Professional Documents
Culture Documents
SUẤT TỐNG MÁU BẢO TỒN TẠI BV TIM MẠCH AN GIANG 4-10/2013
BS Bùi Hữu Minh Trí, BS Dương Hồng Chương, BS Trương Hữu Có, BS Đỗ Minh Tới,
BS Nguyễn Thị Tuyết, BS Trương Thu Hương
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định đặc điểm BN chẩn đoán suy tim phân suất tống máu bảo tồn theo tiêu chí Hội Tim
Mạch Châu Âu, tỷ lệ thuốc điều trị và diễn tiến lâm sàng tại BV; xác định các yếu tố liên quan đến độ
nặng suy tim ( NYHA ) và diễn tiến lâm sàng tại bệnh viện.
Thiết kế: mô tả cắt ngang
Đối tượng-phương pháp: Tất cả BN nhập viện BVTM từ 4-10/2013 thỏa mãn tiêu chí suy tim EF bảo
tồn của hội tim mạch Châu Âu: dấu hiệu/ triệu chứng suy tim, EF > 50%, thất trái không dãn và NT-
proBNP >220 pg/ml và có thêm một trong các bằng chứng rối loạn chức năng tâm trương. Thu thập
dữ liệu lâm sàng, cận lâm sàng, các các bằng chứng rối loạn chức năng tâm trương, tỷ lệ thuốc điều
trị, biến chứng tại BV theo mẫu soạn sẳn.
Kết quả: Tổng số 97 BN, tuổi TB: 76,3 ± 7,9, nữ 59/97 ( 60,8%), NYHA 2 70/97 (72,2%), NYHA 3
27/97 (27,8%), EF: 63,9±7,5, NT-proBNP giá trị TB: 2307±1475 pg/ml, thời gian điều trị TB tại BV:
7,7 ±2,5 ngày. Các yếu tố nguy cơ chính: tăng HA 89%, RLCH lipid 33%, đái tháo đường 27,8%. Dấu
hiệu/triệu chứng suy tim thường gặp là khó thở về đêm 48,4%, khó thở khi gắng sức 51,5%, ran ẩm
phổi 32%. Các bằng chứng rối loạn chức năng tâm trương: rung nhĩ 17,5%, lớn nhĩ trái 13,4%, phì
đại thất trái 13,4%, rối loạn thư dãn tâm trương 32%, E/e’>8 33%.
Tỷ lệ biến chứng quan trọng tại BV là phù phổi cấp 12/97 (12,3%) và loạn nhịp thất thoáng qua 3/97
(3%). Lớn nhĩ trái có giá trị tiên lượng độ nặng suy tim và biến chứng không tử vong tại BV.
Kết luận: Suy tim phân suất tống máu bảo tồn là một thực thể bệnh lý tim mạch quan trọng tại BVTM
AG cần được nghiên cứu nhiều hơn với thời gian theo dõi lâu hơn.
ABSTRACT
Objectives: To evaluate clinical characteristics of patients diagnosed with heart failure and preserved
ejection fraction admitted to Angiang CV hospital from 4-10/2013, medications use, clinical course in
hospital and to determine factors significantly related to NYHA and complications in hospital.
Design: observational cross-sectional
Method: subjects were all patients admitted to Angiang CV hospital from 4-10/2013 with
signs/symptoms of heart failure, EF> 50%, normal LV diastolic dimension, NT-proBNP >220 pg/ml
plus at leats one evidence of diastolic dysfunction. Clinical, laboratory data, evidence of diastolic
dysfunction were collected according to specified protocol.
Results: There were 97 patients with mean age 76,3 ± 7,9 and 60,8% were female. NYHA 2 and NYHA
3 were documented in 70/97 (72,2%) and 27/97 (27,8%) respectively. Mean EF was: 63,9±7,5 and
mean NT-proBNP was 2307±1475 pg/ml. During mean inhospital time of 7,7 ±2,5 days, serious
complications were reported in 12/97 (12,3%) with pulmonary edema and 3/97 (3%) with transient
ventricular arrhythmias. Left atrial enlargement was significant predictors for both heart failure
severity and inhospital nonfatal complications.
