You are on page 1of 15

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU

I. KỸ SƯ VÀ NGHỀ NGHIỆP
1.1 Kỹ sư là ai
1.2 Các chức năng của người Kỹ sư
1.3 Con đường nghề nghiệp của người Kỹ sư

II. NGƯỜI KỸ SƯ TRONG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH


2.1 Người Kỹ sư trong doanh nghiệp
2.2 Người Kỹ sư trong tổ chức

III. NGƯỜI KỸ SƯ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ


3.1 Quản lý là gì
3.2 Kỹ sư làm công tác quản lý
3.3 Quản lý kỹ thuật
3.4 Khi Kỹ sư trở thành người quản lý

IV. KỸ SƯ HỌC QUẢN LÝ NHƯ THẾ NÀO

V. CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ


5.1 Công nghệ và công tác quản lý.
5.2 Công nghệ chiến lược, công nghệ cần thiết và công nghệ chủ đạo
5.3 Đổi mới công nghệ và Chiến lược cạnh tranh
5.4 Các loại đổi mới công nghệ
I. KỸ SƯ VÀ NGHỀ NGHIỆP

1.1 Kỹ sư là ai?

Kỹ sư (Engineer) là người hành nghề kỹ thuật. Nghề nghiệp kỹ thuật (engineering profession)
ngày nay được xem là “Một nghề ứng dụng một cách có suy xét các kiến thức toán học và khoa
học tự nhiên có được qua học tập, nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra những phương
thức sử dụng các vật liệu và các nguồn lực tự nhiên một cách hiệu quả về mặt kinh tế nhằm phục
vụ lợi ích con người“

Cả Kỹ sư và “Nhà khoa học tự nhiên” (Scientists) đều được học tập về toán học và khoa học tự
nhiên, nhưng Nhà khoa học tự nhiên chủ yếu sử dụng các tri thức này để tìm ra tri thức mới còn
Kỹ sư là người áp dụng các tri thức đó để thiết kế và phát triển các thiết bị, các cấu trúc và các
quá trình có ích cho con người. Mặt khác, khác với các nghề nghiệp của Luật sư, Nhà tâm lý học,
Nha sĩ v.v . . ., người Kỹ sư tạo ra các thiết bị, cấu trúc, quá trình . . . nói trên để sử dụng cho
những nhóm người hơn là cho một cá nhân. Họ rất ít khi giao tiếp trực tiếp với những người sử
dụng, người hưởng lợi từ công việc và dịch vụ của họ. Tuy nhiên, những “tác phẩm” của họ thì
lại thường được “phô bày” ra cho tất cả mọi người nhìn thấy và không dễ gì che dấu được những
khuyết tật hay sai lầm như ở một số ngành nghề khác.

Ở nhiều nước, muốn làm Kỹ sư phải đăng ký hành nghề và Kỹ sư thường tham gia vào các hội
nghề nghiệp để được bảo vệ quyền lợi và có tiếng nói chung trong hoạt động nghề nghiệp. Để
được đăng ký hành nghề, người Kỹ sư thường phải có 4 năm đào tạo và ít nhất là 4 năm kinh
nghiệm, phải trải qua một kỳ thi viết và thỏa mãn những yêu cầu về tư cách và đạo đức nghề
nghiệp.

1.2 Các chức năng của người Kỹ sư

Chức năng hay hoạt động của người Kỹ sư có một phạm vi rất rộng, có thể bao gồm: nghiên cứu,
phát triển, thiết kế, sản xuất, xây dựng, vận hành, bán hàng và quản lý.

1/ Nghiên cứu (Research): là hoạt động để tìm kiếm những tri thức mới hoặc để hiểu biết tốt hơn
ý nghĩa và mối liên hệ giữa các sự việc đã biết đang tồn tại trong thế giới khách quan của đời
sống con người.

2/ Phát triển (Development): là hoạt động phát minh và ứng dụng các kết quả nghiên cứu để đưa
ra các sản phẩm, các phương pháp và các quá trình hữu ích.

3/ Thiết kế (Design): là quá trình hoạt động chuyển đổi các khái niệm và thông tin thành những
kế hoạch và những mô tả kỹ thuật để từ đó có thể sản xuất hay xây dựng những sản phẩm, công
trình.

4/ Sản xuất (Production): là quá trình hoạt động công nghiệp để sản xuất ra các sản phẩm hoặc
vật phẩm từ các nguyên vật liệu.

5/ Xây dựng (Construction): là quá trình hoạt động để chuyển đổi các thiết kế và vật liệu thành
các công trình như nhà cửa, đường xá v.v . . .

6/ Vận hành (Operation): trong kỹ thuật, được hiểu là việc áp dụng các nguyên lý kỹ thuật hoặc
thực hiện một công việc thực tế. Trong sản xuất, vận hành là việc cung cấp nguyên liệu, duy tu
thiết bị, chỉ huy công nhân v.v . . .

MỞ ĐẦU 1
7/ Bán hàng (Sales): Ngày nay có nhiều mặt hàng máy móc, thiết bị hay dịch vụ yêu cầu phải có
những Kỹ sư được đào tạo để có thể giới thiệu cho khách hàng mới, phục vụ một cách tốt nhất
nhu cầu của họ. Bán hàng ở đây bao gồm cả nhiệm vụ có tính chất tiếp thị

8/ Quản lý (Management): là trách nhiệm giải quyết các vấn đề về chính sách, tổ chức, tài chính,
bán hàng và phối hợp công việc v.v . . .

Trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của mình, người Kỹ sư có thể làm một số hay tất cả các chức
năng đó. Theo số liệu thống kê năm 1984 ở Mỹ, tỷ lệ Kỹ sư trong một số hoạt động như sau:
Lĩnh vực hoạt động Tỷ lệ(%)
1/ Nghiên cứu 4,2 %
2/ Phát triển 29,7 %
3/ Quản lý nghiên cứu và phát triển 10,9 %
4/ Hành chính và các loại quản lý khác 22,6 %
5/ Sản xuất và giám sát 17,8 %
6/ Giảng dạy 2,1 %
7/ Tư vấn 5,9 %
8/ Báo cáo tính toán, thống kê 4,0 %
9/ Khác 2,8 %

1.3 Con đường nghề nghiệp của người Kỹ sư

Có lẽ có ít nhất 5 con đường nghề nghiệp đối với một số sinh viên (SV) tốt nghiệp các ngành kỹ
thuật. Đó là:

1/ Theo các bậc thang nghề nghiệp trong các doanh nghiệp, công ty. Công ty thường thu nhận
phần lớn các Kỹ sư. Ở Mỹ năm 1984 có đến hơn 80% Kỹ sư làm việc ở các công ty, đặc biệt là ở
các công ty lớn. Họ có thể trực tiếp làm việc về kỹ thuật, soạn thảo các dự án, tiếp thị các dịch vụ
kỹ thuật hoặc từng bước leo lên các bậc thang quản lý. Công ty, trừ một số có nhiệm vụ phục vụ
công ích, thường có mục tiêu là lợi nhuận. Với công ty, lợi nhuận như là máu của cơ thể con
người. Mục tiêu nói chung của công ty là “Cực đại hóa lợi nhuận” theo nghĩa rộng, Người Kỹ sư
luôn phải hiểu điều đó.

2/ Hoạt động như một nhà doanh nghiệp độc lập (Entrepreneur). Một số Kỹ sư lại muốn làm
việc độc lập cho chính họ. Con đường thường là: Làm việc cho một công ty hay một tổ chức
phục vụ công cộng khoảng 3 – 5 năm để có kinh nghiệm, từ đó có thể tiến đến hoạt động tư vấn
độc lập, biến những kiến thức, tài năng của mình thành vốn và sau đó thành lập công ty cho
chính mình. Có thể nói, đây là một con đường có nhiều rủi ro nhưng đầy hứng thú. Mục tiêu cuối
cùng không chỉ là giàu có mà còn là “độc lập”, là thách thức tài năng và ở đây chỉ phải “phục
tùng” chính mình và khách hàng của mình.

3/ Làm việc trong các tổ chức nhà nước, các tổ chức phục vụ công cộng. Ở đây có hai con
đường chính. Một là tham gia quân đội, hai là làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước. Các
Kỹ sư trẻ tham gia quân đội sẽ có điều kiện tiếp xúc với kỹ thuật – công nghệ có trình độ cao, ít
bị áp lực tuổi tác, kinh nghiệm, có điều kiện thăng tiến nhanh, dễ được đào tạo thêm để có bằng
cấp cao hơn. Với một tấm bằng cấp cao và quỹ hưu bổng khá, sau chừng 20 năm, ở tuổi “rực rỡ”
40 - 45 người Kỹ sư có thể dễ dàng bắt đầu một nghề nghiệp mới. Ở một số nước, nhiều người
cho rằng, đây là một phương án có nhiều ưu việt.

MỞ ĐẦU 2
Còn khi làm việc ở các cơ quan quản lý nhà nước hoặc phục vụ công cộng, người Kỹ sư thường
có được những lợi ích bổ sung như: an toàn về việc làm, có chế độ nghỉ ngơi hợp lý và có các
chương trình hưu bổng, y tế ưu tiên. Phần lớn các Kỹ sư ở đây là Kỹ sư công chánh, liên quan
đến đường sá, cầu cống, bến cảng, các dự án thủy lợi, cấp nước, bảo vệ môi trường v.v. .. Cũng
cần lưu ý là, có một số tổ chức phục vụ công cộng có mua bán các sản phẩm dịch vụ nhưng ở
đây không tuân theo đầy đủ những yếu tố của cơ chế thị trường, không theo nguyên tắc “Cạnh
tranh hay là chết”. Mục tiêu của các tổ chức này thường là: “Cực tiểu chi phí” (đương nhiên là từ
“hầu bao” của công chúng).

4/ Hành nghề Giáo sư – Kỹ sư hay Nhà nghiên cứu ở các tổ chức đào tạo_nghiên cứu

Nước ta hiện nay có gần 200 trường đại học – cao đẳng, có khoảng 400 viện nghiên cứu ở trung
ương, ở địa phương và ở các ngành kỹ thuật. Số lượng Kỹ sư đang hoạt đông ở dạng nhà giáo
hay nhà nghiên cứu ở các tổ chức này khá đông đảo. Những Kỹ sư theo con đường nghề nghiệp
này, nói chung, thường phải ở đỉnh cao trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Vì vậy, đây là một
nghề nghiệp, về nguyên tắc, khá “khắc nghiệt”. Thầy giáo ở trường đại học, nhất là trường đại
học truyền thống, phải vừa là nhà sư phạm, nhà khoa học và cả nhà thực tiễn nữa.

Các tổ chức này, ngoài các mục tiêu do tổ chức tài trợ xác định, thường có mục tiêu “Cực tiểu
chi phí”. Hơn nữa, ngày nay trong xu thế “nghiên cứu theo hợp đồng”, xu thế “giáo dục đại học
cho số đông”, người ta cũng ngày càng lưu ý hơn việc “thương mại hóa” những dịch vụ của
mình.

