họ thậm chí còn không tin vào
những điều tận mắt họ nhìn thấy chỉ vì họ không thể hiểu nổi điều đó, như vậy chẳng khác
nào một sự mê tín trong khoa học khi luôn phủ nhận những điều không thể lý giải.

1
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Có thể do đa số mọi người cho rằng bản thân họ còn nhiều vấn đề thực tế hơn cần phải
quan tâm như: công việc, gia đình, kinh tế, thể thao, mua sắm, thời trang, giải trí… nhưng
với tôi thì bản chất của thực tại những gì đang diễn ra là điều quan trọng hơn hết. Tôi nghĩ
chúng ta rất nên phải biết và nắm bắt được rõ cái gốc của mọi vấn đề này. Tính biện
chứng là điều rất cần thiết trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên nhưng nếu áp đặt nó
theo lối quy chụp kiểu duy vật luận thì sự biện chứng đó sẽ bị khiếm khuyết không hoàn
hảo. Chúng ta cần phải đặt sự biện chứng (bao gồm cả tính phản biện) trước cả tính chất
duy vật khi nhìn nhận về thế giới quan, hiện nay chúng ta đang tư duy ngược khi đặt duy
vật là gốc, nếu chính xác mà nói thì cái gì diễn ra trong thực tế đúng thì nó là đúng.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng lối suy luận kiểu duy vật biện chứng chỉ phù hợp với các
lý thuyết khoa học vật lý đơn giản từ những năm đầu thế kỷ thứ 18, song hiện thực còn
phức tạp hơn như vậy rất rất nhiều chứ không chỉ gói gọn trong những cái khung khuôn
mẫu định kiến duy vật. Định kiến kiểu duy vật nghe có vẻ như là chân lý hóa ra lại làm
chúng ta rơi vào những lối mòn tư duy một cách cứng ngắc trong khi thực tế để cảm nhận
sâu sắc về hiện thực rất cần phải có sự tư duy linh hoạt và cởi mở. Vậy nên chắc chắn
chúng ta phải xây dựng nên một xu hướng tư duy mới cho phù hợp với lý thuyết hiện thực
tổng thể, loại tư duy mới này như tôi ví dụ ở trên chính là tư duy “hiện thực biện chứng”.
Tư duy “hiện thực biện chứng” lấy cái gốc hiện thực khách quan những điều đang thật
sự diễn ra để làm tiêu chí đánh giá, phân tích, làm luận cứ để tổng hợp nghiên cứu mọi
vấn đề một cách logic nhất. Bản chất của thực tại là cái gì “có” diễn ra trong thực tế thì nó
là “có” và phải được ghi nhận một cách nghiêm túc. Không nên dựa trên nền duy vật luận
nữa, vì vật chất dường như không hẳn là cái gốc của vấn đề và không thể áp mọi thứ theo
khuôn khổ chuẩn mực của duy vật được. Vật chất chỉ đơn giản là cái chúng ta thấy rõ nhất
khi chúng ta cảm nhận về thế giới quan, vật chất không phải là toàn bộ thế giới hiện thực.
Kiểu tư duy “hiện thực biện chứng” sẽ làm góc nhìn ra thế giới quan của con người
được rộng lớn hơn, qua đó có được những đánh giá khách quan hơn về chân lý đích thực.
Qua đó nền khoa học nhân loại mới có được một bước tiến lớn mang tính cách mạng trong
tương lai, biết đâu nhờ đó con người sẽ có thể khắc phục được những vấn đề nan giải hiện
nay và thoát khỏi nguy cơ diệt vong. Đó là lúc nhân loại sẽ bước sang một trang sử mới,
một nền văn minh mới hoàn toàn ưu việt, tốt đẹp và tương thích hơn với trật tự vũ trụ.
Bản chất của thực tại là gì?, đó là câu hỏi mà tôi luôn thắc mắc mỗi ngày ngay khi tôi
vừa thức dậy, và tôi luôn tìm mọi phương pháp để lý giải thực tại một cách logic rõ ràng
nhất. Tôi sẽ mô phỏng cho các bạn các giả thiết tồn tại của hiện thực, những giả thiết
mang tính lý luận logic và được diễn tả một các dễ hiểu nhất. Tôi là người luôn tò mò và
thích thú về mọi điều bí ẩn trong cuộc sống, những điều mà mọi người không muốn nhắc
đến, tôi luôn muốn giải đáp hết mọi điều lạ lẫm, luôn muốn biết tường tận cách mà thế
giới thực sự vận hành. Tôi mong rằng qua những câu truyện dưới đây sẽ làm cho các bạn
hình dung được cái thế giới hiện thực nó đang thật sự diễn ra như thế nào, đã đến lúc

2
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

chúng ta không thể quyền sống trong mơ hồ được nữa, mọi thứ cần phải được làm sáng tỏ
rõ ràng ngay từ bây giờ để cho thế hệ mai sau không còn bị rơi vào tà kiến sai lầm nữa.
Trong thực tế chúng ta đều phải nhìn nhận rằng dường như nền khoa học vật lý không
phải là chìa khóa giúp con người khắc phục được mọi vấn đề nan giải của thế giới hiện đại
ngày nay như: chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai, nghèo đói, khủng hoảng năng lượng, chính
trị, đức tin cũng như sự xuống cấp về đạo đức xã hội… Vậy nền khoa học đương đại ngày
nay đang thiếu điều gì? Nếu một ngày nào đó tất cả mọi người ở mọi quốc gia trên thế giới
này đều có thể hiểu được rõ toàn bộ ngọn nguồn bản chất của thực tại, những quy luật và
cơ cấu vận động của thế giới tự nhiên mà mỗi cá thể luôn là một phần không thể tách rời
với cái tổng thể. Khi đó mỗi con người sẽ hiểu ra rằng bản thân mỗi chúng ta chỉ là một
con ốc, một bánh răng hay một đơn vị vô cùng nhỏ bé không thể tách rời của cái cỗ máy
vũ trụ khổng lồ này, họ sẽ hiểu rằng không một ai hay một thực thể nào là trung tâm cả.
Và mỗi cá nhân hãy thật sự khiêm tốn khi biết vị trí của mình, và điều duy nhất có ý
nghĩa mà một kiếp người có thể làm là cố gắng nâng cấp con ốc đó thành những bộ phận
quan trọng hơn của cỗ máy vũ trụ. Điều đó nghĩa là bộ phận càng liên quan tích cực đến
sự vận động của nhiều bộ phận khác thì nó càng quan trọng và càng trở nên có giá trị hơn.
Khi đó nhân loại sẽ nhận thức được sự đáng quý của tất cả mọi sinh mệnh dù là nhỏ
nhất, mỗi người trong chúng ta sẽ có những hành động tạo tác đúng hơn và phù hợp hơn
với quy luật tự nhiên luôn vận động không ngừng. Một cá thể sẽ luôn sống vì tập thể, vì
môi trường xung quanh và bỏ được sự cố chấp của bản ngã ích kỷ mê muội. Khi đó thế
giới sẽ không còn các cuộc chiến tranh vô nghĩa nữa, chúng ta sẽ sống trong một hành tinh
hòa bình thân ái, và đó cũng là ước nguyện chân chính của toàn thể nhân loại.
Niền tin là một đặc tính riêng tư bên trong nội tâm của mỗi chúng ta nhưng các bạn
phải luôn tự hỏi rằng liệu thứ niềm tin mà các bạn đang theo đuổi đó có giúp ích gì cho
các bạn và mọi người xung quanh hay không, nó có thực sự là chân lý của vũ trụ hay
không, nó có làm cho các bạn thật sự đạt được hạnh phúc lâu bền hay không, bạn có lý
giải về nó một cách rõ ràng hay không, các bạn có cảm thấy mơ hồ về nó hay không…
Các bạn phải tập cho bản thân mình luôn duy trì được đức tính tò mò và phản biện về
tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống này, vì chính sự tò mò và phản biện đã làm cho nhân
loại có được những tiến bộ vượt bậc như ngày nay và các bạn hãy nhớ là đừng bao giờ tự
hài lòng với niềm tin của chính mình vì chưa chắc điều đó đã là đúng. Tôi mong các bạn
luôn có được sự tự do trong tư tưởng, tự do suy nghiệm, luôn có chính kiến một cách rõ
ràng và logic trước tất cả mọi vấn đề phát sinh trong cuộc sống. Đừng tin vào những giáo
điều cứng ngắc, hãy luôn hoài nghi mọi thứ khi mà các bạn chưa thực sự kiểm chứng một
cách khoa học và logic về điều đó. Một số khái niệm trong các câu truyện mà tôi mô tả
dưới đây có thể sẽ rất mới mẻ lạ lẫm nhưng cũng có những điều lại rất quen thuộc gần gũi,
song tôi rất mong các bạn trước khi đọc có thể tạm gác lại những quy chuẩn định kiến cố
hữu đang tồn tại trong nội tâm các bạn để các bạn có thể thoải mái đọc và cảm nhận được
toàn bộ nội hàm ý nghĩa trong những nội dung mà tôi sẽ trình bày dưới đây.
3
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

CÂU TRUYỆN THỨ NHẤT


LÝ THUYẾT HIỆN THỰC TỔNG THỂ
Tất cả những định luật của khoa học mà con người tìm ra đến nay vẫn chỉ là những
mảnh ghép rời rạc của một bức tranh chân lý toàn diện. Ví dụ như phương diện về khoa
học biện chứng chỉ công nhận những gì đã được thực chứng được bằng các phương trình
toán học, bằng những dữ liệu, con số cụ thể chi tiết và chính xác, nhưng tiền đề của các lý
thuyết xây dựng lên những hệ thống phương trình đồ sộ đó cũng chỉ là một định đề đơn
giản không thể chứng minh được, ví dụ như định đề Euclid trong toán hình học hoặc về
lực hấp dẫn của Newton (khoa học chỉ biết nó có tồn tại nhưng không chứng minh được
tại sao nó có). Vậy còn những hiện tượng mà khoa học không thể giải thích hay chứng
minh bằng bất cứ phương tiện nào hiện có thì sẽ được lý giải ra sao?
Chúng ta phải nhận thức rằng những gì chúng ta thấy và cảm nhận chỉ là một phần rất
nhỏ của thế giới chân lý, vì mắt con người chỉ nhìn thấy được trong một giới hạn quang
phổ và tai cũng chỉ có thể nghe thấy được một khoảng tần số âm thanh nhất định. Vậy nên
nếu ai đó nghĩ rằng ngoài cái giới hạn đó sẽ là không có gì cả thì đó là kiểu tư duy rất rất
sai lầm lệch lạc chụp mũ và vô cùng chủ quan phiếm diện. Nghĩ sâu hơn thì con người đã
luôn bị chi phối và luôn bị giới hạn bởi chính các định kiến hiểu biết của mình khi nhìn
nhận về thế giới quan, do đó nếu muốn nền khoa học hiện đại ngày nay có thêm một bước
phát triển đột phá lớn thì chúng ta cần thiết phải xây dựng nên một hệ thống lý thuyết mới
dựa trên sự giả lập về tính hiện hữu tổng quan của toàn bộ thế giới sự vật hiện tượng, để từ
đó có thể dần dần hiểu rõ được bản chất vận động của toàn bộ thế giới hiện thực.
Hệ thống lý thuyết này được gọi là “lý thuyết hiện thực tổng thể”, đây là một định đề
khung giúp chúng ta có thể hình dung được những khái niệm tổng quát nhất về toàn bộ kết
cấu rộng lớn của bản chất thế giới quan đang thực sự tồn tại. Xu thế của khoa học hiện nay
là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã dẫn con người dần đi vào ngõ cụt trong tư duy và hệ
lụy phát sinh là con người đã có nhiều hành động sai lầm trái ngược với quy luật tự nhiên,
dẫn đến việc con người luôn muốn vắt kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường
sinh thái để thỏa mãn lòng tham vô độ vị kỷ cá nhân. Vì chủ nghĩa duy vật khiến con
người tin rằng họ đơn giản cũng chỉ là do vật chất tạo thành và khi chết sẽ chẳng còn lại gì,
với lối tư duy tà kiến đó con người đã không tiếc tay làm mọi điều sai trái để củng cố vơ
vét của cải vật chất về cho bản thân, sự ích kỷ và bản ngã tăng lên tột cùng.
Vậy hệ thống lý thuyết này có thể được xem như tiền đề giúp chúng ta khám phá ra
toàn bộ những lý thuyết khoa học còn chưa biết, nó có nghĩa là: Lý thuyết hiện thực tổng
thể = Các lý thuyết mà khoa học đã khám phá được + toàn bộ những lý thuyết mà khoa
học chưa biết (nhưng vẫn luôn hiện hữu và được khám phá bổ xung dần dần qua phần đã
biết, và phần chưa biết chắc chắn sẽ luôn luôn lớn hơn rất nhiều so với phần đã biết).

4
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Tất nhiên tôi không phải là người biết rõ về cái phần “toàn bộ những lý thuyết mà khoa
học chưa biết” nhưng việc thiết lập nên một hệ thống định đề khung như vậy là điều mà
tôi cho là rất cần thiết. Cũng giống như hệ thống bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của
Mendeleev, mặc dù khoa học hiện nay chúng ta vẫn chưa thể tìm ra hết được mọi nguyên
tố trong đó, nhưng về cơ bản là chúng vẫn luôn luôn hiện hữu đâu đó ngoài kia.
Vậy “lý thuyết hiện thực tổng thể” là hệ thống các lý thuyết giả định mang tính tổng
quát diễn tả những cơ chế tồn tại luôn luôn sẵn có trong thế giới tự nhiên; những cơ chế
tồn tại được mặc định là luôn “có”, luôn “hiện hữu” theo một khả năng tồn tại nào đó cho
dù nền khoa học nhân loại có thể chứng minh được hay không theo những cách thức tiếp
cận thông thường như: tính toán, cân đo hoặc bằng bất kỳ những công cụ máy móc hiện
đại nào khác. Hay nói cách khác thì “lý thuyết hiện thực tổng thể” bao gồm tất cả mọi loại
hệ thống lý thuyết từ khái niệm tổng quát vào sâu chi tiết mô tả tất cả mọi hình thái tồn tại
của hiện thực, mỗi khái niệm sẽ diễn tả những khía cạnh khác nhau của hiện thực. Hệ
thống lý thuyết này mô phỏng một cách tổng quát nhất bản chất vận động của thế giới
quan, nó diễn tả tất cả những nhân tố đang hiện hữu trong thế giới hiện thực tổng thể vô
tận, tất cả sự vật hiện tượng luôn hiện hữu trải dài ở tất cả các biên. Vậy nó là như thế nào,
tôi sẽ diễn tả nó một cách tóm tắt theo các khái niệm được nêu dưới đây.

THUYẾT VỀ SỰ TỒN TẠI


Chắc chắn một điều là thế giới hiện thực dù có tồn tại theo những quy luật vận động
nào đi nữa thì nó sẽ luôn hiện hữu một cách tự nhiên nhất mà không cần bất cứ sự chứng
minh nào, vì bản chất của thế giới hiện thực tự nó đã luôn luôn thay đổi, vận động và luôn
hiện hữu độc lập khách quan so với nhận thức của mọi loài trong vũ trụ. Để vũ trụ vô tận
tồn tại và vận động được thì chắc chắn phải dựa trên một hệ thống các quy luật chân lý
cũng như các cơ cấu hiện hữu tổng quát được gọi là “thuyết về sự tồn tại”.
Thuyết này được tôi tổng hợp từ việc quán chiếu những điều quan sát được trong hiện
thực khách quan, sau đó so sánh và cảm nhận sự tương quan của nó đối với tầm vi mô và
vĩ mô của thế giới quan, từ đó suy nghiệm ra toàn bộ bức tranh hiện thực tổng thể rộng lớn
đến vô cùng tận, tất cả như một mắt xích liên hệ ăn khới với nhau tuần tự từ nhỏ cho tới
lớn và tiếp tục trải dài đến vô cùng ở mọi biên. Với cá nhân tôi thì “thuyết về sự tồn tại”
như một hệ tư tưởng về hiện thực khách quan có tính logic nhất mà tôi tuyệt đối tin tưởng.
Nếu các bạn có những niềm tin khác thì tôi xin nói trước rằng tôi đang kể những câu
truyện về các dạng lý thuyết có đặc tính suy nghiệm dựa trên những tư duy hợp lý chứ
không mang tính chứng minh, tuy vậy ít ra thì những câu truyện của tôi vẫn dựa vào sự
suy luận logic và như vậy còn hơn là phải tin vào 1 dạng lý thuyết giáo điều nào đó chỉ
biết có tin và phải tin vào một thứ gì đó huyễn hoặc mù mờ vô lý. Còn để chứng minh nó
đúng hay không thì đó sẽ là công việc của các nhà khoa học và tương lai tôi nghĩ chắc
chắc họ sẽ chứng minh được. Một số khái niệm mà tôi đề cập trong lý thuyết này có thể
nằm ngoài phạm vi nhận biết trực quan của con người và cũng như nằm ngoài các lý
5
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

thuyết khoa học hiện đại. Thuyết này diễn giải những khái niệm lớn, cấp cao, tầm vĩ mô,
khái quát, chung nhất cho đến những khái niệm nhỏ, cấp thấp, tầm vi mô, chi tiết… tất cả
đều liên quan chặt chẽ với nhau, nhằm mô tả đầy đủ nhất bức tranh của hiện thực vô tận.
Các bạn hãy hiểu rằng những đơn vị được diễn tả trong lý thuyết này chỉ mang tính
tương đối, tức là sẽ không có một giới hạn cụ thể nào được vạch ra, vì những gì được cho
là “giới hạn” chẳng qua chỉ là sự quy chiếu mà con người thiết lập để diễn tả về hiện thực,
khái niệm về một giới hạn cũng chính là biểu hiện cho giới hạn nhận thức của con người,
các vạch giới hạn nhiều khi chỉ là ảo tưởng mà chúng ta cho là vậy.
Nếu có thể diễn đạt thì bản chất thế giới hiện thực tổng thể thì nó giống như là những
trường năng lực chuyển biến rung động nhân quả tương tục trải dài liên tiếp nhau cho đến
vô cùng tận, sự hiện hữu của vũ trụ quan được ví như một bản giao hưởng khổng lồ của
các trường lực. Chúng ta không nên chỉ dựa vào những cảm nhận hạn chế của các giác
quan con người để đánh giá về thế giới hiện tượng là phải thế này hay phải thế kia, hay
phải theo một khuôn mẫu nào đó… tư duy như vậy sẽ không khác gì suy nghĩ của các thầy
bói khi đi xem voi. Các giác quan vật lý thật sự không thể giúp con người cảm nhận được
đầy đủ sự rộng lớn của bức tranh chân lý hiện thực tổng thể được gọi là “sự tồn tại”.

Khái niệm về “Sự tồn tại”


“Sự tồn tại” (STT) là cái hiện hữu tổng thể bao trùm tất cả, một sự hiện hữu tuyệt đối
vô tận, là sự vô tận các khả năng hiện hữu của mọi sự vật hiện tượng. STT chính là bản
chất của hiện thực, STT bao gồm vô tận các phương diện tồn tại, vô tận các cấp độ sự vật
hiện tượng và vô tận các khía cạnh hiện hữu của hiện thực khách quan. Hay nói cách khác
STT là sự chứa đựng tất cả những cái đã đang và sẽ có thể trở nên hiện hữu, bao gồm tất
cả mọi sự vật hiện tượng tồn tại ở tất cả các hình thái hiện hữu khác nhau, là sự kết nối
của tất cả mọi giới hạn cũng như sự liên tiếp của nhiều chuỗi vô hạn.
STT tức là mọi cái hiện hữu không có giới hạn cả về không gian, thời gian và các biên.
Không có điểm nào là khởi đầu hay kết thúc, không có cái lớn nhất cũng như không có cái
nhỏ nhất, STT không thể cân đong đo đếm nó mà chỉ có thể cân đong đo đếm với những
đơn vị trong nó theo một quy ước tạm tính. Mọi thứ trong nó được ước lượng dựa trên sự
giả lập về một hệ quy chiếu nhất định, khi được xét ở một phạm vi quy chiếu nhất định số
lượng của tất cả những đơn vị trong nó đều là vô hạn lượng ở mọi cấp độ và chủng loại.
STT là sự tuyệt đối của vô tận của những điều tương đối, bao gồm tất cả những cái được
cho là: “có”, “không có”, “không thật sự có” và “không thật sự không có”.
Một giới hạn có thể được xác định hay xem như tuyệt đối khi đem so sánh với nhân tố
này nhưng nó lại chỉ là tương đối khi đem so với một nhân tố khác và cứ như vậy trải dài
vô tận từ lớp nhỏ đến lớp lớn. Ví dụ như vũ trụ mà chúng ta thấy so với con người được
xem như vô tận, nhưng so với phạm vi “đơn vị tồn tại” cấp độ cao hơn thì nó cũng chỉ
được coi như đầu của một cây kim (hay bất kỳ vật nào như giọt nước, hạt cải...), và cứ như

6
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

vậy hình thành chuỗi tương tục trải dài cho đến vô cùng tận, nhưng điều đó cũng không
nói lên hết được định nghĩa của “sự tồn tại” mà đó mới chỉ là một khía cạnh hiện hữu của
STT mà thôi. Bất kỳ một sự vật, hiện tượng hay một đơn vị nào trong STT đều có tính phổ
biến tức là không có một đơn vị hay cá thể nào là duy nhất; hoặc nó chỉ là duy nhất khi
được đánh giá trong một giới hạn quy chiếu với những chuẩn mực hạn chế nhất định.
STT là sự khẳng định của tất cả mọi sự vật hiện tượng sẽ luôn có khả năng hiện hữu
trong những phạm vi giới hạn khác nhau không cần phải minh chứng, sẽ không một quyền
năng hay không một cá thể nào có thể vượt ra ngoài cái gọi là STT, hay nói cách khác
STT không có cái bên ngoài nó. STT có đầy đủ tính tương đối của tương đối, tuyệt đối của
tuyệt đối, tương đối của tuyệt đối và tuyệt đối của tương đối; hay nói cách khác nó có đầy
đủ nghĩa không, nghĩa có, nghĩa vừa không vừa có; và như thế tức là sẽ không có một sự
vật hay hiện tượng nào là không thể xảy ra trong STT.
Thậm chí STT bao gồm luôn cả “sự không tồn tại”, hay nói một cách khác thì “sự
không tồn tại” cũng chỉ là một khía cạnh của STT mà thôi, và những sự vật được cho là
không tồn tại cũng chỉ mang tính tương đối vì nó vẫn có thể hiện hữu ở một khía cạnh tồn
tại khác. Do tuỳ thuộc vào giới hạn quy chiếu nhất định của các nhân tố đang cảm dụng
mà một sự vật sẽ được cho là tồn tại hay không tồn tại nhưng thực chất sự vật đó vẫn có
thể sẽ tồn tại ở một cấp độ tồn tại, một “hệ tồn tại” hoặc một “đơn vị tồn tại” khác.
Giác quan và những nghiên cứu thí nghiệm dựa trên cơ sở kỹ thuật thông thường
không thể nào giúp con người nhận thức đầy đủ hết cái được gọi là “sự tồn tại”, con người
chỉ có thể dần dần khám phá và mở rộng nhiều hơn tầm hiểu biết của mình về hiện thực
bên trong STT xong sẽ không bao giờ là đủ cả. Nền khoa học hiện đại rất cần phải có một
sự chuyển hướng lớn về tư duy nếu muốn tiến xa hơn, chúng ta phải quán chiếu đi sâu vào
bên trong nội tại bản thể kết hợp với sự quán chiếu suy nghiệm thực tế và lập nên những
tiền đề khoa học mới và hợp lý hơn, bổ xung cho những hệ thống tư duy cũ đồng thời thay
thế những lý luận bảo thủ ngộ nhận và không còn tương thích với hiện thực nữa.
Mọi đơn vị trong “sự tồn tại” như: các “hệ tồn tại” (các vũ trụ), các “đơn vị tồn tại”
(các cấp độ sự vật), các “đơn vị thức” và các loại năng lực ở mọi cấp độ đều nhiều vô tận;
hình thành chuỗi thế giới tổng thể kéo dài vô cùng và sự kéo dài này không bao giờ kết
thúc cả ở phương diện vĩ mô và cả vi mô. Không có một điểm nào là khởi đầu hay một lằn
ranh nào là kết thúc cả, không có một dị điểm đặc biệt, cũng không thể tìm thấy có một sự
vật lớn nhất hay một sự vật nhỏ nhất hay một sự vật duy nhất, không có một khoảng
không nào thực sự trống, không hề có một nguyên nhân ban đầu nào. Khái niệm về một
nguyên nhân đầu tiên hay một cái vạch giới hạn nào đó chỉ là ảo tưởng do sự thiếu hiểu
biết của con người tạo nên mà thôi, tức là không hề có 1 vụ nổ Big Bang nào ở đây hết.
Bức tranh của hiện thực tổng thể nếu có thể nhìn thấy hết thì nó sẽ được mô tả như là
vô số các trường năng lực rung động chuyển biến giao thoa tương tác lẫn nhau trong
không thời gian một cách tương tục và liên tiếp như những chuỗi phản ứng trải dài mãi vô

7
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

cùng vô tận đến tất cả mọi cấp độ đơn vị tồn tại từ vi mô cho đến vĩ mô trong tất cả các
“hệ tồn tại”. Các sự vật nương nhau mà có, mà thành hình, mà hiện hữu.. những cá thể
không hề rời rạc so với cái tổng thể. Mọi nhân tố, mọi cá thể đều nằm trong một trật tự trật
tự chỉnh thể thống nhất, một cá thể không hề là cá biệt và không độc lập so với cái tổng
thể chung đó, mọi đơn vị trong sự tồn tại đều nhiều vô tận và đều liên quan đến nhau.
Không nên chỉ dựa vào những gì đã biết, những gì có thể nhìn thấy để áp đặt và đánh
giá những điều chưa biết đang hiện hữu, vì như vậy sẽ là một sự đánh giá khập khiễng và
bảo thủ. Khoa học luôn cần có tính tư duy cao, thậm chí là phải có tính linh cảm cao khi
đánh giá về hiện thực, đừng nên đưa ra những dẫn chứng mang tính giáo điều mà nói rằng
vấn đề nó phải là thế này và không thể như thế khác, bởi đây là một tiền đề mới hay là một
lý thuyết khung nền để tìm ra phần còn lại của những gì chúng ta chưa biết.
Các đơn vị trong “sự tồn tại” như các “đơn vị tồn tại” (các hành tinh, ngôi sao, mọi
loại sự vật…) đều có tính chất bất định vô thường biến hoại, và mọi sự so sánh giữa chúng
luôn trở lên khập khiễng do các hệ quy chiếu chỉ mang tính tương đối, do chúng có kết
cấu không gian và thời gian hoàn toàn khác biệt, và những khối sự vật cũng như năng
lượng luôn không ngừng được chuyển biến và tương tác qua lại vô tận.
Ví dụ: Các loại năng lực không bao giờ tồn tại mãi ở một trạng thái nhất định mà
chúng sẽ luôn thay đổi vận động qua các chu kỳ khác nhau để trở thành những sự vật khác
nhau, chính vì vậy mà tất cả các nhân tố hiện hữu không thật sự có tính chủ thể như sự
cảm quan hiện tại mà chúng đang thể hiện. Bản chất của tự nhiên là luôn luôn thay đổi, ví
dụ như chúng ta đang cảm nhận một sự vật và đặt tên cho nó là cái cây nhưng nó cũng chỉ
có thể là như vậy trong khoảng thời gian một hay hai năm hoặc mười năm (tất nhiên trong
thời gian này nó vẫn luôn thay đổi về hình dạng và kích thước cũng như các nguyên tử cấu
thành nên nó) nhưng trước đó nó chỉ là một hạt giống và tương lai thì nó sẽ chỉ là những
khúc gỗ, sau này có thể được đóng thành bàn ghế hoặc bị mục rữa, và như thế nó cũng sẽ
không còn là cái cây như trước nữa. “Cái cây” chỉ là một ngôn từ của con người nghĩ ra để
mô phỏng về một thực thể đang tồn tại và vận động trong tự nhiên mà thôi. Như vậy tất cả
mọi sự vật dù lớn hay nhỏ đều không hề thật có thường còn như cảm nhận hiện tại của
giác quan con người (vì chúng chỉ là ảo ảnh của hiện thực), nếu chúng ta càng phóng to sự
vật nên thì chúng ta càng dễ nhận thấy tính chất bất định vô thường của chúng.
Tất cả mọi sự vật trong thế giới tự nhiên đều vận động theo một xu hướng tiến hoặc
thoái trong một chu kỳ thành trụ hoại diệt, không có sự vật nào thực sự bất động theo đúng
nghĩa vì các nhân tố bên trong nội tại của nó vẫn luôn luôn vận động chuyển hoá và phân
rã trong từng khoảng khắc, và nó cũng luôn bị tác động bởi các nhân tố ngoại vi khác.
Không có sự vật hay năng lực nào mà không bị tác động bởi các năng lực hay sự vật khác
gần với nó, mọi sự vật vẫn luôn không ngừng bị tác động và chi phối lẫn nhau theo sự vận
động của vô số các tổ hợp trường năng lực ngoại vi ở tầm vĩ mô và tất cả những năng lực
đó tác động qua lại tạo ra chuỗi phản ứng nhân quả trùng trùng vô tận.

8
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

CÂU TRUYỆN THỨ HAI


KẾT CẤU CỦA SỰ TỒN TẠI
“Hệ tồn tại”
“Sự tồn tại” bao gồm vô hạn lượng các “hệ tồn tại”, mỗi “hệ tồn tại” sẽ phản ánh một
hình thái tồn tại khác nhau của “sự tồn tại”. Một “hệ tồn tại” là tổng hợp tất cả các chuỗi
cấp độ “đơn vị tồn tại” từ cấp độ nhỏ đến cấp độ lớn liên tiếp nhau trải dài đến vô cùng tận
và đều có cùng chung một “hệ quy luật gốc”, ví dụ như vũ trụ của chúng ta cũng chỉ là
một “hệ tồn tại”, nó trải dài vô tận ở cả 2 chiều tồn tại từ cấp vi mô cho đến cấp vĩ mô.
Hay nói cách khác một “hệ tồn tại” là tập hợp các chuỗi cấp độ “đơn vị tồn tại” có cùng
“hệ quy luật gốc” ở mọi cấp độ từ vô tận vi mô cho tới vô tận vĩ mô.
Sẽ không có một loại sự vật nào là không thể tồn tại vì nó có thể tồn tại trên một “hệ
tồn tại” nhất định nhưng khi so với “hệ tồn tại” khác thì nó có thể được xem như không hề
tồn tại, tức là trong cái gọi là “sự tồn tại” sẽ có vô hạn các vũ trụ với các kết cấu sự vật
cũng như đặc tính vận động hoàn toàn khác nhau. Dù trong “sự tồn tại” có vô hạn các “hệ
tồn tại” nhưng tất cả các “hệ tồn tại” vẫn luôn được hiện hữu, vận động dựa trên ba loại
quy luật thiết yếu cốt lõi. Và tất cả mọi sự vật hiện tượng trong mỗi “hệ tồn tại” đều phải
vận hành theo quy luật trật tự chung đó, ba quy luật này bao gồm:
1) Quy luật nhân quả:
Quy luật nhân quả hay còn gọi là quy luật nguyên nhân và kết quả là quy luật cốt lõi
của các “hệ tồn tại”, quy luật này bao trùm tất cả, là đại đạo của vũ trụ chi phối mọi sự vật
hiện tượng trong vũ trụ đó. Nó chi phối tất cả mọi hình thái hiện hữu, là tác nhân cho sự
hình thành và phát triển của mọi sự vật hiện tượng ở mọi cấp độ từ vi mô cho đến đến vĩ
mô, mọi sự vật trong “hệ tồn tại” đều được hình thành dựa trên cái nền của quy luật nhân
quả. Quy luật nhân quả là chuỗi phản ứng dây chuyền của các sự vật hiện tượng tương tác
với nhau dựa trên cơ sở đặc tính vận động nội tại của chúng qua đó hình thành các dòng
chảy nhân quả theo những xu thế tất yếu. Không một sự vật hiện tượng nào có thể tự
nhiên mà có, nếu cái gì đã hiện hữu thì chắc chắn cái đó phải có nhiều cái nhân duyên
trước đó tạo nên nó. Phải có nhiều nhân tố là nguyên nhân tương tác với nhau rồi sau đó
mới cho ra được một kết quả mới, và cứ như vậy những sự vật nhỏ cấu thành nên sự vật
lớn và dần dần lớn hơn nữa, các sự vật trước duyên với nhau mà hình thành các sự vật sau
và cứ như vậy trùng trùng các duyên phát khởi tương tác mà các sự vật được phát sinh.
Những cá thể hợp thành một tổng thể và cứ liên tục như vậy vô tận, hình thành chuỗi
các cấp độ tồn tại liên tiếp nhau từ vi mô cho đến vĩ mô. Hay nói cách khác nếu không có
các nguyên nhân làm tác nhân tương tác với nhau thì không bao giờ có kết quả, có nghĩa
là một kết quả phải bắt buộc được cấu thành từ nhiều nhân tố (hoặc ta có thể nói: một
nhân tố sẽ không thể nào cho ra một kết quả mới ngoài chính nó, mà phải cần thêm nhiều
nhân tố khác cùng làm tác nhân kết hợp với nhau thì mới cho ra kết quả mới được). Như

9
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

vậy sẽ không có một sự vật nào là có thể tự tồn tại độc lập hay tự nhiên sinh ra được, mọi
thứ đều liên quan chặt chẽ với nhau trong một kết cấu tổng thể hoàn chỉnh.
Ví dụ: một hạt đậu sẽ không thể tự vận động trở thành một cây đậu được, mà nó phải
được kết hợp bởi nhiều nhân tố khác duyên hợp với nhau tạo nên như: phải được trồng
xuống môi trường phù hợp là đất, phải được tưới nước thường xuyên, phải có ánh nắng,
phải có người tưới hay môi trường khí hậu thuận lợi, phải có phân bón và thời gian … sau
hết tất cả những tác nhân đó thì cây đậu mới được hình thành; hoặc như con người cũng
cần phải ăn, uống, thở, ngủ, nghỉ, vận động… mỗi ngày mới có thể duy trì được sự sống.
Các nhân tố dù là sự vật hiện tượng hay các loại năng lực đều được hình thành và vận
động bởi quy luật nhân quả, từ những đơn vị nhỏ cho đến những đơn vị lớn đều có sự liên
hệ tương quan ảnh hưởng đến nhau một cách ăn khớp như những chuỗi mắt xích trong
một bộ máy tự nhiên tổng thể. Luật nhân quả bao trùm tất cả và nó làm cho mọi thứ đều
liên quan đến nhau, nó luôn vận động theo một chuỗi vô số các sự kiện nhân quả liên tiếp
nhau, cái trước là một trong các tác nhân hình thành nên cái sau và cứ như vậy, sự kết hợp
nhân duyên giữa các sự vật hiện tượng làm cho mối tương quan giữa nhân và quả trải dài
vô tận, trùng trùng khởi phát ra vô số các sự vật hiện tượng khác nhau, các sự vật vì thế
nương nhau mà hình thành mà tồn tại, chúng đối đãi với nhau mà có tính hiện hữu.
Một nhân tố lớn sẽ luôn mang tính chất đặc điểm của những nhân tố nhỏ chứa bên
trong nó và là kết quả của sự kết hợp các nhân tố nhỏ đó, các nhân tố nhỏ bên trong khi
vận động chuyển biến nhiều hay ít thì cái nhân tố lớn chứa chúng cũng sẽ vận động
chuyển biến theo tương quan như vậy, mặt khác các ngoại lực tác động vào nhân tố lớn
nhiều hay ít chừng nào thì các nhân tố nhỏ bên trong cũng sẽ bị ảnh hưởng tương xứng
chừng đó. Nhiều đơn vị sự vật hình thành nên các khối sự vật, tổng hợp nhiều các khối sự
vật tạo ra thế giới sự vật và cứ như vậy chuyển biến tiếp diễn liên tục hình thành thế giới
quan vô cùng tận. Quy luật nhân quả là quy luật nền cho mọi quy luật khác vận động.

2) Quy luật bảo toàn:


Quy luật này là một phần tính chất thuộc quy luật nhân qủa tổng thể, tất cả mọi loại
năng lực vận động phát sinh trong vũ trụ đều được bức xạ từ vô tận các đơn vị “thức” ở
nhiều cấu độ tiến hóa khác nhau và các loại năng lực này kể từ khi được khởi phát đã luôn
được bảo toàn, năng lực tích cực rồi sẽ trở về với tích cực và ngược lại. Chúng sẽ không
bao giờ mất đi, mà chúng chỉ có thể chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, từ sự vật này
sang sự vật khác, từ đơn vị này sang đơn vị khác và cuối cùng quay trở lại nơi phát khởi ra
năng lực đó một cách trọn vẹn. Các năng lực có khi hội tụ có khi phân tán, có lúc hợp rồi
cũng sẽ có lúc tan và ngược lại, có lúc là năng lực nhưng có lúc là sự vật và ngược lại, có
khi chúng hiện hữu trong hình thái này nhưng có khi lại ở hình thái khác và các năng lực
này luôn luôn không ngừng chuyển biến vận động liên tục và tuần hoàn.
Khi một nhân tố bị tác động bởi một năng lực ngoại vi thì nó sẽ phát sinh một phản lực
(do các tác nhân đối lập của nội tại) đó hoặc nó sẽ tích luỹ các năng lực ngoại vi và làm

10
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

thay đổi bản chất nội tại trong nhân tố đó. Sự mất đi hay sinh ra của các năng lực chỉ là
cảm nhận chủ quan của con người, thực chất chúng chỉ chuyển hoá sang các dạng năng
lực khác hoặc tích tụ trong các sự vật khác, tùy thuộc vào sự tác động của những nhân tố
ngoại vi mà những gì quan trắc được cũng chỉ là những ảo ảnh của hiện tại do tính cảm
quan tương tác của không gian và thời gian kết hợp hình thành mà thôi.
Do có quy luật bảo toàn mà tất cả mọi sự vật trong “hệ tồn tại” đều trở lên vô thường,
luôn luôn vận động, luôn luôn chuyển hóa năng lực qua lại lẫn nhau và đó là lý do các sự
vật luôn phải trải qua quá trình sinh diệt liên tục (thành trụ hoại không), cái gì đã có hình
tướng thì tất yếu phải có lúc tan hoại, không có hình thái sự vật nào là trường tồn cả.
Không có sự vật nào tự nhiên mà có và chúng cũng không tư nhiên mất đi, mọi sự vật
luôn được cấu thành từ vô số những đơn vị khác bên trong và đặc tính của chúng phần lớn
phụ thuộc vào những đơn vị bên trong đó, không có sự vật nào là thật sự không có vì
chúng có thể hiện hữu ở một “hệ tồn tại” khác hay một “đơn vị tồn tại khác”.
3) Quy luật âm dương:
Âm và dương là 2 mặt đối lập trong cùng một sự vật, tất cả mọi sự vật một khi đã tồn
tại luôn hàm chứa 2 mặt âm dương theo một tỷ lệ nhất định; nếu không có sự đối trọng âm
dương thì sự vật sẽ không thể hình thành, âm dương tồn tại song song với nhau như hình
với bóng. Hay nói cách khác âm dương là những cặp năng lực vận động đối lập nhau được
phát khởi cùng lúc bởi các đơn vị “thức” ở hai xu thế hình thái vật chất tồn tại đối lập, và
một đơn vị “thức” luôn thay đổi chu kỳ âm qua dương sau mỗi lần hình thành vật chất.
Các nhân tố bên trong một sự vật cũng có tồn tại 2 mặt đối lập âm dương và chúng có
thể không quân bình nhau về năng lực, tức là bên trong một sự vật sẽ có thể tồn tại nhiều
cặp âm dương đối kháng chứ không chỉ một. Hai mặt âm dương thể hiện 2 xu hướng tồn
tại của các sự vật hiện tượng, có những sự vật hiện tượng thể hiện đặc tính âm nhiều hơn
và có những sự vật hiện tượng mang đặc tính dương nhiều hơn, do sự chênh lệch về tỷ lệ
đặc tính âm dương ở mỗi sự vật mà chúng có tính chất tương tác khác nhau khi tiếp xúc
với thế giới hữu quan.
Mọi sự vật hay mọi đơn vị trong nó đều có những cặp đối lập và chúng sẽ luôn có xu
hướng trở nên cân bằng. Một khi các năng lực vận động đối lập trong nội tại của một sự
vật trở nên cân bằng thì một sự vật sẽ trở nên ổn định bền vững, hoặc nếu một trong hai bị
triệt tiêu hoàn toàn thì sẽ làm cho sự vật đó hoặc bị hủy diệt hoặc sẽ bị chuyển biến thành
một dạng sự vật khác, do sự tác động không ngừng của các năng lực ngoại vi làm cho các
năng lực nội tại đối lập trở nên mất cân bằng, bởi bị mất cân bằng làm cho sự vật phát sinh
đấu tranh nội tại làm chúng hoặc sinh trưởng phát triển hoặc bị thoái hoá huỷ hoại. Chính
sự mất cân bằng giữa các năng lực đối lập tạo ra chuỗi các sự vận động tương tác và
chuyển biến qua lại giữa các năng lực với sự vật được diễn ra liên tục đến vô cùng.
Ví dụ như trong mỗi nguyên tử luôn có số lượng điện tích dương và điện tích âm bằng
nhau và ở mỗi nguyên tử khác nhau sẽ có số lượng điện tích âm dương khác nhau; có

11
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nóng thì phải có lạnh và nhiệt độ ở mỗi sự vật là khác nhau và cũng tùy thời điểm, có tĩnh
rồi lại đến động, có sáng thì sẽ có tối…
Đặc tính âm dương là một đặc tính quan trọng trong một hệ tồn tại, trên đây chỉ là tóm
lượt chung về một số các tính chất về âm dương bên trong mỗi sự vật, quy luật âm dương
còn hiện diện ở nhiều khía cạnh khác trong hệ tồn tại và chúng ta sẽ đi sâu vào chi tiết về
sự vận động của chúng cũng như các lý thuyết âm dương rõ hơn ở các phần sau.

“Hệ quy luật gốc”


Một “hệ quy luật gốc” là các đặc tính quy luật vận động vận hành chung cho toàn thể
một “hệ tồn tại” và do đó các nhân tố hay các đơn vị trong cùng một “hệ tồn tại” cũng sẽ
có cùng chung một “hệ quy luật gốc”. Các “hệ tồn tại” khác nhau sẽ không có một sự vật
hiện tượng nào giống nhau, sự biến thiên của các “hệ quy luật gốc” là vô cùng tận và vì
thế cũng sẽ có vô cùng tận các loại “hệ tồn tại” và do đó cũng có vô cùng tận các loại sự
vật hiện tượng khác nhau.
Các sự vật hiện tượng trong một “hệ tồn tại” sẽ không thể tồn tại được ở một “hệ tồn
tại” khác vì chúng không tương thích về “hệ quy luật gốc”. Ví dụ quy luật nhân quả và
quy luật âm dương là các quy luật chính trong hệ quy luật gốc hình thành nên toàn bộ vũ
trụ (một hệ tồn tại) mà chúng ta đang hiện hữu, những hệ tồn tại khác nhau sẽ có những cơ
chế vận động nhân quả và âm dương hoàn toàn khác biệt.

“Hệ quy luật cơ bản”


Mỗi “đơn vị tồn tại” sở dĩ khác biệt nhau do được xây dựng từ những “hệ quy luật cơ
bản” khác nhau, các “hệ quy luật cơ bản” này là tổ hợp kết cấu quy chuẩn lõi của các loại
đơn vị thức (ở nhiều cấp độ tiến hóa) tạo nên các xu thế đặc tính vận động riêng biệt cho
từng “đơn vị tồn tại”. Một “hệ quy luật cơ bản” được hình thành trên nền tảng của “hệ quy
luật gốc” nhưng không làm mất đi những quy luật chung của “hệ quy luật gốc” đó. Vì có
các “hệ quy luật cơ bản” khác nhau nên mỗi loại “đơn vị thức” sẽ thể hiện ra những hình
thái kết cấu vật chất cũng như tính chất vận động khác nhau, các “đơn vị tồn tại” khác
nhau có thể cùng hoặc khác các đặc tính vận động nội tại.

“Hệ quy chiếu”


Là một hệ thống những chuẩn mực các lý thuyết và các đơn vị tính quy ước được thiết
lập bởi một chủng loài sinh vật có trí tuệ cao nhằm mô phỏng một cách rõ nét nhất các
quy luật vận hành của“hệ quy luật cơ bản” ở một “đơn vị tồn tại” mà họ đang quán chiếu.
Mỗi “đơn vị tồn tại” khác nhau thì sẽ cần phải dùng những “hệ quy chiếu” khác nhau để
diễn tả, đánh giá hoặc cân đo. Ví dụ như trái đất của chúng ta là một thế giới quan và nó
chỉ là một “đơn vị tồn tại” nhất định trong một “hệ tồn tại”, nó có một “hệ quy chiếu”
chung mà hệ thống khoa học của con người đang xây dựng trên nền tảng đó. Ở một “đơn
vị tồn tại” khác (một hành tinh khác) có thể chủng loài ở đó sẽ dùng các hệ quy chiếu
hoàn toàn khác (so với con người) khi tiến hành nghiên cứu về khoa học tự nhiên.
12
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

“Đơn vị tồn tại”


Là tên gọi chung cho toàn thể mọi loại hình thái sự vật hiện hữu trong vũ trụ từ nhỏ
đến lớn, hay nói cách khác một “đơn vị tồn tại” là hình thái biểu hiện cho một chu kỳ hiện
hữu (vòng đời vật chất) của một đơn vị “thức” bức xạ tạo nên. Có những “đơn vị tồn tại”
cực lớn như “ngân hà” mà chúng ta đang sống được bức xạ từ một đơn vị “thức” cực lớn
(thức là nhân tố hình thành vạn vật trong vũ trụ và chúng sẽ được giải thích chi tiết ở các
phần sau), và cũng có các “đơn vị tồn tại” khác nhỏ hơn như các hành tinh, các ngôi sao,
nguyên tử, các tế bào, cây cỏ, các loài sâu bọ, các loài thú, con người, … là các loại vật
chất được bức xạ từ các đơn vị “thức” nhỏ hơn ở nhiều dạng cấp độ tiến hóa khác nhau.
Chúng ta có thể nói một “đơn vị tồn tại” cũng chính là một chu kỳ hiện hữu mang hình
thái vật chất của một đơn vị “thức”, hay nói cách khác một đơn vị “thức” sẽ luôn có một
chuỗi các chu kỳ “đơn vị tồn tại” hiện hữu liên tiếp nhau sinh diệt tương tục. Mỗi một
“đơn vị tồn tại” đều có những đặc tính vận động nội tại riêng khác, và có khoảng thời gian
hiện hữu riêng khác và thức sẽ luôn đảo chiều hình thái hiện hữu qua mỗi chu kỳ tồn tại từ
âm qua dương và ngược lại. Do có các đặc tính vận động bên trong nội tại của mỗi “thức”
là khác nhau nên mỗi loại “đơn vị tồn tại” đều là sự biểu hiện của những loại hình thái kết
cấu sự vật khác nhau trong vũ trụ, các “thức” nhỏ không phải được tạo ra từ “thức” lớn mà
chúng chỉ đơn giản là đang đan xen kết hợp với nhau trong một tổng thể thống nhất.
Các “thức” được xem là nơi phát khởi ra mọi loại năng lực, thức làm phát sinh những
phản ứng tương tác qua lại giữa các sự vật và các năng lực qua đó hình thành nên các chu
kỳ sinh diệt tương tục cho mọi loại sự vật. Hay nói cách khác sự chuyển biến qua lại giữa
vật chất và năng lực làm cho vật chất có các chu kỳ hiện hữu tương tục vô tận, vật chất
được hình thành từ sự kết tụ các năng lực và các năng lực cũng sẽ được giải phóng khi vật
chất bị phân rã, có nghĩa là năng lực và sự vật đều không khác biệt về bản thể, chúng chỉ
khác nhau về tính chất hiện hữu mà thôi. Quá trình kết tụ năng lực để thành vật chất cơ
bản diễn ra đơn giản hơn nhiều so với các vật chất cấp cao, còn quá trình hình thành vật
chất cấp cao lại được diễn ra qua nhiều chu kỳ chuyển biến với những khoảng thời gian rất
lớn. Quá trình chuyển hoá từ sự vật thành năng lực hay ngược lại diễn ra do sự mất cân
bằng của những năng lực nội tại bên trong hoặc do bị sự tác động của những năng lực đối
lập hoặc tương thích từ bên ngoài môi trường.
Các “đơn vị tồn tại” nói chung hay các loại vật chất nói riêng đều có tính chất sinh diệt
tương tục, một vòng tuần hoàn sinh diệt của một sự vật sẽ luôn được trải qua bốn giai
đoạn chính là: giai đoạn hình thành, giai đoạn phát triển, giai đoạn suy thoái và giai đoạn
hoại diệt; rồi lại tiếp tục hình thành các vòng sinh diệt mới ở một hệ thống kết cấu mới; và
cứ tuần hoàn như vậy cho đến vô cùng. Sự chuyển biến giữa các giai đoạn là do “đơn vị
tồn tại” bị tác động hay hấp thụ bởi các năng lực ngoại vi có tính tương thích hoặc không
tương thích với các đặc tính năng lực vận động nội tại. Và tùy thuộc vào việc năng lực tác
động ngoại vi có cùng hoặc khác nhiều hay ít đặc tính cấu thành nên sự vật đó mà sự vật
sẽ bị suy thoái hay phát triển.
13
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

CÂU TRUYỆN THỨ BA


NHỮNG NGUYÊN LIỆU CẤU THÀNH VŨ TRỤ
“Nhân tố nền”
Là nhân tố bản thể có vai trò như chất liệu gốc hình thành nên toàn bộ vũ trụ, hay nói
cách khác vũ trụ có thể trở nên hiện hữu được là vì có sự tồn tại dày đặc của các đơn vị
“nhân tố nền” trải dài vô tận, nhân tố này hiện hữu ở mọi cấp độ tồn tại từ nhỏ đến lớn
trong một “hệ tồn tại”. Nó là nhân tố cốt lõi phát sinh ra các loại năng lực cấu thành mọi
“đơn vị tồn tại”, nó là nguyên liệu chính cho toàn bộ một “hệ tồn tại” vận hành, nó đồng
khắp và vô tận về số lượng trong một “hệ tồn tại” (tất cả các “nhân tố nền” trong cùng một
“hệ tồn tại” sẽ cùng có chúng một hệ quy luật gốc), ngay cả một khoảng không dù rất rất
nhỏ cũng vẫn có sự tồn tại của các đơn vị “nhân tố nền”. Trong vũ trụ có vô số những đơn
vị “nhân tố nền” đã được chuyển biến thành những đơn vị “thức” và có những “nhân tố
nền” chưa chuyển biến. Một khi đã chuyển hóa thành đơn vị “thức” thì chúng sẽ không
bao giờ quay trở lại trạng thái “nhân tố nền” ban đầu nữa và chúng sẽ tiếp tục quá trình
vận động phát triển và tiến hóa từ các “thức” cấp độ thấp cho đến “thức” cấp độ cao. Cấu
trúc bên trong một đơn vị “nhân tố nền” bao gồm hai thành phần cốt lõi đó là “nhân tố
định” và “nhân tố bất định”, chúng được khái niệm như sau:
1) “Nhân tố định”:
“Nhân tố định” là thành phần cơ bản của một đơn vị “nhân tố nền” và là hệ nhân trục
ổn định cho “nhân tố bất định” vận động trong môi trường đó và là trạng thái đối lập của
“nhân tố bất định”. “Nhân tố định” có đặc tính tồn tại vô tận và lưu giữ các dạng năng lực
một cách vô hạn, nó không bị sinh diệt tương tục, không bị tác động bởi các năng lực
ngoại vi, không bị tác động bởi thời gian và không gian vật lý, nó cũng không có một giới
hạn cụ thể, nó là cái không gian bản thể rỗng lặng bên trong mỗi đơn vị “nhân tố nền”, nó
lưu trữ tất cả các khối năng lực tập khí cũng như kiết sử mà “thức” huân tập và nó là môi
trường để “nhân tố bất định” vận hành và phát khởi ra môi trường bên ngoài mọi dạng
năng lực. Một “nhân tố định” giống như là một hệ không gian tâm trục mà “nhân tố bất
định” giao động quanh trục đó với những chu kỳ liên tiếp và không ổn định.
2) “Nhân tố bất định”:
Là nhân tố phát khởi ra mọi loại năng lực vận động của một “nhân tố nền”, nhân tố này
cũng là nguồn gốc phát sinh ra mọi loại năng lực của một đơn vị “thức”, nghĩa là nó làm
cho “thức” có khả năng bức xạ được vô số các dạng trường năng lực. Nhân tố này luôn
giao động và luôn không ngừng thay đổi khi bị tác động bởi các năng lực ngoại vi, tùy
thuộc vào tính chất vận động tại những thời điểm khác nhau mà “nhân tố bất định” có thể
sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều loại trường ngoại vi khác nhau. Thông qua quá trình tương tác
với các năng lực ngoại vị, “nhân tố bất định” sẽ vận động hình thành nhiều khối năng lực
có quán tính khác nhau bên trong một đơn vị “thức” (các khối năng lực này được lưu trữ
bên trong “nhân tố định”), các khối năng lực này gọi là các khối “kiết sử” hoặc “tập khí”

14
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

của “thức”, chúng là yếu tố cấu thành những cơ chế vận động nội tại riêng khác cho mỗi
đơn vị “thức”, các khối năng lực được “nhân tố bất định” tạo nên cũng là các nguồn khởi
phát mà một đơn vị “thức” có thể bức xạ ra bên ngoài vô số các loại trường khác nhau và
qua đó thức có khả năng biểu hiện ra vô số các hình thái sự vật khác nhau.

“Thức”
Khi một đơn vị “nhân tố nền” bị những khuấy động ban đầu khác nhau với những gia
tốc lực khác nhau, nghĩa là “nhân tố bất định” bên trong nó bị tác động bởi các loại trường
năng lực ngoại vi khác nhau sẽ làm biến đổi các đơn vị “nhân tố nền” ban đầu giống nhau
thành các đơn vị “thức” riêng khác. Do bị những năng lực khuấy động ban đầu khác nhau
mà vô hạn lượng các “nhân tố nền” đã được chuyển hóa thành vô hạn các đơn vị “thức”
với những cơ số vận động nội tại có quán tính khác nhau và chúng dày đặc trong vũ trụ.
Và khi một đơn vị “nhân tố nền” đã bị khuấy động để trở thành một đơn vị “thức” thì
chúng sẽ không bao giờ trở lại trạng thái “nhân tố nền” ban đầu nữa. Do mỗi đơn vị
“thức” từ khi hình thành đều có cơ cấu quán tính vận động riêng khác, do đó các năng lực
nội tại giữa chúng có thể phản ứng, tương tác và chuyển biến qua lại với thế giới ngoại vi
(vô số các thức khác) theo những tính chất khác nhau.
Một đơn vị “thức” từ khi hình thành sẽ luôn xuất sinh ra các chu kỳ hiện hữu của chính
nó, các chu kỳ hiện hữu này gọi là “đơn vị tồn tại”, tức là sau khi một “đơn vị tồn tại” bị
hủy hoại (thức kết thúc một chu kỳ hiện hữu = vòng đời vật chất) thì “thức” cấu thành nên
nó dựa trên những yếu tố nhất định sẽ tiếp tục hình thành nên một “đơn vị tồn tại” mới có
chu kỳ tồn tại mới lâu hơn hoặc ngắn hơn, và chuỗi chu kỳ sinh diệt này sẽ không bao giờ
bị dừng lại cho đến khi đơn vị “thức” đạt đến trạng thái tiến hóa cao nhất. Thông qua quá
trình vận động tích lũy năng lực ở mỗi chu kỳ hiện hữu mà một đơn vị “thức” sẽ có những
mức độ tiến hoặc thoái hóa nhất định, qua đó bức xạ nên một chu kỳ “đơn vị tồn tại” mới
có sự khác biệt nhất định so với chu kỳ “đơn vị tồn tại” cũ.
Mỗi đơn vị “thức” đều có cơ cấu vận động nội tại như một loại “biến số bất định”
riêng khác được kế tục qua nhiều chu kỳ hiện hữu, biến số này sẽ chẳng bao giờ ngừng
cho đến khi “thức” đạt đến trạng thái tiến hóa cuối cùng. Vì vậy trong vũ trụ có vô số các
đơn vị “thức” ở nhiều cấp độ tiến hóa khác nhau và chúng chính là nhân tố chính cấu
thành mọi loại vật chất từ cấp thấp đến cấp cao.
Các đơn vị “thức” luôn có sự tác động và liên kết nhân quả với nhau theo một tỷ lệ
nhất định cấu thành nên trật tự vũ trụ, tức là không có một “thức” nào có thể thật sự độc
lập trong vũ trụ, các “thức” mạnh có thể phát sinh năng lực tác động đến các “thức” yếu
hơn chúng nhưng phải hội đủ các điều kiện cho phép (nhân duyên). Có nghĩa là một đơn
vị “thức” cỡ lớn cũng tác động năng lực vào vô số các đơn vị “thức” nhỏ ở nhiều cấp độ
tiến hóa khác nhau và các trường giữa chúng tương tác với nhau hình thành nên mọi loại
sự vật hiện tượng, hay nói cách khác mọi loại sự vật hiện tượng mà chúng ta thấy chỉ là
kết quả của sự kết hợp giao thoa giữa các loại trường do các thức bức xạ tạo lên.
15
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

“Tổ hợp thức”


Các đơn vị “thức” khi đủ các điều kiện tương thích nhất định có thể liên kết với nhau
thành 1 khối thức có cùng đặc tính vận động nội tại gọi là “tổ hợp thức”. Nghĩa là khi các
“thức” có chung một xu hướng tính chất vận động sẽ tương thích nhau và kết hợp những
điều kiện tương tác phù hợp sẽ có thể liên kết được với nhau hình thành một “tổ hợp thức”
và mỗi “tổ hợp thức” khác nhau sẽ có những đặc tính vận động khác nhau. Các “tổ hợp
thức” được hình thành khi các năng lực nội tại của các “thức” tương thích nhau làm giao
thoa và cô đặc các trường năng lượng xung quanh chúng tạo nên một loại cấu trúc vật chất
nhất định. Hay nói cách khác tất cả mọi loại vật chất từ nhỏ đến lớn trong vũ trụ đều được
cấu thành do sự cô đọng trường năng lượng của các “tổ hợp thức”.
Các “tổ hợp thức” đồng dạng sẽ tập trung nhiều hơn và hình thành nên các khối vật
chất lớn hơn tạo nên vô số các loại vật chất khác nhau như: các vùng không gian, năng
lượng, các chất thể khí, các chất lỏng, các chất rắn, các loại chất vô cơ và hữu cơ… , chính
sự khác biệt về các đặc tính vận động nội tại mà nhiều loại “tổ hợp thức” khác nhau có thể
tạo ra vô số các loại cấu trúc vật chất khác nhau. Khi các “thức cơ bản” ở giai đoạn đầu
khi hình thành được “tổ hợp thức” thì chúng sẽ tự bức xạ các dạng trường không gian ổn
định, tổng hợp nhiều năng lực như vậy tạo thành các vùng không gian rộng lớn trong vũ
trụ, hoặc cao hơn là các dòng năng lực trôi chảy trong vũ trụ cho đến khi chúng bị hấp thụ
bởi đơn vị thức cấp cao hơn để hình thành nên một chu kỳ hiện hữu của thức cấp cao đó.
Các dòng năng lực thuần hay các thức cấp thấp cũng có thể bị hấp thụ bởi các “tổ hợp
thức đa cấp độ” có một mức độ tương thích nhất định với chúng. Nói cách khác các đơn vị
“thức” ở cấp độ tiến hóa cao sẽ có khả năng hấp thụ vô số các đơn vị “thức” hoặc các “tổ
hợp thức” ở cấp độ thấp có đặc tính vận động tương đồng ở một mức độ nhất định với nó
tạo nên các dạng “tổ hợp thức đa cấp độ” và qua đó có thể hình thành các loại vật chất cao
cấp phức tạp hơn như: các loại tế bào, cây cỏ, các hành tinh, động vật, ngôi sao…

Sự vận động của các loại “trường”


“Trường” là các dạng sóng năng lực bao phủ quanh “thức” và do “thức” bức xạ tạo
nên, một đơn vị “thức” từ khi hình thành sẽ liên tục bức xạ ra vô số các loại “trường” có
nhiều tính chất khác nhau, do có khả năng bức xạ ra các loại “trường” mà các thức riêng
biệt có khả năng kết thành “tổ hợp thức”. Mỗi đơn vị “thức” do có các đặc tính quy luật cơ
bản khác nhau nên chúng sẽ bức xạ ra nhiều loại “trường” khác nhau và các đơn vị “thức”
ở cấp độ tiến hóa càng cao thì sẽ càng bức xạ ra được nhiều loại trường đặc biệt hơn.
Các “tổ hợp thức” thì bức xạ ra “trường” mạnh hơn một đơn vị “thức” trong nó, các
đơn vị “thức” bên trong có cùng đặc tính vận động nên hình thành một “tổ hợp thức” có
cùng một vùng trường liên kết tổng thể chung. Chính sự giao thoa giữa nhiều loại
“trường” khác nhau của nhiều nhóm “tổ hợp thức” khác nhau hình thành nên các loại vật
chất khác nhau. Hay nói cách khác thì mọi loại vật chất trong vũ trụ có thể trở nên hiện
hữu trực quan được đều do sự giao thoa đan xen của rất nhiều loại trường của nhiều loại
16
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

thức ở nhiều cấp độ tiến hóa khác nhau tổng hợp bức xạ nên. Qua đó ta có thể hiểu rằng
mọi sự vật dường như không thật có (không có tính chủ thể riêng biệt), chúng chỉ là những
khối liên kết giả hợp do sự đối đãi nhau của các dạng trường năng lực mà có thể trở lên
hiện hữu, nếu mất đi một trong các trường năng lực tạo tác quan trọng hoặc cơ bản thì vật
chất phụ thuộc cũng sẽ tự nhiên bị hủy hoại (ví dụ như nếu Trái Đất chỉ cần mất đi trường
trọng lực thì mọi sự sống trên bề mặt của nó cũng sẽ lập tức bị hủy diệt).
Trong vũ trụ có vô số các loại trường khác nhau đan xen, ngay cả một khoảng không
rất nhỏ cũng vẫn có sự hiện hữu của rất nhiều loại trường đan xen khác nhau, các trường
là điều kiện cần có để phát sinh được các dạng hình thái sự vật (vật chất trở nên hiện hữu
trên nền của vùng trường chung), ví dụ một “đơn vị tồn tại” lớn như trái đất của chúng ta
cũng được hình thành do sự cộng hưởng trường của một đơn vị “thức” chính (tâm thể của
trái đất) giao thoa kết hợp với các loại trường vĩ mô (các bức xạ từ tâm thể ngân hà) đồng
thời thu hút vô số trường vi mô (của các đơn vị thức nhỏ hơn) qua đó làm cho đơn vị
“thức” chính đó kết tụ quanh nó vô số các dạng vật chất nhỏ để hình thành nên quả đất.
Mỗi một đơn vị “thức” sẽ luôn hình thành các chu kỳ hiện hữu vật chất liên tiếp nhau,
sự khác biệt giữa chu kỳ trước và sau luôn là sự đảo chiều âm dương, nghĩa là “thức” sẽ
bức xạ ra một chu kỳ hiện hữu dương (vật chất hữu hình) và sau khi chu kỳ dương tan
hoại thì thức sẽ bức xạ ra một chu kỳ hiện hữu âm (vật chất vô hình), và cứ như vậy cho
đến vô cùng tận. Nghĩa là ở chu kỳ dương thì “thức” bức xạ ra các loại trường năng lượng
đặc tính dương tạo nên các dạng vật chất hữu hình tương thích với mọi “thức” khác cũng
ở chu kỳ dương (ở mọi cấp độ tiến hóa) làm hình thành nên toàn bộ thế giới hữu hình. Sau
khi kết thúc chu kỳ dương thì thức sẽ chuyển sang bức xạ các loại trường năng lượng đặc
tính âm và làm hình thành các dạng vật chất vô hình đồng thời nó tương thích với tất cả
mọi “thức” khác cũng đang ở chu kỳ âm hình thành nên toàn bộ thế giới vô hình.
Hai thế giới hữu hình và vô hình luôn luôn đồng thời tồn tại song song do hai nhóm
thức (ở mọi cấp độ) đồng thời hiện hữu ở hai dạng chu kỳ đối lập nhau là nhóm thức chu
kỳ dương và nhóm thức chu kỳ âm. Hay nói cách khác thì quá trình đảo chiều âm dương
này vận hành liên tục và tồn tại song với sự phát triển ở mọi cấp độ tiến hóa của thức. Các
thức ở cùng loại chu kỳ sẽ tương thích kết hợp với nhau, dương với dương và âm với âm,
từ các thức bức xạ trường lớn (như thức ngân hà) tương thích đồng bộ đến mọi thức bức
xạ trường nhỏ hơn trong nó (như thức trái đất, các ngôi sao, vật chất…) hình thành hai loại
thế giới quan song song đồng thời tồn tại như hai mặt của một vũ trụ tổng thể đó là thế
giới hữu hình và thế giới vô hình. Có những vị trí trong vũ trụ mà hai thế giới này rất tách
biệt nhau: sự phân cực âm dương lớn hoặc có những vị trí dương thịnh âm suy hay ngược
lại cũng có những vị trí âm thịnh dương suy. Nhưng cũng có những vị trí mà cả hai thế
giới được kết hợp hài hòa với nhau theo một tỷ lệ nhất định tùy theo sự giao thoa hòa hợp
âm dương của các đơn vị thức ở vị trí đó, những vị trí hài hòa âm dương rất cao gọi là
những cõi giới siêu nhiên.

