You are on page 1of 2

Languague A (English)

Zoos were originally created as places of entertainment, and their suggested involvement with conservation
didn’t seriously arise until about 30 years ago, when the Zoological Society of London held the first formal
international meeting on the subject.

Eight years later, a series of world conferences took place, entitled The Breeding of Endangered Species,
and from this point onwards conservation became the zoo community’s buzzword.

This commitment has now been clearh defined in The World Zpo Conservation Strategy (WZGS, September
1993).
Which although an important and welcome document does seem to be based on an unrealistic optimism
about the nature of the zoo industry.

The WZCS estimates that there are about 10,000 zoos in the world, of which around 1,000 represent a core
of quality collections capable of participating in co-ordinated conservation programmes.

This is probably the document’s first failing, as I believe that 10,000 is a serious underestimate of the total
number of places masquerading as zoological establishments.
Of course it is difficult to get accurate data but, to put the issue into perspective, I have found that, in a year
of working in Eastern Europe, I discover fresh zoos on almost a weekly basis.

The second flaw in the reasoning of the WZCS document is the naive faith it places in its 1,000 core zoos.

One would assume that the calibre of these institutions would have been carefully examined, but it appears
that the criterion for inclusion on this select list might merely be that the zoo is a member of a zoo
federation or association.
Language B (Vietnamese)
Sở thú ban đầu được thành lập như là nơi để giải trí, và đề xuất tham gia đóng góp của sở thú đối với vấn đề
bảo tồn đã không được dấy lên một cách nghiêm túc cho đến khoảng cách đây 30 năm, khi Hội Động Vật
Học London tổ chức cuộc họp quốc tế chính thức đầu tiên về đề tài này.

Tám năm sau đó, một chuỗi các hội nghị thế giới diễn ra, mang tiêu đề Sự nuôi dưỡng các chủng loài động
vật đang bị đe dọa, và từ lúc này trở đi, vấn đề bảo tồn trở thành thuật ngữ thông dụng của cộng đồng sở
thú.
Sự cam kết này hiện nay được định nghĩa rõ ràng trong Chiến Lược Bảo Tồn của Sở Thú Thế Giới (WZCS,
Tháng 9, 1993).
Tài liệu này mặc dù quan trọng và đáng hoan nghênh, nhưng có vẻ dựa trên sự lạc quan phi thực tế về bản
chất của ngành công nghiệp sở thú.

WZCS ước tính có khoảng 10,000 sở thú trên thế giới, trong đó có khoảng 1,000 sở thú là đại diện nòng cốt
với những bộ sưu tập chủng loài có chất lượng, đủ khả năng tham gia vào các chương trình bảo tồn kết hợp.

Đây có lẽ là thiếu sót đầu tiên của tài liệu này, bởi tôi tin rằng 10,000 là một sự đánh giá thấp nghiêm trọng
về tổng số lượng những địa điểm mang danh sở thú.
Dĩ nhiên thật khó để có dữ liệu chính xác, nhưng để đặt vấn đề vào một góc nhìn, tôi chợt thấy rằng, trong
một năm làm việc ở Đông Âu, tôi khám phá ra sở thú mới hầu hết mỗi tuần!

Sai lầm thứ hai trong lập luận của WZCS là lòng tin ngây thơ đối với 1,000 sở thú nòng cốt.

Ai đó sẽ tin rằng năng lực của những sở thú này đã được kiểm tra kỹ lưỡng, nhưng có vẻ những tiêu chí dẫn
đến kết luận về danh sách chọn lựa này chỉ đơn thuần dựa trên việc những sở thú này là thành viên của một
liên đoàn hay hiệp hội nào đó.

You might also like