Conclusions: Heart failure with preserved ejection fraction is an important entity in disease structure
at Angiang CV hospital. It warrant larger clinical studies with longer follow-up.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tim là một trong những hậu quả sau cùng của bệnh tim mạch, hiện là gánh
nặng lớn cho ngành y tế toàn thế giới [1,2] . Suy tim được định nghĩa là tim mất khả
năng bơm máu phù hợp với nhu cầu chuyển hóa của cơ thể hoặc chỉ có thể làm được
điều đó khi áp lực đổ đầy tăng lên [1,3] Biểu hiện lâm sàng cơ bản của suy tim bao
gồm khó thở, mệt mỏi dẫn đến giảm mức gắng sức, ứ đọng dịch làm xung huyết phổi,
nội tạng và phù ngoại vi. Ở BN suy tim, phân suất tống máu ( ejection fraction- EF) là
một chỉ số quan trọng đại diện cho chức năng co bóp thất trái từ lâu được sử dụng
trong rất nhiều nghiên cứu lâm sàng để chọn lọc BN, cũng như đánh giá đáp ứng điều
trị và tiên lượng. BN suy tim có thể có phổ rối loạn chức năng thất trái rộng trải dài từ
kích thước thất trái bình thường và EF bảo tồn (EF≥50%) cho đến rối loạn chức năng
tâm thu với dãn lớn thất trái và/hoặc EF giảm [1,2]. Trong những năm gần đây, dữ liệu
từ các nghiên cứu lâm sàng lớn đã đặt nền móng cho việc chẩn đoán và điều trị BN với
suy tim tâm thu có EF giảm (STEFG) [1,2]. Tuy vậy, các khảo sát tại cộng đồng cũng
như tại bệnh viện gần đây cho thấy suy tim EF bảo tồn (STEFBT) có tỷ lệ mới mắc
ngày càng gia tăng với tỷ lệ lưu hành khoảng 50-55% trong tổng số suy tim với tiên
lượng ngắn hạn cũng như dài hạn không thuận lợi [4-7]. Mặc dù dấu hiệu và triệu
chứng của STEFG hay STEFBT bảo tồn là tương tự nhau, STEFBT hiện được xem là
một hội chứng lâm sàng riêng biệt với đặc điểm BN và đáp ứng điều trị khác nhau
[1,2]. Hầu hết BN STEFBT có các bất thường trong chức năng tâm trương dẫn đến rối
loạn thư dãn tâm trương, đổ đầy và tăng áp lực thất trái cuối tâm trương lúc nghỉ hoặc
khi gắng sức [8]. Khác với suy tim tâm thu với khá nhiều thử nghiệm lâm sàng đã đạt
nhiều tiến bộ trong cải thiện sống còn và chất lượng cuộc sống BN [1,2], các nghiên
cứu trong xử trí STEFBT còn ít và hiện tại kết quả còn hạn chế. Hiện tại, vấn đề
STEFBT chưa được đề cập nhiều tại Việt nam nói chung và An Giang nói riêng mặc dù
trong thực hành, bác sĩ điều trị thường phải xử trí nhiều bệnh nhân (BN) nội ngoại trú
có triệu chứng, dấu hiệu suy tim với EF bảo tồn trên siêu âm tim.
Để góp phần nghiên cứu vấn đề khá mới mẻ này, chúng tôi tiến hành khảo sát này
với các mục tiêu như sau:
- Xác định đặc điểm BN được chẩn đoán STEFBT theo các tiêu chí hiện hành của
Hội Tim Mạch Châu Âu.
- Mô tả phương pháp điều trị và diễn tiến lâm sàng tại BV BN được chẩn đoán xác
định có STEFBT.
- Xác định các yếu tố liên quan đến độ nặng suy tim ( NYHA ) và diễn tiến lâm
sàng tại bệnh viện.
PHƯƠNG PHÁP-ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng:
Tất cả BN nhập viện BVTM (HSCC, TM-CT, LK) từ 4-10/2013 thỏa mãn tiêu chí
suy tim EF bảo tồn của hội tim mạch Châu Âu [9] : Có dấu hiệu/ triệu chứng suy tim
(tiêu chí Framingham), EF > 50% và thất trái không dãn và NT-proBNP >220 pg/ml
và có một trong các bằng chứng rối loạn chức năng tâm trương (RLCNTTr) sau:
- Rối loạn thư dãn tâm trương: E/A<0.5 và DT>280ms.
