You are on page 1of 576

Buổi sáng sinh phần

Mưa vẫn còn rơi lai rai khi Ðiềm vào tới nghĩa trang.
Hai ven đường mồ mả mọc đìu hiu nằm men sau dẫy
tường thấp. Gió thổi bời rời, phe phẩy dăm ba hột
mưa ảm đạm. Chàng trả tiền cho người phu xe dặn
ngồi đợi. Ðiềm còn đau râm ran trong bụng, không
đau xẻ ruột đứt gan và ói máu như lúc nằm viện,
nhưng là cái đau dai dẳng chậm rãi âm ỉ. Chàng cố
dỗ dành viên mụt nhọt thâm sâu trong dạ dày khi
bước vào cổng. Bà cụ già ngồi bán nhang chào mời
chàng với ham răng nhuộm. Ðiềm mua lấy một bó
đến thắp ở miếu thổ thần. Mùi nhang đốt, hương đèn
xông nghi ngút, khói cay bỏng mắt đột ngột đưa
chàng vào hẳn thế giới của người chết. Bó nhang
chập một bén lửa cứ phựt lên làm Ðiềm phải vẩy mấy
lần trước khi lâm râm khấn rồi cắm vào bát sành. Vài
ngọn gió lùa tha theo nước mưa vào trong miếu làm
chàng gây gây lạnh. Ðiềm lại thấy đau nhói trong phủ
tạng, chàng chờ cho khỏe lại rồi mới đi quanh quất
giữa những hàng mồ mả. Nghĩa trang hiu hắt, hoang
vắng. Thế giới sau lưng con người chỉ phơ phất mấy
đường mưa chảy lăn ròng trên bia đá. Trời mưa ri ri
suốt cả một buổi làm bầu trời xám ngắt như đã ngã
về chiều dù chỉ mới quá trưa. Hai ba giọt nước luồn
qua cổ áo khiến Ðiềm rùng mình ớn lạnh.
Chung quanh miếu thổ thần mộ lập san sát nên Ðiềm
chỉ nhìn lướt các kiểu bia xây. Nhiều tấm bằng đá hoa
chạm đẹp, nhiều tấm cẩn xà cừ, và những tấm đá
thạch đơn giản chỉ mài nhẵn. Những bia mộ làm
Ðiềm xúc động. Những đôi mắt người chết nhìn
chàng u uất trên dòng chữ khắc mặc niệm. Vợ hiền
lập mộ. Em và các con thương nhớ anh hoài. Bố mẹ
thương con vô cùng... Lác đác vài vòng hoa cườm
bằng nhựa lây lất trên đầu mộ chí, người ta quên đem
về đã phai nước sơn nhưng còn đọc được những
chữ Thành kính phân ưu. Ðau xót chia buồn. Thương
tiếc tiễn đưa... Chàng buồn buồn đi rảo qua lối đi nhỏ,
tiếng cỏ tranh lay chạm lào xào như có ai than. Thân
phận kiếp người quá là mong manh. Sống gửi thác
về, tro tàn bụi cát, hồn phách tiêu tán. Gió thổi nâng
đong đưa vài miếng tro nơi đống vàng mả ai đó vừa
đi thăm mộ đốt xong. Phiến tro bay trĩu trĩu theo mùi
nhang đưa từ ngôi mả mới cắm. Ðiềm đi sâu vào
trong. Những người khuất mặt còn lưu trữ chút chân
dung qua di ảnh vẫn theo dõi chàng. Có người mất
thật trẻ, hưởng dương hai mươi mốt tuổi, kẻ thất lộc
ngoài tám mươi. Ðiềm đi tới cuối nghĩa trang chỗ có
bức tường đổ xiêu trông qua mấy dãy nhà lợp tôn
phía Tân Sơn Nhất. Mồ mả đan kín không còn đất
trống. Chàng phân vân nửa muốn trở ra sang khu
nghĩa trang bên kia đường, nửa muốn đi tiếp sâu vào
hướng ngược lại con đường dẫn ra miếu thổ thần.
Ðiềm còn chần chừ thì nghe tiếng người gọi:

- Cậu kiếm mả ai?

Chàng giật mình quay lại, bắt gặp một cụ già đứng
cách mấy hàng bia. Ông cụ đi giày tây nhưng vận áo
dài, chít khăn nhiễu và cắp ô đen. Trời gió thổi hai vạt
áo the rung rung.

- Thưa cháu kiếm đất. Ðiềm trả lời.

- Cậu cũng người Bắc à?

Ông cũ lại hỏi, nét vui mừng mà phúc hậu.

- Dạ, cháu sinh quán Hải Dương.

- Quý hóa quá! Tôi là Chương, người huyện Tiên Sơn


tỉnh Hà Bắc, hân hạnh biết cậu. Nhưng kiếm đất ở
đây làm sao có, khu này họ xây choáng hết cả rồi.
Nếu cậu không vội, theo tôi sang đằng này họa may.

- Dạ, cám ơn cụ chỉ đường.

Ông cụ phát tay, chỉ về hướng tượng Quan Âm xây ở


đằng xa, ra dấu bảo Ðiềm đi theo. Trời mưa lâm râm
không nặng hạt nhưng ông cụ vẫn giăng ô, hai ống
quần lụa giặt trắng phau. Chàng để ý thấy đôi giày
tây của cụ Chương còn mới nguyên chưa mòn đế.

- Cậu kiếm đất cho ai? Cụ Chương bỗng hỏi.

- Dạ, không dấu gì cụ... cháu muốn mua sẵn một


miếng đất cho mình.
Ðiềm hơi ngần ngại, nhưng rồi cái phong thái hồn
nhiên của cụ Chương giúp chàng nói thật. Chàng
bỗng thấy mình khỏe hẳn sau khi nói ra mục đích đến
nghĩa trang.

- Ối giời! Còn trẻ thế mà đã lo xa kia à? Xem như là


chúng mình đồng bệnh tương lân rồi nhé! Cứ coi như
ta đã là tri kỷ!

Cụ Chương bật cười lớn khoác vai chàng tương đắc.


Ðiềm không hiểu gì khi thấy ông cụ đưa tay làm loa
gọi những người khác. Cụ Chương tươi cười:

- Lâu lâu mới gặp một người còn trẻ mà đã cẩn thận
biết lo chốn yên nghĩ của mình, chúng tôi quý lắm.
Người xưa vẫn dạy cái phần mả bao giờ cũng là
trọng, mà tuổi trẻ đời nay họ chỉ ham sống. Thật bụng
chỗ đồng hương với nhau, gặp cậu tôi rất cảm kích,
sẵn có vài người bạn đằng mả, nếu cậu cho phép xin
được giới thiệu.

Ðiềm còn đang chần chừ do dự không biết tính sao,


thì đã thấy mấy người từ dẫy mộ phía trong đi ra. Cụ
Chương vừa kéo tay chàng vừa vẫy họ.

- Các ông lại đây! Có anh bạn trẻ này hợp với chúng
mình lắm!

Người đàn ông đi đầu tuổi trạc ngoài năm mươi, tóc
chải kiểu hai thập niên trước, complet cà vạt ủi hồ
thật thẳng. Trông ông ta như sắp đi dự đại tiệc. Người
đàn ông nói:

- Tôi là Thanh, chủ hãng cưa Phúc Lợi, rất vui được
biết cậu.

- Không dám làm phiền bác, cháu là Ðiềm vừa quen


với cụ đây.

Chàng bắt tay ông Thanh. Ba người đi sau cũng vừa


tới. Một cô gái mặc áo dài trắng tóc thề, một người
lính trong bộ lễ phục sĩ quan Ðà Lạt và một người
thương phế binh áo ngụy trang bê bết bùn đất. Người
thương binh cụt chân, Ðiềm nhìn sững họ quên cả
chào, lúc này mà còn mặc áo lính Cộng Hòa thì phải
cómáu mặt.

- Chào anh bạn! Tôi là Trình Văn Khánh! Người


thương phế binh phác tay chào Ðiềm theo cung cách
quân đội cũ.

- Mừng anh ghé tham quan! Người sĩ quan võ bị vồn


vã ôm hôn chàng, vừa vỗ vỗ vào lưng thân ái. Không
quen với kiểu chào này nên Ðiềm ngượng đỏ mặt. Cô
gái chỉ khẽ gật đầu nhìn chàng, không xưng tên, chỉ
lẳng lặng đứng nép một bên mả.

- Tôi tên Thìn, sinh đẻ ở phố Kim Mã, quận Ba Ðình


châu thành Hà Nội, rất hãnh diện được đón tiếp anh
hôm nay!

Người sĩ quan Ðà Lạt bây giờ mới trịnh trọng tự giới


thiệu. Chàng không hiểu gì ngớ người ra nghe.
- Thôi bây giờ là người nhà rồi cả nhé, không cần
khách sáo nữa. Nếu cậu Ðiềm không bận thì ra ngôi
mả uống với chúng tôi một ly, chả mấy hôm mới có
được chút rượu đế. Ta đi nào!

Cụ Chương không chờ Ðiềm trả lời, thân mật nắm tay
dẫn ra một chỗ mả tương đối sạch sẽ trống trải. Ông
cụ vừa đi vừa kể cho mấy người kia nghe ý định tìm
đất của chàng. Hai người lính bật cười ha hả còn ông
Thanh thì khen ý hay, chỉ có cô gái vẫn không nói gì
chỉ lẳng lặng theo sau. Trưa nghĩa trang gió buồn
buồn đưa mưa qua những ngôi mộ vắng vẻ, có được
vài người cùng đi kiếm đất chung thì cũng bớt cô
đơn,  nghĩ vậy Ðiềm mạnh dạn bước theo họ.

- Nhấm nháp qua loa rồi chúng tôi đưa cậu đi coi đất,
trong này thì không có chỗ nào mà chúng tôi không
biết. Nhưng chọn đất là việc hệ trọng, cậu không nên
hấp tấp, con cháu mai sau nhờ cả vào đó.

Sáu người ngồi dưới một tàn cây nhạc ngựa, chung
quanh cỏ lau, mồ mả im lắng như tờ. Ðiềm trông thấy
một hàng phượng nở hoa đỏ, giữa chiều mưa in hình
lên nền trời ướt nước của lối đi chính mãi tận đầu
nghĩa trang. Cụ Chương không biết lôi ở đâu mấy đĩa
xôi gấc, loay hoay tháo bọc ny lông phủ mặt. Ông
thanh cũng rở mấy bánh oản, lớp giấy bóng kính
xanh đỏ đủ màu. Thìn rót nước trà ra tách, Khánh
chuyển cho mỗi người một ly đế. Cô gái ngồi im nhìn.
- Làm một ly anh bạn!

Khánh đưa ruợu đến chàng, vui vẻ.

- Ruợu trắng hơi nặng, nhưng trời lạnh uống vào nóng
ran người, thích thật! Cụ Chương gật gù khề khà.

Ðiềm cũng đưa ly lên môi nhấp, rượu đế rẻ tiền cay


bỏng lưỡi lại nồng nặc mùi nhang, chắc tro tàn rơi vào
ly. Chàng cố chiêu ngụm rượu, lẽ ra Ðiềm không
được uống nhưng trước sau thêm vài tháng thì có
khác gì đâu. Nghĩ vậy Ðiềm nhắm mắt uống cạn ly,
chất lỏng nóng như sôi sục trong dạ dày Ðiềm.
Chàng khà một tiếng lớn.

- Bạn chịu chơi lắm! Tôi phục bạn, ít người uống nổi
thứ ruợu đế này!

Khánh ngồi xuống cạnh Ðiềm có vẻ thích thú, anh ta


nói tiếp:

- Tôi là hạ sĩ quan nhảy dù, tiểu đoàn 11 của Nguyễn


Ðình Bảo, bạn biết chứ? Trận Charlie tôi bị vào đây.

Khánh đưa tay đập đập vào phần đùi còn sót, rồi nói
không tải thương được.  Khánh nốc hết ly ruợu một
hơi, rồi phác một cử chỉ nửa đáng tiếc mà cũng bất
cần.

- Sống khôn thác thiêng, sống hùng chết vinh, trúng


đạn què chân, binh chủng hào hùng thì phải bỏ mạng
sa trường, poncho gói thây. Bạn đồng ý không? Ai
như thằng này!

Khánh nói một hơi trước khi đưa tay chỉ vào mặt Thìn.

- Cứ phát biểu linh tinh! Thế nào là sống hùng chết


vinh? Ði lính thuê cho đế quốc ấy à?

Thìn, người mặc áo sĩ quan Ðà Lạt, đeo kiếm và


mang găng trắng như sắp đi duyệt binh ngày quốc
khánh, đang ngồi chồm hổm trên một ngôi mả bực
bội trả lời. Anh ta gỡ cái nón kết lưỡi trai trên đầu
xuống cầm tay quạt.

- Rắm thối nhà anh! Cứ có tí ruợu đổ vào là chết vinh


hơn sống nhục!

Thìn nói thêm câu nữa, trước khi xúc miệng òng ọc
bằng trà. Chờ cho Thìn nhổ toẹt bãi nước xuống đất
rồi Khánh mới dằn mạnh ly.

- Ðù mẹ mày! Ðội đồ đi bộ từ Bắc vào Nam gia tài có


mỗi đôi dép Bình Trị Thiên, bây giờ đeo găng, mắc
kiếm, mang anh dũng bội tinh Việt Nam Cộng Hoà
không biết xấu hổ! Giải phóng cái con mẹ mày!

Khánh chửi lại:

- Này, đừng có chạm vào thành quả đấu tranh của


nhân dân Nam bộ! Việc tôi mặc áo sĩ quan đeo quân
hàm ngụy thì không phải do tôi muốn. Người ta lộn,
đem tôi về tắm rửa cho mặc áo lính ngụy đành chịu.
Lúc đó ngoài Trung tình hình găng quá, thân nhân
của cái thằng lộn không ra nhận được, chờ lâu họ
phải hàn xì vì sợ xông mùi. Thật tình là như thế anh ạ!

Thìn quay lại phân bua với chàng. Ðiềm không hiểu
họ muốn nói gì, chàng cho là cả hai chóng say đâm
ra dở hơi. Nhưng Khánh thì vẫn cứ hùng hổ:

-      Ðù mẹ! Cứ coi là mày bị cầm nhầm, nhưng đồ ăn


của gia đình thằng bị lộn vào cúng mày cứ xơi là thế
nào? Còn giấu ăn riêng thì quân đội giải phóng chúng
mày tệ thật!

-      Ðói thì phải ăn! Chứ thân nhân có biết tôi ở đâu
đâu mà thăm nuôi! Sự đời nó có nhiều cái oái oăm,
không biết thằng lộn bây giờ nằm đâu. Hôm ấy tắm ở
suối lên chậm một chút thì chưa chắc đến nỗi, mình
lại bò lên trước các đồng chí ấy, chưa kịp chòng cái
áo thì bị biệt kích nó bắn. Ði không mang theo được
một món kỷ niệm. Tiếc hoài cái áo trấn thủ anh Ðiềm
à. Cái áo tự tay cô Miễn may lấy cho tôi có thêu cả
tên họ chữ lót của hai đứa. Tiếc quá. Bây giờ nước
nhà thống nhất, người ta xum họp còn tôi không biết
đến khi nào mới gặp lại...

Thìn thở dài thườn thượt, nhìn đăm chiêu ra cổng


nghĩa trang, nhưng lối ra bị mấy hàng tranh cao che
khuất. Ðiềm lạ lùng theo dõi cuộc cãi vã giữa hai
người lính, chàng ngờ ngợ một chuyện gì mà chưa
dám tin vội. Ðiềm thấy tay chân mình bủn rủn cả.
Từ nãy vẫn có vài người đàn bào đi tảo mộ ngang
qua chỗ họ ngồi. Mỗi lần Ðiềm đều để ý thấy mấy
người đàn bàn chỉ nhìn một mình chàng. Mưa lâm
râm gần tạnh hẳn, mùi đất xông lên ngai ngái cả một
khu mả đìu hiu thê thiết. Ðiềm cứ ớn lạnh từng chập,
chàng nhìn mấy người ngồi quanh thấy họ tự nhiên
như không. Chàng muốn bỏ đi mà không nhấc nổi
chân. Ông Thanh bóc một bánh oản mời chàng.

-      Cậu xơi miếng bánh! Còn hai anh kia thôi cho tôi
can, nể mặt cậu Ðiềm với chứ. Xin lỗi cậu Ðiềm nhé,
ngày xưa họ đánh nhau chưa chán nên bây giờ cứ
gặp nhau là kiếm chuyện thù oán.

-      Này ông Thanh! Không có bọn lính tráng tụi này xả


thân bảo vệ lãnh thổ cho ông làm ăn để tụi nó vào
đặt chất nổ khủng bố, thì có mười trại cưa Phúc Lợi
ông cũng không mở được. Ðừng khi dễ bọn này chứ!

Khánh quay sang cãi nhau với ông Thanh. Ông chủ
hãng Phúc Lợi chưa kịp có ý kiến thì Thìn đã chõ vào:

-      Bảo vệ lãnh thổ? Nghe thối!

-      Thôi thôi! Tôi đã bảo hai anh thôi là thôi. Câu Ðiềm
đâu có vào đây nghe hai anh cải nhau. Chuyện cũ
qua rồi, tôi bây giờ cũng không còn điều khiển trại
cưa nữa. Cậu thấy tôi nói có phải không cậu Ðiềm?
Họ hăng máu quá, cái thời trẻ của tôi đâu có như vậy,
lúc ấy tôi chỉ nghĩ làm sao học một nghề kiếm ăn
lương thiện có ích và hữu dụng, có vốn rồi mở một cơ
xưởng để của cho con cháu nhờ... Suốt cuộc đời tôi
chỉ ước vọng có bấy nhiêu, thế mà tôi không đạt được
cậu Ðiềm à, khi đau bệnh gan không làm việc được
nữa, tôi để lại cho vợ con cả một cơ sở phồn thịnh. Vợ
chồng thằng cả đưa nhau trốn ra nước ngoài bị bắt,
cơ xưởng máy móc ván gỗ họ tịch biên hết, mẹ chúng
nó vào đây than thở, nghe mà tôi cứ khóc ròng, bao
nhiêu năm gầy dựng chớp mắt đổ đi.

-      Chính sách nhà nước bao giờ cũng đúng đắn, để


phường tư sản các anh lũng đoạn thị trường cạnh
tranh vô tổ chức ấy à!

Thìn lại chõ vào câu chuyện, không nể nang. Ðiềm


tưởng ông Thanh sẽ trả lễ ngay, nhưng không ngờ
ông ta chỉ nhỏ nhẹ đáp.

-      Các anh cứ cho chúng tôi là giai cấp bóc lột, nhưng
thật sự nếu không có các cơ sở thương mãi của
chúng tôi, những hãng xưởng thủ công nghiệp mà
các anh gọi là tư sản dân tộc, thì nhiều người dân mà
các anh tự hào là chiến đấu cho quyền lợi của họ
không có công ăn việc làm đâu. Kinh tế nước nhà
cũng không phát triển vì thiếu vốn đầu tư. Xã hội nào,
tầng lớp nào cũng có kẻ xấu người tốt, đừng nên vơ
đũa cả nắm thế. Tôi nói thế đúng không cậu Ðiềm?

-      Dạ, cháu cũng nghĩ như bác.


Ðiềm trả lời, chàng bị hút vào các mẩu tranh luận của
họ mà bấy lâu nằm bệnh chàng ít khi được tham dự.
Chàng ngờ ngợ họ không phải là người sống, một lúc
chàng đã ớn lạnh khắp cả người, nhưng rồi Ðiềm lại
thấy họ bình thường quá, thật quá, còn sống động
hơn cả người thật. Có thể nào mấy người này đang
đóng kịch để trêu chàng. Nghĩ kỹ rồi Ðiềm thấy không
đúng, làm sao đóng kịch tài đến như thế. Nhưng nếu
họ là ma thì Ðiềm lại thấy không có gì để sợ. Trời còn
sáng, người phu xe còn đợi chàng ngoài cổng. Hơn
nữa... chậm nhanh một vài tháng Ðiềm cũng vào nằm
trong này. Làm bạn với họ trong một vài tháng, hay
làm bạn bây giờ thì cũng thế. Nghĩ vậy chàng không
còn thấy sợ.

Mấy người trong bọn chia nhau xôi gấc. Cũng loại xôi
bán để cúng. Phẩm đỏ loẹt gặp mưa dính nhớp nháp
ra tay. Bận ăn, hai anh lính thôi cãi nhau, ông Thanh
cũng im lặng. Cụ Chương từ nãy không nói gì cứ lâu
lâu nhìn chàng tủm tỉm cười. Cô gái thì ngồi xõa tóc,
lâu lâu thu vén những giấy rác mấy người đàn ông
bày bừa. Ðiềm thấy thiếu nữ trông mặn mòi, hai con
mắt đen láy, tóc óng ả như lụa. Chàng đang định
bụng hỏi chuyện nàng thì nghe tiếng xột xoạt ở mả
bên. Tiếng cười con gái rúc rích. Tiếng vải quần tuột
mau. Giọng đứa con gái nũng nịu rinh rích.

-      Anh trả tiền em trước đi!


-      Thì xong rồi đưa, có mất đi đâu.

-      Thôi đưa tiền em liền đi, nghe!

-      Ừ, thì đưa. Bộ em hay bị quỵt lắm hả?

-      Cũng có bị, nhưng có tiền trước em mới phấn khởi!

-      Rồi đó. Bây giờ thì phu với cho ngon coi!

Giọng đàn ông cười hình hịch dâm đãng. Ðứa con gái
vẫn cứ cười rúc rích. Thấp thoáng sau mấy cành lau
sau lưng mả Ðiềm trông rõ cái bụng trắng tươi của
đứa con gái làng chơi. Cánh tay nó lúc đưa lên níu cổ
gã đàn ông, khi buông để giữ vạt áo bà ba cho khỏi
rớt xuống đùi làm vướng víu. Gã đàn ông làm hùng
hục như trâu kéo cày. Ðiềm chợt thấy Khánh và Thìn
nhảy leo lên nóc mộ chỗ cặp trai gái đang làm tình để
nhìn. Thìn cười hô hố chỉ trỏ mỗi khi gã đàn ông đổi
kiểu, còn Khánh huýt sáo khi nghe đứa con gái rên ư
ử. Kỳ cục là họ đứng ngay trên mả ngay chỗ cặp trai
gái đang chơi mà gã đàn ông với đứa con gái vẫn tiếp
tục làm tình. Bất chợt đứa con gái ngẩng đầu ngước
nhìn bốn phía, nó chợt thấy Ðiềm ngồi ở bên này.

-      Chết rồi có người! Anh!

-      Ðâu? Ai?

-      Dậy đi anh! Mặc đồ vô! Ði!

Gã đàn ông cũng vừa trông thấy chàng, hắn hối hả


kéo quần dắt đứa con gái chạy đi. Khánh và Thìn
cũng nhảy xuống đất chạy theo coi.

Ðứa con gái chòng được cái quần lãnh đen nhưng
còn chưa kịp cài nút áo tất tả chạy theo gã đàn ông.
Ðứa con gái vừa chạy vừa nói léo nhéo:

-      Ðừng vô miểu thổ thần tội lắm anh! Qua bên kia
kìa, mà coi như xong một cối rồi nghe anh! Phải trả
em thêm đó!

-      Xong cái gì! Người ta chưa ra mà! Sao em chơi đểu


vậy?

-      Chứ còn gì nữa, chẳng lẽ nảy giờ chùa sao!

Khánh và Thìn chạy đuổi theo sau cười nắc nẻ,


nhưng cặp trai gái làm như không thấy hai người lính
vẫn léo nhéo vừa chạy vừa mặc cả. Trời tạnh mưa,
chút nắng muộn le lói soi khu nghĩa địa. Bốn người
cùng chạy nhưng chỉ có hai cái bóng của cặp trai gái
phơi trên lối đi đất. Cả bốn xa dần và khuất hẳn. Cụ
Chương chờ cho tất cả trở lại yên tĩnh rồi mới lên
tiếng.

-      Tội nghiệp! Hai anh lính vào trong này giữa lúc đời
họ còn sôi động quá. Còn dở dang tuổi trẻ nên họ
ham vui, đôi lúc hiếu thắng, có lúc lại bất mãn tất cả.
Tôi hiểu họ còn vướng nhiều bụi trần chưa dứt được,
nên hay theo khuyên bảo nói chuyện với họ. Cái
phần số không do mình định đoạt, cũng không do
thượng đế đâu, do ở cái tiền kiếp lúc trước ăn ở thế
nào kiếp này chịu vậy. Thượng đế không có bất công
với ai, không có quýt làm cam chịu, mà ai làm người
nấy nhận. Tôi ở trong này trên hai mươi năm rồi, gặp
đủ hạng người, đủ khắp các thành phần nên tôi hiểu
rõ con người ta lắm. Con người ta nhiều lúc đáng
thương mà nhiều lúc cũng đáng ghét. Không biết ông
bạn Thanh với cậu Ðiềm và cô Thủy nghĩ thế nào,
nhưng tôi thì thấy con người ta là nạn nhân của chính
mình mà lại thường đổ tội cho trời cao không có mắt.

-      Thưa, cháu muốn hỏi cụ một điều không biết có


nên chăng?

Ðiềm ngắt lời cụ Chương. Tự nhiên anh cảm thấy


mến cái thần thái ung dung tự tại, phong cách chấp
nhận cuộc đời, kiếp người ngay cả sau khi chết của
ông cụ.

-      Cậu cứ hỏi không việc gì mà ngại.

-      Cụ vừa bảo nằm ở đây trên hai mươi năm, sao
vong hồn không được siêu thoát?

-      Trả lời cho cậu tôi cũng không biết nói thế nào,
chuyện ấy ngoài thẩm quyền của chúng tôi, nhưng
thời buổi nhiễu nhương của chúng mình bây giờ hồn
âm khó mà siêu linh tịnh độ. Lũ chúng tôi ở đây
không có ai được lên cõi niết bàn, mà đều chờ vào
vòng luân hồi, chậm hay mau thì tùy thuộc vào ân
đức của mình khi sống để lại. Lúc còn sinh tiền tôi
không thấy mình có làm điều gì xấu, nhưng biết đâu!
Có chuyện mình không cho là xấu mà nó vẫn cứ xấu,
mà mình không nghĩ ra thôi. Nhưng cứ chờ mãi rồi
mình đâm ra tin mình đã làm chuyện xấu, đành phải
thay đổi cách nhìn chấp nhận ở đây vậy. Ở riết lại
thấy trong này cũng vui vui cậu Ðiềm à. Chẳng hạn
cái cảnh giang hồ vừa rồi, cái thời tôi còn ở vùng quê
mình ngoài Bắc làm sao có. Lúc ấy trai gái gặp nhau
thì chỉ hát quan họ. Cậu biết quả đồi Lim không?
Chùa Lim, xã Lim bên cạnh sông Tiêu Tương, làng tôi
là cái nôi quan họ cổ truyền đấy!

-      Lúc di cư cháu chỉ trên mười tuổi nên bây giờ


không nhớ gì, thưa cụ.

-      Ối giời ơi! Hát quan họ thì mê lắm lắm! Âm điệu


của nó du dương tỏa khắp cả người mình. Cái giọng
con gái Bắc Ninh mới chết!

Cụ Chương nói rồi liền cất giọng hát:

Em là con gái Bắc Ninh

Em nghiêng vành nón mái đình nghiêng theo

Tòa sen Phật muốn lặng thinh

Nghe em ca bỗng thấy mình trần gian

Quê em sóng, nhịp, gió, đàn

Nắng thêu nên nhạc, trăng vờn nên thơ

Tiêu Tương dấu cũ con đò


Xuống sông nỗi nhớ, ngóng hờ nỗi thương...

-      Mấy chục năm rồi mà tôi vẫn không quên mấy câu
hát ấy, nó như ăn vào hồn mình. Trần Linh Quý làm
bài hát ấy nổi tiếng cả vùng Bắc Ninh.

-      Cậu Ðiềm rảnh rang thì vào đây nghe cụ Chương


hát quan họ, kể chuyện hội Lim thú lắm.

Ông Thanh nói với chàng.

-      Cụ Chương còn biết nhiều thắng cảnh miền Bắc,


những đêm trăng bọn trẻ chúng em thường tụ tập
nghe cụ kể chuyện đi chùa Hương, chùa Keo, viếng
đền Kiếp Bạc, hồ Ba Bể thích lắm. Hôm nào không
bận bịu anh Ðiềm ghé chơi nhé!

Cô gái tên Thủy nãy giờ mới lên tiếng. Ðiềm trông
nàng duyên dáng quá. Ðột nhiên chàng thấy vui vui,
buổi trưa lúc vào nghĩa địa tìm cho mình miếng đất
sinh phần, chàng đâu nghĩ có cuộc gặp gỡ kỳ lạ này.
Nói chuyện miên man, bâng quơ giữa kiếp người, cõi
sống, cõi âm, làng quê đất tổ ngoài Bắc, cãi lộn quốc
cộng giữa hai người lính, kinh tế tư bản cá thể, kinh tế
Mác xít quốc doanh, Ðiềm nhận thấy cõi âm cũng
khác không bao xa với cõi người sống. Ðời sống vẫn
tiếp tục, kéo dài dù chỉ là những hệ lụy đem theo. Vài
tháng nữa vào đây nằm, chàng không đánh mất gì
nhiều, vẫn tiếp tục sống dù chỉ còn là linh hồn vấn
vưởng. Nghĩ thế Ðiềm thấy chàng thật sảng khoái,
không còn sợ hãi buồn chán cho số phần mình chẳng
may ngắn ngủi.

-      Thế nào tôi cũng trở lại thăm cô với bác và cụ.

Ðiềm trả lời cô gái. Chàng tiếp:

-      Chắc cũng chẳng còn bao lâu thì tôi vào ở luôn,
nếu may mắn tìm được miếng đất.

-      Thế thì còn gì bằng. Ấy chết! Em nói bậy quá! ý em


muốn nói là chắc bác và cụ đây đã có cảm tình với
anh cũng mong gặp lại thường.

Thủy nói lỡ vội chữa, nàng cười xin lỗi câu nói gỡ khi
nãy. Lúc cười, Thủy có hai lúm đồng tiền nho nhỏ và
chiếc răng khểnh mà Ðiềm thấy có duyên lạ.

-      Thôi, mình cũng sửa soạn đi tìm đất cho cậu Ðiềm
đi bác Thanh nhỉ?

-      Ừ, mình đi kẻo muộn để cậu ấy còn về cho kịp,


chiều hôm ở đây cũng ngại.

Ông Thanh đứng lên theo cụ Chương. Thủy cũng


đứng dậy thu vén chỗ ngồi lần chót, nàng không
quên liếc nhìn chàng và cứ cười tủm tỉm.

-      Mình đi phía đằng này, tôi chắc còn một vài


khoanh trống. Tôi không rành khoa địa lý nên khong
biết đất tốt xấu thế nào, để tùy cậu định đoạt không
dám ép. Mà cậu đã có đi xem ở chỗ nào khác chưa?

-      Thưa cụ chưa. Trước khi vào đây cháu có định lên


xem nghĩa trang Gò Vấp nữa đã rồi mới quyết định,
nhưng bây giờ được biết cụ, bác Thanh và cô đây thì
cháu nghĩ cũng là do ý trời xếp đặt, nếu được một
miếng đất đủ nằm thì cháu mua ngay không lên Gò
Vấp đâu. Trăm sự nhờ cụ và bác Thanh cho.

-      Thôi được rồi, nếu cậu tha thiết như thế thì tôi chỉ
cho một miếng đất còn chừa, đúng ra thì họ đã đặt
cọc nhưng mình có thể mua lại. Cậu đi xem rồi trở ra
thành phố thương lượng với người ta. Mà này, sau
này nằm có bị kiến với trùn, mối nhiều quá thì đừng
có mắng vốn tôi đấy nhé!

Cụ Chương cười thật đôn hậu. Hai người đi trước,


Thủy và ông Thanh đi sau. Cụ Chương ghé tai chàng
nói nhỏ:

-      Cô ấy ngoan lắm, con nhà đàng hoàng, tính tình


hiền lành, lần đầu tiên tôi thấy cô ấy vui vẻ dạn dĩ với
một người đàn ông là cậu đó. Nếu duyên định cô cậu
gặp nhau dưới này cũng hay.

Ðiềm cười theo, chưa dám thổ lộ nhiều, chỉ mới lần
đầu, biết Thủy xem chàng ở vai vị nào. Ðiềm thấy có
nhiều đứa trẻ ở đâu chạy chơi trong khu nghĩa trang.
Có đứa tụ nhau đánh đáo, bắn bi, có đứa chơi ô
quan, và có một đứa chạy ngang khoanh tay chào cụ
Chương. Chàng biết chúng là ma, nhưng có cảm
tưởng chúng mới vừa ngủ trưa dậy ra sân chơi. Trông
chúng cũng hồn nhiên không khác mấy những đứa
trẻ trong trường học, chỉ có điều đứa nào cũng mặc
đồ mới. Ðiềm đi xem đất và bằng lòng lắm. Khoanh
đất mát mẻ, có bóng cây, không bị mộ nào lấn. Ðất
cứng không sợ bị xụp, chỉ xa lối vào nghĩa trang
nhưng được cái ở gần chỗ Thủy nằm. Nghĩ mai mốt
có thể qua lại chỗ Thủy, chàng đã vừa ý.

Ðiềm ra về sau khi cụ Chương cho chàng địa chỉ của


người chủ đất. Lúc bước ra cổng, Ðiềm thấy bà già
bán nhang đang ngủ gật. Người phu xe trông thấy
chàng ngồi bật dậy, rời lòng xích lô dẩy nẩy:

-      Bắt đợi cả buổi như vầy ông phải tăng tiền cho tôi!

-      Anh cầm lấy tất.

Ðiềm móc túi còn bao nhiêu tiền trao hết cho người
phu xe. Trình giấy cho người bộ đội gác cổng ngoài
rồi chàng bảo người phu đánh xe lên Phú Nhuận. Rời
Bắc Việt Nghĩa Trang, trên đường Chi Lăng Ðiềm lại
phân vân nửa muốn về nhà báo tin mừng cho mẹ,
nửa ngập ngừng nhớ cái không khí đưa đám ở nhà
mình từ khi bác sĩ bảo bó tay. Suy nghĩ một chốc rồi
chàng đổi ý, quay gọi người phu xe chở chàng đến
thẳng cái địa chỉ cụ Chương vừa cho.

Ðiềm trở vào nghĩa trang tuần sau, nắng nóng chói
chang trên mấy ngôi mộ, chứ không mưa lai rai ướt
mặt người chết như hôm đầu. Cả khu mả thiêm thiếp
giấc trưa, yên lặng không bóng người. Chàng cũng
vào khấn nơi miếu thổ thần, rồi đi rảo tìm khoanh đất
trống đã hẹn với người chủ cũ tiù nữa đến xem lại và
ký giấy thỏa thuận. Trưa nắng chang chang trên mấy
lùm cỏ lau gai sắc, không có bóng mây chỉ có mỗi
một chiếc bóng của Ðiềm duy nhất vởn qua vởn lại
tìm lối đi. Cỏ mọc che kín nhiều chỗ mả rậm rạp,
chàng loay hoay bưng đồ cúng vạch lau lách. Quần
hai ba vòng Ðiềm vẫn chưa tìm ra chỗ đất cụ Chương
đã giắt chàng tới, Những kiểu mả lập bảo tháp, long
đình, xây uynh thành giông giống nhau nên chàng
không nhớ đã có đi qua hay không. Ðiềm đi tìm một
hồi thì mệt, mồ hôi rũ ra ướt đẫm sống lưng, cơn đau
bụng lại trổi lên hành hạ. Chàng ngồi vật xuống ven
con đường đất thở dốc, dạ dày như có ai lấy kim
chích đau xon xót. Ðiềm cố cất tiếng gọi cụ Chương
ra đón mình, nhưng tiếng kêu của chàng chạm những
thành bia đá dội đi vang vang không có người trả lời.
Ðiềm vuốt mồ hôi chảy ướt cả cổ áo, rút khăn tay đắp
lên đầu che nắng, rồi lại gọi ba bốn lượt. Cụ Chương
ơi! Cụ Chương ơi! Có cháu đến tìm! Khánh ơi... Bác
Thanh ơi! Cháu mang quà vào! Ðiềm nghe tiếng
chàng vọng vang dội trở về lặp lại như có ai đùa.
Chàng đứng lên dáo dác tìm rồi lại ngồi xuống thất
vọng. Khu mả vắng vẻ quá, mộ lập chùng chùng biết
đường nào mà tìm. Chàng tự trách mình hôm nọ đã
không nhớ kỹ lối đi, lại để quên ở nhà tờ giấy người
chủ đất ghi lô thứ tự. Ðiềm đành ngồi đợi, lâu lâu
chàng ngước mặt nhìn bắt gặp một vài nụ cười hóm
hỉnh trên bia đá.

Có cái am chúng sinh gần đó. Ðiềm chợt nảy ra một


ý. Chàng tháo giỏ đồ cúng, bày cau chè, xôi vịt với
rượu bánh ra trước am. Ðiềm đốt ba nén hương khấn
vái những âm hồn đi hoang. Không có gió, khói
nhang bay đè trên mặt đất, di di buồn buồn lượn lờ
theo bóng nắng. Chàng gấp giấy báo lại làm quạt,
mấy luồng hơi gió làm Ðiềm dễ chịu, như đẩy được
chút nắng ra xa. Làn gió cũng đẩy khói hương đi bốn
phía.

-      Này anh bạn! Sao đem đồ cúng ở đây!

Ðiềm giật mình quay về phía có tiếng nói, thấy Trình


Văn Khánh đang nhảy lò cò với chiếc chân cụt, mặt
hớt hơ hớt hải:

-      Dẹp đi! Trời ơi! Ðây là am chúng sinh, bạn cúng


như vậy cô hồn các đảng tụi nó ùa tới ăn sao cho đủ!

-      Phải đấy! Cất ngay đi, khẩn trương lên!

Chạy sau Khánh là Thìn, vẫn tươm tất trong bộ lễ


phục sĩ quan Ðà Lạt. Cây kiếm mãn khóa Võ Bị, Thìn
đeo bên hông chạm vào chân kêu lanh kanh.

-      Cụ Chương có ra không? Chàng hỏi họ, vừa


thương vừa tức cười.

-      Có, ra liền bây giờ nhưng ông cụ đi chậm lắm. Phụ


tôi khuân ra đằng mả cô Thủy, có bấy nhiêu mà chia
cho cả nghĩa địa thì mỗi người chỉ được một hột xôi!

Khánh quơ quào mấy đĩa đồ cúng, trong lúc Thìn


nhanh tay tắt nhang, nhặt chai ruợu. Ðã có dăm mười
bóng người từ mấy ngôi mả xa ùn ùn kéo ra, mặt mũi
ai trông cũng phấn chấn!

-      Phát chẩn chúng mày ơi!

-      Chẩn cái củ thìu biu! Không có hộ khẩu thì không


được quyền nhận!

Thìn rút kiếm võ bị chống nhau với mấy người tha


phương cầu thực. Ðiềm bị Khánh lôi bắn đi, chạy như
ma đuổi.

-      Lần sau anh bạn đừng có dại như vậy nữa nhé! Có
hảo tâm cúng ai thì cúng một người đó thôi, nhân đạo
chung chung như vầy vô bổ lắm!

Khánh lôi chàng phăng phăng băng qua mấy dẫy mả


liền. Thìn ở đằng sau múa máy đường kiếm rồi cũng
chạy theo.

-      Các cậu ơi! Chúng nó đeo mình găng quá!

-      Quẳng cho họ mấy cái bánh! Khánh hét.

Thìn vừa chạy vừa ném ra sau mấy phong bánh đậu
và buồng cau Ðiềm mua lúc sáng, chỉ giữ lại chai
rượu đế Hiệp Hòa với cây thuốc lá. Ðám cô hồn giành
nhau mấy thứ rơi rớt trên đất quên cả đuổi.

-      Các anh làm gì mà la toáng lên thế? Lại đánh nhau


nữa à?

Thủy từ sau mồ của nàng bước ra hỏi. Ðiềm để ý thấy


nàng hôm nay bới tóc, xăn tay áo, để lộ cái cườm tay
nhỏ đeo hai chiếc vòng ngọc thạch và một ngấn cổ
ngó sen. Hai má lúm đồng tiền vẫn duyên dáng như
hôm nọ, còn có phần xinh hơn.

-      Anh bạn Ðiềm đến dâng cau chạm ngõ cô em mà


bị chúng nó lột rồi!

Khánh cười hềnh hệch đắc chí với câu pha trò của
mình.

-      Nói tầm bậy nào! Thủy nhìn chàng đỏ mặt, không


quên liếc một cái sắc lẻm về phía Khánh.

Bốn người bày mấy món còn đem theo được trên mả
Thủy.

-      Xem nào, còn một con vịt luộc, hai đĩa xôi, cây
thuốc và chai rượu, tốt chán! Chỉ mất có buồng cau,
năm phong bánh với nải chuối để quên trong am. Cứ
xem như thắng lợi vẻ vang!

Thìn khoái trá đếm đi đếm lại mấy món đồ cúng, trịnh
trọng rót ruợu ra ly bày sẵn. Khánh vội vã mồi thuốc
rít từng hơi, ếm sâu vào phổi rồi mới từ từ thở ra bằng
lỗ mũi:

-      Phê quá!

Người hạ sĩ quan Cộng Hòa tiểu đoàn 11 Dù ngồi tựa


tấm bia của ngôi mả bên cạnh lim dim mắt. Thủy từ
lúc nãy đến giờ vẫn đứng nhìn chàng ngượng ngùng,
lên tiếng hỏi bâng quơ:

-      Anh Ðiềm thết tiệc chuyện gì vậy?

-      Hôm nay tôi ký giấy mua đất nên muốn ăn mừng


với Thủy, cụ Chương, bác Thanh và hai anh Khánh,
Thìn.

-      Cứ coi như anh bạn đãi tân gia!

Khánh lại mở mắt pha trò.

-      Vậy là nhập hội tương tế với bọn mình rồi nhá!

Thìn vui vẻ cởi mở. Thủy cuời ngặt nghẽo với mấy
câu đùa của hai người lính.

-      Anh đã nhất quyết vào với chúng em?

Một lúc nàng chậm rãi hỏi.

-      Tôi đã quyết định từ hôm đầu gặp cô.

Ðiềm nhìn nàng khi trả lời, chàng đọc thấy sự bối rối
mà sung sướng ẩn trong đôi mắt Thủy đen láy.
Chàng muốn nói đã yêu Thủy ngay hôm đầu nhưng
không dám.
-      Sao cụ Chương với bác Thanh lâu đến?

Thủy lảng chuyện, không dám ngó chàng nữa.

-      Chúng tôi đây!

Bốn người quay ra, thấy cụ Chương và ông Thanh


đang đi tới. Khánh cằn nhằn:

-      Chờ hai cụ cắp ô tới thì con người ta đói rã ruột!

-      Anh em chúng tôi phải chiến đấu căng lắm mới


bảo vệ được thành quả của nhân dân lao động là
mấy món ăn này do anh Ðiềm đem vào.

Thìn kể công.

-      Chúng tôi biết! Xin lỗi các bạn trẻ vậy. Nào ta dùng
cỗ đi chứ, chắc cậu Ðiềm có mấy lời ngỏ đầu?

-      Dạ, thật ra cũng không có gì trọng đại, hôm nay


cháu mua được cái sinh phần cho mình hẹn với người
ta đến ký giấy lát nữa, được như vậy cũng là do cụ,
bác Thanh, hai anh Khánh, Thìn và Thủy đây giúp
đỡ, nên cháu muốn báo tin vui cho tất cả, nhân thể có
ít xôi rượu mời mọi người đánh chén.

Mọi người vỗ tay khi Ðiềm dứt lời, chàng cảm động
thấy mọi người đều thành thật chia vui với mình. Họ
ngồi bệt xuống đất, Thủy chặt vịt, ông Thanh bới xôi,
Khánh và Thìn rót rượu tiếp mọi người. Cụ Chương
châm điếu thuốc hỏi chàng:

-      Ðã sắm cỗ hậu quan quách gì chưa?


-      Dạ chưa, nhưng chắc cũng phải đi mua nay mai.
Ðiềm đáp.

-      Ừ, liệu trước vẫn hay hơn, mua loại gỗ vàng tâm thì
mới không sợ bị mục nước sau này.

-      Sợ thời buổi khó khăn lúc này không tìm được thứ
gỗ quý đó.

Ông Thanh vừa nhằn xương vịt nói. Cụ Chương gật


gù đồng ý, bảo thôi thì gỗ lim cũng được.

-      Anh đã chọn kiểu mộ chưa, anh Ðiềm?

Thủy hỏi thêm.

Chàng còn đương suy nghĩ, Khánh đã ồn ào:

-      Mộ lập cho ngon thì phải xây ít ra cũng giống mồ


cụ Chương với ông Thanh. Có bình phong, sân bái
đường, hồ nước, hương án, thành mộ trồng hoa giấy,
hoa dâm bụt, bên ngoài xây viên thành có cổng uốn.
Người sống đi qua nhìn mới dễ nễ!

-      Trong Nam các anh cứ quen thói tư sản! Xây cho


đẹp vào chỉ tốn tiền của thân nhân mình chứ ích gì.
Ngoài Bắc lúc tôi lên đường cứu quốc năm 73, người
ta chỉ đắp đất hình nấm, không có xây gạch xây gung
như trong này.

Thìn, tương phản trong bộ lễ phục võ bị, vừa nhồm


nhoàm ăn vừa phát biểu.

-      Bị bắt lính thì nói bị bắt lính, lên đường cứu quốc!
Nghe không giống ai!

Khánh ực một hơi cạn ly rượu, rót thêm rồi lại ực. Mặt
người thương phế binh đã đỏ gay. Thìn bị nói móc,
cũng buông cái chân vịt, tợp một ngụm rượu.

-      Ừ, không giống ai mà chúng tôi chiến thắng các


anh lẫy lừng!

-      Ðù mẹ! Chó táp phải ruồi! Bộ đội anh hùng, chỉ
đạo đứng đắn, thi đua lập chiến công... tới Xuân Lộc
chết như rạ!

-      Ừ, chết đấy, nhưng ngụy quân ngụy quyền thì bị


bắt sống cả bầy!

Thìn hất mặt thách thức. Khánh toan chồm lên phang
chai rượu Hiệp Hòa vào đầu Thìn nhưng ông Thanh
đã kịp thời can họ.

-      Thôi thôi cho tôi xin, lại cãi nhau nữa. Cứ lần nào
có rượu vào là các anh lại đánh nhau. Hai anh thoi
nhau vì rượu chứ có phải vì chính nghĩa của hai bên
đâu! Hôm nay là ngày vui của cậu Ðiềm, người ta làm
tiệc đãi thì phải biết giữ tư cách một chút chứ. Các
anh làm sao mang tiếng người chết chúng mình,
không khéo cậu Ðiềm đổi ý không mua sinh phần ở
đây nữa.

Ông Thanh bắt họ mỗi người ra ngồi một góc. Như


hôm nọ, cụ Chương không nói gì chỉ tủm tỉm cười.
Ông Thanh chiêu ngụm rượu rồi mới lên tiếng nói về
cách thức xây mộ.

-      Lập mộ có nhiều kiểu, Bảo Châu, Bảo Tháp, Trúc


Cách, Long Ðình, đó là những kiểu đắt tiền xưa chỉ có
triều thần hoàng tộc hay các nhà quyền quý mới được
xây. Sau này trong Nam ai có tiền, muốn xây sao thì
làm. Nhưng những kiểu mộ đó đòi hỏi đất rộng, ít ra
cũng rộng bằng cái âm phần của tôi hay của cụ
Chương. Chỗ đất của cậu mua thì hơi chật, không
làm được sân bái đường đâu. Tôi đề nghị cậu xây
kiểu trúc cách tam cấp, có bình phong với một ao
nước nhỏ trước mặt là đủ đẹp. Cậu Ðiềm thấy thế
nào? Còn hoa giấy, hoa dâm bụt thì tùy người nhà
mình giồng, nhưng cũng chỉ được ít lâu rồi héo cả thôi
mà.

-      Dạ, cám ơn bác đã chí tình chỉ bảo, nhưng đời


sống bây giờ đắt đỏ quá, cháu không rõ gia đình có
đủ tiền lập mộ khang trang như lúc trước hay không?
Cháu đã định bụng xây kiểu mộ liếp thường, đơn giản
mà cũng tươm tất.

Ðiềm nói với ông Thanh. Cụ Chương nghe thế thì


chen vào câu chuyện.

-      Ừ, cậu Ðiềm nói cũng đúng, tôi thấy từ sau bảy
mươi nhăm mấy người vào đây mồ mả ai cũng xoàng
xoàng, hẳn là vật liệu bây giờ đắt kinh lắm. Thôi thì
cậu cứ xây theo khả năng của mình. Nhưng nếu vẫn
thích tối tối ngồi sân bái đường, trông sao uống chè,
ngắm hoa, ngắm trăng soi hồ nước thì lại đằng tôi và
ông bạn Thanh. Cửa mả chúng tôi lúc nào cũng mở
rộng đón cậu.

-      Cám ơn cụ đã có lòng xem cháu như con cái.

-      Nhưng tôi chắc anh bạn đây thích ngắm sao đêm
với cô em Thủy hơn là với cụ!

-      Thích mê đi chứ lị!

Khánh và Thìn đã thôi cãi nhau, mỗi người một câu


đùa làm người thiếu nữ đỏ bừng mặt.

-      Cấm hai anh không được nhắc đến em nữa! Sàm


sỡ vừa vừa chứ!

Mọi người bật cười ròn. Cụ Chương trịnh trọng nâng ly


mời:

-      Nào, ta nâng ly chúc mừng cậu Ðiềm sắp xây kim


tĩnh.

-      Mừng anh bạn!

-      Mừng anh!

Tàn tiệc, cụ Chương và ông Thanh cáo từ đi ngả


lưng. Khánh và Thìn rủ nhau đi rình mấy cảnh bán
tình của những ả giang hồ làm ăn trong nghĩa địa. Chỉ
còn lại một mình chàng và Thủy. Thủy dợm đứng lên
đi dọn dẹp, nhưng Ðiềm kéo nàng ngồi xuống.
-      Thư thả, lát nữa anh phụ Thủy một tay.

Thủy nhìn chàng do dự, rồi ngồi xuống kế bên không


nói gì. Ðiềm nhìn cánh tay nắng ôm ngang khu mả,
lấp lánh trên những bia đá như có dát vàng. Yên tịnh
quá, không có tiếng trẻ nít đùa giỡn như hôm nào. Có
lẽ chúng đang ngủ trưa. Thế giới trong nghĩa trang im
vắng khác hẳn cái cuộc đời trần tục xô bồ ở ngoài
thành phố, chỉ cách nhau có con đường lộ. Ðiềm
phân vân tự hỏi, không hiểu Thủy có hay biết những
thay đổi biến động kinh khủng của xã hội người
sống? Chàng thầm mong là nàng không hay biết gì
hết, vẫn giữ trong đầu những hình ảnh vui tươi của
miền Nam trước đây. Ðiềm nhìn tấm bia khắc trên mộ
nàng. Phạm Thị Thu Thủy, hưởng dương mười bảy
tuổi, thương con lập mộ. Dưới tấm hình nàng là hai
câu thơ của bố mẹ Thủy thương tiếc con: Nụ cười đã
tắt trên môi thắm, hình bóng con yêu đã khuất mờ .
Chàng thấy thương cô gái đang ngồi cạnh mình, nàng
đã ở trong này mười mấy năm rồi, một thân, một mình
cô độc lẻ loi. Trông Thủy không khác trong hình bao
nhiêu, có lẽ âm hồn nàng giữ lại hình ảnh của thể
phách lúc chết.

-      Có thật anh quyết định mua sinh phần vì em?

Thủy bất ngờ hỏi, hơi cúi mặt không nhìn chàng.
Ðiềm gật đầu.
-      Tôi không hiểu vì sao, nhưng thấy mình có cảm
tình nhiều với Thủy.

Chàng do dự rồi nắm lấy bàn tay nhỏ trắng ngó sen,
mấy ngón tay thuôn bum búp như những đọt măng
non. Thủy để yên không phản đối, hai người không
nói tiếng nào nữa, nhưng họ xúc động lắm. Mãi Thủy
mới dám ngửng mặt. Nàng bắt gặp khuôn mặt Ðiềm
ở sát mình, nghiêng nghiêng cúi xuống gần ở ngang
tầm môi.

-      Có phải anh săp hôn em?

Nàng đỡ khuôn mặt Ðiềm, hơi hốt hoảng. Chàng lại


khẽ gật đầu.

-      Âm dương chạm nhau không tốt đâu, bây giờ anh
còn xác phàm.

-      Chẳng bao lâu nữa là anh vào đây rồi, tốt hay
không tốt thì cũng như nhau.

Ðiềm nói và nâng cằm nàng. Thủy nhìn sâu trong


mắt chàng thật lâu, Ðiềm đọc được trên khuôn mặt
nàng tất cả băn khoăn lo lắng chen lẫn tình yêu bối
rối. Nhưng rồi nàng nhắm nghiền mắt, ngửa mặt chờ
đợi. Ðiềm cúi xuống đặt nụ hôn khẽ vào giữa đôi môi
thơm thơm hồng. Cảm giác lạnh khô và nhạt nhạt.
Người Thủy mềm nhũn đi, đôi tay cũng lạnh mát níu
lấy vai chàng. Ðiềm thấy nàng lẩy bẩy run rẩy đánh
rơi một chiếc guốc xuống đất. Chàng cũng đê mê
sung sướng, người con gái hiền quá, ngoan quá, đẹp
quá, ngấn cổ thơm ngọc lan thoang thoảng. Chàng
hôn tiếp không muốn rời...

-      Ê! Anh làm cái gì vậy? Tôi tìm anh từ nãy!

Chàng và Thủy lật đật buông nhau ra. Người đàn ông
mặc áo ôm vạt bầu, cỗ lưỡi mèo đứng nhìn chàng
chăm chăm. Người chủ miếng đất trố mắt nhìn mấy
đĩa đồ cúng lây lất trên mặt đất, rồi lại ngó chàng,
hiển nhiên là ông ta không trông thấy cô gái.

-      Một mình anh ăn hết chừng này à?

-      Buổi sáng quên ăn sáng, nên hôm nay tôi đói quá!

Ðiềm lúng túng, không biết phải giải thích làm sao.
Người đàn ông ngó vỏ chai rượu Hiệp Hòa mà Khánh
vất chỏng trơ trên đất. Ông ta hất mặt.

-      Uống nguyên lít đế thế này, không ung thư dạ dày


cũng uổng! Nhưng sao lại ăn toàn đồ cúng không
thế?

Người đàn ông nhìn quanh quất mấy ngôi mả bên


cạnh như có ý nghi ngờ chàng lấy trộm thức ăn. Gã
lấy chân đá mấy cái xương vịt rồi nói:

-      Thôi đi xem đất nào, tôi còn phải về áp phe. Như


vậy là anh đã thỏa thuận giá cả với vợ tôi?

-      Bà ấy bảo tôi thương lượng với anh.

-      Không thương lượng gì ráo, tôi có giá của tôi, anh


không mua thì thôi. Tôi không thích mặc cả.

Gã đàn ông đi xăm xăm về khoảng đất trống còn


chừa nằm cách mộ Thủy hai dẫy. Ðiềm cùng bước
với nàng theo sau người đàn ông. Ông ta mặc quần
gin Mỹ, có thêu nhãn hiệu Levis, đôi dép sabot đế
cao, đồng hồ vàng Oméga và tấm lắc bự lủng lẳng ở
cườm tay. Gã đàn ông tỏ ra là dân làm áp phe
chuyên nghiệp. Thủy đi theo Ðiềm, chốc chốc lại nhìn
chàng lo lắng. Ðiềm chỉ biết ra dấu trấn an nàng và
đối đáp cầm chừng với gã đàn ông. Ðến chỗ ngôi đất,
gã móc trong túi một sợi dây thước đo nói giọng chắc
nịch.

-      Hai thước ngang, hai thước dọc, vuông vức như


vầy mới vừa đẹp. Năm bảy mươi tư tôi mua ngôi đất
này ngót hai trăm năm chục ngàn tiền cũ, bây giờ thì
giá lên gấp trăm. Giá thị trường sao thì tôi để anh vậy,
không bớt, không tăng giá!

Ðiềm biết chàng gặp phải tay buôn chợ trời thứ thiệt.
Sau bao kỳ đánh tư sản, truy quét tàn dư, dẹp chợ trời
mà gã vẫn ung dung sinh sống, phát phì mỡ màng
như vậy, tay này hẳn phải có bản lãnh hơn người. Và
hiện giờ hắn đang nắm đàng chuôi, chàng là người
cần đất, hắn không cần bán, trừ phi giá hời.

Gã đàn ông nhăn mặt nhìn đám tranh mọc rậm rạp
kín mít ngôi đất.
-      Tiên sư chúng nó, trả bao nhiêu tiền cũng không
bao giờ chịu cắt cỏ. Tiền niên liễm hàng năm mình
đóng cho hội không biết chúng vứt đi đằng nào! Cỏ
xanh um thế này thì có ỉa vào đấy cũng không ai
thấy!

Gã đàn ông lấy chân đạp cỏ, càu nhàu, nhưng rồi
như nghĩ ra chuyện gì có lợi, ngoảnh ngay mặt lại
nhìn Ðiềm vênh váo:

-      Người ta nói khi nào cỏ quanh mả khô héo chết


hết, hay đất nứt thành đường thì con cháu phải cải
táng. Cỏ chỗ này xanh tươi tức là đất tốt có sinh khí,
xem này có nứt chỗ nào đâu! Lẽ ra tôi phải tăng giá,
tìm được đất tốt không phải dễ, anh may mà không
biết!

-      Tôi ứng tiền trước cho anh một nửa, khi nao tôi qua
đời người nhà sẽ trả nốt phần còn lại, anh bằng lòng
không?

Ðiềm lên tiếng, chàng biết trận chiến mặc cả bắt đầu.

-      Không đưa trước đưa sau gì ráo, biết chừng nào


anh mới chết!

Gã đàn ông quay phắt lại, rõ ràng là phản ứng của gã


trở nên quyết liệt gấp bội khi đụng tới tiền.

-      Tôi chỉ còn sống nữa năm sáu tháng, anh không
phải chờ lâu.
-      Anh chết tuần sau mặc xác anh, tôi bán đất tiền
trao cháo múc, sống nhờ bát cơm, chết nhờ đất cát,
anh chết anh cần đất, tôi sống tôi cần tiền. Không
mua thây kệ anh, tôi không vội bán.

-      Ðược, tôi bằng lòng trả ngay bằng bạc mặt, nhưng
anh phải bớt cho tôi một phần ba cái giá mà vợ anh
đã nói với tôi. Cái giá đó anh đã nhân gấp đôi giá thị
trường.

-      Bớt? Trong tự điển Việt Nam quốc âm tự vị của tôi


không có chữ này! Anh muốn mua đất rẻ thì đến mấy
chỗ họ đào kinh thủy lợi mà mua, đất ở đó người ta
xúc cho không, đổ đi không hết!

Gã đàn ông như bức tường thép, không tài nào lay
chuyển. Thủy nhìn chàng lo ngại, Ðiềm thấy mình đã
hơi quá vội vui mừng khi làm tiệc đãi mọi người lức
nãy. Chàng không dễ dàng mua được miếng đất mà
không bị cứa cổ.

-      Tôi tên là Thế, mua đất xây kim tĩnh cho mình
nhưng mấy năm nay bận quá chưa có thì giờ làm.
Bây giờ tôi có giấy bảo lãnh của ông anh ruột không
cần nữa, tôi đi Pháp nay mai, nhưng nếu anh không
đủ tiền trả thì tôi để lại cho người khác. Người chết
bây giờ không thiếu!

Gã đàn ông tên Thế, tự giới thiệu rồi rút dây thước ra
đo đạc. Ðiềm không hiểu tại sao gã chỉ mua đất để
sẵn cho mình mà không mua cho vợ. Gã đàn ông vừa
đo đất vừa nói như rao hàng.

-      Dài hai thước đúng, không thiếu một phân. Tôi nói
đâu có sai, tính ra rẻ chán, chỉ có mấy chục đồng một
mi li mét!

Gã lại cắm cúi đo đạc chiều ngang, đến chân ngôi


mả mới xây bên cạnh gã chợt đứng dựng lên la bải
hải:

-      Thôi chết tôi rồi! Tiên nhân cái thằng nào xây lấn
qua đất của mình ba mươi cen ti mét! Sư cha nhà nó!
Quân ăn cướp!

Gã Thế lồng lên, chồm người nhìn xuống ngôi mả còn


tương đối mới. Gã đọc lẩm nhẩm tên họ người chết,
nhìn vào tấm bia trừng trừng như đang đối diện người
lấy cắp đất của gã.

-      Nguyễn Văn Nhâm... sinh 1761, một ngàn bảy


trăm sáu mốt...! Chắc là khắc nhầm! Ðồ đểu nhà nó,
không biết dạy con cháu, xây lấn qua đất người khác!

Gã đàn ông văng tục, vừa chưởi thề vò đầu bức tai,
vừa đá vào hông mả mấy cái. Giận quá mất khôn gã
đập luôn hai cái bình bông để trên mộ. Ðiềm chụp vội
ngay cơ hội.

-      Thiếu ba mươi phân đất, như vậy anh phải bớt cho
tôi một phần ba giá.
-      Cái gì? Tôi bán đưa đủ giấy tờ cho anh, anh lên mà
kiện với công an quận, không thì cho người tới cào bố
mả nó lên. Ðất này của mình, mình có quyền đào xới!

Chàng nhận ra gã đàn ông đã dùng chữ “đất của


mình”. Ðiềm lắc đầu.

-      Tôi không biết, việc kiện tụng là việc của anh, chỉ
có một mét bảy ngang và hai mét dọc, anh không thể
đòi giá cao được. Chật thế này, ai nằm cho vừa!

-      Tôi gần đi Pháp, không muốn giấy tờ lôi thôi, nếu


anh không muốn kiện thì thôi, nhưng tôi không thể
bớt được.

-      Tùy anh, tưởng đất rộng tôi mua, ai ngờ đất hẹp thì
thôi, tôi lên nghĩa trang Gò Vấp vậy.

Ðiềm nhún vai. Mặt gã đàn ông đỏ gay, mồ hôi chảy


nhớt trên mặt. Gã thở phì phò mặt nhăn như táo bón.

-      Thôi được, tôi bớt anh một phần ba giá.

-      Bây giờ không phải một phần ba nữa mà là phân


nửa!

Ðiềm thản nhiên, như việc xuống giá thật bình


thường. Gã Thế hét lên:

-      Anh bảo sao? Một nửa giá thôi ấy à? Anh cút đi tôi
không cần bán nữa!

-      Anh có ông bà cụ thân sinh cũng chôn trong này


phải không?
Chàng từ tốn hỏi, trong lúc gã Thế biến sắc.

-      Ai nói với anh?

-      Vợ anh có nói với tôi là cả gia tộc anh chôn trong
này. Anh nghĩ sao nếu tôi nói với thân nhân của cụ
Nguyễn Văn Nhâm nằm đây rằng anh đã đá vào
sườn ông cụ và đập bể hai lọ hoa. Anh nghĩ họ sẽ
phản ứng như thế nào, nếu tôi chỉ mả của ông bà
thân sinh ra anh? Dĩ nhiên là tôi sẽ nói luôn là anh
muốn chạy tiền công an cào mả ông cụ lên chắc họ
không hài lòng đâu!

-      Anh, anh... dám làm điều đó?

Gã Thế lặng người nhìn Ðiềm, mồ hôi chảy võng trên


mặt. Gã hung hãn bao nhiêu khi mới vào, lúc này
xanh mướt hiền lành chẳng khác một kẻ buôn chui bị
bắt.

-      Dĩ nhiên là tôi không làm chuyện thất đức đó rồi,


nếu anh chịu để cho tôi phân nửa cái giá chỗ đất này.

Ðiềm đưa tay chỉ chỗ mấy lùm cỏ um tùm. Chàng biết
gã Thê đã giao động lắm và mình đã thắng cuộc mặc
cả. Buổi chiều ôm nắng qua vòm nghĩa trang. Gió
thổi hiu hiu những lọn tóc Thủy bay bay nhè nhẹ
đong đưa. Nàng nhìn Ðiềm mỉm cười ranh mãnh, đan
năm ngón tay nhỏ vào tay chàng. Bầu trời vẫn xanh
biếc không gợn mây, nhưng nghĩa trang đã mất đi cái
âm u rờn rợn lạnh lẽo, thê lương của nơi cúng tế. Bên
cạnh người yêu, Ðiềm có cảm tưởng chàng đang
đứng trong một khu an phúc, nơi cuộc đời tàn bạo là
gã con buôn kia đã chịu thua. Chàng xiết tay Thủy tin
tưởng. Nàng gật đầu khuyến khích. Ðiềm trông thấy
thấp thoáng bóng của Khánh và Thìn đứng ngoài rình
nghe. Ðiềm mạnh dạn lên tiếng:

- Anh suy nghĩ lẹ lên chứ! Chiều rồi tôi còn phải đi,
nói tôi một tiếng anh có bằng lòng hay không? Bớt
phân nửa giá, anh vẫn còn lời mà!

7-1991

© Copyright Trần Vũ

 
Cái Chết Sau Quá Khứ
 

Ngày xưa, những cơn mưa đầu thu về qua đất Thuận Hoá
tuyệt dữ dội. Lão Chu là người thường rũ tôi đi ngắm
mưa. Lão đứng hàng giờ ở phá, ngẩng cổ, ngửa mặt
thách thức cơn giận dỗi của trời đất. Mưa chúi xuống đất,
mưa tắm lên đầu, mưa cắm đầy miệng lão, song lão Chu
vẫn trơ trẻn cướp giật thức uống với thượng đế. Lão phá
ra cười; tiếng cười sằng sặc lăn lộn trên sóng. Lão Chu
nuôi tôi bằng tiếng cười khật khùng điên dại của lão.
Nhưng dạo đó tôi còn trẻ, chưa khùng, cũng chưa dại. Tôi
chỉ mới bắt đầu biết say mưa. Mà mưa ở phá đẹp kỳ ảo.
Cả một vùng trắng ngần, trắng lịm, những tảng nước
trắng xóa lồng lộn sa sầm xuống mặt đầm rồi tung bắn
lên quẩy với hơi sương, giăng giăng mờ mờ, chạy chạy
đường võng trên không. Mưa ở phá rầm rập, ào ạt mạnh
mẽ. Bầu trời trắng lòa lòa những nước là nước.

Từ khi biết say mưa, tôi đâm biết say Ngự. Những lần
theo lão Chu ra phá, Ngự đẹp man dã. Vải áo mớ ba
chảy dán, bó rịt người, thân thể Ngự nổi lửng như một
nhành lúa trổ vươn trên mặt ruộng lụt nước. Ngự xõa tóc
xổ tung rã rượi, chân dầm trong nước, mắt dầm trong
mưa. Ngự xòe hai cánh tay mở lòng đón mưa. Những hột
mưa nhỏ mà tròn mọng. Ngự bảo là đốt tay Phật, vỡ vào
đâu, phúc đến ấy. Phật tắm phúc lên người Ngự. Tôi
đứng ngẩn ngơ nhìn phúc của Thượng Đế vỡ hoa trên da
thịt Ngự. Lão Chu lại rống tiếng cười sang sảng, thỏa
mãn đã uống hết cơn bão mùa vào bụng. Lão trỏ ngón
tay lóng nhọn chỉ lên trời, rồi chỉ vào bụng hỏi: Cuộc đời
muốn cái chi?  Lần nào cũng như lần ấy, trăm lần như
một, lão Chu tự giải đáp một mình. Lão gọi Ngự, vít lấy
đầu cổ ướt nhẹp của Ngự, cắn vào rái tai Ngự, rồi run run
trả lời: Ngự là cuộc đời! Ngự là cuộc đời! Lão Chu lại ré
lên cười the thé sung sướng. Mỗi lẫn lão Chu làm những
cử chỉ khật khùng đáng ghét đó, thay vì bực tức, Ngự lại
phát tiếng cười con gái đương thì ròn tan. Giọng cười của
Ngự cũng như của lão Chu bắn theo mưa, châm chích, rã
rích, làm tay chân tôi bủn rủn. Vì không hẳn chỉ đơn
thuần là giọng cười mà là tiếng kêu khát vọng của một
loài sinh vật thèm khát thiên nhiên lẫn hạnh phúc của sự
sống. Lão Chu ngắm Ngự, rồi nhìn tôi kiêu hãnh. Bão đã
đong đầy bụng lão, bão ngập trong ruột, bão làm căng
lòng dạ khác thường của lão Chu. Lão tiến lại gần hỏi: Mi
hiểu không? Tôi trả lời: Tôi hiểu, tôi hiểu... Mưa ở Thuận
Hóa cực kỳ huyền ảo.

Trời vần vần nước. Chúng tôi ở phá suốt buổi, đến khi
chiều chạng vạng mới về làng. Cơn giận của thượng đế
lắng dần, những cái quẩy thét sau cùng biến thành làn
chớp lóe, chưa kịp xé trời đã mất hút. Dọc đường về lão
Chu lừng khừng ít nói, lão mất hẳn cái nét xuất thần
ngoài phá. Chỉ còn Ngự rủ tôi rình nghe những váng mưa
đương vẩy qua đình, nghe giống đấu gạo huyền trân các
mụ ưa vãi ra sân kêu lanh tanh, lách tách. Về tới nhà, lão
Chu vụt đống quần áo ướt vào góc, xà ngay vào bếp khợi
tro lửa. Lửa té tát lên mặt, lửa đỏ kè đôi con mắt lão, lửa
phà cả vào mồm miệng bắt lấy hơi rượu cay lão đương
tợp lấy tợp để, tu uống ừng ực như con vắt thèm máu.
Nền nhà bằng đất, âm ẩm lạnh. Ngự thay áo trở ra than
đói. Lão Chu vụt ngay bình rượu, nhào vào bắt siêu đun
nước. Lão sàng sàng gạo như người làm xiếc. Lão Chu
làm tất. Ngự muốn phụ lão, nhưng lão Chu đã lồng lên
dằn lấy con dao trong tay Ngự. Giọng lão bực tức: Mi là
cuộc đời!

Phải, Ngự chính là cuộc đời của lão Chu. Và lão chẳng
muốn ai đụng đến cuộc đời của mình, chỉ muốn cuộc đời
của lão sung sướng. Ngự và tôi đành ngồi im thin thít nhìn
khúc cá bơi lội thoăn thoắt giữa bàn tay lão Chu. Thớt cá
bóng mú, lão Chu đem cắt khía, bằm xả bỏ vào tượng
kho. Cá chín, nước kho sánh mỡ, cặp mắt lão Chu sánh
niềm vui. Lão ngửng lên ngó Ngự cười ngây ngô. Nét mặt
lão giống y vẻ mặt của những đứa trẻ chóng già, mắt có
đuôi nheo mà tròng mắt thì dại khờ. Lão Chu kỳ quặc như
vậy mà Ngự lại nói Ngự yêu lão. Tôi thù Ngự mỗi khi
nghe Ngự nói yêu lão Chu.
Mưa đêm nhả nước nhay nhắt từng nhịp. Tiếng mưa
khuya nghe như tiếng mõ cầu siêu cho ai văng vẳng buốt
vào từng thớ thịt. Tiếng mõ là tiếng kinh kệ, nghe mà thấy
buốt là bởi tâm không sạch, Ngự diễn giảng lúc kéo tôi đi
nằm. Lão Chu ngó theo chằm chằm, hai con ngươi lão
chăm chắp rình mò, nghi kỵ, như thể lão biết hết. Mà lão
Chu tinh như quỷ. Lão đe bọn trai làng: Thằng mô để con
Ngự ốm nghén, tau giết! Tau xẻ hắn làm đôi, lóc nứa
máng cho voi giầy!  Lão nói là lão làm. Lão hung ác đến
độ vác rựa rượt thằng Hiểm chạy băng đồng, năm ngày
không dám về làng. Mẹ thằng Hiểm đang đi cầm bò trên
núi phải vội vàng về lạy lão Chu ba lạy, lão mới tha. Mà
có gì đâu, thằng Hiểm chỉ mới chòng ghẹo Ngự chưa quá
hai câu.

Tôi len lén thả tay, chuồi mình dưới lớp chăn đay, cho
bàn tay hoá con trăn trườn lên bụng Ngự. Thịt da Ngự
lạnh ngắt. Hơi thở Ngự rùng mình bấu nghiếng lấy đùi tôi
không cho cử động tiếp. Trong bóng tối, hai con mắt
Ngự, hai mắt tôi, bốn con mắt ẩn trốn cặp mắt rình rập
của lão Chu.  Đôi mắt lão chăm bẳm lục lọi. Lão Chu
nhìn tôi nằm chung với Ngự khó chịu. Ánh mắt lão đầy
trăn trở, ánh mắt của một kẻ điên biết đang xảy ra điều
ám muội mà lý trí không giải quyết. Ý nghĩ lão biết tôi ăn
nằm với Ngự đem mổ bụng dồn trấu thả trôi sông làm tôi
run lẩy bẩy. Ngự cũng sợ, ghì lấy nan giường mây, thứ
mây quý lão Chu vào tận rừng sâu đốn về uốn làm chỗ
ngủ cho Ngự. Càng sợ, hơi thở của tôi càng níu lấy hơi
thở của Ngự. Trong bóng tối lão Chu d đốt củi suốt đêm,
cháy lòe lòe khắp nhà như thể sợ đêm tối có ai vào đánh
cắp mất cuộc đời của lão. Lão Chu chỉ mở hé một liếp
cửa duy nhất, cho sao đêm ở Thuận Hóa những khuya
dứt mưa lấp lánh, chiếu tắt, nhảy nhót động đạy giữa cái
nền tím lặng mà sâu hút, đẹp không thua chi đôi mắt
Ngự, tưởng chừng là nhúm ngọc trai ai vớt ở dưới đáy
biển sâu đem gắn trên trời. Ngự thì thầm hạt sao đêm là
mắt Phật. Tôi uống tiếng à ơi và nuốt con mắt Phật bà từ
ái dưới mí  mắt Ngự.

Lửa cháy lồng lộn, như lòng dạ hung dữ của lão Chu,
tưởng sôi sục suốt đêm vậy mà cũng nguôi. Tôi đợi cho
lửa tắt dần, tắt nhúm trên khuôn mặt lão, chỉ còn soi một
đốm hồng cuối cùng mới dám cắn môi Ngự. Miếng lửa
bỏng rát ở đầu lưỡi chảy lan vào người tôi những hột mưa
châm chích, những váng mưa đã hắt qua mái đình còn
nhiểu giọt tâm tích từ những trận nước tinh chất vỡ suốt
trên cánh đồng bạt ngàn gió chướng kết lại trong tôi. Mãi
sau này nhớ lại, tôi vẫn còn thấy đầy những cơn mưa tầm
thu, bay trĩu trĩu qua vai, làm ướt áo lão Chu và ướt tóc
Ngự.

 
Thuở đó, ai có sống ở làng Sình mới nghe danh lão Chu
Khỏe. Lão Chu không khỏe việc đồng án, nhưng lại khỏe
vẽ tranh. Mà lão Chu vẽ cực đẹp. Người ta nói lão có hoa
tay. Nhìn lão miên man phóng bút khai họa, rồng bay
phụng múa, voi quỳ hổ lạy, Phật bà, tố nữ, núi biển sông
đồi, chim lồng cá chậu... tôi cứ ngẩn ngơ. Lão Chu vẽ cực
lẹ. Lão vẽ tuyệt nhanh, nhanh như người ta đi tưới trên
giấy. Chịch: một bức hình. Rồi chịch: bức nữa. Lại
“chịch“, “chịch“, cứ thế lão ’’đi tả“ một lúc mười mấy bức,
mà bức nào cũng sắc, đường nét vun vút như roi quất.
Chẳng thế mà tranh Sình của lão Chu bán chạy. Lão vẽ
trên giấy mộc, rồi đem khắc in lên thếp gỗ mút. Người ta
mua tranh Sình của lão để thờ, cúng bổn mạng, cúng gia
tiên, cúng sao, tế lễ trời đất, lễ tạ mùa màng. Mấy năm
liền ở đất Thuận Hóa được mùa, lúa cấy phơi phới trên
ruộng vàng rức mắt. Nhà nông tranh nhau mua tranh
Sình, thóc đổ vào túi lão Chu. Người ta càng trọng lão,
trọng cái thiêng liêng của tranh Sình. Được tiếng hóa
cuồng. Lão Chu rủng rỉnh tiền bạc, mặc nhiên tự xem
mình như một thứ thần linh. Lão nhận càn là tổ họa của
làng Sình, tên chữ là Lại-Ân. Danh tiếng càng cao, lão
Chu càng khó ở. Hễ ai nói động đến, dù chỉ nói khóe, nói
cạnh xa xa, tức thì lão nhảy cỡn lên rủa xã bằng cái giọng
dấm đặc ợ hơi khế chua; chửi bới người này, xỉa xói kẻ
nọ. Lão Chu quá quắt đến độ trong làng bắt đầu ghét lão.
Những người xấu miệng thì bảo Lòng dạ hắn dơ dáy như
rươi, vẽ tranh Sình Phật mô có chứng, thôi không mua
nữa. Những kẻ độc mồm thì trù ếm Lão không biết nhân
nghĩa, thị phi phép tắc, bữa mô trời phạt, cho sét đánh
hộc máu. Người ta muốn lão Chu chết, nhưng lão không
chết, vẫn trơ trơ ra phá, đứng phơi gan thách thức thượng
đế. Lão là thần linh, lão có sợ chi. Lão Chu cười rung cả
người, mỗi bận ở phá về, ướt nhẹp đầu cổ, lão lại kiếm
chuyện để chửi bới, kiếm người để đay nghiến. Những khi
ấy, hai con ngươi lão chạy sòng sọc, mùi rượu tanh nồng
nặc ở mồm miệng nhớm nhúa ộc ra. Vậy mà Ngự yêu
lão. Mà ở làng Sình cũng chỉ có mỗi mình Ngự là thương
lão, cho nên lão Chu càng thích gọi Ngự là cuộc đời. Một
hôm hứng chí, lão Chu quyết định vẽ lại cuộc đời mình.
Lão nắn nót vẻ truyền thần cho Ngự một bức bán thân.
Ngự mặc áo Mã-Tiên màu đỏ nghệ, ai cũng trầm trồ khen
đẹp. Có người xin hỏi mua, lão Chu nghe được, trợn mắt,
thè lưỡi: Mi dám mua cuộc đời của thần linh, tau vẽ mi ra
con bòi! Lão Chu ném chai lọ, rác rưởi đuổi khách. Ngự
buồn lắm. Tôi xin Ngự bức vẽ, song Ngự không cho. Ngự
nói: Ngự muốn giữ giùm cuộc đời cho lão. Tự trong thâm
tâm, tôi biết Ngự rất yêu bức vẽ truyền thần đó. Còn tôi?
Tôi yêu Ngự. Tôi si tình Ngự, mà sao không ai biết?

Tháng Giêng, triều đình làm lễ tế đàn Nam Giao. Không


hiểu vì cớ chi? Lão Chu nằng nặc đòi lên kinh thành Huế.
Lão sắm sửa cho Ngự, mướn thuyền, thâu tóm tiền bạc,
quyết định làm một chuyến thưởng ngoạn kinh kỳ. Trời tờ
mờ sáng, những hàng cây ngô đồng dọc ven làng Sình
còn chưa thức, lão Chu đã dắt díu tôi với Ngự xuống
thuyền, bơi ngược khúc sông Bồ lên Bao-Vinh. Tôi với lão
dầm mái chèo khoắn nước. Mặt sông trong như mặt kính,
lai láng, sáng lưỡng, từ từ rạn vỡ lúc xuồng rẽ nước xa bờ.
Lão Chu xăng xái, chèo lấy chèo để, mặt sông dậy sóng,
sóng đánh tràn khoang. Ngự la hốt hoảng, nhưng lão
Chu cứ bơi dầm cười nắc nẻ. Không phải chỉ có một mình
lão Chu kích động, cả tôi lẫn Ngự đều háo hức. Nắng lên
ối mui thuyền. Thếp nắng rạng đông, đỏ bừng, dọi vào
những đám mây còn đọng ở đáy sông. Ngự hò tiếp sức
tôi với lão Chu. Giọng hò Nam Ai của Ngự lẳng lơ, vọng
tới cồn, váng trong lau lách. Lão Chu đắc chí cười khanh
khách. Cười chán lão vỗ đùi làm nhịp, hai vai oằn xuống,
hai chân xoạc, tay vươn tới, khủy kéo về, lão đẩy mái
chèo khua thuyền trôi băng băng. Ngự hò một lúc rồi lôi
truyện Tàu “Tuyết Hồng Lệ Sử’’ của Từ Trẫm Á đọc cho
tôi và lão Chu nghe. Tôi nghe truyện kể thì ít mà say
giọng đọc của Ngự thì nhiều. Tôi uống từng câu, nuốt
từng chữ, ngậm từng cái ngắt hơi của Ngự.

Thuyền qua Thanh Hà, qua Bao Mỹ, đến Bao Vinh, mà
giọng kể của Ngự hãy còn chạy trong máu tôi rần
rần. Lão Chu cắm nọc, giam thuyền. Mặt lão bỡ ngỡ nhìn
mái tường thành, đang ngã bóng đồ sộ, vĩ đại, đè lên
người lão. Thân thể lão Chu bẹp dí, như bị tường thành
nghiến nát. Lão vụt trở nên nóng nảy giục giả tôi với Ngự
nhập vào đám người đi rước Hoàng Thượng ngự đạo. Tôi
nắm tay Ngự, chen trong thác người khổng lồ đi dọc sông
Hương, ngang chùa Diệu Ðế, ngang cổng Thượng Tứ,
qua cầu phao, đổ dốc Nam Giao. Hoàng Thượng từ điện
Cần Chánh trong Tử Cấm Thành ngự giá lên Trai Cung,
lính hầu đánh chuông thét: Thiên tử thọ mệnh ư thiên! Cả
giòng thác người cúi rạp đầu khiếp hãi! Lúc Thiên Tử đã
đi qua, tôi ngửng lên còn trông thấy hai tròng mắt lão
Chu thất đảm, hồn phi phách tán. Kiệu Rồng đi đến đâu,
mây cuộn nước dạt, trăm họ vái lạy: Thiên tử vạn niên,
Vạn thọ vô cương, Quần phương tập khánh, Vạn bảo
trình tường! Lão Chu run lẩy bẩy, cái chức vị “thần linh”
của lão xem ra nhỏ mọn, không sánh nổi với Thiên tử.
Tranh Sình của lão vẽ trên giấy mộc bản thì có ra gì, so
với cờ quạt, trướng liễn, tàn lọng, chiêng trống, voi ngựa,
long đình, ngự liễn, hoành phi, lân cầu, bảo kiếm, chung
đỉnh, đĩa chạm? Người lão Chu cứ co rúm lại từng chốc,
lão đã thật sự gặp thượng đế!

Tiếng trống lùng thùng chiêu hô, tiếng chuông xướng


họa, phường bát âm tấu nhạc cho đám vũ Bát Dật múa tế
giao. Các ngón đàn tỳ, nhị, nguyệt, sáo, uốn éo vây lấy
tôi và Ngự. Mặt lão Chu đang xám hóa đỏ bầm như gấc,
tôi biết lão sắp lên cơn. Mà lão lên cơn thật. Một hai lão
nhảy qua khuôn thành, đòi lên Viên Ðàn, chỗ lập án thờ,
nhưng quan lính đuổi lão. Lão Chu lại đòi vô Phương Ðàn
xem tế khí và tế phẩm, cũng không được. Mặt lão hầm
hầm, cơn giận xé ruột, cơn giận xé gan, cơn giận bức bối
trong óc lão. Song lão Chu cũng biết sợ. Thượng đế ở
đàn Nam Giao, không chỉ làm mưa như ở phá, mà có
quyền tế sống lão. Giữa rừng người đi xem tế giao, lão
Chu lôi ngược tôi với Ngự. Lão xua tôi như xua tà, lão bắt
Ngự về. Tội nghiệp Ngự khóc hết nước mắt, lão cứ lầm
bầm chửi rủa: Trời sinh vua, sao còn sinh lão? Lão muốn
thọ mệnh ư thiên, quần phương tập khánh, muốn mặc áo
đại triều, đi guốc cẩn, uống rượu trong chén sứ cẩn tam
khí, hút thuốc trong bình điếu bằng ngà, lão muốn tất.
Ngự khóc ròng rã, lão Chu quầy quầy xô đuổi. Lần đầu
tiên tôi thấy lão Chu xua đuổi cuộc đời của chính lão.

Những ngày sống ở Thuận hóa, chỉ có mối tình của tôi
với Ngự là đẹp. Mưa xuân trắng mờ mịt cánh đồng. Cả
một láng mưa bay vút qua mặt ruộng điểm sương, trổ mai
trắng, mọc rưng rứt đến ngút ngàn. Ngự chạy băng đồng,
ném chiếc nón Phú Cam xoáy tròn trong không khí. Vải
áo lụa mỡ gà của Ngự tất tả, bén nước, nhễu rây trên đất.
Tôi theo vết nước tìm bắt Ngự. Hai đứa chạy ra bờ ao,
xem sen nở. Màu sen cánh phấn, chao chao, mặt ao
chao sóng, những cánh sen dập dình nổi lửng trên cái
nền rêu thẳm. Ngự hay cởi áo cho tôi cắn lưng để rụt cổ
rùng mình. Tôi thích mơn trớn Ngự dưới gốc đại, nhìn lá
đại rụng xuống bụng Ngự, phập phồng lên xuống theo
hơi thở Ngự. Mà thịt da Ngự thẩm thấu lạ. Mỗi bận mưa
giông, cả một láng mưa, nhọn hoắt, buốt như kim quất
qua mái chùa trước khi đâm xuống mặt hồ xanh ngọc,
vậy mà khi gieo xuống mình Ngự, những kim mưa tan
biến không để lại dấu vết. Tôi săm soi tìm dấu tích của
trận bão, chỉ thấy dấu vết con gái thâm sâu giữa bụng
Ngự. Tôi mê mùi hương trầm thắp trong chùa đọng ở tóc
Ngự. Tôi tưởng tôi sẽ sống với Ngự suốt đời, ai ngờ lão
Chu đã nghĩ khác.

Từ khi viếng kinh thành Huế trở về, lão Chu đâm khó
chịu. Lão dở người cả với Ngự và tôi. Lão giống kẻ thất
chí, công không thành, danh không toại. Gặp ai lão cũng
lải nhải: Cuộc đời phải cao sang quyền quý? Tôi chán
lão, còn Ngự thương lão. Mưa Thuận Hóa vẫn trắng mị
mờ những ruộng lúa, hương trầm tiếp tục nồng nàn trên
da thịt Ngự. Chỉ có lão Chu là đổi khác.

Một sáng tôi đang ngủ với Ngự trên giường mây, thì lão
Chu xồng xộc xông vào. Lão ném bắn tôi xuống giường,
lôi Ngự dậy. Lão Chu loan cái tin động trời: Tau đem con
Ngự tiến cung! Tôi thét: Lão không có quyền!  Tôi thề
không để lão bắt Ngự đi ở Nội. Nhưng lão Chu đã lồng
lên như con báo đói mồi, lão gầm: Mi muốn cái chi?  Lão
vung tay tát tôi. Lão nện tôi như người ta nện chó hoang.
Lão Chu đánh tôi giống lúc lão vẽ tranh Sình. Chịch; một
thọi. Chịch; thọi nữa. Rồi chịch; chịch; cứù thế lão thọi.
Ngự khóc oà, lão Chu xoay mình xáng Ngự một bạt tai
ngã chúi vào góc nhà. Tôi cố chụp thanh củi, nhưng lão
Chu đã nhanh tay lấy đòn gánh phang vào đầu tôi đổ
máu. Lão đánh tôi ngất lịm ngay trên nền đất. Lúc tôi tỉnh
dậy, nhà đầy tiếng khóc. Tiếng khóc của Ngự mang
mang, thê thiết tủi hờn. Lão Chu đã trói nghiến tôi lại, lão
buộc chân tay tôi quanh cột nhà, mình mẩy tôi còn tắm
máu trận đòn ban sáng. Lão Chu thuê các mụ đến trang
điểm cho Ngự, rẽ tóc giữa, đội khăn, bắt mặc áo mớ năm,
đi hài, đeo kiềng. Ngự nhìn tôi ai oán, tiếng khóc Ngự tức
tưởi, đặc khản, sầu thảm. Lão Chu cho mổ heo, mổ bò,
giết trâu thết làng. Lão trịch thượng ra vào, trịch thượng
độc thoại: Cuộc đời muốn cái chi? – Phú quý! Lão Chu ré
lên cười thỏa mãn, giọng cười khé khắt hăng hắc như
nước sôi quá độ, tiếng cười luộc bỏng tim gan tôi. Lão
Chu vỗ đùi trỏ Ngự kêu: Mi ráng hầu hạ Ngài, Ngài
thương cho làm quý phi thì tau được làm Quốc Công!  Lão
lại ré lên. Mọi người im thin thít, không ai dám phản đối.
Người ta sợ lão lên chức Quốc Công thật, vì Ngự đẹp,
xứng làm quý phi cho Hoàng thượng. Triều đình đưa kiệu
tới đón, phường kèn trống so dây, trổi nhạc. Tiếng Sên
Tiền, Tám Âm, đàn Sến, đàn Cầm, mõ Song Lan đệm
nhịp ò e. Ngự không ngớt khóc thảm. Tôi lồng lộn chửi
mắng lão Chu, đào bới ba họ nhà lão, song lão Chu hung
dữ dị thường, lão lấy dẻ tộng vào miệng tôi, rồi lại đánh
tôi chết ngất. Hôm Ngự bị mang tiến cung, tôi với Ngự
không nói được với nhau một câu vĩnh quyết.

Mấy ngày sau, được các mụ cởi trói, tôi vác dao rượt lão
Chu. Tôi đã thề giết lão là tôi giết lão. Tôi bửa lão làm
đôi, tôi chém lão làm năm, tôi băm lão làm tám. Tôi cắt
gân, chọc ruột, moi phèo lão Chu. Trời mưa bẩn xối
nước, ruộng ngập sình, tôi vác dao lội sình đuổi lão Chu.
Nước sình bắn lên mặt, cỏ lau cứa người, lão Chu chạy
như gió, lão phóng mình như cáo nhảy chuồng gà, tôi lụi
dao vào lưng lão. Nhưng lão Chu né tài tình, uốn người
thót bụng cong lưng tránh những mũi dao tôi không ngớt
lia tới. Lão rít kìn kịt: A! Mi giỏi! Mi đòi chém Quốc Công?
Tau thưa triều đình cùm mi!  Lão Chu vươn hai tay dài
khẳng khiu chận lưỡi dao nhọn trong tay tôi, lão nắm chặt
bản dao không cho tôi giật lại. Ðất sình dính bê bết lên
người, tôi vòng tay lấy hết sức bình sinh rút con dao phai
dắt ở hông, chém bổ xuống đầu lão Chu, thớt dao xé
mưa phạt xuống. Lão Chu nhanh như sét oằn người
tránh, làm lưỡi dao trợt trúng vai tóe máu. Tiếng rống lão
Chu nứt trời đất. Lão rú lên trong lúc máu phụt có vòi, xịt
trây vào mặt mũi tôi tối tăm đỏ kè. A! Mi giết Quốc
Công! Lão Chu ngoác mồm trợn mắt, lão không chết,
cũng không ngã, máu lênh láng tuôn ròng ròng tắm đẫm
châu thân lão, máu chảy theo mưa xuống nước ruộng
loang loáng đỏ ngầu, nhưng lão Chu chẳng có vẻ gì là hề
hấn, lão chỉ ngạc nhiên vì chức Quốc Công không bảo vệ
được lão. Tôi gồng tay, xĩa dao vào mặt lão, con dao
nhọn tôi cắm vào mắt, con dao phai tôi chặt ngang bụng.
Lão Chu phải chết, lão phải đền mạng cho Ngự dù mười
cái mạng lão cũng không bằng một đốt ngón chân Ngự.
Lão Chu vùng bỏ chạy. Lão chạy nhanh như cắt, hai đầu
gối cất lên khỏi mặt ruộng phóng nước kiệu, chỉ có máu
rớt lại đằng sau từng dúm, từng bệt lớn như có ai nhổ
trầu. Tôi lao theo lão, mưa giăng kín trời đất, bóng lão
hiện, bóng lão mất, mưa cứng như đá, mưa dầy như thép,
tôi vụt mặt vào bức tường mưa rượt lão Chu. Tôi đã thề
giết lão là tôi giết lão, có ba đầu sáu tay lão cũng không
thoát. Tôi sẽ bằm lão ra cám. Ai bảo lão dạy tôi điên, ai
bảo lão bắt tôi khùng? Lão đem Ngự tiến cung, tôi biết
yêu ai? Tôi biết ngủ với ai nữa? Thịt da Ngự, thân thể
Ngự, mắt môi mũi miệng tóc chân mày rái tai Ngự lão
đem cho Hoàng Thượng thưởng nguyệt, tôi thù lão. Rừng
mía lấp loáng, những đọt mía ròn tan hôm nào tôi cùng
cắn với Ngự. Lão đã bẻ mía đứng đợi tôi ở bìa rừng. Mắt
lão gườm gườm, môi lão thâm, miệng lão mím, chân lão
xoạc xuống tấn, hai tay khuỳnh khuỳnh thủ thế. Mi giỏi,
mi đến đây, mi ăn nằm với con Ngự mi tưởng tau khôn
biết? Con Ngự mất trinh, tau đem gã cho vua, mi còn
muốn chi? Mi muốn chi? – Tôi muốn bới mả con mụ lão,
sanh nhằm giờ chi mà độc địa, lòng dạ dơ dáy muối biển
cũng khôn rửa được! Tôi lao vào chém lão Chu, lão hươi
quyền đỡ. Lão lấy cây mía gạt những mũi dao tôi lụi tới,
lão nhảy qua, xạt lại, tiến lui tài tình, không cách chi tôi
đâm được lão. Chém một lúc, tôi đuối sức, người vả mồ
hôi, nhịp thở hổn hển, mất hết sức lực, lão Chu biết tôi
tàn lực, cười khe khé: Răng mi không chém tau nữa? Mi
thua rồi ư? Chừ tau độp mi cho mi biết! Lão Chu bất ngờ
nhảy bổng lên khỏi mặt đất, quật gốc mía vào đầu tôi tới
tấp, lão đánh văng hai con dao trên tay tôi, đè ngửa tôi ra
ruộng. Tôi vùng vẫy, lão Chu nhúng đầu tôi xuống nước
ruộng, tôi ngạt thở há mồm uống từng bụng nước thum
thủm sền sệt đất sình, lão Chu nhấc đầu tôi lên cho thở
một giây rồi lại dộng xuống mặt sình, lão la chói lói, tôi
thét dẫy dụa cố vùng ra mà không được. Sình chui vào
mắt, vào tai, vào lỗ mũi, tôi uống sình căng đầy ruột, mấy
ngón tay lão Chu siết ở cần cổ tôi như kềm người ta siết
cổ tội hình. Tôi ú ớ, lão Chu bẻ quặt tôi lên, hai tròng mắt
lão trắng dã, to như hai cái thúng. Lão Chu ghé sát
miệng vào mặt tôi gằn từng chữ: Con Ngự là cuộc đời
tau, tau đem hiến vua để nó được quyền quý, sung
sướng. Cuộc đời tau được ở trong cung, vàng châu, gấm
lụa, một bước có người hầu, hai bước có kiệu khiêng,
Ngài thương cho nó làm nhất giai phi, thì nó thành bậc
mẫu nghi thiên hạ. Còn mi? Mi có chi cho nó? Răng tau
nói khôn đúng ư? Mi là cái thớ chi trong trời đất?

Lão Chu buông tôi ra, cái bóng lão dọi lên giữa rừng
mưa, cái bóng thấm đẫm máu lúc lão bước đi, tan biến
vào hơi nước. Tôi nằm vật ra trên mặt ruộng, thân thể
đau dần bãi hoãi, song cái đau thể xác cũng chưa bằng
nỗi đau linh hồn bức từng sợi gân trong người tôi. Mỗi sợi
thần kinh bức làm tôi quẫy mình trào nước mắt. Lão Chu
đã nói ra sự thật, tôi có gì cho Ngự? Tôi nằm cho mưa nổ
xuống mình, đốp chát từng hạt thù hận. Thượng đế là ai?
Khóc cho tôi hay khóc giùm Ngự? Chừng nào thì lão Chu
mới biết khóc?
Mưa ở đâu xót xa cho bằng mưa ở Thuận Hóa? Mưa ở
đâu?

