Professional Documents
Culture Documents
Nhà xuất bản Trẻ xuất bản độc quyền theo hợp đồng sử dụng tác phẩm với
gia đình tác giả.
BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP.HCM THỰC HIỆN
General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data
Nguyễn Duy Cần, 1907-1998
Dịch Kinh tường giải. Q. Thượng / Thu Giang Nguyễn Duy Cần. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2014.
548 tr. ; 24 cm. - (Tủ sách Triết học phương Đông).
1. Kinh Dịch. 2. Triết học phương Đông. 3. Bói toán.
1. Yi jing. 2. Philosophy, Eastern. 3. Divination.
133.33 -- dc 23
N573-C21
LỜI NÓI ĐẦU
Dịch) từ đó các sách viết về kinh Dịch thường chỉ còn tác
dụng làm sách “trang trí” trên các kệ sách gia đình.
Sự tình như trên, lý do của nó vì đâu?
Đầu tiên phải kể đến sự khó hiểu của hình thức biểu
đạt trong kinh Dịch. Dịch dùng Tượng (hình tượng) và
Số (con số) để biểu đạt tư tưởng, phần “ngôn từ” chỉ là
phần phụ dùng để làm sáng tỏ thêm cho Tượng và Số
mà thôi. Thứ hai, là bản thân ngôn từ của kinh Dịch,
tuy chỉ là phần phụ thì nó cũng đã là một thách thức
vô cùng to lớn đối với những người muốn tìm hiểu nó.
Ngôn ngữ của Dịch (Thoán từ, Hào từ, Thoán truyện...)
được thánh nhân tác Dịch giản dị hóa tối đa với loại
ngôn ngữ “tối cổ” mà ngày nay không còn được mấy
người có thể đọc và hiểu trực tiếp từ nguyên bản.
Với những khó khăn trên, đa phần độc giả muốn
tìm hiểu kinh Dịch thường tiếp cận bằng các loại sách
“dịch và bình chú” kinh Dịch do các nhà nghiên cứu
viết ra. Phần diễn giải và bình chú kinh Dịch của các
tác giả Đông Tây Kim Cổ tuy nhiều đến hằng hà sa
số về lượng nhưng mỗi nhà giải thích mỗi kiểu, mỗi
trường phái có sở học riêng lại bình chú theo thiên
kiến của học phái của mình mà phần lớn chỉ trình bày
được phần Hình nhi hạ học mà thôi, tư tưởng của các
nhà diễn giải có khi sai lạc với tư tưởng chủ đạo của
kinh Dịch thậm chí tự mâu thuẫn với nhau rất nhiều
và có nhiều khi sự lý giải các thời trong các quẻ rất
khiên cưỡng gần như là giải ép. Chính vì thế, người
mới học Dịch thường dễ bị sa vào mê hồn trận đến rối
tung rối mù của rừng sách bình chú kinh Dịch này.
Bộ Dịch Kinh Tường Giải mà các bạn đang cầm trên
tay nằm trong bộ sách ba tựa gồm: Dịch Học Tinh Hoa,
DỊCH KINH TƯỜNG GIẢI 7
”
sự vật mới tạo thành...
”
Sớm nghe và hiểu được Đạo; chiều có chết, cũng thỏa lòng!
*
* *
Thánh hiền xưa đã bảo: “Dịch, quán quần kinh chi thủ”.
Sách này đứng đầu trong cái học của Tam Huyền, hạng
thế nhơn dễ gì lui tới với nó.
Học Dịch thật khó, đâu phải ai cũng học được. Nếu không
bền chí kiên gan, không sao học nổi bộ sách vĩ đại này.
NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý
KHI HỌC DỊCH KINH
Các triết lý của phần lớn các tôn giáo hiện nay đã
và đang vào quỹ đạo của Thái Âm, cho nên phần Hình
nhi thượng học đã bị thất truyền từ lâu.
Sách Dịch đã biến thành sách bói chỉ còn dành cho
bọn Hạ Ngu; Kinh Phật chỉ dành cho bọn thầy sãi
chuyên việc tụng Kinh để cầu phúc báo nào đâu còn để
tìm Huệ nghiệp; Thánh Kinh Cựu Ước lẫn Tân Ước đã
mất từ lâu phần Hình nhi thượng học, chỉ còn lại phần
Hình nhi hạ học, tu cầu phúc báo như các tôn giáo khác.
Thiền học ngày xưa, nay cũng đã biến thành một
thứ giáo quyền có một tổ chức chu đáo và cứng rắn mà
Chùa, Miễu, Nhà thờ đã trở thành những nơi “buôn
Thần, bán Thánh”, cầu cạnh Thần quyền một cách vô
cùng trắng trợn.