- Lớn nhĩ trái (left atrial volume index- LAVI>40ml/m2).
- Phì đại thất trái (LV volume index-LVMI>122g/m2 nữ, LVMI>149g/m2 nam).
- Rung nhĩ.
- Siêu âm Doppler mô (TDI): E/e’>8
Tiêu chuẩn loại trừ :
Bệnh lý van tim ý nghĩa ( hẹp van, hở van hai lá-chủ ≥ 2/4 ), bệnh lý cơ tim, bệnh
lý màng ngoài tim, bệnh lý hố hấp-lồng ngực- ĐMC ngực, bệnh lý tuyến giáp, BN có
cửa sổ siêu âm 2D quá kém không đo được các chỉ số nói trên.
Thiết kế nghiên cứu:
Mô tả cắt ngang
Thu thập dữ liệu:
- Đặc điểm cơ bản BN: tuổi, giới, địa chỉ, chiều cao, cân nặng, yếu tố nguy cơ
tim mạch chính: tăng huyết áp (HA), rối loạn chuyển hóa (RLCH) lipid, đái tháo
đường (ĐTĐ), hút thuốc lá.
- Lâm sàng lúc nhập viện: dấu hiệu – triệu chứng suy tim, phân độ NYHA, bệnh
cơ bản, bệnh kèm theo.
- CLS: ECG, NT-proBNP ( <60pg/ml lấy giá trị 0, >9000pg/ml lấy giá trị 9000 ),
TnT, Creatinin.
- Các chỉ số siêu âm ( đo 3 lần lấy số trung bình): EF, LVEDVI (chỉ số đường
kính tâm trương thất trái), E/A, DT (thời gian giảm tốc sóng E), LAVI (chỉ số thể tích
nhĩ trái), LVMI (chỉ số khối lượng cơ thất trái), E/é ( e’ lấy trung bình hai vị trí vách
liên thất và thành bên). Máy siêu âm: Phillips hoặc Aloka
- Tính tỷ lệ BN thỏa mãn tiêu chí suy tim EF bảo tồn (trên tổng số BN có lâm
sàng suy tim và EF ≥50%). Xác định tỷ lệ các thuốc điều trị: lợi tiểu, ức chế men
chuyển (ƯCMC), ức chế thụ thể AT1 (ƯCTTh), digoxin, chẹn Beta, ức chế canxi
(ƯCCx), Nitrate, thông khí cơ học ( NIV hay xâm lấn), can thiệp mạch vành.
- Diễn tiến lâm sàng (LS) tại BV: Tử vong, biến chứng không tử vong: cơn hen
tim/phù phổi cấp, rối loạn nhịp (RLN) nặng cần điều trị đặc hiệu.
Xử lý số liệu:
Biến liên tục: TB ± độ lệch chuẩn. Biến danh định: %. Phép kiểm chi bình
phương để xác định mối liên hệ giữa NYHA, diễn tiến LS và các yếu tố: giới, bệnh lý
cơ bản và các bằng chứng RLCNTTr. Xử lý thống kê: SPSS 16.0. Kết quả các phép
kiểm có ý nghĩa thống kê khi p<0,05 ( 2-tailed).
KẾT QUẢ
Có 112 BN có triệu chứng, dấu hiệu suy tim với EF ≥50% trên siêu âm tim được chọn,
sau khi khảo sát các bằng chứng RLCNTTr theo tiêu chí Hội tim mạch Châu Âu 2007
có 97 BN ( 87%) được chẩn đoán xác định STEFBT. Tuổi TB: 76,3 ± 7,9. Giới: nam
38/97 (39,2%), nữ 59/97 ( 60,8%). Phân độ NYHA lúc nhập viện: NYHA 2 70/97
(72,2%), NYHA 3 27/97 (27,8%). EF xác định trên siêu âm tim TB: 63,9±7,5.Tràn dịch
màng phổi ghi nhận trên siêu âm ở 9 BN (9,3%). Xét nghiệm NT-proBNP giá trị TB:
2307±1475 pg/ml. Thời gian điều trị TB tại BV: 7,7 ±2,5 ngày.