Những cơn mưa tầm thu trở về qua đất Thuận Hóa lạnh
tăm tăm từ sau khi Ngự đi ở Nội. Váng mưa không còn
trong mà đục. Hột mưa nặng như có huyết, nhễu xuống
da buốt thấu xương tủy. Thời gian bỗng ngừng lại ở làng
Sình, dài thậm thượt lê thê... Mỗi khắc mưa là một niên
kỷ, đợi cho hạt mưa bám ở mái rỏ xuống sân, mất từng
canh. Mỗi giọt nước là một khối chờ đợi, thai nghén,
thành hình, dâng tròn rồi căng cứng mạch máu đầu óc
đến lúc vỡ tung vào hư không vắng lặng. Tất cả tẻ nhạt,
trầm buồn, u uất. Tất cả theo Ngự đằng đẳng mất biệt âm
tín. Tất cả theo lão Chu đằng đẳng mõi mòn đợi chờ
chiếu chỉ triều đình ban xuống tấn phong Quốc Công.
Chiếu không đến, chỉ không về, lão Chu chỉ còn biết
sống với nỗi điên khùng tạo tợn. Nhưng lão già đi trông
thấy, người lão teo tộp lại chẳng khác trái ớt mất mùa,
vừa dú lên, đã nhăn nheo như da mụ già. Lão giống một
hình nộm cũ, Thượng Ðế lôi ở đáy rương mang ra giật
dây, cho cử động, bắt ăn uống và cho nheo mắt ngủ gà
ngủ gật những trưa thoi thóp tàn tạ. Lão Chu tuyệt vọng
đợi một tờ chiếu có đóng ấn ngà.

Vết thương tôi chém vào vai lão Chu khép miệng liền da,
thì viên mụt nhọt thâm sâu giữa bụng lão lở lói. Lão Chu
đau căn bệnh cuộc đời. Lão cũng đoán lờ mờ là Ngự bị
thất sủng. Nhưng lão Chu chỉ đoán, còn các mụ ở làng
Sình thì bém xém sau lưng lão. A! Con Ngự mắt phụng
mày ngài, mặt trái soan, vú non da hồng... Con nớ đi ở
mô trong Nội, biệt tăm rồi, chắc là không biết cách giao
hoan nên Ngài không thỏa mãn, răng cho làm nhứt giai
phi! Một mụ nói, bốn mụ cười hăng hắc, tôi tránh ra đình
những buổi chợ phiên. Chợ phiên ở làng Sình không
giống chợ Gia Lạc trên kinh thành Huế, đông vui như
ngày hội. Lúc xưa Ngự chỉ đợi phiên chợ họp để rủ tôi ra
đình đánh bài thai, chơi bài ghế, đậu bài chòi... Giờ Ngự ở
cung Ðoan Hòa, còn tôi trốn ở nhà, sợ hãi từng giọt mưa
bay. Những sáng không có mưa thì thằng Hiểm dẫn con
vợ mới cưới đi qua nhà lão Chu. Thằng Hiểm cay lão vác
rựa rượt nó lúc xưa, bây giờ thấy lão mất Ngự thân tàn ma
dại, nó lấy làm hả hê. Lúc vợ chồng thằng Hiểm đi
ngang, lão Chu còn ngủ. Chỉ có tôi đứng dựa cửa. Con vợ
thằng Hiểm vác bụng bầu chửa vượt mặt, đi thè lè nói lớn
tiếng: Tưởng ăn nằm với con nớ, dạy hắn kiểu cách, ai
ngờ cũng có biết chi tề! – Bậy! Hắn có dạy con nớ đó ri,
răng khôn dạy sao con nớ vú tưng bụng ỏng? Thứ chi mờ
hắn khôn dạy, nhưng dạy thét Hoàng thượng biết con nớ
hết trinh, Ngài giận! Thằng Hiểm oang oang trả lời con vợ
hắn nham nhở. Tôi nóng bừng mặt, trời đánh thánh đâm
vợ chồng thằng Hiểm! Tôi bứt dây lạc lão Chu cột ở cửa,
mười ngón tay tôi co giật run bắn muốn chém thằng
Hiểm, nhưng thằng mất nết lực lưỡng như trâu, sô vai hắn
nổi từng bện, thằng Hiểm quá tuổi dậy thì ngực nở
chướng phình như cái trống, tôi có muốn chém hắn cũng
khó. Ngự đâu biết sáng đó tôi cắn dập môi trong mình vì
giận, vì bất lực?

Còn nhiều chuyện nữa mà Ngự không biết. Lão Chu sau
này ít nói, hay nằm liệt ở một góc nhà cho đến lúc nắng
đổ lửa vào đầu lão mới tỉnh dậy. Những lúc thức giấc, lão
Chu như đứa trẻ sơ sinh, lão bặp bặp môi, mắt đảo loanh
quanh, ngây thơ tìm kiếm... Ðến lúc nhận ra Ngự không
còn nằm ở chiếc giường mây, lão mới khom lưng oằn
mình cho cái lỗ miệng móm mém khạc đờm. Nắng rơi
đầy vại nước, soi phơ phất mấy hàng tranh lão Chu tết
trước nhà. Lập đông, nắng ở Thuận Hóa ui ui khô đét,
xương xẩy theo lão Chu bước dần ra phá. Nhưng nắng
không đủ ấm, chỉ chảy nhớt, bỡn cợt xuồng xả cắm loe
hoe trên trán lão Chu đã gần rụng hết tóc. Tôi theo lão
Chu ra phá đứng nghe tiếng thở mệt nhọc của đất. Cả
một mặt đầm óc ách, nhấp nhô ruớn mình thở. Tôi lắng
nghe, nhưng không tài nào phân biệt được đâu là hơi thở
hổn hển của lão Chu, đâu là tiếng thở hì hục của phá. Chỉ
thấy ở những kẽ nứt, hơi nước toát ra, tung phụt lên tỏa
mờ trên không. Cái khối trắng ngần, trắng lịm, trắng mờ,
trắng lòa lòa vẫn còn đó, vẫn còn giăng giăng quẩy mình
cựa quậy, song lão Chu không còn gì để thách thức. Lão
đã đem cuộc đời của lão tiến cung, lão không còn gì
trong túi để dám ngửa mặt thách đố cơn giận dỗi của
Thượng Ðế. Lão Chu đứng lặng trước mắt đầm. Ðến lúc
tôi kêu lão về, lão Chu nghe tiêùng gọi quay lại, thì nước
mắt đã giàn đầy ra má. Lần đầu tiên tôi chứng kiến lão
Chu khóc.

Tin Ngự được tấn phong cửu giai Tài Nhân đưa về làng
Sình như sét đánh. Lão Chu chạy bổ từ phá về làng, phủ
phục trước sân thềm để nghe chiếu chỉ. Lão vỡ òa tiếng
khóc như trẻ nít. Lão khóc vì mất chức Quốc Công. Trong
triều đình, có cửu phẩm cho các quan, thì cũng có cửu
giai cho các mệ. Ngự được phong giai áp chót, chỉ trên
bọn cung nga thế nữ. Giọng khóc nấc của lão Chu đau
đớn tủi hèn, lão khóc ngất hơn bọ chết mạ chết, lão dập
đầu tóe máu, gục mặt nhận chỉ. Quỳ bên cạnh lão Chu,
hai bàn tay tôi bảo dậy, vật vả trăm nghìn phen vì thương
Ngự. Tiếng chuông chùa ai đánh gõ loong koong... Mỗi
đêm lão Chu rên rỉ lảm nhảm độc thoại: Nhất giai phi, nhị
giai phi, tam giai tân, tứ giai tân, ngũ giai tiếp dư, lục giai
tiếp dư, thất giai mỹ nhân, bát giai quý nhân, cửu giai tài
nhân... Ðến chữ tài nhân thì lão chết lịm đi, tròng mắt
đứng lại, trong bóng tối lão thở hắt rồi há hốc mồm, quai
hàm cứng lại như chết rồi, cho tới lúc lão từ từ hồi lại,
nằm xụi lơ như cái xác sống. Cái buổi sáng mà thằng mõ
đi gõ rao trong làng bản tin rùng rợn: Hoàng thượng băng
hà! Lão Chu mới thật sự hóa cuồng. Tiếng rống khủng
khiếp của lão Chu chạy khắp làng gào thảm thiết. Lão
như một con quái vật trúng tên, lồng lộn tìm chỗ chết.
Lão Chu tự cắt gân, rạch mặt, khợi cho máu phun, người
ta phải buộc lão lại, kềm tay, giữ chân, đánh cho lão
ngất, để lão đừng tự vẫn. Mùa mưa năm đó, cả kinh
thành Huế để tang Hoàng Thượng, khắp lành Sình trắng
khăn sô. Mình Rồng được khâm liệm để lên trướng chở
qua sông Hương đi vào núi an nghỉ. Các mệ phi âm
thầm, lẳng lặng lên ở Khiêm Lăng để suốt đời lo việc
hương khói. Tôi trông thấy bóng Ngự đi theo các mệ lên
Khiêm Lăng. Mặt Ngự tái nhờn nhợt, màu trắng của sợ
hãi, màu trắng của những giọt mưa bay. Màu trắng của
thần trùng. Những trận mưa trắng ngần trắng lịm khăn
tang, màu trắng của vải sô bay phần phật trên khói
hương thắp nghi ngút không đứt. Bao nhiêu bó nhang đốt
đời Ngự? Lão Chu đã thật sự đánh mất cuộc đời.

Cuộc đời lão Chu đi khuất thì gió Lào nườm nượp thổi về
đất Thần Kinh. Sức nóng dữ dội chui hút vào dãi đất nằm
kề bên dãy Trường Sơn, giống con rắn hổ chui vào hũ
tĩnh, bị đóng nắp, sùng sục tháo bẫy. Cái đuôi rắn quất
lửa xuống những cánh đồng cháy oằn oại. Cái đầu rắn hổ
mổ chan chát vào lưng vại sành chẳng khác chi tiếng
chày các mụ nện lên cối đá. Hơi nóng tát lên mặt, hơi
nóng bỏng rát làm đỏ dộp mình mẩy. Cả một biển lửa
vàng thau cháy lan lan đến tận rừng chuối. Tôi tắm ở ao,
thấy lửa xém vào gốc chuối, tức thì thân cây chuối teo
xộp lại chẳng khác bị vắt hết nước. Những tàu lá chuối
mới xanh non nõn rờn rờn phe phất, chạm phải nắng cứ
khô ròn, khô ròn rồi vàng ỏng rụng dần, cho đến khi cả
một rừng chuối mật chỉ còn là một bãi đất cằn đá. Buồng
chuối nào thoát chết, thì đỏ toét màu máu, người ta gọi là
chuối lửa. Ðất Thuận Hóa trở thành nứt nẻ. Ðất như thiêu,
nung hừng hực. Buổi trưa ít khi nào có tiếng động, một
cánh ruồi bay cũng nghe, từng tiếng chắc luỡi của thạch
thùng nhấp môi giữa cái nóng ran người. Làng Sình vắng
danh, vắng ngắt. Họ đổ hết ra sông, xuống biển, xuống
đầm, phá. Lão Chu hồi sinh bởi cái sức nóng kinh khiếp
của Thuận Hóa. Mà lão lấy lại sức lực nhanh không ngờ.
Không ai có thể ngờ. Sét đánh lão không chết. Rạch mặt,
cắt gân, cứa cổ tự vẫn lão cũng không chết. Lão Chu
nghiễm nhiên trở thành biểu tượng của một sinh vật bất
tử. Mà chính lão Chu cũng tin rằng lão bất tử, sống mãi.
Sống - nên lão sùng sục - xục xạo đi tìm lại cuộc đời. Thịt
da lão đã mọc trở lại. Thịt mọc trên xương, mỡ bao lấy
thịt, da bao lấy mỡ, lão Chu cường tráng như cũ. Trưa
dập lửa xuống mình lão Chu. Gió đưa hơi nóng dộp lên
trên tấm thớt lưng của lão, song lão Chu vẫn khởi công đi
kiếm cuộc đời. Cuộc đời thứ nhì thay cho cái cuộc đời thứ
nhất là Ngự lão đã vụng dại đánh mất. Cuộc đời ở mô?
Mi biết cuộc đời ở mô? Lão Chu thè chiếc lưỡi dài đụng
mặt tôi hỏi. Ðầu lưỡi lão nhọn hoắc, nháùm nhạp, trây
vào đâu làm tôi nổi gai ốc tới đó. Cuộc đời ở mô? Tôi trả
lời: Không biết, không biết... Lão Chu cởi trần trùng trục,
ngâm mình xuống biển. Mồ hôi võng trên mặt lão nhễu
xuống biển. Nước biển cũng hóa thành mồ hôi lão Chu
mặn chát. Lão Chu chọn chỗ vắng, khúc biển cuối bãi
Thuận An nối liền đầm Thanh Lam xanh ngời ngợi nước.
Cả một mặt bể lõng trồi sụt, sóng té tạt vào bờ lôi rong
rêu tràn ra đất. Rong bấu trên cát, rong quấn mình lão
Chu, rong đu trên vai lão. Lão Chu bắt tôi xuống đứng
nước cùng với lão, phơi mắt hứng ánh mặt trời bắn xuyên
qua da từng nhát như lao phóng chọc bị. Cái khối lửa
chói lọi, chói lòa, chói lòe làm tôi nhức mắt, nhưng lão
Chu nhất định không cho tôi đội mũ, nhắm mắt, hay lấy
tay che mặt. Lão bắt tôi nhìn trừng trừng vào đường chân
trời đang cong oằn theo eo biển sẫm đậm, sẫm rịt. Mi
thấy chi? Răng tau hỏi sao mi khôn trả lời? Cái ri ở ngoài
nớ? Cái ri kia? Lão Chu xoắn tóc tôi nắm cứng bắt nhìn
mặt biển. Giọng lão chắc nịch: Cuộc đời! Cuộc đời ở bên
kia biển! Tiếng nói lão Chu tan trên mặt sóng dâng hân
hoan bất thần. Thoắt cái lão buông tay cho tôi té vục mặt
xuống nước, lão đã phóng mình bơi, hai đầu gối đạp
nước, cần cổ lão bạnh ra như mang cá. Nước cản thân,
nước ghịt lưng, nước lột vai, nước ngán chân, song lão
Chu cứ rẽ sóng bơi vùn vụt . Lão bơi mau lắm, xa tít tắp,
chừng muốn vượt đại dương để đến với cuộc đời ở bên
kia biển. Nhưng sức lão Chu có hạn,  hà bá lùa lão vào
bờ, ném lão vật ra đất. Lão Chu thở hổn hển: Tau biết
cuộc đời ở bên kia biển! Cuộc đời của tau ở bên kia biển,
sống chết tau cũng qua, bão tố tau cũng đi, hải tặc cá
kình chi tau khôn ngán! Lão Chu ngồi trở dậy, lão hỏi
tôi : Mi thấy không? Thấy không? Tôi trả lời: Tôi thấy, tôi
thấy... mặt biển giàn ra vĩ đại. Một sự vĩ đại mà lão Chu
không thấy.

Thời gian đó, vợ thằng Hiểm sanh khó, làm băng suốt
một đêm rồi đi khuất. Hài nhi lẫn sản phụ chết tức tưởi.
Cái mặt thằng Hiểm trơ tráo, nham nhở hôm đi qua nhà
tôi nói xấu Ngự, vậy mà lúc bốc từng vụm đất ném xuống
áo quan cho vợ trông cũng thật thương tâm. Tôi thắp ba
nén nhang cắm trong cái bát sành đặt trước linh sàn vợ
thằng Hiểm gọi là xá vong, xin nó đừng về quấy rầy tôi
với Ngọc Trản. Ngọc Trản chỉ mới mười lăm, không đẹp
bằng Ngự, song nước da đã ngó sen, cổ tay tròn bầu
bĩnh, và khóe mắt lẫy tình rớp hồn tôi. Tôi yêu Ngọc Trản
không giống như say Ngự, với Ngự tôi đong từng nụ cười,
hít chậm chạp mùi hương, quý từng phân xương thịt, ân ái
dịu dàng, ôm ấp nhẹ nhàng, khẽ từng vuốt ve, nâng niu
âu yếm, hứng đón cẩn trọng. Còn với Ngọc Trản, Ngọc
Trản bắt tôi yêu khác thường. Chôn vợ rồi thằng Hiểm bỏ
làng đi biệt tích. Ngọc Trản nói với tôi rằng bọ mạ Ngọc
Trản nói thằng Hiểm đi theo phái Văn Thân. Hai chữ Văn
Thân làm tôi rùng mình. Tôi cắn ghì lấy môi Ngọc Trản
không cho kể tiếp. Mùi nắng dậy ở đầu lưỡi Ngọc Trản,
tôi cắn vào nghe gió Lào thổi từng luồng phừng phựt.
Rơm ở chỗ nằm đâm vào người tôi với Ngọc Trản như
kim chích. Tóc vướng rơm, ngực vươn trái sữa, thân mình
Ngọc Trản nhỏ bằng bàn tay, vết thương con gái còn bọc
da non, đỏ hồng. Tôi lấy móng tay cào cho lưng Ngọc
Trản chảy máu, để được uống những giọt máu son của
Ngọc Trản vừa chảy vào đời mình. Gió Lào tát hơi lửa lên
mình Ngọc Trản, cháy lan lan, hai cườm tay quỷ quái của
Ngọc Trản đưa lên siết cổ tôi mạnh y hệt như hôm nào
lão Chu ghịt đầu tôi nhúng xuống sình. Ngọc Trản khác
Ngự ở phong cách, Ngự ngây thơ, Ngọc Trản tinh nghịch,
không bao giờ chịu nằm yên lúc giao hoan. Qua kẻ rạ, tôi
trông thấy bước chân chú tiểu cầm dùi dộng vào mặt
trống đồng. Tiếng trống chùa hắt dội vào ngực Ngọc Trản
nẩy lên cằm tôi tiếng nấc bật kêu lạc phúc. Lạc phúc?
Cuộc đời ? Lão Chu thét: Tau đã tìm ra cuộc đời! Mi coi
tau tìm ra cuộc đời! Lão Chu chồm vào trong đống rạ chỗ
tôi đang nằm truy hoan với Ngọc Trản. Lão dí đầu, thè
lưỡi, đặt một con mắt lão lên bụng Ngọc Trản, thả nốt
con mắt còn lại vào mặt tôi. Tôi tưởng lão lại sắp hóa
cuồng vì thấy tôi trần truồng bên cạnh Ngọc Trản, nhưng
lão Chu chỉ cười khe khé, dáng điệu ở trên tột đỉnh của
sung sướng mãn nguyện. Lão Chu rút đầu ra, lao vun vút
về làng Sình, lão vừa chạy vừa cất tiếng hét:  «Giô án nà!
Giô án nà!» Tiếng hét của lão Chu mau lắm, nắng đuổi
không kịp, rơi rớt lại tràn lên mình Ngọc Trản. Tôi bở ngỡ
với cái thứ âm thanh lạ lùng, nửa kỳ quặc, nửa chói tai
mà lão Chu vừa phát âm. Lão Chu học ở đâu thứ âm
thanh kỳ lạ đó? Lão đã thật sự tìm thấy cuộc đời ở bên
kia biển chăng? Hai bàn chân Phật, mười ngón chân bồ
tát hiện ra trước đống rơm. Tia mắt sư ông trợn ngược
trên thân thể Ngọc Trản, tia mắt đám sãi đuối lờ đờ khát
vọng. Tôi quờ cào quần áo, kéo Ngọc Trản nhảy ùm
xuống ao, bơi cắm mạng sang bên kia bờ. Những cuống
sen xanh mát rượi, những lá sen mượt mà trải rộng như
những lát chiếu hoa điều đỏ nắng, che chở cho tôi với
Ngọc Trản trốn Phật Thích Ca. Nước hồ lạnh mát. Trong
vắt. Ngọc Trản lặn thât sâu, tóc bềnh bồng như vi cá. Lúc
tôi với Ngọc Trản trồi lên giữa những đài sen nhụy vàng
óng ánh, sư ông và các sãi đã về chùa, chỉ còn âm vang
của tiếng hét lão Chu «Giô án nà!»  váng âm rơi vỡ rợp
trên những tàu sen chật mặt nước. Cả một đầm sen xanh
ngắt, run rẩy lay động. Các cuống sen cong búp, như thể
tiếng kêu của lão Chu làm chúng sợ hãi. Từng hột nước,
từng hột nước chảy lăn trên mình Ngọc Trản. Tôi cuối
xuống vết thương giữa bụng Ngọc Trản còn nở ngát, hai
đứa nắm tay nhau chạy bổ về làng, từ đầu lũy tre, người
ta đã xì xầm bàn tán tin lão Chu gặp gỡ kẻ lạ.

Lão Chu kể oang oang, dưới nắng chan chan lão nói với
mọi người là lão đã tìm lại được «cuộc đời». Những kẻ
lạ đến từ bên kia biển lớn cho lão biết: Rằng bên kia đại
dương có một người con gái mắt xanh hơn ngọc, tóc vàng
hơn tơ, da trắng hơn tuyết, bằng lòng lấy lão làm ông
giôn. Hỏi lão có thuận hay không? Lão thuận hay không?
Lão Chu mừng quýnh! Lão té tát tươi tả trả lời: Lão thuận!
Lão thuận! Lão Chu quýnh quáng lấy tiền dành dụm,
những đồng Thông Bảo quý giá mà lão nâng niu, chắt
chiu, bỏ trong rương, bỏ trong ruột, chôn dưới đất. Lão
đào lên, đào lên, những đồng Thông Bảo nặng chịch sức
lao động của mấy trăm, mấy nghìn bức họa mà lão Chu
đã vẽ bán cho mọi người, lão đào lên trả công cho kẻ
lạ đã đưa tin đến. Vợ lão tên chữ Giô-an-na, nhưng lão
Chu thích gọi lãnh lót yêu thương là Giô-án-nà. Giô-án-
nà có mái tóc vàng kim óng ả, mắt xanh màu lục lấp lánh
ngọc quý và da trắng mịn hơn tuyết phủ trên đỉnh những
ngọn núi ở bên Tàu. Lão Chu không ngớt nhắc đi, nhắc
lại các chi tiết ấy. Lão hãnh diện vô ngần. «Cuộc
đời» bên kia biển của lão cực kỳ đẹp đẽ. Cuộc đời bên
kia biển tuyệt lộng lẫy, mà gặp ai lão Chu cũng khoe
khoang kể lể. Lão chỉ không nghe thấy những tiếng xầm
xì, rì rầm sau lưng lão.

Lão Chu bắt đầu nhảy múa trên những đường mương
quanh mặt ruộng. Lão say ngất ngưỡng, một tay hồ rượu,
một tay đánh quạt, lão phe phẩy điệu múa thỏa mãn.
Giọng lão Chu nghêu ngao đầy khoái
lạc: «Giôôáánnàà!». Cái bóng lão Chu tắt, cái bóng lão
Chu hiện, chiếc bóng lão vờn vờn thoắt thoắt tắt hiện đi
tìm kẻ lạ. Ngọc Trản tinh như quỷ, rủ tôi đi rình lão Chu.
Nắng hầm hầm oi oi, nhễ nhại lửa cháy ngoằn ngoèo mặt
biển lấm tấm đầy dấu chân lão Chu dẫm trên cát. Nắng
thêu khắp rừng dương, đổ xuống chỗ tôi với Ngọc Trản
núp. Nắng dữ dội vậy mà tay chân Ngọc Trản lạnh tướp
mồ hôi vì hồi hộp. Trống cũng đánh trong bụng tôi quặn
ruột, tiếng trống ngực dội kinh hơn tiếng trống cửa Ngọ
môn. Từ biển lớn, ngược nắng chói lòa, vọng tiếng khoắn
nước của mái dầm to bản bơi rẽ vào bờ. Kẻ lạ đến từ một
khối nổi sừng sửng mọc nhú lên giữa biển cả. Gót giày
của kẻ lạ lún bì bạch trên mặt cát. Bỗng chốc tôi hiểu tất
cả! Những chiếc nón rộng vành to như cái mâm, những
đôi ủng cao tới háng, muốn liếm bẹn: Thì ra chính là bọn
lái Bồ Ðào! Những tấm áo choàng của bọn lái buôn Bồ
Ðào Nha bay phập phùng uốn éo trên sóng biển, rồi rũ
đứng trước mặt lão Chu. Gió đưa câu chuyện trọ trẹ giữa
lão Chu với kẻ lạ mất, còn: «Vợ ngươi đã hạ sinh được
một bé gái đặt tên cho nó là Ô-rô-ra! Ô-rô-ra, ánh mặt
trời bình minh!» Tiếng hú lão Chu re ré vang lừng biển
lớn. Tiếng lão cúi đầu lạy tạ, mở túi tiền, trút những đồng
Thông Bảo chót cùng của đời lão trả cho bọn lái Bồ.
Tiếng đồng thau chạm vào nhau loẻng xoẻng, tiếng kêu
thương bát ngàn rừng dương của lão Chu . «Ô rô ra! Ô rô
ra!» Lão Chu chết lịm đi vì hạnh phúc của đứa con gái
mới sanh bên kia biển. Bọn lái Bồ Ðào căng áo choàng
gói tiền Thông Bảo của lão Chu lại, chúng trở ra khơi,
hẹn lần đưa tin khác. Trên bãi cát chỉ còn lại một mình
lão Chu đơn độc nhảy múa, và một cái bóng nữa, cao lớn
dị thường. Chiếc bóng lạ của kẻ lạ đứng im lìm từ nãy chờ
đợi. Ngọc Trản đeo cứng lấy tôi: «Ai mờ dị rứa? Ai mờ dị
rứa? Răng lão Chu khôn về đi, lão còn muốn cái
chi?» Tôi lắc đầu chịu, không biết. Giải lụa đỏ buột
quanh bụng kẻ lạ bay phất phới, tung giật, thướt tha cùng
với thân vải đen phủ chùm kín đôi chân. Nếp vải chùng
cứ gợn lên, trôi bập bềnh dọc theo mặt biển lưa thưa gió.
Tôi với Ngọc Trản nhìn say mê kẻ lạ. Mà lão Chu cũng
bất động. Ánh sáng ngời ngời từ mặt trời giăng sau
lưng kẻ lạ làm sáng lừng bãi cát. Ngọc Trản nén tiếng
kêu, tôi nén tiếng thở, kẻ lạ thong thả, từ tốn, chậm rãi
trao cho lão Chu một cuốn sách và một vòng tràng, rồi
răn dạy: «Hãy tạ ơn Thượng Ðế đã ban ân phước cho
ngươi là tôi tớ của Ngài! Ta là đường đi, lẻ thật và sự
sống, chẳng bởi ta, chẳng có sự sống đời đời!» Lão Chu
phủ phục ngay xuống. Kẻ lạ chậm rải vốc từng vụm nước
biển rưới lên đầu lão Chu. Từng vốc nước rơi thánh thót,
nhễu bay. Tôi vụt hiểu. Tôi đã chứng kiến cảnh tượng này
ở Hải Phố: Kẻ lạ chính là một giáo sĩ! Lão Chu đang chịu
phép bí tích! Người tôi run lên, những thớ gân co giật liên
hồi làm tứ chi lẩy bẩy không sao điều khiển được nữa.
Những giáo sĩ đang bị triều đình truy nã, ai quan hệ thì
lụy vào thân. Tôi kéo Ngọc Trản vùng chạy. Mây rượt trên
đầu, nắng đuổi sau lưng, gió cản mặt, cát xiềng chân,
những bài kinh La ngữ của giáo sĩ réo gọi. Ngọc Trản
cuống cuồng ngã ngồi, tôi lôi dậy bắt chạy cho xa, thật
xa tai họa. Biển gầm ở phía sau, sóng đập vào óc não tôi
tê rần vì sợ, chân vấp đá, gối va vào cây, vai cứa gai, lá
chém mặt. Trong nỗi sợ hãi bừng bừng, tôi với Ngọc Trản
ngã lăn xuống triền đồi cát lún, cả một khoảng trời lõm
trong ngần mây trắng đương tụ lại ở động cát. Ngọc Trản
thở hào hển, mồ hôi ứa ở màn tang, tuôn xuống mắt mũi
miệng cằm bắp tay bắp chân đùi ngực bụng trây vàng
cát. Lẫn trong những bụm cát vàng ngập miệng, ngập trí
não, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để hiểu lão Chu đã đem vào
làng Sình một Thượng Ðế mới.

Lão Chu ba lần lên hầu quan. Quan bắt lão giải thích
quan hệ với giáo sĩ. Lão Chu nhận. Quan bắt lão bỏ đạo,
lão Chu từ chối. Ba lần quan sai lính nọc lão ra đánh.
Lính đánh đòn thù, gậy táng vào mặt, roi quất xối xả vào
người, kềm bẻ ngón tay, búa đập dập chân, nhưng cả ba
lần lão Chu đều không chết. Lão Chu không thể chết,
thân thể lão có sức kháng cự phi thường. Lão Chu đã bất
tử. Mùa hè đỏ rộ nắng Lào đi qua, lão Chu được thả về,
lão cười ré lên hãnh diện: Tau khôn có tội, ngôi thứ ba
chứng giám cho tau! Lão Chu cười ha hả. Người lão tàn
dại, tay chân bầm dập, mắt mũi tan nát, xương sườn
chằng chịt thẹo, song lão Chu bừng bừng sức
sống. Người ta bu quanh lão. Một kẻ hỏi: Ngôi thứ ba là
cái chi? Răng ngôi thứ nhất, thứ nhị ở mô? Lão Chu nghe
hỏi, ngửng phắt lên, lấy ngón trỏ chỉ lên trời: Ngôi thứ
nhất là Thượng Ðế của lão. Ngôi thứ hai là con Ngài đã
xuống thế gian chịu chết thay cho lão, và ngôi chót là
ngôi thứ ba giữ mình cho lão! Cái giọng ụa hơi khế chua,
mắt sắc như thép nạo, móng tay nhọn như lưỡi câu của
lão Chu làm người ta sợ. Mọi người dạt lối cho lão đi,
song mọi người cũng khâm phục lão. Lão Chu là cái thứ
chi mà Thượng Ðế phải cử con Ngài xuống chết thay cho
lão? Lão đóng đến chức chi ở trên trời? Lão Chu cười khè
khè: Giô án nà! Giô án nà! Lão đã về đây! Ô rô ra! Ô rô
ra! Bọ đã về đây!

Lão Chu xộc vào nhà, dắt vợ con dạo chơi. Người lão
Chu như mọc cánh, bay là là lướt trên những lẫm lúa khô,
từng cọng lúa nặng trĩu hạt, mọc vươn muốn níu chân
lão. Mọi người đổ dồn chạy theo xem lão Chu tung tăn
lượn trên mặt ruộng. Hơi nắng rươm dầm dề quanh
người, phông nắng chín vàng càng làm nổi bật tấm thân
thương tích của lão chờn vờn, ngả nghiêng, xiêu vẹo. Lão
Chu giang tay như thể đang dắt tay vợ con lão thật. Mỗi
bận gần chạm một ngọn cỏ lau cao hút đầu, lão lại giật
giật khuỷu tay như nhấc đứa trẻ lên tránh khỏi bị tranh
cắt. Lão Chu cứ tiếp tục cái điệp khúc : Ô rô ra! Giô án
nà! «cuộc đời» của lão.

Triều đình thôi không còn dám bắt lão Chu nữa, mà để
yên cho lão an hưởng hạnh phúc, không phải nể vì
Thượng Ðế của lão, nhưng vì những thế lực bên kia biển
mỗi ngày một mạnh. Chiếu dụ cấm đạo thôi còn hiệu lực.

Dạo đó lão Chu đã quên hẳn mất Ngự. Lão quên sự hiện
diện của tôi trong cuộc sống lão. Tôi làm gì? Yêu ai?
Muốn ngủ với Ngọc Trản lúc nào, ở đâu, trước mặt hay
sau lưng, lão Chu cũng mặc. Lão chỉ biết đòi lại chiếc
giường mây của Ngự, để dành cho Ô rô ra và Giô án
nà của lão từ bên kia biển trở về ngủ. Lão Chu trải nệm
hồng thúy thơm tho mùi xạ, nhưng mặt giường mây thì cứ
trống ngắt. Ngọc Trản trổ mã với cơn mưa tầm thu trở lại
đất Thuận Hóa. Cái khối nước trắng mờ ngày xưa giăng
trên tóc Ngự, kéo về gieo xuống rưới lên mình Ngọc Trản,
mỗi bận Ngọc Trản tắm mưa, da thịt nẩy nở giống cuống
hoa dú mình bung cánh đẹp lạ thường. Tôi bảo lão Chu
lấy Ngọc Trản làm lẻ, song lão không ưng thuận, lão còn
biết gì nữa ngoài mối tình vượt đại dương? Ðêm đêm tôi
nằm với Ngọc Trản, nghe lão Chu ngâm khe khẽ: ngày
sáu khắc tin mong nhạn vắng, đêm năm canh tiếng lắng
chuông rền... Lão Chu chờ cái ngày Giô án nà đưa Ô rô
ra về thăm lão. Lão Chu đợi và tôi cũng đợi.

Phong trào Văn Thân có một năm phừng lên mãnh liệt.
Nhắc đến Văn Thân là người ta nhắc đến ái quốc, mà
cũng nhắc đến đầu rơi, máu đổ, tương tàn. Ai ở làng Sình
nghe hai chữ Văn Thân cũng sợ. Chỉ có lão Chu là không
sợ. Lão nói con thượng đế đã chết thay cho lão, lão
không chết nữa. Ngôi thứ ba giữ mình cho lão, thì lão sợ
thứ chi? Lão sợ chi? Lão Chu cười hăng hắc, xối xả.
Tiếng cười khật khùng, điên dại của lão Chu trêu ghẹo
Văn Thân đang tàn lụi dần, yếu ớt hẳn đi trước ảnh
hưởng vũ bão, mỗi ngày một lan rộng của Tây phương.
Lão Chu tin mình đã theo đúng chiều mạnh của lịch sử.
Nhưng cái đêm mà thằng Hiểm trở về làng, trán thích hai
chữ Văn Thân, ngực xăm hình trống đồng Ðông Sơn,
thằng Hiểm không có vẻ gì là yếu ớt. Nửa đêm trăng
sáng, thằng Hiểm đạp tung cửa, rạch mùng, vác mã tấu
chém đôi mình lão Chu. Ðôi cánh tay thằng Hiểm cuồn
cuộn bắp thịt, ngực nó nở, sô vai nó dầy, thằng Hiểm
điểm mặt lão Chu thét: Việt gian! đền tội! Rồi nó bổ phập
xuống. Thằng Hiểm chém xuống, chém tới đâu lạc đứt,
cột gẫy, mái đổ. Bản thém sáng lạnh trên tay thằng Hiểm
giống trận cuồng phong quét ngang mình lão Chu, tưởng
đứt làm đôi, tưởng nát thịt, tan xương. Gió đêm rào rào
qua mái,  gió thổi thốc vào nhà, gió đưa hơi thép của
thanh mã tấu rờn rợn buốt thấu tủy. Tiếng gió giống tiếng
gào của Thượng Ðế ở đất Thuận Hóa nổi giận sai thằng
Hiểm trừng trị lão Chu. Song lão Chu cũng có Thượng Ðế
của lão. Tấm thân ngỡ tàn phế của lão coi vậy mà nhanh
như cắt, lão lăn xuống đất tránh thanh mã chặt bửa đôi
chiếc giường tre. Thằng Hiểm lại hươi mã, hai bắp đùi lão
Chu búng phắt lên, bẩy thân mình lão bỗng mềm dẻo
giống thân báo nhảy thót lên mặt bàn. Thằng Hiểm trở đà
dao chém nát mặt bàn, làm lão Chu té ngửa ra bếp. Ngọc
Trản rú lên sợ hãi, còn tứ chi tôi tê liệt nằm chết cứng ở ổ
rạ. Khuôn mặt thằng Hiểm lầm lì, dễ sợ, nó quát: Việt
gian! Trả nợ máu! Rồi lại chém xuống nữa. Hai bàn tay
thằng Hiểm cầm chắc cán mã, đừng tưởng thằng Hiểm
chậm, nó nhanh kinh hồn, lão Chu vừa chụp lấy nan thép
khợi lửa, nó đã chém bay tạt đi. Lão Chu túng thế giật
thanh củi đương cháy dở chích vào giữa mặt thằng Hiểm
mong lửa làm nó lóa mắt. Nhưng thanh mã tấu của thằng
Hiểm đã chém vỡ vụn đầu củi, tàn lửa văng tung tóe,
những đốm than hồng cháy xòe đôi con ngươi thằng
Hiểm đỏ dừ. Lão Chu lồng lên, lão thét: A! Mi giỏi! Mi
dám giết chiên của Ngài! Quỷ bắt mi đi! Lão Chu chưa
kịp thốt gọi tên Thượng Ðế của lão thì thằng Hiểm đã
chém phụp tới, bản thép sáng lóe phạt ngang bụng lão
Chu, từ cái đường cắt mỏng thịt da lão Chu bỗng vỡ ào
đổ ra, máu phụt thành vòi lia tia phun tứ phía. Ngọc Trản
kêu rú lên úp mặt vào lòng tôi kinh hãi, tôi cũng kinh hãi,
nhưng không sao xoay được đầu đi chỗ khác. Hai cánh
tay lão Chu cào cấu, bơi cuống cuồng trong không khí,
cằm lão bạnh ra, mắt trợn ngược thất thần không hiểu vì
sao ngôi thứ ba không giữ mình cho lão? Lão Chu ngã
ngồi xuống đất, mười ngón tay cố đỡ chùm ruột đương lòi
ra, song lão kiệt lực ngã gục mặt vào đống máu bất động.
Thằng Hiểm từ từ quay lại nhìn tôi với Ngọc Trản. Sắc
mặt nó lạnh như lưỡi thép biếc ngời vết máu. Chúng tôi
khiếp đảm vái lạy thằng Hiểm. Tôi với Ngọc Trản chắp
tay xá không ngừng, như hôm đi đưa ma con vợ thằng
Hiểm, tôi cũng chắp tay xá vong. Có lẽ thằng Hiểm bắt
gặp lại hình ảnh đó, nhớ lúc hạ quan tôi cùng phụ với nó
lắp đất cho người khuất mặt, nên chùn tay do dự. Lão
Chu đã ngồi dậy, mắt lão đầy tròng trắng, thằng Hiểm
không thấy, lão đứng sau lưng với cây đòn gánh, hươi
cao, rồi quất xuống thật mạnh, lão Chu quất liền tay xối
xả tàn bạo, man rợ vào sọ thằng Hiểm. Lão Chu quật tới
tấp điên dại, không kịp thở cho tới lúc thằng Hiểm chỉ còn
là một đống thịt bầy nhầy dẫy giụa. Ngọc Trản rú lên
từng hồi, tiếng gió rít giữa đêm khuya khoắt lẫn vào với
tiếng sấm làm mưa kinh hoàng.

Lão Chu bắt tôi với Ngọc Trản lôi xác thằng Hiểm ra bờ
sông, buộc đá thả xuống. Mưa ướt mặt, sình bết chân, tôi
với Ngọc Trản khó khăn lôi thằng Hiểm. Xác nó như các
trâu nặng chịch. Ngọc Trản vừa kéo vừa khóc, tâm thần
tôi chết đi sống lại, bị khủng bố bởi cảnh người Thuận
Hoá giết người Thuận Hoá. Nhưng thằng Hiểm không
chết, nước sông đêm mát lạnh làm nó tỉnh dậy, vùng vẫy
tháo dây bơi tìm sự sống. Thân thể thằng Hiểm quẫy
sóng chìm vào tâm tích của mặt sông. Thằng Hiểm
không chết, Văn Thân không chết, chỉ tan vào lòng đất
Thần Kinh mai ẩn rình rập.

Lúc tôi với Ngọc Trản ôm nhau ở bờ sông về, lão Chu đã
tự nhét ruột gan vào bụng, và tự khâu vết thương lại. Lão
nằm trên chiếc giường mây của Ngự, mắt nhắm nghiền,
miệng lảm nhảm đọc những bài kinh La ngữ. Trong cái
đêm rùng rợn đó, tôi đã tin lão Chu không bao giờ có thể
chết. Lão đã biến thành một sinh vật bất tử, bởi niềm tin
vào cuộc đời.

Vậy mà lão Chu chết. Lão Chu chết ba tháng sau khi
thằng Hiểm chém lão, khi vết thương ở bụng đã lành, đã
kéo da non, lão đã đi đứng được. Lão Chu chết giữa mùa
đông, mưa trắng trời, trắng đất. Tôi khóc hết nước mắt,
Ngọc Trản khóc khô giọng, đám ma lão Chu chỉ có mỗi
mình tôi và Ngọc trản với giáo sĩ đi đưa. Lão Chu yên
nghỉ ở ngoài làng Sình, trên đường đi Vĩnh Lại. Có ai ngờ
lão Chu chết? Tôi chém lão không chết, sét đánh lão
không chết. Vậy mà cái hôm bọn lái Bồ Ðào trở lại đưa
tin: Vợ con lão ở bên kia biển, Giô án nà và Ô rô ra đã
lâm trọng bệnh chết rồi, lão hãy để tang đi!  Lão Chu
khóc rống lên, thổ huyết ồng ộc, máu vãi ra đất, máu
đẫm trên cát, máu nhuộm biển, máu đặc sánh một mặt
đại dương đen thẫm. Và lão Chu chết. Suốt đời, chưa khi
nào tôi chứng kiến một cái chết kinh khủng như vậy. Mưa
bay nghiêng linh cữu hôm động quan. Giáo sĩ không cho
thắp nhang, chỉ cho đốt đèn cầy, nên đám tang ảm đạm
lạnh lẽo. Tôi với Ngọc Trản oằn vai gánh quan tài ra tới
huyệt mộ. Giáo sĩ đi trước, chốc chốc vẫy vào hai bên
mặt ruộng những giọt nước phép. Nước phép nhễu vào
đâu thấm loang loang đến đó, như dấu ấn của vị Thượng
Ðế mới ấn vào đất Thuận Hóa.

Ở làng Sình, cái chết của lão Chu gây ấn tượng rất mạnh.
Các mụ kháo nhau rằng lão chết bởi chứng lạ, song tôi,
tôi biết lão chết vì bệnh khát vọng. Tôi chờ giáo sĩ đi
khuất, vập đầu khấn: Lão Chu sống khôn, thác thiêng,
đừng về quấy rầy tôi với Ngọc Trản, đừng bắt ai phải chết
giống lão. Nhưng lão Chu sống không khôn, thác không
thiêng, lão không chịu nghe lời khấn của tôi. Hết mùa
mưa, Ngọc Trản bỏ tôi lên sống trên kinh thành Huế. Mai
trắng ở Huế, mọc quanh hồ Xung Khiêm Tạ có đẹp bằng
mai trắng mọc rưng rức quanh làng Sình hay không? Hở
Ngọc Trản? Sao bỏ tôi đi? Tình yêu tôi không đủ thắm
hay Ngọc Trản cũng đi tìm quyền quý như lão Chu đã
khát vọng? Mà lão có tìm được đâu? Mà người ta sau này
chết giống lão?

Những cái chết sau quá khứ về sau vẫn tiếp tục tiếp diễn
mãi cho đến tận bây giờ. Những cái chết trên biển, bên
kia biển, và bên này đất liền. Tôi mãn tang chồng, mãn
tang lão Chu, rồi tiến thêm bước nữa. Lập gia đình hạ
sanh thêm một đứa con gái. Tôi sống sót bằng cách hạ
sanh một đứa con. Ðứa con gái không đẹp bằng Ngự,
song tôi cũng say nó như ngày xưa tôi say Ngự. Mưa ở
Thuận Hóa vẫn trắng trời, trắng đất và kéo dài mãi cho
tới tận bây giờ. Những cơn mưa của khát vọng vỡ trong
suốt trên những cánh đồng bạt ngàn gió chướng.

22 tháng 12, 1990    

© Copyright Trần Vũ
Bên Trong Pháo Ðài
Cuộc sống của đám con gái trở nên khó khăn hơn từ khi
chúng tôi chuyển sang công tác hầm Mười Một. Cuộc
sống? Nếu có thể gọi hai mươi bốn tiếng đồng hồ chui
rúc dưới lòng đất của lũ con gái là cuộc sống. Thế kỷ này
thật lạ. Ngày xưa chỉ có những kẻ chết rồi mới vào nằm
trong đất. Ngày nay những thây ma tranh nhau dành phơi
mình trên đất nóng mùi lửa. Bọn sống sót còn thở chúng
tôi, còn mang những gân máu dữ dội trong hố mắt, thì bò
trườn lê lết trong những đường hầm hun hút thậm thượt.
Thế giới đảo lộn từ khi thần chết biết bay, xuống bắt
người từ những đám mây xanh an bình, tưởng hiền lành
mà bất thần thả lao nỗi chết vỡ vụn. Bọn con gái, những
khi rãnh rỗi, ngồi kiểm điểm trao đổi những kinh nghiệm
bản thân đã trải qua. Kinh nghiệm? Nếu gọi là kinh
nghiệm cảnh tượng tất tả chạy chối chết băng đồng về
điểm núp, bàn tay tê liệt không cầm nổi súng trong thứ
âm thanh lanh lảnh của đạn đại liên từ máy bay lên thẳng
xối ào xuống ruộng. Tôi dường đã đánh mất từ khi chui
xuống hầm Mười Một, cái cảm giác nóng bỏng của giọt
nắng vỡ òa trên da thịt sợ hãi cháy phỏng lửa xăng.
Không phải tôi không biết sợ mỗi khi máy bay địch tập
kích. Mỗi khi trần tăng xê của hầm Mười Một vụt rung
chuyển, lắc lư bần bật, thuốc đạn, bụi đất tung mù không
khí và hơi nóng dồn xuống muốn nung chín mọi người co
quắp run rẩy chịu đựng. Những khi ấy dĩ nhiên là tôi biết
sợ. Nhưng là nỗi sợ hãi trong bóng tối có màu đất đen
quánh ngột ngạt, không phải sự sợ hãi bình thường của
một con người đang chạy trốn, bị đe dọa nhưng còn trông
thấy mặt trời và tin tưởng vào sức sống của cỏ cây, vạn
vật chung quanh. Ở đây – dưới hầm Mười Một– không có
cây, không có lá, không có mặt trời, không có mây và
không có cả sự tự do chạy trốn. Chỉ có một đám người tê
cứng tứ chi thụ động chờ thần chết đem đi. Trong số
những chiến sĩ du kích của tỉnh đội Củ Chi sống chui rúc
dưới lòng đất, trốn những trận mưa bom không ngớt, liền
liền, có bốn đứa con gái là Nhu, Phấn, Huệ và tôi.

Hôm đầu tiên về công tác ở hầm Mười Một, tôi nhớ bọn
con gái đã được chào đón hân hoan bằng nhiều khuôn
mặt hồ hởi của các đồng chí nằm hầm bao lâu nay. Sự
hồ hởi của bọn họ hiện rõ trong tiếng cười khàn khàn gần
như không thoát ra nổi khỏi hàm răng luôn luôn nghiến
chặt kìm hãm nỗi xúc động thường trực, thường bùng nổ
đột ngột ở mỗi trận bom. Lực -người cán bộ chỉ đạo của
Mặt Trận- cũng có giọng cười sền sệt co rút các cơ hàm
khi bố trí chỗ ăn ngủ và chỉ định các khâu công tác cho
chúng tôi. Hầm Mười Một quả là điểm nóng của tuyến
đường ngầm 916B. Bọn con gái đã chịu thử thách ngay
những giờ nằm điểm đầu tiên. Thoạt tiên là còi báo động.
Thứ âm thanh gần giống với chuông báo thức thoát ra từ
cái đài bán dẫn, được khuếch đại vang lên trong tất bật
của cả nhóm người nhốn nháo. Tiếng bom reo trong lòng
đất kế đến mới thật kinh dị. Bọn chúng tôi nghe rõ mồn
một thứ tiếng động mạnh của nhiều vật nặng xuyến xoáy
vào lòng đất. Rồi tiếng nổ chát chúa ù tai dây chuyền
trong lúc người váng đi, thân thể tung bắn lên trần hầm.
Kinh nhất là sức ép trong lòng đất. Tám lá phổi của bốn
đứa con gái như bị bóp dẹp, vò nát rách bươm từng
mảnh. Những trận bom có thể bất chợt trong nhiều phút
với tiếng nổ ầm ầm rồi kéo dài hàng giờ với tiếng vọng
âm âm trong lòng đất, nhiều khi từ một nơi thật xa truyền
lại còn giữ nguyên sức rung địa chấn. Chúng tôi co quắp
ôm chặt nhau những khi ấy, với cảm tưởng thần chết
đang bóp chặt lấy cổ họng, đùa bỡn. Ðất đá từ trần rơi
xuống lộp bộp, lấp đầy những cái miệng cố mở lớn để thu
vào chút dưỡng khí. Cả bọn chỉ nhận ra người mình phủ
đầy cát và một dòng máu đỏ lòm đang rỉ ra từ cánh mũi
đen xì cáu bẩn đất sau khi cuộc đánh bom qua đi. Ðời
sống ở hầm Mười Một quả là khủng khiếp, nếu còn có thể
gọi là đời sống.

Nhưng rồi ở đâu thì con người cũng tìm cách thích nghi
với môi trường mới. Chúng tôi quen dần với những trận
đánh bom. Quen với những luồng hơi nóng hừng hực của
bom xăng đặc ném dội xuống hầm. Quen với những
tuyến đường ngàm đào theo hình chữ L, sâu xuống thành
hình chữ E và tẽ ra thành chữ K chạy zích zắc nối liền
nhau bằng các hầm chắn an toàn đổ đầy than đá, vôi
sống và sỏi cát để lọc hơi độc mà địch thường bơm
xuống từ một nắp hầm bị khám phá. Bốn đứa con gái
quen với cả tính tình và vóc dáng những người du kích
tỉnh đội. Hai ống chân ghẻ chốc của Tỉnh, khuôn mặt phù
thủng của Lập, bệnh sốt rét kinh niên của Chiến hay vết
thẹo dài sâu hoắm giữa lưng Lực... Chúng tôi học sống
và chiến đấu dưới lòng đất. Nhu -đứa con gái mười bảy
tuổi- được chỉ định làm giao liên, biết mò mẫm trườn bò di
chuyển trong những lộ tuyến nhỏ bằng lỗ chó chui, biết
luồn lách trong những khúc hầm nguy hiểm nhất và ngửi
ra mùi khói ngạt mà bọn Mỹ không ngừng ném, phun, xịt
vào lòng đất. Nhu thường buộc lại búi tóc trễ xuống vai,
ném về chúng tôi cái nhìn trìu mến trước khi biết mất vào
trong bóng tối của những con đường hầm đen thẳm, để
dẫn đưa hay đón người tới từ những hầm chung quanh.
Chẳng thế mà tập thể đã bình bầu Nhu là chiến sĩ giao
liên tiên tiến, tặng danh hiệu anh hùng làm vẻ vang cho
cả bọn. Phấn thì khác. Ðứa con gái mười chín tuổi sinh
đẻ ở Củ Chi, rành rẽ, sành sõi, nhớ mặt từng tên Dân vệ
trong vùng. Phấn còn là tay bắn cừ khôi của hầm. Mỗi
đên Phấn theo Lực và tổ du kích rời hầm đi đắp mô, thâu
thuế và tấn kích một vài đồn bót Ngụy ven khu vực. So
với Phấn, Huệ mập mạp đẫy đà, có nước da xanh nhớt,
trắng bệch vì là đứa sống lâu nhất dưới mặt đất. Tuy thế
Huệ công tác tốt ở khâu chị nuôi. Và cả tôi nữa -đứa con
gái tên Nhật- vào đời với may mắn chưa bao giờ phải
sống trong vùng tạm chiếm của Ngụy. Mỗi ngày tôi ngồi
trước máy, phụ trách khâu hiệu thính điện đài, tháo rỡ,
cầm rút mấy chục cái phích để liên lạc với các hầm số
Chín, Mười Ba, Mười Lăm... báo cáo tình hình và hội thảo
phương án chi viện cho một điểm nóng nào đó nếu cần.
Tôi còn nghe ngóng đêm cũng như ngày, tất cả những
động tĩnh trên đường dây điện đàm của địch và trình cho
Lực nắm những mẩu tin xếp loại A. Những khi tôi ngủ, tự
động Phấn hoặc Nhu ngồi vào bàn thay thế. Chúng tôi
sống với tuổi trẻ và chiến đấu bằng niềm tin mãnh liệt
rằng ngày tổng công kích sắp đến...

Thế giới của côn trùng, của giun dế, tuy thế cũng có
những ngày êm lắng và bình yên. Máy bay địch hay gã
thần chết hiểm ác dường như không mấy thích bay lượn
những ngày mưa. Mỗi bận nghe tiếng sấm rền vọng ngân
trong lòng đất, Phấn cong môi mỉa mai rằng giặc lái sợ
ướt  bộ đồ bay đẹp của chúng khi phải ra sân bay dưới
cơn mưa nặng hạt. Nhu thì nói dỗi những hôm trời tầm tã
thế này, thể nào cóc nhái và ễnh ương cũng ra chào cô
trong những đường hầm ngập nước. Huệ càu nhàu than
củi ướt quá, khó nhen lửa bắc lò. Và tôi -con Nhật hiệu
thính- bộ tịch hờn mát trời gầm làm đường dây nghe
không rõ. Ngoài miệng nói thế, nhưng trong thâm tâm lũ
con gái mong mưa như đất hạn mong nước. Ai hiểu cho
bọn con gái những khó khăn thầm kín, những vấn đề vệ
sinh bản thân mà bốn ca nước tiêu chuẩn mỗi ngày
không đủ thỏa mãn cung ứng. Chúng tôi túa đi, thi nhau
hứng những giọt nước trong suốt rỉ nhiễu từ những rễ cây
mọc len lỏi trong đất. Tiếng động lốp bốp vui tai của giọt
nước vỡ, đôi khi làm người ta quên mất đang sống trong
thế giới của loài trùng đất. Riêng tôi cứ tưởng đâu mình
hãy còn dưới mái nhà lá dột phất phơ của gia đình. Bốn
đứa con gái vụt trở nên trẻ thơ, đùa giỡn tạt nước vào
nhau từ cái vại nước hứng đầy. Bọn chúng tôi gội đầu và
chà mình trong góc hầm giăng bạt. Sau những buổi tranh
thủ tắm đột xuất như thế, tóc Nhu óng ả mượt mà hẳn
lên, thôi dính bệt từng mảng bùn đỏ ké “thu hoạch” được
trong những chuyến giao liên. Da thịt Huệ cũng hồi sinh,
nuột nà bay mất mùi bếp và tro than. Tôi tìm cho mình cái
thú ngồi tựa lưng vào vách hầm mát lạnh, thấm loang
loáng nước mưa rỉ rả nghe Nhu thủ thỉ kể một mẩu
chuyện góp nhặt từ các hầm khác. Ðôi mắt của mọi
người long lanh bị kích thích khi nghe Nhu kể một cảnh
cứu đất xập ở hầm Mười Bốn. Cả bọn nén tiếng thở chờ
đợi Lực kể tiếp một vụ xử lý linh động thằng trưởng ấp
chiến lược bị Mặt Trận bắt được. Huệ luôn đãi cả hầm
một ấm chè tươi với bánh đậu mà hậu phương lớn miền
Bắc gởi vào khích lệ nhân dân Nam bộ, sau những lúc
hàn huyên thân mật ấy.

Nhưng thời gian dưới mặt đất qua mới chậm. Giọng đùa
cợt khúc khích của bọn con gái lơi dần. Khuôn mặt của
những người du kích trở lại lầm lì, lạnh đá. Ðêm cũng như
ngày chỉ có một ánh đèn dầu vàng lu, vặn nhỏ tim leo lét,
soi loe hoe dăm cái bóng lúc chao nghiêng ngả, lúc đứng
sững dán in lên vách. Những háo hức ban đầu của lũ con
gái vừa khám phá ra mặt chìm của đời sống dưới lòng
đất, qua nhanh như cuộc tắm mưa ngắn ngủi. Thời gian
biến thành sự bồn chồn chờ đợi. Tai vểnh lên nghe
ngóng rình rập một tiếng động lạ. Mười ngón tay bứt rứt
cào sước trên mặt đất. Những kích thích tột độ của một
bản tin chiến thắng, số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong ngày.
Sự lo lắng chu toàn khâu công tác của mỗi người, những
chiếc võng treo hối hả trên vũng nước ngập lõng bõng
của hầm ngày mưa bão và cả nỗi sợ hãi điếng người khi
địch vãi bom cày xới mặt đất, cũng không đủ giúp thời
gian trôi nhanh hơn. Ngày duới hầm Muời Một là một khối
lê thê, dài thậm thượt hun hút như con đường ngầm sâu
hoắm, bất tận, nuốt chửng mọi sinh vật. Nhóm con gái
chỉ phân biệt được đêm ngày ở cây kim đồng hồ đánh
tích tách dưới trần hầm đen cứng. Ngày đến với tiếng
khạc nhổ của một du kích bị loét bao tử thức sớm. Trưa là
tiếng đằng hắng của Lực triệu tập phiên họp bồi dưỡng
chính trị. Chiều xuống thêm một buổi học tập cách thức
bám trụ, chống càn trong chiến tranh Giải Phóng. Ðêm
về, trả tiếng tra đạn lách cách của tổ du kích khi rời hầm
đi hoạt động. Chừng ấy tiếng động tẻ lặng, ngần ấy cử
chỉ rời rạc của từng người diễn ra trong ánh đèn dầu vàng
bủng màu nghệ. Một tuần, một tháng, một năm... tiếng
cười trong vắt của Nhu đục dần, cũng trở nên khàn khàn
kìm hãm. Giọng hát cao vút của Phấn thấp đi, không còn
chuyên chở hết lửa nhiệt tình của những bài ca tranh đấu
của Mặt trận. Và tôi – ở trần hầm im phắc– tôi bắt đầu
trông thấy những đốm thao thức lớn dần, loang loáng
nhiều ý nghĩ lạ. Ngày tổng công kích vẫn chưa đến,
nhưng những bồn chồn nóng nảy trong lòng mọi người
chừng đã chín mùi ghê gớm lắm rồi. Hà Nội, hậu phương
lớn –pháo đài của niềm tin– trong bản tin cuối cùng đang
chịu những trận bom khốc liệt.

Những trận bom khốc liệt tiếp tục một năm, thêm một
tuần, thêm một tháng, thêm nhiều tháng... trong ngột
ngạt thường trực của căn hầm ngộp hơi, thiếu dưỡng khí.
Cảnh tù quẫn bít bùng chìm sâu dưới lòng đất dễ làm con
người ta nếu không phát điên, cũng chẳng còn bình
thường. Ðiều kỳ lạ là lớp vỏ bên ngoài của những con
người nằm hầm, nếu có vẻ vượt qua được thử thách để
sống sót trong một môi sinh khắc nghiệt, thì cái phần bên
trong của con người ấy hoàn toàn bị hủy hoại. Tôi chứng
kiến đầy đủ, gần như trọn vẹn sự thoái hóa của những du
kích bị tước đoạt ánh mặt trời.

Chuyện tranh chấp giữa Huệ và Phấn khởi đi từ một ve


dầu dừa cỏn con. Một bận sau phiên trực máy, buông
mình xuống mặt chiếu tìm giấc ngủ bồi dưỡng, đang lim
dim, tôi chợt nghe tiếng Huệ vang lên chua và sắc.

- Gớm sao tóc thơm mùi dầu dừa thế? Lại lấy trộm của
tao đấy phỏng?

- Tôi không lấy trộm của ai!

- Thế ở đâu ra? Ăn cắp còn chửa nhận thì thôi!

Có lẽ chính những cặp mắt đổ dồn về làm Phấn tự ái.


Ðứa con gái được tập thể biểu dương có tính triệt để
Cách Mạng trong công tác, vụt hung hãn như thể tìm thấy
đích bắn lúc hươi nòng súng.

- Mày bảo ai ăn cắp, con kia?

- Tao nói đứa đầu hôi như cú không dám cho trai ngửi!

Tiếng “bộc” khô khan từ nắm tay Phấn bất ngờ thoi vào
mặt Huệ không kịp lường trước. Huệ ngã bật ngửa sóng
soài ra bếp, nhưng trước tập thể, Huệ không muốn mình
yếu thế vùng ngay dậy, tiện tay chụp thanh củi tạ phang
mạnh vào người Phấn. Hai đứa con gái tru tréo the thé,
chửi bới đào mả, thóa mạ dòng họ lẫn nhau. Huệ và
Phấn xô đẩy, đấm thụi, bứt tóc, cào cấu gầm rú trước mặt
đám đàn ông dửng dưng như đang xem diễn tuồng. Lúc
Lực can cả hai ra và lớn tiếng phê phán tác phong, đạo
đức của hai người, thì Phấn và Huệ đã tả tơi, bầm dập
mình mẩy. Huệ chui vào xó bếp lẩm bẩm chửi rủa. Phấn
ôm đầu tóc rối bù với một bên má bầm tím ra ngồi ở đầu
hầm, mài lưỡi lê xoành xoạch bằng hai bàn tay nổi gân
chai đá. Không khí ngột ngạt nghẹt thở. Tôi nằm im giả
vờ ngủ. Nhóm đàn ông quay mặt lại làm như không thấy
gì, nhưng trong ánh đèn dầu vàng lu, một vài khóe môi
nhếch lên kỳ lạ. Thái độ chần chờ trước khi can thiệp của
Lực cũng kỳ lạ. Ðám ruồi xanh bay vo ve trên nền đất.
Một con chuột xạ chạy vụt qua hầm. Tôi nhìn thấy ở trần
nhà, dáng nằm thụ động của chính mình. Tại sao tôi
không nhào vào can gián, giải hòa cho hai con bạn gái
cùng tổ? Tại sao mấy anh du kích cười mỉm thích thú?
Con chuột lại bò ra giữa hầm tha theo mẩu bánh, không
ai buồn đuổi. Tiếng chuốt lưỡi lê của Phấn tiếp tục vọng
lên, sắc nhọn, đều đều.

Từ ve dầu dừa cỏn con, sự giận hờn mau chóng biến


thành mối thù truyền kiếp. Phấn và Huệ nói xấu công
khai, trắng trợn, sau lưng nhau. Nhiều lần Phấn rình rập
lén trút muối vào nồi canh, đổ thêm nước vào chảo cơm
Huệ đang nấu. Bữa trưa, bát canh bí lưa thưa vài con tôm
khô, trở thành mặn chát. Chảo cơm gạo lứt nhão nhoẹt.
Huệ sượng sùng, lầm lì cúi gầm mặt ngồi ăn giữa những
anh du kích xếp bằng tròn cũng giận dữ, và từng đũa cơm
vữa vào miệng. Chỉ hai lần như thế đủ để Huệ bị đưa ra
kiểm điểm trước tập thể. Chỉ một miếng ăn không ngon
mà Huệ bị những đồng chí còn coi nhau khắng khít hơn
anh em hôm qua, đem ra phê phán gay gắt. Nhưng Huệ
đủ khôn lanh để tìm ra ngay thủ phạm. Cái hôm mà mọi
người đi khuân đạn bên hầm Mười Chín, chỉ còn hai đứa
ở lại trực phiên, tôi bắt gặp Huệ chui rúc trong góc hầm
đang mài miểng chai rắc vô bi đông nước uống của
Phấn. Ánh mắt Huệ đầy chết chóc và hiểm ác khi Huệ
ngẩng lên trông thấy tôi đang đứng nhìn nó. Huệ nhìn tôi
đằng đằng sát khí, như thể chỉ cần tôi lên tiếng, làm một
cử động nhỏ là nó sẽ giết chết tôi ngay. Tiếng động cà
rèn rẹt từ hòn đá mài dao, mải miết không ngừng phát lên
nơi bàn tay béo mập của Huệ. Tôi bị ánh mắt thôi miên
của đứa con gái bấu chết trân tại chỗ cho đến khi nó làm
xong, hoàn tất cái công việc ám hại có chủ đích.

- Quỷ tha ma bắt nó đi!

Huệ cà xong miểng chai, đến đứng trước mặt tôi chờ đợi
một phản ứng. Khuôn mặt Huệ vẫn đầy vẻ đanh đá và
hiểm ác khi thốt ra câu nguyền rủa độc địa.

- Mày là đồng chí của tao. Phấn, nó là một con quỷ!

Tôi đứng yên như một cái xác chết. Ðứng yên vì sợ hãi
cái hành động giết người của Huệ hay vì biểu đồng tình?
Tôi cũng không biết rõ. Tôi chỉ biết mình ghét Huệ nhưng
không đủ can đảm có một phản ứng nào cả, ngay cả một
lời nói. Huệ gật gù tỏ vẻ hài lòng, đưa một bàn tay – cái
bàn tay đã cầm cục đá mài khi nãy–  đưa lên vuốt má tôi
trìu mến.

- Tao có tranh thủ cất riêng tí đường, nấu bát chè mình
cùng ăn.

Nói rồi Huệ quầy quả treo bi đông nước lại chỗ cũ, bước
ra xó bếp nhen lửa, bắc nước nấu chè. Với Huệ mối thù
đã trả xong. Tôi nuốt chất lỏng ngọt với ý nghĩ mình vừa
bán nhân phẩm để đổi lấy bát chè.

Sau hôm đó, thời gian đối với tôi càng trở nên dài hơn.
Tất cả ngưng lại, nặng chì ở cây kim giờ đứng yên, cây
kim phút không di chuyển và kim giây đánh tích tách, tích
tách liên hồi chừng vang xoáy muốn đâm thủng bốn vách
hầm. Tim đèn dầu thuờng trực soi bất động thứ ánh sáng
vàng khè. Từng chập những tiếng thở ngắt quãng mệt
nhọc của Chiến bị bệnh sốt rét hành hạ. Lâu lâu, tiếng
chân dồn dập của bầy chuột xạ lại chạy rần rần vang
trong khúc đường hầm không người ở. Phấn bắt đầu kêu
đau bụng một buổi tối, rên rỉ kêu xót ruột và dạ dày. Tình
trạng sức khỏe của Phấn nhanh chóng suy sụp, thường
hay bị sốt liên miên và tiêu ra máu. Phấn không còn đi
kích với những người du kích nữa, mà nằm liệt trên chiếc
võng ny lông, đong đưa kẽo kẹt hai mươi bốn tiếng. Lúc
thức, lúc ngủ, Phấn rơi dần vào tình trạng hôn mê bất
thường. Ðiều lạ lùng là cả hầm thụ động chứng kiến,
không ai biết phải làm gì. Chỉ có Huệ vụt trở  nên thành
khẩn, hăng say chăm sóc cho người bệnh. Cặp mắt Huệ
long lanh sung sướng mỗi khi được đút cháo cho Phấn.
Thái độ đóng kịch sỗ sàng của Huệ chỉ đem đến cho tôi
những cơn ác mộng hãi hùng trong giấc ngủ. Tôi thường
mơ thấy một bắp chân đứt lìa, một cánh tay lênh láng
máu và tiếng thét của Phấn the thé vang vang trong giấc
mơ. A! Con Nhật, mày đồng lõa! Lần nào cũng vậy, tôi
giật bắn mình choàng tỉnh, người tướp ướt mồ hôi. Căn
hầm nóng ngộp hơi đến tắt thở. Chiếc võng nơi Phấn
nằm đu đưa như có bàn tay vô hình đẩy. Cây đèn dầu
vẫn cháy thoi thóp. Cặp mắt Huệ luôn ở đó, rình mò theo
dõi. Và nước ở đâu nhiễu giọt lỏng tỏng, vang vang trong
góc hầm. Tiếng động của giọt nước vỡ, được khuếch đại
nặng nề như tiếng chân thần chết. Ðêm hay ngày đều
kéo lê sự hoang vắng rùng rợn của chính nó.

Nhưng Phấn không chết như Huệ mong muốn. Chỉ nằm
đó, dật dờ oằn oại và lả đi trong bóng tối của căn hầm
ngày càng nặng nề âm khí. Xuất sáng không rõ từ lúc
nào, thường vọng lên tiếng chửi rủa giữa những người du
kích với nhau. Những câu tục tằn, thô bạo gán ghép cho
nhau chỉ vì một bi thuốc lào, một xị rượu đế. Giấc trưa và
chiều, những khuôn mặt gật gù hạ quyết tâm máy móc.
Lực tiếp tục lập đi lập lại phương án chống càn mà chúng
tôi đã thuộc nằm lòng. Phản kích, vây ép. Bám trụ, bám
chắc. Ðánh chậm, đánh tốt. Bắn trúng, bắn bồi. Kiên trì
diệt Mỹ, giải phóng miền Nam. Nhân dân nhớ ơn, miền
Bắc chi viện... Một buổi tối, tổ du kích trở về thiếu mất
Lập và Tính. Lực lạnh lùng phát âm hai chữ “hy sinh” rồi
thản nhiên ra lục cơm nguội. Tôi chợt nhớ có lần Phấn
kể, khi công tác những người bị thương đều không được
phép mang về hầm, phải linh động xử lý. Thứ nhất chúng
tôi không đủ thuốc men để săn sóc người bị thương. Thứ
nhì cảnh tượng hấp hối của một đồng chí có thể gây tác
hại, giao động tinh thần cho hầm. Phấn đã kể chính tay
Lực đã kê súng vào đầu Thọ, khi anh Thọ bị đạn vào đùi
không chạy được nữa. Nhớ đến câu chuyện của Phấn, tự
nhiên tôi nghĩ đến cảnh Lực linh động giải quyết Lập và
Tính. Tôi rùng mình trong xó hầm đen tối. Bất giác tôi
quay đầu nhìn về chiếc võng của Phấn, vẫn đu đưa im
lìm. Bao giờ thì Lực mới quyết định giải quyết trường hợp
của Phấn? Ðứa con gái rõ ràng không còn khả năng
chống Mỹ. Khoảng thời gian này, đột nhiên giặc lơi ném
bom. Ðã lâu chúng tôi không còn sống cái cảm giác sợ
hãi chờ thần chết đến bắt đi trong cơn địa chấn của lòng
đất. Làm như con người ta chỉ yêu thương nhau khi kề
cận nỗi chết. Từ lúc máy bay địch ít bay qua vùng, tự
dưng ở đâu bao tị hiềm nhỏ nhen vụt bật ra trong cảnh
sống của hầm Mười Một. Miếng ăn, miếng uống, thư nhà,
dè bĩu trong công tác trở thành nguyên do của sự xâu xé.
Nhưng trầm trọng hơn là ánh mắt nhìn chằm chằm của
đám du kích lên thân thể ba đứa con gái, mỗi khi tụi tôi
giăng bạt tắm mưa. Sau lớp vải, bọn con gái chịu đựng
âm thầm hàng chục đôi mắt đang nhìn chòng chọc về
phía mình.

Chuyện xãy đến cho Nhu như một tiến trình tất yếu. Lần
đó Nhu được chỉ định đi giao liên với Trọng. Lúc trở  về
người Nhu như mất hồn, đôi mắt khiếp đảm và vẻ mặt
đau đớn. Chuyện gì đã xãy ra cho Nhu trong khúc đường
hầm đen đặc ấy? Xác một “con chuột” –như bọn Mỹ vẫn
gọi những du kích đường hầm– chết lâu ngày sình thối bất
ngờ ngã đè lên người Nhu? Hay Nhu bị bò cạp cắn? Tôi
đỡ lấy Nhu, con bạn gái mà tôi thương yêu nhất, chú thỏ
đất của tôi ngã rũ rượi ra chiếu, mắt nhìn nghiêng và đôi
môi mím chặt. Nhu cương quyết dấu nhẹm câu chuyện
kinh khủng đã xảy đến cho cô, trong tuyến đường ngầm
với Trọng. Trọng cũng không giải thích điều gì, tảng lờ coi
như không có chuyện. Sau hôm ấy ở Nhu không còn sự
tinh anh, tươi tắn, trẻ trung yêu đời của tuổi mười tám.
Nhu lầm lì không nói chuyện với ai, câm như hến kể cả
với tôi. Giống như Nhu không còn tha thiết với cuộc sống
nữa, vì đã đánh mất cái phần quý giá nhất của một con
người. Liên tiếp nhiều đêm sau đó, trong giấc ngủ tôi
nghe tiếng thở của Nhu trăn trở, gần như phiền não. Làm
như trong tiếng thở có sự ẩn ức, nhục nhã không nói nên
lời. Rồi một đêm bất ngờ tôi thức giấc. Ở chiếc chiếu kế
bên, nơi Nhu nằm, tôi bắt gặp một bóng đen trườn tới, đè
lên mình Nhu. Ðứa con gái kháng cự yếu ớt, hai cánh tay
của bóng đen săn chắc chống xuống mặt chiếu, một thân
hình loang loáng mồ hôi lên xuống nhịp nhàng trên người
Nhu. Tiếng thở của bóng đen dồn dập, hào hển. Tiếng
thở của Nhu rên rỉ, đau đớn. Căn hầm tắt đèn tối om.
Tiếng muỗi vo ve và tiếng cử động nhẹ của hai thân hình
chập chờn trên mặt chiếu. Tôi không nhận rõ mặt người
du kích, nhưng đoán là Trọng bởi cái lưng chắc khỏe, bả
vai cuồn cuộn thịt. Tôi nhìn sững họ ở chỗ nằm. Lần đầu
tiên tôi chứng kiến một cảnh tượng như thế. Ðộ năm mười
phút thì Trọng rời ra khỏi Nhu, bò về chỗ ngủ. Cái hình
ảnh gian díu vụng trộm đó diễn ra hàng đêm, cho tới một
hôm tôi chợt khám phá ra không phải chỉ mình Trọng ăn
nằm với Nhu, mà là cả nhóm du kích. Vết thẹo giặc chém
sâu hoắm trên lưng Lực, nổi ửng một bên đen trong đêm.
Tấm lưng trần xương xẩu của Lực cũng lấm tấm mồ hôi
chảy nhiễu xuống da thịt trắng tươi của Nhu, luôn luôn
nằm thụ động chịu đựng. Ðôi chân khẳng khiu của
Vượng, đôi chân ban ngày có nhiều mụt ghẻû lốm đốm,
ban đêm duỗi thẳng song song, làm đà chống cho thân
hình Vượng vồ vập lấy Nhu. Ngực tôi bị nghẹn, trái tim
đập mạnh muốn vỡ tung lồng ngực. Tôi cùng chịu đựng
với Nhu hoạt cảnh thô bỉ của mỗi đêm. Thời gian qua
Nhu phờ phạc đi trông thấy. Mắt thâm quầng và mặt hốc
hác, da xanh mướt. Trong một buổi kiểm thảo, Lực phê
bình Nhu thiếu tích cực trong công tác. Nhu ngồi bó gối
cúi mặt. Huệ lim dim thích thú và nép sát vào vách trốn
tránh. Bầy ruồi đậu trên những bắp chân trần của đám du
kích. Những bắp đùi hằng đêm chống trên mặt chiếu của
Nhu. Tôi bỗng thấy mình may mắn vì không có nhan sắc.
Tôi cũng thấy mình ích kỷ vì không dám lên tiếng bào
chữa cho Nhu. Tạm thời họ để yên tôi và Huệ, vì chúng
tôi xấu, vì Nhu trẻ đẹp hơn, tất nhiên. Ðêm đó Nhu thở
khá lớn, chừng như để chứng tỏ mình tích cực hơn trong
công tác. Sáng hôm sau, Lực tỏ ra thỏa mãn, phấn khởi
thôi hằn học và lần đầu tiên quyết định cho Phấn biên
chế sang hầm bệnh xá, nghe đâu Phấn phải mổ một
khúc ruột nhưng sống sót.

Từ lúc Phấn rời hầm, Nhu ít nói như người câm. Tính và
Lập hy sinh, hầm Mười Một ảm đạm hơn một nhà mồ.
Không ai còn hàn huyên với ai. Chỉ có những câu trao đổi
ngắn vì nhiệm vụ, thật vô hồn. Dần dà mọi người biến
thành những xác chết biết bò, trườn, chui, len lỏi trong
lòng đất. Những cái xác chỉ thật sự sống vào bữa ăn,
tranh nhau lùa cơm vào miệng, nuốt chửng khúc cá khô
nhanh hơn một con thú. Bình thường trong ngày thì mọi
người giam mình vào lớp áo quan riêng, khép kín, nhìn
lên trần hầm bằng đôi con ngươi thiếu sự sống. Tôi trực
máy nhiều hơn. Tôi xa lánh tập thể xung quanh, muốn
nghe thấy một giọng nói khác, của một con người sống
đúng nghĩa trên đường dây. Nhưng ở các hầm khác,
những mẩu đối thoại rập khuôn tương tự cũng chỉ là
những mẩu chết. Chỉ trên đường dây điện đàm của Ngụy
là có sinh khí. Tôi thường say mê cắm những cái phích,
nghe ngóng rình mò các đường dây liên lạc của Ngụy.
Tôi thường hay bắt được cùng một tiếng nói của một
người lính. Tiếng nói giọng thành phố còn trẻ, đùa giỡn
trên máy. Tôi thích thú theo dõi giọng cười của người lính
vang vang sảng khoái, anh ta kể những câu chuyện mà
tôi chưa bao giờ được nghe. Người lính có vẻ nghệ sĩ, lâu
lâu hát tặng bạn bè trong máy. Bản nhạc lạ, có âm hưởng
lúc vui tươi, khi buồn man mác xa vắng, nhưng tuyệt
nhiên không có sắt thép và máu trong lời nhạc. Giọng
người lính ấm, ngọt ngào bên tai. Ðã từ lâu tôi không còn
trình lên Lực những mẩu tin loại này, vì Lực đánh giá tầm
phào, không có giá trị quân báo cao. Nhưng rõ ràng mỗi
ngày tôi một say mê, trở nên thích thú gần như sung
sướng được nghe trộm những câu chuyện trao đổi giữa
họ. Một câu chuyện vui, có khi là một chuyện tình được
kể với thương yêu bùi ngùi và có khi chỉ là những tâm sự
bâng khuâng thao thức của người lính. Nhiều lúc tôi có
cảm tưởng người lính đang ngồi ở ngay trên nóc hầm, mở
máy truyền tin nói chuyện với bạn bè. Giọng anh ta rõ
mồn một. Tôi có ý nghĩ kỳ cục là chỉ cần trổ nóc hầm là
tôi có thể trông thấy mặt mũi người lính. Hôm nào trời
mưa bão, đường dây bị sấm ù nghe không rõ, hay những
hôm người lính lười biếng không lên máy, tôi cảm thấy
thật thiếu thốn, bứt rứt chờ đợi trong lòng. Tôi quen giọng
nói anh ta đến nỗi, chỉ cần nghe một câu vô thưởng vô
phạt là tôi đoán ra được người nói chuyện, đề tài sắp bàn
đến. Thường thì người lính kể về thành phố anh ta sống,
lớn lên trước khi gia nhập quân đội đánh thuê. Lâu lâu
anh ta nhắc về một kỷ niệm cũ, ở góc quán cà phê thơ
mộng, hay sau buổi xem hát dưới phố. Ðiều kỳ lạ là trong
cái thành phố đó không hề có cảnh đàn áp, áp bức của
chính quyền tay sai Mỹ. Cũng không bao giờ tôi nghe
người lính nhắc về một cảnh bốc lột nhân dân lao động
của thành phần thống trị tư bản. Người lính chỉ nhắc
những vòng hoa giấy sặc sỡ màu sắc, một cổng trường
trung học tưng bừng phố xá hay về một người con gái
nào đó mà tôi đoán là người yêu. Lần lần tôi khám phá ra
họ không phải là những tên đồ tể điên cuồng bắn giết
như chúng tôi tưởng. Trong những mẩu chuyện của họ,
có cái gì đó thật thơ mộng, đôi lúc lãng mạn mà không
thể tìm thấy trong câu chuyện của những người du kích.
Họ cũng biết chua xót đau đớn cho đất đai bị tàn phá.
Tình cảm tôi dành cho người lính nhen nhúm, nẩy sinh
đến lúc nào không hay. Có khi tôi có cảm tưởng người
lính biết tôi đang rình rập nghe lén anh ta và anh ta trả lời
cho tôi nghe.

-      Ông có hiểu vì sao chiến tranh không?

-      Không, nhưng tôi mong chiến tranh chấm dứt, phe


mình thắng rồi giải ngũ.

-      Phe nào thắng cũng được, quan trọng là đừng hận thù
nữa…

-      Ừ, thôi hận thù,  tôi chỉ muốn về dạy học.


-      Ông nhớ cái đêm thằng Nghiêm chết không? Ðưa ma
rồi mình ra ngồi ở cái quán có không khí liêu trai, ông bảo
tôi hát một bản nhạc vì ông đang nhớ ai đó…

- Ừ, đang nhớ héo hon đây. Ông hát tôi nghe nữa đi.

- Bản gì?

- Gì cũng được.

- Ông nghe tôi hát nhạc Không Tên của Vũ Thành An


chưa? Bài có câu đời con gái cũng cần dĩ vãng, mà em
tôi chỉ còn tương lai đó?

- Chưa, hát đi.

Người lính của tôi cất tiếng hát. Giọng ấm rung thật
truyền cảm. Khi ngân giọng hát khao khao, lúc xuống
thấp buồn da diết. Tôi uống từng lời hát, nuốt từng nốt
nhạc tây ban cầm. Chưa có ai hát cho riêng mình tôi
nghe một bản nhạc trữ tình hay như thế. Thường thường
các anh du kích hát tặng chúng tôi trước tập thể, nhưng
đều là những bài ca tranh đấu sôi sục, không hề có âm
hưởng tha thiết và tình cảm như người lính đang hát.
Giọng hát trầm ấm theo đường dây điện đài vào thẳng
tim tôi và ngừng ở đó. Trong máy có khoảng im lặng một
lúc, rồi người lính chuyện trò trở lại.

- Ðánh nhau mãi, sao hai bên không thương thuyết hoà
bình? 

- Biết làm sao, mỗi miền một thân phận.


- Này, ông đã trông thấy các cô du kích giao liên bao giờ
chưa?

- Gì?

- Giao liên nữ, nghe nói không khác nữ sinh ngoài phố,
tôi ước ao chuyện trò với họ một lần, để hiểu…

-       ...

Tiếng rè rè trên đường dây và mẩu nói chuyện ngưng


ngang ở đó. Trở về manh chiếu của mình, tôi nằm xuống
ngó lên trần và thấy ở đó một khuôn mặt. Tôi cố mường
tượng ra người lính Ngụy, không phải với hình ảnh ác ôn
mà chúng tôi được học tập, nhưng bằng giọng hát khi nãy
còn đeo đuổi bên tai. Ðời con gái cũng cần dĩ vãng, mà
em tôi chỉ còn tương lai... Anh ta có biết tôi chưa hề có dĩ
vãng? Còn tương lai? Tôi đâu nhận thấy gì ngoài cái trần
hầm đen đủi trên đầu mình. Tôi đã sống dưới lòng đất hai
năm rồi. Hai năm của tuổi thanh xuân, để đến một lúc
nào đó phải làm công tác như Nhu. Người lính có thực sự
muốn gặp chúng tôi? Tôi sẽ bắn anh ấy? Và anh ta bắn
tôi, ai là kẻ bắn trước?

ý nghĩ hỗn độn trong đầu tôi. Tim đèn dầu vàng lu. Căn
hầm tối thê lương. Ðám du kích sống dật dờ. Một đứa con
gái chỉ chực sinh sự, một đứa con gái hiến thân cho Cách
Mạng ở nghĩa đen và một đứa con gái chao đảo, tương tư
một giọng hát. Không còn những trận bom ác liệt. Không
còn những nóng nảy, bồn chồn chờ đợi ngày tổng công
kích. Không còn chi hết. Chỉ còn tiếng chân chuột chạy
và tiếng động của loài thú sống dưới mặt đất.

12-1987

© Copyright Trần Vũ
CÁNH ÐỒNG MÙA GẶT KHÔ
cho những bữa rượu sân si

Cách đây không lâu, một lần tôi nhờ Tam đến nhà làm hộ bữa tiệc. Tam
đi vượt biên từ miền Bắc, ngoài giọng nói phát âm nặng hơi của vùng
núi đá vôi Ninh Bình, anh còn đem sang đất Pháp cả thuật nấu ăn kỳ
diệu. Tài bếp núc của Tam không chỉ ngon ở miếng dồi tiết bầm sả, lúc
đem nướng tỏa bốc thơm ngào ngạt, hay trong mơn mởn ở bát canh cải
có ngâm gừng, nổi xanh non nõn từng cọng cải tươi che giấu miếng giò
gà trắng mịn. Cái khéo của Tam là ở chỗ làm cho thức ăn trở nên thật
bắt mắt, quyến rũ, lôi cuốn đến điên người. Quả tình có đứng ở bên
cạnh, trông thấy anh làm bếp thì mới triệt thấu rõ hết những tài hoa điệu
nghệ trổ vươn đâm ra từ mười ngón tay phù thủy của Tam không ngớt
vung vẩy, múa may thoăn thoắt, lúc anh nhồi vào thân mực ống nào thịt
bầm, nấm hương, hành tỏi xắt vụn trộn với miến. Xong món mực ống là
Tam bắt đầu thái thịt. Cả một dẻo thịt bò cứ thế lụn dần rồi biến mất.
Con dao to bản tôi mua ở chợ Sắt được dịp hoa vun vút. Trông xa Tam
như người thuật sĩ đương múa kiếm. Chẳng vậy mà từ khi biết Tam, tôi
vẫn thường có thói quen thích lượn lờ bên cạnh mỗi khi anh làm bếp, bởi
tôi vốn có nhiều thiện cảm với món mực ống nhồi làm theo kiểu Hải
Phòng, lẫn cảm mến đức tánh rất mực hiền hòa của Tam. Bữa đó, tôi
nhớ có hỏi Tam: Vì sao anh hay làm các món ăn miền bể, mà ít khi chịu
cho chúng tôi thưởng thức nghệ thuật bếp của quê hương anh ? Ninh
Bình chắc hẳn có nhiều món ngon vật lạ như trên khắp các miền đất
nước ? Hôm ấy tôi chỉ hỏi đùa, ai ngờ câu hỏi của tôi lại làm Tam mất
hẳn sinh khí của một người đầu bếp đương hăng. Anh ngừng hẳn tay,
thõng cho lưỡi dao hươi xuống đất, dáng vẻ của Tam giống dáng dấp
của một người viết văn bỗng nhiên khựng lại vì bị ai hỏi xoáy vào tận
cùng chốn tư duy giấu kín. Bản dao chênh chếch, lóe chút sắc kim lạnh
phản chiếu lên mặt, xuất nắng hiu hiu của Paris đầu hè càng làm cho
vẻ mặt Tam thêm tiềm ẩn. Tôi nhớ lúc ấy, ánh kim loại bật lên làm mặt
anh như bị chẻ đôi. Mà là thứ vệt cắt từ trong ra ngoài. Cặp mắt Tam
hấp háy, anh ngập ngừng chùi tay vào quần, rồi mới rút vội điếu thuốc
tôi mời. Tam rít vài ngụm khói, trước khi phả ra ngoài cửa sổ. Lẫn trong
màn khói làm như cũng có chất suy tư nặng sền sệt, dầy dặc len vào
những bụi cây. Lần nào đến nhà tôi, hình như Tam cũng chỉ làm có
ngần ấy cử chỉ: thái thịt, xắt hành, bầm sả, nhồi mực, đánh vẩy cá, pha
tiết, rồi thở cho khói bay qua ô vuông cửa. Ðến lúc điếu thuốc cháy gần
hết, anh mới quay lại, giọng buồn buồn: Ninh Bình quê anh nghèo lắm,
chỉ có vôi và núi đá. Núi, Vôi, Ðất, Ðá là quê hương, nhưng những thứ
đó không ăn được. Muốn ăn ngon thì phải đi xa, thật xa, càng xa bao
nhiêu thì vật lạ của ngon càng nhiều chừng ấy. Ở đời thường có nhiều
chuyện ngược ngạo, chính những kẻ nghèo khó, không may mắn, cơ
cực ở đời lại là những người dám bán mạng vì miếng ăn, là những kẻ
khó ăn, sành ăn, và thích ăn. Tam nói là anh ở trong số những con
người ấy. Tam bỏ Ninh Bình ra Hải Phòng vì những lưới cá tươi, cách
hấp cá, làm bún, rang cua, nhồi mực của những phu phen ven bến
cảng. Hải Phòng thì có gì mà đẹp. Thô lậu bỏ cha! Tam chắc lưỡi mỉa.
Chỉ được nước bạo phổi, bạo ăn, bạo đàn đúm, chẳng thế mà phát sinh
ra điệu hát Ðúm Hải Phòng, tương tợ như hát quan họ Bắc Ninh, nhưng
giản dị và bình dân, ít rườm rà, “nhộn” hơn nhiều. Nhưng cậu đừng
tưởng bở là bọn Hải Phòng hiếu khách! Tam lên giọng bất chợt. Anh lấy
cán dao gõ gõ đập đập vào mặt bàn như muốn nhấn mạnh, hù họa kẻ
chưa bao giờ trông thấy miền Bắc là tôi. Hải Phòng là đất thảo khấu!
Dân anh chị có, bọn buôn chui chém mướn có, đảng viên thoái hóa có,
cán bộ nòng cốt đi đêm có, tàn dư phong kiến địa chủ tái sinh cũng có,
tất cả mọi người hội tụ về chỗ điểm nóng ấy để giành nhau chút khoắng
bể nhổ neo cho tàu rời nước. Kỳ quặc là ở chỗ đó. Ở miền Bắc sau này
ăn là lẽ sống, được ăn nhiều, uống nhiều... thoải mái, tức là có thực thi
dân chủ! Dĩ nhiên cái ngon ở Hải Phòng không thể nào sánh bằng
miếng ngon Hà Nội. Bánh đúc, bánh tôm, cốm vòng, tiết canh vịt... từ
thời Lý Công Uẩn cho tới đời Lê mạt ở Hà Nội thì vẫn tuyệt sắc. Nhưng ở
Hà Nội, ăn giữa khung cảnh sừng sững của lịch sử, nhấm nháp bát bún
chả mà cứ khổ não vì chung quanh chứng tích công đức của tiền nhân
nhiều quá, công khó oai hùng ngày xưa nhiều quá, rực rỡ là thế mà thời
đại mình thì cứ tàn lụi, tâm thần ray rứt thì còn bụng dạ đâu mà thưởng
thức. Bốn bề tiền nhân, văn hóa bao đời, từ cái cổng Văn Miếu, đến
ngôi đền Quan Thánh, tượng Trấn Võ... sao mà lắm! Của ngon có dâng
đến miệng cũng chả nuốt được. Nghẹn! Phải nói là mình bị nghẹn!

Tam uống bia, lý giải cái phần tâm linh nhầu nát trong anh những ngày
còn ở quê nhà. Cách kể chuyện, lối so đo của Tam có vẻ hơi cường
điệu, giống lối kể chuyện của những người Bắc vào Nam sau năm 75,
khiến tôi đâm ngờ ngợ, nghĩ là anh nói quá. Ăn ở đâu thì ăn. Cớ gì phải
sợ hãi lịch sử ? Ngày trước tôi vẫn thường hay ăn dồi chó bên hông
Lăng Ông Bà Chiểu, mà có mặc cảm bao giờ đâu? Chừng như đoán ra
được ý nghĩ trong đầu tôi, Tam chắc lưỡi: Cậu không tin thì cứ về du lịch
nước mình một chuyến. Ra Hà Nội vào ăn chả cá ở quán Lã Vọng thì sẽ
thấy, chan mắm tôm lên bún mà sao mùi mắm với mùi rau thì là cứ xông
lên đến là bẽ bàng. Mỡ xối lên cá kêu xèo xèo cũng không đánh thức
được những rạo rực trong bụng mình. Chỉ vì không khí, khung cảnh, con
người, cuộc sống ở Hà Nội nó nhếch nhác thế nào, không giống ở Hải
Phòng.

- Nhưng ở Hải Phòng thì khác ra sao ?

Tôi nóng nảy, bộp chộp hỏi.

- Khác chứ!

Tam chìa ly cho tôi rót thêm bia. Những sóng bia vàng óng ánh, tưởng là
sóng biển xanh ngoài vịnh Bắc Việt còn đọng trong mắt Tam lăn tăn.
Khác lắm. Bát bún tàu xào cua bể ăn ở Hải Phòng không chỉ có nấm
mèo, thịt cua, hành ngò, mà còn trộn lẫn mây trắng, ước mơ của thuyền
bè đến từ biển lớn. Sau này Hải Phòng là trung tâm xuất khẩu người đi
Hồng Kông. Ăn ở Hải Phòng, là ăn với tâm trạng nắm bắt được tương lai
trước mắt. Bát miến cuối, ngày mai đời nở hoa! Mình sống với ý nghĩ
không còn vướng bận, trách nhiệm gì với 4000 năm lịch sử đang vây kín
chung quanh mình nữa. Thoải mái ăn, tự do ăn, hạnh phúc dân chủ
mớm được tới nơi... ! Tam cười ha hả, giọng Bắc đậm đà hào sảng. Cười
đã đời rồi anh vụt im lặng, trở lại làm bếp, như thể anh chẳng còn liên
quan gì đến câu chuyện nữa. Tam nhẫn nại thái da heo ngâm vào nước
nóng, rồi giã gừng lấy tinh chất, chế vào thau nước lạnh, cho thêm rượu
trắng, thả bóng bóp nhẹ... Không trông thấy mặt, song tôi biết anh xúc
động lắm, bởi cử chỉ Tam không còn nhịp nhàng, đứt quãng, như anh
phải thừ người suy nghĩ để nhớ ra mình đang làm gì. Chén rượu trắng
pha nước lã trong tay Tam cứ chao nghiêng ngả như chỉ chực đổ. Cách
“hãm”, lối kềm chế những tình cảm vui buồn, thất vọng, khổ não, bất
ngờ dậy dâng trong lòng Tam khiến tôi cũng buồn lây. Những thống
khoái, há hê, tin tưởng vào cuộc đời ở những con người như Tam, sang
đến trại Cấm Hồng Kông bỗng nhiên bị đập vỡ, đập vụn, tan thành từng
mảnh. Có là con vật cũng phải chua xót.

Bữa tiệc chiều đó, tôi ăn không ngon, nuốt không vui. Miếng rượu cay
cất mười hai năm trong chai đục, nút có đóng sáp, mua với giá một ngày
lương mà rót vô miệng vẫn thấy đắng.

Hình như tôi có duyên với Tam. Tuổi rượu tôi thua tuổi rượu anh, thế giới
của tôi khác xa thế giới của anh, tôi sinh trưởng trong một gia đình tiểu
tư sản thành thị miền Nam, không biết thế nào là đói, khổ, là oằn oại
nhão người. Song giữa tôi và Tam hình như còn có một cái gì khác, phải
lâu lắm sau này tôi mới nhận ra trong anh là cái phần thằng người miền
Bắc trong tôi không được sống. Nó ở đó. Chờ đợi. Câm nín và chờ đợi.
Nhưng chờ đợi điều gì ? Bao nhiêu đêm tôi thức trắng tự hỏi ? Tôi cần gì
? Kiếm gì ? Và tìm gì ở cái đất nước này ? Ðất nước ba trăm sáu mươi
lăm ngày thuế má. Ðất nước đi rửa chén cũng phải có bằng. Ðất nước
ăn ngủ mối tình đầu không thấy người yêu nhỏ giọt nước mắt khóc cho
phần trinh tiết đánh mất.

Một lần khác, tôi rủ Tam đi dạo phố. Phố xá ở đây thì chỉ có hàng quán.
Sang ra khu Khải Hoàn Môn, nghèo lầm lũi trong những con đường hầm
ngun ngút mắt. Không có thành phố nào tồi tệ, sống chui rúc dưới đất
bằng Paris. Mồ hôi, thuốc lá, son phấn, bọ rận chen chúc nhau trong
những toa tàu cáu bẩn. Bên trên sự cáu bẩn đó là quán Fouquet. Trời
mùa hè, nắng phơi bên trên những tàng dù lấp phấp. Tam gọi một ly đế
William Bon Père. Tôi kêu hai chope bia vàng ngậy. Lúc tôi uống hết
chope thứ nhất, một tên Ả Rập đi ngang, giọng hát nghìn lẻ một đêm
vang từ máy cassette trên vai hắn đong đưa rên rỉ thiểu não chảy vào
giữa dòng người cuồn cuộn khắp mặt lộ. Tiếng hát Ả Rập nghe trước
quán Fouquet, đối diện tiệm nhảy Lido tương phản đến lạ lùng. Tôi có
cảm tưởng phải nghe cải lương trong Caféteria Rex. Song Tam lại tỏ vẻ
thích thú. Anh bảo tôi thằng này khá đấy. Ngày xưa có lần đi Tunisie,
dẫm chân vào khu sa mạc cát vàng, tôi cũng có lần bắt gặp thứ âm
thanh nỉ non, rung nhiều ở đầu lưỡi, và “láy” bằng cổ họng vang vang
trên mặt đất. Quả tình, chỉ có trên sa mạc, nhạc Ả Rập mới cất hết sức
chuyên chở kỳ bí của nó. Âm thanh cứ kéo dài ra mãi. Nhạc Ả Rập lạ ở
giọng ngân, một thứ ngân gần như khốn khổ đứt hơi, mà cứ phải ngân
hoài hủy. Chuyến autocar bỏ chúng tôi xuống bách bộ, chỉ có một máy
transitor nhỏ của người tài xế mà tiếng ngân như đi suốt sa mạc. Ði hết
cả một nền trời đỏ cát lừng lững nắng. Có tiếng nhạc mắc võng trên đầu
những trụ điện tồi tàn của Tunis, luồn lách trong chợ Souk, băng ngang
cổng đền cấm đàn bà, và bám trên những mảng thịt cừu đỏ tươi treo
bằng móc đen đặc ruồi bu, thì mới thấy hết cái hay của nhạc. Nhưng ở
đây, trong khu Khải Hoàn Môn sang trọng, âm thanh trở nên lạc lõng kỳ
dị, gần như một thứ quái thai. Vậy mà Tam lại bảo khá! Tôi nhìn Tam
không mấy hiểu. Tam chiêu một hơi đế, hỏi ngược:

- Cậu có dám vác máy ra đây phát nhạc hồ quảng, cải lương không ?