Trong Bộ Dịch Kinh Tường Giải này, chúng tôi cố
gắng đem ra cái “học Hình nhi thượng” (ésotérisme),
trong bộ Thánh Kinh (la Sainte Bible) Thánh Jean,
trong Apocalypse, toàn dùng đến con số, Xin lưu ý các
bạn nếu không hiểu về Tượng Số học thì không làm gì
hiểu nổi phần bí truyền của Thánh Kinh. Đối với Dịch
Kinh cũng thế!
Tương đối mà nói, ta tạm công nhận Bộ Thánh Kinh
16 Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN
hiểu được phần nào Thiên Lý! Thiền Tông đốn pháp
nói: “nhất hồi niêm xuất, nhất hồi xuân” (mỗi lần nói
lại, mỗi lần mới lạ).
Cái khó của sự Học Dịch nằm trong sự Mâu thuẫn.
Muốn biết rõ một học thuyết nào, điều kiện đầu tiên
là phải vào sâu trong đó, và điều kiện kế đó, là phải ra
khỏi đó.
Đi vào sâu, có khi còn dễ hơn lúc bỏ nó mà bước ra...
vì có khi ta bị “kẹt” nặng! Bỏ thì thương, vương thì
tội, cho nên có một bức họa vẽ Huệ Năng xé sách, “xé
sách” là hàm ý bảo hãy “quên” đi! Hãy viết “vô trụ”, “vô
tướng” và “vô chấp”! Ngày hôm qua không còn phải là
ngày hôm nay: mặt Trời mỗi ngày mỗi mới.
*
* *
lý, cần thêm cái chân lý đối nghịch). Cho nên không gì
thích thú bằng đọc Lão Tử hay Trang Tử, nhất là đọc
Dịch Kinh, nguồn gốc của Lão Trang.
Nhớ lại câu chuyện của nhà văn Paul Claudel, khi
đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử, bỗng la to lên: “Anh
nói gì đấy? Ôi! Kinh khiếp quá, ngu xuẩn quá, nhục nhã
quá! Quá lắm rồi anh ạ! Anh đi quá xa rồi! Ậy, anh ca
tụng những tính xấu nhất của tôi, anh phanh phui một
cách trơ trẽn quá những tư tưởng đang chôn giấu mà
không bao giờ tôi dám thổ lộ! Tôi nghe anh nói, mà lòng
bị ray rứt, nhưng lại rất đê mê sảng khoái!” (Comment
dis-tu? Horrible, idiot, scandaleux! C’est trop! Tu vas
trop loin! Ah, tu flattes mes plus mauvais instincts,
tu dévoiles cyniquement mes pensées inavouables! Je
t’écoute avec remords et ravissement!)
(Paul Claudel et l’Univers Chinois, Ed. Gallimard,
1968, page 355)
L’Oiseau noir dans le Soleil vivant, Oe,t III, p.301).
5. “Được, là mất”
Tập sách hôm nay cũng có thể gọi là một loại đặc
biệt của Bộ Chu Dịch Huyền Giải, nghĩa là cố giảng
giải đến chỗ huyền nhiệm của Kinh Dịch theo kiến giải
hiện thời.
lạc giữa mọi sự vật. Đông phương nghe nhạc, tuy quý
từng loại nhạc khí, mà lại thích nghe bản hòa tấu của
cả 3 giới “Thiên lai, Địa lai, Nhơn lai” (nói theo Trang
Tử) hơn là nghe riêng ra từng nhạc khí... Kinh Dịch chủ
trương sự Thái hòa cho nên Đông phương không nghe
nhạc lẻ tẻ... mà thích nghe nhạc hòa tấu... Tuy nhiên
không phải thế mà họ không để ý đến các tiếng nhạc
lẻ tẻ. Nên mới nói: “Dịch, là Biến, mà là Biến trong cái
Bất biến: Mỗi cái “Tư riêng”, lại cũng là cái “Tổng thể”,
“hòa nhi bất đồng”.
Đông phương Y học cũng một thế. “Không có bệnh,
chỉ có người bệnh” nghĩa là toàn thể cơ quan trong con
người đều đau, cho nên trị bệnh phải để ý đến sự liên
lạc các cơ quan trong cơ thể con người. Nên nhớ câu:
“Vũ trụ là một bãi chiến trường, trên đó trỗi lên một
bản tình ca bất tận”.
Cũng có một số học giả lỗi lạc Tây phương cỡ Richard
Wilhem, Carl Gustav Jung, Hermann de Reyserling
René Guénon, v.v... đã khai thác khéo léo những giáo
lý căn bản của Dịch, nhưng cũng chưa hẳn nói lên hết
được những giá trị huyền nhiệm thiêng liêng của Nó.