Trong thời gian điều trị tại BV, không có trường hợp nào tử vong. Các biến chứng
không tử vong gồm cơn hen tim/phù phổi cấp 12/97 (12,3%) trong đó 1 trường hợp cần
đặt NKQ và thở máy, 3/97 (3%) trường hợp ngoại tâm thu thất dày /nhịp nhanh thất
thoáng qua.
Bảng 6: Mối liên hệ giữa giới, bệnh lý, các chỉ số RLCNTTr với phân độ NYHA lúc
nhập viện
Bảng 7: Mối liên hệ giữa giới, bệnh lý, các chỉ số RLCNTTr với diễn tiến LS nặng
Tỷ lệ lưu hành bệnh mạch vành ( cấp và mạn) ở BN STEFBT có nhiều khác biệt
giữa các NC và có thể chưa được đánh giá và chẩn đoán đầy đủ [25]. Giữa NC chúng
tôi so với của Owan, Bhatia và Gurwitz cũng ghi nhận nhiều khác biệt trong tỷ lệ bệnh
mạch vành [4-7] (xem bảng 8). Với sự hiện diện của bệnh tim do tăng HA, thiếu máu
cơ tim (TMCT) ảnh hưởng lên thư dãn tâm trương làm gia tăng áp lực đổ đầy và cả hai
tình trạng này thường cùng hiện diện ở STEFBT. Mặt khác một số BN có TMCT với
biểu hiện lâm sàng không điển hình ( yên lặng hoặc có khó thở) có thể lại được chẩn
đoán STEFBT [26].
Bảng 8: So sánh đặc điểm BN STEFBT trong một số NC
Biến số NC này Owan [4] Bhatia [5] Gurwitz [7]
n=97 n=2167 n=880 n=6210
Tuổi TB 76±8 74± 14 75± 11 75± 7
Giới nữ (%) 60,8 56 65,5 57
Tăng HA (%) 89,7 62,7 55,1 82,4
Rung nhĩ (%) 17,5 41,3 31,8 35,5
ĐTĐ (%) 27,8 33,1 - 19,6
Bệnh MV (%) 43,5 52,9 35,5 21,7
EF (%) 63,9 61,7 62,4 -
RLCH lipid (%) 62,9 - 25,5 61,7
Về triệu chứng lúc nhập viện, phần lớn BN trong NC chúng tôi có khó thở khi
gắng sức, cơn khó thở về đêm và giảm mức gắng sức. Khoảng 30% BN có ran ẩm phổi
và 12-16% có TM cổ nổi hay phù chi dưới. Hầu hết các NC hiện nay đều cho thấy
không có khác biệt rõ trong dấu hiệu/triệu chứng suy tim, hình ảnh Xq ngực giữa BN
STEFBT và STEFG và do đó không thể dựa vào lâm sàng hoặc/và Xq ngực để phân
biệt hai dạng suy tim này [5,6,27]. Về chẩn đoán, xác định chẩn đoán STEFBT vẫn còn
là thách thức so với STEFG vì chủ yếu là phải loại trừ các yếu tố ngoài tim tiềm tàng
có gây các dấu hiệu, triệu chứng suy tim. Hiện nay đã có sự đồng thuận trong tiêu chí
chẩn đoán STEFBT là phải hội đủ 3 điều kiện: (1) dấu hiệu, triệu chứng suy tim; (2)
bằng chứng EF bảo tồn hay bình thường; (3) bằng chứng RLCNTTr trên siêu âm tim
Doppler hay thông tim [1,2]. Điều kiện thứ 3 chính là trở ngại chính vì rõ ràng là thông
tim rất khó khả thi cho đa số BN và siêu âm tim Doppler tuy dễ lập lại và không xâm
lấn vẫn có những hạn chế nhất định. Trong NC này chúng tôi dùng các tiêu chí đơn
giản hóa chủ yếu trong tìm bằng chứng RLCNTTr theo tài liệu đồng thuận của hội suy
tim và hội siêu âm tim châu Âu [9]. Theo đó, sau khi xác định dấu hiệu, triệu chứng
suy tim và EF còn bảo tồn và buồng thất trái không dãn có thể tiếp tục tìm bằng chứng
RLCNTTr theo một trong 3 hướng: thông tim, siêu âm Doppler mô (TDI) hoặc NT-
proBNP với điểm cắt 220pg/ml [9]. Trong điều kiện tại An Giang, chúng tôi chọn
hướng bắt đầu với NT- proBNP và tìm thêm các dấu hiệu đại diện RLCNTTr khác như
đã trình bày trong phần thu thập số liệu.