17
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Trường thời gian


“Trường thời gian” là một dạng trường năng lực mang đặc tính cảm quan vận động của
một đơn vị “thức”, làm cho các sự vật trong bên trong vùng không gian quanh thức có thể
vận động theo một mức độ nhanh chậm nhất định. Như vậy sự cảm quan về thời gian của
mỗi một đơn vị “thức” là hoàn toàn khác nhau, sự vật có kết cấu không gian càng cô đặc
bao nhiêu thì vận tốc của năng lực “trường thời gian” bên trong sự vật đó sẽ trở nên trôi
nhanh bấy nhiêu. Như vậy nghĩa là khi chúng ta ở trên những hành tinh khác nhau tùy
thuộc vào độ cô đặc không gian trên mỗi hành tinh mà thời gian ở các hành tinh sẽ trôi
nhanh chậm khác nhau. Đồng thời tất cả chúng ta đang chịu sự ảnh hưởng bởi trường thời
gian của trái đất và trái đất chịu sự ảnh hưởng của trường thời gian ngân hà và ngân hà lại
chịu sự ảnh hưởng của các trường thời gian lớn hơn nó, hay nói cách khác cấp độ đơn vị
tồn tại càng nhỏ bao nhiêu thì thời gian trôi càng nhanh bấy nhiêu và ngược lại.
Tùy thuộc vào đặc tính nội tại của mỗi vùng không gian mà sự vật ở đó sẽ có tính cảm
quan riêng về thời gian, hay nói cách khác tổng hợp các đơn vị “thức” có cùng đặc tính
vận động nội tại tạo nên một vùng “trường thời gian” giao thoa gọi là một hệ trường thời
gian chung cho vùng đó và tất cả các sự vật hiện tượng trong “hệ trường thời gian” này sẽ
đều có chung sự cảm quan về thời gian. Sự vận động của “trường thời gian” ở mỗi khu
vực trong vũ trụ là hoàn toàn khác nhau, tức là tùy vào những vị trí khác nhau trong vũ trụ
do có sự khác biệt về trọng trường không gian mà tính vận động của năng lực “trường thời
gian” là riêng khác vì vậy ở mỗi nơi khác nhau ta có thể phải dùng những hệ quy chiếu
riêng phù hợp cho mỗi vùng đó để thiết lập các phương trình về thời gian.

Trường không gian


Mỗi một đơn vị “thức” sẽ tạo nên quanh nó một “trường không gian” nhất định khi nó
được hình thành. Trường không gian thì có hai chiều âm dương khi trải qua hai chu kỳ
hiện hữu âm dương của thức, nghĩa là ở chu kỳ dương thì thức bức xạ ra trường không
gian dương và ngược lại, qua đó các tổ hợp thức đối lập hình thành hai chiều không gian
âm và dương song song với nhau. Các đơn vị “thức” đồng dạng có thể kết hợp giao thoa
các “trường không gian” của mình với nhau tạo nên vùng “trường không gian” chung nhất
rộng lớn, và khi một đơn vị “thức” khác biệt đi vào bên trong vùng “trường không gian”
chung này thì khoảng “trường không gian” do nó tạo thành có độ co giãn khác biệt so sới
vùng “trường không gian” chung, và sự chênh lệch giữa các tiểu vùng này gọi là tính dị
biệt của không gian, chính những dị biệt này làm cho không gian có những đường giãn
nứt và trở nên không hề ổn định. Một khoảng không gian rộng lớn là sự kết hợp của nhiều
“trường không gian” tương thích nhau được bức xạ bởi vô số đơn vị “thức cơ bản”.
Do đó khoảng cách giữa hai sự vật trong không gian có thể không phải hoàn toàn tuyệt
đối là một đoạn thẳng theo kiểu hình học hai chiều cố định mà nó sẽ có thể thay đổi co
giãn theo từng vùng trường không gian mà khối thức tạo thành, vì không gian không hề
bằng phẳng, chúng có thể được ví như những tấm gương vỡ được nối liền với nhau vậy.

18
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Ví dụ như một phi thuyền di chuyển từ một hành tinh A đến một hành tinh B thì ở mỗi
đoạn trên tổng đường đi đó có thể vận tốc thực ở mỗi đoạn nhỏ là hoàn toàn khác nhau
mặc dù người điều khiển con tàu không hề thay đổi động năng vận hành con tàu, tất nhiên
sự thay đổi này rất nhỏ nếu không gian không có độ dị biệt lớn, do đặc tính dị biệt của
“trường không gian” mà các loại phi thuyền của những sinh vật có trí tuệ cao có khả năng
thực hiện các bước nhảy cách đoạn trong không gian nhằm rút ngắn thời gian di chuyển.
Tất cả mọi sự vật dù lớn hay nhỏ sẽ đều chiếm một khoảng “trường không gian” nhất
định khi nó được hình thành nên bản thân của sự vật luôn tiềm tàng năng lực không gian
tương ứng với độ lớn của sự vật đó, tính vận động và thời gian tác dụng trong mỗi loại sự
vật là khác nhau do có độ chênh lệch tỷ trọng khác nhau của mỗi “trường không gian”.
Khoảng không gian rộng lớn của một vũ trụ được hình thành chính là sự tổng hợp giao
kết dày đặc vô số các “trường không gian” của vô số các đơn vị “thức” cơ bản liên kết tạo
nên, do vậy khoảng không gian trong vụ trụ là không hề bằng phẳng theo kiểu ba chiều
đơn thuần như chúng ta vẫn nghĩ, thực sự thì vũ trụ như là một mớ không gian hỗn độn
đan xen tổng hợp của các vùng “trường không gian” với nhau một cách rất lộn xộn.
Những khoảng không trong vũ trụ luôn có hai loại “trường không gian dương” và
“trường không gian âm” đan xen do có hai khối hệ thức âm và dương đồng thời tồn tại, có
những vị trí mà hai trường này kết nối được với nhau theo tỷ lệ nhất định và khi đó thời
gian trở nên nhanh hoặc chậm một cách đột biến. Trường không gian dương sẽ là chiều
không gian có thể hiển thị các dạng vật chất hữu hình, còn trường không gian âm sẽ là
chiều không gian có thể hiển thị các dạng vật chất vô hình trong vũ trụ.

Hệ trường không thời gian


Sự tương quan giữa “trường không gian” và “trường thời gian” cũng như sự kết hợp
giữa chúng hình thành nên một hệ trường không thời gian tương xứng, một đơn vị thức sẽ
luôn đồng thời bức xạ 2 trường này cùng 1 lúc nhưng trường không gian thì có 2 chu kỳ
âm dương đan xen. Mỗi một “đơn vị tồn tại” sẽ có một hệ “trường không thời gian” riêng
biệt, tức là mỗi một “trường không gian” sẽ luôn có một “trường thời gian” tương thích
với nó và cùng bức xạ bởi một đơn vị “thức”, sự tương quan giữa “trường thời gian” và
“trường không gian” làm cho đơn vị tính giá trị của chúng luôn tỷ lệ thuận với nhau và
cũng tỷ lệ thuận với mỗi cấp độ “đơn vị tồn tại”. Chính sự giao thoa của các hệ “trường
không thời gian” giữa các đơn vị “thức” làm hình thành nên một hệ “trường không thời
gian” chung cho vùng tổ hợp “thức” đồng dạng mà qua đó mỗi đơn vị hay sự vật hiện
tượng bên trong nó đều có chung tính cảm quan về không gian và thời gian.
Mỗi một hành tinh trong vũ trụ như Trái Đất sẽ có một hệ “trường không thời gian”
riêng biệt tương thích với nó. Sự vận động, hình thành và sinh diệt của các sự vật hiện
tượng bên trong hành tinh này xảy ra với những khoảng khắc vô cùng nhanh so với cảm
quan của một ngân hà, nhưng ngược lại so với những loại sự vật tương đương ngân hà thì

19
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

thời gian quan sát tại trái đất sẽ thấy chúng diễn ra vô cùng chậm, như vậy một “trường
không gian” lớn hay nhỏ sẽ thể hiện một “trường thời gian” nhanh hoặc chậm tương ứng.
Tùy thuộc vào đặc tính của hệ “trường không thời gian” mà mỗi sự vật ở mỗi cấp độ
tồn tại khác nhau sẽ có sự cảm quan riêng khác về thời gian và không gian. Hay nói các
khác ở những cấp độ “đơn vị tồn tại” khác nhau thì thời gian có thể có cùng những đơn vị
tính theo một quy ước nhất định nhưng trên thực tế thì sự cách biệt đó là vô cùng lớn do
sự chênh lệch tỷ trọng của “trường không gian” giữa các cấp độ phạm vi tồn tại là quá lớn.
Tuy nhiên ở những vị trí khác nhau trong cùng một cấp độ phạm vi tồn tại vẫn có sự
chênh lệch trọng trường không gian mặc dù không quá lớn nhưng nó làm cho “hệ trường
không thời gian” chung luôn trong trạng thái không ổn định.

CÂU TRUYỆN THỨ TƯ


SỰ TIẾN HÓA CỦA “THỨC”
Các đơn vị “thức” từ khi được hình thành bởi các “nhân tố nền” do có sự tương tác
năng lực nội tại với các năng lực của thế giới ngoại vi sẽ luôn luôn vận động và chuyển
biến tiến hoá không ngừng nghỉ qua rất nhiều các chu kỳ hình thái hiện hữu âm và dương
đảo chiều (các vòng đời vật chất hữu hình và vô hình) liên tiếp nhau từ thấp đến cao, sự
phức tạp của vật chất chính là dấu hiệu nhận biết sự tiến hóa của một đơn vị “thức”. Khi
các năng lực bên trong nội tại của thức phát sinh các tác động “tích cực” lên thế giới ngoại
vi (các thức khác) qua nhiều chu kỳ hiện hữu sẽ làm cho “thức” đó trở nên tiến hóa.
Nếu quá trình tiến hoá được diễn ra không ngừng nghỉ hay không hề bị gián đoạn thì
một đơn vị “thức” có thể tuần tự trải qua 5 cấp độ chính trong chuỗi quá trình tiến hoá.
Khi một đơn vị “thức” đã tiến hóa lên hẳn 1 cấp độ chính thì chúng sẽ không bao giờ bị
thoái hóa xuống cấp độ chính phía dưới nữa, các thức chỉ bị thoái hóa trong cùng một cấp
độ chính mà thôi, có 5 cấp độ chính trong quá trình tiến hóa của “thức” cụ thể như sau:
1) “Thức cơ bản”:
Là “thức” ở thời kỳ đầu khi mới được hình thành từ “nhân tố nền”, các “thức cơ bản”
này có khả năng bức xạ được các loại trường hấp dẫn cơ bản nên chúng có thể kết hợp với
nhau hình thành các khối “tổ hợp thức”. Hình thái hiện hữu do chúng bức xạ ra là các
vùng trường không gian rộng lớn (ổn định hơn các dạng năng lực) hoặc cao hơn là các
hình thái năng lượng (các chùm lượng tử, các hạt hạ nguyên tử, năng lượng, photon…).
Tổng hợp nhiều thức cơ bản hình thành nên toàn bộ vùng không gian rộng lớn ở cả 2
mặt âm dương song song của vũ trụ, khi thức cơ bản càng được hình thành nhiều thì vũ trụ
cũng sẽ bị dãn nở rộng hơn. Đồng thời tổng hợp nhiều chùm năng lực hình thành các dòng
năng lực thuần khổng lồ trôi chảy trong vũ trụ… và chúng là chất liệu để hình thành nên
các hình thái kết cấu vật chất cho những dạng thức cao cấp hơn.
Sở dĩ “thức cơ bản” được hình thành do các “đơn vị tồn tại” ở cấp độ lớn khi giao
động nội tại đã làm bộc phát ra các đợt sóng trường vĩ mô bất thường làm cho vô số các
20
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

“nhân tố nền” gần nó bị khuấy động. Vì các “nhân tố nền” liên tục bị khuấy động nên vô
số “thức cơ bản” được hình thành, qua đó vùng trường không gian liên tục được phát sinh
(do “thức cơ bản” mới hình thành tạo nên) làm cho vũ trụ liên tục bị giãn nở ở cả mặt âm
và dương. Do có các đợt rung động mạnh yếu với các tính chất và cường độ khác nhau (do
có biến số động ban đầu khác nhau) tạo ra vô số các loại “thức cơ bản” khác nhau.
Ở cấp độ “thức cơ bản”, thức chỉ có thể bức xạ ra một số loại trường đơn giản như:
trường thời gian, trường không gian, các loại trường hấp dẫn và trường năng lượng cơ
bản… Thức cơ bản cũng bức xạ ra các chu kỳ hiện hữu âm dương xen kẽ tương tục nhau,
tức là 1 đợt chúng bức xạ ra các trường năng lực dương và đợt tồn tại tiếp theo chúng
chuyển sang trạng thái hiện hữu mới khi bức xạ ra các trường năng lực âm. Ở cấp độ
“thức cơ bản” có một số hình thái hiện hữu ở dạng chùm năng lực có chu kỳ hiện hữu vật
chất rất ngắn, có nghĩa là sự đảo chiều hiện hữu âm dương sẽ diễn ra liên tục trong khoảng
thời gian rất ngắn, đó là lý do một số dạng năng lượng có đặc điểm lưỡng tính sóng hạt,
bất định và không bền vững (ví dụ như các chùm lượng tử).

2) “Thức sơ cấp” (thức vô tình không hình thành sự sống):


Các đơn vị “thức cơ bản” sau khi trải qua vô số chu kỳ hiện hữu dưới dạng hình thái
năng lực và sau khi chúng đã hấp thụ một lượng lớn các tác nhân ngoại vi nhất định thì
chúng sẽ thay đổi kết cấu vận động nội tại và hình thành nên “hệ biến số bất định” trong
lõi thức để trở thành “thức sơ cấp”, mức độ hiện hữu 1 chu kỳ của thức này có thời gian
dài hơn so với thức cơ bản. Ở cấp độ này hình thái hiện hữu do chúng bức xạ ra là các loại
vật chất hữu hình và vô hình (khi đảo chiều 2 chu kỳ hiện hữu âm dương xen kẽ nhau)
như: các loại hạt nguyên tử, phân tử, tổng hợp những khối lượng lớn được nén với nhau
(tổ hợp thức) hình thành nên vô số loại vật chất rắn, lỏng… ở cả hai thế giới âm và dương,
khi ở chu kỳ dương thì dương chính âm phụ (vẫn cần một phần âm trong kết cấu hình
thành sự vật nhưng nó chỉ là phụ trợ) và ngược lại ở chu kỳ âm thì âm chính dương phụ...
Ở cấp độ này chúng bức xạ ra nhiều loại trường hơn, ví dụ như: các trường hấp dẫn, từ
trường, trường quang phổ, trường nhiệt… các loại trường này biểu hiện ra các vật chất
làm chúng trở nên có những hình tướng và đặc tính kết cấu khác nhau. Mọi “thức sơ cấp”
đều có khả năng hấp thụ các loại “thức cơ bản” để xây dựng nên vô số các loại nguyên tử
phức tạp khác nhau trong tự nhiên... Các thức sơ cấp ở trạng thái dương sẽ tương thích với
nhau và âm cũng vậy hình thành nên vô số các dạng vật chất ở cả 2 thế giới âm dương.
3) “Thức thứ cấp” (thức vô tình có hình thành sự sống):
Các “thức sơ cấp” sau khi trải qua vô số chu kỳ hiện hữu ở dạng vật chất cơ bản,
chúng đã hấp thụ các tác nhân ngoại vi và làm thay đổi cơ chế vận động nội tại và hình
thành được “hệ biến số tự lập” bên trong kết cấu lõi của thức, khi đó “thức sơ cấp” sẽ tiến
hóa sang dạng cấp độ mới gọi là “thức thứ cấp”, ở cấp độ này chúng có thể bức xạ ra
nhiều loại trường đặc biệt hơn, ví dụ như: trường sinh mệnh, trường trọng lực, trường siêu
nhiên... Các “thức thứ cấp” có thể thu hút các loại “thức sơ cấp” và các loại “thức cơ bản”
hình thành các dạng tổ hợp thức đa cấp độ, sự kết hợp các loại trường giữa chúng như
21
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

trường sinh mệnh và một số trường khác hình thành nên các loài sinh mệnh vô tình như:
các loại tế bào, các dạng thực vật, các loài cây cỏ, các loài nấm…, các thức thứ cấp lớn
hấp thụ vô số các thức nhỏ khác hình thành nên các hành tinh, các ngôi sao, các cõi giới
vô hình, các cõi giới siêu nhiên... sự chênh lệch mức độ tiến hóa trong cùng cấp độ chính
này cũng là vô cùng lớn, cũng như sự chênh lệch giữa các thức rất lớn và các thức rất nhỏ
là rất khác biệt. Ở cấp độ này nếu thức thứ cấp ở chu kỳ dương thì thức đó sẽ là nhân tố
chính kết hợp vô số các loại thức cơ bản và sơ cấp dương cùng với các trường năng lực
hình thành nên các hành tinh hoặc các loại thực vật dương, ngược lại cũng có những thực
vật do các thức chu kỳ âm chính dương phụ hình thành nên. Qua đó ta phải hiểu rằng
trong vũ trụ có vô số các loại hành tinh hay ngôi sao có những kết cấu tỷ lệ âm dương
khác nhau và qua đó hệ sinh thái của chúng cũng hoàn toàn khác nhau, tạo nên những hình
thức cơ chế sự sống cũng hoàn toàn riêng khác. Do vậy con người không nên dùng chuẩn
mực sinh thái sự sống trên Trái Đất để chụp mũ cho lý thuyết sự sống của toàn thể vũ trụ.

4) “Thức siêu cấp” (thức hữu tình còn bản ngã):


Các “thức thứ cấp” sau khi trải qua vô số rất nhiều các chu kỳ sinh mệnh vật chất vô
tình sẽ làm cho “hệ biến số tự lập” bên trong nội tại của thức chuyển biến thay đổi kết cấu
phức tạp hơn hình thành “hệ biến số bản ngã”. Qua đó khi thức tiến hóa thành dạng “thức
siêu cấp” thì ở mỗi chu kỳ sinh mệnh thức này đều có sự nhận biết về một bản ngã và luôn
bám víu vào đó. Hệ biến số bản ngã làm cho “thức” có sự cảm quan nhận thức về một cái
tôi, làm cho thức có tính nhận biết thế giới quan theo một mức độ nhất định (tùy độ tiến
hóa), tuy trong cùng cấp độ “thức siêu cấp” nhưng các thức cũng có sự sai biệt chênh lệch
về mức độ tiến hóa vô cùng lớn. Lên đến cấp độ “thức siêu cấp” mỗi một đơn vị thức đều
là một thức chủ thể riêng biệt có khả năng kết hợp với vô số các thức khác ở 3 loại thức
cấp thấp tạo thành tổ hợp thức đa cấp độ và tổ hợp này biểu hiện một chu kỳ hiện hữu là
một cá thể sinh mệnh hữu tình có ý thức ở những cảnh giới tiến hóa khác nhau (tùy theo
sự huân tập phước nghiệp và tập khí trong mỗi chu kỳ sinh mệnh trước).
Tùy thuộc vào mức độ tiến hóa của thức trong cùng cấp độ “thức siêu cấp” mà mỗi
thức có khả năng bức xạ ra vô số các loại trường đặc biệt khác nhau, ví dụ như: trường
siêu nhiên, trường tinh thần, trường tâm linh, trường sinh mệnh, trường tư tưởng… Ở cấp
độ này, thức có khả năng thu hút 3 loại thức cấp thấp kết hợp với các trường tinh thần,
trường bản ngã, trường năng lượng âm hoặc dương và các loại trường vĩ mô khác hình
thành nên các loài sinh mệnh hữu tình khác nhau như: các loài động vật từ cấp thấp đến
cấp cao, từ các loài nhỏ như côn trùng cho đến các loài thông minh khỉ và to như cá voi...,
các loài người ở nhiều hành tinh khác nhau (nhiều cấp độ tiến hóa khác nhau, nhiều mức
độ thông minh khác nhau), các loài quỷ và thần (nhiều mức độ đạo đức cũng như năng lực
siêu nhiên khác nhau ở nhiều cõi giới vô hình khác nhau), các loài trời ở nhiều cõi giới
siêu nhiên khác nhau (nhiều mức độ tiến hóa giác ngộ về chân lý hiện thực khác nhau), và
vô số các loài sinh mệnh hữu tình khác ở cả hai mặt thế giới vô hình và hữu hình…

22
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

5) “Thức vô ngã” (thức hữu tình không còn bản ngã):


Đây là trạng thái tiến hóa cuối cùng của một đơn vị thức, là trạng thái tâm của những
bậc thánh đã giác ngộ giải thoát. Có rất hiếm các “thức siêu cấp” trong vũ trụ có thể
chuyển biến tiến hoá sang giai đoạn cấp độ tiến hóa cuối cùng gọi là “thức vô ngã”, “thức
vô ngã” là loại “thức siêu cấp” đã chuyển hóa được hoàn toàn “hệ biến số bản ngã” trong
kết cấu nội tại sang “hệ số giác ngộ”, qua đó “thức vô ngã” không còn bản ngã, không còn
bị ảnh hưởng hay bị tác động bởi các năng lực tập khí ngoại vi hữu lậu nữa, thức vô ngã là
thức đã đạt đến được thể tánh thanh tịnh bình đẳng của Niết Bàn tuyệt đối.
Thức ở giai đoạn này là thức thanh tịnh đã làm chủ được hoàn toàn tâm thức của mình,
đã phá bỏ hoàn toàn được mọi khối kết cấu kiết sử gốc trong tàng thức, làm cho tâm thức
thanh tịnh tuyệt đối vô nhiễm. Các thức này dù vẫn chủ động trải qua vô số các chu kỳ
sinh mệnh khác nhau (để triệt tiệu khí nghiệp quá khứ) nhưng thức vẫn giữ được tính trí
huệ giác ngộ xuyên suốt, tự nhận biết rất rõ được bản chất hiện hữu của chính mình và vạn
vật một cách chân thực qua mọi chu kỳ hiện hữu.
Không bị mê lầm bởi các tư tưởng vô minh, các chu kỳ sinh mệnh chỉ hình thành do
“thức vô ngã” chủ động để làm phương tiện hóa độ cho các loại thức cấp dưới. Chỉ khi lên
đến cấp độ “thức vô ngã” này thì một đơn vị “thức” mới có thể hoàn toàn làm chủ được
“nhân tố bất định” bên trong nội tại bản thể, khi đó nhân tố bất định sẽ chuyển hóa thành
năng lực huệ tánh của các bậc đại giác, nên các bậc thánh có thể tự tại trong pháp giới vũ
trụ, tự do dạo chơi ba cõi, không bị ngăn ngại. Thức vô ngã hiểu được tường tận dòng
chảy của quy luật nhân quả qua đó ứng dụng hợp lý nhất để có thể hóa giải các khí nghiệp
quá khứ của mình đồng thời giúp các thức cấp thấp được tiến hóa lên cao hơn.
Thức vô ngã dù vẫn trải qua vô số các chu kỳ vật chất sinh mệnh hữu tình nhưng ở mỗi
chu kỳ luôn có xu hướng dần triệt tiêu các khí nghiệp quá khứ, tức là các duyên nợ của
mình với vô số thức khác (ở cấp thấp) đã được tích luỹ qua vô số các chu kỳ sinh mệnh ở
4 dạng thức trước đây. Quá trình triệt tiêu khí nghiệp này gọi là con đường bồ tát đạo,
trong suốt các chu kỳ sinh mệnh trên con đường bồ tát đạo họ luôn có sự tác động tích cực
lên chuỗi phản ứng nhân quả và làm chuyển biến tiến hóa những đơn vị thức cấp thấp
đang có sự tương thích (có duyên lành) với mình, tùy theo mức độ khí nghiệp sâu dày lớn
hay nhỏ mà thức vô ngã sẽ trải qua khoảng thời gian này nhanh hay chậm khác nhau.
Sự triệt tiêu khí nghiệp này kéo dài qua nhiều chu kỳ sinh mệnh, đồng thời “thức vô
ngã” có xu hướng tác động tích cực nên vô số các “thức” cấp thấp hơn và làm cho chúng
trở nên tiến hóa hơn. Nếu có đủ những điều kiện phù hợp (nhân duyên lành viên mãn) thì
một “thức vô ngã” có khả năng tác động làm chuyển biến một “thức siêu cấp” trở thành
một “thức vô ngã” mới.

23
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Biểu đồ quá trình tiến hóa của một đơn vị “thức”


Thức thứ cấp lớn Thức siêu cấp lớn

Nhân Thức siêu Thức


tố nền cấp nhỏ vô ngã

Thức Thức Thức thứ


cơ bản sơ cấp cấp nhỏ

+ Nhân tố nền: bản thể của vũ trụ, nhân tố làm cho vũ trụ trở nên hiện hữu.
+ Thức cơ bản: biểu hiện các vùng không gian và năng lượng ở cả 2 chu kỳ hiện hữu +/-.
+ Thức sơ cấp: biểu hiện các loại vật chất rắn lỏng khí ở cả 2 chu kỳ hiện hữu âm dương.
+ Thức thứ cấp nhỏ: biểu hiện ra các tế bào, các thực vật có cơ cấu tỷ lệ +/- khác nhau.
+ Thức thứ cấp lớn: biểu hiện ra các loại hành tinh, ngôi sao có cơ cấu +/- khác nhau.
+ Thức siêu cấp nhỏ: biểu hiện ra các loài: thú, ngạ quỷ, ma, thiên ma, người, phi nhân…
+ Thức siêu cấp lớn: biểu hiện ra các loài: mara, trời dục giới, sắc giới, vô sắc…
+ Thức vô ngã: là các bậc thánh giải thoát tự tại tuyệt đối trong chuỗi sinh tử, các vị hiện
thân trong nhiều cõi, nhiều cảnh giới để hóa độ chúng sinh.

Sự giao động của “thức” qua các chu kỳ hiện hữu vật chất

K1
V1 Thế giới hữu hình
T1 TT1
S1
Sn+
N1

c2 T TT S SS
NTN NB
cn
c1
N2
Sn-
S2
T2 TT2
V2
Thế giới vô hình
K2

24
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

+ NTN: nhân tố nền, là nhân tố bản thể, các đơn vị nhân tố này trải dài vô tận hình thành
cái nền cho một hệ tồn tại (vận hành theo một hệ quy luật gốc chung), trạng thái này chưa
biểu hiện ra bất kỳ hình thái vật chất nào (giống như phần nền của bức tranh), năng lực vô
minh đã sẵn có trong mỗi đơn vị bản thể nhân tố nền.
+ K1: trạng thái khi một đơn vị nhân tố nền vừa mới chuyển hóa thành “thức” (thức cơ
bản), một đơn vị thức cơ bản này bức xạ hình thành một đơn vị tiểu vùng không gian, tổ
hợp vô tận các K1 (tổ hợp thức) sẽ hình thành nên toàn bộ vùng không gian dương. Ngược
lại tổ hợp vô tận các K2 hình thành toàn bộ vùng không gian âm, Hai nhóm tổ hợp thức
này làm vũ trụ luôn đồng thời hiện hữu cả 2 chiều thế giới âm và dương.
+ c1: là một chu kỳ hiện hữu của thức ở trạng thái dương, còn c2 là chu kỳ hiện hữu của
thức ở trạng thái âm (lẻ là dương và chẵn là âm). Các chu kỳ hiện hữu của thức (chu kỳ
sinh mệnh / chu kỳ vật chất) sẽ trải dài vô số lần (cn lần) ở nhiều cấp tiến hóa (có thể n lần
ở mỗi cấp từ K,N,V,T,S) cho đến khi thức đạt trạng thái tiến hóa cuối cùng (Niết Bàn).
+ N1: trạng thái của thức ở các dạng bức xạ năng lượng đặc tính dương.
+ N2: trạng thái của thức ở các dạng bức xạ năng lượng đặc tính âm.
+ V1: thức sơ cấp hình thành vạn vật, hình thái hiện hữu là các dạng vật chất dương chính
âm phụ (vật chất hữu hình), còn V2 là hình thái hiện hữu của thức ở dạng vật chất âm
chính dương phụ (vật chất vô hình).
+ T: là trạng thái thức thứ cấp, T1 là thức thứ cấp đang ở chu kỳ dương chính âm phụ (các
dạng kết cấu thực vật dương), T2 là thức thứ cấp ở trạng thái âm chính dương phụ (các
dạng kết cấu thực vật âm). TT1 là các thức thứ cấp lớn như các hành tinh hoặc ngôi sao có
kết cấu dương chính âm phụ, TT2 là các thức thứ cấp lớn như các hành tinh hoặc ngôi sao
có kết cấu âm chính dương phụ (thức tâm thể Trái Đất chúng ta là dạng TT1).
+S: là trạng thái thức siêu cấp, S1 là thức siêu cấp đang ở chu kỳ dương chính âm phụ
(các loài thú vật, các loài người, loài tiên tộc, dạ xoa, các loài trời dục giới). S2 là thức
siêu cấp đang ở chu kỳ âm chính dương phụ (các loài ngạ quỷ, ma, thiên ma, Atula,Mara).
+SS: là trạng thái thức siêu cấp ở trạng thái hài hòa âm dương cao (các loài tiến hóa nhất
trong các loài hữu tình, những loài có lượng phước và định lực cao nhất) bao gồm các loài
trời sắc giới và các loài trời vô sắc.
+NB (niết bàn): là trạng thái tiến hóa cuối cùng của thức hay còn gọi là thức vô ngã, là
trạng thái “thức” tiến nhập được vào cơ cấu bản thể của vũ trụ (thấy được cơ chế vận hành
của hệ quy luật gốc của hệ tồn tại), đây là trạng thái thức đã triệt tiêu hoàn toàn được cơ số
vô minh trong kết cấu lõi nội tại bản thể.

25
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Cấu trúc của tâm thức (thức siêu cấp)

Sự tác ý Bề mặt ý thức

Vùng
tưởng
ấm

Lớp ký ức

Tiềm thức
Khối tập khí
Lớp khí nghiệp
Khối Kiết sử
Lớp tập khí

Lớp kiết sử, triền cái Thức ấm Hành ấm Các vọng tưởng trập trùng

Tất cả các đơn vị thức đều là những nguyên liệu cấu thành toàn bộ vũ trụ, chúng là
nhân tố tạo thành vô số các loại “đơn vị tồn tại” từ nhỏ đến lớn trong tự nhiên và cái tổng
thể cùng tồn tại đó chính là vũ trụ mà chúng ta thấy. Các đơn vị thức luôn luôn bức xạ và
hấp thụ vô số các loại năng lượng khác nhau tùy thuộc vào đặc tính kết cấu cũng như cấp
độ tiến hóa của thức. Kết cấu hoàn chỉnh bên trong của một đơn vị thức siêu cấp bao gồm
nhiều tầng lớp từ ngoài vào trong cụ thể như sau:
1) Bề mặt ý thức: Đây là phần ngoài cùng trong kết cấu của tâm thức (các cá thể hữu
tình…), vùng này kết nối với ý căn (ví dụ như não bộ nếu cá thể là con người hoặc con vật)
làm cho cá thể đó khả năng suy nghĩ, đây là vùng mà chỉ có các thức siêu cấp mới hình
thành được còn các thức thứ cấp trở xuống thì phần này khiếm khuyết.
2) Vùng tưởng ấm: Đây là vùng các chập tư tưởng (vọng tưởng) từ lớp ký ức bên trong
trôi nổi lên và làm cho thức luôn có những gợn suy nghĩ lăn tăn chập trùng không bao giờ
dứt. Cá thể tu thiền quán (chánh niệm) càng cao thì càng kiểm soát được sự vận động của
vùng này, định lực càng cao thì càng ít vọng tưởng trong vùng này.
3) Lớp ký ức: Đây là phần ghi nhớ mọi dữ kiện (thông tin từ môi trường ngoại vi tác động
vào thức) ở tất cả mọi chu kỳ hiện hữu của thức; tất cả những đối tượng mà thức siêu cấp
26
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

cảm nhận bằng lục căn như nghe, thấy, nếm, ngửi, chạm và học/ cảm nhận đều được lưu
giữ ở vùng này. Phần ký ức này sẽ không bao giờ mất đi, khi chúng sanh hữu tình tu thiền
định thì vòng tiềm thức sẽ dần vượt ra ngoài vùng ký ức này làm chúng sanh đó nhớ được
các dữ kiện của các kiếp trước, chúng sanh có định lực càng cao thì sẽ có khả năng nhớ
được càng nhiều những thông tin ở các kiếp sống ở quá khứ.
4) Tiềm thức: Từ vòng tròn này vào trong là các hoạt động bí mật của tâm mà các thức
siêu cấp phàm phu không thể nhận biết được, chỉ có các bậc tu định cao mới nhận biết
được trong này, người tu định càng cao thì càng đi được vào sâu bên trong của tiềm thức.
Nếu định lực càng cao thì vùng tiềm thức càng được mở rộng ra ngoài phần ký ức, qua đó
thức ở một chu kỳ sinh mệnh mới có thể nhớ được nhiều các dữ kiện ở các chu kỳ trước.
5) Lớp khí nghiệp: Đây là lớp tích lũy và vận hành của nghiệp lực do thức huân tập trong
vô số chu kỳ sinh mệnh, các duyên lành hay quả báo thiện ác do thức tạo tác đều nằm ở
vùng này. Khi thức tác động một hành vi thiện hay ác vào các thức khác thì nó sẽ in hành
vi đó vào lớp khí nghiệp này, định luật bảo toàn sẽ làm cho thức nhận lại đúng những gì
mình đã gieo trước đây (vào một thời điểm nhất định trong tương lai) hoặc một dạng năng
lực khác tương đương với năng lực đã tạo tác. Vùng này chính là lớp kiến tạo các chuỗi
vận động tương tác nhân quả hình thành nên số phận cho các chu kỳ hiện hữu (các kiếp)
của thức siêu cấp. Vùng này không thể bị phá trừ được bằng bất kỳ phương pháp thiền
định nào mà chỉ có thể hóa giải bằng chính sự tác động nhân quả công bằng mà thôi.
6) Vùng tập khí: Đây là vùng chứa đựng vô số khối tập khí của thức, các khối tập khí này
là những thói quen mà thức đã huân tập trong vô số chu kỳ hiện hữu, có những khối thói
quen xấu và tốt lẫn lộn chằng chịt và dày đặc trong vùng này. Vùng này là lớp chứa đựng
những năng lực được tích lũy từ vô lượng kiếp luân hồi nên mỗi khối tập khí này sẽ có
những tính chất, gia tốc, quán tính và độ to nhỏ riêng khác. Thức càng thiện thì các ít các
khối tập khí tiêu cực, các bậc thánh chỉ thuần các khối tập khí tích cực và khi đó vùng này
gọi là “thành sở tác trí” là môi trường bổ trợ cho trí huệ giác ngộ vận động phát triển.
7) Vùng kiết sử và triền cái: Đây là vùng chứa đựng các năng lực vô minh gốc của thức,
những khối năng lực nền này là động lực thúc đẩy luân hồi, là cốt lõi cấu thành các chu kỳ
hiện hữu của thức, các khối năng lực bất toàn trong vùng này là những kẻ xây nhà (kiến
tạo các kiếp). Các bậc thánh dùng bát chánh đạo để phá trừ được toàn bộ các khối kiết sử
và triền cái tiêu cực trong vùng này và biến nó thành đại viên cảnh trí (vùng đại huệ), khi
đó vùng này không còn sự vô minh hữu lậu nữa mà chỉ có trí huệ thông đạt vạn pháp, tức
là thức khi đó sẽ có thể dễ dàng làm chủ sinh tử và tự kiến tạo các kiếp sống cho mình.
8) Hành ấm: Đây là vùng lõi tạo nên mọi năng lực vận động của thức. Mọi suy nghĩ, sự
tác ý, dự định cũng như mọi hành động đều được phát khởi từ vùng này. Vùng này làm
cho các thức ở mỗi chu kỳ hiện hữu đều lầm tưởng rằng mình có một bản ngã nào đó,
nhưng thực ra các năng lực vận động của hành ấm khi bức xạ ra vùng ngoài thì liền tương
tác với các khối kiết sử và sau đó lại tiếp tục tương tác với các khối tập khí tương thích tạo
nên một chuỗi những hành động mang quán tính đặc thù của mỗi cá thể chúng sanh (quá
trình tương tác này diễn ra rất rất nhanh), tùy vào kết cấu bên trong mà mỗi cá thể chúng
sanh sẽ có những tính cách, hành vi và cách hành sử vấn đề khác nhau.
9) Thức ấm: Đây là vùng cốt lõi, tạo ra đặc tính “nhận biết” của một đơn vị thức, tất cả
các thức ấm của tất cả đơn vị thức ban đầu đều rất ít có sai khác, tất cả các thức ấm trong
27
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

vài sát na đầu của một đơn vị thức khi mới được hình thành từ nhân tố nền (bản thể của vũ
trụ) đều gần như tương đồng với nhau (không khác biệt nhiều) nhưng qua thời gian sự sai
biệt dần trở nên rõ ràng hơn và sự khác biệt sẽ ngày càng nhiều hơn. Đây là vùng hình
thành “hệ biến số bất định” khi thức còn là “thức sơ cấp”, sau đó là “hệ biến số tự lập” ở
trạng thái “thức thứ cấp”, rồi thành “hệ biến số bản ngã” của “thức siêu cấp”. Các bậc tu
định ngoại đạo dễ lầm tưởng vùng này chính là tự tánh hoặc chân tâm, nhưng họ không
hiểu rằng phải vượt qua luôn cái ngã của thức ấm này, tiến đến cảnh giới vô ngã hoàn toàn
thì mới thực sự đi đến được trạng thái niết bàn tuyệt đối thanh tịnh. Nếu thức siêu cấp
không buông bỏ vượt qua vùng này thì cũng sẽ không thể trở thành thức vô ngã được. Nói
cách khác không vượt qua sự chấp ngã của thức ấm thì tức là chưa thực sự giải thoát viên
mãn, chưa thể trở thành bậc thánh Arahán vô ngã tự tại trong vũ trụ và trong sinh tử được.

Sơ đồ lược giản của vũ trụ nhánh


(Tam giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới)
Vùng đại định: là chỗ trú của 4 cấp trời
vô sắc, không hình tướng, không có
Vô sắc giới dâm dục, thọ từ 750 triệu tỷ đến 6 tỷ tỷ
năm (loài hữu tình thọ nhất vũ trụ).
Vùng năng lượng tịnh hóa: là chỗ trú
của 12 cõi trời sắc giới cấp cao, thân thể
Không cư thiên ánh sáng, trang nghiêm vô nhiễm, ko ái
(12 cấp thuần sắc giới) dục, cấp tu từ tam thiền đến tứ thiền.

Vùng tinh vân: là chỗ trú của 4 bậc trời


dục giới cấp cao + mara cao (còn dục);
và 6 bậc trời sắc giới cấp thấp (hết ái dục,
Vân cư thiên cấp tu từ sơ thiền đến nhị thiền).
(4 cấp DG và 6 cấp SG)
Vùng Địa cư: vùng vũ trụ của các thế
giới cấu thành từ vật chất nặng như các
tinh cầu (vùng thuần dục giới).
Vũ trụ tầng thượng + Vũ trụ tầng thượng: chỗ trú của cấp trời
dục giới Đao Lợi, loài mara trung.
+ Vũ trụ tầng trung: chỗ trú của cấp trời
Tứ thiên vương, mara thấp, atula cao.
Vũ trụ tầng trung
+ Vũ trụ tầng thấp (các loài ngũ thú tạp
cư cùng sống chung): ngoài 4 châu còn
có hằng hà sa số các châu khác cũng có
người sinh sống. Vũ trụ tầng thấp là chỗ
trú của các loài súc sinh, người, ngạ quỷ,
Vũ trụ tầng thấp
ma, thiên ma, dạ xoa, phi nhân, atula thấp,
mara thấp, 3 cấp trời dục giới: kiên thủ
thiên, trì hoa thiên, phóng dật thiên.

Tây ngưu châu Nam thiệm châu Bắc lô châu Đông thắng châu
(thiên hà bờ tây) (dải ngân hà) (thiên hà bờ bắc) (thiên hà bờ đông)

28
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Vũ trụ nhánh có hình trụ sợi (sơ đồ lược giản phía trên) chỉ là một phần nhỏ của một
vũ trụ tổng thể rộng lớn hình cầu. Vũ trụ tổng thể rộng lớn này lại chỉ là một “đơn vị tồn
tại” nhỏ của một phạm vi tồn tại cao hơn và chuỗi thế giới quan này cứ trải dài lớn dần
cho đến vô tận. Một vị chứng Arahán thì di chuyển tự tại mọi nơi trong mọi vùng vũ trụ
tổng thể, còn các vị Phật có thể tự tại di chuyển qua vô số vũ trụ tổng thể khác nhau.
Các vũ trụ nhánh liên kết với nhau chằng chịt như một mạng lưới và cấu thành một vũ
trụ tổng thể như một khối cầu lớn. Vùng tâm khối cầu lớn là khu vực tập trung nhiều các
cõi trời vô sắc, đi dần ra là Không cư thiên (sắc giới) rồi đến Vân cư thiên và ra nữa là
Vùng địa cư (dục giới), đến phía ngoài cùng của khối cầu lớn là lớp vũ trụ tầng thấp và bề
mặt ngoài vỏ của nó là hằng hà sa số các thiên hà biên địa, trong mỗi thiên hà vùng biên
địa đó phần lớn chứa vô số các tinh cầu âm chính dương phụ là môi trường ác đạo (địa
ngục) dành cho những loại thức ác tính trú ngụ (ngạ quỷ và thiên ma) chịu đau khổ cùng
tột. Như vậy có nghĩa là thức siêu cấp càng tiến hóa cao (càng có nhiều phước) thì càng
tiến được vào sâu bên trong khối cầu vũ trụ tổng thể.
Một khối cầu vũ trụ tổng thể khổng lồ lại cũng chỉ là một đơn vị tồn tại ở phạm vi tồn
tại lớn hơn (bức xạ bởi 1 đơn vị thức khổng lồ), và vô hạn những “đơn vị tồn tại khổng lồ”
như vậy lại hình thành nên một cấp độ vũ trụ ở tầm vĩ mô vô cùng lớn và chuỗi thế giới
quan này vẫn cứ mãi lớn dần như vậy cho đến vô cùng tận thì mới được gọi là một “hệ tồn
tại”. Có nhiều giáo phái ngoại đạo cho rằng cái thức tâm thể của vũ trụ khổng lồ này là
“thượng đế”, nhưng họ không hiểu rằng trong cái chuỗi vô tận của một hệ tồn tại thì cái
thức này cũng chỉ là 1 mắt xích vô cùng nhỏ bé trong chuỗi mắt xích vô tận ở cả 2 chiều
tồn tại vi mô và vĩ mô, và cái thức khổng lồ này hoàn toàn không thể nhận biết hay kiểm
soát được cơ chế vận động bên trong nội tại của chính mình khi mà thức đó chưa đạt đến
được trạng thái tiến hóa cuối cùng.

Mười hai nhân duyên


1) Vô minh: là hình thái “nhân tố bất định” (NTBĐ) của một nhân tố nền, khi một đơn vị
nhân tố nền tiến hóa thành “thức” (các sát na đầu tiên tạo nên lớp thức ấm), năng lực vô
minh bắt đầu quá trình vận động theo những biến số bất định, tổ hợp vô tận các đơn vị này
giao kết tương tác đối đãi với nhau hình thành nên toàn bộ thế giới quan. Năng lực vô
minh gốc này là lực quán tính thúc đẩy chuỗi luân hồi sanh tử vô tận của chúng sanh.
2) Hành: ngay khi vừa tiến hóa thành 1 đơn vị thức (có thức ấm) thì nhân tố bất định do
quán tính động tiếp tục hình thành vùng hành ấm, vùng này làm cho một đơn vị thức có
khả năng tác dụng các loại năng lực ra bên ngoài thế giới ngoại vi (các thức khác).
3) Thức (lớp kiết sử): do sự tương tác nội tại giữa thức ấm và hành ấm, cộng với tính đối
đãi các năng lực cơ bản của thức với các năng lực ngoại vi đã làm cho một đơn vị thức có
khả năng tiếp nhận lưu trữ các năng lực từ môi trường, qua đó lớp kiết sử / triền cái hình
thành tập hợp cất trữ chứa đựng những khối năng lực lõi.

29
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

4) Danh sắc: Sau khi đã có năng lực tiếp nhận, một đơn vị thức bắt đầu có khả năng hình
thành các chu kỳ vật chất (chu kỳ hiện hữu) từ thấp tới cao là 4 cấp bậc tiến hóa: thức cơ
bản, thức sơ cấp, thức thứ cấp và thức siêu cấp. Các năng lực ngoại vi tác động sẽ làm
thức hình thành các khối kiết sử có những quán tính động khác nhau, năng lực hành ấm
tương tác với các khối kiết sử này làm cho thức hình thành được các chu kỳ hiện hữu (tất
cả các hình thái vật chất từ thấp đến cao của thế giới quan).
5) Lục nhập: Kể từ khi có hình tướng, bắt đầu từ thức sơ cấp (thức hình thành được các
loại vật chất rắn lỏng khí) do sự tương quan đối đãi giữa cho/nhận của các loại năng lực
với môi trường đã làm cho thức hình thành được sáu khối kiết sử gốc (năng lực nội tại
nằm ở lớp kiết sử của thức) đi từ thô đến tế như sau: thân thức, thiệt thức, tỷ thức, nhĩ thức,
nhãn thức và ý thức. Chỉ thức siêu cấp là có đủ hết 6 thức này và chúng tách biệt với nhau;
Ở thức sơ cấp (các chất hữu cơ và vô cơ) thì thân thức, thiệt thức, tỷ thức, nhãn thức là
chung nhau chưa tách biệt, chưa hình thành ý thức. Ở thức thứ cấp (cây, thực vật) thì rễ có
thiệt thức, lá có nhãn thức và hoa là tỷ thức, thân cành có thân thức và nhĩ thức, chưa hình
thành được ý thức.
6)Xúc: Sáu năng lực gốc là nguồn khởi phát tạo nên 6 căn cho một chu kỳ sinh mệnh của
thức. Từ 6 căn này (từ thô đến tế: thân, lưỡi, mũi, tai, mắt, não) làm cho thức ở mỗi chu kỳ
hiện hữu đều có khả năng tiếp nhận 6 loại năng lực ngoại vi (6 trần) từ mức thô ráp cho
đến mức vi tế (tùy theo độ va chạm lực cao thấp hình thành, và chạm càng vi tế bao nhiêu
thì tốc độ va chạm càng nhanh bấy nhiêu), thứ tự xúc chạm tuần tự như sau:
6.1) Xúc chạm của thân căn: đây là cửa tiếp nạp năng lực dạng thô nhất, bắt đầu từ thức
sơ cấp (các loại vật chất rắn lỏng khí) thì các thức đã bắt đầu có năng lực xúc chạm với
nhau, hình thành nên vô số các phản ứng hóa học mà chúng ta đã biết. Ở thức thứ cấp
năng lực xúc chạm làm cho các loài thực vật tương tác với môi trường làm chúng sinh
trưởng và phát triển, ở thức siêu cấp thì “thân thức” trong lõi tạo nên “thân căn” làm cho
thức khả năng cảm nhận khi xúc chạm với môi trường bên ngoài. Sự va chạm ở mức độ
này có mức dễ chịu và khó chịu khác nhau tùy theo mối tương quan giữa cái căn đang
nhận và cái trần đang cho và tùy theo hình thái kết cấu của chu kỳ sinh mệnh đó.
6.2) Xúc chạm của thiệt căn: cửa tiếp nạp thứ 2 là các loại vị giác mà thức siêu cấp cảm
nhận được từ môi trường khi tiếp nhận dưỡng chất thô như các chất rắn và lỏng, sự va
chạm giữa cái vật bị ăn và cơ thể của loài đang ăn (thâu nạp dưỡng chất) tạo cảm nhận
sâu hơn một bậc so với mức thân thể. Qua sự va chạm này làm cho thức tiếp nhận được
các thông tin về dưỡng chất (do ý thức tổng hợp khái niệm bằng kinh nghiệm) qua đó
thức sẽ điều chỉnh mức độ tiếp nhận hợp lý.
6.3) Xúc chạm của tỷ căn: cửa tiếp nhận thứ 3 là năng lực cảm nhận mùi từ môi trường
khi thức tiếp nạp dưỡng chất dạng khí (hít thở), đây là trạng thái cảm nhận sâu hơn thiệt
căn, do độ va chạm của môi trường lên thức nhẹ hơn cửa trên một bậc. Tỷ thức trong lớp
kiết sử hình thành tỷ căn làm cho một chu kỳ sinh mệnh của thức có khả năng tương tác

30
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

với môi trường bên ngoài) qua đó thức điều chỉnh các hoạt động nội tại cho phù hợp
(các hóc môn, nội tiết tố… được sản sinh điều tiết các hoạt động của cỗ máy sinh mệnh
khi nhận được tín hiệu từ môi trường bên ngoài thông qua khứu giác), những quá trình
hoạt động này đều là tự động automatic bên trong tiềm thức.
6.4) Xúc chạm của nhĩ căn: cửa tiếp nhận thứ 4 là năng lực cảm nhận các loại sóng âm
từ môi trường ngoại vi bên ngoài, nhĩ thức trong lớp kiết sử của thức tạo ra nhĩ căn để
giúp thức trong 1 chu kỳ sinh mệnh có khả năng tiếp nạp cảm nhận các năng lực trường
sóng tần số âm thanh từ ngoại vi tác động vào (các dạng thông tin bằng sóng âm).
6.5) Xúc chạm của nhãn căn: cửa tiếp nạp thứ 5 là năng lực cảm nhận các loại ánh sáng
từ môi trường bên ngoài, nhãn thức trong lớp kiết sử tạo ra nhãn căn giúp cho thức trong
1 chu kỳ sinh mệnh có khả năng cảm nhận tiếp nạp các loại thông tin bằng hình ảnh (các
dải sóng quang phổ) từ thế giới quan xung quanh tác động vào.
6.6) Xúc của ý căn: Chỉ có thức siêu cấp mới hình thành được năng lực cảm nhận này,
đây là cửa cảm nhận sâu nhất của thức với môi trường ngoại vi, đây là cửa tiếp nạp các
dạng sóng trường tinh thần của thức khác (thần giao cách cảm). Do thức siêu cấp đã
hình thành được vùng ký ức, các thông tin tiếp nhận được từ thế giới ngoại vi sẽ được
lưu trữ ở vùng này và ý thức sẽ tổng hợp các dữ liệu tại đây thông qua cái máy não bộ (ý
căn). Chính ý thức trong phần kiết sử là năng lực tạo tác nên cấu trúc của ý căn (bộ vi xử
lý / não bộ) của một chu kỳ sinh mệnh, qua đó giúp thức siêu cấp có khả năng suy nghĩ,
phân tích,tổng hợp, sàng lọc, linh cảm… qua đó thiết lập các khái niệm, các nhận định,
các quyết định hoặc lựa chọn các hành vi phản ứng khác nhau.
6) Thọ: Là năng lực cảm thọ của thức khi 6 căn tiếp xúc 6 trần sẽ làm thức có 3 loại cảm
nhận khác nhau: dễ chịu (vui), khó chịu (khổ), và trơ (vô cảm). Ba mức độ cảm nhận này
phụ thuộc vào số phước mà thức có được, thức càng nhiều phước thì càng có được nhiều
cảm nhận dễ chịu khi va chạm với thế giới quan, thức càng ít phước thì càng nhận nhiều
thọ khổ. Khi thức tác động lực tích cực lên thức khác càng nhiều thì thức càng có nhiều
phước và sẽ có nhiều cơ hội cảm nhận sự dễ chịu, sự tích cực mà môi trường ngoại vi đem
lại và ngược lại. Sự tương tác nội tại giữa các năng lực kiết sử và lớp khí nghiệp làm cho
thức có những tính chất cảm thọ khác nhau ở mỗi chu kỳ sinh mệnh.
7) Ái: Do có thọ duyên sanh nên ái bắt đầu được hình thành, kể từ khi có hệ số bản ngã thì
các năng lực của hành ấm tương tác với các lớp bên ngoài và các cảm thọ của căn làm cho
thức có những mức độ ái nhiễm khác nhau ở mỗi chu kỳ sinh mệnh, thức có xu hướng ái
nhiễm vào tất cả những cảm thọ dễ chịu (muốn thêm) hoặc khó chịu (muốn bớt) do căn
hấp thụ từ bên ngoài. Nếu quá trình đó diễn ra sẽ làm cho thức bị cháy phước, vì vậy nếu
chúng sanh còn chấp vào 2 bờ thương ghét (vì cá nhân vị kỷ) là còn ái nhiễm, còn bị mất
phước. Chỉ khi nào thức vứt bỏ được 2 bờ thương ghét, từ bi hỷ xả, thương yêu hết chúng
sanh vô điều kiện, làm công đức (tác động tích cực tuyệt đối) vô lượng mà không chấp
công, thì khi đó thức mới tích lũy phước bền và dần tiến hóa được thành trạng thái vô ngã.

31
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

8) Thủ: Do ái duyên sanh nên có thủ (tính chấp giữ) hình thành, qua đó ta hiểu rằng bản
ngã dần được phát triển bởi các chu kỳ “xúc thọ ái” cứ huân tập qua vô số vòng sinh mệnh,
hình thành nên vô số các khối tập khí (lớp tập khí) sâu dày trong kết cấu thức, qua đó hình
thành những quán tính “nghiệp” cho các chu kỳ tiếp theo của thức, làm cho thức luôn
muốn hút (sở hữu) mọi thứ dễ chịu về cho mình (chấp giữ cái của mình).
9) Hữu: Do thủ duyên sanh nên có hữu hình thành, do năng lực nội tại tương tác với các
năng lực tập khí kết hợp lượng phước trong thức sẽ hình thành nên vô số các chu kỳ hiện
hữu khác nhau của thức hay còn gọi là hình thái vật chất (chu kỳ sinh mệnh). Vũ trụ được
cấu thành từ vô hạn các đơn vị thức ở nhiều cấp độ tiến hóa khác nhau, qua đó hình thành
nên sự hiện hữu của toàn bộ thế giới quan (tất cả những gì hiện hữu trong hệ tồn tại).
10,11,12) Sinh, lão, tử: Do hữu duyên sanh mà các chu kỳ sinh lão tử được hình thành
một cách vô tận. Các chu kỳ sinh mệnh cứ lặp đi lặp lại do sự huân tập bản ngã (dựa trên
các năng lực nội tại) hình thành nên, phản chiếu quá trình đối đãi giữa các năng lực nội tại
với môi trường ngoại vi của thức. Muốn hết sinh tử luân hồi thì phải đảo ngược quá trình
12 nhân duyên này, tu hành định lực để triệt tiêu hết các tập khí, triền cái và kiết sử tiêu
cực gốc bên trong nội tại, dần kiểm soát được sự vận động của hành ấm, thức ấm và cả
nhân tố bất định nữa, khi đó thức sẽ chuyển biến thành thức vô ngã, tiến nhập được vào
cảnh giới Niết Bàn thanh tịnh bình đẳng tuyệt đối, có thể ung dung dạo chơi ba cõi, tự
thiết kế các chu kỳ sinh mệnh theo bất cứ hình thái nào nếu muốn (tự tại trong sinh tử).