5/ Làm việc ngoài lĩnh vực kỹ thuật. Người có bằng đại học kỹ thuật cũng có thể chuyển sang
làm việc ở các lĩnh vực như Luật, Kinh doanh, Y tế, Tài chính v.v. . . Một Luật sư – kỹ sư sẽ
phục vụ rất tốt cho một tổ chức nông nghiệp đang kiện một xí nghiệp ở thượng lưu làm tăng hàm
lượng mặn vào hệ thống tưới, có khả năng nhận ra các điều ngụy biện và dối trá của bị đơn. Một
Nhà quản lý – Kỹ sư sẽ dễ dàng nhận ra các khía cạnh kỹ thuật của các thiết kế, thử nghiệm, sản
xuất và tiếp thị sản phẩm. Một Bác sĩ – kỹ sư sẽ có nhiều thuận lợi trong việc nghiên cứu các
thiết bị y tế v.v . . . Trong thực tiễn đã có khá nhiều ví dụ về một Kỹ sư mà đã đạt được những
thành công đáng kể khi chuyển sang làm việc ở một lĩnh vực chuyên môn khác. Do đó đừng quá
câu nệ đến chuyên môn bằng cấp đầu tiên.

Trên thực tế, trong một đời người có thể làm rất nhiều nghề khác nhau. Một số SV kỹ thuật sau
khi tốt nghiệp có thể làm Kỹ sư ở một công ty lớn 7 – 8 năm, sau đó lại lãnh đạo một công ty tư
vấn độc lập ở một tỉnh nhỏ, tiếp sau lại làm việc cho cơ quan quản lý nhà nước v.v . . Sau khi về
hưu, với những thành công và uy tín đã có, họ lại có thể thành lập một công ty tư vấn khác.
Không ai có thể lường trước được con đường nghề nghiệp của cả đời mình. Vì vậy, điều quan
trọng là, phải biết tìm kiếm kiến thức và biết thích nghi.

II. NGƯỜI KỸ SƯ TRONG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH

2.1 Người Kỹ sư trong doanh nghiệp

Như đã nêu trên, phần lớn Kỹ sư làm việc ở các lĩnh vực công nghiệp, ở các công ty. Để xem xét
người Kỹ sư sẽ làm việc trong môi trường này như thế nào, chúng ta thử lấy một ví dụ minh họa
từ một “quá trình phát triển sản phẩm” trong một doanh nghiệp sản xuất (manufacturing). Đương
nhiên, đây là quá trình đã được đơn giản hóa để thấy được những đặc điểm chính của môi
trường. Trong thực tế, quá trình này phức tạp hơn (Hình 1-1).

MỞ ĐẦU 3
Môi trường kinh doanh ở đây được đơn giản hóa chỉ bao gồm 3 thành phần: Khách hàng
(customers), Đối thủ cạnh tranh (competitors) và Các ràng buộc (constraints), tạo thành môi
trường của DN. DN cũng đơn giản chỉ gồm 5 chức năng:

1/ Chức năng tiếp thị (marketing). Ở đây, người Kỹ sư có nhiệm vụ tìm hiểu sở thích và những
yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm. Từ đó, họ có thể lập “Đề cương các đặc điểm kỹ
thuật” (outline specifications) cho các sản phẩm mới và sản phẩm cải tiến.

2/ Chức năng kỹ thuật (technical). Ở đây, người Kỹ sư có nhiệm vụ “Phát triển và thiết kế sản
phẩm”, chuyển Đề cương trên thành “Các đặc điểm kỹ thuật cho việc chế tạo” (manufacturing
specifications), nghĩa là xác định: sản phẩm phải được làm ra như thế nào và phải đáp ứng được
các yêu cầu về chất lượng, giá thành, thời gian v.v.. (Hoạt động nghiên cứu để phát triển và thiết
kế sản phẩm không nêu ra ở đây).

3/ Chức năng sản xuất (Production). Ở đây, người Kỹ sư chuyển các thiết kế nói trên thành sản
phẩm đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và các ràng buộc về giá thành. Sản lượng sản xuất
phụ thuộc vào thị trường, chính sách thị trường, khả năng sản xuất, mức độ cạnh tranh và sự đặt
hàng của khách hàng.

4/ Chức năng tiêu thụ (Sales). Việc tiêu thụ phải đáp ứng được các đơn đặt hàng và phụ thuộc
vào chính sách thị trường của doanh nghiệp.

5/ Chức năng tài chính (Finance). Đây là công việc giúp cho người quản lý kinh doanh trong
việc lập kế hoạch, tổ chức, kiểm tra và kiểm soát các hoạt động kinh doanh về mặt lợi tức, lợi
nhuận và dòng tiền tệ (cash-flow)

MỞ ĐẦU 4
Thị trường
Khách hàng, người cạnh tranh, các ràng buộc

Quá trình thiết kế Sản phẩm


sản phẩm
Xác định
yêu cầu

Hình 1.1: Quá trìnhPhát


sản triển
xuất &
trong
thiếtmôi
kế trường kinh doanh

Như vậy người Kỹ sư trong quá trình thiết kế sản phẩm, dù phải tập trung vào chức năng kỹ
thuật, trên thực tế phải mở rộng tầm nhìn của mình sang cả chức năng tiếp thị và sản xuất. Hơn
nữa, đầu tư là chi phí Chế
đi trước
tạo lợi nhuận. Do đó, người Kỹ sư cũng phải biết chú trọng đến vấn đề
giá thành, thời gian…, nghĩa là phải có hiểu biết cả chức năng tài chính. Chức năng kỹ thuật là
phần liên kết nằm giữa chức năng tiếp thị và sản xuất và ba chức năng này hợp thành một mảng
có ý nghĩa rất lớn trong thành công hay thất bại của một DN sản xuất. Ở đây, các chức năng khác
có vai trò hỗ trợ. Đương nhiên, chức năng tài chính, trong đó có nhiệm vụ kế toán gắn rất chặt
với 3 chức năng chủ yếu BánnóihàngTiếp
trên. thịKỹ thuậtSản xuấtTiêu thụCác chức
năng kinh doanh
Từ những phân tích sơ bộ nói trên, đến đây chúng ta cũng đã có thể nói rằng, người Kỹ sư không
thể chỉ có quan điểm kỹ thuật trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Muốn hoàn thành tốt
nhiệm vụ, người Kỹ sư cần có cả 3 loại quan điểm khác nhau sau đây:

 Quan điểm kỹ thuật (đương nhiên)

 Quan điểm kinh tế, liên quan đến các khía cạnh thời gian, tiền bạc, v.v.., “biết đọc, biết
viết” (literate) về tài chính (vì ngôn ngữ về tiền bạc là ngôn ngữ của kinh doanh)…

 Quan điểm vận hành (operational), biết nhìn từ cách nhìn của khách hàng-người tiêu
dùng, của người quản lý…

MỞ ĐẦU 5
Yêu cầu của khách hàng
Tiếp thị

Đặc tính kỹ thuật khái quát


Kỹ thuật

Đặc tính kỹ thuật chế tạo CHỨC


Sản xuất NĂNG

Sản xuất
Bán hàng

Tiêu thụ sản phẩm


Tài chính

Các quan điểm

Kỹ thuật Kinh tế Vận hành


(Nhìn từ khách hàng)

Để có quan điểm hiểu biết tổng thể

Hình 1.2: Các quan điểm trong hoạt động nghề nghiệp của người kỹ sư

2.2 Người kỹ sư trong tổ chức

Hoạt động nghề nghiệp của người Kỹ sư trong xã hội ngày nay thường được gắn kết trong một tổ
chức nào đó. Một người ở trong một tổ chức cũng có nghĩa là sự “cam kết” (commitment) cá
nhân của người đó đối với các mục tiêu, mục đích của tổ chức này và phải thể hiện bằng những
đóng góp của chính mình. Điều đó cũng có nghĩa, họ phải làm việc qua các mối quan hệ chính
thức và không chính thức giữa các thành viên của tổ chức, và rộng hơn nữa là giữa các tổ chức
với nhau cũng như giữa người với người trong xã hội. Họ luôn phải có quan hệ, va chạm với
những người khác và với những sự việc, ít ra là trong tổ chức đó.

Chính vì vậy, một Kỹ sư nổi tiếng đã viết trong “tự truyện” của mình như sau: “Tôi đã tốt nghiệp
kỹ thuật nhưng tôi vẫn chưa phải là kỹ sư. Một nguời kỹ sư phải biết rất nhiều về con người, về
cách tổ chức họ lại với nhau và cả cách “chống đối nhau”. Tôi quyết tâm trở thành một kỹ sư
thực sự. Tôi quyết tâm học thêm về con người cũng như các sự việc.”

MỞ ĐẦU 6
III. NGƯỜI KỸ SƯ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ

3.1 Quản lý là gì ?

Quản lý, thực tế có quá nhiều định nghĩa. Có tác giả gọi đơn giản: “Quản lý là giải quyết công
việc thông qua hoạt động của nhiều người” (getting things done through people). Tuy nhiên, nói
chung nhiều người cho rằng, quản lý bao gồm 4 nhiệm vụ phân biệt nhưng có liên quan nhau là :

1/ Hoạch định (Lập kế hoạch): Là việc xác định các mục tiêu và tìm giải pháp hợp lý về kinh tế
để đạt được các mục tiêu đó;

2/ Tổ chức: Là việc huy động các nguồn lực, con người v.v . . . để thực hiện các kế hoạch;

3/ Kiểm soát: (controlling) là việc xử lý các “chệch choạc” so với kế hoạch và tiến hành các hiệu
chỉnh khi cần thiết; và

4/ Lãnh đạo: (leading) là việc thúc đẩy mọi người hoàn thành công việc của mình một cách tốt
nhất.

Có hai yếu tố chính cần xem xét trong công việc quản lý. Thứ nhất là mức độ về kỹ năng chuyên
môn không thuộc khoa học quản lý nhưng được sử dụng trong công tác quản lý và thứ hai là cấp
(level) quản lý trong hệ thống quản lý. Đương nhiên các yếu tố này có liên quan với nhau. Hệ
thống quản lý trong một tổ chức DN thường có dạng “tập quyền” (hierachy) như ở Hình (1-3),
gồm 3 cấp chính.

1/ Quản lý cấp thấp (first line managers), thường là những người giám sát (supervisor), nhóm
trưởng, những người quản lý không giống như kiểu quản lý của giám đốc, trưởng phòng.

2/ Quản lý cấp trung (middle managers), như trưởng phân xưởng, kỹ sư trưởng, các giám đốc
chức năng (tài chính, nhân sự . . . ) v.v . . .

3/ Quản lý cấp cao (top managers), như chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, v.v .

Cấp quản lý càng cao, trách nhiệm càng lớn thì tầm nhìn phải càng xa và sử dụng kiến thức, kỹ
năng tổng quát nhiều hơn. Ngược lại, cấp quản lý càng thấp thì phải đi vào giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể hơn, có tính chất ngắn hạn hơn và sử dụng nhiều kỹ năng chuyên môn hơn. Hầu
hết các nhà quản lý ban đầu được đào tạo về những kỹ năng chuyên môn “không có tính chất
quản lý” (non – management) như Luật, Kế toán, Tiếp thị, Kỹ thuật... và công việc đầu tiên của
họ thường liên quan với những chuyên môn đó. Dần dần họ vươn lên trong thang bậc quản lý ở
DN, càng ngày càng có kinh nghiệm nhiều hơn và khi đến mức “giám đốc” thì họ sử dụng kỹ
năng của người “generalists” nhiều hơn và việc sử dụng các kỹ năng chuyên môn nói trên ngày
càng ít hơn. Người ta cũng nói rằng, “Giám đốc tài chính thì giỏi về tài chính, giám đốc kỹ thuật
– sản xuất thì phải giỏi về kỹ thuật/công nghệ”. Tuy nhiên, “quy tắc” này không có nhiều ý nghĩa
đối với trường hợp các giám đốc chức năng khác.