Ngoài vấn đề rung nhĩ đã bàn ở trên, tỷ lệ lớn nhĩ trái và phì đại thất trái đồng tâm
ở BN chúng tôi đều là 13,4% thấp hơn nhiều so với 66% lớn nhĩ trái và 56% phì đại
thất trái trong một phân tích sử dụng dữ liệu của nghiên cứu I-PRESERVE [10] Sự
khác biệt có thể do số BN của chúng tôi quá ít so với của Zile (n=745 có siêu âm tim),
điểm cắt EF, thể tích nhĩ trái, chỉ số khối lượng cơ thất trái trong NC chúng tôi ( theo
đồng thuận hội tim châu Âu- tài liệu tham khảo số 9) cao hơn (EF: 50% so với 45%;
nhĩ trái: 40ml so với 30ml; chỉ số khối lượng cơ thất trái: 122g/m2 nữ, 149 g/m2 so với
115 g/m2 nam, 95 g/m2 nữ). Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trong cộng đồng cho thấy
có mối liên hệ chặt chẽ giữa thể tích nhĩ trái với các mức độ RLCNTTr cũng như khả
năng dự báo rung nhĩ [28,29]. Do những hạn chế của siêu âm tim Doppler, siêu âm
Doppler mô (TDI) là một công cụ hữu hiệu trong đánh giá RLCNTTr thất trái đặc biệt
với chỉ số E/e’ khi kết hợp với dòng Doppler qua van 2 lá do tỷ số này tương quan tốt
với áp lực đổ đầy thất trái [30-32] Trong khi vận tốc sóng E dòng Doppler qua van 2 lá
lệ thuộc vào áp lực tống máu nhĩ trái, động học thư dãn thất trái và tuổi thì sóng e’TDI
hầu như chỉ phụ thuộc vào động học thư dãn thất trái và tuổi. Vì vậy tỷ lệ E/e’ loại bỏ
được hai yếu tố này và trở thành số đo của áp lực tống máu nhĩ trái hay chính là áp lực
đổ đầy thất trái [9]. Nói cách khác, e’ đại diện cho lượng máu từ nhĩ xuống thất trong
thời kỳ đổ đầy sớm còn E là chênh áp cần thiết để tống lượng máu này đi. Theo khảo
sát của Omen, khi E/e’>15 áp lực đổ đầy sẽ cao và khi E/e’<8 áp lực đổ đầy là thấp
[26]. E/e’ trong khoảng 8-15 gợi ý RLCNTTr nhưng cần thêm các bằng chứng của các
test không xâm lấn khác [9]. Như đã nói ở trên, NC chúng tôi áp dụng tiêu chí theo
đồng thuận của hội suy tim và hội siêu âm tim châu Âu [9], nếu có lâm sàng suy tim,
EF bảo tồn, buồng thất trái không dãn và E/e’>8 thì BN sẽ được chẩn đoán có
STEFBT. Trong NC chúng tôi, tỷ lệ BN có E/e’>8 là 33% thấp hơn so với NC suy tim
tại cộng đồng của Bursi (n=308) là 63% [33]. Điều này có thể do chúng tôi không thực
hiện TDI cho các đối tượng đã có các bằng chứng đại diện RLCNTTr khác ( E/A<0.5/
DT>280ms, rung nhĩ, lớn nhĩ trái, phì đại thất trái). Ngoài áp lực đổ đầy thất trái, tỷ lệ
E/e’ còn là một yếu tố tiên lượng quan trọng và độc lập đối với sống còn sau NMCT
cấp [34].