Có lẽ, chỉ có Richard Wilhem, là đã được vào trong
phần Hình nhi thượng học của Đạo với sự thực hiện
cụ thể Đạo Tâm bằng một hé mở... như đã giới thiệu
với Tây phương bản dịch Bộ Kim Hoa “Le Secret de la
Fleur d’Or” của Lữ Tổ (Lu-Tsou).
*
* *
Đọc Dịch, đừng chết theo văn tự... Nếu cứ mãi chết
theo văn tự, thì Dịch đã chết rồi, đối với các bạn! Phải
24 Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN
đọc Dịch như đọc Lão Trang: “đắc ý nhi vong ngôn”!
(được ý, hãy quên lời).
Sau khi đã cho xuất bản những sách thuộc về Đạo
học Đông phương... tôi cảm thấy hết sức thất vọng vì
chưa gặp được người lý tưởng đã được Trang Tử nói
đến: “Có Lời là vì Ý, được Ý hãy quên Lời. Ta tìm đâu
được kẻ biết quên Lời, hầu cùng nhau đàm luận?”
Cố tật của con người, là chấp trong văn tự mà không
dám lìa văn tự.
4. Học Dịch, như đã thấy, là học về Tượng (symboles).
Phải đọc kỹ, phần “Dịch Tượng” (ở thiên Thuyết Quái).
Vì vậy Tượng học (Dịch Tượng) phải đi cùng với Số
học (Dịch Số) gọi chung là Tượng Số học. Chúng tôi
sẽ dành riêng cho Dịch Số luận (giới thiệu về sự quan
trọng của con số được ghi trên Hà đồ và Lạc thư, những
con số 1, 3, 5, 7, 9 (số dương) và 2, 4, 6, 8, 10 (số âm) gọi
là “cơ ngẫu” trong 1 bộ sách tiếp theo.[1]
Tượng Số học, tóm lại, là cái học về những con số
ẩn trong mỗi Tượng, như đời Tống, Thiệu Ung (1011–
1077) lập thành một học phái đặc biệt gọi là Tượng Số
học, viết ra quyển “Hoàng Cực Kinh thế” phảng phất
giống như cái học Hình nhi thượng của Lão Trang.
Thiệu Khang Tiết theo cái học về Tượng Số mà suy
diễn ra cái học tu dưỡng rất cao.
Vì sự cực kỳ quan trọng của nó, chúng tôi đã phải
dành riêng một tập đặc biệt, lấy tên là Tượng Số luận.
Nói “luận” mà không nói “học” vì đây chỉ nói đại cương
1. Đón đọc Dịch Tượng Luận và Dịch Số Luận của Thu Giang NGUYỄN
DUY CẦN.
DỊCH KINH TƯỜNG GIẢI 25
toán (bốc phệ) đến một quyển thuần túy triết học và
“tâm lý học về bề sâu”, Dịch Kinh đã phải trải qua từ
Thiên tính hồn nhiên đến Lý trí.
Cái học về Định Mạng, về Linh Giác (Bốc phệ) ngày
nay đã bị thất truyền từ lâu vì đó là một cái học rất
khó, may ra chỉ có những đầu óc phi thường cỡ Thiệu
Khang Tiết, Khương Thượng, Khổng Minh, Phạm
Lãi... mới học nổi. Và cũng vì thế cái học về Tượng Số
của Thiệu Nghiêu Phu về sau ít ai theo nổi mà phải
bị thất truyền... Rồi một bọn người thừa nước đục thả
câu, chuyên môn khai thác... nên cái học về Bói Toán
bị lợi dụng trắng trợn... và bị gọi là khoa “mê tín, dị
đoan” rất đúng.
Kết quả sự Bói toán rất cụ thể, ngay nhà bác học
Carl Gustav Jung chuyên khảo cứu về Dịch lý cũng
đã dùng đến cách bói Cỏ thi, tuyên bố rằng những
câu hỏi của ông đã được quẻ trả lời một cách rất hợp
lý và đầy ý nghĩa của lương tri, đến đỗi người ta khó
tưởng tượng có được câu nói nào hay hơn! (...la réponse
accordée par l’oracle à ses interrogations était si
raisonnable et pleine de bon sens qu’il eût été difficile
d’en imaginer une meilleure). Jung lại còn nói thêm:
“Si un être humain m’avait fait de telles réponses je
n’aurais eu, en tant que psychiatre, qu’à le déclarer
saint esprit...” (Le Livre des Mutations, par Raymond
de Becker, p.45, 46). (Nếu có một ai nói cho tôi những
gì tôi thắc mắc như câu trả lời của Dịch bốc, tôi sẽ cho
họ là một kẻ có tinh thần lành mạnh sáng suốt, đứng ở
cương vị một người trị bệnh tâm thần như tôi).
Đọc la Sorcellerie en campagne của Charles Cancelin.
(de l’Inconscient au Conscient, từ trực giác đến linh