MỞ ĐẦU 7
Tính
chất Trách
của nhiệm Các Cổ
Kỹ kinh Đông
Tầm
Năng doanh Nhìn

Tổng Quát – Cao Dài


(generalists) Chủ Tịch HĐQT
Giám Đốc Quản Lý
Giám Đốc Điều Hành
 QL Cấp Cao

 QL Cấp Trung
Chuyên Sâu – Thấp Ngắn
Specialists)  QL Cấp Thấp
 Công Nhân

Hình
3.2 Kỹ 1.3: công
sư làm Các cấp
tác quản lý

Chúng ta đang sống trong một xã hội có tính chất công nghiệp (Technological Society) và các
công ty ngày nay cũng đều “bắt nguồn” từ, hay “hướng theo”, công nghệ (Technically oriented).
Người Kỹ sư thường là “nhân vật” quan trọng nhất đưa chúng ta đến xã hội đó. Chính vì vậy,
ngay ở Mỹ, nơi có đến ¼ số bằng cấp thạc sĩ (Master) là thạc sĩ về quản trị kinh doanh (MBA)
nhưng cũng có đến trên một nửa số công ty như vậy là do những người vốn được đào tạo ban
đầu về kỹ thuật làm tổng giám đốc. Hơn nữa, theo một thống kê về công việc của người Kỹ sư
năm 1969 ở Mỹ, người ta thấy (Hình 1-4):

+ Có đến 10% Kỹ sư là Tổng quản lý (Tổng giám đốc);

+ Có đến 20% Kỹ sư quản lý các Phòng Ban hoặc Chương trình (Giám đốc chức năng);

+ Có đến 22% Kỹ sư là quản lý/giám sát các Dự án hay Bộ phận;

+ Có đến 12% Kỹ sư là quản lý/giám sát Đội, Tổ;

+ Có 18% Kỹ sư làm công tác giám sát nhân viên hoặc giám sát gián tiếp, và

+ Chỉ có 18% kỹ sư không có làm công tác giám sát thường xuyên.

Như vậy có thể nói rằng, có đến khoảng 2/3 kỹ sư có trực tiếp làm công tác quản lý, giống như
một nhà quản lý (managers). Người ta cũng cho rằng, mặc dù các số liệu thống kê nói trên đã cũ
nhưng chúng vẫn còn là những con số hợp lý trong xã hội ngày nay.

MỞ ĐẦU 8
Giám đốc
Quản lý / chức năng
Giám sát
Dự án/Bộ
phận 20 % Tổng
quản lý
22 %
10 %
Không làm
công tác
12 % giám sát
18 % thường
Quản lý / xuyên
Giám sát 18 %
Đội, Tổ
Giám sát
gián tiếp
Hình 1.4: Trách nhiệm quản lý/ giám sát của kỹ sư

3.3 Quản lý kỹ thuật

Một số tác giả cho rằng, quản lý kỹ thuật (engineering management) là giám sát trực tiếp các Kỹ
sư hoặc các chức năng kỹ thuật, nghĩa là giám sát những nhóm các nhà nghiên cứu kỹ thuật hoặc
các hoạt động thiết kế kỹ thuật. Một số tác giả lại đưa thêm vào định nghĩa đó: “có tính kỹ thuật
trong công tác quản lý” (“engineering” of management), nghĩa là có ứng dụng các phương pháp
định lượng trong quản lý (management science). Tuy nhiên, một số tác giả cho rằng, cách định
nghĩa như vậy là quá hẹp, chưa phù hợp với các hoạt động của người Kỹ sư trong các DN ngày
nay. Các tác giả này cho rằng, “Người quản lý kỹ thuật khác với những người quản lý khác là ở
chỗ họ phải đồng thời có khả năng áp dụng các nguyên lý kỹ thuật và cả kỹ năng tổ chức và chỉ
đạo con người cũng như dự án. Họ ít nhất phải có năng lực cao, hoặc trong quản lý các chức
năng kỹ thuật (technical functions) như là thiết kế hay sản xuất ở một DN sản xuất bình thường,
hoặc trong quản lý các chức năng rộng hơn như là tiếp thị hay tổng quản lý trong các DN công
nghệ cao.

Cũng cần lưu ý rằng, các DN công nghệ cao ngày nay thường phải sản xuất kinh doanh theo
những công việc và kiểu cách chưa từng có trước đây. Hơn nữa, họ phải “đảm bảo” làm đúng
ngay từ lần đầu vì thường không có cơ hội thứ hai và họ phải giải quyết, xử lý những vấn đề có
tính chất “không chắc chắn” (uncertainties). Các yếu tố này có nhiều tính chất kỹ thuật mà người
Kỹ sư là người có điều kiện nhiều nhất để nhận ra được và tổ chức giải quyết. Cũng chính vì vậy
mà người Kỹ sư thường được lựa chọn vào các chức vụ “quản lý kỹ thuật” ở các DN dựa vào
công nghệ (technically based).