32
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

CÂU TRUYỆN THỨ NĂM


LƯỢC GIẢI THẾ GIỚI ÂM DƯƠNG VÀ CÁC
HÌNH THÁI HIỆN HỮU CỦA THỨC TRONG VŨ TRỤ
Đồ thị biểu hiện sự tương tác giao thoa giữa 2 thế giới:

Trạng thái thức Xu hướng tiến hóa thuận


vô ngã (Arahán) (đạo đức và định hài hòa viên mãn)

Vật chất hữu hình Vật chất vô hình

Vô sắc chánh đạo

Sắc giới chánh đạo

Thế giới hữu hình Thế giới vô hình

Cảnh giới ngạ quỷ


Cảnh giới súc sanh
CG ma, thiên ma
Cảnh giới người
Cảnh giới Atula,
CG trời dục giới MaVương (Mara)

Sắc giới tà đạo

Vô sắc tà đạo
Xu hướng tiến hóa nghịch Thân trung ấm: điểm trung gian giữa các
Tà định ngoại đạo chu kỳ sinh mệnh của thức hữu tình, do
(định nhiều giới khuyết) phóng ảnh của bản ngã hình thành.

+ Thế giới hữu hình: bao gồm toàn bộ loại vật chất ở trạng thái hữu hình (do dương thịnh
hơn âm) được hình thành chủ yếu từ các thức cơ bản (toàn bộ vùng không gian dương)
tương thích với thức sơ cấp và thức thứ cấp đang bức xạ các năng lực có xu thế dương.
+ Thế giới vô hình: bao gồm toàn bộ loại vật chất ở trạng thái vô hình (do âm thịnh hơn
dương) được hình thành từ các thức cơ bản (toàn bộ vùng không gian âm) tương thích với
thức sơ cấp và thức thứ cấp đang bức xạ các năng lực có xu thế âm.
+ Vật chất hữu hình: các loại vật chất ở thế giới dương do các thức đang bức xạ ở chu kỳ
hiện hữu dương làm nhân tố chính hình thành nên, các loại vật chất này hình thành do sự
giao thoa năng lực âm dương nhưng dương chính âm phụ.

33
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

+ Vật chất vô hình: các loại vật chất ở thế giới âm do các thức đang bức xạ ở chu kỳ hiện
hữu âm làm nhân tố chính hình thành nên, các loại vật chất này hình thành do sự giao thoa
năng lực âm dương nhưng âm chính dương phụ.
+ Cột giao điểm giữa hai thế giới: những chủng loài nằm trên cây giao điểm này đều
thuộc những cảnh giới có mức độ hài hòa âm dương cao nhất và thọ mạng lấu nhất trong
vũ trụ, là những chủng loài tiến hóa cao nhất và có lượng phước lớn nhất trong vũ trụ.
+ Thân trung ấm: Đây là trạng thái trung gian giữa 2 chu kỳ sinh mệnh của một thức siêu
cấp và chỉ có thức siêu cấp mới có giai đoạn thân trung ấm, nó là một trạng thái tạm (giữa
chu kỳ trước sau) do bản ngã của thức bức xạ ra trong khoảng thời gian ngắn để mô phỏng
lại hình thái hiện hữu đã bị hủy hoại (thường được gọi là linh hồn). Trạng thái này không
được tính là một kiếp mới vì nó mang hình thái bản ngã giống hệt thân xác đã chết, hình
thái hiện hữu này rất ngắn chỉ từ 1 vài giờ cho đến tối đa 49 ngày và nó chỉ là trạng thái
phóng ảnh tàn dư của bản ngã cũ khi thức chưa đủ cơ sở hình thành một kiếp sống mới.
Ở trạng thái này thức siêu cấp sẽ tiến hành huân tập các đặc tính của 1 chu kỳ sinh
mệnh hữu tình mới tùy thuộc vào lượng phước mà thức đang có, càng nhiều trí huệ giải
thoát thì khả năng lựa chọn cảnh giới của thức càng cao, càng nhiều năng lực phước thì
khả năng tái sinh vào những cảnh giới tốt càng cao. Chính vì có trạng thái thân trung ấm
nên thức siêu cấp không nhất thiết phải đảo chiều âm dương qua mỗi chu kỳ sinh mệnh,
do vậy thức có thể lặp đi lặp lại được nhiều lần chu kỳ hiện hữu dương (hoặc âm) liên tục
mà không cần đảo chiều, các loại thức thứ cấp trở xuống do không tạo được thân trung ấm
nên đều phải tuân theo quy luật đảo chiều âm dương sau mỗi chu kỳ hiện hữu.

+ Các thức siêu cấp ở chu kỳ hiện hữu “dương chính âm phụ” bao gồm: Cảnh giới súc
sanh, cảnh giới của loài người, cảnh giới các loài trời dục giới.
- Cảnh giới thú vật (súc sanh): Đây là cảnh giới mà thức siêu cấp bị chi phối nặng nề
bởi các khối tập khí theo xu thế bản năng như si mê, tà kiến, ngu dốt, ích kỷ, tham ái, phi
lý trí... Các tập khí tiêu cực này bám rễ xâu vào các khối kiết sử định hình cho nghiệp
lực sâu dày rất khó bỏ và trở thành bản năng cố hữu đặc thù của mỗi loài động vật bậc
thấp. Các loài thú ăn thịt là biểu hiện của các “thức” đang trên đà bị thoái hóa (khi còn là
người luôn huân tập những sở thích sai trái như: săn bắn, hại người hại vật, ác độc,
nghiện ngập, si mê, ngã kiến… xu thế này có thể kéo dài dường như vô tận nếu các quán
tính tiêu cực trong tiềm thức không được giải trừ).
Còn các loài thú ăn cỏ là biểu hiện của các thức đang trong giai đoạn dần tiến hóa lên
cao hơn (có thể các tập khí si mê, ái dục, ích kỷ vẫn còn nhưng trong tâm không có điều
ác độc, đang dần tích lũy năng lực phước và sự tích cực giữ giới để dần được làm người).
Các thú ăn cỏ có thể làm phước khi chúng: nuôi dạy con cái, bảo vệ bầy đàn đồng loại
hoặc bảo vệ các loài khác, hoặc giúp con người cày cấy, cho người cưỡi, hoặc làm thức
ăn cho con người (một kiểu tích lũy phước một cách bất đắc dĩ, nhưng đó cũng là 1
trong những nhân duyên khiến loài thú tích trữ được phước để làm người)…

34
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Chỉ một số loài linh thú như rồng, kim sý điểu, kỳ lân, quy thần, yêu tinh... là có định
lực trong tâm do tập khí thói quen tu hành và phước kiếp trước còn dư nhiều nên tuy làm
thân thú vẫn có thần thông, tỷ lệ kết cấu hài hòa âm dương cao hơn so với các loài súc
vật bình thường. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày nay đã lầm tưởng chuỗi thức ăn và
chuỗi tiến hóa là một, họ không hiểu rằng chính “thức” mới là thứ tiến hóa chứ không
phải hình thái hiện hữu vật chất của thức (các loài sinh vật) có thể tiến hóa do quá trình
chọn lọc tự nhiên. Tuổi thọ (tức chu kỳ hiện hữu) của thức ở cảnh giới thú vật giao động
từ một vài tuần cho đến vài ngàn năm tùy theo giống loài và tùy theo môi trường sống,
hình thức tái sinh vào cảnh giới này gồm ba hình thức chính bao gồm: thai sinh, noãn
sinh (trứng) và thấp sinh (các loài sâu bọ, vi sinh)…
- Cảnh giới các loại người: bao gồm nhiều chủng loài cùng cấp như các chủng người ở
nhiều hành tinh khác nhau, phi nhân, nhân ngư, nhân mã, người lùn, tiên tộc, người tý
hon, người khổng lồ... Đây là cảnh giới chung gian giữa các tầng thấp và các tầng cao
trong toàn bộ chuỗi tiến hóa của thức siêu cấp trong vũ trụ, sự pha tạp nhiều dạng thức
từ cấp dưới mới lên hay từ trên xuống trong nhóm này là rất đa dạng. Chung quy khi các
loài dưới tích đủ lượng phước và giữ 5 giới (không sát sanh, không tà dâm, không vọng
ngữ, không trộm cắp, không nghiện ngập; việc giữ giới làm thức không bị mất phước)
thì sẽ dần tiến hóa lên được cấp người, còn các loài ở trên cũng có thể rớt xuống làm
người một cách chủ động (để làm nhiệm vụ) hoặc bị động (nếu thiếu phước).
Chỉ khi lên tới cảnh giới người thì thức siêu cấp mới bắt đầu khả năng căn cơ để tu
hành tiến hóa cao hơn, sự tiến hóa từ thú sang người chủ yếu là do con đường tích lũy
phước và giữ giới mà thành, nhưng từ con người muốn tiến hóa lên các cấp độ cao hơn
đều phải thông qua con đường tu hành, giữ giới và kết hợp tích lũy phước mới lên được.
Tuổi thọ của cảnh giới người giao động từ 10 năm cho đến 10.000 năm (tính theo năm
của Trái Đất) tùy theo hành tinh sống, tùy theo các chủng loài, tùy trí tuệ dưỡng sinh
hoặc đạo đức của mỗi chủng loài khác nhau, hình thức tái sinh vào cảnh giới người chủ
yếu qua con đường thai sinh.
- Các loài trời dục giới: đây là những chủng loài tiến hóa cao trong phần dương (dương
chính âm phụ) của vũ trụ, do khi còn ở cấp người các thức này rất siêng năng làm phước
qua nhiều kiếp, biết cách tu hành phát triển tâm linh, nền khoa học tâm linh ở những cõi
trời này phát triển cao làm tác động đến hệ sinh thái và làm cho thế giới cõi trời này đạt
được một ngưỡng hài hòa âm dương cao cấp nhất định tạo nên môi trường siêu nhiên, tại
đó thuận lợi cho sự tiến hóa chung của loài, ngoài ra trong vũ trụ cũng có vô số những
vùng tự nhiên có sẵn vô số những vùng môi trường siêu nhiên với mức độ hài hòa âm
dương cao thấp khác nhau. Đồng thời nền khoa học công nghệ vật lý lẫn tâm linh của họ
cũng vượt rất xa so với cảnh giới người.
Ví dụ trong Dải Ngân Hà củng chúng ta có các chủng loài trời dục giới chánh đạo (3
cấp trời thấp nhất trong chuỗi tiến hóa của thức siêu cấp) ưu việt lãnh đạo khối AGUN
(sẽ giải thích ở câu truyện thứ 6), còn một số chủng trời dục giới tà đạo nằm trong nhóm
35
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

KORUN (vẫn còn nhiều tà kiến, tà tư duy, không tin hoặc không hiểu biết nhiều về nhân
quả học). Nói chung để đạt được trạng thái tiến hóa này các thức khi còn ở dạng con
người phải luôn tu hành kết hợp tích lũy phước cùng kết hợp với việc giữ giới (việc giữ
giới tượng trưng cho xu thế tiến hóa đạo đức và bền vững).
Đây là những chủng loài tiến hóa cao có khả năng di chuyển mọi nơi trong thiên hà
mà họ sống, một số loài trời dục giới cấp cao có thể di chuyển được toàn bộ vùng Địa cư
thiên và một phần giới hạn ở vùng Vân cư thiên trong vũ trụ. Thế giới trời dục giới vẫn
còn trạng thái nam nữ vì thức vẫn còn kiết sử ái dục, xã hội tốt đẹp, tuổi thọ của họ rất
cao, tuy nhiên các loài trời ở những cảnh giới này vẫn hạn chế về giới hạn di chuyển
trong vũ trụ, việc di chuyển giữa 2 thế giới âm dương vẫn cần phương tiện công nghệ
tâm linh hỗ trợ. Nếu tích lũy đủ lượng phước và đạo đức thì loài này sẽ tiến hóa thành
các loài trời sắc giới (di chuyển mọi nơi trong vũ trụ, tự thân có khả năng di chuyển qua
lại giữa 2 thế giới âm dương).
Tuổi thọ của cảnh giới trời dục giới nói chung giao động từ 50.000 năm cho đến 10
tỷ năm tùy theo loại thế giới (các hình thái môi trường siêu nhiên) và cấp bậc tiến hóa
của mỗi loài. Hình thức tái sinh vào các cảnh giới này là thai sinh và hóa sinh, trong
cùng cấp độ trời dục giới có tới 9 cung bậc cảnh giới tiến hóa cao thấp khác nhau như
sau (số tuổi tính theo số năm trên trái đất) cụ thể như sau:
1. Kiên thủ thiên : thọ từ 50.000 đến 150.000 năm
2. Trì hoa thiên : thọ từ 200.000 đến 500.000 năm Thai sinh, hóa sinh
3. Phóng dật thiên : thọ từ 1.000.000 đến 2.500.000 năm
4. Tứ thiên vương : thọ từ 3.000.000 đến 9.000.000 năm
5. Đao lợi thiên : thọ từ 10.000.000 đến 36.000.000 năm Hóa sinh
6. Dạ ma thiên : thọ từ 50.000.000 đến 150.000.000 năm
7. Đâu suất thiên : thọ từ 200.000.000 đến 600.000.000 năm Vùng
8. Hóa lạc thiên : thọ từ 1.000.000.000 đến 2.500.000.000 năm tinh vân
9. Tha hóa thiên : thọ từ 3.000.000.000 đến 10.000.000.000 năm

+ Các thức siêu cấp ở chu kỳ hiện hữu “âm chính dương phụ”: bao gồm các loài ngạ
quỷ, các loài ma và thiên ma ba tuần, các loài thần Atula và Ma vương (Mara).
- Cảnh giới ngạ quỷ: đây là những chủng loài thấp cấp nhất trong phần mặt âm của vũ
trụ, là cảnh giới thoái hóa của thức siếu cấp do thức khi còn ở hình thái người đã huân
tập nặng nề những đặc tính tiêu cực như: tham lam, ích kỷ, ngã mạn, ác độc mà bị thoái
hóa thành trạng thái này. Đây là cảnh giới thể hiện xu thế thoái hóa lớn của thức sau khi
kết thúc chu kỳ sinh mệnh người, thức này khi ở kiếp người đã không hề tác động tích
cực đến các thức khác, chỉ biết vun đắp vật chất cho bản thân, khư khư giữ của, ích kỷ
hơn thua mà không biết rằng họ sống và làm người được đều là nhờ rất rất nhiều sự hỗ
trợ từ các thức khác, các chủng loài khác. Chính vì tà kiến tham lam ngu dốt đó mà thức
này trong khi làm người bị hao hụt một lượng phước cực lớn dẫn đến bị suy thoái tâm,
36
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nợ quá nhiều mà không muốn trả và sau khi chết cơ chế vận động nhân quả tự làm thức
này có chu kỳ hiện hữu là cảnh giới ngạ quỷ sau khi kết thúc chu kỳ sinh mệnh người.
Cuộc sống làm người của những kẻ này là hoàn toàn vô nghĩa, nếu trong quá trình
sống kiếp người có tạo thêm ác nghiệp hại người hại vật thì khi chuyển qua kiếp ngạ quỷ
sẽ bị rơi vào địa ngục để bị tra tấn đền tội (đây là những nhà tù của cõi âm), tuổi thọ của
các loài ngạ quỷ dao động từ vài năm cho đến vài ngàn năm tùy theo thọ nghiệp phải trả
ngắn hay dài. Cảnh giới này tâm thức luôn trong trạng thái đói khát và hình thức tái sinh
vào cấp này là hóa sinh, đây là trạng thái ngang phước với cấp thú vật ở phần dương.
Khi thức kết thúc trạng thái ngạ quỷ, thức do thiếu phước thường bị đầu thai làm thú,
nếu từ địa ngục ra mà tâm ác chưa bị diệt trừ thì đầu thai làm thú ăn thịt để tiếp tục được
lặp lại các hành vi ác độc của mình và sẽ tiếp tục bị thoái hóa sâu hơn, còn nếu đã biết
hối lỗi mà phước kém thì phải đầu thai làm thú ăn cỏ để tích lại phước mà dần dần được
làm người trở lại. Nếu còn chút phước, chút duyên thì được làm các ma dân hoặc người
nghèo đói phải làm việc rất vất vả như nô lệ để tích phước trả nợ.
- Cảnh giới ma và các loài thiên ma ba tuần: Ma và thiên ma ba tuần là trạng thái đối
xứng với trạng thái con người ở mặt âm, hay nói cách khác là người âm. Trạng thái này
phần lớn thường từ người dương bình thường khi chết chuyển qua, ở cảnh giới này họ
có xã hội, có hệ thống pháp luật và cũng có nhà nước như ở cõi dương nhưng chặt chẽ
hơn và công bằng hơn do khả năng đọc được tâm (tha tâm thông) của những giai cấp cao
trong xã hội. Người âm (ma) thường làm nhiều chức sắc khác nhau trong thế giới âm
như: quản cây, hộ mệnh, bảo vệ đền chùa, âm binh, quan lại, thổ địa...
Phía thế giới người âm còn có khả năng nhìn thấy phía thế giới người dương nhưng
phía người dương lại không thể nhìn thấy phía âm được (trừ những người dương có
năng lực tâm linh do tu hành). Cảnh giới người âm cũng có nhiều tầng lớp giai cấp từ
thấp đến cao được đánh giá dựa trên năng lực tâm linh và đức độ của mỗi người, người
địa vị càng cao tức là pháp lực càng mạnh gọi là thần do họ khi còn là người dương đã
tạo nhiều phước đức. Phần âm trên Trái Đất thì chỉ có duy nhất 1 quốc gia, đứng đầu nhà
nước cõi âm của Trái Đất là Diêm Đế cai quản toàn bộ âm giới.
Các chủng loài thiên ma ba tuần khỏe hơn người âm nhưng tính tình hung dữ hơn,
thức ăn chính của họ là thịt ngạ quỷ, thường được cho làm cai ngục, âm binh, hắc bạch
diện, đầu trâu mặt ngựa… Có một thời gian cõi âm ở trái đất chưa có trật tự rõ ràng, khi
đó những người chết nếu bị thoái hóa xuống cảnh giới ngạ quỷ thường bị loài thiên ma
ba tuần bắt ăn thịt hết, cõi âm khi đó luôn xảy ra các cuộc chiến khốc liệt giữa hai phe là
ma và thiên ma. Chỉ đến khi có Diêm Đế dưới sự trợ giúp của một vị Arahán đã ổn định
âm giới trên trái đất và lập lên trật tự cho cõi này. Ông ta đưa ra các điều luật và hình
phạt nghiêm khắc phù hợp nhất với mọi loại tội lỗi và xây dựng các quy tắc hành vi ứng
xử chuẩn mực cho cả 3 loài: ma, thiên ma và ngạ quỷ. Ông ta cấm các chủng loài thiên
ma không được tùy tiện ăn thịt ngạ quỷ, chỉ được ăn những ngạ quỷ bị bắt vào địa ngục
do phạm tội ác khi còn ở cảnh giới người.
37
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Chỉ khi có nhà nước của Diêm Đế xuất hiện thì các loài ngạ quỷ mới được yên ổn
sống lê lết ở khắp mọi nơi trong thế giới âm mà không bị các thiên ma bắt tùy tiện như
trước. Tuổi thọ của cảnh giới ma và thiên ma này giao động từ vài chục năm cho đến
10.000 ngàn năm tùy thọ nghiệp và địa vị xã hội của mỗi cá thể, hình thức tái sinh vào
cõi ma và thiên ma nói chung đều là hóa sinh.
- Các chủng loài Atula và Mara (Ma vương): đây là hai nhóm loài thuộc cảnh giới cao
cấp hơn các chủng cõi ma và thiên ma ở phần phía xu thế âm của vũ trụ. Cảnh giới này
do thức khi còn ở trạng thái người đã tạo được nhiều phước nhưng lại chấp công, không
đủ căn cơ đạo đức cũng như mức độ giữ giới cần thiết để được tái sinh cảnh giới trời, vì
vậy bị rơi vào trạng thái Atula với đặc tính nhận biết là sự cố chấp và hay nóng giận.
Còn một dạng khác là cảnh giới Ma vương (có nhiều chủng loài Mara từ thấp đến
cao, cảnh giới Mara luôn mạnh hơn cảnh giới Atula đồng cấp) do đặc tính thích làm
phước rất nhiều nhưng lại ham mê quyền lực và thích chi phối áp đặt người khác. Hai
cảnh giới này của thức tuy có mức tiến hóa cao cấp hơn loài người nhưng sự tiến hóa
dạng này ẩn chứa nhiều sự bất ổn nội tại rất lớn, dễ tạo nghiệp ác, dễ tạo các vòng tuần
hoàn khiếm khuyết hoặc các vòng tuần hoàn ác tính trong dòng chảy nhân quả và sẽ dễ
bị đổ vỡ về sau, và khi đã đổ vỡ thì các cá thể này sẽ bị thoái hóa xuống rất sâu.
Xã hội các loài này cũng có những thành tựu tu tập tâm linh nhất định nhưng yếu hơn
các loài trời cùng cấp, cũng có hệ thống khoa học tâm linh phát triển nhưng lại rất hiếu
chiến. Tuổi thọ của các chủng loài ở cảnh giới Atula và Mara cũng gần bằng với các cõi
trời dục giới tương đồng ở nhiều cấp độ, tuổi thọ giao động từ 30.000 năm đến 9 tỷ năm
tùy loài cao thấp, hình thức tái sinh vào cảnh giới Atula là trứng sinh và hóa sinh, còn
hình thức tái sinh của các loài Mara chỉ có hóa sinh.

+ Các dạng thức đạt được trạng thái hài hòa âm dương rất cao: đây là các dạng thức
siêu cấp tiến hóa cao cấp nhất, nằm trên cây giao điểm của 2 thế giới (môi trường siêu
nhiên mà họ sống có mức độ hài hòa cân bằng âm dương rất cao). Các thức ở các chu kỳ
sinh mệnh dạng này có khả năng tự thân qua lại giữa 2 phần âm dương trong vũ trụ mà
không cần dùng bất cứ sự hỗ trợ của phương tiện công nghệ tâm linh nào.
Đây là những chủng loài có thể di chuyển được với những giới hạn xa nhất và có tuổi
thọ cao nhất trong vũ trụ. Trên cây giao điểm này có ba cấp bậc tiến hóa chính cuối cùng
của thức (hai trạng thái thức siêu cấp và trạng thái thức vô ngã) cụ thể như sau:

1) Các loài thuộc cảnh giới trời sắc giới: trong cùng cấp trời sắc giới cũng được chia
làm hai nhóm là nhóm tiến hóa thuận và tiến hóa nghịch. Nhóm tiến hóa thuận là
những vị chứng tam quả Anahàm đang nhập 3 mức thiền định và các vị Arahán đang
nhập tứ thiền. Và nhóm tiến hóa nghịch là những vị trời sắc giới ngoại đạo (tà đạo)
do họ chỉ chú trọng phát triển 4 mức thiền tà định nhưng không chú trọng đến việc tu
tập giới hạnh đạo đức cũng như không có nền tảng chánh niệm tỉnh giác (mức giữ
giới cần thiết để có được sự hài hòa với định) nên không có được sự giác ngộ.
38
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Cấp độ trời sắc giới nói chung họ đều có hình tướng trang nghiêm thanh tịnh, thân
thể ánh sáng, không còn phân chia giới tính do đã triệt tiêu được đặc tính dâm dục
trong nội tâm. Nhóm tiến hóa thuận phát triển định lực và đạo đức viên mãn cân
bằng hài hòa, phát huy được trí huệ giác ngộ và nhận biết sâu sắc bản chất của thực
tại nhưng chưa đến mức tuyệt đối, trong khi nhóm tiến hóa nghịch thì vẫn còn nhiều
tà kiến, kiêu mạn, vô minh trong tâm chưa phá trừ được.
Hình thức tái sinh cõi này nói chung là hóa sinh, đây là cảnh giới mà các bậc thánh
ưa cư trú vì những cảnh giới này có điều kiện thuận lợi để thức siêu cấp có thể
chuyển biến thành thức vô ngã, các vị ngoại đạo nếu trong cảnh giới này vẫn không
nghe lời khuyên nhủ của các vị thánh chánh đạo thì sau khi thọ mạng chấm dứt sẽ bị
đọa trở lại làm người hoặc thấp hơn, cảnh giới này bao gồm 18 cấp độ cung bậc cấp
cao thấp khác nhau (tuổi thọ tính theo số năm trên trái đất) cụ thể như sau:
1. Phạm chúng thiên : thọ 30 tỷ năm.
2. Phạm phụ thiên : thọ 60 tỷ năm. Sơ thiền
3. Đại phạm thiên : thọ 90 tỷ năm.
Vân cư thiên
4. Thiểu quang thiên : thọ 120.000 tỷ năm.
5. Vô lượng thiên : thọ 240.000 tỷ năm. Nhị thiền
6. Quang âm thiên : thọ 480.000 tỷ năm.
7. Thiểu tịnh thiên : thọ 960.000 tỷ năm.
8. Vô lượng thiên : thọ 2 triệu tỷ năm. Tam thiền
9. Biến tịnh thiên : thọ 4 triệu tỷ năm.
10. Vô vân thiên : thọ 8 triệu tỷ năm.
11. Phước sanh thiên : thọ 16 triệu tỷ năm.
12. Quảng quả thiên : thọ 30 triệu tỷ năm.
Không cư thiên
13. Vô tưởng thiên : thọ 40 triệu tỷ năm.
14. Vô phiền thiên : thọ 60 triệu tỷ năm. Tứ thiền
15. Vô nhiệt thiên : thọ 80 triệu tỷ năm.
16. Thiện kiến thiên : thọ 160 triệu tỷ năm.
17. Thiện hiện thiên : thọ 300 triệu tỷ năm.
18. Sắc cứu cánh thiên : thọ 600 triệu tỷ năm.

2) Các loài thuộc cảnh giới trời vô sắc: trong cùng cảnh giới trời vô sắc được chia làm
hai nhóm là nhóm tiến hóa thuận và tiến hóa nghịch, nhóm thứ nhất tiến hóa thuận
theo chánh pháp là những vị thánh Arahán đang nhập lần lượt nhập 4 mức thiền định.
Nhóm thứ hai tiến hóa nghịch là các vị trời vô sắc ngoại đạo, họ chú trọng phát
triển lượng định lực thái quá và không tương xứng hài hòa với việc tu tập đạo đức, vì
vậy dù thiền định rất thâm sâu nhưng cũng không phát triển được trí huệ giác ngộ.
Cảnh giới trời vô sắc nói chung là không có hình tướng, không còn tập tính ái dục
và tuổi thọ thuộc dạng cao nhất trong các loài hữu tình trong vũ trụ, hình thức tái
sinh vào cõi này là hóa sinh, bao gồm bốn cung bậc tiến hóa chính bao gồm:
39
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

1. Không vô biên xứ : thọ 20.000 đại kiếp (750 triệu tỷ năm).


2. Thức vô biên xứ : thọ 40.000 đại kiếp (1.500 triệu tỷ năm).
Vùng đại định
3. Vô sở hữu xứ : thọ 60.000 đại kiếp (3.000 triệu tỷ năm).
4. Phi phi tưởng xứ : thọ 80.000 đại kiếp (6.000 triệu tỷ năm).

3) Cảnh giới thức vô ngã (Arahán): đây là cảnh giới của các bậc thánh đã chứng đạo
quả giải thoát, giác ngộ hoàn toàn, làm chủ được sinh tử, hiểu biết tường tận đường
đi của quy luật nhân quả và vận hành nó một cách chính xác có lợi nhất cho chúng
sinh. Cảnh giới này không có cõi riêng nhưng là tất cả, họ thường chủ động lựa chọn
tái sinh vào các cảnh giới thấp hơn như cõi người, các cõi trời dục giới, trời vô sắc
giới và các cõi trời sắc giới nhưng bên trong tâm thức thì họ đã đạt mức độ tiến hóa
tột cùng vô ngã. Họ chủ động tái sinh vào các cấp dưới chỉ để giáo hóa cho các thức
cấp thấp tiến hóa hơn, họ thấy rõ mọi sự thật về chân lý trong vũ trụ, trí huệ viên mãn,
giải thoát tự tại, họ có thể di chuyển mọi nơi trong vũ trụ một cách tự tại.
$ Con đường Bồ tát đạo của “thức vô ngã”: ngay sau khi một thức siêu cấp chứng
đạt được trạng thái tiến hóa cuối cùng trở thành thức vô ngã, vị này nhập vào diệt tận
định và thấy được thể tánh của Niết Bàn, hòa nhập vào pháp giới tự tánh bình đẳng
thanh tịnh, vị này chứng được tam minh lục thông một cách viên mãn, sau đó vị này
quán chiếu vô lượng kiếp của mình và chúng sinh.
Vị này thấy tuy mình đã chứng quả vị giải thoát Arahán nhưng sự tương quan
nhân quả chồng chéo của mình trong vô lượng kiếp trước với chúng sanh hình thành
lớp khí nghiệp sâu dày. Cảm thông thương xót và muốn tháo gỡ hết những khí
nghiệp duyên nợ đó, vị này phát đại nguyện Bồ Tát hạnh cứu độ vô lượng chúng
sanh có duyên nợ trong vô lượng kiếp với mình trước đây về với chánh pháp.
Kể từ đó vị này chủ động tái sinh trong vô số kiếp để hóa giải những khí nghiệp
quá khứ một cách khéo léo nhất sao cho đường đi của nhân quả có lợi nhất cho
chúng sinh, con đường mà họ đi đó gọi là Bồ Tát đạo. Sau khi đã đi hết quãng đường
đó, đến kiếp cuối cùng, vị này trở thành bậc Như Lai (tức là một vị Phật), đây là vị
thánh toàn giác, là vị thầy của loài người và loài trời, vị này không còn chút khí
nghiệp quá khứ với chúng sinh nữa. Do vị này đã đạt đến thực tánh chân như tuyệt
đối của sự tồn tại (niết bàn) nên có thể di chuyển mọi nơi trong vũ trụ, di chuyển qua
nhiều vũ trụ nhánh và qua vô số vũ trụ tổng thể khác nhau một cách tự tại.
Thần thông, phước đức và trí huệ của vị này diệu dụng nhiệm mầu gấp hàng triệu
triệu lần so với lúc vừa mới chứng Arahán, vị này biết được vô thủy vô chung kiếp
của mình và mọi chúng sanh trong khắp pháp giới, tâm vị này từ bi phủ trùm tam
giới và âm thầm gia hộ chúng sanh.

40
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Lược giải biểu đồ 2 thế giới


Do tính chất đảo chiều hiện hữu âm dương của các đơn vị “thức” qua các chu kỳ hiện
hữu chẵn lẻ ở mọi cấp độ mà vũ trụ rộng lớn luôn tồn tại 2 thế giới song song như hai mặt
đối lập của một đồng xu, đó là thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Ở những vị trí khác
nhau trong vũ trụ thì mức độ tương tác giao thoa giữa 2 thế giới này là hoàn toàn khác
nhau, tùy thuộc vào đặc tính kết cấu vận động nội tại của các đơn vị “thức” ở từng vị trí
khác nhau mà mức độ tương tác giữa hai thế giới này nhiều hay ít.
Có những vị trí dương thịnh âm suy thì vị trí đó là môi trường thuận lợi cho các vật
chất hữu hình phát triển (các thức thứ cấp trở xuống đang trong chu kỳ vật chất dương sẽ
thịnh), và ở những vùng âm thịnh dương suy thì ngược lại làm các vật chất vô hình phát
triển thuận lợi hơn (các thức thứ cấp trở xuống đang trong chu kỳ vật chất âm sẽ thịnh).
Thế giới bên trái là thế giới dương và thế giới bên phải là thế giới âm nhưng để hình
thành nên bất kỳ dạng sự vật nào thì luôn cần có sự giao thoa của cả âm và dương kết hợp
theo một tỷ lệ nhất định. Sự phát triển thái quá của 1 trong hai trường dương hoặc âm sẽ
tạo ra những môi trường không phù hợp cho các dạng vật chất sinh mệnh hữu tình cao cấp
(các thức siêu cấp lớn) phát triển.
Chỉ có những vị trí mà sự giao thoa kết hợp hài hòa giữa 2 thế giới âm dương mới hình
thành môi trường sống thuận lợi đem lại sự phát triển của các loài sinh mệnh hữu tình cao
cấp như các loài người tiên tiến, các loài quỷ thần hay các loài trời... Sự kết nối âm dương
tồn tại chằng chịt ở mọi cấp độ vật chất từ nhỏ đến lớn, và trong bản chất mỗi sự vật cũng
có sự kết nối theo những tầng mức tỷ lệ khác nhau.
Toàn bộ thế giới hữu hình được hình thành từ các đơn vị thức cùng đồng thời hiện hữu
ở chu kỳ dương chính ở mọi cấp độ tiến hóa và ngược lại. Càng gần cây giao điểm của 2
thế giới thì thức càng tiến hóa cao, tức sự kết hợp hài hòa âm dương càng lớn thì tỷ lệ
thuận với mức độ tiến hóa của thức. Các thức ở phía bên trên của cột giao điểm khi tu
hành tiến hóa có xu hướng đi lên, khả năng tiến hóa bền vững do có sự kết hợp hài hòa
giữa đạo đức và định lực.
Các thức phía bên bên dưới cột giao giao điểm cũng có xu hướng đi lên, tính tiến hóa
chỉ thuần định thái quá sẽ không bền vững và dễ gây thoái hóa phải quay trở lại các cảnh
giới xa cột giao điểm khi bước qua chu kỳ sinh mệnh mới. Xu hướng chung là các thức
siêu cấp bên trái dễ đi lên và thức bên phải dễ đi xuống, nhưng không hoàn toàn vì bên
phải hay trái cũng đều có những thức tích cực và tiêu cực như nhau.
Các vòng tròn ở hình trên thể hiện mức độ giao thoa giữa 2 thế giới, các vòng tròn còn
giao thoa đến điểm hình thành vật chất hữu hình và vật chất vô hình (vì đã hình thành sự
vật thì luôn phải có âm dương kết hợp), vật chất dương thì tính dương trội hơn và ngược
lại. Một đơn vị thức luôn có sự đảo chiều vật chất âm dương qua mỗi đợt chu kỳ hiện hữu
chẵn lẻ. Ví dụ khi một thức kết thúc hình thái người, tùy theo chỉ số phước họa mà “thức”
tạo dựng ở chu kỳ sinh mệnh người này mà sau khi chết thức có thể nhảy sang các cấp gần

41
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

phía âm hơn: như ngạ quỷ, thiên ma, thần Atula, trời dục giới… nhưng sự chuyển biến
hình thái hiện hữu càng gần cột giao điểm nghĩa là thức đó càng có nhiều phước, càng tiến
hóa hơn các thức ở xa cột.

“Phước” - năng lực thúc đẩy sự tiến hóa của “Thức”


Các đơn vị “thức” từ khi hình thành đã luôn vận động phát triển không ngừng, do sự
tương tác giữa các năng lực nội tại kết hợp các tác động của những năng lực ngoại vi qua
vô số các chu kỳ hiện hữu (đơn vị tồn tại) mà một đơn vị “thức” sẽ có những mức độ tiến
hóa nhất định (các thức chỉ có thể bị thoái hóa trong cùng một cấp độ chính).
Khi một đơn vị “thức” trong một chu kỳ hiện hữu tác động một lực “tích cực” vào đơn
vị “thức” khác (có thể một hoặc nhiều thức bị tác động), khi đó cơ cấu nội tại trong đơn vị
“thức” này hình thành nên 1 dạng năng lực gọi là “phước”. Năng lực này được phát triển
dựa trên đặc tính bảo toàn năng lực của quy luật nhân quả, nghĩa là gieo cái gì gặt cái nấy,
gieo tích cực gặt tích cực, gieo tiêu cực gặt tiêu cực.
Năng lực này là động lực chính thúc đẩy sự tiến hóa của các đơn vị “thức”, sự tác động
tích cực đến các “thức” khác nghĩa là làm cho “thức” khác sinh trưởng, phát triển và tiến
hóa hơn. Khi đó “thức” tác động sẽ phát triển theo những vòng tuần hoàn lành tính, sự tác
động như vậy càng nhiều thì sẽ càng làm thức tiến hóa hơn. Ngược lại nếu thức có sự tác
động tiêu cực đến các đơn vị thức khác làm cho các thức khác bị ảnh hưởng xấu thì thức
tác động sẽ bị thoái hóa (bị tổn phước hay còn gọi là “họa”).
Cũng có khi “thức” tác động là tích cực đến nhóm thức này nhưng đồng thời lại làm
tiêu cực đến nhóm thức khác thì khi đó “thức” sẽ phát triển theo dạng vòng tuần hoàn ác
tính hoặc khiếm khuyết trong dòng chảy nhân quả luân hồi (hành vi đúng sai tốt xấu lẫn
lộn hòa vào nhau), mức độ rủi ro của quá trình tiến hóa dạng này (tiến hóa nghịch) về sau
là rất cao khi mà thức không xóa bỏ hay không nhận biết được các đặc tính tiêu cực trong
hành vi cũng như sự thiếu sót trong nội tâm, và khi phần phước đã tạo không thể bù nổi
cho phần họa phát sinh thì thức sẽ lập tức bị đổ vỡ và bị thoái hóa.
Nếu một thức cấp thấp mà tác động lực tích cực đến một thức cấp cao hơn nó thì tùy
theo mức độ chênh lệch về độ tiến hóa giữa 2 thức này mà thức tác động sẽ nhận được
lượng phước lớn hơn (có thể theo cấp số nhân) so với việc tác động đến các thức tương
đồng hoặc thấp hơn. Ví dụ một người cúng dường cho một vị thánh thì phước phát sinh
trong nội tại của người đó sẽ vô cùng lớn so với việc giúp một người bình thường khác.
Ngược lại nếu thức cấp thấp tác động tiêu cực lên thức cấp cao hơn nó thì sẽ bị tổn phước
rất lớn theo cấp số nhân (tùy theo mức độ chênh lệch tiến hóa giữa 2 thức).
Dựa trên sự tương quan nhân quả giữa các thức khi tác động với nhau mà lượng phước
nhiều hay ít không chỉ được tạo ra bằng việc tác động trực tiếp mà còn được phát sinh một
cách gián tiếp và họa (tổn phước) cũng vậy, ví dụ một người giúp một người tốt và người
tốt đó nhờ sự giúp đỡ của mình mà có cơ hội giúp nhiều người khác thì người giúp ban
đầu cũng dần có nhiều phước phát sinh thêm trong tương lai. Ngược lại nếu một người
42
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

giúp một người xấu mà vì sự giúp đỡ của mình mà người xấu đó có cơ hội hại nhiều người
khác thì bản thân người giúp cũng sẽ bị mang họa (tổn phước một cách vô tình gián tiếp
lũy kế về sau). Sự phát triển phước của các thức cũng như sự tương tác phước giữa các
thức hình thành những mắt xích trong dòng chảy nhân quả một cách ăn khớp tương quan
chặt chẽ với nhau trong một tổng thể thống nhất.
Ở các cấp độ “thức cơ bản”, “thức sơ cấp” và “thức thứ cấp” thì sự tiến hóa chỉ mang
tính chất ngẫu nhiên may rủi, các năng lực “phước” do các thức này tạo ra mang tính thụ
động, và qua đó “thức” sẽ tự động tiến hóa thành các dạng hình thái vật chất cao hơn ở
chu kỳ hiện hữu tiếp theo do vô tình tác động tích cực lên các “thức” khác. Còn ở cấp độ
“thức siêu cấp”, sự tiến hóa vừa mang tính ngẫu nhiên vừa mang tính tất nhiên do có sự
tác động đã có tính lựa chọn của mỗi đơn vị “thức siêu cấp”. Khi “thức siêu cấp” trong
một chu kỳ đời sống sinh mệnh hữu tình lựa chọn những hành vi mang tính chất tích cực
đối với các đơn vị “thức” khác (ở mọi cấp độ) thì kết cấu nội tại của “thức” này sẽ phát
sinh một loại năng lực gọi là “phước” (loại “phước” được hình thành có tính chủ động),
đây là dạng năng lực giúp “thức siêu cấp” đạt được ước nguyện, tức là năng lực này sẽ kết
hợp với các mong muốn bên trong nội tâm của “thức” làm cho điều mong muốn đó trở
thành sự kiện hiện thực sẽ xảy ra trong tương lai.
Tùy theo mong muốn đó là tốt hay xấu và nó tác động nhiều hay ít đến các “thức” khác
mà “thức siêu cấp” sẽ tiếp tục có nhiều hay ít phước hơn trong tương lai qua đó là nhân
duyên tiến hoặc thoái hóa về sau. Có hai loại phước là phước hữu lậu và phước vô lậu,
phước hữu lậu là khi thức sử dụng phước để có được các mục đích tầm thường phục vụ
cho bản ngã vị kỷ của các chu kỳ hiện hữu (tài sản, sắc, quyền, danh, hương, thực…).
Còn phước vô lậu là khi thức sử dụng phước cho các mục đích cao đẹp nhằm đem lại
kết quả tiến hóa giải thoát giác ngộ. Khi đó người tu dùng phước để tu hành thiền định
thâm sâu, qua đó dần phá trừ hết các tập khí kiết sử tiêu cực trong nội tâm. Dùng phước để
cúng dường các bậc thánh, để có thể tôn kính các bậc thánh một cách tuyệt đối, để có
thêm duyên lành với chánh pháp, để có cơ hội gặp được những vị minh sư chánh đạo, để
luôn gặp được chánh pháp trong vô lượng kiếp sống, để được chứng đạo giải thoát. Vì vậy
chỉ có phước vô lậu mới là năng lực vẹn toàn bền vững giúp thức siêu cấp có được sự tiến
hóa thuận bền vững mà không bị thoái lui.
Ngoài ra phước khí cũng có thể phát triển được theo dạng cấp số nhân dựa trên cơ chế
chuỗi phản ứng dây truyền do hành vi tích cực (hoặc tiêu cực) mà một thức siêu cấp đã tác
động lên một thức khác, làm thức đó tiếp tục phản ứng tác động lên các thức khác nữa và
cứ tiếp như vậy cho đến khi hết quán tính. Chuỗi phản ứng này lan tỏa dần qua rất nhiều
thức liên đới hình thành các dòng chảy nhân qủa theo thời gian, giá trị phước do sự tác
động ban đầu cộng với tỷ lệ phước lũy tiến về sau sẽ làm cho thức tạo tác có được một
lượng phước (/họa) lớn hơn rất nhiều so với lực khởi phát ban đầu. Ví dụ như khi ta trồng
một trái xoái xuống đất, chỉ với một trái xoài nhưng qua thời gian và các điều kiện phù
hợp sẽ cho ra cả một cây xoài và rất nhiều trái xoài; hoặc lấy ví dụ anh A tạo điều kiện
43
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

cho một em học sinh nghèo lương thiện B đến trường và dạy đạo đức cho em, người B
này sau đó lớn lên trở thành một vị bác sỹ tốt, chữa bệnh miễn phí cho rất nhiều trẻ em
nghèo và còn tạo điều kiện cho các trẻ em nghèo đó đi học. Vậy thì cái phước mà anh A
được hưởng sẽ rất lớn do phản ứng dây truyền của những gì anh làm đã phát sinh tích cực
về sau rất nhiều, anh A này trong rất nhiều kiếp sau thường rất giàu, thông minh, mạnh
khỏe... Ngược lại nếu một người C cướp của giết người D thì phản ứng dây truyền nhân
quả hình thành các chuỗi tai họa liên tiếp nhau về sau, gia đình người D đau khổ, vợ anh
D phải làm việc cơ cực trong môi trường độc hại nhiều năm để nuôi 2 đứa con nên sinh
bệnh tật và mất sớm, con trai anh D do không được nuôi dạy đàng hoàng lớn lên trở thành
đối tượng bất hảo trộm cướp, còn con gái anh D do không có cha mẹ cũng đi làm mại dâm
nuôi thân rồi bị bệnh chết… vậy là tại họa mà người C chịu sẽ rất thảm khốc do phải cộng
dồn lũy kế những tai họa dây truyền mà hắn đã gây ra cho cuộc đời, nhiều kiếp hắn bị rơi
vào địa ngục, nhiều kiếp thành quỷ đói, sau đó sinh ra làm người nghèo hèn, làm việc cơ
cực tích cóp bao nhiêu bị kẻ khác cướp mất, rồi lại bị giếp, rồi bị sinh làm thân gái bị đời
đưa đẩy làm gái đứng đường, rồi lại tiếp tục bị giết hiếp và chuỗi tai họa sẽ kéo dài cho
đến khi hết quán tính tiêu cực mà hắn đã tạo ra cho nhiều người khác ở kiếp xưa.

Cơ chế vận hành và phân loại phước khí


Do sự vận hành của luật nhân quả trong vũ trụ đã tạo nên vô số các dạng năng lực
phước khí ngưng tụ trong đơn vị thức, ở đây chúng ta chỉ xét đến các loại phước khí của
thức siêu cấp, khi nói đến thức siêu cấp nghĩa là ta đang nói đến các loài hữu tình trong
toàn thể pháp giới vũ trụ. Dù là loài nào trong cấp độ này thì cũng đều có 5 loại phước khí
cơ bản, thức gieo nhân thuộc loại phước khí nào thì sẽ trổ quả của loại phước đó. Năm loại
phước khí của thức siêu cấp cụ thể như sau:
1) Phước dung sắc (hình tướng): Đây là loại phước khí thể hiện tướng trạng hình thái vật
chất (1 kiếp sống) của thức siêu cấp. Cơ chế hoạt động của loại phước này là “Tướng tùy
tâm sinh”, tức là các tướng trạng biểu hiện bên ngoài đều do cơ cấu nội tâm bên trong
quyết định. Ví dụ: người tâm càng thánh thiện đạo đức chừng nào thì hình tướng càng đẹp
chừng đó và ngược lại. Vì vậy người nào hay đảnh lễ, tôn kính Phật và các bậc thánh, biết
ơn thầy cha mẹ, lý trí giữ giới cao, sống đức độ, tâm hồn cao thượng, yêu đời vui vẻ hòa
đồng từ bi hỷ xả với mọi người… thì hình tướng bên ngoài của họ dần dần đẹp hơn (nét
đẹp thay đổi từ từ từng chút một trong thời gian dài nên người đó không nhận ra). Ngược
lại người nào có tâm hay suy nghĩ những điều bất thiện, sân hận, kiêu mạn, đố kỵ, buồn,
ghét, thù hằn, cọc cằn, hẹp hòi, ác độc, sống không đạo đức, buông tuồng bản năng… thì
dần dần hình tướng sẽ trở nên xấu đi (sự thay đổi dần dần làm họ không nhận ra).
2) Phước sức khỏe: đây là loại phước khí thể hiện chỉ số sinh lực ở một kiếp sống của
thức siêu cấp. Sức khỏe thọ mạng nhiều hay ít của một người phụ thuộc vào những nhân
hành vi mà người đó đã tạo tác trong quá khứ là thiện hay ác, đúng hay sai quyết định.
Người hay xây bệnh viện, việc làm chánh mạng, chữa bệnh, cung cấp thuốc men, bảo vệ

44
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

mọi người, không sát sanh, ăn chay, phóng sanh, yêu quý sự sống, trồng rừng, ngăn chặn
kẻ ác hại người, tâm mong mọi người mạnh khỏe, kính lão, cúng dường gạo cho chùa,
thăm hỏi người già, làm từ thiện cho trẻ nhỏ trẻ mồ côi, làm nhiều việc tốt lành đem lại lợi
ích sức khỏe cho mọi người… thì về sau hoặc các kiếp sau người này sẽ có thân thể khỏe
mạnh, thọ mạng lâu dài. Ngược lại nếu kẻ nào hay suy nghĩ hại người, chuốc rượu, chuốc
thuốc độc, làm các việc ác tổn hại đến thân mạng ảnh hưởng sức khỏe người khác, sát
sanh, buôn bán thực phẩm bẩn, bán rượu thuốc lá, dụ người hút thuốc, hút chất gây nghiện,
làm bẫy hại vật, đánh đập người vật, câu cá, nuôi nhốt vật, hành hạ người già trẻ nhỏ… thì
kẻ này về sau hoặc kiếp sau thân thể luôn bệnh tật, thọ mạng bị chết yểu, khi chết chịu vô
cùng đau đớn. Cơ thể phần nào làm đúng làm tốt chức năng (tác động tích cực đến môi
trường) càng nhiều thì phần đó càng đẹp chừng đó.
3) Phước tài sản: đây là loại phước khí thể hiện số lượng vật chất mà thức thọ nhận được
trong một kiếp sống, bao gồm tất cả các loại tài sản mà người đó có được ví dụ như tiền
bạc, của cải, vợ đẹp, xe cộ, nhà cửa, món ăn, thức uống, mùi hương, âm thanh… Nghĩa là
người nào hay cúng dường tiền bạc cho chùa, hay góp tiền xây chùa, khuyến khích hoan
hỷ vận động mọi người làm từ thiện, mong mọi người đều được giàu có không ai chịu khổ,
bố thí làm từ thiện, biết tiếp kiệm giữ gìn tài sản cho mình và mọi người, luôn giúp đỡ
người nghèo khó, xây cầu đắp đường, tạo công ăn việc làm cho nhiều người, chăn lo đời
sống cấp dưới, giúp người khác thoát đói nghèo… thì về sau hoặc kiếp sau sẽ hưởng giàu
sang, sinh vào gia đình quyền quý hoặc làm ăn thành đạt. Ngược lại kẻ nào hay bóc lộc
tiền bạc và sức lao động của mọi người, tham lam ích kỷ đố kỵ, không muốn ai hơn mình,
không muốn người khác làm việc thiện lành, trộm cắp cướp giật, mượn tiền quỵt nợ, làm
ăn lừa đảo, ăn không ngồi rồi, lười biếng phóng túng, ăn chơi hoang phí… thì về sau hoặc
kiếp sau kẻ này sẽ sống trong nghèo khó, thân phận thấp hèn, làm ăn khó khăn.
4) Phước trí tuệ: đây là loại phước khí thể hiện chỉ số trí tuệ của thức đạt được. Có 2 loại
trí tuệ mà thức có được là trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thế gian. Trí tuệ thế gian là trì tuệ
được hình thành bởi nguồn phước hữu lậu, nghĩa là người nào hay xây trường học, dạy
người khác tri thức, hỗ trợ mọi người học tập, tôn kính thầy cô, kính ngưỡng các danh
nhân trí thức, muốn mọi người thông minh hiểu biết tri thức hơn, không khinh người ít
học, trân trọng sách vở, thích đọc sách khoa học, ham mê nghiên cứu học hỏi cái mới cái
hay, luôn tìm cầu chân lý cái đúng cái thật của cuộc sống, đầu tư vào các chương trình
giáo dục, xóa mù chữ, thích sự chân thật, thích nghiên cứu những điều hay để cải thiện xã
hội… thì về sau người này sẽ rất thông minh, học 1 biết mười, dễ dàng tiếp cận nguồn tri
thức. Còn trí tuệ xuất thế gian lại được hình thành bởi nguồn phước vô lậu, nghĩa là người
nào hay xây chùa, tạc tượng, đúc chuông, thí pháp, luôn tôn kính tam bảo tuyệt đối, từ bi
khiêm hạ, muốn người khác hiểu đạo, hiểu nhân quả mà tu hành giải thoát và sống tốt hơn,
hoan hỷ hỗ trợ chư tăng làm vô số các Phật sự hoằng hộ chánh pháp cho đời, tâm luôn
muốn dần phá trừ các tập khí kiết sử tiêu cực trong tiềm thức, tôn trọng sự thật, luôn chăm
chỉ thiền định, giúp mọi người thiền đúng chánh đạo, chuyên tâm giữ giới và học hỏi đạo

45
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

lý thánh hiền… thì người này về sau và các kiếp sau tâm hồn sẽ dần thánh thiện, luôn gặp
minh sư và các thiện tri thức hỗ trợ nhau tu hành, các kiếp càng về sau tâm hồn càng trở
nên tốt hơn, trí tuệ luôn linh mẫn, thấu hiểu đạo lý. Ngược lại kẻ nào luôn muốn người
khác hiểu sai sự thật, hay lừa gạt người, rao giảng tà kiến tà đạo, khinh người ít học, làm
mọi người hiểu sai chân lý vũ trụ, sống sai đạo lý, phỉ báng bậc thánh, dùng và khuyến
khích người khác sử dụng chất gây nghiện, không muốn người khác thông minh hơn mình,
ngăn cản người khác học hỏi, bất kính danh nhân thầy cô, hay xuyên tạc sự thật, muốn
người khác ngu dốt để dễ bề sai sử cai trị dẫn dắt đô hộ lợi dụng… thì kẻ này về sau hoặc
các kiếp sau sẽ thường không thấy được sự thật, luôn bị lợi dụng, bị lừa gạt, luôn ngu si tà
kiến, hiểu không đúng về chân lý chân thật của vũ trụ nhân sinh, đầu óc luôn mụ mị, học
mười mà chưa hiểu được một, luôn trầm luân trong sinh tử ác đạo vô tận.
5) Phước thuận duyên: đây là loại phước khí biểu hiện các duyên lành mà thức siêu cấp
gặp được trong một kiếp sống, nghĩa là tính hợp duyên giữa các thức với nhau. Thuận
duyên là khi một người trước đây hay giúp đỡ người khác, tạo ơn nghĩa với nhiều người,
hay cúng dường các vị chân tu, tôn kính bậc thánh, ước nguyện hoằng hộ chánh pháp…
thì sau này và các kiếp sau người này sẽ gặp nhiều thuận lợi trong cuộc sống, được nhiều
người có thiện cảm giúp đỡ, mua may bán đắt (những người thọ ơn trước đây sẽ báo đáp),
luôn gặp được thầy hiền bạn tốt, các mong muốn luôn thành tựu. Ngược lại nghịch duyên
là khi một người gây thù chuốc oán với người khác, làm người và vật đau khổ buồn phiền,
sống không đúng đạo lý, không thích tìm cầu chân lý vũ trụ, sống chiều theo dục vọng bản
năng… thì về sau và các kiếp sau người này sẽ thường xuyên gặp trở ngại trong cuộc sống,
không đạt được điều mong muốn, vất vả khó khăn trong mưu sinh và tu hành, hoàn cảnh
số phận oan trái nghiệt ngã đắng cay, đời đưa đẩy bức bách dễ làm điều sai trái…
+ Cơ chế vận hành của phước khí: Khi tính theo một vòng nhân quả thì người gieo
phước loại nào sẽ gặt quả của loại phước khí đó, ví như gieo hạt cam thì ra cây cam chứ
không thể ra cây xoài hay cây ớt được, nên 5 loại phước trên là riêng biệt. Nhưng nếu tính
trên nhiều chu kỳ nhân quả thì 5 loại phước trên có thể chuyển hóa trộn lẫn được với nhau.
Ví dụ như một người gieo nhân về trí tuệ (xây trường học) nên sau này sẽ thông minh và
nhờ có thông minh nên người này dễ dàng học các tri thức về kinh doanh, vì có các tri
thức kinh doanh kết hợp với phước sức khỏe nên người này sẽ dễ dàng kinh doanh thành
công, qua đó người này sẽ trở nên giàu có (phước tài sản). Trong kiếp sống của thức siêu
cấp thì luôn hình thành vô số các vòng chu kỳ nhân quả nên sự tương tác của 5 loại phước
khí này trộn lẫn đan xen chằng chịt với nhau (tỷ lệ tốt xấu cũng đan xen lẫn lộn) làm hình
thành nên chuỗi số phận một con người luôn thăng trầm tưởng chừng như vô định. Chính
vì sự phức tạp rất lớn của các quá trình tương tác nhân quả mà cảm quan của con ngươi
thế gian luôn cho rằng số phận đời người là sự may rủi không đoán định tính toán được,
nhưng các bậc thánh thấy rõ quá trình vận động nhân quả này một cách vô cùng chi tiết
nên họ biết mọi thứ đều do phản ứng tương tác trong dòng chảy nhân quả tạo nên chứ
hoàn toàn không đơn giản ngẫu nhiên như cảm nhận của người phàm vẫn nghĩ.

46
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

+ Cơ chế toán học của phước khí: Nói xấu, bôi nhọ, phỉ báng, hãm hại, tiêu diệt, trù
dập,… người tốt thì rất tổn phước (âm x dương = âm). Ca ngợi, tuyên dương, ủng hộ,
nâng đỡ, bảo vệ, vâng lời, đi theo,… kẻ xấu thì bị tổn phước (dương x âm = âm). Khuyên
can, răn đe, thậm chí tiêu diệt kẻ xấu ác thì có phước (âm x âm = dương). Ca ngợi ủng hộ,
giúp đỡ, nâng đỡ, bảo vệ, vâng lời, đi theo… người tốt thì rất có phước (dương x dương =
dương). Các bậc thánh nhân hoặc những vị chân tu được xem như là dương vô cùng, cho
nên nếu kẻ nào nói xấu, bôi nhọ, phỉ báng, hãm hại… các bậc thánh hoặc chân tu thì kẻ đó
sẽ cực kì tổn phước, sẽ bị đọa xuống rất rất sâu dưới địa ngục sau khi chết và lúc sống sẽ
bị đổ nghiệp phát điên tâm thần (âm x dương vô cùng = âm vô cùng). Phước của người
cho (tấm lòng thời điểm cho x số lượng cho) = mức độ hạnh phúc của người nhận x giá trị
được nhận + tất cả những phát sinh lũy tiến về sau = phước báo trở lại người cho được
chốt vào thời điểm nhận lại.