- Anh khùng à! Tây nó cười cho.

- Thế thì cậu thua thằng Ả Rập rồi. Niềm tự hào dân tộc của hắn mạnh
hơn cậu.

- Tự hào không đúng chỗ!

- Ừ, đúng. Tự hào không đúng chỗ. Nhưng vẫn cứ là tự hào.

Tam uống cạn ly đế. Không nói gì nữa. Như đã rời xa, trở về đất nước.
Cái con người ham sống, thích ăn, thích uống ở anh như biến đâu mất.
Cả cái kẻ làm bếp tài hoa sống động cũng không còn ngồi đó nữa. Tam
có lẽ đã trở về với những khoảng sân thượng chìm trong màu lam đục
của buổi chiều tắt nắng Hà Nội. Tam có đôi mắt mệt mỏi, khuôn mặt
mang nhiều vết tích cuộc đời, ở nhân dáng anh hình như chỉ đội chiếc
mũ phở là hợp nhất. Mà Tam có lẽ cũng chỉ hợp với vị trí anh hàng phở,
tự hào về nồi nước gia truyền, về thế đứng chỗ đậu của chiếc xe kéo
thơm lừng nước dùng. Nếu lùi được nửa thế kỷ, Tam sẽ là anh hàng phở
Sức. Chậm nửa thế kỷ, anh ngồi đây, dưới chân Khải Hoàn Môn vĩ đại,
nhưng vô dụng. Ngồi quán chán, tôi với Tam về nhà. Nắng sắp tắt, còn
phải lo bữa chiều.

Tam mở chạn bếp, lấy vỉ sắt, bật ga cho nóng rồi mới thảy một chân giò
heo lên trên. Ðùi heo săn ngay lại, bắt đầu đen cháy. Bao giờ mùi thịt
nướng cũng khơi dậy hình ảnh trong trí óc tôi. Miếng dồi chó tím lợt, hay
miếng chả nướng bằng than tàu đỏ rực chảy nhễu mỡ ròng ròng cứ ám
ảnh đeo đuổi tôi hoài. Tôi mở tủ tìm rượu. Bản nhạc Ả Rập lúc nãy đã
tan mất, chỉ còn mùi vị quê hương thơm lừng ngầy ngậy giữa gian bếp.
Tam vừa giã giềng, trộn với yaourt thay mẻ, vừa kể chuyện những năm
sống dưới thảm bom B-52, chỉ có thịt cầy là bán chạy nhất. Hình như ai
cũng sợ chết trước khi kịp thưởng thức. Anh đương dở tay, nên nhờ tôi
trở thịt. Cả một mảng đùi heo đen rắn bốc ngào ngạt. Tam nhấp một
ngụm Rhum, khà trong tiếng reo:

- Úi chà ! Cái thằng Rhum này tuyệt! Hắn là cái thằng hay gắt gỏng, mà
chịu nằm yên trôi lừ lừ qua cổ họng mình thì khá! Năm nào ?

- Một chín bảy tám.

Tam ngửng vội nhìn tôi, vẻ mặt anh có nét sửng sờ. Tam nhấp thêm
ngụm nữa rồi sang sảng kể: Năm bảy tám cậu ở đâu? Ngoài Bắc chuẩn
bị chiến tranh chống Bá Quyền, mình hùng hục đào hầm ở biên giới, ai
ngờ bên này có thằng nấu ruợu vô chai đợi mình sẵn... kỳ diệu! Quả thật
đúng là kỳ diệu. Năm bảy tám gia đình tôi bị đánh tư sản, kiểm kê từ cây
đinh đến con ốc. Thuế siêu ngạch, nghĩa vụ quân sự rình rập. Mối tình
đầu tan vỡ. Bằng phổ thông cấp ba hụt thi. Trốn chui trốn nhủi sau
những cồn cát Phan Thiết đợi đi chui... Chai Rhum vơi bén đi quá nửa.
Chết thì thôi, nhưng sống phải uống cho bằng hết cái thứ nước kỳ diệu
này. Có chất đốt, tôi với Tam thi nhau nổ chuyện. Tam kể ở Hà Nội có
thứ rượu sen cất ven hồ Tây, trời chiều mưa lạnh uống vào nóng ran
mình mẩy, mà hương sen còn đọng ở đầu lưỡi. Tôi không chịu kém, kể ở
Củ Chi có thứ rượu hạ thổ chỉ mới ngửi qua đã nóng bừng mặt. Tam
cười ha hả, bảo cậu rời Việt Nam còn thơm sữa biết thế quái nào là hạ
thổ! Sợ nhà thổ cậu cũng chưa biết ?

- Ừ thì biết qua sách vỡ.

Tôi cứng lưỡi, chống chế. Tam càng cười lớn. Giọng cười của anh tôi để
ý bình sinh ròn rã, chỉ có những lúc tuyệt vọng thì nghẽn như cái kèn
đồng bị đổ nước.

- Này, bắn đi.

Cái kèn đồng chiều nay trơn tru, với tay lấy gói thuốc lào ba số 1, nhãn
đề bán ở cửa hiệu Lý Thái Tổ, vo, se nhồi rồi đưa tôi đốt. Tôi bắt chước
Tam tập hút từ hơn một năm nay. Từ khi “chạm” thuốc ta, tôi đâm mê
mẩn, hút thuốc điếu không còn thấy ngon. Ðóm thuốc xòe lên, ngọn lửa
vừa tắt thì gót chân tôi cũng tê rần. Trong cái bải hoải rã rời của tứ chi,
mạch máu nở ra, tôi loáng thoáng nghe tiếng ríu rít như chim hót từ
chiếc điếu cày trên tay Tam. Tiếng kêu của điếu cày nghe thật hay, khi
buồn nghe như giọng thút thít của người con gái nức nở đêm tân hôn
tấm tức khóc cho mối tình đầu, lúc vui vẻ nghe như con gà trống gân cổ
gáy, khi giận thì chẳng khác mấy mụ nạ dòng đang rít qua kẽ răng.
Thuốc lào không chỉ là thuốc, mà là cả một nền văn minh! Tam mạnh
mẽ phát biểu trong lúc tôi lờ đờ. Bao nhiêu sáng tạo, thử thách, kinh qua
để rồi mới chiêm nghiệm phải châm bằng đóm mới ngon. Ðốt thuóc lào
bằng quẹt ga thì hỏng. Bằng diêm quẹt cũng hỏng nốt. Châm bằng
Zippo thì chẳng khác mọi rợ mán mường. Ðem thuốc ngoại, thuốc tẩu
mà nhồi thì hút không thấy hơi, bã bèn bẹt chả ra đâu vào đâu. Bởi
thuốc lào sấy nắng, bao nhiêu gio’ sương nắng nôi của đất nước làm
thành.

- Cậu ếm cả nắng gió quê nhà vào buồng phổi thì thấy, không có cái
say nào bằng say quê hương!

Tam thở khói. Tôi gật đầu, còn lơ đãng trên những cánh đồng ruộng lúa
ở nơi đâu, chưa đứng dậy được. Tam đã giở đùi heo đem xuống cạo,
chặt thái hình quân cờ, rồi bóp riềng mẻ mắm tôm. Nồi thịt tím ngắt hoa
cà. Cậu đem hầm đi, mình chuẩn bị thức ăn chơi. Tam rửa tay, lại sục
vào chạn bát. Tôi lễ mễ bưng nồi thịt đặt lên bếp, lửa ga phừng phừng
đến nóng mặt. Mười đầu ngón chân tôi hãy còn tê. Chỉ có một chút khói
quê hương sao mà say.

Cái bàn sắt tôi với Tam khệ nệ khiêng ra sân sau. Ðêm hè gió mát rượi
làm khô những giọt mồ hôi chỉ mới rịn trên da vụt tan ngay. Tôi đi đốt
đèn dầu, không phải cúp điện, nhưng tôi với Tam vẫn ưa thứ ánh sáng
tù mù vàng võ bâng khuâng, cháy èo uột của những đêm mưa, hay
những đêm ngoại ô bắc ghế đẩu ngồi tán chuyện. Ánh đèn Hoa Kỳ hắt
loang xuống thềm. Tôi khui rượu. Tam bày hai đĩa tiết mới đánh. Không
có tiết vịt, đành đánh tiết heo. Tiết heo bán đong chai, một lít pha được
không biết bao nhiêu đĩa. Tôi vắt chanh, ngắt rau thơm, cắn một miếng
mề, nhai một quả ớt, rồi nhấm thêm một mẩu gan, bao nhiêu chất ngọt
của tiết hòa vào mạch máu mát mẻ đến sảng khoái. Tôi rót rượu liền
tay. Chiếc bóng của Tam ngả hẳng người ra bàn, mặt anh ửng đỏ trông
như mặt Quan Công về hưu. Tam bắt đầu ngà. Ở Hà Nội lạ lắm. Mai
mốt cậu về chơi sẽ thấy. Có những ngôi nhà cũ không tưởng tượng, rêu
ẩm bám đen từ mặt trong ra mặt ngoài. Ngủ đêm cứ rờn rợn. Miền Nam
mới quá, không dấu ấn của lịch sử. Nhưng ở Hà Nội, lắm lúc lịch sử cứ
sờ sờ ra đó, bình thường mình không để ý, nhưng đêm nằm có lúc thảng
thốt chợt nhận ra đầu ngõ là chỗ Chiêu Thống đón Tôn Sĩ Nghị chứ đâu
xa, có khi cả cái nhà mình cũng là nhà của Nguyễn Hữu Chỉnh lúc trước.
Nằm cứ toát mồ hôi. Mới hôm qua chứ bao lâu! Cái đất Thăng Long lạ.
Ði xa như Nguyễn Hữu Chỉnh rồi cũng phải về chết ở đó. Mà chết tan
xương nát thịt mới đau.

- Nguyễn Huệ không biết dùng người! Tự chặt tay chân mình thì sống
với ai?

Tôi vét nốt đĩa tiết, tự nhiên thấy mình nóng nẩy vô lý. Tam đang đơm
bún vào bát, ngắt rau húng, chan xâm xấp giả cầy, ngửng nhìn tôi ngạc
nhiên :

- Ai bảo cậu thế?

- Chẳng ai bảo, nhưng thảm kịch của đất nước là từ khi Nguyễn Huệ tự ý
đại cử Bắc phạt đấy thôi? Nồi da xáo thịt tự đó mà ra.

Không phải!

Tam đập mạnh ly xuống mặt bàn, rượu sánh cả ra ngoài. Những vũng
rượu vang đỏ thẫm. Tôi cũng biết rượu vào lời ra nhưng không ngờ Tam
cáu kỉnh đến thế. Anh nhai ớt rồn rột :

- Bi kịch của đất nước này xãy ra ở làng Hạ Lôi, cậu biết chưa? Cái làng
ấy có tay Lý Trần Quán làm Thiêm Sai, lúc Chúa Trịnh chết thì tự chôn
mình, chết ngu xuẩn thế mà người đời cứ xem như bậc nghĩa khí!

- Trung thế thôi anh còn đòi ?

Tôi cắn một miếng riềng, nhất quyết không chịu thua. Gì chứ chuyện
lịch sử, tôi thuộc làu làu, lúc còn đi học trả bài bao giờ cũng được điểm
cao. Trời sụp tối hẳn. Cái bàn sắt của hai chúng tôi nhô ra vườn trông
như boong tàu thắp sáng lênh đênh trôi dập dềnh ngoài đêm. Mà chúng
tôi cũng lênh đênh dập dềnh thật. Mấy tàng lá xum xuê trên đầu cứ ngả
nghiêng chờn vờn, lất phất đong đưa như chỉ chực rớt xuống bàn. Bữa
rượu đã lên tới tột đỉnh. Tam ném vỏ chai vào một góc vườn, khật
khưỡng khui thêm chai nữa. Nắm tay anh xoay theo cái vặn quả quyết :

- Trung với ai, chứ với cái nhà chúa Trịnh thì mình ngờ lắm!

Bọn viết sử khen chê không đúng chỗ! Sao không nhắc cái công tôn
phò nhà Lê hai trăm năm? Bằng chứng: Chúa vong thì Lê mạt!

-Ừ thì Lê mạt. Nhưng Hiển Tông, Chiêu Thống là cái gì ? Nhà Tây Sơn
mới là cuộc cách mạng đích thực! Tay Lý Trần Quán đổ tiến sĩ nhé. Mẹ
chết thì ở nhà mồ ba năm, không ăn thịt cá? Hắn làm thế để làm gì?
Sao không ra giúp Nguyễn Huệ lại tự chôn sống mình? Làm màu à?
Thảm kịch của đất nước là bởi bọn “trung trinh tiết tháo” kiểu ấy. Cho ăn
học phí đi! Hai trăm năm rồi mà ở Hà Nội lẫn Saigon cứ còn đường Lý
Trần Quán, người ta theo tấm gương ấy đến độ đất nước lụn bại!

Tam nói một hơi. Chất rượu trong người anh bốc ra như giông gió. Tôi
cũng say lắm, miệng lúng búng bún lẫn giả cầy. Vài miếng măng thái, ít
củ chuối, hai ba miếng da lợn cháy vàng nổi lên mặt bát. Tôi và cho hết
chén, làm cạn ly rượu, rồi phản pháo :

- Thiết tha, trăn trở cho bi kịch đất nước, thế sao anh còn qua đây làm
gì?

Sắc màu hồng đỏ au trên da mặt Tam vụt trở nên xám lại. Tôi chỉ hỏi
câu châm biếm, ai ngờ, ai ngờ cả thân mình anh cứng lại. Vai Tam nhô
lên cao lắm, như thể anh muốn rụt đầu trốn tránh. Trông anh như bức
tượng tội nghiệp hôm nào, và cái vệt cắt trên da mặt – cái vết chém từ
bên trong – Tôi đã trong thấy một lần ở sau bếp khi hỏi Tam về trại Cấm
Hồng Kông, cái vệt chém đó như bất ngờ mọc ra trở lại, năm ngón tay
Tam cũng cứng lại làm rơi đôi đũa. Tam ngồi bất động, như trớ lưỡi,
tròng mắt anh vừa ngượng nghịu, nửa xấu hổ, nửa giận hờn tại sao tôi
lại hỏi như vậy? Vẻ mặt Tam lúc đó tôi không quên được, song tôi
không dám ngó anh lâu, không khí đang hăng của bữa tiệc bỗng chùng
hẳn xuống. Tam bất chợt cười ngúc ngắc, tiếng cuời như khóc của cái
loa kèn nghẽn nước.
- Qua thì sao? Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu cũng lưu vong mà?

- Các cụ có làm được gì đâu ?

Tam im lặng. Biết anh không muốn trả lời, tôi lảng chuyện bằng cách rót
thêm rượu vào ly. Tam nạp liên tục như muốn khỏa lấp. Một, hai, ba, rồi
bốn, năm ly, chẳng mấy chốc anh đổ kềnh ra ghế.

Tam “lật” rồi tôi mới thấy mình lạc lõng. Khu vườn rộng hẳn, dài mênh
mông gấp bội. Một đống vỏ chai, thau bún rỗng, nồi giả cầy cạn, nhưng
còn rượu. Giá tôi đừng hỏi điều ấy, chắc bữa rượu hãy còn vui. Lần đầu,
tôi trông thấy tận mắt đau khổ của một kiếp người. Tôi khui hết những
chai rượu còn sót. Uống một mình. Từ năm 78, tôi đã uống hết bao
nhiêu chai rồi?

1988

   

© Copyright Trần Vũ

 
Giấc Mơ Thổ
 

Chúng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ không trông thấy trên
khuôn mặt, trong đôi mắt, nhưng ở những giấc mơ không
bao giờ tắt. Tết Giáp Tuất. Tôi về sống ngôi nhà của
Quý, phía nam phần lục địa. Trái đất xoay như thỏi đá
cứng, những cạnh gai góc cắt vào chốn vô hình. Mỗi trưa,
tôi với Quý và Chiến - cũng một người bạn ở nhờ - bầy
những tiệc rượu đón bắt những vô hình mà cả ba đều linh
cảm rất rõ, theo sóng của cây rừng tràn đến tận thềm. Cả
một triền núi lươn lướt tắp đến bàn rượu. Cơ ngơi của Quý
to lớn sừng sững.

Quý bầy ba cốc rượu hồi. Óng ánh. Bóng của cả năm
mươi gian nhà san sát đổ dồn vào trong đáy ly. Bất chợt.
Dữ dằn. Lần nào ngắm dinh cơ của Quý, tôi cũng nổi gai,
rờn rợn. Không phải nhà mà là một thứ lăng, lâu đời, cũ
kỹ, vĩ đại, chễm chệ trấn áp cả một rặng núi. Năm mươi
gian nhà cất xây theo lối cổ, chống đở bởi những trụ trời
xọc vào mây. Sân trước dựng chín đĩnh đồng. Sân sau
Quý thuê đào một thứ đầm trông y hồ Ba Bể ở Mẫu Ninh.
Dể sợ. Không phải nhà ở của một con người.

Vợ Quý bưng lên một mâm nhắm. Những lát tim luộc tái,
lát mỏng, xâm cạnh những khoanh lòng tròn trắng, tươi
mởn tựa đầu vú đàn bà. Vơ. Quý có nét lẳng của phụ nữ
Bắc, nụ cười bám theo chuôi mắt, rớt vào đĩa nước chấm
nổi nhọn hai quả ớt xanh.

Quý vươn tay gắp một mẩu lòng, cắn vào chính giữa chỗ
dai dai tựa đầu nấm vú. Anh kể Ngày xưa ăn miếng thịt
rồng ở miền Bắc là kinh lắm. Mổ rồng là một thứ lễ nghi,
tráng đinh buột ghị lại, phải đợi tiên chỉ đọc điếu văn rồi
mới thọc huyết. Bên này rồng đông lạnh, rồng làm sẵn,
chỉ việc mua về xả nước đá, ăn bao nhiêu cũng có. Quý
cười ha hả. Mấy ngón tay đánh đôi đủa di động uốn éo,
trước khi xỉa xuống đĩa tim phượng đỏ chót. Tôi rợn.

- Ăn tim nhớ người!

Quý lại cười. Dạo mới quen Quý, lúc trước, tôi để ý thấy
mặt anh cằn cỗi, môi thâm, má hóp, chứng sốt rét rừng
của thời kỳ đi B lâu lâu hoành hành. Nhưng kể từ lúc Quý
tậu được năm mươi gian nhà, sắc mặt anh đổi hẳn. Mười
năm vượt Trường Sơn nhọc nhằn chỉ còn lại hàng bạch
đàn ngút ngắt, trồng tít tắp dọc bờ tường viền ngôi đất. Kỷ
niệm thời trai trẻ của Quý ở Hà Nội thì mọc ở rặng hoa
sữa trắng ngát.

Qu�ng chẳng còn. Cao Bằng, Lào Cay bây giờ mực độ
cây xanh bình quân đầu người còn ít hơn Hà Nội.

- Tệ thế?

Tôi uống thêm một chén hồi bỏ đá. Phải công nhận cái
thứ rượu này lạ. Càng uống càng mê, chẳng trách có một
dạo lắm thổ dân hoá cuồng. Uống tới ly thứ tư, trong đầu
tôi váng vất như có rụng một trận mưa hoa vàng, cánh
hoa reo cùng với gió đâm xuống thịt da rồi lại trồi lên trỗ
thành những rễ hồi nhỏ, ngo ngoe, động đậy. Tôi cảm
giác rõ rệt, những vô hình ngóng chờ lúc nãy đã hiện lên,
lừng lửng đứng trong sân. Triền núi trước mặt đổ lao thăm
thẳm xuống vực sâu. Và cây rừng cứ mỗi lúc một dầy
thêm, rậm rạp, phủ kín quanh chỗ tôi ngồi. Ấn tượng
được hoà nhập với thiên nhiên, tan vào trong cây cỏ, đất
đá, vỡ ra sảng khoái, lạ lùng. Tôi đưa tay quơ lấy chai
rượu. Trong chất hồi cũng có dấu vết của thiên nhiên:
Mặt trời, hừng hực, lúc chảy qua cổ họng.

Quý không ngó ai, khợi một miếng óc lân luộc, rắc muối
tiêu, cắn một cọng răm trước khi nuốt:

- Mấy năm trước 79, Trung Quốc cử người sang Việt Nam
mua rễ hồi, mà mua với giá đắt, cả làng, cả tỉnh đốn hồi
bán. Hiểm!

- Người ta hiểm còn mình dại!

Chiến ăn hết nửa quả tim phượng, mỉa. Quý hơi lừ mắt,
nhưng bỏ qua. Gạt thịt rồng vừa chặt vào thau, cạo thớt.
Cử chỉ của anh gọn, sành sõi, nhanh nhẹn như những
người Hoa đi bán phá lấu. Chiến không nói gì thêm. Từ
mấy tháng đổ lại, trừ những lúc găng, Chiến chấp nhận
chính Quý mới là chiều mạnh của lịch sử. Sự im lặng của
Chiến nửa bẽ bàng, nửa thua cuộc. Để quên, Chiến
không ngớt rót cho tôi và anh. Pha nước, gắp đá, rồi lại
uống. Cứ thế ba bốn bận. Chai hồi chưa kịp vẹt mâm
lòng đã cạn.

Qúy nhần nhần một miếng lòng dai, nhăn mặt:

- Cái thứ rồng già ăn như thịt trâu!

Quý vớt một quả ớt, muốt đầu nhọn, chép chép ở đầu
lưỡi. Tôi ngóng bóng Nữ vừa đi học về bước qua cổng Đại
Môn. Kiến trúc của ngôi nhà trông như lăng vua. Mấy
hàng cột trụ biểu trồng đều tăm tắp, xen giữa linh qui đội
bia trước sảnh đường. Có lần Quý giải thích: Để sau này
con cháu đổ đạt khắc tên vào văn bia như truyền thống
của dân tộc nghìn xưa. Nữ đi qua bàn không chào. Quý
gắt:

- Cái mả mẹ mày không biết phép tắt. Đã thưa gửi chưa?

- Je n'ai pas faim!

Nữ đi xoắt vào nhà trong. Quý thở dài, lôi ở gầm bàn một
két gỗ. Chục chai vang tím sẫm. Quý vừa khui vừa nhăn
trán:

- Con gái bên này mất nết.

- Đánh bài đi!

Chiến nhắc. Hai bàn tay mang dấu vết chiến trường
quẳng ra bàn một xấp tiền giấy. Quý xào cỗ bài rồi đưa
tôi kinh, anh bắt đầu chia, mấy ngón tay cũng động đậy,
thành thạo, uốn éo khéo léo như lúc nãy. Tôi vừa đón
bài, vừa nhìn vơ. Quý trở ra vườn. Quỳ bắt vỉ, quạt than.
Khói um lên tàn gốc điệp. Thấy cỗ bài, vợ Quý dẫy:

- Đợi tôi chơi với.

- Đàn bà đánh gì !

Quý đang bực con, sẵn. Vợ Quý không vừa, sừng mặt:

- Đàn bà cũng là người!

Quý nhượng bộ chia đều bốn tụ. Giấc trưa nóng hầm
than trên vỉ cật nướng cháy theo hơi quạt gió phần phật ở
tay Quỳ. Vợ Quý trở qua trở lại gấp gáp rồi hạ bếp. Miếng
bầu dục chưa chín, nhưng chạm lửa săn cứng.

Chiến uống thêm mấy ly vang nữa rồi bắt đầu giao: Đánh
thua không chạy. Tính chi. Một chi năm trăm quan. Rồng
ăn mười ba chi. Tứ Quý, Thùng Phá Sãnh cũng mười ba
chi. Nhưng Rồng lớn hơn hết. Tôi mở bài. Bài máu. Đồng
hoa. Chưa đánh tôi đã biết thắng. Bên cạnh Quỳ búng
bài tanh tách. Hết xoẻ lại xếp. Cứ xong một nước Quỳ lại
liếc ngang dọc, cặp môi đánh son chói chực mím lại, rồi
nhoẻn ra. Tôi đã ngà say, thấy Quỳ đẹp sắc, nét đẹp
chanh chua mà dữ tợn. Quỳ mặc áo mỏng. Vú hở ra nhễ
nhại những hột mồ hôi tròn trĩnh. Tôi ước ngủ với Quỳ
chết mới mãn.

- Xong chưa? Có mười ba lá bài binh hết một ngày. Nhìn


đây này!
Quý nóng nảy, chìa ngay vào mặt Chiến cũng vừa xong.
Chiến gạt:

- Zách Thú Sãnh ăn được thì ăn!

- Xám Chi đầu!

Quỳ hấp tấp, bổ nháo xổ bài. Nhưng rốt cuộc bài tôi ăn
tất. Đánh thêm sáu ván, tôi được năm. Cứ hai ván Quý
khui một chai rượu đỏ. Rượu Pomérol, château Rouget,
vụ 84. Quý nói: Mười năm chống Mỹ! Chiến chỉnh: Mười
năm kháng Cộng. Quỳ rủa: Lẩm cẩm.

Uống hết chai thứ chín thì tôi hoa mắt. Cỗ bài chạy lộn
xộn. Màu váy rượu đỏ như môi lưỡi Quỳ, uống vào cũng
nở tròn trịa như bắp đùi đàn bà ở độ xuân, nhưng bốc lên
đầu rần rần chẳng khác một bầy quạ đua nhau mổ vào
thái dương. Tôi thấy người mình nhẹ lắm, mà tay chân thì
không điều khiển được, như đã tách khỏi xác, cứ chao
qua chao lại. Tôi gọi Quý:

- Tôi ngã mất.

- Thằng chạy!

Chiến chửi. Nhưng Quý đã đứng lên, vạch mắt tôi xem.

- Hỏng kiểu. Nó sắp chết. Chạy bắc nước, cho nó uống


trà Thổ. Mau!

Bụng tôi chướng lên. Bao nhiêu thức ăn, phổi, rồng,
phượng, cật, óc, lân, gan, tim, mề chạy ngược lên cổ. Mắt
tôi nổ đom đóm, loáng thoáng thấy Chiến, Quỳ, nửa bóng
nửa hình chạy lăn xăn, kẻ giữ tay, người đở gáy, còn Quý
hộc tốc chạy vào nhà đem ra một hộp thiết. Mạch máu tôi
vỡ hết. Tôi muốn nôn mửa nhưng Chiến đã chận lại, bàn
tay hộ pháp chặn ngang cổ họng, đè dứ lấy không cho
nôn. Tôi quẫy. Vỏ chai trước mặt bể xoảng. Chiến dẫm
phải mảnh, máu chảy ròng ròng. Trong mảnh thuỷ tinh
mặt tôi dúm dó, trộn lẫn với máu Chiến tím bầm. Chiến
vẫn xem như không đè lên ngực tôi, hai tay nhồi xuống
tim, mỗi cái nhấn làm tôi nẩy bật lên. Gương mặt Quỳ
gần sát to như đấu thúng. Tôi dẫỵ

- Uống nào!

Quỳ bóp má. Trút trà. Nước trà nóng bỏng cháy dại lưỡi.
Trà đặc, đắng chát miệng. Trà xuống tới đâu người tôi mụ
tới đó. Nắng buổi chiều gay gắt. Dữ dội. Tát thẳng vào
mặt. Cơ ngơi của Quý quái vật. Chính giữa cơn say làm
như tôi còn trông thấy rõ một đuôi rồng hiện ra bất chợt,
lượn uốn quanh ngôi đất nhà Quý. Hai chiếc vòi rồng thả
vọc xuống mặt hồ Ba Bể rút nước. Mưa, dông, bão, sấm
chớp, hay rồng hút nước tôi không biết, nhưng những vẩy
hỏa rồng lập loè mê hoặc. Chiến cõng tôi lên buồng.
Tiếng tri hô của Quý còn hô hoán dưới vườn trầm trồ
khen con thú đẹp.

*
 

Chúng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ trông thấy trên gương
mặt, trong đôi mắt, và ở những giấc mơ không bao giờ
tắt. Suốt bốn ngàn năm, cái chết của con người ở quê tôi
hình thành do suy tàn của thể chất. Nhưng xuống tới thế
hệ tôi, kỳ quặc, chính chúng tôi đi tìm cái chết: Thể xác
vẫn nguyên vẹn.

Chúng tôi đứng ở bờ cồn trông ra cửa biển. Tôi run rẩy vì
ý nghĩ mình sắp chết. Một cái chết dã man hung bạo.
Nền trời mỗi lúc một xanh, bát ngát. Soi rõ đại dương và
Phương Tây ở đằng xa. Tất cả, không ai rời mắt nổi
khoảng trời xanh ngắt ngoài sức tưởng tượng -nền trời
của biển Đông và Tây Phương- nơi chúng tôi sẽ chết.
Ruột tôi quặn thắt vì sợ hãi lẫn ham muốn. Mâu thuẫn
nhưng kích thích. Tiếng còi tàu rúc của ba chiếc thuyền
táng cập vào bến. Những chiếc thuyền bít bùng giăng
sẵn cườm, một thứ tàu nhà đòn mà tôi sẽ phải vào nằm
bên trong với một ngàn hai trăm người khác. Ba chiếc tàu
chở tử thi. Tay chân tôi lạnh mướt vì sợ. Mẹ tôi đứng ở kề
bên. Tôi nghe được tiếng thở của bà. Tiếng thở đứt khúc,
đứt đoạn, thấm đẫm tình mẫu tử. Mẹ đi tiễn tôi sang thế
giới bên kia. Sợ. Nhưng tôi vẫn không van bà giữ tôi lại.
Cơn khát, giấc mơ, cả hai trộn lẫn, thúc đẩy. Tôi nửa
muốn sống, nửa muốn chết. Kỳ lạ, chính mẹ cũng không
giữ tôi. Dù tôi đọc rõ đau khổ trên gương mặt bà. Mẹ tôi
đau nỗi đau của người đàn bà lúc lâm bồn. Xẻ thịt, banh
da, rạch tử cung, xé buồng nhau, mất huyết. Biết đau đớn
nhưng vẫn ham sanh. Tánh khổ dâm tôi thừa hưởng từ
mẹ, và sắp sống những giây phút khoái lạc đớn đau đầu
tiên. Bạn bè đứng trước tôi lần lượt tự sát. Được tẩn liệm
ngay trong lòng tàu. Tôi trông thấy những bà mẹ lạc thần
gập người rụng xuống. Tôi trông thấy đôi mắt các bạn tôi
mở trừng trừng sau khi chết. Những đôi mắt trẻ phút vĩnh
quyết còn cố thu vào chút hình ảnh chót cùng của quê
hương, gia đình. Đến phiên tôi, mẹ tôi gào khóc, vật vã
thảm thiết, nhưng bà không làm cử chỉ bảo bọc xoè hai
tay kéo tôi vào lòng; bà không làm cử chỉ thiêng liêng gìn
giữ đứa con của tất cả các bà mẹ trên thế giới. Sau bốn
ngàn năm, các bà mẹ ở quê tôi thay đổi, sẵn sàn chứng
kiến con mình chết để đánh đổi những giấc mơ. Họ tổ
chức cho con cái những cuộc tự sát tập thể. Mẹ tôi đồng
loã và chính tôi cũng đồng loã. Tôi bước xuống tàu. Bàn
chân run rẩy sợ sệt, chưa kịp quay lại để nhìn mẹ lần
cuối, thì gã thủy thủ đã xộc tới dùng mã bổ phập vào đầu
tôi. Lưỡi rựa xắn ngập xuống óc hủy tức khắt một phần trí
nhớ. Máu tôi phun bắn ra sàn tàu. Máu đỏ gấc, tươi rói vô
tội dưới ánh sáng mặt trời. Tôi ngã chúi trong vũng máu.
Tôi bơi trong máu của mình. Của mẹ. Tôi chưa chết,
nhưng máu trào ra khắp mặt. Tôi gào mẹ. Lão tài công
xông tới phụ với gã thủy thủ đầu tiên, dùng kéo cắt kẽm,
cắt lưỡi không cho tôi gọi mẹ bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi quẫy.
Cái chết nào cũng đau đớn. Chủ tàu vừa quát gọi tài
công nhổ neo, vừa lấy đinh chọc tiếp vào hai mắt khiến
tôi mù loà không trông thấy quê nữa. Tôi rú lên. Thịt da
tôi tan nát. Nhưng lưỡi đã bị cắt, chỉ phát ra những tiếng
la khắc khoãi, âm thầm, lẳng lặng, kêu vang cho chính
mình. Không ai can thiệp. Không ai thương xót. Tất cả
dửng dưng. Tàu đã tách bến. Không phải con người ở
quê tôi không còn tình cảm. Nhưng họ đã chứng kiến quá
nhiều, trông thấy cái chết quá nhiều. Giá trị vĩnh hằng là
những giấc mơ. Đối với họ, chúng tôi là những tử thi sung
sướng.

Đám thủy thủ lấy cưa xẻ xác từng người đã chết ra từng
khúc để bán cho hải tặc. Tiếng cưa máy réo inh ỏi man
dại như tiếng hú của những con vật ăn thịt. Những khúc
ruột xổ ra, bấy hầy, bị vất xuống biển, trôi theo nước cuốn
về quê. Xương chúng tôi bị ném đi, rơi vào lòng đại
dương mênh mông, dậy sóng, đầy dông tố, đá ngầm, san
hô và những lổ đen sâu hoắm mở ra chờ đợi. Tứ chi
chúng tôi rơi không cưỡng lại được, không thể bám víu,
gió phần phật... Nhưng lúc gã thuỷ thủ chẻ sọ thì tôi vùng
dậy. Có ai chết mà muốn hài cốt mình chịu dầy xéo, đừng
nói cưa tiện. Tôi vùng vẫy, đầu ngắc qua ngắc lại để
tránh lưỡi cưa đương tì xuống. Lưỡi thép rít rè rè kêu xoáy
kề màng tang, tôi khóc lóc van xin nài nỉ, vật nài khẩn
khoản lạy lục xin tha, căn buồng nóng hơn một lò thiêu,
chiếc giường chồng chềnh chao đảo nghiêng ngã nhấp
nhô giữa áp xuất hầm như ở xứ nhiệt đới. Trần nhà không
ngớt xoáy tròn, quay tựa một quả bông vụ ném vào
khoảng không, xoay tít, mồ hôi tôi võng võn g chảy tháo
ra ở hai bên nách, ở trũng lưng, ở cả bắp đùi nhớp nháp.
Mặt đệm đầy nước. Nước mằn mặn lẫn rong rêu. Biển
tràn vào buồng, tôi bơi giữa biển mồ hôi bám tìm sự sống,
dẫy vùng tìm lối thoát, co đạp đấm vào cạnh giường kêu
mẹ, lăn lộn tức tưởi tốc mền tốc chăn xé gối. Tôi giật tấm
vải màn che cửa sổ, nắng ùa vào như thác nước sôi xối
phồng da mặt ném bừng ra khỏi cơn mộng.

Giấc mơ khủng khiếp. Căn phòng ngộp hơi. Tôi thở hổn
hển. Áp xuất ép làm những giọt mồ hôi nhỏ li ti vỡ ràn
rụa. Ác mộng hãi hùng còn đeo bám in dấu trên mình tôi
tím bầm, đầy dấu tay ấn của Chiến và những nhát búa tạ
còn lồi lõm khắp ngực. Tôi nấc đứt quãng. Hoảng sợ.
Chết đi sống lại. Giống vừa làm kinh. Máu mũi trong lúc
trớ chảy đầy miệng.

Phải lâu lắm tôi mới hồi lại, rời cõi hoang vu để trở về với
thực tại. Chung quanh lặng lẽ. Tất cả lặng lẽ. Tôi nhận ra
mình đang nằm chính giữa căn buồng nhà Quý. Cánh
quạt trần không biết Quý gắn từ bao giờ, ban sáng tôi vẫn
còn chưa thấy, quay lờ đờ chậm chạp, không thổi được
chút gió. Cánh quạt rình soi mói. Tôi sờ tay lên vách
tường ẩm rêu. Căn phòng Quý cho tôi ở sát vách núi, chỉ
cần mở cửa ra là chạm những khối đá tảng hoang vu xù
xì. Tôi nghe được tiếng nước chảy ở đáy hồ Ba Bể,
thường nhật sâu lắng, lúc này ầm ào kêu vang. Tiếng
nước chỉ làm cho buổi trưa rộng thêm. Tôi không biết
mình nằm trong buồng bao lâu, chỉ nghe rất rõ mọi tiếng
động. Tiếng những ngọn cỏ mọc khắc khoãi quanh nhà.
Tiếng những cột gổ trăn trở vặn vẹo ngoài hành lang.
Tiếng mối mọt bò trong các ngách gỗ. Thậm chí đến
tiếng trứng gà vỡ trong góc chuồng tôi cũng nghe được.
Những mảnh trứng vở rạo rạo, non nớt xen kẽ tiếng động
thật khẽ, yếu đuối của từng cánh cải cúc nhú mình cố
vươn lên dưới gậm giường. Gian buồng mọc đầy cải cúc.
Nở rợp, tươi tốt. Một vũng ói nhơ nhớp hôi thối nhầy nhụa
trên mặt thảm. Tôi nghe tiếng thắt bóp của mạch máu, ở
cườm tay, ở ngực, ở gân, ở não, ở dương vật của chính
mình. Tiếng động của các tế bào sinh sôi nẩy nở rồi chết
đi liên tục, sôi động, hàng hàng lớp lớp, cứ hết mớ này
đến mớ khác, cứ hết lớp này đến lớp khác, tái tạo hủy
diệt, sinh tử đổi ngôi cho nhau nhịp nhàng đều đặn theo
một thứ chu kỳ bất tận. Những tiếng động mê hoặc miên
man không dứt, lấn át cả giấc mơ ban nãỵ

Trời mưa lúc nào tôi không rõ. Nắng quái của buổi chiều
vụt biến, vụt tan, nhường cho màn sương mờ đục vây
quanh nhà. Trận mưa mạnh, những hột mưa to, nặng,
chậm, sâu như tiếng cuốc đám thổ dân ven nhà Quý mỗi
sáng bổ vào lòng đất. Mưa xắn xuống bao lơn phòng tôi,
tưới ướt những chậu quất. Hơi mưa man mát lẻn vào
buồng kêu tí tách. Vách tường ẩm rêu chảy nhờn nước.
Khối đá xù xì sát cửa sổ bắt đầu hồi sinh. Tôi nghe rõ
chúng cựa mình tắm mưa. Trận mưa bất ngờ gội sạch
những ám ảnh còn xót từ giấc mơ. Tôi trở nên tĩnh táo lạ
lùng. Một thứ khoáng đạt nội tâm bất chợt. Giống trận
mưa làm loãng ảnh hưởng của chén trà Thổ lúc nãy. Tôi
nằm trên giường ngắm cơn dông rãi đều răm rắp xuống
dinh cơ của Quý những nắp nước bạc. Tôi thấy cần đàn
bà.

Quỳ hiện ra bất thình lình ở ngưỡng cửa.

- Trốn lên phòng đợi em phải không?

Quỳ cười khúc khích, thân mật. Ngồi thụp xuống bên
giường, xoãi người cắn vào tai tôi hỏi khẽ:

- Đợi em lâu không? Lão Quý canh ngặt mãi mới tìm
được cớ vào nhà hỏi chuyện con Nữ. Nhớ lắm nhỉ?

Quỳ thủ thỉ. Luồn tay vào ngực áo tôi xoa xoa, những đốt
tay Quỳ dịu mát, lan tới đâu như búp hồi toả hương mật,
kích thích. Quỳ đưa tay vuốt tóc, lau vài giọt nước mưa
còn bám. Cử chỉ thật dịu dàng, không chanh chua dữ tợn
như ở dưới vườn. Nhưng tôi hãy còn chưa dứt khoát, dầu
gì Quỳ cũng là vợ của Quý. Tôi cố gỡ tay, Quỳ cười rũ.

- Nhát thế à?

Quỳ trườn người nắm tay tôi đặt lên đầu vú, bắt nắn se,
mơn mơn, xoa xoa, di di, rồi lại cười rúc rích:
- Thích không? Lão Quý vừa giới thiệu anh là em thương
ngay. Có thèm ngủ với em không? Sao lúc nãy em lận
bài không mách?

- Mách để làm gì?

Nghe tôi trả lời, Quỳ cười thành tiếng.

- Ngây thơ nhỉ? Thảo nào lão Quý chê anh trẻ người non
dạ. Nhưng em thương là được.

Quỳ cởi áo, ném vào góc, ngực vú vun nở, trắng ngà, ưỡn
ra quả quyết. Mắt Quỳ chợt chạm phải vũng ói trên mặt
thảm.

- Say thật à?

Không đợi tôi giải thích, Quỳ cúi gập người liếm vũng
nôn. Dáng điệu mãi miết, say mê, Quỳ nuốt thật sự
những thứ tôi vừa nôn ra. Lưỡi thoăn thoắt dọn sạch
những mẫu thịt nát lợn cợn. Bãi ói vơi dần đi, cho đến lúc
sạch hẵn. Quỳ mút tay tiếc rẽ. Từ lúc Quỳ bước vào
buồng, nủng nịu, tôi đã kích thích. Nhưng trông thấy một
người đàn bà đẹp, quỳ nuốt những thứ mình vừa nôn ra
khiến tôi càng cực ham muốn. Tôi chưa trông thấy hình
ảnh nào dâm đãng bằng cảnh Quỳ uống các chất chua
thải từ bao tữ mình trây trên đất. Dương vật tôi săn cứng
lại. Tôi muốn ôm chầm lấy Quỳ, Quỳ cũng nhận ra, chồm
lên, cắn nghiến lấy tôi.

- Em giống con thú không? Nhai lại thức ăn của anh!


Quỳ đong đưa ngực vú hôn tôi mê dại. Hai bắp tay nhễ
nhại nối những đầu ngón tay xoắn xít. Quỳ tháo thắt lưng
hộ tôi. Tấm đệm còn tắm mồ hôi, tôi với Quỳ ôm nhau
trong nước, bềnh bồng lặn ngụp giữa thân xác. Tôi ham
muốn kích ngất, muốn vật ngã Quỳ, ấn đầu Quỳ, đè ngửa
Quỳ, banh dạng cơ thê? Quỳ, hãm Quỳ ngay dưới chân
giường, nhưng tay chân vẫn bãi hoãi sau giấc mơ, nặng
nề không sao cử động được. Quỳ nhìn tôi thiếu kiên
nhẫn. Mấy ngón tay nóng nảy tháo vội cúc.

- Anh còn say lắm để em giúp.

Đôi môi Quỳ chín rực, lên xuống, cuồng nhiệt. Quỳ mút
khoẽ. Chắc. Hăm hở. Vồ vập. Lớp son mỡ bóng rẫy đỏ
rát. Sức vóc của người đàn bà chăm việc đồng án. Toàn
thân xác tôi bổng phủ kiến, những đàn kiến bò khắp châu
thân, cắn, tiêm mật vào các thớ gân, cùng lúc người tôi
như tách rời ra, bay qua những cách đồng, lướt gió, lơ
lửng, mãi mê, những đám mây hoang lạ và núi rừng
xuyên suốt qua người. Tôi nghe rõ mình kêu thất thanh
giữa khoảng trống mênh mông vô tận, tôi bay theo hướng
mây cuồn cuộn về phía mặt trời, không còn mưa, không
còn bão, đã tắt dông, đã tắt nắng, nhưng vẫn sáng, thứ
ánh sáng của tuổi thơ lấp lánh. Biển bầy ra trước mắt.
Xanh thẵm, rùng rợn. Phút chốc tôi nhận ra bãi biển của
giấc mơ, kinh dị. Tôi thét gọi mẹ, bấu lấy đầu Quỳ muốn
ngừng, nhưng Quỳ vẫn tiếp tục, ngậm chắc, mãi miết,
nuốt trọn toàn thân tôi đang rơi trở lại vào đại dương của
tuổi thơ tự sát. Tôi sống trở ngược cảm giác hoảng hốt,
hoảng sợ, mà cũng cực kích thích, ham muốn tìm cái
chết, tự nguyện chịu hành xác. Tôi bay trở ngược chập
chùng qua biển lớn. Gió gào mang tai. Thịt da từ từ tươi
trẻ, mắt từ từ trong, tuổi trẻ nhập trở lại trong mình tôi đầy
tràn sức sống. Tôi thấy lại bến cồn lúp xúp những ghe
xuồng chở người ra tàu lớn. Tôi thấy tôi đi trở lại qua lòng
chợ. Quỳ vẫn không buông, mút lấy mút để, nuốt nhay
hối hả, người tôi căn phồng như cánh diều no gió, bay
lồng lộn phần phật qua những mái nhà, chùa đình miểu
chợ. Tôi thấy lại tất cả. Tôi muốn bước xuống, muốn trở
về nhà, muốn ngã vào lòng mẹ, nhưng Quỳ không cho,
mười ngón tay vẫn bấu chắc, hối thúc, siết mạnh, đẩy
đến cực điểm. Quỳ như kẻ thả diều bắt tôi lên cao nữa,
lên cao mãi, lên cao cho đến lúc nổ tung, cho đến lúc
bước chân xuống tàu bị giết. Lưỡi mác chém vào đầu,
chém vào vai, xẻ óc, đổ thịt, tan xương, nát sọ, máu me
nhầy nhụa. Tôi sợ. Gào. La. Thất thanh. Tiếng hét vang
dội trong buồng, tiếng hét tháo ruột tháo gan trôi tuột tuổi
thơ, sinh lực bao nhiêu lâu chôn dấu, giữ trong mình, đè
nén, kềm hãm, chất chứa, căng thốn thúc bách giống lần
xuất tinh đầu tiên ào ạt mạnh mẽ mãnh liệt bắn phun xối
xã tuôn tưới tắm đằm đìa khuôn mặt Quỳ ướt đẫm.

Tôi thở dốc. Hào hển. Co thắt. Rút giật. Người run bần
bật. Mạch máu não chùng đứt. Dương vật là con rắn bị
cắt tiết.
Quỳ giật vải giường lau tóc, lau mặt, chùi những tinh
trùng còn ngọ nguậy bám ở môi.

- Tối em qua buồng nhé.

Quỳ âu yếm, ranh mãnh. Mặc áo và biến mất. Tôi nhắm


nghiềng mắt.

Tiếng Quý gọi Quỳ vọng từ chốn nào xa vắng, xa xôi, xa


lắm, vọng vẳng vang vang, văng vẳng như ở kiếp nào,
thế giới nào trôi ngang qua buồng rồi đi khuất, mất hút.

Tết Giáp Tuất, chúng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ không
trông thấy trên gương mặt, trong đôi mắt, ở làn da, nhưng
hằn những giấc mơ khắc ghi không bao giờ mất.  Tết Giáp
Tuất. Bất cứ ngày nào cũng là Tết Giáp Tuất. Chiều nào
cũng là chiều hai mươi tám Tết. Sáng nào cũng là sáng
mùng Một. Không có thời gian. Không có không gian.
Không có khái niệm. Không có chuẩn mực nào để đo
cuộc sống chúng tôi. Tôi về ở với Quý bao lâu, không ai
biết. Chính tôi cũng không rõ. Chỉ thấy cơ ngơi Quý mỗi
một ngày một quen thuộc. Chừng tôi đã sống nghìn năm
dưới lớp mái võ cua, với những cột cái, cột quân, con
chèn, cốn. Những cánh rừng phía sau nhà Quý rậm
thêm, những giải núi mọc lấn dồn ra sát thềm lục địa,
chân núi dẫm xuống biển, chống xuống vực sâu, mặt trời
mọc ở hướng Bắc, mặt trăng lặn ở hướng Nam, trái đất có
mười lục địa, con người có tuổi thọ một ngàn năm, chúng
tôi không cần biết. Quý tiếp tục tiệc rượu ê hề thừa mứa.
Chiến tiếp tục với cổ bài mê hoặc, và tôi xuất tinh lên
gương mặt Quỳ rạng rỡ.

Kỳ lạ. Thời gian không có, nhưng tôi sống với tình cảm
hồn nhiên trong tráng. Tựa tuổi ấu thơ tìm trở về. Bất
chợt. Đột ngột. Rộn rã. Tôi là đứa trẻ. Mười lăm, mười
sáu, tuổi dậy thì. Thèm khát. Dâng trào. Hồn nhiên lẫn
tìm kiếm. Hồn nhiên đến mức gặp Quý tôi không thấy
ngượng, như thể tôi chưa ngủ với Quỳ. Chưa hề xẩy ra
chuyện gì. Và bản năng của buổi sáng thức sớm, dọ
dẫm, bước chân dẫn lên thang lầu đưa tôi vô tình đến
xưởng vẽ của Đình. Những tầng lầu ẩm mốc tỏa hơi mưa
của cơn giông khuya khoắt còn bám những giọt nước rãi
ướt suốt hành lang hoang vắng.

Xưởng họa của Đình nằm trên tháp Bảo Nghiêm phía sau
Phật điện phần chót của dinh cơ Quý. Tôi đi qua mấy dẫy
tường liền phủ đầy tranh. Khác với trước Tết, mỗi ngày
những bức tranh trong xưởng vẽ của Đình đổi khác. Hàng
trăm bức trắng toát. Từ buồng này sang buồng khác vẫn
chỉ một lối vẽ: Những nét cọ trắng bay lượn chập chùng
trên khung vải bố. Trắng ngần, trắng lạnh, tê tái đến nhứt
nhối. Mỗi khi đứng trước những bức tranh của Đình, tôi
luôn ấn tượng đứng trước vũ trụ yên lặng, mênh mông,
bao gộp tất cả: Không bụi, không núi, không mây, không
con người, chỉ bất tận những khoảng trống âm u. Sơn
trắng không chỉ trắng mặt vải bố nhưng trắng ngát khắp
gian phòng. Tường, thảm, bàn, ghế, trần, nen nhẩy múa
trôi lượn cháy cạnh những hình khối rối rắm bay ào ạt,
hoảng loạn, tới tấp vào giữa không gian đục mờ, cùng lúc
trong trẽo thứ ánh sáng nhạt lưa thưa lơ lửng hoe vàng rãi
dọc những chiều thời gian đa chiều; và tôi cũng bay y hệt
những khối loạn sắc không tài nào cưỡng, chống, kháng
cự, hay chụp bắt, cảm giác cùng một lúc mọi vật, thế giới
đều tản mát và tập trung quanh mình, ấn tượng thất lạc,
thất tán tan vỡ phân tử tế bào trong cơ thể rã ra chìm
đắm vào sự vật không ý thức, không hiểu, không thể
kiểm chứng, khó phân tích, không thể chủ động lý giải
hay làm chủ được bất kỳ một thứ gì trông thấy và không
trung yên tĩnh hoang vu tĩnh mịch đến sợ. Tĩnh lặng. Im
ắng. Trơ trọi. Cổ sơ. Hoang dại.

Đình kéo giật tôi ra khỏi tấm tranh. Tôi rớt bật từ tấm vải
bố xuống mặt ván. Đau điếng, váng người. Đau ê ẩm nỗi
đau của một kẻ bị giật kéo bức rời ra khỏi gia đình, khỏi
người thân và những đồ vật thân thuộc của mình. Tôi
bàng hoàng ngã ngửa vào một thế giới khác. Thế giới
thật của xưởng vẽ lạnh lẽo vuông vức. Những giầm sơn
rơi lả tả khắp mặt ván. Người tôi mụ đi mấy phút. Không
biết bao lâu sau tôi mới định thần đang ở xưởng vẽ trên
tháp Bảo Nghiêm phía sau Phật Điện, bên kia hồ Ba Bể,
phần cuối của cơ ngơi Quý. Hôm nay là thứ năm, sáng
mùng Một Tết Giáp Tuất. Quý đang bắt ghế đốt nhang
trầm trong cửu đĩnh, hương nồng nặc. Giữa mùi khói
nhang xông lên từ dưới vườn, Đình chuệnh choạng đở tôi
dậy. Trông anh cũng mệt mõi, sức vóc tiều tụy. Vẽ mà
như tra tấn, nát người. Những tấm bố vẫn trắng. Tường
vách vẫn trắng. Chỉ có ấm trà sôi miên man từ nảy là
không trắng. Ấm nước bốc khói chậm chạp. Đình rót trà,
đặt lên tách, mấy ngón tay anh run se sẽ mời tôi trước khi
hỏi:

- Thấy gì?

- Không biết, tất cả.

Nước trà đắng. Mùi trà Thổ ẩm mốc hôm kia phản phất.
Tôi rùng mình, nhớ lại giấc mơ khủng khiếp bửa trước.
Nhưng chén trà trôi tuột vào bụng không phản ứng. Hình
như Đình pha loãng hơn Quý. Giọng anh xúc động.

- Mấy tháng nay không vẽ được nữa. Ý có nhiều mà tranh


không lên hình.

- Vì sao?

- Con người muôn hình vạn trạng, không tài nào diển tả
được hết cái mình cảm, cái mình thấy. Không phải ngẫu
nhiên mà vẽ truyền thần cho người chết dễ hơn họa chân
dung người sống. Một đằng là xác chết thuần vật chất;
một đằng là sự sống với tâm tính, khát vọng, giấc mơ...
Đình giải thích rồi bỏ cọ ngâm trong lọ dầu. Anh biến
mất, đột ngột. Đình bỏ đi bất thình lình như người họa sĩ
xoá một bức vẽ. Phủ phàng. Cay độc. Giận dữ. Vết cọ
trắng đâm nát mảng tường trước mắt. Tôi gọi anh, chạy
níu kéo những ý tưởng hoảng loạn hãy còn vương vãi
suốt hành lang. Bước chân Đình tất tả trốn chạy mất hút.
Tiếng u u của gió gọi thiết tha kéo tôi tới bao lơn mọc trỗ
ra rặng núi đá. Khoảng bao lơn kỳ quặc mở ra một thế
giới khác, treo rũ từng khối băng lớn nhọn hoắc tựa lưỡi
kiếm của thượng đế cắm vào mặt đất. Tuyết trắng xoá
nhức nhối trên những sườn vực ngã lao hun hút. Mãnh
sân đá sau xưởng vẽ bơ vơ trơ trọi chẳng khác một ý nghĩ
đè dưới vách núi chèn hãm. Khung cảnh làm tôi hoảng
sợ. Mới hôm qua Quý dẫn tôi leo núi, hãy còn là núi rừng
nhiệt đới, đầy muổi vắt đĩa lúc nhúc. Quý còn kể với tôi
lúc xưa vượt Trường Sơn cũng y hệt; mồ hôi tuôn nhèm
nhẹp ở mổi bước chân dẫm xuống bùn sình, cây mục,
thèm khát một vũng nước trong. Đứng ơ? Trường Sơn
trông xuống biển Nam Hải giống nhìn một ảo ảnh. Rõ
ràng trông thấy biển, mây, trời, mặt nước nhưng không
thể chạm vào. Bước ra khỏi rừng là chết, làm mồi cho
máy bay Thần Sấm. Khối kẻ đã nhảy xuống vực để chết
trong tự do tươi mát của biển cả. Mới hôm qua Quý hãy
còn kể say sưa về quá khứ. Chỉ mới hôm qua, cũng ngọn
núi trước mắt, tôi đã leo lên, dẫm chân len lõi qua những
rễ rừng dầy cộm, đan kín, xanh ngắt màu xanh của lá,
bây giờ phủ ngập tuyết lạnh lẽo. Không cây, không cối,
chỉ những tảng băng lạnh lùng tàn nhẫn chồng chất bít
kín đại dương và chân trời. Khí lạnh thổi buốt rát. Lan can
lạnh cóng. Tôi trốn trở lại vào trong xưởng vẽ. Một bầy
dơi trốn tuyết ùa vào bay theo toán loạn khắp buồng.
Đàn dơi bay rồ dại va vào trần nhà, húc vào các tấm bố
đến toé máu. Từng đầu dơi vỡ rốp, cả bầy dơi đập cánh
hổn loạn tìm lối thoát. Những giầm sơn bê bết máu rơi
rụng lả tả. Tôi chợt hiểu: Đàn dơi mù loà và khả năng
phát sóng định hướng của chúng bị hỏng. Tôi mở toang
hết các cửa sổ cho chúng thoát. Suốt buổi chiều tôi dọn
dẹp xưởng vẽ rồi viết mấy chữ để lại cho Đình: Tất cả
những giấc mơ đều khởi đầu từ sự sống và kết thúc cùng
cái chết.

Tết Giáp Tuất cơ ngơi của Quý đổi khác. Không phải một
đổi khác mơ hồ nhưng rõ rệt. Mới đêm trước, tháp Bảo
Nghiêm xây bên hồ Ba Bể, Phật Điện, Tô? Đường, Hữu
Trường Lang, Ta? Trường Lang còn quái vật, khi bầy sẽ
ríu rít và vạt nắng tuổi thơ dìu dịu lấp lánh, lẩn lút soi vào
buồng, năm mươi gian nhà của Quý trở nên quen thuộc.
Chừng tôi đã sống nghìn năm với những đầu kẻ, giả thủ,
vì kèo, đã sinh trưởng dưới lớp mái võ cua, đã lớn khôn
với từng cột cái, cột quân, con chèn, cốn. Tôi nhìn những
khúc gổ xúc động. Mặt mình in trên thớt gỗ, ở từng nét kẻ
hoa văn cũng khắc tên mình. Buổi sáng trong ngần
những giấc mơ ấu thơ, sáng rỡ đẹp lạ thường. Giấc mơ
thấm đẫm vào người; tôi sống trở lại những tình cảm tuổi
thơ vô tội, lương tâm trong tráng hồn nhiên. Vô tội đến
mức chạm mặt Quý, tôi hoàn toàn không thấy ngượng,
làm như tôi chưa hề cướp vợ anh, chưa hề xuất tinh lên
gương mặt Quỳ rạng rỡ. Cảnh xuất tinh lên mặt Quỳ chưa
có. Quý cũng chưa nhận ra điều gì khác lạ.

Chủ Nhật lễ Chay. Tuyết vần vũ. Những sóng cây rừng
gờn gợn, nhấp nhô, như hôm nọ trên lan can xưởng vẽ
của Đình từng chập xô đẩy tựa biển băng kéo đến vây
bủa đều đặn chắc chắn chín chung đĩnh đồng Quý đang
thả trầm đốt, khói hương mịt mờ.

Quỳ đứng ở Thượng Điện áo khoát lông Phượng. Tấm áo


lông thú lấp lóa sặc sỡ trên da thịt mỡ màng. Chiến ngắm
Quỳ mê dại. Quỳ nhờ Chiến chở lên thủ phủ của đám thổ
dân để sắm sửa. Tôi bảo Để anh đưa. Nhưng Quỳ làm
mặt lạnh. Tôi nghĩ Quỳ sơ. Quý ngờ vực nên không ép.
Chiếc Jeep quân đội của Chiến rồ ra khỏi nhà. Trong cơ
ngơi đồ sộ chỉ còn tôi với Quý lẩn thẩn.

Quý bắt ghế đi từ chung đĩnh này sang chung đĩnh khác.
Tiếng nhạc Rock ầm ào đập trống thùng thùng không dứt
vang vang trên buồng Nữ từ sáng. Gần trưa tiếng nhạc
tắt phụt, con gái Quý đi biểu tình chống kỳ thị bước ra
sân. Quý gọi giật:

- Nữ! Mày đi đâu?

- Ne m'appelle pas Nue! Mon nom est Marie!

Nữ quay phắt, sừng mặt. Con gái Quý giống Quỳ, đẹp sỗ
sàng khiêu khích. Quý đang đứng trên ghế đẩu, giận tím
tái, mắng:

- Cái mả mẹ mày tao đập chết! Tao hỏi đi đâu ?

- Je vais où je veux. Je n'ai besoin de personne!

Da mặt Quý đỏ sần. Quý ngượng với khách, nhổ vụt nan
sắt khợi tro rượt Nữ. Tôi chạy theo giữ kịp Quý lại. Quý
gầm:

- Đồ đĩ! Nuôi chỉ xấu hổ ông bà!

Quý mạnh lắm, xô tôi ngã, nhưng Nữ đã chạy ra khỏi


cổng, thách thức:

- Comment m'adapter à un monde que je ne comprends


pas?

- Mả mẹ mày!

Quý lồng lên, nhưng xe bus đã trờ tới. Bóng Nữ mất hút.
Mắt Quý đỏ ngầu, tuyết rơi lất phất tan ngay trên nền đất.
Quý bỏ vào nhà trong bật đài xem bóng đá. Trận World
Cup của năm 66 ồn ào, nhốn nháo. Còn một mình tôi đi
rão qua Tả, Hữu Trường Lang. Những gian nhà lúc nhúc
người ngợm. Họ hàng, gia đình Quý bảo lãnh sang đoàn
tụ. Mỗi bận trông thấy họ, tôi cảm tưởng lạc vào sở thú.
Đám anh em họ với Quý hùng hục nấu vàng giả, còn cô
dì thím mợ của Quý may lậu, đạp máy may kêu ầm ĩ. Tất
cả hùng hục giữa đống đồ vĩ đại. Chỉ lâu lâu những kẻ
hết xuất vào bếp vục mặt vào thau cám nuốt cạn rồi ợ, bỏ
ra ngoài nằm xem phim tập. - nhà bên một đám cháu gái
Quý vừa vắt sổ vừa hát Karaoke. Thầy Quý -cu. Cử- ngồi
vắt vẻo đu đưa như một con vượn già ngâm nga cổ văn:

- Nhất biệt gia sơn cáp thập niên...

Lần nào gặp thầy Quý tôi cũng bỡ ngỡ. Ông cụ tựa một
con vật sót lại từ thời đại trước. Một con vật ưa nước vối
và phun phè phè ra thảm. Thấy tôi không hiểu, cu. Cử
quắc mắt:

- Khách lý giang sơn chỉ thử tình. Uất uất thốn hoài vô nại
xứ!

Tôi trở vội ra vườn vì biết cu. Cử sắp lên cơn. Bóng nắng
vút lên trên đầu gốc đại thụ đã già nua, còn thả buông
nhễu nhạo từng sợi giây đa bạc trắng.

Sau cơm trưa, Quý dẫn tôi ra vườn xem Phật Điện. Tiết
ráo, anh hồ hởi trở lại, quên mất Nữ, rủ tôi chụp ảnh.
Không phải ảnh nghệ thuật, nhưng là cách chụp của
những tay thợ dạo dọc bờ hồ Hoàn Kiếm. Vừa bấm ảnh,
Quý chuyện vãn:
- Có thấy giống mái chùa Keo ở quê mình không?

- Tôi ngỡ quê anh ở Mẫu Ninh?

- Đấy là quê ngoại!

Quý gạt. Anh chụp hết cuốn phim Kodak, cất máy Leica,
rồi bảo tôi vào bên trong. Chùa nhỏ nhưng đủ các công
trình chính: Tam quan ngoại, tam quan nội, cung hộ
pháp, cung tế khí, cung đại bái, điện thánh, và gác
chuông. Quý thuê thợ xây hơn một năm.

- Trông y ở Thái Bình.

Tôi khen.

Quý hãnh diện, chết liệm đi, tay anh run run vuốt mắt
Phật.

- Nhớ quá Vĩnh ạ. Ngày xưa cứ mỗi hội chùa Keo, ông cụ
lại giắt mình đi, hai bố con bơi qua sông Trà Lý, vào trẩy
hội. Bơi trải, bắt vịt, nấu cơm thi, lúc nào mình cũng được.
Trước khi tàn hội ông cụ lên gác đánh chuông khấn. Có
hai quả chuông to lắm, đúc từ thời Tây Sơn, còn Phương
Tượng đắp đời Mạc Mậu Hợp. Mình bắt chúng nắn lại
hết.

Quý kéo vai, chỉ tôi xem. Xong anh lên gác đánh ba tiếng
chuông gióng vào giữa núi rừng xao động. Tiếng chuông
ngân nga đưa Quý đột xuất về quá khứ. Một phút anh xúc
động cùng cực. Mỡ ở cầm rùng rùng động đậy. Cánh mũi
phập phồng tóp, nở, theo tiếng khánh vọng giây lâu chưa
dứt. Lạ lùng trong lúc toàn thân Quý run rẫy, những sóng
cây rừng với núi đá sáng bừng, vươn xa, trãi rộng, như
tỏa hào quang, được sơn son thếp vàng, phủ kín đại
dương giát bạc. Phút sau, tiếng ngân tắt ngấm, tan giữa
mặt hồ Ba Bể phẳng lặng. Cảnh sắc trở lại tịch mịch. Mặt
Quý sa sầm.

Chúng tôi rời gác chuông.

- Anh về mỗi năm vẫn nhớ quê ?

Tôi hỏi, hoài nghi. Cây cột quân trồng giữa chánh điện vẽ
ba chữ Thần Quang Tự. Quý đóng xập liếp cửa, nhổ toẹt
một bải đờm xuống ván rồi lấy chân chà:

- Bẩn bỏ cha ! Ăn ỉa khắp. Sư bẩn mà tăng cũng bẩn.

Quý cầu nhầu. Trở vào nhà Chung rót rượu uống.

- Sao anh không đưa chị đi ?

- Đi đâu ?

- Lên phủ.

- Làm gì chỗ rợ. Ðây không sướng à?

Quý cạn, rót thêm hai chén. Rượu Armagnac Marquis de


Caussade, đóng chai năm 71. Tôi nâng bát. Chén rượu
dậy sóng. Thơm. Mạnh đến tê lưỡi. Năm 71 tôi nhớ Chiến
kể đóng căn cứ hoả lực ơ? Ha. Lào, bây giờ lại chơ? Quỳ
đi, không được uống thứ rượu đổi bằng mạng sống chính
mình. Tôi thương hại Chiến, thấy không phải ai sống sót
cũng hưởng tất.

Chừng vất võ chai, tôi bắt đầu chếch choáng. Quý bốc
máu, rủ:

- Đêm qua có bầy sơn dương trên núi. Thế nào cũng sót
lắm chú còn lẫn quẫn. Đi bắn về ăn!

Quý hùng hục lục trong rương đưa tôi một khẩu AK, hai
bộc phá, còn anh vác thượng liên 12 ly 7 với B40. Trời
quang đãng, ngôi đất chan nắng. Quý vào nhà xe chất
đạn. Chiếc Mercèdes 500 SEL đời mới của anh bóng loá.
Quý xoa mui xe thoả mãn.

- Bộn bạc, nhưng chạy ác lắm!

Trông Quý ngồi trước tay lái, khó hình dung anh đã từng
là chiến sĩ vượt Trường Sơn. Tất cả dấu vết cũ biến mất.
Đoạn đường từ nhà Quý lên núi thắt hẹp, lác đác một cột
điện, một bưu trạm, dăm mốc bảng chỉ đường, rừng
thông chót vót ngút ngàn. Còn đường treo vắt, đổ ầm ào
qua những thác ghềnh. Một con rắn uốn khúc oằn qua
những rặng núi khúc khuỷu. Quý châm lửa mồi thuốc sau
mỗi đoạn đèọ

- Đánh bài với thằng Chiến thua đậm quá. Cái lúc cậu
say lên buồng nằm, thằng Chiến không biết đào đâu ra,
liên tiếp lên nước Rồng, cứ như là rồng ở trong người nó.
Xe vượt đèo mỗi lúc một cao. Những mõm đá bám tuyết
chưa tan, lóng lánh, phản chiếu chói ngời lên kính. Hương
tùng bách dậy mũi. Khí lạnh se sắt tỏa lan ở những đoạn
đèo phủ cây. Quý lục trong hộc xe đưa tôi chai rượu Mít.

- Mua ở nhà. Thử đi.

Chai rượu cũ, nhưng mở nắp thơm mùi thịt da thiếu nữ.
Chẳng trách gọi mít tố nữ. Tôi uống nửa chai, chất
đường, chất men xủi tăm trong huyết quản. Đầu tôi căng
nặng trĩu. Hai mắt chực đâm vào những vực sâu hun hút.
Mỗi khúc quanh gấp, như có gốc mít đổ rạp ngã xuống
mình. Gai mít làm cồn cào bao tữ. Quý không để ý, lái xe
cắm mạng.

- Này! Uống cái trà Thổ hôm nọ thấy thế nào?

- Dể sợ!

Tôi uống thêm một ngụm rượu, ợ, trả lời. Quý cười rống.
Nhấn kèn đuổi một lão thổ dân tóc vàng đang xua cừu
qua đường. Lão thổ dân lầm bầm văng tục. Quý thắng
xe, hạ kiếng, chửi:

- Je t'emmerde!

Xe leo dốc tiếp. Quý trở lại câu chuyện.

- Trà quý mua tận bên Ankara Thổ Nhỉ Kỳ. Ngày xưa tù
cải tạo ở Tây Bá Lợi Á ghiền nha phiền, đem nấu trà, một
ký cho được một tách cũng say như ma tuý. Trà Thổ công
dụng cũng thế. Mà cường tráng lắm! Có thấy bơ vơ
không?

Quý cười sặc xụa. Uạ một hơi. Một mảng núi lở hiện ra
lởm chởm trước mắt.

Kể từ phút giây này về sau, Quý hoàn toàn im lặng, keo


kiết lời nói đến mức ngột ngạt. Chúng tôi như bước qua
một thế giới khác. Một thế giới có hiểm nguy rình rập, mà
tuồng Quý quen thuộc lắm. Anh phạt lau, nứa, đi cắm
mạng hơn chạy, băng băng, chốc chốc mới quay lại ra
hiệu cho tôi bám sát vượt bãi. Trước mỗi trảng trống Quý
đều sợ hãi nhìn trời lo lắng phỏng đoán tai hoạ có thể đổ
ập xuống. Người tôi mệt rũ, bao nhiêu gò đất, hốc núi
vượt qua, con đường mòn cứ hun hút ngoằn ngèo dưới
tán rừng tua tủa Bạch Đàn. Gai góc, giây leo, chằng chịt
như nghìn cánh tay mực bám víu. Tôi muốn gọi Quý nghỉ
mệt, nhưng anh đã hối:

- Vận động vượt bãi!

Quý lao về phía trước, lưng khòm xuống, mặt ngửa nhìn
trời, đùi và cả hai tay anh bơi sãi cật lực vạch lau lách.
Bốn tay chân Quý quơ quào tựa một con thú hối hả tìm
chỗ trú. Khoảng trảng trống xanh đẫm mây trắng trôi
cuồn cuộn đẹp khác thường. Giống một giòng sông hực
nắng hoang dã chảy vắt ngang trời. Chúng tôi đã sang
đến bên này bìa rừng mà Quý hãy còn giục:
- Khẩn trương lên giặc lái đến bây giờ!

Chúng hiện ra ngay khi ấỵ - ngay lúc Quý vừa dứt lờị -
chính giữa trảng. Đẹp vô ngần. Cả tôi và Quý sửng sốt.
Choáng váng. Không phải vẻ đẹp thông thường mà là nét
đẹp huyền sử, truyền thống; nét đẹp cổ xưa đã có từ
nghìn năm. Giống một bức vẽ truyền thần gia bảo. Giống
một nét họa dân gian bảo lưu đã mấy ngàn đời. Từ ánh
mắt cổ kính long lanh chan chứa, đến vóc dáng thần
thoại óng chuốt màu sắc. Bầy rồng trăm con uốn lượn
nhịp nhàng tựa trăm cô gái múa lụa. Chúng vừa cổ tích,
vừa thật. Trăm con rồng đang quỳ xuống đứng lên uyển
chuyển, nhẩy múa vờn vờn nô giỡn chuyền nhau những
trái cầu. Những trái hỏa long bay phấp phới, bồng bềnh
nhẹ như trứng, mọng như những búp hoa được gió nâng,
lửa thổi. Đẹp mê ảo. Tôi vụt tìm thấy lại sự bình yên sâu
thẳm bấy lâu đánh mất: Chúng hãy còn sống. Chúng
chưa quên và theo tôi sang tận chốn nàỵ

Những cơn mưa ở đâu bất chợt rưới rạt rào trời đất. Mưa
thác lũ. Đúng rồi những trận mưa cũ, ấm, nóng. Tôi thấy
lại mình chạy vui sướng qua những hẻm ngách. Nước vồn
vả thăm hỏi bốn bề. Nước reo hò. Mưa ngập đến gối. Đất
trời là một ao hồ dậy sóng. Những vách tường bóng nhẫy
rêu loang loáng vôi vàng tắm ướt cười nấc nẻ mở lối đưa
tôi đến đứng trước thềm điện. Đền Hùng. Uy nghi. Lẫm
liệt. Hoành tráng như trong những bài thơ. Và chúng ở
đó, đậu trên nóc. Uy vũ mà thân thiện. Tôi quen chúng từ
thuở sơ sinh, còn nằm ẵm ngữa mẹ bồng đến xin sâm.
Bầy rồng vui vẻ vẫy đuôi gọi. Hoan hỉ đón mừng. - mỗi
cột ngách chùa đều có một chú rồng con đợi tôi, ngoe
nguẩy cọng râu, hơi hích mũi mĩm cười. Tôi chuyện trò
với chúng, thì thầm gọi tên những người bạn thiết: Hoàng
ơi Thanh ơi Hỏa ơi. Tôi đưa tay chào. Chúng lắc đuôi vẫy.
Bao giờ chúng cũng sà xuống và đêm về theo tôi vào
những giấc mộng. Có khi tôi vô tình mở cuốn vở lịch sử,
chúng đã hiện hình ngay trên trang giấy, nằm cuộn dưới
chân. Suốt thời thơ ấu có bao giờ chúng tôi xa nhau. Mưa
ướt mặt, tắm mát ký ức, nhưng tôi thấy chúng khóc.
Chúng đã hiện ra bằng xương thịt cho tôi trông rõ. Chúng
cũng xúc động gặp lại tôi ở chốn này, muôn vàn xa cách.
Tôi muốn gọi Quý, kể cho anh nghe mối tình của tôi với
chúng chia cách mấy đại dương, nghìn trùng đã bao
năm.

Nhưng Quý giơ cao súng. Tôi hãi hùng trông thấy những
giây đạn chầm chậm chạy vào nòng thép. Hãi hùng thét
gọi. Hốt hoảng, thảng thốt. Tôi chạy níu lấy Quý, la, gào,
dằn co cản trở, quỳ van vái tế lậy dưới chân anh, nhưng
Quý đạp tôi ngã, hươi súng bắn xối xả vào bầy rồng tán
loạn. Tiếng súng của Quý nổ chát chúa. Xé trảng. Ghim
vào bầy rồng lổ chỗ. Từng giây đạn 12 ly 7 toé lửa.
Những tiếng rú đau đớn đinh tai. Những tiếng rú thảm
khốc. Những tia máu phụt đỏ thẫm chan hoà chân trời.
Những thây rồng lăn lộn ngã quỵ xuống trảng. Những
tiếng kêu rên áo não trong lúc Quý tiếp tục tưới đạn. Tôi
gào khóc, đau đớn, vật vả, cấu xé, lao vào Quý bị đẩy bật
ra rồi lại lao vào. Những bầy rồng con ngã sõng soài. Tôi
trông rõ một đứa trẻ máu ứa ra ở mũi, ở lổ tai, ôm chùm
ruột cố bò lết ra khỏi trảng. Vết máu trườn theo người nó
đỏ bầm. Qúy xô tôi, ném bộc phá, và bắn B40 kết thúc.
Những gắp đạn vãi lên xác đứa bé còn hấp hối, tiện đứt
cánh tay nó còn đang cố chìa ra phía trước khẩn khoản.
Đứa bé chết giữa đồng xanh mây trắng. Máu, xác, chân
tay đầu bụng ngổn ngang.

Có thứ tội ác chỉ phạm một lần đủ hủy diệt con người.
Nhưng có thứ tội ác nặng nề hơn nữa: Không biết mình
tàn ác. Quý thuộc về tội ác thứ nhì. Còn tôi? Kẻ chứng
kiến, tôi thuộc về tội ác thứ mấy?

Tôi còn đang tìm kiếm tên mình trên bảng phân loại tội
ác, thì Đình chết vào buổi sáng Mùng Một Tết. Xác anh
trần truồng nằm giữa tấm bố bề thế lớn bằng nền nhà.
Sơn trây trét khắp xưởng vẽ. Tôi nghĩ Đình đã tắm sơn
khắp mình mẩy rồi lăn lộn trên bố trước khi chết. Gương
mặt anh nhăn nhúm, rúm ró, nhưng ở hai tròng mắt khép
hờ còn phản phất chút thanh thản của kẻ đã dứt khoát ra
đi. Năm mươi gian nhà của Quý sau buổi săn rồng buồn
tê tái. Một nỗi buồn thê thiết không biết đến từ đâu;
không hiểu do sao; vì sao -không phải gây ra bởi cái chết
của Đình- phủ trùm lên khắp các phòng ốc. Lễ an táng,
chôn cất Đình diễn ra trong thờ ơ tẻ nhạt. Quý mút những
đốt xương rồng cuối cùng còn xót đã lên mốc. Chiến sào
cổ bài, chán nản. Quỳ thêu móc vô tình những kiểu áo lót
rắm rối dưới gốc điệp. Chỉ mình tôi đào cát, xúc những
xẻng đất vàng -bằng vàng thật: thứ vàng bụi 18 mà chỉ ở
lục địa này mới có- phủ lấp lên bụng Đình. Người anh
quấn hờ một manh bố trắng. Những tấm bố trắng suốt đời
Đình không sao vẽ hết. Tôi lập bia, kẻ nguệch ngoạc
mấy chữ hưởng dương tạ thế tiếc thương, rồi ra hồ Ba Bể
rửa tay trở lại bàn. Nơi đã diễn ra những canh bài sát
phạt, những tiệc rượu long trời lở đất, những tham vọng
chất ngất, chỉ còn mỗi một thau sành đựng chan chứa nỗi
buồn vu vơ, tẻ nguội, uể oải chán chườn vô phúc vô hình
mà cũng có thật sánh ra ở từng bát canh cải không còn
thịt. Không ai nói với ai một lời nào nữa. Tất cả dửng
dưng gỗ đá.

Chúng tôi ngồi nhìn nhau. Quý đánh mất hăm hở. Chiến
hiện rõ thân xác của người lính già, hai mươi năm trận
địa, một ngày bại trận, mười năm bị bắt, và thế kỷ bôi
xoá. Đến ca? Quỳ, người đàn bà quyến rũ nhất cũng
đánh mất nết lẳng lơ dâm đãng. Thể xác ngồn ngộn chữ
Tình, nhưng Quỳ lạnh lùng gỡ tay lúc tôi luồn dưới áo
ngực ve vuốt.

- Mày còn sờ vú tao gọi lão Quý.

Quỳ rít lên đanh đá ghẻ lạnh. Tôi xấu hổ nhục nhã rụt tay
cúi gầm mặt chỉ dám liếc nhìn trộm Quý sợ hãi. Nhưng
Quý cũng không phản ứng, dù nghe thấy, chỉ dõi mắt lên
nền trời trống rỗng ngóng trông một biến cố, một con vật
nào đó. Giống một kẻ đánh mất gia phả, Quý đau khổ
trong lúc Chiến tháo giây biểu dương đeo ở vai xuống
chùi. Những sợi giây chì mạ kền rỉ sét. Bộ đồ trang phục
đại lễ thuở xưa Chiến dành mặc mỗi khi lên Vũ Đình
Trường chật cứng đến nỗi không cài được cúc bụng. Quỳ
thả mắt nhìn hờ hửng khoảng thịt mỡ béo phệ đang chảy
nhão không thèm muốn. Tất cả như thẩn thờ tiếc nuối
bửa tiệc rồng tối Giao Thừa trước Tết. Tối Ba Mươi, Chiến
với Quỳ ở thủ phủ của đám thổ dân về mua ê hề dưa
hấu, pháo đại, rượu mức. Quý lấy cưa máy xẻo thịt rồng.
Con rồng con đỏ hỏn vừa bắn về ban chiều tươi rói, khoe
những thớ thịt trẻ thơ bụ bẫm. Ghê sợ. Nhưng tôi cũng
không cưởng lại được niềm phấn kích, hồ hởi, của cảm
giác được ăn thịt tươi lần đầu không đông lạnh. Tôi  phụ
với Quý luộc thịt, gói bánh tráng, trong lúc Quỳ bằm xả,
thái ớt, xây dứa làm mắm nêm. Chiến lấy dao phai chặt
thịt đùi để nướng chả. Quỳ nướng bánh đa làm thêm mấy
món đặc sản, lẩu, lòng, rựa mận, một mâm gỏi bao tữ
trộn với bưởi, một chén thịt đông, ba đĩa thận hấp. Quý
còn cắt đầu rồng nấu cháo đậu xanh để dành tối. Chúng
tôi say sưa xông đất ăn nhậu thỏa thích trong xác pháo
hồng đỏ rợp thềm năm mới.

Chỉ sáng Mùng Một mọi người mới khám phá ra nỗi buồn
hoang vu u uất. Thứ nỗi buồn héo tim gan, chín thịt
xương. Như một thứ mầm độc gieo trong lòng. Thế giới là
một khoảng trống không vô nghĩa. Cuộc đời là những
tuyệt vọng liên tiếp chờ đợi một hạnh phúc không bao giờ
xẩy đến. Ban đêm là những giấc ngủ khó khăn khô cằn
mộng mị. Ban ngày là những buổi sáng thiếu vắng tương
lai. Sống nhưng bị kết án. Tự trong thâm tâm chúng tôi
hiểu đã phạm tội tổ tông và chờ đợi một hình phạt. Sự
trừng phạt xẩy ra buổi chiều con gái Quý đi biểu tình
chống kỳ thị trở về.

Nữ đến đứng trước bàn thách thức:

- Je veux partir d'ici.

- Mày đi đâu?

Quý thức giấc. Phẫn nộ.

- Je pars avec mon mec.

Mặt Nữ đanh lại vì bất mãn.

- Thằng nào?

Quý gầm. Quỳ cũng chồm tới. Nữ chạy giật lùi tránh bàn
tay của Quý vươn chụp tóc.
- Il est Turc. C'est un immigré comme vous. Il vit en
Allemagne, je veux partager sa vie.

- Mày ở nhà! Tao cấm mày ngủ với bọn Thổ.

Quý nắm được tóc Nữ, vít lấy đầu vả tới tấp. Nữ xổ tóc tai
gào khóc dẫy dụa, nhưng càng dẫy Quý càng đánh.

- Mày chết đi!

- Vous êtes dégueulasses. Vous aussi, vous êtes des


immigrés. Des Turcs!

Nữ vùng vẫy, nhưng Quỳ phụ với Quý lấy giây điện quất
vào mặt Nữ không cho cãi. Quý trói lôi con gái sềnh sệt
lên lầu khoá trái. Chiếc vòng ngọc Nữ đeo ở cổ tay nứt rớt
trên mặt đất, tôi cúi lượm thấy vở giữa lòng bàn tay mình
một nỗi ham muốn mới kỳ dị. Quý chìm đắm trở lại vào
trong nỗi buồn tổ tông hiu quạnh, hạnh phúc hoài thai vì
thiếu vắng bầy rồng quen thuộc. Chiến lơ đãng với cổ bài
đánh tráo thời gian. Quỳ thêu móc áo lót đờ đẫn. Và gia
đình Quý gia công sản xuất buôn lậu. Văng vẳng giọng
ngâm cổ văn của cu. Cử: Song mẫn tinh tinh lưỡng nhãn
hoạ.. Tôi đi tìm căn nguyên của nỗi ham mê mới mẽ hình
thành trong mình. Không có khám phá nào kích thích
bằng khám phá trẻ thơ.

Nữ đợi tôi giữa buồng. Mái tóc con gái vuốt mềm xuống
lưng áo dài phin trắng. Nỗi ham mê mới trong tôi đẹp
ngây ngất như tuổi mười bốn mười lăm ở gương mặt Nữ
trái soan mơ ước. Ánh mắt hồn nhiên, vạt áo lụa nõn
khép nép. Nữ đẹp tựa các cô nữ sinh tuổi cài trâm tôi vẫn
rình đón trước cổng trường dạo nào. Đôi môi chúm chím,
khoé mắt lãng mạn, sóng mũi bé nhỏ thẹn thùng. Cả
khung trời hoa mộng dĩ vãng cũ bừng sáng. Tôi xúc động
cầm nắm lấy tay Nữ thảng thốt.

- Em là ám ảnh của anh.

- Sao đón em muộn?

Nữ ngạc nhiên. Mắt e lệ. Người tôi run lên vì sung sướng.


Nữ nói được tiếng quê tôi. Tôi vẫn mong Nữ đừng nói
tiếng thổ dân, đôi vai Nữ run rẩy lúc tôi kéo ngã vào lòng,
hôn dậm dụi mê đắm. Thổn thức. Tôi hôn cuồn nhiệt đôi
môi nở ngát của người yêu. Nhưng Nữ đẩy tôi ra, thỏ thẻ:

- Anh xin bố mẹ cho em sang Đức sống với Mohamed.

Đầu óc tôi bàng hoàng. Hoá ra Nữ vẫn yêu thằng đường


Thổ. Có tiếng cãi vả dưới vườn. Chiến trách Quý đã bắn
con thú đẹp nhất. Quý chửi Chiến rước thú về dầy mả tổ.
Rồi đột ngột tiếng súng nổ. Tiếng M-16 chen lẫn tiếng
AK. Tiếng đại bác 155 ly pháo cùng lúc với sơn pháo 130
ly từ trong núi thúc xuống. Tường vách rung chuyển. Trần
vách nền nhà xốc tung lên dưới mỗi tiếng nổ. Ngày hôm
nay là ngày 19 tháng 6 Quân Lực VNCH, cũng là ngày 2
tháng 9 Tuyên Ngôn Ba Đình lịch sử. Tôi hoảng hốt.
Chiến tranh trở lại. Mùng Một Tết chưa qua, hưu chiến
chưa hết, nhưng lửa cháy ngoài hành lang, Nữ kêu cứu.
Tôi chạy xuống vườn, Chiến đang tưới xăng ném lựu đạn
lân tinh đốt Thế Miếu. Tôi cản Chiến.

- Anh điên rồi!

- Mày câm đi. Miếu này là miếu của nhà thằng Quý. Tao
đốt nhà nó!

Trên đầu súng ta đi tổ quốc đã vươn mình Tiếng kèn xuất


quân Chiến vút lên cao: Trên lưỡi lê căm hờn hờn căm
với xiềng xích Khu vườn vắng tanh, Quỳ biến đâu mất tôi
không rõ, tôi chạy ra Phật điện tìm Quý, anh đang vớt
dưới hồ Ba Bể một rương hòm chất đầy súng cối, súng
không giật, mìn đĩa và chất nổ TNT.

- Hết chiến tranh rồi sao các anh còn bắn nhau? 

- Tao giết nó!

Quý ráp bửng súng cối rót đạn vào chỗ tôi và Chiến vừa
đứng lúc nãy. Tiếng "départ" của mortier thúc vào dẫy
nhà trước tháp Bảo Nghiêm cháy phừng phừng. Tôi nhớ
Nữ hãy còn bị nhốt trong buồng, dẫy lầu đang phát hỏa
dữ dội. Quý ré lên như kẻ động kinh vừa pháo kích vừa
phồng mang trợn mắt: Tiếng về Sàigòn ta quét sạch giặc
thù! Tôi chạy trở lên lầu, người tôi cũng bị kích động đột
ngột. Mái tóc Nữ rõ ràng thay đổi màu sắc, những lọn
vàng óng ánh buông thả nhởn nhơ trên áo t-shirt bó
người. Nữ chẳng khác những bé gái thổ dân vừa lớn,
ngực vú mời mọc, tươi mát, kích thích.
Tôi ôm ghì Nữ. Tiếng quân nhạc Chiến đang bắn pháo bông duyệt binh
vọng vào buồng rõ mồn một: Giặc miền Bắc vô đây bàn tay sát hại đồng
bào, Bình Long quê hương tôi mồ chôn xác giặc hung tàn, hàng T-54 còn
nằm phơi xác quanh đây  Tôi xé áo Nữ thịt da trẻ thơ máu xương vô tội, tôi
nhai nghiến lấy núm ngực Nữ mềm mại đỏ son trắng ngọt. Đêm nay là đêm
Mậu Thân chôn sống tập thể. Chiều nay là chiều Mỹ Lai tàn sát không
nương tay. Sáng mai là sáng hải tặc cưởng hiếp thỏa thích. Chiều đi lên đồi
cao hát trên những xác người tiếng hát Quỳ lảnh lót. Trả con cho tao Quỳ
gào; Quý đồng ca sau Phật điện:
 

Giáo Sĩ
 

    Alexandre Lucien Abel de Rhodes mang gương


mặt thống khổ và si mê của oan hồn  chưa hề biết
đến tình yêu. Những ai bắt gặp giáo sĩ những năm
thánh chiến, thảng thốt nhận ra bóng ma mang nỗi
buồn chín thối ruột gan của một người đàn ông chưa
toại nguyện thân xác. Hôi thối đến nỗi những người
lính Marốc của tiểu đoàn 10 Tabor tăng cường cho
trung đoàn 3 Lê Dương phải bịt mũi trước xú uế nồng
nặc bốc toả từ nhà thờ chính toà Cao Bằng. Thời kỳ
đường thuộc địa số 4 chưa bị cắt, con đường hun hút
treo vắt qua những triền núi thăm thẳm, các chuyến
quân xa hãy còn tấp nập đổ những đám lính say rượu
ầm ĩ xuống xóm nhà thổ, pháo đài đầy rẫy hiện
tượng. Mỗi khi Alexandre de Rhodes thăm các họ
đạo, các ruộng mạ mới xanh mơn mởn bỗng dưng
héo úa hoá ra cằn cỗi rồi đổ rạp xuống thành đống rạ
cũ mốc như đã cháy khô từ bao kiếp nào. Các gốc
sữa chai sần không thể trổ hoa và ngay đến con sông
Hiểm nổi tiếng hung dữ, mặt nước bình thường cuộn
siết xoáy nhận chìm biết bao bè gỗ cũng vụt trở nên
lặng lờ thiu chảy. Nỗi buồn thống thiết trống vắng tình
yêu ở cha cố lây lan đến khắp vạn vật, kể cả con
người. Mỗi sáng chúa nhật rước lễ, trông thấy De
Rhodes hiện hình trên bục giảng, các con chiên giáo
xứ oà khóc vật vã tức tưởi như vừa trông thấy chính
đấng Chirst đang chịu thương khó trên thập tự giá.
Chứng trầm uất Thừa Sai phủ trùm lấp pháo đài đến
mức những tháng sau cùng trước trận đánh đường
biên giới, đại tá Antoine Marie Pierre Charton chỉ huy
trung đoàn 3 Lê Dương và cố thống chế Ney tư lệnh
khu biên thùy đông bắc phải nghiêm cấm các binh sĩ
lui tới nhà thờ để tránh hội chứng cô buồn giáo sĩ. Ðó
là thời kỳ Cao Bằng thác loạn với những trận làm tình
thâu đêm của lính Lê Dương, những trận cười suốt
sáng ở xóm thổ, những viên thuốc tẩy não vong bác
sĩ Louis Pasteur phát cho các đứa bé mắc chứng trừu
run chân, của bệnh viêm khứu giác Marốc không chịu
nổi xú uế, của những cô gái Mèo khâu vá màn trinh
vội vã và của cả những linh hồn sĩ quan da trắng thất
lạc trong kế sách bình định của tổng chỉ huy
Carpentier.

    Vương cung thánh đường thị xã mang kiến trúc Y


Pha Nho thời Phục Hưng pha lẫn kiến trúc nặng nề
Áo Phổ. Thời đó, các xóm lương đã gọi giáo đường là
Lăng Cha Cả, ai cũng biết giáo sĩ De Rhodes chết từ
lâu lắm, vong hồn chưa siêu thoát, còn đợi ngày phán
xét cuối cùng chưa xẩy đến, hãy còn quyến luyến
Ðông Dương vùng đất ông đã đến truyền giáo và lập
chữ viết bản xứ. Tất cả giáo dân kính trọng quyết định
của toà thánh, cho phép vong giáo sĩ trở về cai quản
địa hạt Cao Bằng, nhưng nhà thờ chính toà đã mục
nát lắm. Ngoài mùi xú uế xông từ nỗi buồn chín thối
ruột gan của cha cố, hình như không còn thứ gì tươi
tốt. Từ những nhành huệ đã tàn rữa rụng chậm chạp,
những trang kinh thánh đã hoá tro, các chân nến đã
hết sáp nhưng vẫn tiếp tục cháy ngọn lửa leo lét mà
không ai hiểu vì sao, đến các băng gỗ cũ mục mối
mọt kê dưới chân tượng thánh Michel đã bắt đầu nổi
ghẻ và tháp chuông thẳng đứng cao vút cũng chìm
trong vũng mây xiêu đổ hoang tàn. Alexandre de
Rhodes chui rúc trong nhà nguyện. Giáo sĩ mặc cảm
với tất cả mọi đàn bà sinh sống trong pháo đài từ lúc
nhận chân ông đã bị thượng đế tước mất chức năng
đàn ông, từ lúc khám phá rặng sữa sau nhà thờ
không bao giờ có thể đơm hoa trắng và vườn cà ông
trồng đã ba trăm năm không thể cho trái. De Rhodes
chỉ còn một nỗi đam mê cuối cùng duy nhất. Nỗi đam
mê tiểu thuyết.

    Hiếm ai biết những cuốn tiểu thuyết An Nam diễm


tình dịch sang tiếng La Tinh và Bồ Ðào Nha bày bán
ở hiệu sách Tôn Thọ Tường những tháng đầu năm
1950 do chính tay Alexandre de Rhodes chuyển ngữ.
Giáo sĩ kinh hoảng khám phá thứ chữ ông ký âm ba
thế kỷ trước đã trở nên lúc nhúc đông đúc thoát ra
khỏi quy tắc văn phạm do chính ông thiết lập trong tự
vị Việt Bồ La. Lúc sinh tiền, De Rhodes đã nhận ra
mọi thứ biến hoá cấp kỳ ở An Nam. Lần chứng kiến
cố Du tử đạo, De Rhodes đã để ý những khóm dứa
trồng quanh pháp trường chỉ cao bằng đọt măng tây,
đã lớn nhanh như thổi từ lúc đao phủ của Chúa
Nguyễn hươi đao cho đến khi chặt thủ cấp cố Du, đã
đơm trái chín vàng ngọt rụng xuống các gánh hàng
rong xăm que bán cho khách đi xem hành quyết. Mãi
về sau ông mới hiểu, khóm dứa nhờ thấm phân cố Du
quá sợ hãi vãi đái mà lớn nhanh như vậy. De Rhodes
cũng chứng kiến sắc tộc Kinh có khả năng học ngoại
ngữ rất nhanh. Những ngày ở Ðàng Trong, khuyến
khích các con chiên vừa mới theo đạo xưng tội, De
Rhodes để ý các cô gái chỉ biết khai bằng tiếng
Khmer ông không sao hiểu, nhưng cũng các cô gái
đó, khi lập gia đình đến nhờ ông làm phép giao, đã
nói lưu loát tiếng Trung Hoa và khi De Rhodes rửa tội
cho đứa con đầu lòng, các cô dâu trẻ đã biết
nói merci  và xin pourboire.  Thời kỳ trông coi giáo
phận Cao Bằng, De Rhodes quyết tâm dành hết thời
gian khám phá những bí ẩn trong con người An Nam.
Ông không còn ăn bổng lộc của hội Thừa Sai và có
đủ thời gian cần thiết cho đến ngày chúa sống lại. De
Rhodes tin bí mật sắc tộc Kinh chỉ có thể phô diễn và
lưu lại qua chữ viết. Ông bắt đầu lùng sục những chợ
sách, nhưng rất nhanh De Rhodes ngạc nhiên thấy
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh in hệt tiểu thuyết Pháp,
tiểu thuyết Phạm Duy Khiêm,  Nguyễn Trọng Quản
không khác mấy thời ông viết Phép Giảng Tám Ngày
và tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng châm biếm nhức nhối
ông không sao hiểu hết. Giáo sĩ bắt đầu tuyệt vọng,
ông ợ hơi thum thủm và nỗi buồn chín thối ruột gan
càng lúc càng nồng nặc thối hoăng khắp vùng. Các
họ đạo xa lánh dần nhà thờ, mỗi lúc làm lễ De
Rhodes phải giảng kinh Sám Hối ven sông Bằng
Giang để gió xua bớt mùi thối. Giáo đường mỗi lúc
một hoang vắng, ngay cả dì phước Louise Marie de
Bourbon, nữ tu không còn chức năng đàn bà, cũng
không dám thường xuyên đến chăm sóc cha cố, chỉ
liên lạc với cố đạo qua thư tín. Tấm áo chùng gai của
Alexandre de Rhodes không còn được dì Louise giặt
giũ, mỗi lúc một cũ nát, bẩn thỉu và chảy nước vàng
của chứng thối ruột. Nhà thờ chính toà trở nên thê
lương, mối ăn ruỗng các cột quân và vòm mái đìu hiu
leo lét tim đèn không còn dầu. Các xóm đạo chung
quanh đã phải dọn đi vì sợ giáo đường sụp đổ bất cứ
lúc nào. Cho đến ngày vong cố Du Paul Marchand
ghé thăm, thâm tạ De Rhodes đã tiễn đưa ra pháp
trường Thọ Ðức lúc lâm chung, đã mách chỉ cho giáo
sĩ thư viện to lớn cổ xưa của nhà thờ xây chìm sâu
trong một căn hầm đá, lúc đó, Alexandre de Rhodes
mới khám phá ra Tự Lực Văn Ðoàn.