Về phân độ suy tim, trong NC chúng tôi có tỷ lệ NYHA II cao hơn gấp 3 lần
NYHA III (72,2% so với 27,8%) ngược lại ở NC của Zile, NYHA III-IV là 78% còn
NYHA II là 22%. Sự khác biệt lớn này có thể do yếu tố chủng tộc, NC zủa Zile chỉ
toàn người da trắng, da đen mà không có đối tượng gốc Á nào. Phân tích của chúng tôi
không tìm thấy mối liên hệ ý nghĩa nào giữa phân độ NYHA và các yếu tố như giới,
tiền sử bệnh tật, các dấu hiệu đại diện RLCNTTr. Đây là vấn đề cần tim hiểu thêm
trong các khảo sát sắp tới.
Liên quan đến diễn tiến tại BV, không ghi nhận có tử vong do mọi nguyên nhân
tại BV trong đối tượng NC của chúng tôi. Các NC quan sát lớn về STEFBT cho thấy
không có khác biệt nhiều trong tỷ lệ sống còn giữa STEFBT và STEFG [4-7]. Theo NC
của Bhatia (n=880), tỷ lệ tử vong của BN STEFBT sau 1 tháng và 1 năm lần lượt là
5,3% và 22,3%, tỷ lệ tái nhập viện sau 1 tháng và 1 năm lần lượt là 4,5% và 13,5% ;
các chỉ số này không khác biệt ý nghĩa so với STEFG [5]. Trong NC của Owan
(n=2167), tỷ lệ tử vong STEFBT sau 1 năm và 5 năm lần lượt là 29% và 65% và cũng
không khác biệt nhiều so với STEFG [4]. Mặt khác, dữ liệu cũng cho thấy ở STEFG tỷ
lệ sống còn có cải thiện theo thời gian thì ở STEFBT tỷ lệ sống còn không thay đổi [4].
Biến chứng không tử vong nghiêm trọng trong NC chúng tôi là cơn hen tim/phù phổi
cấp (12/97-12,3%) và rối loạn nhịp thất thoáng qua (3/97-3%) trong đó có 10/12
(83,3%) có bệnh cảnh phù phổi cấp khi nhập viện. NC của Gandhi cho thấy ghi nhận
EF bảo tồn trên siêu âm tim 24-72g sau cơn hen tim/phù phổi cấp có tăng HA gợi ý
RLCNTTr thất trái là nguyên nhân chính gây suy tim cấp [35]. Trong NC của Bhatia
(n=880), các biến chứng tại BV được ghi nhận là: ngưng tim (1,2%), sốc tim (0,2%),
hội chứng MV cấp (4,3%), suy thận (26,7%), thở máy ( NIV 6,5%, qua NKQ 3,2%).
Trong các yếu tố như giới, tiền sử bệnh tật, các dấu hiệu đại diện RLCNTTr, chỉ
có nhĩ trái lớn là yếu tố tiên lượng có ý nghĩa biến chứng tại BV. Do không có điều
kiện theo dõi BN sau xuất viện, chúng tôi không biết được kết cuộc lâm sàng lâu dài
của BN và các yếu tố tiên lượng tử vong, tái nhập viện cũng như biến cố tim mạch
quan trọng khác. Trong khi có nhiều yếu tố tiên lượng tử vong và bệnh tật đã được xác
định trong STEFG, tương đối ít NC chú ý đến yếu tố tiên lượng trong STEFBT. Trong
khảo sát của Zile, phì đại thất trái đồng tâm và lớn nhĩ trái là các yếu tố tiên lượng độc
lập cho các biến cố tim mạch liên quan đến suy tim ở BN STEFBT [10]. Dữ liệu từ các
thử nghiệm lâm sàng và các NC đoàn hệ khác cho thấy nồng độ NT-proBNP [36], áp
lực tâm thu ĐM phổi [37], nồng độ aldosterone và cortisol [38], các yếu tố lâm sàng
(tuổi, ĐTĐ, độ nặng suy tim, suy thận)[39,40] là có giá trị tiên lượng ý nghĩa.