Nguồn gốc sự sống trên Trái Đất


Từ các “nhân tố nền” ban đầu giống nhau do bị xoáy động bởi gia tốc lực của các
trường vĩ mô khác nhau nên các nhân tố nền liền bị chuyển hóa thành ra vô số các thức cơ
bản có quán tính vận động hoàn toàn khác nhau (chu kỳ hiện hữu là vùng không gian âm
hoặc dương, hoặc các dạng năng lượng như photon, lượng tử lưỡng tính sóng hạt…), vô
số thức cơ bản này dần tiến hóa lên thành vô số thức sơ cấp (hình thái biểu hiện là vô số
các loại vật chất ở 2 thế giới), vô số thức sơ cấp trải qua nhiều chu kỳ hiện hữu hình thành
sô số thức thứ cấp, nếu các thức thứ cấp chỉ từ giai đoạn hiện hữu là các loài cây cỏ mà
chuyển qua thức siêu cấp thì chỉ trở thành các loài thú, ngạ quỷ và dần thành người…
Còn nếu thức thứ cấp đã phát triển lớn hơn thành các dạng các loại hành tinh hay ngôi
sao mà chuyển hóa qua thức siêu cấp thì sẽ có thể trở thành các loài mara cao hoặc các
loài trời cao cấp (tùy theo độ lớn nhỏ của thức thứ cấp khi chuyển qua thức siêu cấp sẽ có
mức độ tiến hóa lớn nhỏ tương đương).
Sự hình thành Trái Đất và sự sống trong nó diễn ra như sau: một thức thứ cấp đạt đến
trạng thái hiện hữu lớn sẽ hấp thụ vô số thức thứ cấp nhỏ, thức cơ bản và thức sơ cấp của
cả hình thái âm và dương tạo thành nên tổ hợp thức đa cấp độ qua đó phát triển trạng thái
hiện hữu là một hành tinh (có mật độ âm dương nhất định). Các thức sơ cấp và thức cơ
bản hình thành vô số loại vật chất vô cơ và hữu cơ khác nhau và với số lượng nhiều chúng
nén chặt lại với nhau dưới tác động của trường trọng lực do thức lớn (trái đất) bức xạ hình
thành nên núi non sông hồ, biển… và các tầng địa chất của tinh cầu.
Các thức thứ cấp nhỏ trong nó nếu ở chu kỳ dương cũng sẽ bắt đầu hấp thụ các vật
chất dương, năng lượng và hình thành nên các loại đơn bào và đa bào, tổng hợp nhiều loại
tế bào tương thích hình thành vô số các loài cây cỏ, đồng thời cũng có các thức thứ cấp
chu kỳ âm hấp thụ vật chất vô hình và năng lượng hình thành vô số các loài âm thảo ở mặt
âm. Các thảm thực vật dần phát triển tiến hóa thành vô số các loài cây lớn nhỏ khác nhau
hình thành môi trường sinh thái phù hợp cho các loài hữu tình bắt đầu phát triển.
47
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Qua thời gian các thức thứ cấp nhỏ dần tiến hóa thành các thức siêu cấp nhỏ ở chu kỳ
hiện hữu âm (dạng hóa sinh như các loài ngạ quỷ) những ngạ quỷ hóa sinh dần hấp thụ
các loại vật chất âm khác nhau dần tiến hóa thành các loài ma/thiên ma (hoặc chuyển sang
mặt dương thành các loài động vật nhỏ) về sau ba loài ở âm giới này cũng được hóa sinh
từ những tinh cầu khác (do tinh cầu đó bị hủy hoại) đến.
Thức siêu cấp nhỏ ở chu kỳ hiện hữu dương xuất hiện trên nền sinh thái dương, chúng
hấp thụ những loại vật chất dương hình thành các các loài vi khuẩn thấp sinh hoặc các loài
động vật nhỏ, các loài này tiếp tục hấp thụ vật chất qua nhiều thế hệ để tiến hóa hơn (qua
mỗi chu sinh mệnh mới nếu lượng phước tăng đột biến so với chuẩn chung của loài cũ thì
khi thức ở trong kén, trứng hoặc thai sẽ hấp thụ được nhiều năng lượng hơn, chuyển biến
nội tại đặc biệt hơn nên khi sinh ra sẽ trở thành một loài mới đột biến có đặc tính tiến hóa
cao hơn loài trước) và cứ như vậy thức siêu cấp cứ dựa theo phước nghiệp huân tập mà có
thể dần tiến hóa và phát triển thành vô số các loài động vật lớn nhỏ khác nhau.
Các thức siêu cấp lớn như các loài quỷ thần và trời ở cõi giới khác được hóa sinh đến
đây khi có môi trường phù hợp, ở phía âm các loài ma và thiên ma cũng hóa sinh từ tinh
cầu khác đến. Các loài trời dục giới thấp hóa sinh đến trái đất vào thời kỳ đầu khi có môi
trường phù hợp (môi trường siêu nhiên), thân thể họ có ánh sáng, nhẹ nhàng và tuổi thọ rất
cao nhưng lâu ngày do ăn hoa trái cỏ cây và uống nước nên thân thể nặng và đậm đặc dần.
Các thế hệ càng về sau thân thể càng đậm nặng hơn và họ dần thoái hóa (do môi trường
thay đổi) thành những loài người bán thần đầu tiên với thân thể khỏe mạnh, có thần thông
và sống cũng rất lâu, các thế hệ càng về sau thì tuổi thọ càng ngắn hơn và yếu hơn.
Cũng có những nhóm chủng trời dục giới hoặc atula bị rớt từ cõi trên xuống, bị thọ
thai vào bụng của loài tinh tinh nhưng khi sinh ra do lượng phước lớn nên đã phát triển
thành các chủng loài con người khác nhau (nhờ gen gốc tinh tinh để thai sinh, nhưng ngay
trong thai đã có đột biến). Và kể từ khi có xã hội loài người thì các loài thú lâu ngày có thể
tạo được phước duyên với con người (do bị bắt nuôi, cày cấy, cưỡi, ăn thịt…) và trong
tâm chúng cũng sẵn có mong muốn trở thành con người thì sau nhiều kiếp tích đủ lượng
phước cũng sẽ có thể đầu thai vào bụng người. Trong suốt nhiều triệu năm cũng có nhiều
chủng loài người ngoài hành tinh di cư đến trái đất sinh sống, họ lấy người trái đất và các
thế hệ sau cũng dần bị đồng hóa dòng máu trái đất.
Vì vậy loài người xuất hiện trên Trái Đất qua nhiều chu kỳ những nền văn minh khác
nhau và thông qua rất nhiều con đường xuất hiện khác nhau như: nguồn gốc hóa sinh của
các loài trời, hoặc thai sinh hoặc trực tiếp di cư đến… Họ có nguồn gốc ở nhiều loại cảnh
giới cao thấp khác nhau trong vũ trụ bị hấp thụ đến do chiêu cảm duyên nghiệp tương
đồng mà ứng hiện vào cùng một nơi, loài người xuất hiện rải rác trên toàn Trái Đất ở
nhiều khoảng thời gian khác nhau (nhiều nền văn minh khác nhau) chứ không phải chỉ bắt
nguồn từ một nơi, lâu dần sự lai tạp pha trộn gen giữa tất cả các chủng loài người trên địa
cầu kết hợp với quá trình thay đổi môi trường sinh thái làm hình thành nên các dạng con

48
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

người giống nhau như con người ngày nay và sự khác biệt giữa các tộc người cũng dần trở
nên vô cùng mờ nhạt.

Các nền văn minh trong Dải Ngân hà


Vũ trụ tầng thấp tồn tại hằng hà sa số các nền văn minh của vô tận các chủng loài ở vô
tận các thiên hà khác nhau, trong hệ dải ngân hà của chúng ta cũng có hằng hàng sa số các
nền văn minh của vô số các chủng loài tiến hóa cao thấp khác nhau từ vô số các cấp chủng
người, chủng atula, chủng mara cho đến các chủng trời dục giới.
Nếu những nền văn minh lạc hậu thì chủng loài ở hành tinh đó chỉ di chuyển trong giới
hạn hành tinh họ sống và trên hành tinh đó sẽ có rất nhiều quốc gia khác nhau, nhiều ngôn
ngữ khác nhau và luôn mẫu thuẫn chia rẽ gây chiến tranh với nhau. Còn những hành tinh
đã đạt đến nền văn minh cao cấp hơn thì họ sẽ chỉ có một quốc gia duy nhất trên một hành
tinh, mức độ trí tuệ của họ có thể di chuyển qua nhiều hành tinh trong hệ thiên hà của họ.
Trong Dải Ngân Hà (Nam Thiệm Châu) có hai xu hướng cho các nền văn minh đã di
chuyển được ra ngoài hành tinh họ sống đó là: nhóm các hành tinh đã gia nhập khối
AGUN (sẽ giải thích ở câu truyện thứ sáu) và nhóm hành tinh chưa gia nhập AGUN.
Nhóm đã gia nhập AGUN thì họ biết cách tu hành tiến hóa thuận và sẽ không ngừng tiến
hóa phát triển lên, nhóm này bao gồm các chủng người biết chánh pháp, các chủng atula
chánh pháp và được dẫn dắt bởi các chủng loài trời dục giới biết chánh pháp, họ tin và
hiểu biết sâu sắc về kiến thức nhân quả học, có niềm tin rằng trên họ còn có rất nhiều tầng
trời cao hơn nên tâm thường khiêm tốn, họ chú trọng phát triển đạo đức hài hòa định.
Còn nhóm các hành tinh chưa gia nhập AGUN thì hoặc họ gia nhập khối KORUN,
đây là khối có xu hướng tiến hóa nghịch, nhóm này có nhiều chủng trời, atula, mara không
tin hoặc hiểu sai về cơ chế vận hành của luật nhân quả, không tin có các tầng trời cao hơn,
chỉ trú trọng phát triển nền khoa học tâm linh cực đoan, thích nghiên cứu về âm dương và
sự tác động của 2 thế giới, trú trọng tu thiền tà định để phát triển thần thông. Hoặc họ là
nhóm những hành tinh hoạt động đơn lẻ không gia nhập khối nào. Nhóm chưa gia nhập
AGUN nói chung chủ yếu là các loài người không biết chánh pháp, các chủng atula tà đạo,
các chủng mara, và các chủng trời dục giới tà đạo.

Các hệ phái tư tưởng và tín ngưỡng trong Dải Ngân hà


Khi nói đến tôn giáo thì ta đang diễn tả các hệ thống tín ngưỡng của các chủng loài ở
vũ trụ tầng thấp, lên đến cấp độ tiến hóa từ cảnh giới trời Tứ Thiên Vương trở lên thì mọi
người trong xã hội của họ hoàn toàn nhận thức được bức tranh hiện thực một các rõ nét từ
thấp đến cao và họ cũng biết rằng trên mình vẫn còn rất nhiều cảnh giới tiến hóa cao cấp
hơn. Trong vùng vũ trụ tầng thấp nói chung và trong dải ngân hà nói riêng có hằng hà sa
số các nền văn minh với những trình độ hiểu biết về khoa học tự nhiên (bao gồm cả vật lý
lẫn tâm linh) hoàn toàn khác nhau. Tùy theo mức độ hiểu biết của các chủng loài về thế
giới quan vào những thời điểm khác nhau mà nền văn minh của các chủng loài đó sẽ xuất
hiện những loại hệ tư tưởng tín ngưỡng hoàn toàn khác nhau:
49
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

1. Tín ngưỡng độc thần: đây là hệ thống tín ngưỡng của các chủng loài bán khai lạc hậu
trong vũ trụ, tôn giáo độc thần bị các chủng loài tiến hóa cao cấp xem là các tà giáo thể
hiện tầm hiểu biết hạn hẹp về thế giới quan của những chủng loài thấp kém, các tôn giáo
độc thần không chỉ có trong xã hội các loài người mà còn có trong thế giới loài vật cũng
có những dạng niềm tin này, thường được hình thành trong những trường hợp như sau:
a) Vào thời điểm ban sơ của một nền văn minh khi mà chủng loài đó không có hiểu
biết nhiều về thế giới tự nhiên và họ cố gắng giải thích mọi thứ một cách đơn giản nhất,
trong trường hợp này các tôn giáo độc thần sẽ có nhiều lý giải về thượng đế một cách
rời rạc khác nhau tùy theo quan niệm của mỗi vùng trong hành tinh đó.
b) Khi nền khoa học vật lý phát triển thái quá và sự thiếu hụt của nền khoa học tâm
linh làm cho chủng loài của hành tinh đó vẫn phải bám víu vào một ông thượng đế nào
đó để giúp họ có chỗ dựa về tinh thần vì trên thực tế rõ ràng tâm linh vẫn là một điều
gì đó hiện hữu mà họ không thể lý giải được bằng các lý thuyết khoa học duy vật.
c) Các tôn giáo độc thần hình thành tại các tinh cầu thuộc địa, trong trường hợp này
các tôn giáo độc thần là sản phẩm của các chủng loài tiến hóa cao với ác ý thiết lập
nhằm áp đặt hệ tư tưởng cho những chủng loài lạc hậu với mục đích cai trị chủng loài
lạc hậu đó. Đặc điểm nhận dạng các tôn giáo độc thần này sẽ phát triển lớn mạnh ở
nhiều quốc gia, có hệ thống giáo hội được tổ chức rất bài bản, quy mô và thống nhất.

2. Tín ngưỡng đa thần: Tín ngưỡng đa thần thường được hình thành sau quá trình thoái
trào của nền khoa học tâm linh, đây là hệ lụy khi mà nền khoa học tâm linh của một hành
tinh phát triển không đồng bộ với khoa học vật lý, lâu dần những tri thức nền tảng khoa
học tâm linh bị mai một và bị trộn lẫn với các tập tục mê tín dị đoan vô nghĩa và trở thành
các dạng TN đa thần, dạng tín ngưỡng này thường hình thành trong các trường hợp sau:
a) Các tín ngưỡng đa thần hình thành sau thời gian dài khi mà một chủng loài cao cấp
đến hỗ trợ một chủng loài lạc hậu và sau đó họ bỏ đi, các thế hệ sau của chủng loài lạc
hậu đó kể lại cho hậu thế về những vị thần đến từ bầu trời và lâu dần hình thành nên
các loại tôn giáo đa thần (các thần sáng tạo nên thế giới). Tôn giáo đa thần cũng bị các
chủng loài cao cấp xem là tư duy tà kiến của những chủng loài bán khai do sự thiếu
hiểu biết tạo nên. Hệ tư tưởng tôn giáo đa thần cũng có trong thế giới loài vật;
b) Các chủng ma hoặc thiên ma ba tuần trên một tinh cầu, thực hiện việc kết nối tâm
thức với giới giáo sỹ ở mặt dương của tinh cầu đó và qua đó xây dựng những loại tôn
giáo đa thần nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích của các chủng loài ở âm giới.

3. Hệ tư tưởng vô thần: Đây là hệ phái tư tưởng của của những chủng loài không hiểu gì
về khoa học tâm linh, những chủng loài này theo đuổi xu hướng khoa học vật lý một cách
mù quáng dựa trên nền tảng định kiến duy vật biện chứng, họ chú trọng khoa học vật lý
một cách thái quá và chỉ phát triển nó theo chiều rộng. Loại tư tưởng vô thần này cũng bị
những chủng loài cao cấp xem là một hệ tư tưởng bảo thủ lạc hậu.

50
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

4. Nền khoa học tâm linh:


Vũ trụ của chúng ta là một hệ tồn tại chứa đựng cả hai thế giới âm dương do hai xu thế
biểu hiện của các thức ở mọi cấp độ tham gia hình thành nên, trong vũ trụ có những
khoảng không gian dương nhiều âm ít và ngược lại, mật độ vật chất âm dương tại các
vùng trong vũ trụ là không đồng đều. Chỉ có những vùng mà có mức độ hài hòa âm dương
nhất định thì mới hình thành được sự sống và trái đất là một nơi như vậy, còn nếu không
thì chỉ có các loại vật chất cơ bản ở cả hai trạng thái hữu hình và vô hình trôi lăn vô định.
Trong Dải Ngân hà có những chủng loài đạt đến ngưỡng trí tuệ cao có thể nhận thức
được đặc tính âm dương này của vũ trụ, họ nhận ra đặc tính đan xen hỗn hợp năng lực âm
dương trong mỗi loại vật chất, nhận biết được các giai tầng tiến hóa của thức trong vũ trụ,
nhờ vậy chủng loài đó đã phát triển được nền khoa học tâm linh phi thường và trở thành
chủng loài tiến hóa cao cấp trong vũ trụ, đồng thời nhờ sự tiến hóa tâm linh cao nên chủng
loài đó cũng thăng hoa được nền khoa học vật lý tạo ra những bước đột phá rất lớn.
Nền khoa học tâm linh là nền khoa học thấu hiểu được bản chất vận động của vũ trụ
thực tại; nghiên cứu sâu về: sự tương tác giữa các thức, sự phát triển các năng lực nội tại
của thức, sự tương tác giao thoa giữa 2 loại thức ở chu kỳ âm và dương (sự tương tác giữa
2 thế giới), đồng thời nghiên cứu các phương pháp đi sâu vào bên trong nội tâm bản thể
thông qua con đường thiền định (phát triển định lực). Chú trọng nghiên cứu phát triển tu
hành tâm linh để tiến hóa cao hơn vì khoa học vật lý chỉ tạo ra được sự tiện nghi phụ trợ
bên ngoài chứ không giúp ích gì được cho sự tiến hóa của các chủng loài. Thông qua con
đường tu hành cũng phát triển những ứng dụng tâm linh trong mọi lĩnh vực đời sống, làm
đời sống xã hội trở nên màu nhiệm hơn, sự kết hợp giữa khoa học tâm linh với khoa học
vật lý một cách hài hòa cũng tạo ra những thành tựu công nghệ tuyệt vời siêu việt.
Nếu một loài mà phát triển nền khoa học tâm linh đi sai hướng do tập quán xã hội của
loài làm cho sự giữ giới (tượng trưng cho đặc tính đạo đức trong tu hành) không hài hòa
được với mức tăng trưởng định lực thì chủng loài đó sẽ phát triển không bền vững và sẽ
có lúc bị thoái hóa về sau. Đặc điểm nhận biết của những chủng loài này là việc họ chỉ chú
trọng nghiên cứu tu hành phát triển định lực để có thần thông và nghiên cứu về những cơ
chế tương tác vận động giữa hai thế giới âm dương.
Nếu sự giữ giới ít mà lượng định lớn (kết hợp phước lớn) thì con đường tiến hóa sẽ chỉ
dẫn chủng loài đó tiến đến cảnh giới Atula, Mara hoặc các chủng loài trời dục giới tà đạo.
Còn nếu có mức giữ giới tương đối mà định lại vô cùng lớn (quá chú trọng phát triển định
thái quá) thì loài đó sẽ tiến hóa đến cảnh giới trời vô sắc tà đạo, với thọ mạng lâu nhất
trong các loài hữu tình tồn tại trong vũ trụ nhưng một khi đã hết thọ mạng thì chắc chắn sẽ
bị lui sụt tái sinh trở lại cõi người.
Chỉ có những chủng loài mà phát triển khoa học tâm linh đi đúng hướng nghĩa là họ
kết hợp được sự tu tập tâm linh thiền định hài hòa tương đồng với sự giữ giới đạo đức một
cách trọn vẹn, hiểu biết sâu sắc về nhân quả học thì chủng loài đó sẽ đạt được trí huệ giác
ngộ từng phần và dần dần đi đến sự giác ngộ tuyệt đối. Sự tiến hóa thuận sẽ dẫn chủng
51
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

loài đó tiến đến cảnh giới của các loài trời sắc giới chánh đạo vừa có trí huệ vừa có định
lực lớn, họ là những chủng loài dẫn dắt chúng sinh trong toàn bộ vũ trụ đi đúng chánh
pháp, đi đúng con đường tiến hóa thuận: từ cấp người chánh đạo, atula chánh đạo cho đến
trời dục giới chánh đạo cho đến trời sắc giới chánh đạo và tột cùng của con đường này là
trạng thái giác ngộ tuyệt đối viên mãn của thức vô ngã Arahán, đây là con đường chân
chính mà mọi loài hữu tình trong vũ trụ sẽ cần phải đi để đạt được sự giải thoát tự tại.
+ Thần thông: là khả năng tác động trực tiếp của ý thức lên thế giới vật chất thông qua
phản ứng của định lực (chứ không bằng bất kỳ con đường vật lý cơ học nào như dùng tay
chân hay các loại phương tiện máy móc để nâng nhấc đồ vật)… và cũng là khả năng dùng
định lực để đi sâu vào bên trong nội tâm. Định lực là loại năng lực phát sinh và tích lũy
bên trong nội tại của thức khi thức thực hành tu tập thiền định. Định lực càng cao thần
thông càng mạnh, định lực và trí tuệ càng hài hòa thì thần thông càng được phát huy hiệu
quả diệu dụng, định lực và đạo đức càng cân bằng thì khả năng giác ngộ càng cao.
+ Phép thuật: là khả năng ứng dụng những kiến thức khoa học tâm linh như việc nghiên
cứu về tỷ lệ âm dương trong mỗi loại vật chất và đặc tính của chúng, nghiên cứu về sự
tương tác giữa hai thế giới âm dương, kết hợp với định lực thần thông qua đó có thể chế
luyện ra những đồ vật thiêng như: bùa chú, đá phép thuật, đũa, kiếm thần, linh dược…
+ Công nghệ thần thánh: là sự ứng dụng kết hợp nhuần nhuyễn giữa nền khoa học tâm
linh và khoa học vật lý để phát huy các năng lực siêu nhiên cũng như phát triển trí tuệ bên
trong nội tâm, qua đó đạt được lượng trí lực tri thức đủ để tạo nên những cỗ máy cực kỳ
tinh xảo với những chức năng vô cùng siêu việt như: phi thuyền vận hành bằng năng lực
tối, bước nhảy alpha, tạo lập một tinh cầu, cổng không gian, tế bào số...

+ Sáu loại thần thông: Các loại thức siêu cấp ở các cảnh giới ngạ quỷ, thú, ma, thiên ma,
người, phi nhân, dạ xoa, quỷ thần atula, mara, trời dục giới, trời sắc giới và trời vô sắc giới
đều có khả năng phát huy được những mức độ thần thông lớn nhỏ sâu dày khác nhau nằm
trong 5 loại cơ bản. Năm nhóm thần thông chính (cộng với 1 loại thần thông đặc biệc của
riêng bậc thánh) bao gồm:
a) Thiên nhãn thông: khả năng nhìn xa không bị ngăn cách bởi ngoại vật, nhìn thấy
nhiều cõi giới khác nhau, thế giới khác nhau, lớn nhỏ khác nhau,
giới hạn quang phổ nhìn được rộng hơn. Có nhiều mức độ thiên
nhãn khác nhau tùy loài và tùy trình độ tu hành. Loài người thì
phải tu mới có; còn ma, atula, mara và các cấp trời thì không cần tu
cũng có nhưng khả năng cao thấp khác nhau.
b) Thiên nhĩ thông: khả năng nghe không giới hạn khoảng cách, không bị giới hạn
ngôn ngữ, nghe và hiểu được tiếng của muôn loài. Có nhiều cấp độ
thiên nhĩ khác nhau tùy loài. Loài người phải tu mới có; các loài
dạ xoa, atula, mara, các cấp trời thì cao thấp khác nhau.

52
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

c) Tha tâm thông: khả năng đọc và tác động vào suy nghĩ của các loài khác, có nhiều
cấp độ tha tâm thông sâu dày khác nhau tùy theo loài. Loài người
phải tu mới có, loài thú một số loài có chút ít; còn ma, thiên ma,
atula, mara, các cấp trời thì cao thấp khác nhau.
d) Thần túc thông: khả năng nhìn thấy các kiếp quá khứ của mình và mọi người, có
nhiều cấp độ sâu dày khác nhau tùy loài và tùy trình độ tu hành.
Loài người phải tu mới có, ngạ quỷ chỉ nhớ được một kiếp, còn ma
và thiên ma chỉ nhớ được 1 vài kiếp của mình, atula thì nhớ được
nhiều kiếp của mình, mara thì thấy được nhiều kiếp của mình và
người khác, các cấp trời thì thấy được rất nhiều kiếp của mình và
người khác sâu dày khác nhau.
e) Thần cảnh thông: khả năng di chuyển đồ vật và bản thân (bay), dịch chuyển tức thời,
tàng hình, biến to nhỏ, biến vật này thành vật khác. Cấp độ của loại
thần thông này là rất cách biệt lớn nhỏ khác nhau. Loài thú phải tu
mới có như các con thú hóa tinh và một số loài linh thú thì có sẵn
như rồng, kim sý điểu, linh quy, kỳ lân,..; loài người phải tu mới có;
một số cấp ma, thiên ma và dạ xoa thì có ít nhiều tùy trình độ, atula
cũng có, mara nhiều hơn, các cấp trời thì nhiều hơn nữa với mức
độ lớn nhỏ mạnh yếu khác nhau.
f) Lậu tận thông: khả năng loại bỏ được hết “lậu hoặc” trong tâm thức, đạt được diệt
tận định, làm chủ được sinh tử, tự kiến tạo các kiếp sống, giác ngộ
hoàn toàn, thấy rõ toàn bộ dòng chảy của nhân quả và ứng dụng
luật nhân quả một cách trí tuệ nhất để có lợi nhất cho muôn loài
chúng sanh, chỉ có trạng thái thức vô ngã của các bậc Arahán mới
có loại thần thông này, gọi là mức thiền diệt tận định đi sâu và
vượt qua hết tiềm thức để tiến đến niết bàn (phá trừ được toàn bộ
lậu hoặc, triền cái cũng như kiết sử gốc bên trong tiềm thức). Các
thức siêu cấp tiến hóa nghịch tà đạo không thể tới được mức này,
không thể vượt qua được cơ cấu bản ngã trong tiềm thức.
Năm loại thần thông trước vẫn còn ẩn chứa sự vô minh khi vận hành nếu thức không
đạt được lậu tận thông, năm loại thần thông này của thức siêu cấp (phàm phu tà đạo) có
thể bị lui sụt và bị mất bất cứ lúc nào khi mà phước duyên dùng thần thông của thức đó đã
cạn thì thần thông sẽ tắt. Nhưng khi một bậc thánh đã đạt được Lậu Tận Thông (lậu tận
minh) thì mọi thứ thần thông đều là vô tận, diệu dụng, không còn bị mất nữa, 5 loại thần
thông của bậc thánh không còn gọi là “thông” mà gọi là “minh” bao gồm: thiên nhãn minh,
thiên nhĩ minh, tha tâm minh, thần túc minh, thần cảnh minh, nghĩa là các thần thông này
được sử dụng với mục đích chính đáng nhất, phù hợp nhất, đem lại lợi lạc nhất cho chúng
sinh, không vướng mắc sai lầm nữa, không còn mầm si mê khi vận hành nữa.

53
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

QUÁ TRÌNH TIẾN VÀ THOÁI HÓA CỦA THỨC SIÊU CẤP


1. Quá trình tiến hóa “thuận” của thức siêu cấp (chánh đạo): Thức siêu cấp nếu muốn
đạt được cấp độ thức vô ngã Arahán thì cần phải trải qua chặng đường tu hành tiến hóa
thuận theo quy luật tương thích tích cực với sự vận động của tự nhiên và trật tự vũ trụ, mọi
hành vi tạo tác phải phù hợp với luật nhân quả công bằng cụ thể như sau:

Thức siêu cấp đi đúng đường tiến hóa thuận Tam quả ANaHàm

Chánh mạng (E) Sơ thiền

Nhị quả
Chánh nghiệp (D) Tư đà hàm Nhị thiền
Chánh
Chánh ngữ tinh Sơ quả Tam thiền
(C)
Chánh Tu đà hoàn
tấn
niệm Tứ thiền
Chánh tư duy (B)
tỉnh
giác Tứ quả Arahán
Chánh kiến (A) Trạng thái thiền diệt tận định
(Thức vô ngã)

Giai đoạn tích Giai đoạn Giai đoạn thiền quán


lũy tuệ và phước chuẩn bị theo chánh niệm Giai đoạn thiền định
(Thiền Tứ niệm xứ) theo chánh định

Khởi tâm tu hành theo đúng chánh pháp

Bát chánh đạo: là tám con đường chân chính tất yếu mà thức siêu cấp phải đi, phải
thực hành rốt ráo nếu muốn tiến hóa thuận để trở thành thức vô ngã, bao gồm:
1.1) Chánh kiến: là sự thấy, nghe, biết một cách ngay thẳng, đúng với sự thật khách
quan. Người chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy; không lấy trắng
làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hoặc ngược lại. Nhận xét sự việc của người ấy
không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che làm sai lạc. Biết phân biệt cái nào
giả, cái nào thật, cảnh vật giả dối thì tâm mắt không bị lừa; cảnh vật thật, lời lẽ chân
thật, thì biết là thật mà chuyên chú vào sự lý đó để huệ tâm luôn sáng ngời. Tinh hoa
của chánh kiến chính là quan điểm tu hành đúng, nghĩa là phải hiểu biết sâu sắc hai
vấn đề: một là hiểu rõ đạo lý tiến hóa của thức (học tập và tôn kính bậc thánh Arahán
cũng như những gì các vị chỉ dạy), hai là hiểu rõ mọi đạo lý cuộc đời vô cùng sâu sắc
(hiểu để sống an lạc chứ ko phải để tranh đua, sống cho đúng làm cho đúng để có
phước vì phước chính là năng lượng để thức có thể tu tiến hóa được, hiểu mọi điều
đúng sai tốt xấu của thế gian một cách rõ ràng. Bản đồ chánh kiến phải đặt 3 mục
tiêu: một là giải thoát (chứng 4 quả thánh để vượt luân hồi, còn chưa thì tâm phải từ
từ giải thoát khỏi những phiền não), hai là giác ngộ (có trí tuệ sắc bén, sáng, nhìn
được những điều sâu thẳm của đạo lý), và ba là quyết tâm hóa độ chúng sinh.

54
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

1.2) Chánh tư duy: là suy nghĩ chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải. Người Chánh
tư duy luôn xét nghĩ đạo lý cao siêu, đạo đức tròn đầy, suy tìm thể tánh nhiệm mầu,
biết rõ những hành vi lỗi lầm, ý nghĩ xấu xa để sám hối; thường xuyên suy nghiệm
về ý nghĩ của việc giữ Giới, tư duy sâu về cách tu thiền Ðịnh chân chánh, và suy
nghiệm trí Huệ giải thoát. Suy nghiệm để biết vô minh là gốc đau khổ và tội ác mà
cố tìm phương pháp tu hành đúng đắn để giải thoát cho mình và người. Chánh tư duy
tuy là suy nghĩ thiện nhưng những suy nghĩ này vẫn còn làm tâm xao động.
1.3) Chánh ngữ: là những lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng, hợp lý. Người
chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc,
nghe một đường nói một ngả. Luôn thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải
suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi
ích cho toàn thể chúng sinh đều là chánh ngữ. Khi viên mãn chánh ngữ thì trong lời
nói không còn sai xót lỗi lầm, đã mở miện ra nói là điều đó phải đem lại an vui tốt
đẹp cho cuộc đời, cho tất cả mọi người mọi vật dù là lời nhỏ nhất.
1.4) Chánh nghiệp: là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, hợp chân
lý, lợi ích cho mình, cho người và cả loài vật. Người "chánh nghiệp" luôn thận trọng
giữ mọi hành động để không làm tổn hại đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá,
hạnh phúc, tánh mạng của người khác cũng như mọi loài vật. Luôn có lương tâm
nghề nghiệp, hành động có lợi ích cho mọi người mọi vật; nếu cần sẽ hy sinh quyền
lợi của mình giúp người thoát khỏi khổ đau. Ngoài ra phải dùng trí huệ để quán
tưởng những pháp chân chính như ngồi Thiền, niệm Phật, hoặc trì tụng kinh hành, để
giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.
1.5) Chánh mạng: là sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong
sạch. Người Chánh mạng sống bằng một cái nghề chân chánh, không gian tham,
không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt sương máu của người khác cũng như các loài
vật, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Sống cả một
đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng đáng với bát cơm manh áo của mình chứ
không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác. Sống theo Chánh pháp, không
sống mê tín dị đoan, biết rõ thân tứ đại vốn vô thường giả hợp, nên lấy tịnh giới làm
thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui trong chánh pháp.
1.6) Chánh tinh tấn: là sự chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho
mình, người và vật không từ mọi gian khó. Người Chánh tinh tấn, trước tiên trước
phải hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ mọi điều ác, quyết tâm phát triển mọi
hạnh lành, thực hành viên mãn 5 chánh đạo trước, dũng mãnh tiến lên trên đường đi
đến giải thoát. Quyết tạo nghiệp vô lậu xuất thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy
Niết Bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công
phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa độ chúng sanh.
$ Năm cung bậc của chánh tinh tấn: Nếu không tu tập trọn vẹn viên mãn 5 chánh
đạo trong giai đoạn tích lũy thì thức siêu cấp từ giai đoạn chánh tinh tấn sẽ không
qua được chánh niệm.

55
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

(A) Nếu siêng năng tính lũy chánh kiến (đây là giai đoạn tích lũy tuệ) và khi
chánh kiến viên mãn thì người tu mới bước sang được chánh tư duy, nếu chánh
kiến chưa viên mãn thì tư duy chưa hoàn toàn đúng. Vì vậy giai đoạn này phải
siêng năng học hỏi chánh pháp của Phật, trau dồi kiến thức thiện bổ ích cho đời.
(B) Khi tới chánh tư duy, hành giả sẽ luôn có quan điểm tu hành đúng chánh pháp,
luôn suy nghiệm về cuộc đời về đạo lý làm sao để có lợi nhất cho mọi người và
mọi loài, tìm cầu chân lý vũ trụ, suy nghĩ những điều cao đẹp ý nghĩa.
(C) Nếu hành giả tinh tấn thực hành chánh tư duy thì khi viên mãn sẽ phát huy
được chánh ngữ. Khi đó họ có thể thuyết pháp đúng chân lý cho mọi người, nói
điều hay lẽ phải, nói những điều lợi mình và lợi người, và đây là giai đoạn đầu của
quá trình tích lũy phước.
(D) Khi đã có số vốn phước ban đầu ở giai đoạn chánh ngữ, nếu người tu không
sử dụng số phước này vào các món hữu lậu (mong muốn tiền tài, địa vị, quyền lực,
danh tiếng, sắc đẹp, thức ăn, thần thông...), mà họ sử dụng để có thêm tri thức, có
thêm trí tuệ đồng thời tìm cách giúp người giúp vật bằng hành động cụ thể thì tức
là họ đang đi trên con đường chánh nghiệp. Đây là giai đoạn tích lũy phước bằng
hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói nữa, họ luôn làm đúng mọi việc, hành
động luôn chân chính, tạo phước và lợi lạc vô số cho mình và người, họ chặn lại
mọi đau khổ của mình và người. Làm mọi điều để chánh pháp được lưu truyền,
mọi người đều được biết chánh pháp, biết cách tu đúng để tiến hóa thuận.
(E) Nếu chánh nghiệp sung mãn dồi dào tức là người này có đủ lượng phước để
có thể tự do lựa chọn được những loại nghề nghiệp chân chánh (người không có
đủ lượng phước cần thiết thì nghề nghiệp vẫn có sai lầm, vẫn ít nhiều còn sai trái),
chánh mạng là lúc cái nghề họ làm có thể tự tạo ra được nhiều phước và thậm chí
hơn cả chánh nghiệp, luôn tạo nhiều lợi ích cho đời, cho xã hội, cho muôn vật, cho
môi trường sống, cái nghề thuần thiện hiền lương, càng làm càng nhiều phước.
Trong giai đoạn chuẩn bị chánh tinh tấn này, tức là tâm hành giả phải luôn kiên
định, vững vàng, kiên trì mãnh liệt, không thối chuyển, dù trải qua bao gian nan
khó khăn cũng không sờn lòng thực hiện rốt ráo 5 chánh đạo đầu kết hợp việc ngồi
thiền, từ việc thực hành thiền sổ tức kết hợp lượng phước sẵn có đến một lúc hành
giả sẽ tiến vào được trạng thái tâm chánh niệm tỉnh giác rỗng rang sáng suốt. Khi
đạt được trạng thái này hành giả vẫn tiếp tục song song thực hành 5 chánh đạo
trước và thiền quán nhiều hơn, qua nhiều năm kiên trì tinh tấn thực hành thiền
trong chánh niệm tỉnh giác như vậy thì hành giả sẽ chứng lần lượt các quả vị thánh
từ thấp lên cao và đạt được giải thoát từng phần, không còn bị thoái hóa lữa.
1.7) Chánh niệm: luôn nhớ nghĩ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho
mình và người, nhớ những đạo lý chân chính cao siêu, siêng giúp người, thường tìm
lỗi mình và âm thầm sửa chữa sám hối... đây là những suy nghĩ thiện có tính chất làm
tâm mất dần sự xao động. Chánh niệm bao gồm mười đề mục quan trọng luôn luôn
phải quán xét thường xuyên đó là:
1} Niệm Phật: Luôn khởi tâm niệm tôn kính chư Phật tột cùng, hiểu rõ cuộc đời,
con đường tu hành và lý tưởng độ sinh của Đức Phật, các hạnh nguyện cũng như
tâm từ bi vô ngã của ngài. Luôn nhớ niệm những lời dạy, vẻ đẹp và tướng tốt của
56
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

chư Phật, thường xuyên niệm Phật lễ Phật sẽ làm người tu tăng trưởng được phước
duyên căn lành với chánh đạo để thuận lợi tu hành tiến hóa thuận về sau…
2} Niệm Pháp: Luôn nhớ nghĩ tất cả lời dạy của chư Phật, suy niệm những đạo lý
cao quý, nhớ nghĩ về các pháp môn tu hành chân chính và các phẩm trợ đạo.
3} Niệm Tăng: Luôn phát tâm tôn kính chư hiền tăng, vì họ là những người hoằng
dương chánh pháp trên đời và tu hành theo giáo lý của Đức Phật. Tìm mọi cách
cúng dường, tôn kính, hỗ trợ chư tăng làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.
4} Niệm Giới: Luôn nghĩ về việc giữ đúng các giới hạnh, không dễ dãi chiều theo
dục vọng, luôn kìm chế bản thân, cố gắng giữ 5 giới viên mãn (không trộm cắp,
sát sanh, tà dâm, nói dối và nghiện ngập), tạo điều kiện giúp người giữ giới.
5} Niệm Thí: Luôn nhớ nghĩ đến những người nghèo khổ, khó khăn hoạn nạn mà
tìm cách giúp đỡ, bố thí tài vật, thức ăn, thuốc men, sự an ổn, sự bảo vệ…
6} Niệm Thiên: Luôn nhớ nghĩ về các vị thần trời hộ pháp (thiên long bát bộ) vì
họ là những người hoằng hộ chánh pháp trong vũ trụ, hãy nghĩ đến họ nhờ họ gia
hộ cho mình được an ổn tu hành và có thêm nhiều duyên lành với chánh pháp.
7} Niệm Ức: là nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối. Luôn nhớ Tứ trọng
ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.
8} Niệm Từ Bi: quán niệm thấy tất cả chúng sinh đều sống trong đau khổ bình
đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận mở rộng lòng thương yêu, cứu độ họ. Luôn
từ bi quán về cuộc đời của chúng sinh nhiều khổ não, tật bệnh, mê mờ để rộng
lòng thương yêu và quyết cứu độ tất cả. Luôn quán chân đế, tưởng niệm các pháp
trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì cũng luôn nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế
gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thoái tâm xao lãng.
9} Niệm Nhân Duyên: quán niệm tất cả các pháp hữu hình (vạn vật) và các pháp
vô hình (tâm niệm) đều là giả hợp, duyên nhau mà có chứ không chân thật, không
trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp, ngã chấp và tà kiến. Quán niệm phân
biệt rõ sự giả hợp của 6 căn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, não), 6 trần (sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp) và 6 thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) để thấy không thật sự
có ngã và pháp, từ đó diệt trừ được ngã chấp và pháp chấp.
10} Thiền quán Tứ niệm xứ (sổ tức): chọn lọc ra những suy nghĩ đúng nhất trong
những suy nghĩ đúng để trị sự tán loạn của tâm thức, từ đó làm tắt dần sự xao động
của tâm thức, những suy niệm đúng nhất đó chính là tứ niệm xứ. Phương pháp
chính là sự thực hành ngồi thiền kiết già bằng cách điều thân, thả lỏng và theo dõi
hơi thở ra vào kết hợp quán tứ niệm xứ (thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường,
pháp vô ngã) dần đi vào trạng thái chánh niệm tỉnh giác. Quá trình như sau:
+ Giai đoạn chuẩn bị: trước khi ngồi thiền thì nên ăn chay để thanh tịnh, tập luyện
khí công để tăng cường thể lực. Khi ngồi thiền phải trong tư thế kiết già, thẳng
lưng, hai tay xếp vào nhau đặt cân giữa, hai khủy tay dang xa hông, miệng ngậm,
lưỡi chạm hàm trên, thân thả lỏng mềm mại và bất động, điều thân liên tục. Trước
khi thiền luôn tác ý 3 hạnh nguyện là: Nguyện lòng trong vô lượng kiếp về sau
luôn luôn khởi tâm tôn kính tuyệt đối các vị Phật, chư hiền thánh tăng Arahán;

57
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Nguyện lòng phát tâm thương yêu đến tất cả chúng sinh trong toàn vũ trụ; Nguyện
lòng luôn giữ được tâm khiêm hạ tột cùng như cát bụi trong vô lượng kiếp.
+ Giai đoạn 1: Theo dõi hơi thở ra vào (hơi thở vào biết rõ nó vào, hơi thở ra biết
rõ nó đang ra), biết rõ từng giai đoạn, chỉ theo dõi chứ không điều khiển nó.
+ Giai đoạn 2: Hơi thở vào biết rõ toàn thân, hơi thở ra biết rõ toàn thân, để tâm
lực xuống dưới bằng cách biết nhiều ở phần bụng, chân và 2 lòng bàn tay.
+ Giai đoan 3: Thở vào biết thân vô thường, thở ra biết thân vô thường. Chiêm
nghiệm về sự vô thường của thân (các giai đoạn phân rã của xác chết) để bản ngã
không chấp thân nữa. Tập thuần thục thì sự quán diễn ra nhanh và chỉ 1 giây đã
thấy hết quá trình phân rã, 5 giây còn lại của hơi thở chính là trạng thái tỉnh giác.
+ Giai đoạn 4: Thở vào biết thân này đầy khổ thọ, thở ra biết thân này đầy khổ
thọ. Quán về những cảm giác khổ của thân suốt cuộc đời: đói, nhức, mỏi, đau,
bệnh, mệt nhọc, thân thể nặng nề luôn đeo bám…
+ Giai đoạn 5: Thở vào biết tâm còn phiền động, thở ra biết tâm còn phiền động
(tham, sân, kiêu mạn, vọng tưởng trập trùng… vẫn còn). Luôn luôn nhìn vào khía
cạnh xấu của tâm (trong lõi) với sự bình thản đối diện, luôn nhắc tâm còn phiền
động trong suốt quá trình chánh niệm tỉnh giác và thiền định sau này. Không tự
hào, không tự khen mình, không dừng lại, không tự mãn thấy đủ.
$ Xả thiền: Trước khi xả thiền phải phát 2 tác ý: nguyện mong cho mọi chúng
sinh trong toàn vũ trụ đều được giác ngộ giải thoát, hứa độ từng người từng người
trong cuộc sống này về với chánh Pháp của chư Phật.
$ Trạng thái chánh niệm tỉnh giác: Đây là trạng thái tâm rỗng rang sáng suốt,
khi tâm trong trạng thái tỉnh giác thì vọng tưởng khởi lên dù nhẹ là biết hết, lúc
này tuyệt đối không chiêm ngưỡng khía cạnh tốt của tâm, vẫn tiếp tục tác ý: “coi
vậy nhưng trong sâu thẳm tâm thức vẫn còn phiền động”, nếu vọng tưởng khởi lên
thì không cần dẹp, chỉ cần luôn nhắc “tâm còn phiền động” và dù tâm đang thanh
tịnh vẫn nhắc như vậy, dù tâm vằng vặc tỉnh giác vẫn luôn giữ hơi thở GĐ5 này.
$ Hai quả thánh: Nếu đủ túc duyên (6 chánh đạo trước viên mãn tràn đầy) thì
trong trạng thái chánh niệm tỉnh giác (CNTG), hành giả sẽ chứng được lần lượt hai
quả vị thánh cụ thể như sau:
1> Sơ quả (Tu đà hoàn): Là trạng thái rỗng rang sáng suốt vì tâm đã không còn
nắm vào đâu nữa. Phá được 3 triền cái: Nghi, thân kiến, giới cấm thủ. Vì tâm họ
tách khỏi thế gian nên thấy rõ cái gì có sinh thì ắt sẽ có diệt, họ sống rất vị tha vì
không còn sự ích kỷ của “thân kiến”, không còn sự cố chấp vào các nguyên tắc thế
gian mà luôn xét rõ lý tình vì đã phá trừ được “giới cấm thủ”, đối với con đường
tiến hóa giải thoát không chút “nghi” ngờ nào vì niềm tin tam bảo là tuyệt đối. Do
chưa vào được định nên các ý niệm vẫn nhấp nhô vi tế, dù kiến giải sâu sắc nhưng
vẫn có hiểu lầm, vẫn tạo nghiệp và tái sinh nhiều lần để trả nghiệp nhưng tuyệt đối
vĩnh viễn không bao giờ bị đọa 3 ác đạo (thú, ngạ quỷ, địa ngục) nữa.
2> Nhị quả (Tư đà hàm): Cao hơn sơ quả 1 bậc nhưng vẫn nằm trong chánh
niệm tỉnh giác chứ chưa vào được định. Tham sân đã rất mỏng nhạt (dù trong sâu
thẳm vi tế vẫn chưa hết), đây là trạng thái chánh niệm tỉnh giác (CNTG) cực độ
(triệt ngộ), là giai đoạn cuối cùng của con đường thiền CNTG chuẩn bị bước sang

58
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

sơ thiền, có kiến giải vượt bậc và phải tái sinh làm người thêm 1 kiếp nữa. Có 1
phần thần thông, biết được tâm người khác, biết quá khứ vị lai một phần, do chưa
nhập được định nên niệm vẫn còn dù rất lăn tăn vi tế.
$}}} Hai quả vị thánh này sẽ không thể chứng được nếu hành giả không đi vào
trạng thái tâm chánh niệm tỉnh giác, các vị tu thiền ngoại đạo chỉ chú trọng phát
triển tà định dù có được những thần thông rất cao nhưng nếu không chứng thánh
quả thì sẽ có ngày mất hết thần thông định lực, vì khi không chứng thánh mà xài
thần thông thì cũng như xài phước vậy, đến một lúc sẽ phải hết và lụi tàn.
1.8) Chánh định: đây là cảnh giới tu hành của các bậc thánh (trên Tư đà hàm), chỉ
khi viên mãn 7 chánh đạo trước thì mới có thể thi triển được “chánh định”. Tất cả các
phương pháp phát triển định lực khác không thông qua con đường CNTG đều là tà
định ngoại đạo làm cho người tu trở thành các loài mara, atula và các nhóm tộc trời
phàm phu tà đạo. Dù các nhóm này có thần thông cao siêu nhưng vô cùng bấp bênh
không bền vững và sẽ có lúc rớt trở lại khi hết phước và vô minh trong tâm thì cũng
vẫn còn đó. Còn với chánh định thì hành giả không được khoe khoang kiêu mạn,
luôn kín đáo khiêm cung, mình tu đến đâu thì chỉ bí mật một mình mình biết nếu nói
ra sẽ bị tổn phước, tu tiến lên mãi, luôn duy trì trạng thái thiền chánh niệm tỉnh giác
tột cùng và dần phá trừ thêm 5 triền cái: tham ái (không thương ai một cách riêng tư),
sân hận (không bao giờ khởi sự nóng giận dù vi tế), hôn trầm (không bao giờ bị cơn
buồn ngủ chi phối, muốn ngủ hay thức tùy ý), trạo hối (biết lỗi thì sửa không tái
phạm nữa chứ không còn sự lăn tăn hối hận lo lắng), do dự (không còn sự do dự hoài
nghi đắn đo khi hành động). Nếu phá được 5 triền cái này thì hành giả tiến được vào
Sơ thiền và cùng lúc đó chứng được quả vị thánh thứ ba là Anahàm.
Tam quả (Anahàm): Khi một vị Tư đà hàm tu hành nhập sơ thiền (chánh
đạo) do đã phá bỏ được 5 triền cái, họ chứng được thánh quả Anahàm khi đó
tâm họ thuần thiện do không còn chút tập khí dâm dục và bất thiện nào trong tâm,
nếu họ chết ngang đây sẽ sinh về các cõi trời sắc giới và chứng thánh quả Arahán
ở trên đó luôn chứ không phải về cõi người để tu nữa. Ở cảnh giới Anahàm này,
hành giả sẽ dần nhiếp chứng được cả ba cấp độ đầu của thiền định cụ thể như sau:
1} Sơ thiền: Hành giả “ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sinh với tầm với tứ”. Khi hành giả xả ly được 5 triền cái,
tâm người đó trong trạng thái hân hoan, hỷ kéo dài làm tâm khinh an nhẹ nhàng
và hạnh phúc tràn đầy sung sướng. Họ chấm dứt hết mọi ham muốn, những cái
tham thế gian như tiền, đẹp, quyền, danh, dục… đều dứt hết. Chấm dứt toàn bộ
những điều bất thiện trong tâm, tâm hồn thánh thiện không ganh tỵ ích kỷ, biết
được đúng sai thiện ác trong từng chi tiết nhỏ như sợi tóc, tinh tế nhìn hiểu mọi
điều, phân tích được hết. Tầm và tứ là những ý niệm siêu vi tế (dù bản thân
người tu không nhìn ra nhưng thẳm sâu nó vẫn còn, không phải những ý niệm
tạp bậy nhưng là những ý niệm về đạo lý). Ví dụ về trạng thái này như: cục bột
tắm nhồi nước mềm nhão mà không chảy ra giọt nào, hạnh phúc an ổn mềm mại
nhu nhuyến thấm đều, người chứng sơ thiền tự động đạt tâm an tịnh dù không
cần dụng công ngồi thiền. Đây là hạnh phúc và trạng thái tâm cõi trời và vô minh
59
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

vẫn còn, tâm còn phiền động (các tà định ngoại đạo tới cỡ này do không đi qua
nền tảng CNTG nên tâm sẽ kiêu mạn tự khen mình chê người, nghĩ mình chứng
cao, ham thích dùng thần thông, bản ngã tăng và là nhân để thoái hóa về sau).
2} Nhị thiền: Hành giả “diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tịnh nhất tâm”. Khi hành giả không
tự mãn ở sơ thiền, biết mình vẫn còn vô minh chấp ngã, họ dần bỏ được các ý
niệm thầm kín về đạo lý, đạt được cái định bất động hoàn toàn, các tâm tế không
còn tồn tại nhưng vẫn còn hỷ lạc (mừng vui), cái mừng vui của nhị thiền vi tế
hơn chứ không thô như ở sơ thiền nhưng lớn hơn. Hành giả bỏ thế giới vật chất
sống trong thế giới của tâm (phần ý thức), trong cái tâm vắng lặng sáng suốt
hoàn toàn đó trí tuệ và hạnh phúc xuất hiện, vô cùng nhạy sáng, nhìn biết mọi
điều, hạnh phúc vi diệu và thanh tịnh hơn sơ thiền nhiều. Ví dụ về trạng thái này
như: Hạnh phúc như một hồ nước lớn mênh mông tràn đầy, từ mặt hồ nước tuôn
trào lên thêm và mưa từ trên trời lại tiếp tục đổ nước lên mặt hồ đó và dù như
vậy không một giọt nước nào chảy ra ngoài hồ. Mọi hạnh phúc thế gian đều
không thể so sánh được, niềm vui của hành giả tràn ngập, trong mát, thanh khiết,
vô tận. Người chứng có thể tọa thiền rất lâu, có một số thần thông, biết được tâm
ý người khác, biết được một số việc quá khứ vị lai, nếu cần có thể tách được thân
và tâm (xuất hồn), phi thân, chết tự tại, biết trước ngày chết. Các tà định ngoại
đạo đến cỡ này sẽ bị thần thông và những ảo ảnh của vô thức mê hoặc để thỏa
mãn bản ngã, thần thông càng lên cao thì chánh định càng bị ngăn trở và ngã
chấp tăng cao làm nhân thoái lui về sau. Vì vậy phải luôn giữ ý niệm “tâm còn
phiền động vi tế, vô minh ngã chấp vẫn còn dù vô cùng vi tế” để có thể vững tâm
tiếp tục tu hành, không nên quan tâm đến thần thông.
3} Tam thiền: Hành giả “Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, xả niệm lạc trú,
chứng và an trú thiền thứ ba”. Hành giả bỏ được cái mừng (hỷ) nhưng vẫn còn
cái niềm vui rất vi tế (lạc tế), 1 niềm vui thuần tịnh không còn cái mừng xao
động nữa. Bỏ phần tâm thức cạn của ý thức để an trú trong thế giới của vô thức
bí mật (tiềm thức, phần tâm thức mà chúng ta không nhìn thấy được trước đây
nhiều gấp ngàn lần phần thấy được), khi đó hành giả thấy được toàn bộ những
hoạt động bí mật của tâm trong tiềm thức, hành giả thấy toàn vũ trụ pháp giới
cũng chỉ toàn là tâm, tâm vật là một. Khi đó họ sống rất tự tại, vì thấy vật chất
chính là tâm nên họ điều khiển được vật chất do tâm với tâm liên thông, đây là
lúc thần thông phát huy diệu dụng vô cùng và bền vững, bằng cái tâm trực tiếp
nếu muốn họ có thể thấy biết hàng ngàn thế giới, họ chết tự tại bằng định chứ
không cần phải chờ cái chết đến, muốn sống lâu hay chết nhanh đều được, khi
chết nếu không đốt thân không bị mục rữa còn nếu đốt sẽ có xá lợi, khi họ chết
lên cõi trời sắc giới rất cao. Ngoài ra họ còn thấy được vô số tà kiến, tập khí, kiết
sử sai lầm bên trong tiềm thức để từ đó dần phá trừ, không bị những ảo ảnh của
tiềm thức lừa gạt (ảo ảnh Phật thọ ký, thượng đế, thần thánh… gặp làm các bậc
tu định ngoại đạo dễ bị lừa qua đó làm kẻ tu tà định tăng trưởng kiêu mạn, tưởng
bở mà lầm lạc, phóng ảnh này là do cái nhân ban đầu tu hành vì mục đích sai
lầm là muốn mình thành ông này ông kia, kiêu mạn tham vọng nên bản ngã tự
60
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

tạo ra để lừa gạt). Muốn tiếp tục tiến hóa thì trong tâm vẫn phải tiếp tục tác ý
(như lý tác ý) là: “chấp ngã và vô minh cũng vẫn còn” để nhắc mình tu tiếp. Ví
dụ về trạng thái tam thiền như 1 hoa sen còn chìm trong nước khi mới ló lên từ
từ thì đã được nước thấm tràn hết, cái hạnh phúc người tu ngập tràn như vậy,
thanh khiết yên tĩnh thấm đầy cả thân, từ đầu cho đến ngón tay móng chân đều
tràn ngập hạnh phúc, nếu ở nhị thiền còn xao động vì còn cái hỷ thì qua tam
thiền thì cái mừng chấm dứt chỉ còn hạnh phúc cao siêu vi diệu tịch lặng.
Tứ quả (Arahán): Khi một vị Anahàm tu hành nhập tứ thiền (chánh đạo)
vị này đã phá bỏ hoàn toàn được 5 điều sơ suất vi tế là: sắc ái (mê chấp cõi
sắc), vô sắc ái (mê chấp cõi vô sắc), kiêu mạn, giải đãi (mất động lực tu tiếp), vô
minh. Nhập vào các tầng tứ thiền và dần đạt đến trạng thái diệt tận định, chứng
quả Arahán, đạt được Lậu Tận Minh, trở nên vô nhiễm, chứng được tứ đế, thấy
được vô lượng kiếp của mình và chúng sinh, thấy được vô lượng cõi chúng sinh.
4} Tứ thiền (chánh đạo): Hành giả “Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu, chứng và an trú
thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh”. Hành giả bỏ trạng thái
lạc sung sướng, bỏ trạng thái khổ (diệt mọi cái mừng lo), không còn cái vui của
tam thiền vì cái hạnh phúc tam thiền coi vậy vẫn còn động, chấm dứt luôn cái
“lạc”. Đến chỗ giải thoát, thoát hẳn hoàn toàn thế giới của tâm (kể cả vô thức),
vượt tâm thức và không còn bản ngã nữa. Ví dụ về trạng thái này như 1 người
ngồi trùm 1 tấm vải trắng, phủ hết cả người thì toàn thân người đó từ đầu cho
đến chân không có chỗ nào mà không được tấm vải đó che (sự sáng suốt thanh
tịnh toàn thân, bất cứ một sợi lông móng tay nào cũng đều có sự sáng suốt thanh
tịnh, mọi cơ quan đều trí tuệ). Họ vượt hết tâm thức đi đến cái tuyệt đối (ví như
một đầu cái kim chứa toàn thể vũ trụ, tất cả trong một và một trong tất cả), nếu
họ bung tâm ra sẽ dần nhiếp chứng được 5 mức thiền đại định lần lượt như sau:
5} Không vô biên xứ định: bung cái tâm ra và thấy tâm như hư không khắp
pháp giới vũ trụ (trạng thái này tương đương sơ thiền của tam quả nhưng sâu
hơn một bậc, đây là trạng thái sơ thiền của tứ quả).
6} Thức vô biên xứ định: bung cái tâm ra và thấy cái biết phủ trùm hết pháp
giới vũ trụ (cây cỏ mây trôi đều biết, trạng thái này tương đương nhị thiền của
tam quả nhưng sâu hơn một bậc, đây là trạng thái nhị thiền của tứ quả).
7} Vô sở hữu xứ định: bung cái tâm ra và thấy khắp hư không vũ trụ tịch lặng
như không có gì (trạng thái này tương đương tam thiền của tam quả nhưng sâu
hơn một bậc, đây là trạng thái tam thiền của tứ quả).
8} Phi tưởng phi phi tưởng xứ định: bung cái tâm ra và thấy khắp đất trời như
có tâm thức của cái biết mà hư vô tịch lặng, vô vi nhưng có tâm thức, vừa như có
tâm mà vừa như không có (đây là trạng thái tứ thiền của tứ quả). Ví dụ về trạng
thái này như người gỗ xem hoa trong thiền tông.
9} Diệt tận định: đây là trạng thái định cuối cùng và sâu nhất, người đạt trạng
thái này thân kim cang bất hoại, không bị xâm hại, lửa đốt không cháy, dao cứa
không đứt, đây là cái đại định của thức vô ngã, thần thông diệu dụng và trí tuệ
61
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

đều viên mãn. Chỉ có cấp độ định này mới đưa hành giả hòa nhập được vào thể
tánh của Niết Bàn, chỉ có các vị Arahán mới tiến nhập được vào trạng thái này,
các vị tu sỹ tà định ngoại đạo không thể đi đến được cảnh giới định này.

2) Quá trình thoái hóa và tiến hóa nghịch của thức siêu cấp phàm phu (tà đạo):

Giai đoạn tạo Vô sắc tà đạo


Thức siêu cấp
phàm phu nghiệp kiên cố
Tứ thiền tà đạo
Ác kiến (X1)
Tà Tam thiền tà đạo
định
Tà tư duy (X2) ngoại Nhị thiền tà đạo
Tà đạo
Tà ngữ (X3) tinh Sơ thiền tà đạo Giai
tấn đoạn

Tà nghiệp (X4) Đọa 3 ác đạo: thú, tiến
niệm
ngạ quỷ, địa ngục hóa
loạn
nghịch
Tà mạng (X5) động
Người, phi nhân,
ma, thiên ma…
Giai đoạn tích Giai đoạn
lũy tội phước thoái hóa Tái sinh vào 9 tầng
lẫn lộn mê lầm trời dục giới thấp,
Quả báo atula, mara (không
Khởi tâm tà đạo lưỡng tính biết chánh pháp)

Vẫn trở lại là Thức siêu cấp phàm phu sau mỗi chu kỳ, các chu kỳ lặp đi lặp lại
vô tận nếu không đi đúng chánh pháp, gọi là vòng luân hồi vô định của chúng sanh

2.1) Ác kiến: Là những kiến giải tà ác, không chân chính, sai lầm, không đúng chân lý
vũ trụ, những kiến thức này nếu áp dụng sẽ làm cho chúng sinh thoái hóa hoặc tiến hóa
nghịch (khiếm khuyết nhân quả), thích làm chơi ăn thiệt, không thích sự công bằng,
những hiểu biết sai lầm này là căn bản của phiền não bao gồm 5 loại như sau: thân kiến
(thấy thật có ta và của ta), biên kiến (chấp hoặc có/không, hoặc thường/đoạn), tà kiến
(kiến giải bác không có nhân quả), kiến thủ (cho cái thấy sai lầm của mình là chánh
kiến, bảo thủ tri kiến của mình/người), giới cấm thủ (chấp tà hạnh làm chánh hạnh,
chấp tà pháp làm chánh pháp, mê tín dị đoan).
2.2) Tà tư duy: Là những tư duy sai lầm, suy nghĩ ích kỷ lợi mình hại người, tham lam,
tham ái, sân hận, si mê, mưu mô hại người, kiêm mạn, nghĩ mình hơn người, nghĩ mình
tốt hơn người, khinh người, không thương yêu quý trọng sinh mạng, nghi kỵ, ác độc.
Do ác kiến là nhân hình thành nên các tà tư duy và làm tâm thức bị thoái hóa dần dần.