    Alexandre Lucien Abel de Rhodes đọc miên man


những cuốn tiểu thuyết diễõm tình. Giáo sĩ không ra
khỏi hầm đá, ăn uống tiêu tiểu ngay bên cạnh giá
sách Tự Lực. Thậm chí ông không có thì giờ vén áo
chùng mỗi khi đại tiện. De Rhodes đọc đi đọc lại
những cuốn tiểu thuyết, đọc hết chương này sang
chương khác, đọc hết cuốn này sang cuốn khác, ông
vừa tra tự vị mỗi khi gặp những chữ mới không do ông
ký âm, vừa phiên dịch sang tử ngữ La Tinh và tiếng
Bồ Ðào Nha, ông bắt gặp trở lại niềm đam mê cuồng
nhiệt nồng thắm ngôn ngữ thời trẻ, và càng đọc De
Rhodes càng cảm văn phong trong sáng rất gần gũi
Tây Phương vừa đầy tâm lý ý nhị An Nam. Giáo sĩ
dịch bốn cuốn Bướm Trắng, Ðôi Bạn, Anh Phải Sống
và Gánh Hàng Hoa gởi cho các nhà xuất bản Âu
Châu nhưng ông chỉ nhận được những hồi âm thờ ơ
của nhà Pléïade cho biết thị trường tiểu thuyết Ðông
Dương không chạy, nhà xuất bản Plon trả lời thẳng
truyện dài An Nam còn quá phôi thai chỉ sao chép lại
tiểu thuyết Pháp, và nhà Flammarion chê bản dịch
chưa chuẩn. Nhưng giáo sĩ không nản chí, ông gởi
bán ở hiệu sách Tôn Thọ Tường bên hông Pharmacie
de Garde thị xã. Thỉnh thoảng De Rhodes cũng nhận
được thư độc giả của các sĩ quan trung đoàn 3 phê
bình này nọ. Thư của cố hải quân thiếu tá Henri
Rivière khen ngợi văn rất mạch lạc, gẫy gọn, khúc
chiết, chỉ ít scène gây cấn. Thư của cố hải quân đại
úy Francis Garnier nhận xét nếu thêm chút dâm dục,
da diết, dữ dội và loạn luân sẽ lôi cuống hơn. Thư dì
phước Louise thích đặt biệt truyện Vợ Chồng A Phủ
của Tô Hoài hơn hết… Các thư độc giả khiến De
Rhodes càng hăng say mê mẩn, ông đọc Ðời Mưa
Gió như sống một mối tình thật sự. Lần đầu tiên giáo
sĩ khám phá trong tiểu thuyết ghi chép những điều
mà kinh thánh không hề nhắc đến. Ðời Mưa Gió ghi
chép tất cả tâm trạng con người khi yêu mà De
Rhodes chưa hề thấy trong Tân Ước, Cựu Ước. Ông
si mê Ðời Mưa Gió đến quên đại tiện, quên lễ mifa,
quên cả làm phép sức dầu ở nhà xác thị xã cho toán
lính Marốc vừa tử trận. De Rhodes dịch mê man Ðời
Mưa Gió, ông viết thoăn thoắt tựa như chữ đã nhập
vào mình, tựa ông đã sống ở phố Quan Thánh nơi
nhân vật Chương sinh sống, tựa đã trông thấy Tuyết
uống champagne và khiêu vũ. De Rhodes viết đêm
ngày, trăng lên trăng xuống ông không hay, mưa bão
ông không hề biết, viết đến rách giấy, viết đến thủng
bàn gỗ cẩm lai khiến ý văn tung toé, chảy lai láng
trên mặt đất. Thậm chí bình mực đã cạn giáo sĩ vẫn
tiếp tục chấm, tiếp tục viết đến lúc ngòi bút cùn vẹt,
cán bút lụn dần rồi biến mất mà mực vẫn cứ tiếp tục
trào ra chảy ở đầu ngón tay ông sưng đỏ như quả ớt.

    Những năm thánh chiến, ở Cao Bằng xuất hiện


một hiện tượng kỳ quái, không liên quan đến giáo sĩ,
mỗi cuối  tháng ở nghĩa địa đất thánh Tây ùn lên một
đám mây xám ẩm ướt lạnh lẽo phủ trùm khắp hai bờ
sông Hiểm. Chính một trong những áng mây nặng chì
u uất xám lạnh này đã len lỏi bay xuyên qua vách
tường đá của căn hầm thư viện. Nhưng De Rhodes
không trông thấy, ông vừa dịch đến câu chữ cuối,
đóng bản thảo rồi lim dim mắt. Chưa bao giờ giáo sĩ
hài lòng đến vậy suốt kiếp ma khắc khoải không lối
thoát. Ông vừa hoàn tất công trình phiên dịch văn
chương trác tuyệt, vừa cho các nhân vật tiểu thuyết
Tự Lực một kiếp đời khác, trong một ngôn ngữ khác.
De Rhodes nhắm mắt sung sướng, gương mặt ông
phản chiếu trong mây nỗi hân hoan nhẹ nhàng của
cậu bé Alexandre khi rước lễ thành niên lần đầu trong
thành Goa. Ðã lâu lắm De Rhodes quên ngủ. Từ sau
khi chết ba trăm năm, ông không còn phân định được
tương lai, thực tại hay quá khứ. Nhưng buổi sáng đó,
buổi sáng ngập mây xám trong tầng hầm vách đá
của nhà thờ chính toà Cao Bằng, cha cố bất chợt nhớ
đến thời trẻ đã có lần trông thấy một thiếu nữ tuyệt
đẹp, đội khăn vành trắng không rõ mặt nhưng ánh
mắt đen tuyền lấp lánh nghịch ngợm và mái tóc đen
bóng của đàn bà Bồ Ðào Nha đã để lại trong lòng
cậu bé Alexandre nhiều luyến tiếc. Alexandre đã ước
mơ được đi theo thiếu nữ, sau rước lễ, cùng sóng đôi
rảo bước trên những con đường lát đá cổ xưa của bến
cảng trông ra đại dương mênh mông xa vắng, cùng
nắm tay trong các lối đi quanh co nhỏ hẹp giăng hoa,
treo cờ ngũ sắc và thắp đèn lồng của ngày kiệu
Maria. Alexandre cảm giác anh đứng gần lắm thiếu
nữ, gần có thể chạm được vào những đầu ngón tay
thuôn mảnh dẻ nhú ra ở ống tay áo mỏng, gần đến
mức có thể nghe được làn da cô gái đang hô hấp,
gần sát đến nỗi anh trông rõ hàng mày đen tinh
nghịch đang nhíu cong trông đợi. Alexandre nghĩ anh
đang đứng cạnh đức mẹ Maria thời còn con gái. Cả
hai chờ đợi nhau lâu lắm, chờ đợi tiếng thở của mỗi
người lên xuống trong lòng ngực tràn máu ấm. Thiếu
nữ chỉ đợi anh mời lôi kéo vào điệu vũ rước đám đang
tưng bừng trẩy hội, để ngã mình xoay trong vòng tay
đưa đón của Alexandre điệu múa của sóng biển.
Song vũ trụ bất động. Chiếc bánh thánh còn ngậm
trong miệng khiến Alexandre không thể cất tiếng.
Ðức hồng y Richelieu của hội đồng giáo phẩm tối cao
toà thánh đã không ngừng răn đe: Các con chiên
không được nhai nuốt bánh thánh, chỉ có quyền
ngậm cho đến khi mình thánh Chúa hoá thân thành
xương thịt của mỗi con chiên, nếu không lửa thiêng
sẽ đổ xuống trái đất đời đời. Alexandre nhắm mắt,
nước mắt anh chảy ra vì đau đớn, cho nỗi đau bẩm
sinh tật nguyền của một thiếu niên mười bốn. Ðến khi
chiếc bánh thánh tan di, Alexandre mở mắt, cô gái đã
biến mất. Alexandre còn trở lại giáo đường nhiều lần
nữa với hy vọng gặp lại thiếu nữ, anh đã trở lại nhiều
lần đến nỗi thuộc lòng hết bốn ngàn bản thánh ca,
thuộc lòng tất cả những bài giảng của các linh mục,
thuộc lòng toàn bộ kinh thánh và trở thành cha xứ
Dòng Tên lúc nào anh cũng không hay. Alexandre
trông coi nhà thờ Goa trong nhiều năm, với hy vọng
gặp lại thiếu nữ có đôi mắt đen láy đầy khát khao sự
sống, đến lúc gần tuyệt vọng, anh được tin người đàn
bà đã kết hôn và theo chồng đi khai trí Châu Á. Cha
xứ De Rhodes dấn thân vào hành trình truyền giáo
Phương Ðông kể từ lúc đó, nhưng mãi mãi, giáo sĩ sẽ
không bao giờ còn gặp lại người đàn bà của thành
Goa. 

    Buổi sáng đó, buổi sáng có những khúc lụa bay
chậm rãi trong giấc ngủ thiu thiu, De Rhodes có cảm
giác một làn sương sớm tinh khiết thơm cây trái đang
phả suốt hầm. Hương hoa mỗi lúc một toả ngát đậm
đặc lấn át dần mùi xú uế. Cha cố tỉnh ngủ hẳn. Ông
nhìn trân trối đoá hồng đỏ gắt đang mọc nhú từ từ, trổ
từ bức tường lâu năm ám khói, thứ hồng đỏ gắt rực rỡ
Nhật Tân mà có lần De Rhodes đã trông thấy ở xứ
bảo hộ Bắc Kỳ. Cha cố kinh ngạc không hiểu vì sao
khóm hồng đỏ lịm đã có thể đâm xuyên thủng trần
hầm thư viện. Nhưng rõ ràng các đài hoa đang nứt
rạn vách đá. Trong một phút, ngôi huyệt cổ đơm chi
chít mẫu đơn, glạeul và hồng tía, tựa nhà thờ sắp có
lễ giao. De Rhodes lấy tay phủi mây để nhìn cho rõ
và ông chết cứng khi ấy, khi tay hãy còn nắm níu
những cọng mây đang trôi lơ lửng.   

    Alexandre chết sững. Người đàn bà có đôi mắt


thông minh của thành Goa đang ngồi trước mắt anh,
chỉ cách một mặt bàn. Vẫn thiếu nữ nở nang khoẻ
mạnh của đêm kiệu Maria, vẫn mái tóc đen loang
loáng bóng tối loã xoã trước sống mũi tinh nghịch.
Alexandre nghe hơi thở của thiếu nữ lên xuống trong
lồng ngực đã qua tuổi dậy thì bung nở kiêu hãnh,
nghe hơi thở hổn hển của chính anh, của vong hồn
đã tắt thở ba trăm năm. Anh muốn hỏi, nhưng không
sao cất tiếng. Muốn thốt lên nỗi nhớ mong da diết
diệu vợi của một trăm ba mươi ngàn ngày xa cách
nhưng anh chỉ có thể lắp bắp.

    - Blời ơi !

    Alexandre muốn nói anh đã tìm cô gái suốt từ bấy,


từ đêm kiệu Maria chấm dứt anh đã hốt hoảng chạy
suốt đêm trong thành Goa tìm kiếm, từ năm 1624 khi
anh bước chân xuống những thương thuyền Bồ Ðào
Nha vượt đại dương đi tìm chân lý của sự sống, từ
những tháng ngày lang thang lếch thếch giảng kinh ở
các xóm đạo Ấn Ðộ, Mã Lai, Ma Cao, Hồng Kông,
Qui Nhơn, Quảng Ngãi, đến đâu Alexandre cũng chỉ
hỏi thăm một người đàn bà duy nhất, mong có ai
thấy. Cho đến phút lâm chung trút hơi thở cuối cùng,
trên giường bệnh trong thành Ba Tư, Alexandre vẫn
hãy còn kêu tên người đàn bà mà anh chưa hề biết.
Nhưng anh không tìm ra chữ. Không sao diễn tả thứ
tình cảm vĩnh cửu nhân loại còn dai dẳng hơn cả sự
sống hứa hẹn đời đời trên nước Chuá. Anh không thể
thốt lên lời tỏ tình chưa ghi chép trong kinh thánh.
Alexandre nhận ra miệng anh vẫn hãy còn ngậm
chiếc bánh thánh ngày nào. Chiếc bánh thánh chưa
bao giờ tan, chưa hề tan, chưa hoá thành máu thịt,
còn ở nguyên trên lưỡi anh vị nhạt nhẽo của bột lúa
mạch xây nhuyễn. Thiếu nữ cũng nhìn anh trừng
trừng trân trối, cho đến khi cô gái chắp hai tay vái:

- Vâng em là Tuyết của Ðời Mưa Gió, của Nhất Linh


và Khái Hưng trong Tự Lực Văn Ðoàn, người chịu ơn
của anh!

    Alexandre Lucien Abel de Rhodes chỉ kêu lên được


hai chữ thảng thốt Blời ơi rồi ngất đi. Chữ Blời mà
cách đây ba thế kỷ, giáo sĩ đã nhạy cảm hiểu trong
ngôn ngữ bản xứ mang cùng một ý nghĩa Ðức Chúa
Cha trong kinh thánh.
 

    Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny là một


trong những sĩ quan trẻ còn sống hiếm hoi của trung
đoàn 3 Lê Dương. Khác với đồng đội, đa số đã quá
cố nhưng vẫn tiếp tục hiện dịch, Bernard mang trên
mình sức sống còn trinh nguyên của những bông lys
trắng chưa héo uá. Viên trung úy trẻ mang vẻ đẹp
cao sang quyền quý của những tử tước thời trung cổ,
vừa vương giả, vừa tinh khiết của các cô dâu ngày
cưới. Nét đẹp của Bernard de Lattre trong trắng đến
mức quân phục của anh không bao giờ có thể lấm
lem, ngay cả những khi viên trung úy lội sình bùn dẫn
một trung đội đi phục kích ở làng Trà Linh, sát cạnh
biên giới Trung Hoa. Suốt một đêm ngâm trong sình
lỏng, hỗn chiến ác liệt lúc chạm súng, đám lính Lê
Dương cáu bẩn bê bết máu, nhưng trung úy De Lattre
thẳng thớm như vừa bước chân ra khỏi hiệu giặt ủi.
Nhưng khác hẳn đại tướng Jean de Lattre, Bernard
không đi tìm hào quang chiến thắng, không ước
muốn chinh phục Ðông Dương, anh chỉ mang một
khát vọng duy nhất, đơn sơ, thầm kín, tìm thấy tình
yêu lứa đôi trong đời sống. Trung úy De Lattre là sĩ
quan duy nhất không xuống xóm nhà thổ, anh tin vào
thượng đế và giữ mình cho tình yêu lớn sau này.
Nhưng đó là chuyện của một năm trước, khi đồn Phủ
Tổng Hoà chưa thất thủ, khi đường thuộc địa số 3
chưa bị cắt. Thời gian Cao Bằng bắt đầu bị vây hãm,
tựa tên khổng lồ bị chôn giữa rừng, chỉ còn nhô chiếc
đầu cổ quái khổng lồ lên nhìn ngắm núi đá, hai tay,
một níu Bắc Cạn đã bị chặt, một níu Lạng Sơn cố
gắng vung chiếc chùy sắt đập lũ dơi đang hút máu,
Bernard de Lattre chỉ còn là một thân xác tuyệt vọng
sống đợi chết. 

    Buổi trưa khi đồn Phủ Tổng Hoà thất thủ và mẹ bề
trên Thérèse đã một trăm tuổi, đã mù loà của chủng
viện Các Thánh Anh Hài bất chợt nằm ác mộng trông
thấy đám giặc Cờ Ðen vây đốt tu viện, không biết ở
đâu có tin đồn trung úy Bernard de Lattre sắp làm lễ
cưới. Tin đồn rùm ben đến nỗi, đại tướng De Lattre
khi ấy còn chỉ huy đệ nhất lộ quân sông Rhin, từ Âu
Châu đã phải gởi thư khuyên nhủ con trai chọn hôn
phối phải có phẩm hạnh, gốc gác. Tin đồn nhiều đến
mức Bernard de Lattre cũng tin là anh sắp thành hôn
khi thấy các trại lính kết hoa và câu lạc bộ sĩ quan trải
khăn ăn trắng muốt. Trong pháo đài chỉ có một người
đàn bà da trắng duy nhất, nữ tu Louise Marie de
Bourbon, phẩm hạnh và xinh đẹp. Bernard đã đến
hỏi Louise cho ra lẽ, có phải dì phước đã xin rút phép
thông công, thôi ân cách để thành thân với anh? Mãi
cho đến lúc hy sinh ngoài mặt trận, Bernard vẫn hãy
còn hối tiếc đã hỏi câu hỏi quá ngu xuẩn, dì Louise bị
xúc phạm tột độ đã đóng sầm cửa tu viện để không
bao giờ còn tiếp anh. Thời gian Bắc Cạn triệt thoái,
các đơn vị tiền phương của sư đoàn 308 tiến đến sát
bờ sông Hiểm, trung úy De Lattre bất chợt khám phá
anh không thể nào tìm ra tình yêu lứa đôi trong cuộc
đời, vì một lý do duy nhất, anh không thể định nghĩa
được tình yêu, do đó, không thể tổng hợp những tiêu
chuẩn cần thiết tối thiểu để chọn ý trung nhân. ý thức
tình yêu không thể tìm thấy, rất khó hiện hữu, bỗng
khiến Bernard hối tiếc anh chưa bao giờ xuống xóm
thổ, chưa bao giờ ân ái với phụ nữ. Viên trung úy đi
ngay xuống xóm yên hoa ven sông Hiểm, bất chấp
những ổ phục kích đêm của Việt Minh, nhưng
Bernard de Lattre khám phám thêm một điều kinh
khủng, anh hoàn toàn bất lực, không có khả năng
sinh lý, dù nhỏ nhoi, hiếm muộn. 

    Thời kỳ đó, ở Cao Bằng lại thêm tin đồn trung úy
De Lattre, con trai tân tổng tư lệnh quân đoàn viễn
chinh tương lai, sắp tử vong. Nhưng kỳ quặc, khác với
tin đồn thất thiệt lễ cưới, do các sĩ quan Pháp chòng
ghẹo chế riễu, chính dân bản xứ kháo nhau đám tang
sắp đến của Bernard sẽ đi qua phố Chả Cá, bên
hông nhà thờ chính toà. Tin đồn nghiêm chỉnh đến độ
mỗi lần Bernard xuống phố, các sắc tộc thiểu số
Nùng, Mông, Mán, cả người Kinh đều cúi đầu vái lạy
anh như đi điếu. Viên trung úy bắt đầu thắc mắc, nỗi
nghi ngờ tăng dần lên sau mỗi khi xin xăm, gieo quẻ
ở các ngôi đền An Nam. Khác Francis Garnier, khác
Henri Rivière, Bernard yêu thích đặc biệt kiến trúc gỗ
Á Ðông. Anh lui tới thường xuyên các chùa chiền và 
khám phá tục bói toán An Nam. Thời kỳ đó, những
ngôi chùa lớn nhất của Thăng Long đều có văn
phòng đại diện tại Cao Bằng, Bernard đã viếng hết
những văn phòng chùa cổ nổi tiếng nhất, đã đến
chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa Quan Thánh,
chùa Trấn Võ, Văn Miếu Quốc Tử Giám và lần nào
lấy lá số tử vi, các thầy An Nam cũng đều quả quyết
anh sẽ chết ở Ðồng Khê, một trăm thầy như một, nhất
quyết anh sẽ chết ngày 30 tháng 5 năm 1950. Thậm
chí có quẻ còn cho cả giờ chết, là giờ Thần Trùng
khiến sau này anh sẽ bắt đi đại tướng Jean de Lattre
de Tassigny, khi ông đang ở trên tột đỉnh vinh quang
của danh vọng sau chiến thắng Vĩnh Yên. Ban đầu,
Bernard đầy nghi hoặc, đã điện về phòng quân số
của bộ tư lệnh Bắc Phần, đích thân tướng Alessandri
đã trấn an, khuyên anh yên tâm sẽ không chết ở
Ðồng Khê, vì tất cả các phúc trình báo cáo đều ghi rõ
tìm thấy xác trung úy Bernard de Lattre tại Ninh Bình,
trong trận bờ sông Ðáy, ngày 30 tháng 5.1951, đúng
một năm sau đó. Suốt mấy tháng liền, Bernard rất
hoang mang, anh không biết đâu là sự thật, đôi lúc tin
vào quân sử, vào thực tế hiển nhiên, đại tướng De
Lattre chưa sang Ðông Dương, chưa có trận Vĩnh Yên
làm sao có trận Ninh Bình, và tổng chỉ huy đương
nhiệm vẫn hãy còn là tướng Carpentier, nhưng tất cả
các quẻ xin xăm ở đền An Nam đều mang một thông
điệp trái ngược rùng rợn: Ðồng Khê mạng vong lúc 9
giờ sáng.

    Buổi trưa đến nhà thờ chính toà thị xã, để từ giã
vong hồn cha cố, trung úy De Lattre đã xuống tinh
thần lắm. Ðã mùng 9 tháng 4, chỉ còn đúng 7 tuần
nữa là đúng ngày thần Trùng đến bắt người, mà De
Lattre tin chắc anh có tên trong danh sách. Trung úy
De Lattre cũng khám phá cơ thể anh đang biến dần
thành xác chết, da mặt anh xanh tái, môi thâm và
tròng mắt càng lúc càng trắng đục. Bernard cố đổ lỗi
do anh mất ngủ, hút thuốc lá quá nhiều và sợ hãi,
nhưng rõ ràng là da thịt anh đang chết đi từ từ, chết
dần dần đến nỗi anh ăn uống không còn cảm thấy vị
giác gì nữa, hai bàn tay lúc nào cũng lạnh ngắt như
bàn tay xác chết. Bernard cũng bắt đầu có những
dấu hiệu mắc hội chứng buồn thối ruột giáo sĩ. Thứ
chứng bệnh chỉ xẩy đến cho đàn ông không toại
nguyện thân xác. Anh đã bắt đầu ợ hơi thum thủm và
mỗi khi đánh rắm, mùi xú uế thối kinh dị. Bernard tin
chắc anh sắp chết, không ai có thể cứu nỗi. Anh
muốn đến viện Pasteur khám, nhưng trông thấy
những đứa trẻ mắc chứng trừu run chân uống thuốc
tẩy não, tuy hết bệnh, nhưng tròng mắt ngô nghê,
đầu óc trống rỗng, cứ cười toét miệng khiến anh kinh
hoảng. Những tuần lễ sau cùng, các quẻ xăm trở nên
khẩn cấp, các tờ chú giải chỉ in đậm một chữ duy
nhất, tử vong, nhấp nháy liên hồi như muốn báo nguy
hiểm.

    Buổi trưa đến chào cố đạo, viên trung úy trông thê
thảm. Quần áo anh dơ bẩn, vấy ố, tựa vẻ đẹp trắng
trong đã bị chứng thối ruột gan ăn nhấm. Bernard vừa
nhận được lệnh thuyên chuyển đơn vị đi đóng đồn
Ðồng Khê, nơi anh sắp chết. Trung úy De Lattre thấy
rõ, anh đang bước dần đến định mệnh, không thể
thoát, không thể tránh khỏi. Buổi trưa nắng gay gắt,
nắng ran trên mái lô cốt của hàng rào phòng thủ,
Bernard de Lattre trang bị rất nhiều vũ khí, ngoài
súng colt chỉ huy, anh còn mang bazooka và mìn
chống chiến xa, viên sĩ quan luôn sợ hãi chạm trán
thần chết, bắt gặp thần Trùng ở mỗi góc phố.
Bernard muốn chết trong danh dự, chiến đấu đến
phút cuối cùng của đời binh nghiệp ngắn ngủi. Anh
cũng không dám đi một mình, sợ thần chết kéo cả
bầy. Cùng đi với anh có toán lính da đen lực lưỡng
cầm trung liên nồi mở đường. Ðám lính đi qua những
con ngõ im ỉm, tất cả mọi cửa sổ, cửa cái của các
hiệu thương buôn đều đóng kín, cả những gánh hàng
rong cũng vất lây lất, không kẻ mua, người bán, chỉ
nổi những váng nước vối tím tái. Ðám lính đi qua lối đi
ngoằn ngèo, giữa trưa im phắc, không tiếng động,
không một chút âm thanh nào khác ngoài tiếng cựa
mình của bụi. Tất cả phố xá đều mang dấu hiệu một
lễ tang của những ngày sau hoả thiêu, một nhà mồ.
Nhưng khác mọi khi, các gốc sữa phía sau nhà thờ
xum xuê rậm rạp trổ hoa trắng khác thường, tiết ra
mùi sữa bột Guigoz nhờn nhờn của khi vừa trộn nước
sôi và vườn cà đã ba trăm năm chưa cho trái chen
chúc, lúc nhúc những quả cà to bằng trái bí rợ nằm
lổn ngổn trên đất. Bernard bỗng cảm thấy thấy sợ.
Tất cả mọi thứ đều khác lạ, làm như có bàn tay vô
hình lướt qua vạn vật. Chỉ có thể là thần Trùng.

    - Ối anh đừng bắn ! Em lạy anh đừng bắn !

    Thiếu nữ rên lên hốt hoảng lúc viên trung úy tông
cửa. Bóng tối của giáo đường vỡ oà với ánh sáng ập
vào nền đá như rải lửa. Dưới tượng Ðức Mẹ cũng
đang hốt hoảng, Bernard chết sững. Cô gái chắp hai
tay vái không ngớt.

    - Ối anh đừng bắn ! Em là Tuyết của Ðời Mưa Gió,


người chịu ơn của anh !

    Mãi về sau, trung úy De Lattre vẫn hãy còn nhớ đã


choáng váng, lảo đảo như trúng sét. Anh vừa trông
thấy rõ rệt định nghĩa tình yêu bấy lâu tìm kiếm, chép
đầy đủ trên thân thể cô gái không sót một hàng, một
chữ nào. Bernard đánh rớt quả mìn chống chiến xa
lúc đó, trong hồi tưởng anh hoàn toàn không nghe
thấy tiếng chân hối hả của đám lính ngã bổ hứng quả
mìn sợ bật kíp bung nổ. Cả tiếng hỏi nhốn nháo quát
tháo và tiếng động gạt tung các tấm phên chắn trước
phòng xưng tội lùng sục đặc công Việt Minh và tiếng
cơ bẩm lên đạn lục soát một vòng những băng gỗ
cầu nguyện của toán cận vệ. Anh nhớ đã rất ngạc
nhiên vì những người lính không trông thấy cô gái,
đang quỳ trước mặt anh van vái. Bernard nhớ rõ,
thiếu nữ in hệt người đàn bà trong trí tưởng bấy lâu
anh lùng kiếm, đôi mắt lá răm cuống quýt, mái tóc
đen bóng tối, nước da ửng mật giữa trưa nóng, cô gái
mang suốt thân thể những bí ẩn của tình yêu và điều
kỳ lạ, anh đọc được hết tất cả những mật mã ghi chép
tường tận trên da mặt cô gái, viết chi chít ở vành môi
dầy và lan xuống đến hai vai, ở bắp tay thuôn nõn
săn chắc, đầy ắp ở lồng ngực lên xuống chỉ bị che
khuất bởi vạt áo lụa đang trải ra trước mắt. Bernard
nhớ anh đã vật cô gái ra đất, xé toạc áo sống để nhìn
cho rõ những nguyên lý thầm kín của tình yêu chép
nắn nót trên hai bầu ngực, viết quanh rốn, xâm từng
chữ ở hai đùi và chính giữa bụng thiếu nữ. Và kỳ diệu,
mỗi khi đọc đến đâu, xác thân anh sống lại, hai bàn
tay ấm dần, tròng mắt trong xanh và môi không còn
thâm tím. Bernard đọc ngấu nghiến tất cả những chữ
viết xoắn xít trên mình thiếu nữ, anh không thể nhớ
đó là chữ La Tinh, An Nam hay Tây Ban Nha, chỉ nhớ
anh có thể hiểu hết tất cả, những định nghĩa tình yêu
đang chảy đột ngột tuôn vào người anh như sấm sét.

    Cái chết đột ngột của trung úy Bernard de Lattre


de Tassigny ngay sau đó, ở trận tổng công kích Ðồng
Khê khiến không ai rõ chuyện gì đã xẩy ra trong nhà
thờ chính toà, nhưng những năm sau thánh chiến,
đám lính da đen ít ỏi còn sống sót kể những câu
chuyện lạ lùng. Buổi trưa vong giáo sĩ De Rhodes
bay đi giảng kinh ở các bản làng Nùng, Thổ, trung úy
De Lattre đến nhà thờ và hoá điên. Ðám lính da đen
trông thấy ông vật lộn một mình với khoảng không,
tuồng ông rơi vào trạng thái động kinh tâm thần, toán
lính cận vệ ngỡ ông sắp sốt xuất huyết, vội vã chích
huyết thanh, nhưng De Lattre đã giận dữ đuổi cổ tất
cả ra khỏi nhà thờ. Ðứng ngoài cổng những người lính
châu Phi nghe rõ viên trung úy thở hào hển, hối hả
gục mặt xuống đất hôn như mưa lên nền đá hoa
cương, đôi lúc đối thoại bí mật với một người đàn bà
nào đó, có lúc gần như tỏ tình đắm đuối đến kiệt sức.
Suốt buổi chiều Bernard de Lattre ở trong nhà thờ,
cho đến khi bước ra, gương mặt ông mang nỗi si mê
kỳ dị. De Lattre vứt bỏ vũ khí, cởi quần áo, nhảy
xuống sông Bằng Giang bơi đến tận nguồn, mãi đến
tối mịt ông mới bơi trở về, và chuyện lạ hiếm có, lần
đầu tiên ông dẫn cả đơn vị xuống xóm thổ, đãi bia và
thuê bao tất cả những cô gái điếm kinh nghiệm. Suốt
đêm đó, cả thị xã không ai ngủ được vì tiếng rên la
thoả mãn không đứt quãng của các cô gái nối tiếp
nhau thay phiên làm tình không ngơi nghỉ với viên
trung úy. Tiếng kêu la khoái lạc vọng đến sáng và rất
đông đã có thai sau đó. Nhiều năm sau chiến tranh
vẫn còn nhiều cô gái giắt con đến đại sứ quán Pháp
ở phố Lý Quốc Sư, xin mang họ De Lattre, xin nhập
tịch và lãnh trợ cấp trong lúc chờ đợi định cư ở mẫu
quốc.

    Tin trung úy De Lattre tìm thấy định nghĩa tình yêu
loan rất nhanh, trở thành hiện tượng trong những
ngày trước trận đánh thảm khốc đường biên giới. Ai
gặp De Lattre cũng hỏi xin định nghĩa tình yêu nhưng
viên trung úy bảo mật cho đến phút chót, cho đến khi
lên quân xa dẫn đại đội đi đóng đồn Ðồng Khê. Câu
chuyện của toán lính da đen chấm dứt ở đó. Những
kẻ tò mò muốn biết bí mật của nhà thờ chỉ nghe kể,
khi tiểu đoàn thủy binh từ bờ sông Ðáy được lệnh
bằng mọi giá tái chiếm núi đá vôi Ninh Bình, trung đội
khinh binh đi đầu đã tìm thấy xác Bernard de Lattre
hãy còn tươi nguyên, còn giữ nguyên trong tròng mắt
chưa khép những hàng chữ viết li ti chi chít một thứ
ngôn ngữ kỳ dị nào đó mà không ai có thể hiểu. Ðó là
thời lính Lê Dương ưa hát những bản nhạc của quỷ:

Louise Marie où vas tu dans le monde ?

Je vais où vont les soldats

Louise Marie qui aimes tu ?

J'aime celui qui va mourrir

et le diable en rit, Ha, Ha, Ha, Ha

    Cũng là thời Tuyết dứt khoát thôi ăn ở với Chương


trong Ðời Mưa Gió.

    Ban đầu là tiếng sầm sầm như nhà thờ có gió lộng.
Tiếng gió vần vũ mỗi lúc một lớn khiến Tuyết thức
giấc. Tiếng gió sồng sộc thổi tốc các viên ngói bay
thốc tháo ở phố Tây làm rung các tấm tôn của phố
Chả Cá vang lên như tiếng kêu của thú rừng. Tiếng
gạch đá lăn bị gió quất lên vách nhà thờ từng chập
nghe rõ mồn một. Tuyết bật dậy bước ra khỏi chồng
bản thảo cha cố xếp ngay ngắn bên cạnh tiểu thuyết
Ðời Mưa Gió. Tối qua cả hai ngủ muộn. Tuyết đã
xưng tội với giáo sĩ suốt đêm đến gần sáng. Trong
suốt cuộc đời của một nhân vật tiểu thuyết Tuyết
chưa bao giờ sống một buổi tối kỳ lạ như thế. Quá
khứ của nàng cứ lần lượt trôi qua trong đôi mắt xanh
thăm thẳm của giáo sĩ. Kể cả những ngày mới gần
đây sống bên cạnh cha cố, tất cả cử chỉ của một
người đàn ông vô cùng thông thái, lịch duyệt và cưng
chiều nàng hết mực cũng diễn ra chậm chạp. Ðến
suy nghĩ của chính nàng, Tuyết cũng trông thấy lại.
Tuyết không sao hiểu nỗi đức cha có thể sống với
chứng bệnh buồn bã thối chín ruột gan, thường trực
chảy nước vàng ở dương vật. Ngay hôm đầu tiên
Tuyết đã quyết định nấu nước cho giáo sĩ tắm. Trong
lúc ông ngâm trầm hương trong chiếc lu cổ, Tuyết
đem hết tất cả những tấm áo chùng bẩn thỉu đi giặt
giũ. Tuyết đã rất ngạc nhiên khi không có ai trong
hiệu giặt ủi cao cấp đô thị trông thấy nàng, mặc dù
Tuyết đã lên tiếng gọi nhiều lần, cuối cùng, Tuyết
đành bỏ chung giỏ đồ giặt của khách và hôm sau
lẳng lặng đến lấy. Mỗi tối Tuyết dọn ăn trong phòng
riêng của cha cố. Tuyết hay hầm chuột sốt vang với
mận Tây Bắc, ngâm với lá nguyệt quế, có khi băm
nhỏ chục vắt tươi với hành sống tưới mật trộn sữa làm
gỏi, những món cha cố rất thích. Chính lúc trông thấy
lại cảnh chính tự tay nàng lột da cóc, Tuyết mới sực
nhớ đã quên lạng lấy mật vất bỏ, nhưng rất may giáo
sĩ đã chết, nên khi ăn trúng mật cóc ông không chết
nữa. Những ngày sống trong nhà thờ, vào ra trên
khoảng sân lát đá xanh, trông thấy chiếc bóng của
chính nàng nhập vào với bóng Ðức Mẹ, Tuyết không
ngớt suy nghĩ. Tự trong thâm tâm Tuyết biết De
Rhodes lầm lẫn nàng với người đàn bà thành Goa, lỗi
do Khái Hưng và Nhất Linh đã không miêu tả nàng rõ
rệt, khiến De Rhodes đã chuyển hoán trong vô thức
của một bóng ma, nét đẹp riêng của người đàn bà
ông si mê thời trẻ lên nhận vật nữ chính của Ðời Mưa
Gió. Trong thâm tâm Tuyết cũng chịu ơn sâu sa giáo
sĩ đã cho nàng thêm một kiếp sống, một kiếp đời,
trong một ngôn ngữ khác. Giáo sĩ đã dạy nàng biết
thêm tiếng La Tinh và Bồ Ðào Nha, cho phép nàng
trông thấy những người đàn ông da trắng. Tuyết đã
quyết định thôi ăn ở với Chương và ở lại nhà thờ một
thời gian phụng dưỡng cha cố, cùng phụ với ông hầu
việc Chúa, ít nhất cho đến khi De Rhodes hết chứng
bệnh thối ruột gan.
    Hôm đầu tiên Tuyết đã ngỡ ngàng trước ánh mắt si
mê của giáo sĩ. Ánh mắt đắm đuối của những xác
chết không được vuốt mắt, đã khiến nàng đỏ mặt,
cùng lúc cảm động vì từ ngày Khái Hưng và Nhất
Linh bỏ đi, chưa một người đàn ông nào yêu nàng
nhiều như vậy. Trong thâm tâm Tuyết không yêu
Chương, và tự trong thâm tâm Tuyết cũng biết
Chương không yêu nàng, cả hai đã bắt buộc phải
sống chung trong ngôi biệt thự số 84 đường Quan
Thánh chỉ vì một lý do duy nhất, Nhất Linh đã bắt
buộc họ ăn nằm với nhau. Tuyết đã thù Nhất Linh
biết chừng nào, người đàn ông có cái tên Nguyễn
Tường Tam mà nàng vẫn hãy còn yêu, còn kính phục
và vẫn hãy còn hờn giận đến phút này. Ngay khi mở
mắt, bước vào đời, Tuyết đã trông thấy gương mặt ấy,
gương mặt đàn ông rắn rỏi, cương nghị và vô cùng trí
thức của Nguyễn Tường Tam. Tuyết nhớ nàng đã đưa
một bàn tay vuốt nhè nhẹ gò má xương của Nhất
Linh, và hình như lúc đó Nhất Linh cũng đã cười nhẹ
nhàng. Chính Nhất Linh đã dạy cho nàng cách đi
đứng, ăn nói. Chính câu nói Vâng em là Tuyết người
chịu ơn của anh,  mà Tuyết đã thốt lên với giáo sĩ
ngay hôm đầu tiên, do chính tay Nhất Linh viết ở
dòng thứ 13 của trang 35 và bắt nàng học thuộc lòng
để ứng xử trong mọi tình huống. Tuyết biết nàng đã
yêu Nguyễn Tường Tam ngay từ những giòng chữ
đầu tiên của Ðời Mưa Gió. Thứ tình yêu đầu đời của
nữ sinh với thầy giáo, của một cô gái với phụ thân,
của một cô em với anh trai, và của cả nhân vật nữ với
tác giả. Thứ tình cảm tuyệt đẹp của mọi tình cảm gộp
lại gọi là tình yêu. Thời toà soạn còn ở phố Cổ Ngư,
Nhất Linh hay đến xem qua bản thảo chưa hoàn tất,
Tuyết luôn ngã vào lòng Nguyễn Tường Tam hôn say
đắm đôi môi thơm thuốc tẩu, Tuyết sẵn sàng dâng
hiến cho Nhất Linh lúc đó, thậm chí những khi Nhất
Linh ngồi trước bàn viết, Tuyết chỉ mặc chiếc áo
pyjama duy nhất của anh vắt trên thành ghế, không
cài cúc đứng tựa bên cạnh xem Nhất Linh miêu tả
canh bạc đương diễn ra ở nhà bà Phủ Thanh. Có
những đoạn đã khiến nàng cười ngất, cười đến ngã
hẳn vào lòng anh Tam, những lúc đó cánh áo pyjama
bung mở phô bày thân thể nàng, Tuyết đã chờ dợi
biết bao lần anh Tam áp mặt vào ngực mình, hôn lên
chiếc bụng phẳng, ôm hôn âu yếm thân thể do chính
anh tạo ra, nhưng lần nào Nhất Linh cũng gỡ tay, đỡ
nàng dậy, cài lại năm cúc áo và khuyên nàng đi nghỉ.
Mấy ngày sau, anh Tam giới thiệu với Tuyết một
người đàn ông khác. Ngay hôm gặp gỡ, Tuyết đã bị
nụ cười trữ tình của Khái Hưng quyến rũ. Khác
Nguyễn Tường Tam, Trần Khánh Dư lãng mạn hơn
rất nhiều, chính Khái Hưng đã giắt Tuyết đi mua sắm
váy đầm, nước hoa, ví cầm tay và cả đồ lót. Chính
Khái Hưng đã dạy cho nàng cách vén chéo áo, cách
trang điểm, vẽ mắt, tô môi và truyền dạy tất cả nghệ
thuật phân tích tâm lý đàn ông. Ở Khái Hưng sức
sống toát ra mời gọi, không câu nệ, cân nhắc và cứng
nhắc như Nhất Linh, đặc biệt Khái Hưng cho phép
nàng bỏ Chương đi chơi thỉnh thoảng ở đồng quê,
không nhất thiết phải ngủ đêm lại ngôi biệt thự số 84
Quan Thánh. Thời kỳ ở Cao Bằng Tuyết vẫn chưa
biết rõ mình yêu ai nhiều hơn giữa hai người đàn ông
cùng tài hoa lỗi lạc này. Tuyết chỉ biết rõ nàng yêu cả
hai, mối tình duy nhất, và Tuyết cũng biết nàng bị
ruồng rẫy. Buổi chiều Khái Hưng đến phố Cổ Ngư
viết thay cho Nhất Linh và thông báo cho nàng một
tin quan trọng, Tuyết phải ăn nằm với Chương tối đó.
Tuyết đã khóc hết nước mắt, đã ôm chầm lấy Trần
Khánh Dư.

- Anh Dư hãy ngủ với em đi, em muốn người đàn ông


đầu tiên là một trong hai anh!

- Tuyết, anh xin lỗi. Anh không thể làm khác, cốt
truyện là của anh Tam, anh chỉ được mời viết chung
những chương tả tình.

    Buồi chiều đó hình như Khái Hưng đã xúc động rất
nhiều. Tuyết còn nhớ anh Dư đã hôn môi nàng thật
lâu, đã mân mê và hôn đầu ngực nàng thật lâu trước
khi dứt khoát đứng lên, bắt nàng vận áo và kêu xe
đưa đến số 84 Quan Thánh để ngủ với Chương.

    Tuyết bần thần nhặt chiếc khăn san và mặc lại
chiếc áo dài thâm tối qua cha cố đã vụng về làm đứt
mất một cúc. Những hình ảnh của buổi tối xưng tội
vẫn chưa ra khỏi tâm trí. Suốt tối giáo sĩ đã làm phép
rửa tội cho nàng vào đạo. Những hôm trước đi chợ
lồng thị xã, Tuyết đã nghe một số giáo dân nói giáo sĩ
có biệt tài đọc hết quá khứ của những con chiên đến
xưng tội, không ai có thể dấu giếm tội lỗi đã phạm.
Nàng đã nghĩ xóm đạo nói quá, lúc trả tiền nhưng
không ai lấy, đến nỗi nàng phải lấy trộm rau cải,
Tuyết hãy còn nghe kể giáo sĩ đọc được cả quá khứ
của người chết. Ðến tối, quỳ gối trong nhà kín xưng
tội, trước tấm lưới chỉ vang hơi thở kiên nhẫn của giáo
sĩ, Tuyết hãy còn phân vân không biết bắt đầu từ đâu
cuộc đời của một nhân vật tiểu thuyết mà Nhất Linh
đã bắt chung chạ với mọi đàn ông. Cho đến lúc tiếng
thở cảm thông của De Rhodes trở nên gần sát,
ngẩng lên, Tuyết bàng hoàng trước hình ảnh của quá
khứ đang ào ạt trở về diễn ra rõ mồn một trong đôi
mắt cha cố, đôi mắt chứa chan quá khứ của chính
nàng và xanh biếc tất cả những đại dương giáo sĩ đã
vượt qua trong suốt hành trình truyền giáo. Chính lúc
đó Tuyết đã thảng thốt trông thấy lại cảnh nàng tát tai
Nguyễn Tường Tam khi Nhất Linh đến cuối truyện bắt
nàng ho lao và trở thành một con điếm.

    - Anh đối xử với đàn bà một cách khốn nạn !

    Tuyết mắng chửi. Nàng đã tát Nhất Linh tàn nhẫn


mạnh đến nỗi đến bây giờ Tuyết hãy còn đau nhức
các đốt xương mỗi khi trời trở gió. Tuyết còn muốn tát
nữa, nhưng Nguyễn Tường Tam đã chụp lấy tay nàng
khoá cứng và mắng bằng giọng đanh thép phũ
phàng.

    - Cô chỉ là luận đề của tôi, cô không có quyền gì


hết để đòi hỏi. Tôi cho cô đi làm điếm là may, để cho
cô có một nghề sinh sống, hay cô muốn đi theo Việt
Minh? Từ nay trở đi cô đừng tìm tôi nữa, tôi đã xong
luận đề của mình. Tôi không có bổn phận gì đối với
cô. Thôi cô về đi.

    Tuyết đã khóc tức tưởi, như nàng đã khóc hết nước
mắt ngày Khái Hưng tản cư. Anh Dư không cho phép
nàng đi theo và mãi mãi Tuyết không bao giờ còn
gặp lại người đàn ông kỳ tài của tiểu thuyết An Nam
này nữa.

    Những ngày sau Tuyết làm tình với Hoàng Ðạo ở
phố Cổ Ngư để trả thù Nhất Linh. Anh Tam bỏ nàng,
rời Hà Nội sang Trung Hoa đi làm một cuộc cách
mạng nào đó mà Tuyết không sao hiểu. Buổi tối
khuya khoắt có những cánh đào dịp Tết đang rụng
rơi, Tuyết bắt gặp Hoàng Ðạo đang đọc Ðời Mưa Gió.
Trong lòng Tuyết hãy còn đầy rẫy những giận dữ thù
hận Nhất Linh đã tệ bạc, xúc phạm và nhất quyết
phải trả thù làm một điều gì hoen ố thanh danh của
Nguyễn Tường Tam. Tuyết ngắm Hoàng Ðạo thể
thao và khoẻ mạnh. Không đợi người thanh niên lên
tiếng, Tuyết cởi bỏ y phục, chiếc áo dài Cát Tường
Nhất Linh luôn bắt nàng mặc mỗi khi ra phố, chiếc
quần lót kiểu Tây mỏng manh Khái Hưng mua tặng,
Tuyết thích khoả thân trước sự kinh ngạc của đàn ông
và biết rõ thân thể nàng toát ra cám dỗ dâm dục vì đã
được tạo ra cho một luận đề đả phá dâm đãng. Tuyết
đã chống hai tay xuống bàn viết của Nhất Linh, cho
Hoàng Ðạo xâm nhập. Tuyết thích làm tình với những
người đàn ông không thấy mặt, cho phép nàng
mường tượng đến gương mặt của anh Tam, anh Dư.
Hoàng Ðạo sau ân ái, gấp sách bỏ đi lặng lẽ, Tuyết
lau những vết sữa trên đùi bằng chiếc khăn tay của
Thạch Lam, người em trai khác của Nguyễn Tường
Tam. Một lần Tuyết đã bắt gặp Thạch Lam trên chiếc
giường của Nhất Linh. Thạch Lam đọc say mê những
phác thảo của anh Tam. Thạch Lam mang nét trong
trắng, hồn nhiên vô tư của những nụ cúc còn e ấp.
Tuyết theo dõi kín đáo người thanh niên trẻ tài hoa,
mà nàng biết, chỉ cần nhìn thoáng qua, chưa hề biết
đến thân xác phụ nữ. Trên chiếc giường trải drap
trắng tinh của anh Tam, Thạch Lam đọc miên man
Ðời Mưa Gió. Lúc đó Tuyết đã bắt đầu có kinh
nghiệm, mỗi khi người đọc say mê tiểu thuyết, cảm
nhân vật, nàng có thể hoá thân trở thành người thật.
Tuyết đã hiện ra dưới chân giường Nhất Linh mà
Thạch Lam không trông thấy. Gương mặt anh mang
nét xanh xao của những người ốm nặng. Tuyết có
nghe anh Tam than Nguyễn Tường Lân ho lao,
nhưng chứng kiến tận mắt đôi môi khô khốc, tròng
mắt võ vàng của tuổi trẻ khiến nàng não lòng. Thạch
Lam đọc chăm chú đoạn nàng ăn nằm với Chương.
Tuyết bỉ ổi anh giáo Chương nhưng cùng lúc cảm
nhận ở Thạch Lam một đòi hỏi thân xác mà nàng
biết, chưa hề toại nguyện. Tuyết đặt tay lên ống chân
của Thạch Lam, ống chân thẳng, ốm, mà nàng biết
đã đi khắp cùng ba mươi sáu phố phường. Tuyết vuốt
ve Thạch Lam cho đến khi thân thể anh trở nên mạnh
mẽ, gân guốc tuồng như Thạch Lam chưa bao giờ
đau yếu. Lúc uống chất lỏng ấm trào ra từ thân thể
người thanh niên, Tuyết có đôi chút mặc cảm phạm
tội, nhưng Nhất Linh đã muốn nàng làm một con
điếm thì trước nhất anh Tam phải chấp nhận nàng là
một con điếm của gia đình anh. Vị sữa của Thạch
Lam khác với Hoàng Ðạo, trong trẻo, thơm hương
bún chả Hàng Mành, xôi gấc Cấm Chỉ, và ốc nóng
Hàng Gai, tất cả hoà quyện tuồng mùi vị thức ăn.
Thạch Lam mất đi, Tuyết chẳng bao giờ còn được
nếm vị bún thanh cảnh của Hà Nội nữa.

    Tiếng gió ầm ào trổi lên mạnh mẽ, rõ ràng có một


vật nặng trĩu đang rơi xuống nóc nhà thờ với sức hút
nghiệt ngã của trọng lực. Gió mỗi lúc một thổi thốc,
gào rú, kéo đập những tấm phên rền rĩ như nhà thờ
có đám. Tuyết quyết định lên gác chuông để trông
cho rõ những gì đang xẩy ra trong pháo đài. Một ánh
lửa đỏ loé qua ô cửa tò vò khiến nàng hốt hoảng. Tia
chớp hực lửa nháng lên gương mặt đấng Chirst đang
đau đớn vùng vẫy trên thập tự giá, nỗi đớn đau kinh
dị của thân xác bị đóng đinh. Nỗi đau của Jésus
Christ khiến Tuyết hãi hùng hụt chân. Các nấc thang
gỗ cổ xưa vang những tiếng rên như giam hãm những
linh hồn khẩn khoảng van nài trên mỗi bậc thang
càng làm nàng sợ hãi. Cha cố đã kể nhà thờ Cao
Bằng xây bằng những viên gạch đã có từ lâu lắm, từ
những thành luỹ của Mạc Ðăng Dung, mỗi thỏi gạch
đều chứa mang âm hồn An Nam tắm máu chiến
tranh và máu người. Tuyết cố gắng đi thật nhanh lên
nóc chuông nhưng những bậc thang trơn trợt nhấp
nhô rung chuyển tựa có những bàn tay vô hình cứ
nắm chắc lấy cổ chân nàng. Tuyết bắt đầu trông rõ
những cuồng lửa từ những đỉnh núi phía tây sông
Hiểm đang bay đến nhà thờ. Tuyết linh tính chuyện gì
đó sắp xẩy đến, chắc chắn sắp xẩy đến một chuyện
gì như đã xẩy đến cho nàng cách đây vài tuần khi
trung úy De Lattre bước chân vào nhà thờ.

    Tuyết đã nhận ra ngay viên sĩ quan sắp chết. Chỉ


có những người đàn ông sắp chết mới không còn một
chút ham muốn tình dục nào trong ánh mắt. Chỉ có
những người đàn ông sắp mệnh chung mới mang vẻ
sầu thảm buồn rủ rượi và dương vật suy dinh dưỡng
mềm lả như vậy. Sau lúc hốt hoảng, Tuyết đã giải
bầy cho Bernard De Lattre hiểu lá số tử vi An Nam
còn phải đi kèm với tướng mạo, đức năng, chỉ tay và
đức năng có thể thắng số. Các thầy An Nam không
thể coi tướng Tây dựa trên chuẩn Á Ðông, đo nhân
trung Tây Phương bằng thước đo Trung Hoa. Tuyết
chỉ không thể giải thích được những quẻ xăm kỳ lạ
mang cùng một chú giải, nhưng nàng thấy rõ đã giải
thoát viên sĩ quan khỏi nỗi sợ hãi chết chóc. Thật sự
Tuyết cũng không biết mình trúng hay sai và Bernard
sẽ chết hay không, nàng chỉ biết cần phải giúp đỡ
người thanh niên da trắng thoát khỏi cơn tuyệt vọng
khốn quẫn. Buổi trưa đó, bằng kinh nghiệm của Ðời
Mưa Gió, Tuyết giúp Bernard de Lattre tìm lại khả
năng giao hợp mà nàng biết, với những người đàn
ông trẻ đi tìm tình yêu thân xác lần đầu tiên, xóm thổ
không phải là chốn thích hợp.  

    Lúc làm tình với trung úy De Lattre, Tuyết cảm thấy
thật sung sướng, đã lâu nàng chưa làm tình với ai từ
khi lên thị trấn Cao Bằng sống trong giáo đường
hoang vắng. Nhưng Tuyết sung sướng hơn hết vì đã
có một người khác, ngoài cha cố trông thấy nàng.
Tuyết linh cảm kiếp đời mà giáo sĩ đem đến cho
nàng, sẽ phong phú bất ngờ hơn rất nhiều kiếp đời
cũ. Tuyết cũng khám phá đàn ông da trắng làm tình
khác hẳn những gì nàng đã biết. Trước đây, Tuyết
không hề cảm giác gì rõ rệt mỗi khi luyến ái với
Chương, do Nhất Linh và Khái Hưng không miêu tả
kỹ. Làm tình với Bernard, Tuyết thấy rõ người thanh
niên, dù chỉ mới lần đầu đã kiểm soát hơi thở của
anh, đã chờ đợi chia sẻ thân xác của cả hai, tựa cả
hai cùng chống một chiếc thang hai chân giữa
khoảng không chơi vơi, cùng leo lên, cùng đợi nhau
và cố nghiêng ngả kềm hãm bấu víu lẫn nhau để
chiếc thang khỏi chao đảo ngã đổ, để cùng đi lên đến
tận trời. Lần đầu tiên Tuyết nếm vị sữa đậm sệt như
cặn rượu chát.

    Vị sữa của Bernard khác hẵn vị sữa của cha cố.
Một hôm mang thức ăn vào phòng giáo sĩ, Tuyết
nhận ra áo chùng dù được giặt ủi thơm tho đã bắt đầu
khắm. Từ hôm Tuyết bước chân ra khỏi Ðời Mưa Gió,
đức cha đã vui hơn, chứng bệnh buồn chín thối ruột
gan đã thuyên giảm, nhưng chưa dứt hẳn, nước vàng
vẫn chảy ra ở dương vật. Những lần phụ Alexandre
phiên dịch tiểu thuyết, Tuyết cảm ở giáo sĩ một ước
muốn thầm kín mà ông không thể nói ra, không thể
viết thành lời, không thể diễn tả cách nào khác ngoài
dịch tăm tắp trên các trang giấy những điều văn
chương diễn tả mạch lạc, những điều mà anh Dư đã
nói với Tuyết rất nhiều lần. Chức năng của một nhân
vật nữ ngoài hấp dẫn bạn đọc, còn phải thoả mãn ẩn
ức sinh lý của tác giả. Những lúc đó, cha cố chỉ dám
ngửng lên nhìn Tuyết lén lút, lâu lâu kêu Blời ơi, rồi lại
ngã vật xuống đất ngất xỉu. Những lúc đó, Tuyết cố
gắng đỡ đức cha lên giường, bôi dầu con hổ, đánh
gió và xoa bóp cho ông, cho máu huyết chảy đều lại,
mặc dầu chính nàng cũng tự hỏi không biết trong xác
chết cha cố còn giọt máu nào không nữa. Những lúc
Alexandre de Rhodes bất tỉnh, Tuyết khám phá điều
kỳ lạ, bàn tay nàng xoa nắn đến đâu da dẻ ông căng 
trở lại, từ vết nhăn ba trăm năm đến nếp thịt bủng
nhão nhoẹt cứ ngón tay nàng chạm vào vụt thẳng ra,
săn chắc, cứng cáp, cả vẻ mặt cha cố cũng trẻ ra cho
đến khi ông trở thành một thanh niên cao lớn không
còn khòm lưng nhưng mang vẻ đẹp quyến rũ của
hiệp sĩ Thập Tự thời xa xưa. Cả mái tóc rủ bạc trắng
xoá của giáo sĩ, chỉ cần Tuyết vuốt lên trở thành óng
ánh sắc vàng tươi lấp lánh kỳ lạ. Nhưng tất cả trẻ
trung đó suy giảm dần trong ngày, đến chiều tối trở
nên già nua cũ kỹ và nhăn nheo của một ông lão đã
chết lâu. Cứ thế mỗi tối, Tuyết xoa bóp tẩm quất cho
cha cố trở lại cường tráng trong 24 tiếng, cho đến một
đêm, Tuyết quyết định chữa dứt di căn của chứng
bệnh thối ruột gan, như nàng đã chữa cho trung úy
De Lattre. Tuyết mút dương vật cha cố, hút hết các
chất lỏng vàng hôi thối rồi nhổ xuống chậu gốm, cho
đến khi chậu gốm đầy ắp phải đem đổ ở gốc sữa. Mỗi
tối Alexandre de Rhodes rên la vì thân thể ông căn
phồng lên đến mức áo chùng rách bươm, và mỗi khi
Tuyết mút quá mạnh, bụng giáo sĩ teo tọp hẳn lại tựa
tất cả ruột gan đều trôi vào miệng nàng. Tuyết cũng
xấu hổ, biết nàng làm chuyện dơ bẩn, thiếu kính
trọng, thiếu đạo đức của một con chiên, nhưng Tuyết
quyết tâm chữa cho bằng hết chứng cô buồn giáo sĩ.
Nhất Linh đã bắt nàng làm một con điếm không nhân
cách, nhưng Tuyết vẫn là một người đàn bà giàu tình
thương, lòng trắc ẩn. Tuyết muốn trả ân nghĩa đã thọ
ơn cha cố. Mỗi tối nàng miệt mài hút hết chất nước
vàng cho đến một đêm chất lỏng trở nên trắng ấm
thơm mùi lúa mạch nhuyễn bột như vị bánh thánh
Alexandre de Rhodes vẫn cho nàng ngậm mỗi sáng
chủ nhật rước lễ trong nhà nguyện. Kể từ sau đêm
ấy, giáo sĩ hoàn toàn khỏi bệnh, ông trở nên khoẻ
mạnh và trẻ măng như một vị linh mục vừa tốt nghiệp
trường thần học.     

    Về sau khi thành thân trong âm thầm lén lút với
cha cố, Tuyết vẫn không quên tiếng chuông kinh
hoảng của buổi sáng đó. Buổi sáng có những gào la
thống thiết trầm thống của gió và tiếng chuông co
giật từng cơn tựa các quả chuông phát khùng đánh
loạn lẫn nhau. Tiếng chuông nhức nhối tuông những
bài kinh La ngữ hỗn độn. Tiếng chuông ma quái
khiến người nghe ý thức rõ rệt cuộc đời mình trước và
sau đó. Trước, Tuyết có một quá khứ tiểu thuyết An
Nam, sau, nàng trở thành một nhân vật lấy Tây và
không còn gì giống như trước nữa.

    Tất cả xẩy đến khi Tuyết bước chân lên bậc thang
chót, những quầng lửa bay đến sát nhà thờ đến nỗi
nóc chuông đỏ như được thắp sáng nến. Tuyết cất
tiếng gọi Alex ? nhưng chỉ có tiếng gió bật tiếng kêu
của chính nàng rơi vỡ vụn trên các nấc thang. Chính
lúc đó Tuyết nghe thấy tiếng chuông gióng từng cơn,
rũ từng hồi điên dại làm như các quả chuông vụt lên
cơn động kinh va đánh vào nhau liên hồi. Tiếng
chuông ray rứt, phạm tội, đầy kinh động, đặc biệt
vang vọng sám hối của con người trước thuợng đế.
Tuyết lấy hết can đảm bước qua ngạch đá. Quang
cảnh diễn ra hãi hùng như quang cảnh ở địa ngục.
Các quầng lửa gào xé chung quanh vòm mái, các tia
lửa bắn xẹt vung vãi cháy rơi rớt gió thổi tốc lên từng
làn tro thiêu đốt các tấm rèm nhung đang oằn xém.
Lẫn trong khói than mù mịt bên dưới quả chuông
chao đảo là thân thể trần truồng của Alexandre de
Rhodes đang trì kéo sợi dây thừng.

    - Blời ơi ! Tận thế rồi !

    Alexandre kêu lên tuyệt vọng. Tiếng chuông xô


đẩy inh ỏi tựa muốn đập vỡ nhà thờ, rạn nứt các vách
đá. Tuyết trông thấy rõ Alexandre không còn kiểm
soát nổi đôi tay của anh, lúc này đang treo níu vào
dây chuông từng lúc nhấc bổng đong đưa rồi thả
xuống kéo lê liên tục. Không khí nồng nặc mùi thiên
tai, thứ mùi khét mà Tuyết ngửi ra ngay tức khắc ở làn
hương đầu tiên. Tuyết lao đến ôm Alexandre cố kéo
anh thoát khỏi cơn động kinh của quả chuông. Lúc
ôm vòng lấy lưng, dù kinh hãi, Tuyết vẫn kịp nhận ra
nàng đang ôm xương thịt tươi rói đã lấp đầy vong hồn
giáo sĩ .

    Ðó là buổi sáng mà tất cả mọi giáo dân sinh sống


trong pháo đài đều bị đánh thức bởi tiếng chuông tận
thế đổ dồn ầm ĩ từ nhà thờ chính toà Cao Bằng. Cũng
là buối sáng mở màn chiến dịch đường biên giới.
Nhưng ít ai lúc đó có khả năng mường tượng hậu quả
của trận đánh, tất cả chỉ thức giấc trong kinh sợ của
tiếng chuông gọi hồn. Ðó là buổi sáng tin Ðồng Khê
thất thủ réo về thị trấn như một lời nguyền.

 
 

    Thật ra tin căn cứ Ðồng Khê với hai đại đội tán binh
Marốc, một đại đội thân binh An Nam, tăng cường đại
đội Lê Dương của trung úy Bernard de Lattre bị tràn
ngập đã bay về bộ chỉ huy pháo đài từ chiều hôm
trước. Suốt đêm, các sĩ quan tham mưu của trung
đoàn 3 Lê Dương sửng sốt chứng kiếng một cảnh
tượng lạ lẫm. Các áng mây đen ở đâu cứ trôi đùn vào
bộ chỉ huy, mỗi lúc một nhiều, theo cường độ của các
bản tin hấp hối đánh đi từ Ðồng Khê. Ðến chiều tối
trở thành cơn mưa bão gió gào, sấm chớp liên tục.
Ðại tá Antoine Marie Pierre Charton, lãnh chúa Cao
Bằng, tư lệnh trung đoàn ngồi chết lặng dưới cơn
giông mỗi lúc một lớn. Sấm sét mây đen vần vũ với
những tia chớp loé không ngừng trút nước từ trần bê
tông kiên cố dầy năm thước của căn hầm chỉ huy
chôn chìm sâu dưới lòng đất. Charton ngồi bất động
dưới cơn mưa tầm tã trước phóng đồ hành quân.
Gương mặt ông biến dạng móp méo thay đổi từng lúc
trước các báo cáo tự động sang trang, lật mở từng
phúc trình tối tăm mà không một ai đụng đến. Suốt
đêm viên đại tá chứng kiến những hiện tượng quái dị.
Vong các sĩ quan tử trận Ðồng Khê cứ lần lượt lê lết
hiện về,  trình diện cấp bậc, đưa bảng trận liệt khai
báo quân số tử vong, mất tích, rồi đưa giấy khai tử
chờ ký nhận tử tuất. Bàn làm việc của đại tá Charton
bê bết máu, làm như tất cả thương vong ở Ðồng Khê
đều đã xẩy ra trên bản đồ tham mưu. Có lúc viên đại
tá cũng bất ngờ trông thấy cố thống chế Ney, tư lệnh
khu biên thùy đông bắc từ Lạng Sơn cũng hiện ra
từng lúc, bất chợt hối thúc phản kích rồi đột ngột biến
mất. Tự trong thâm tâm Charton không phục Ney,
mặc dù viên thống chế đã tham dự các trận đánh lẫy
lừng Iéna, Austerlitz bên cạnh hoàng đế Napoléon đệ
nhất. Nhưng Ney không sao hiểu cách chuyển quân
như sóng rừng của sư đoàn 308, không còn di
chuyển đội hình ô vuông ban ngày, và Ney cũng
không hiểu những quy ước chiến tranh do vong hồn
Karl Von Clausewitz đang tiếp tục giảng dạy tại các
trường đại học quân sự Tây Phương đã không còn
được Việt Minh tuân thủ. Charton tin chỉ một mình
ông khám phá ra chiến thuật Việt Minh. Lối đánh
Phật giáo, chết đi sống lại luân hồi liên tục, khiến với
quân số không tăng viện, trung đoàn Thủ Ðô vẫn có
thể xung phong biển người, hết lớp này đến lớp khác,
mà các đại liên Bren, Browning, Hotchkiss bốn nòng
không thể chận đứng. Bộ đội Việt Minh không thể tử
vong.
    Gương mặt Charton tím tái. Các sĩ quan ban 3 có
cảm giác mây đen đang bốc từ đầu ông, cả những
lằn chớp sấm sét cũng nháng lên từ nỗi giận dữ phẫn
uất bên trong mình ông. Chỉ cơn mưa lạnh lẽo trút
nước chảy ra từ nỗi sợ hãi vãi đái mà viên đại tá cố
dấu, nhưng không sao kềm hãm. Ðồng Khê là cánh
cửa cuối cùng trước Cao Bằng. Chiếm Ðồng Khê,
Việt Minh chặt nốt cánh tay nối Lạng Sơn biến pháo
đài thành tên khổng lồ trần trụi chỉ còn trơ chiếc đầu
nhô lên khỏi mặt đất đợi chém. Chưa bao giờ Charton
cảm thấy ngày tận thế gần gũi, kề cận. Phòng nhì
buổi chiều báo cáo, có tin Jésus Christ sống lại ở
Ðồng Ðăng, điều đó có nghĩa ngày phán xét cuối
cùng sắp xẩy đến. Viên đại tá chết cứng dưới cơn
mưa bão, ông cố nhớ xem mình có phạm tội lỗi gì với
các sắc tộc thiểu số Mường, Mán, Nùng, Thổ, nhưng
ông không sao cử động nhúc nhích tay chân hay ban
một mệnh lệnh nào, cho đến lúc nước mưa dâng từ từ
ngập đến gối, quá thắt lưng, rồi dâng kín trần hầm
đến mức các sĩ quan tham mưu phải thở bằng ống
hút rồi dùng bình dưỡng khí dành riêng cho biệt kích
thủy. Chỉ đến tảng sáng, khi thiếu tá Forget tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn III/ 3è REI bất ngờ xuống hầm chỉ
huy xin lệnh, mở cửa khiến nước thoát ra ngoài giải
cứu tất cả, cùng lúc đem theo những ráng hồng rạng
rỡ đầu tiên của ngày, đại tá Charton mới bừng tỉnh.
Ðã từ lâu, theo thói quen trong chiến tranh Ðông
Dương, đêm thuộc về Satan, ngày thuộc về thượng
đế, và thượng đế đứng về phiá quân đoàn viễn chinh.

    Antoine Marie Pierre Charton lấy lại tinh thần, ông
quyết định phản kích tái chiếm Ðồng Khê bằng tiểu
đoàn Trận Vong của cố thiếu tá Henry Rivière, sĩ
quan thâm niên kinh nghiệm trận mạc và nổi tiếng
can trường. Chính lúc đó, khi bước chân ra khỏi hầm,
vắt bộ quân phục còn ướt mưa và khắm nước tiểu, đại
tá Charton đã bàng hoàng nghe thấy tiếng chuông
lanh lảnh buốt sắc đổ thốc tháo từ nhà thờ Cao Bằng.
Tiếng chuông lạnh lẻo gọi hồn của địa ngục mà
Charton biết dành riêng cho linh hồn ông. Lúc đó xẩy
ra một hiện tượng kỳ quái. Linh hồn đại tá Charton
quá sợ hãi đã xuất ra khỏi xác chạy trốn tìm chỗ trú
ẩn dưới hầm trú pháo. Các sĩ quan tham mưu đã phải
rượt theo bắt lại và vất vả nhấn linh hồn viên đại tá trở
vào trong thân xác của chính ông. Phải mất nhiều
phút đại tá Charton mới hoàn hồn và lấy lại phong
thái chỉ huy. Buổi sáng đó, nhật ký hành quân trung
đoàn ghi rõ, tin thất thủ Ðồng Khê bay về pháo đài
khiến bộ chỉ huy trung đoàn hoàn toàn tê liệt, nghẹt
thở. Cũng buổi sáng đó, Vương Thừa Vũ, tư lệnh sư
đoàn 308 đã điện lên tổng bộ Việt Minh tin chiến
thắng: Ðại Ðoàn Quân
Tiên Phong giáng những đòn sấm sét vào Ðồng Khê
khiến sĩ quan Pháp mất hồn. Ðó là sáng 30 tháng 5,
ba ngày sau trận Ðồng Khê khai diễn. Cũng là buổi
sáng tin đấng Christ xuất hiện ở Ðồng Ðăng được
kiểm chứng.

    Louise Marie de Bourbon là người đàn bà thứ hai


trong pháo đài nghe thấy tiếng chuông nhà thờ. Ngay
tiếng chuông đầu tiên, dì phước đã biết đó là tiếng
chuông ma quỷ. Tiếng chuông mênh mang đánh đi
thật xa vang vọng đến mất hút rồi trở về co giật dạ
con từng cơn của một cổ tử cung nào đó đang co thắt
sinh nở. Tiếng chuông nức nở tựa tiếng khóc, đôi lúc
gấp rút hối hả liên tục rồi chửng lại bất ngờ thành
khoảng trống âm u. Giữa hai khoảng chuông chen
tiếng rên la quái dị, nửa đau đớn, vừa thích thú khoái
lạc của sự sống đang dẫy dụa cựa quậy trong tử cung
một người đàn bà. Louise choàng ra khỏi giấc ngủ ác
mộng. Dì phước cũng không hiểu vì đâu dì đã nghe ra
trong tiếng chuông những hình ảnh quái thai ghê rợn.
Tối qua, cho đến trước tiếng chuông, Louise đã
chiêm bao thật đẹp. Hình ảnh đấng Christ hiển linh
trở về đứng trước đầu giường thật đến nỗi Louise
tưởng chừng chỉ cần đưa tay ra, nàng có thể chạm
vào thân thể còn in vết gai, lỗ chỗ vết giáo đâm
xuyên hông. Ánh mắt Jésus buồn rười rượi, nỗi buồn
nén lặng mà dì phước đã có lần trông thấy trong đôi
mắt cha cố, thứ nỗi buồn tê tái, chín dại ruột gan
không thành lời. Louise tỉnh giấc khi hình ảnh đấng
Christ vỡ vụn bởi tiếng chuông. Tất cả thân thể Jésus
tan rã trong tiếng ngân nga, làm như quả chuông
đánh vào đâu, mình thánh chúa vỡ tan đến
đó. Louise vã mồ hôi. Ðã lâu Cao Bằng không có
những trận nóng sáng hầm hơi thiêu đốt. Ðã lâu
Louise không có những giấc ngủ khắc khoải ham
muốn thầm kín. Từ rất lâu nàng không còn trông thấy
lại cảnh Jésus Christ  đứng ở đầu giường mình đưa
tay giắt đưa vào cuộc đời nữ tu buồn chán. Lúc còn
thiếu nữ, Louise đã trông thấy đấng Christ thường
xuyên, sáng ngời hào quang, hằng đêm đón đưa, đều
đặn mỗi tối, đến nỗi nàng không cần có bạn trai, chỉ
cần đợi đến khuya, Jésus hiện ra và nàng có thể tâm
sự với Chúa thâu đêm.

    Những ngày trước tiếng chuông, ở Cao Bằng, có tin


đồn Jésus Christ sống lại. Tin đồn vang rân khiến dì
phước hoang mang, đến nỗi dì Louise phải xuống sở
mật thám Pháp hỏi cho ra lẽ. Chính cố đại úy De La
Marek, chánh phòng nhì Cao Bằng, viên sĩ quan đã
từng si mê đeo đuổi dì phước suốt mấy năm, đã đưa
cho Louise xem các phiếu tối mật ghi chép cùng một
sự kiện. Từ hôm Ðồng Khê bị vây, giáo dân sinh sống
dọc đường số 4 trông thấy một người đàn ông Trung
Ðông tóc vàng đứng đón xe ở ngã ba Ðồng Ðăng.
Người đàn ông thuộc chủng tộc Do Thái, mặc áo sô,
đội mũ gai, có mái tóc dài toả chiếu tất cả nắng của
buổi chiều. Mái tóc vàng kim óng ánh phát ánh sáng
thay mặt trời và trong đôi mắt xanh chứa chan bình
an của sự vật, mỗi khi nhìn về hướng nào, tất cả chim
muông từ muôn phía bay xuyên suốt cây rừng về đậu
nơi hướng ấy. Cả những quả mìn đắp mô cũng bật kíp
lăn đến cạnh bầy chim vô hại. Các xóm đạo đã thay
nhau đem thức ăn đặt dưới chân, nhưng trái cây
không hề vơi, chỉ nhiều thêm và cũng không hề uá.
Người đàn ông kiên nhẫn đợi xe dưới mưa suốt nhiều
ngày mặc dù đường thuộc địa số 4 bị Việt Minh chốt
chặn tắt nghẽn không còn xe qua lại. Ðến ngày thứ
sáu, người đàn ông tóc vàng trạc ba mươi ba tuổi, đã
khiến mưa bão chấm dứt bằng cách xua tan những
cuộn mây den. Nền trời trở nên trong vắt, xanh biển,
cho phép các khu trục cơ P-39 King Cobra từ Hà Nội
lên đánh bom giải toả áp lực Việt Minh. Ngày thứ bảy,
người đàn ông áo trắng lên chuyến quân xa của binh
đoàn tác chiến Le Page với bốn tiểu đoàn Tabors từ
Lạng Sơn, vượt Kỳ Lừa đánh lên giải vây cho Ðồng
Khê. Binh đoàn Le Page bị chận đánh ở Thất Khê,
không một tiểu đoàn nào qua lọt đèo Lủng Phài. Ðiều
kỳ quặc chiếc GMC bị phục kích tan nát ở khúc
Ngườn Kim, xác tài xế và binh lính Marốc ngổn ngang
nhưng vẫn tiếp tục chạy xuyên rừng núi cho đến tận
Cao Bằng. Quân cảnh Lê Dương tìm thấy xác chiếc
quân xa vất ở trước cửa chợ lồng thị xã với bốn bánh
xe cháy đen đủi, còn bốc khói, nhưng không một dấu
vết nào của đấng Kitô.

    Louise tin chắc Jésus đã đến Cao Bằng. Không


phải ngẫu nhiên đấng Christ xuống thế gian làm
người cứu chuộc nhân loại lần nữa giữa lúc pháo đài
bị vây hãm và Việt Minh sắp tổng tấn công. Bằng bản
năng nữ tu, Louise tin tưởng trong sâu kín, việc đấng
Christ sống dậy liên quan mật thiết đến tiếng chuông
ma quỷ của nhà thờ. Những ngày gần đây, dì phước
không còn nhận ra cha cố, giáo sĩ đã thay đổi hoàn
toàn, từ phục sức thanh lịch thơm tho, dáng dấp trẻ
trung tươi mát, đến nụ cười thường khi héo hắt của
đức cha cũng trở nên nồng thắm làm như có dính vết
son môi. Giống có kẻ nào khác đội lốt cha cố, chỉ có
thể là Satan, đã ngự trị nhà thờ. Hôm đến thăm cha
De Rhodes, Louise đã lạ lẫm nhìn tượng Ðức Mẹ
sáng lóng lánh được chùi rửa sơn phết cẩn thận, và
đặc biệt có ai đã tỉ mỉ  trang điểm cô dâu cho gương
mặt đức mẹ Maria bình thường không son phấn. Giác
quan thứ sáu khiến Louise linh tính có sự hiện diện
của một người đàn bà nào đó sinh sống trong nhà thờ
mà cố đạo che dấu. Chỉ cần ngửi thoáng rèm nhung,
dì phước cũng có thể đoán được mùi nước hoa đĩ thõa
của một phụ nữ quyến rũ vừa bước qua, chưa khuất,
còn đâu đó. 

    Tiếng chuông vẫn đổ từng cơn khủng hoảng trộn


lẫn những rên la gần như tiếng kêu đau trào mật của
sản phụ đang sinh nở. Tiếng chuông bấu chặt tưởng
chừng có thể rứt từng đường gân dưới chân tóc.
Louise bước nhanh ra khỏi giường. Dì phước mặc vội
áo tu, lúc đội khăn, không hiểu do đâu dì Louise nhìn
ngắm mình kỹ hơn trong gương, mái tóc hung óng
mượt cô bé Louise Marie đã cắt đi ngày quyết định
bước chân vào sống vĩnh viễn giữa bốn bức tường đá
đã mọc dài trở lại. Hai tháng nay, từ lúc các cô gái
Mèo, sau khi làm tình với trung úy De Lattre nôn mửa
rồi thụ thai, dì phước không ngớt phải đi thăm thai
đến không còn thì giờ cắt tóc. Mái tóc hung óng lượn
trong gương khiến Louise vụt thấy mình trẻ lại, còn
nguyên vẹn thể xác xinh đẹp của thời con gái. Ðã biết
bao lần, Louise nhìn lên tượng Chúa tự hỏi tại sao?
Và cũng biết bao lần ngẩng đầu nhìn ngắm đấng
Christ dang hai tay trong nỗi đớn đau cùng cực của
thân xác, Louise đều bằng lòng với chọn lựa của
chính mình. Trong sâu thẳm, dì phước yêu xót xa
người đàn ông có gương mặt rất lành cùng khôi ngô
tuấn tú chịu thương khó, cùng trong sâu kín tận đáy
linh hồn, Louise không bao giờ quên cách nắm tay
thân mật ấm áp, dìu dặt yêu thương, nhẹ nhàng của
Jésus khi bước chân vào phòng nàng hằng đêm thiết
tha, khẩn nài nàng hiến dâng cho Chúa. Ngày đó, cô
bé Louise Marie ngây thơ đã xiêu lòng cắt đi mái tóc
hung như một thề uớc.

    Tiếng kêu rú kinh hãi của mẹ bề trên vang lên từ


trong vách tường khiến Louise hốt hoảng đâm bổ
sang phòng bên. Dì phước sửng sốt trước cảnh mẹ
Thérèse đã trăm tuổi, bán thân bất toại, không còn đi
đứng được đã có thể tự mình rời ghế lăn chui xuống
gậm giường trốn tránh. Lúc dì phước cúi xuống, mẹ
Thérèse chắp hai tay van vái những kẻ nào đó vụt
thoáng hiện về trong trí não đã cũ kỹ, tưởng chừng đã
tắt lịm chỉ còn ánh lên chút tinh anh từng lúc, từng
chập mỗi khi Louise đút sữa cho mẹ ở mỗi bữa ăn.
Chỉ trong giây khắc, dì phước nhận ra chính tiếng
chuông quỷ ám đã xô đẩy mẹ bề trên vào tình trạng
hổn loạn tâm thần. Chính tiếng chuông ma quái đã
đánh thức những hình ảnh loã lồ cách đây tám mươi
năm khi mẹ bề trên hãy còn là nữ truyền giáo thơ
ngây cùng bước chân xuống chiến hạm l'Espingole
với hải quân đại uý Francis Garnier và cùng rơi vào ổ
phục kích của quân Cờ Ðen dưới chân Ô Cầu Giấy.
Mẹ Thérèse trong những phút tỉnh táo hiếm hoi
thường kể lại cảnh đại úy Garnier bị chém đứt đầu,
cắt đứt hai bàn tay bày trên lòng đường trong lúc nữ
truyền giáo trẻ bị Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Ðen bắt
về hang động Hạ Long thay nhau hãm hiếp suốt chín
ngày chín đêm, cho đến lúc đám giặc không còn sức
ngất xỉu, và cô truyền giáo Thérèse đã trốn thoát đi
bộ một trăm hai mươi cây số về đến Ô Quan Chưởng
tá túc nhà lái buôn Jean Dupuis. Chính mẹ Thérèse
cũng không hiểu làm sao mẹ đã có sức khoẻ để chịu
đừng ngần ấy giặc Cờ Ðen, rồi đi bộ một mình không
ăn uống, không ngơi nghỉ. Chỉ có thể giải thích nhờ
đàn ông Á châu nhỏ người yếu sức, nhưng mẹ
Thérèse vẫn tin tưởng chính nhờ ơn trên đã thêm sức
cho mẹ đủ nghị lực vượt thoát. Chính niềm tin vào
đấng tối cao đã khiến mẹ quyết tâm tu ở dòng
Carmen cho đến ngày được giáo hội La Mã điều lên
Cao Bằng rồi già nua bệnh tật.

    Dì Louise cúi khom cố lôi mẹ ra khỏi gậm giường.

    -  Em lậy anh Phúc !  

    Mẹ Thérèse rên lên, không ngớt lập đi lập lại tên
của người đàn ông da vàng thô bạo, nỗi ám ảnh kinh
hoàng của mọi kiều dân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc, kẻ đã
chém chết thiếu tá Rivière và đại úy Garnier mà
Louise vẫn thường nghe nhắc. Không hiểu vì đâu, lúc
đó, những hình ảnh vùi dập xâu xé hãm hiếp tập thể
đang diễn ra trong đôi mắt khiếp hãi của mẹ Thérèse
bình thường mù loà không còn ánh sáng, đã khiến dì
phước vụt đỏ mặt. Louise vội vã bế mẹ lên ghế, đắp
chăn bông, lấy khăn thấm nước mát đắp lên mặt, cố
dỗ giấc cho mẹ thiu thiu ngủ trôi vào khoảng không
hư vô, không thời gian, không tương lai, không thực
tại.

    Louise bước ra khỏi chủng viện khi trời hừng đông.

    Ðó là buổi sáng Alexandre Lucien Abel de Rhodes


chép trong nhật ký ba chữ La Tinh Aléa Jacta
Est ! mang nghĩa định mệnh đã an bài mà những ai
tham khảo thư khố toà thánh La Mã về sau, hãy còn
nhận ra nét chữ thảo tài hoa, rắn rỏi vừa bay bướm
của giáo sĩ. Nhật ký Hành Trình Truyền Giáo của De
Rhodes sau này được xuất bản, chỉ bao gồm ba phần
Goa, Xứ Ðàng Trong và Xứ Ðàng Ngoài, khởi đi từ
năm 1619 khi ông gặp thiếu nữ có mái tóc đen và
chấm dứt lúc ông rời An Nam vĩnh viễn. Những đoạn
sau khi chết, chiếm 4/5 tập nhật ký, đặc biệt thời gian
ở Cao Bằng hoàn toàn bị hội Thừa Sai dập xoá.
Trong bản gốc, số đăng ký quốc hội Vatican, các
chương ghi lại đời sống vợ chồng với Tuyết, chỉ còn
mỗi ba chữ Aléa Jacta Est, các ký tự khác đều bị
thuốc tẩy giặt trắng xoá loang lổ ố vàng. Những chữ li
ti, chi chít, khi mất khi hiện, gần như được viết trên bụi
mà nửa thế kỷ sau, chỉ những nhà văn am tường kỹ
thuật hiện thực huyền ảo mới còn có thể chú giải.

    Nhưng buổi sáng đó, Alexandre de Rhodes đã viết


tăm tắp trong nhật ký, những sự kiện  dồn dập xẩy
đến trong kiếp ma của kiếp đời ông. Từ ngày thiếu nữ
thành Goa xuất hiện, đầy rẫy những hiện tượng mà
De Rhodes không sao có thể giải thích. Từ những
cánh buồm trắng Y Pha Nho lộng gió của các chiến
thuyền cổ xưa trí súng đại bác đồng đen, không biết ở
đâu trôi đến, thả neo ven sông Hiểm mỗi khi giáo sĩ
xuống các xóm chài giảng kinh, đến những lần ra nhà
sách Tôn Thọ Tường chầu chực đợi thu tiền sách, dù
các chủ hiệu sách sau khi khấu trừ 50% hoa hồng
vẫn ít khi sòng phẳng, De Rhodes đã rất ngạc nhiên
chứng kiến cảnh những đoàn kỵ sĩ mũ nồi thập tự giá,
rầm rập phi nước kiệu ngang qua phố chính thị xã.
Tiếng hò reo của lũ trẻ An Nam vang dậy theo tiếng
vó ngựa thập tự chinh vang lừng xuyên suốt khắp
pháo đài đến nỗi, lính Lê Dương ở các trạm gác cũng
ngỡ đã có quân viện từ chính quốc. Rất đông các sĩ
quan Pháp đã tin tưởng lữ đoàn kỵ binh giáp sắt sẽ
xuất hiện chống trả Việt Minh ngày Cao Bằng bị tấn
công, chỉ cần cha cố rao giảng phúc âm ở tuyến đầu.
Hiếm ai lúc đó không tin tưởng vào nhà thờ, như niềm
tin chiến thắng cuối cùng.

    Giáo sĩ cũng ghi chép cẩn thận giai đoạn ông gặp
khủng hoảng, khi thiếu nữ thành Goa chưa bước chân
ra khỏi cuốn tiểu thuyết An Nam. Thứ khủng hoảng
oan nghiệt của một oan hồn, ngày cũng như đêm
chui rúc trong các xó hốc, cho đến một hôm, quá
tuyệt vọng ông đã treo cổ tự tử dưới đà ngang nhà
thờ. Cha cố đã đau đớn dẫy dụa oằn oại hàng giờ, đã
trông thấy chiếc lưỡi của ông dài ngoằn đến gối, đã
đau đớn phạm điều răn đức chúa trời, nhưng ông
không chết được. Sáng đó, dì Louise vào lễ, dâng
hoa, đã hốt hoảng ngất xỉu trông thấy giáo sĩ treo cổ
dưới tượng Chúa mặt mũi tím bầm và ruột phân lòng
thòng trên đất. Ðại tá Charton đã phải cho lính bắt
thang lên cắt dây thừng đỡ ông xuống, những lúc đó
giáo sĩ ê chề xấu hổ và mang trong mình nỗi bất lực
oan khiên của bóng ma. Sự sống không còn, cái chết
chưa hết, nhưng con người không có một chút quyền
tự do định đoạt phần số của chính mình, tất cả tùy
thuộc thượng đế.

    Cứ thế, cha cố ghi chép miên man, chỉ cần ông
nhiễu một giọt mực, chữ sẽ đen đặc. Trong suốt nhật
ký, trừ chương thành vợ chồng với Tuyết, mà giáo sĩ
luôn đỏ mặt ngượng nghịu ít dám đọc lại, cha cố hài
lòng hơn hết những chương đầu tiên khi ông mới đặt
chân đến An Nam, còn mang trong mình sứ mệnh
thiêng liêng cùng đức tin sáng thế ký. 

    Khi đến Gia Ðịnh lần đầu tiên, De Rhodes đã biết
ông đặt chân tới một vùng đất kỳ bí. Hơi nóng ngùn
ngụt như thiêu, đốt liên tục suốt ngày sắc xanh hực
gai góc của những cánh rừng trùng điệp ngút ngàn
mà dù đứng xa ông vẫn nghe thấy tiếng trò chuyện
râm ran của vạn vật. Tất cả thanh âm An Nam bật lên
dưới nắng sức sống mãnh liệt hừng hực hắt dội lửa
dâng lên khắp mặt đất, không chỗ nào không có
tiếng nói, ngợp bóng người, như thể mỗi người đàn
ông An Nam là một cây chuối xanh biết đi đứng, mỗi
người đàn bà An Nam là một buồng chuối xum xuê
quả. Mãi sau nhiều ngày De Rhodes mới hiểu do
người An Nam chết yểu, chết sớm quá nhiều nên
phải tận lực sinh sản. Và lý do tử tuất cao lẫn tiếng
động không ngớt ầm ĩ, không ngơi nghỉ, từ sáng đến
trưa, suốt chiều, đêm khuya cho đến thâu đêm, phát
sinh ở thảm kịch sắc tộc Kinh thiếu chữ viết để ghi
nhớ những chuyện cần nhớ. Tất cả dân bản xứ đều
phải kể chuyện huyên thuyên, nói thật to, bất kể
người đang ngủ cần yên tĩnh, để những điều cần nhớ
được lập đi lập lại không dứt và truyền bá rộng rãi,
cho phép những người đã quên có thể nhớ lại, và lưu
truyền cho con cháu. Ðến mức nhiều gia trưởng lập đi
lập lại lời trăn trối của tổ tiên cho đến khi tắt hơi qua
đời, và kẻ thừa kế được dòng họ nuôi nấng chỉ để học
thuộc bí kiếp gia truyền và lẩm nhẩm trả bài trước
bàn thờ cho đến lúc kiệt sức và cứ thế con cháu thay
nhau lập lại một suy nghĩ đã có từ nhiều ngàn năm
trước. Ðến nỗi trong buổi giảng đầu, De Rhodes
không sao truyền bá thánh kinh, vì những kẻ tò mò
đến xem, không ngớt lập lại những điều gia đình căn
dặn, để đừng quên, sau khi tan lễ phải ra chợ mua
bao nhiêu lạng hành tỏi, gà, rau, đậu, mắm, và ghé
đến nhà ai mời giỗ, thu họ, đóng hụi chết, bao nhiêu
xâu tiền kẽm, khiến buổi ra mắt sách Cựu Ước thứ
nhất của De Rhodes ồn ào như một chợ cá. Chính lúc
đó De Rhodes quyết định ký âm thứ ngôn ngữ kỳ lạ
lảnh lót như tiếng họa mi ríu rít, với mục đích giúp dân
bản xứ có thể ghi chép những điều thường nhật cần
nhớ, sẽ rảnh rỗi im lặng hơn khi nghe giảng kinh, và
đặc biệt thôi lập lại những điều Thiên Tử ban truyền
ngăn cấm giáo hội. Chỉ một thời gian ngắn, giáo sĩ
nhận ra ông đã thành công. Từ khi có chữ viết, số tử
vong vì kiệt sức giảm hẳn, sắc tộc Kinh thông tin cho
nhau dễ dàng việc đồng áng, lúa gạo nhiều hơn,
khiến thanh niên An Nam lớn nhanh như thổi, cao
đến đầu gối, rồi đến bụng, cuối cùng đứng ngang tầm
ngực ông, nhưng ngưng ở đó, vì dân bản xứ có truyền
thống ăn rau sống với bánh tráng cuốn ruồi nhặng
chấm nước dòi, đưa đến bệnh tiêu chảy triền miên
làm teo tọp thân thể. Chính các Chúa Nguyễn thời đó
cũng không sao ngăn cấm được thứ chữ do De
Rhodes ký âm, vì rất ít ai đọc được các sắc chỉ dụ viết
bằng tiếng Trung Hoa, nên không hiểu các Chúa
muốn gì.    

    De Rhodes cũng khám phá, sức mạnh của sắc tộc
Kinh nằm trong những đứa trẻ, đông đúc chiếm hai
phần ba dân số, một phần do những cụ già yểu thọ,
một phần do phụ nữ An Nam mắn đẻ, chỉ cần ăn hơn
một rổ khế chua đã có thể thụ thai. De Rhodes luôn
luôn ngạc nhiên trước những đứa trẻ cực kỳ thông
minh, linh hoạt, sinh động và gần như không bao giờ
già đi, chỉ chết non vì chiến tranh. Giáo sĩ nhớ rõ, ông
đã gặp một cậu bé khôi ngô, chỉ trong một tuần lễ đã
dạy ông cách phát âm của mọi miền đất An Nam với
tất cả thanh sắc. Cậu bé thông thạo mọi thứ, biết hết
mọi chuyện, từ cách đổi tiền quan ra tiền kẽm, lãi
thấp, đến cách thuê trâu giúp ông di chuyển, đến mọi
thứ trái cây, đồ tế nhuyễn bản xứ. Chỉ trong một đêm
cậu bé đọc vanh vách kê khai tất cả mọi món ngon
vật lạ ở An Nam, và tuyên bố đã ghi chép trong hai
cuốn sách do chính cậu viết. Ðiều kỳ lạ, thiếu niên
không biết tiếng Pháp, nhưng hiểu hết những điều
giáo sĩ nói, chỉ qua cử động của đôi môi. Chính De
Rhodes cũng đã tiếp thu toàn bộ văn hoá An Nam
qua những điều thiếu niên kể. Mãi sau, khi rời Gia
Ðịnh lên Quy Nhơn, rồi ra Kẻ Chợ, giáo sĩ mới biết
thiếu niên tên chữ Lê Quý Ðôn, về sau chết trong trận
giặc sông Gianh rồi đầu thai theo quốâc giáo, và cho
xuất bản hai bộ sách Phủ Biên Tạp Lục cùng Vân Ðài
Loại Ngữ.

    Alexandre de Rhodes buông bút. Tiếng gió hú lê


thê trong cầu thang trôn ốc xoáy gọi những tiếng kêu
lạnh lẽo khiến giáo sĩ ngẩng lên. Căn hầm đá bất chợ
lạnh căm căm. De Rhodes thở ra khói. Ông nghe
tiếng rơi của một vật nặng đang lao xuống nhà thờ.
Sức hút trọng lực khiến gió đẩy bật những cánh cửa
va đóng vào nhau rầm rập như nhà thờ có kẻ phá.
Tất cả trần vách rung chuyển rùng rợn như có đám
đông đang chạy rần rật huỳnh huỵch trên mái. Tiếng
ngói lăn thông thốc từng lúc, giáo sĩ quyết định đóng
nhật ký, ông chỉ kịp viết ba chữ Aléa Jacta Est cho
một mặc cảm chịu tội sắp xẩy đến, mà đã từ lâu giáo
sĩ biết ông bị khai trừ khỏi hội thánh.

    Tiếng gió hú the thé mỗi lúc một lạnh buốt khắp
châu thân, cùng lúc mang hơi lửa bỏng rát phả vào
mặt giáo sĩ. Alexandre vừa thở ra khói vừa nóng hổi.
Anh nhận ra những dấu hiệu của tận thế khi lửa và
băng cùng xẩy đến một lúc.

    Alexandre bước lên tháp, anh trông thấy gió giật
những dây chuông va đánh vào nhau. Các quả
chuông chạm nẩy nhau nhưng không phát tiếng
động. Thời đó ai sống ở Cao Bằng cũng biết đức tính
hiếm quý của những quả chuông, mỗi khi đánh không
phát âm thanh, không có tiếng động nào, nhưng tiếng
chuông lại ngân lên ở Ðồng Khê, cách đó 28 cây số.
Phải mất nhiều phút tiếng chuông váng âm từ Ðồng
Khê mới vọng trở lại, đổ dồn về thị xã. Hiện tượng kéo
dài và chính xác đến độ Alexandre phải thức sớm
những sáng chủ nhật và đánh chuông trước vài phút
cho kịp lễ. Những ngày sau cùng, khi Ðồng Khê bị
vây, antenne truyền tin của căn cứ bị pháo sập, đại tá
Charton đã phải nhờ giáo sĩ đánh chuông gởi đi
những bản tin mã hoá. Sáng đó các dây chuông co
giật không âm thanh, trông như bầy rắn múa máy.
Alexandre cảm thấy sợ, nhưng anh cũng cố gắng
bước đến nắm lấy dây chuông giữ cho đừng múa
lượn. Chính lúc đó các quầng lửa cuốn về nhà thờ
cháy sáng lầu chuông và các tia lửa vây lấy mình
anh. Trong khoảng khắc tiếng chuông ngân từ Ðồng
Khê réo về Cao Bằng như tiếng sấm rền. Lẫn trong
tiếng chuông Alexandre còn nghe rõ cả tiếng đại bác
bắn vào đồn Ðồng Khê, tiếng súng cối của Việt Minh
câu dòn dã, tiếng kèn thúc quân và cả tiếng hô xung
phong của trung đoàn Thủ Ðô. Tiếng chuông làm vỡ
tan hoang gạch ngói rơi rớt lả tả chung quanh đỉnh
tháp nhà thờ. Cứ vài phút tiếng chuông đổ dồn về
gióng ào ạt ầm ĩ kinh động những rên la của lính viễn
chinh bị thương ngoài mặt trận. Các dây chuông co
giật như phát điên, quấn lấy đôi tay Alexandre như
những vòi bạch tuột nghiến thắt, khiến anh không sao
giữ thăng bằng, cả người Alexandre bị nhấc bổng lên
không trung theo điệu múa quỷ quái của quả chuông
rồi kéo lê lết đến tận bao lơn tháp trước khi chịu lôi
giật về hướng ngược lại. Ở mỗi cơn động kinh
Alexandre bị các cuồng lửa bắt xém vào áo chùng
làm phỏng rộp thịt da cho đến lúc tấm áo cháy tiêu và
thân thể anh hoàn toàn trần truồng. Chính lúc đó
Tuyết xuất hiện ở cửa tháp. Chính lúc đó Alexandre
tin chắc ngày cuối cùng đã đến và Thiên Chúa sống
dậy phán xét loài người.

-      Blời ơi ! Tận thế rồi !

    Tuyết ôm chầm lấy giáo sĩ lúc đó.