Tỷ lệ các thuốc điều trị suy tim trong nhóm bệnh của chúng tôi có các tương đồng
và khác biệt so với các NC ở nước ngoài ( bảng 9). Khác với STEFG, có ít thử nghiệm
lâm sàng đánh giá hiệu quả của các thuốc điều trị trong STEFBT. Gần đây các thử
nghiệm lớn với các thuốc ƯCMC (perindopril), ƯCTTh (candersartan, irbesartan) cho
thấy các thuốc này không cải thiện tỷ lệ tử vong ở BN. STEFBT [41-43]. Riêng chỉ có
candesartan được chứng minh là làm giảm tỷ lệ nhập viện ở BN STEFBT [42]. Ngoài
ra, NC sổ bộ OTIMIZE-HF bao gồm cả STEFG và STEFBT cho thấy dùng chẹn beta
sau khi xuất viện không giảm tử vong và nhập viện ở BN STEFBT sau 1 năm theo dõi
trong khi cả hai chỉ số này đều cải thiện ở BN STEFG [44].
Bảng 9: So sánh tỷ lệ các thuốc điều trị suy tim
Thuốc NC này Bursi [33] Zile [10] Gurwitz [7]
n=97 n=308 n=745 n=6210
Lợi tiểu quai (%) 71 71 60 33,6
ƯCMC/ƯCTTh (%) 98 51 77 50
Chẹn beta (%) 30,9 63 76 62,4
Digoxin (%) 12,4 - 10 8
Nitrates (%) 52,6 - 28 11,6
ƯCCanxi (%) 32 - 53 33,8
Spironolactone (%) 14,4 - 20 15
Hiện tại, các khuyến nghị mới nhất của hội tim mạch Hoa Kỳ về điều trị STEFBT
tập trung vào kiểm soát HA tâm thu, tâm trương theo các hướng dẫn hiện hành ( class
I), dùng lợi tiểu để giảm triệu chứng do quá tải thể tích (class I), tái tạo MV nếu điều trị
nội không đáp ứng (class IIa), xử trí rung nhĩ theo các hướng dẫn hiện hành để cai
thiện triệu chứng suy tim (class IIa), dùng chẹn beta, ƯCMC, ƯCTTh để điều trị tăng
HA [1].
Là chỉ định class I trong STEFG, nhưng thuốc đối kháng aldosterone là spironolacton
không được chỉ định trong STEFBT [1]. Dù vậy tỷ lệ dùng spironolatone trong NC
chúng tối là 14,4% có lẽ với mục đích lợi tiểu giữ kali. Một NC về spironolactone mới
công bố cho thấy thuốc này không làm tăng khả năng gắng sức, không cải thiện triệu
chứng, chất lượng cuộc sống ở BN STEFBT [45]
Các hạn chế của NC: Một số đối tượng chưa được siêu âm lần 2 để đánh giá chức
năng tâm trương (do điều kiện khách quan) sau đó xuất viện nên không được đưa vào
NC. Việc đo đạc các chỉ số siêu âm tim có thể có sai sót chủ quan mặc dù có thực hiện
tính trung bình từ 2-3 lần đo cho mổi chỉ số. Kết cuộc sau xuất viện của BN như tử
vong, tái nhập viện do suy tim cần được khảo sát và xác định các yếu tố tiên lượng.
KẾT LUẬN
Từ tháng 4-10/2013 có 98 BN tuổi TB 76,3 với 60,8% là nữ, nhập viện với lâm
sàng suy tim, phân suất tống máu EF trung bình là 64% và có các dấu hiệu đại diện cho
RLCNTTr the0 tiêu chí hội tim châu Âu được xác định chẩn đoán STEFBT. Hầu hết
BN có tiền sử tăng HA, ĐTĐ và vRLCH lipid với phân độ NYHA II chiếm đa số. Các
biến chứng chính là cơn hen tim/phù phổi cấp và loạn nhịp thất thoáng qua. Trong các
đặc điểm lâm sàng và dấu hiệu RLCNTTr, chỉ có lớn nhĩ trái là yếu tố tiên lượng có ý
nghĩa các biến chứng tại BV. Đa số BN được điều trị với lợi tiểu, ƯCMC hoặc ƯCTTh.
Cần có thêm các NC lớn hơn và lâu dài hơn về STEFBT tại BVTM An Giang vì đây là
một thực thể bệnh lý tim mạch quan trọng nhưng còn ít được chú ý.