62
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

2.3) Tà ngữ: Nói những điều không đứng đắn, nói dối, nói tục, nói hai chiều, nói ác
độc, nói chia rẽ, nói đâm thọc, nói sai sự thật, nói không đúng chánh pháp, lừa gạt hại
người, nói gây tổn hại đến người, những lời nói này làm người nói bị thoái hóa.
2.4) Tà nghiệp: Là những hành động sai trái, như ăn cắp, cướp giật, giết hại, lừa đảo, tà
dâm, những hành động gây hại cho người khác và loài vật, những hành động hủy hoại
môi trường sinh thái, hành động lợi mình hại người, hành động ích kỷ, sân hận cự lộn,
hành vi mê tín cuồng loạn rồ dại, làm điều vô nghĩa, giúp kẻ ác hành sự… những hành
vi càng làm càng tổn phước và tội lỗi nghiêm trọng.
2.5) Tà mạng: Là làm những nghề nghiệp tội lỗi sai lầm, gây hại cho người cho vật,
những nghề như giết mổ, đồ tể, đao phủ, buôn thuốc gây nghiện, thuốc lá, bia rượu, các
chất có hại cho sức khỏe, buôn bán nô lệ, tú ông tú bà, buôn bán nội tạng, buôn bán vũ
khí, chăn nuôi xúc vật, bán thực phẩm độc hại, săn bắt, câu cá, cờ bạc cá độ…
2.6) Tà niệm: Là nhớ những điều sai trái, những niệm tham sân si kiên cố không biết
mà trừ, không thấy điều sai trái lỗi lầm, thường xuyên niệm kiêu mạn, niệm ganh ghét,
niệm ác độc, niệm tà dâm, niệm tham lam, niệm sân hận, niệm ham muốn quyền lực…
2.7) Tà định: Là trạng thái thiền thuần định của ngoại đạo, do kết hợp với việc có
nhiều phước, người tu có thể tiến vào được tầng định rất sâu và có thần thông cao siêu,
nhưng do tác động của 6 cái tà đạo phía trước như là nhân bất toàn làm cái định phía
sau đi sai đường. Cái định này không đi qua con đường chánh niệm tỉnh giác để phá trừ
các năng lực tiêu cực bên trong nội tâm nên nó mong manh dễ mất, định này làm cho
người tu trở thành các loài atula tà đạo, mara, các cấp trời tà đạo. Việc sử dụng thần
thông được lâu hay mất nhanh hoàn toàn phụ thuộc lượng phước trong tâm quyết định,
đến khi hết phước duyên thì cũng hết thần thông và người tu sẽ bị thoái hóa quay trở lại
ban đầu, và cứ lặp đi lặp lại công dã tràng mãi.
$ Giai đoạn thoái hóa: Khi thức siêu cấp không có xu hướng tu hành mà chỉ thuần có
các suy nghĩ thế tục, thì khi 5 cái tà đạo trên mà tinh tấn thực hành trong điều kiện ít nhân
tích cực đi kèm sẽ làm cho thức bị rơi vào tà niệm loạn động, nặng nhất sẽ bị điên (điên là
trạng thái hạnh phúc của địa ngục) sau khi chết rơi vào địa ngục vì tội ác của mình, nhẹ
hơn là sự ích kỷ dẫn thức sau khi chết rơi vào cảnh giới ngạ quỷ chịu đói khát trong nhiều
năm đớn đau, nhẹ hơn nữa là những tà niệm tham ái tà kiến ngu si dẫn thức trở thành các
loài thú, tâm càng loạn thì thú càng ngu.
$ Quả báo lưỡng tính: Nếu trong tà kiến vẫn có xen kẽ làm điều thiện thì thức sẽ có
phước làm người, thiên ma hoặc ma. Đây là những loại người phàm phu si mê không biết
hoặc ít biết chánh pháp, mức độ thiện ác xen kẽ lẫn lộn nên cuộc đời khổ vui lẫn lộn.
$ Giai đoạn tiến hóa nghịch: Có 2 xu thế trong giai đoạn tiến hóa nghịch.
a) Xu thế thấp: Khi thức siêu cấp phàm phu có xu hướng tiến đến sự tu tập nhưng theo
con đường tà đạo (không đúng chánh pháp cầu giải thoát mà mục đích tu chỉ để được
lên cõi này cõi kia, về với ông này ông kia) thì thức sẽ làm nhiều việc tốt, giữ giới, tích
phước và khi hết kiếp người liền bị sinh vào các loài Atula (nếu tâm còn sân hận), Mara
thấp (ham muốn quyền lực), và các tầng trời dục giới thấp tà đạo (vướng nhiều tà kiến,
các loài này thường quan niệm rằng có một vị thượng đế tạo ra họ và ông ta là toàn thể

63
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

vũ trụ). Cơ cấu tiến hóa của những thức loại này chủ yếu dựa vào lượng phước tích lũy
mà thành nên khi phước cháy cạn thì sẽ bị thoái hóa trở lại làm người hoặc tệ hơn.
b) Xu thế cao: Khi thức siêu cấp có nhận biết được về con đường tu tập thiền định
nhưng theo lối tu tà đạo tà kiến (không đúng chánh pháp cầu giải thoát mà chỉ tìm cầu
thần thông phép lạ, muốn trở thành thần thánh để được mọi loài tôn thờ) thì họ sẽ chăm
chỉ tu hành và cũng có làm phước. Tùy vào mức định lực cao hay thấp hòa trộn kết hợp
với lượng phước nhiều hay ít thì thức sẽ tiến hóa thành Mara cao (ham muốn quyền lực
nhưng sâu sắc vi tế); các loài trời dục giới tà đạo cao, trời sắc giới tà đạo và trời vô sắc
giới tà đạo (vẫn có nhiều tà kiến, kiêu mạn, vô minh, thậm chí có một số cá thể còn có
tư tưởng ngã mạn tự nghĩ mình chính là thượng đế tạo ra vạn vật). Những cá thể tà đạo
này khi hết phước hết định cũng sẽ bị thoái hóa trở lại làm người hoặc các loài thấp hơn
tùy theo trữ lượng phước còn sót lại trong tâm sau khi chết.

CÂU TRUYỆN THỨ SÁU


NHỮNG NỀN VĂN MINH CỔ ĐẠI
Sơ đồ tóm tắt lịch sử Trái Đất

Các nền văn minh Khoảng thời gian trong


của các thời kỳ giới hạn câu truyện
trước không được
nhắc đến trong
câu truyện Mặt trăng xuất hiện 25.000 năm TCN Hiện tại

Thời đại Kỷ băng hà Nền văn minh


hỗn mang (Ice Age) đương đại
(Chaos Age)
Nền văn minh hoàng kim Nền văn minh
(Golden Age) tái thiết
(Recon Age)

Vào một thời đại xa xưa, có một nền văn minh cổ đại tên gọi là nền văn minh tái thiết
Recon Age (theo cách gọi của SGG) từng tồn tại trên Trái Đất rất lâu trước khi nền văn
minh ngày nay xuất hiện. Tại kinh thành của vương quốc Asuka rộng lớn (Ấn Độ cổ đại),
con người ở đó phát triển nền khoa học tâm linh rất cao, những năng lực siêu nhiên của
con người là điều rất bình thường trong xã hội thời bấy giờ. Quốc vương Asuka và các
thành viên hoàng tộc đều là thế hệ con lai của chủng người hành tinh Thicara với người
địa cầu, họ có nước da xanh dương óng và thể lực phi thường, vương quốc Asuka có xu
hướng chú trọng phát triển khoa học tâm linh nhiều hơn là khoa học vật lý.
Các phương pháp khoa học dựa trên xu hướng vật lý thái quá mà một vài quốc gia nhỏ
chú trọng phát triển thường bị chê là các dạng lý thuyết thô sơ gây mất quân bình tự nhiên.
64
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Nhưng các lý thuyết khoa học đó vẫn có những thành tựu ứng dụng nhất định trong xã hội
như: luyện thép, chế tạo tàu bay, xây dựng và thủy lợi… Những công trình kiến trúc áp
dụng công nghệ hiện đại như những tòa nhà không trọng lực được xây dựng song song với
những công trình ứng dụng khoa học tâm linh vô cùng siêu việt ở các nước lớn… Một số
các quốc gia phát triển khoa học tâm linh cao đã đủ khả năng kết nối với âm giới theo một
mức độ nhất định nhưng nhà nước âm giới từ trước và sau này vẫn luôn là một thể chế bí
ẩn, luôn giữ một khoảng cách biệt lập nhất định đối với mặt dương của Trái Đất.
Thế giới thời bấy giờ là một thời đại kỳ lạ, thước đo giá trị của con người trong xã hội
không hẳn nằm ở số lượng vật chất người đó nắm giữ mà còn nằm ở năng lực tu hành và
các khả năng siêu nhiên của họ, tuổi thọ của con người khi đó trung bình vào khoảng 400
năm tuổi. Trái Đất khi đó không chỉ có vương quốc Asuka, mà còn có nhiều quốc gia lớn
mạnh khác, thời đại đó năng lực tâm linh là thước đo chính về quyền lực và giai cấp trong
xã hội, các vị vua ở các vương quốc lớn thường là những người có năng lực tâm linh cao.
Một số các quốc gia lớn mạnh khác như vương quốc Mycena của vua Zeus, ông cùng
các triều thần của đều là chủng người đến từ hành tinh Olypia, họ xây dựng lên vương
quốc Hy Lạp cổ đại và được dân chúng tôn thờ như những vị thần dựng nước. Vương
quốc Egepty của vua Horus, Horus cùng các quan lập quốc là một nhóm chủng người đến
từ chòm sao Orian tới Trái Đất lập nghiệp và xây dựng lên nhà nước Ai Cập cổ đại với
những kim tự tháp khổng lồ và họ được người dân Ai Cập cổ tôn vinh như những vị thần
cao quý. Và vương quốc Midgard của vị vua Odin, ông và một số thành viên trong triều
cũng là những người từ hành tinh Asgard đến Trái Đất sinh sống và xây dựng vương quốc
Bắc Âu cổ rộng lớn. Còn có vương quốc Atlantic của vua Poseidon, ông cùng các thành
viên trong triều là tộc người của hành tinh Green Orland di cư đến trái đất sinh sống.
Tất cả giới lãnh đạo ở những quốc gia này đều là thành viên trong nhóm AZ012 (nhóm
liên minh mậu dịch ở bờ đông dải Unber thuộc khu vực phía Nam của dải Ngân hà) thuộc
khối liên hiệp ngân hà AGUN. Ngoài ra còn có một số các quốc gia cổ ở vùng Châu Mỹ
như Intaca, Mayan, Antec chú trọng phát triển khoa học công nghệ vật lý nhiều hơn khoa
học tâm linh, ngược lại cũng có 3 quốc gia lớn gần nước Asuka đó là Bàn Cổ, Âu Lạc và
Jumon (quốc đảo thần đạo) cũng có đồng quan điểm chú trọng phát triển khoa học tâm
linh nhiều hơn công nghệ vật lý giống như Asuka. Ngoài các vương quốc lớn nêu trên còn
có nhiều các tiểu quốc nhỏ cũng phát triển được những thành tựu khoa học công nghệ vật
lý hoặc tâm linh nhất định.
Thế giới khi đó chia ra làm 2 nhóm quốc gia bao gồm: nhóm các quốc gia có triều đại
bắt nguồn từ các vì sao (những người lãnh đạo quốc gia là các chủng loài có cấp độ tiến
hóa cao như các chủng trời dục giới hoặc những chủng người ngoài hành tinh với công
nghệ siêu việt) như: Mycena, Egepty, Midgard, Alantic và Intaca... Và nhóm các quốc gia
có nhà nước do người Trái Đất lãnh đạo như: Asuka, Bàn Cổ, Âu Lạc, Jumon, Mayan,
Antec… Hai nhóm này có 2 xu hướng cai trị thế giới hoàn toàn khác nhau:

65
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Nhóm thứ nhất là các chủng người đến từ các vì sao, họ coi mình như những vị thần và
muốn dẫn dắt nhân loại tiến hóa, mặc dù số lượng người của họ rất ít ngay cả trong quốc
gia mà họ cai quản. Họ luôn cho rằng họ tiến hóa hơn, trí tuệ cao hơn, đạo đức hơn nên
chỉ họ mới có đủ khả năng lãnh đạo và dẫn con người đi đúng hướng tiến hóa. Họ cho
rằng nếu để con người tự vận hành thế giới thì nền văn minh sẽ lại bị hủy diệt một lần nữa
bởi chính sự ác độc ngạo mạn của con người. Họ thường lấy ví dụ về sự suy tàn của nền
văn minh Golden Age (trước khi Kỷ Băng hà xảy ra) khi mà con người thống trị trái đất
với sự phát triển khoa học công nghệ vật lý điên cuồng, cùng lòng tham lam của cải vô độ
dẫn đến việc khai thác vật chất mù quáng làm xảy ra mâu thuẫn tranh chấp về tài nguyên
và cuộc chiến tranh nhiệt hạch khi đó đã làm hệ sinh thái trái đất bị hủy hoại nghiêm trọng,
thế giới đã rơi vào kỷ băng hà suốt một thời gian dài do hậu quả của chiến tranh. Chỉ đến
khi nhóm hiệp thương AZ012 đưa người và công nghệ của họ đến thì mới cứu được hệ
sinh thái của Trái Đất và thiết lập nên nền văn minh Recon Age tại đây. Vì thế một số
chủng người trong nhóm AZ012 thuộc các chòm sao Orion, Asgard, Olipia, Green
Orland… đã quyết định ở lại để tự tay xây dựng Trái Đất và giúp đỡ con người vì họ
không mấy tin tưởng vào sự trưởng thành của nhân loại. Những chủng người ở lại đó đã
xây dựng nên những vương quốc theo phong cách văn hóa của hành tinh họ, đây được gọi
các quốc gia của những vị vua đến từ bầu trời.
Nhóm thứ hai là những quốc gia được lãnh đạo hoàn toàn bởi người trái đất, vào thời
kỳ đầu Recon Age một số người trong nhóm AZ012 thuộc các chủng người Pleideans,
Summerian (hai chủng loài thuộc cấp trời dục giới chánh đạo) và một số chủng khác đã
dạy con người cách sống và tu hành hòa hợp với thiên nhiên sau đó họ dời đi. Qua đó con
người phát triển được khoa học tâm linh cũng như công nghệ rất tiến bộ, có trình độ tri
thức hiểu rõ được bản chất của sinh mệnh và thế giới quan. Với nền tảng đó họ chủ trương
phát triển tu tập tâm linh đạo đức và xây dựng phương pháp sống hòa hợp với thiên nhiên
theo đúng cách mà các vị thầy đã dạy, họ muốn tự làm chủ trái đất với lời hứa đảm bảo sự
sinh trưởng ổn định bền vững hài hòa với thiên nhiên và không cần các vị thần dẫn dắt.
Hai xu hướng quản lý thế giới này luôn là đề tài tranh cãi tại các hội nghị liên hiệp
quốc trên Trái Đất lúc bấy giờ. Thế giới khi đó dường như là một không gian quá nhỏ bé
so với năng lực quản lý của mỗi đại quốc, mỗi quốc gia đều có chủ trương chính đáng về
lý tưởng sống và đều có năng lực cai quản phi thường. Sự va chạm về văn hóa thi thoảng
vẫn diễn ra nhưng được giữ ở mức độ rất tế nhị, vì các vị thần cũng luôn giữ cho mình sự
tôn nghiêm cao quý với tư cách của kẻ bề trên đã từng cứu trái đất và con người cũng giữ
một mức độ kính trọng nhất định với họ, nên không bao giờ xảy ra những xung đột.
Nói thêm về khối liên hiệp ngân hà AGUN: khối AGUN ngoài các thành viên thuộc
chủng loài đạt đến cấp độ tiến hóa trời dục giới chánh đạo (thuộc 3 lớp trời thấp nhất là
kiên thủ thiên, trì hoa thiên, phóng dật thiên chánh đạo), còn có vô số các chủng người ở
các hành tinh theo chánh đạo và các chủng Atula chánh đạo. Đây là hiệp hội liên minh
những hành tinh có nền văn minh tiên tiến theo xu thế hòa bình và tiến hóa thuận (không
66
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

tạo các vòng nhân quả khiếm khuyết hoặc các vòng tuần hoàn ác tính trong chuỗi nhân
quả), hiểu biết sâu sắc về nền nhân quả học và sự tiến hóa thuận của thức. Có khả năng di
chuyển và thông thương tự do trong dải ngân hà, chỉ có một số loài trời dục giới cao cấp
nhất trong khối AGUN mới có khả năng di chuyển qua nhiều thiên hà khác nhau và họ
cũng có nhận thức rõ về các tầng trời cao hơn. Điều kiện để gia nhập khối AGUN là:
1) Một loài sinh mệnh hữu tình phải đạt được trình độ khoa học công nghệ tiên tiến và
tương thích với môi trường sống; có kiến thức chuẩn về cơ chế vận hành tổng thể
của vũ trụ. Không có bất kỳ những tư tưởng hay niềm tin mê tín nào trong xã hội,
ví dụ như niềm tin về 1 nguyên nhân đầu tiên: một vụ nổ hay một ông trời nào đó
tạo ra tất cả, những kiểu niềm tin này được xem là tư duy tà kiến của các loài bán
khai hoang dã và bị cấm tại AGUN vì không phù hợp với xu thế tiến hóa và trình
độ hiểu biết chung của khối. Không tồn tại các loại tôn giáo độc hại trong xã hội: tự
do tôn giáo là loại tư tưởng bị cho là không phù hợp trong khối AGUN vì khi nền
khoa học vật lý và tâm linh phát triển đến 1 cảnh giới cao và đúng hướng thì khoa
học và tâm linh chỉ là một và nó tương thích với mọi hệ thống lý thuyết khoa học.
Khối AGUN chỉ cho phép 1 loại tôn giáo đúng nhất với nền khoa học đó là tôn
giáo lý giải về sự tiến hóa của thức, tôn giáo của sự tu tập thiền định và đạo đức, là
chuẩn mực của vũ trụ và tương thích với hệ thống lý thuyết hiện thực tổng thể.
2) Mô hình xã hội của chủng loài đó phải đạt đến cấp độ nền Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa tâm linh (CHT), nghĩa là bầu ra những người có đủ 3 loại năng lực: đạo đức,
trí tuệ và tâm linh thật sự viên mãn để lãnh đạo xã hội. Không tổ chức xã hội theo
các hình thái thô sơ đơn thuần như: quân chủ, tư bản… hay thậm chí là nền dân chủ
đơn thuần. Tại sao ngay cả nền dân chủ đơn thuần lại bị cho là không hợp lý ở
AGUN (tất nhiên dân chủ là một phần trong hệ thống hiến pháp của các nhà nước
CHT, nhưng nó không quan trọng tới mức thành chủ nghĩa hóa thuần túy). Nhiều
chủng loài bán khai cho rằng nền xã hội dân chủ rất hợp lý khi mọi người trong xã
hội đều có quyền bình đẳng và có tiếng nói như nhau. Tất nhiên bản chất của bình
đẳng là tốt nhưng nhiều khi số đông lại không hiểu rõ điều gì là thật sự tốt nhất cho
họ (đồng thời căn cơ trí tuệ của mỗi công dân là không đồng đều). Nếu một hành
tinh mà số đông người là những kẻ mê muội kém trí tuệ với tầm nhìn hạn hẹp thì
chính nền dân chủ (các quyết định chiến lược ở mỗi quốc gia dân chủ đều dựa trên
mẫu số chung của tổng trí tuệ của toàn bộ người dân ở quốc gia đó chia đều) sẽ làm
cho hành tinh đó vĩnh viễn không thể thoát được sự tối tăm, bị rơi vào những vòng
luẩn quẩn vô tận của tham vọng và các quốc gia trên hành tinh đó sẽ không bao giờ
đoàn kết thành 1 khối thống nhất để thể tiến hóa cao hơn được. Một khi đã không
biết cách tiến hóa thì sự diệt vong của một nền văn minh chỉ là vấn đề thời gian, và
chu kỳ sinh diệt của các nền văn minh trên các hành tinh trong vũ trụ là rất rất phổ
biến. Một chủng loài chỉ có thể tiến hóa thuận khi được dẫn đắt bởi một nhóm cá
thể tinh anh có trình độ trí tuệ, tâm linh và đạo đức rất siêu việt thì hành tinh đó

67
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

mới có thể phát triển vượt bậc trong vũ trụ. Điều này đã được khối AGUN đúc kết
từ hàng trăm tỷ năm lịch sử ngân hà cùng với những công trình nghiên cứu mô hình
xã hội của hàng trăm triệu chủng loài khác nhau tồn tại trong dải ngân hà, qua đó
xác định quy luật kết cấu XHCN tâm linh CHT là chuẩn mực xã hội chân lý nhất.
3) Phải có một nhà nước chung hoặc một tổ chức chung có đủ năng lực trí tuệ, đạo
đức và công bằng để làm tiếng nói chung cho mọi dân tộc phát triển bình đẳng trên
cùng một hành tinh, chấp nhận ăn chay trường. Những người lãnh đạo hành tinh
phải vừa là những vị quan chức mẫu mực và vừa là những người thầy dẫn dắt toàn
bộ chủng loài đó đi trên con đường tiến hóa thuận theo tiêu chuẩn của AGUN. Sử
dụng ngôn ngữ chung cho toàn cầu; chấp hành các hiệp ước chung, chuẩn mực
chung của khối AGUN; sẵn sàng hỗ trợ và bảo vệ các thành viên trong khối nếu
hành tinh của họ gặp khó khăn.
4) Những thành viên được chọn vào bộ máy lãnh đạo hành tinh đó phải đạt được một
trình độ phát triển tâm linh cao cấp nhất định, họ phải được đánh giá và được chỉ
dẫn bởi Hội đồng tâm linh tối cao JEUN (hội đồng những tộc người trời dục giới
thuần chánh pháp đứng đầu trong khối AGUN) trước khi nhậm chức.
5) Có khả năng tự thân phát triển được công nghệ di chuyển cách đoạn trong không
gian (những bước nhảy Alpha) mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ của các chủng
loài khác trong vũ trụ. Chia sẻ các kinh nghiệm về tâm linh cũng như tri thức công
nghệ khoa học cho các thành viên trong khối, không đàn áp các chủng tộc thấp hơn
và không có hành động cản trở sự tiến hóa của các chủng loài thấp trong vũ trụ.
Với 5 tiêu chuẩn khắt khe như trên, không phải bất cứ hành tinh có nền văn minh cao
nào cũng vào được AGUN, có rất nhiều nhóm liên kết phi chính thống nhỏ trong hệ ngân
hà do không đủ tiêu chuẩn gia nhập AGUN và không được tiếp cận các đặc quyền về tri
thức cũng như công nghệ cao cấp của khối AGUN. Những nhóm nhỏ đó hoặc đang trong
quá trình tiếp nhận sự hỗ trợ từ khối AGUN và đang trên đà phát triển cho phù hợp với
tiêu chí để được gia nhập AGUN, hoặc họ sẽ gia nhập khối hiệp thương KORUN (khối
các chủng loài theo cơ chế tiến hóa nghịch).
Việc thiếu hụt nhân sự quản lý cũng luôn là vấn đề nan giải của các chủng loài tiến hóa
cao, càng tiến hóa cao thì dân số càng ít vì rất ít chúng sanh (thức siêu cấp) có khả năng
tiến hóa lên các cấp độ cao do cơ cấu tâm thức đòi hỏi mức tiến hóa càng cao thì càng cần
phải có nhiều độ khó trong sự tu hành cũng như lượng phước trong nội tại của thức phải
lớn hơn. Vì vậy mỗi chủng loài bất kể là những chủng loài trời (ở cả hai khối), atula hay
mara... thì cũng chỉ có thể điều động được một số ít nhân sự cho mỗi hành tinh hay mỗi hệ
sao nào đó mà họ đang theo dõi. Giới hạn nhân lực của họ chỉ là các nhóm nhỏ một vài
trăm, vài chục hay thậm chí là vài người để điều hành, năng lực điều hành càng cao thì
càng cần sử dụng ít nhân sự điều hành cho một khu vực.

68
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Có nhiều chủng loài có nền văn minh rất tiên tiến nhưng vẫn có những đặc tính tinh
thần còn nặng khuynh hướng bảo thủ cá nhân, không thích phát triển theo cơ chế tiến hóa
thuận của AGUN. Họ liên kết các chủng loài văn minh ở các hành tinh có xu thế xem
trọng phát triển khoa học vật lý và tâm linh nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích vị kỷ của
cá thể loài, họ hình thành nên khối hiệp thương tự do KORUN, họ không thích bị gò bó
trong các giới luật, họ không tin hoặc có hiểu biết khiếm khuyết về luật nhân quả và nhận
thức của họ về các tầng phía trên vũ trụ tầng thấp là rất hạn chế. Trong khối này có nhóm
KP37 được cầm đầu bởi hai chủng loài là Greys (chủng người hành tinh da xám có đôi
mắt và cái đầu to, họ chú trọng phát triển khoa học nghiêng về hướng vật lý nhiều hơn và
cũng có một chút ít thần thông) và chủng Kondroskans (một chủng kỳ nhông da xanh chú
trọng phát triển khoa học tâm linh song song khoa học vật lý nhưng tâm tính lại rất hiếu
chiến, mức độ tiến hóa của chủng này thuộc một loài ở cấp cảnh giới Atula).
Nhóm KP37 có tư tưởng cai trị các chủng loài kém trí tuệ hơn trong vũ trụ, họ âm
thầm ngăn cản sự tiến hóa của các nền văn minh lạc hậu và họ là một trong những nhóm
có tư tưởng cực đoan nhất trong khối KORUN (ngoài các chủng người ở các hành tinh tà
đạo có nền khoa học công nghệ cao thì khối Korun còn có rất nhiều các chủng loài thuộc
cấp tiến hóa Atula tà đạo, các loài Mara và các chủng loài trời dục giới tà đạo).
Mối tương quan giữa 2 khối AGUN và KORUN hình thành nên hai trục năng lực quân
bình trong toàn bộ Dải Ngân hà và do đó tổ chức Stars Group Galaxy (SGG) đã được
thành lập như một tổ chức liên hiệp quốc của toàn dải ngân hà do thành viên của cả 2 khối
đồng sáng lập. SGG được hình thành từ rất lâu và họ đã thiết lập nên những quy tắc ước
ứng xử chung để không gây ra các cuộc xung đột lớn giữa 2 khối, tạo nên trật tự chung
cho toàn dải ngân hà, qua đó đem lại trật tự ổn định và bền vững cho toàn bộ hệ ngân hà.
Ngoài 2 khối này vẫn có rất nhiều nhóm các hành tinh nhỏ lẻ không thuộc cả 2 khối.
Trở lại với Trái Đất khi đó, với sự hỗ trợ tích cực của phái đoàn ngoại giao người
Pleideans trong nỗ lực xúc tiến nhằm giúp Trái Đất nhanh chóng được gia nhập khối
AGUN. Trong bối cảnh đó tất cả các quốc gia trên Trái Đất bắt đầu thiết lập những thỏa
ước chung để xây dựng một chính thể hợp nhất, họ bầu ra ban lãnh đạo của bộ máy nhà
nước thống nhất Trái Đất, và những thành viên này sẽ phải đi gặp mặt Hội đồng JEUN để
được họ chỉ dẫn về tâm linh và được thông qua, nếu danh sách các thành viên hoàn toàn
được hội đồng JEUN chấp thuận thì Trái Đất sẽ chính thức được gia nhập khối AGUN.
Nhưng mọi chuyện đã không diễn ra theo cách thuận lợi cho nhân loại như vậy, dường
như dòng chảy số phận của luật nhân quả buộc nhân loại phải thử thách nhiều hơn, trưởng
thành hơn, dường như cái phước toàn nhân loại chưa đủ để tiến hóa lên một tầm cao mới.
Ác nghiệp quá khứ của nhân loại vẫn chưa được thanh toán sòng phẳng, con người cần
phải xứng đáng hơn trước khi đạt được một thế giới tổng hòa tiến hóa bền vững.
Và mọi chuyện bắt nguồn từ hơn 26.000 năm TCN, tức là trước thời điểm Trái Đất
chuẩn bị gia nhập khối AGUN khoảng 1.000 năm. Tại một ngôi làng nhỏ tên Kasun thuộc

69
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

một tỉnh phía Nam nước Asuka, cuộc sống của người dân nơi đây rất bình yên, và sự sống
mưu sinh của người dân tại đây rất được thiên nhiên ưu đãi. Con người không bao giờ
thiếu thốn trong vấn đề lương thực, những cánh đồng luôn trĩu hạt khi tới mùa vụ và chu
kỳ của một mùa thu hoạch thì rất ngắn. Các bậc trưởng lão Bà la môn trong làng luôn là
những người có trình độ cao về tâm linh, họ chỉ cho người dân biết cách làm thế nào để có
được một cuộc sống tốt đẹp, hòa hợp cùng thiên nhiên. Họ hướng dẫn mọi người dân cách
sống vừa chừng và quân bình đức độ, con người ở đó sống rất thọ và hạnh phúc. Họ
không quá lệ thuộc vào các phương tiện máy móc mặc dù nền khoa học vật lý của vương
quốc Asuka khi đó cũng rất tiến bộ. Họ thậm chí đã chế ra các phi thuyền song nó không
được sản xuất để bán đại trà cho người dân mà chúng chỉ được sử dụng cho công việc của
nhà nước và làm phương tiện giao thông công cộng. Vì họ cũng đã nhận thức được rằng
nếu sản xuất đại trà sẽ dẫn đến hủy hoại môi trường sinh thái và lãng phí tài nguyên, việc
môi trường sinh thái càng đa dạng bao nhiêu thì càng tạo nên được nhiều loại vật chất đặc
biệt bấy nhiêu, những vật chất đặc biệt này có đặc tính kết cấu hài hòa âm dương rất cao
và chúng là nguyên liệu để họ phát triển các nghiên cứu về khía cạnh khoa học tâm linh.
Các vị trưởng lão ở các ngôi làng cũng như những vị cố vấn tối cao cho quốc vương
đều là những bậc pháp sư có năng lực tâm linh với những tầng mức cao thấp khác nhau,
họ thấu đạt bản chất vận động của vũ trụ cũng như đặc tính luân hồi vô tận của sinh mệnh,
mọi người trong vương quốc thường gọi họ là những vị tu sỹ Bà la môn. Có hai cấp bậc
Bà la môn chính trong xã hội đó là: các tu sỹ Bà la môn thường dân và các tu sỹ Bà la
môn hoàng gia. Dù có những khả năng tâm linh siêu việt nhưng họ vẫn không bỏ được
một số pháp chấp, một số tiêu cực trong nội tâm vẫn còn tồn tại, vẫn còn sự kiêu mạn vi tế
trong nội tâm. Họ luôn có thành kiến với cách tu độc cư của những vị ẩn sỹ trong rừng, họ
thường cho rằng những vị ẩn sỹ đều là người tu hành mê tín, không có cơ sở và không
đem lại kết quả tâm linh cao, không đem lại sự giác ngộ, cũng như con đường tu hành đó
là vô nghĩa khi không giúp ích được gì cho cộng đồng xã hội.
Họ thỉnh thoảng cũng cố gắng thuyết phục vua Asuka đưa ra các đạo luật nhằm siết
chặt hơn các hoạt động của giới ẩn sỹ hoặc thậm chí là cấm luôn việc tu tà định ngoại đạo
để tránh sự mê tín trong dân chúng. Nhưng nhiều đời vua Asuka cũng chưa chấp thuận các
đề nghị này của giới tu sỹ Ba la môn, do các vị vua Asuka họ đều cho rằng không phải bất
kỳ vị ẩn sỹ nào cũng là tà định ngoại đạo cả, cũng có nhiều vị ẩn sỹ tu theo chánh pháp
nhưng họ đang trong giai đoạn chánh định trừ kiết sử nên cần phải tịnh tâm xa lánh thế sự.
Ở phía xa của ngôi làng Kasun là khu rừng rậm Uranda, nơi rất nhiều vị ẩn sỹ độc cư
tu hành, phía tây khu rừng là ngọn núi Puliya cũng có nhiều vị ẩn sỹ tu hành. Đa số họ tu
theo phương pháp khổ hạnh, nghĩa là họ thực hành các tư thế yoga rất đặc biệt kết hợp với
các phương pháp thiền định bí truyền để phát triển các khối luân xa trong cơ thể, hoặc
tụng niệm liên hồi các câu mật trú hay tên một vị thần nhằm liên thông được với họ…
Qua đó những ẩn sỹ sẽ phát huy được một số loại thần thông, tuy nhiên những phương
pháp tu hành của họ chỉ dựa trên việc truyền thụ từ thầy qua trò trong nhiều thế hệ và chủ
70
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

yếu được phát triển dựa trên kinh nghiệm tu hành và căn cơ riêng của mỗi người, hiệu quả
của các phương pháp này cũng không rõ ràng nên thường bị xã hội xem là tà đạo.
Chỉ các vị tu sỹ Bà la môn mới có nội hàm về tâm linh chuyên sâu và tổng hợp kiến
thức tu hành qua nhiều ngàn năm và hệ thống hóa được kiến thức nghiên cứu khoa học
tâm linh, xây dựng hệ thống khoa học tâm linh dựa trên thực nghiệm tu hành thiền định
của nhiều thế hệ tu sỹ kết hợp với kiến thức khoa học tự nhiên. Nền tảng của hệ thống lý
thuyết khoa học tâm linh này do một vị học giả siêu linh trong nhóm AZ012 dạy lại cho
con người ngay từ thời kỳ đầu của Recon Age, ông là một người Summerian đã đạt đến
cảnh giới của thức vô ngã Arahán, trước khi rời khỏi Trái Đất ông đã truyền thụ chánh
pháp cho một số dân tộc trên thế giới nói chung và các tu sỹ Bà la môn ở nước Asuka nói
riêng hiểu biết mọi khái niệm chuẩn xác nhất về con đường tu tập tâm linh chân chính
chánh đạo để đi đến sự giải thoát vô ngã.
Qua đó việc tu hành trong xã hội Asuka thời bấy giờ cũng được chia ra 2 xu hướng rõ
rệt: đó là tu theo các phương pháp chính thống thiền định chánh đạo do các tu sỹ Bà la
môn tối cao của vương triều tổng hợp biên soạn hoặc tu theo các phương pháp cổ xưa
không chính thống (các phương pháp cổ xưa bắt nguồn từ các di chỉ tàn tích cổ ghi chép
về một số phương pháp tu hành có từ trước thời đại hỗn mang). Năng lực của cả 2 phương
pháp này luôn là đề tài được dân chúng nước Asuka đưa ra bàn tán và tranh luận, có người
thì cho rằng phương pháp tu hành chính thống ưu việt hơn, hệ thống hóa và đầy đủ hơn
nhưng cũng có người lại nghĩ một số vị ẩn sỹ thực hành theo các phương pháp tu cổ đại
luôn có năng lực mạnh hơn cả những vị tu sỹ Bà la môn hoàng gia.
Trong khu rừng Uranda có một vị ẩn sỹ tên Morun tu hành theo phương pháp khổ
hạnh, ông thường hay đến ngôi làng Kasun để khất thực. Có một cái giếng cũ nằm ở đầu
làng nơi giáp ranh giữa khu rừng Uranda và ngôi làng, Morun hay đến đây lấy nước uống
sau khi đi khất thực ngang qua. Việc khất thực của Morun tại đây vẫn thuận lợi trong vài
năm nhưng các vị trưởng lão trong làng dần không thích sự hiện diện cũng như cách tu
hành của ông ta. Họ cho rằng các ẩn sỹ đều là những kẻ mê tín và lầm lạc khi không hề tu
hành theo đúng chánh pháp, những trưởng lão thường khuyên người dân nên hạn chế giao
du với những ẩn sỹ khổ hạnh để tránh bị tiêm nhiễm những tư tưởng tà kiến mê tín.
Do sự tác động lâu dài của các trưởng lão nên số người trong làng bố thí cho Morun
ngày một ít dần, một số người còn tỏ thái độ coi thường ông và chỉ trích ông ta trước đám
đông. Họ nói ông ta chỉ biết ăn bám khi mà không hề giúp ích được gì cho xã hội, sau đó
Morun đã thường xuyên đi về tay trắng và ông phải hái trái cây trong rừng để ăn. Vào một
ngày nọ ông ta quyết định quay lại làng Kasun với ý định muốn dùng khả năng tâm linh
của mình để giúp đỡ dân làng. Nhưng khi chưa kịp vào trong làng thì ông bị một đám trẻ
và thiếu niên chặn ở đầu làng, để tỏ ý không muốn cho ông vào làng khất thực nữa nên
một vài đứa trẻ và thiếu niên ngỗ nghịch đã có những lời mắng nhiếc nhục mạ nặng nề
ông và một đứa trong số chúng còn tiểu xuống cái giếng trước mặt ông ta.

71
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Hôm đó, Morun đã trở về khu rừng với sự tự ái và tức giận cực độ, ông ta quyết định
sử dụng phép thuật của mình để trừng trị ngôi làng và biến toàn bộ ngôi làng Kasun thành
rừng rậm. Mọi cái giếng trong làng đều bị hút cạn nước, hoa màu đều bị thú hoang và sâu
bọ ăn hết, rễ cây và cỏ hoang mọc kín bám lấy từng ngôi nhà. Côn trùng bắt đầu tấn công
người dân nơi đây làm cho họ buộc phải bỏ làng đi nơi khác, cả ngôi làng trong một ngày
đêm đã biến thành một phần của khu rừng rậm, các vị trưởng lão của ngôi làng tuy có
phép thuật nhưng cũng phải bó tay và buộc phải bỏ đi cùng người dân. Quốc vương Asuka
đã ra lệnh cho 5 vị pháp sư siêu linh cao cấp trong triều đình cùng với các vũ khí tiên thuật
tiến hành thu phục bắt sống Morun, nhưng do các vị pháp sư hoàng gia này vốn đã có sẵn
thành kiến với giới ẩn sỹ nên trong cuộc chiến phép thuật kéo dài 3 ngày đã cố tình mạnh
tay tiêu diệt luôn Morun (họ đã làm trái lệnh nhà vua và nói quá về tội lỗi của Morun khi
bị nhà vua quở trách) và sự việc này sau đó cũng đã dần đi vào quên lãng.
Lại nói thêm về thời đại hỗn mang (Chaos Age) là thời kỳ của thế giới trước khi có nền
văn minh Golden Age (kỷ nguyên hoàng kim của khoa học công nghệ) của con người phát
triển. Vào thời đại Chaos Age, khi đó Trái Đất vẫn chưa có mặt trăng và màn đêm luôn là
nỗi ám ảnh kinh hoàng với con người, mọi người thường rất ít ra đường vào ban đêm vì
nó rất tối và các loài quỷ quái yêu tinh thì đầy rẫy trong rừng, các thành phố lớn thường sử
dụng những tháp cầu ánh sáng để làm phượng tiện soi sáng thành phố trong đêm.
Con người rất sợ bóng đêm, những ngôi làng thường được các vị thần cây bảo hộ trong
một phạm vi nhất định và các thành phố làng mạc và nhà cửa đều có bùa chú của pháp sư
trấn yểm bảo vệ, các cây đèn đường đều có công dụng trừ tà vào ban đêm. Rừng rậm thì
rộng lớn và mọc san sát xen kẽ với các làng mạc của con người, các thành phố thì cổ kính,
tường thành thì cao hơn chục mét và nền văn minh khi đó thuần túy về phép thuật, nhưng
sự tu tập tâm linh chỉ dừng lại ở dạng kinh nghiệm do không phát triển được nội hàm khoa
học chuyên sâu vì đã dần bị mất gốc từ trước.
Các phương pháp tâm linh học do con người sử dụng và phát triển khi đó chỉ là phần
lý thuyết ngọn còn sót lại của nền khoa học tâm linh mà chủng người hành tinh Theta để
lại sau khi họ rời bỏ Trái Đất. Việc ứng dụng quá dễ dãi các công thức tâm linh có sẵn mà
thiếu phương pháp luận cơ bản lâu ngày đã làm cho con người mất dần các lý thuyết gốc
và sự mê tín dần bị pha trộn vào các phương pháp thực hành tâm linh. Lâu dần các pháp
sư không còn là những nhà khoa học tâm linh nữa, họ chỉ đơn thuần sử dụng các công
thức phép thuật trong những cuốn sách cổ đã viết mà hoàn toàn không hiểu gì về cơ chế
hoạt động của nó. Chaos Age là thời đại của những câu truyện thần thoại: những loài rồng,
kim sý điểu, kỳ lân, dạ xoa, nhân ngư, yêu tinh, tiên tộc, phù thủy, nhà tiên tri, thợ săn
rồng và pháp sư… là điều rất phổ biến trong cuộc sống đời thực của xã hội loài người.
Ở thời kỳ này phần năng lực âm bức xạ trên Trái Đất rất mạnh tạo nên môi trường hỗn
mang (trường năng lực âm bức xạ mạnh trên nền dương nhưng không đạt được sự hài hòa
âm dương) qua đó hình thành nên môi trường sinh thái thuận lợi cho các loài quỷ quái yêu
tinh tồn tại và phát triển. Các pháp sư của các quốc gia lớn đều có khả năng kết nối với
72
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

các thần ở âm giới, còn các phù thủy ở các bộ tộc nhỏ thì lại có xu hướng kết nối với các
loài thiên ma ở cõi âm hình thành vô số các giáo phái đa thần, thời kỳ này tồn tại khá lâu
trước khi khối AGUN cho người đến hỗ trợ nhân loại.
Sau khi biết Sao Hỏa bị hư hỏng nặng và trở thành một hành tinh chết, khối AGUN khi
đó với chính sách theo dõi và hỗ trợ các chủng loài ở nhóm những hành tinh đang bị rơi
vào môi trường hỗn mang thuộc bờ đông dải Unber. Họ đã cử một nhóm siêu linh thuộc
chủng người trời dục giới Summerian đến Trái Đất để ổn định trật tự tại đây và tránh cho
Trái Đất không bị kết cục như sao Hỏa. Họ đã hợp tác với một số các quốc gia lớn trên
Trái Đất khi đó, giúp các quốc gia này hệ thống hóa hoàn chỉnh lại các ghi chép về khoa
học tâm linh và phát triển nó theo hướng hàn lâm khoa học. Đồng thời người Summerian
cũng bắt đầu tiến hành cho xây dựng một mặt trăng tương thích với kết cấu sinh thái của
Trái Đất, qua đó giúp Trái Đất triệt tiêu các trường năng lực âm cũng như làm dương hóa
quả đất, nhờ vậy ổn định từ trường của Trái Đất và triệt tiêu môi trường hỗn mang.
Ngoài ra mặt trăng cũng được dùng để chiếu sáng phần tối của Trái Đất vào ban đêm
và nó cũng là thiết bị để người Summerian có thể theo dõi được tiến trình phát tâm linh
của nhân loại. Mặt trăng sẽ hấp thụ sóng trường tinh thần của con người qua đó có thể đo
đạt được mức độ lương thiện của nhân loại, họ sẽ trở lại để dẫn dắt loài người gia nhập
khối AGUN khi chỉ số tinh thần thiện của nhân loại đạt đến một ngưỡng chuẩn quy định.
Sau khi mặt trăng hình thành và được lập trình xoay quanh quỹ đạo Trái Đất, người
Summerian bắt đầu giúp loài người xây dựng các phương pháp nghiên cứu khoa học vật lý
và phát triển các hệ thống lý thuyết khoa học tự nhiên, sau đó họ được lệnh dời đi hỗ trợ
các hành tinh khác. Các loài yêu tinh quái dị trên Trái Đất sau đó cũng dần bị tuyệt chủng
hết do không còn môi trường sinh thái phù hợp với sự sống của chúng nữa, loài người
nhiều năm sau đó đã đi theo xu hướng nghiêng về khoa học vật lý nhiều hơn là tâm linh.
Trước khi rời khỏi Trái Đất, dưới sự chỉ đạo bí mật của hội đồng JEUN, hai vị tu sỹ
siêu linh có năng lực cao nhất trong nhóm người Summerian tên là Plater và Batca đã ở lại
để làm nhiệm vụ. Cả hai người họ đều có trình độ tâm linh siêu việt, trong đó Plater đã đạt
đến trạng thái tiến hóa thức vô ngã Arahán và ông là thầy của Batca.
Hai người họ đã ở lại Trái Đất và tự âm hóa toàn bộ cơ thể để tiến hẳn vào phía thế
giới âm của quả đất. Với sự trợ giúp của người thầy Plater, Batca đã dần thống nhất toàn
bộ các tộc người âm và xây dựng nên một vương quốc Diêm La duy nhất ở âm giới của
quả đất. Kể từ đó ông ta trở thành vị Diêm Đế duy nhất của cõi âm trên Trái Đất xuyên
xuốt cho tới ngày nay. Các loài thiên ma ba tuần ở cõi này tuy lúc đầu vẫn còn chống đối,
nhưng với quyền năng thần thông siêu việt cũng như tri thức khoa học tâm linh vượt trội
thì Batca đã dễ dàng thuần phục toàn bộ các tộc thiên ma lạc hậu trong âm giới và thiết lập
các trật tự xã hội tại đây. Trong suốt chiều dài lịch sử nhà nước âm giới thi thoảng ở một
vài nơi cũng vẫn có các nhóm thiên ma chống đối nhà nước của Diêm Đế, khi đó ở những
vùng đó phía dương thường xuất hiện các tà giáo man rợ hại người, nhưng những nhóm
thiên ma phản loạn này cũng thường nhanh chóng bị quân của Diêm Đế thu phục…
73
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Khi nhà nước âm giới ổn định, Batca cũng dần xây dựng các điều luật cụ thể. Ông cấm
các loài ma và thiên ma không được xung đột với nhau, thiên ma không được ăn thịt ngạ
quỷ và các loài thiên ma ba tuần đã cử đại diện ra phản đối, họ biện minh: “từ khi nào con
người lấy súc vật làm thức ăn và từ khi nào các thiên ma phải bắt ngạ quỷ để ăn, nếu
chúng tôi không ăn thịt ngạ quỷ thì làm sao chúng tôi có thể tồn tại được”. Và để ổn định
trật tự cũng như sự tồn tại công bằng cho mọi loài trong âm giới, Batca đã ban hành ra các
điều luật cụ thể và nghiêm khắc, ông nói: “các thiên ma sẽ chỉ được ăn thịt những ngạ quỷ
khi còn ở kiếp con người đã phạm nhiều tội ác, những kẻ đó sẽ bị bắt vào địa ngục và bị
luận tội trước khi cho các ngươi ăn thịt (việc ăn thịt tra tấn các ngạ quỷ ác độc thì các
thiên ma không bị quả báo xấu do cơ chế âm nhân âm bằng dương của luật nhân quả, chỉ
khi nào thiên ma trừng phạt ngạ quỷ vượt quá phần tội của họ thì phần phạt dư thiên ma
mới bị lãnh quả báo). Ta cũng cấm các thiên ma ba tuần không được tác ý xúi con người
làm điều bất lương để có nhiều ngạ quỷ ác mà ăn thịt. Nhưng các ngươi hãy nhớ là nếu
đến một ngày nào đó khi mà toàn thể nhân loại có thể ăn chay trường được và không còn
làm điều ác độc nữa thì các ngươi cũng sẽ không được ăn thịt ngạ quỷ nữa mà hãy ăn chay,
đó là giao kèo của ta với các ngươi”. Kể từ đó địa ngục được nhà nước Diêm La xây dựng
và tùy theo từng mức độ phạm tội lớn nhỏ khác nhau mà áp dụng những loại hình phạt
nặng nhẹ khác nhau, ngạ quỷ có tội sẽ bị bắt vào địa ngục để luận tội danh và sau đó được
giao cho thiên ma tra tấn và ăn thịt; địa ngục cũng có vai trò giáo dục cho cả ba loài âm
giới là ma, thiên ma và ngạ quỷ.
Sự việc hai người Plater và Batca đi vào thế giới âm khi đó là chuyện bí mật của riêng
nhóm người Summerian đến Trái Đất và không một người Trái Đất cũng như không một
chủng tộc nào khác biết được. Các thế hệ con người sau đó nhiều năm chỉ biết chú trọng
phát triển các lãnh vực khoa học vật lý, nhưng chưa đạt đến khả năng dịch chuyển bước
nhảy Alpha vì trình độ này là bước tiến mang tính chiều sâu khi khoa học vật lý kết hợp
tâm linh ở một mức độ nhất định, còn trình độ mà Golden Age đạt được chỉ là nền khoa
học phát triển theo chiều rộng vì không đạt được sự tương đồng với khoa học tâm linh.
Dân số khi đó với công nghệ tiện nghi hiện đại đã bắt đầu sinh sôi phát triển tràn lan
khắp quả đất, con người ỷ lại nhiều vào máy móc và trở nên ngu muội, thiên nhiên dần bị
tàn phá nặng nề. Trải qua nhiều ngàn năm do không được chú trọng việc nghiên cứu tu tập
nội tâm nên hệ thống khoa học tâm linh trước đây dần bị thất lạc mai một và được thay thế
dần bằng các tập tục tín ngưỡng mang đậm màu sắc mê tín dị đoan. Con người dần không
còn hiểu gì về bản chất thật sự của nền tâm linh học, các thần thông phép lạ đã dần trở
thành những chuyện cổ tích hoang đường trong xã hội con người thời bấy giờ.
Trở lại với nhóm KP37 vào giai đoạn cuối thời kỳ Chaos Age, sau khi khai thác triệt
để các nguồn tài nguyên quý hiếm trên Sao Hỏa và làm cho tinh cầu này trở thành một
hành tinh chết, trước khi âm thầm bỏ đi họ đã xóa hết mọi dấu vết liên quan nhằm che mắt
khối AGUN, vì vậy khối AGUN chỉ nghi ngờ chứ không có bằng chứng. Một thời gian
dài tiếp theo sau khi người Summerian dời khỏi Trái Đất, vào thời kỳ cực thịnh của nền
74
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

văn minh Golden Age, nhóm KP37 đã hướng sự chú ý tới Trái Đất. Lợi dụng sự thiếu hụt
về kiến thức tâm linh của nhân loại khi đó, chủng người Greys đã lấp đầy khoảng trống
này bằng cách dựng lên một hệ thống tà giáo là Vandes nhằm thiết lập quyền kiểm soát
toàn bộ loài người một cách âm thầm trong bóng tối. Giới tu sỹ đứng đầu Vandes được
chủng Greys hỗ trợ không những cả về tài chính mà còn được dạy phát triển một số năng
lực siêu nhiên để dễ dàng thu hút tín đồ. Các giáo sỹ tạo ra một số phép lạ và làm cho số
tín đồ nhanh chóng được phát triển lớn mạnh và dần chiếm được cảm tình của 1/4 dân số
thế giới khi đó. Đồng thời nhóm giáo sỹ này cũng rao giảng nhiều loại tư tưởng tà kiến sai
lầm về vũ trụ quan như: có một ông thần tối cao đã tạo ra vũ trụ vạn vật và ông ta luôn là
tất cả, ông ta toàn năng, không gì có trước ông ta… và lồng ghép một số tập tục mê tín
như cấm ăn thịt dê, cấm làm việc buổi tối đầu tuần… mục đích để làm đầu óc con người
bị mê muội đơn giản hóa vì phải luôn bận rộn trong những hành động vô nghĩa nhảm nhí,
họ muốn loài người vĩnh viễn trở thành những con cừu ngoan ngoãn khờ khạo dễ bảo.
Trong quá trình thu phục tín đồ khắp nơi trên Trái Đất, tổ chức tà giáo Vandes cũng đồng
thời luôn tìm mọi cách thôn tính vào tận sâu bên trong bộ máy nhà nước của các quốc gia
mà hệ tôn giáo Vandes đã bám rễ được vào sâu trong quần chúng.
Cảm thấy hệ thống tà giáo Vandes do chủng người Greys dựng nên có nguy cơ kiểm
soát được toàn bộ Trái Đất, chủng loài Kondroskans khi đó cũng không chịu ngồi yên, họ
cũng muốn có ảnh hưởng để cân bằng quyền lợi trên Trái Đất. Nhóm người Kondroskans
phụ trách khu Thái Dương hệ đã hậu thuẫn dựng lên một vị giáo chủ tên Mucara, ông này
sáng lập ra hệ phái tà giáo mới với tên gọi Kunsan (hệ phái này ra đời sau hệ Vandes 200
năm) với những lý thuyết gần giống với hệ Vandes, nhưng hệ thống này cho rằng đấng tạo
hóa là năng lượng vô hình, ông tà toàn năng bao trùm vũ trụ và sản sinh ra tất cả...
Hệ Kunsan chủ trương dùng bạo lực để phát triển tôn giáo, mới đầu họ đến với người
dân các quốc gia trong tâm thái hòa bình và tự do tín ngưỡng nhưng sau khi đã thu phục
được một số đông tín đồ thì họ bắt đầu dùng bạo lực và khủng bố để chính trị hóa tín
ngưỡng nhằm mở rộng tầm kiểm soát của mình. Họ ép buộc người dân ở các quốc gia họ
kiểm soát phải thờ phụng theo các nghi lễ mê tín dị đoan như: phải lễ lạy hướng về mặt
trăng vào 7 giờ tối, cấm ăn thịt linh dương… cũng chỉ để người dân bị mụ mị đầu óc, họ
bắt người dân phải đóng các khoản tiền thuế tín ngưỡng để ủng hộ giáo chủ, điều đó là bắt
buộc và được ghi cụ thể trong bộ luật của hệ phái Kunsan, với những khoản tài chính lớn
lấy từ tín đồ họ tiếp tục dùng nó để nuôi các cuộc chiến tranh mở rộng đất thánh Kunsan.
Hai chủng người Greys và Kondroskans tuy là đồng minh lâu đời ở tầm vĩ mô bên
ngoài vũ trụ xong bản thân hai loài này vẫn luôn âm thầm tồn tại sự cạnh tranh quyền lợi
trên mọi cấp độ thuộc địa. Hành tinh nào mà chủng Greys có sự thiết lập thuộc địa thì nơi
đó chủng tộc Kondroskans cũng phải tìm mọi cách có được và Trái Đất cũng không ngoại
lệ. Thông qua việc xây dựng hai hệ thống tôn giáo lớn khi đó, họ đã âm thầm chạy đua
giành quyền kiểm soát và triệt để khai thác tài nguyên hiếm trên trái đất.

75
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Việc các tôn giáo tà đạo mê tín có thể phát triển thịnh hành như những khối ung thư
của các nền văn minh (dù có hoặc không có sự hậu thuẫn của các chủng tộc ngoài hành
tinh) đều là kết quả hệ lụy khi một chủng loài không biết cách tu tập phát triển khoa học
tâm linh tương đương đồng thời song song hài hòa với nền khoa học vật lý. Các tôn giáo
mê tín tà đạo thường dễ hình thành vào 3 thời điểm: thủa ban sơ của các nền văn minh lạc
hậu, hoặc sau quá trình thoái trào của nền khoa học tâm linh hoặc hệ lụy của sự phát triển
khoa học vật lý một cách mù quáng thái quá (dựa trên nền tảng duy vật biện chứng). Sự
mất cân bằng lớn giữa 2 hệ thống khoa học này luôn là nguyên nhân chính làm cho nền
văn minh của một chủng loài không thể tiến hóa lên đẳng cấp cao hơn để có thể hòa nhập
với cộng đồng sự sống liên ngân hà, họ sẽ bị suy tàn và phải chập chững những bước đi
chậm chạp vất vả để xây dựng lại từ đầu một nền văn minh mới sau mỗi lần sụp đổ.
Vì số lượng nhân sự của nhóm KP37 quản lý hệ mặt trời có giới hạn nên họ buộc phải
chi phối Trái Đất trong bóng tối, họ cũng không thể công khai kiểm soát Trái Đất vì sẽ
vấp phải sự phản đối của khối AGUN khi đó đã siết chặt hơn tầm ảnh hưởng lên hệ mặt
trời sau khi biết Sao Hỏa đã bị hư hỏng nặng, cũng như các hiệp ước hòa bình liên ngân hà
của SGG không cho phép sự thôn tính các chủng loài lạc hậu. Họ chỉ có thể sử dụng các
tay sai bản địa lúp dưới lớp vỏ bọc tín ngưỡng tà giáo như cách mà họ đã làm ở Sao Hỏa
nhưng kín đáo hơn nữa. Và cũng chính vì giới hạn về số lượng nhân sự nên nhóm KP37
cũng đã không thể kiểm soát hết được sự mẫu thuẫn lớn giữa hai hệ thống tôn giáo do họ
dựng lên (cũng đồng thời là mẫu thuẫn về lợi ích kinh tế). Những cái đầu nóng và ngu dốt
cộng cuống tín của những kẻ đứng đầu hai khối quân sự lớn khi đó là một hệ quả tất yếu
dẫn đến tai họa hủy diệt cho nền văn minh Golden Age.
Sự mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm trở thành cuộc chiến tranh nhiệt hạch của hai khối
quân sự lớn của hai nhóm quốc gia theo hai hệ phái tư tưởng khác nhau đã làm cho hệ sinh
thái của Trái Đất bị hủy hoại nghiêm trọng và thế giới đã bị rơi vào kỷ bằng hà (Ice Age)
suốt một thời gian dài. Đề phòng những người Summerian quay lại điều tra, những kẻ đầu
sỏ lãnh đạo 2 tôn giáo và các quan chức chóp bu của các quốc gia lớn biết đến sự tồn tại
của nhóm KP37 đều bị nhóm này thủ tiêu trước khi họ rời bỏ Trái Đất, và nhóm này xem
như không hề liên quan gì về các vấn đề thảm họa của Trái Đất. Phải nói thêm rằng cho dù
không có sự xuất hiện 2 hệ phái tà giáo thì nền văn minh Golden Age sớm muộn gì cũng
vẫn sẽ bị sụp đổ bởi chính sức nặng của nó khi mà loài người phát triển khoa học vật lý
một các mù quáng dựa trên xu hướng vô thần duy vật luận và bị rơi vào cái bẫy dân số.
Trở lại với giai đoạn Trái Đất thời Recon Age, lúc đó Morun sau khi chết đã tái sinh
thành Mahora - một cá thể thuộc chủng loài Mara Doomerian (một trong những chủng loài
tiến hóa cao cấp nhất trong khối KORUN, chủng tộc này thuộc một cấp độ trong nấc tiến
hóa cảnh giới Mara). Do có sẵn mức định lực cao trong nội tâm nên ông ta có thể nhớ
được nhiều tiền kiếp của mình, với kinh nghiệm tu hành các kiếp trước sẵn có đồng thời
kết hợp trình độ và phương tiện khoa học tâm linh siêu việt của thế giới Mara, ông ta đã
nhanh chóng tu hành phát huy được năng lực tâm linh vượt trội và trở thành người mạnh
76
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nhất trong xã hội Mara, và ông được bầu làm vua của toàn cõi Doomerian. Nhớ lại mối
thù kiếp trước, ông quyết định phối hợp với nhóm KP37 cùng tiến hành thực hiện kế
hoạch thôn tính Trái Đất một cách tinh vi nhằm qua mặt các hiệp ước của SGG.
Bằng cách dựng lên một nhóm quân ly khai tách biệt khỏi nhà nước Mara nhằm làm
bình phong che mắt khối AGUN khỏi mưu đồ thôn tính Trái Đất, thực chất lực lượng này
vẫn là thuộc hạ trung thành của Mahora. Vào khoảng thời gian 30 năm trước khi Trái Đất
chuẩn bị tiến hành các thủ tục gia nhập khối AGUN, nhóm phiến quân của Mahora phối
hợp với một số quân thuộc chủng người Greys và Kondroskans trong nhóm KP37 hình
thành đội phiến quân độc lập tên Kypton (vẫn do Mahora điều khiển bí mật nhưng trên
danh nghĩa là không liên quan gì đến khối KORUN cũng như Doomerian), sau đó họ đã
tập kết phần lớn quân đến sao Hỏa. Tại đây họ thiết lập căn cứ quân sự và sản xuất các
loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, đồng thời họ cử một nhóm nhỏ đến Trái Đất và âm thầm chi
phối giới lãnh đạo của hai quốc gia do con người điều hành là Mayan và Antec.
Lợi dụng nguồn lực của hai quốc gia này, Mahora gấp rút cho xây dựng quân đội và
khí tài quân sự trong các nhà xưởng bí mật dưới lòng đất, các nhà khoa học thì chế tạo các
loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, tên lửa, tàu ngầm, tàu bay… và một căn cứ trung tâm đầu
não bí mật lớn nằm ở đáy biển Becmudar. Không một quốc gia nào trên thế giới khi đó
biết đến sự chi phối 2 quốc gia Mayan, Antec của nhóm Kypton, và mọi chuyện cứ diễn ra
trong thầm lặng cho đến thời điểm liên hiệp các quốc gia trên Trái Đất cử các thành viên
được chọn vào bộ máy lãnh đạo thế giới đi gặp hội đồng JEUN.
Và đúng đến thời điểm phi thuyền chở các thành viên trong ban lãnh đạo Trái Đất trên
đường đi gặp hội đồng JEUN, khi bay ngang qua Sao Hỏa thì bị súng đại trường Larzat
của nhóm Kypton bắn hạ. Cùng lúc đó 2 quốc gia Mayan và Antec cũng bất ngờ tiến hành
chiến tranh thế giới và phóng hàng loạt tên lửa vào các quốc gia khác, đồng thời các tên
lửa hành trình từ ngoài không gian đã được nhóm Kypton khóa sẵn mục tiêu vào các thành
phố lớn trên Trái Đất cũng ngay lập tức đồng loạt được kích hoạt, các vệ tinh ngoài không
gian của Trái Đất trước đó ít phút cũng đều bị vô hiệu hóa để ngăn cản tin binh biến được
truyền đến khối AGUN. Các vũ khí hủy diệt được triển khai nhanh chóng và chính xác,
với sự tấn công chớp nhoáng gần như cùng một lúc nên mọi quốc gia khi đó đều không
kịp trở tay và các nhà nước tiên tiến trên thế giới khi đó đều bị xóa sổ. Mayan và Antec
sau đó cũng bị chính những tên lửa ngoài không gian của nhóm Kypton tấn công dẫn đến
sụp đổ và nhóm Kypton dàn dựng như một vụ mâu thuẫn nội bộ giữa hai quốc gia này.
Chỉ có một phần của nhà nước Atlantic là kịp thời di chuyển xuống biển sâu để lánh
nạn nên thoát được tai họa nhưng đồng thời họ cũng mất liên lạc với bên ngoài, các kinh
đô và các thành phố lớn của mọi quốc gia trên bề mặt Trái Đất đều bị vũ khí hủy diệt phá
hủy hoàn toàn (ngày nay chỉ có các tàn tích cổ bằng đá bền vững là còn sót lại, những
người Alantic còn lại vẫn tiếp tục bị nhóm Kypton truy sát trong nhiều năm). Người dân
tại các vùng quê của mọi quốc gia thì ít bị ảnh hưởng của chiến tranh hơn vì nhóm phiến

77
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

quân Kypton biết rằng họ vô hại khi không biết chuyện gì đang thực sự diễn ra và họ sẽ dễ
dàng bị kiểm soát về sau, vậy là nền văn minh tái thiết trên Trái Đất đã đến hồi kết thúc.
Ngay sau cuộc chiến tranh chớp nhoáng, chủ lực của phiến quân Kypton trên sao Hỏa
bắt đầu đổ bộ xuống Trái Đất và tiến hành cuộc đại tẩy não, họ bắt các thành viên còn sót
lại của bộ máy nhà nước các quốc gia cũ và cấy vào đầu họ những con chíp do người
Greys chế tạo. Qua đó họ có thể điều khiển được tâm trí con người thông qua cách truyền
đạt các luồng ngoại tư tưởng, nhờ vậy các mệnh lệnh được cài vào bên trong vô thức của
con người mà ngay cả vật chủ cũng không hề hay biết. Những người bị tẩy não trở thành
những nhà lãnh đạo mới của các quốc gia trước đây nhưng với cơ chế nhà nước hoàn toàn
theo kiểu phong kiến đơn thuần và lạc hậu. Các nhà nước con rối này đều đổ hết trách
nhiệm thảm họa chiến tranh lên những kẻ cầm quyền cũ của hai nước Mayan và Antec,
còn lãnh đạo mới của 2 quốc gia này thì đổ lỗi cho hệ thống trí thông minh nhân tạo vận
hành tự động đã bị mất kiểm soát và tự tấn công con người, và họ lấy đó làm cái cớ và đưa
ra quan điểm rằng con người không nên lệ thuộc vào máy móc. Qua đó phong trào phá bỏ
hết máy móc lan ra trên diện rộng ở mọi quốc ra khác khi đó và tất cả đều là sự sắp xếp
của nhóm Kypton để điều chỉnh thế giới loài người đi vào xu thế mê muội lạc hậu.
Thế giới khi đó đã bị thụt lùi một đoạn khá xa về văn minh tri thức cũng như nền khoa
học tâm linh. Các nhà nước mới chỉ còn là phong kiến thuần túy và lạc hậu vì nhóm
Kypton đã hủy hết toàn bộ mọi hệ thống công trình khoa học vật lý đã có bao gồm nhà
máy, công xưởng, các tài liệu khoa học… và Trái Đất bắt đầu bước sang giai đoạn lịch sử
của nền văn minh đương đại và đây là thời điểm 25.000 năm trước công nguyên.
Sau khi hoàn tất việc xây dựng các nhà nước con rối, toàn bộ nhóm phiến quân Kypton
cũng nhanh chóng rời khỏi Trái Đất theo lệnh của Mahora để tránh việc người Omegan
(một trong những thành viên của Khối AGUN chịu trách nhiệm giám sát các hành tinh
đang trong giai đoạn chuyển tiếp gia nhập AGUN) được phái đến để điều tra về nguyên
nhân của cuộc nội chiến.
Nhóm Kypton chỉ giữ lại một số ít quân tại căn cứ mật Becmudar để âm thầm điều
hành thế giới trong bóng tối, càng về sau số lượng nhân sự tại đây càng giảm dần. Đồng
thời việc cấy chíp vào não bộ con người quá tinh vi nên những người Omegan trong
nhiệm vụ đến điều tra nguyên nhân của xung đột cũng không thể nhận ra điều gì bất
thường và họ chỉ có thể kết luận Trái Đất lại một lần nữa bị rơi vào một cuộc nội chiến phi
nghĩa và không thể gia nhập AGUN được nữa, họ đã bỏ đi trong sự thất vọng lớn lao.
Chủ lực của quân Kypton sau đó đã tiếp tục đi thôn tính các hành tinh lạc hậu khác
theo sự chỉ đạo của Mahora. Do số lượng nhân lực có hạn nên đi tới đâu nhóm phiến quân
này cũng tạo ra các nhóm tay sai bản địa là những nhà nước phong kiến lạc hậu hoặc bọn
giáo sỹ tín ngưỡng man rợ để quản lý hành tinh đó, cái kết của các hành tinh bị chi phối
đó là sẽ dần trở thành những tinh cầu chết như sao Hỏa hiện nay.
Có thể nói rằng khi xây dựng lực lượng phiến quân Kypton, Mahora cũng đã nung nấu
tham vọng trở thành chúa tể bóng tối chi phối toàn bộ dải ngân hà, nếu phát triển lực
78
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

lượng đủ mạnh thì hắn hy vọng rằng sẽ thực hiện một cuộc chiến tranh toàn diện để nhằm
mục đích kiểm soát toàn bộ Nam Thiệm Châu. Nhưng tham vọng của hắn chắc chắn sẽ chỉ
là những ảo tưởng ngông cuồng viển vông vì quy luật nhân quả không cho phép hắn đạt
được điều đó. Dòng chảy nhân quả sẽ làm cho sự mâu thuẫn nội bộ trong Kypton ngày
một lớn dần, và do hắn làm quá nhiều điều sai trái ác độc đi ngược với quy luật thiên
nhiên với tần suất quá cao nên số phước quá khứ của hắn dù lớn cỡ nào cũng sẽ bị cháy
hết sạch và hắn sẽ phải trả giá rất đắt trong nhiều triệu kiếp về sau.