 

   

    Về sau khi gặp lại Nhất Linh trong căn biệt thự ở
Ðà Lạt, bên suối Ða Mê, Tuyết còn khóc òa kể với
anh Tam những thiên tai bất hạnh của mối tình phóng
đãng với giáo sĩ. Tuyết đã không ngờ anh Tam cực
xấu hổ, tê tái, nhục nhã và quyết định tự vẫn sáng
hôm sau. Nhất Linh đã không muốn mang trách
nhiệm của một nhà văn cha đẻ một nhân vật phạm
thánh. Anh Tam đã lấy cái chết của chính mình để
nói với người đời Nhất Linh là một nhà văn trong
sáng. Tuyết đã khóc hết nước mắt trong chuyến xe
tang không kèn trống, đông đảo độc giả đi đưa trong
âm thầm lặng lẽ. Tuyếât đã khóc hết nước mắt lúc hạ
huyệt, chôn sâu trong lòng vĩnh viễn mối tình đầu, và
đã khóc nghẹn ngào cho buổi sáng thác loạn với cha
cố.   

    Lửa của buổi sáng đó cũng bắt vào hai vạt áo dài
của Tuyết khiến cháy tiêu quần áo trên mình nàng.
Tuyết khám phá ra nàng không thể chết. Nàng là một
nhân vật tiểu thuyết không có khả năng chết. Gió xô
đẩy cả hai đến sát bao lơn, Tuyết khiếp hãi co chân
quắp lấy mình Alexandre, cho trĩu thêm sức nặng để
cả hai đừng rớt ngã xuống khoảng trống chơi vơi sâu
hút. Chính lúc đó trong sâu chín sợï hãi Tuyết đã cảm
ra da thịt giáo sĩ tươi rói cứng cáp đâm thẳng vào cửa
mình nàng đột ngột bất ngờ như tiếng chuông bỗng
hét lên tiếng rú rách trời. Tuyết đã kêu lên đau đớn
tưởng chừng nàng có thể ngất đi vì sướng. Chưa bao
giờ Tuyết làm tình với một người đàn ông rắn chắc
khỏe mạnh như với giáo sĩ, tuồng thân thể anh là
chiếc gậy chống của Mọse, cây gậy chống dài có thể
xẻ đôi Hồng Hải. Tuyết rên la từng cơn, mỗi lúc lửa
vây lấy cả hai cháy rực các bức rèm nhung có ngọn,
mỗi lúc Alexandre xâm nhập vào sâu trong thân thể
nàng làm như anh cũng hoảng sợ cố bám víu vào
thân xác Tuyết di truyền một giọt máu. Tuyết kêu la
không ngớt, bấu chắc lấy cần cổ Alexandre đánh đu
dưới quả chuông đong đưa, theo nhịp giật của dây
thừng kéo lôi cả hai từ bao lơn này đến bao lơn khác,
hết vực sâu này xuống vực sâu khác, rơi từ vực thẳm
của sung sướng xuống những mái nhà ngói đỏ li ti rồi
nhảy giật lên tháp trong tiếng rên la của thân xác.

    Chính lúc đó Tuyết trông thấy bóng Bernard de


Lattre ngã xấp ven sông Hiểm. Viên trung úy chứng
kiến suốt ba hôm, cảnh tượng kinh khủng của các lớp
sóng Việt Minh tràn lên, lớp lớp  mà súng liên thanh
không sao có thể quét hết, thậm chí cả đại bác chống
chiến xa đặt ở hầm chỉ huy bắn đạn xuyên xoáy cũng
không thể khoan thủng bức tường Việt Minh dầy đặc
chuyển động như cánh rừng. Ðồng Khê thất thủ khi
những trái đạn lân tinh chót cùng và những quả đạn
nổ cao của pháo 105 ly cạn kiệt. Ðại úy Casanova tử
thương, đại úy Brun bị bắt sống và trung úy Brondel
chết ngay ở giao thông hào. Suốt đêm trung úy De
Lattre dẫn đại đội sống sót mở đường máu, dẫm lên
những xác chết mà De Lattre kinh hoảng khám phá
đang đầu thai từ từ, chậm chạp ngồi dậy, thậm chí có
những xác quân chủ lực Việt Minh chồm lên, tròng
mắt trắng dã, la hét chụp lấy mã tấâu chém xối xả
vào đội hình lính Pháp mà chỉ mới một phút trước đây
đã bị tiểu liên của binh sĩ Lê Dương cắt đứt đôi người.
De Lattre thương tích khắp mình mẩy, nhưng anh
xăm xăm trong bóng tối nhất quyết trở về Cao Bằng
để gặp lại người đàn bà của nhà thờ. Suốt đêm đại
đội De Lattre bị Việt Minh truy kích tiêu diệt không
còn ai sống sót. Chính viên trung úy cũng ngạc nhiên
không hiểu động lực nào đã giúp anh vượt hai mươi
tám cây số đường rừng. Chính lúc đó, khi viên sĩ quan
vừa trông thấy hai nhánh sông Hiểm và sông Bằng
Giang êm ái bao lấy pháo đài, lịch sử quân đội nhân
dân An Nam ghi rõ, chiến sĩ Phan Ðình Giót của tiểu
đoàn Hoàng Diệu đã dùng lưỡi lê đâm thủng ngực De
Lattre. Dưới những ráng hồng đầu tiên Bernard ngã
xuống. Anh vẫn không hiểu vì sao anh đã không đau
đớn, trong lúc bộ đọâi Việt Minh vẫn tiếp tục lấy lê
đâm xóc vào mình. Bernard không còn sức kháng cự,
anh quá mệt lả vì mất máu và đi bộ nhiều. Bernard
nằm yên nhìn ngắm lính An Nam thấp như những đứa
bé đang thay nhau tháo nhẫn, đồng hồ và lục khắp
các túi quần anh. Cho đến lúc Phan Ðình Giót cắt
mạn sườn viên trung úy, thích gan cho vào bình rượu
thuốc, viên sĩ quan vẫn hãy còn tỉnh táo và hài lòng
đã tiêu hết lương tháng dưới xóm thổ. Tiếng chuông
ngân lên lúc đó, bao la và say đắm, tựa tiếng kêu của
thiếu nữ lúc ân ái, gọi anh xuất tinh để cùng thỏa
mãn. Bernard nhỏm dậy, anh vụt hiểu, vì đâu anh
không thể chết. Chính tình yêu tạo ra sự sống và nuôi
dưỡng sự sống, giản dị như định nghĩa ghi chép trên
mình thiếu nữ. Nguyên lý cơ bản của sự sống khởi đi
từ tình yêu và trung úy De Lattre đang yêu không thể
chết. Tiếng chuông chín tiếng, như chín lần thiếu nữ
gọi anh trở về. Bernard phát lên cười khanh khách,
trước sự ngạc nhiên của Phan Ðình Giót. Trung úy De
Lattre vừa nhớ đến những quẻ xăm rùng rợn chú
giải : Ðồng Khê mạng vong lúc 9 giờ sáng . Bernard
cũng nhớ ra những lời Tuyết ân cần khuyên nhủ, đức
năng thắng số, nhân trung Trung Hoa với nhân trung
Tây khác nhau, không thể đo cùng một thước. Chết
không dễ dàng như con người muốn. Bernard chỉ
thắc mắc, vì đâu các thầy An Nam tinh thông lý số,
kinh dịch, không thể bói ra tình yêu đến với anh bất
ngờ. Viên trung úy còn thắêc mắc vì sao sắc tộc
Kinh, lưu trữ bốn ngàn năm quá khứ đã không coi
trọng tình yêu, thứ tình cảm đầu tiên và cuối cùng của
kiếp người. Viên sĩ quan cũng nhớ, giáo sĩ De Rhodes
đã có lần nói với anh, do thiếu chữ viết, người An
Nam đã không ghi được những suy nghĩ trừu tượngï
của họ truyền cho con cháu, chỉ có thể truyền khẩu
những chi tiếât hiện thực, cụ thể. Lúc chiến sĩ Phan
Ðình Giót đâm mỏi tay, văng tục rồi bỏ đi, Bernard de
Lattre de Tassigny trông thấy những quầng lửa kéo
nhau về Cao Bằng. Các tia lửa đỏ thắm trời mà anh
nghĩ  chính là máu của anh đang chảy về với Tuyết.
Anh chỉ không hiểu ra vì đâu mặt nước sông Hiểm êm
đềm đến vậy, khi chung quanh vạn vật hỗn chiến và
lùng giết nhau cho những điều không liên quan đến
tình yêu.

    Buổi sáng có lửa Satan và phép màu cùng xẩy


đến, dì phước là người đàn bà thứ hai trong pháo đài
trông thấy Jésus Christ. Suốt đời Louise sẽ không tha
thứ nàng đã trang điểm quá lâu trước tủ gương đến
trễ hẹn. Sáng đó, khi những thanh âm hào hển rềân rỉ
của quả chuông rưới lên mái tu viện những xúc cảm
bồi hồi, dì phước đã đội lên tóc chậm rãi khăn vành
trắng, cẩn thận ngắm nghía từng nếp khăn chùm tu,
vẫn trong trắng như thân thể hãy còn đồng trinh của
dì. Khăn vành trắng đẹp như tấm voan ngày cưới mà
Louise đã kiêu hãnh phủ trùm suốt đời tu hành. Dì chỉ
ra khỏi chủng viện khi tiếng chuông thúc hối, lúc lửa
Satan thắp sáng quảng trường và lầu chuông gióng
những tiếng chuông cuối cùng. Trong bụi khói, gỗ đá,
Louise trông thấy đấng Christ khi đó, vẫn người đàn
ông của ngày xưa, của những đêm trăng thiết tha
bước vào phòøng nàng cúi xuống đặt lên môi cô bé
Louise một nụ hôn tinh khiết. Louise đã muốn chạy
đến khi ấy, bất kể lửa Satan lan đến làm cháy rụi
rặng sữa. Dì phước chỉ hốt hoảng lúc gió tốc cao váy
tu phô đôi chân dì trắng trẻo đến đùi trước cặp mắt
thèm muốn của các phu xe kéo. Louise phải ngồi
thụp xuống túm lấy cổ chân giữ cho váy áo đừng tung
bay. Thật ra Louise đã có thể vất tung hết tất cả, kể
cả tấm áo dòng bấy lâu không thay đổi, nhưng chính
vì dì phước trông thấy Jésus đang nắm lấy tay một kẻ
nào đó, mà giác quan giúp dì cảnh giác chỉ có thể là
người đàn bà thơm hương nước hoa đĩ thõa hôm nào
đã quyện ám trên những bức rèm nhung nhà thờ.
Louise đã chứng kiến đấng Christ im lặng, nỗi im lặng
sâu thẳm mà dì phước không đoán nỗi, thứ im lặng
đớn đau của một người đàn ông bấât lực. Dì phước
không hiểu, chỉ cảm thấy thỏa mãn, thứ thỏa mãn
của người cùi mọc lại đốt tay khi dì đã dằn lấy tay
chúa ra khỏi bàn tay của người đàn bà vô hình mà dì
không trông thấy. Trong lòng Louise còn muốn níu
thân áo trắng của người đàn ông còn phất sau cửa
nhà thờ. Linh hồn Louise đã tất tả chạy lao qua
quảng trường, bước lên các bậc tam cấp rồi ngã phục
trên nền đất. Louise đã sững sờ chứng kiến người
đàn ông nàng vừa trông thấy bằng xương thịt đã bị
treo trên thập giá và ánh mắt hóa thạch bất động trên
hai tay còn chảy máu ở lổ đinh vừa đóng.

    Chính trước đóù Tuyết trông thấy Jésus Christ.


Buổi sáng có lửa Satan và phép màu cùng xẩy đến.
Tuyết cảm giác rất rõ rệt nàng đang băng huyết xối
xả lúc giao hợp với Alexandre. Không phải do Tuyết
có kinh sớm, nhưng là máu của viên trung úy đang
tuôn chảy tướp khắp đùi nàng. Tuyếât đau thắt tử
cung, thứ nỗi đau thường xuyên xẩy đến những ngày
cuối cùng khiến nàng phải gập mình ôm bụng khóc
trong lặng lẽ. Những ngày ở Cao Bằng Tuyết chiêm
nghiệm rất nhiều điều, đàn ông da trắng hay An Nam
yêu rất dễ dàng, quên rất nhanh, miễn sao họ còn
ham muốn thân xác. Tuyết chỉ không hiểu do đâu
nàng có khả năng ân ái với mọi đàn ông, nhưng
không thể yêu ai từ sau ngày anh Tam bỏ đi. Ðôi lúc
Tuyết yêu vô vàn nét trẻ thơ của Alexandre mỗi khi
anh phát âm ngọng nghịu Quy Nhin, Quẩm Ghĩa,
hoặc vẻ chân thật của mỗi khi anh khăng khăng bào
chữa phát âm chuẩn theo lối nói cổ của sắc tộc Kinh.
Nhưng Tuyết cũng nhớ đến đôi môi say đắm của
Bernard mà anh hôn không rời, những cuồng si
không dứt mà hồi tưởng Tuyết hãy còn đau nhói dạ
con. Bao nhiêu ngày, Tuyết thầm hỏi nàng yêu ai, và
bao nhiêu đêm Tuyết ý thức nàng vĩnh viễn thuộc về
Nhất Linh.

    Tiếng rú của một vật nặng đinh tai nhứt óc. Tiếng
xoáy lanh lãnh mà đang ôm Alexandre Tuyết phải
bưng kín lấy tai sợ rách màn nhĩ. Tuyết linh tính biết
tai ương sắp xẩy đến. Chính Alexandre cũng cảm
giác điều ấy nên anh xuất tinh không dứt, như một
ước muốn chót cùng hối hả tạo ra sự sống trước khi
xuống hỏa ngục đời đời. Bao nhiêu tin đồn lửa thiêng
sẽ đổ xuống thị trấn khiến cả hai biết tận thế gần kề.
Chiều hôm trước, cố đại úy De La Marek hãy còn đến
xưng tội với Alexandre và kể một câu chuyện thật lạ.
Khi binh đoàn tác chiến Le Page rơi vào ổ phục kích,
chuyến quân xa tắt nghẽn trên đỉnh đèo Lủng Phài.
Bộ đội Việt Minh xung phong biển người, các toán
quyết tử ôm bộc phá đánh bom từng chiếc GMC một.
Lúc đó, người đàn ông áo trắng đứng trên mui xe đã
chỉ tay xuống vực thẳm, trổi lên một trận lốc kinh
thiên cuốn văng tất cả tiểu đoàn Nguyễn Tri Phương
xuốâng hố mà không một binh sĩ  Marốc nào hề hấn.
Chính các cố vấn Mỹ về sau nghiên cứu phúc trình Le
Page trong trận đánh đường biên giới, đã triển khai
phương pháp và cho sản xuất mìn Claymore định
hướng. Nhưng Tuyết không sao biết, phải đợi đến sau
này vào Nam, cuộc thánh chiến tiếp diễn, khốc liệt,
nghe kể về loại vũ khí mới, Tuyết mới liên tưởng đến
những chuyện đã xẩy ra ở Cao Bằng. 

    Tiếng hú khi ấy, vít đinh vào sọ não, mỗi lúc một
lớn tựa nguyên một tảng trời đang sập. Tiếng hú xé
óc cho đến lúc ngưng bặt. Tuyết còn trông rõ trái phá
chọc thủng mái nhà thờ. Tất cả vỡ oàng ngay sau đó,
trong tiếng nổù khủng khiếp của quả chuông đứt dây
lao cắêm xuống mặt đất. Tuyết đã hãi hùng rơi trong
lòng quảû chuông xoay tít, hãi hùng trông thấy gương
mặt của các sĩ quan Pháp từ dưới quảng trường chính
thị xã, lớn phồng lên, cả nỗi xanh tái khám phá Việt
Minh đã kéo pháo lên đỉnh núi cũng to tướng dần.
Cùng lúc Tuyết hãi hùng nhận ra cơ thể nàng tiếp tục
đòi hỏi giao hoan không thể dứt ra khỏi mình
Alexandre trong khi cả hai ngã bổ xuống thang lầu
gẫy tung các đà gỗ và rơi không kềm hãm. Chính khi
ấy Tuyết trông thấy Jésus Christ, khi nhà thờ phát nổ,
đỏ ối một quảng trời, gạch ngói long lở và mái tháp
đổ ụp xuống thị xã.

    Phải khó khăn lắm, Tuyết mới chui ra khỏi quả
chuông. Tất cả hỗn độn, ầm ĩ, hỗn mang của gạch đá
khói đen đầy bụi tắt lịm cùng với tiếng chuông đứt
đoạn đột ngột. Tuyết gọi Alex ? nhưng không có ai
trả lời. Tiếng kêu của chính nàng thất thanh suốt
quảng trường rồi vang trở về, làm như tiếng gọi cũng
đã đi tìm cha cố. Có bóng người đi tới, Tuyết xấu hổ
lấy tay che ngực, nhưng không ai đếm xỉa đến nàng,
cả những toán cứu thương chen lấn chạy vào phố
Chả Cá đang bốc cháy, xô đẩy, va chạm phải mình
nàng cũng không xin lỗi. Tuyết nghe loáng thoáng
cha cố gẫy hai chân phải đi cấp cứu. Nàng hối hận
đã đem đến tình yêu hồi sinh khiến Alexandre hóa
nửûa người, nửa ma, chịu thương tích.

    Người đàn ông nắm lấy tay nàng khi ấy.     

    Jésus mang vẻ đẹp trần thế, trầm thống và cô


buồn của nhân gian tội lỗi, vẻ đẹp khác thường mà
Tuyết chưa hề trông thấy. Vẻ đẹp của thiên nhiên tạo
hóa. Từ thân thể trong vắt những dòng suối uốn khúc
ở cổ chân, đến bầøy chim ríu rít hót mà Tuyết đoán
đang đậu kín dưới thân áo. Cả vẻ đẹp u uất của
những cánh rừng rũ cội hiu hắt. Tuyết nhận ra ngay
người đàn ông trong Tân Ước. Jésus mang tất cả
nhân dáng của nhân loại, đến nỗi nàng nhận ra ngay
ánh mắt nghiêm khắc của Nhất Linh, hàng mày cong
của Khái Hưng, sóng mũi thẳng của Alexandre và
khóe môi hơi mỏng của Bernard de Lattre. Ðấng
Christ tựa một người đàn ông nàng đã trông thấy
nhiều lần mỗi ngày màø chưa hề gặp. Ðiều kỳ lạ sự dị
biệt đó không tách bạch nhưng hòa quyện lẫn nhau
đến mức vừa quen thuộc, đầy lạ lẫm. Tuyết nhận ra
tất cả những điều Alexandre đã kể với nàng đều có
thật. Jésus mang thân thể không trọng lượng, có khả
năng đi bộ băng ngang qua những đại dương bão tố
trên trái đất.

    Lúc đó, phép màu xẩy đến mà không một ai có thể
ngờ. Tất cả mọi đám cháy đều tắt ngấm khi Jésus
Christ đi qua, trận pháo kích cũng trệch ra khỏi pháo
đài, tất cả những quả đạn đều rơi vãi xuống sông
Hiểm. Các đống gạch đá vỡ nát bỗng dưng nguyên
vẹn xếp ngay ngắn chờ đợi tái thiết, dẫy mái tôn bị
pháo xụp ở phố Chả Cá thốt nhiên lợp mới trở lại có
dằn bao cát chống đỡ cho trận pháo kích kế tiếp, và
đất ở đâu đùn lên các nắp hầm lính Pháp dầy thêm
nhiều thước. Tuyết chứng kiếng rõ rệt người đàn ông
đứng ở giữa quảng trường và vạn vật chung quanh
trôi đến. Không phải Jésus Christ đi đến, nhưng sự
vật trôi đến trước chân đấng Kitô. Từ những đám mây
trong trôi ào ạt đến quảng trường xua đuổi khói than
mù mịt, những tia nắng bị hút hết vào trong mái tóc
Jésus sáng rỡ, những đứa bé mắc chứng trừu run
chân bu đến và cả nhà thờ chính tòa đồ sộ nguy nga
sập mái cũng trôi đến dần dần. Mặt đất thu hẹp lại và
vạn vật thu về một hướng. Chính Tuyết cũng trôi đến
trước chân chúa, dù nàng không hề cử động hay
nhúc nhích, nhưng vẫn chuyển dịch chậm rãi cho đến
khi người đàn ông nắm lấy tay nàng.

    - Lạy chúa tôi ! Danh Cha cả sáng !

    Tuyết thốt lên lời kinh ấy. Nàng quỳ gập người,
không hiểu vì sao bài kinh La ngữ Alexandre truyền
dạy cho nàng trổi lên lúc đó. Như máu huyết từ huyết
quản dồn lên tim, dâng lên môi và Tuyết không thể
nói lời nào khác hơn những giọt máu đang chảy trong
tim nàng. Lúc ngửng lên, Tuyết bắt gặp ánh mắt đấng
Christ toát ngời những hình ảnh khủng khiếp của
muôn kiếp người. Khác với Alexandre de Rhodes, đôi
mắt của Jésus không chỉ phản chiếu quá khứ, nhưng
cả tương lai, và của cả nhân loại trong cùng một lúc.
Tuyết đã bàng hoàng trông thấy cơn mưa sáng gai
góc sắc buốt nhểu xuống khu vườn lan rũ úa bên suối
Ða Mê, đã sửng sốt chứng kiến Nhất Linh già đi, ốm
yếu, uống từng giọt độc dược đắng, đen, như những
giọt mực anh đã dùng viết tiểu thuyết. Nhất Linh đã
uống cạn ve thuốc độc như muốn nuốt trôi hết tất cả
chữ nghĩa đã viết. Tuyết cũng trông thấy Trần Khánh
Dư bị thủ tiêu bắn chết ở một miền quê hẻo lánh. Anh
Dư khi chết đã cười thật tươi như anh đã luôn xem
cuộc sống chỉ là những tình cảm nhẹ nhàng. Anh Dư
chết như anh đã muốn đi tìm một kết thúc tiểu thuyết
bí hiểm mà người đời không một ai rõ. Tuyết còn
trông thấy ngày Cao Bằng thất thủ, bộ đội Việt Minh
vào tiếp quản, vong thiếu tá Rivière và đại úy Garnier
ra trình diện học tập ở ủy ban quân quản thị xã. Tuyết
đã hét lên lúc trông thấy Alexandre bị tập trung cải
tạo rồi hình ảnh biến mất, trống rỗng.

    Tuyết đã khóc ngất trong buổi sáng có lửa Satan


và phép màu cùng xẩy đến. Khóc cho thân phận một
nhân vật tiểu thuyếât, không có quá khứ, tương lai,
trong đôi mắt đấng Christ. Về sau tòa thánh La Mã
không chứng nhận, không xác chứng Jésus Christ đã
tái thế, chỉ vì nhân chứng duy nhất, dì  Louise bị tước
phép thông công do đánh mất phẩm hạnh. Nhưng
sáng đó, buổi sáng có mây trong và những khóm dâu
đỏ huyết đan kín các lối đi ven rừng, các họ đạo đã
khắc ghi vĩnh viễn hình ảnh nhà thờ bốc cháy. Nhiều
năm sau, Tuyết cũng không còn nhớ rõ đấng Christ
đã xuất hiện trước hay sau trận pháo kích. Tuyết chỉ
nhớ đã khẩn khoản van nài thiên chúa cứu chuộc linh
hồn nàng. Sáng đó đã xẩy ra hiện tượng thần bí.
Những trang giấy to bản chép đầy chữ Hébreu, ở đâu
bay đến sáng lóa và vây lấy Jésus. Từng trang đặc
chữ Do Thái cổ óng ánh giát vàng lần lượt xuất hiện
trước đấng cứu thế rồi biến đi, cứ tiếp tục bay đến,
trang này sau trang khác, rợp trời rồi mất hút. Trên
không chỉ còn lại dư âm của gió và thứ bụi vàng rây
rắc gieo xuống những khóm mai yếu ớt, vừa hé nở,
thắm thiết, mà không ai rõ vì sao ở cuối tháng năm
khi những trận bão rừng bắt đầu đổ về miền biên giới.
Tuyết hiểu nàng không có tên trên danh sách loài
người khi Jésus Christ gỡ tay. Vì sao thiên chúa ngôi
hai với đôi mắt chứa chan nhân ái đã im lặng, không
thể cứu rỗi. Sáng đó, gương mặt Jésus buồn đắm.
Sáng đó Tuyết đã khóc thật nhiều vì vụt hiểu ra nàng
chỉ có thể hiện hữu bằng tình yêu khai hoá duy nhất
của Alexandre Lucien Abel de Rhodes.

Ðó là thời kỳ ở Cao Bằng không còn một ai tin vào


chiến thắng của quân đoàn viễn chinh Pháp và lính
Lê Dương vẫn hát những bài ca của quỷ:

   

Louise Marie où vas tu dans le monde ?

Je vais où vont les soldats

Louise Marie qui aimes tu ?

J'aime celui qui va mourrir

et le diable en rit, Ha, Ha, Ha, Ha

   

Trần Vũ
Défunts 02/ 11/ 2002

Lễ Người Chết Công Giáo

Ghi chú quân sự :

-      Trung Ðoàn 3 Lê Dương: 3ème Régiment Etranger


d’Infanterie (3 R.E.I)

-      Binh đoàn tác chiến Le Page : Groupement des


Tabors Marocains (G.T.M), từ 5/1950 cải danh Chiến
Ðoàn Bayard (Groupement tactique Bayard), bao
gồm 4 tiểu đoàn Tabors, về sau tăng cường tiểu đoàn
1 B.E.P.

-      Binh đoàn tác chiến Charton : Groupement


Tactique Charton,  bao gồm tiểu đoàn 3 Lê Dương,
tiểu đoàn 10 Tabor và tiểu đoàn phụ lực quân
Bataillon Lèger de Supplétifs Militaires (B.L.S.M).
Tháng 9.1950 tiểu đoàn 3 Tabor thay thế tiểu
đoàn 10 Tabor bằng không vận. Về sau tăng viện
tiểu đoàn 3 B.C.C.P thả dù xuống Thất Khê.

-      Tabor Marocain : Danh xưng chính thức của các


tiểu đoàn sơn cước Marốc, mỗi Tabor gồm 4 Goums,
mỗi Goum tương đương một đại đội, lính tuyển mộ
cùng một bộ lạc miền núi.
-      1er B.E.P : Bataillon Etranger de Parachutistes,
tiểu đoàn 1 Nhảy Dù Lê Dương.

-      3ème B.C.C.P : Bataillon Colonial de Chasseurs


Commandos Parachutistes, tiểu đoàn 3 Thuộc Ðịa
Săn Giặc Biệt Kích Dù.

-      Sư Ðoàn 308 Ðại Ðoàn Quân Tiên Phong : Ðại đơn
vị đầu tiên của quân đoàn chủ lực Việt Minh do tướng
Vương Thừa Vũ chỉ huy, bao gồm các trung đoàn
88, 102 và trung đoàn Thủ Ðô, đơn vị mũi nhọn thành
lập từ các tiểu đoàn Cứu Quốc Tự Vệ Thành Hà Nội
chính quy hóa.

-      Ðại tá Charton, đại tá Le Page bị bắt làm tù binh,


tháng 10.1950, trao trả sau hiệp định Genève

-      Hải quân thiếu tá Henry Rivière, tử trận 01.05.1882


tại Ô Cầu Giấy

-      Hải quân đại úy Francis Garnier, tử trận


21.12.1873 tại Ô Cầu Giấy

-      Ðại úy De La Marek, tử trận 25.02.1861 tại Chí Hòa

-      Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny, tử trận


31.05.1951 tại đồn Yên Cư Hạ, Ninh Bình.

-      Ðại tướng Jean De Lattre de Tassigny, cao ủy kiêm


tổng tư lệnh, mất 11.01.1952 sau chiến dịch Hòa
Bình.
-      Hồng y Armand Jean du Plessis de Richelieu
1585-1642, thủ tướng triều Louis XIII.

-      Tham mưu trưởng lục quân Phổ Karl Von


Clausewitz 1780-1831, lý thuyết gia chiến lược quân
sự.

-      Thống chế Michel Ney 1769-1815, chỉ huy cánh


quân Pháp đánh chiếm Mạc Tư Khoa.

   

© Copyright Trần Vũ

 
 

Gia Phả
 

Tôi đi ở cho tộc Trần từ lâu lắm. Từ cuối đời Lý. Lúc
Trần Thị chỉ vừa cắt nhau. Ðêm tháo thai, sống cảnh
sinh nở đầu đời nên tâm hồn tôi ngập kinh hãi. Máu
từ cửa mình vợ Trần Lý chảy xối, bắn phun tung tóe
như bát canh rau dền rơi vãi trên đất. Thứ canh đỏ
thẫm, lợn cợn những nhau, thịt, chất nhờn. Trần Thị
giẫy, vùng, đôi tay chới với cào cấu vươn tới trong
động tác nắm tìm sự sống. Ðã biết đi vào đời là đi vào
khổ đau, nhưng tôi cũng không ngờ khổ đau to lớn
tàn phá đến rách bươm cửa mình vợ Trần Lý. Mỗi cái
quẫy mình là mỗi một vũng máu, trào ra, trào cho đến
đầy thau. Máu bê bết chẳng khác một pháp trường.

Cánh tay mụ đỡ đưa cao lắm. Cánh tay lằn những sợi
gân oan nghiệt. Miểng chai cắm lùi trong than hồng
đỏ rực. Loại miểng chai sắc cạnh, bén nhọn chỉ dùng
cho mỗi thứ công việc đành đoạn là cắt cổ người,
hoặc nhẹ nhàng lắm: thọc huyết heo. Vợ Trần Lý co
rúm như con lợn lôi ra sân bếp. Tôi nhắm mắt, đã
hiểu mình sẽ không bao giờ lớn. Trần Thị mất mẹ ở
hành động cưỡng ép chối bỏ tình mẫu tử đó. Cuống
rốn nắm trong tay mụ đỡ hiểu được số mệnh, vùng
vẫy, cựa quậy, tháo thân, cuống rốn như con rắn
nước liều lĩnh kháng cự trước lúc bị chặt đầu. Miểng
chai xắn xuống, xắn xuống, cứa mãi, thịt rách, gân
đứt, máu phụt, vợ Trần Lý căng, đạp, thét la oằn oại
gào trong mất mát. Trần Thị bật khóc, tiếng khóc đầu
tiên vỡ òa khi cuống nhau nối mình vừa đứt. Máu tiếp
tục phun. Nước mắt tôi chảy cho Trần Thị: Vào đời
giữa máu me hung bạo.

II

   

Tôi về ở cho tộc Trần, như thế, từ sau đêm máu me


ấy. Tộc Trần là một tộc lớn, ngự trị khắp phủ Xuân
Trường. Hiếm ai ngờ một dòng họ còn sót lại từ thời
Bắc Tống, kéo xuống lập nghiệp phương Nam khởi đi
từ nghề đánh cá nhỏ mọn, sau một trăm năm lại hùng
mạnh chừng ấy. Ở cho một gia tộc quyền thế, song
công việc của tôi cực nhàn nhã. Ngày ngày theo chân
Trần Thị, lẫm chẫm quanh vùng Hải Ấp, rồi lớn dần
chạy nhảy bên bờ sông Thao. Trần Thị lớn vụt lên
như lẵm lúa bát ngát mênh mông của tộc Trần. Sức
sống của con sông Thao cuồn cuộn chảy buông
mênh mang về Phú Thọ, cũng chở mang sắc đẹp của
Trần Thị. Mỗi dòng sông ở đầu thế kỷ 13 mang một
vẻ đẹp riêng, nhưng sông Thao mang vẻ đẹp của đất
nước.

    Nhưng nếu tôi không bao giờ lớn, ở lại mãi mãi cái
đêm sinh nở tàn bạo, thì Trần Thị trổ vươn như nhành
lúa bắn mình đẹp đẽ. Nhành lúa đẹp tựa một ánh
chớp sánh bừng rực rỡ, ửng hồng giữa bầu trời tối tăm
tàn tạ cuối triều Lý. Chưa ý thức, song Trần Thị
thường nắm tay tôi nhìn đăm ra khoảng sân sau,
khoảng sân huyễn hoặc, lót đá vân lọt thỏm giữa lòng
nhà lưa thưa nắng. Những tia nắng kỳ ảo lấp lánh lăn
quăn khắp bức tường loang loáng vẽ nghìn tia ngũ
sắc ngời ngời óng ả phản quang không ngớt trên mặt
vại nước. Trần Thị kéo tay tôi ngồi xuống. Chúng tôi
ngồi sát nhau tưởng chừng có thể nhập làm một, như
thể tôi với Trần Thị chỉ là một - một người con gái
nhiều giờ liền ngắm bức tường say mê. Nắng nung
những ước vọng thầm kín trong tôi, còn khoảng tường
vạch lên trước mắt Trần Thị vị trí của tộc Trần. Có lẽ
trưa đó, Trần Thị cũng bắt đầu nhận biết vai trò của
mình trước lịch sử khi đối diện khoảng tường soi nắng
ấy. Nắng soi như chưa bao giờ được soi xuống từ
mảnh ngói vỡ vàng chóe, lập lòe, rũ màu sắc, buông
thả từng đường, từng mảng, từng cánh tay ôm choàng
ngang bức tường rêu cũ kỹ xanh ố mờ thời gian. Cả
bức tường vụt sống. Cả thời gian cũng vụt trỗi mình
quẩy cuồng sáng lóa trong khóe mắt Trần Thị. Tiếng
nước rỏ xuống sân nghe váng âm hắt dội giữa trưa
vắng tịch mịch, chợt vang vang thành bước chân của
những tên khổng lồ đuổi bắt thời gian. Thời gian của
thời đại hay của định mệnh ? Gã khổng lồ mang thân
xác tên tuổi tộc Trần - tôi rùng mình nhớ tới Thủ Ðộ -
Trần Thị cũng rùng mình lúc tôi cởi cúc, tuột áo, bắt
đầu múc nước từ bồn chứa xối cho Trần Thị tắm.
Những ngón tay tôi xoa nắn, những ngón tay Trần Thị
nắm lại. Mặt đất nở hoa. Không khí thơm sữa. Trần
Thị khép hờ mắt, chỉ còn thân xác hiến dâng trọn
vẹn. Tôi đuối vào giữa ngực Trần Thị, ngỡ mình sẽ
hưởng những dòng máu chảy ấm bên trong, sẽ ôm
lấy vào lòng thịt da run rẩy, sẽ ấp ủ thân thể trắng
trong mềm nõn. Dưới trần mái âm u không tiếng
động, ngón tay tôi ngẩn ngơ mê mẩn, những ngón tay
Trần Thị chậm lắm níu chặt, kéo giữ bàn tay tôi ở lại,
thúc hối nhịp nhàng nhịp nhàng từng khắc từng
khoảnh khắc van lơn nài kéo. Tôi mê man xoa nắn,
mân mê âu yếm. Trần Thị khép mở đùi rồi thõng hai
tay ngửa mặt buông cho thể xác tận hưởng chút thiên
nhiên mỏng manh đang lọt vào tòa nhà. Từng đốm
sắc xanh mờ tối, nhảy múa lung linh như có lân tinh,
tôi hôn tới đâu đốm sáng bốc thành ngọn lửa phụt
cháy. Tôi nuốt lửa cuồn cuộn trên ngực Trần Thị nghe
vang vang tiếng nước chảy róc rách, nhưng không chỉ
có tiếng nuớc mà bất chợt tiếng đập cánh của bầy
quạ đen thất thanh ầm ĩ trên mái vùng bay. Trần Thị
giật mình bấu lấy tay tôi thảng thốt:

-      Chị Ðào! Thị sợ!

Mình mẫy ướt đẫm, tôi cũng sợ. Nhưng không phải
nỗi sợ hãi vu vơ của cánh quạ đen tuyền đập phần
phật quýnh quáng âm động giữa không gian vắng.
Nhưng là nỗi sợ hãi sâu chín hun hút từ thịt da trắng
ngần trong trẻo của Trần Thị như có nạm ngọc. Mỗi
một hột nước là một hạt trân châu óng ánh không bao
giờ tắt. Cánh tay tôi cứng sững không dám vươn tới,
không bao giờ chạm vào được thân Trần Thị lõa thể
đứng tắm giữa sân. Qua mí mắt Trần Thị tôi đã hiểu:
Bức tường choáng ngợp. Rõ ràng Trần Thị không
thuộc về tôi, nhưng thuộc về khoảng tường xây đắp
hơn một trăm năm của tộc Trần. Bức tường đối diện,
sừng sững, ngạo mạn đầy uy quyền đời đời không
bao giờ sụp đổ. Cả tiếng nước rỉ, võng âm như bước
chân của gã khổng lồ man dại chạy sấm sẩn sầm
sầm cũng trở nên đe dọa... Nắng nghiêng dần, bức
tường lùi vào bóng tối, tới lúc những giọt nắng cuối
cùng từ trong gáo nhiễu bay thánh thót chạm đất, vỡ
toang trên nền đá ẩm, thì hai chúng tôi mới bừng tỉnh.
Khoảng tường cuốn hút kỳ lạ. Bở tường ủ ê hâm hấp.
Bàn tay tôi trơ trẽn, buông vội tiếc rẻ vuông ngực trần
mơn mởn, đầu vú nhọn nhú lên xuôi mềm mại tròn
trĩnh trắng muốt thắt hẹp ở hông rồi lại nở vung ôm
chặt lấy đáy thân Trần Thị. Trần Thị cắn môi nhìn tôi
bẽn lẽn, một tiếng trống chùa vang xa nhắc nhở...

Tắm xong, tôi lấy xiêm áo cho Trần Thị thay. Vải lụa
tím ngà thêu những nụ thủy tiên thôi còn e ấp, nhưng
bắt đầu nở. Trần Thị xỏ ống tay áo, khép vạt, chéo áo
lập lòe bâng quơ rộn ràng đàn bướm vàng rực. Trần
Thị xoay mình ngắm, vạt áo xòe rộng ở gót chân,
trong gương váy áo phập phồng phơi múa giống
chiếc đuôi của loài công làm đẹp cho cơ ngơi tộc
Trần. Tôi không khỏi ngăn mình liên tưởng Trần Thị
cũng là một con công, song không phải một loài công
nuôi, mà là thứ công để thịt. Chẳng phải ngẫu nhiên
mà có câu tục ngữ: nem công, chả phượng. Trên đất
nước này, loài vật đẹp đẽ nhất, cũng chỉ phục vụ cho
một mục đích phàm phu nhất.

Chúng tôi bước ra gian thờ. Trần Thị nhắc tôi khép
cửa. Căn buồng đóng lại, chỉ còn hương thơm thoang
thoảng theo dấu chân Trần Thị. Công việc của tôi
ngoài nuôi nấng Trần Thị, còn được giao trọng trách
chăm sóc bàn thờ. Thứ trọng trách mà tộc Trần chỉ
giao cho kẻ bất lực, không có khả năng chống đối, lật
đổ tham vọng. Mỗi ngày tôi với Trần Thị quẩn quanh,
chữa lại một cành vạn thọ cắm không ngay, treo
thêm những vòng nhang xoắn, đốt cho khói hương
không bao giờ đứt. Bột nhang vàng lấm tấm, tàn
nhang cong oằn, tôi quét dọn tro than không ngừng
rơi xuống. Trần Thị hay phụ tôi xếp những trái vải đỏ
mọng, xoay những quả cam Bố Hạ phơi mặt vàng
óng, rồi lau khắp lượt những mặt người quá cố. Chân
dung Trần Kính vẽ bằng than chì như hãy còn sống,
nhìn thèm muốn từ bắp chân Trần Thị lên quá đùi.
Con ruột Trần Kính là Trần Hấp, cha đẻ của Trần Lý
cũng nhìn Trần Thị như thôi miên. Cặp mắt hấp háy
của bức vẽ truyền thần tôi lau tới đâu sáng quắc tới
đó, muốn hớp hồn, níu kéo từ cổ tay trắng mịn của
Trần Thị lục lọi mân mê cho đến tận bờ ngực con gái
mềm vun. Tia mắt sờ soạng rờ rẫm. Tia mắt dâm dật
ruột thịt. Trần Thị hốt hoảng đánh rơi mâm ngũ quả,
những trái hồng quân lăn trên đất chạy trốn. Tôi cũng
hốt hoảng bởi hiểu trong cái nhìn ham muốn thèm
khát của Trần Hấp đầy dẫy những đòi hỏi chiếm hữu.
Trần Thị tung chạy ra cửa, vụt đứng sững ngay lại:
Tiếng vó ngựa dồn dập dã man phóng nước kiệu trên
con đường đất đỏ bụi mù dẫn đến gian nhà thờ. Tim
tôi cũng đập mạnh đứt quãng, cái con người hung
hãn nắm vận mệnh tộc Trần đã đến. Yêu Trần Thị
nhưng tôi bất lực, thứ bất lực của kẻ ở theo hầu một
triều đại.

III

Tôi theo dạy chữ thánh hiền cho Thủ Ðộ từ tấm bé.
Thứ chữ dùng làm đạo. Thứ đạo của người quân tử.
Nhưng với Ðộ, không có thứ đạo nào hơn sức mạnh.
Học hết Tam Tự Kinh, Ðộ không xem tôi như thầy
nữa, nhưng coi như một thứ quân hầu đi theo sai việc.
Ðộ sớm phát triển cơ thể. Bắp tay nở nang, bả vai đồ
sộ. Phóng đao, đâm giáo, dùng đoản côn, tráng đinh
khắp làng Tức Mặc không ai hơn Ðộ. Sự phát triển
của cơ thể chỉ đưa đến gia tăng tính dục. Ðộ mạnh về
đường sinh lý, những chiều đi tập võ về, Ðộ thường
cởi trần trùng trục, đứng trần truồng khoe thân trước
đám thôn nữ. Ai không muốn xem, Ðộ cho tiền bắt
xem. Ai bỏ chạy, Ðộ rượt theo đánh. Chữ Thánh Hiền
lúc đó chỉ còn là một mớ hình dáng tạp nham làm bẩn
óc Ðộ. Có lần điểm mặt Trần Lý, Ðộ nói không nể
nang:

- Ở đời không mưu, không đạt việc lớn!


Trần Lý cúi gầm mặt. Bản chất yếu đuối, trí não
không hơn một kẻ đánh cá, Trần Lý không sao trấn
áp, tranh được với trí xảo của Ðộ. Năm Kỷ Tỵ 1209,
Ðộ mười lăm tuổi, mang sức vóc của loài vượn trắng.
Trưa quất ngựa theo Ðộ đến gian nhà thờ của tộc
Trần, tâm thần tôi đầy ray rứt của nhà nho bất lực với
chữ nghĩa thả mặc dây cương cho môn sinh tìm tội
lỗi.

Chiều đó, bầu trời bẩn lắm. Có nắng, nhưng cũng


nhiều mây, thứ mây đen tối bao phủ trên nền trời đất
nước. Ðộ thúc ngựa như điên, như dại. Nắng ruổi theo
sau hớt hãi. Nhưng nếu nắng cuối triều Lý không đủ
ấm, thì khi soi xuống mình Ðộ lại biến chất. Lúc vó
ngựa của Ðộ rầm rập dẫm vào trong sân thì mặt trời
đã trở nên cực hung hãn, mặt trời như có đúc vàng
đặc cứng chật căng trên da mặt Ðộ phừng phừng lửa
giận. Ðộ thắng ngựa, buộc chặt trước rào. Cả một
gian nhà thờ vụt kinh hãi cung kính phủ phục đợi Ðộ.
Ðôi mắt Trần Kính sợ sệt trốn tránh. Cặp mắt Trần
Hấp nhợt nhạt nhìn lảng vu vơ. Cả một dẫy chân
dung cúi gầm mặt không dám ngẩng lên. Anh ruột
Trần Thị là Trần Tự Khánh trông thấy Ðộ cũng vội vã
bỏ trốn. Ở đời không mưu không đạt việc lớn. Song
Ðộ không chỉ mưu mà còn có cả sức lực. Tất cả kẻ
sống và kẻ chết trong gia tộc Trần đều biết. Ðộ đá
bật cửa, giật mạnh tấm màn gấm che ngoài. Nắng
xộc vào hung tợn hơn lũ ăn cướp soi trắng thịt da
Trần Thị tái ngắt sợ hãi. Trần Thị luống cuống hỏi:

- Cậu Ðộ tới tìm tôi?

- Không tìm chị thì tìm ai? Tìm chó à?

Ðộ gầm. Giọng nói như tên bắn.

- Phải thằng Sam trốn giặc Quách Bốc về đây hỏi


cưới chị?

- Tôi không biết!

Trần Thị co rúm mình lùi vào góc nhà. Ðộ sấn tới, vóc
vạc không thua con dã nhân đeo cung kiếm. Sử quan
triều sau, với lối chép sử biên niên cổ lỗ, không ai tả
được đôi mắt Ðộ. Ðôi mắt của kẻ nhất quyết nắm
chức Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ năm mười lăm tuổi. Trần
Thị kinh hãi lùi dần, lùi dần, cho tới khi bị Ðộ chụp lấp
cằm bóp mạnh:

- Có phải chị nhận lời vì thằng Sam là hoàng thái tử ?


Có phải?

- Cậu buông tôi ra!

- Có phải?

Ðộ tát Trần Thị một bạt tai ngã sấp. Máu ứa ra ngoài
môi. Trần Thị bưng mặt, Ðộ đến siết cổ, Trần Thị cố
dẫy, búi tóc xổ tung, những sợi tóc đen nhánh đổ
vung vãi xuống phần ức trắng. Ðộ xé toạc ngực áo lột
trần xuống tới lưng. Trần Thị gào la khóc lóc thở hổn
hển.

- Tôi lạy cậu!

Trần Thị van lơn nhưng Ðộ không nghe, không ai có


thể kềm chế đuợc Ðộ. Tôi run rẩy đứng chết trân sau
cột nhà, không gian đặc quánh nỗi sợ sệt tê điếng, đã
hiểu mình không sao giúp gì được cho Trần Thị, đã
hiểu chữ Thánh Hiền chỉ là mớ chữ vô dụng. Số phần
Trần Thị chỉ có thể do Trần Thị quyết định, nhưng Ðộ
đã nắm lấy tóc kéo lôi đi. Trần Thị giẫy dụa, mười
ngón tay bấu sướt trên nền đất cốt trì kéo mà không
được. Ðộ ném Trần Thị ngã ngồi, rồi từ từ cỡi giáp.
Hai bắp vai Ðộ lồi ra đen đỏ màu đồng. Nắng dát
vàng khắp lưng bóng lưỡng, Ðộ đứng xoay lưng nên
tôi chỉ trông thấy được những bắp cơ rắn rỏi chạy dọc
từ cần cổ xuống gót chân Ðộ trần truồng thô lỗ. Trần
Thị tái mặt. Ðôi mắt của Ðộ dâm dật bệnh hoạn,
nhưng cũng đầy thỏa mãn, Ðộ từ từ quay lại nhìn tôi
hỏi:

- Chữ gì?

- Bẩm, chữ nhân.

Tôi lắp bắp. Ðộ phá ra cười, tiếng cười lồng lộng


xuyên xoáy trên nóc nhà, rồi dội hắt xuống. Tiếng
cười như có khảm gai. Không phải là Nhân mà là
Dục, không phải Dục mà là Trí, không phải Trí nhưng
là Dũng. Nhân, Trí, Dũng, Dục, Ðộ có đủ. Lấy thằng
Sam là Trí, ăn ở với hắn là Dục, giết hắn là Dũng. Ðộ
tiếp tục cười khùng khục đứng dạng chân, vươn tay
phơi mình nhìn sững Trần Thị trong tư thế nham nhở.
Trần Thị nhắm mắt úp mặt vào lòng bàn tay nức nở.
Ðộ bỗng lầm lì cúi nhặt thanh mã nằm rơi trên nền
đất. Tiếng cười im bặt.

- Tộc Lý là con ngựa này!

Ðộ chỉ con ngựa ô buộc ngoài máng. Tay chân tôi


lạnh ngắt, người rã ra trong cơn sợ hãi, tôi đã hiểu Ðộ
sắp làm gì. Ðộ lại nắm tóc kéo lôi Trần Thị lê lết trên
mặt đất bắt nhìn quang cảnh. Hai cánh tay Ðộ hươi
cao lắm, gân guốc, mạnh mẽ. Bản dao sáng lóa, suốt
đời chưa bao giờ tôi trông thấy một thanh mã rùng
rợn như thế, đôi mắt của Trần Thị mở căng khiếp
đảm, đôi mắt của Ðộ hung bạo, đôi cánh tay vung lên
rồi quất xuống bằng tất cả sức lực. Tiếng ngựa rống
chói tai. Tiếng vó sắt đập tung như trống nện. Cần cổ
con ngựa ô ngập lún bản đao vùng lên, từ chỗ vết
thương thịt da máu me đổ trào ra như thác, máu ngập
máng, máu lênh láng bắn phun lên nền đất. Tiếng
rống khủng khiếp của con vật kêu thất thanh, cố giật
ra khỏi rào buộc. Ðộ đã chém tiếp, thân thể trần
truồng của Ðộ cũng vấy máu chém xối xả liền tay
không ngừng nghỉ, mã tấu hươi lên rồi lại bổ xuống,
máu tung như sóng, lớp lớp trào trào. Bản thép sáng
lòe lòe sắc lạnh. Hình ảnh một kẻ trần truồng chém
đầu ngựa trông kinh hãi. Chất thép rờn rợn. Hai chân
trước của con vật đã khuỵu xuống, khoảng lưng đen
nhẵn lềnh máu. Những móng ngựa nhồi xuống mặt
đất chỉ còn là những vẫy vùng  tuyệt vọng, thứ co thắt
của ruột gan đứt đoạn. Máu ộc ra ở miệng, đôi mắt
con vật đứng tròng nhìn trừng trừng lên nền trời bát
ngát. Mình ngựa đã xụm xuống, Ðộ xắn lấy đầu giơ
cao. Những ngón tay tôi thâm tím đi vì sợ. Cặp mắt
con vật, chính là cặp mắt của Lý Huệ Tông sau này ở
chùa Chân Giáo.

Ðộ bước trở lên thềm, người tắm máu, dáng dấp của
tên khổng lồ cuồn cuộn thịt gân. Xét theo sách tướng,
Ðộ có thiên mệnh, nhưng thần sắc lại nửa rắn, nửa
rồng. Không làm vua mà lại coi vua. Ðộ nhìn Trần Thị
say mê, vẻ say mê hung bạo.

- Chị yêu tôi không?

Ðộ cúi xuống, hôn vào giữa đôi môi run rẩy của Trần
Thị, một bàn tay sờ soạng phần ức trắng, mân mê nơi
đầu vú. Rồi bàn tay trườn xuống bụng, Trần Thị thót
người, co rút mình mẩy. Nhưng cử chỉ đối kháng chót
cùng đó chỉ làm Ðộ giận dữ:
- Trao thân cho tôi là trao thân cho đất nước. Hiến
thân cho tôi là hiến thân cho tộc Trần! Cớ chi phải
sợ? Hay chị muốn như con ngựa này?

Ðộ quát.

Buổi chiều đó, tộc Trần khởi nghiệp trên thân xác
Trần Thị.

IV

U Ðào đi ở cho dòng họ tôi, từ lâu lắm. Mỗi sáng u


thường hay quẩn quơ trước bàn thờ, chữa lại hương
án, rót nước, châm trà, rồi lau khắp lượt những mặt
người quá vãng, từ tổ phụ, cố nội, bà, cho đến chú tôi
mà ánh mắt cứ một ngày một nhạt phai trên bức vẽ.
Không có ai trên bức vẽ mà u không biết. Từ cố có
chiếc bình điếu bằng ngà khi làm đến chức Thái Sư
có người dâng cây gậy bằng vàng lúc chết chôn theo,
đến ông tôi từng đăng quang ở điện Thiên An, khi
ông khuất chính u là người tự tay khâm liệm. Còn bà
tôi theo lời u kể, chạy tản cư giặc Nguyên từ kinh sư
về tới phủ Thiên Trường dọc đường trúng tên mà mất.
Phút lâm chung bà không ngớt kêu tên cố. Tại sao lại
kêu tên cố mà không là ông? U Ðào không bao giờ
giải thích cho tôi rõ.

U Ðào như thế, đã ở với từng ấy người của họ Trần.


Bây giờ trong bức vẽ nhìn ra, không biết họ có còn
trông thấy u? Từ thuở tấm bé, tôi đã trông thấy chiếc
bóng của u vật vờ, dật dờ, làm như u đã ở cho tộc
Trần suốt nhiều kỷ. Không rõ từ khi nào, nhưng chiếc
bóng của u đã ăn sâu lắm, chạm khảm vào trong trí
não tôi như thể u chính là sự hiện diện của gian nhà
thờ trong mỗi gia đình Việt, từ đời này qua đến đời
khác, hết thế hệ này xuyên suốt thế hệ khác, luôn
luôn ở đó bất di bất dịch.

Dạo ấy, mỗi sáng, qua khe hở của hai tấm ván ghép
rời, lập lòe soi đỏ một tim đèn cầy thắp đêm ngày
cạnh hương án, tôi đều trông thấy u Ðào nhặt nhạnh
từng cánh hoa tàn rụng rơi, vương vãi dưới gốc chân
nhang. U quét tước tro hương, xếp lại những quả na,
bày biện thêm những quả xoài cống từ đất Chiêm
Thành vàng ửng màu cát. U không biết chữ, lại không
có thì giờ đi nghe giảng kinh, nên đối với u dọn dẹp
bàn thờ là một hành động hướng thượng. U rất chăm
làm, ngày xưa Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị gọi u là sự
tôi luyện của thời gian. Thời gian phơi trên mấy ngón
tay trắng trẻo trẻ trung của u lúc vào ở cho tộc Trần,
cần mẫn sắp xếp hai thếp nhang, đôi nến trắng, một
cho khám thờ Phật và một đặt trước bài vị gia tiên.
Vẫn động tác đó, nhưng thời gian đã bào mòn, ăn
nhấm từng đầu ngón tay, khiến lớp da nhão nhoẹt
nhăn nheo như thứ da bị ngâm nước lâu ngày chỉ
chực lột để lộ xương. Nhưng hình như u không để ý
mấy tới việc thịt da mình bị tàn phá. U vẫn cẩn trọng
quét dọn bàn thờ. Xong xuôi tươm tất đâu đó rồi u
mới lẳng lặng, lặng lẽ lên gác mời tôi:

- Mời Thiếu Ðế xuống lễ.

Chiếc bóng tôi đi trước, chiếc bóng u già cỗi theo sau.
Trẻ thơ, song tôi sớm có ý nghĩ: U Ðào chỉ là một
chiếc bóng mờ câm sẵn sàng tan biến nhập hẳn vào
từng thớ gỗ, trộn lẫn cùng với mối mọt ở đà nhà mình.
Chiếc bóng im lìm không động đậy nơi bức vách. Nếu
không phải gia tộc Trần thì cũng là gia tộc khác. U
sinh ra chỉ để đi ở, chấp nhận bất lực.

Tôi thắp nhang, van vái, rồi thỉnh một tiếng chuông
rước thầy, cố, cùng các nội tổ về.

Quay lại trong thấy u, tôi lại tự hỏi: Tại sao gia phả
của dòng họ Trần không thấy chép tên của u Ðào?
Dù u đã ở với chúng tôi nhiều kỷ. Cả một kiếp người,
vậy mà u cũng chỉ giống giọt nước rỏ từ mái hiên điện
xuống chậu kiểng, giọt nước kêu đánh “tạch“ trên tàu
lá rồi chảy xuống đất vô tâm tích. Nếu nhìn từ toàn
cảnh, tôi chính là cái chậu kiểng tiếp tục hứng giọt
nước nhỏ mọn ấy chảy từ thân u Ðào. Tôi, thái tử Ân -
Trần Thiếu Ðế - đứa trẻ được nâng như nâng trứng,
hứng như hứng hoa, chăm sóc, chăm bón, để mong
nối dõi cơ nghiệp của tộc Trần.

Song năm Kỷ Mão 1399, triều Trần đã bạc nhược


lắm. Thượng Hoàng Thuận Tông bị Quý Ly chuyên
quyền đầy ra ở Ngọc Thanh Quán huyện Ðông Triều
tỉnh Hải Dương. Tôi cũng phải rời cung Bảo Thanh về
ở phủ Thiên Trường, mang danh hiệu Thiếu Ðế mà
không có quyền bính. Kẻ ăn, người ở trong nhà chỉ
còn mỗi u Ðào và bõ Phúc. Bõ Phúc cũng già lắm,
lúc xưa là con của thầy đồ, được nội tổ Trần Hấp rước
về dạy chữ Hán cho cụ cố Thủ Ðộ. Thầy đồ qua đời,
con trai ở lại giúp việc rồi thành bõ. Lúc tôi bước chân
ra sân, nắng rơi lác đác trên những tờ giấy chép chữ
Thánh Hiền. Bõ Phúc đang ngồi lom khom phơi kinh
sử, mặt bõ ngơ ngác, nói cười như mếu:

- Bẩm Thiếu Ðế ra sân chầu?

- Ðạo đã nát, chữ đã nhòe mực, bõ còn phơi làm chi?

Bõ nhướng mắt ngạc nhiên, những xấp kinh Luận


Ngữ của Khổng Tử nhầu nát trong tay bõ. Những tấm
giấy đen đũi chép Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử ố vàng,
thấm nước mềm ủng như bún. Bõ Phúc không hiểu
tôi nói gì, lại cúi xuống chăm chỉ xếp từng tờ một,
ngay ngắn, thẳng hàng. Những ngón tay già héo của
bõ chậm chạp vuốt lại những trang Nam Hoa Kinh rồi
bày trên mặt đá. Một cơn gió thổi bất ngờ làm chữ
nghĩa bay tán loạn, bõ Phúc hối hả tất tả chạy đuổi
theo cho tới lúc cả chiếc bóng bõ cùng những tờ
giấymất hút. Sân đá lạnh câm. Không chiêng, không
trống, không cờ hiệu, không cả tiếng hát của cung
nga, tôi đứng trơ trọi một mình. Phủ Thiên Trường lúc
xưa là nơi khởi phát của tộc Trần, về sau là nơi các
thượng hoàng sau khi truyền ngôi cho thái tử về
dưỡng lão. Chiếc nôi của triều đại mỗi ngày một cũ
mục, suy tàn. Tiếng gió lay lắt mấy tấm rèm cửa.

Mãi đến chiều bõ Phúc mới lượm hết chữ Thánh Hiền
trở về. Mặt mũi bõ phờ phạc, thở hổn hển. Trông bõ
tội nghiệp. Tôi lại đứng xem bõ nhẫn nại phơi kinh sử.
Tôi muốn tìm người hiến kế, nhưng không có ai khác,
đành hỏi bõ:

- Quý Ly muốn soán ngôi, tôi còn nhỏ dại, phải làm
sao?

Bõ Phúc đang ngồi xổm, lấy đá lèn giấy, nghe tôi hỏi
bỗng ngửng phắt lên chỉ tay xuống ao quát:

- Ðầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo! Trận
này không phá giặc thề không trở lại khúc sông này
nữa!

Vẻ mặt bõ Phúc đột ngột hùng dũng, quả quyết.


Tiếng nói đanh thép của người bõ già làm tôi muốn
khóc, không ngờ những lúc lâm nguy của gia tộc hãy
còn người trung. Tôi ôm chầm lấy bõ Phúc, quỳ vội
xuống đỡ bõ đứng dậy. Tôi vái sống bõ Phúc hai vái:

- Trời ơi! Mệnh trời chưa hết mới xui bõ về đây, thiên
mệnh nhà Trần chưa hết, mai này về được kinh sư tôi
nguyện không quên ơn cứu giúp! Vậy bõ có kế chi?

Bõ Phúc cũng xúc động lắm, hai vai run run, đưa tay
vấn lại khăn nhiễu. Mặt bõ băn khoăn, hết quấn khăn
lại vuốt vạt áo thâm, mãi mới ấp úng:

- Nhổ cỏ thì phải nhổ cả cái rễ nó đi!

Tôi sửng người chưa hiểu bõ Phúc muốn nói gì. Thấy
bõ do dự, tôi gặng hỏi:

- Cỏ nào? Ở đâu?

Lúc ấy, tự nhiên mặt bõ Phúc mất hết thần khí, chỉ
còn trơ lại thân xác khô vắt của một kẻ già. Nhìn vào
đôi mắt bõ trống rỗng, ngơ ngác, hai đồng tử bạc
phếch, lờ đờ, tôi chợt hiểu. Hai cha con bõ Phúc theo
hầu nội tổ Thái Sư Thủ Ðộ và họ Trần đã quá lâu, về
già chẳng còn biết gì nữa; chỉ lập lại những điều được
rao truyền, nghe thấy. Tôi muốn giở cười, giở khóc,
đâm giận mình thiếu lý trí, kế giữ ngôi báu không ai
hỏi kẻ ở đợ trong nhà.

Lúc tôi quay trở vào trong, hàng liễu rũ đứng dưới sắc
trời chiều chạng vạng, vẩn vơ chiếc bóng của bõ
Phúc hãy còn ngồi lom khom ngờ nghệch phơi ủ chữ
Thánh Hiền.

Ðêm đó, sau bữa cơm, tôi hỏi u Ðào:

- Tộc Trần chỉ còn mỗi mình tôi ư?

- Bẩm Thiếu Ðế còn đông lắm.

U mỉm cười, hàm răng nhuộm đen tuyền làm vẻ mặt


u thêm trắng. U nói u không bao giờ lớn, trước tôi
không tin, bay giờ nhìn u đứng trong bóng tôi, vóc vạc
nhỏ nhắn, hai tay xuôi mềm, hai chân bé bỏng, sau
lớp da nhăn còn giữ dáng dấp thiếu nữ, tôi mới nhận
ra u hãy còn rất trẻ. U bưng khay trà, rót vào chung
kính cẩn mời:

- Bẩm Thiếu Ðế ngự.

- U nói sao, tôi không hiểu. Ðông là những ai?

- Bẩm tất cả.

U lại nhìn tôi do dự. Có điều gì bí ẩn u muốn dấu. Tôi


nắm tay u, u run se sẽ, tôi cảm nhận rõ ràng mạch
máu ấm giữa lòng tay u chảy mạnh. Có lẽ u chưa bao
giờ biết đàn ông.
- U còn thương tộc Trần thì dẫn tôi đi gặp.

Ðôi mắt u buồn lắm. Ðôi mắt u nhìn kỹ trong veo như
đáy sông Thao, phảng phất tia nhìn của Linh Từ
Quốc Mẫu. Tôi ôm u vào lòng và u bật khóc. U Ðào
khóc nức nở, nước mắt u đầm đìa, những giọt nước
mắt của bao nhiêu năm câm nín, cam chịu, của nhẫn
nhục cô đơn. U nuôi tôi từ tấm bé, nhưng chưa bao
giờ tôi thấy u khóc nhiều và thành thật như tối đó. Tôi
biết u không thể nói, nên u phải khóc. Tôi cũng khóc,
vì gia phả tộc Trần xuống tới đời tôi là hết. Quý Ly đã
sai Phạm Khả Vĩnh đi giết thượng hoàng Thuận
Tông, như ngày xưa nội tổ Thủ Ðộ sai thắt cổ Lý Huệ
Tông chồng Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị ở chùa Chân
Giáo. Vài hôm nữa chắc Quý Ly cũng cho người đến
bắt ép tôi uống độc dược tự tử. Tôi úp mặt vào ngực u
thổn thức. Nhưng u Ðào đã lặng lẽ lạnh lẽo gỡ tay.
Những giọt nước mắt của u sao mau cạn? Tôi đâm
ngờ u không khóc cho tộc Trần.

- Bẩm Thiếu Ðế đã đến tuần.

U đốt đèn lồng dẫn tôi vào sân trong. Khoảng sân lưa
thưa gió, tối ám, nước rỉ hai bên vách tường lâu năm
bám ẩm rêu. Khói nhang từ lư hương với vàng mã đốt
liên tục cay nồng nặc. Bõ Phúc đứng đợi kéo ngai
cho tôi ngồi. U Ðào đốt thêm nhang đèn vàng mã.
Tiếng nước nhiễu xuống vại nước nghe rõ mồn một.
Cả một bức tường khổng lồ soi ánh trăng sáng như
một trụ tháp nhà dát bạc. Bức tường sừng sững vĩ đại,
bên trên khắc chi chít tên tuổi của những người trong
tộc Trần, cùng những chiến công lừng lẫy từ trận Tây
Kết, đến Hàm Tử Quan, Vân Ðồn, Bạch Ðằng, hội
nghị Bình Than, Diên Hồng... Nghi tục của các vua
Trần về ở phủ Thiên Trường là mỗi tối phải mặc niệm
trước bức tường đã ghi chép chiến tích. Tôi cũng
không thoát ra khỏi tập quán đó.

U Ðào với bõ Phúc xá lạy rồi bước ra.

Chỉ còn tôi với chiếc ngai và bức tường mỗi lúc một
sáng lộng lẫy. Ban đầu tôi tưởng là sáng trăng, song
cứ mỗi lúc ánh sáng càng rực rỡ chiếu phát như bức
tường là cả một khối ngọc khi ửng đỏ lúc long lanh
ngời ngời. Ánh sáng huyễn hoặc thu hút đến độ tôi
không sao rời mắt đi được. Người tôi mụ đi, chả trách
bao nhiêu đời vua Trần đều say mê chiêm ngưỡng
bức tường. Ánh sáng từ bức tường thấm vào người tôi
tới đâu tê mê tới đó, máu như thông chảy trong cơ
thể, sảng khoái, rã rượi, ngọt lịm như say, toàn thân
tôi vẫn ngồi yên trong ngai mà như ân ái với nhiều
cung nữ, với Chiêu Thánh, với Thuận Thiên, với Linh
Từ Quốc Mẫu, với cả u Ðào. Ánh sáng cứ một lúc một
mãnh liệt từng vòng từng vòng lớn mãi. Ánh sáng chỉ
thoi thóp tắt dần khi trời ửng sáng. Nhiều đêm, nhiều
tháng sau, mỗi tối tôi đều đến với bức tường. Cho đến
lúc tinh khí kiệt quệ, tôi mới hiểu thứ ánh sáng huyễn
mộng đó đến từ hào quang của quá khứ.

6/1992

   

© Copyright Trần Vũ

 
 

Mùa mưa gai sắc


 

Tôi biết Huệ đã lâu. Từ lúc Huệ còn niên thiếu, những
trận mưa rào còn bất chợt đổ về qua qua ấp Tây Sơn,
thứ mưa nóng và ẩm của vùng Qui Nhơn sỏi đá. Suốt
quãng đời niên thiếu, hình như Huệ chỉ đi chơi xa có
hai lần. Một lần lên Phú Xuân và một lần bơi xuồng
băng ngang đầm Thị Nại. Cả hai lần, lần nào cũng có
hai anh lớn của Huệ: Nhạc và Lữ.

Hôm ấy ám trời, cả một mặt đầm gợn sắc mây, mưa


lướt thướt mỏng như những cánh chuồn rù rì vẩn vơ
trên mặt nước. Nhạc bản tính tục tằn không ngớt lầm
bầm trong miệng, quở trách trời đất. Nhạc quở những
hạt mưa nhỏ mọn đương vãi xuống khoang thuyền
làm hỏng cuộc vui. Lữ không nói gì, chỉ im lặng nhìn
những cánh bèo nổi lặng lờ như không muốn trôi,
trong ba anh em Lữ là người ít cá tánh nhất. Ánh mắt
Lữ, lúc nào cũng phảng phất nghĩ ngợi, một chút
buồn, một chút thiền vị vu vơ, chứa mà không chứa
đạo Phật. Đợi Lữ leo lên ngồi rồi Huệ mới lấy sức,
dẫm chân xuống nước, đẩy xuồng cho xa bờ. Những
đám lau lác đác, già nua, xanh điệp tách dần ra cho
đến lúc không còn trông thấy nữa. Nhạc làu bàu hối
Huệ bơi ra giữa đầm. Nhạc ngồi ở mũi xuồng, đúng
chỗ, đúng vai vị của người con cả. Đầm Thị Nại
không biết tự thưở nào mang tâm trạng u uất ui ui trên
mặt nước, ngay dưới mưa cũng phẳng lì không gợn
sóng. Tiếng động duy nhất phát ra từ mái chèo
khoắng nước trong tay Huệ. Huệ cũng ít nói, nhưng
không câm lặng như Lữ, chỉ nói những khi cần, cùng
những gì đáng nói. Tôi ngắm những bắp cơ trên cánh
tay Huệ thong thả nhịp nhàng dầm mái, rồi vạc nước
về sau, nhấc lên rồi lại thả xuống, cử động thuần nhất
đến độ trông như Huệ không hề chú tâm đến việc bơi
xuồng. Nhưng có nhìn vào đôi mắt Huệ thì mới biết
Huệ tập trung lắm. Hướng xuồng đi không chệch,
không lệch về trái, không thả sang phải, thẳng tắp
theo một hướng đi mà Huệ tự chọn lấy.

Mặt nước u tịch, im lìm, chốc chốc lại vang tiếng khạc
nhổ của Nhạc. Nhạc mắng Lữ và Huệ chọn đi đâu
không đi, ra chỗ buồn tênh. Thái độ gắt gỏng cộc tính
của Nhạc, hơn một thói quen, thành thứ nền nếp
trong nhà đến độ Lữ và Huệ không buồn chú ý. Suốt
buổi đi chơi, ba anh em không ai vãn chuyện. Gần
về, Huệ chỉ nói một câu duy nhất:

- Nước ở đầm này bao nhiêu đời không thay, vừa đục,
vừa tanh, mai mốt có quyền chức, tôi sẽ cho thay
nước.

Nhạc đang ngồi xếp bằng ở mui, nghe Huệ nói, liền
khạc thêm đờm xuống đầm, cho là chuyện không
đâu. Còn Lữ nói một câu vô thưởng vô phạt:

- Đầm này không sạch bằng cửa sông đổ ra An


Nhơn.

Huệ cũng không bằng lòng, gắt:

- An Nhơn cũng không sạch.

Những khi giận, hai tròng đỏ trong mắt Huệ lập lòe
lửa, tất cả thần khí dữ dội hiện lên ở đồng tử, nên nhìn
rất sợ. Nhạc và Lữ biết rõ tánh Huệ nên im lặng
không nói thêm điều gì. Đoạn đường từ đầm về bờ,
chỉ còn tiếng mái chèo Huệ sục sạo cắm xuống mặt
nước. Sông xẻ hai bên mạn xuồng, trong ba anh em
bao giờ Huệ cũng là người cầm mái, tạo ra sóng.

Lần ra Phú Xuân thứ nhất, trong đời Huệ, có lẽ cũng


là lần quan trọng nhất. Phú Xuân ở vào thời điểm đó
mang sắc đẹp của một người đàn bà cực kỳ sắc sảo,
nhưng đã chung chạ quá nhiều, sau bao nhiêu đời
chồng đâm ủ ê, bệ rạc. Song trong đôi mắt của Huệ,
xuyên qua cặp mắt của Lữ, trước cái nhìn ham muốn
của Nhạc, Phú Xuân giữ nguyên vẹn nét lộng lẫy, thứ
lộng lẫy tìm thấy trên yếm gấm viền thêu mà những
người con gái ở ấp Tây Sơn, huyện Phù Ly không có
để mặc trên mình. Hôm ba anh em Huệ tới Phú
Xuân, trời cũng vần mưa, nhưng không phải thứ mưa
dông cẩu thả, ít nước nhiều hơi không đủ làm mọc
những ruộng lúa phì nhiêu quanh thành Qui Nhơn.
Mưa ở Phú Xuân là những váng mưa ngà ngọc,
buông như buông trướng, kiêu sa đổ đều lên mái
tường thành cung điện của Nguyễn Vương. Nhạc đã
trưởng thành, nhưng không bao giờ chững, không đủ
sức kềm chế trước vẻ lẳng lơ lộ liểu, da thịt mời gọi
của Phú Xuân. Vẫn bản chất tham lam của người đã
chọn cho mình nghề biện lại, Nhạc vỗ đùi rồi để bàn
tay ở lại tự mân mê như đang sờ nắn chỗ kín của một
người đàn bà chốn kinh kỳ:

- Trên đời được làm Nguyễn Vương thì mới đáng


sống!

- Anh làm Nguyễn Vương cho tôi một chỗ trong cung,
tôi thích dãy lầu nóc giá chiêng phía hữu.

Lữ cảm hứng từ tham vọng của Nhạc, góp ý.

Mưa vẫn ướt mặt ba người. Những hột mưa đài các
lạnh lẽo tiếp tục rưới xuống dinh thự nhà Chúa. Song
mưa không làm tắt nỗi ánh lửa cháy rập rờn trong đôi
mắt Huệ. Tia lửa ngời lên như muốn táp vào mặt
Nhạc.

- Sống chỉ ao ước như Nguyễn Vương là một kiếp


sống ngu xuẩn. Mà được như Nguyễn Vương cũng
chưa phải là tất !

Nhạc quay phắt lại, giận gữ vì bị xúc phạm, nhưng


chất cộc cằn thô tục ngồn ngộn trong con người Nhạc
chưa kịp phát ra đã chạm phải ngọn lửa nóng bỏng ở
đôi mắt Huệ đành nén giọng, chỉ rít qua kẽ răng:

- Thế nào mới không ngu xuẩn, mới gọi là tất ?

- Giết Nguyễn thì được Nguyễn, giết Trịnh thì được


thêm Trịnh, Nam lẫn Bắc Hà thế mới gọi là Đế !

Buổi trưa ở Phú Xuân, Huệ khơi dậy lần đầu tiên ý
niệm vương đế. Cái ý niệm phải thực hiện để khỏi
sống kiếp người ngu xuẩn. Năm đó Huệ chỉ mới mười
sáu tuổi, lứa tuổi thật thà và hay ước vọng. Huệ mơ
ước, nhưng không đủ thật thà để nói với Nhạc cái
người dẹp Nguyễn, diệt Trịnh xưng Đế phải là mình.
Sau này khi đã toại ước, Huệ cũng không còn là Huệ
ở đầm Thị Nại, ao ước có quyền chức để thay nước
đầm đã quá cũ kỹ, nổi rêu xanh. Huệ chỉ nghĩ tới việc
giết người để lấy phần người chết. Ở khía cạnh đó thì
Huệ vẫn mãi mãi là Huệ. Nhưng có điều Huệ không
ngờ ở đất Bắc Hà, có một người cũng nghĩ như Huệ.
Song đó lại là chuyện khác.

 
Tháng sáu năm Bính Ngọ 1786, Thăng Long như bầy
heo nái nằm đợi người tới giết. Tâm trạng của vua Lê
Hiển Tông trong cung Vạn Thọ là tâm trạng của con
heo nái xề suốt bốn mươi bảy năm ở ngôi, chỉ làm nổi
một việc là cho thê thiếp lâm bồn hai mươi mốt vị
công chúa. Cảnh Trịnh Khải bị thọc tiết ở làng Hạ Lôi,
tỉnh Phúc Yên sau khi bại trận thê thảm trước quân
Tây Sơn ngay cửa Tây Long, càng làm long thể vua
Lê thêm bất an, hoang mang, cực kỳ lo lắng. Trong
khuê phòng, Ngọc Hân như lửa cháy. Suốt mấy đêm
liền, canh này qua canh khác, Ngọc Hân bồn chồn
trong tiếng trống giục điểm canh. Đã đành cái tin
Trịnh Khải mất mạng ở làng Hạ Lôi làm nàng thỏa
mãn. Ngọc Hân không ngớt bắt kẻ hầu kể đi kể lại chi
tiết cảnh Trịnh Khải rút dao tự đâm cổ chết. Máu
Trịnh Khải đỏ gấc? đỏ bầm? hay đỏ tươi như thảm
điều lót chân cho Khải mỗi lần hắn ghé qua cung Vạn
Thọ? Trịnh Khải trong mỗi bữa ăn ở phủ Chúa, khi
yến tiệc tàn thường vung tay quát tả hữu:

- Đem mấy cân thịt thừa qua cung Vạn Thọ kẻo lão
già chết đói! 

Ngọc Hân nhớ đời những câu mỉa mai ấy. Hai bàn tay
nàng bấu chặt lấy tấm màn nhung vì phẫn. Ngọc Hân
đã thề độc sẽ rửa mối nhục cho vua cha, nhưng bay
giờ Trịnh Khải thác rồi, mà không bởi tay nàng, khiến
Ngọc Hân tuy thỏa mãn nhưng chưa hả dạ. Nụ cười
trên môi Trịnh Khải, nụ cười mang nốt ruồi dư giật
giật mỗi khi chiếc cằm bạnh ra phán lệnh còn sống
trong trí não Ngọc Hân. Nàng nghiêng người nắm ghì
lấy tay nhũ mẫu, giọng kích động :

- Rồi sao nữa? Máu hắn chảy nhiều không? Hấp hối


trong bao lâu? Có rống gào không?

- Bẩm nghe bảo Chúa đau đớn lắm, lúc chết gào tên
"Huệ".

Thoắt cái, Ngọc Hân buông tay nhũ mẫu. Tấm trướng
bao phủ đất không che được những nghĩ ngợi rối rắm
trong đầu Ngọc Hân chỉ trực trào ra ngoài. Nhũ mẫu
nàng vẫn nhắc đến tên con người đã làm kinh thiên
động địa đất Bắc Hà. Nguyễn còn, Trịnh còn, thì Lê
không phất. Nguyễn vong, Trịnh diệt, nhưng còn Tây
Sơn thì Lê cũng mạt. Tất cả bỗng trở nên giản dị
trong đầu Ngọc Hân. Nàng với tay lấy tráp phấn son
rồi gọi nhũ mẫu đi lấy xiêm áo cho mình.

Năm Bính Ngọ, Ngọc Hân chỉ mới mười sáu tuổi,
nhưng mang tất cả nhan sắc của Bắc Hà. Ngọc Hân
biết mình đẹp, và biết sắc đẹp là vũ khí duy nhất của
người đàn bà. Nàng dồi phấn lên mặt, chăm chỉ chuốt
lông mày. Những ngón tay tỉ mỉ kẻ viền mắt, đánh
thật sắc khóe mắt vốn đã sắc lịm bén như nước lam
nhìn ai thường hớp hồn kẻ đó. Ngọc Hân không vội,
chậm rãi dồn hết công phu vào việc trang điểm. Lúc
bà nhũ mẫu mang xiêm y tới sau lưng, người bà chợt
rợn lên vì hình ảnh lúc ấy trước mặt, không phải hình
ảnh điểm trang thông thường, mà là cái cảnh của một
người con gái sắp thành đàn bà ngồi đánh mắt như
đang mài dao, mải miết cho đến lúc bản thép nhọn,
bén ngời.

Ngọc Hân thay áo, thứ hàng lụa mỏng mát rượi chảy
mềm trên thân thể nàng. Dăm cánh hoa cúc vàng
điểm lăn tăn ở chéo áo như hé mình bung cánh nở
đẹp lạ thường ở mỗi bước chân uyển chuyển của
Ngọc Hân. Hôm nay Huệ và Chỉnh vào gặp vua Lê.
Ngọc Hân quát nhũ mẫu lấy giấy bút cho mình làm
vội bài phú để lấy lòng Huệ. Ngọc Hân chấm bút vào
mực, nóng nảy viết thoăn thoắt một lúc 164 câu.
Trong lúc sơ ý, nàng để ống tay áo nhúng vào liễn
mực thấm loang một góc. Đến khi đọc lại đến
đoạn mà nay áo vải cờ đào... mới chợt nhận thấy tay
áo mình bị ố. Chỗ lụa lấm đen làm nàng khó chịu,
toan đi thay, nhưng rồi chợt nghĩ biết đâu chỗ mực
lem ấy sẽ làm Huệ cảm động. Ngọc Hân đọc lại bài
phú, lời lẽ nhún nhường mà sắc, các thanh chập vào
nhau như tiếng dây chuông rung ở cửa lầu phủ Chúa.
Huệ là kẻ biền võ, nhưng đọc thì ắt phải xúc động. Đã
có tiếng trống hiệu đón người ngựa của Tây Sơn vào
cung Vạn Thọ, Ngọc Hân búi lại tóc, tra thêm chiếc
trâm cài có nạm ngọc, dấu hiệu của trinh tiết không
thể thiếu trong buổi ra mắt đầu tiên. Âm trống chưa
dứt và tiếng đập mạnh của trái tim trong lồng ngực
làm nàng nghe như tiếng chân Huệ dõng dạc bước
lên điện. Cái con người đang nắm vận mệnh Bắc Hà,
Ngọc Hân quyết chiếm cho bằng được, trả bất cứ giá
nào kể cả bán thân xác. Nhũ mẫu gọi hai tỳ nữ đi
theo nàng, lúc ra khỏi khuê phòng, Ngọc Hân không
quên đem theo bài phú xếp trong áo.

Hữu đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hữu Chỉnh dõng dạc đi


lại, điệu bộ của con lang đi theo chấm mút bữa ăn
còn sót của hổ. Khuôn mặt Chỉnh dài, cái cằm nhọn,
cánh mũi mỏng quá độ dễ làm liên tưởng đến mỏ
quạ. Chỉnh nói chuyện nhưng không nhìn Hiển Tông
xem như không có. Ngọc Hân vừa giận, vừa thất
vọng. Huệ không đến, Chỉnh đi lại một mình bàn
chuyện tấn phong Nguyên Súy cho Huệ ở điện Kính
Thiên. Vua Lê – con heo già – chỉ biết giương đôi mắt
lờ đờ thở ì ạch, tán đồng, thứ công việc mà người ta
đãi công bằng chiếc ngai sơn son thếp vàng lâu ngày
tróc lở như lên hủi. Xong chuyện, Chỉnh cho vua Lê
lui gót rồng, còn lại một mình hắn cười khẩy săm soi
sàm sỡ nhìn Ngọc Hân. Khóe miệng Chỉnh khinh
khỉnh, khẽ nhếch lên đuổi hết tả hữu ra ngoài, đai áo
óp vào rồi phình ra theo nhịp thở có mùi trầu cay bám
đỏ ở những kẽ răng Chỉnh mỗi lúc gần sát mặt Ngọc
Hân. Chỉnh đưa đẩy mấy câu vu vơ bàn chuyện hôn
nhân sắp tới, tia mắt chỉ chực dịp là thả vào ngấn cổ
Ngọc Hân để đo lường sắc trắng của da thịt với vải
lụa bạch. Ngọc Hân nhìn trừng Chỉnh, nhưng cái thế
của nàng chưa cho phép đối đầu với Chỉnh. Chỉnh
nắm Ngọc Hân như nắm chuôi dao, muốn chém vào
đâu thì chém. Chỉnh xòe một bàn tay trước mặt Ngọc
Hân, bàn tay có đeo chiếc nhẫn khảm phượng, phần
thưởng thi Hương Cống của vua Lê ban cho Chỉnh lúc
xưa.

- Thiên hạ vạn kẻ, nhưng nhân tài ở đất Bắc Hà chỉ


một mình ta. Ta về với Tây Sơn, Bắc Hà chỉ là cái đất
không!

Chỉnh hầm hè.

Chưa rõ Chỉnh muốn gì, Ngọc Hân nửa muốn bước lùi
một bước để tránh hơi thở ám mùi trầu lẫn mùi giềng
của gã, nhưng lại sợ Chỉnh khi mình chịu kém, nàng
dùng dằng chưa biết tính sao. Chỉnh lại cất giọng:

- Cuộc hôn nhân này, phú quý vinh hoa chỗ nằm bên
cạnh Thượng Công thì chớ quên ta.

Chỉnh vừa nói, bất ngờ chụp lấy vai Ngọc Hân, rồi lợi
dụng Ngọc Hân đương bối rối, Chỉnh luồn ngay tay
vào trong yếm ghì chặt lấy ngực nàng.

- Buông ra!

Ngọc Hân vùng vẫy, đẩy Chỉnh, cố lùi ra sau nhưng


lưng đã chạm bức chắn bình phong. Vừa hổ ngươi,
vừa nhục, Ngọc Hân vung tay tát trái Chỉnh. Song
Chỉnh phản ứng bằng tất cả nhanh nhẹn tốc chiến
của thủy quân Tây Sơn, bẻ quặt lấy tay nàng.

- Tri hô cầu cứu đi! Để cho Thăng Long rõ cái nhục


của cung Vạn Thọ!

Chỉnh chồm người, gầm gừ, đầy đắc thắng, bàn tay
vẫn luồn trong yếm đào, vừa mân mê, vừa đe dọa.
Thư phòng vắng người, như tất cả đang đồng lõa với
Chỉnh. Một bức hoành phi sau lưng Chỉnh chạm lộng
đôi Giao Long đang cấu xé nhau như hoạt cảnh diễn
ra. Ngọc Hân giận tím mặt. Bàn tay Chỉnh đọng mồ
hôi ẩm ướt trên da thịt khiến nàng lợm giọng. Ở người
con gái khác sẽ là mối nhục ngàn đời đưa đến tự vẫn,
nhưng với Ngọc Hân đó là lối xử ngu xuẩn. Máu nóng
dồn lên làm đôi mắt nàng vốn sắc sảo càng thêm
sắc. Tia mắt Ngọc Hân dữ dội đến độ, đương suồng
sả, Chỉnh lặng đi, choáng người, phải rút vội tay.
Ngọn lửa đằng đằng sát khí trong mắt Ngọc Hân,
Chỉnh đã trông thấy nhiều lần trong đôi mắt Huệ. Đôi
mắt của kẻ hiếu sát, đã quả quyết làm gì là làm cho
đến cùng. Châu thân Chỉnh lạnh toát, mồ hôi bất ngờ
vả ra ở sống lưng. Ánh mắt đương cháy lập lòe của
Ngọc Hân rõ ràng là ánh mắt của Huệ, cái nhìn trừng
phạt của Huệ trước cảnh hành quyết. Lần vào Gia
Định tàn sát tập thể các chú khách, Huệ đã nhìn
những xác người Minh Hương bằng cặp mắt của
Ngọc Hân đang nhìn Chỉnh lúc này. Chỉnh cảm thấy
khó chịu, khô ở đầu lưỡi, gượng gạo sửa lại đai áo.
Ngọc Hân tiếp tục nhìn trừng trừng cho tới lúc Chỉnh
phải quày quả bỏ ra. Ngọn gió luồn từ cánh cửa
Chỉnh không khép thổi lùa thốc qua gian phòng.
Những lá thế kỳ, cườm hoa mừng chiến thắng Tây
Sơn diệt Trịnh treo khắp nhà như cung Vạn Thọ đang
có lễ tang. Khuôn mặt Ngọc Hân vẫn tím xanh vì giận
dữ. Nếp vải xổ ở ngực áo như còn bày năm dấu tay
Chỉnh in trên mình nàng. Ý nghĩ căm ghét quan lính
Tây Sơn càng tăng trong đầu Ngọc Hân. Đến lúc
nắng xếch qua riềm cửa, rọi lòe khóm trúc trồng ở
chậu đồng, Ngọc Hân mới bỏ vào trong, nhưng bàn
tay Chỉnh cũng đã theo nàng vào khuê phòng.

Suốt trưa đó, Ngọc Hân bứt rứt, khó chịu, ý nghĩ có
mối thù chưa trả làm nàng như đứng trên giàn hỏa.
Đến chiều, bức bối không sao chịu nổi, Ngọc Hân sai
thị tỳ cùng nô tài khiêng kiệu đưa nàng ra cửa Tuyên
Vũ xem bêu xác Trịnh Khải. Tất cả những uất ức của
Ngọc Hân như được trút ra khi trông thấy thủ cấp nhà
Chúa. Đầu mắc một nơi, xác phanh một góc. Cả xác
của Nguyễn Noãn gia thần Trịnh Khải và Đỗ Thế
Long bị quy phản dìm chết ở sông Phú Lương cũng
được vớt về căng lên cho mọi người làm gương. Ngọc
Hân nhìn ngắm chăm chăm từng nét mặt của Trịnh
Khải, từ cặp mắt trợn ngược, nốt ruồi dư mà lúc sinh
tiền Khải thường hay vân vê, đến lỗ dao sâu hoắm ở
cổ họng và những sợi gân còn vướng mắc đong đưa
lòng thòng bên dưới. Ngọc Hân cảm thấy hả dạ, cúi
xuống lần lần khăn san cầm ở tay ra vẻ xúc động,
nhưng kỳ thực là để che dấu nụ cười thỏa mãn, cực
sung sướng. Lần đầu tiên nàng khám phá ra hiệu quả
của những xác chết có thể giải bày mọi uất ức trong
người mình. Ngọc Hân lấy móng tay vẽ mơ màng lên
khăn tay. Hai gã nô tài đợi lâu, dợm chân định đưa
kiệu về, Ngọc Hân đã ngửng phắt lên bắt ngừng, để
nàng được dịp ngắm Trịnh Khải cho thỏa thích.
Nhưng lần này ở chỗ móc xác Trịnh Khải, Ngọc Hân
mường tượng ra thủ cấp của Chỉnh.

Đám cưới của Huệ sau chiến thắng vang dội được
xem là một ngày trọng thể. Trong phủ Chúa, binh lính
Tây Sơn tạm đóng đại bản doanh, người con rể của
Thăng Long đi lại với tất cả dáng vẻ của một con hổ
sau bữa tiệc hoẵng. Huệ ở thời kỳ này đã khác xa
Huệ của Thị Nại, hay Huệ của Phú Xuân. Trong phủ
Chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long
từng mảng da beo lớn trải làm thảm lót chân, Huệ đi
lại trên đó và khạc nhổ cũng trên đó. Những tấm
khiên lớn bằng đồng bóng loáng soi khuôn mặt Huệ
đỏ sần lên vì rượu. Tả đô đốc Vũ Văn Nhậm nhắc:

- Sắp tới giờ, Thượng Công nên đi rước dâu.

Huệ đang dùng đoản đao bổ đôi quả cau, quẹt vôi rồi
ăn sống, buông đao, ngửng lên nhìn Nhậm. Huệ thấy
Nhậm y như lời Chỉnh thường rỉ tai: Vũ Văn Nhậm
hữu dõng vô mưu, đầu óc trống trải, tựa như một
cánh đồng khô, không hoa, không lúa. Huệ gắt:

- Ta dẫn mấy vạn quân ra đây, đánh một trận dẹp


yên thiên hạ, lão già họ Lê, dòng họ, ngai vàng lão
thuộc về ta như trâu bò, đất đai, người ngợm của Bắc
Hà. Việc gì phải đi đón! Đem con nộp thì ta lấy!

Chỉnh từ nãy ngồi ở ghế trường kỷ, không ngớt rót


rượu cho Huệ, nghe Nhậm bị mắng, khẽ nhếch môi
nhưng không cười. Chỉnh vươn tay bẻ một nụ vạn thọ
cắm vàng hoe trong lọ độc bình.

- Ý của Tả đô đốc là muốn Thượng Công giữ tiếng.


Bề ngoài mình vẫn mang danh nghĩa phù Lê. Sá gì
cái chức Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc
Công. Ngai vàng của Hiển Tông, Thượng Công muốn
ngồi lúc nào bọn tôi cũng kéo sẵn!

Mấy lời của Chỉnh làm đẹp lòng Huệ. Đang bẳn gắt,
Huệ trở ra vui. Lại dùng đoản đao chém cổ bầu rượu.
Hiểu lòng Huệ như Chỉnh, thiên hạ không có mấy
người, kể cả Ngô Thì Nhậm sau này khi Huệ ra Bắc
lần thứ nhì thu phục được. Vui vẻ nên Huệ trở nên
hào phóng, trở lại trướng ngồi. Sau lưng Huệ là một
tấm cờ đào to bản vẽ chính giữa một chữ "Tâm" thật
lớn. Huệ vẫn hãnh diện về cách đãi người của mình,
không "Dũng", không "Mưu", nhưng chính cái "Tâm"
mà Huệ tự nhận là thiên tài lớn. Quân Tây Sơn đi đến
đâu, Huệ cấm không được tơ hào, nhưng dân các
vùng phải nuôi ăn và cúng góp. Huệ sai Nhậm:

- Thằng Chỉnh nói hợp ý ta ta. Ngươi xuất kho hai


trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai chục tấm
đoạn mang sang cung Vạn Thọ, nói là của ta thí cho!

- Lễ vật cầu hôn của Thượng Công dâng lên Hiến


Tông.

Chỉnh chữa lại.

Nhậm từ nãy nóng bừng mặt vì mấy lời bàn của


Chỉnh, nhưng vốn chậm chạp, còn lúng túng chưa
kiếm được cách "phóng trả lao", thì Huệ đã giục:

- Thằng chết bầm! Còn đứng đó!

Nhậm vội vã cúi chào lãnh mệnh đi. Nhậm đi khuất,


chất hào phóng trong người Huệ cũng tan đi. Huệ
đâm tiếc của, nhưng ngại nói ra mất mặt trước bề tôi,
đành hỏi vờ:

- Ta xuất kho nhiều như thế, liệu đủ chăng?

- Thấm vào đâu!

Chỉnh vẫn vân vê nụ vạn thọ, trả lời. Những cánh


vàng mềm mềm áp trong tay khiến Chỉnh vụt nhớ tới
Ngọc Hân, nhớ sắc đẹp mê hồn mà sắc sảo, Chỉnh lỡ
đụng vào đứt tay, vết thương không khép miệng. Tự
nhiên Chỉnh ghen tức với Huệ, vò nát nụ vạn thọ,
mỉa:

- Dân Bắc Hà chăm cúng góp. Thượng Công muốn


bao nhiêu trong kho cũng có!

Nhưng Huệ không hiểu thâm ý, mãn nguyện ngả


người lên bệ Chúa. Cuối tháng sáu, tiết trời Thăng
Long đã chực bước sang tháng bảy nên hầm bức.
Huệ cởi hẳn chiến bào nằm duỗi người dang vai như
dáng nằm của loài hổ chùi mình trên cỏ trước cơn
rượn đực. Chỉnh biết ý Huệ không còn muốn tiếp
chuyện, lẳng lặng bỏ về. Những cánh vạn thọ còn
dính ở kẽ tay khiến lòng Chỉnh bâng khuâng, vừa tiếc
Ngọc Hân, nửa giận Huệ. Mưu phản ngấm ngầm từ
lúc đó.

*
 

Đêm hợp cẩn của Ngọc Hân, mưa xé qua rèm trướng
phủ Chúa. Tất cả hầm bức của ban ngày nổ tung
xuống nóc lầu Tửu Các. Trước đây là chỗ riêng của
Trịnh Cẩn. Tiếng sấm dậy vạch chớp những đường
dài lòe rực nơi ô cửa. Tâm thần Ngọc Hân dao động
theo dông bão trộn lẫn những bối rối lo lắng tìm cách
khuất phục Huệ. Nằm một mình trên chiếc giường
của Trịnh Cẩn, Ngọc Hân không ngớt nghĩ ngợi tới
những người con gái đã vào nằm trong lòng giường
này. Từ thời Trịnh Tùng Bình An Vương đến Tôn Đô
Vương là Trịnh Cán, tính ra tất cả chín đời Chúa, hai
trăm mười ba năm ròng rã. Bao nhiêu người con gái
tan xương nát thịt dưới mình Chúa? Bây giờ tới phiên
Ngọc Hân. Nếu không là Huệ, thì trước sau nàng
cũng phải thất thân với Trịnh Khải. Trước sau Ngọc
Hân cũng phải trao thân cho kẻ nắm quyền ở Bắc
Hà, như cánh cửa ải phải đi qua. Việc quan trọng là
sau khi qua ải, phải làm thế nào để khôi phục vương
triều Lê. Ngọc Hân cắn môi, day trở một lúc rồi không
nằm được nữa, những kèo cột chống
rường và thượng lương chống đỡ nóc lầu như cứ
muốn ngã vật đè lên đầu nàng. Ngọc Hân bực bỏ
ngồi dậy, xoay mặt vào vách đợi Huệ.

Đêm khuya lắm. Tiếng trống kéo dài thõng thượt chạy
xoáy qua khắp hành lang. Huệ vẫn còn ngồi uống với
bọn Chỉnh, Nhậm. Uống theo kiểu Tây Sơn, từng cối,
từng thau, khi uống vục mặt vào chậu cho ướt hết tóc
tai. Rượu là thứ rượu đế của làng Vân ngoại thành
Thăng Long cay xè lưỡi, nhưng xuống đến cổ thì ngọt
lừ hương vị của men rượu hạ thổ như đưa hết âm khí
của đất Bắc Hà vào mình, khiến bao nhiêu nước
trong người Huệ theo mồ hôi xuất hạn đầm đìa, như
muốn dành chỗ để chứa rượu. Uống đến thau chót,
Nhậm đã say lắm, nhưng còn sực nhớ điều gì,
khuyên Huệ:

- Lầu Tử Các ngày xưa là chỗ ở của Trịnh Cán, làm


Chúa chưa đầy hai tháng thì bị truất, Thượng Công
hợp cẩn ở đó không nên!

- Thượng Công oai vũ uy dũng, cho sống thì sống,


bắt chết phải chết, cớ sao phải sợ?

Chỉnh ngà say, nhưng cũng cất giọng, theo thói tật hễ
Nhậm bàn điều gì thì Chỉnh phải bác đi. Huệ lừ lừ dốc
hết thau rượu, rồi đứng lên, hai ngọn lửa trong mắt
vẫn không suy suyển, rượu chỉ làm sức cháy phừng
lên mãnh liệt hơn.

- Đạo làm tướng không biết sợ! Chỉ có mệnh trời mới
hại được ta!