3.4 Khi Kỹ sư trở thành người quản lý

Bước thang đầu tiên trong các bậc thang quản lý ở DN của người Kỹ sư thường là “Kỹ sư quản
lý các Kỹ sư” ở vai trò giám sát vì các Kỹ sư thường yêu cầu giám sát họ phải là một người Kỹ
sư nổi tiếng. Cũng chính vì vậy, “Kỹ sư quản lý các Kỹ sư” thường là những người rất thành đạt
ở vai trò kỹ sư. Tuy nhiên, trước đó họ thường không có ý định “gắn” vào quản lý như là mục
tiêu nghề nghiệp của đời mình. Do đó, trong nhiều trường hợp các “cuộc dịch chuyển” như vậy,
trong cái nhìn hẹp lại trở thành một “điều đau buồn”. Lý do có thể là:

MỞ ĐẦU 9
 Trước hết, trong nhiệm vụ kỹ thuật, “anh ta” là người rất thành đạt, đang cảm thấy thỏa mãn
và đang kỳ vọng tiếp tục có những thành đạt mới, nghĩa là “anh ta” đang ở “đỉnh cao” của nghề
nghiệp kỹ sư. Nay chuyển sang quản lý với những cơ hội thành đạt hoàn toàn khác mà “anh ta”
lại đang ở vị trí “hạng dưới cùng” của nghề nghiệp quản lý. Và nếu thất bại, “anh ta” cũng khó
lòng quay trở về vị trí hàng đầu của nghề nghiệp kỹ sư. Do đó, “anh ta” thường cảm thấy “bấp
bênh” và luôn sợ gặp sai lầm trong việc ra quyết định.

 Thứ hai, người Kỹ sư thường chưa quen với vai trò lãnh đạo, chưa biết cách giải quyết công
việc thông qua những người khác (getting things done through people), chưa quen cách chấp
nhận lời giải của người khác cho những vấn đề của “chính mình”. Một số còn chưa biết “cách tin
tưởng” người khác và do đó cứ muốn can thiệp trực tiếp vào dự án hoặc muốn “tự làm lấy” để
đảm bảo hơn hay có hiệu quả hơn. Mặt khác, ở vị trí người quản lý, người Kỹ sư như luôn ở
trạng thái “nằm trong tay” cấp dưới của mình về chuyên môn cũng như về hiệu quả công việc
của chính họ. Vì vậy, họ cứ muốn tiếp tục làm việc như một Kỹ sư. Nhưng rồi đến một ngày nào
đó họ mới thấy được là, mình không đủ sức để làm cả hai việc.

 Thứ ba, người Kỹ sư thường thiếu kiến thức và cả thói quen giải quyết vấn đề và ra quyết định
theo quan điểm của tổ chức hay công ty. Họ cũng thường chưa nhận thức đầy đủ rằng, chức năng
chủ yếu của họ là làm cho công ty đạt được các mục tiêu của mình và cung cấp được những hàng
hóa, dịch vụ mà xã hội muốn.

 Thứ tư, từ một thói quen “chặt chẽ” trong kỹ thuật dựa trên các lý thuyết và quy luật của thế
giới tự nhiên, họ nay lại phải đương đầu với những vấn đề như không nhìn thấy được
(intangible), với những “điều lệ” và quy định do con người làm ra và với tất cả những thất
thường của bản chất con người. Họ phải làm việc trong một môi trường như không có gì là chắc
chắn cả.

 Cuối cùng là, tâm lý hay coi thường công tác quản lý của người Kỹ sư. Hầu hết các Kỹ sư xem
người quản lý như là một “kẻ quan liêu”, “người cạo giấy”, người chuyên lo củng cố “ngôi vị”
của mình, gây cản trở cho công tác kỹ thuật hơn là người lo cho công việc. Nay chính “anh ta”
lại phải dành gần như toàn bộ thời gian cho công tác quản lý. Nhưng nếu không được đào tạo và
chuẩn bị đầy đủ, chính “anh ta” sớm muộn gì đó rồi cũng lại bị biến thành “mẫu” người nói trên.

Với những nấc thang sau trong các thang bậc quản lý ở DN, hoặc với người đã có sự chuẩn bị
đầy đủ, thường không có trạng thái “shock” nói trên. Khi người Kỹ sư trở thành nhà quản lý DN,
thường họ đã bước qua một số nấc thang quản lý, đã có những kinh nghiệm, những thói quen và
kỹ năng quản lý. Vì vậy ở nấc thang đó họ thường đã biết mình chủ yếu là một “generalist” chứ
không còn chủ yếu là một “specialist” nữa.

Như vậy, để tránh được những cú “shock” nói trên khi chuyển sang công tác quản lý, người Kỹ
sư cần:

a) Biết chấp nhận những lời giải của người khác cho các vấn đề của “chính mình”;
b) Biết xử lý các sự kiện và quan hệ với con người để họ có thể hoàn tất tốt công
việc;
c) Biết lãnh đạo một nhóm người mà ở đó người ta không luôn luôn làm việc và suy
nghĩ theo kiểu cách của chính mình;
d) Biết cách “tin tưởng” những người khác.

MỞ ĐẦU 10
IV. KỸ SƯ HỌC QUẢN LÝ NHƯ THẾ NÀO?

Như trên đã nói, người Kỹ sư là người phải biết giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả về mặt
kinh tế. Họ lại thường làm việc trong một tổ chức có nhiều mối liên hệ cả về công việc và con
người đang hướng vào các mục tiêu của chính tổ chức đó. Họ được quản lý bởi người khác và
khi trở thành nhà quản lý họ còn phải biết quản lý những người khác. Chính vì vậy, cho dù chưa
là người quản lý, họ cũng phải biết những vấn đề về quản lý. Vấn đề là họ phải chuẩn bị những
kiến thức này như thế nào và đến mức độ nào.