CÂU TRUYỆN THỨ BẢY


ĐỊNH KIẾN CỦA LOÀI ẾCH
Mô hình cái giếng nước cũ của ngôi làng Kasun:

Mặt đất Miệng giếng

Lòng đất Lòng đất

Khoảng không gian dưới giếng

Trái đất sau khi thời đại tái thiết kết thúc là một thế giới rất lạc hậu, các quốc gia
phong kiến thì cổ hủ và mê muội, họ luôn tiến hành các cuộc chiến tranh vô nghĩa qua
nhiều triều đại hợp rồi tan, mạnh được yếu thua, nhiều biến cố lịch sử thăng trầm đã xảy ra.
Trải qua khoảng 3.000 năm sau cuộc chiến tranh kết thúc thời đại Recon Age, cái giếng cũ
ngôi làng Kasun bây giờ chỉ còn lại vài viên gạch nhô lên nằm trơ chọi ở một khoảng đất
trống ngoài bìa khu rừng Uranda, lớp địa chất phía dưới cái giếng do qua nhiều năm tháng
biến động đã bị sụp lún tạo thành một cái hang động lớn phía dưới, khoảng vòm không
gian của hang động này luôn ẩm ướt tối tăm có tạo hình như một cái bình khổng lồ méo
mó.
Qua nhiều mùa mưa làm cho phần đáy của cái hang rộng lớn đó có nhiều vũng nước
đọng, trở thành môi trường sống lý tưởng cho các loài sâu bọ phát triển. Ở ngay giữa khu
đất dưới miệng giếng vẫn có cái xô múc nước đã không còn dây kéo do bị mục rữa từ lâu,

79
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nó đã bị rơi xuống kể từ khi Morun biến ngôi làng thành rừng rậm và trong cái xô này
thường luôn có nước.
Có năm con ếch nhỏ (hai con đực và ba con cái) ở con suối gần đó đi lạc và bị rơi
xuống ngay cái xô có nước dưới giếng nên không bị chết. Do môi trường sống thuận lợi
chúng lớn lên nhanh chóng và sinh ra các trứng ếch trong các vũng nước. Một trong hai
con ếch đực khỏe nhất tên Polo đã giết con ếch đực còn lại để độc chiếm hết các ếch cái,
từ đó nó làm vua của loài ếch với 3 bà vợ và một đàn ếch con lên đến cả vài trăm con.
Ánh sáng mặt trời chỉ chiếu duy nhất một lần xuống đáy giếng vào giữa trưa ngay khu
vực xung quanh cái xô, và đàn ếch coi đó là nơi linh thiêng để tụ tập và cầu nguyện. Từ
dưới đáy giếng nhìn lên thì miệng giếng là một cái vòng tròn khi sáng khi tối luân phiên
và ánh mặt trời rọi xuống 1 lần mỗi ngày, lúc có mưa rơi, khi thì có vài cái lá rớt xuống…
Vua ếch Polo thường hay kể cho đàn con nghe những câu truyện về nguồn gốc của
chúng, hắn diễn tả cái miệng giếng như là một vị chúa trời, tên ngài là Oppa, ngài hình
tròn và ngài tạo ra tất cả, ngài tạo ra ánh sáng và bóng tối, ngài tạo nước và mọi thứ ngài
muốn và mọi thứ đều là tạo vật của ngài. Tất cả đàn ếch đều tin theo và sùng bái cái miệng
giếng như một đấng tạo hóa theo đúng như lời kể của cha chúng, mỗi lần đến giờ ánh sáng
chiếu xuống khoảng đất dưới miệng giếng thì khi đó được coi là giờ thiêng của thế giới
ếch, chúng ộp oạp cầu nguyện cho đến khi hết nắng. Mỗi khi mưa xuống chúng cũng như
vậy và chúng đều đặt các tên gọi riêng cho những khoảng khắc đó như là lễ ánh sáng, lễ
nước… Hoặc mỗi khi có vật gì như một trái bàng, lá cây, hạt dẻ… rơi xuống thì chúng
đều coi đó là tạo vật của Oppa và chúng coi đó là vật thiêng và tranh nhau giành lấy.
Một trong 3 con ếch cái sau khi sinh lứa trứng thứ hai cũng bị giết chết vì chống đối
vua ếch, cả hai vợ ếch còn lại đều rất sợ hắn và chỉ biết ngoan ngoãi vâng phục dù biết hắn
đang bịp bợm đàn con. Vua ếch nói với các con rằng đấng Oppa đã tạo ra hắn ta và ba bà
vợ từ ba đốt ngón tay của hắn (thực chất 3 đốt ngón tay của hắn đã bị gãy từ khi hắn bị rơi
xuống giếng lúc nhỏ), hắn nói dối rằng hắn có thể nghe được tiếng nói của Người bên tai,
hắn là đại diện duy nhất của Người trong cõi này, và những điều bịa đặt của hắn cứ thế
phát triển dần thành cả một câu truyện huyền thoại lớn.
Từ đó, vua ếch cai trị toàn bộ thế giới loài ếch trong sự vâng phục tuyệt đối, những con
ếch phải tôn tờ, cung phụng và chiều chuộng cho hắn tuyệt đối, bắt sâu bọ cho hắn chễm
chệ ngồi một chỗ ăn uống hưởng lạc, hai bà vợ khi già cả cũng dần bị hắn bỏ đói đến chết
và chẳng một con ếch nào đoái hoài đến.
Các thế hệ ếch cái trưởng thành tiếp theo cũng vâng phục và mua vui cho hắn, có thể
đó là con gái của hắn hoặc con của thằng bạn thân xấu số của hắn, hắn cũng chẳng quan
tâm. Sau này vua ếch Polo lập ra một nhóm 5 con ếch thái tử để làm tiếng nói cho hắn vì
hắn đã quá già yếu không còn kêu to được nữa, chỉ có thể khò khè nói nhỏ vào tai 5 con
ếch thái tử. Dần dần nhóm ếch này trở thành những kẻ có quyền lực lớn chỉ sau Polo, có
nhiều cái lệnh mà nhóm này tự ý đưa ra mà chẳng phải do vua ếch nói.

80
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Khi Polo chết nhóm ếch thái tử tự bịa đặt rằng đã được đấng Oppa truyền thừa tiếng
nói tại thế gian và là những người kế tục chân truyền của vua ếch Polo. Vậy là tất cả loài
ếch dưới giếng đều tin đó là thật và chúng tôn thờ 5 ông chủ mới như đã tôn thờ Polo vậy,
chúng hết lời ca tụng chủ và ộp oạp suốt ngày, 5 con ếch giáo chủ tiếp tục hưởng lạc như
cha chúng. Trải qua nhiều thế hệ, hội 5 con ếch giáo chủ luôn được tái lập mới sau khi 5
con ếch thế hệ trước đã chết, và nhóm này luôn là tiếng nói chân lý ngu ngốc ngớ ngẩn
của loài ếch dưới giếng.
Vào mùa hè năm đó khô hạn, trời chậm mưa làm mực nước đọng dưới giếng trở lên ít
ỏi, đàn ếch thiếu nước và với số lượng đông đảo cũng làm cho thức ăn trở lên khan hiếm,
chúng bắt đầu la ó và yêu cầu 5 con ếch giáo chủ phải xin nước từ đấng Oppa. Sự thiếu
hụt thức ăn cùng với cách giải quyết vấn đề không đồng nhất giữa 5 con ếch là tiền đề tạo
mâu thuẫn giữa chúng và chúng bắt đầu đấu đá nhau.
Hai trong số 5 con yêu cầu phải ăn thịt các con nòng nọc và trứng để sống sót qua một
thời gian, ba con còn lại không đồng ý và đã giết 1 trong hai con ếch kia để răn đe, con
ếch còn lại tên Roto xin tha chết và mong được phục tùng 3 con ếch như ông chủ nhưng
thực chất trong lòng nó rất ấm ức và thù hận. Sự mâu thuẫn trong cộng đồng loài ếch cũng
bắt đầu nảy sinh khi một số con ếch muốn ăn thịt lòng lọc còn đa số thì không tán thành.
Đúng vào lúc đàn ếch đang la ó tranh luận thì đột nhiên một con cóc tía trưởng thành
đã vô tình bị rớt xuống giếng vào ngay cái xô nước gây xôn xao loài ếch, con cóc hơi
choáng song nó dần trấn tĩnh lại và biết rằng mình đang bị rơi vào một cái hố đầy ếch. Ba
con ếch chúa thấy vậy liền kêu con cóc là quỷ dữ hiện hình vì nó xấu xí chẳng hề giống
như loài ếch, chúng ra lệnh cho đàn ếch lính xông vào tấn công tiêu diệt con cóc.
Một vài con ếch xông lên tấn công đầu tiên đã bị chết do trúng độc của con cóc, trong
khi những con ếch lính khác đã khựng lại thì con ếch Roto thấy đây là cơ hội tốt để chống
lại 3 con ếch, nó bất ngờ lên tiếng: “Ông ta không phải quỷ dữ, ông ta là xứ giả của Oppa,
do người phái xuống, ông ta là tạo vật mới do Oppa tạo ra, tất cả chúng ta đã đều đã thấy
như vậy”. Đàn ếch xôn xao và một số con bắt đầu tán đồng quan điểm đó, trong khi con
cóc thì thầm phì cười vì sự ngu ngốc của lũ ếch, Roto lại nói tiếp: “hãy cho ông ta sống
giữa chúng ta, hãy để ông ta nói lời thông thái, lời của Oppa”.
Con cóc thấy vậy cũng nói phụ họa thêm: “Ta là sứ giả của Oppa, Oppa là quang thần,
khi thần thức thì tràn đầy ánh sáng và khi thần ngủ thì mọi thứ đều tối tăm, ta biết rõ ý
ngài, ta sẽ cho các ngươi biết về ý ngài qua những màu nhiệm mà ta chứng cho các ngươi
thấy và xem tậm mắt”. Vì con cóc sống và lớn lên ở trên mặt đất, nó đã đi qua nhiều nơi từ
rừng đến sông suối nên nó biết được nhiều thứ, nó biết khi nào trời mưa và nó biết trời
cũng sắp mưa vào ngày mai. Con cóc khi đó có nghe thấy một vài lời phàn nàn về việc
hạn hán trong đám đông nên và nó đã nảy ra một mưu mẹo để giải tỏa cơn đói của nó, nó
nói: “Ta là Mutah, tà là sứ giả của quang thần và ta biết cách xin người ban nước cho cõi
này, ban sự sống cho các ngươi, các ngươi hãy cúng cho Oppa thông qua ta 20 con nòng
lọc và các ngươi sẽ được người ban nước vào ngày mai”. Đàn ếch đáp ứng đúng yêu cầu
81
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

của con cóc, nó đánh chén một bữa no nê và đúng là ngày hôm sau đã có mưa như lời
Mutah nói. Mùa mưa đến và thế giới loài ếch bình thường trở lại, loài ếch khi đó chia làm
2 phe, một phe theo con cóc Mutah và ếch Roto (loài ếch xem cóc Mutah là một con ếch
kiểu mới do quang thần sáng tạo), nửa còn lại vẫn trung thành với 3 con ếch giáo chủ.
Từ đó con cóc Mutah được xem như giáo chủ mới của 1 nửa thế giới ếch và con ếch
Roto là cố vấn cao cấp của hắn, Mutah và Roto được các tín đồ cung phụng mọi thứ từ
thức ăn cho đến những con ếch cái. Nhờ kiến thức uyên bác về thế giới trên mặt đất,
Mutah kể cho các tín đồ nghe về một thiên đường, nơi có nhiều côn trùng bay lượn tha hồ
ăn không hết, các vũng nước thì nhiều hơn cả trăm thế giới, ánh sáng thì bao la và nước
thì uống mãi không hết, ếch nào được lên đó cũng sẽ được rất nhiều ếch cái xinh tươi làm
vợ mà không cần phải tranh giành như ở đây, nhưng muốn lên được đó thì “phải sống theo
ý ngài và khi chết sẽ được ngài đón về nơi nước ngài và Mutah chính là đại diện cho ngài
tại đây, Mutah chỉ cho các chúng anh em cùng sống theo gương quang thần Oppa, hãy làm
theo Mutah và được đón chào nơi trên”.
Mutah dựa vào kiến thức của hắn thu hút ngày một đông tín đồ và khi quyền lực con
cóc lớn dần, nó bắt đầu bộc lộ sự cao ngạo ngông cuồng ác độc và nó nghĩ ra đủ mọi trò
vui bệnh hoạn để thỏa mãn thú tính bản thân, nó không những sai lính bắt cóc lòng lọc của
những con ếch phe đối lập để ăn mà còn bắt cả những con ếch trưởng thành để ăn nội tạng,
con ếch Roto trong một lần dám cãi lời Mutah cũng bị hắn moi tim ăn.
Vì con cóc trong khi còn ở trên mặt đất đã từng nghe qua đàn khỉ ở rừng Uranda nói
chuyện về việc ăn thịt thú vật thì ăn cái gì bổ cái nấy và nếu được ăn quả tim ngay khi nó
đang còn đang đập là bổ nhất, với tà kiến ngu dốt đó nên con cóc rất thích ăn tim vì nghĩ
rằng làm vậy hắn sẽ được trường sinh bất tử.
Thỉnh thoảng có 1 con chim gõ kiến Neru hay bay xuống bắt sâu bọ và đậu ở những
cái rễ cây mọc chìa ra phía thành hang, con chim này hay kể cho một số con ếch nghe về
một thế giới trên mặt đất rộng lớn và đẹp như thế nào, nó kể rằng chẳng có quang thần nào
mà đây chẳng qua đó chỉ là miệng của một cái giếng cũ.
Con chim kể mọi sự thật diễn ra trên đó như thế nào nhưng đa số loài ếch nghe xong
đều cho là con chim đang khoác lác và khuyên con chim không lên phỉ bang thần linh của
chúng nếu không sẽ bị mang tội, chỉ có một con ếch Rica dám nghĩ rằng những gì con
chim nói có thể đúng. Con cóc rất ghét con chim vì nó đã nói ra sự thật và bóc mẽ sự bịp
bợm của con cóc.
Vì vậy con cóc đã bày mưu giết chết con chim trong một lần nó bay xuống giếng kiếm
ăn, từ đó con cóc cấm các tín đồ không được nghe những câu chuyện bịa đặt của loài chim,
nếu gặp những con chim thì phải tìm cách giết ngay vì đó là hiện thân của quỷ dữ và phía
3 con ếch giáo chủ cũng đồng thuận như vậy.
Kể từ sau khi con chim Neru chết thì con ếch Rica luôn không ngừng suy nghĩ về
những gì con chim nói, và nó luôn âm thầm hoài nghi những điều mà con cóc hay 3 chúa

82
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

ếch đã rao giảng, nó luôn mong một ngày nào đó sẽ có thể tìm được cách lên trên đó để
tìm hiểu sự thật.
Vì lo sợ bất cứ con vật nào từ trên miệng giếng vô tình bị rơi xuống đều có khả năng
trở thành vua mới của loài ếch theo cái cách nhìn định kiến và mê tín của loài ếch, như
vậy sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Mutah. Vì vậy con cóc đã cho lật úp cái xô lại để đảm
bảo không có một con vật nào rơi từ trên miệng giếng xuống có thể sống sót được.
Chính những hành động đó của Mutah lại càng làm cho con ếch Rica nghi ngờ hơn, nó
có tư tưởng không theo phe nào trong 2 phe vì nó đã dần tin lời con chim, nó là con ếch
luôn mơ mộng và hay thắc mắc hoài nghi mọi thứ, nó luôn tự hỏi về cái thế giới phía trên
vòng tròn kia là như thế nào, có đúng như lời cô chim Neru nói hay không, nó thường
trầm ngâm nhìn vòng tròn trong nhiều giờ, mọi hiện tượng xảy ra trên vòng tròn cũng đều
làm nó tò mò thích thú.
Trong khi 3 con ếch giáo chủ luôn tỏ vẻ khó chịu và luôn chê bai bới móc con cóc,
chúng nói Mutah là kẻ bịp bợm và rao giảng những điều mê tín dị giáo ngoại đạo, thì
Mutah luôn bỏ ngoài tai vì hắn cho rằng đó chỉ là những lời rên rỉ ủy mị của bè lũ thua
cuộc. Cảm thấy quyền lợi bị mất dần nên nhóm 3 con ếch quyết định lập một âm mưu ám
sát con cóc, nhưng vụ ám sát không thành và bị bại lộ.
Sau biến cố đó, con cóc Mutah quyết định trả thù bằng cách tạo ra một cuộc chiến sinh
tử để quyết tiêu diệt hết băng nhóm 3 con ếch, tiêu diệt hết những mầm mống chống đối
nó, và một trận chiến trong thế giới loài ếch đã xảy ra, hai đội quân ếch sáp vào nhau
chiến đấu một trận sống còn cho niềm tin ngu ngốc của chúng.
Trong lúc hai bên đang giao tranh kịch liệt thì vòm giếng bắt đầu xuất hiện những
tiếng kêu răng rắc, toàn bộ lớp đất kiến tạo phần mái vòm của giếng dần bị nứt vỡ và
chuẩn bị đổ sập xuống, tất cả lũ ếch hốt hoảng và kêu trời sập, còn một số con khác thì
cho rằng tận thế đã đến rồi, và đủ thứ tiếng kêu cầu nguyện ộp oạp vang lên inh ỏi nhưng
tất cả đều không thoát được số chết đã định, sau tiếng ầm lớn vang lên thì toàn bộ mái
vòm đã bị đổ sập xuống.
Chỉ có con ếch Rica do trốn tránh cuộc chiến mà chui vào cái xô bị úp ngay phần dưới
miệng giếng thì may mắn được thoát chết. Sau vụ sụt đất, vùng không gian xung quanh
giếng bị hõm xuống tạo thành một cái hố trũng lớn và cái xô ở giữa như tâm điểm của cái
hố trũng, con ếch Rica chui ra khỏi vết nứt của cái xô và chật vật nhảy lên khỏi miệng hố
với sự ngạc nhiên xen lẫn ngỡ ngàng khi nhìn thấy điều xung quanh nó và đó là giây phút
nó biết cô chim Neru đã hoàn toàn nói sự thật.

83
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

CÂU TRUYỆN THỨ TÁM


VỊ MINH SƯ VÀ BẬC HIỀN TRIẾT
Trở lại thế giới loài người khoảng hơn 3.000 năm sau cuộc chiến tranh thế giới kết
thúc thời đại Recon Age (khoảng 22.000 năm trước công nguyên), cuộc sống của con
người dần trở lại bình thường an ổn, do môi trường sống đã thay đổi và xã hội lạc hậu hơn
nên tuổi thọ của con người lúc này trung bình chỉ còn khoảng 180 tuổi. Không còn ai nhắc
tới cuộc chiến nữa và nó dần đi vào quên lãng, sách sử ở các quốc gia cũng chỉ viết vắn tắt
về các thời đại trước một cách mơ hồ, cũng như nguyên nhân cuộc chiến chỉ là sự ngông
cuồng của hai vương quốc Mayan, Antec và họ đã bị trả giá.
Mọi điều được ghi trong sử thi chỉ diễn tả cuộc chiến tranh với những ngôn từ rất lạc
hậu mang đậm màu sắc mê tín, ngay cả trong thực tế các quốc gia cũng biết rất ít về sự
thật của cuộc chiến vì mọi tài liệu lịch sử liên quan đến nền văn minh trước đều bị nhóm
Kypton tiêu hủy hoặc xuyên tạc. Lâu dần những câu truyện của các nhà nước trước chiến
tranh đã trở thành những câu truyện thần thoại, bị làm sai lệch và bóp méo theo chủ ý của
nhóm Kypton, thời đại quá khứ được diễn tả như kiểu các vị thần tạo lập thế giới… và qua
đó các loại tôn giáo đa thần đã dần được hình thành ở nhiều quốc gia.
Các quốc gia thì mù tịt về khoa học vật lý hoặc nếu có thì cũng rất hạn chế, các vị vua
chỉ chăm lo chiến tranh mở rộng bờ cõi, chiến tranh liên miên. Do năng lực quản trị lạc
hậu và yếu kém nên những quốc gia lớn trước đây đều dần bị phân tách ra thành nhiều
quốc gia nhỏ nằm rải rác trên khắp thế giới. Một số quốc gia vẫn còn chút ít tri thức về
tâm linh do các tài liệu cổ vẫn còn sót lại đâu đó trong hang động hay di tích cổ nhưng
không còn mang tính hệ thống và đầy đủ như trước nữa.
Có thể gọi thời đại của con người Trái Đất sau cuộc chiến là nền văn minh đương đại
hay cũng có thể gọi là một nền văn minh con rối, vì thật sự con người trong cái thế giới
này giống như những con cá đang bơi trong cái bể trái đất mà không biết mình đang ở
trong bể cá, họ cứ nghĩ mình là trung tâm của vũ trụ, trời tròn đất vuông, mơ mơ màng
màng. Tầm mắt cũng như tầm hiểu biết của cả nhân loại đều bị che mờ bởi những mớ lý
thuyết hoang đường bịp bợm về vũ trụ do nhóm Kypton cố ý tạo ra, những kẻ lãnh đạo
đứng đầu các cường quốc lớn thì bị nhóm Kypton âm thầm chi phối mà bản thâm họ cũng
không hề hay biết và họ luôn đưa ra những mệnh lệnh quyết sách thiếu trí tham lam vị kỷ.
Khi đó, tại vương quốc Valisa thuộc khu vực vùng Nam Ấn ngày nay, đây là một quốc
gia lớn với nền văn hóa đặc sắc và phát triển nhiều hệ phái triết học cũng như học thuật
khá tiến bộ thời bấy giờ. Nhiều trường đại học danh tiếng được xây dựng tại đây để phục
vụ việc dạy học cho con cái của giới hoàng thân quý tộc trong nước cũng như ở các quốc
gia khu vực lân cận, ở đây dạy đủ thứ về nghệ thuật lãnh đạo, quản trị quốc gia, toán học,
chiêm tinh, xây dựng, tướng số, triết học...
Tại một thị trấn nhỏ tên Pali cách ngọn núi Puliya không xa, có một vị học sỹ khoảng
chừng 60 tuổi tên Butan đang từ biệt gia đình để trở lại đại học Kasim tại kinh đô Valisa.

84
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Ông là chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy về triết học và chiêm tinh học, ông đang
trên đường từ quê nhà trở về kinh thành để dạy học. Thường thì ông hay đi cùng các đoàn
thương buôn lớn về kinh thành cho an toàn, nhưng do lần về thăm nhà ông ở lại lâu hơn
nên lỡ mất chuyến hành trình đi cùng đoàn thương buôn. Vì vậy ông buộc phải tự đi một
mình, ông ta cưỡi trên một con lừa với hành lý mang theo chỉ là một cái túi đựng sách,
một ít lương khô và chút tiền... Trên đường đi về kinh đô ông phải băng qua khu rừng
Uranda, vì trời tối và xung quanh không có nhà dân nên ông đành phải nghỉ lại trong khu
rừng. Ông đốt một đống lửa để sưởi ấm và không quên lấy sách ra đọc, trong khi ông đang
đọc sách thì một toán cướp trong khu rừng đi qua và bắt giữ ông, chúng đem ông về sào
huyệt gần đó và lục lọi hành lý nhưng chẳng có gì đáng giá.
Sau một hồi tra khảo, chúng biết ông là thầy giáo của kinh thành nên cho rằng gia đình
ông chắc hẳn phải giàu có, chúng cử một tên cướp đi vào thị trấn Pali để gặp gia đình ông
đòi tiền chuộc. Nhưng trên đường vào thị trấn tên này đã bị lính canh phòng thị trấn nhận
ra và truy bắt, trên đường trốn chạy hắn đã bị một mũi tên của một người lính phòng vệ
bắn chết. Nhóm cướp đợi mãi không thấy tên cướp cử đi quay về theo đúng hẹn, chúng
tiếp tục cho tên cướp thứ 2 vào thị trấn điều tra thì được biết là tên cướp kia đã bị quân
phòng giết. Sau khi tên cướp thứ 2 trở về báo cáo, nhóm cướp nghĩ gia đình Butan đã chỉ
điểm cho quân phòng và chúng quyết định xử tử ông ta để trả thù cho tên cướp đã chết.
Trong lúc chuẩn bị hành hình Butan thì có một vị ẩn sỹ khoảng chừng 150 tuổi tên là
Canda tu hành trên ngọn núi Puliya đang bay du hành ngang qua nhìn thấy, ông từ trên hư
không đáp xuống phóng hào quang làm bất động toàn bộ băng cướp và cứu Butan. Đám
cướp lần đầu tiên thấy một vị ẩn sỹ có thần thông kỳ lạ như vậy vô cùng sợ hãi, Butan thì
òa khóc vì vui mừng quỳ sụp xuống chân vị tu sỹ Canda vái lạy và cảm ơn ngái rối rít.
Canda khẽ cười rồi quay sang nhìn lũ cướp một cách nghiêm khắc trong khi đám cướp vẫn
không thể cử động được, vị tu sỹ Canda chỉ tay vào vài con giả can (chó rừng hoang) đang
theo dõi phía xa và nói với đám cướp:
“Đời người chỉ ngắn ngủi và vô thường như một giấc mộng, các ngươi sẽ còn nhiều
kiếp sống nữa sau khi chấm dứt kiếp sống này, nếu các ngươi không muốn nhiều kiếp về
sau sẽ trở thành những con giả can thấp kém kia, chúng chỉ biết chụp giật để nuôi sự sống,
ăn những thứ ôi thiu cơm thừa canh cặn để sống qua ngày và chết bờ chết bụi. Các ngươi
hãy tu tỉnh và đừng làm điều ác nữa, hãy làm những việc tốt lành cho mọi người mọi vật
để chuộc tội, để tích phước, kiệm phước và các ngươi sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn ở các
kiếp người tiếp theo. Bây giờ các ngươi hãy đi đi và hãy nhớ kỹ lời ta, luật nhân quả sẽ
theo các ngươi như hình với bóng, nếu bây giờ ta dẫn các ngươi đến quan phủ thì các
ngươi sẽ bị tử hình, nhưng ta sẽ thả các ngươi và ta sẽ không làm vậy nếu các ngươi lại
tiếp tục tái phạm, dù các ngươi có ở đâu và làm gì thì ta cũng vẫn biết hết. Nếu các ngươi
đủ khôn ngoan để muốn được trở thành những người như ta thì hãy tôn kính những bậc
đáng kính; làm mọi điều tốt lành cho con người và con vật mà không kể chút công nào, rời
xa các tà kiến, tham lam, sân hận, ngã mạn và ái dục, hãy kiên nhẫn thực hành xuyên suốt
85
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

những điều đó liên tục trong nhiều kiếp người thì các ngươi cũng sẽ có thành quả giống
như ta”, Canda thu lại thần thông và đám cướp vái lạy rồi vội vã bỏ chạy.
Sau khi nghe những lời giảng của vị tu sỹ Canda, Butan như chấn động trong tâm hồn,
ông như bừng tỉnh xen lẫn niềm hân hoan tột cùng và ông bước đến đảnh lễ ngài Canda 3
lạy sát đất, Butan nói:
“Con tên là Butan, con vốn là một triết gia nổi tiếng tại kinh thành vương quốc Valisa,
từ trước đến nay con vẫn luôn tự hào về những kiến thức mà con đã học được, con cho
rằng hiện thực là thứ ta cần phải nhận biết bằng các giác quan, chỉ có cái gì thấy biết được
thì cái đó mới là hiện thực và con đã cố gắng học hết mọi tri thức trên đời để hiểu biết sâu
sắc về hiện thực. Nhưng nay con thấy ngài với những phép lạ phi thường và con không
hiểu tại sao với cơ chế gì ngài lại làm được những điều như vậy vì ngài không có cánh
như loài chim, phải chăng ngài là vị thần linh từ trời xuống, vậy phải chăng thượng đế có
thật và ngài chính là hiện thân của ông ta”.
Canda mỉm cười nói:
“Này Butan, ta cũng chỉ là một con người như ông, nhưng ta đã trải qua vô số kiếp tu
hành theo chánh đạo lên mới đạt được trình độ như ngày hôm nay. Trong vũ trụ này quả
thực không có một vị thượng đế nào tạo ra tất cả đâu, mọi thứ đều là sự tự nhiên, tất cả là
hiện thực của sự tồn tại vô tận, vũ trụ là vô cùng và nó chẳng cần phải được tạo ra, nó đã
có sẵn như vậy và mãi mãi rồi. Cũng có những vị thần trời ở nhiều cõi giới khác nhau bên
ngoài vũ trụ bao la rộng lớn kia nhưng họ cũng chỉ là những chủng loài cao cấp tiến hóa
hơn con người. Họ so với con người sẽ giống như con người so với các loài vật nhỏ bé, họ
không tạo ra con người cũng như con người không tạo ra các loài vật vậy, mọi thứ đều do
nhân duyên trùng trùng mà khởi phát. Và ngươi cũng đừng chỉ có tin vào những gì mắt
thấy vì những gì nhìn thấy được cũng chỉ là một phần rất rất nhỏ của hiện thực mà thôi”.
Butan hoan hỷ thưa:
“Những kiến thức của ngài thật vi diệu thâm sâu làm con mở rộng được tầm mắt, con
là người luôn tìm cầu mọi chân lý của thế gian, con nghĩ tri thức là tài sản lớn nhất, con rất
muốn biết về các cõi giới mà ngài nói và làm thế nào để đến được đó, nay con xin nguyện
cả đời được đi theo làm thị giả cho ngài, được làm đệ tử của ngài, được sống trong pháp
và luật của ngài, cúi xin ngài rộng lượng tiếp nhận con”. Canda im lặng một lúc rồi nói:
“Này Butan, hãy tìm cầu chân lý xuất thế gian chứ đừng chỉ biết đến những tri thức của
thế gian vô thường này, hãy đi tìm sự giải thoát bên trong nội tâm chứ đừng đi tìm kiếm
những viễn cảnh ở bên ngoài, nay ta chấp thuận cho con làm đệ tử nhưng con phải hứa là
không được kể lại bất kỳ điều gì ta nói cho bất kỳ ai nếu con chưa có đệ tử của mình”.
Butan mừng rỡ cúi đầu vâng phục, Canda khẽ tay chạm vào đầu Butan thì toàn bộ tóc
và râu của Butan biến mất, đầu Butan bây giờ trọc nhẵn thín và trang phục của ông cũng
biến thành trang phục giống như vị tu sỹ Canda đang mặc. Canda dùng thần thông đưa cả
hai thầy trò bay về núi Puliya, có sẵn một cái hang rộng nằm ở lưng chừng núi, bên trong

86
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

có một ít đồ vật và một tọa cụ làm bằng một tảng đá lớn bằng phẳng phía trên có lá khô,
Canda nói Butan đi lấy nước ở suối cho vào ghè và kiếm một ít lá khô về để làm thêm một
chỗ ngồi thiền trong hang, cùng lúc đó ông dùng thần thông để bốc một tảng đá lớn ở bờ
suối gần đó bay vào hang để làm tọa cụ cho Butan ngồi thiền. Butan vâng lời và nói mình
sẽ đi săn một vài con thú rừng để hai thầy trò cùng ăn, Canda từ chối, ông nói:
“Này Butan, nếu con muốn sống trong pháp và luật của ta thì từ nay con không được
sát hại mạng sống của bất kỳ loài vật nào biết ăn và biết di chuyển, ngoài ra con phải giữ
thêm 4 giới nữa là không trộm cắp, không tà dâm, không nói sai sự thật và không nghiện
ngập, hãy nhớ kỹ 5 điều này vì nó là rất quan trọng trong con đường tu hành của con”.
Canda đưa cho Butan một viên đá hộ thân để thú dữ không ăn thịt khi vô tình gặp
Butan trong rừng. Sau khi Butan đi kiếm nước, lá cây khô và một ít trái cây về, Butan
dâng trái cây cho thầy Canda thì ông bị thầy quở:
“Con hãy ăn đi và hãy nhớ là từ nay người tu hành theo chánh pháp như chúng ta chỉ
được ăn 1 bữa duy nhất vào giữa trưa để chữa bệnh đói khát, ngoài ra không ăn thêm các
bữa khác, con đã lỡ hái trái rồi thì hãy ăn 1 bữa tối cuối cùng này đi và đừng tái phạm”.
Sau khi Butan ăn tối xong thì thầy Canda bắt đầu dạy Butan các phương pháp luyện
khí công và các lý thuyết về thiền định cơ bản, Butan chăm chú lắng nghe và một lúc sau
cả 2 thầy trò cùng ngồi thiền kiết già. Butan chỉ ngồi thiền được chừng 2 tiếng là phải xả
thiền vì chân đau tê nhức không chịu nổi, trong khi thầy Canda vẫn ngồi đó như một pho
tượng, toàn thân ngài phát ra 1 vầng hào quang thanh tinh nhẹ nhàng. Butan bất chợt cảm
thấy an lạc vô cùng và cúi lạy thầy mình 3 lạy rồi lui vào một góc hang ngủ đến sáng.
Kể từ đó ngày nào Butan cũng chăm chỉ tu hành, sau hơn sáu tháng thì việc ngồi thiền
của Butan cũng có nhiều tiến bộ, ngày nào Butan cũng đi lấy nước và trái cây rừng cho
thầy vào buổi trưa. Vào một buổi chiều hôm đó trong lúc Butan ngồi trầm ngâm suy tư,
thầy Canda gặng hỏi: “Con có điều chi phiền não mà tâm tư trở lên sao lãng như vậy?”.
Butan thưa: “Con đã xa gia đình hơn hơn sáu tháng nay và con cũng không có đến
kinh thành để làm việc, thường thì con hay gửi thư về nhà sáu tháng một lần và một năm
con về thăm nhà một lần, con rất muốn cho họ biết là con đã xuất gia để họ được an tâm”.
Canda im lặng một lúc thì có hai con chim bồ câu từ đâu bay vào hang và ông nói với
Butan: “Con hãy viết hai bức thư, một bức viết cho gia đình và một bức viết cho trường
Kasim và buộc mỗi bức thư vào chân của mỗi con”.
Sau khi Butan buộc thư vào chim bồ câu, thầy Canda liền dùng thần thông tác ý vào
tâm của 2 con chim, sau đó cả hai con liền lập tức bay theo hai hướng khác nhau, Butan
thấy ngạc nhiên bèn hỏi thầy: “Phải chăng thầy có thể giao tiếp được với loài vật và làm
sao thầy có thể chỉ cho chúng đến chính xác nhà của con và trường Kasim”.
Canda trả lời: “Ta có thiên nhĩ thông nên có thể nghe được tiếng của tất cả muôn loài,
ta có thiên nhãn thông nên ta có thể nhìn xa qua ngàn cõi giới và biết chính xác nhà của
con cũng như trường Kasim ở đâu, ta có tha tâm thông nên ta có thể thấu hiểu và tác động
87
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

được vào tâm của các loài vật, vì vậy ta đã yêu cầu các con chim bay theo đúng hướng, và
ta luôn tác ý nhiều lần vào tâm chúng cho đến khi chúng bay đến đúng nơi yêu cầu chứ
bản thân chúng sẽ không thể nhớ hết được toàn bộ những gì ta nói đâu”.
Butan hoan hỷ và xin thầy dạy cho các phép tu hành để có được những thần thông như
vậy, Canda im lặng một lúc rồi nhận lời nhưng khuyến cáo Butan không nên đặt nặng thần
thông mà hãy chú trọng giữ gìn giới hạnh thanh tịnh và mục tiêu giải thoát. Trải qua 5
năm tu tập thực hành thiền tinh tấn, Butan cũng đã có được một chút thần thông như thiên
nhĩ thông và tha tâm thông. Trong một lần đi kiếm thức ăn ở khu rừng Uranda, Butan
bỗng nghe thấy một tiếng động lớn phát ra từ phía ngoài bìa rừng, ông liền chạy đến và
thấy một cái hố do đất mới bị sụt lún hình thành, một lúc sau ông thấy một con ếch nhảy
lên. Sau khi đọc hết tâm trí con ếch ông đã hiểu được toàn bộ câu chuyện mà con ếch
muốn kể, ông cảm thấy lý thú về xã hội loài ếch dưới giếng vì vậy ông đã nhặt nó cho vào
túi. Con ếch cảm thấy ấm áp và nó nghĩ rằng có thể Butan mới chính là thượng đế của thế
giới trên này, nó mơ hồ mường tượng không biết thế giới trên này rộng đến cỡ nào và đâu
là bờ vách của thế giới, vô số điều tò mò nảy ra trong cái đầu nhỏ bé của nó.
Butan đem con ếch về nuôi ở trong hang và con ếch tự bắt côn trùng để ăn. Sau khi
Butan khoe con ếch, thầy Canda dùng ngón trỏ vuốt nhẹ vào đầu con ếch truyền cho nó
một ít trí tuệ để nó có thể hiểu được tiếng người. Canda nói với Butan: “Con ếch này có
nhân duyên rất lý thú, nó đã từng làm người rất quyền quý nhưng do bị một tà kiến sai lầm
dẫn đến làm điều tổn hại đến nhận thức hiểu biết của nhiều người nên đã bị đọa thành ếch.
Cũng trong kiếp quá khứ đó con đã từng là một ẩn sỹ đến gặp và khuyên nhủ trong kiếp
người của nó, sau đó nó đã biết sám hối và cùng con cung kính cúng dường một bậc thánh,
vị này đã từng nói với nó rằng nó sẽ phải bị đọa làm thú để trả quả báo trong một kiếp
tương lai. Nó đã thành tâm sám hối và nguyện rằng nếu như nghiệp lực của dòng chảy
nhân quả buộc mình phải bị đọa làm thú thì xin được làm thú nuôi của các bậc thánh. Do
đó tuy phải trả ác nghiệp và bị đọa làm loài ếch nhưng nó vẫn còn nhân duyên với chánh
đạo khi được chúng ta nuôi dưỡng. Đến khi nào trả hết nghiệp quá khứ thì vẫn có phước
duyên được làm người trở lại, phước họa xen kẽ từng phần. Trong nhiều kiếp tương lai nó
cũng sẽ làm đệ tử của con vì nhân duyên nhiều kiếp, giữa con và nó có sự gắn kết rất chặt
chẽ, đồng thời nó và con cũng có rất nhiều điểm giống nhau nhất là về cái tính luôn tò mò
và phản biện về mọi thứ!”.
Nhân dịp thầy Canda nói về sự tò mò, Butan xin thầy giảng về vũ trụ quan, những gì
đang thực sự hiện hữu, Canda cũng nhân dịp đó kể cho Butan nghe về tất cả các câu
truyện của hiện thực (từ câu truyện thứ nhất đến câu truyện thứ sáu của tập sách này), mỗi
lần kể hết một câu truyện Butan đều vô cùng hoan hỷ như vừa nhận được tài sản quý.
Butan mừng rỡ nói: “Những điều thầy kể thật vi diệu, mấy chục năm con học ở nhiều
quốc gia trên thế gian không quý bằng một vài ngày học cùng thầy, trong đời này con thật
là quá may mắn khi được gặp thầy, con không biết vì lý do gì mà con lại ngẫu nhiên có thể
gặp được thầy như vậy?”.
88
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Thầy Canda trả lời: “Này Butan, không có gì là ngẫu nhiên khi con gặp được ta đâu, ta
và con đã từng là thầy trò trước đây, chúng ta gặp nhau là do có nhân duyên sâu dày nhiều
đời trước. Khoảng hơn 3.000 năm trước đây chúng ta là hai người trong đội PT06 (gồm 3
thành viên do ta làm đội trưởng), PT06 là một đội nhỏ trong nhóm điều tra người Omegan
đến Trái Đất để đánh giá về tình hình xung đột khi đó. Ở khu vực mà đội chúng ta kiểm
tra đã phát hiện được nhiều manh mối quan trọng dẫn đến một hang động, nhưng thay vì
gửi thông báo ngay cho tổng nhóm chỉ huy thì ta lại quyết định cho cả đội tiến vào hang
để điều tra trước. Kết quả là cả đội chúng ta đều đã bị phiến quân Kypton trong động phục
kích tiêu diệt để bịt đầu mối, phiến quân Kypton sau đó đã dàn dựng như một vụ sập hang
động để nhóm chỉ huy Omegan không nghi ngờ”.
Thầy Canda kể tiếp: “Do ta có phước lớn hơn con và có nhân duyên với một vị thầy
Arahán tu trên cùng ngọn núi này trước đây (thầy xuống đây để thực hành bồ tát đạo), nên
sau khi bị quân Kypton giết ta đã đầu thai vào làm con của một nhà nông gần đó, và lớn
lên trong một lần vào rừng đốn củi ta đã gặp được thầy của mình. Từ đó ta xuất gia và
theo thầy tu hành thiền định, và trong nhiều kiếp tiếp theo ta cũng gặp thầy và tiếp tục tu
hành theo chánh pháp mà thầy chỉ dạy, cho đến tận kiếp này ta vẫn gặp lại vị thầy đó. Vị
tổ sư phụ đó của con đã viên tịch cách đây 90 năm rồi, ông ta đã hóa sinh thành một vị ở
cấp trời sắc giới để làm công tác giảng dạy tại đó. Trình độ tâm linh của ta đã tiến bộ vượt
bậc kể từ gần 3.000 năm nay, trong khi đó thì con vẫn cứ dậm chân tại chỗ, con đã trải qua
nhiều kiếp sống thăng trầm làm người giàu nghèo khác nhau nhưng tâm linh thì chả có
tiến triển chút nào do không có phước lành gặp được minh sư chánh pháp, vì vậy sau này
con cần phải cố gắng nhiều hơn, tôn kính bậc thánh nhiều hơn nếu không sẽ rất lâu sau
con mới có thể bằng được như ta bây giờ”.
Butan tiếp tục hỏi thầy: “Thưa thầy, nhân duyên gì mà lại có thế giới loài ếch kỳ lạ như
vậy, và con cũng xin thầy cho biết về mức giới hạn di chuyển của các loài trong vũ trụ”.
Canda suy nghiệm một lúc rồi trả lời: “Con ếch Polo và các thế hệ 5 con ếch giáo chủ
kiếp trước đều là giới giáo sỹ cầm đầu hệ tín ngưỡng Vandes ở thời đại Golden Age, do
rao giảng những điều tà kiến mê tín vào thế gian làm suy giảm nghiêm trọng trí tuệ và khả
năng giác ngộ của cả nhân loại. Làm cho nhân loại bị cuốn theo những dòng nghiệp lực
sai lầm dẫn đến khó tiến hóa được lên cao, vì cái nhân ác nghiệp đó nên các giáo sỹ sau
khi chết bị rớt vào cảnh giới ngạ quỷ, nhiều triệu triệu các kiếp về sau khi thoát cảnh giới
ngạ quỷ vẫn luôn bị ngu đần không biết đúng sai. Lúc làm những kiếp ngạ quỷ đầu tiên thì
bị bắt vào địa ngục vô gián và bị các thiên ma tra tấn trừng trị trong suốt nhiều kiếp cho
đến hết 10.000 năm đau đớn tột cùng, sau khi ra khỏi địa ngục thì tiếp tục tồn tại ở trạng
thái cảnh giới ngạ quỷ trong suốt 10.000 năm tiếp theo đói khát vất vưởng ngu si. Sau đó
sẽ tiếp tục bị đọa làm vô số kiếp ở các loài súc sinh thú tính mất dạy ác độc như hổ, báo,
cáo, chồn, sói, hồ ly... trong nhiều nhiều triệu năm, do bản tính ác độc xảo trá lỳ lợm trở
thành những khối tập khí cố hữu nên chúng dần dần bị thoái hóa chỉ còn là các loài ếch
ngu ngốc ác độc và dần dần sẽ cạn hết toàn bộ lượng phước ít ỏi còn sót lại trong tâm thức
89
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

thì sẽ chỉ tái sinh được thành các loài sâu bọ không biết đến bao giờ mới tiến hóa trở lại
làm người được;”
“Con cóc Mutah thì là hiện thân của giáo chủ Mucara trước đây (giáo chủ của hệ phái
Kunsan) cũng bị kết cục tương tự với đám ếch giáo sỹ. Đàn ếch dân dưới giếng là những
tín đồ cuồng tín theo cả hai hệ phái Vandes và Kunsan trước đây, do nghe lời xúi dục của
đám giáo sỹ mà làm nhiều điều độc ác giết hại bao nhiêu sinh mạng, chiến tranh, tra tấn,
khủng bố, bức hại con người chỉ vì họ không tin vào những điều bịa đặt hoang đường của
chúng. Chúng tàn bạo chỉ để tôn vinh cho những thứ niềm tin nhảm nhí vô nghĩa nên cũng
chung số phận với đám thầy của chúng. Những con khỉ ở khu rừng là những người Greys
trong nhóm phiến quân Kypton đã bị chết từ cuộc chiến tranh thế giới cuối thời Recon
Age khi xưa do mâu thuẫn nội bộ với đội Kondroskans nên bị chúng bắn hạ. Tương lai
nhiều triệu năm sau những con khỉ này cũng có thể sẽ còn bị thoái hóa sâu xuống làm
những con ếch nếu chúng vẫn tiếp tục ác độc không biết hối cải. Con chim Neru là người
còn lại trong nhóm PT06, cũng bị giết cùng hai người chúng ta nhưng do cô ta do có tâm
thù hận nhóm Kypton và do kém phước hơn nên sau một vài kiếp người thăng trầm cô ta
bị đọa làm một vài kiếp chim, sau này con phải có nhiệm vụ dẫn dắt con chim Neru đi
theo chánh đạo để tiến hóa hơn, và tương lai con sẽ có hai học trò trung thành trong nhiều
kiếp là con chim Neru và con ếch Rica này”.
Butan hỏi tiếp: “Vậy những người thuộc chủng tộc Kondroskans đã làm nhiều điều ác
và là những kẻ đạo diễn ra các loại tôn giáo tín ngưỡng hung tàn ác độc cho Trái Đất và
nhiều hành tinh khác thì có bị quả báo không thưa thầy?”.
Thầy Canda trả lời: “Luật nhân quả vốn công bằng bao trùm tất cả, không kẻ nào trong
vũ trụ này thoát được luật nhân quả, những kẻ Atula tà đạo reo rắc tai họa cho các chủng
loài lạc hậu sau khi chết cũng sẽ bị thoái hóa rất sâu. Trong nhiều triệu kiếp làm ngạ quỷ
sẽ bị tra tấn trong địa ngục, vô số kiếp làm ngạ quỷ đói khát vất vưởng, và nhiều nhiều
triệu kiếp làm các loài bò sát ác độc như rắn, kỳ nhông... cho đến khi chỉ còn là những con
cóc, chúng sẽ rất khó trở lại cấp độ người một khi đã chấm dứt thọ mạng ở kiếp Atula”.
Thầy Canda tiếp tục giảng về giới hạn di chuyển của các loài trong vũ trụ như sau:
“Cấp người (bao gồm tất cả các chủng loài ở các hành tinh khác nhau) thì khả năng di
chuyển tùy vào trình độ hiểu biết về khoa học của mỗi loài, nếu hiểu biết lạc hậu thì họ chỉ
giới hạn di chuyển trong hành tinh họ sống, cao hơn thì di chuyển trong thiên hà họ sống,
cao hơn nữa thì di chuyển được trong một vùng khu vực Vũ trụ tầng thấp. Một vài loài
Atula cấp thấp và hai cấp trời dục giới Kiên thủ thiên và Trì hoa thiên có khả năng di
chuyển giữa các thiên hà trong vũ trụ tầng thấp một cách dễ dàng. Một vài loài Atula cấp
cao và hai cấp trời dục giới Phóng dật thiên và Tứ thiên vương thì di chuyển được mọi
vùng trong vũ trụ tầng thấp và tầng trung dễ dàng. Một số loài Mara cấp thấp và cấp trời
dục giới Đao Lợi thì di chuyển được trong toàn bộ vùng Địa Cư;”
“Một số loài Mara cấp cao, 4 loài trời dục giới cấp cao và 6 loài trời sắc giới cấp thấp
thì di chuyển được toàn bộ vùng tinh vân và vùng địa cư. 12 loài trời sắc giới cấp cao thì
90
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

di chuyển được toàn bộ vùng không cư thiên trở xuống, còn 4 loài trời vô sắc thì di
chuyển được toàn bộ các vùng trong một vũ trụ nhánh nhưng lại ít tác động vào các thế
giới vi mô. Các bậc Arahán như thầy của ta thì di chuyển được dễ dàng khắp toàn bộ mọi
nơi trong vũ trụ tổng thể, tác động đến mọi thế giới từ vi mô cho đến vĩ mô, thức càng tiến
hóa cao thì sự tự do trong vũ trụ càng lớn. Chỉ có các vị Phật là tuyệt đối không bị giới
hạn, các ngài có thể di chuyển giữa nhiều vũ trụ tổng thể khác nhau một cách tự tại”.
Sau khi nghe xong câu chuyện, Butan trầm ngâm một lúc và nói: “Nhân loại ở cõi đất
này thật lắm điều khổ đau si mê tà kiến trập trùng, con hy vọng tương lai thế giới sẽ không
còn những dạng tà giáo tín ngưỡng ác độc như vậy nữa”.
Canda thở dài nói: “Con cho rằng tương lai thế giới này sẽ khá hơn chăng, con phải
hiểu rằng tương lai Trái Đất vẫn sẽ còn tiếp tục sinh sôi ra các loại tôn giáo tà đạo ác kiến
như vậy khi mà loài người vẫn còn chìm trong dục vọng tối tăm, vẫn còn tà kiến sát hại
sinh mạng của các loài vật thì những tà giáo vẫn sẽ xuất hiện. Nhân quả ở đây là khi con
người giết hại và ăn thịt thú vật thì các con thú bị ăn thịt sẽ dần có phước và khi lượng
phước tích đủ thì chúng sẽ được tái sanh làm người trong các quốc gia hiếu chiến hoặc các
tôn giáo hiếu chiến. Nếu kẻ lãnh đạo những nhóm hiếu chiến này trong nhiều kiếp trước là
con vật gì thì kẻ đó sẽ cấm tín đồ của hắn không được ăn thịt của loài vật đó, chúng sẽ
luôn có tư tưởng bạo lực do cái nhân thù hận khi bị giết trước đây, chúng sẽ tấn công các
nước khác để đòi lại cái món nợ mạng khi chúng bị giết ở các kiếp thú vật trước;”
“Nếu khi chúng là thú vật bị giết bởi dao cứa, đập đầu hay thiêu nướng… thì khi làm
người ở nhóm hiếu chiến, chúng cũng sẽ làm điều tương tự như vậy với những kẻ đã giết
hại chúng trước đây và sau đó chúng lại tiếp tục bị đọa trùng trùng không dứt. Luật nhân
quả làm cho chúng được làm người để hưởng phước vì đã cúng sinh mạng bất đắc dĩ, nếu
tâm có thù hận ngu si thì kiếp người của chúng chính là điều kiện thuận lợi để chúng đòi
món nợ mạng. Nếu chúng có thể vượt qua sự thù hận quá khứ thì có thể tiếp tục làm người
trong nhiều kiếp sau và có thể tiến hóa hơn, còn nếu không thì chúng lại trở lại làm thú
trong nhiều kiếp, cứ một kiếp người ngàn vạn kiếp thú tuần hoàn như vậy mãi. Chúng
không nhìn thấy được nguyên nhân sâu xa việc chúng bị giết hại và ăn thịt khi làm thú là
do những cái nhân ác nghiệp của chính chúng đã tạo trong quá khứ, nếu đòi món nợ hiện
tại thì tức là đã không trả được nghiệp quá khứ vậy, oan oan tương báo sẽ kéo dài vô tận;”
“Đồng thời tất cả các tác nhân tiêu cực từ cao đến thấp nếu tương thích sẽ duyên với
nhau và hòa quyện vào nhau. Có nghĩa là khi những cái sai đến từ nhiều phía tương tác ăn
khớp một cách hoàn hảo trong dòng chảy nhân quả, từ cái tâm thù hận của Mahora với
nhân loại, từ dã tâm của nhóm KP37, cho đến toàn bộ những tội lỗi sai trái của loài người
đã gieo, cùng với tổng hợp toàn bộ nỗi oán thù của mọi loài vật khi đầu thai thành
người… tất cả những điều ấy hòa quyện vào nhau hình thành nên như một chuỗi mắt xích
ăn khớp, chuỗi mắt xích đó chính là các vòng tuần hoàn ác tính trong dòng chảy nhân quả.
Các bậc thánh đều nhìn thấy rõ cơ cấu vận hành của những cái vòng tuần hoàn ác tính này
và cũng rất tha thiết mong muốn tháo gỡ, nhưng muốn tháo gỡ cũng phải dựa trên quy luật
91
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nhân quả, tức là cần phải có rất nhiều duyên lành và thời gian, đó là lý do con người buộc
phải bỏ được việc sát hại thú vật, buộc phải ăn chay và buộc phải tự giác tu tập đạo đức”.
Butan ngạc nhiên hỏi thầy: “Phải chăng thầy biết trước tương lai hay sao mà thầy có
thể chắc chắn về tương lai của Trái Đất như vậy, theo con nghĩ thì tương lai là một điều gì
đó vô định và không thể nắm rõ được”.
Thầy Canda trả lời: “Tất nhiên tương lai điều vô định nhưng những bậc thánh có thể
nhìn thấu được tương lai bằng cách nắm bắt rõ cơ chế vận động của dòng chảy nhân quả
nghiệp lực của chúng sinh. Đó là những cái xu thế tất yếu sẽ xảy đến nếu như phước
nghiệp của chúng sinh thế nào kết hợp với hoàn cảnh thế nào, do cơ cấu tập khí nội tâm
nên những chúng sinh đó sẽ hành xử thế nào khi đó và hệ lụy cũng như sự liên quan thế
nào đến các chúng sinh khác và tất cả mọi thứ hòa quyện lại sẽ dẫn đến những kết quả tất
yếu nào đó phải vậy. Và bậc thánh nhìn được xuyên suốt quá trình vận động đó dù sự việc
nó diễn ra thực tế là vô cùng chằng chịt chồng chéo và phức tạp đến đâu đi nữa, trình độ
tâm linh càng cao thì càng nhìn thấu rõ và nhìn xa hơn trong tương lai;”
“Bây giờ ta phân tích ví dụ đơn giản thế này để con dễ hiểu, con hãy nghĩ xem thế giới
giờ là do ai cai quản nếu không phải là Mahora, và tay sai của Mahora là ai, vậy trong
tương lai sắp tới nếu Mahora muốn kiểm soát Trái Đất chặt chẽ hơn thì ông ta sẽ làm thế
nào, con đã nhìn ra chưa. Đây chỉ là những chánh tư duy nhân quả cơ bản, các bậc thánh
như thầy của ta có thể nhìn rất chi ly sâu sắc đến từng chân tơ kẽ tóc trong đường đi của
dòng chảy nhân quả cho dù nó rất vi tế, sự tác động qua lại giữa các thức thế nào những vị
thánh họ đều thấy biết rất rõ. Chính vì tương lai là kết quả của nghiệp lực do chúng sinh
huân tập, nên nhiều khi dù biết trước tương lai nhưng có những chuyện mà các bậc thánh
cũng không thể thay đổi được, và cũng có những trường hợp thì họ có thể thay đổi được”.
Butan hỏi tiếp: “Vậy thầy có thể kể cho con biết những chuyện quan trọng xảy ra trên
thế giới trong tương lai?, Đồng thời mong thầy cho biết những chuyện gì là dù các bậc
thánh biết trước nhưng cũng không thể thay đổi được và những chuyện gì nếu biết trước
thì họ có thể thay đổi được?”.
Canda tiếp túc trả lời: “Từ bây giờ cho tới 21.000 năm sau thế giới cũng không có sự
kiện gì đặc biệt, cũng chỉ có các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia phong kiến hợp tan vô
định, không có một bước tiến đột phá nào lớn trong khoa học vật lý cũng như tâm linh.
Nhiều quốc gia vẫn nắm giữ được chút ít tri thức về khoa học tâm linh còn sót lại nên có
vận dụng trong xã hội và việc tu hành, nhiều cuộc chiến ở một số vùng vẫn có sử dụng
phép thuật như tân Bàn Cổ và Âu Lạc… cũng có nhiều vị tu hành theo con đường tiên đạo
cao siêu nhưng cũng không tránh khỏi những vòng xoáy tranh đoạt của thế sự;”
“Nhưng vào khoảng 21.500 năm sau sẽ có một vị Phật xuất hiện tại thế gian này, đó là
một vị thánh Arahán đã đi đến tận cùng trên con đường Bồ Tát Đạo của mình, vị Arahán
này sẽ đạt quả vị Như Lai vào kiếp cuối cùng của ông ta và ông ta sẽ giảng chánh pháp vi
diệu nơi quả đất này cùng một số cõi trời chánh đạo. Mara khi đó sẽ đến chống phá Phật
vào đúng hôm ngài chuẩn bị thành đạo bằng tất cả sức mạnh mà hắn có nhưng hắn cũng
92
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