Huệ tiện tay lật bàn. Chỉnh và Nhậm ngã chúi xuống
nền nhà. Nhậm nhằm cơn, ói mửa tung tóe. Chỉnh
vừa lấy tay lau mặt, vừa gạt chén đĩa thau chậu
quanh mình, nhìn Huệ hậm hực cố gượng dậy. Song
Huệ đã lừng lững bỏ đi. Ánh đèn lồng treo ở xà
thượng, về khuya, vắt lên lưng Huệ những vằn vện
của cột mái trông như tấm lưng hổ đi kiếm mồi.

Lúc Huệ dẫm chân lên thang lầu Tử Các, mùi xạ


hương tẩm trong chăn gối bỗng tan mất nhường cho
hơi rượu nồng nặc. Chưa trông thấy, nhưng Ngọc Hân
biết ngay Huệ đến. Nàng xoay mặt đợi, hơi nép vào
tấm màn thêu quanh giường. Đã chuẩn bị sẵn, nhưng
lúc Huệ đẩy cánh cửa gỗ nặng nề chạm long ly qui
phượng, rồi giật mạnh tấm màn gấm che ngoài, Ngọc
Hân cũng thót người sợ hãi. Tia lửa lập lòe từ mắt
Huệ cháy rờn rợn như muốn đốt nàng. Huệ quả như
lời đồn đãi, vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván
gỗ. Huệ cất tiếng nói. Giọng ồ ề vỡ ra như tiếng thác
đổ vào giữa khuya. Huệ nói gì, Ngọc Hân không hiểu,
hơi rượu ngập ngụa kèm theo chữ mất chữ còn phát
ra từ thân hình quá đẫy đà chỉ chực đổ xuống. Giọng
vỡ của Huệ làm Ngọc Hân nhớ tới lời đồn, trước đây
giọng Huệ thanh, từ khi kéo quân ra Rạch Gầm đánh
quân Xiêm tự nhiên mất giọng, tiếng bể như tiếng
rạch nước đổ xuống trũng sâu. Dân dã bảo là điềm
trời không thuận cho Huệ diệt Nguyễn Ánh. Ngọc
Hân níu lấy vải mền, bao nhiêu quả quyết như tan
vụn trước mặt Huệ. Nhưng Ngọc Hân không muốn bị
khuất phục, không muốn Huệ cưỡng chiếm mình như
cưỡng chiếm dinh thự, trâu bò của Bắc Hà. Nàng nhìn
trừng trừng Huệ. Cái nhìn của con thú sắp bị cắt tiết.
Cái nhìn của Ngọc Hân có thể làm chùn tay Chỉnh,
nhưng với Huệ – uy-vũ-dũng – cái nhìn chỉ làm cho
Huệ đang say bỗng sôi gan. Huệ chụp lấy ngực áo
cưới của Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con
mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo
dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dễ tưởng như
giải lụa bạch đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như
thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát chúa tóe lửa
vun vút cuồng nộ. Rồi không kềm chế được, như
Nguyễn Nhạc ngày xưa mất tự chủ trước da thịt mời
gọi của Phú Xuân, Huệ đè ngửa lên biểu tượng trinh
trắng của Thăng Long. Những bắp cơ Huệ còn nhớp
nháp mồ hôi quấn lấy mình Ngọc Hân đang nghiến
chặt răng chịu đựng. Huệ vục xuống gáy Ngọc Hân
cắn như xé thịt. Dáng đè của Huệ, hai đùi chống
xuống giường, mình trần phủ lên người Ngọc Hân y
như dáng hổ đang ngoạm hoãng. Đến lúc Huệ bắt
Ngọc Hân co hai đầu gối, thì nàng quá đau đớn
không dằn được, bật tiếng kêu nấc trong đêm tối.
Huệ nghe tiếng nấc, khoái cảm càng tăng lên như
những lúc chứng kiến hành quyết. Đao phủ Tây Sơn
xử trảm bằng cách chém ngửa nghịch nhân, mã tấu
phập xuống tiếng thét của tội đồ bị đứt ngang ở
cuống họng chỉ phát ra được tiếng nấc khô. Tiếng
nấc khô của Ngọc Hân lúc nãy.

Mùi mỡ trong đèn chai cháy èo uột ngọn lửa lúc tối
lúc sáng, căn phòng của Trịnh Cán đóng xong vai trò
lịch sử rơi chìm vào giấc ngủ đẫm mùi rượu đế của
Huệ. Cơn dông chùng xuống sau gần suốt đêm quất
qua lầu Tử Các. Những hột mưa gai sắc như muốn
trổ mái bắn xuống mình Ngọc Hân ẩm ướt, tủi hổ. Lúc
cơn mưa tạnh hẳn, bóng trăng bắt đầu lấp ló, chạy
ngang trên trục xà hạ, thì Ngọc Hân không còn thấy
đau đớn, chỉ trông rõ xác Huệ bị bêu ở Tuyên Vũ.
Thói đời phong kiến, nợ máu phải trả bằng máu.
Ngọc Hân chấm tay vào giọt máu còn rỉ ra ở bụng
mình, đưa lên môi, máu của họ Lê phải trả bằng máu
của Tây Sơn.

Lúc tôi ra Thăng Long, tiết trời tháng bảy nặng nề


lắm. Những cánh lá bàng to như xác trâu mộng, rụng
ì ạch xuống kinh thành đã cũ mục, dậy mùi cũ kỹ, từ
triều đại đến máu huyết. Huệ đợi tôi ở phủ Chúa, Huệ
hơi ngượng, tia mắt dữ dội của Huệ nhìn lên tấm vải
cờ đào vẽ chữ "Tâm". Nhưng rồi như nhận ra chữ
"Tâm" không đúng với lối hành xử của mình, Huệ lại
nhìn xuống ngón chân bị dập từ thưở thiếu thời, máu
bầm làm đen móng. Trong thiên hạ, có lẽ chỉ mình tôi
là Huệ không dám hành xử chữ "Tâm", dùng ngọn lửa
của đôi mắt để đốt… Huệ sai Nhậm lấy rượu ra uống.
Tôi cùng uống thố rượu mời của Huệ. Giống như thời
ở Qui Nhơn, hết thố này qua thố khác, hết chậu này
sang chậu khác, bao giờ Huệ cũng say trước tôi. Tôi
được trời phú cho khả năng ngậm rượu. Rượu tôi
uống vào, bao nhiêu cũng chảy sang mình Huệ. Làm
như thân thể cả hai nối với nhau bằng một sợi giây vô
hình. Uống một lát, rồi Huệ quát đuổi Nhậm và Chỉnh
ra. Phủ Chúa lộng lẫy mà lạnh lẽo sự lẻ loi cô độc
của Huệ. Tôi nhắc chuyện Nhạc ở Qui Nhơn không
bằng lòng việc Huệ ra Bắc. Thái Đức sắp kéo binh ra.
Nhưng Huệ thờ ơ lắm, không để tâm, hay không xem
Nhạc ra gì. Nhìn mấy bông vạn thọ cắm vụng về
trong lọ, tôi hỏi Huệ:

- Phủ Nguyên Súy sao chưng thứ bông quê mùa


này? Đất Bắc Hà không thiếu hoa đẹp, hồng gai,
phong lan, thủy tiên, hoa loa đỏ...

- Ta không biết thưởng hoa!

Huệ lắc đầu, chán chường đáp. Rồi không dằn được,
trong vật vã của cơn say, Huệ kể hằng đêm phải lôi
Ngọc Hân ra đánh mới thỏa mãn. Khuôn mặt Huệ lúc
đó đau khổ lắm. Huệ lại kể hôm giữa tháng bảy, "con
heo già" mất, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ lên ở ngôi. Ý
Huệ không thuận, bởi Huệ muốn ngồi trên ngôi báu
đó, nhưng lòng dân chưa ngã ngũ. Lễ Thành Phục
Huệ đưa Ngọc Hân về lãnh tang, trước linh sàng Hiển
Tông, Huệ nóng nảy sai Nhậm chém một viên Tả
Phiên triều Lê, chỉ bởi hắn dám cười cách đọc điếu
văn của Huệ. Lúc chém: Nhậm cằm dao chém ngửa,
máu bắn cả vào ỷ Hiển Tông đặt trên linh sàng nơi
cửa Đông. Thủ cấp Huệ sai bỏ trên mâm bạc đặt lên
áo quan vua làm kinh động khắp thành. Thân nhân
người có tội hay biết, chạy đến cửa cung kêu
khóc. Huệ cũng sai chém. Tính ra lúc động quan,
chém cả thảy mười bảy người. Càng kể, hai mắt Huệ
càng ngầu đỏ vẩn đục. Huệ ngồi trên một chiếc
rương to, hai người ôm không hết. Như muốn cởi hết
tâm sự lòng, Huệ đứng dậy, chậm rãi mở rương, bên
trong chồng chất từng xấp phướng. Từ trong chiếc
rương hòm như bốc lên cả một khối chì chiết. Lá
phướng dài dằng dặc chép đen nghịt tên tuổi những
người Huệ đã đích thân sai chém. Có đến cả trăm,
nghìn tên, đó là chưa kể những người do quan lính
Tây Sơn tự ý giết. Huệ lần giở, lá phướng di chuyển
rơi thõng xuống rương, rơi đến đâu tên tuổi người chết
bật ra đến đó. Đến phần phướng trắng, Huệ dừng lại.
Cả mình mẩy tôi đều rợn lên vì ở phần phướng còn
trống, Huệ đã nối sẵn, dài gấp năm sáu lần lá
phướng đã chép. Và cái tên cuối cùng được ghi sẵn là
hai chữ rắn rỏi: Nguyễn Nhạc!

Không khí trong phủ Chúa lúc đó nặng nề, u uẩn


không sao thở được. Người tôi khô đi vì sợ. Tấm bản
đồ Huệ cho vẽ treo cạnh đầu hổ, phía Tây vẽ hết biên
giới Tiêm La, phía Bắc lên hết vùng Lưỡng Quảng,
còn phía Nam qua khỏi Vĩnh Trấn chấm biển. Gió đẩy
tấm bản đồ lắc lơ, như nhắc nhủ những tham vọng
của Huệ. Những tham vọng đã vượt xa ngày đầu tiên
lên Phú Xuân. Lúc đó Huệ chỉ nghĩ tới Nam, Bắc Hà,
bây giờ ngọn lửa trong đôi mắt Huệ cháy lan đến
những vùng khác. Nơi nào có đất, có người, thì coi
như của Huệ. Huệ đã thay đổi, chỉ có Nguyễn Nhạc
còn bằng lòng mãi với chiếc ngai của Nguyễn Vương.
Lần ở phủ Chúa, là lần duy nhất Huệ thố lộ tâm sự
với tôi nhiều như vậy. Ở đầm Thị Nại, Huệ chỉ mở
miệng một hai câu, phơi cả lòng mình cất trong rương
là quá nhiều. Nên Huệ trở ngay lại với tính bẳn gắt.
Khạc nhổ, lầm bầm chửi rủa, đóng mạnh rương, rồi
trở ra bàn gục mặt vào thau rượu. Huệ uống tới lúc
ngủ quên trong thau. Tôi đỡ Huệ dậy, dìu đặt nằm ở
bệ Chúa. Từng cánh vạn thọ vàng rụng rây rắc xuống
lồng ngực Huệ, thở đều đặn nhịp sống của đất nước.
Buổi trưa xác xao đến độ buồn tẻ, tiếng ngựa hí, tiếng
trống dồn binh không có, vắng lặng tẻ nhạt, chỉ lâu
lâu mới có tiếng quân cờ Chỉnh và Nhậm đang đánh,
đập lẻ tẻ ngoài mặt phản.

Tôi đứng một mình một lúc không biết làm gì, lần ra
Bắc này gặp Huệ sao tôi không được vui, lòng cứ
phân vân vì những biến chuyển nội tại đang xảy ra.
Tên Nhạc chép trên lá phướng như một vết dao cắt
ruột. Lương tri tôi khổ sở nghĩ ngợi, bỏ mắt Huệ hành
xử chữ "Tâm" với Nhạc sẽ là vết nhơ muôn đời. Nghĩ
tới lui không được kế gì, tôi đành bỏ ra xem Chỉnh và
Nhậm đánh cờ.

Thế cờ của Chỉnh sáng lắm, linh hoạt, xảo quyệt,


quyền biến. Đôi mã giao chân xấn xổ tạt bên hữu,
nhảy bên tả, áp đảo Nhậm trông thấy. Ở ngoài nhìn
thì Nhậm có vẻ lúng túng, xoay trở chậm chạp. Công
không ồ ạt, chỉ lo thủ, xây đắp tường thành, bẫy
Tượng, gểnh Sĩ. Chẳng mấy chốc Chỉnh đã xua hết
quân sang sông. Cống Chỉnh đánh cờ bằng phong
thái tự tin của mình ngày xưa đi thi Hương Cống, tin ở
tài biện luận xuất chúng, trước sau thì Chỉnh cũng đỗ.
Nhưng đánh càng lâu, thế cờ càng đổi khác. Nhậm
nếu chậm chạp, nhưng một khi đã làm xong hết
những công việc chậm chạp của mình thì trở thành
một pháo đài kiên cố. Quân Nhậm còn đủ Sĩ Tượng,
năm Chốt giàn đồng, hai Pháo Thần Công, trong lúc
Chỉnh chỉ còn độc mỗi một mình một ngựa. Chỉnh lùi
mã về Bắc, hy vọng cố thủ, nhưng cung vua đã mất
hết Sĩ Tượng, thế trận của Chỉnh trống trải, toang
hoác, Nhậm muốn vào ra lúc nào tùy ý. Kết cuộc ván
cờ không có gì lạ, Nhậm kiêu hãnh trong lúc Chỉnh
bực bội.

Tôi đứng im theo dõi, ván cờ định mệnh, muốn bàn


với Chỉnh, Nhậm khuyên Huệ đừng giết Nhạc, tránh
cảnh nồi da sáo thịt. Song nhìn khuôn mặt họ, cằm
nhọn lưỡi cày của Chỉnh, vai u thịt bắp nồn nận ở
Nhậm, tôi hiểu họ không có giá trị gì với Huệ. Cái
người khuyên Huệ đãi chữ "Tâm" đích thực với Nhạc,
chỉ có thể là tôi, vào lúc thời cơ thuận tiện nhất.

Chỉnh và Nhậm còn đang tranh cãi, Chỉnh đòi bày lại
cờ, Nhậm dứt khoát tuyên bố mình đã thắng Chỉnh,
cờ soái về tay, cả hai không ngờ Huệ đã thức giấc từ
lúc nào. Huệ đưa tay chụp bắt quân Tướng của
Nhậm, cả bọn mới đực ra rồi vội vã cúi chào. Vẻ mặt
Huệ lúc đó, không còn biểu hiện thành thật nào nữa,
Huệ đã ra khỏi trạng thái tâm sự với tôi lúc nãy, trở lại
nguyên vẹn vai trò Chúa Tây Sơn.

- Đất Đại Việt chỉ có một chủ!

Huệ quát bằng giọng Rạch Gầm, bốn ngón cái và trỏ
bẻ đôi quân tướng của Nhậm.

Đêm ở phủ Chúa, Huệ bước chân lên lầu Tử Các,


lòng âm ỉ cơn say. Sống với Huệ hơn ba tháng, Ngọc
Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thứ
thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với
bệnh cuồng sát. Lẳng lặng, tự nguyện, không đợi Huệ
bắt, nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường. Cái
liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi
gai. Huệ lấy roi, không phải dây đai của đêm hợp
cẩn, mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi
khi lâm trận. Ngọc Hân uốn lưng đợi, tóc xoã chảy
xuống nền đá, không trang sức, không cả chiếc vòng
cổ truyền của con gái Bắc Hà, chỉ một dấu thẹo đỏ do
sắt nung ở vai. Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán
được dấu tỉ ấn của Huệ. Hai ba tấm màn gấm dụ
buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ, Huệ tiến tới một
bước, hai bước, rồi vung tay quất. Đầu roi vút tiếng rít
như rạch rách tấm màn gấm. Ngọc Hân oằn người
bấu cứng lấy trụ giường. Huệ đã say máu, những
chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông
như vệt ong đốt, hay những giọt mực son rỏ lên vũng
sữa, Huệ vung tay tới tấp.

Khác với đêm hợp cẩn, Ngọc Hân rên rỉ, oằn oại kêu
rất lớn. Nhưng nếu Ngọc Hân đau đớn, thì nỗi đau
đớn đầy đắc thắng. Huệ quất roi như một kẻ suốt đời
hành nghề tra tấn, không được đánh người thì không
biết phải làm gì. Huệ bị ràng buộc vào người đàn bà
mà mãi mãi từ đây, hằng đêm Huệ phải tìm đến.
Khuôn mặt Huệ toát ra vẻ mãn nguyện, thỏa mãn.
Huệ chỉ buông roi khi Ngọc Hân đã ngã khụy dưới
chân giường. Cảnh giao hoan của Huệ với Ngọc Hân,
cũng không còn là cảnh cưỡng bức ban đầu, nếu
dáng ngồi đè của Huệ vẫn in dáng hổ nhai mồi, thì
hai cườm tay Ngọc Hân đã quấn chặt lấy cổ Huệ, và
trên lưng Huệ đầy những vết cào của một con sư tử
cái.

Tôi chơi với Hân từ thưở bé. Từ thưở Hân còn ưa chơi
ô quan trong sân cung Vạn Thọ. Bao giờ tôi cũng về
phe Hân. Vua Lê có hai mươi mốt vị công chúa, họ
thường nhiếc tôi là cái đuôi của Hân. Tôi với Hân như
đôi bạn, chẳng vậy mà ngày xuất giá, Hân chỉ mang
theo mình tôi để hầu cận, người nhũ mẫu nuôi Hân từ
thưở lọt lòng, Hân cũng không thiết. Hân mặc bộ áo
lụa có thêu bông cúc, thân áo mềm như cuống hoa
hải đường chỉ nở một lần rồi chết. Tôi lấy thau nước
cho Hân rửa mặt. Nhìn khuôn mặt đẹp, mà nét mày
não nùng, tôi không khỏi xúc động. Bây giờ tôi mới
hiểu vì sao người xưa nói: hôn nhân, điền thổ, vạn cố
chi thù!  Đất đai ở Bắc Hà này là của họ Lê, Hân tin
như mấy đời nhà Lê tin vào mệnh trời, thế nước có
hưng thì cũng có suy, nhưng bản mệnh họ Lê là trị vì
trăm họ. Hân lấy gương lược chải lại tóc, lúc cong tay
búi tó, Hân chợt chú ý chỗ ống tay áo mình lấm mực.
Hân thõng tay nghĩ ngợi, rồi quay phắt lại hỏi tôi:

- Bài phú hôm nọ còn giữ không?

- Bẩm còn.

- Đưa đây!

Hân hơi gắt, mỗi lần mưu tính chuyện gì, Hân thường
trở nên nóng nảy. Tôi hấp tấp chạy tìm lục trong số
rương hòm vật dụng của Hân mang theo sang phủ
Chúa. Mấy chiếc hài cườm, dăm cây quạt bông, một
tập Chinh Phụ Ngâm ép ở giữa là bài phú. Hân sai tôi
lấy bút, mài mực ra liễn. Hân đọc suốt lại 164 câu, rồi
chữa, bỏ những đoạn mừng Tây Sơn vào Thăng
Long, vẫn giữ nguyên những đoạn kể chiến công, chỉ
thêm thắt chữa lại cho bài phú trở thành bài văn tế
Huệ. Hân bảo tôi đè giấy, để mình ghi tựa. Ba chữ "Ai
Tư Văn" sắc như dao khắc trên mặt gỗ. Nhẩm đi
nhẩm lại, Hân nói với tôi vẫn câu "Mà nay áo vải cờ
đào"  là hay hơn cả. Không nói ra, nhưng nhìn đôi môi
khinh bỉ, tôi hiểu Hân muốn ám chỉ ba anh em Huệ
xuất thân dân dã, đầu đường xó chợ nhờ vận may mà
có quyền bính, chứ không thuộc dòng dõi quý tộc
vương đế chính thống lâu đời như Hân. Âm hưởng
của bài tế não lòng làm tôi rợn.
- Phu nhân viết chi những lời ai oán. Thượng Công đã
mệnh một đâu?

- Rồi sẽ mệnh một! Viết sẵn sau này sẽ có dịp dùng!

Hân đập mạnh tay xuống mặt bàn, rồi như sực nhớ ra
điều gì, cầm lại bút, nhúng mực nắn nót đề ở cuối bài
tế ba chữ: Lê Ngọc Hân. Hình như Hân do dự một
giây rồi mới hạ bút quả quyết thêm vào hai chữ: Công
Chúa. Không phải Nguyên Súy phu nhân, nhưng mãi
mãi là Công Chúa Lê Ngọc Hân, không bao giờ là
người của Tây Sơn. Làm xong bài tế, Hân có vẻ vui
thích lắm. Ánh mắt long lanh như buổi trưa cùng tôi
đứng ở Nghênh Phong Lầu nhìn xuống sân phủ, đám
vệ sĩ của Huệ loay hoay trui nướng cóc. Mùi cóc
nướng, mùi thịt ướp sả, khói than, mồ hôi, da thịt trai
tráng nồng nặc cả bao lơn. Trong bọn có gã vệ sĩ
riêng của Huệ, người đen như cột đình, to lớn, kềnh
càng chẳng khác một con khổng tượng. Gã vệ sĩ "cột
đình" nắm hai chân sau cóc xé toạc nhai nhồm
nhoàm, vừa ăn vừa lấy đoản côn đánh thùng thùng
vào tấm khiên lớn đeo ở vai. Tấm thớt lưng săn chắc
hung đỏ như thứ đồng dùng đúc lư, tưởng đứng đâu là
chôn vững vàng xuống mặt đất vậy mà bất ngờ đổ
kềnh, ngã nhào chúi sấp người đập mặt vào bếp lửa.
Cái "cột đình" dẫy lên, hai tay co giật, hai chân đạp
đạp như đôi chân của loài ếch. Gã trợn ngược mắt,
xủi bọt ở mép rồi đứng tròng. Cả đám lính xô vội vỉ
cóc đang nướng chảy mỡ, rùng rùng kéo chạy.
Quang cảnh diễn ra thật gấp. Hân bấm mạnh tay tôi
như khám phá ra điều gì. Miếng mật cóc đắng gã "cột
đình" ăn phải, không ngờ ám ảnh Hân. Khi rỗi ngồi
một mình, Hân thường ấp tay lên tay tôi, nhắc lại
chuyện mật cóc ấy. Con khổng tượng, con thú lớn
nhất của loài thú cũng có thể bị giết bởi thứ mật của
con vật bé nhỏ nhất.

Tôi kéo tay Hân, rủ ra ngoài bao lơn. Lầu Tử Các


vắng lặng, trống trải, từng lớp bụi bay mờ trong nắng.
Lá trúc rắc đầy bực tam cấp. Hân ngồi xuống bên
cạnh tôi, lúc nãy sắc sảo linh hoạt bao nhiêu, bây giờ
thẫn thờ như mất hồn. Hân sống như người bệnh trí từ
hôm về với Huệ. Đêm đêm chứng kiến cảnh Hân chịu
đòn, tâm thần tôi tan nát. Tôi thân thiết với Hân như
hai chị em song sinh, cùng cha, cùng mẹ, cùng một
nỗi lòng con gái mới lớn, kê vai lãnh trọng trách trung
hưng nhà Lê chẳng khác đội đá vá trời. Ngày mai
Thái Đức đưa quân vào thành, rồi Huệ chuyển quân
về Nam. Từ nhỏ tôi với Hân chưa bao giờ rời Thăng
Long một bước, giờ phải xa kinh thành, qua xứ Nghệ
hiểm trở để ra Phú Xuân. Đường vô xứ Nghệ quanh
co... Tôi chắc lưỡi. Gió thổi phất những lọn tóc mai
của Hân bay sẽ như sợi chỉ loảng. Màu hoa loa đỏ
treo ở chậu bình bao lơn, cũng thẫn thờ đỏ như màu
gấc ở đĩa xôi cúng vua Lê đặt ngoài hiên đã nguội
khói. Mắt Hân nhìn về phía cung Vạn Thọ xa vắng.
Hân bất chợt hỏi:

- Nguyễn vong, Trịnh mạt, Tây Sơn diệt thì thiên hạ


chỉ còn cách phù Lê phải không?

Hân lấy chân du di tới lui trên mặt tam cấp, hỏi lại: Có
phải không? Tôi siết tay Hân. Những đường gân xanh
đã lờ mờ nổi lên trên bàn tay mảnh khảnh, những
đường gân của nặng nhọc tinh thần.

- Huệ này! Thằng Nhậm có ý đồ riêng, thằng Chỉnh


không ngay thẳng, hắn lại trêu tôi, tìm cớ mà giết đi
để trừ họa!

Hân nhìn tôi đăm đăm, như đang nói chuyện với Huệ.
Giọng trong trẻo tỉnh táo quá độ và ánh mắt khô ráo
làm tôi hoảng:

- Phu nhân!  Tôi đây mà!

- Láo! Vua băng sao không quỳ xuống!

Hân lồng lên. Nhưng rồi lại đổ rũ người ra khóc nức


nở. Nhục cha chưa trả, đã nhục con. Tang lễ vua
Hiển Tông, tôi cùng nằm với Hân trên đất, cho đô
tùy khiêng linh cửu dẫm lên như một nghĩa cử trả ơn
cuối cùng. Huệ thì đứng dõng dạc, ngạo mạn, người
ngựa lồng lộng cờ đào như diễn tập. Họ Lê đã mạt
thật rồi!

Chính sử của mỗi triều chép mỗi khác. Sau này tôi
vẫn tự hỏi: những âm mưu của Ngọc Hân là đáng
thương hay đáng tội? Chép trong chính sử Tây Sơn
thì đáng tội. Xét theo sử triều Lê thì đáng phục.
Nhưng sống trong một đất nước chỉ biết lấy chữ ‘‘Sát’’
làm chuẩn thì mới thật đáng thương.

Mấy lá trúc vàng, rây rắc gió cuốn rụng xuống Thăng
Long xao xác hơn bao giờ.

20/ 01/ 1992

© Copyright Trần Vũ

 
 

NGÔI NHÀ SAU LƯNG VĂN MIẾU


 

Tôi trở về ngôi nhà của gia đình sau hơn hai mươi
năm xa cách. Ngôi nhà chừng như không thay đổi
mấy ở mặt tiền. Vẫn ba gian tường quét vôi trắng,
điểm một vài khung cửa khép hờ, một chái bếp ở hiên
sau và mảnh sân con vuông vức nơi lối ra vào. Dấu
tích của thời gian chỉ ẩn hiện lờ mờ từng đốm ố trên
vách tường cũ, đã ngả màu cháo lòng và loang lổ đây
đó như những vệt mụt nhọt thâm sâu. Ngôi nhà vẫn
giữ được màu ngói đỏ mà Thầy tôi thuê người lợp
trước ngày Nhật chiếm Ðông Dương. Vẫn còn nguyên
một mảnh ngói mẻ nằm ở hàng ngói thứ mười từ
máng xối đếm lên. Cả lớp rêu xanh rì bám vào bờ
tường chạy viền theo bên hông nhà ra đến chân hàng
giậu hoa dâm bụt nơi Thầy tôi đang đứng.

- Kìa cái Nụ về đấy à? Ði đâu mãi thế? Ðến gần Thầy


xem, mắt Thầy lòa rồi không nom rõ...

Lòng tôi vụt xốn xang, bồi hồi. Cái thời khắc hồi hộp
chờ đợi gặp lại người thân sau bao năm chia cách.
Tôi lóng cóng đặt xắc hành lý, hấp tấp bước như chạy
vào trong sân. Tôi muốn ơm choàng lấy thân thể
mảnh dẻ của Thầy, nói cho người hiểu rằng tôi luôn
luôn thương kính người. Nhưng ở lúc tôi xúc động
nhất, Thầy tôi bình thản tự nhiên ngồi xuống tấm
phản gỗ kê ở gần bên. Hai cánh tay vốn yếu của
người chậm chạp lần tìm mẩu vải nhung nâu, mà từ
ngày khôn lớn tôi chưa bao giờ thấy người rời ra.
Người cong cánh tay xanh mướt, khẽ đỡ cặp kính
thuốc xuống lau chùi. Cặp mắt Thầy tôi bỗng dại hẳn 
đi khi người tháo được đôi kính. Người ngồi yên như
thế ở tấm phản trước mặt tôi, tia nhìn ngây thơ như
đứa trẻ, ngây dại như là người không còn trông thấy
gì, kể cả tôi. Như thể cái con người vừa vồn vã chào
mừng tôi trở về nhà tức thời, không phải là thầy. Thầy
tôi ngồi ngơ ngác trong sân, chìm đắm vào một thế
giới mà chỉ mình người biết. Người không thấy cả hòn
non bộ quý mà người đặt mua tận bên Tàu, bây giờ
vẫn còn đây, đã cạn nước nằm trơ trẽn phơi xác nơi
cuối vườn.

Thầy tôi im lặng, lâu lâu cúi xuống mải miết với mẩu
vải nhung sờn cũ. những đường chỉ sợi viền vàng
thêu tên họ chữ lót của người đã tả tơi, như mảnh di
vật của một thời phú túc. Người mân mê lau chùi hai
tròng kiếng dầy trầy trụa, không còn nghe thấy bất cứ
một âm thanh hay thứ tiếng động nào khác.

Tôi không rõ Thầy tôi lòa và yếu thần kinh đến múc
độ nào, song cái hình ảnh thực tế đầy đủ từng đường
nét, chi tiết cảnh Thầy ngồi thẩn thờ hàng giờ tẩn
mẩn sờ mó mày mò gọng kính thuốc cong queo, tỉ mỉ
xếp gấp cái khăn nhung cáu bẩn và nâng niu cây gậy
chống kiểu Tây thuở xưa, cái hình ảnh bệ rạc suy
nhược đó rằng cái Nụ – như người thường gọi tôi bằng
cái tên tấm bé – đã ra khỏi cuộc đời người từ lâu lắm
rồi.

Lúc tôi theo Mợ tôi bước vào nhà, Cố đang nằm trên
sập gụ. Vẫn tủ chè Tàu kê nơi góc, vẫn bàn thờ gia
tiên với một nén hương sắp tàn, và mùi hương trầm
phảng phất trong không khí tịch mịch yên lặng vây
lấy sập gụ. Cố vẫn nằm đó, thiêm thiếp, khò khè, như
chưa hề đòi đi đâu hai mươi năm nay. Mợ tôi mở hé
một tấm phên liếp cho ánh sáng rọi chiếu thêm vào
gian buồng. Nghe tiếng động, thân hình Cố bỗng lúc
lắc, cái đầu hình sọ rung rung muốn xoay lại. Cố
cũng bị yếu thần kinh, nhưng khác với Thầy là Cố
không lòa. Bàn chân tôi đột ngột chôn xuống nền đất
đã gỡ mất  phần gạch lát nơi ngạch cửa, vì trời ơi – đôi
mắt Cố mới tóe lửa dữ dội làm sao khi Cố xoay được
đầu đăm đăm nhìn trừng về hướng tôi. Cố giương cặp
mắt lớn qua khổ trên khuôn mặt xọm khô nhão nhoẹt.
Ðôi con ngươi muốn vỡ ra ở hai hố mắt đầy tròng
trắng, lăn tăn lia tia nhiều gân máu. Ánh mắt nhìn
trắng dã mà hai mươi năm nay tôi trốn tránh, lúc này
hiển hiện phừng phừng lửa giận trong gian nhà. Cố bị
bán thân bất toại nên hai chân và nửa người dưới bất
động, song nửa người trên với mười lóng tay co giật
cào cấu, chụp bắt liên hồi vào chiếu giường như
muốn dựng dậy cái xác thân đã tàn phế. Một chuỗi
âm thanh không rõ tiếng, líu ríu thoát ra từ lỗ miệng
móm méo. Mợ tôi đè mạnh Cố nằm xuống. Ðắp thêm
chăn cho người. Bà vuốt vầng trán nhăn nheo của cái
thân xác còn đang co giật như bị động kinh, thì thầm
à ơi như ru con. Ðứng ở bậc cửa, tôi thu tiếp trọn vẹn
vùng ánh sáng của nắng vàng hoe, loe từ phên cửa,
lờ mờ lớp bụi giăng giăng theo từng chập. Mợ tôi phe
phẩy quạt mây. Bà dấp dấp khăn ướt đắp lên mặt Cố,
chăm sóc cho cụ bằng những động tác nhẫn nại đến
điên người. Không gian đặc quánh quanh cái sập gụ
của Cố bằng gỗ cẩm lai. Thời gian ngừng hẳn ở bát
nước vối Mợ tôi đút từng thìa nhỏ vào giữa cặp môi
nhăn nhúm. Phải lâu lắm Cố mới húp hết bát nước
vối. Chờ đến khi Cố nằm yên thiu thiu ngủ, bà mới
đứng lên.

- Chị đừng có chọc Cố, để yên cho cụ ngủ. Cụ bị liệt


không đi đứng được nên thường hay lên cơn uất. Thôi
chị vào buồng trong thay áo, để tôi làm việc. Tỵ nữa
họ hàng có ghé, tôi sẽ bảo chị ra chào.

Mợ chỉ chuyện trò với tôi ngần ấy. Không có đến một
lời thăm hỏi. Hai mươi năm mà bà không hề thay đổi.
Vẫn ngần ấy dáng vẻ, từng ấy cử chỉ cứng rắn cùng
lời nói không khi nào biểu lộ tình thương. Giống Thầy
tôi, bà không mấy vồn vã khi hay tin tôi về thăm nhà.
Tôi rỡ hành lý, lẳng lặng đem cất vào buồng trong, và
cẩn thận tránh đi ngang giường cụ Cố. Buổi chiều,
con đường Quan Thánh lặng lẽ như tờ. Một vài phiến
lá bay rơi lao xao, xào xạc, vô hồn...

Ðêm đầu tiên ở trong ngôi nhà mình đã sống qua thời
hoa niên cách đây hai mươi năm tôi không sao chợp
mắt được. Tôi thao thức hết nhìn gian buồng nhỏ đơn
sơ, một kệ tủ đóng bụi mờ, một cánh riềm cửa phập
phồng tung bay lên xuống ở đầu nằm, rồi lại nhìn
ngắm hàng cây trầu bà giồng ngoài ô cửa sổ trông ra
phía Văn Miếu. Tâm thần tôi cũng phập phồng kỳ lạ,
nửa tỉnh táo nghe tiếng ngáy khò khè của Cố ở buồng
bên, nửa đuối vào vùng tâm thức của cảnh trí cũ.
Tiếng gió đưa những chiếc lá bàng khua rời rạc trên
mặt đường như tiếng cánh cửa tâm linh ở trong tôi
chợt mở, chợt khép kẽo kẹt lần lữa dằng co với thực
tại và quá khứ. Gian buồng tôi ở giữa, hai bên là
buồng của Thầy Mợ tôi và cụ Cố. Tôi như bị vây lấy
bởi tiếng thở đều đều của những người thân thuộc.
Nửa đâêm có tiếng mớ của Thầy tôi mê sảng từng
chập rồi tắt lịm vào bóng trăng đong đưa chơi vơi giữa
hai tàu lá. Không gian lại chìm vào trong cái khuya
khoắt của đêm Hà Nội u trầm tịch lặng. Không phải
cái yên lặng thanh bình của Hà Nội thời tiền chiến,
mà là cái không khí trừ tịch, cô quạnh vắng vẻ, đìu
hiu của vũ trụ đã có từ ngàn năm trước. Có một
thoáng tôi lờ mờ tuởng mình trông thấy những bóng
người đi khuya về ngang Văn Miến, tuởng nghe được
tiếng chuyện trò của họ lúc rõ lúc câm, tôi rùng mình
đến mấy lần vì vẻ lạnh lẽo, toát ra từ ánh trăng tròn
mọc cao vút. Ðúng lúc đó tôi nghe được rõ ràng
những tiếng động sệt sệt sau gian bếp.

Tôi gặp Nhài lần đầu tiên buổi tối ấy. Lúc tôi xuống
bếp, Nhài đang vần những bao than lớn mở trút vào
bồ. Thứ tiếng động nặng sền sệt mà tôi nghe khi nãy,
là tiếng động của mấy bao tải than mà Nhài kéo lê từ
sân sau vào bếp. Nhài còn trẻ lắm, chỉ vào độ đôi
tám. Trông thấy tôi, Nhài nở nụ cười cầu thân, tươi
cười như thể tôi và Nhài đã quen biết nhau từ trước.
Song, ở dáng vẻ tự nhiên không kiểu cọ, vừa rỡ than
vừa mời tôi bát nước vối, vừa kể chuyện của Nhài làm
tôi có cảm tình với Nhài ngay. Chái bếp khuya, tù mù
khói bay tỏa bốc tự đám than hồng Nhài vừa nhóm để
nấu xôi. Hai cánh tay Nhài thoăn thoắt, khều tro lửa,
giở nắp nồi xem xôi, tước củi nhỏ, sàng gạo ăn cho
vào lu, vừa sửa lại búi tóc mỗi khi trễ xuống gáy. Nhài
không đẹp lắm, không có nét thanh lịch của thiếu nữ
Hà Nội, đôi bàn tay hơi thô vì làm việc nặng, ngực vú
đầy căng so với lứa tuổi dậy thì. Nhưng bù lại Nhài có
khuôn mặt duyên dáng, nụ cười tươi hàm tiếu, ánh
mắt sắc lẻm đưa tình và thân hình đầy đặn. Nhài còn
có giọng nói truyền cảm, dù có hơi sắc ở những thanh
cao.

- Có chị làm bạn, em mừng quá. Cả ngày giời đụt


mưa nắng, tối về quần quật sau chái bếp, em đến mà
chết mất!

- Nhài đi đâu cả ngày, mình về nhà từ buổi trưa mà


không gặp?

- Ra chợ Ðồng Xuân chứ đi đâu! Ðáng nhẽ đã về sớm


kia, tại cái nhà anh Ðoàn dớ dẩn!

- Chắc Nhài thích đi chơi lắm nhỉ? Có hay dạo phố ở


hàng Ðào không?

- Ấy, đi gánh than ấy chứ! Chơi gì!

Nhài bĩu môi trả lời, hai bắp tay vẫn thoăn thoắt xúc
than cho vào bồ. Búi tóc con gái đong đưa từng chặp
mỗi lúc Nhài xoay mình với cái này, lấy cái nọ. Nhìn
những bao tải than trong lúc ở Hà Nội “gạo châu, củi
quế”, tôi mừng cho Thầy Mợ tôi hãy còn phong lưu
khá giả, chưa đến nỗi phải đun củi như nhiều gia đình
khác.

- Sao mua được than nhiều thế? Mình tưởng ngoài


này hiếm lắm chứ?

Nghe tôi hỏi, Nhài quay lại ngó chăm chăm vào mặt
tôi rất ngạc nhiên.

- Than đá ấy à?

- Ừ, chứ không phải mua theo phiếu ở cửa hàng cung


cấp chất đốt à?

- Tem phiếu gì, ngoài chợ ấy ra mua mà vác về!


Tháng nào mà em chẳng đi gánh về cho Mợ.

Nói rồi Nhài vui vẻ đi ngâm nếp, bảo để thổi cơm


rượu ngày mai cho Cố. Nhài về ở với Thầy Mợ tôi
mười mấy năm rồi. Giọng kể của Nhài đều đều gần
như độc thoại.

- Bố đẻ em mất sớm. Bu em lấy chồng khác. Thầy


Mợ nhận em về làm con nuôi vì khi ấy chị vào Nam
rồi nhà cửa cô quạnh quá.

Ngồi sau lưng Nhài, tôi trông rõ những giọt mồ hôi ẩm


lấm tấm bám vào ngấn cổ trắng ngần của Nhài, rồi
chảy lăn xuống lưng áo. Hơi nóng tỏa ở ngọn lửa than
làm cho chái bếp nóng rực. Làn vải nội hóa mỏng
dán sát vào da thịt Nhài phô bày tấm lưng chắc khỏe.
Lâu lâu Nhài lơi tay việc, quay nhìn tôi cười khoe hàm
răng hột bắp nhỏ đều. Thỉnh thoảng Nhài vuốt lại lọn
tóc kẹp không kỹ, buông lẳng lơ trước trán. Ðêm
trong ngôi nhà sau lưng Văn Miếu khuya vắng, tịch
mịch, chỉ có tiếng lửa than tịch tạch từng lúc, và tiếng
kể chuyện của Nhài thì thầm đôi lúc lanh lảnh lên
giọng. Nhài kể về ngôi nhà nhiều khí âm của Thầy
Mợ tôi, về những cơn điên loạn bất chợt của cụ Cố,
về bệnh đãng trí mất hồn của Thầy, và về tánh tình
mỗi ngày một lãnh đạm của Mợ. Nhài cũng nhắc về
Ðoàn, gã thanh niên theo đuổi Nhài, thường hay tìm
cớ đụng chạm vào tay châ, ngực Nhài.

- Mà lạ lắm chị Nụ, em cũng thích để cho cái nhà anh


Ðoàn rờ rẫm...

Khi nói câu ấy Nhài tránh nhìn mắt tôi, mặt hơi
nghiêng về bếp lửa. Những ngọn lửa than hồng cháy
rạo rực trong mắt Nhài lúc đó. Mười ngón tay Nhài
mân mê đôi đũa bếp, di di trên mặt đất phẳng phiu vẽ
những hình vật vô hình. Hai chúng tôi chuyện trò
khuya lắm, đến khi Nhài làm xong hết việc, cả hai
mới trở lên nhà. Căn buồng của tôi cũng là căn buồng
của Nhài. Lúc thổi tắt ngọn đèn dầu tờ mờ, Nhài cười
khúc khích tỏ ý muốn ngủ chung với tôi. Gian buồng
chỉ có một chiếc giường tre mỏng manh, tôi lại không
nở để Nhài nằm đất, dầu sao đây cũng là buồng của
Nhài từ sau khi tôi bỏ nhà đi. Trong giấc ngủ dầy đặc
bóng mây đen của quá khứ, tôi mường tượng một bàn
tay Nhài luồn vào trong áo mình, từng làn hơi thở của
Nhài phà vào cổ tôi. Những cơn trăn trở khiến thân
thể của Nhài chạm vào mặt, vào ngực, vào bụng tôi,
và tiếng phên cửa kẽo kẹt cùng ánh bạch lạp thắp
suốt đêm bên buồng cụ Cố.

Khi tôi tỉnh giấc, phên cửa đã thôi kẽo kẹt. Ánh bạch
lạp cũng đã tắt. Chỉ có tiếng một vòng bánh xe đạp
mệt nhọc, đang rướn mình trên con dốc trước nhà.
Tiếng động phọc phạch của một túi đồ nào đó buộc
không kỹ trên yên xe, len lỏi được vào nhà, không đủ
phá tàn bầu không khí vây trùm yên lặng. Khung cửa
sổ hâm hấp nắng trưa, rọi vào chỗ nằm làm tôi nặng
đầu váng vất. Nhài đã ra khỏi buồng từ khi nào. Bộ
áo cánh khi đêm Nhài mặc, treo ở cánh cửa tủ đong
đưa, phất phơ... Tôi nằm bất động trên giường, thân
thể nặng nề như vừa qua cơn bóng đè. Mãi tôi mới
ngồi dậy được và bước xuống nhà dưới rửa mặt.

Lúc tôi chải đầu xong  trở lên nhà trên, Cố vẫn còn
nằm thiêm thiếp nơi sập gụ. Tiếng thở khò khè vang
lên từng chập, gần như rên rỉ. Thầy tôi đã ra ngồi
ngoài sân, nơi tấm phản kê gần dậu hoa dâm bụt.
Hai cánh tay người yếu ớt lau chùi tròng kính, như cố
gắng tuyệt vọng sau cùng muốn tìm lại sư tinh anh
cho đôi mắt. Thầy không hề trông thấy tôi. Dưới màu
nắng lấp lánh, cảnh tượng của ngày hôm qua hiện ra
trở lại, với ngần ấy cử chỉ, động tác của người. Tia
mắt người còn nguyên sự ngây dại, ở đôi môi run rẩy
lâu lâu lắp bắp một câu nói tỉnh táo... của cách đây
mấy mươi năm về trước.

-      Anh Phu đâu rồi? Ðánh xe đi rước cụ Phan sang


chơi tổ tôm xem nào!

-      Không có nhà à? Thôi được rồi cất xe đi...

Cứ như thế, từng lúc bất chợt người to tiếng hầu


chuyện một mình, rồi bỗng nhiên ngừng bặt rơi vào
một vùng yên lặng sâu thẳm. Tôi đứng chôn chân
trên bậc tam cấp, chứng kiến hình ảnh tiều tụy của
người cho đến lúc Mợ tôi từ phiên chợ sớm về. Bà
ném cho tôi cái nhìn không mấy yêu thương, lẳng
lặng đến bên Thầy lùa mười ngón tay gầy guộc vào
trong mái tóc đã bạc trắng của người, săm soi nhổ
từng sợi tóc ngứa. Bà âu yếm vuốt vai Thầy, phủi
dăm hạt bụi dính vu vơ trước khi rời ra để vào hẳn
nhà trong chăm sóc cho cụ Cố. Tôi vẫn đứng đó, thấy
mình thừa thãi, muốn phụ giúp bà nhưng không dám.
Có một phiến chắn vô hình, kinh khủng giữa tôi và
bà, khiến tôi không thể mở lời làm bất cứ điều gì trước
khi bà lên tiếng. Cũng như hôm qua, tôi đứng nhìn bà
bồng Cố xuống sập gụ, cho đi tiêu đi tiểu, lau mình
mẫy Cố rồi cho ăn uống. Ngần ấy công việc làm xong
thì trời đã quá trưa. Mợ tôi xuống bếp hâm thức ăn,
những món mà Nhài đã làm sẵn hồi tối.

- Thầy Mợ xơi cơm...

- Không dám, mời chị.

Mợ tôi lạnh lùng cầm đôi đũa, gắp bỏ từng cọng rau
muống vào bát của Thầy, chan thêm ít canh cua.
Thầy lặng lẽ ăn, ngơ ngác vô hồn như một con đười
ươi được tập luyện thuần thục.

Buổi chiều, tôi đi làm giấy cư trú tạm thời trở về thì
gặp cô chú tôi đến thăm. Ði cùng với cô chú còn có
một vài người quen của Thầy Mợ tôi, nghe tin tôi về
Bắc, đến chào hỏi.

Tối ấy, tôi lại mất ngủ. Bao nhiêu tiếng động, hình
ảnh của đêm qua trở về trên cái nếp màn cửa rung
hờ, thả ánh trăng soi chập chờn lên trần nhà mờ đục.
Tôi nằm im thao thức nghe tiếng mớ của Thầy tôi mê
sảng, hòa điệu vào tiếng thở khò khè của cụ Cố chỉ
còn là một thân xác gần kề miệng lỗ. Ðến khi nghe
tiếng lục đục quen thuộc ở gian bếp, tôi trở dậy bước
xuống nhà dưới thì gặp Nhài.

- Ði đâu cả ngày nay không về?


- Ra chợ, buôn cau cho Mộ, rồi lên ga hàng Cỏ đón
người quen.

- Ai thế?

- Nhà anh Phú chứ ai vào! Gớm cái nhà anh này mới
từ miền cao về đã táy máy...!

- Này quen ai mà ở tận miền cao?

- Không, trước anh Phú ở Hà Nội, phồ hàng Bưồm ấy


chứ! Nhưng từ hồi anh ấy vào khu, họ bắt đi công tác
ở miền cao.

- Mấy chục năm rồi mà vẫn vậy cơ à?

Tôi ngạc nhiên hỏi Nhài, không ngờ từ ngày kháng


chiến đánh Tây đến bây giờ ở ngoài này vẫn không
thay đổi mấy. Nhưng điều lạ lùng là Nhài ngạc nhiên
còn hơn cả tôi. Nhài tròn xoe mắt nhìn tôi không hiểu.

- Làm gì mà mười mấy năm, chỉ mới gần đây thôi mà.

Nhài trả lời rồi không chú ý đến câu chuyện nữa, trút
cau từ trong thúng ra đất, lựa năm trái một buộc túm
vào nhau. Tôi phụ Nhài xếp những lá trầu và rỡ vôi
tán mỏng gói lại từng túm nhỏ. Nhài bảo để mai gánh
ra chợ bán.

- Này gặp Phú nói chuyện gì mà lắm thế, mãi giờ này
mới về. Kể mình nghe xem nào.

Vừa nghe tôi hỏi, Nhài đỏ mặt, cả hai đôi má ửng


hồng và vụt lính quýnh. Nhài như muốn lảng chuyện
bằng cách cho thêm than vào bếp lửa nước sôi. Tối
nay Nhài thắt bím, hai bím tóc lẳng lo đùa giỡn trước
ngọn lửa bếp. Nhài quỳ gối làm việc, nhưng rồi không
giữ được tâm tình mình, Nhài tâm sự bằng giọng Bắc
quê hơi đỏng đảnh pha tiếng cười khúc khích.

- Chị Nụ! Chị đừng khai với Thầy Mợ nhé, em có


người yêu rồi!

Nhài ngừng một chút, dôi mắt long lanh rồi tiếp.

- Không phải cái anh nhà Ðoàn đâu, ấm ớ dớ dẩn


lắm. Phú đấy! Hồi chiều chúng em gửi gánh rau ở
nhà ga, đi dạo phố. Phú thuê xe kéo đưa em đi dạo
hồ Tây thích quá chị Nụ ạ. Mà này chị Nụ, sao đàn
ông con giai họ hay thích nắm tay, vuốt lưng mình thế
chị Nụ nhỉ?

- Chỉ nắm tay thôi mà mãi tối mịt mới về cơ à?

Tôi hỏi lại Nhài, chỉ để đùa chơi. Nào ngờ vẻ mặt
Nhài thay đổi, nghiêm trọng hẳn. Ðôi má Nhài thêm
đỏ hây hẩy ngọn lửa than.

- Chị Nụ! Chị đã hôn ai chưa?

Nhài nhìn sững mặt tôi không chớp mắt. Lúc đó tôi
mới biết cuộc tình đối với Nhài trầm trọng hơn tôi
tưởng vì là mối tình đầu. Nhài ngó tôi bằng cặp mắt
dễ sợ của một thiếu nữ sẵn sàng chết sống vì tình.
Cái cõi sống cũng như chết mà Nhài dám tiến đến vì
đã trao thân cho Phú.
Cánh cửa gian bếp bỗng xịch mở. Một bóng người
đàn ông lao vào, giọng khản đục hét quá to trở thành
chuỗi âm thanh võ rìn rịt.

- Mày đi đâu cả ngày giời hôm nay, con khốn


nạn?! Mày theo giai đấy phỏng?!

Thầy tôi bất ngờ xuất hiện, tát trái vào giữa mặt Nhài.
Cây gậy chống kiểu Tây mà người nâng niu thường
khi quất vùn vụt xuống người Nhài vừa ngã chúi
xuống nền đất. Diễn biến nhanh đến nỗi tôi không kịp
có phản ứng, và Nhài thì nằm co quắp giữa gian bếp
chịu trận. Hai cánh tay, Thầy toi mới ban sáng còn
yếu ớt, bây giờ mạnh mẽ khác thường, lên xuống vùn
vụt quất tới tấp vào người Nhài.

- Ối, con lạy Thầy!

- Con khốn nạn, con đĩ rạc! Mày muốn làm nhục tao
hay sao mà còn gọi tao bằng Thầy.

- Ối, Thầy ơi! Con van Thầy, trăm lạy Thầy.

Thầy tôi như không nghe thấy tiếng kêu van của
Nhài, người lồng lên vun vút cây gậy không ngừng tay
vào người Nhài. Tôi thu rút người trong góc bếp, tê
cứng rũ liệt vì sợ hãi. Tôi muốn lăn vào chịu đòn thay
cho Nhài, muốn can Thầy tôi ra, nhưng chân tay dính
chặt vào mặt đất. Trong đầu tôi có cái ý nghĩ kỳ lạ là
Thầy tôi mạnh kinh khủng, khác thường ngày nhiều
lắm và Thầy dường như không để ý nhận thấy sự có
mặt của tôi nơi xó bếp. Phải, đêm đó Thầy tôi mạnh
lắm, dẫu tôi có xông vào cũng không ngăn nổi người.
Hai cánh tay người tiếp tục quất xối xả xuống tấm
thân bầm dập tóe máu của Nhài, và tôi như một kẻ vô
hình co rút trong góc bếp chứng kiến một cảnh tượng
ghê gớm mà không thể can thiệp. Thầy tôi đêm ấy
không đeo kính, nhưng đôi mắt người không có vẻ
điên dại, chỉ đỏ ngầu vì tức giận. Ðến khi người bỏ lên
nhà trên rồi thì Nhài hãy còn nằm co quắp, run lẩy
bẩy. Tôi ôm cứng lấy Nhài và cùng khóc thút thít theo
từng tiếng khóc uất nghẹn của Nhài.

Sau đó tôi đỡ Nhài dậy, dìu lên buồng, thay quần áo


cho Nhài. Hai chúng tôi ôm nhau ngủ trên chiếc
giường nan tre của Nhài, mà cũng là chiếc giường
của tôi ngày xưa. Nhài khóc tấm tức suốt đêm, tiếng
khóc ứa ra tù những vết thương bật máu. “Em chết
mất chị Nụ ơi... đừng bỏ em, Phú ơi, anh ơi...”. Tiếng
khóc tấm tức của Nhài nhỏ dần, nhưng thân thể lằn
roi vẫn oằn oại, dẫy dụa. Tôi thiếp vào giấc ngủ rã
rời, bải hoải cùng với tấm thân thương tích đó. Hình
như tôi đã mê đi với những vệt roi lằn đỏ, bầm tím, ăn
sâu vào lưng Nhài. Ti ôm cứng lấy thân thể Nhài để
tưởng là thân mình biết đau đớn. Ðôi tay tôi hay đôi
tay Nhài lần xoa nắn làm dịu vết đau của cả hai. Tôi
chỉ nhớ trong trạng thái nửa thức nửa mê, đã ôm vòng
lấy trọn vẹn và chạm vào từng vết roi trên da thịt Nhài
hâm hấp nóng.

Tôi thức dậy, tấm chăn đay hất trễ duới đùi, phô bày
một thân thể Nhài say ngủ mê man gần nhu chết rồi.
Trong giây phút thức giấc đầu tiên, ý nghĩ đến với tôi
trước tiên là Nhài chỉ là một hình ảnh bất động, được
ghi nhận ăn sâu vào tiềm thức và còn ở lại trên mặt
giuờng. Nhưng Nhài vẫn nằm ở đó, cạnh tôi, say ngủ
bằn bặt. Ðôi mắt Nhài khép hờ, bộ ngực rướn lên theo
làn hơi thở và đầu gói khẽ co về trước bụng. Phải mất
nhiều phút tôi mới bình tâm và nhớ lại tất cả những gì
đã xảy ra. Tôi bước ra gian buồng khách, đang chìm
mờ trong thứ ánh sáng ngày xao xác. Ngôi nhà vẫn
chìm trong cái không gian thênh vắng, tẻ lặng, không
một tiếng động mạnh và không có lấy một chút sinh
khí. Tôi muốn nói chuyện với Mợ tôi về Nhài, muốn
nói với bàrằng Nhài đã lớn và tình trạng này không
thể kéo dài. Tôi cũng muốn hỏi Mợ tôi về thái độ kỳ
quặc khác thường của Thầy đêm qua, nhưng ngôi
nhà hoàn toàn im vắng. Mợ tôi đã đi đau mất biệt từ
sớm, chỉ còn Cố nằm chờ chết nơi sập gụ. Thầy tôi
thì vẫn ngồi ở ngoài sân mân mê gọng kính thuốc,
như thể cái người đàn ông hung dữ đánh đập Nhài
đêm qua không phải là người. Cố vẫn thở khò khè và
Thầy tôi chốc chốc lại ném vào nhà tia nhìn ngây dại
vô hồ của người. Tôi tự hỏi làm sao Mợ tôi có thể
sống trong ngôi nhà này với hai người đàn ông điên
loạn bất bình thường. Một nặng một nhẹ, một tàn phế
thể xác, một tàn phế trí tuệ. Tôi đến thắp nén nhang
đầu tiên từ khi về Hà Nội, trên bàn thờ tổ. Những bức
hình của Nội, của Cố bà, của tất cả những người đã
chết trong gia tộc nhìn tôi chầm chầm. Tôi chỉ giật
mình thoát ra khỏi những tia nhìn rờn rợn ấy khi nghe
tiếng gọi của Nhài.

- Chị Nụ ơi, em quyết định thoát ly thôi...

Nhài thập thò ở cửa gian buồng khách, cầm nơi tay
một bọc gói nhỏ. Bước chân Nhài chần chừ chưa dám
bước qua chỗ cụ Cố. Nhài nhìn tôi bằng ánh mắt van
lơn sầu héo.

- Em đi chị Nụ ạ, ở đây Thầy đánh em chết mất. Chị


lạy Thầy Mợ hộ em, chị Nụ... Em đội ơn Nụ...

Nhài vùng vằng gỡ tay tôi, sau tiếng nấc xăm xăm
tiến ra cửa. Ánh sáng ngày đón Nhài ở bàn thờ tổ,
men dần trên nền lát đá hoa và dừng lại ở chỗ cụ Cố.
Vì khi ấy... trời ơi khi ấy, Cố bật dậy từ sập gụ hai tay
bấu vào người Nhài. Ðôi tròng mắt trắng dã trong hai
hố mắt đỏ lăn tăn tia máu hôm nào tôi về nhà phóng
thẳng giữ rịt lấy người Nhài. Chuỗi âm thanh líu ríu,
gãy vụn từng mảnh the thé vây lấy Nhài. Cả nửa thân
hình trên của Cố ngồi dựng dậy như muốn đứng
thẳng người, trong lúc mười móng tay dài cào cấu vào
mặt Nhài. Cái cảnh tượng khủng khiếp đó đóng dính
tôi tại chỗ. Tôi cảm giác rõ ràng như đêm qua rằng
mình ở ngoài cảnh tượng ấy, không thể can thiệp,
không thể đến gần dằng lấy Nhài trong tay Cố. Rõ
ràng là Nhài và Cố ở gần tôi nhưng rất xa, diễn biến
trước mắt nhưng tôi bất lực không thể ngăn cản. Thầy
tôi bước vào đúng lúc ấy. Tôi nghe mình gọi tên
người, van xin người giúp đỡ. Nhưng như tối hôm qua
Thầy tôi hoàn toàn không trông thấy tôi, hươi cây gậy
chống quất tới tấp, xối xảvào mặt mũi lưng mình
Nhài. Họ chỉ ngưng tay khi Nhài đã ngất lịm trên mặt
đất. Vẫn tôi là người bồng ẳm Nhài vào buồng trong.
Vẫn tôi là người lấy khăn ướt lau mặt cho Nhài và dỗ
dành an ủi, khóc với Nhài.

Những ngày sau đó Nhài bị nhốt trong buồng không


được phép ra ngoài. Giữa những cơn khóc lóc vật vã,
Nhài tỉnh táo nói bằng cặp mắt đầy căm phẫn, oán
hận.

- Nụ ơi, em không thể sống xa Phú. Rồi em sẽ trả


thù! Cướp chính quyền rồi chúng nó sẽ biết! Phú sẽ
không tha đứa nào!

Những lúc ấy tôi cảm tưởng rằng Nhài đã điên loạn.


Bị đánh nhiều quá, Nhài đã mất đi sự sáng suốt của
một người bình thường.

- Nhài ngủ đi, đừng nói nhả. Cá không ăn muối cá


ươn. Thầy Cố thương mới đánh.

-   Thương gì! Chúng xem em như con ở nhà này. Ðể


rồi Nụ xem, cướp chính quyền nay mai thôi!

-      Cướp gì? Chính quyền nào? Nhài lại lảm nhảm nữa
rồi. Con gái lớn phải lo việc nhà, có ai xem Nhài là tôi
tớ đâu.

-      Trời ơi! Cả nước sôi sục dành độc lập mà Nụ không


hay! Trời ơi, sao em khổ thế này, cả Nụ cũng không
hiểu. Ðể rồi Nụ xem, em thề với Nụ là em sẽ đấu tố
bọn họ đến dở sống dở chết...!

Mắt Nhài long lên, nhìn tôi dễ sợ lúc ấy. Sự hận thù
của đứa con gái mới biết đến yêu lần đầu bị tước đoạt
tình yêu và nhục dục sinh lý. Nhưng Nhài cũng không
gào la, phẫn nỗ được lâu. Thầy tôi thường xuất hiện ở
ngưỡng cửa với cây gậy chống vụt xối xả vào người
Nhài. Nhiều lúc Cố cũng bước vào phòng tiếp tay
Thầy đánh phạt Nhài. Những khi đó, Cố không có vẻ
gì là bán thân bất toại, lẩm bẩm chửi rủa bằng thứ
ngôn ngữ của cách đây ba mươi năm về trước. Cả
Thầy và Cố đều tảng lờ không công nhận sự hiện
diện của tôi bên Nhài. Cả hai tỉnh táo và bình thường
đến độ tôi có cảm tưởng là họ giả điên, giả liệt để lừa
dối Mợ tôi. Vì mỗi khi bà có mặt ở nhà, cả hai lại trở
về cái tình trạng mất trí, ngây dại va tàn phế thường
nhật. Mợ tôi làm như không hay biết chuyện của
Nhài, ra vào làm công chuyện nhà như không có gì
xảy ra. Mỗi lần Mợ tôi có ở nhà là Thầy lại trở ra ngồi
ở tấm phản con kê ngoài sân, im lìm mải mê lau chùi
gọng kính. Người thẫn thờ với nụ cười trẻ thơ vô tội.
Và Cố cũng trở thành tấm thân tàn phế, nhão nhoẹt
đang tan vữa vì bị thời gian ăn nhấm đến tủy.

Khoảng thời gian trở về sống trong ngôi nhà của gia
đình sau lưng Văn Miếu, tôi cũng trở thành gần như
yếu thần kinh, mang bệnh tâm thần, vì phải chứng
kiến cuộc đời ẩn ức của Nhài. Nhiều lần tôi muốn bảo
Mợ tôi rằng bà đang bị Thầy và Cố lừa dối, song cái ý
chí muốn nói lên sự thật của tôi luôn bị ánh mắt lạnh
như băng của bà chặn lại. Tôi chạm mặt bà luôn với
mặc cảm trốn tránh, không làm tròn bổn phận, chưa
trả hết nợ cho Nhài. Tuy thế, tôi biết rõ chỉ có mỗi
mình bà, người tỉnh duy nhất trong ngôi nhà này là có
thể cứu vớt được Nhài. Một buổi sáng, thu hết can
đảm, lợi dụng lúc Thầy và Cố chưa thức, tôi kể
chuyện Nhài cho Mợ nghe. Bà ngó tôi đăm đăm khi
tôi yêu cầu bà phải thương yêu Nhài, đừng lãnh đạm
lạnh nhạt với Nhài nữa. Ðôi mắt Mợ tôi lạnh sắt, chằm
bẳm đến lạ lùng.

-      Chị vào thăm gia đình này như thế là đủ rồi. Liệu
thu xếp mà trở ra ngoài ấy, đừng về đây làm gì nữa.

Bà xua đuổi tôi bất ngờ, không đả động gì đến


chuyện của Nhài. Tôi chợt thấy mình run rẩy bám víu
vào sợi dây máu mủ tình mẫu tử đang muốn đứt lìa.

-      Con lạy Mợ, cho con về sống với Thầy Mợ. Anh ấy
đã bỏ con rồi, con không biết đi đâu bây giờ. Mợ cho
phép con ở nhà này hầu Thầy Cố. Trăm lạy Mợ
thương con gái Mợ!

-      Tôi không có con gai, nên nhận lầm đứa con nuôi
phản phúc! Bộ chị tưởng tôi quên những bất hạnh chị
đem đến cho gia đình này à? Tôi làm sao quên chị đã
tố khổ gia đình này, đã xui người tra tấn cụ Cố đến tê
liệt nửa thân người, đã tra điện chồng tôi đến mất trí?!

Cũng như lần thoái ly đầu tiên, tôi rời Hà Nội có một
thân một mình. Phải tôi chính là con Nhài bỏ nhà trốn
theo trai rồi gia nhập Việt Minh trở về cướp chính
quyền, đấu tố Thầy và Cố nuôi tôi đến dở sống dở
chết, như lời thề độc sau lần phải đòn vì ngủ với Phú.
Nhưng Phú cũng đã bỏ rơi tôi sau khi giải phóng miền
Nam. Chỉ còn ngôi nhà nằm sau lưng Văn Miếu luôn
ở đó, đời đời như một vết nhơ.

12-1987
 

© Copyright Trần Vũ

 
 

Nhã Nam
 

Chúng tôi về Nhã Nam, quê của Th. Nhã Nam đất
hẹp, nhiều cây, sông nước và những rừng người. Th
đón tôi ở sân bay, gương mặt anh tầm thường như
mọi người tôi không nhận ra. Th là nhà văn, từ khi mở
nhà hàng mang tên hoa Tây Bắc anh thôi viết. Trước,
tôi ngỡ đã đọc hết truyện Th. Anh có lối viết mỗi câu
như nhát mác phạt vào gốc chuối phọt mủ. Th đưa
chúng tôi vào hiệu sách. Tôi với chị T loay hoay lựa.
Sách của Th tái bản toàn tập, có truyện Mưa Nhã
Nam tôi chưa hề đọc. Chị T đẹp, rực rỡ, cười luôn.
Chị về Nhã Nam trăm lần chưa chán. Chúng tôi đi
uống nước. Thằng bé gạ đánh giầy. Tôi hỏi Th:

- Ðàn ông học vi tính, đàn bà làm điếm, con nít đánh
giầy, bán vé số, tương lai ở đâu?

- Niềm tin vào hành động học vi tính, làm điếm, bán
vé số.

Th trả lời, lạnh lùng.

Chúng tôi về nhà. Vườn vải nở ngát uốn lên núi Bái
Vọng những bông trắng lung lay giống tấm lụa trắng
ai giăng trước mắt. Th đăm chiêu. Chị T đi tắm. Có ai
gọi điện. Chị T trả lời điện thọai cầm tay qua tiếng
nước. Tôi bảo Nhã Nam giống Côn Sơn. Th đáp Nhã
Nam là Côn Sơn. Cơm chiều vợ Th dọn lên hai khúc
cá chiên xả, canh hến, một đĩa gỏi ngó sen. Vợ Th
cũng tầm tầm triệu đàn bà chúng tôi trông thấy lúc
sáng. Th giục cầm đủa. Tôi nói đợi chị T. Vợ Th giắt
con xuống bếp. Nhã Nam buổi chiều mưa căng qua
rừng vải giống lụa ướt máng dài tới núi. Th bảo ở đây
ít bữa anh dẫn đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Giá
trong nước hai mươi ngàn một vé. Giá ngoài về gấp
ba.

- Tôi cũng người Nhã Nam sao phân biệt?

- Nhã Nam có hạ có thượng, có chiếu trên chiếu dưới,


có nhân đạo, vô học và ăn cướp.

Th hút thuốc lào. Khói khét đặc buồng. Anh vừa trí
thức vừa bần cố nông, bây giờ rắp ranh tư sản nhà
hàng, chỉ còn chút hương hoa Tây Bắc làm giấc mơ.

Mưa lớn. Chị T vẫn chưa ra. Th đi mua đế. Ðế nếp gò


Mã Yên, nơi Liễu Thăng bị chém, uống vào như uống
tiết tanh, nóng, đắng. Tôi với Th ngồi nhìn mưa Nhã
Nam bôi những dấu chân trâu bừa trên đất. Không
nơi nào như Nhã Nam ô tô với trâu di chuyển trên
cùng đường cái. Thời gian Nhã Nam dài, thư thả, đủ
để đếm hết móng trâu và vỏ xe qua đường.

Chị T tắm xong, vẫn điện thoại, vừa cầm máy, vừa
chải tóc. Chị thích những cuộc hẹn vu vơ, bất chợt,
không mục đích, không quan trọng nhưng nhiều đam
mê. Quen lâu, tôi vẫn chưa hiểu chị kiếm gì trong
cuộc sống. Th nhìn chị T, đôi mắt đục gần như không
trông thấy. Chị ở thế giới khác, không còn là đàn bà
Nhã Nam. Th hiểu, cũng hiểu hương hoa Tây Bắc
ngữi thấy nhưng không bao giờ nhốt được. Không khí
nặng. Th giục tôi cạn ly, bầy bàn trước hiên. Mùi đất
pha dầu tắm ở tóc chị T chen mùi đế gò Mã Yên nồng
nồng. Mưa lấp núi Bái Vọng rồi rừng vải, đến sân đất
nện. Chúng tôi giống ngồi trước mặt ao. Chị T ném
một viên sỏi xuống nước, vỡ những bong bóng xoè.
Th kéo ghế, tựa cột đà khắc chi chít đại tự.

- Ngày xưa Nguyễn Ứng Long dạy học ở đây.

Th trỏ tấm phản mục kê trong góc.

- Nguyễn Trãi làm thơ chỗ chị ngồi.

Th lại trỏ chị T. Chị cười, vẫn rực rỡ.

- Chỗ tôi và anh ai ngồi?

Tôi gắp khúc cá, nhằn xương. Th nói Mời chị, và cơm:

- Thời điểm nào? Trước hay sau Hồ Quý Ly?

- Trước?
- Cụ Ðán.

- Sau?

- Bọn mất dậy.

Chị T cười ngất. Tôi với Th không cười.

Trời bức. Mưa nhưng vẫn bức. Th ăn một loáng hết


thố cơm. Tôi hết chuyện nói, nhìn vơ mấy chữ sơn
son thếp vàng khắc đầy vách. Th kể Nguyễn Trãi là
một thiên tài. Nhà này lúc trước là một gian thuộc
Băng Hồ Gia Trang của cụ Trần Nguyên Ðán, sau
chia thành nhiều hộ. Từ khi mở nhà hàng đặc sản
sinh lợi, Th mua lại, chữa trang cố bảo trì hồn thiêng
sông núi. Anh kể Nguyễn Trãi sinh thời làm thơ xuất
thần, không bút, không giấy, chỉ cần nhìn lên vách:
chữ hiện như đóng triện son.

- Một trăm bài thơ quốc âm, Nguyễn Trãi nhìn một
trăm lần, đời sau không thể xoá.

- Thơ là trí tuệ, không cần lao động tay chân.

Tôi hưởng ứng. Chị T cười rũ.

Th ngâm: "Ðường cùng Nguyễn tịch khóc làm chi"

- Câu này không còn trên vách.

- Tôi tưởng đời sau không thể xoá?

- Không xoá, nhưng chủ trước rỡ bán cho Ðài Loan.

Th lầm bầm.
Tối. Ra về. Th hỏi đi đâu? Tôi nói Uống rượu. Th
chặc lưỡi:

- Trong rượu. Ngoài về cũng rượu. Chẳng có gì khác.

- Khác gì? Mình là người Nhã Nam.

Tôi chở chị T bằng xe Cub. Ðường đất trơn, xe chao


lạc vào rừng vải loá. Triệu cánh vải vươn như tay
thiếu nữ chụp bắt. Tôi tránh xém ngã. Bông trắng
rụng nhàu đất. Xe lao xuống chỗ trũng, nước mưa
ngập gối bắn hai bên bửng. Chị T níu vai gọi:

- Có thấy mấy cô ven đường?

- Ðâu?

- Lúc nãy xuyên rừng vải.

- Ðây là Nhã Nam.

Chị T cười. Tôi khiển xe, hình dung gương mặt chị,
tươi lúc cười, bình thường buồn thắm. Chúng tôi hẹn
cùng về Nhã Nam. Lúc ở ngoài, tôi hỏi Chị về Nhã
Nam trăm bận không chán? Chị trả lời Rong chơi đâu
cũng vậy, về Nhã Nam vui buồn lẫn lộn. Ra khỏi rừng
vải, xe Dreams phóng loạn. Tôi tránh lại xém ngã.
Chị T la:

- Cẩn thận!

- Không chết đâu!

"Cuộc đời vẫn đẹp sao", "tình yêu vẫn đẹp sao ", tôi
hát.  Chị T kêu Quỷ. Th đuổi theo sau. Tiếng máy xe
Cub 70 của anh rống. Nhưng chúng tôi đã ra tới phố.
Phố Thi Sách, Lê Qúy Ðôn, Nguyễn Du, Ngô Quyền,
Phạm Ngũ Lão. Quán Buffalo Blues, Q Bar, Doors
Pub, Apocalypse Now, Venus Club...

Xe ghé Guns n' Roses. Bảo vệ giữ xe, đưa thẻ. Th


thôi đuổi. Th hiểu Nhã Nam có thượng có hạ, có
trong, ngoài và có những quán bar năm mươi ngàn
Nhã Nam một ly. Chúng tôi là Nhã Nam kiều.

Gần sáng có tin Tổng Giám Mục Nhã Nam mất. Ðồn
đãi: trước lúc chết ông á khẩu, nhiều giáo dân thương
tiếc. Tôi với chị T ra khỏi quán, giáo đường treo cờ rũ.
Chúng tôi đi qua phố chết. Cửa hàng đóng kín.
Không phải để tang, nhưng vì những giọt sương chưa
vở trên tàn phượng. Nhà thờ thả lụa tím. Tượng thánh
buộc băng đen. Ðường phố lạnh lẽo. Chị T nói ghé
nhà Th. Tôi rủ đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Chị T
trách:

- Chỉ thích những trò hung bạo.

Chị không cười. Xe xuyên rừng vải chưa nở, cánh


khép, trắng yếu ớt. Nhà Th trồng một chậu mai chiếu
thủy, hương rắc tận chân núi Bái Vọng.

Th đợi chúng tôi suốt đêm. Khuôn mặt anh nhầu nát,
nhưng đầy kiên nhẫn. Trông thấy chúng tôi, Th đạp
máy. Hai xe Cub chạy song song. Chị T mặc jupe,
ngồi một bên đong đưa giầy trắng. Gió mát, cây cối
im, đường đất đỏ tươi. Xe qua chùa Tư Phúc. Th chỉ:

- Khi Thái Tôn đuổi về lãnh chức quan đề cử, Nguyễn


Trãi giữ chùa này.

Anh ngâm: "Anh hùng để hận mấy nghìn năm".

- Thơ Nguyễn Trãi?

Chị T hỏi. Th gật đầu. Tôi thắc mắc.

- Sao không thấy khắc trên vách?

- Không được phép.

Th cầu nhầu.

Tiếng xe Cub rù rù. Ðường lên ải Chi Lăng khúc


khuỷu. Chúng tôi không ngớt trả số. Cảnh sắc thay
đổi, mây xám, núi đen, ruộng su hào xanh bật. Mặt
ruộng đầy vết xe tải.

- Bọn buôn hàng Trung Quốc mỗi ngày qua đây trăm
bận. Th giải thích.

- Có Lê Sát nào chận không?

- Bận xây khách sạn cả rồi.

Anh rú ga phóng lên trước. Qua khỏi đèo đổ dốc, tuột


như trôi, tiếng phanh xe hơn tiếng lợn thổ huyết.
Chúng tôi trả tiền vào bãi. Hai mươi ngàn vé Nhã
Nam. Sáu mươi ngàn vé Nhã Nam kiều.

Nghĩa quân Lam Sơn chật rừng. Giáo mác tủa, cả


vùng như cắm chông. Gió lớn. Cờ Quyết Thắng lượn
rắn. Lê Thụ vận giáp trụ, người thô, trán ngắn. Lưu
Nhân Chú, Lê Linh cởi truồng, mình xăm. Lê Sát múa
đại đao xoăn xoắt. Nguyễn Trãi ghìm ngựa trước
"Ngõ Thề". Trãi mặc áo vải tơ tằm, xinh như một
thiếu nữ. Chiêng gióng sáu hồi, quân Minh từ Quỷ
Môn Quan kéo xuống. Lê Sát thúc ngựa kiệu qua
vách núi Hàm Quỷ và Cai Kinh, người ngựa gân guốc
vượt lũy. Chinh Lự An Viễn Hầu Liễu Thăng hoa chùy
đánh. Lê Sát quầy ngựa, hồi mã thương, đường đao
đẹp như ánh lửa.

Lũ trẻ giành nhau thủ cấp, cả bọn lừa đá. Lê Sát lấy
găm rạch lườn Liễu Thăng thích gan bỏ vào bình
ngâm sẵn rượu thuốc. Chị T nhắm mắt.

Giấc trưa về, đường khô, nắng gắt, tôi với chị băn
khoăn:

- Chết thật hay giả ?

- Cái chết nào cũng thật, không cái chết nào giả.

Th trả lời, lầm lì. Chị T vẫn còn sợ, tôi khiển xe, chị
ôm lưng, tay lạnh ướt. Hương mai chiếu thủy tiết từ
núi Bái Vọng nhờ nhợ không đủ lấp mùi tanh. Vợ Th
dọn sẵn cơm. Thịt rắn bầm, tiết rắn pha, da rắn chiên
dòn, cháo rắn hạt sen. Chị T không dám đụng đủa.

Chiều có tin nhạc sĩ VC chết. Chị T buồn, chúng tôi


ra quán. Phố Nguyễn Du đầu đường có hiệu cơm Bà
Ðại đắt vì tổng thống Pháp đến ăn chụp hình, cuối
đường quán Buffalo chơi nhạc jazz. Chị T nói — Nhã
Nam ngoài ăn uống không biết làm gì. Chúng tôi ngồi
nghe nhạc. Năm trước về, tôi ấn tượng trở về quá
khứ, năm nay bước vào tương lai. Quá khứ hung bạo
và tương lai hung bạo. Chị T nhắc chuyện nhạc sĩ VC
mất. Hỏi có đi đám? Tôi lắc đầu. Mỗi thế hệ có một
cái chết riêng. Chiều xuống nắng nở trên da những
đứa bé đánh giầy. "Da nước mưa" như Duras tả trong
Người Tình. Chúng tôi kêu phục vụ để nhạc S. Ca sĩ
Hn gọi nắng. Tôi với chị T nghe bản nhạc nhiều lần. —
Nhã Nam, sống giữa nắng, xúc cảm hết lời nhạc. Hn
gọi nắng da diết. Nắng chết trên sông, trên mặt lộ.
Chữ chết bất tận.

Chị T về nhà Ns. Tôi bỏ chị ở đường 3 tháng 2.

Nhà Th khuya khoắt. Sương đêm phủ tím vải rừng.


Ngôi nhà cụ Ðán tịch mịch. Chậu mai chiếu thủy lạnh
biếc. Th biến mất. Ngõ tối. Ðèn chai thắp yếu ớt.
Tấm phên rã rời mở ra vườn sau đối núi Bái Vọng.
Tôi gọi Th. Tiếng la gào vào núi. Bóng thiếu nữ lướt
qua sân. Áo lụa tan như trăng.

Tôi yêu Trãi trăng đêm mười bốn. Mười bốn trăng
vừa, tắm sáng mặt khuya. Lưng Trãi thon, thơ hiện
như vẽ. Ðêm rừng vải gót nhạc cười nụ soan. Tôi níu
gọi:
- Ðề thơ nữa đi.

- Thơ Góc Thành Nam.

Trãi cười, buồn.

"Góc thành nam, lều một gian"

"No nước uống, thiếu cơm ăn"

Trăng tắt. Ðêm rụng. Bài thơ chưa hết lời.

Lúc tôi trở ra phố, nắng ướt vai chị T. Lịch treo tường
đề mười hai, nhạc sĩ VC chết mùng mười, tôi ở trong
rừng vải suốt hai hôm. Hai hôm không gặp, chị T đi
Ðà Nẳng, tắm biển Non Nước, da ngăm, tươi muối.
Hai hôm trong rừng vải tôi không biết tin: Ðế quốc
bang giao với Nhã Nam. Chị T dẫn tôi đi xem suối
bia, khắp Nhã Nam ăn mừng.

Trưa, chúng tôi mướn xe Cá Mập đi Nghệ An. Xe tốc


hành, chạy suốt, thuê bao trọn gói. Th cầm lái. Dọc
đường hướng dẫn:

Năm Ắt Tỵ Lê Lợi vây thành Nghệ, truy bắt Lý An,


Phương Chính. Nghĩa quân đồn trại dọc sông Lam.
Ðêm trong đền thờ thần Phổ Hộ làng Trào Khẩu,
vương nằm mộng dữ, người lạnh, lưỡi khô, trông thấy
sóng gào, gió giật, cờ gẫy, thuyền đắm. Sáng tỉnh
giấc, vả mồ hôi, tê chân, tái sắc. Nguyễn Trãi tâu:

- Ðiềm hà bá bắt vợ. Nhưng vương từ Lam Sơn dấy


nghĩa, lấy chí nhân thay cường đạo, lấy đại nghĩa
thắng hung tàn, không nên mê tín.

Vương ám ảnh ác mộng, lo bản mệnh, băn khoăn:

- Xưa vua Lý nhờ vợ chồng Vũ Phục nhảy xuống


sông Thiên Phù hiến xác thủy thần mà khỏi bệnh đau
mắt, có gọi là mê tín?

Nguyễn Trãi câm. Trướng màn tanh.

Xe vô bãi. Du khách chật sông. Tôi với chị T mua vé


thượng hạng sát đài. Vương đứng trên đàn cao, lưng
ba trượng, mắt quả quyết. Nguyễn Trãi ôm tráp hầu,
Trần Nguyên Hãn che lọng. Lê Lễ, Lê Ngân cầm côn
bảo vệ. Nghĩa quân tiến qua đài, cờ huyết lộng.
Chiêng trống rùng rùng. Gió Bắc đẩy mây, phèng
khua. Vương trỏ sông Lam quát:

- Nay ta vì nghiệp bá hiến thiếp. Thề phá thành Ðông


Quan phong con trai Phạm Thị Ngọc Trần làm thái tử.

Pháo nổ. Lê Sát chém ngựa hứng máu. Lính lôi Ngọc
Trần khỏi trướng. Ngọc Trần trẻ son, mắt liễu, môi
dâu, ẵm Nguyên Long lên ba, khóc thảm. Lê Sát quật
hèo, lính khoá củi. Nguyên Long gào mẹ. Củi dìm
xuống sông Lam, Ngọc Trần dẫy, sóng tung toé. Một
mớ tóc bùng nhùng nổi lên mặt nước. Gương mặt chị
T tái nhợt.

Ðường về tôi với chị trăn trở, không yên. Trước lúc
ngừng xe, Th hỏi: Còn nhiều trò nữa xem không? Chị
T đáp Ðủ rồi. Tôi tránh nhìn Th, hình ảnh mớ tóc
bùng nhùng trôi mãi trên nước.

Ngày 13, tháng Thân, năm Hợi, tôi trở lại nhà cụ Ðán.
Cơn giận cứng mười ngón tay. Tôi chở chị T bị xe
buôn củi đụng, bọn ba gác tháo chạy, chị ngã vỡ đầu,
xuất huyết não, chở vào Trung Tâm Cấp Cứu Quận
Nhất không ai khám, sang bệnh viện Nguyễn Tri
Phương chị mê man cấm khẩu, y sĩ trực mắng bệnh
nhân không hợp tác. Tôi gây, thuê xe cấp cứu sang
Chợ Rẩy. Bệnh viện lớn nhất Nhã Nam bẩn, nghèo
nàn, nằm ngồi la liệt. Nh bạn chị T được tin đến viện,
đưa tiền bồi dưỡng. Bác sĩ khám nói máu tụ não bắt
mỗ. Chị T mê man. Gia đình Nh đi mua máu, nước
biển, kim chích, thuốc trụ sinh. Tôi tìm Th.

- Tất cả chỉ là tưởng tượng.

Tôi quát. Th đang ngồi đọc sách, mắt đỏ rực.

- Không ai hư cấu được sự thật.

Anh gằn, nhưng chỉ đứng yên nhìn tôi phá bàn thờ cụ
Ðán. Vườn vải nát, núi thấp, mây cụt. Tôi trở lại bệnh
viện, chị T vẫn hôn mê, thở ô xy, vết mỗ bầm máu,
giường rỉ sét. Tôi đợi ngoài hành lang, thân nhân trực
bệnh ngủ cầu thang lê lết xuống sân. Các bà mẹ Nhã
Nam khóc thút thít. Nhà thương giống trại hủi.

Tôi rời Nhã Nam cuối tháng Thân. Chị T vẫn nằm
viện, tay phải và chân phải chưa cử động. Th tiễn,
gương mặt anh tầm thường giống triệu người nhưng
tôi vẫn nhận ra. Máy bay lên cao. Tôi đọc lại truyện
Th. Mưa Nhã Nam tả Ðề Thám quất ngựa dưới mưa
nhiệt đới, khóc nức nở đời người.  Ðề Thám khóc vì
bán một người đàn bà cho định mệnh khắc nghiệt. Th
mở đầu câu chuyện khinh bỉ tất cả:

Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng đi,


cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.

Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng.


Lúc ấy toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể
chuyện cho cô nghe cả.

Anh kết bằng một câu vô cảm: Tôi kể chuyện này


đến đây là hết.

Tôi gấp sách. Máy bay bình phi, ba mươi ngàn bộ.
Trên cao, mưa Nhã Nam trong, đẹp như hạt ngọc./.

5/ 8/ 1995

© Copyright Trần Vũ

 
 

Sàigòn, ngày lạ mặt


 

Tôi trở lại đường Trương Minh Giảng bây giờ mang tên Lê Văn Sỹ. Thận
Nhiên chạy xe Dawoo phía trước, tôi lái chiếc Cub phía sau. Nắng loang
loáng trên mái tóc Nhiên nhẵn thín. Nắng loá con đường giữa trưa sáng
bóng các biển hiệu. Nhà may Thủy Tiên, hiệu sơn Tất Thành, Karaoké
Thời Mới... Một giờ trưa, nắng toé lửa. Chúng tôi hứng trận nắng như
hứng những mảnh mặt trời nguyên vẹn rớt ụp xuống mặt. Tôi muốn dừng
xe uống nước, nhưng Nhiên vẫn lầm lũi chạy tiếp, thỉnh thoảng quay lại
kêu: ‘‘Nhà anh Mậu khó kiếm lắm’’. Tôi nghĩ Nhiên lạc, vì chúng tôi quần
tới quần lui khúc giữa Sư Vạn Hạnh và nhà thờ Ba Chuông. Trận nắng
nhảy múa trước giỏ xe cub như một ảo ảnh. Tôi trông thấy lại cảnh gia
đình hốt hoảng chạy ra phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi trông thấy lại cảnh
chen lấn giữa tiếng súng Quân Cảnh cố vãn hồi trật tự. Thầy căng thẳng
cực độ lái xe Toyota chở chúng tôi im thin thít tìm cách rời khỏi Sàigòn
hỗn loạn. Cũng con đường này, qua khỏi đường rày xe lửa, nhà thờ Ba
Chuông đâm lên Lăng Cha Cả, tôi bó gối sợ hãi trông thấy một thanh niên
bê bết máu phóng xe Honda lao ngược chiều la lớn ‘‘tụi nó chiếm Tân Sơn
Nhất rồi’’ và gương mặt Thầy nhăn nhúm tuyệt vọng. Thầy quành xe lao
về hướng Khánh Hội tìm một đường sống khác. Vô ích, Thầy không biết
Thầy sẽ chết 13 ngày sau đó khi lá cờ Quyết Chiến Quyêùt Thắng bay trên
nóc hầm De Castrie tại Ðiện Biên Phủ một lần nữa phất lên ngạo nghễ
‘‘hãnh tiến’’ trên đường phố Sàigòn của tháng 5 im lặng. Thầy không biết,
Thầy sẽ vĩnh viễn yên nghỉ tại đây, trên mảnh đất này, nơi Thầy di cư tìm
đường sống tháng 9-1954.

Bà gởi tôi đi vượt biên thực hiện một hoài bảo đã có từ những ngày Hà Nội
sau tản cư. Bà gởi tôi đi, nhưng tôi trở về để chứng kiến lại một lần nữa,
nỗi tuyệt vọng của gia đình buổi sáng 30 tháng 4 trên con đường này.
Những tuyệt vọng hãy còn loang loáng ẩn hiện trên các mặt tiền những
ngôi nhà đường Trương Minh Giảng. Những lớp cửa sắt im phắc. Những
cánh cổng của những ngôi nhà ban trưa đóng kín, im ỉm. Tất cả giống câm
điếc, giống những mặt người không thốt thành lời, chỉ có những dấu hỏi
ngầm giữa tròng mắt: ‘‘Tìm gì? muộn rồi.’’
Tôi nhìn mặt đường. Tôi nhìn hai hàng cây. Tôi nhớ rõ, chỗ này bánh bao
Ông Cả Cần, chỗ kia bò nhúng dấm, Thầy vẫn đưa gia đình đến ăn những
tối thứ bảy. Tôi còn nhận ra hàng hiên lớp hội họa truyền thần bà ghi tên
cho tôi học vẽ bây giờ là tiệm mát xa chân với đèn ông sao xanh đỏ. Vẫn
con đường này, như không thể có con đường nào khác, vẫn là những thước
nhựa tôi đã dẫm lên thời bé, nhưng đã là lớp nhựa tráng tên người khác.

Lê Văn Sỹ, tôi không biết là ai, nhưng tôi biết Trương Minh Giảng đánh
Trấn Tây Thành, chiếm Kampuchea. Sao Trương Minh Giảng cũng thi
hành nghĩa vụ quân sự quốc tế, giải phóng nhân dân Khmer mà tên ông bị
bại đi trên các cột đèn này? Còn sống chắc ông nổi cơn thịnh nộ. Còn
sống, tôi với Nhiên không dám nổi cơn thịnh nộ. Thế hệ tôi thiếu dũng,
kiên, cường. Thế hệ tôi sợ hãi ở mỗi ngã tư đèn xanh đèn đỏ bị công an
kêu lại xử lý.

Nhiên đỗ xe. Chúng tôi đi tìm một nhà văn miền Nam.

Miền Nam? Một quốc gia biến mất. Văn chương miền Nam? cũng biến
mất. Còn Dương Nghiễm Mậu? một gương mặt bí hiểm. Thế hệ tôi chưa
kịp đọc ông. Chúng tôi hãy còn quá nhỏ, dù miền Nam tràn ngập sách báo,
dù chúng tôi đi thuê truyện mỗi chiều, ngốn ngấu Duyên Anh, Nguyễn
Thanh Trịnh, Ðinh Tiến Luyện, Từ Kế Tường, Nguyễn Ðình Toàn...
Chúng tôi chưa ai đọc Gào Thét, Buồn Vàng, Ngày Lạ Mặt, Cũng Ðành,...
Dương Nghiễm Mậu ở một thế giới nào đó vô cùng xa xôi mà chúng tôi
không thể mường tượng. Tháng 4-75 đến quá sớm để tuổi trẻ kịp tận
hưởng.

Dương Nghiễm Mậu tiếp tôi với Nhiên trong ngôi nhà lát đá mát lạnh.
Không khác mấy khí hậu trong truyện ông, khô, lạnh lẽo. Mỗi tiếng động
đều hàm chứa một nội dung rõ rệt, tựa như những điều muốn nói phải qua
một phiến lọc khác dành riêng cho những ai có khả năng hiểu ra. Dăm bức
sơn mài Dương Nghiễm Mậu làm lấy treo trên vách. Một gói thuốc Con
Mèo gần cạn. Tủ sách để tượng trưng trống rỗng.

Tủ sách của một nhà văn miền Nam sau ngày “giải phóng” trống rỗng. Tôi
nhìn tủ sách kỳ lạ. Thầy cũng có một tủ sách và tủ sách ấy ăn vào tuổi thơ
tôi không hề biến mất. Tôi không thể nhớ tủ sách đem về khi nào, chỉ biết,
từ lúc có trí khôn, tủ sách đã ở đó, chễm chệ và sừng sững. Thầy buôn bán
theo truyền thống Trung Hoa, nhưng tủ sách chiếm nửa bức tường. Chiếc
bóng của chúng tôi, của kẻ ăn người ở trong nhà luôn chao lượn lên khung
kính phản chiếu những hình ảnh lặng lờ. Những khi tôi ngủ quên trên ghế
đệm, tủ sách ngả chiếc bóng đen đè lên mình. Khi tôi thức giấc, chiếc bóng
hoá trở lại thành tên khổng lồ mặt gỗ chứa thật nhiều sách rình rập canh
chừng. Nhưng tôi lớn lên và nỗi sợ hãi biến mất, chỉ còn những tò mò thấp
thoáng trên các tựa sách ở tầng cao khóa kín. Chính trong những năm đầu
trung học đệ nhất cấp, khi chiều cao cho phép với lên phần có ổ khoá, tôi
khám phá Dương Nghiễm Mậu. Sách của ông xếp cạnh sách Mai Thảo,
Nguyễn Thị Hoàng. Tuổi Nước Ðộc, Con Sâu, Trong Hoang Vu, xếp cạnh
Mười Ðêm Ngà Ngọc, Sống Chỉ Một Lần, Viên Ðạn Ðồng Chữ Nổi, Hạnh
Phúc Ðến Về Ðêm, Vòng Tay Học Trò, Dưới Vừng Hoa Trắng, Tiếng
Chuông Gọi Người Tình Trở Về...

Tôi không bao giờ được phép xem. Với tôi là một khiêu khích. Tôi vẫn đi
thuê truyện, say mê với Hitler và Những Tên Ác Qủy Y Khoa, Hitler và
Mặt Trận Miền Ðông, Moshe Dayan Bức Tường Thành Do Thái, Tora
Tora Tora Bay Về Trân Châu Cảng, Kamikaze Những Trận Không Chiến
Dữ Dội Nhất Lịch Sử Thái Bình Dương, Về Miền Ðất Hứa ...nhưng
Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo vẫn là một kích thích.
Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao mình đã ngoan ngoãn nghe lời
Thầy đến như vậy, tôi thuê truyện, nhưng chỉ thuê những cuốn sách Thầy
cho phép đọc. Những cuốn sách nhà cấm, tôi nhìn tò mò, nhưng không
cầm đến. Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo, Túy Hồng,
Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thế Uyên, Mặc Ðỗ, Thế Phong,
Nguyễn Thụy Long,... xếp ngay ngắn sau lớp kính có ổ khoá.

Buổi trưa ngồi với Nhiên, Dương Nghiễm Mậu không nói điều gì. Ông chỉ
lẳng lặng pha trà cười nhẹ nhàng, nghe Nhiên nói, nghe Nhiên kể về nỗi
sôi sục huyết quản của một thi sĩ, của Nhiên và bạn bè Nhiên. Tôi khác
Nhiên, tôi chỉ muốn hiểu thế giới bí mật của văn xuôi. Dương Nghiễm
Mậu cười nhẹ như tàu dừa lay, gần như ông không động đậy. Ở Dương
Nghiễm Mậu nụ cười diễn ra ở chuôi mắt, ở ngón tay đập cán thuốc mà
nhịp nhanh chậm thay cho tiếng cười luôn luôn kín đáo. Dương Nghiễm
Mậu rót trà. Ông hiểu thế hệ tôi và Nhiên không còn ai uống trà nữa,
nhưng ông vẫn rót. Váng nước vàng màu mỡ gà, giữa buổi trưa nóng hực
sủi tăm như số lượng dấu hỏi chất chứa trong đầu tôi từ buổi trưa tháng 5-
75 Bà mở khoá cho chúng tôi đọc tất cả sách người lớn của tủ sách đồ sộ,
trong vòng 48 giờ rồi Bà đem bán ký vì Công an phường đã ra lệnh tịch
thu văn hoá phẩm đồi trụy của Ngụy. Tôi còn nhớ Bà bán cân ký 150 đồng
ông Thiệu mỗi ký. Bà bán sạch tủ sách, kể cả sách thiếu nhi Lữ Hân Phi
Lục, Phan Tân Sĩ Phú, Tintin, Lucky Luke, Astérix Obélix, chở đi mấy xe
ba gác. Bà bán sạch tuổi thơ tôi trong chớp mắt. Làm sao tôi đọc hết hai
mươi năm văn học miền Nam trong 48 giờ? Làm sao tôi trưởng thành kịp
trong 48 tiếng để hiểu những chiếu bài mạt chược, trong phòng khách sạn
rì rầm, hai người đàn ông đàn bà làm gì trên mặt nệm trong tiểu thuyết Mai
Thảo. Tôi chưa đến 13 tuổi nhai ngốn ngấu Vòng Tay Học Trò của
Nguyễn Thị Hoàng trên sân thượng giữa trưa nắng ngun ngút, cố mường
tượng ra cô giáo Hoàng với đồi thông Ðà Lạt trong ngôi nhà gỗ thông
thơm phức với tên nam sinh tên Minh sớm biết hút thuốc, có bật lửa zippo
và gan dạ tán tỉnh cô giáo. Tôi ngốn ngấu Tháng Giêng Ðưa Ðám của Nhã
Ca, kinh ngạc khám phá tiểu thuyết có sức chở mang gấp mười lần tivi số
lượng hình ảnh Tết Mậu Thân ngoài Huế. Trưa nắng thiêu đốt. Tiếng động
chiến xa T-54 ầm ĩ từ Gò Vấp đổ xuống Phú Nhuận băng lên đại lộ Hai Bà
Trưng không át nổi âm thanh của 16 vỏ chai bia mỗi ngày Túy Hồng quắp
rổ đi đổi cho Thanh Nam lúc còn sống trong building Cửu Long và diễn ra
trong tiểu thuyết Tôi Nhìn Tôi Trên Vách. Không át nổi tiếng nhạc xập
xình mỗi buổi tối cô ca ve đi làm luôn có một người đàn ông chờ sẵn, đem
đến một gói Salem xanh biếc trong Thủy và T6 của Thế Phong... Tôi khám
phá xã hội miền Nam ngay trong ngày xã hội đó bị xích sắt T-54 nghiến
nát dưới lòng đường. Tôi chưa kịp đọc Dương Nghiễm Mậu. Tôi chỉ kịp
trông thấy ông bị vất lên xe ba gác chở ra lề đường. Nhưng cũng chỉ một
hai tháng sau lề đường bị truy quét tàn dư Mỹ Ngụy và ông biến mất.