Ở Mỹ, từ năm 1967 (Đại học Missouri – Rolla), đã có một chương trình cử nhân gồm khoảng 3
năm đào tạo về kỹ thuật và một năm về quản lý. Ở đấy cũng có Chương trình Thạc sĩ khoa học
(master of science) cho những người tốt nghiệp đại học kỹ thuật với nội dung là những “công
cụ” (tools) về quản lý để họ có thể trở thành những Kỹ sư giỏi hơn. Ở đấy cũng có đến hàng
ngàn Cử nhân và Thạc sĩ về Quản lý kỹ thuật (Engineering Management). Đến năm 1980, người
ta khảo sát lại và thấy rằng, các loại chương trình này rất có hiệu quả và đã có hàng trăm trường
đại học khác mở ra các chương trình tương tự. Ở Việt nam hiện nay đã có môn “Quản lý cho kỹ
sư” hay môn “Quản lý doanh nghiệp” cho SV kỹ thuật bậc đại học và chương trình Thạc sĩ Quản
trị kinh doanh (MBA) cho những người đã tốt nghiệp kỹ sư. Ở Việt Nam các chương trình này
lần đầu tiên đã được thực hiện ở Trường Đại học Bách khoa Tp.HCM (năm 1993). Còn mức độ
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm về chuyên môn và quản lý cần thiết đối với người quản lý, có
thể hình dung qua sơ đồ sau đây (Hình 1-5)
Cấp quản lý

Thấp nhất Lớp trung Cao nhất

(1) Kỹ năng về kỹ thuật (kỹ thuật, kế toán, xử lý văn bản,…)


(2) Kỹ năng về quan hệ giữa người với người (lãnh đạo, giao tiếp,…)
(3) Kỹ năng tổng quát (Biết “Nhìn rừng hơn là nhìn cây”)
Hình 1.5: Kỹ năng cần thiết cho các cấp quản lý

Như vậy, người ở cấp quản lý càng cao thì cần phải có kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm về quản
lý càng nhiều và ở cấp cao nhất người quản lý mang “màu sắc” của một “generalist” nhiều hơn là
một “specialist”, cho dù điểm xuất phát của họ là một Kỹ sư.

Cũng cần phải nói rằng, việc chuyển sang nhiệm vụ quản lý, sau một số năm làm việc như Kỹ
sư, đặc biệt là quản lý kỹ thuật (engineering management), là một quá trình bình thường và phổ
biến trong hoạt động nghề nghiệp của người Kỹ sư. Vì vậy, hiện nay rất nhiều trường Đại học kỹ
thuật có hẳn những chương trình về “Quản lý kỹ thuật”, pha lẫn giữa kinh doanh và kỹ thuật như
biểu thị ở Hình (1-6) dưới đây. Nói riêng, mảng kiến thức “kinh tế kỹ thuật” (Engineering
economics) hay “Phân tích dự án” (project analysis) là mảng nội dung tối cần thiết cho người Kỹ

MỞ ĐẦU 11
sư ngay cả khi họ còn làm người Kỹ sư “thuần túy”. Không có mảng kiến thức này, họ khó có
thể là một Kỹ sư có khả năng “giải quyết vấn đề có hiệu quả kinh tế” được.

QUẢN LÝ KỸ THUẬT

Nhà máy và
Kỹ thuật
Quản lý sản xuất và Công nghiệp
tác vụ
Quản lý dự án

Tiếp thị
Kế toán
Tài chính Nghiên cứu và
Kinh tế học Thiết kế chuyên
Hành chính sâu

Hình 1.6: Chương trình quản lý kỹ thuật

TÓM LẠI, Trong môi trường của cơ chế kinh tế thị trường, “Kỹ thuật là việc áp dụng các công
nghệ để tạo nên sự giàu có/phong phú (wealth) bằng cách đưa ra những giải pháp có hiệu quả
về mặt kinh tế (cost-effective) đối với các vấn đề và nhu cầu của con người.” Kỹ thuật không có
mục đích tự thân, kỹ thuật đã hàm chứa yếu tố kinh tế. Một nhà khoa học cũng đã nói: “Bản chất
của một chiến lược công nghệ là một chiến lược kinh doanh”. Những người SV các ngành kỹ
thuật phải nhận thức được đầy đủ điều này ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Họ cần
phải được cung cấp những kiến thức về quản lý, về kinh tế cũng là vì vậy.

V. CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ


5.1 Công nghệ và công tác quản lý?
Trong hoạt động quản lý, điều hành tại cấp công ty có nhiều lĩnh vực nằm ở phần giao của lĩnh
vực Kỹ thuật và lĩnh vực Quản lý, những vấn đề đó, do vậy không thể giải quyết rốt ráo nếu chỉ
đứng ở góc độ đơn thuần của nhà quản lý hay kỹ thuật. Có nhiều vấn đề thuộc công tác quản lý
liên quan đến công nghệ như:
Làm thế nào để:
1_ Kết hợp công nghệ vào chiến lược kinh doanh.
2_Thâm nhập và thoát ra một CN nhanh hơn, hiệu quả hơn.
3_ Đánh giá công nghệ một cách hiệu quả.
4_ Hoàn thành việc chuyển giao công nghệ.
5_ Rút ngắn thời gian phát triển sản phẩm mới.
6_ Quản lý các hệ thống, dự án lớn, phức tạp, liên ngành.
7_ Quản lý việc sử dụng CN trong tổ chức.
8_ Nâng cao tính hiệu quả của chuyên viên kỹ thuật.
9_Thúc đẩy “tinh thần doanh nhân” nội bộ.
10_ Hiểu được vai trò của nghiên cứu cơ bản trong ngành công nghiệp.
11_Các chính sách quốc gia về công nghệ …