không thể làm gì được ngài, hắn cũng sẽ tiếp tục chống phá ngài liên tục trong suốt những
năm ngài giáo hóa độ sinh ở Trái Đất và hắn vẫn tiếp tục chống phá chánh pháp của ngài
nhiều ngàn năm sau. Hắn làm vậy vì hắn không hiểu được những điều bao la vĩ đại ngài
đang làm vì lợi ích của tất cả chúng sanh bao gồm cả hắn, hắn sợ ngài làm cho con người
Trái Đất được tiến hóa hơn và như vậy hắn sẽ không thể kiểm soát được con người nữa;”
“Khi đó cũng có nhiều loài atula chánh đạo, trời dục giới chánh đạo và trời sắc giới
chánh đạo trong khắp vũ trụ cũng sẽ đến thăm vị Phật này. Họ chúc mừng, hoan hỷ, xưng
tán, đảnh lễ, cung kính, cúng dường, hỏi pháp khi gặp Phật. Cũng có một số loài người
ngoài hành tinh có chánh tín với Phật Pháp sẽ đến hỏi chánh pháp của ngài và họ đã áp
dụng những gì được học vào hành tinh họ sống và đạt nhiều lợi lạc. Trái Đất khi đó là một
hành tinh rất hiếm hoi khi có vinh hạnh được một vị Phật tái sinh vào để hóa độ chúng
sinh. Mahora sau đó vài trăm năm sẽ tạo ra một hệ tín ngưỡng tương đồng với hệ tôn giáo
Vandes ở thời Golden Age trước đây nhằm làm đui mù trí tuệ của loài người vì hắn không
muốn cho con người hiểu biết quá nhiều về hiện thực. Hệ giáo phái này từ khi hình thành
đã luôn tìm mọi cách để ngăn cản con người tìm tòi nghiên cứu về khoa học tự nhiên (cả
khía cạnh tâm linh và vật lý), sẽ có rất nhiều các nhà khoa học do phát hiện ra những quy
luật chân lý khác với những điều được rao giảng bậy bạ trong kinh tà giáo VandesII đã bị
hệ tà giáo này chụp mũ là phù thủy và bị hành hình thủ tiêu thông qua các tòa án dị giáo;”
“Vua chủng Kondroskans với đặc tính tâm luôn đố kỵ sân hận bất tuân ngã mạn cũng
không chịu thua kém nhún nhường tuân phục Mahora một chút nào dù ngoài mặt vẫn vâng
dạ nhưng trong tâm luôn ngầm có ý chống đối Mara, chủng loài này sau đó vài trăm năm
cũng tiếp nối lập lại hệ tín ngưỡng tương đồng với hệ Kunsan thời Golden Age để cạnh
tranh quyền kiểm soát Trái Đất với chủng Mara, và cả 2 chủng loài này đều có ý định xóa
sổ chánh pháp của Phật. Khoảng hơn một ngàn năm tiếp sau đó, nhóm Kypton lúc này sẽ
bị tan dã vì những mẫu thuẫn trong giới lãnh đạo giữa 2 chủng Mara Doomerian và chủng
Atula Kondroskans, đồng thời khi đó sự chi phối của Mahora ở khu thái dương hệ cũng đã
ít hơn do những xung đột nội bộ ở hành tinh Doomerian làm hắn bị phân tâm, Mara đã
yêu cầu sự hỗ trợ từ chủng Greys nhằm kìm hãm sự phát triển tà giáo KunsanII của chủng
Kondroskans tại đây.”
“Do có sẵn mẫu thuẫn trước đây với nhóm Kondroskans, chủng Greys phụ trách vùng
Thái Dương Hệ đã nhanh chóng chấp thuận đề nghị của Mahora. Họ âm thầm hỗ trợ cho
một gia tộc (R) thuộc giới tư bản tài phiệt, đây là một gia tộc lâu đời của một dân tộc
thông minh nhất loài người. Gia tộc này được chủng Greys hỗ trợ cả về tri thức quản lý,
các tin tức tình báo và cả những nguồn tài chính lớn để tạo dựng một đế chế tài chính chi
phối nền kinh tế toàn thế giới, trở thành lực lượng đối trọng với hệ phái tín ngưỡng cực
đoan của Kondroskans và đồng thời có thể giúp hệ tín ngưỡng của Mahora phát triển. Sau
này, gia tộc này sau đó đã mở rộng ra ngoài thành một dạng hội kín mang tên Hội Tinh
Anh “RA” (tập hợp những thiên tài ở nhiều gia tộc siêu giàu và có trí tuệ siêu việt để đưa
ra những quyết sách toàn cầu), hội này đã sáng tạo ra rất nhiều các loại học thuyết về kinh
93
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

tế, chính trị, xã hội học, triết học (duy vật biện chứng, vô thần…) để thiết kế nên những xu
thế vận hành chung cho nền văn minh của toàn cầu, và họ cũng là những kẻ đứng sau đạo
diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới với mục đích cuối cùng là thống nhất Trái Đất thành
một chính thể duy nhất (nhưng mục đích thống nhất là để cai trị chứ không phải đem lại
hòa bình và phát triển bình đẳng cho mọi dân tộc trên thế giới).”
“Gia tộc tài phiệt (R) chỉ biết về chủng Greys, họ cũng không biết đằng sau Greys còn
có các thế lực khác lớn hơn như Mara hay Atula, với họ thì chủng Greys đã là một điều gì
đó quá to lớn rồi. Họ mới đầu chỉ biết chủng Greys là loài có thiện chí giúp mình thống trị
thế giới mà không biết rằng có cả một quần thể sự sống liên ngân hà khổng lồ bên ngoài
vũ trụ. Càng về sau nhóm gia tộc này cũng dần hiểu được thâm ý giúp đỡ nửa vời của
chủng Greys và muốn dần thoát khỏi tầm ảnh hưởng của chủng này. Họ dần mò mẫm các
dạng mô hình xã hội để cho ra một nhà nước mẫu chuẩn nhằm thống nhất Trái Đất thành
một chính thể duy nhất ổn định với mong muốn đưa Trái Đất phát triển sánh ngang chủng
Greys trong tương lai. Nhóm gia tộc tài phiệt tinh anh với trí tuệ cao đã xây dựng nên một
hợp chủng quốc đa sắc tộc với phong cách dân chủ làm nền tảng điều hành đất nước và
lấy đó làm chuẩn mực để áp đặt buộc tất cả các quốc gia khác trên thế giới đi theo.”
“Mặc dù phát triển rất nhiều thí nghiệm về mô hình xã hội trên khắp thế giới kể cả
hình thái dân chủ đa sắc tộc nhưng vẫn chưa đạt được mục đích mong muốn, vì họ vẫn
thấy hệ thống dân chủ còn tồn tại nhiều khuyết điểm lớn (thực chất nền dân chủ này chỉ là
bình phong và người dân không có thực quyền, mà chỉ họ mới là những người thật sự nắm
giữ quyền lực phía sau). Do nhóm gia tộc tài phiệt này chưa nhận thức được mô hình xã
hội chánh pháp CHT và hệ thống kiến thức nền tảng của nền khoa học tâm linh. Nhóm tài
phiệt tinh anh này vẫn dựa theo hệ duy vật luận để đánh giá và giải quyết vấn đề, vẫn tìm
kiếm những thứ chân lý trên ngọn cây, vẫn cố gắng mò mẫm chân lý trong bóng tối, vì
chủng Greys ngay từ đầu đã luôn muốn hướng loài người phát triển theo ý đồ của họ. Nếu
con người cứ theo cái xu thế mà chủng Greys mong muốn thì chắc chắn đến một lúc nào
đó con người cũng sẽ có cái đầu và cặp mắt to như họ (một sự tiến hóa khập khiễng), ngay
cả chủng Greys cũng vẫn còn có rất nhiều tà kiến sai lầm thì làm sao họ có thể giúp con
người tiến hóa thuận được. Và dù cho nhóm tài phiệt có tìm mọi cách để thống nhất thế
giới thì cũng sẽ không thành công, vì Mara không hề muốn con người đoàn kết và hắn
luôn âm thầm đưa ra các biện pháp nhằm ngăn cản bước tiến của nhân loại”.
Butan nghe xong bồi hồi một lúc vì thương xót cho số phận hẩm hiu của toàn bộ nhân
loại, ông hỏi thầy: “Bạch thầy, Mara lộng hành như vậy mà không lẽ mấy vị thánh không
hề hay biết, còn nếu họ biết thì tại sao lại để yên cho hắn muốn làm gì thì làm như vậy.”
Thầy Canda trả lời: “Này Butan, cái gì đến sẽ đến thì nó là tất yếu phải đến, con hãy
bình tĩnh vì ta vẫn chưa kể hết câu truyện cho con. Bây giờ ta sẽ kể cho con nghe những gì
mà các vị thánh dù biết trước mà cũng không thể thay đổi được cũng như những gì họ biết
trước mà có thể thay đổi được, con hãy chú ý lắng nghe. Nhóm các tộc trời dục giới dẫn
dắt khối AGUN đều là những đệ tử tu hành theo chánh pháp của chư Phật, họ được dẫn
94
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

dắt hỗ trợ bởi bốn vị vua trời Tứ Thiên Vương ở phía trên và cấp này lại được dẫn dắt bởi
Đao Lợi Thiên và cứ như vậy cho đến tận Sắc Cứu Cánh thiên. Tất cả mọi cấp trời chánh
đạo này đều tu theo chánh pháp Phật thuyết và đều có các vị thánh Arahán tái sinh vào để
làm nhiệm vụ dẫn dắt chúng sanh (các kiếp này đều là những chặng đường trên hành trình
Bồ Tát đạo mà các vị Arahán phải đi qua để thành tựu quả vị Phật). Tất cả các vị Arahán
tái sinh ở tất cả các cấp từ thấp đến cao, từ vô số các cõi người chánh đạo, vô số cõi Atula
chánh đạo, cho tới hết thảy các cõi trời dục giới chánh đạo, các cấp trời sắc giới chánh đạo,
tất cả các vị Arahán đó đều có sự liên thông tâm linh với nhau như một khối thống nhất,
khối tâm linh này gọi là khối lương tri vô hình của toàn vũ trụ (LTV). Họ âm thầm bí mật
dẫn dắt chúng sinh trong toàn thể vũ trụ đi đúng hướng chánh pháp, tất cả chúng sinh đều
được họ bình đẳng ban trải lòng từ bi và sự chỉ dẫn như nhau, nhưng việc chúng sinh có
tin nghe và làm theo hay không lại còn phụ thuộc vào duyên nghiệp căn cơ phước phần
của mỗi chúng sinh. Vì vậy không có điều gì nằm ngoài sự quán xét của họ cả, họ nắm bắt
thấu đạt quy luật vận động của dòng chảy nhân quả một cách rõ ràng xuyên suốt vô cùng.
Ngay cả đến tham vọng và cách hành sử của Mahora đối với Trái Đất thì họ cũng đã biết
trước nhưng họ không thể làm gì khác, những điều mà Mahora làm là hệ quả tất yếu để
chúng sinh Trái Đất trả các ác nghiệp quá khứ của họ khi đến hạn, nếu các vị Arahán ngăn
cản Mahora hại nhân loại thì dòng chảy luật nhân quả sẽ làm cho nhân loại phải trả giá đắt
hơn gấp nhiều lần trong tương lai và đồng thời cũng sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh
trưởng phát triển của các nhóm quần thể sinh mệnh khác đông hơn trong vũ trụ;”
“Nếu một chúng sanh do các kiết sử tập khí nội tại tiêu cực (ngu si, tà kiến, sân hận, ác
độc, tham lam, ngã mạn, tà dâm…) huân tập các hành vi xấu ác liên tục không biết hối
hận, không nghe những chỉ dẫn khuyên nhủ chân chính, không có ý định dừng lại các điều
ác thì đến một lúc nào đó sẽ buộc phải bị trả quả báo cố định gọi là Định nghiệp, nếu định
nghiệp đã chuẩn bị xảy ra thì ngay cả một vị Phật cũng không thể cứu chúng sinh đó được.
Còn nếu một chúng sinh do làm sai mà vẫn có làm điều tốt xen kẽ, có làm sai nhưng sau
đó biết sửa sai, có làm sai nhưng biết hối lỗi không làm nữa, đã từng làm nhiều điều tốt
nhưng vô tình phạm phải chút điều sai thì khi quả báo do điều ác làm ở quá khứ xảy đến,
cầu xin chư Phật cứu giúp với sự thành tâm sám hối tha thiết thì sẽ được cứu giúp.”
“Vì các vị thánh họ biết người này xứng đáng được cứu, xứng đáng có cơ hội thứ hai,
vì nếu cứu người đó thật sự sẽ không tái phạm nữa, nếu cứu người đó có thể lập công
chuộc tội, nếu cứu người đó có thể tin sâu nhân quả mà cứu nhiều người khác, nếu cứu
người đó có thể tiến hóa hơn về sau. Không phải vì các vị thánh xóa được nhân quả xấu
cho người đó mà họ chỉ có thể dãn nợ (kéo dài thời gian trả quả báo xấu) cho người đó để
người đó có thể lập công chuộc tội bù vào sau này, người đó có thể trả quả báo dần dần
từng chút một thì sẽ nhẹ nhàng hơn mà không bị quá bức bách, chứ luật nhân quả đã gieo
là phải gặt công bằng không hề sai khác. Vì vậy các vị thánh sẽ luôn cứu đúng người đúng
lúc, họ luôn tác ý vào tâm một người để xúi người đó đối tốt với người khác sao cho dòng
chảy nhân quả vận hành trơn chu tốt đẹp nhất với chúng sinh, các vị thánh trong khối LTV

95
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

luôn giằng co chúng sinh với cái vô minh tổng thể của vũ trụ với mục đích cứu càng nhiều
chúng sinh được giác ngộ giải thoát nhất có thể”.
Butan nghe xong cảm ngộ được nhiều điều, ông hỏi tiếp: “Những điều thầy nói làm
con thật an lạc biết bao, con nghĩ những điều mà vị Phật tương lai kia thuyết giảng còn
truyền cảm sâu sắc hơn thầy hàng triệu triệu lần và con ước sau này sẽ được là một trong
những đệ tử của ngài, nhưng con thắc mắc là tại sao Mahora cũng nghe được những lời
giảng đạo lý của Như Lai nhưng không hề thay đổi chuyển hóa tâm hồn? Thầy có thể cho
con biết nhân duyên gì mà một kẻ ác độc tham vọng như Mahora lại có quyền năng cao
như vậy? Và tại sao các vị Arahán chỉ thường tái sinh vào cõi trời Sắc Cứu cánh trở xuống
mà không muốn vào các cấp trời vô sắc, đồng thời cấp bậc chứng đắc của thầy là gì?”.
Thầy Canda im lặng một hồi rồi nói: “Này Butan, đây là kiếp cuối cùng của ta trên quả
đất này, sau khi kết thúc sinh mạng này ta sẽ tái sinh vào cõi trời sắc giới để tiếp tục tu tập
tâm linh với thầy của ta, nếu con thuộc bài thì con phải biết là ta đã tu đến đâu. Các bậc
Arahán họ ưa tái sanh vào các cõi sắc giới chánh đạo vì cấp này là điều kiện thuận lợi cho
các bậc thánh tu hành, các vị Arahán tái sanh vào đây để làm công tác giảng dạy cho các
bậc Anahàm mới được sinh lên. Đồng thời cõi sắc giới có thể tác động vào cõi dục giới
được nên các cõi trời sắc giới chánh đạo chính là trung tâm giáo dục của toàn vũ trụ, họ
giáo dục các cấp trời dục giới chánh đạo và các loài người chánh đạo. Còn cõi vô sắc do
mức định lực quá lớn, đây là các loài sống trong các tầng tâm thái rất sâu nên trí huệ giải
thoát khó phát huy được. Những loài này không tác động được nhiều đến các cõi thấp hơn
nên các bậc thánh không muốn vào đây vì quá tốn thời gian mà chả độ được cho ai ngoài
một vài cá thể vô sắc. Chỉ có các vị Arahán khi mới chứng tứ thiền và muốn thử độ sâu
của định thì vào cho biết rồi họ ra chứ không an trú trong đó, hoặc họ vào chỉ để giáo hóa
cho riêng một vài cá thể vô sắc có duyên với mình vì không muốn người đó bị mê lầm;”
“Còn về Mara, trước đây ông ta do có duyên cúng dường chỗ ở và vật thực cho một vị
Arahán trong một tháng nên có phước rất lớn, từ cái nhân đó ông ta trở nên thích thú sự tu
hành, tiếp tục tích lũy phước, có ý thức làm phước để tích phước và trong nhiều kiếp luôn
giúp người. Vào một kiếp khoảng thời gian đầu của Kỷ Băng hà thì ông ta là đội trưởng
của nhóm phi thuyền thuộc hành tinh Caperial trong nhiệm vụ đi khảo sát tài nguyên khu
vực dải Unber lúc bay ngang qua Trái Đất đã tự có chủ trương đưa hết đoàn tàu xuống để
cứu hộ cho vô số người Trái Đất không bị chết cóng, sau đó ông ta còn xây dựng nhiều
khu định cư ngầm trong lòng đất cho con người, mặc dù hệ quả là ông đã bị giới lãnh đạo
hành tinh Caperial sau đó khiển trách nặng nề. Vậy nên nhân loại đã nợ ông ta rất nhiều
trong quá khứ và ông ta đã đòi lại cái món nợ đó theo một chiều hướng tiêu cực nhất;”
“Đồng thời cũng do có một tập khí tiêu cực rất mạnh trong tâm đó là sự tham vọng
quyền lực mãnh liệt nên dù ông ta có làm phước rất nhiều và chăm chỉ tu hành bao nhiêu
cũng chỉ để mong có ngày được làm vua trời Đế Thích (tên gọi cho vua của cõi trời dục
giới Đao Lợi Thiên). Nhưng trong một kiếp tu hành thời Recon Age ông ta đã bị giết và
với cái tâm căm hận lúc chết đó kết hợp với tập khí tham vọng mãnh liệt trong tiềm thức
96
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nên ông đã bị tái sinh thành một cá thể thuộc chủng loài Mara Doomerian. Dòng chảy
nhân quả đã sắp xếp cho ông trở thành vua cõi Mara để thỏa mãn cái tham vọng quyền lực
đó và lượng phước lớn tích được trước đây sẽ dần bị đốt hết từ đó. Con phải hiểu rằng nếu
một chúng sanh có ý muốn làm vua trời Đế Thích một cách chính đáng thì ngoài việc phải
tích lũy rất nhiều phước đức vô lượng trong nhiều kiếp, vị đó còn phải có tâm đại từ bi vị
tha thuần thiện, không chút tà niệm tham vọng sân si kiêu mạn nào. Xu hướng cân bằng
lực của luật nhân qủa sẽ luôn tạo ra các giai đoạn nghịch cảnh vô cùng khắc nghiệt oan
trái đắng cay để thử thách tư cách cũng như tấm lòng của chúng sanh trước khi chúng
sanh đó đạt được địa vị mình mong muốn, nếu có thể nhẫn nhục chịu đựng mọi đắng cay
nghiệt ngã của cuộc đời với cái tâm thư thái bình thản từ bi tột cùng thì vị đó mới xứng
đáng, nhưng Mara đã không vượt qua được, vì luật nhân quả tuy rất công bằng nhưng nó
cũng vô cùng khắc nghiệt. Luật nhân quả tuy rất khắc nghiệt nhưng nó cũng rất hợp lý,
con hãy thử nghĩ kỹ xem việc gì sẽ xảy ra nếu một chúng sanh có phước quá lớn mà tâm
chưa hoàn toàn từ bi vị tha thuần thiện có thể giữ chức vua trời Đế Thích, nếu điều đó xảy
ra thì sẽ là tai họa rất lớn cho chúng sinh trong vũ trụ so với một Mahora. Nếu lượng đạo
đức trong tâm không theo kịp mức độ phát triển quá nhanh của phước khí thì cơ chế cân
bằng sẽ tự đưa thức rơi vào những chu kỳ triệt tiêu phước, đó là sự cân bằng của vũ trụ”.
“Việc Mahora đã nghe Phật thuyết mà không cảm động được tâm hồn là vì tâm hắn đã
bị vô số các ác nghiệp sâu dày che kín (kết quả của việc làm nhiều điều ác độc với cường
độ rất lớn) nên không còn chỗ nào cho chánh pháp rót vào. Những lực tiêu cực của kiết sử
ngã mạn trong nội tâm bộc phát ra quá mạnh làm cho tâm thức hắn không thể tiếp thu
được dù chỉ một chút điều hay lẽ phải bên ngoài, người phước lớn thường không tin nghe
nhân quả là vì vậy, hắn nghĩ hắn tài giỏi nhưng thật ra hắn đã lầm to và hắn sẽ phải trả giá
rất đắt cho những sai lầm lớn đó. Vì vậy, con hãy lấy Mahora làm bài học cho chính mình,
hãy luôn cảnh giác với các vọng niệm của mình, dù con tu tiến đến đâu cũng phải luôn
khiêm hạ và tự tìm lỗi dở của mình, đừng đi theo vết xe đổ của Mara, trên đường tu hành
tuyệt đối không được khởi dù chỉ là một chút vọng tâm mong cầu tham vọng quyền lực,
nếu không năng lực phước tích được trong tâm thức sẽ bị hấp thụ và kết hợp với những tư
tưởng sai lầm đó làm cho chúng trở thành những phước báo hữu lậu trong tương lai;”
“Nhưng việc Mara có hối cải suy nghĩ lại do tiếp thu được chánh pháp của Phật hay
không có lẽ cũng sẽ cần một liều thuốc thử trong tương lai. Con ếch mà con đem về nuôi
sau này sẽ được làm người trong nhiều kiếp thăng trầm cho đến khoảng gần 24.000 năm
sau, khi đó nó sẽ là The Keyer (tên gọi mà nhóm AGUN hay đặt cho một cá thể tò mò
nhất trên mỗi hành tinh lạc hậu mà họ đang theo dõi, đây là cá thể được chọn để kể những
câu truyện về hiện thực). Một vị tu sỹ siêu linh trong nhóm AGUN sẽ dùng thần thông để
truyền đạt những câu truyện hiện thực cho Keyer nghe thông qua các luồng ngoại tư tưởng
mà không cần dùng đến con chip của chủng Greys, trong kiếp người đó với bản tính tò mò
truyền kiếp nên nó sẽ tìm mọi cách nhìn ra khoảng không bên ngoài trái đất như nó đã
nhìn ra ngoài cái miệng giếng ở kiếp này vậy”;

97
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

“Nếu Keyer bị sát hại chỉ vì nó đã kể ra hết mọi sự thật thì có nghĩa là Mara đã không
hề hối cải và các nhóm hệ phái tà giáo vẫn là những kẻ ác độc muốn thôn tính thế giới bất
chấp quả báo sẽ đến với chúng trong vô lượng kiếp tương lai, chúng sẽ đốt cháy tương lai
tiến hóa của chúng chỉ để đổi lấy một chút lợi ích vật chất thấp hèn trong vài chục năm
sống ngắn ngủi. Nếu tương lai đi theo xu hướng này thì Mahora sau đó không lâu cũng sẽ
chết (bị giết bởi một công dân Mara khác mới nổi ở Doomerian) vì bị cạn sạch phước do
đã làm quá nhiều điều ác độc với cường độ quá lớn và sẽ bị rớt vào địa ngục nhiều kiếp
sau khó trở lại làm người. Còn nhân loại sẽ tiếp tục sống trong tăm tối thêm nhiều chục
ngàn năm nữa, và Keyer sau khi chết sẽ tiếp tục tái sinh làm người ở những hành tinh khác
để tiếp tục tu hành và thực hiện những nhiệm vụ vinh quang khác để tiến hóa hơn;”
“Còn nếu như Keyer không bị sát hại khi kể những câu truyện này thì nghĩa là Mahora
đã hiểu được giáo lý của Phật; giới lãnh đạo hai tôn giáo cũng dần hiểu được những điều
đứng đắn cần phải làm để có thể thực sự tiến hóa hơn, không bảo thủ nữa, không còn ham
muốn quyền lực như lúc trước nữa; nhóm tài phiệt cũng đã thay đổi quan điểm muốn hỗ
trợ cho Trái Đất được gia nhập AGUN chứ không còn cái tư tưởng muốn cai trị độc tài
Trái Đất trong bóng tối nữa (nếu nhóm tài phiệt RA có thiện ý này thì xem như họ đã lập
công chuộc tội và sẽ không bị Batca trừng phạt khi hết kiếp người nữa), trong trường hợp
này Mahora sẽ không còn phải bị chết sớm nữa vì ông ta đã kịp thời biết sám hối cũng
như lập công chuộc tội trước khi quá trễ nên dòng chảy nhân quả tương lai của ông ta
cũng sẽ được chuyển biến thay đổi tích cực lên”.
Butan thắc mắc: “Tại sao chúng ta không kể hết toàn bộ câu chuyện vào lúc này cho
mọi người ở Trái Đất biết, như vậy con người sẽ bớt đau khổ trong hơn hai mươi ngàn
năm, kính mong thầy từ bi giải thích cho con được thấu hiểu”.
Thầy Canda từ tốn giải thích: “Này Butan, như ta đã nói rằng định nghiệp là điều mà
ngay cả một vị Phật cũng không thể hóa giải được, luật nhân quả bao chùm tất cả và chi
phối tất cả. Các đơn vị thức tiến hóa được cũng do luật nhân quả chi phối, từ phàm phu tu
hành đắc đạo thành Phật cũng do luật nhân quả mà thành, nhân nào quả nấy. Vậy nên việc
nhân loại phải sống trong tối tăm hơn hai chục ngàn năm hay thậm chí là lâu hơn nữa đều
là do nghiệp lực của chúng sanh cõi này đến hạn trả và phải chịu vậy, nếu nói cho họ biết
sớm cũng chỉ vô ích vì chưa đủ nhân duyên. Nghĩa là bây giờ họ vẫn lạc hậu và không đủ
tri thức để có thể hiểu những điều chúng ta nói, nếu chúng ta nói thì nhóm Kypton cũng sẽ
thủ tiêu chúng ta ngay. Chỉ đến khi nền khoa học phát triển đến một ngưỡng nhất định, khi
mà sự chi phối của các hệ phái tà đạo trên thế giới không còn qúa hà khắc tàn bạo, thì khi
đó mọi thứ đều đủ nhân duyên thuận lợi để câu truyện về hiện thực được kể lại trọn vẹn và
được tiếp thu rộng rãi, khi đó nhân loại mới có thể hiểu vì họ có cơ sở để mà hiểu”.
Con ếch Rica cũng đã nghe hết và hiểu hết những câu chuyện mà thầy Canda kể cho
nhà hiền triết Butan nghe, nó thầm nghĩ rằng chắc có lẽ nó là con ếch may mắn và hạnh
phúc nhất trên quả đất khi được nghe thấy những điều vi diệu như vậy, khi đó nó đã khởi
một quyết tâm dũng mãnh rằng nó sẽ là The Keyer trong vô lượng kiếp để kể những câu
98
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

truyện của hiện thực ở vô lượng các hành tinh, để vô lượng chúng sanh ở các hành tinh đó
đều có thể được tiến hóa giải thoát, và dù cho có phải chết thì vẫn phải kể những điều
chính đáng này, không từ mọi nguy nan. Butan tiếp tục hỏi thầy: “Bạch thầy, nếu tương lai
con ếch này là Keyer và nếu nó biết trước là nó có thể sẽ bị sát hại khi nói ra sự thật, thì
như vậy làm sao nó có thể dám nói ra điều đó, kính mong thầy giảng giải?”.
Thầy Canda mỉm cười đáp: “Này Butan, con đừng coi thường Rica chỉ vì nó là một
con ếch, nó tuy bị đọa làm ếch một thời gian do ác nghiệp quá khứ nhưng trong tâm nó
vẫn còn có nhiều mầm thiện có thể phát triển mà tiến hóa được trong các kiếp sau. Bản
tính của nó là luôn khao khát tìm kiếm mọi sự thật trên thế gian giống như con vậy và đây
là tập khí cố hữu rất vững chắc trong tâm nó, vì vậy nó sẽ bất chấp tất cả để nói ra những
sự thật này, nó sẽ làm tất cả mọi điều để trái đất có cơ hội được gia nhập AGUN thêm một
lần nữa và đó là sứ mệnh duy nhất của nó trong kiếp Keyer. Sự tò mò và phản biện là
những đặc tính rất tích cực trong nội tâm để giúp thức được tiến hóa thuận lợi hơn. Ta đã
giải đáp hết mọi điều tò mò cho con, bấy giờ con hãy cố gắng tập trung tu hành đi và đừng
thắc mắc thêm những chuyện vô bổ không liên quan đến sự tu hành nữa”.
Kể từ đó Butan chăm chỉ chú tâm tinh tấn tu hành thiền định và luôn quán tưởng suy
nghiệm sâu sắc về những bài giảng pháp của thầy. Con ếch Rica sống thêm ba năm trong
hang động thì chết, Butan chôn nó trong một góc hang. Ngoài việc tu hành, ông cũng luôn
tích cực siêng năng làm phước giúp đỡ mọi người và mọi loài, giảng lại những đạo lý
chánh pháp mà mình đã học cho những người mà ông gặp, khuyên họ tin sâu nhân quả.
Khoảng gần 10 năm sau, trong một lần xuống suối lấy nước uống, Butan thấy hai đứa
trẻ đang rất sợ hãi trốn trong một bụi cây gần đó, phía xa xa có một toán lính đang chạy
tới với dáng vẻ như đang truy bắt ai đó. Butan hiểu ngay ra là đám lính đang tìm kiếm hai
đứa trẻ này và không chút chậm trễ ông liền chạy lại túm hai đứa trẻ nhanh chóng phi thân
vào khu rừng, chân ông chỉ chạm nhẹ vào các cành cây nhỏ nhưng cả ba người cứ thoăn
thoắt di chuyển nhanh hơn cả những con sóc chuyền cành (do ông siêng tập luyện khí
công tâm pháp mà thầy Canda chỉ dạy), gần về đến hang động, ông đặt hai đứa trẻ xuống
và hỏi lý do tại sao chúng lại bị đám quân kia truy đuổi. Đứa lớn chừng 13 tuổi còn đứa
em thì khoảng 10 tuổi, cả hai đứa trẻ vô cùng ngạc nhiên trước khả năng phi thường của vị
tu sỹ, chúng quỳ lạy cảm ơn ngài rối rít, đứa lớn vừa khóc vừa nói: “Con tên là Nepan còn
đây là em con tên Ritana, nhà của con ở phía bắc ngoài bìa rừng, ba mẹ tụi con bị một
đám lính sát hại, chỉ có con và em trốn thoát được do lúc đó vào rừng hái nấm”.
Butan khi đó đã có chút thiên nhãn thông, ông hướng mắt về phía các quốc gia thế tục
và biết được đất nước Saccira (láng giềng của vương quốc Valisa) lúc này đã bị diệt vong,
nguyên nhân do tể tướng của Saccira là Satan đã sát hại quốc vương và toàn bộ hoàng tộc
để cướp ngôi, đồng thời hắn cũng phái người đi ám sát hoàng tử Sinba đang tu học ở
Valisa nhưng không thành công. Nhân dịp này quốc vương Valisa đã ngỏ lời cho hoàng tử
Sinba mượn quân với danh nghĩa giúp bằng hữu lấy lại đất nước nhưng thực chất là muốn
thôn tính Saccira. Hoàng tử Sinba đã phối hợp với nhóm quân trung thành với vua cha
99
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

cùng với quân của Valisa tiến đánh phản quân Saccira, khi đó quân Kasmin (một quốc gia
láng giềng của Saccira) cũng tiến đánh ở mặt đông do thấy đây là cơ hội tốt để mở rộng bờ
cõi. Kết cục là phản quân của tể tướng đại bại do phải chống đỡ từ hai phía và quân của
ông bị tiêu diệt gần hết, ông ta chạy loạn một thời gian thì cũng bị chính thuộc hạ của
mình giết chết. Một nhóm nhỏ tàn binh chạy vào rừng Uranda để trốn tránh sự truy quét,
nhóm này một mặt muốn cướp lương để sống, đồng thời cũng vì sợ để lộ phong thanh nên
đã sát hại cha mẹ của Nepan để bịt miệng. Hoàng tử Sinba sau khi lấy lại được đô thành
thì quân lực của ông này cũng đã quá mệt mỏi, quân Valisa khi đó đã rút về nước với lý
do không đủ quân lương, và với lực lượng còn lại mệt mỏi sau cuộc nội chiến lại phải
đương đầu ngay với quân Kasmin tiến đánh nên hoàng tử Sinba đã chết trong trận chiến tử
thủ thành đô. Quốc vương Valisa sau đó đã lấy cái cớ báo thù cho hoàng tử Sinba và đem
một đội quân hùng hậu tấn công, đánh bại và đẩy lùi toàn bộ quân Kasmin ra khỏi Saccira,
sau chiến tranh ông ta đã sát nhập nước Saccira vào Valisa.
Nhìn thấy thế sự phân tranh loạn lạc lầm than như vậy, Butan bất giác thở dài ngao
ngán và thương cảm cho những thân phận phàm phu vô minh khổ đau trong kiếp người.
Ông cảm thấy mình phải có nghĩa vụ cứu độ cho hai đứa trẻ này về với chánh pháp, cho
chúng biết được con đường giải thoát. Sau một hồi an ủi, Butan nói với hai đứa bé: “Các
con bây giờ đã không còn nhà để về nữa, hay là các con hãy theo ta tu hành để tìm kiếm
sự giải thoát tự tại, thoát khỏi những khổ đau ràng buộc của cuộc đời, từ nay ta sẽ nuôi
dưỡng và bảo vệ cho các con”.
Hai đứa trẻ mừng rỡ cúi đầu chấp thuận, Butan dẫn hai đứa trẻ về hang gặp sư phụ,
đến trước cửa hang Butan nói: “Kia là thầy Canda đang ngồi thiền định, ngài là sư phụ của
ta và là tổ sư phụ của các con, nay các con hãy vào ra mắt thầy Canda đi”. Hai đứa trẻ
chạy lại quỳ lạy thầy Canda 3 lạy, đến hết lạy thứ 3 thì đột nhiên trên đầu 2 đứa trẻ đã
không còn một sợi tóc nào, chúng vô cùng ngạc nhiên và hoan hỷ. Butan bạch thầy: “Thưa
thầy, đây là hai đệ tử mà con mới thu nhận tên là Nepan và Ritana, để con kể cho thầy
nghe về hoàn cảnh bi thương của tụi nó”.
Butan định kể thì thầy Canda chặn lời: “Này Butan, những gì con định nói ta đều đã
biết cả rồi, con không cần phải trình bày nữa, ta tuy nhập định thâm sâu nhưng vẫn luôn
thấy biết rõ hết mọi chuyện. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà con gặp hai đứa bé này,
chúng rất có duyên với con và ta. Nepan kiếp trước chính là con chim Neru và cũng chính
là đồng nghiệp của chúng ta trong quá khứ xa xôi. Còn đứa trẻ Ritana này chính là con
ếch Rica kiếp trước, nay đã có phước được làm người và cũng có duyên với chúng ta, nên
từ nay con hãy cố gắng dạy dỗ cho chúng chánh pháp để chúng sớm được giải thoát”.
Trong lúc Butan vô cùng mừng rỡ như vừa gặp lại được hai người quen cũ, thầy Canda
thuyết pháp cho hai đứa trẻ nghe, chúng chăm chú nghe giảng nhưng Nepan thì tiếp thu
nhanh hơn. Sau hơn một năm giảng đạo và chỉ dạy các phương pháp tu hành, hai đứa trẻ
đã nắm bắt rõ các lý thuyết thiền định cũng như các giới hạnh cần giữ. Một hôm thầy
Canda gọi 3 người vào và nói: “Các con hãy tinh tấn mà tu hành, con đường tu hành đắc
100
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

đạo của các con ngắn hay dài là tùy vào ý chí và quyết tâm của mỗi người, các con hãy
giữ vững tâm tu hành trong nhiều kiếp theo đúng những gì ta dạy các con, hãy nương tựa
vào chánh pháp của các bậc giải thoát. Đây là kiếp cuối cùng của ta ở trái đất này nên
những gì ta dạy các con phải nắm thật kỹ, trong kiếp này phải cố gắng mà tu tinh tấn nhất
có thể, các kiếp sau ta không thể trực tiếp dạy dỗ nhưng ta vẫn sẽ âm thầm gia hộ các con.
Từ nay ta sẽ nhập thất để chuyên chú thiền định tiến vào các tầng sâu tâm thức nhằm loại
trừ tất cả các tập khí kiết sử, nên các con hãy tự lực mà tu hành theo những điều ta đã chỉ
dạy, sẽ rất ít khi ta xả thiền và ta chỉ xả thiền khi có việc quan trọng”. Nói xong thầy
Canda liền dùng thần thông tách phía trên đỉnh ngọn núi Puliya làm đôi, ông ngồi kiết già
bất động trên tảng đá tọa cụ và bay thẳng vào bên trong đỉnh núi, đỉnh núi liền khép lại.
Cả 3 đệ tử đều vô cùng hoan hỷ hướng về đỉnh núi lễ lạy thầy, từ đó dù đi đâu nếu họ cảm
thấy trong lòng xao động không an thì luôn hướng về đỉnh núi mà lễ lạy thầy với tâm
thành kính sám hối và mong thầy gia hộ cho sự tu hành của mình được vững vàng.
Kể từ đó, Butan không ngừng chỉ dạy đốc thúc sự tu hành thiền định và khí công của 2
đệ tử, các giới hạnh thanh tịnh và đạo đức của người xuất gia. Hai đứa trẻ rất siêng năng tu
tập và Butan cũng không hề buông lung sự tu tập của chính mình. Khi thầy Canda sống tới
được 215 tuổi thì ông cảm thấy duyên nghiệp cõi người đã hết liền gọi các đệ tử vào dặn
dò vài điều rồi ngồi thiền nhập định dùng lửa tam muội tự thiêu để viên tịch, cảnh tượng
đó thật huy hoàng làm cả Butan và hai đệ tử vừa cảm động, tiếc thương và tôn kính thầy
tột cùng. Sau khi thân xác thầy Canda cháy hết, cả 3 người gom lấy xá lợi của thầy cho
vào trong một hũ đất rồi bịt kín và đặt trên một bệ đá cao trong hang để lễ cúng mỗi ngày,
lúc này Butan khoảng 125 tuổi sự tu hành thiền của ông đã đạt được chánh niệm tỉnh giác.
Việc ông và hai đệ tử luôn lễ bái xá lợi của thầy Canda cũng làm cho cả 3 người tăng
trưởng được nhiều phước duyên với thánh vị sau này, sợ các kiếp sau mình bị quên đi
chánh pháp, Butan đã nghĩ ra được một kế. Ông khắc ra toàn bộ các bài giảng của thầy
Canda vào hang động, ông cũng kể cho hai đệ tử của mình nghe về các câu truyện mà thầy
Canda đã kể cho ông (từ một cho đến tám trong cuốn sách này) và dặn họ không được kể
cho bất cứ người thế tục nào biết. Ông cũng khắc lên cổ tay mình 1 hình chữa vạn (biểu
tượng cho tính vô tận của sự tồn tại) và dặn hai đệ tử nếu sau này gặp một đứa trẻ nào có
cái bớt chữ vạn ở cổ tay thì phải dẫn nó vào cái hang này và truyền dạy lại hết tất cả
những gì ông đã dạy cho hai đệ tử và bắt họ hứa không được cho đứa trẻ đó biết rằng nó
chính là Butan kiếp trước, hai đệ tử chắp tay đồng thuận. Cả ba tiếp tục tinh tấn tu hành
thiền định và luôn cố gắng làm phước dù là những việc rất nhỏ. Khoảng năm Butan 210
tuổi, lúc này ông đã đạt được quả vị thánh Tu đà hoàn, ông gọi hai để tử vào dặn dò vài
điều rồi hẹn trước ngày chết của ông, đúng ngày hẹn ông đã chết rất an lạc như một giấc
ngủ ngon. Sau khi Butan chết, hai đệ tử chôn cất ông rồi tiếp tục tinh tấn tu hành và cũng
nguyện rằng nếu 1 người chết trước thì người kia phải đi kiếm người chết trước ở kiếp
mới mà truyền giảng chánh pháp để khéo duy trì đường đạo không bị đứt mạch.

101
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Khoảng chừng 12 năm sau thì cả hai người đã đạt được trạng thái chánh niệm tỉnh giác
và có chút thiên nhãn thông, họ chia ra hai hướng để đi tìm thầy mình như đã hứa. Nepan
thì tìm được thầy mình trước khi đó là một chú bé chăn trâu tên Beday có cái bớt chữ vạn
ở cổ tay, ông đã dẫn đứa bé về hang để chỉ dạy các phương pháp tu học nhưng không dám
nhận đứa bé làm đệ tử dù đứa bé rất muốn bái ông làm thầy, đứa bé có căn cơ rất cao, học
đâu hiểu đấy và rất chăm chỉ tu tập. Cả hai người ở trong hang động tinh tấn thực hành
thiền định và Beday luôn không hiểu vì sao vị sư này lại luôn giữ một mức độ kính trọng
với mình trong khi đáng lý mình phải là người tôn kính ông ta, vì vậy cả hai người lớn bé
cùng tôn kính nhau. Nepan cũng kể cho Beday toàn bộ các câu truyện về bản chất của
hiện thực (từ một cho đến tám trong cuốn sách này) nhưng không hề nhắc đến sự liên hệ
giữa Butan và Beday, khi nghe qua các câu truyện thì Beday cũng có cảm giác rất quen
thuộc như là mình đã từng nghe trước đây.
Vài năm sau đó thì Ritana cũng trở về hang và cả 3 người họ tiếp tục cùng nhau tu
hành, khi Nepan thọ 200 tuổi cũng viên tịch và cũng dặn dò hai người kia phải tìm mình ở
kiếp sau, một thời gian sau khi Ritana thọ 209 tuổi thì ông cũng viên tịch và cũng không
quên dặn dò Beday phải đi tìm mình. Vậy là nghiệp duyên 3 người này cứ sâu dày dần
theo thời gian, họ luôn gặp nhau tu hành trong nhiều ngàn năm, có khi thì người này đầu
thai trước khi thì người kia lớn tuổi hơn, duyên số xoay vần và họ dù không sinh ra trong
cùng một gia đình nhưng khi đã gặp nhau thì tình thân còn hơn cả anh em ruột thịt, sau vài
trăm kiếp thì Nepan cũng đã chứng được thánh vị Tu Đà hoàn còn Ritana thì chưa.

102
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

CÂU TRUYỆN THỨ CHÍN


NGƯỜI THẦY CÕI VÔ HÌNH
Vào khoảng thời gian 27.000 năm lịch sử của nền văn minh đương đại, tức là vào thế
kỷ 21 hiện nay, một xã hội toàn cầu hóa quen thuộc với tất cả chúng ta, một thế giới phẳng,
công nghệ khoa học vật lý đã phát triển vược bậc và kim tiền trở thành thước đo giá trị
cho chuẩn mực của xã hội loài người, tuổi thọ con người lúc này chỉ còn khoảng 80 tuổi.
Mục đích sống của con người trong thời đại này phần lớn là đi tìm kiếm vật chất tiền bạc
và dùng nó để lấp đầy mọi ham muốn của dục vọng bản thân.
Các giá trị đạo đức và tu tập tâm linh ngày càng trở lên mờ nhạt và chỉ mang tính hình
thức chứ không còn cái tinh túy cũng như giá trị cốt lõi như trước nữa. Sự bận rộn của đời
sống đương đại làm cho không một ai còn tâm trí để nghĩ đến lịch sử toàn ký thật sự của
nhân loại nó diễn ra như thế nào, có đúng hay không? Họ không hề hiểu rõ bản chất thực
tại đang vận hành xung quanh họ, họ không muốn thắc mắc nó đang diễn ra như thế nào.
Tôi cũng chỉ là một người bình thường sống tầm tầm trong cái thời đại này, nhưng tôi
luôn tò mò về những gì đang thực sự diễn ra xung quanh mình. Dường như tính tò mò đã
ăn sâu trong tâm trí tôi rất mãnh liệt từ thuở nào, từ nhỏ tôi đã luôn không ngừng hỏi ba
mẹ tôi những câu hỏi “tại sao… tại sao…” đến nỗi làm cho họ phát cáu. Tôi luôn nhìn lên
mặt trăng rất lâu để cố mường tượng về nó và cấu tạo bên trong nó như thế nào, giá mà tôi
có một cái kính viễn vọng thật lớn thì tốt biết mấy, giá mà tôi có thể lên được trên đó. Tôi
luôn nhìn lên bầu trời hàng đêm, vẻ đẹp vô tận của nó luôn làm tôi mê say, các vì tinh tú
lấp lánh làm tôi luôn tự hỏi ngoài đó chắc hẳn phải có rất nhiều điều lý thú kỳ diệu lắm,
ước gì mình biết được mọi điều ngoài đó nó thế nào.
Trong một lần bị bệnh nặng, sau khi hết bệnh tôi luôn cảm giác có điều gì đó mới lạ
đang hiện hữu xung quanh mình mặc dù mình không hề nhìn thấy. Các giấc mơ về những
thế giới kỳ lạ bắt đầu xuất hiện, nơi đó tôi thấy những sinh vật kỳ lạ, những cảnh vật kỳ lạ
mà tôi chưa từng thấy trước đây. Trong khi thức tôi luôn nghe được (không phải bằng tai)
những câu nói xuất hiện trong tâm trí, những ý tưởng tự nhiên xuất hiện đâu đó trong đầu
dù mình không hề động não. Những lúc tôi tò mò về điều này điều kia thì đều nhận được
một gợi ý, dần dần những điều đó trở lên quen thuộc và là điều rất bình thường với tôi,
nhưng chính những sự tác động đó làm cho hành vi của tôi bên ngoài khiến mọi người
nghĩ tôi hơi không bình thường, kiểu như tôi là một người sống nội tâm, lập dị và tự kỷ.
Tôi cũng chả có thời gian mà quan tâm nhiều đến suy nghĩ của mọi người cho lắm,
điều duy nhất tôi thực sự quan tâm là làm sao lý giải được mọi câu hỏi để thỏa mãn tính tò
mò vô tận của bản thân. Cứ mỗi lần tôi thắc mắc thì những câu trả lời lại tự nhiên hiện ra
trong tâm trí (cũng có lúc thì không) và tôi dần nhận ra hiện thực nó như là một bức tranh
rộng lớn với những mảnh ghép rời rạc, đa số mọi người chỉ thấy một phần của bức tranh
rời rạc đó và chấp nhận cái mảnh rời rạc đó như là một chân lý cuối cùng.

103
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Họ mặc kệ những khiếm khuyết của cái chân lý nhỏ bé mong manh vụn vặt mà họ tin
tưởng đó và không hề muốn biết thêm bất cứ điều gì khác ngoài nó. Họ không hề muốn
biết cái bức tranh toàn cảnh nó thực sự hùng vĩ đến cỡ nào.
Tôi dần biết được là tôi không hề đơn độc mặc dù tôi chỉ luôn lủi thủi một mình trong
căn phòng riêng vắng lặng, sau một thời gian tôi nhận ra mình đang có một người bạn vô
hình luôn dõi theo tôi và tôi rất vui vì điều đó. Tôi rất hạnh phúc và hoan hỷ vì tôi cảm
nhận được cái tâm vị tha từ bi của người đó làn truyền đến tôi, điều đó làm tâm tôi luôn
vững vàng an lạc trong cuộc sống nhiều bon chen bận rộn.
Người bạn đó luôn chỉ dẫn cho tôi mọi điều, luôn khuyên bảo tôi phải làm những điều
đứng đắn nhất, hợp lý nhất và tôi luôn xem người bạn đó như một người thầy vô hình của
mình và tôi vô cùng tôn kính ông ta. Bằng cách tự đặt những câu hỏi trong tâm trí và ông
ta tác ý trả lời lại các câu hỏi của tôi, tôi đã dần biết được hết những câu truyện mà người
đó muốn kể, đó là những câu truyện về bản chất của thực tại mà tôi đang kể cho các bạn
nghe trong cuốn sách này.
Có người thì theo chủ nghĩa vô thần, có người thì duy vật hoặc duy tâm, có người thì
độc thần hoặc đa thần, có người thấy có ma và có nhiều người lại không thấy, có người thì
tin người ngoài hành tinh và nhiều người thì không, có người thì chỉ tin vào khoa học…
vậy chẳng lẽ hiện thực nó rời rạc vụn vặt như vậy hay sao… rõ ràng tất cả bọn họ, mỗi
người đều kể những câu truyện khác nhau mà họ đều tin và cho đó là sự thực. Sau nhiều
ngày giao tiếp với người bạn vô hình thì tôi chợt nhận ra rằng tất cả những dữ kiện mà
mọi người kể lại đó chúng đều có thực, chúng là những mảnh ghép rời rạc của ký ức,
những mảnh ghép nhỏ của thực tại tổng thể.
Những gì xảy ra trong những câu truyện, những bộ phim đều diễn tả một phần của hiện
thực trong các kiếp quá khứ nơi mà những người kể đã từng tồn tại ở đó và nay họ nhớ lại
trong ký ức, những phóng ảnh của tiềm thức, vì vậy tất cả những câu truyện đều có nhiều
phần đúng trộn lẫn với phần tạp niệm hư cấu theo một tỷ lệ nhất định.
Sau một thời gian dài giao tiếp bằng tâm thức, sau khi ông ta kể hết lần lượt tám câu
truyện của hiện thực thì tôi cũng dần biết được người thầy vô hình của mình chính là
Ritana (dùng tên gọi quá khứ cho đọc giả dễ hiểu) trong câu truyện thứ tám của cuốn sách
này. Hiện tại ông đang là một vị thần sử học trong cõi vô hình (cõi âm của Trái Đất) và
ông có thể nhớ được một vài kiếp trước của mình. Điều đầu tiên mà tôi thắc mắc và hỏi lại
ông ta rằng phải chăng trước khi chưa có nhà nước Diêm La thì những kẻ làm điều ác ở
Trái Đất không bị trừng phạt bởi luật nhân quả sau khi chết hay sao.
Ông bèn tác ý trả lời lại rằng luật nhân quả bao trùm mọi sự vật hiện tượng trong vũ
trụ, không có điều gì nằm ngoài luật nhân quả cả. Nếu Trái Đất âm không có nhà nước
Diêm La thì những kẻ ác khi chết cũng vẫn sẽ bị thoái hóa thành những con ngạ quỷ yếu
ớt trong cõi vô hình và bị các tộc thiên ma ba tuần bắt ăn thịt hết, độ ác càng nhiều thì số
kiếp tồn tại ở hình thái ngạ quỷ càng nhiều. Nhưng nếu để xã hội âm giới đó hoàn toàn vô
kỷ luật thì cũng sẽ chẳng chúng sinh nào ở Trái Đất có điều kiện thuận lợi để tu hành
104
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

chánh đạo cả, do âm dương không phối hợp được với nhau, nếu nền khoa học tâm linh ở
Trái Đất yếu kém thì con người khi sống sẽ khó tu hành chánh pháp và dễ bị các thiên ma
ba tuần tác ý xúi bậy, thiên ma hại người để có thể thu hoạch được nhiều ngạ quỷ ăn thịt
và thiên ma sau khi chết lại bị đầu thai làm thú vật để cho người ăn lại, vòng luân hồi cứ
vay vay trả trả một cách vô tận ở cái hành tinh này thì thử hỏi liệu chúng sanh lấy đâu thời
gian mà tu hành chánh đạo được.
Nhà nước cõi dương hay nhà nước cõi âm thì cũng đều là các hệ thống nhân tạo nhằm
mô phỏng lại một phần nào đó của luật nhân quả mà thôi, xã hội càng văn minh tiến bộ
bao nhiêu thì xã hội đó lại càng phản chiếu luật nhân quả sâu sắc hơn và với tỷ lệ càng cao
hơn bấy nhiêu. Nếu những phần nghiệp lực của chúng sanh mà cả hai nhà nước âm và
dương đều không thể mô phỏng được thì dòng chảy nhân quả sẽ vận hành cho chúng sanh
đó thọ lãnh quả báo một cách tự động trong tương lai, phía âm giới nghiêng về nền khoa
học tâm linh nhiều hơn còn ở cõi dương thì ngược lại. Việc nhà nước Diêm La hình thành
có ý nghĩa làm cho chúng sanh thiện ác được phân chia rõ ràng hơn, các chúng sinh bớt
tạo nghiệp ác hơn, để điều tiết dương gian, bảo hộ người tu hành chân chính và quan trọng
tạo dựng được môi trường pháp lý thích hợp cho chánh pháp phát triển tại Trái Đất.
Tôi tiếp tục hỏi rằng phải chăng chỉ có cõi âm trên Trái Đất mới có địa ngục, còn các
hành tinh khác ở trong vũ trụ thì không có. Ông ta tác ý trả lời rằng không chỉ ở Trái Đất
mà trong vũ trụ cũng có vô số địa ngục phía âm ở vô số các tinh cầu vùng biên địa với
nhiều cấp độ tàn bạo khác nhau. Những tinh cầu vẫn còn có sự phân cực âm dương cao và
tinh cầu ở dạng âm chính dương phụ thì thường có địa ngục ở phần âm của tinh cầu đó,
nếu phần âm của một tinh cầu được thống trị hoàn toàn bởi chủng thiên ma ba tuần thì tinh
cầu đó không hỗ trợ sự sống phía dương nhiều và địa ngục ở đó thường rất tàn bạo và đó
thường là những tinh cầu thuộc các thiên hà ở vùng biên địa.
Các thức siêu cấp phàm phu ác độc gần các tinh cầu này do nghiệp lực chiêu cảm
tương đồng nên sẽ bị các tinh cầu này hút về và tái sinh thành các ngạ quỷ, những con ngạ
mới hóa sinh đến đây đều bị các thiên ma ba tuần bắt ăn thịt hết mà không cần tra khảo tội
lỗi. Địa ngục cõi âm trên Trái Đất được xem như là một địa ngục khá nhân đạo cho những
thức ác tính so với nhiều địa ngục khác trong vũ trụ. Những tinh cầu có sự hài hòa âm
dương cao sẽ không còn sự phân cực nên cũng không có địa ngục vì phần âm đã không
còn rõ ràng mà nó đã hòa nhập với phần dương hình thành môi trường sinh thái siêu nhiên.
Ví dụ như những tinh cầu của các cấp trời, các cấp Atula và các cấp Mara, những tinh cầu
này không còn có 2 phía thế giới âm dương rõ ràng nữa, sự hòa hợp âm dương cao tại
những nơi này tạo nên hệ sinh thái siêu nhiên đặc biệt thuận lợi cho các chủng loài tiến
hóa cao cấp sinh trưởng và phát triển, những cá thể ác của những nơi này khi chết vẫn bị
hút về phía các tinh cầu âm chính vùng biên địa (tức là vẫn đọa địa ngục khi làm ác).
Tôi lại thắc mắc về cõi trời Tứ Thiên Vương, tại sao lại gọi là tứ thiên vương? Ông ta
tác ý trả lời rằng 4 vị vua trời thống trị vùng vũ trụ tầng trung. Nhiều kiếp trước xuất thân
(quê hương quá khứ) từ 4 châu phía vũ trụ tầng thấp là Tây Ngưu châu, Bắc Lô châu,
105
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Đông Thắng châu và Nam Thiệm châu. Bốn vị này do biết cách tu tập chánh pháp nên
trong vô số kiếp đã tạo một lượng phước đức rất lớn, họ hóa sinh vào làm các vị trời ở vũ
trụ tầng trung, với trí tuệ và năng lực lãnh đạo phi thường nên gần đa số các thiên hà ở
vùng này đều nằm trong tầm quản lý của 4 đại quốc do 4 vị vua này cai quản, do có xuất
thân từ 4 châu dưới nên 4 vị này dành sự quan tâm đặc biệt cho 4 châu này. Chỉ có một số
ít thiên hà vùng này nằm trong tầm kiểm soát của các loài Mara thấp và Atula cao.
Tôi liền tiếp tục thắc mắc rằng việc Batca tiến vào thế giới âm của Trái Đất là điều bí
mật mà chỉ riêng nhóm người Summerian đến Trái Đất thời kỳ đầu của Golden Age biết
được thì làm sao ông ta có thể biết mà kể cho tôi nghe, ngoài ra tại sao tuổi thọ của Diêm
Đế lại lâu đến như vậy, và Batca là cấp trời dục giới mà sao có thể tự tiến vào âm giới
được. Ông ta tác ý trả lời rằng do ông ta làm thần sử học (công dân cõi âm có địa vị) nên
có thẩm quyền tiếp xúc với tất cả các tư liệu cổ ở đại thư viện phía Trái Đất âm giới, qua
đó biết được toàn bộ mọi diễn biến của tất cả các câu truyện lịch sử thực sự đã diễn ra một
cách khách quan nhất (chứ không có bị sai lệch thiên kiến như lịch sử ghi chép ở cõi
dương). Đại thư viện này lưu trữ tất cả những tư liệu lịch sử Trái Đất ở cả hai phía âm
dương từ trước cả thời Batca lập quốc cho đến tận ngày nay. Và việc ông ta nói với tôi
mọi điều cũng đã được sự chấp thuận Batca, vì Diêm Đế cho rằng đã đến lúc trí tuệ nhân
loại có đủ khả năng để tiếp thu được những câu truyện về hiện thực này, đã đến lúc con
người cần phải được hiểu rõ về những gì thực sự đang diễn ra xung quanh họ. Và qua đó
ông ta cũng muốn thăm dò động thái của Mahora nói riêng cũng như phản ứng của nhân
loại nói chung sau khi được biết về những câu truyện hiện thực này. Còn về tuổi thọ của
ông ta thì ở trạng thái âm nhiều như vậy ông ta chỉ thọ tối đa là 10.000 năm, cứ mỗi
10.000 năm ông ta lại tái sinh 1 lần ở âm giới và mỗi lần như vậy thầy Plater lại đến để
sắp sếp cho vị Diêm Đế mới nhậm chức nhưng thực chất vẫn là Batca kiếp trước.
Việc Batca có thể tiến vào âm giới là con đường 1 chiều và chỉ có một số cá thể thuộc
nhóm chủng trời dục giới cao cấp nhất trong khối AGUN mới làm được, chỉ có các chủng
sắc giới và vô sắc thì di chuyển qua lại giữa 2 mặt âm dương dễ dàng, còn thầy Plater đã
đạt đến cấp Arahán nên có thể tự tại hết các cõi. Trong thực tế khi ở cõi người, ma, Atula
hay cõi trời dục giới thì dù là trong thân hình vẫn ở cấp độ đó nhưng thực ra trong tâm
thức nhiều vị cũng đã tiến hóa được lên các tầng cao hơn, nếu hết tuổi thọ thân mạng đó
thì họ lập tức tái sinh lên tầng cao theo đúng thứ hạng tâm thức mà họ đã đạt đến (trừ khi
họ không muốn, nghĩa là họ vẫn muốn ở lại cõi thấp để làm nhiệm vụ).
Và tôi lại tiếp tục thắc mắc tiếp rằng trong hội đồng tâm linh JEUN chắc chắc phải có
những vị trời cũng đã chứng bậc thánh quả vị Arahán và nếu như vậy chắc chắn họ cũng
sẽ biết về âm mưu của Mara, vậy tại sao suốt bao nhiêu ngàn năm qua những vị trời lãnh
đạo khối AGUN lại không đem quân đến giải cứu cho người Trái Đất, và tại sao hội đồng
tâm linh JEUN đều biết các chủng Mara đều ác mà không đem quân tiêu diệt hết. Ông ta
tác ý trả lời rằng các vị thánh Arahán họ đều cân đong đo đếm tội phước, nghiệp quả căn
cơ trong tâm của mọi chúng sinh trong khắp pháp giới vũ trụ và qua đó đưa ra những
106
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