Dương Nghiễm Mậu hiện ra trở lại buổi trưa Lê Văn Sỹ. Ông yên lặng
quan sát tôi với Nhiên. Chúng tôi, những độc giả thiếu nhi của miền Nam
cũ, cũng đột ngột hiện ra trước mắt ông. Cũng đành... dường như ông
muốn nói vậy. Tôi cũng quan sát ông, quan sát cái tủ sách trống trơn của
một nhà văn miền Nam. Tôi ngắm ông với cảm giác kỳ quặc là ông hãy
còn trong tủ kính bị khóa, giống như ông đang là cuốn sách câm chưa được
phép mở ra cho tôi xem. Nhưng Dương Nghiễm Mậu vẫn ở đó, trong sâu
thẳm của một miền Nam ngã đạn.

20 tháng 6-2004

 
© Copyright Trần Vũ

Dấu hỏi Sorrente


 

Nhà xoay lưng về  đôi  mắt  đàn ông  ẩn sau bức
tường quét vôi màu  phún thạch đỏ. Ðôi mắt im
sắc mạnh mẽ lộ rõ đường mày đậm bất ngờ cong
ở khúc cuối như một dấu hỏi.

- Senorita thuê nhà bao lâu ?

-      Tôi chỉ thuê bán thời gian.

-      à, mi-tempo...

Bà ý xoay lưng, chiếc váy cánh dơi vồng lên như


điệu múa. Tôi bỡ ngỡ cố tìm đôi mắt đen nhánh
đã biến mất chỉ còn chút thoáng mành lay động.
Cánh dơi tiếp tục chao lượn phía trước. Tôi bước
lên các nấc thang ướt rêu. Sorrente là thị tứ có
những lối đi đào trong vách núi. Tôi đã đến nơi
này với người đàn ông cũ cũng có đôi mắt đen
màu sóng buổi chiều, thứ sóng ngầm yên lặng
của vùng nước sâu và rút thật xa.

- Senorita hên lắm, nhà mới vừa sơn phết rất


nhiều người đến hỏi.  Chỉ có cô và ông ấy...

Bà ý chít khăn đen giống trong tranh Bottello giải


thích. Thổ âm của vùng Naples vỡ những thanh
sắc ríu rít. Giọng nói giống tiếng hát véo von ngân
dài không dứt. Tôi cảm giác nắng cũng vỡ chung
quanh. Nhưng tất cả yên lặng đột ngột lúc chúng
tôi lên đến bậc thềm cuối. Ngôi nhà hiện ra trọn
vẹn đẹp như một vị thần. Mặt tiền mở tung các
cửa sổ thành trăm đôi mắt  cùng nhìn xuống
những vườn chanh đang trĩu trái. Màu cát vàng
ửng trên lan can tay vịn chạy viền khắp. Cánh cửa
chính chạm nổi cầu kỳ như đôi môi hơi trễ của
một người đàn ông. Phía trên gương mặt trăm đôi
mắt đó là mái tóc hung của lớp ngói lợp đỏ tươi
đang bồng bềnh trên đầu chàng hiệp sĩ. Tôi yêu
ngôi nhà ngay khoảnh khắc ấy. Khoảnh khắc im
lặng kỳ lạ của núi lửa Vésuvio trước  lúc bùng nổ
chôn vùi Pompei.

- Senorita, bonjourno.

Tôi giật mình xoay lại. Mario với cần cổ khoẻ


mạnh rám nắng. Mario với suối tóc dài xoắn xuýt.
Những sợi tóc ươn ướt quăn như trăm dấu hỏi nhỏ
rối rắm.  Tôi đã chào Mario với người đàn ông cũ.
Ðã mơ những lọn tóc dài nhảy múa trên lưng anh,
đã ham muốn áp mặt vào những dấu hỏi mỏng
manh loắn xoắn nghịch ngợm. Người đàn ông có
đôi mắt màu sóng buổi chiều không cho phép tôi
thân mật với Mario nhưng những dấu hỏi nhỏ đầy
nghi hoặc vẫn ở lại quấn quýt .

-      Anh đến bao giờ ?

-      Tôi vẫn chờ senorita.

Mario dịu dàng đỡ tôi rời phà. Bến Marina-Grande


tấp nập. Tôi đã yêu ngôi chợ cổ lọt thỏm trong
hốc núi, những quầy cá tươi rũ lưới và những hiệu
thổ sản treo ớt khô trước bến phà này. Sorrente
mãi đằng xa nhấp nhô vịnh biển. Tôi quay nhìn cố
tìm xem ngôi nhà có còn ở đó,  đôi mắt im sắc
mạnh mẽ có còn theo dõi? Tôi chỉ bắt gặp đôi mắt
Mario đen huyền, ửng sáng. Mario có đôi mắt sâu
thâu tất cả ánh sáng. Ðôi mắt đen tuyền đưa tôi
lên đỉnh Monte Solaro. Ðỉnh núi cao nhất Capri có
những tàng ô liu xanh ngã mình xuống vực. Tôi
cũng muốn ngã, ngã chới với dịu êm lên đôi tay
Mario đang mơn man mời mọc. Ðiệu Salsa nóng
hổi dưới quán hầm sát biển, đôi tay Mario ráo riết
xoắn như mái tóc nhiều dấu hỏi. Tôi đợi Mario
hôn vào gáy. Ðợi đôi môi đa tình của anh chạm
vào ngấn cổ đã lâu không có những nụ hôn xa lạ.
Tôi nhắm mắt tận hưởng khoảnh khắc im lặng
của núi lửa Vésuvio, khoảnh khắc kiêu hãnh pha
lẫn sợ hãi của người đàn bà sắp được hôn,
khoảnh khắc linh cảm kỳ lạ của buổi sáng tôi
đứng ngắm chiếc bóng mình tự tách rời kỳ quặc
bước chân vào ngôi nhà có gương mặt hiệp sĩ. 

Bà ý đẩy cánh cửa chạm nổi. Mùi nước hoa đàn


ông hăng gỗ tươi, tiêu muối và những lá chanh
nõn xông lên. Tôi hơi choáng váng giống hương
của tất cả những vườn chanh Sorrente cùng dậy
lên một lúc. Các thanh nắng thẳng săm soi lục lọi,
vén lên từ từ ngôi nhà rũ rèm bài trí trang nhã.
Mấy bức tượng Nam Mỹ đẽo gọt, nhiều khung ảnh
đen trắng ánh sáng tương phản khắc nghiệt phơi
bầy thân thể thật sát của người mẫu không rõ
mặt. Chiếc ghế bành duy nhất xoay về hướng
phòng ngủ chỉ ngăn đôi bằng tấm  voan mỏng.
Tôi lơ đãng ngắm kệ bếp bầy thật nhiều dầu ô liu,
một gói pasta vừa mở, dây tỏi thắt bím buột thõng
và những vỏ chai rượu vang uống nửa chừng vất
lây lất. Lưỡi lam to bản, thứ dao cạo xưa còn mài
trên dây nịch vất trong bồn tắm. ý nghĩ người đàn
ông bừa bãi khiến tôi khó chịu. Tôi nghĩ đến
Fabricio đã khó khăn lắm mới tìm ra nhà thuê
luân phiên, ngày tiễn hãy còn đùa: Sorrente là
thành phố của tình nhân, rồi em sẽ ngã. Ngã
không? Ngã bao nhiêu bận rồi vẫn còn ngã được
ư  ? Tôi hôn Fabricio ở cổng phi trường nhất định
không ngã. Ðể rồi xem. Anh hơi dỗi, khi vẫy. Nếu
Fabricio biết tôi thuê nhà chung với một người đàn
ông vô trách nhiệm và khác hẳn mẩu đàn ông tôi
ưa thích, chắc hẳn anh sẽ yên tâm. Tôi chạm nhẹ
ve nước hoa Eau d’Hadrien đã cạn, hoá ra đây là
thủ phạm của mùi chanh ngào ngạt lúc nãy.

Sorrente đẹp nhất những giấc trưa, nắng đan lên


các vách tường quét vôi phún thạch dịu mắt. Tôi
thích nghiêng hẳn người ra bao lơn lắng nghe
tiếng chim chóc líu lo trên mái ngói, tiếng chim
lảnh lót như tiếng ý trầm bổng, tôi thích nhô hẳn
người ra  tắm không khí thoáng đãng tươi mát của
vịnh Naples ấm hơi thở của biển Tyrrhénia, tôi đã
yêu vùng Campania chìm trong giấc ngủ mê,
những lối đi quanh co dẫn đến các vườn chanh
chi chít trái,  dẫn đến cạnh sườn duyên hải thẳng
dốc đẹp như một kỳ quan. Tôi muốn thay chiếc áo
trắng mỏng manh xuống phố ngồi trong những
quán nhỏ, tôi hãy còn mê lắm món pasta del
mare, hãy còn muốn ăn món cơm ý risotto  trộn
ngọt hến.

Ðôi mắt hiện ra đột ngột lúc đó đẹp dữ dội với


hàng mày đậm. Ðôi mắt mở lớn đẩy xuyên qua kẽ
mành lời mời gọi đĩ thỏa. Ðôi mắt tước dọc người
tôi từng sợi chỉ, tháo từng chiếc cúc, cắt từng
đường may. Khoảnh khắc của núi lửa Vésuvio trở
lại, khoảnh khắc của con người một giây trước
phún thạch. Tôi vừa kiêu hãnh vừa sợ hãi. Ðôi
mắt không chớp, không khép, nhìn thẳng. Ðôi mắt
cưỡng đoạt. Tôi muốn kêu bà quản gia nhưng
không được. Tôi muốn sỉ vả những lời khiếm nhã
nhưng không thể cất tiếng. Tôi đứng im kiên nhẫn
cho đến cúc áo cuối cùng bị đôi mắt tước mất.

Tiếng vĩ  cầm quỷ quái đuổi bắt. Tiếng vĩ cầm rên
xiết đứt quãng, ngưng bặt, bất chợt trổi dậy mãi
mê rượt đuổi. Không phải Bach, không phải
Schubert, nhưng Paganini. Tôi nhận ra ngay điệu
vĩ cầm của đĩa nhạc người đàn ông thuê chung
nhà để lại. Nhưng tiếng vĩ cầm sống động đến sợ.
Hai mươi bốn caprices phù thủy réo gọi. Mỗi
caprice là một tiếng hú dài. Hai mươi bốn caprices
thắt gút liên tục. Mỗi tấu khúc là một cơn đau. Mỗi
tấu khúc là một điệu múa đến chết. Mỗi tấu khúc
là điệu vũ oằn oại hấp hối. Tôi hấp tấp bước lên
các bậc thang đá cheo leo, hấp tấp dẫm lên các
nền thềm sũng nước, qua đường via Califano ướt
mưa, qua quảng trường nhỏ Piazza Tasso trơn
trợt, Sorrente buổi tối đông du khách, mưa lất
phất trên các tàng dù chợ thủ công đêm đang bầy
bán, tôi chen lấn xô đẩy tất cả gần như chạy đến
với tiếng đàn ma quỷ thúc dục.

Căn phòng trống rỗng. Chỉ thùng đàn Guarneri để


mở lửng khắc dòng chữ ngắn ngủiá: Niccolò
Paganini. Tôi cảm thấy lạnh se sắt. Tôi cố kéo
tấm khăn choàng dạ trùm ấm lên vai nhưng
không hãm nỗi nhưng cơn rùng mình từng chập.

-      Sofia !

- Senorita, tôi lên ngay.

-      Ai thuê ở đây ?

-      Thì senorita.

-      Tôi muốn hỏi người đàn ông vắng mặt.

-      à, senori Paganini, ông ấy lịch lãm lắm ...

-      Don Paganini ?

-      Si.. si, don Paganini rất lịch sự.

Niccolò Paganini ?  Tôi lục tung ví tìm bản hợp


đồng cho thuê, tên người đàn ông mướn chung
đánh máy rắn rỏi đậm như một nét mày. Tôi liên
tưởng đến đôi mắt đó, đôi mắt cợt nhã rình rập
từng phút ở bao lơn. Ðôi mắt theo dõi chỉ dứt ra
khỏi thịt da khi đã thỏa mãn. Tôi rùng mình không
ngớt, người đàn ông này yêu biển, tôi mở toang tủ
áo những sống áo xanh đại dương ập đến mạnh
mẽ như trận thủy triều. Những lần gần Fabricio tôi
cũng có những cơn rùng mình như vậy nhưng
chưa bao giờ tôi cảm giác rõ rệt rạt rào của biển,
cảm giác sóng lên xuống trong thân thể mình như
có cả một mặt đại dương đang ùa đến. Tôi đứng
trân trước chiếc tủ áo cổ xưa treo những bộ
costumes đen thõng với ống tay dài bất tận.
Niccolò phải có thân hình dị dạng. Tôi muốn hỏi
nhưng cánh dơi đã vồng xuống cầu thang mất
hút.

Sofia làm việc buổi chiều trong lò bánh. Những


chảo gang xếp ngay ngắn từng dẫy. Tôi  ngắm
ngón tay bà ý mằn mằn  nhào bột rồi cán rộng ra
khắp mặt mâm. Lớp bột tán mỏng dẻo như  lụa.
Sofia có bàn tay thiếu nữ, những ngón nhỏ thuôn
thoăn thoắt  mảnh khảnh khiến tôi nghĩ đến cườm
tay một nhạc sĩ.

- Tôi muốn gặp Don Paganini.

- Don Paganini đi về thất thường, senorita.

- Ai ở ngôi nhà đằng sau, Sofia ?

Bà ý lẩn tránh. Tôi hỏi lần nữa Ai ở ngôi nhà đằng


sau? Ðôi mắt hiện ra lúc đó. Ðôi mắt nóng ran.
Tôi quay vụt lại nhưng đôi mắt đã biến mất. Sức
nóng của lò bánh hực lên ngột ngạt. Sorrente giấc
trưa ầm ĩ.  Tôi nhìn kỹ vào đôi mắt bà ý chỉ bắt
gặp cái nhíu mày khó hiểu. 

- Có những điều đàn bà không nên biết, không


nên thử.

Hai kẽ môi cánh dơi gắn chặt không thốt thêm lời
nào nữa. Tôi bỏ ra phố, tất cả gương mặt đàn ông
đều hao hao giống nhau, điển trai, buông một vài
lời tán tỉnh dâm đãng. Nắng gay gắt khiến tôi say
sẫm mặt. Buổi tối giọng Fabricio khẩn khoảng
trong máy muốn tôi  về  Roma, tôi thề thốt Em
không ngã, chưa ngã.

Mario có cách lắc hông tuyệt diệu. Ðiệu nhảy


Salsa của anh làm chao mặt biển. Tôi thích  ngồi
suốt buổi ở khoảnh cát nhỏ giữa hốc đá cuối bãi
tắm xinh xắn trông lên căn nhà đỏ. La casa sulla
roccaia đỏ tuyền từ mái đến thềm. Ðỏ thẳm máu
của núi lửa trát lên từng phiến gạch. Căn nhà cất
theo hình dáng một chiếc thuyền vướng trên mỏm
đá mắc cạn đời đời vĩnh viễn. Tôi đã ngắm ngôi
nhà nhiều lần nhưng lần nào cũng choáng váng
trước vẻ đẹp ngộp thở của những vồng phún
thạch đông lại trên nước. Những cầu vồng phún
thạch vây quanh phun từ đáy đại dương đã chết
sửng từ triệu năm trước. Người đàn ông nào sống
trong căn nhà đỏ chỉ có thể là một vị thần.  

- Mario, anh biết ai sống trong ngôi nhà này ?

- Người đàn ông trữ tình nhất nước ý, senorita.

- Niccolò Paganini ?
Tôi mở lớn mắt nhìn Mario chăm chú. Anh có đôi
môi du đãng những khi nhếch lên đùa bỡn. Mario
đã ngừng điệu múa rắn hổ, chiếc quần tắm thời
trang căng chật ướt sũng đến sát trước mặt. Tôi
bối rối cúi nhìn lớp cát vàng nhuyễn như váy tắm
con gái. Tôi thích ngâm chân trong nước những
chiều mưa tạnh nước biển trở nên ấm như có pha
với lửa. Căn nhà phún thạch đỏ vẫn nhìn xuống từ
vách đá cao chót vót. Tôi nghe hơi thở Mario sát
bên tóc tựa anh sắp hôn. Tôi nhắm mắt đợi nụ
hôn tôi vẫn mơ ước, nụ hôn của những người đàn
ông La Tinh máu nóng. Tôi hình dung điệu nhảy
lúc nãy, Mario có thân hình trơn bóng trong quần
tắm săn chắc, cần cổ anh thơm vỏ chanh. Tại sao
tất cả đàn ông ý đều xức nước hoa Eau
d’Hadrien ? Ðó là tên của một vị hoàng đế La Mã.
Mario thì thầm. Tại sao anh đem tôi đến chỗ
này ? Ðây là chốn của tình nhân. Tại sao Niccolò
Paganini ? Người đàn ông bí mật nhất nước ý. Tôi
nhớ Fabricio đã chế diễu: Tình yêu của những
con ma. Tôi nhớ gương mặt mình đã làm tỉnh:
Chắc chắn một kẻ mạo tên. Tại sao tôi cứ phải
hoài nghĩ  đến người đàn ông này ? Tôi đang
thèm đến ngất những ngón tay Mario luồn dưới
váy.   

Tiếng đàn trổi lên lúc đó. Tiếng đàn cao vút
buông xuống một tiếng sét. Tất cả vỡ bùng. Tôi
nhận ra ngay tấu khúc thứ mười. Tấu khúc có một
trăm nốt nhạc trên một cung mã vĩ. Tiếng đàn
thủy tinh giận dữ tới tấp đổ xuống từ vòm phún
thạch. Mỗi nốt nhạc là một tuyệt kỹ. Ngón đàn
điêu luyện vần vũ cuồng phong lướt trên biển.
Sóng đánh ướt tôi và Mario, sóng lớp lớp vỡ tung
ghềnh đá, Mario hấp tấp dắt tôi lên bờ. Tôi run rẫy
chứng kiến khả năng kinh dị của vĩ cầm, Mario hối
tôi rời bãi, tôi cố ngước nhìn căn nhà đỏ, đôi mắt
đang ở đó dưới trận mưa kéo những đám mây đen
quầng.

Tôi bước chân lên các bậc thềm đá. Tôi đếm một,
hai, ba, Sorrente có những nấc thang chông
chênh khúc khuỷu, ở mỗi nấc thang tôi trông thấy
lại đôi mắt đàn ông sâu nền biển. Ðôi mắt đẹp
như một lời hứa. Tôi biết Niccolò đợi tôi ở nhà. Tôi
biết thùng đàn Guarneri đã mở lửng và tiếng đàn
sắp cất lên từ bao lơn. Niccolò phải có đôi mắt
sâu hút của đại dương,  đôi mắt chứa chan vực
thẳm không giới hạn, không có sự dừng lại của
ước muốn. Mây vờn trên các lớp rêu trơn trợt dưới
chân, tôi tiếp tục đếm từng nấc thang quanh co 
đào trong đá, bến phà dưới xa nhấp nhô sóng, tôi
đã bỏ Mario để trở về căn nhà hiệp sĩ, các cửa sổ
lúc này mở tung thành trăm đôi mắt nhìn xuống.
Niccolò sẽ biểu diễn cho tôi nghe bản đàn nào ?
khúc nhạc khiến anh nổi tiếng ở thành Gênes,
hay các tiết tấu biến anh thành phù thủy ? Tôi
thấy thấp thoáng ánh đèn vàng mờ ở căn phòng
bà ý. Tiếng đàn cất lên dìu dặt  như cánh tay một
người đàn ông giắt đưa tôi vào nhà. Tiếng đàn mở
ra phòng khách rũ rèm vén lên từ từ một bó hoa
khô rũ riệt đỏ chát, chiếc váy đầm hở lưng treo
lửng lơ thánh thoát, Niccolò biết tôi ưa thích được
đàn ông hôn vào giữa trũng lưng,  tôi thay chiếc
váy dạ hội dành cho những đêm trình tấu nhạc, tôi
mở tủ áo để hình dung Niccolò trong bộ áo viền
ren đen đang đứng đó, cườm tay anh che ngang
mặt, ngón tay anh cong dấu hỏi nhấc lên rồi bấm
xuống các dây đàn cổ xưa rung lên khúc nhạc ma
quỷ. Tôi nhắm mắt tận hưởng chuổi âm thanh
hoan lạc mê đắm  không ngớt mơn trớn, không
ngớt thì thầm những lời tình tự tha thiết. Cung mã
vĩ chở mang mái tóc Mario loắn xoắn thả tung
trăm dấu hỏi nhảy múa rũ rượi đổ xuống ngực tôi,
chở mang những ngón tay Mario tra vấn quấn
quýt, mỗi tấu khúc là một trận lửa, mỗi caprice là
một cơn triều nhấp nhô lên xuống, tôi muốn gọi
Fabricio nói em sắp ngã,  muốn gọi Fabricio nói
em đang ngã  đừng dỗi,  tôi hôn trả từng nụ hôn
hờn mát, đôi môi quyến rũ của Mario, đôi môi say
mê của Fabricio, đôi môi nghiêm khắc của cả
người đàn ông cũ có đôi mắt màu sóng. Thanh
mã vĩ vuốt ve tháo chiếc váy dạ hội mềm mại,
thanh mã vĩ thơm hương chanh nõn, thanh mã vĩ
đưa tiếng đàn xoáy tròn trong nhà, ùa vào người
tôi ngàn mũi kim, trì kéo xâm nhập vào giữa trũng
lưng tôi ham muốn, làm nứt vách tường phún
thạch mở ra với đôi mắt đĩ thoả rồi khép chặt lại
như một vành môi, một miệng núi lửa.

Tôi thức giấc một triệu năm sau. Thành phố yên
lặng như Pompei tàn phá sau cơn nham hoả.
Không gian trống rỗng im phắc tôi chỉ nhận ra
thực tại khi trông thấy chiếc váy đầm vẫn ở đó,
dưới chân giường sõng soài như một tách rời thân
xác. Tôi gọi cho Fabricio, giọng anh hốt hoảng, tôi
cúp máy, bản đàn Niccolò để lại trên bàn đêm nét
chữ thảo tài hoa như một lời tỏ tình. Tôi mở toang
cửa sổ, nắng sung sướng chan hoà lấp lánh óng
mật, nắng vướng quyện mùi chanh vẫn tỏa ngào
ngạt.

- Tình yêu của những con ma, rồi em sẽ mất trí.

Fabricio tiễn tôi lần cuối ở phi trường giận dỗi.


Fabricio không hiểu tôi cần những khoảng trống
xen kẽ những người đàn ông và tiếng đàn lấp đầy
những khoảng trống. Tôi hôn đầu ngón tay anh
quyến luyến. Em xin lổi. Tôi muốn nói Em đã
ngãõ, nhưng tôi không thể nói trước mặt anh,
trước đôi mắt u ám trông theo buồn bã.

Bến Marina-Piccola im sóng. Tôi trở về Sorrente


với tâm trạng của một người đàn bà hạnh phúc.
Tôi vẫn biết cuộc đời tôi sinh nở ở đây, cuộc sống
tôi diễn ra chốn này. Những hang động Grotto
Azura xanh ngọc, đoạn đường đèo vắt ngang
Positano nghiêng ngã rừng ô liu, chiếc cổng trời
trong vườn Augusto sừng sững và những quán ăn
đêm êm đềm giữa vườn chanh thơm ngát. Không
có nơi nào có thể đẹp hơn Sorrente. Tôi sẽ không
bao giờ còn đi đâu nữa. Tôi trở về với Niccolò,
người đàn ông của riêng tôi. Những đôi mắt màu
sóng cũ, những mái tóc lỏa xoã quấn quýt, những
đôi môi hờn mát trả lại thời gian. Tôi đã yêu
Niccolò, đã yêu tiếng đàn tinh diệu của từng đêm.
Tôi đem theo nhiều hành lý, bốn va li với một
rương hòm lớn. Tôi sẽ không bao gìờ đi đâu nữa.
Tôi mường tượng nụ cười mừng rỡ của Niccolò,
mường tượng điệu vĩ cầm uốn éo vui tươi đón tôi
trở về. Tôi mua thật nhiều thứ cho anh, khăn tắm,
áo choàng dạ, giày mũi nhọn, túi gấm đựng đàn
và cả những quần lót đàn ông mềm mại. Tôi sẽ
xếp tất cả ngay ngắn trên ngăn tủ, sẽ đợi tiếng
đàn cuồng si mỗi tối, sẽ làm người tình mê đắm. 
Niccolò sống ở Sorrente. Tôi sẽ sống ở Sorrente.
Tôi muốn kêu to Em đang trở về, em sẽ không
bao giờ đi đâu nữa. Quảng trường Piazza Tasso
tấp nập, tôi gọi xe về ngôi nhà hiệp sĩ, vẫn giống
ngày đầu tiên mái tóc hung cháy rực dưới nắng
chỉ các cánh cửa sổ khép kín. Tôi hấp tấp bước
lên các nấc thang, do dự một lúc ở bức tường
phún thạch. Hàng mành trắng phẳng lờ không lay
động, vách đá câm nín như chưa hề có người ở.
Tôi hồi hộp nhìn kỹ vách đá đã khép, đôi mắt đã
vĩnh viễn biến mất chỉ cành phượng tím buông
lẳng bất động. Tôi thở mạnh, đẩy cánh cửa chính
tạc hình đôi môi trễ.

- Sofia, lên ngay !

Tôi chồm qua bao lơn gọi. Tiếng gót chân bà ý gõ


nện. Ngôi nhà không còn mùi lá chanh nõn.
Thùng đàn Guarneri đã biến mất. Tôi chạy vào
bếp, những dây tỏi vẫn buột thõng treo rũ mái tóc
thắt bím nhưng dao lam cổ xưa không còn trong
buồng tắm.  Các bức ảnh khoả thân ai gỡ mất. Tôi
mở tung cánh cửa tủ áo kê sát giường, những
sống áo đại dương tan biến chỉ còn trơ trọi chiếc
váy dạ hội hở hang buông rũ một ảo ảnh.
- Sofia, ai đã dọn đồ đạc của Don Paganini ?

- Không ai hết, senorita.

- Tại sao tất cả biến mất ?

- Senori Paganini đã trả nhà cách đây một giờ.

- Trả nhà?

Tôi nhìn bà ý kinh hãi. Niccolò đã bỏ đi. Nhưng


gương mặt cánh dơi đầy ghét bỏ.

- Senori Paganini chỉ mê âm nhạc không bao giờ


yêu đàn bà.

Giọng cười bà ý tinh quái đắc thắng, tôi vụt nhớ


những cái nhíu mày khó hiểu trong lò bánh, có
những thứ đàn bà không nên thử, nhưng các âm
sắc đã vỡ thành miểng thủy tinh rơi rắc xuống các
nấc thang. Tôi chạy trốn. Niccolò không bao giờ
yêu đàn bà, Niccolò chỉ mê âm nhạc, ha ha... Tôi
chạy đuổi theo tiếng đàn của người đàn ông bây
giờ đã hoá ra giọng cười ghê tởm. Mỗi giờ chỉ có
một chuyến phà, Niccolò hãy còn trên chuyến tàu
về Naples. Các nấc thang tuột dốc nuốt trôi tôi
xuống vực thẳm. Tiếng đàn trổi lên lúc đó, vẫn
quyến rũ lẳng lơ trầm bổng. Ngón đàn cuồng điên
vang vọng từ xa kéo tôi xuống mặt biển. Tôi ngã
trên các bậc nền đá, nhưng nỗi đau thân xác vô
nghĩa, chỉ có tiếng đàn thách đố. Những vườn
chanh hiện ra rồi biến mất, chỗ tôi đã ngồi với
Mario, những trái chanh tròn như mặt trời cùng
rượt đuổi. Sorrente vỡ thành trăm ngàn mảnh.
Các quán Pizza bầy bàn ghế tràn lấn ra lòng
đường, tôi xô đẩy tất cả, chen lấn vào những chợ
dưa gang dài ngút ngắt, xô gạt những quầy rượu
chanh, các dây ớt khô buột túm, va vào mâm phó
mát bào sẵn, những sạp khăn thêu xô lệch. Tôi
lao qua đường via Califano bất kể tiếng kèn xe inh
ỏi. Lữ quán Excelsior hiện ra đẹp như một viện
bảo tàng. Tôi đã sống ở đây trong những căn
phòng cổ kính với người đàn ông có đôi mắt màu
sóng, tôi biết lối đi tắt ở đại sãnh dẫn ra vườn đá
xuống bến phà. Tôi đi như chạy, mộng du, thất
lạc. Tiếng còi tàu rúc trong không khí như tiếng rú
đau đớn của một loài cá voi thảm thiết. Tôi chạy
qua bến ngổn ngang dây thừng, những lưới cá
hãy còn tươi rói rong rêu sò ốc. Tôi dẫm lên
những rổ cá còn dẫy dụa. Tôi vùng khỏi người gác
trạm muốn tôi mua vé.

Những người đàn ông nhìn ngắm tôi kỳ lạ. Tiếng


đàn đã tắt. Sóng nhấp nhô đánh lên bất ngờ khiến
tôi ướt tóc. Tôi đưa tay vuốt mặt, nước đẫm lòng
bàn tay. Những sợi thừng thắt gút rút khỏi bờ,
chiếc phà rùng rùng chuyển động. Tôi trông thấy
tất cả. Trông thấy người phụ máy tất tả rời cabine
hỏi tôi có chuyện gì, trông thấy kiểm soát viên
giúp tôi lấy vé, trông thấy những lượn sóng xẻ
man dại ở mũi tàu và cạnh sườn duyên hải ở hai
bên tách rời dần. Tiếng đàn đã tắt ngấm. Những
dấu hỏi trong đôi mắt những người đàn ông yên
lặng. Tôi bước xuống các hàng ghế, một thiếu
phụ trao tôi chiếc khăn tay giúp lau áo, sóng đánh
ướt chiếc váy mỏng sương tôi dành mặc cho
Niccolò. Người phụ máy nói chút nữa tôi rớt xuống
biển hỏi có cần gì không ? Tôi cần Niccolò. Tôi trả
lời. Nhưng không ai hiểu. Tàu chòng chành, tôi
nắm lấy thanh vịn gỗ lảo đảo muốn ngã. Tất cả
những gương mặt đàn ông đều nhìn tôi chăm chú,
tôi cố đoán dưới những nét mày đậm một ánh mắt
của Niccolò, ánh mắt đen nhánh thường hay rình
rập theo dõi, ánh mắt mạnh mẽ đôi lúc đĩ thỏa
nhưng đầy tài hoa. Tất cả im lặng. Tại sao tiếng
đàn tắt ? Tại sao những người đàn ông im lặng ?
Tôi gọi Niccolò ? Những giọng cười tục tĩu. Người
đàn ông ngồi ở bìa băng có đôi mắt  đen đậm cần
cổ quá rộng, người đàn ông ở dẫy bên có cườm
tay nhỏ xương nối cánh tay dài ánh mắt quá
trong, người đàn ông ở hàng ghế sau gương mặt
cổ quái, sống mũi nhọn nổi cộm trên gò má sần
đanh ác, người đàn ông ở dẫy ghế sau nữa lực
lưỡng mái tóc dài rối rắm, người đàn ông ở hàng
sau chót đường mày cong dấu hỏi, những dấu hỏi
nghi hoặc bối rối khổng lồ lôi cuốn bám đẩy xô
hất tôi đến cuối đuôi tàu. Tôi muốn bật khóc
thành giọng hát nấc nở của Roberto Murolo đang
rền rĩ trong loa phóng thanh vừa trổi, tôi muốn bật
khóc xối xả thành những lượn sóng trắng đang
đánh tung ở bánh lái tàu nhưng tôi chỉ ngửng lên
ngắm nền trời lồ lộ, ngắm đám mây âm u trôi qua
trên mặt biển nhức nhối quái dị, ngắm các vồng
phún thạch đen đang chìm xuống biến mất. Một
giờ nữa phà sẽ cập bến Naples. Một giờ nữa tôi
sẽ đến một nơi nào đó. Ngày mai tôi sẽ đến
những thành phố mới, ngày mai tôi sẽ sống với
những người đàn ông khác. Còn Sorrente ?

Tôi sẽ trở về  như bản nhạc định mệnh bất diệt, 
trở về để còn nghe lại tiếng đàn kỳ tài trác tuyệt 
của người thầy vĩ cầm Paganini.

© Copyright Trần Vũ

 
 

Vĩ Diên
Á Châu - tìm người tình kín đáo
hộp thư  277
 

Một  lần qua rừng trúc, Vĩ hỏi Tại sao mẫu tin trên
báo ? Diên trả lời Vu vơ của sự sống. Cũng vu vơ tựa
kẽ trúc. Vĩ lắc đầu Không vu vơ, sự sống đầy ý chí.

Nhà mát khuất sau đường vòng núi.  Diên đỗ xe ở


ghềnh đá dẫn xuống chân biển. Lần đến thuê nhà
đầu tiên cả hai đã mê không khí hoang phế từ cánh
cổng sắt han rỉ mở ra khu vườn vắng. Lối đi thưa sỏi
đâm thẳng vào gốc đa trắng.

- Một người đàn bà xõa tóc. Vĩ nhận xét.

- Người đàn bà treo cổ dưới cành ngày chấm dứt .

Diên đùa. Nhà mát có bốn bức tường quét vôi màu
rượu chát. Một  bể bơi chính giữa và chậu dứa nhọn
sắc. 

- Treo cổ là một  hình thức hoá thân.

Vĩ đột ngột phản ứng,  đến bên bụi dứa tuốt kim gai
cắt vào tay rồi xoè bàn tay đầy máu :

- Thân xác không chết. Chỉ biến hoá.

Diên cảm thấy sợ. Vĩ thay đổi mỗi khi nhắc đến chấm
dứt .

Cả hai quyết định gặp ở nhà mát. Giống một  tổ ấm


kín đáo. Vĩ luôn đến trước rồi biến mất. Diên luôn cất
xe dưới lùm cây, đi rảo qua vườn, nhìn ngắm sợi kẽm
buông thỏng treo nối những lồng nan trống. Dẫy lồng
nan yên lặng tựa một  vựa chim chóc bỏ hoang. Lần
đầu tiên Vĩ đã kích thích tột độ khám phá chú khướu
vô hình giữa trưa nắng im phắt phát tiếng kêu rù rù
nhè nhẹ. Diên không trông thấy chỉ nghe tiếng đập
cánh bắn tung liễng thóc lúc Vĩ xoay mạnh chiếc lồng
trống.

- Sự sống đầy ước muốn.

Vĩ giải thích.

- Phụ thuộc vào vật chất.  Diên ngắt.

- Tạo nên vật chất. Vĩ khẳng định.

Các mẫu đối thoại giữa cả hai thường bất chợt sôi
động rồi chấm dứt vu vơ ở bóng ngón tay Vĩ  múa vũ
điệu câm. Vĩ  trao đổi với Diên không bằng lời nhưng
bằng bóng mờ nhẩy múa. Nắng soi lên bức tường
rượu chát những vân sóng uốn éo hoà vào ngón tay
Vĩ thành những hình thể dị dạng. Đôi lúc Diên cũng
tham dự trò chơi đuổi bắt mặt đại dương ửng sáng
trên bức vách toả hơi nắng của nhà mát. Cườm tay cả
hai  mang hình dáng quái vật, cánh tay là thân, nắm
tay là đầu, ngón tay làm lưỡi. Trò chơi kết thúc ở bể
bơi  cạn nước.

Diên làm tình với Vĩ  dưới đáy hồ trên những ô vuông
gạch hoen. Lần nào sau lúc xuất tinh cực xúc động Vĩ
cũng rủ Diên nhìn lên bốn vách đá bao quanh thẳng
tắp từ đáy hồ lên đến trời rồi  kể những truyện tình
hoang dại. Những người đàn ông làm tình với thú,
những cặp tình nhân chết đuối dưới hồ nước, các bé
gái lưỡng tính lúc chào đời.

- Kinh dị.

Diên kêu.

Vĩ lắc đầu :

- Khi yêu con người làm được tất cả.

Vĩ đứng lên mặc  áo. Diên yêu thân thể Vĩ thẳng làn
da mật bóng ngừng ở chiếc quần tắm hơi trễ. Vĩ
mang nét đẹp khoẻ mạnh, nửa trẻ thơ, vừa trong
sáng. Nhưng Vĩ  đi khuất. Một  mình Diên cảm giác
trơ trọi giam hãm và dưỡng khí cạn kiệt dưới đáy hồ.
Tự trong thâm tâm Diên biết kết thúc phải xẩy đến,
hiểu Vĩ tìm một  lối thoát. Lối thoát mà Diên không
muốn. Diên trở lên buồng khách. Quang cảnh bể tắm
xiêu đổ phủ rêu. Gốc đại thụ xum xuê dang tỏa cánh
tay. Vĩ  chỉ lên vòm trời trong vẫn phản chiếu thân thể
cả hai trần truồng trên từng ô vuông gạch vỡ. 

Trận mưa đầu của tuần lễ Tro trút lên mái tất cả cả
giông tố của rừng núi. Đất đá cào lên mặt kiếng lúc
Diên đến muộn, đoạn đường oằn giữa rừng trúc xơ
xác chồng chất những giải mây. Chiếc cổng sắt cản
gió trở nên nặng, phải khó khăn lắm Diên mới đẩy
được. Chiếc xe trắng của Vĩ bật mui ngập nước. Nhà
mát  lùi xuống biển.

Vĩ  xuất hiện đột  ngột lúc đó. Quỳ lau dịu dàng bụi
dứa, lấy khăn nhúng nước ấm lau chậm rãi từng cành
dứa cằn khô, từng cánh xương rồng cằn cỗi, từng mũi
kim gai tỉ mỉ cho đến lúc sắc gai bật sáng nhọn. Cử
chỉ Vĩ  kiên nhẫn. Diên bị kích thích bởi dáng vẻ Vĩ 
chau chuốt bầy từng cành dứa xếp ngay  ngắn lên
mâm cỗ rồi lẳng lặng cởi áo quỳ trước bức tường. Vĩ 
áp sát hai vai  như mỗi lần làm tình áp sát vào ngực
Diên. Tấm lưng thẳng bất đng chờ đợi thành vệt sẫm
tựa bức tường đã nứt ra nuốt lấy thân mình Vĩ .

Vết roi đầu tiên Diên đánh với tất cả sức lực. Vết roi
thứ nhì với tất cả say mê. Cành dứa cằn cỗi lằn trong
lòng bàn tay Diên vì nắm quá chặt bật lên lưng tiếng
kêu dây nịch lẫn tiếng rên đau đớn để lại vết chàm 
khảm cực đẹp. Diên tựa người thợ thủ công khéo tay.
Mỗi mũi kim là hạt trân châu. Mỗi vạt gai là một 
đường may trên da thuộc. Vết roi cuối cùng Diên
đánh với tất cả yêu thương trìu mến.

Cánh tay Diên còn rung lúc đỡ Vĩ đến giường. Thân


thể Vĩ hãy còn co giật. Diên yêu dáng vẻ Vĩ  tự
nguyện từ tiếng rên im lặng  đến các  dấu tay nhẫn
nại bấu lên mặt tường để lại vệt nâu co quắp. Diên
ngắm Vĩ  sau trận roi. Ngắm gương mặt Vĩ vẫn mang
nét đẹp thiếu niên trong sáng.

- Yêu có nghĩa Kẻ khác.

Vĩ mấp máy. Máu bầm chảy xuống cườm chân. Diên


lau máu, quạt cho Vĩ ngủ, đợi những giọt mồi hôi
tươm từ  chân tóc tan giữa trũng lưng rồi mới lặng lẽ
thu nhặt quần áo.

 
*

Những ngày sau trận roi, mặt biển xanh nhấp nhô
quanh rừng trúc.

- Gần đến ngày rằm.

Vĩ chỉ mái chùa vàng cong phía sau nhà mát. Nếp
chùa thênh lặng tĩnh như mặt nước. Diên thích ngắm
mái chùa phủ xoè  cánh sen không gợn mây.

- Kiếp sau em làm sãi.

Diên đùa. Vĩ  cười :

- Tại sao không kiếp này ?

- Vì  anh ở nhà mát.

Diên cũng cười. Diên thích đảo ngược xưng hô với Vĩ.
Em khi say đắm. Anh lúc giận dữ. Vĩ chấp nhận trò
chơi, cả hai cùng yêu những tình cảm hỗn loạn xẩy
đến.

- Buổi tối anh muốn đi lễ chùa. 

Vĩ nhắc. Diên lắc đầu :

- Em không thể.

Vĩ hỏi Vì sao em không muốn ?


Diên không giải thích. Diên biết Vĩ muốn sống buổi tối
ở nhà mát. Diên lấy ngón trỏ vẽ lên mặt kiếng chữ K.
Khánh. Vĩ lấy ngón áp út vạch một  chữ thật lớn ĐÊM.
Diên xoá mặt kính viết Kim. Vĩ viết chồng lên ĐÊM.
Diên lại bôi. Không thể đến nhà mát buổi tối. Không
thể xa Khánh. Không thể bỏ Kim.

- Yêu là hy sinh. Vĩ dập xoá tất cả.

- Không quá giới hạn. Diên dứt khoát.

Vĩ  im lặng rồi biến mất. Diên bỏ ra vườn cấy đất,


luống xương rồng Thái trổ hoa đỏ tươi phủ lên màu
tím của gai vừa nhú. Diên có thú cây cảnh. Vĩ thích
chim chóc, gia súc. Cả hai đẹp đôi ở nhà mát. Diên
muốn tập Vĩ  bằng lòng với không gian thanh vắng
thoáng đãng của vùng biển khuất. Bằng lòng với kín
đáo sau rặng núi. Diên đánh những cây gai rồi lấp
đất. Tiếng nước Vĩ đang tắm chảy trong trẻo.

Diên đứng sau liếp cửa. Diên thích ngắm Vĩ ở trần khi
tắm. Lần đến thuê nhà Diên đã chú ý nhà tắm rộng
lớn lát gạch men. Âm thanh của nước vang như trong
những bể tắm Thổ. Vĩ luôn xoay lưng chỉ ánh mắt lướt
trên mặt kiếng. Lần nào Vĩ  cũng đứng thẳng cho
nước xối chậm rãi từ cổ xuống gót chân, trước khi
quay lại cho Diên ngắm.

- Em thích ?
Vĩ đưa ngực cho Diên chạm. Diên mê làn da nâu nứt
nẻ trên thân Vĩ từ từ rạn, ở mỗi nếp vỡ mọc nhú lăn
tăn những vẩy sừng nhỏ đâm chồi dưới da.  Diên
không nghe thấy nhưng trông rõ những âm thanh thất
thanh trên gương mặt Vĩ  bất  chợt đau đớn thảm
thiết. Tay Vĩ  bắt đầu kéo màn, các đốt ngón rụng
xuống bồn men theo nước chảy về  cống.

- Anh thích.

Diên trả lời trong hơi thở. Tiếng động của nước trào ra
khỏi bồn tắm bất ngờ cùng lúc vẩy nhờn đan kín chi
chít trên bụng Vĩ. Diên hốt hoảng bỏ ra phòng khách
đợi.

Lúc Vĩ  xuất hiện trở lại, mái tóc ướt đen trên gương
mặt tươi sáng.

- Em biết Yêu đồng nghĩa hoá thân ?

Vĩ chải tóc, các vết sẹo nhỏ li ti trên ngực như những
nhuệ tấm.

- Anh biết.

Diên chấp nhận, nghe tiếng nước hãy còn rút mạnh
trong bồn. Diên ngắm Vĩ cố tìm những vẩy nhờn khi
nãy. Vĩ sấy tóc rồi thả khăn tắm cho Diên nhìn thân
thể  đã trở lại bình thường.

- Em có muốn tập hoá thân ?


Vĩ đến thật gần thì thầm, tình tự. Tất cả đều có khả
năng. Kể cả những vật vô tri nhất. Rồi em sẽ thích.
Lúc nãy em muốn giao hoan. Thân thể Vĩ lướt mềm,
trườn tới sát ôm xoắn mình Diên. Nụ hôn có mùi tanh
của cá.

Lễ Phục Sinh nắng ngời lên ghềnh đá. Cả hai mê


những buổi tắm sớm. Diên lặn ngụp rồi nậy hào ở
mỏm đá. Vĩ ăn sống không vắt chanh, đùa:

- Hào đục ở biển tươi như lưỡi em.

- Như lưỡi anh. Diên đính chính.

- Khi nào anh em ? Vĩ cười.

- Khi nào yêu.

Diên đục cho Vĩ thêm chục hào sống rồi lặn bắt
những cầu gai. Vĩ nói Ước có ốc dao để nướng. Diên
trêu :

- Chỉ cần hoá thân.

Vĩ ném vỏ hào vào mặt Diên rồi nhẩy xuống nước.


Diên thích ngắm Vĩ bơi sải dọc biển. Cánh tay Vĩ
thoắt thoắt nhịp nhàng không động biển. Ở mỗi nhịp
sải lưng Vĩ vồng lên hụp xuống cho đến lúc cột sống
lưng cong vòng và Vĩ búng thoắt trên mặt biển. Diên
say mê ngắm con trăn biển búng từ đợt sóng này
sang đợt sóng khác. Bãi tắm sống đo^.ng.

Tắm lên Vĩ đề nghị:

- Em thích rắn ngọ nguậy trong bụng ?

- Không bao giờ. Diên chắc chắn.

- Sẽ có ngày em thích. Vĩ cười phá.

Bữa ăn trưa diễn ra trong êm dịu. Diên tuốt măng tây


hấp, rồi bầy  bàn. Vĩ nướng cá, bằm mực tươi. Diên
cho thêm cần, khui vang trắng, đánh sauce trộn đĩa
tôm vừa lưới. Nắng trong như một  miếng kiếng đậy
lên những thuyền câu cuối bãi. Cả hai yêu không
gian tĩnh lặng chậm rãi. Thỉnh thoảng tiếng khướu hót
ngoài hiên. Lúc đánh trứng trộn bột, Vĩ bất chợt rủ
Diên bỏ trốn.

- Đến một  nơi thật xa, vào thế giới khác.

- Để làm gì ?

- Tiếp tục êm đềm ở đây.

- Đang là nỗi êm đềm.

- Không vĩnh cữu.


Vĩ dằn mạnh thau trứng.

Bữa ăn trưa chấm dứt  lạnh lẽo. Vĩ bỏ lên gác để Diên


rửa chén dọn khăn ăn. Lúc tắt nước, lau bếp, Diên
nghe trên lầu có tiếng mổ thóc. Mỗi bậc thang vang
tiếng mổ trên sàn gỗ. Tiếng thóc rơi lấm tấm trên mặt
bàn thấp, ở b ghế nhung đã sờn cũ,  quanh những
bình gốm bầy ở đầu hành lang. Chú đà điểu rừng lớn
sừng sững giữa căn phòng không giường chiếu. Khác
với lần hốt hoảng trước, Diên không sợ hãi. Không
cảm thấy mùi tanh hôi của vẩy cá chỉ bắt gặp ánh
mắt thông minh trong trẻo của đà điểu. Con vật xoay
mình vào góc rúc đầu dưới mớ quần áo bẩn. Diên
trông thấy hai chân sau đà điểu tròn chỉnh khụy
xuống. Tùm lông mao vũ phập phồng chờ đợi. Diên
cảm giác thật đau lúc ân ái. Nổi đau tuốt da làm Diên
phát rên lớn. Tiếng rù rù của đà điểu sục trong đống
áo bẩn khục khặc mỗi khi Diên túm bứt chùm lông
đen.

- Em thích ?

Vĩ lau vết bẩn trên bụng Diên, hơi thở dịu dàng. Mùi
rừng rú sa mạc còn lẫn quất trên vách. Diên ngượng
tránh nhìn Vĩ. Hơi nóng của giấc trưa hãy còn ấm
tường. Diên đưa tay hé liếp cửa, ánh nắng bên ngoài
vẫn trắng nhức mắt. Diên trông rõ mái chùa vàng
cong lợp những ống ngói lớn bằng đốt tre nghiêng sát
nhà. Một bảo tháp cao vút với đại hồng chung vĩ đại
đang được câu lên lơ lững. Trong khuôn viên các sãi
phốp pháp không rõ mặt. Ánh nắng ngầy ngật làm
Diên choáng váng. Diên hỏi Bảo tháp xây lúc nào
sao không biết ? Hôm qua hãy còn bãi đất trống. Vĩ
lau mình cho Diên nói tháp vẫn ở đó chỉ anh không
thấy. Diên hé liếp cửa lần nữa các sãi vẫn đứng tụm
ba bên cạnh vại nước. Dăm bóng tín hữu vào ra thắp
nhang ở các trang thờ. Đại hồng chung đánh ba tiếng
âm u  vào rừng trúc. Vĩ nhặt áo lót thu vén các lông
mao vũ rơi rớt trên đất rồi nói Buổi tối chùa lễ rằm
nhưng em không muốn.   

        

Lễ Thăng Thiên Vĩ cúng trăng bầy dưới bể bơi nhang


đèn, lư hương, ngũ quả và một lá phướng.

- Giống lên đồng. Diên thắc mắc.

- Một đám táng.

Vĩ chỉ siêu đất. Thể xác cũ thay bằng thân xác mới,
lúc đập siêu.

Vĩ mặc cho Diên áo lụa tứ thân, vẽ viền mắt, đánh


phấn hồng lên gò má, bắt Diên bậm môi cho lớp son
mỡ bóng mịn.

- Em đẹp tựa cậu Hoàng Mười. 

Vĩ hôn phớt trán, vuốt ve ngực Diên, ân cần cài thêm


hoa tai. Diên hỏi Tại sao bài trí ? Để vui. Vĩ không
ngửng lên, vẫn chăm chút đánh móng tay cho Diên.

- Em sẽ hoá thân.

Vĩ đi hài cho Diên rồi thay áo. Diên ngắm Vĩ tự nhiên,


những chấm kem điểm trên lớp phấn lót da thoa khắp
người tựa sao.

- Em giống hưu. Diên đùa.

Vĩ đặt một ngón tay lên môi.

- Giờ thiêng đến. 

Diên muốn nói Diên sợ, nhưng Vĩ đã hôn Diên đắm


đuối. Khói nhang vàng mã cháy sáng bễ tắm. Diên
không rõ tiếng nhạc ở đâu nhưng Vĩ bắt đầu lắc lư,
dật dờ, chập chờn điệu múa chốc chốc vẩy lên mình
Diên máu gà cắt cổ lúc trưa. Ánh trăng trong như
phiến gương hôm nào đậy lên những thuyền chài cuối
bãi. Diên nghĩ  buổi tối đầu tiên và duy nhất của cả
hai.

Tiếng mõ ở chùa bên réo rắc trn lẫn đại hồng chung
âm u thúc giục. Diên bắt đầu say không còn cầm
vững chai rượu. Ánh lửa của lâu đài dinh thự ngựa xe
bốc cháy chung quanh khiến Diên khám phá phi lề
của tạo hoá. Vĩ đã bắt đầu hoá thân, chùm lông mượt
phủ lên mình Vĩ điểm sao lăn tăn. Thân thể Vĩ uyển
chuyển. Vĩ không còn đứng được phải qùy xuống
chống tay trên gạch men. Diên thấy Vĩ đẹp lạ lùng.
Ánh mắt hưu thơ ngây trên bốn vó chân xinh xắn.
Diên nghe những tiếng kêu khẽ của thú. Chút máu
bầm của thể xác cũ nhiểu rây trên đất. Diên nằm đè
lên chú hưu sao, hôn đắm đuối lớp lông ấm áp. Mình
dưới của Diên co giật căng từ từ làm áo tứ thân đứt
cúc. Diên nhớ Vĩ dặn giao hoan với Vĩ trong lúc hoá
thân. Diên cảm tưởng các mạch máu phồng ở đùi
Diên vỡ tung. Diên đâm Vĩ trong đau đớn của thể xác.
Giống lần Vĩ áp vai vào tường cho Diên đánh. Vết
đâm đầu tiên Diên đâm bằng tất cả sức lực. Vết đâm
thứ nhì với tất cả say mê trìu mến. Vĩ biến hoá sau
mỗi nhát đâm. Diên trông thấy rõ nếp nhăn ở bụng
khỉ. Trông thấy máu chảy ở bụng hoãng. Mỗi vết đâm
đem đến cho Diên nỗi đau đớn như đâm lấy chính
mình. Đau buốt lan từ ngón chân bắt Diên rên la
không kềm được. Diên không còn cảm thấy con thú
dẫy dụa dưới mình chỉ thấy thân xác của chính Diên
đứt đoạn xé vỡ.

Diên ngừng lại lúc nửa mình dưới hoá vượn.

 
*

Lễ Thánh Linh phố chợ bầy bán mẫu đơn, hoa diên vĩ
và các loại nến trắng. Diên trở lại nhà mát mỗi dịp lễ
lắng nghe tiếng nước chảy, tiếng mổ thóc, hay tiếng
đập cánh bất chợt của  sinh vật nào đó. Diên bắc
thang lên máng xối nhìn sang bãi đất trống đã bắt
đầu công trình tu chỉnh nhà thờ. Đôi lúc Diên nhớ
buổi trưa cả hai nằm phơi nắng trên các ống ngói cho
đến lúc phỏng, Vĩ nói tập đau đớn.

Diên yêu những buổi trưa nắng cả hai chờ đợi lặng lẽ.
Mặt biển sáng dâng tràn lên bốn bức tường tựa nhà
mát đã chìm xuống đại dương. Những lúc sóng vân
đó ngón tay cả hai xen kẽ nhịp sóng vuốt ve lẫn
nhau, khám phá thân thể biến hình của nhau. Bao giờ
Vĩ cũng an ủi, vỗ về, khuyến khích cho Diên đạt đến
giai đoạn chót. Diên chạm tay lên đá men hãy còn
cảm giác tê buốt của cơn đau nứt xương và hình ảnh
đôi chân móng vuốt. 

Vết máu khô Diên đã tính rửa nhiều bận rồi lại thôi.
Vết máu trên gạch hoen để lại cho Diên nhiều kỷ
niệm. Diên vẫn còn trông thấy ánh mắt tuyệt vọng
của chú hưu sao hấp hối dưới đáy bể nước. Tự trong
thâm tâm Diên hiểu Vĩ đi tìm người tình khác.
Diên hay đi rảo khắp vườn xem có gì đổi khác. Rừng
trúc đen chỉ còn những đọt lá thâm vun trong sân.
Phố chợ  cùng những quầy cá tấp nập đến ghềnh đá.
Diên luôn thắc mắc vì sao rừng trúc có thể biến đi
trong một thời gian nhanh như vậy. Cả triền núi phủ
chiếc bóng kín đáo lên ngôi nhà cũng bị san phẳng
nhường cho những đường xa lộ thẳng. Diên nghĩ sẽ
hỏi nếu Vĩ  trở lại. 

Thứ Hai lễ Người Chết, Diên vuốt tay lên sợi kẽm
chạy suốt ngôi nhà. Dẫy lồng nang trống động đậy
tựa các chú khướu vô hình thức giấc. Diên nghe tiếng
khướu hót lảnh lót. Tiếng đập cánh làm tung liễng
thóc. Diên nhớ Vĩ luôn nói sự sống đầy ước muốn.
Nhớ buổi sáng đầu tiên đến thuê nhà gốc đa xoã tóc
đẹp tựa người đàn bà, và Vĩ khẳng định Treo cổ là
một hình thức hoá thân.

Diên yêu hai cườm tay Vĩ cột chắc. Yêu cách Vĩ giao
hoan trong tư thế gò bó. Yêu cách Vĩ ướm cổ vào sợi
dây thừng cho Diên thắt. Ngón chân Vĩ chống trên
mặt ghế lấp lửng. Thân thể Vĩ mật bóng, bắp đùi
thẳng vút tựa Vĩ đã hoá thành một cành nhánh của
gốc đa. Diên bắt đầu trông thấy sắc vàng hoe tròn
chỉnh, những rùng mình của chú khướu con trở mình
vừa thoát khỏi vỏ trứng. Những lông mao tuyền.
Chiếc mỏ rỉa rói phát tiếng kêu khẽ và đôi chân nhỏ
bé mất cân bằng. Diên nhớ Vĩ quả quyết Yêu đồng
nghĩa hy sinh và hoá thân. Diên vụt hiểu.

Đôi cánh lớn lên đột ngột đưa Diên lên thật cao lao
vào khoảng không chới với bát ngát.

06/2000

© Copyright Trần Vũ

 
 

PHÁO THUYỀN TRÊN DÒNG YANG-


TSÉ 
Một hôm, Toàn bất ngờ đến từ sau lưng, phủ một lần
vải đen trùm xuống đầu tôi và nói:

-      Nhiều khi người ta có thể nhìn xuyên qua màn đen.

Câu nói lửng lơ và Toàn rời ra. Tôi quay lại, trông
thấy làn vải đen lúc nãy đang vung vẩy lên xuống
trong tay Toàn,  gần như một điệu múa

-      Cái gì không trông thấy mới thật kích thích.

Toàn lại nói, vẫn lửng lơ không rõ nghĩa. Mẩu vải đen
cứ phất phơ, lùng phùng từng lúc tung xòe ra như cái
nan quạt, khi chấp chới tựa một cánh dơi chập chờn
rồi rũ xuống như một mình rắn. Loài rắn hổ. Có ý nghĩ
cực mạnh chạy qua đầu tôi, là Toàn là một con rắn
hổ chỉ chực mổ vào người mình, nhưng Toàn đã bước
tới, phe phẩy mẩu vải như một tay matador thiện
nghệ. Toàn xếp hẳn mẩu vải thành một giải băng và
dùng nó để bịt mắt tôi.

-      Chị trông thấy gì không ?

Khuôn mặt Toàn xáp gần đến nỗi thổi phà từng con
hơi thở nóng hực vào má tôi.

-      Không thấy gì hết.


Tôi trả lời.

Toàn xiết thật mạnh băng vải rồi lại hỏi.

-      Ðã thấy gì chưa?

Tôi vẫn lắc đầu. Lần này Toàn xiết chặt hơn nữa làm
tôi bỏng rát ở mắt.

-      Người ta chỉ chịu khó suy nghĩ khi đau đớn.

Toàn nói với hai bàn tay ghịt chặt với hai đầu vải,
không trông thấy nhưng tôi hình dung ra bắp tay
Toàn nổi lên gân guốc và mồ hôi ở cổ tay nó chạm
vào mặt tôi rườn rượt, nhớp nhờn. Băng vải căng
cứng đến đau hai bên thái dương. Tôi quát :

-      Ðủ rồi.

Tiếng thét của tôi, trong một giây, bức phá khoảng
không khí nặng nề hơi ấm của căn phòng. Toàn bỏ
đi, tôi loay hoay gỡ dây vải. Mảnh vải đen rơi xuống,
thõng thượt, nằm chết như cái xác rắn vắt vẻo lên
thành phố. Tôi còn nhức ở mắt, Toàn đã ra góc nhà
ngồi dạo bản đàn mà nó ưa thích. Tiếng đàn đại vĩ
cầm trầm trầm, từng điệu, từng thanh, từng nhịp, từng
cung, lên bổng rồi lại trầm trầm liên tục gần nhu bứt
rứt.

Toàn ngồi hơi cúi, liếc nhìn tôi bằng đôi mắt vô hình.
Cánh tay mặt của Toàn mãi miết kéo mã vĩ, tay trái
ôm lấy thùng đàn như một người đàn ông say mê ôm
một người đàn bà. Năm ngón tay Toàn bấm xuống
dây đàn, nhấc lên, rồi lại miết xuống. Thanh mã vĩ
đưa tới, kéo lui, đưa tới, rồi lại kéo lui. Tiếng đàn cò
cưa phừng phừng không điêu luyện, giống tiếng một
lưỡi cưa cùn trên dây thép chùng nhão. Thứ âm thanh
chùng nhão bò trườn, lê lết, oằn oại lấn dần trong
phòng, nuốt từ cái bàn ăn qua tủ sách đến tận chỗ
tôi.

-      Ðủ rồi !

Tôi quát lên lần nữa, không chịu nổi sự lì lợm tai quái
ở dáng nhìn trừng trừng nhưng vô hình dạng của nó,
Tiếng đàn đột ngột đứt quãng. Thanh mã vĩ rời ra và
cái thùng đàn tròn lẳn đầy đủ hình dạng một người
đàn bà thôi nhúc nhích. Toàn cất tiếng:

-      Cấm đàn hay cấm nhìn chị ?

-      Cả hai.

-      Ðúng rồi, cả hai đều là gỗ đá vô tri.

Toàn cười sực lên, đứng dậy biến mất vào buồng
riêng.

Tôi còn lại một mình, sợ.

Từ lâu Toàn đã sống trong sự bất thường của thế giới


màu đen vây lấy nó, nhưng buổi tối nay, sự bất
thường đó đã trở thành nghiêm trọng. Nghiêm trọng
hơn nữa là tôi hiểu căn do của sự bất thường ấy. Tôi
quẹt tay lên má, chùi giọt mồ hôi nhờn nhờn lúc nãy
như đã bám sâu vào da. Khi tôi trở vào buồng ngủ,
những tiếng động của Toàn từ buồng bên vọng sang
kêu lịch kịch. Tôi kéo chăn trùm kín đầu, trốn thứ
tiếng động giẫy giụa của một thân mình dằn vặt cô
đơn. Nhưng dưới lớp chăn, trong bóng tối bao trùm,
tôi lại bắt gặp cái màu đen mà Toàn đã muốn tôi đối
diện, nhìn và trông thấy.

Ngày đến, tôi thức giấc muộn, bần thần vì cả đêm


không nhắm mắt. Tôi nhớ đã nhìn thao láo suốt đêm
vào tấm màn đen căng cứng, trong tư thế nằm ngửa
với hai tay ôm lấy đầu trốn tránh. Buổi sáng chủ nhật
xác xơ, hình ảnh Toàn hằn lên bên hông cửa sổ.
Những tàn cây bên ngoài gầy guộc trơ xương, như
đang đưa những cánh tay khẳng khiu lên trời van xin
thượng đế một ân phước. Tôi đến bàn ăn lấy phần ăn
sáng của mình, một ly cà phê đen với một viên đường
vỡ duy nhất. Toàn là người lo điểm tâm trong nhà,
mỗi buổi sáng nó đặt bên tách cà phê của tôi một
viên đường vỡ, và tôi hiểu.

- Chị nói sang đây sẽ không bỏ Toàn, chỉ sống cho


Toàn và một mình Toàn. Nhớ không ?
Toàn nói, khi nhận ra tôi đã hiện diện trong phòng.

-      Chị nhớ.

Tôi đáp.

Nghe tôi nói “Chị nhớ”, Toàn đứng phắt dậy.

-      Nhớ sao không làm ? Ai hy sinh cho chị ?

-      Toàn hy sinh cho chị.

Tôi trả lời, lặp lại, không dám ngửng lên. Toàn bước
đến chậm chạp, như hôm qua, từ sau lưng lùa bàn
tay bịt lấy mắt tôi.

-      Ðừng !

Tôi cố gỡ tay Toàn với tách cà phê đang cầm, mười


ngón tay Toàn đè mắt tôi đen tối. Hơi thở Toàn sau
tóc chậm, nặng, đứt quãng.

-      Ðừng, cho chị xin ...

Mười ngón tay Toàn nới lỏng dần dần, ôm lấy thái
dương, ve vuốt lấy má, lần xuống cầm rồi đùa với
ngấn cổ. Tôi rùng mình, hai bàn tay Toàn như hai
gọng kềm kẹp cứng, không buông. Toàn tiếp tục
động tác mạnh bạo, khi mơn trớn cho đến lúc tôi nổi
gai phải hất tay nó ra.

-      Thôi đủ rồi.

-      “Ðủ rồi”. Lúc nào cũng đủ rồi.

Toàn day tôi lại, lấy ngón tay trỏ lần theo sóng mũi tôi
xuống môi, và ngừng ở môi. Tôi thấy mình nhượng bộ
và đáp ứng tất cả những trò chơi của Toàn. Ðể làm
gì ? Ðể Toàn đừng tuyệt vọng đi đến tự hủy ?

-      Chị biết hôn không ?

Khuôn mặt Toàn bất ngờ rơi xà xuống, vết thẹo ăn


sâu giữa môi hiện ra sâu hoắm. Tôi hốt hoảng chống
hai tay đỡ lấy ngực Toàn, tách cà phê đổ xuống ghế
bành ẩm ướt. Hai bàn tay Toàn đã chụp vội, nâng
khuôn mặt tôi lên hôn.

-      Chị xem phim thấy người ta hôn nhau thì phải biết
hôn.

-      Ðủ rồi !

Cặp môi mang vết sẹo trờ tới, tôi nghiêng mặt tránh
nên đôi môi Toàn rơi vào má, gai gai, cảm giác vừa
mềm, vừa khô, vừa ướt. Cặp môi Toàn ở trên da mặt
tôi, đầu Toàn gục trong khoảng cổ không chịu rời đi.
Tôi thôi chống trả, để nguyên thân người ướt cà phê,
vươn hai tay ôm lấy khuôn mặt đó. Tôi không thấy
ghê sợ sự tiếp xúc của da thịt mình với cái khuôn mặt
lồi lõm những chỗ thịt phồng trồi trũng không liền da.
Tôi chỉ thấy thương Toàn.

-      Ðủ rồi, đi đánh đàn đi.

Toàn nhìn tôi lạnh lùng như tất cả bao lần tôi cự tuyệt,
nhưng tia nhìn vô hình đã dịu đi. Tiếng đại vĩ cầm
vọng lên, cũng giống hôm qua, trầm trầm không điêu
luyện và thất vọng. Toàn nghe thấy gì trong điệu
nhạc dạo mãi từ ngày này qua tháng khác ? Tôi
không biết, nhưng tôi đã rõ cái hình ảnh mà Toàn
muốn tôi trông thấy trong tấm màn đen.

-      Toàn phải có một người bạn gái.

Tôi nói, lúc Toàn không ngờ nhất, đang cắm cúi với
cây mã vĩ. Tiếng đàn vụt im, nhường cho ánh mắt
nhìn không có hình dạng, hướng về chỗ tôi không
mấy chính xác.

-      Chị nói gì ?

-      Toàn phải có bạn gái.

-      Ai dám yêu thằng này ?

-      Chị sẽ tìm cho Toàn.

Toàn im lặng một lúc rồi đứng lên mở cửa sổ. Hơi gió
lạnh ùa vào, hai lớp màn cửa thổi tốc lên, rơi xuống
rồi lại rung động dập dình như đôi cánh bướm bị
nghẽn. Toàn quay lại, cố tình hướng mặt nhìn ra cửa,
cho ánh sáng soi rõ những vết sẹo chằng chịt ngang
dọc trên khuôn mặt. Những vết sẹo mà tôi đã chứng
kiến, đã thấy chúng bầm dập vì khâu dối, đã thấy
chúng chai nám vì nắng hải đảo cháy lửa. Khuôn mặt
đầy sẹo của Toàn kỳ dị kinh khủng dưới ánh sáng
ngày.

- Chị nhìn kỹ tôi, ai yêu được khuôn mặt này. Bộ chị


tưởng Toàn không biết mặt mũi mình  như thế nào
hay sao ? Chỉ cần sờ vào là biết !

Toàn đưa mười ngón tay lên rờ nắn lớp da tật nguyền,
đột nhiên những móng tay cong lại cào mạnh như
muốn lột tróc cái hình thù kinh tởm.

-      Ðừng, Toàn !

Tôi hét lên, chạy tới, giằng lấy những đầu móng đang
cào cấu trầy trụa khuôn mặt nó. Thân hình Toàn giật
lên, cả tấm lưng co giật vùng vẫy muốn chạy trốn.
Toàn cất tiếng hú đau đớn, tôi ghì cứng lấy Toàn, áp
mặt nó vào mặt tôi, vít lấy đầu, xoa xoa lớp da sần
xùi, hôn vào từng chỗ sẹo vỗ về, an ủi.

-      Ðừng bao giờ làm vậy nữa nghe Toàn, đừng bao
giờ, nghe chị, đừng bao giờ...

-      Chị đâu có yêu Toàn.

-      Chị không thể, chị không có quyền...

Toàn ôm lấy tôi, vòng hai tay ôm lấy lưng tôi. Ðợi cho
tất cả nguôi ngoai, bình tĩnh, tôi gỡ tay Toàn, nói
trong hơi thở kiệt sức.

-      Chị sẽ tìm cho Toàn một người bạn gái, chị hứa,
chị hứa ...

Toàn bỏ ra ngồi ở bàn ăn, cầm lấy cuốn sách cố


quên sự xúc động quá mạnh vừa qua. Ngón tay Toàn
sờ soạng những mặt chữ nổi, lần từng mẫu tự, cố tìm
một ý nghĩa trên trang giấy. Cái hình dáng Toàn ngồi
chịu đựng, mệt nhọc đè lên tôi. Không có gì đau đớn
bằng phải chứng kiến một đời sống thân thuộc chết
dần mòn, thoi thóp ở bên trong. Những khuôn mặt
của chúng bạn gái lần lượt lướt qua, những dấu hỏi,
phân vân, xét đoán, do dự, sợ hãi lẫn lộn không
thành hình thể. Joelle, Kate, Florence, Isabelle ? Ai
cũng được, nhưng không thể là tôi, nhất định không
thể là tôi.

Kate vào nhà, cởi áo dạ rồi mới tháo mũ. Mớ tóc đỏ


tuôn ra từ chiếc nón nỉ rơi xuống thân áo đầm len có
đính một hàng khuy nút. Kate nói để cô ta tự nhiên,
rồi ngồi xuống sofa. Cô ta đưa mắt nhìn quanh quất,
tôi biết Kate kiếm ai.

-      Kate uống chút rượu ?

Tôi hỏi vỉ Kate ít khi uống rượu. Quả nhiên cô ta lắc


đầu, nhưng tôi mời thêm lần nữa, cố tình nài ép và
Kate nhận lời. Tôi rót Vodka vào ly thủy  tinh trao cho
Kate. Tôi nhìn đăm đăm vào chất lỏng trong suốt lúc
cô ta đưa lên môi uống, như thể tôi mong đó là
phương thuốc nhiệm màu làm tăng can đảm cho
Kate.
-      Trời lạnh uống rượu nhiều khi cũng thú.

Kate đặt ly xuống bàn, xoa hai tay vào nhau dễ chịu.
Kate còn trẻ, trạc tuổi Toàn, hiền lành và biết suy
nghĩ. Nhìn cô ta thoải mái, không có vẻ bồn chồn, tôi
cảm thấy yên tâm. Tôi đã nói với Kate về Toàn, là
Toàn gặp một tai nạn, phải sống cô độc nên rất buồn.
Nếu Kate có thể đến chơi với Toàn vào cuối tuần...

Kate chuyện trò vu vơ với tôi về đời sống, hỏi có phải


Toàn thích chơi đàn và đọc sách ? Nhà có tủ sách lớn
quá. Tôi trả lời là Toàn say mê vĩ cầm, còn tủ sách là
của tôi vì Toàn chỉ đọc được một ít sách đặc biệt
dành riêng cho những người như Toàn. Kate ngạc
nhiên hỏi tại sao, tôi cố giải thích cho cô ta hiểu rằng
Toàn rất yếu thị giác, bị thương ở mắt. Tôi muốn
chuẩn bị cho Kate nhiều hơn nữa, nhưng cô ta có vẻ
tự tin và nói tôi không phải lo.

-      Kate hiểu, Kate đã gặp những trường hợp như vậy.


Chị đừng ngại, Kate tin mình sẽ trở thành bạn thân
của Toàn.

Kate nắm tay tôi trấn an, khuôn mặt cô ta vẫn bình
thường và điềm tĩnh.

-      Kate đã gặp nhiều người thanh niên, Kate biết xử


sự, Kate sẽ không để chị buồn. Chị cho Kate gặp
Toàn đi.

Khi ấy tiếng đại vĩ cầm của Toàn từ buồng trong trổi


lên. Tôi thấy mặt Kate có hơi thay đổi. Tôi hiểu vì sao,
tiếng đàn chùng nhão, rã rời gần như bệnh hoạn của
Toàn, đối với tôi dù đã quen thuộc nhưng mỗi khi tấu
lên vẫn mang một thứ âm thanh lạnh lẽo kỳ quặc.
Song Kate đã đứng lên, nói cho cô ta vào gặp Toàn.
Tôi đưa Kate đến trước cửa buồng Toàn, gõ tay nói
có khách. Toàn không trả lời, tiếng đàn vẫn cò cưa ở
một điệu duy nhất. Tôi và Kate đẩy cửa vào, Toàn
đang ngồi quay lưng, hai vai rung rung với thân đàn
và thanh mã vĩ kéo qua lại. Tôi nghe Kate nói chào
Toàn, cô ta bước hẳn vào buồng. Toàn dấu mặt mải
miết kéo mã vĩ như không nghe thấy gì hết. Tôi nhìn
Kate đứng sau lưng Toàn, với tiếng đại vĩ cầm xoáy
tròn trong buồng. Tự nhiên tôi hối tiếc đã đưa Kate tới
đây, thấy giận hờn ghen tuông trong lòng. ý nghĩ sắp
mất Toàn làm tôi hơi buồn, dù biết mâu thuẫn. Kate
vừa đặt tay lên vai Toàn.

Những gì xảy ra kế tiếp ngoài dự đoán của tôi, của


Toàn, của Kate. Lúc Toàn quay đầu lại, khuôn mặt từ
từ quay sang phơi bày những thớ thịt nhăn nheo, trồi
trũng ghê tởm với hai lỗ hổng ở mắt, một nửa cánh
mũi không còn hình thể, và một rãnh thẹo chạy từ
nhân trung ngang môi xuống quá cằm, thì Kate vụt rú
lên. Khuôn mặt Kate khiếp hãi, sự điềm tĩnh biến
thành kinh hoàng tột độ. Thứ tiếng rú của một người
đàn bà sợ hãi quá mức làm rũ liệt cả chân tay tôi, rồi
Kate bỏ chạy. Cô ta vừa chạy vừa la thét gọi cầu cứu.
Lúc Kate đã chạy ra khỏi nhà, những tiếng hú ác quỷ,
quái vật hãy còn rớt lại trong hành lang, cây đại vĩ
cầm ngả xấp trên đất và tôi thấy từ hai hố mắt Toàn
những giọt nước mắt ứa ra. Ở khối thịt ngày xưa là
mặt mũi Toàn, toát ra vẻ đau đớn, tủi hổ. Những giọt
nước tủi hổ lăn từng hột xuống bờ môi run run hằn
thẹo. Toàn khóc không có tiếng, nhưng tôi thì bật
khóc nức nở. Tôi ôm lấy Toàn, ghì xiết lấy mặt mũi
tóc tai nó. Nước mắt tôi hòa vào những giọt nước ở hố
mắt Toàn.

-      Không ai có thể yêu Toàn, làm bạn gái của Toàn.

Toàn nói với tiếng rên đau đớn, tôi bịt môi nó nói tôi
yêu Toàn, sẽ làm bạn gái của Toàn. Tôi nói tôi sẽ
làm tất cả những gì Toàn muốn, để Toàn không cô
đơn, để Toàn được sống bình thường như tất cả mọi
người thanh niên. Tôi chấp nhận hết, chấp nhận tất
cả. Toàn hỏi tại sao tôi tiếc, tại sao gìn giữ với Toàn.
Tôi nói tôi không tiếc với Toàn nữa đâu, người ta
cưỡng bức tôi trên biển, tôi còn gì để gìn giữ.

Hai chúng tôi ôm nhau trên thảm. Toàn úp mặt vào


tóc tôi khóc thầm lặng. Tôi vỗ về trên lưng Toàn như
ngày xưa, dạo nào tôi thường vỗ về nó. Cách đây đã
lâu lắm. Những hình ảnh cũ, những thương yêu máu
mủ của quá khứ hiện về, những kỷ niệm dịu dàng
khiến tôi nghĩ tôi và Toàn là một. Tôi và Toàn đã
thuộc về nhau từ dòng máu, đâu có khác biệt gì nếu
tôi thuộc về Toàn hôm nay, lấy máu của hai chúng tôi
trộn lại. Tôi không muốn thuộc về một người đàn ông
nào khác nữa. Tất cả đàn ông làm tôi ghê sợ, trừ
Toàn. Hai chúng tôi nhìn những đám mây trôi tịch
mịch lặng lẽ qua ô cửa sổ. Tôi tả cho Toàn nghe màu
sắc của những cụm mây, của đường chân trời đuối
lịm ngoài xa. Toàn không trông thấy và tôi bù đắp
cho Toàn những thiếu xót của thân thể. Hai chúng tôi
chia sẻ cái màn tối vây bọc lấy nhau. Nụ hôn của
Toàn dài thăm thẳm như chiều sâu của bóng tối. Sau
nụ hôn đó, tôi biết chúng tôi không còn thuộc về thế
giới luân lý của loài người.

Hôm đầu tiên, hai chúng tôi ăn cơm trong yên lặng.
Toàn ngồi đối diện tôi, đầu hơi cúi, chăm chú nhìn bát
cơm. Chỉ có tiếng những hạt mưa rơi vỡ rả rích và ánh
đèn trần vặn nhỏ, buông thứ ánh sáng loãng giăng
lên bàn. Tôi nhìn ánh điện vỡ li ti trên da mặt Toàn,
cố nghĩ đó không phải là những ngấn sẹo mà là thứ
ánh sáng trổ hoa màu vàng. Toàn cắm cúi ăn với trận
mưa mỗi lúc một lớn. Hai chúng tôi chờ nhau lên
tiếng, nhưng rồi chỉ một bàn tay Toàn trờ tới, trên
khăn trải bàn nắm lấy tay tôi, những ngón tay mở
rộng, xòe đan vào nhau, ấp ủ xúc cảm và nhục cảm
cho nhau. Toàn vẫn cúi đầu yên lặng, nhưng nói với
tôi rất nhiều bằng cách tiếp xúc ấy. Sau bữa cơm,
Toàn đứng lên kéo tôi vào buồng.

Hai chúng tôi đứng gần nhau trong bóng tối, chỉ có
ánh sáng của những hạt mưa, phản chiếu từ trụ đèn
đường, hắt dội vào buồng điểm lăn tăn lấm tấm từng
hôït nhỏ lóng lánh trên thân thể Toàn. Tôi để yên cho
Toàn cởi quần áo, bàn tay Toàn khéo léo, giống như
tất cả người mù đều có đôi bàn tay tinh tường. Toàn
gỡ từng khuy cúc, hôn vào từng chỗ da thịt tôi vừa
thôi hết giam hãm. Ðến lúc Toàn tháo làn áo lót, thì
đột nhiên bên ngoài có tia chớp chói lòe, lóe đập vào
buồng soi vữa một nửa khuôn mặt của Toàn. Tôi vụt
gai người bắt gặp trong thứ ánh sáng xanh điện, một
thứ ánh thép sắc lạnh của từng nhát mác chém bổ
xuống. Những thanh mã tấu bầm xuống, xối xả, liền
tay, từng nhát, từng nhát man rợ lên mặt mũi Toàn.
Tôi cũng thấy giữa ánh chớp của cơn giông những
hình ảnh tắt hiện, tắt hiện đau đớn điên dại của thân
xác chính mình. Tất cả những hình ảnh đó, gẫy vụn,
rách nát, hiện lên trên khuôn mặt xần xùi của Toàn.

-      Ðừng, ...

Tôi rụt người lại trong cơn sợ hãi.


Toàn nhận ra sự không tự nhiên, ôm lấy tôi cố truyền
hơi nóng từ người nó sang. Toàn thì thầm bên tai tôi
những câu nói yêu đương vô bờ bến nhất.

-      Tòan yêu chị vô vàn, Toàn không hối hận gì hết.


Ðừng nhìn mặt Toàn, sẽ làm chị sợ.

Toàn bảo tôi quay lưng lại, nói đừng sợ, đừng nhớ,
đừng nghĩ gì hết, sống cho hai chị em thôi. Tôi gật
đầu, tôi sẽ không nhớ ... Toàn bước tới, ôm tôi vào
lòng, áp thân mình vào lưng tôi. Tiếng của những giọt
mưa bắn lách tách trên mặt kính, tiếng Toàn nói thật
nhỏ rằng Toàn muốn yêu tôi từ sau lưng, tiếng của
chính tôi đáp lại là tôi cần Toàn và cho Toàn hết. Bây
giờ trong nhà chỉ có hai chúng tôi với một tình yêu cật
ruột.

Khi Toàn lấy băng vải đen hôm nọ buộc quanh mắt
tôi, hơi ấm từ người Toàn cũng đã truyền hẳn sang
tôi. Sức nóng tỏa lan, cuồn cuộn và tôi trông thấy
xuyên qua tấm màn đen những hình ảnh thật rõ nét.
Hai chúng tôi lõa thể nhập vào làm một, hai cánh tay
Toàn ôm vòng quanh bụng tôi, một đôi môi hôn tôi ở
cổ, lần xuống vai và cắn vào lưng. Một cảm giác
chậm, rạt rào tình thương, từ sâu kín dâng lên dần.
Những đau đớn từ vết thương ở quá khứ tan vào niềm
sung sướng không ngờ, nhịp nhàng ở mỗi cử động
của Toàn thận trọng, nhẹ nhàng, từng chút, từng
chút, cho từng yêu thương máu mủ.
Tôi và Toàn yêu nhau trong bóng tối, gượng nhẹ, xoa
dịu, giúp đỡ lẫn nhau xóa nhòa một vết thương không
may mắn của cuộc đời. Rồi Toàn bồng tôi lên giường,
rồi tôi úp mặt vào ngực Toàn khóc nức nở vì sung
sướng, đã bù đắp, giải thoát được cho nhau. Những
giọt nước mắt nhiễu xuống chan hòa ngực Toàn nồng
ấm. Rồi Toàn mơn man những sợi lông măng ở cằm
tôi, hỏi tôi có yêu Toàn, có hạnh phúc hay là hối tiếc?
Tôi trả lời là tôi yêu Toàn, rất hạnh phúc và không hối
tiếc. Có thể tôi đang phạm tội, nhưng ai hiểu cho rằng
một giọt máu đào hơn ao nước lã, và tôi cần giọt máu
đào của Tòa biết chừng nào.

Trăng lên, cơn mưa tạnh. Hai chúng tôi nằm kề nhau
lắng nghe im ắng của đêm hoang vu như thuở loài
người còn tiền sử. Thời hồng hoang, trong gia tộc chị
em vẫn thường lấy nhau, tôi và Toàn chỉ lập lại cách
sống của loài người ban sơ. Ðêm thanh vắng che chở
cho chúng tôi, không có con mắt của người ngoài,
không có luân lý của cuộc đời, không có chi hết, chỉ
có chị em chúng tôi yêu nhau.

Những ngày sau đó, những ngày tôi và Toàn chung


sống với nhau thật tuyệt diệu. Tôi là chị, là người yêu,
vợ của Toàn. Toàn là em, là người tình, là chồng tôi.
Thật tuyệt diệu khi tất cả những tình cảm ấy gộp lại
làm một, thứ tình thương duy nhất gọi là tình yêu. Tôi
không thể xa Toàn, những giờ làm việc trong hãng trở
nên ray rứt nhớ nhung. Những phút hấp tấp bước như
chạy vào nhà để bồi hồi lịm người trong tay nhau.
Những nụ hôn trao vội vàng, những ghì xiết hối hả ...
Ðêm nằm bên gối Toàn thường nhắc lại những kỷ
niệm cũ.

-      Chị còn nhớ những buổi chiều mình đi dạo ở bãi


sau ? Toàn nhớ mãi chiếc áo tím của chị in trên nền
cát vàng chạy dài đến chân núi. Tóc chị lúc đó còn
dài chấm lưng, gió biển thổi phất bay theo từng gợn
mây trắng. Toàn yêu chị từ lúc đó, chị biết không ?

Chị biết không ? Toàn úp mặt vào tóc tôi thì thầm,
sống mũi Toàn cọ đùa vào chân tóc. Những lúc ấy
hai chúng tôi trở về với quá khứ, sống mũi Toàn hãy
còn nguyên vẹn hình hài, chưa gẫy nát, tôi hãy còn
mái tóc thề con gái chưa tủi nhục. Toàn còn kể nhiều
kỷ niệm khác, làm như đôi mắt mù lòa không trông
thấy được hiện tại và tương lai của Toàn khi chỉ còn
thấy những hình ảnh xưa cũ lúc trước.

-      Chị nhớ bắt đầu trang điểm lúc nào không ? Buổi
tối sinh nhật anh Thuấn, chị Niệm đem phấn tới đánh
cho chị. Toàn núp ngoài cửa buồng lén nhìn vào chắc
chị không biết ? Tối đó ba nhốt chị trong buồng cấm
không cho đi, chị khóc suốt đêm làm Toàn cũng khóc
theo, chị nhớ không ?

Chị nhớ không ? Tôi nhớ. Nhớ Toàn luôn lẽo đẽo
theo sau vòi vĩnh, nhớ Toàn đeo lấy mình từng bước,
không rời, không chịu ngủ giường riêng, giận hờn mỗi
khi Thuấn đến đón đi chơi.

-      Chị còn yêu anh Thuấn phải không ?

Toàn thường hỏi tôi câu đó đầy ghen tuông, hờn mát.

-      Anh Thuấn hôn chị rồi phải không ? Nó đã làm gì


chị ?

Nếu tôi gật đầu thì Toàn trở nên hung dữ, ân ái mạnh
bạo, lấy móng tay cào sướt lưng tôi như để trả thù, để
rồi sau đó khóc lóc xin lỗi. Nếu tôi lắc đầu quả quyết
Thuấn chỉ là bạn, Toàn có vẻ bằng lòng, không muốn
tôi thuộc về ai khác.

-      Chị hứa đi, đừng lấy ai khác ngoài Toàn, hứa đi.

-      Chị hứa.

Tôi hứa. Tôi biết mình không thể nào bỏ rơi Toàn,
không thể nào sống xa nó. Chúng tôi nằm áp người
vào nhau cho hơi nóng của cả hai trùm lên thân thể
trốn mùa đông bên ngoài dầy đặc cơn mưa tuyết.
Những hạt tuyết rơi lất phất chạm vào mặt kính, đọng
rồi tan, tan rồi đọng. Suốt mùa đông, tôi và Toàn
giam kín trong nhà không đi đâu, xa lánh mọi người.
Tôi sợ người ta khám phá cuộc tình của mình, tôi sợ
tôi bỏ nó ra đi. Chúng tôi có thể ngủ vùi hàng giờ
trong chăn ấm bên nhau. Giữa những cơn ân ái, khi
trao thân cho Toàn, hai chữ loạn luân thường lởn vởn
hiện trên trần nhà. Tôi rúc mặt vào ngực Toàn để
không phải nhìn cái chữ loạn luân vô hình, nhưng rắn
rỏi đậm nét viết thật rõ ràng ở trần buồng. Băng vải
đen bịt quanh mắt là phương cách tốt nhất để tôi
không thấy nó. Có khi cuối tuần, suốt ngày tôi giữ
nguyên giải băng đen quanh mắt chia sẻ thế giới
không ánh sáng của Toàn. Chúng tôi chơi trốn tìm
nhau trong nhà. Núp sau cánh cửa, trốn trong tủ
quần áo, nín thở,... Toàn dạy tôi học những bài học
vỡ lòng của người mù. Làm thế nào để di chuyển
trong bóng tối ? Từ phòng khách xuống bếp mất bao
nhiêu bước chân ? Từ bàn ăn đến đài truyền hình
cách mấy sải tay ? Làm thế nào để biết thức ăn vừa
chín tới ?

-      Thì nếm thử !

Toàn cười ròn tan khi tôi hỏi nó điều đó.

-      Chị muốn canh giờ giấc để biết ngày hay đêm thì
phải tập kiểm soát cơn đói và sự bài tiết của cơ thể.

-      Nhưng làm sao mặc đúng kiểu áo mình muốn ?

-      Phải tập rờ nắn sợi vải, tẩm vào mỗi kiểu quần áo
một mùi nước hoa riêng...
Dần dà tôi bước vào thế giới bóng tối của Toàn một
cách lý thú. Mỗi khi tôi vấp ngã, Toàn cười thành
tiếng. Mỗi khi Toàn lấy lộn bột mì với bột bắp tôi cười
chế nhạo. Những niềm tin vui nhỏ bé mà chỉ từ khi trở
thành vợ chồng, tôi mới biết cảm thông chia sẻ với
Toàn.

Chưa có bao giờ tôi hạnh phúc như vậy. Hạnh phúc
được làm một người đàn bà bình thường, có cuộc
sống lứa đôi, thứ hạnh phúc mà tôi tưởng đã mất từ
sau tai nạn. Toàn đã chịu khó đến trường mù, chịu
khó lãnh hàng từ trường tật nguyền về ráp nối ở nhà
kiếm thêm tiền phụ tôi. Những đồng tiền rẻ mạt
nhưng lại là niềm vui của chúng tôi. Toàn vui vì thấy
hữu ích.  Tôi vui vì Toàn đã bớt bất bình thường,
chăm chỉ tập luyện vĩ cầm, gắng sức học tiếng Pháp
với mặt chữ nổi. Toàn bỏ hút thuốc lá, bỏ uống rượu.
Tôi cảm động vì thấy Toàn cố gắng trở thành một
người chồng gương mẫu. Nhiều lúc Toàn ngượng
ngập một cách trẻ con, cố ý phát âm chữ “Chị” thành
“Chi”.

-      Chi còn yêu Toàn không ?

-      Còn, với một điều kiện phải gọi bằng chị.

-      Sao không cho Toàn gọi bằng tên ?

-      Chị yêu Toàn, và muốn được mãi mãi làm chị của
Toàn, Toàn hiểu không ?
Toàn gật đầu, yên lặng để cho tôi vuốt ve những sợi
tóc lòa xòa trước trán. Cũng có những buổi tối, sáng
trăng, tôi và Toàn đi dạo bên ngoài. Mỗi khi ra đường,
tôi luôn cố gắng ăn vận, trang điểm sao cho Toàn
biết rằng tôi làm đẹp vì Toàn, để Toàn được hãnh
diện đi bên tôi. Toàn rất nhạy cảm, đứng chờ tôi thay
quần áo, rồi với vẻ trịnh trọng khen tôi đẹp với dáng
vẻ say mê ngắm nghía. Những lúc ấy Toàn thật tội
nghiệp, khi đưa ngón tay mơn qua môi tôi để đoán
màu son, khi rờ nắn lớp vải để đoán kiểu áo.

-      Ðêm nay chị đẹp lắm, Toàn rất hài lòng.

Tôi muốn khóc khi đó, nhưng đè nén được cảm xúc,
giữ cho buổi tối được trọn vẹn, thắt lại cà vạt cho
Toàn, rồi hai chúng tôi bát phố. Thường thường Toàn
nắm tay tôi cho vào túi áo dạ của Toàn, chúng tôi
chọn những con đường thật vắng, ít người qua lại, để
Toàn không phải nghe những lời xầm xì hay tiếng kêu
sợ hãi của các đứa bé đi ngang. Chúng tôi có một
quán ăn quen, gần nhà, tôi và Toàn chỉ dám đi ăn tối
thứ hai là tối thưa khách nhất. Người chủ quán dành
cho chúng tôi một bàn ăn khuất trong góc, có cắm
đèn cầy và một bông hồng.

-      Chị đừng kêu những món đắt tiền, Toàn chỉ muốn
ngồi đây với chị, thức ăn không quan trọng đâu.

Tôi và Toàn dùng bữa dưới ánh bạch lạp êm đềm, có


nụ hồng nở dịu dàng và những chăm sóc ân cần của
người chủ quán già.

-      Ông bà dùng bữa có ngon miệng ?

-      Vâng, tốt lắm.

Toàn mạnh dạn trả lời thay tôi. Nét mặt rạng rỡ, sung
sướng. Suốt bữa ăn đôi chân chúng tôi quấn lấy
nhau, không rời.

Rồi mùa đông đi qua trong tình yêu lén lút của hai
chúng tôi. Mùa xuân đến làm nẩy chồi những nụ non
trên thân cây lật trước đường. Những cành khẳng khiu
tỏa vươn như đôi tay thiếu nữ kết vòng hoa trái. Từng
đọt xanh nhú mình tìm sự sống. Tôi đã tưởng, trong
nắng sáng dờn dợn, cuộc sống mình tái sinh cùng với
thiên nhiên huyền nhiệm đó. Nhưng nào ngờ đột biến
vùng thức dậy khi Toàn đòi hỏi tôi một đứa con.

Toàn nói nó chỉ tìm được cuộc sống bình thường nếu
được chung sống với tôi như đôi vợ chồng đàng
hoàng, sinh con đẻ cái ...

Tôi sợ hãi từ chối. ý tưởng có một đứa con với Toàn


như mũi kim khều phọt giọt máu tội lỗi. Nó chọc
thủng tấm màn đen đui mù mà tôi che dấu sự loạn
luân. Những đứa trẻ kết tinh từ huyết thống loạn luân
ít khi bình thường. Tôi nói với Tòan làm sao ăn nói với
gia đình, với bố mẹ, với họ hàng ? Không lẽ sống cô
lập, trốn tránh gia tộc suốt đời ? Tôi sợ. Run rẩy khi
nghe Toàn thì thầm muốn có một đứa bé.

-      Ðừng ! Ðừng nghĩ  đến chuyện đó, chị sợ lắm !

Tôi hốt hoảng, giọng Toàn rên rỉ khẩn nài, vòng tay
ôm mạnh chắc, những ghì xiết ôm tròn xót xa.

-      Cho Toàn một đứa bé, một đứa, một đứa thôi. Nó
sẽ gọi mình là ba mẹ. Mình sẽ cho nó thật nhiều tình
thương.

Toàn van lơn mỗi đêm, thúc hối, ám ảnh, quên mất
khía cạnh loạn luân của tình yêu cả hai. Tôi đã phá
bỏ lý trí để yêu Toàn, nhưng không đủ can đảm tạo
hình ra tội lỗi. Rồi làm sao giải thích cho đứa con vế
mối quan hệ bố mẹ nó ?

-      Không ! Chị không muốn ! Mình không phải là vợ


chồng, hiểu cho chị, cho chị... Tôi khóc khi Toàn hôn
vùi vào cổ.

-      Nhưng Toàn muốn ! Toàn muốn !

Toàn hất đầu, hất đầu, những cái hất đầu ích kỷ,
những giọt nước mắt của tôi mặn đắng và không lối
thoát.

-      Thương giùm chị, giùm chị ...


Nhưng Toàn không hiểu, không xem đó là lời năn nỉ
của người chị đã đến ranh giới chót của tình thương
em. Toàn cho đó là sự chống đối. Bắt đầu từ hôm đó
Toàn thay đổi, trở về trạng thái lầm lì, hung bạo trước
đây. Toàn biến dạng, từ từ, chậm chạp, đến dần cực
điểm của hung dữ, đàn áp, sai khiến. Toàn cấm tôi
uống thuốc ngừa thai, lục lọi khám phá từng chỗ dấu
thuốc với một ý nghĩ duy nhất là bắt tôi có con. Ban
đêm tôi không dám ngủ chung với Toàn. Ban ngày
vùi đầu vào máy truyền hình để tránh trò chuyện. Tôi
sống trong sự kháng cự, bị rình mò, chờ đợi sự tấn
công.