MỞ ĐẦU 12
Để có thể giải quyết tốt các vấn đề ở trên, nhà quản lý cần phải có hiểu biết về quản lý công
nghệ. Trong cuốn giáo trình này, chúng tôi chỉ tập trung đề cập đến một số khái niệm cốt lõi liên
quan đến quản lý công nghệ nhằm giúp người đọc có thể tự tìm hiểu thêm về lĩnh vực này.
Đầu tiên là khái niệm về Khoa Học và Công nghệ. Vậy Khoa học là gì và công nghệ là gì? Có lẻ
các sinh viên ngành kỹ thuật cần thiết phải trả lời đầy đủ và chính xác các khái niệm này ?!.
Theo Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 thì:
- “Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
tự nhiên, xã hội và tư duy.”
-“Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công
cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.”
Như vậy, phải biết rằng để có thể có được công nghệ (giải pháp, qui trình,..) thì cần phải có hiểu
biết về khoa học (tri thức về bản chất, qui luật khách quan,..).

5.2 Công nghệ chiến lược, Công nghệ cần thiết và Công nghệ chủ đạo (Strategic, Enabling,
Core Technologies)

Khi nói đến khái niệm công nghệ, người ta thường đề cập đến :
- Công nghệ chiến lược
- Công nghệ cần thiết
- Công nghệ chủ đạo

Các công nghệ chiến lược của một khu vực công nghiệp là các công nghệ tạo nên tính cạnh
tranh khác nhau giữa các thành viên trong khu vực.
Một doanh nghiệp không nhất thiết sử dụng tất cả các công nghệ chiến lược theo định nghĩa này.
Công nghệ cần thiết (Enabling Technology): là công nghệ quan trọng cho qui trình chuyển đổi
tạo giá trị gia tăng, nhưng không tạo nên sự khác biệt cạnh tranh.
Công nghệ chiến lược sẽ là sở hữu riêng của doanh nghiệp, trong khi công nghệ cần thiết có thể
mua được từ bên ngoài nhưng không phải là sở hữu riêng của doanh nghiệp.
Công nghệ chủ đạo là một nhóm các công nghệ chiến lược được chọn để tạo một sản phẩm hay
khả năng sản xuất cho một doanh nghiệp. Các loại công nghệ chiến lược có thể làm thay đổi
nhanh chóng năng lực kỹ thuật chủ đạo của một doanh nghiệp (năng lực chủ đạo này chính là
yếu tố tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp).

Quản lý công nghệ chính là nhằm đưa ra các biện pháp quản lý các năng lực công nghệ chủ đạo của
một doanh nghiệp.

5.3 Đổi mới công nghệ và Chiến lược cạnh tranh


Công nghệ thay đổi là yếu tố chủ yếu để một doanh nghiệp có thể thành công hay thất bại trên
thương trường xét về lâu dài. Công nghệ mới cho phép tạo thị trường mới hoặc thay thế thị
trường cũ bằng cách thay thế cho công nghệ lỗi thời của thị trường này. Trong việc quản lý công
nghệ, một doanh nghiệp thường nhắm tới 2 mục tiêu kinh tế chủ yếu, đó là:
1) Để tạo nên (các) thị trường mới.
2) Để thống trị và giữ được thị trường hiện hành.

Muốn làm điều này, doanh nghiệp cần phải thực hiện các việc dự báo công nghệ, lập kế hoạch
công nghệ, và áp dụng công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh.

Dự báo công nghệ là một việc khó, nhưng có thể tiên liệu xu thế thay đổi của công nghệ. Từ đó,
có thể lập các mục tiêu, kế hoạch cho việc nghiên cứu. Lập kế hoạch công nghệ lại càng khó
hơn việc dự báo công nghệ do phải “đánh cuộc” nguồn tài nguyên và chịu rủi ro trong tương lai.
Đổi mới công nghệ là quá trình phát minh + triển khai + giới thiệu sản phẩm mới (hoặc qui trình
mới, dịch vụ mới) có hàm chứa công nghệ mới vào thị trường. Việc đổi mới này có thể xảy ra do
MỞ ĐẦU 13
Thị trường kéo hoặc do Công nghệ đẩy, và được sử dụng để tạo ra các lợi thế cạnh tranh chủ
yếu:
- Khác biệt hóa sản phẩm (Diffirentiation)
- Dẫn đầu về giá (Cost leadership)

5.4 Các loại đổi mới công nghệ

5.4.1 Đổi mới tận gốc (Radical Innovation)

Định nghĩa: Đổi mới tận gốc là tạo nên một khả năng hay chức năng hoàn toàn mới, bất liên tục
với khả năng công nghệ hiện thời. Chức năng mới này tạo cơ hội cho các công ty mạo hiểm (new
venture), hoặc cho một ngành công nghiệp mới.

Ví dụ về sự đổi mới tận gốc có thể thấy trong sự hình thành các sản phẩm sau: Đèn điện tử chân
không (election vacuum tube); bóng bán dẫn (transition), hay mạch IC bán dẫn (semiconductor
IC), máy tính, laser, kỹ thuật tổng hợp gene DNA v.v

5.4.2 Đổi mới gia tăng (Incremental Innovation):

Định nghĩa: Đổi mới gia tăng là việc cải tiến khả năng hay chức năng của công nghệ hiện thời
thông qua sự hiệu quả (performee), an toàn, chất lượng, chi phí thấp.

Ví dụ về sự đổi mới gia tăng có thể thấy được qua các cải tiến sau:
 Tăng thêm cực (2 cực, 3 cực) trong đèn chân không điện tử
 Cải tiến kỹ thuật kích thích (doping) trong bán dẫn (transitor)
 Cải tiến qui trình chế tạo các IC chip
 Cải tiến bộ nhớ máy tính

MỞ ĐẦU 14

You might also like