phương hướng hóa độ phù hợp nhất sao cho dòng chảy nhân quả đi theo hướng tốt đẹp
nhất cho chúng sanh trong tương lai. Nếu cứu nhân loại thì sẽ mất rất nhiều sinh mạng của
các loài cao cấp ở cả hai khối AGUN và KORUN khi cuộc xung đột này leo thang chỉ vì
một nhóm người nhân loại vẫn vô minh tà kiến chưa trưởng thành.
Cái giá phải trả với họ là quá đắt cho một điều không đáng vì cho dù có giải phóng
được nhân loại thì hệ quả là loài người với tập khí tâm địa vô minh si mê tà kiến ngu si
sau đó sẽ dần trở thành một chủng loài Greys mới và chấp thuận gia nhập KORUN khi
nhận được những lời mời gọi hấp dẫn, như vậy chẳng khác nào họ vô tình giúp một lực
lượng tiêu cực mới hình thành trong vũ trụ.
Những tâm tính tham vọng vị kỷ ác độc ngã mạn trong nội tâm của nhân loại chưa
được giải trừ kết hợp với những công nghệ siêu việt thì sẽ là một mối tai họa lớn cho rất
nhiều chủng loài khác trong vũ trụ, và chính cái tâm bất thiện của nhân loại từ lâu đã dần
thành cái cớ để chủng Mara cai trị tinh cầu này một cách hợp thức hóa. Trên bàn đàm
phán chính trị tầm vĩ mô giữa các chủng loài cao cấp tại SGG vẫn luôn có sự tranh cãi về
tương lai của nhân loại và các nước cờ vi diệu ở cả 2 phía vẫn luôn được âm thầm triển
khai. (Ví dụ sau khi Mahora tạo ra tà giáo VandesII thì Khối AGUN cũng đã điều 1 vị trời
dục giới tái sinh xuống Trái Đất để nhằm điều chỉnh hạn chế lại những cái sai trong hệ
kinh VandesII qua đó làm dịu đi sự ác độc của nhân loại do ảnh hưởng của tà giáo VandesII
gây ra và vị trời này đã bị nhóm giáo sỹ của Mahora bức hại một cách tàn bạo trên cây
thập tự). Những vị thánh trong JEUN đều thấy trước được những điều bất cập và họ sẽ
không mất công cứu một chủng loài chỉ để sau này chủng loài đó trở thành cái họa cho các
chủng loài khác, cái giá để cứu nhân loại cũng không phải là rẻ và đó là một sự cứu giúp
vô nghĩa khi nhân loại rất dễ bội bạc. Ông ta bảo tôi hãy cứ nhìn cách loài người đối xử
với mọi loài động vật khác, hãy nhìn cách các quốc gia đối xử với nhau sẽ thấy bản chất
mánh mung tráo trở ác độc vô ơn vẫn còn đang ngủ vùi trong sâu thẳm tiềm thức của nhân
loại chưa hề được hóa giải. Việc các chủng loài cao cấp trong AGUN để mặc chủng Mara
kìm hãm trí tuệ loài người bằng các tà giáo được xem là giải pháp tạm để nhân loại không
lan truyền sự ngu dốt ra bên ngoài vũ trụ.
Không có gì đảm bảo khi được tiếp cận những công nghệ và tri thức cao cấp thì con
người sẽ không lợi dụng nó để làm điều xằng bậy, vậy nên con người cần phải tự lực trong
vấn đề phát triển tu tập đạo đức, tích cực giữ giới và tích lũy phước trước (vì nếu đạo đức
không theo kịp tri thức khoa học thì sẽ là tai họa rất lớn về sau). Việc một chủng loài được
khối AGUN cứu giúp sau đó đã trở nên vô ơn và gia nhập khối KORUN vì các lợi ích vị
kỷ của cá thể loài đã từng nhiều lần xảy ra trong lịch sử ngân hà, vậy nên khối AGUN sẽ
không cứu nhân loại khi mà bản thân nhân loại chưa thực sự xứng đáng.
Còn về việc tại sao không tiêu diệt hết các chủng Mara, ông ta nói rằng suy nghĩ của
tôi thật đúng chất phàm phu ngây thơ nên mới nghĩ đến phương án vô minh đó, khái niệm
về Mara chẳng qua chỉ là thành kiến mà các chủng loài ở mặt dương đặt cho nhóm các
chủng loài tiến hóa cao ở mặt âm, thực chất các chủng ma và thiên ma phía âm thường coi
107
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

chủng Mara như những vị thần của họ (giống như con người coi các chủng trời dục giới là
thần vậy). Có nghĩa là nếu các chủng trời dục giới chiến tranh tiêu diệt các chủng Mara thì
dòng chảy nhân quả cũng sẽ cho những vị trời sân hận tham chiến đó ở kiếp tương lai sẽ
bị đọa thành những loài Mara mới và do những vị trời chánh đạo rất am hiểu rõ về nhân
quả học một cách sâu sắc nên họ không bao giờ làm như vậy.
Chỉ có khối KORUN và loài người do không hiểu rõ luật nhân quả nên mới có cái tư
duy tà kiến như thế, ông ta quở trách tôi vì suy nghĩ đó. Xét cho cùng thì các chủng Mara
cũng là những chúng sanh lầm đường lạc lối (tâm ham muốn quyền lực làm thức bị rơi
vào chu kỳ âm). Đồng thời chưa chắc tất cả các chủng Mara đều là quá xấu, và các chủng
Mara cũng không hẳn là những lực lượng tiêu cực hoàn toàn của vũ trụ (sự chi phối của
các chủng Mara có chức năng tích cực là làm kìm hãm sự phát triển khoa học của những
chủng loài ngu dốt, làm cho sự ngu dốt đó không gây ảnh hưởng quá lớn trong vũ trụ).
Những vị trời trong khối AGUN phải tìm cách vừa cảm hóa họ vừa ngăn chặn điều ác
của họ, làm cho họ tâm phục khẩu phục mà thay đổi. Vì vậy nên các vị trời trong AGUN
họ rất rất kiềm chế và kiên nhẫn trong việc giáo hóa các Mara và Atula. Và giả sử nếu có
tấn công hết các chủng Mara thì Ngân Hà này sẽ tan tành, ảnh hưởng đến vô số các chủng
loài cấp thấp (trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết), và điều đó là đại họa mà cả 2 khối đều
không bao giờ mong muốn chuyện đó xảy ra. Đồng thời các chủng Mara cũng rất thân
thiết với các chủng trời dục giới tà đạo nên việc đụng đến Mara cũng đồng nghĩa với việc
gây chiến với vô số chủng trời tà đạo (các hiệp ước mà SGG thiết lập là vô cùng chặt chẽ
để tránh xảy ra một tai họa kiểu như vậy). Vì vậy lên đến cấp độ tiến hóa cao thì sự tranh
đấu giữa các loài diễn ra rất vi tế sâu sắc chứ không có chuyện hở một chút là động tay
động chân, họ đấu nhau chủ yếu về trí tuệ và phước khí. Càng lên cấp độ cao thì sự đấu
tranh càng trở lên sâu sắc vi tế hơn và khi lên đến các cõi sắc giới thì sự đấu tranh chỉ còn
diễn ra bên trong nội tâm của mỗi cá thể chứ không còn có sự tranh đấu ở bên ngoài nữa.
Tôi lại tiếp tục hỏi là tại sao khi thôn tính Trái Đất thì Mara không chiếm luôn phần
âm giới, ông ta tác ý trả lời rằng tuy Batca trong thân thể âm nhiều hơn nhưng pháp lực lại
cao hơn Mara rất nhiều và còn có thầy Plater đứng sau hậu thuẫn, nên Mara dù biết là có
tồn tại nhà nước cõi âm trên Trái Đất nhưng rất kiêng dè, hắn không hiểu rõ về nguồn gốc
của nhà nước này và cũng chẳng dám làm gì. Trước đây hắn cũng đã từng một lần chạm
trán Batca nhưng cảm thấy sức hắn so với Diêm Đế là một trời một vực nên hắn rất sợ ông
ta, hắn cảm thấy bối rối không hiểu vì sao một cá thể âm nhiều hơn hình thái tồn tại của
hắn (ít hài hòa âm dương hơn hắn) lại có pháp lực cao đến vậy, vì theo lý thuyết thông
thường thì càng hài hòa âm dương thì pháp lực càng cao, nhưng Diêm Đế thì có thể làm
ngược quá trình và nén pháp lực ở một trạng thái rất âm làm Mara không thể hiểu nổi.
Điều duy nhất Mara có thể làm là cắt đứt mọi sự liên hệ giữa 2 thế giới âm dương, đó
là lý do vì sao hắn dựng lên tà giáo độc thần để xóa bỏ mọi nhận thức của con người về
âm giới, tà giáo của hắn phủ nhận mọi sự hiện hữu của thế giới âm, hắn thích xây dựng
các các tà giáo độc thần vì nó làm con người mê tín nhất và kinh điển của tà giáo này
108
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

thường luyên thuyên về cái gọi là “tội lỗi tổ tông” (ý nói đến cái lỗi mà nhân loại đã đối
xử với hắn trong quá khứ). Mọi dạng niềm tin về quy luật nhân quả đã tồn tại ở từ thời
Recon Age tạo nên một ngưỡng chuẩn mực đạo đức nhất định cho con người cũng bị hắn
tìm cách xóa sổ. Vì muốn phát triển các hệ phái tà giáo độc thần một cách hiệu quả thì 2
chủng Mara Doomerian và Atula Kondroskans luôn tìm cách triệt tiêu hết mọi hệ thống
niềm tin liên quan đến luật nhân quả và luân hồi, vì khi con người đã không còn tin vào
luật nhân quả và không còn tin hiểu về cơ chế luân hồi nữa thì họ sẽ dễ dàng làm rất nhiều
điều sai trái ác độc mà không hề hối tiếc (theo đúng ý đồ mà 2 chủng này mong muốn), đó
là lý do vì sao 2 chủng loài này tạo nên 2 loại tà giáo vô cùng độc hại cho loài người. Nói
cho cùng thì ngay cả 2 chủng này cũng không thật sự hiểu biết nhiều về nhân quả học
(chuyên ngành khoa học chuyên nghiên cứu về cơ chế vận hành của quy luật nhân quả
trong vũ trụ chỉ có ở khối AGUN) vì thế nên với các tầng thuộc địa của chúng cũng muốn
xóa bỏ các dạng lý thuyết về nhân quả. Và khi nhân loại đã không còn tin luật nhân quả,
cộng với việc phát triển khoa học kiểu duy vật mù quáng kèm thêm sự phát triển của
những tà giáo độc thần thì tất yếu dẫn đến việc đạo đức xã hội loài người sẽ xuống dốc
không phanh, do họ không biết những điều sai trái ác độc mà mình làm rồi sẽ quay trở lại
với chính họ trong tương lai, và như vậy sự diệt vong của nền văn minh nhân loại trong
tương lai là điều khó tránh khỏi.
Tôi tiếp tục hỏi rằng tại sao Mara tạo ác nghiệp lâu đến vậy mà không hết phước, ông
ta bèn trả lời rằng vì thực ra Mara cũng rất hiểu nhân quả, cũng song song làm phước với
nhân loại, ông ta thiết lập ra những cơ chế vận hành nhân quả sao cho con người mãi mãi
nợ ông ta trong nhiều kiếp, qua đó phụng sự ông ta như chúa trời. Đồng thời do nghiệp lực
của chúng sanh đúng sai xen kẽ với những tỷ lệ khác biệt, nếu phần tội lỗi của chúng sanh
càng nhiều thì khi Mara gây ảnh hưởng tiêu cực cho chúng sanh đó thì ông ta lại càng ít có
tội và thậm chí lại xuất hiện phước hữu lậu (cơ chế âm nhân âm trong luật nhân quả).
Mara tuy có hiểu biết về khoa học nhân quả nhưng cũng không am hiểu tường tận sâu sắc,
hắn hiểu nhân quả không tới nơi nên cứ nghĩ làm ra các vòng tuần hoàn phước hữu lậu với
các loài thấp thì mình sẽ không bao giờ chết, nhưng hắn không hiểu loại phước mà hắn tạo
là không bền vững vì những năng lực bất cập tích lũy kèm theo quá nhiều tới một lúc giá
trị phước mà hắn ảo tưởng sẽ bị mục ruỗng từ bên trong và tâm hắn sẽ sụt đổ.
Tôi lại thắc mắc là tại sao khi nhóm Kypton vẫn còn thì chỉ có 2 chủng Mara và Atula
lại thích tạo ra các tà giáo còn Greys thì lại không muốn nữa, ông ta trả lời rằng vì chủng
Greys rất nể Mahora nên không muốn tạo ra một tà giáo khác để cạnh tranh với Mara, và
vì chủng Grey là ở thế chiếu dưới so với 2 loài trên nên việc chống đối họ cũng phải vô
cùng tế nhị. Nhưng chủng Grey vẫn có sự cạnh tranh kín đáo, khoảng hơn 200 năm trước
công nguyên thì chủng này cũng đã giúp một vị hoàng đế của một nước Bàn Cổ mới thống
nhất thiên hạ với mong muốn xây dựng nền móng cho hệ tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực
đoan sau này, thậm chí phi thuyền của họ còn đáp xuống hoàng cung để làm việc trực tiếp

109
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

vị hoàng đế này. Được một thời gian ngắn cảm thấy Mahora không vui nên, Greys cũng
hủy bỏ dự án này (mãi đến thế kỷ 19 dự án này mới được tái khởi động trong bí mật).
Về sau khi nhóm Kypton bị tan rã thì chủng Greys mới tiến hành phương án đầu tư
vào giới tài phiệt để hỗ trợ cho tà giáo của Mara. Nhưng càng về sau thì xảy ra sự mâu
thuẫn giữa việc phát triển khoa học của nhóm tài phiệt với sự phát triển của tà giáo độc
thần VandesII do giới tài phiệt phát triển theo xu thế khoa học còn hệ VandesII phát triển
dựa trên sự mê tín của loài người, 2 điều này là mâu thuẫn (con người không thể vừa bị
ngu và vừa hiểu biết khoa học cùng một lúc được). Nhóm tài phiệt đã tự tạo ra một tà giáo
mới cho riêng mình tương thích hơn, nhóm này đã tiến hành hậu thuẫn dựng lên một gã
giáo chủ mới, hệ thống tà giáo của gã này rất tinh vi, vay mượn nhiều lý thuyết của Phật
Giáo rồi sau đó lại phủ nhận đạo Phật, hắn tự cho hắn là chí tôn vô thượng, cao hơn Phật.
Giáo lý của hắn cũng nói về nhân quả nhưng diễn giải sai lầm lệch lạc, hệ thống giáo lý
mà hắn rao giảng là sự kết hợp giữa khí công với Đạo giáo và Phật giáo, lý thuyết của tà
giáo này cũng đem lại cho con người một phần giá trị về mặt sức khỏe nhưng lại làm con
người mê muội mù lòa về mặt tâm linh, hoàn toàn không hiểu rõ cơ cấu vận hành tổng thể
của vũ trụ. Mục đích nhóm tài phiệt tạo ra tà giáo này cũng vẫn chỉ là để kiểm soát nhân
loại và thôn tính thế giới, nhóm tài phiệt đầu tư rất mạnh cho hệ thống tín ngưỡng mới này
vì nó ít mâu thuẫn với sự phát triển khoa học công nghệ của họ và đồng thời họ cũng lạnh
nhạt dần với giới giáo sỹ của hệ tà giáo độc thần của Mara. Việc gieo rắc tà giáo cho thế
giới sẽ làm cho những kẻ chủ mưu trong nhóm tài phiệt bị hao tổn phước rất lớn, nhiều
kiếp về sau bị đọa dưới địa ngục và nhiều kiếp sinh ra đời sẽ bị ngu đần (vì nếu kẻ nào
dùng sự thông minh để hại người thì luật nhân quả sẽ không cho kẻ đó có được sự thông
minh nữa, vì số lượng người bị hại quá nhiều nên sự tổn phước có tính lũy kế phát sinh rất
lớn làm cho hàng triệu triệu kiếp những kẻ này luôn ngu đần).
Ngoài ra lực lượng của Mara cũng như Atula luôn thực hiện việc cài những vị tà sư giả
hiệu trà trộn vào trong tăng đoàn Phật giáo, chui sâu rồi leo cao trong tăng đoàn sau đó
tiến hành rao giảng tà pháp tà thuyết, làm nhân loại hiểu biết lệch lạc về nhân quả học qua
đó hủy diệt Đạo Phật từ bên trong. Sau khi một quốc gia mất dần những ý niệm về niềm
tin nhân quả chân chính thì lúc đó 2 tà giáo mới có cơ hội nhảy vào thôn tính hệ tư tưởng
người dân. Chủng Atula khi biết Greys tài trợ cho nhóm tài phiệt tinh anh R, cũng đã âm
thầm cài người vào trong nhóm này (các cá thể Kondroskans rất giỏi trong việc giả dạng
con người), chủng này đã chủ trương tự tách một số cá thể trong nhóm tạo thành hội riêng
với tên gọi là Hội illuminati (RI) có xu hướng ứng xử bạo lực và hội này âm thầm kìm
hãm sự phát triển của Hội tinh anh “RA” từ bên trong (nhóm tài phiệt RI chuyên tài trợ
cho các đội quân khủng bố của tà giáo KunsanII). Chủng Greys khi biết được sự chống đối
của Hội Tinh Anh nên cũng cài chip vào não một số nhân vật cao cấp trong hội này và
thiết lập một nhánh riêng gọi là Hội Tam Điểm (RT) có xu hướng vẫn ủng hộ tà giáo
VandesII của Mara. Như vậy ta có thể thấy ngay trong nội bộ Hội Tinh Anh cũng có sự
phân hóa sâu sắc, và đó là lý do vì sao Hội này sẽ không bao giờ thống nhất được trái đất.

110
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Ba chủng loài tà đạo này tuy bất đồng về lợi ích vi mô những vẫn là đồng minh ở tầm vĩ
mô và vẫn có những quy tắc ứng xử chung trong khối KORUN ràng buộc ở nhiều khía
cạnh, họ vẫn đồng quan điểm về việc làm cho loài người ngu dốt kể cả đối với nhóm RA.
Trầm ngâm một lúc thì tôi lại hỏi tiếp là tại sao Đức Phật lại chọn tái sinh vào một tinh
cầu thuộc địa để giáo hóa, trong khi đó có vô số cõi trời, cõi người ở các thiên hà khác.
Ông ta cười và trả lời rằng việc các vị Phật chọn tái sinh vào đâu để giáo hóa cũng đều bắt
nguồn từ những duyên lành mà trong quá trình Bồ Tát Đạo mà vị đó đã từng thệ nguyện.
Các cõi trời dục giới và sắc giới vì chúng sanh ở đó trí tuệ khá cao nên chỉ cần các vị
Arahán là đã độ được cho họ tiến hóa, nhưng ở những tinh cầu ô trược ác thế như Trái Đất
thì do trình độ trí tuệ loài người kém hơn nhiều nên phải để những vị Phật mới có thể độ
được những chúng sinh nơi đây, và việc một vị Phật thường tái sinh vào cõi thấp (cõi
người) cũng có mục đích là để cho các chủng loài cấp cao có thể xuống gặp Phật mà học
hỏi được chánh pháp (chứ nếu tái sinh vào cõi cao thì các chủng loài cõi thấp sẽ không thể
nào gặp Phật mà có cơ hội tu hành được). Ở mỗi tinh cầu, mỗi thiên hà khác nhau sẽ có
những vị Phật và những vị Arahán khác nhau phụ trách công tác giáo hóa, còn tại Trái đất
tính từ lúc vị Phật Thích Ca xuất hiện cho đến khi vị Phật Di Lặc ở tương lai xuất hiện là
khoảng gần 10 triệu năm và trong khoảng thời gian này tuyệt đối sẽ không có một vị Phật
nào khác xuất hiện trên Trái Đất nữa. Nếu có một ai tự nhận mình là Phật hoặc trên Phật
trong khoảng thời gian này thì hắn chính là đại diện cùa tà giáo và hắn sẽ phải bị đọa tam
đồ (súc sinh, địa ngục, ngạ quỷ) sau khi chết ít nhất 100 triệu kiếp.
Sau khi kể hết những câu truyện về hiện thực, tôi bỗng bất giác rùng mình khi thấy con
người sống trên quả đất này không khác gì như đang sống trong các nhà lửa đang cháy,
hiểm họa rình rập trùng trùng, nếu không có các vị thánh ở các tầng trời gia hộ thì không
biết loài người còn thê thảm cỡ nào. Ông ta kể tiếp rằng vào thời Đức Phật tại thế thì thầy
Butan (dùng tên gọi quá khứ cho đọc giả dễ hiểu) cũng đã may mắn được làm một vị tỳ
kheo trong tăng đoàn của Đức Phật. Thầy Butan khi đó đã chăm chỉ tinh tấn tu hành và
chứng được thánh quả Anahàm nên sau khi viên tịch đã tái sanh lên cõi trời sắc giới để
gặp thầy Canda. Từ đó ông và Nepan (dùng tên gọi quá khứ cho đọc giả dễ hiểu) đã không
còn gặp lại thầy nữa, khoảng hơn 1.000 năm sau thì thầy Nepan cũng tiếp nối chứng được
quả vị thánh Anahàm và ông ta nói sẽ không trở lại quả đất này trong một khoảng thời
gian khá dài, nhóm tu hành trên núi Puliya 24.000 năm về trước nay chỉ còn lại một mình
ông do vụng tu nên phải ở lại quả đất này lâu như vậy.
Ông ta tiếp tục kể về nguyên nhân mà ông bị thoái thất chựng lại trong sự nghiệp tu
hành bắt nguồn từ kiếp thầy Nepan chứng được thánh quả Anahàm thì Ritana khi đó cũng
có duyên được làm đệ tử của ông. Thầy Nepan lúc đó đã nhớ lại nhiều kiếp sống của mình
trước đây và cả những kiếp ông ta còn là công dân của hành tinh Omegan và nhớ cả về
khối AGUN. Ông ta đã kể hết mọi chuyện quá khứ từ khi còn ở hành tinh Omegan cho
đến mối nhân duyên giữa hai người khi tu ở núi Puliya và cả những câu truyện mà thầy
Butan đã từng kể trước đây (tám câu truyện của hiện thực phía trên).
111
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Ritana sau khi nghe qua những công nghệ tiến bộ của người Omegan thì đã ngầm phát
khởi một ý niệm sai lầm, đó là sau này ông ta sẽ dùng những công nghệ khoa học ở hành
tinh Omegan để thay đổi Trái Đất vì ông ta tin rằng điều đó có hiệu quả, lúc đó thầy
Nepan đang nhập định trở về cố quốc nên cũng không để ý đến suy nghĩ này của học trò.
Và đến năm 1856, Ritana khi đó đã tái sanh làm một người Serbia tên là Nikola Tesla,
lớn nên ông trở thành công dân Hoa Kỳ. Với bản tính tò mò mãnh liệt trong tâm nên ông
luôn ưa thích tìm tòi nghiên cứu và trở thành một nhà khoa học nổi tiếng, ông luôn hăng
say nghiên cứu và trong đời ông đã thực hiện rất nhiều phát minh khoa học ứng dụng. Khi
còn trẻ, một vị học giả siêu linh người Omegan khi đó được chọn làm nhiệm vụ đưa ra
những chỉ dẫn vô hình cho Keyer Tesla, để Tesla có thể kể những câu truyện về hiện thực.
Ngoài những câu truyện về hiện thực thì Tesla cũng hỏi vị siêu linh này nhiều điều về
những lý thuyết khoa học trên hành tinh Omegan, vị học giả Omegan này đã không hề
thấy cái nhân tư tưởng sai lầm quá khứ trong tâm của Tesla nên đã kể hết cho ông nghe rất
nhiều kiến thức về khoa học kỹ thuật mà người Omegan đã đạt được. Tesla khi đó cho
rằng ông có thể thay đổi nền văn minh nhân loại trước để con người có một nền tảng tri
thức vững chắc rồi sau đó mới kể cho họ biết về các câu truyện của hiện thực, nhưng mọi
chuyện đã không diễn ra như những gì ông mong đợi.
Nhờ kiến thức có được nên những phát minh khoa học của ông trở thành những công
nghệ cao cấp nhất trên Trái Đất lúc bấy giờ và nhóm tư bản tài phiệt rất quan tâm đến các
phát minh của ông. Họ đã cử một thành viên là Morgan - chủ tịch tập đoàn tài chính ngân
hàng J.P.Morgan đến tiếp cận Tesla và làm nhà tài trợ độc quyền cho các dự án của Tesla.
Với nguồn tài chính dồi dào, Tesla miệt mài nghiên cứu với hy vọng về một thế giới mới,
hàng loạt các phát minh của ông được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống, sau nhiều năm
say mê phát minh ông dần quên mất lời hứa với vị siêu linh năm xưa. Tesla đã nghiên cứu
cách sử dụng điện từ tầng điện ly (tầng khí quyển ngoài cùng Trái Đất), ông kết hợp
những nghiên cứu của mình với những đặc tính tự nhiên của dòng điện để phát triển ra hệ
thống tháp điện từ với mục đích cung cấp nguồn năng lượng vô tận và miễn phí cho toàn
bộ nhân loại sử dụng, qua đó nền văn minh loài người sẽ tiến đến một tầng cao mới.
Morgan sau một thời gian đã dần nhận ra động lực chính của Tesla không phải là vì
tiền mà là mong muốn giải phóng con người bằng những tiến bộ khoa học. Nhận thấy quy
mô nghiên cứu phát triển tháp điện từ của Tesla đang triển khai mang tính chất cách mạng
năng lượng và sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới nên Morgan buộc phải tổ chức một
cuộc họp khẩn với những gia tộc tài phiệt đứng sau lưng ông và bọn họ đã đi đến thống
nhất là phải ngăn cản Testa hoàn thành dự án đó, vì họ cho rằng phát minh này không đem
lại lợi ích thương mại nào và làm mất quyền kiểm soát thế giới của họ.
Cả Morgan cũng như tầng lớp tư bản tài phiệt sau lưng ông đã bí mật ngăn cản Tesla,
tòa tháp Tesla nổi tiếng và phòng thí nghiệm Wardenclyffe của ông đều bị nhóm Morgan
phá hủy, đồng thời mọi nỗ lực huy động các nguồn tài trợ khác đều bị nhóm tài phiệt này
ngăn cản. Những năm cuối đời Tesla bị nhóm tài phiệt này giam lỏng trong một trung tâm
112
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

thí nghiệm bí mật để khai thác các tri thức của ông nhưng ông đã từ chối không hợp tác
với họ. Kể từ đó Tesla cũng không hề có ý định kể thêm bất kỳ điều gì từ những kiến thức
khoa học cho đến các câu truyện mà đáng lẽ ông phải kể. Nhưng vì tư duy sai lầm của
Tesla quá đặt nặng công nghệ nên nhóm tài phiệt khi đó đã không có cơ hội hiểu về chánh
đạo, tư duy của họ lúc đó chỉ có tiền, quyền lực và làm sao để thống trị thế giới mà thôi.
Do Ritana đã làm sai quy trình nên ông đành phải dàng quãng thời gian còn lại của mình
để tu tập thiền định và luôn sám hối cho sự nông nổi của mình.
Có nhiều sáng chế mà Tesla dự định triển khai trước đây như: máy dịch chuyển tức
thời, máy giao tiếp với sự sống ngoài vũ trụ... những công trình trên giấy tờ chưa hoàn
chỉnh đều được nhóm tài phiệt tịch thu và âm thầm nghiên cứu trong các căn cứ bí mật
dưới lòng đất với mục đích tạo ra các loại vũ khí hủy diệt chỉ để phục vụ tham vọng bá
chủ của họ. Một ví dụ điển hình nhất là chương trình nghiên cứu cực quang cao tầng tại
Alaska mang tên dự án HAARP. Thay vì đi theo mục đích chân chính của Tesla là sản
xuất điện từ tầng điện ly để cung cấp miễn phí năng lượng cho nhân loại, HAARP lại trở
thành một thứ vũ khí hủy diệt có thể thay đổi thời tiết và tạo ra động đất lớn, những điều
này đi ngược lại hoàn toàn quan điểm dùng khoa học để thay đổi thế giới của Tesla.
Mục đính cuối cùng của việc chạy đua quyền lực, theo đuổi lợi nhuận của nhóm tài
phiệt là để thống nhất Trái Đất thành một chính thể duy nhất, về lý tưởng thì điều đó một
phần đúng nhưng cách làm của họ hoàn toàn sai, do trong tâm trí họ có quá nhiều tham
vọng vị kỷ muốn cai trị thế giới (đó là lý do chính khiến họ không bao giờ đạt được mục
đích). Những hệ lụy của các hành động sai lầm đó làm cho họ nghĩ rằng phải tiến hành các
hoạt động khai thác năng lượng tài nguyên một cách vô độ để phát triển kinh tế, tác hại
gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường sinh thái nghiêm trọng. Họ không hề biết rằng hệ
sinh thái càng bị mất cân bằng thì loài người sẽ càng đi dần đến sự diệt vong, ngược lại
khi hệ sinh thái càng phát triển hài hòa âm dương cao thì chủng loài trong hệ sinh thái đó
mới càng tiến hóa được lên cao. Sự ô nhiễm vẫn đang âm ỉ trong không khí, trong lòng đất
và dưới biển cả làm môi trường sống loài người ngày càng bị ảnh hưởng, các loài vi khuẩn
ác tính bắt đầu phát triển trong nền của hệ sinh thái bẩn và chúng bắt đầu gây hại cho con
người, các loại bệnh lạ dần dần xuất hiện ngày một nhiều hơn trong tự nhiên.
Sự phát triển nền văn minh mà nhóm tài phiệt này xây dựng cho đến bây giờ hoàn toàn
không tương thích với môi trường tự nhiên và mầm mống diệt vong đang ngày một tích tụ
nhiều hơn, nhóm người này không thấy được việc họ hoặc phải cùng nhân loại tiến hóa để
gia nhập AGUN hoặc tất cả sẽ cùng chết với nhau (sẽ không có chuyện họ có tất cả còn
người khác trắng tay). Việc họ tìm cách thống nhất thế giới bằng bạo lực vị kỷ cũng sẽ
không bao giờ nhận được sự ủng hộ của khối AGUN, và Mahora sẽ tiếp tục có cái cớ hợp
lý chính đáng để mãi mãi kìm kẹp nhân loại, làm loài người không bao giờ tiến xa được.
Những kẻ diều hâu bảo thủ độc tài trong nhóm tài phiệt (RI or RT) luôn nghĩ rằng họ
là giai tầng đỉnh cao trên tháp thức ăn (biểu tượng hình kim tự tháp có một con mắt phía
trên), tâm luôn kiêu mạn coi rẻ mạng người. Họ nghĩ có thể sử dụng những khoa học công
113
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nghệ và sống dưới lòng đất hoặc bay vào vũ trụ một cách an toàn nếu thảm họa chiến
tranh thế giới thứ III xảy ra, khi đó Trái Đất sẽ lần nữa rơi vào kỷ băng hà do cuộc chiến
tranh vô nghĩa giữa các thế lực tài phiệt tham vọng và nhóm tín ngưỡng tà giáo ác độc.
Các phe nhóm bảo thủ trong giới tài phiệt tham lam không hiểu được rằng một khi Trái
Đất đã không còn giá trị lợi dụng nữa thì hai loài Mara và Atula cũng sẽ ngay lập tức thủ
tiêu hết mọi chứng cứ liên quan. Nhóm tài phiệt tuy có trí tuệ cao nhưng tâm họ vẫn kiêu
mạn và có phần mê muội khi tin rằng sẽ có thể kiểm soát được Trái Đất trong cái mớ hỗn
độn mong manh như việc họ đang đi trên những chồng ghế xếp chơi vơi có thể bị té ngã
bất cứ khi nào, điều đó chẳng khác nào họ đang làm xiếc trên sự tồn vong của cả một
chủng loài, có lẽ họ đã quá tự tin vào kỹ năng giữ thăng bằng của mình hay họ đang quá
ảo tưởng về sức mạnh trí tuệ của bản thân.
Tôi thắc mắc rằng tại sao một số hành tinh khác và sao Hỏa sau khi bị nhóm KP37
khai thác triệt để các nguồn tài nguyên thì bị biến thành hành một tinh chết còn Trái Đất
thì không, ông ta tác ý trả lời rằng do Trái Đất có mặt trăng làm ổn định từ trường của nó,
đồng thời nhóm KP37 cũng vẫn chưa khai thác hết những lợi ích mà một tinh cầu có sự
sống đem lại, nếu một tinh cầu có nền văn minh phát triển cao cấp thì nhóm KP37 sẽ
không thể tự do làm những gì mà họ đang làm, vì vậy nhóm KP37 luôn có xu hướng làm
ngu hóa các chủng loài thuộc địa để dễ dàng khai thác tài nguyên mà không bị ngăn cản.
Vì vậy tuy hệ sinh thái bị tổn thương rất nghiêm trọng vào cuối thời Golden Age
nhưng bầu khí quyển vẫn không bị mất đi mà chỉ bị băng hóa và kỷ băng hà chính là
khoảng thời gian tái tạo của một tinh cầu đang bị bệnh. Tất nhiên cũng có nhiều tinh cầu
có sức khỏe tốt thì không cần đến mặt trăng vẫn giữ được bầu khí quyển ổn định để tạo ra
kỷ băng hà và dần khôi phục hệ sinh thái, nhưng vì Trái Đất đã trải qua rất nhiều lần kỷ
băng hà trước đây nên sức khỏe của nó đã không còn tốt như trước, ngoài ra môi trường
hỗn mang cũng là một trạng thái của 1 tinh cầu bệnh và nếu nặng hơn nữa nó sẽ trở thành
một tinh cầu chết, đó là lý do vì sao mà người Summerian phải tạo mặt trăng cho nó.
Ông ta kể tiếp rằng nếu như lần này Trái Đất lại bị rơi vào kỷ băng hà vì sự tham lam
của con người thì toàn bộ những thế lực tài phiệt và tôn giáo tà đạo cũng sẽ bị nhóm ngoài
hành tinh tà ác thủ tiêu như kịch bản đã xảy ra cuối thời Golden Age. Sẽ chẳng có chủng
loài nào đến cứu nhân loại nữa và nhân loại sẽ chỉ còn rải rác các tộc người rừng rú hoang
dã. Và cho đến khoảng mười triệu năm sau mới có một nhóm chủng người mới xuất hiện
trên Trái Đất sau khi kỷ băng hà lần này kết thúc. Khi đó giống người mới này có tuổi thọ
vào khoảng 84.000 năm do hệ sinh thái Trái Đất đã thay đổi thuận lợi cho việc phát triển
cơ cấu sinh học của chủng người bán thần này, nhờ đó họ cũng phát triển tâm linh thuận
lợi trên cái nền sinh thái đó. Thời gian này cũng sẽ có một vị Phật tiếp theo tái sinh xuống
để hóa độ chúng sinh trên cõi đất này, giống loài đó hoàn toàn khác với loài người bây giờ,
họ không còn sự ngu dốt ác độc vị kỷ nữa, họ hòa ái bình đẳng trong trí tuệ chánh đạo và
dễ dàng tu hành chánh pháp và họ cũng dễ dàng gia nhập khối AGUN.

114
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Sau khi kết thúc kiếp sống Tesla và qua kiếp ma thì ông cũng đã bị Diêm Đế quở trách
vì không hoàn thành vài trò làm Keyer của mình như những gì ông từng thề nguyện trước
đây. Trong kiếp là công dân ma thì ông được phân công làm một thần chuyên nghiên cứu
về lịch sử trái đất, công việc của ông là hỗ trợ cho các nhà sử học ở thế giới cõi dương
bằng cách tác ý nhằm giúp họ định hình đúng lịch sử trong quá trình họ tìm tòi nghiên cứu
khảo cổ. Trong kiếp ma này, một lần ông đã tình cờ gặp một người bạn cũ của thầy Nepan
đã sống hơn 1.500 năm trong cõi này và được người này kể lại những lời nhắn nhủ của
thầy Nepan trước khi thầy chuyển qua kiếp người cuối cùng, sau khi hoàn tất nhiệm vụ
truyền lời người này lập tức kết thúc sinh mạng kiếp ma và đầu được thai làm người.
Tôi thắc mắc với ông ta rằng có nhiều phần lý thuyết trong hệ tín ngưỡng mà Mahora
xây dựng cũng dạy con người làm điều tốt, sống tốt, cũng tốt lắm mà sao trong các câu
truyện ông ta kể thì nhóm tín ngưỡng này được mô tả như một loại tôn giáo tà độc. Ngoài
ra hệ tín ngưỡng của chủng Kondroskans cũng đâu phải chỉ có bạo lực, mà họ cũng có
phần dạy con người làm điều tốt mà, tôi thấy đạo nào cũng dạy con người sống tốt mà.
Ông ta trả lời rằng những tư tưởng tà kiến do hệ tín ngưỡng mà Mara xây dựng tuy có
phần dạy con người sống tốt nhưng nếu các chúng sinh tin theo và làm đúng những phần
tốt (không làm phần ác) trong kinh thì sau khi họ chết sẽ bị tái sinh lên làm những chủng
trời dục giới tà đạo (do tâm họ vẫn bị hiểu sai về hiện thực). Còn hệ tín ngưỡng của
Kondroskans nếu chúng sanh chỉ làm phần tốt (không tin làm phần ác) của kinh đó thì khi
chết cũng sẽ bị tái sinh làm các loài Atula tà đạo như chính chủng Kondroskans vậy. Các
loài trời tà đạo và Atula tà đạo này do không nhận thức được cơ chế vận động của các tầng
vũ trụ phía trên nên vẫn nghĩ có một ông thượng đế ở trên đó và họ tin rằng nếu làm theo
một hủ tục nào đó sẽ được thượng đế đưa lên trên, họ không hiểu được các vùng vũ trụ
trên vẫn có các chủng Mara, và những gợi ý từ phía trên về một ông thượng đế luôn hàm
chứa sự ác ý mà các chủng Mara cao muốn làm ngu hóa các chủng thấp, với những hiểu
biết sai lầm đó sẽ có lúc họ bị rớt xuống trở lại khi cái phước quá khứ đã cháy hết.
Đến một lúc khi mà họ hết phước liền bị rớt xuống trở lại làm người hoặc thấp hơn, sự
vô minh tà kiến sẽ đeo bám họ trong nhiều triệu kiếp làm họ khó có thể đạt được sự tiến
hóa thuận. Việc luẩn quẩn mãi trong cái mớ tư duy sai lầm đó trong thời gian dài cũng rất
nguy hiểm nếu trải qua nhiều kiếp thì sự ác độc sẽ dần đeo bám và tích lũy trong tâm thức
của họ làm cho họ có nhiều nguy cơ bị thoái hóa sâu hơn về sau. Chính vì các chủng Mara
và Atula hay tạo ra các hệ tín ngưỡng tà giáo trên những hành tinh mà họ thôn tính nên khi
các chúng sinh ở hành tinh thuộc địa đó vô tình tái sinh lên làm những công dân của các
chủng trời dục giới tà đạo hoặc Atula tà đạo (do chỉ làm phần thiện trong kinh mà không
làm phần ác của kinh), thì giới lãnh đạo của các chủng trời dục giới tà đạo và Atula tà đạo
này sẽ luôn có một mức độ thân thiết nhất định với các loài Mara, họ thường khuyên các
chủng Mara hãy tin theo thượng đế và sống tốt vì chúng ta đều là tạo vật của ngài. Chủng
Mara thì chỉ biết im lặng phì cười trước sự ngô nghê của các nhóm trời tà đạo, trong khi
các chủng Atula tà đạo thì lại đưa ra những lý giải khác về ông thượng đế. Sự tuần hoàn

115
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

nhân quả cứ luôn làm cho ba chủng loài này luôn có một sự liên hệ vô hình mật thiết nào
đó mà chính họ cũng không thể hiểu nổi.
Diêm Đế nói với Ritana rằng do ông ta đã làm sai lời nguyện thề trước đây nên không
thể xác định được lỗi lầm của Mahora vì Mahora không hề ra lệnh giết Tesla, việc giam
lỏng Tesla hoàn toàn là chủ ý của nhóm tài phiệt và có thể họ làm điều đó vì họ chưa hiểu
vấn đề, chưa nghe qua những câu truyện hiện thực. Vì Mara đã không hề nghe được các
câu truyện của hiện thực nên không biết phản ứng sau đó của ông ta thế nào, cũng chính vì
sai lầm của Ritana nên ông không được đầu thai làm người ở hành tinh khác mà phải ở lại
quả đất này cho đến khi nào việc sửa sai được thực hiện hoàn tất.
Một cái sai ban đầu dẫn đến một chuỗi nhiều cái sai dây chuyền sau đó diễn ra và mọi
thứ buộc phải tính toán lại cho phù hợp. Cần một liều thuốc thử khác, trong một bối cảnh
khác với những nhân tố khác, trộn lại khéo léo hơn, cẩn thận hơn, để dòng chảy số phận
vận hành theo chiều hướng tốt nhất có thể, để cho toàn nhân loại thoát khỏi những vòng
tuần hoàn ác tính do những sai lầm vô minh gây ra trong quá khứ. Ritana đã nhờ tôi kể lại
những câu truyện này ở thế giới dương, ông ta nhờ tôi hoàn thành nốt những gì ông ta
chưa hoàn thành, ông ta muốn tôi sửa chữa cái sai lầm mà ông ta đã mắc phải.
Tôi cảm thấy những điều này dường như quá sức với một người bình thường như tôi,
tôi hỏi ông ta tại sao ông không chọn một người thông minh, tài giỏi hay giàu có và nhiều
quyền lực cũng như địa vị lớn trong xã hội. Vì những người đó họ hoàn toàn có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn để giúp ông ta, còn như tôi nếu nói ra thì ai mà tin nghe cho được vì tôi
chỉ là một con người bình thường. Ông ta nói rằng vì tôi cũng có sự tò mò mãnh liệt như
ông ta và vì tôi dám tin vào những điều mà nhiều người khác không bao giờ dám tin, vì tôi
cũng luôn khao khát đi tìm sự thật, đi tìm chân lý như ông ta, luôn muốn tìm cách làm cho
thế giới này tốt đẹp hơn. Chính tất cả những điều đó hình thành nên một mức độ tương
thích tâm thức nhất định giữa hai người chúng tôi, vì vậy ông ta chỉ có thể tác động vào
tâm thức của tôi chứ không phải bất kỳ ai khác. Tất nhiên những người tài giỏi, thông
minh, giàu có hay quyền lực nếu họ giúp được thì tốt hơn nhưng do họ không có mức
tương đồng tâm thức nhất định nên không đủ nhân duyên để ông có thể kết nối được với
họ. Ông ta nói tư tưởng của người dương rất quan trọng, nếu họ nghĩ đúng hay không
đúng, nghĩ tốt hay không tốt, nghĩ tích cực hay tiêu cực… thì đều có một mức độ tác động
ảnh hưởng nhất định đến thế giới âm, vì vậy những người dương nếu mà cúng cô hồn thì
khi họ tác ý vào đồ ăn thì những người âm sẽ có thể ăn được phần tâm linh của đồ ăn đó...
Còn người âm thì chỉ có thể nhìn thấy người dương và tác động vào tư tưởng thông
qua giấc mơ hoặc sự tác ý trực tiếp vào ý thức những người dương có duyên với họ. Họ
còn có thể tác động vào tâm trí của loài vật, người pháp lực càng cao thì càng tác động
được vào những con vật lớn, họ cũng có thể tác dụng lực vật lý nên cõi dương nhưng rất
yếu. Nhà của người âm là các loại cây, người địa vị càng cao thì càng được sống trong
những cây lớn lâu đời, vì vậy khi con người tàn phá rừng cũng chính là phá nhà của người
âm, nhiều người âm bị mất nhà sẽ vô cùng tức giận và họ biểu tình bằng cách đồng loạt
116
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

tác động lực vào không khí tạo thành những cơn gió xoáy lớn và dần trở thành những cơn
bão ở thế giới dương. Cũng có những cái cây là nhà của những vị quan chức lớn có địa vị
cao thì những cái cây đó rất linh thiêng, những người vô tình đốn vào cây đó sẽ đều bị vị
thần ở cây đó quật dẫn đến ốm nặng hoặc mất mạng.
Tôi hỏi ông ta là những gì ông ta định làm có hỏi ý của Diêm đế Batca chưa hay là tự ý
ông làm, Ritana nói rằng ông đã được vua Batca yêu cầu tìm kiếm một đối tượng có tâm
thái phù hợp để giúp ông kể lại những câu truyện. Vì Ritana sẽ không thể đầu thai lại làm
người để kể những câu truyện hiện thực được nữa do không còn mối nhân duyên nào
tương thích với ông ta trong vài trăm năm tới, nếu đợi thì quá lâu và sẽ có nhiều biến cố
nguy hiểm có thể xảy ra cho thế giới trong khoảng thời gian vài trăm năm chờ đợi này,
quá rủi ro nếu chờ đợi. Đồng thời việc trở lại làm người ở thời đại mấy trăm năm sau sẽ
rất khó gặp được chánh pháp do không còn những người thầy tu hành chân chính chỉ dẫn,
điều đó rất nguy hiểm do ông ta chưa tu chứng được thánh vị Tu Đà hoàn và không thể
nhớ được chánh pháp đã học kiếp trước nên có thể ông ta sẽ tiếp tục mắc sai lầm khi đó.
Tôi hỏi ông ta rằng việc tôi kể ra những câu truyện này thì tôi có bị Mahora, hoặc
chủng Greys, hay nhóm tài phiệt, hay chủng Atula Kondroskans và nhóm tà giáo của họ
hãm hại hay không? Ông ta bảo rằng Mahora bây giờ đang lo về những vấn đề nội bộ ở
Doomerian nên không còn tâm trí đâu mà quan tâm tới Trái Đất nhiều như trước nữa. Nếu
giới tài phiệt hiểu được những câu truyện thì cũng không rõ phản ứng của họ thế nào,
nhưng chắc chắn chủng Kondroskans và nhóm tay sai của chúng sẽ trả thù tôi.
Sau khi tôi công bố câu truyện thì một số kẻ cuồng tín cực đoan mê muội thất học bệnh
hoạn sẽ nhập cảnh vào đất nước mà tôi đang sống để ám sát tôi và cường độ sẽ tăng dần
lên nếu câu truyện được lan truyền rộng ra thế giới. Vì vậy ông ta bảo nếu tôi sợ thì cũng
không cần phải nói ra vì ông ta không muốn làm khó tôi. Tôi im lặng một lúc rồi bảo rằng
nếu tôi nói ra mà không bị chết thì mọi chuyện sẽ đi đến đâu, vì tôi cảm thấy dù có nói ra
thì chưa chắc thế giới này đã có thể thay đổi được và nhân loại cũng không thể khá hơn
chỉ bằng vài ba câu truyện này được.
Tôi cảm thấy mơ hồ vì không muốn mình bị vướng vào những điều phiền phức mà lại
vô nghĩa, Ritana bảo rằng nếu tôi không bị hại sau khi nói ra những điều này thì ông ta
muốn tôi làm người trung gian truyền lời của ông ta đến một người. Tôi hỏi ông cần tôi
nói những gì và nói với ai thì ông ta nói rằng ông sẽ không nói ra những điều đó với tôi
trước khi tôi gặp đúng người ông ta muốn gặp. Ông ta nói người ông cần truyền lời là một
vị tỷ phú trong ngành công nghệ thông tin, đây là người đã đọc qua những câu truyện và
tin hiểu được mọi điều trong đó, người này phải tin sâu sắc vào chánh pháp của Phật.
Nếu không gặp đúng người thì ông ta sẽ không tác ý và tôi sẽ chẳng thể biết mà nói ra
bất cứ điều gì, ông ta bảo không muốn nói trước cho tôi vì chính sự an toàn của tôi, và dù
có nói trước thì tôi cũng chẳng hiểu hay chẳng nhớ nên không cần phải nói trước làm gì.
Tôi hỏi ông ta định nói đại ý là thông điệp gì với vị tỷ phú đó và tại sao phải nhất định là
một vị tỷ phú ngành công nghệ thông tin mà không phải ngành khác.
117
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

Ông ta bảo với tôi rằng ông muốn vị tỷ phú này giúp ông phát triển một công nghệ ở
hành tinh Omegan mà ông chưa có dịp thực hiện khi còn ở kiếp Tesla, không những người
này phải là tỷ phú trong ngành công nghệ thông tin mà nguồn lực của ông ta phải trên 20
tỷ đô trở lên mới thực hiện được và ông ta phải là người hiểu sâu sắc chánh pháp sau khi
đọc hết những câu truyện này, thì khi đó Ritana mới tiến hành thực hiện việc chỉ dẫn.
Tất nhiên lần này công nghệ đó sẽ đem lại lợi nhuận rất cao cho vị tỷ phú này (để tránh
lặp lại sai lầm kiếp trước nên Ritana sẽ không buộc vị tỷ phú này chỉ làm dự án vì mục
đích từ thiện đơn thuần như dự án tháp điện từ mà Tesla đã cố gắng thuyết phục Morgan
đầu tư trước đây, vì như vậy có vẻ như là một đòi hỏi quá đáng cho một con người thế tục).
Dự án lần này tất cả mọi người sẽ cùng có lợi và điều đó có lẽ sẽ hợp lý hơn. Nếu công
nghệ này được pháp triển nhân loại sẽ được kết nối trí tuệ với nhau một cách mãnh liệt tạo
ra những bước đột phá lớn, qua đó nhân loại sẽ tiến đến giới hạn là công dân chánh pháp
trong hệ ngân hà, khi đó một lần nữa chúng ta lại có cơ hội gia nhập khối AGUN.
Sau khi ông ta kể hết toàn bộ các câu truyện của hiện thực, tôi đã ghi lại tất cả những
gì nghe được vào trong cuốn sách này, hy vọng các bạn sau khi đọc xong sẽ hiểu được bản
chất của hiện thực rộng lớn đến cỡ nào, tất cả chúng ta hãy chung tay đoàn kết để đưa
nhân loại tiến hóa tới một tầm cao mới. Các bạn có thể nghi ngờ những gì tôi viết nhưng
mong các bạn hãy dùng trí tuệ và sự phản biện để phân tích và đánh giá thật khách quan
về nó, chứ các bạn đừng dùng định kiến và các đức tin mù quáng để phán xét tôi.
Có thể trong thế giới này tôi chỉ là một kẻ tầm thường nhỏ bé nhưng những gì tôi nói
không hẳn là tri thức của tôi hay từ kiến thức mà tôi học được trên đời này, những gì tôi
nói ra là tri thức của một vị thần sử học siêu linh trong âm giới. Tôi không biết liệu ông ta
nói có chính xác hay không nhưng cá nhân tôi thì tôi tin tuyệt đối ông ta, những gì tôi viết
đều chỉ cố gắng diễn đạt lại thông điệp của ông ta mà thôi, vậy nên mong các bạn đừng
phán xét tôi vì tôi chẳng qua cũng chỉ là người truyền lời mà thôi.
Và các bạn tà giáo ác kiến, nếu các bạn có vô tình đọc qua cuốn sách này mà thù hận
tôi thì tôi mong các bạn hãy hiểu rằng tôi không bao giờ thù hận lại các bạn mà tôi chỉ
thương hại cho tương lai thoái hóa của các bạn, tôi chỉ mong các bạn hãy bình tâm mà suy
nghĩ thật kỹ trước khi có những hành động điên rồ nào vì những gì chờ đợi các bạn tà giáo
sau khi chết sẽ rất cách biệt so với tôi (ý của tôi bao gồm cả những nhóm dật dây phía sau
các bạn). Tôi thì không sợ chết vì tôi biết những điều gì sẽ chờ đợi tôi ở phía âm giới,
Ritana đã nói rằng nếu tôi chết vì kể những câu truyện này thì sẽ được theo làm đệ tử của
ông ta, tôi sẽ được cùng ông ta tu hành và làm nhiều nhiệm vụ cho Batca, tôi sẽ không bị
đọa địa ngục vì những gì tôi viết nhưng những kẻ hại tôi vì những gì tôi làm thì chắc chắn
sẽ phải chịu đau đớn tột cùng trong địa ngục.
Nếu các bạn tà giáo muốn ngăn cản những lời nói này của tôi hoặc muốn ngăn cản
nhân loại tiến hóa thì hãy tìm cách ngăn cản thầy Ritana chứ không phải tôi, nhưng điều
đó dường như là bất khả thi khi mà các bạn chẳng hiểu gì về hiện thực. Các bạn tà đạo ác
kiến nếu không hối cải hoặc ngoan cố lì lợm không muốn nghe, không muốn hiểu những
118
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

điều đúng đắn, luôn làm điều ác độc sân si vì sự cuồng tín dị đoạn thì sau khi chết sẽ chỉ là
những con ngạ quỷ nhỏ bé ác độc và bị tống và địa ngục vô gián cho các chủng loài thiên
ma ăn thịt, không có thiên đường nào chứa chấp những kẻ hung đồ ác độc đâu.
Tôi mong các bạn hãy bình tâm suy xét và đừng nên ảo tưởng về một thiên đường nào
đó với những nàng tiên trinh nữ đang chờ đợi sau khi chết đâu. Tỉnh lại đi, những điều mê
tín về một nước trời của thượng đế hoàn toàn không hề có thật, tất cả chỉ là ảo tưởng mà
những kẻ đội lốt giáo sỹ đã reo rắc vào đầu các bạn từ nhỏ. Khi các bạn chết sẽ chỉ có tội
ác và sự đau đớn tột cùng của các bạn dưới địa ngục là thật mà thôi, có thể tôi có nhiều lỗi
lầm trong kiếp người này nhưng tôi không hề hổ thẹn hay hối tiếc gì khi viết cuốn sách
này, tôi cảm thấy rất an lạc và thanh thản rất nhiều sau khi hoàn tất nó.

119
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

LỜI KẾT
--- o0o ---
Tôi không biết chính xác những gì sẽ xảy đến với tôi trong các kiếp người sắp tới
nhưng tôi cảm thấy mình đã hoàn thành một nửa sứ mệnh mà vị thầy vô hình đã giao phó,
tôi chỉ mong có nhiều người sẽ đọc cuốn sách này, như vậy tôi cũng đã cảm thấy rất mãn
nguyện. Tôi mong trong các kiếp người tới tôi sẽ luôn gặp được các vị minh sư chánh đạo
để tu học. Trong kiếp này tuy tôi chưa có phước duyên để được tu hành mà tiến hóa tâm
linh, nhưng tôi mong các kiếp sau tôi sẽ khá hơn, được may mắn có duyên lành với chánh
pháp của chư Phật hơn kiếp này và tôi mong tất cả các bạn thiện tri thức cũng vậy.
Có lẽ đã đến lúc tôi phải kết thúc câu truyện tại đây, tin hay không tin vào một điều gì
đó là quyền của mỗi con người, nhưng hiện thực thì vẫn luôn tồn tại như vậy và luật nhân
quả thì vẫn cứ vận hành như vậy. Có thể vì định kiến, có thể vì cảm tính, hay có thể vì
giới hạn hiểu biết... mà nhiều người sẽ không thể tin được những câu truyện của tôi.
Nhưng tôi tin là cũng sẽ có rất nhiều người hiểu được những gì tôi nói, tất cả những bạn
hiểu được đều là bằng hữu thiện tri thức của tôi và tôi rất mong những bạn hiểu được hãy
cố gắng tinh tấn tu hành theo chánh pháp mà tiến hóa hơn. Có thể nhiều kiếp sau các bạn
sẽ không còn là công dân của Trái Đất nữa nhưng tôi mong sự tò mò, lý trí, tư duy logic
và thói quen phản biện sẽ luôn luôn đi theo tâm thức của các bạn trong vô lượng kiếp, vì
những điều đó chính là liều thuốc kháng sinh giúp tâm thức các bạn không bị tiêm nhiễm
bởi các tà kiến ở những thế giới mà các bạn sống.
Tôi mong chánh pháp sẽ luôn ở bên các bạn thiện tri thức cũng như luôn bên tôi trong
vô lượng kiếp tới, tôi cầu mong các vị thánh trong khối tâm linh LTV luôn âm thầm gia hộ
cho tất cả chúng ta, những người đệ tử mong muốn theo đuổi lý tưởng giải thoát chân
chính. Chúng ta hãy phát nguyện sẽ luôn làm người hoằng hộ chánh pháp trong vô lượng
kiếp, giúp toàn thể chúng sinh trong vũ trụ có được sự tiến hóa thuận, cầu mong cho tất cả
các đệ tử và chúng sanh khắp pháp giới vũ trụ đều trọn thành Phật đạo.
Có nhiều người sẽ hỏi tôi mục đích tôi viết cuốn sách này để làm gì, tất nhiên là để giải
thích tâm linh dưới cái nhìn khoa học, có thể xem đây là giao điểm giữa khoa học và tâm
linh, điểm trung gian này nếu chúng ta nhìn ra thì sẽ mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
của siêu khoa học giúp con người đi đúng chánh pháp và tiến hóa hơn. Gặp được chánh
pháp của Chư Phật, cũng như gặp được những vị minh sư chỉ dẫn tu hành chánh pháp là
vô cùng may mắn đối với tất cả chúng ta, tôi mong trong nhiều các kiếp tương lai ở thế
giới chúng ta sẽ luôn có những vị thiên tử từ những cõi trời chánh đạo xuống chỉ dẫn cho
nhân loại con đường tu hành chân chính, cầu mong cho tất cả những ai đọc cuốn sách này
có thể hiểu và tin sâu luật nhân quả công bằng của vũ trụ, tin sâu vào bản chất của hiện
thực tổng thể.

120
Những câu truyện về bản chất của hiện thực Vũ Trọng Hải

MỤC LỤC

1. Lời nói đầu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1

2. Câu truyện thứ nhất: Lý thuyết hiện thực tổng thể . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4

3. Câu truyện thứ hai: Kết cấu của sự tồn tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9

4. Câu truyện thứ ba: Những nguyên liệu cấu thành vũ trụ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 14

5. Câu truyện thứ tư: Sự tiến hóa của thức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20

6. Câu truyện thứ năm: Lược giải thế giới âm dương . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33

7. Câu truyện thứ sáu: Những nền văn minh cổ đại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 64

8. Câu truyện thứ bảy: Định kiến của loài ếch . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 79

9. Câu truyện thứ tám: Vị minh sư và bậc hiền triết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 84

10. Câu truyện thứ chín: Người thầy trong cõi vô hình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .103

11. Lời kết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .120

121

You might also like