Hôm đó, tôi ngồi trước máy truyền hình xem một cuốn
phim quay lại. Những hình ảnh thoáng qua, rời rạc,
hiện lên, biến mất. Tiếng vĩ cầm của Toàn đã từ lâu
vọng lên trở lại cái điệp khúc chùng nhão, vô hồn, vô
tính. Tiếng đàn cuốn từng vòng dây thép gai, xoáy
từng chốt đinh ba chấu trong đầu tôi. Thứ âm thanh
sắc nhọn, thủy tinh, cứa vào từng thớ thịt trong lúc
trên màn ảnh là một chuyện phim đầy biến động. Tôi
chỉ nhớ cuốn phim có cái tên lạ là Pháo Thuyền Trên
Dòng Yăng-Tsé, có Steve Mc Queen đóng. Chuyện
một người thủy thủ phục vụ trên một chiến thuyền
Hoa Kỳ nối liền Hàn Châu và Hán Khẩu. Có những
xáo trộn tâm tính con người thật dữ dội. Có những
phản ứng bản năng bất thường. Tôi chỉ nhớ chừng ấy,
còn bao nhiêu hình ảnh khác không phải là của cuốn
phim mà là cảnh một bào thai đẻ non đương sinh nở
trong lòng người mẹ. Trên màn ảnh tôi thấy một bọc
nước vỡ, một cuống nhau lòng thòng, những mũi
thuốc giục, những cơn rặn tím bầm thân thể, những
tia máu phọt ra theo từng cái quẫy mình. Những tia
máu cứ bắn ra, cái đầu hài nhi thậm thụt trồi ra thụt
vào. Một kềm gắp, một máy hút, một da con toang
hoác ! Và ở giữa cái dạ con toang hoác đỏ lòm đó là
cái đầu hài nhi mang khuôn mặt của Steve Mc
Queen bậm môi trợn mắt khúc cuối đoạn phim bị bắn
té ngồi lảo đảo gượng dậy bò bơi trườn lềnh bềnh
trong túi nước. Ánh mắt người lính thủy lạc đi, thất
thần khi thấy ở bụng mình một lỗ thủng máu huyết cứ
trào ra, trào ra. Tôi nghe được câu nói của người lính
sắp chết : mais bon sang! Qu’est ce qui m’est arrivé?
J’étais encore chez moi hier! Ðứa trẻ vùng vẫy. Mười
ngón tay cào cấu. Mười ngón chân giẫy đạp. Bụng
người mẹ rách bươm và tiếng đàn của Toàn cuồng
loạn liên tục một điệu chà xát mải miết trên dây thần
kinh tôi căng cứng. Ðầu tôi rối chằng với những hình
ảnh xếp chồng trong thứ âm thanh ép chặt. Tôi không
hiểu nổi câu nói sau cùng của người lính thủy bị bắn
trên màn ảnh. Tôi muốn hiểu và muốn trông thấy
khuôn mặt thật của hài nhi nhưng tiếng đàn đã đổ ào
đứt ngang. Không còn là tiếng đàn nhưng là ly bể
chai vỡ, cửa đóng máu ngừng, tim thôi đập phổi trút
hơi và dạ con khép chặt. Tòa đến đứng sau lưng im
lìm.

-      Cho Toàn một đứa bé.

-      Không! Chị không thể!

Toàn không nghe tôi nói, hươi chiếc lưỡi lam xanh
biếc ngời chiếu lên sát mặt tôi. Rồi Toàn vụt cắt
mạnh dây đàn đứt phựt. Một. Toàn gầm gừ rồi hươi
tiếp lưỡi lam lên cao trở lại, vung lên múa xuống.
Toàn hoa ánh lam xanh ngời như  khi múa làn vải 
đen chấp chới chập chờn rờn rợn. Hình ảnh cái xác
rắn chết thõng thượt hôm nào sống dậy, ngoằn
ngoèo trườn trườn quấn lấy yết hầu tôi lúc Toàn kề
lưỡi lam vào cổ tôi gạch nhẹ. Máu chảy ứa ra bỏng
xót. Tôi căng người sợ hãi, hai tay chới với tìm sự
chống đỡ.

-      Ðừng!

-      Chị đâu yêu Toàn ?

-      Chị thương Toàn.

-      Không đúng! Thương sao không muốn có con với


Toàn!

Toàn hét lên và cắt đứt thêm một sợi dây đàn. Hai rồi.

-      Không! Ðừng ép chị!

Tôi đẩy Toàn, xô hất bỏ chạy. Toàn rượt theo, tủ sách


bàn ăn ghế đẩu đâm sầm vào người tôi ngã xấp té
ngữa. Tôi đứng lên, té ngã, chậu cây níu chân, cửa
buồng chắn lối, hành lang dài thẳm. Phòng tắm,
phòng tắm, chốt khóa, tên bố, tên mẹ, tôi thét gọi với
tiếng động của Toàn đập phá.

-      Trời ơi! Tha cho chị!

Toàn không nghe, phá cửa, chụp lấy tôi xé áo.

-      Ðừng! Buông chị!

Tôi ngã xuống sàn gạch. Toàn ngã đè lên người.


Thằng này tật nguyền, lúc điên lúc tỉnh, phải chị sợ
vậy không? Phải chị sợ vậy không? Nói! Toàn tát tôi,
lột áo, hai bàn tay mạnh bạo, mười ngón tay hung dữ
bẻ quặt tay tôi, bắp đùi đè ngang chân, hơi thở, tiếng
la, men gạch lát tường, đèn trần, khăn tắm, thân thể
trần truồng, nhễ nhại, bả vai, bắp thịt, sức lực, môi
cắn, tay cào, móng nhọn, mũi, mắt, ngấn sẹo, tinh
trùng, bào thai, đứa bé, tôi hét gọi mẹ bị Toàn bịt
miệng.

-      Nói yêu Toàn! Nói muốn có con với Toàn! Nói! Nói!

Toàn hãm tôi tàn bạo trên mặt đất. Nói thèm muốn
da thịt tôi thơm mát, thèm ngực tôi tròn trịa, đùi tôi
tươi trắng, con chúng tôi kháu khỉnh. Toàn nói, nói
thật nhiều không ngừng trong lúc tôi giẫy giụa la khóc
thét kêu van nài đau đớn.

Tôi nắm trần truồng trên đất. Phòng tắm tan hoang.
Thần kinh xơ xác. Tôi nghĩ đến một điều gì đó mà
không nghĩ ra. Một vài giọt máu dập ở môi trong mằn
mặn. Từ đâu cuốn phim lúc nãy quay lại, chậm chạp
mà rõ ràng. Tôi nằm đó xem lại cuộn phim trong trí
nhớ. Cảnh người lính thủy xung đột với thủy thủ đoàn,
ý niệm danh dự giằng co trong đầu viên thuyền
trưởng. Những người Trung hoa quá khích. Những
pha bạo động. Người phụ máy bị tra tấn. Người nữ
truyền giáo thơ ngây. Viên đạn bắn vào bụng Steve
Mc Queen trổ ra sau lưng, câu nói bừng tỉnh trước khi
chết. Câu nói? Người thủy thủ nói điều gì tôi không
hiểu ? Giống xem phim câm không có tiếng...

Lâu lắm lúc tôi gượng dậy trời vẫn sáng tỏ. Toàn
đang ngồi khóc ở bàn ăn. Tiếng khóc thút thít hiền
lành. Tiếng khóc của Toàn thời thơ ấu. Cánh cửa sổ
mở rộng, không có chút nắng nào. Tôi nhìn bầu trời,
màu trời đục lờ lợ. Ðột nhiên tôi nhớ lại tất cả, nhớ
từng chi tiết thật kỹ càng. Nhớ từ lúc đặt chân xuống
thuyền vượt biên gặp hải tặc cho đến lúc Toàn hãm
tôi mới đây. Nhớ cả câu nói của người lính thủy bị
bắn. Nhưng mà... Trời ơi! Chuyện gì đã xảy ra?
Chúng tôi còn ở Vũng Tàu hôm qua kia mà!  Tôi gục
xuống, Toàn quay lại mặt đầy thẹo. Vết thẹo. Trời ơi,
buổi sáng.

1991
 

© Copyright Trần Vũ

 
 

Ký:Hiệp Hội Tương Tế Bắc Việt Nghĩa


Trang
Tôi mang gương mặt của đứa trẻ trong hình bước
chân vào Bắc Việt nghĩa trang lần cuối buổi sáng
tháng 5. Buổi sáng K vươn cánh tay khẳng khiu múa
máy trong không khí. Tôi đếm một, hai, ba, như tôi
vẫn hay đếm trước những ngôi mả xanh mướt ánh
mắt người chết. Hành lang sáng. Thứ ánh điện trắng
lạnh lẽo. Tôi đếm một, hai, ba, như tôi luôn tránh
những ánh mắt người chết đăm chiêu, có khi trong
vắt dưới mưa, như thể tròng trắng hãy còn sống long
lanh giận dữ. Tôi mang gương mặt đứa trẻ đến chào
dòng họ lần cuối. Buổi sáng có mưa, nắng rải rác, thứ
mưa nắng thất thường nhiệt đới. K đạp xe phía trước,
anh chưa hoá quỷ. Hai anh em gởi xe trước cổng. Bà
cụ bán nhang vẫn chít khăn nhiễu, hàm răng đen, mà
mỗi lần trông thấy tôi vẫn cảm giác kỳ lạ.

-      Bác mua hộ nhà cháu bó nhang.

-      Sao bà già vậy mà xưng cháu hở Thầy?

Tôi ngước hỏi. Thầy luôn nghiêm khắc, trong trí não
tôi không sao có thể gọi bằng Bố, dù suốt quảng thời
niên thiếu tôi không hề gọi bằng Thầy. Có một phiến
kính vô hình ngăn trở giữa tôi với Bố Mẹ. Mỗi tháng,
tôi theo Bà vào nghĩa trang, gió vồng lên hai vạt áo
dài của Bà phất bay phía trước. Tôi luôn dụi mặt vào
ngấn cổ chị ở thiêm thiếp giấc ngủ chập chờn giữa
những ngôi mả. Ðôi lúc tôi lẫm chẫm bước theo Thầy,
vẫn giữa hai hàng mả quen thuộc với những đôi mắt
không bao giờ khép.

Buổi sáng bước chân lên trung học đệ nhất cấp, Thầy
dẫn tôi vào nghĩa trang cúng bái. Tôi bắt đầu trông rõ
xã hội vây quanh mình. Xã hội nhỏ bé, giới hạn từ
ngôi nhà mặt tiền trên đại lộ Hai Bà Trưng đến trường
Taberd có chiếc cổng sắt sơn xanh to lớn, nặng nề,
đóng sầm ở mỗi tiếng kẻng và bóng các sư huynh
thước tha trong tấm áo dòng che dấu ác độc. Xa hơn
nữa, làng Ðại Học Thủ Ðức, nơi Bà cho chúng tôi về
tắm piscine mỗi cuối tuần, trong villa gia đình lặng lẽ.

Ngôi biệt thự ở số 221 đường Yersin làng Ðại Học


Thủ Ðức cũng im vắng như nghĩa trang, không bóng
người ở. Chỉ chú Lễ mở cổng và tiếng sỏi rạo rạo dưới
bánh xe. Bao giờ bà cũng cho chúng tôi tắm hồ bơi
hai tiếng rồi chú Lễ đánh xe về. Hai tiếng, bằng
khoảng thời gian tôi với K ở nghĩa trang. Bà cụ chậm
chạp rỡ lớp ny lông với mấy ngón tay héo úa, tôi còn
nhớ như in ngón cái bẻ quặp vào trong khó khăn lôi
mấy bó nhang đã bạc thếch. Lần nào Thầy cũng
mua, dù ở nhà Bà đã dặn đem theo nhang thắp. Tôi
biết Thầy mua giúp. Tôi chỉ không hiểu vì sao bà cụ
già lắm, nhăn nheo, khô khốc, chiếc khăn nhiễu
không che hết quắt queo đã xưng Cháu với Bác.
Thầy bằng tuổi tôi bây giờ. Thầy cũng chết trẻ, như
tất cả đàn ông trong họ chết trẻ, nhà này chỉ có phụ
nữ sống lâu, Bà bảo vậy.

-      Người Bắc những nhà nghèo xưng thế.

Thầy đưa tiền cho bà cụ, giải thích. Người Bắc?  Tôi


hay nghe thấy hai chữ này, suốt thời niên
thiếu. Người Bắc?  Thứ người tôi vẫn chưa sao phân
biệt giữa những khuôn mặt khách thăm viếng lễ Tết,
chỉ trông thấy rõ rệt họ nằm đây, trong nghĩa trang
này.

-      Con là người gì?

-      Con là người Bắc di cư.

Thầy trả lời. Tôi hiểu, tôi thuộc về thế giới của người
chết, đang nằm đây, và chỗ của tôi bên cạnh họ.
Ngôi chùa có mái tỏa cánh sen, rộng lớn. Thầy luôn
lễ ở chùa, rồi ra miễu Thổ Thần, Thành Hoàng. Mùi
nhang khói in đậm suốt tuổi thơ, phả hắt ở bậc tam
cấp. Thứ hơi u uất, mà chỉ ngửi, tôi biết ngay mùi của
người chết. Khu đất mênh mông, mộ lập san sát
trùng điệp kín mít. Tôi đã nghĩ, tất cả người Bắc chôn
ở đây. Suốt tuổi hoa niên, nắng phủ trùm lên những
dẫy bia không chấm dứt.

-      Phú Thọ, Nam Ðịnh ở đâu Thầy?

Tôi chạm tay lên vách đá. Những chữ khắc trên văn
bia ghi những địa danh xa lạ, cũng đầy xa lạ như tấm
bình phong cẩn xà cừ thô nhám. Tôi chưa bao giờ
trông thấy những kiến trúc nhà ở thu hẹp hiu hắt đến
vậy. Rõ ràng là một ngôi nhà, có cổng uốn, rào sắt,
tường vây, một hồ nước với sân bái đường lung linh
nắng. Dăm gốc hoa dâm bụt, một rặng giấy buông
lay lắt, rõ ràng một cảnh đời tiếp tục trong chờ đợi.

Tôi đọc mấy chữ Chánh quán Phủ Nho Quan, sinh
quán Móng Cái, Quảng Ninh hưởng dương, thất lộc...
không hiểu, những nơi chốn tôi chưa hề nghe thấy.

-      Phú Thọ là chỗ ông nội mở hiệu thuốc Bắc, Nam


Ðịnh ông chú có hiệu bánh ở đấy.

Thầy kiên nhẫn giảng giải. Tôi khám phá đất Bắc trên
bia mả.

-      Bác mua hộ nhà cháu bó nhang.

Bà cụ chít khăn chữ nhất, răng đen suốt, mời. Vẫn bà


cụ tháng trước, năm trước, mười năm trước. Vẫn túi
xách phủ ny lông, luôn ở đó từ khi tôi biết đến chỗ
chôn người Bắc. K mua bó nhang. Cử chỉ K y hệt
Thầy, từ cách móc ví, trả tiền, nhận tiền thối, đến lời
cảm ơn, cũng là lời cảm ơn Thầy dạy chúng tôi cách
cư xử với người lớn. Bà cụ rỡ ny lông rồi bao lại dưới
mưa, không khác. Thầy đã vào nằm trong nghĩa trang
bốn năm trước. Ngày đưa ma, tôi nhớ bà cụ ngồi đó,
sao bà cụ không nhớù? Buổi sáng tháng 5, mưa lất
phất, Sàigòn vừa thất thủ 13 ngày, đám ma không
kèn trống, tôi lếch thếch đi sau áo quan Thầy, K ôm
ảnh, tôi cầm bát nhang, hương khói ràn rụa. Cô Lìn
khóc hết nước mắt. Cô Cắm, cô Sìn ngất xỉu, chú Hổi,
chú Ốn, chú Hênh tất tả, anh cả mất rồi. Tôi không
khóc, tôi quay nhìn bà cụ vẫn ngồi ở đó. Bà không đi
đưa. Theo tục lệ người Bắc, chồng chết vợ không đưa
ma, Bà bảo vậy. Tôi không khóc, tôi được 12 tuổi, gió
phất tấm khăn sô tôi đội đầu tiên trong đời. Ðám tang
Ông, tôi 4 tuổi, Bà dấu tôi trong bệnh viện bác sĩ
Nguyễn Duy Tài ở đường Duy Tân, sợ tôi ám ảnh cái
chết. Ðám tang chị Zính tôi chưa sinh ra, tôi đưa ma
lần đầu với cái chết của Thầy ngày miền Nam sụp
đổ. Tất cả gia đình tôi chôn ở đây. Tôi muốn hỏi bà cụ
có biết? nhưng K đã kéo đi.

Buổi sáng. Bàn tay K lạnh. K nắm tay tôi qua những
ngôi đất. Cũng như lần chót tôi nắm tay anh. Không.
Ðúng hơn anh nắm tay tôi, lạnh cứng. Tôi thở ra khói,
những tấm rèm rũ, tôi cúi xuống để không trông thấy
mặt K. Tôi đếm một, hai, ba, ước ao có ai đó ở bên
cạnh, có ai đó đứng cười ở cửa, có ai đó đốt hộ điếu
thuốc, và có Bà để tôi ngã vào lòng khóc oà.

-      Con phải thuộc lối đi để sau này vào thăm gia tộc.

Thầy vừa đốt vàng mã, vừa dặn. K thưa vâng. Bao
giờ K cũng có hiếu, nghe lời. K không giống tôi, luôn
thắc mắc. Buổi sáng nắng trì chiết khói nhang, thứ
nắng nặng nề, phải sau này tôi mới hiểu, chỉ có ở Việt
Nam. Hai anh em bước qua dẫy mả. K không kiếm ra
lô đất, tôi phải hướng dẫn. Tôi không thuộc lối, nhưng
thuộc những mặt người. Những ông lão trai tơ, những
cụ bà vợ hiền lập mộ, đến đó phải quẹo. Trịnh Thu
Thủy, có đôi mắt sáng, môi tươi, nằm ở đầu lối rẽ vào
mả chị. Buổi sáng K phát cỏ, tôi bắt đầu khám phá
những người khác phái có sức thu hút kỳ lạ, ngay cả
sau khi chết. K quét mả. Tôi rỡ mấy bánh oản, giấy
bóng kính xanh đỏ. Chị Zính mất năm 7 tuổi, tôi chưa
biết mặt. Bà nói chị rất thiêng. K van vái xin chị phù
hộ cho chuyến đi sắp tới. Tôi chưa hiểu tính cách
trầm trọng của cuộc ra đi, chỉ biết mình sẽ không bao
giờ được chôn trong Bắc Việt nghĩa trang. Hôm đó, tôi
đã hỏi K, vì sao gia đình mình người Tàu nhưng chôn
trong nghĩa trang Bắc Việt? K không biết tại sao, chỉ
trả lời có lẽ do thói quen, không thiếu một ai, từ đời
ông cho đến đời chị, cả Bà còn sống nhưng cũng đã
mua sẵn cho mình một kim tĩnh bên cạnh chỗ Thầy.
Chỉ thiếu có tôi và K, những đứa cháu đích tôn của
một giòng họ chỉ mới lưu lạc từ Trung Hoa sang Việt
Nam chưa quá một trăm năm. Một giòng họ Quảng
Ðông đã chọn nghĩa trang của người Bắc làm nơi an
nghỉ.

Tôi mang gương mặt của đứa trẻ trong hình 15 năm
sau trở về. K vươn cánh tay lên múa máy. Ðôi tay anh
khẳng khiu như cánh tay vũ công ballet chấp chới, cố
nắm níu sự sống thay cho đôi chân đã bất động. K
đang hoá quỷ. Tôi sợ hãi đếm một, hai, ba, mong cho
hành lang không chấm dứt. Tôi đếm một, hai, ba, sợ
hãi hành lang hun hút, muốn tất cả biến đi, đừng bao
giờ hiện diện. Hơi nóng dồn lên ở cửa. Tấm kiếng mở
ra hắt dội tiếng động vỡ bùng. Âm thanh hỗn
loạn. Tiếng la hét. Chưa bao giờ tôi rơi vào chuỗi âm
thanh hỗn độn đến vậy. Thứ âm thanh của những
ngày cô nhi viện đứng trên nóc chuông nhà nguyện
trông xuống cánh đồng mênh mông vàng cháy, im
phắt, tựa một bức tranh tĩnh vật vô hồn, vô cảm, tôi
đã thèm quay quắt nhớ rã rời tiếng súng AK trong
đêm tối, tiếng M-16 bắn trả, và tiếng xích sắt của thiết
vận xa M-113 quần nát mặt đường. Tôi mặc áo mới,
buổi chiều mùng 2 Tết, ống tay là thẳng như tuổi thơ
ngăn nắp. Tôi đứng trên sân thượng đếm tiền lì xì,
phong bao đỏ phẩm, tôi trốn K, sợ K biết tôi nhiều
tiền hơn. Tôi bất chợt trông thấy lính Mỹ ở building đối
diện đặt súng đại liên bắn xối xả xuống lòng đường
chỗ hiệu phở Bình góc Yên Ðỗ, nơi đặc công Bắc Việt
xuất phát. Những đường đạn reo kinh dị. Súng nổ inh
tai như pháo sáng mùng một hãy còn đỏ thắm trước
cửa nhà. Tôi say mê tiếng súng như đã mê đốt pháo,
cùng lúc sợ hãi, bưng lấy tai, Bà hét gọi chị Ni bế tôi
xuống. Chị Ni chạy quýnh quáng. Tôi quắp lấy chị ở
như vẫn hay quắp lấy chị những sáng tảo mộ trốn
những gương mặt người chết. Thầy không cho vặn
đèn, ngôi nhà bốn tầng tối om. Tôi vít lấy Bà, cố đoán
trên gương mặt Thầy những âu lo từng chập theo
tiếng súng an nguy râm ran, thắp thỏm rồi đứt quãng
dưới chân cầu thang nơi cả nhà túm tụm đầy sợ hãi.
Khi có tiếng trực thăng phần phật muốn thổi bay mái,
gương mặt Thầy rạng rỡ, Phía mình thắng rồi, Thầy
nói trong hơi thở. Tôi ngửng lên trông thấy hân hoan
trong mắt Thầy. Tôi ngửng lên trông thấy chiến thắng
trong phim Cao Bồi. Tôi thiếp vào giấc ngủ khi Thuỷ
Quân Lục Chiến dọn dẹp khu phố. Tôi thiếp vào giấc
ngủ với ý nghĩ Phía Thầy thắng rồi, với giấc mơ trẻ
thơ, tôi làm kỵ binh áo xanh bắn rụng từng tên mọi da
đỏ dưới chân cầu Kiệu.

K bơi trong vũng nước đen. Cánh tay anh vốc lên rồi
thả xuống, chậm rãi, đều đặn. Tôi bơi theo K trong
giấc ngủ. Mặt nước loáng loáng trong suốt. Tôi trông
rõ cả thân anh đang hoá quỷ. Da thịt đen xạm và tóc
rụng trắng. Nước lùa những lọn tóc trắng trôi nhấp
nhô, giữa đầm lạnh toát. Tôi gạt tóc, bơi trong nước
đen sẫm. K bơi phía trước. Hai vách đá hai bên thẳng
đứng, những mỏm đá nhọn hoắc, chúng tôi bơi ra cửa
biển. Tất cả xám tuyệt vọng, tựa những fjord Phần
Lan buổi tối băng giá. Nước lạnh buốt. Tôi cất tiếng
gọi, nhưng anh vẫn bơi mãi miết, về phía trước, hũng
đen thăm thẳm cứ mỗi lúc một lớn dần trôi hút cả hai
anh em về một phía. Tôi nhận ra cõi chết. Tôi muốn
đuối, nước vỗ mang tai hắt dội tiếng đập của lồng
ngực. Hai chân tôi tê cóng, tựa liệt, tôi cảm giác bị
liệt, cảm giác rõ rệt sự chối từ của thân xác, nước tiếp
tục chảy xiết đẩy K xa dần. Tôi mơ giấc mơ đó nhiều
lần, giữa đêm, khi về sáng, trên cả chuyến bay trở về.

Cánh cổng mở ra. Nắng hực lên lưỡi kiếm cắt đứt đôi
người mà tôi không kịp nhận biết. Nắng phừng lửa
như lúc Thầy hắt rượu tống đạt vàng mã.

-      Quê con ở đâu Thầy?

Tôi hỏi, say mê ánh lửa xanh phả phất mùi rượu đế.
Lửa cuốn lên tro của mỗi mùa tựu trường tôi luôn
ngạc nhiên nghe đám bạn kể chuyện về quê. Ðứa về
Cần Thơ, đứa xuống Sóc Trăng, đứa đi Long Xuyên
hay ra Ðà Nẳng. Ông tao có cặp trâu trắng hết xẩy.
Bà tao nuôi ong lấy mật cho tao uống.  Tất cả hương
quê và ông bà dậy lên câu chuyện. Tôi không đi đâu
chỉ biết Sàigòn, xa lắm xuống Ô Cấp một hai tuần
tắm biển. Tôi không có quê hay đúng hơn quê tôi ở
trong nghĩa trang.

-      Quê nội con ở Vĩnh Phú, có sông Thao, quê ngoại


con ở Sơn Tây.

Thầy trả lời chậm rãi. Thầy hay kể về những danh


lam thắng cảnh miền Bắc mà tôi không bao giờ trông
thấy, không bao giờ có thể thăm viếng, nhiều lắm
chạm tay lên vách mả, mường tượng sau những chữ
khắc, trong đôi mắt người chết, một chút thôn quê,
những cánh đồng đất Bắc thổi lướt mưa phùn, những
bãi rươi tháng 5 ở Hải Phòng, khu Tam Ðảo mù
sương, mái chùa Hương chót vót hay mái chùa Thầy
tịch liêu, quê tôi thật sự ở trong Bắc Việt nghĩa trang.

Nắng loá mắt. Tôi đẩy xe khó khăn. Mọi người chen
lấn. Tôi nghe tiếng Bà gọi, thất thanh mà rất nhỏ,
chìm lẫn trong hỗn độn của phi trường. Nhưng tôi
nghe thấy, tiếng Bà tôi không sao quên, tôi nghe mỗi
đêm, từng đêm của cô nhi viện một mình tôi trăn trở
trong dortoir lạnh buốt hoang vắng.

-      Vũ, Mẹ đây. Anh đâu?


Bà ngồi bẹp ở hàng rào sắt cố lùa cánh tay xương
nắm níu. Cánh tay bà cũng khẳng khiu như cánh tay
K, muốn nắm lấy tay tôi lần nữa. Bà ngồi bẹp giữa
đám đông xô đẩy. Dáng Bà y dáng bà cụ bán nhang
ngồi trước cổng Bắc Việt Nghĩa Trang. Hàng rào sắt
ngăn cách như phiến kính vô hình suốt tuổi thơ đã
ngăn trở tôi với Bà. Bà quắt queo, nhăn nheo y bà cụ
nghĩa trang. Tôi gọi Mẹ. Cánh tay bà chới với. Phi
trường Tân Sơn Nhất như một chợ cá. Bà nắm lấy tay
tôi như K đã nắm lấy tay tôi lần chót.

-      Vũ, Mẹ đây. Anh đâu?

Giọng Bà khản, hốt hoảng. Tôi không kịp suy nghĩ.


Tôi không thể suy nghĩ. Nắng chói chan như nắng ở
nghĩa trang. Hơi nóng, hơi người lấn đẩy. Tôi vẫn
chưa ra khỏi hàng rào sắt. Tôi bực bỏ, tại sao tổ quốc
không xây nổi một nhà đợi cho những bà mẹ Việt
Nam đợi con đợi cháu, trong bóng râm, trên ghế
nệm? Tại sao tổ quốc bắt Bà ngồi bẹp trên lề đường
như ăn mày? Bà không ăn xin, Bà chỉ đợi tôi, mười
lăm năm. Sân bay khinh người. Sân bay chỉ biết tính
thuế phi trường.

-      Vũ, Vũ, chị đây.

-      Vũ, Vũ, cô đây.

Chị N khóc. Chị lếch thếch, quần áo xốc xếch, nhầu


nát. Tôi nhìn chị ngỡ ngàng. Chị hoa khôi Thiên
Phước, hoa khôi Les Lauriers, Marie Curie, nữ sinh
trường Ðầm, bế bé Nhí, mặc chiếc áo đầm cũ nát tôi
gởi về 10 năm trước. Cô Lìn xanh tái hơn ngày đưa
tiễn Thầy.

-      Chời ơi  máy bay đến trễ đợi em quá  chời,  tưởng
cháy rồi.

Anh T đỡ valise. Anh cao lớn đẹp trai trong trí nhớ,
nam sinh Marie Curie, gia đình Bắc di cư lấy chị 15
năm bằng thời gian tôi vượt biên, bây giờ anh mặc áo
công nhân lam lũ, nói giọng Nam, như một từ chối đất
Bắc. Tôi không hiểu. Nắng chói loà. Nắng gay gắt
như tuôn lửa. Bé Vinh khóc. Bố, con sợ.  Bé Vinh níu
tay tôi, như tôi đã nắm vít lấy Thầy buổi chiều Mậu
Thân đặc công tấn công building Mỹ. Bà khóc. Anh
đâu? Bà hỏi. Tôi muốn khóc. Tôi muốn nói anh đang
hoá quỷ, nhưng tôi không thể nói, bãi xe như ong vỡ,
tài lôi kéo, chụp giật, Việt kiều đi xe này bảo đảm, đời
mới, xe cá mập có máy lạnh, đồng hồ cây số, anh
tránh ra tôi có xe nhà, đừng nghe tụi nó anh thuê xe
rồi, coi chừng mất cắp, đứng gần cô, cháu Vinh đâu?
đứng gần mẹ, đếm đủ hành lý chưa, bao nhiêu
valise? Tôi rời phi trường lúc nào tôi không rõ. Gia
đình đẩy tôi lên xe. Tôi cố quay nhìn một lần nữa,
chưa bao giờ tôi được vào Tân Sơn Nhất, giấc mơ
của tuổi thơ. Tôi cố kiếm con đường nhỏ dẫn vào Bắc
Việt nghĩa trang bên hông, chỉ trông thấy tấm bảng
lớn Ga Ði Quốc Tế Tân Sơn Nhất. Tại sao tiếng Việt
lầm than đến mức này? Tại sao không viết Phi Cảng
Khởi Hành Quốc Tế Tân Sơn Nhất? Tất cả vỡ oàng
hỗn loạn, tất cả chồng chất, quá khứ, thực tại, âm
thanh của 15 năm trước trộn lẫn 15 năm sau, con
người 15 năm trước sống sót biến hoá 15 năm sau.
Bé Vinh im thin thít, lần đầu tiên trông thấy quê bố.
Tôi gắng hỏi khi xe qua Bộ Tổng Tham Mưu.

-      Ði đường Chi Lăng hở cô?

-      Không đường Trường Sơn cháu.

-      Sao không đi đường Trương Minh Giảng cho gần


cô?

-      Phía Lê Văn Sĩ kẹt xe lắm cháu.

Cô Lìn lấy chú Chúng sĩ quan hải quân hoa tiêu


VNCH nhưng cô đã quên hết. Tôi nhớ tất cả, nhà
thằng Ðỗ Hoàng Phượng răng khểnh trong lớp kêu
Miêu Khả Tú bán bàn ghế ở Võ Di Nguy, xe chạy
qua, tôi còn ngoái nhìn xem mẹ nó còn bắt ghế ngồi
ngoài cửa hay không. Hiệu bún bò Tân Thanh đặc
công núp ở đó bắn lên building Mỹ khiến ông Tân
Thanh bị cảnh sát Dã Chiến còng đi tình nghi che
dấu Việt Cộng. Tôi bước xuống xe cố tìm bà bán cóc
ổi, me chua, tầm ruột, tôi ăn quà mỗi chiều cắn xoài
ngâm đến ê răng, nhưng chỉ có cô gái nhỏ ngồi
nhoẻn miệng cười.

-      Bác có Việt kiều về thăm hả bác? Cô gái hỏi.

-      Việt kiều gì, con tôi đấy. Bà trả lời.

-      Chú Việt kiều biết ăn tầm ruột không?

Cô gái đon đả. Anh T đang khuân từng chiếc valise


xuống. Bà chào tổ trưởng, hàng xóm đứng bu quanh.
Tôi nhìn thúng trái cây, vẫn những quả me ngâm
đường hoá học thuở trước vàng lẳng nổi bập bềnh
trong thau nước, những rỗ tết đứt cọng, những lá
chuối tươi lót cóc ổi và đàn ruồi xanh bay toả dưới
nắng. Vạn vật không khác, từ lề đường xi-măng đứt
khúc, cao thấp, trồi sụt, cả tấm che nắng sơn trắng
của cảnh sát Cộng Hoà bây giờ xẩy lở ở cột đèn. Chỉ
có Dì Sáu không còn ở đó. Dì trôi lạc phương nào tới
tôi không biết. Tôi mở mắt chào đời Dì đã ở đó, trước
sạp cóc ổi. Những trưa nắng Dì dúi cho tôi những củ
ấu lúc đứng đợi ông xích lô chở đi học mẫu giáo.
Những chiều tiểu học ở trường Lasan về, tôi nhảy ùm
khỏi xe chú Lễ, Dì cho tôi miếng xoài ngâm chấm
ruốc cay chua mặn chát. Tôi khám phá trái cây miền
Nam trên sạp Dì Sáu. Không trái nào tôi không biết,
từ trái cerise ta bé tí, quả cà na nhọn, lát mãng cầu
xiêm, trái bòn bon, đến quả sim tím ngắt lưỡi.
-      Ngó chi dữ? Dì Sáu cười tươi, xoa đầu.

-      Hổm rày học tới đâu?

-      Onzième. Tôi trả lời hãnh diện.

-      Cái gì? Lớp mấy?

-      Onzième!

Tôi la. Thuở nhỏ tôi sớm khó chịu, tôi là hoàng tử, Bà
bảo vậy.

-      Ừ, ôn dèm. Ăn cóc không?

Tôi gật đầu. Dì cắm cho tôi quả cóc to nhất, xanh
mướt, khía xoè như những cửa sổ của ngôi nhà tí hon
có nắp. Không phải vì bán trước lề nhà Bà nên Dì cho
tôi ăn miễn phí. Tôi luôn thấy trong ánh mắt Dì những
trìu mến, mỗi khi Dì vuốt má, nắn tay, xem tôi mập
ốm.

-      Ðừng nói Bà nghe nhe, Bà la chết.

Dì dặn. Tôi vừa cắn quả cóc vừa gật đầu. Bà mà


khám phá tôi ăn quà vặt, sẽ la Dì chết, và thế nào Bà
cũng sai chị Ni ra trả tiền mấy quả me, quả cóc Dì
cho tôi. Con trai không ăn vặt, không ăn hàng ngoài
đường. Bà luôn nghiêm khắc.

-      Chú Việt kiều biết ăn tầm ruột không?


-      Việt kiều gì, con tôi đấy. Bà trả lời.

-      Con Lài con dì Sáu. Con ăn cóc không?

Bà hỏi. Tôi lắc đầu. Tôi không nhận ra nét nào của Dì
Sáu trên gương mặt cô gái, nhưng tôi nhận ra lề
đường chỗ tôi đang đứng. Giống cuốn album cũ ai vất
xuống mặt đất tung toé. Tôi nhận ra khúc xi-măng bể,
còn phản chiếu nỗi bàng hoàng của buổi sáng Bà
cho U Ðào về quê. U ở cho gia đình tôi lâu lắm, Thầy
nói từ đời Ông, năm U mười bốn. Tôi đã chào đời trên
cánh tay U ẵm bồng, đã ngủ trên cánh tay U thay cho
Bà bận bịu buôn bán. Mỗi khi tôi thức giấc, chiếc quạt
nan trên tay U phe phẩy gió. Mỗi khi tôi khóc U dỗ
dành, tôi không sao có thể hình dung có ngày U sẽ
biến đi, đột ngột, như một chiếc bóng. U giống một
thành viên trong gia đình, dù im lặng, không tiếng nói.
Tôi đi học, U mở cửa. Tôi về nhà, U đun nước tắm.
Tôi ăn sáng, U mua xôi. Tôi đói khuya, U đi mua hủ
tiếu. U tập cho tôi ăn sầu riêng dù Bà không ăn. U tập
cho tôi ăn mì Quảng dù nhà chỉ ăn món Bắc. U già
lắm, già hơn bà lão bán nhang trong nghĩa địa. U
chăm cho chị N, đến K, rồi đến tôi. U không bao giờ
nói chuyện, làm như cuộc đời U không có gì để kể.
Ðôi bận, tôi hỏi quê U ở đâu? U không biết. Tôi hỏi U
có chồng không? U cười.

-      U lấy chồng ai trông cậu.


-      Thế U không có nhà cửa cha mẹ chi hết?

Tôi thắc mắc. U lắc đầu.

-      Vậy quê U cũng ở trong nghĩa trang à?

-      Nói bậy. Cậu ngủ đi, thức mãi Bà thấy Bà la.

U quạt gió, lùa những ngón tay già nua vào trong áo
gãi trên lưng tôi đang hâm hấp cơn sốt vỡ da có
những hạt mụn li ti vừa nhú. Tôi thiu thiu giấc ngủ
mộng mị về một vùng đất nào đó xa xôi mà U đã
sống, đầy bí ẩn.

Về quê, trong tiếng Bắc, lúc nhỏ tôi đã sớm biết


mang nghĩa cho nghỉ việc. Tôi đã trông thấy thằng
Thành giúp việc, chị Hoa đầu bếp, chị Hương sổ
sách, cả chú Lễ tài xế, chị Ni Bà cho về quê. Về quê,
có nghĩa biến mất vĩnh viễn, không bao giờ hiện ra trở
lại. Sau 75, gia đình tôi sa sút, Thầy mất, cửa hiệu
xuất nhập cảng xe gắn máy bị đánh tư sản, villa Thủ
Ðức bị tịch biên, Bà lần lượt cho về quê tất cả, kể cả
chị Huệ Bà tin cẩn, chỉ trừ mình U. Cho đến một buổi
tối tôi nghe Bà nói với cô Cắm, nếu U chết trong nhà
không có tiền ma chay. Cô Cắm nói thấy U còn
mạnh. Bà lắc đầu trên 70 chết lúc nào không hay, U
về quê đỡ một miệng ăn. Sáng hôm sau U tất tả bị
gói ra xích lô máy đi ra bến xe nào đó đưa U về
Quảng Ngãi. Chị em tôi khóc. Tôi giận Bà nhưng
không dám hỏi, không dám nài nỉ, tôi biết nhà nghèo
lắm, cảnh nhà thê thảm ở từng mỗi bữa ăn chỉ còn mì
sợi và đậu đỏ. Buổi tối U còn gãi lưng tôi lần cuối, tôi
khóc rắm rức trên gối, U thức suốt đêm phơi quần áo
cho K, ủi nốt mấy chiếc sơ mi cho K ngày mai đi thi,
lau chùi bếp núc sạch sẽ, rửa hết nồi niêu soong
chậu cho chị kể từ mai phải thay U vào bếp. Suốt tối
tôi ngồi xem U xếp mấy bộ bà ba, vài chai lọ cho vào
bao, dọn dẹp mọi thứ, U làm nhanh như con gái, như
thể U chưa già, như thể U muốn trở ngược thời gian
để Bà đừng cho về quê. Trong giấc ngủ nửa mơ nửa
tỉnh, tôi thấy hình như U muốn ôm tôi, hình như U
muốn hôn lên trán tôi, những ngón tay U xoa lưng
suốt đêm cho đến lúc có tiếng Bà hỏi sao U chưa
ngủ, để cho cậu ngủ, mai cậu còn đi học, U còn đi
sớm.

Buổi sáng U ra đứng chỗ tôi đang đứng, đợi xe. Mắt U
đỏ hoe. U cố gắng không khóc, sợ tôi khóc. Tôi hỏi U
đi đâu? U về quê. Sao U nói U không có quê? U có
quê. U chùi nước mắt.

-      Cậu ở lại học giỏi cho Bà vui.

-      U nói dối! U không có quê. Quê U ở trong nghĩa


trang!

Tôi khóc, níu áo không cho U đi. U cũng khóc.


-      Cậu buông U ra kẻo Bà la.

Xe xích lô máy đến. Tôi nhớ Bà chỉ đủ tiền cho U bảy


mươi đồng Giải Phóng. 70 đồng cho một đời ở đợ. Tôi
cố gắng không khóc, con trai không được khóc, Bà
luôn nói, nhưng nước mắt tôi đầm đìa, tôi níu chặt áo
U, nhưng Bà đã hối U lên xe, U còn cố nắm tay tôi lần
cuối, nhưng xích lô máy đã phóng đi giật kéo tay U
giữa bụi khói. Tôi giận dỗi Bà mấy tháng liền trong im
lặng. Tôi giận dỗi Bà tiêu tán tuổi thơ, bắt tôi khám
phá xã hội tàn nhẫn của người lớn. Tôi giận dỗi đất
nước đã không cho phép gia đình tôi nuôi một con
người. Tôi không biết nếu Ông còn sống Ông có cho
U về quê? Tôi không biết Thầy còn sống, Thầy có
cho U về quê? Tôi biết Bà đã cho U về quê chỉ vì
muốn dành miếng ăn cho chúng tôi, nhưng tôi vẫn
giận dỗi Bà đã bắt tôi chứng kiến cảnh U đi vào cõi
chết.

Tôi mang gương mặt đứa trẻ trong hình 15 năm sau
trở về. 15 năm sau thức giấc giữa thành phố tôi đã
sinh ra, lớn lên và bỏ đi. Tôi mở mắt, hành lang trắng
bóng. Tôi nhắm mắt, những con số 401, 402, 403 lớn
dần lên. Tôi mở mắt, những con số nối tiếp không
dứt. Tôi đứng im rất lâu trước cánh cửa cuối hành
lang trắng toát. Tôi muốn tất cả bên trong trống rỗng.
Tất cả biến đi đừng xẩy đến. Chỉ cần tôi mở cánh cửa
ác mộng sẽ tan biến. Chỉ cần tôi mở cửa nắng sẽ ập
đến sáng lừng lên xóa lớp mây xám dầy của Châu
Âu, xoá nền trời trĩu nặng và xoá tất cả vật đổi sao
dời của 15 năm chia cách. Tôi mở cửa. Tôi đứng ở bãi
Cháy. Nắng gay gắt, đất Bắc hẹp như thước kẻ kéo
một vạch dài trước vịnh Hạ Long. Ðất Bắc tôi đọc
trong tiểu thuyết, trông thấy trên các vách mả, đất
Bắc của tổ tiên, của Thầy, của Bà, của K muốn tôi về
thăm viếng giùm. Tôi đứng ở bờ cát, nước lặng lẽ.
Biển mấp mênh với những cù lao tít tắp, những hòn
chi chít bất động. Biển không khác biển Phi Luật Tân
nơi tôi với K đã giạt vào. Cù lao không khác hải đảo
Liminancong nhỏ khoẳm bằng lòng bàn tay nơi tôi đã
đi xin ăn. Hạ Long cũng y mũi Né Phan Thiết với đám
ruồi xanh bay toả trong không khí. Tôi đứng ở bãi
Cháy trong yên lặng của buổi trưa không tiếng động,
tuồng tất cả chỉ là cảnh vật, một bức tranh mà tôi
đứng ngoài, một cuốn phim đang trình chiếu mà tôi
không tham dự, không thủ diễn một vai nào hết. Chỉ
vài giờ đồng hồ nữa tôi bước lên xe du lịch đoàn chị
Thanh vợ anh Bảo Ninh mua hộ vé, tất cả sẽ biến
mất. Giống một bức tranh bôi xoá mà tôi đứng ngoài
không ảnh hưởng.

-      Trường chị tổ chức tham quan, Vũ đi với các giáo


viên, yên tâm. Chị Thanh nói.

-      Anh giai Nam Bộ vào chơi đấy à?

Mấy gã thanh niên sấm sẩn vào trong nhà khách


Nguyễn Ðình Chiểu. Tôi đang ngồi trong câu lạc bộ
khách sạn, tôi muốn nói tôi là người Bắc, không phải
anh giai Nam Bộ. Ðám ăn xin đểu đã sừng cổ.

-      Anh giai Nam Bộ đưa năm chục nghìn xài chơi.

Tôi luống cuống. Tôi muốn nói tôi người Bắc, Bà sinh
ở phố Hàng Ðào, Thầy ở phố Trần Nhật Duật. Tôi là
đứa con của Thăng Long trở về nhà. Nhưng tôi không
nói được, 50 ngàn với hình Hồ Chí Minh là giá trị duy
nhất. Anh Bảo Ninh quát.

-      Này các cậu vừa vừa thôi, cậu em tôi trong nhà cả
đấy.

Ðám ăn xin đểu lui ra. Tôi bước chân vào quán Cầy
Tơ Bốc Lửa ở Quảng Bá. Tôi ngồi trên chiếu hoa cạp
điều của Doãn Quốc Sỹ ngày xưa tôi đọc trong sách.
Tôi ngồi trên câu thơ mê mẩn thuở nhỏ, trải vách quế
gió vàng hiu hắt. Chủ hiệu dẫn tôi xuống dưới gầm
nhà sàn xem chó. Ðôi mắt chó trong veo tựa đôi mắt
tôi thời nhỏ. Rõ ràng con chó đang khóc. Tôi quay
mặt tránh nhìn ánh lửa hàn xì mấy thanh niên đang
thui chó ở sân sau. Mùi thịt chó trong Miếng Ngon Hà
Nội của Vũ Bằng thơm nức mũi. Giáo sư Nguyễn Huệ
Chi kêu bia Tiger uống kèm với đế. Tôi muốn uống
rượu chát nhưng không có. Thịt chó nặng, nồng hơn
thịt trừu, uống với Haut-Médoc hay Sidi Brahim là
tuyệt, vỏ nho dầy đậm sẽ làm ngọt miếng thịt, nhưng
trí não tôi chỉ phân tích được đến đó, từ Miếng Ngon
Hà Nội của Vũ Bằng đến bây giờ tôi ngồi đây ăn
miếng thịt chó đầu đời là một khoảng trống.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cười nhỏ nhẹ. Ông thương


tôi như đứa em nhỏ. Tôi sinh ra để được mọi người
thương mến. Tôi là đứa trẻ viết truyện được cưng chìu
hết mức. Vợ chồng chủ hiệu bất ngờ cãi lộn, tôi với
giáo sư Chi ngồi trước màn ảnh truyền hình, trên tấm
chiếu trải giữa gian buồng vừa làm phòng khách,
quán ăn, phòng ngủ. Chủ quán tát vợ toé lửa.

-      Các anh cứ dùng vô tư!

Ông chủ đã dẫn tôi đi xem chó, quay lại cười.

-      Thêm bia nhé. Chủ hiệu Cầy Tơ Bốc Lửa hỏi.

Tôi nhìn ông ngỡ ngàng, chị vợ khóc trong góc. Giáo
sư Chi gắp cho tôi miếng chả chó tím lợt của Vũ Bằng
ngày xưa thơm ngào ngạt. Tôi nhậu thịt chó suốt
đêm, 5 giờ sáng tôi bước chân ra phố Kim Mã, hút
300 đồng thuốc lào ở chiếc điếu cầy của hàng nước
vối đen đúa. Cả triệu người đã đặt môi vào ống điếu.
Tôi nhìn vành điếu đen quánh, bẩn thỉu, xẩy mẻ, lở
như chứng ung thư trên da thịt K đang hoành hành.
Tôi do dự rồi ghé môi để cùng hút với đất nước thứ
khói sấy bằng nắng gió quê nhà, cùng chia tiếng rít
thiết tha đứt hơi của đất nước khi ban mai đang ửng
hồng trên bãi xe khách của phố Kim Mã vừa thức
giấc. Người tôi tê đi trong làn khói sớm. Người tôi tê đi
khi nghe gã tóc vàng nạt:

-      No need, get away!

-      Oát xu, oát xu!

-      I don’t need you to wash my shoes, get away the


fucking kids!

Bãi Cháy dấy động. Ðàn ruồi bay tản. Nắng đổ lửa.
Ðám trẻ đánh giầy bu lấy gã da trắng đang ngồi ghế
bố, đứa nắm tay, đứa sờ chân, đứa giằng lấy giầy,
ngay trên bãi biển 120 năm trước Francis Garnier và
thủy binh Tây đổ bộ.

-      Fucking kids, let me be!

-      Oát xu, oát xu!

-      Don’t take off my shoes, fuck you!

-      Oát xu, oát xu!


-      No need, sons of the bitch!

Gã da trắng sừng cồ, như đám xin đểu đã sừng cồ


chiều hôm trước, cuối cùng bất lực chìa chân cho lũ
trẻ đánh giầy. Tôi dẫm chân lên lớp cát vàng mịn của
đất Bắc. Lớp cát vàng óng, mịn tơ, thoai thoải duỗi
dài. Cát của Sầm Sơn, Ðồ Sơn của Nhất Linh có êm
như cát ở đây? Ðất Bắc của hùng thiêng sông núi,
của Ngô Quyền, Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo, Trần Quốc
Toản, Ngô Thời Nhiệm, đất Bắc của chiến công oanh
liệt chống ngoại xâm, Bạch Ðằng, Chi Lăng, Ðiện
Biên Phủ, tôi đứng trước thắng cảnh kỳ vĩ của đất
nước, nơi con rồng thiêng đã hiến thân tìm cái chết
chỗ này, đập đuôi trầm mình trong sóng nước Âu Lạc,
những mảnh đuôi vỡ toé làm trăm ngàn hòn nhô lên
như chứng tích của một thời thiêng mà cả đất nước
kiêu hãnh. Xác rồng thu hút du khách, đem đến lợi
nhuận. Nhưng tổ quốc không biết, ở Phang Ngà Thái
Lan cũng nhiều cù lao như vậy, cảnh vật in hệt,
không ăn cắp, không đánh giầy, không bãi giữ xe vì
không ai lấy, người Thái không bu bám Tây Phương,
và du khách đông gấp vạn. Tôi đã đến Phù Két,
Phang Ngà, Ao Nàng, Trang, Sa Mùi, Kra Bì, đã sửng
sốt trước lịch sự của dân tộc nổi tiếng hải tặc này.
Sửng sốt trước giá vé duy nhất Thái Lan, Việt Nam,
Tây, Mỹ. Sửng sốt trước cô gái Thái trẻ xách chổi đi
quét bãi biển sau mỗi khi khách rời ghế bố. Sửng sốt
trước giá cua chỉ 38.000 đồng một con ăn ở xe hải
sản tươi sống dành riêng du khách. Sửng sốt vì đĩ
điếm tràn lan công khai nhảy múa trần truồng. Sửng
sốt vì ở Thái cũng có cà pháo, mắm tôm và phở cắt
bằng bánh cuốn trụng rau muống. Sửng sốt khi nghe
bé gái nhỏ oằn người gánh thúng đu đủ chào mời
bằng tiếng Việt.

-      Chú người Việt Nam hả? Chú ăn giùm con đỉa tầm
sụm. Bố mẹ con từ Vinh qua đây sống mấy năm rồi,
con đi bán ở Chạ Long nhớ nhà quá.

-      Em tên gì?

-      Dạ, con tên Bỉm. Chú ăn giúp con đĩa tầm sụm.

Tôi nhìn cô bé xót ruột. Tôi muốn nói tôi chỉ hơn tuổi
em ngày xưa khi phải rời tổ quốc, vì người Bắc không
cho phép người Nam sinh sống, triệt tiêu hết tất cả,
và tôi phải tha phương cầu thực như em. Nhưng sao
em sinh quán Vinh, cũng người Bắc mà em phải tha
phương cầu thực bây giờ? 15 năm rồi mà? Bây giờ tôi
hiểu vì sao mỗi khi người Thái hỏi Where are you
from? Tôi trả lời From Viet Nam, không ai chào mời
tôi nữa. Tôi ăn đĩa gỏi đu đủ ở Chalong Bay chiều đó,
đĩa gỏi mặn như nước mắt, còn mang tất cả đậm đà
của quê hương, ba khía, mắm tôm, rau muống và đu
đủ. Bỉm bây giờ trôi giạt nơi nào? Cô bé chỉ có tương
lai đĩ điếm của Patong town chờ đợi trước mắt.

-      No dollars, no money!

Gã tóc vàng tươi tốt đứng phắt dậy, đám trẻ dãn ra.

-      I don’t want you to wash my shoes. You do it by


yourself, so I don’t pay. Get off!

-      Công an, kêu công an, nó giật tiền!

Bãi Cháy vỡ ầm trong tiếng động, ruồi bay tán loạn,


mấy bà cho thuê ghế xúm vào chen chúc, bạn hàng
rong ở đâu xô đẩy bu bám, lũ trẻ vẫn trì kéo, giật lôi,
gã da trắng vùng vẫy. Fuck you, fuck you, tiếng Anh
nghèo vậy sao? Tôi đứng nhìn, muốn can thiệp,
muốn chưởi vào mặt thằng da trắng ăn quỵt, tôi đã
trông thấy chúng nghèo đói thế nào ăn xin, ăn mày
dưới hầm métro, subway, tôi đã trông thấy đám da
trắng bần tiện mất dạy lỗ mảng trên đất nước của
chính họ, được tôn sùng Thượng Ðế ở đây, tôi đã biết
trị giá của phục vụ Âu Châu mắc gấp trăm lần trên
bãi cát này. Một cuốc đánh giày 5.000 đồng chưa
bằng 40 cents. Nhưng tôi đứng đó, không cử động, tôi
tự bào chữa mình yếu tiếng Anh, nhưng tự trong thâm
tâm tôi biết, tôi e ngại gã da trắng cao gấp rưỡi, nở
nang, khoẻ mạnh, lực lưỡng phơi trần mình cuồn
cuộn bắp thịt trên mảnh đất Rồng.

-      Chú công an xử lý, chúng cháu đánh giầy nó không


trả tiền!

-      Tránh ra để làm việc. Ðã bảo tránh ra! Anh công an


nạt tất cả mọi người.

-      They took off my money, I don’t pay. They are the


thieves. No money, robbers!

-      Giải tán, giải tán!

Công an xua tay đuổi tất cả. Anh công an không làm
việc hay anh cũng e ngại như tôi đã e ngại trên mảnh
đất Rồng? Hay anh cũng yếu sinh ngữ? Gã da trắng
đã ngồi lại ghế, thong dong đọc báo, duỗi đôi giày
đánh cire bóng, trang nhất của tờ Wall Street mở
rộng loan tin chỉ số kinh tế lên xuống, Liên Hiệp Quốc
thanh sát Irak, khủng hoảng Nam Hàn, Nam Dương,
không một dòng nào nhắc đến Việt Nam.

Tôi lên chuyến xe Xuyên Suốt Tốc Hành về trước. Tôi


lên chuyến xe Xuyên Suốt Tốc Hành lao băng băng
giữa đất cát. Xuyên Suốt: Direct, Tốc Hành: Express,
nhưng xe ngừng đón khách suốt dọc đường liên tục
không ngớt. Tôi không còn khả năng hiểu tiếng mẹ
đẻ, ngôn ngữ mang tất cả nếp sinh hoạt xã hội mà tôi
chưa hề tham dự. Nhà sư ngồi cạnh tôi già lắm, sư cụ
mang nếp nhăn của những câu kinh kệ suốt đời lần
một chuỗi hạt.

-      Trả tiền đi!


Gã lơ đánh vào hông xe thùng thùng. Gã lơ trẻ măng
chưa biết đến cái chết. Tôi đã trả vé ở bến. Sư cụ đón
xe dọc đường lấy trong tay nải mấy tờ giấy cong
queo.

-      Cậu thông cảm, tôi tu hành chỉ có từng này.

-      Một xuất hai chục nghìn, trả liền đi.

Gã lơ quát. Xe băng băng lao giữa vùng đất cát cằn


cỗi, những doanh trại quân đội nhân dân trôi lướt,
những đụn đất rơm rạ chất đống, nắng chói chan,
nắng thả lửa trên mặt đường bùng cháy như rải xăng.
Tôi cảm giác lửa Napalm vẫn hãy còn cháy ở đây
trên khúc đường này.

-      Cậu thông cảm, tôi tu ở chùa chỉ có ngần này.

-      Một xuất hai chục nghìn, có thì đi, không có thì


xuống.

Gã lơ đập ghế. Nhà sư lúng túng. Sư cụ chỉ có 13


ngàn, thiếu 7 ngàn. Tôi muốn trả, trong túi tôi có 2
triệu bạc Việt Nam và một ngàn dollars đem theo. Tôi
muốn lấy tiền, nhưng tôi sợ, chung quanh toàn những
người xa lạ. Túi trái tiền Việt bọc trong gói nylon, túi
phải tiền đô quấn hai lần giấy bỏ trong bao thư. Tôi
cúi gầm mặt trên túi xách Adidas ôm trong lòng.

-      Ðịt mẹ, từ sáng giờ gặp toàn thứ gì đâu.


Gã lơ đập vào hông xe thùng thùng. Xe thắng gấp,
tay nải nhà sư bị ném tung ra đất. Xe rồ máy, tôi còn
quay lại trông thấy sư cụ đứng lom khom giữa trưa
nắng trên bãi đất cằn khô, không một bóng râm, lui
cui nhặt nhạnh ba chiếc dép, mấy chiếc khăn, một bi
đông nước.

Tôi quên đi rất nhanh hình ảnh đó, chỉ nhớ lại nhiều
tháng sau, nhiều năm sau mỗi khi ai đó đi Hạ Long
nhắc đến bãi Cháy. Không phải hình ảnh của tấm áo
cà sa gầy gò rũ đứng giữa trưa ngập nắng, nhưng
hình ảnh của một thằng hèn ngồi chết cứng trong
lòng xe đò chạy xuyên suốt tốc hành về một bến đỗ
nào đó của cách sống hôm nay, bây giờ. Trong xe có
tiếng cười khan: Cứ ba cây số bị đuổi xuống, đón
mươi lần là về đến Hải Dương.

Tôi mang gương mặt đứa trẻ trong hình 15 năm sau
trở về. 15 năm sau thức giấc giữa Hà Nội lẽ ra tôi
phải sinh ra, lớn lên và kiếm sống. Chuyến ra Bắc
như liều thuốc đắng. Phải 31 tuổi ra tới Bắc, đứng
trước Chùa Một Cột tôi mới biết tôi là người Nam. Bắc
từ huyết thống, trong máu huyết, nhưng không ai
chấp nhận. Buổi chiều tôi đứng trước Quốc Tử Giám
lạ lẫm, xe Giấc Mơ chạy ầm ĩ, trong truyện Ngôi Nhà
Sau Lưng Văn Miếu tôi đã tả nơi đây, nơi tôi chưa hề
viếng buổi chiều con đường Hàng Cháo im ắng lặng
lẽ như tờ. Buổi sáng tôi đứng trước ngôi nhà của Ông
ở Phú Thọ, bây giờ đã trở thành ủy ban nhân dân tỉnh
Vĩnh Phú. Tôi không nhận ra gì hết, mặc dù đã xem
bao nhiêu lần những bức ảnh đen trắng chụp gia đình
dòng họ trong sân ngôi nhà này. Tôi cố mường tượng
năm U mười bốn tuổi bước chân qua ngạch cửa, U
phải lo lắng lắm, vết chân U dường còn in ở phiến
gạch Tàu trũng, U đâu biết 60 năm sau U sẽ lãnh 70
đồng Giải Phóng về quê, không thân bằng quyến
thuộc, bán ve chai rồi chết dắm dúi ở một xó nào trên
đất Quảng. Ðứa trẻ U ẳm bồng trên tay đã trở về, đứa
trẻ U gãi lưng mỗi tối đã về đây, đứng trước ngôi nhà
U đã vào ở suốt thời con gái, đàn bà rồi già lão. Buổi
trưa tôi đi khắp phố Hàng Ðào, cố tìm ngôi nhà của
Bà. Hiệu bán vải hẹp choé bề ngang, sâu thông
thống, một tầng xiêu vẹo, treo mắc lụa tơ tầm, đồi
mồi lưu niệm, quần áo.

-      Hello, hello, welcome!

-      Không, cháu người Việt. Cháu muốn vào tham


quan nhà.

-      Nó có đổi đô không? Cô gái ngồi quầy trong gióng


hỏi.

-      Không, nó muốn xem nhà.

Bà chủ hiệu vải phe phẩy quạt, nói vọng. Tôi nhìn bà
kỳ lạ, tôi nhìn cô gái trẻ đã quên bẵng tôi đang đứng
ở cửa. Mấy con rùa thần làm giả đồi mồi nhìn tôi
nghếch mắt. Mấy điếu bát cổ đời Lý đề giá 100 đô,
dăm bức chèo Phố Phái, tượng Phật bằng mã não ghi
giá không rõ.

-      Mẹ cháu sinh ở đây, cháu muốn vào tham quan vài
phút rồi đi ngay.

-      Giá tham quan du lịch nhà cổ quận Hoàn Kiếm 50


nghìn, tôi lấy cậu 30 nghìn thôi.

Bà chủ hiệu vải trả lời. Tôi nhìn bà kỹ càng. Tôi nhìn
bà như thể tôi muốn trông thấy Bà ngồi đây, nếu
không di cư vào Nam, Bà sẽ ngồi đây với quạt nan,
Bà sẽ bảo tôi đưa tiền để vào thăm ngôi nhà nơi
chính Bà đã sinh ra, lớn lên rồi bỏ đi như tôi đã sinh
ra trong ngôi nhà Bà ở Sàigòn, lớn lên và bỏ đi. Tôi
ngắm bà chủ hiệu vải kỹ càng để khắc ghi trong đầu
hình ảnh một bà Bắc. Tôi ngắm bà chủ hiệu vải kỹ
càng để đối chiếu với Bà, đã sinh thành ra tôi. Bà
không phải là Bà. Bà, một người khác.

Tôi mở cửa. K đưa tay cào không khí. Anh ngồi ở


giữa, trên chiếc xe lăn không ai đẩy. Tôi hỏi K ăn
chưa? Anh nhướng mắt, con số 403 trên cửa phòng
phản chiếu. Tôi trông thấy lại trong mắt anh hình ảnh
đất Bắc phai mờ hoang phế. K thở khò khè đứt
quãng. Tháng trước anh còn làm bài thơ Ký Thác
đăng báo, tháng này anh mở trừng trừng mắt nhìn tôi,
vô hồn. Tôi ngồi giữa căn phòng giá buốt, không phải
K ngồi ở giữa phòng mà chính tôi ngồi chỗ K nhìn ra
cảnh trời ảm đạm trông thấy thần chết.

-      Kêu Vũ nó vào thăm anh.

K nhướng mắt. Lâu lâu từng chập anh trở nên tỉnh
táo, như vụt thức giấc khỏi chiêm bao, phát âm rõ rệt
từng chữ. Tôi biết anh sắp hoá quỷ. Tôi biết anh đang
hoá quỷ.

-      Em là Vũ.

Tôi bóc mấy nem cuốn, chả cốm, các món Bắc.

-      Kêu Vũ nó vào thăm anh. K tiếp tục nhướng mắt.

-      Nhưng em là Vũ.

Tôi đáp. Chiều tối nào K cũng hỏi câu đó. Chiều tối
nào tôi cũng trả lời từng ấy chữ. Trong thâm tâm tôi
khổ sở vì sao K không biết sống sót, vì sao anh
không chiến đấu? Vì sao trí não anh ung thối? Anh
đã học thật giỏi ở trường Lasan. Tôi nghĩ đến đám
táng sắp đến, đến ma chay phải đứng ra làm chủ
tang, trong đời tôi chưa biết cái chết. Tôi nghĩ đến các
tra vấn của Bà, giòng họ, những câu hỏi hóc búa đạo
đức dấy lên một mình tôi hứng chịu. Tại sao K hoá
quỷ? muôn đời tôi thắc mắc. Tại sao anh không giống
tôi thẳng tắp một con đường thuần Việt. Con đường
mê đắm những cô gái, yêu đam mê những người đàn
bà, say mê, hết mình và không hối tiếc. K chọn con
đường khác.

-      Vậy Vũ là Vũ đóng giả Vũù?

K bỏ cuốn nem, ngơ ngác. Tôi nhìn trí nhớ K mục rữa.

-      Lát nữa mẹ ngủ dậy, nói mẹ hâm cho anh.

-      Mẹ còn ở Việt Nam.

Tôi đưa nước cho K uống. Anh nhìn tôi kinh ngạc.
Làm như K khám phá lần đầu sự chia cách đứt đoạn
đột ngột không ai có thể hiểu.

Buổi chiều Âu Châu mau rụng tối. Nắng rơi không


tiếng động khuất sau mấy dẫy nhà bệnh viện. Tôi lau
mặt mũi cho K, cả chiếc bóng quỷ của anh cũng biến
mất trên tấm kính đen đặc. Tấm kính chỉ còn phản
chiếu lờ mờ duy nhất chiếc bóng của một đứa bé
vướng ánh điện loay hoay tháo gỡ những sợi điện
muốn chạy trốn.

Giống trong giấc mơ, khi tôi đỡ K lên giường, hai chân
anh nặng trĩu, luồng nước đen thẳm cứ kéo chìm đi, K
chới với nắm níu không khí, thân xác rũ riệt lê trên
đất, tôi muốn gọi cấp cứu nhưng nhớ đến gương mặt
lạnh lẽo của đám y công chung chạ mỗi ngày với
thần chết, bệnh nhân chỉ là những thây ma nằm
phòng riêng hay phòng chung. K ngã chúi xuống đệm
nhưng anh mở mắt, trăn trối.

-      Anh mất rồi chôn trong Bắc Việt nghĩa trang.

Tôi nắm tay K khi ấy. Không, anh nắm tay tôi, ghì
chắc. Như lần cuối trong áo quan anh còn đưa tay
nắm lấy tay tôi khi sư bà vẽ bùa bảo tôi dúi vào trong
tay anh đi đò xuống âm phủ. Rõ ràng anh chụp lấy
tay tôi lúc đó. Ghì lấy. Tôi hoảng sợ rụt bắn, nắp áo
quan còn mở. Gương mặt K đen sạm, tóc rụng hết, K
đang hoá thạch, cả bộ veste turquoise anh mặc
giáng sinh cuối cùng cũng hoá đá. Tất cả lạnh cứng,
đông lạnh, y khúc thịt tôi lôi từ trong tủ đá những
chiều làm về muộn bỏ vào micro-onde. K nằm yên
không rên rỉ, đã thôi vươn cánh tay co giật, đã thôi
giắt tôi đi lầm lũi trong Bắc Việt nghĩa trang, tôi muốn
nói nghĩa trang không còn nữa, tôi đã chứng kiến tất
cả biến mất, không còn gì nữa, đất nước là một đất
nước khác, không nghĩa địa, chỉ những lò thiêu và
nghĩa trang liệt sĩ. Không còn chỗ nào cho tôi với anh,
không còn chỗ nào cho người Bắc di cư đang biến
mất. K nằm im, nhắm mắt, không nghe gì nữa, tôi
đeo kính cho anh, nhưng rồi tháo ra, bỏ trong hòm.
Tôi cố mường tượng đến hoá thân của Kafka, buổi
sáng cũng biến dạng quái dị nhưng không chết. Tôi
cố nghĩ chỉ là một chương tiểu thuyết, không ai có thể
chết trong tiểu thuyết, từ tấm bé tôi đã chìm đắm
trong truyện, không biết đánh đáo, bắn bi, tạc lon, tôi
tiêu tán tuổi thơ trong những chồng sách. Tôi đọc
ngấu nghiến và tin cuộc đời diễn ra trong tiểu thuyết.
Rồi đến phiên tôi tưởng tượng tất cả, nhưng không hề
ngờ chúng có thật.

Lửa phực lên. Tôi mở cửa. Lửa phừng lên nuốt tất cả
mọi người. Lửa phừng phừng rát mặt. Tôi sợ hãi căn
phòng địa ngục. Tôi chứng kiến tận mắt địa ngục. Hai
thước ngang, lửa hàn xì như lửa gaz thui chó ở Quảng
Bá. K hoá thân không ai đi đưa, người ta chỉ thui anh
như thui chó. Các bạn tôi im lặng. Các bạn tôi cũng
viết tiểu thuyết. Cả một đám hiện hữu bằng cái không
có thật tiễn đưa một sự thật: Lửa gaz thui chó. Nina
Mc Pherson, Ðỗ Kh im lặng. Chị Phan Thị Trọng
Tuyến khóc tấm tức. Anh Lê Tất Luyện, chị Thụy
Khuê mắt đỏ hoe. Anh Phan Huy Ðường lặng lẽ. Một
mình Dương Thu Hương bình tĩnh nhất lúc lửa bùng
lên đẩy lùi mọi người. Tôi thèm muốn lúc đó được
chôn trong Bắc Việt nghĩa trang, thèm muốn nằm
trong lòng đất của Bà, bên cạnh Thầy, bên cạnh
Ông, bên cạnh chị Zính, thèm muốn nằm dưới gốc
dâm bụt thắm lá, có rặng giấy lay lắt, một hồ nước,
bức bình phong, sân bái đường. Tôi ý thức rõ ngày K
hoá quỷ, hạnh phúc lớn nhất của kiếp thuyền nhân là
được chết chôn ở Việt Nam trong một nghĩa trang của
đất nước.

K bất hạnh không có may mắn đó.

-      Lương, lên thang lấy cho chú đây coi hũ cốt Việt
kiều con.

Sư bác mập mạp phốp pháp, nhận ra tôi một năm


trước. Chỉ mới một năm mà chùa Vĩnh Nghiêm thay
đổi, trai phòng các sư dọc hành lang có máy lạnh hai
cục, màn ảnh vi tính truy cập internet. Tôi ngỡ ngàng
nhìn qua cửa các thầy đang lên mạng. Không khí
ngày Tết huyên náo, những sắc áo chen chúc với
lồng chim phóng sinh phước thiện, khách thập
phương lên xuống vào ra chánh điện, mùi nhang trầm
theo gió phả phất từng chập dọc kinh Nhiêu Lộc. Tôi
tìm lại không khí chùa ngày mới lớn theo Thầy lên
tháp. Những mặt người chồng chất lên nhau. Gia đình
tôi không có ai trong tháp, nhưng Thầy vẫn có thói
quen vào thắp một nén nhang. Ngần ấy năm và bây
giờ quá nửa dòng họ đã bị đuổi ra khỏi nghĩa trang
phải cải táng di dời lên tháp.

-      A, bữa hổm anh có về mà.

Chú Lương mau mắn chào. Chú Lương mảnh khảnh


nhanh nhẹn, hoạt bát, thoắt nói, thoắt cười.

-      Kiếm cho anh ấy chỗ tốt lắm, ở từng hai trông


xuống bàn thờ Phật nhưng không cách chi gom về
chỗ gia đình. Anh thông cảm bây giờ chết nhiều quá,
dân số mỗi năm gấp đôi gấp ba năm trước, lại thêm
cốt Việt kiều gởi về ai cũng muốn gần Phật mà Phật
chỉ có một, Việt kiều thì đông.

-      Sao kêu cốt Việt kiều? chết rồi mà.

-      Dạ thói quen thôi anh, nhưng cốt Việt kiều gia đình
thường ân cần hơn.

Chú Lương xách đèn bấm, lên thang. Chú đi thoăn


thoắt, thành thạo mỗi nấc thang cuốn ốc, vừa kể lai
lịch gốc gác từng cốt vào tháp lúc nào, thâm niên bao
lâu, con cái thành đạt ra sao. Tôi nhìn lưng áo nhật
bình của chú là thẳng, lấm tấm mồ hôi dợn sóng.
Làm sao chú tỳ kheo có thể biết hết ngần ấy chuyện?
Từ những cốt con đàn cháu đống đến quá khứ tung
tích, tên tuổi từng thân quyến, cả những vụ đánh
ghen cốt ngay tại tháp? Làm như chú đã ăn ngủ trong
tháp, thì thầm chuyện trò với từng cốt. Ðời tư ai khổ
sở, tâm sự cốt nào tự tử, cốt nào linh, cốt nào hiu hắt
không bao giờ có người thăm viếng, hay cốt nào ưa
cục cựa là có người đến cúng.

-      Có nhiều chuyện hay lắm anh a, như cụ Thân này


vào năm 81 đến 86 thì hết người thăm, chùa lâu lâu
nhắc xin chút công đức gia đình không trả lời, đến
bữa hôm có Việt kiều dẫn cả họ vào cúng đốt mấy xe
vàng mã sau đó tự nhiên tháng nào gia đình cũng
vào lễ bái. Cô Thu đây tự tử chi sao đó, mà mỗi lúc
chồng vào thăm cứ bắt đem lên lầu ba không cho để
chung với thân nhân, chị này thì khác, lúc chết có
chửa, vô cốt rồi cả năm sau nhà gái đến bắt khui ra
chia xương về thờ riêng. Anh trai này sinh 67 nhập
tháp ba hôm mới hay khai sinh giả, chừng bây giờ
cũng không biết tên tuổi là gì, thầy chưa vô sổ bộ.

Chú Lương đem hũ cốt xuống. Tôi nhìn gương mặt K


trên nắp. Hũ cốt do đích thân tôi mua ở Pompes
Funèbres Convention bằng đồng còn sáng. Tôi lấy
giẻ lau gương mặt K như tôi đã lau trong bệnh viện. K
mang gương mặt mệt mỏi ở Phi Luật Tuân buổi chiều
hai anh em đói lả. Hải trình 21 ngày, 13 ngày tàu
chìm ngâm nước giữa biển, 103 người chết đuối. Tôi
lê lết khắp các ngõ ngách bảng làng Phi xin ăn. Hải
đảo Liminancong quá nhỏ mấy chuyến giang đỉnh
PCF của hải quân Phi không đủ sức nuôi 308 thuyền
nhân, chỉ phát ba thìa cháo mỗi ngày trong lúc chờ
đợi cao ủy liên hiệp quốc đến nhận hàng. Tôi theo
đám ma đói tỵ nạn gõ cửa từng túp lều. Chắp chắp là
ăn cơm, pù tăng ki na mô là ÐM mày.  Tôi chỉ biết hai
chữ đó, không nhớ ai dạy. Chắp chắp khi cửa mở, pù
tăng ki na mô khi người đàn bà Phi tóc quăn, địu con
quấn sà rông đóng sầm cửa.  Tôi lùng sục khắp các
hẻm rừng, K kiệt sức nằm thiêm thiếp dưới gốc cây
đợi. Tay chân tôi mưng mủ những vết cắt của san hô,
da dẻ tôi nhăn nheo như các bà lão quắt queo, tôi
mang cơn sốt bừng bừng của 13 ngày đứng biển, mặt
đất tròng chành như trôi trên sóng. Tôi lấy vạt áo học
sinh còn đính phù hiệu trường Lê Thị Hồng Gấm
mừng quýnh đựng cơm ông lão chài lưới bốc cho.
Miệng tôi ngậm miếng cá khô, hai tay tôi bụm áo
chạy về gốc cây K đang đợi. Tôi mừng quýnh muốn
kêu Anh ơi, có cơm rồi, tôi mừng quýnh quên gan bàn
chân rách nát vết cắt đá ngầm, tôi mừng quýnh vấp
ngã xấp mặt, miếng khô cá lăn lông lốc. A Hủi đi
chung tàu lao đến giật, tôi giằng nhưng A Hủi xỉ mặt:

-      Lụ Mẹ buông ra tao dộng một cái bể mặt.

Tôi buông miếng cá, hốt cơm rơi vãi trên đất, hứng
trong áo những nắm cơm lẫn đất cát mang về cho K
vẫn thiêm thiếp. Tôi nguyền rủa người Tàu, tôi đã
chứng kiến họ ăn ở bẩn thỉu ở Mỹ Tho trước lúc xuống
bến, ích kỷ dành giật trên thuyền. Tôi đã chứng kiến
A Hủi rút dao chém A Dềnh dành ba lượng vàng
những ngày ngâm nước ở san hô. Tôi nghĩ Thầy
không thể là người Tàu, tôi không bao giờ là người
Tàu. Hai anh em không biết nói tiếng Tàu.

-      Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Ðứa trẻ chìa tay. Tôi đang đứng trước Quốc Hội cũ,
cố mường tượng ra tượng Thủy Quân Lục Chiến đối
diện passage Eden đã bị đập.

-      Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Rõ ràng đứa trẻ mang gương mặt tôi ở Phi Luật Tân.
Rõ ràng đứa trẻ đang chìa tay nói Chắp Chắp. Ðứa
trẻ đang kéo oằn anh nó nằm co quắp quấn bông
băng thuốc đỏ mắt lờ đờ trên miệng ván có đóng bốn
bánh xe đi đọc đường Ðồng Khởi. Ðứa trẻ nhếch
nhác y tôi ở hải đảo Liminancong đi kiếm cơm cho
anh nó. Nếu tôi không cho tiền chắc chắn nó cũng sẽ
nói pù tăng ki na mô. 16 năm rồi mà tuổi trẻ của đất
nước này vẫn còn đi xin ăn? 16 sáu năm xây dựng
con người mới, xã hội mới, làm chủ tập thể, vẫn còn
xin ăn? Ở đâu các bà mẹ Tổ Quốc? Ở đâu hội phụ nữ
Việt Nam? Ở đâu Thành Ðoàn? Tôi đã biết cái nhục
bị người Phi xua đuổi, tôi đã biết cái nhục ăn khoai thí
trong cô nhi viện Pháp. Bây giờ em biết cái nhục đi
xin ăn như tôi ngày xưa? Xin ăn Nhật kiều, Hàn kiều,
Úc kiều, Mỹ kiều, Pháp kiều và tôi là ai đứng đây,
trước lòng bàn tay em đang chìa ra chờ đợi? 5 phút
trước tôi còn là đứa trẻ Sàigòn, 5 phút sau tôi đã là
Việt kiều em đợi bố thí, 5 phút trước tôi là người Hoa,
5 phút sau tôi là người Việt, 5 phút trước tôi là người
Bắc, 5 phút sau tôi là người Nam, 5 phút trước tôi còn
trắc ẩn mủi lòng vì cảnh đất nước cố gắng vươn lên,
vượt thoát số kiếp nghiệt ngã, 5 phút sau tôi khám
phá dân tộc mình ăn vặt và không bao giờ sử dụng
thùng rác. Tâm linh tôi thay đổi, tâm thức tôi hoán
chuyển, tâm hồn tôi biến thiên, linh hồn tôi dao động
như quả bông vụ những đứa trẻ đang chơi ném ra
đường xoay tít trong công trường Lam Sơn.

-      Vậy Vũ là Vũ đóng giả Vũ?

K nhìn tôi bằng đôi mắt trừng trừng thú vật của thần
chết. Tại sao thần chết tinh đến như vậy? biết hết giả
dối của kiếp người, lúc sống, cũng như lúc chết? Có
phải vì đã chung chạ quá nhiều với người sống mà
hắn biết tất cả? Tôi là ai? Năm phút nữa tôi sẽ thành
Tây biến mất ở phi trường Tân Sơn Nhất.

-      Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Ðứa trẻ chìa tay, đôi mắt đục mờ, còn chút nào kiêu
hãnh giận dữ của Trần Quốc Toản trong đôi mắt
đóù? Còn chút sức vóc nào ở bàn tay Phù Ðổng này?
Tôi bước chân qua cánh cổng bằng sắt sơn xanh.
Cánh cổng nặng trĩu thép im lìm nặng nề suốt quảng
trời thơ ấu. Sư huynh Emmanuel Oai hay đứng sau
chiếc cổng này kiểm soát phù hiệu, áo bỏ trong quần,
quần tây đen, sandale hay bata trắng, bata xanh sẽ
bị đuổi cổ tức khắc. Sư huynh Athanase Mạng đứng
dưới gốc cây, đôi mắt rình rập nghiêm khắc, một chút
thiếu giáo dục sẽ bị trừng trị. Tôi đã đi không biết bao
nhiêu lần lối sỏi giữa các tượng thánh. Ngôi trường
nam sinh lớn nhất Ðông Nam Á, với mười một ngàn
học sinh của hai xuất sáng chiều, mỗi cấp tiểu học 20
lớp, mỗi cấp trung học 12 lớp và mỗi lớp 73 học sinh.
Tôi tên Vũ luôn đứng số thứ tự 72 trước thằng Hoàng
Xuân Yến. Lasan Taberd thành lập năm 1873 cùng
năm Francis Garnier đánh thành Hà Nội. Hiếm ai biết
trường Taberd đỡ đầu sư đoàn Nhảy Dù, đơn vị tinh
nhuệ nhất của quân lực miền Nam. Tôi đã khám phá
những người lính Cộng Hoà không xa lạ gác cầu, gác
chợ, nhưng thân mật dạy cách đánh tay khi diễn hành
qua khán đài ngày lễ 100 năm thành lập trường. Tôi
đã đứng ở đây, trong sân trường này, tập hát quốc
thiều, khám phá lá cờ thiêng liêng tổ quốc. Màu vàng
phất phới đẹp như một dải cát, cuồn cuộn không tỳ
vết, không nếp rũ, trong gió ban mai của tuổi hoa
niên bay thẳng tắp một định hướng. Các em là tương
lai rường cột của đất nước,  sư huynh hiệu trưởng
Lê  Văn Nghiêm đã nói như vậy, tôn huynh tổng
quyền dòng La San Charles Henry đã đọc diễn văn
như vậy. Và tôi đã tin, tôi là tương lai của đất nước.

K luôn xếp hàng ở phía hội trường đâu lưng đường


Gia Long. Tôi học đệ thất, anh đã học đệ tam. Giữa
tôi và K luôn có một khoảng cách, chung trường,
chung giáo dục, chung gia đình, nhưng anh luôn chọn
con đường khác, con đường không thuần Việt. K sợ
hãi chiến tranh từ lúc nhỏ, K năn nỉ Thầy cho đi du
học sau Tú Tài toàn phần trong lúc tôi chuẩn bị tham
chiến. Pham Nhật Nam đã nhồi vào đầu tôi hình ảnh
kiêu hùng của người lính Cộng Hoà ở An Lộc. Dương
Nghiễm Mậu đã nhồi vào đầu tôi những hình ảnh khổ
đau của nạn nhân chiến cuộc với trận đánh chống
chiến xa Bắc Việt T-54 ở miền Trung. Ðại úy Trương
Duy Hy viết hồi ký Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Hạ
Lào quá oai hùng. Thiết giáp Bắc quân PT-76 tràn
lên sườn đồi, pháo 155 ly hạ thấp nòng bắn trực xạ
thổi tung từng khối sắt trong lúc thiếu tá Mạnh tiểu
đoàn phó tiểu đoàn 2 Dù dẫn lính bung ra phản công
chỉ đánh bằng lựu đạn. Ðồi Charlie, cơn mưa sắt
thép, rặng Chu Moong Ray chờ trời sáng, tiểu đoàn
11 Dù qua đêm trong chập chờn sắc buốt. Phan Nhật
Nam viết chi những giòng này, đài truyền hình chiếu
chi những hình ảnh Mậu Thân từng cụ bà đi bốc xác
con bị chôn sống ở bãi Dâu ngoài Huế? Tôi chuẩn bị
tham chiến. Tôi chờ đợi cuộc chiến thiếu kiên nhẫn.
Xả thân, bảo vệ tổ quốc, hiến thân dưới cờ, chống đỡ
quốc gia đang nguy biến. Các em là người tổ quốc
mong cho mai sau.  Tôn huynh giám tỉnh phụ quyền
Bruno Trần Văn Bằng khẳng định như vậy. Ðây thiếu
sinh trường Lasan, vui sống trên đường đời, lòng ta
nhất quyết nên người, theo gương sáng bao bậc đàn
anh...  Tôi là sản phẩm của nền đệ nhị Cộng Hoà, thứ
sản phẩm thuộc lòng Lasan hành khúc, quốc ca,
khẩu hiệu và tiểu thuyết.

-      Anh làm gì ở đây?

-      Tôi học ở đây.

-      Lớp mấy? Ôn thi bên kia kìa.

Thanh niên chi bộ đoàn đang giăng biểu ngữ có kẻ


khẩu hiệu Sông có thể cạn, núi có thể mòn... hất
hàm. Tôi mang gương mặt đứa trẻ nên anh nghĩ tôi
vẫn còn đi học? Tôi không rõ, nhưng tôi biết, anh là
sản phẩm của một nền Cộng Hoà Xã Hội khác.

-      Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Ðứa trẻ chìa tay, đôi mắt đỏ kè, tôi nhìn kỹ vào trong
đôi mắt đó cố tìm chút hy vọng ngày mai. Ðã có ai nói
với đứa trẻ ăn xin Em là tương lai của đất nước?

Tôi bước chân lên các bậc thang gỗ. Tôi đã bước
chân lên các nấc thang này bao nhiêu lần suốt tám
năm theo học trường dòng này? Thớ gỗ đã không
còn láng bóng, đen kịt, phát ra những âm thanh thời
nhỏ, không phải âm thanh vui tươi nhưng thứ âm
thanh sợ hãi mỗi khi sư huynh giám học Sébastien
Huyến, sư huynh Albert Tiên, sư huynh Marcien
Thiện rình rập ở trong bóng tối nhào ra tát lấy tát để
vào mặt đứa học trò đã ngu dại nói chuyện trong lúc
lên thang. Tại sao các sư huynh đánh đập tương lai
của đất nước? Tôi không hiểu, nhưng các bạn tôi đã
bị đánh những trận đòn thâm tím mình mẩy. Sư
huynh Martial Trí ám danh Martel cổ lùn, có lối trừng
phạt kỳ lạ, bắt nam sinh tụt quần lấy roi tết bằng giây
điện tháo vỏ bọc cao su quất vào mông, sư huynh
Fortuna Phong tổng linh hoạt ám danh Hủ Lô bắt hít
đất lấy chân mang giày Tây đè lên lưng cho thêm
nặng, sư huynh phó hiệu trưởng Jourdain Thiện cao
trên thước tám luôn xoắn lỗ tai học trò nhấc cao quá
đầu rồi thả rơi xuống đất đánh bịch như mít rụng.

Tôi ngồi ở bàn học tôi đã ngồi thời bé, cố tìm trên mặt
bàn những hình khắc bằng compas thời nhỏ. Nền trời
nhiệt đới xanh biếc. Sắc xanh đùa giỡn vài cụm mây
trắng. Ngô Trọng Thắng, con trai đại tá Ngô Trọng
Oánh đặc khu trưởng đặc khu Một than:

-      Ê lão Hải Việt Văn sắp Hồ Zếnh nữa rồi kìa mày.

-      Hết ba con chó con mèo của Tô Hoài rồi đến con
gà trống của Hồ Zếnh, kim văn gì chán thấy bà nội.
Lâm Ngươn Tuyến, cháu đề đốc Lâm Ngươn Tánh
phun nước miếng.

Tôi cũng thấy chán, không hiểu tại sao thầy Hải
không bình giảng Z-28 Bí Mật Hồng Kông, Bắc Kinh
72 Giờ Nghẹt Thở hay Kinh Nước Ðen của Nguyễn
Thụy Long hấp dẫn hơn nhiều. Tôi nhìn qua cửa sổ,
nền trời xanh đến lạ lùng. Bóng chiếc phi cơ đang
bay nổi ửng trên mái bệnh viện Grall vẽ chử thập đỏ.
Tiếng nổ ầm khủng khiếp sau đó. Tiếng nổ chát chúa
vỡ oàng làm vỡ kiếng hất cả đám ngã chúi. Sức gió
muốn thổi bay mái trường, bảng đen tượng Chúa rơi
xiêu vẹo. Tiếng nổ thứ nhì chói tai bật tung các cánh
cửa, cả lớp nhốn nháo hỗn loạn, thầy Hải bỏ chạy
khiến cả lớp ùn ra như ong vỡ. Cả đám xô lấn chen
giẫm chạy xuống thang đã đặc nghịt học sinh của
các lớp khác. Tiếng đại liên cao xạ lúc này bắn lên
như mưa, như có ai đốt nhiều băng pháo đại cùng
một lúc. Tôi hoảng sợ xanh tái, chiến tranh tôi chờ
đợi, chuẩn bị đã đến. Các sư huynh cố gắng xếp
chúng tôi dưới chân thang, còi hụ khắp nơi, xe quân
cảnh chạy qua đường Nguyễn Du rầm rầm. Thầy
xuất hiện lúc đó, Thầy lo âu lặng cứng đến đón tôi
đang ngồi bó gối sợ hãi dưới gầm cầu thang. Tôi ngã
vào tay Thầy tìm che chở. Chiến tranh của Thầy đã
thành chiến tranh của tôi. Nỗi lo sợ của Thầy đã
thành nỗi lo sợ của tôi. Buổi sáng tháng 3 nền trời
cũng xanh như bây giờ, vẫn những cụm mây trắng
trôi bềnh bồng, tiếng lá me reo rụng đầy đất, vẫn lối
đi này, cầu thang gỗ đó, nhưng Thầy không bao giờ
còn đến đón tôi nữa. Tháng 3-75 khi đánh bom dinh
Ðộc Lập, người phi công bội phản Nguyễn Thành
Trung có biết ông đã phá nát một tuổi thơ? Tất cả vỡ
tan từ lúc đó.

Tôi trở về nhà tìm chỗ trú ẩn. Cội giấy vắt lên bức
tường trắng K đã xây cho Bà sau khi hóa quỷ. Cội
giấy đỏ thẳm sáng rực khi tôi về tới. Rặng giấy bao
lấy ngôi biệt thự um tùm cây cối. Bà như người đánh
cờ tướng mất hết xe pháo mã, mất hết sĩ tượng,
nhưng gỡ gạc chiến thắng bằng cách chiếu mặt.
Tướng vồ Tướng. Sau mười năm đơn từ khiếu nại,
sau thuế siêu ngạch, đánh tư sản, tịch biên, Bà đòi
được villa Thủ Ðức, hay đúng hơn chính quyền đền
cho Bà ngôi biệt thự khác, 300 thước vuông đánh đổi
villa Yersin 2500 thước đất. K đã hóa quỷ, nhưng anh
vẫn giúp Bà trang trí nội thất, lợp lại mái, sơn phết
tường vách bằng những đồng quan tiết kiệm dành
giật với thần chết. Khi tôi bước chân qua cổng, nắng
buổi chiều hắt lên những giò phong lan treo rũ tinh
khiết, ánh nắng ửng ở từng cánh, đang hé, như ánh
mắt K trong suốt thời trẻ. Bà vẫn ngồi ở ghế tràng kỷ,
tuồng không hề đi đâu. Hai vạt áo dài Bắc cổ cao
vồng lên trong quá khứ bay chập chờn giữa các ngôi
mả buông rũ chấm tậnáđôi hài cườm trên đất. Bà
ngồi ở ghế tràng kỷ yên lặng, giống Bà chưa hề rời
đất Bắc. Tuồng Bà đang ngồi đợi Ông bị Việt Minh
bắt đi năm 45 không bao giờ có tin tức. Bà không bao
giờ quay lại đất Bắc mặc dù biết bao lần tôi mời Bà
cùng đi, Bà đã từ chối. Tôi khám phá không chỉ mình
Bà, cô chú trong họ, sui gia, không ai còn muốn trở ra
Bắc, dầu chỉ một lần thăm viếng, nhìn lại.

Bà ngồi ở ghế tràng kỷ im lặng. Sau lưng cặp liễn,


bàn thờ gia tiên, lư đồng đánh bóng. Rõ ràng Bà chưa
hề đi đâu, cách bài trí Hà Nội tiền chiến, bức bình
phong cẩn xà cừ, hàng mành trúc lay động, chậu
thược dược tím, những cành đào dịp Tết đài các, mọi
thứ vây lấy Bà hay đúng hơn chính Bà xếp đặt tất cả.
Chính Bà đã chuyển hoán chi tộc của Thầy từ Hoa
sang Việt, chính Bà giữ nếp nhà Bắc, quyết định
không nói tiếng Hoa trong nhà, mặc dầu Thầy vẫn
nói tiếng Tàu với chú Hênh, chú Xá, cô Màn, viết thư
bằng chữ Phổ Thông cho chú Ích du học Ðài Loan,
nhưng Bà nhất quyết gởi chúng tôi học trường Tây,
nhất quyết chọn Bắc Việt Nghĩa Trang làm nơi chôn
cất gia tộc mà lẽ ra, phải là nghĩa trang của các bang
hội Triều Châu, Quảng Ðông, Phúc Kiến. Bà luôn
kiêu hãnh khi nhắc về bên ngoại thuần Việt. Bà
không cho phép gọi Thầy bằng Pá, không cho phép
ăn xíu dề mỗi khuya, không cho phép khạc nhổ như
Ông Chú thường hay khạc nhổ mà Bà luôn cảm thấy
bẩn.

Tôi ngồi xuống ghế. Sạp gụ cẩm lai cẩn mình rồng
thuở nhỏ tôi rất khổ sở khó chịu, mỗi khi ngồi dựa
vuốt rồng đâm suốt lưng. Chỉ còn vài tiếng nữa là
Giao Thừa. 17 năm tôi chờ đợi phút này, trở về ngôi
nhà Bà hưởng đêm trừ tịch của trời đất, trong không
khí thiêng liêng, trước bàn thờ tổ tiên. Tôi ngắm chậu
quất vĩ đại chi chít trái, dẫy cúc bó xôi tròn xoe như
mâm cỗ, bát thủy tiên ngâm nước bắt rễ tựa những củ
hành nhỏ trổ hoa trắng. Tất cả thay đổi chóng mặt.
Lần về đầu tiên tôi kinh hoảng chứng kiếng Bà sinh
sống trong một ổ chuột, toàn bộ căn nhà đường Hai
Bà Trưng cán bộ ở chật cứng, Bà chỉ còn duy nhất
mỗi một phòng con, vừa nấu ăn, vừa lễ bái, tất cả
bàn ghế đồ đạc Bà phải đem gởi. Tôi trở về, chị N
phải cho bé Nhí bú dưới chân thang vì căn phòng quá
hẹp không đủ chỗ. Anh T, chồng chị ngồi đợi ở lề
đường. Suốt đêm tôi nói dối quanh co về K, nhìn con
chuột chui ra từ bàn thờ đánh đu trên giây điện. Suốt
đêm bé Vinh kinh ngạc ngắm lũ thạch sùng di chuyển
dưới bóng đèn. Bé Vinh chưa biết xếp bì bắn như tôi
hay bắn thời nhỏ rồi nhìn chiếc đuôi thằn lằn rượt
theo khúc thân đã quên mất một quá khứ từngácó
đuôi. Một buổi trưa tôi ra mua cóc, chị N hỏi bao
nhiêu, tôi trả lời 10 ngàn ba quả. Chị dẫy nẩy, con Lài
con Dì Sáu nó điêu, một quả chỉ một ngàn thôi, con
Lài nó thấy Việt kiều nó chém. Tôi cản, nhưng chị đã
ra đòi tiền, chị không đòi được đồng nào, con Lài đưa
thêm một quả cóc. Một năm sau tôi trở về, anh T mất,
anh tai biến mạch máu não, chứng bệnh thời trang
của đất nước, anh cũng lên tháp. Chị N khăn tang ủ
rũ. Tôi đi qua những đường phố không nhận ra phố
xá mình đã đi qua, sinh sống 16 năm liền. Tôi đi
ngang ngôi nhà tuổi thơ ở phố Hai Bà Trưng-Tân
Ðịnh mới về năm trước đã hoá mini hotel Ðức Huy.
Tôi đến tìm Ngọc Mỹ, người bạn gái đầu tiên những
trưa nắng tôi ngắm say mê mái tóc màu hạt dẻ buông
lửng lơ trên lưng áo dài lấm tấm giọt mồ hôi thiếu nữ.
Ngôi nhà gia đình Ngọc Mỹ ở số 221 Phạm Ngũ Lão
cũng đang hóa mini hotel. Tôi cảm giác nguyên đất
nước biến thành khách sạn, kể cả tình cảm vụn vặt
nhỏ nhoi của chính mình cũng trở thành khách sạn.
Khách sạn? Ðồng nghĩa phù du, một đêm, một tuần,
24 tiếng. Trên đất nước này còn gì tồn tại lâu hơn
nữa?

-      Dù không anh?

Cô gái mang gương mặt trắng quen thuộc. Thiếu nữ


ngồi dưới gốc đa vẫy. Tôi nhìn kỹ cô gái trong chập
choàng của bóng cây vươn tàn rộng mênh mông. Tôi
nhận ra tức khắc lối vào nghĩa trang. Không sao có
thể lầm lạc, vẫn dẫy tường vôi vàng này dù đã sụp lở
phân nửa. Chỗ này rào kẽm gai phân chia Tân Sơn
Nhất, chỗ kia sau bãi cỏ mọc hoang bây giờ dựng lên
quán bia bình dân là chỗ tượng Bồ Tát bằng gạch
đen. Lô đất phía đó đắt hơn phía bên này, Thầy hay
nói. Dáng ngồi thiếu nữ y bà cụ bán nhang của nghĩa
trang, cũng túi ny lông phủ mặt, áo mủ che mưa xếp
dưới chân, giọng Bắc trong trẻo. Gốc đa chỗ Thầy
ngừng mua nhang buông thõng những chiếc rễ có lần
K đã hù sẽ dùng thắt cổ, những rễ ma vẫn còn loằng
ngoằng. Thiếu nữ mang gương mặt trắng quen thuộc.
Tôi cố nhìn kỹ bàn tay cô gái xem có ngón nào bẻ
quặp vào trong.

-      Dù thoải mái đi anh, bốn chục nghìn thôi em không


tính điêu đâu.

Tôi cố nhìn kỹ xem cô gái có còn nhuộm răng, có còn


nốt ruồi dưới mí mắt.

-      Dù đi anh, em bảo hành khả ái.

Con hẻm không thắt hậu nhưng nở phình ra thành bãi


đất giống quái thai đầu mọc dưới đít. Tôi trở về nhà
tìm chỗ trú ẩn. Tôi trở về nhà trông thấy nắng rơi
thảng thốt lên rặng giấy còn mang ánh mắt K u tối.
Bà ngồi ở ghế tràng kỷ. Bàn thờ gia tiên nghi ngút
khói. K đã thắp nén nhang cuối cùng trên bàn thờ này
buổi sáng vâng lời Bà ra đi vĩnh viễn. Tôi ngồi xuống
ghế. Sạp gụ cẩm lai cẩn mình rồng tua tủa thuở nhỏ
tôi rất khổ sở khó chịu mỗi khi ngồi dựa vuốt rồng
đâm buốt lưng. Bà ngồi ở tràng kỷ. Tôi mang gương
mặt của đứa trẻ trong hình 17 năm sau trở về đối diện
Bà. Tôi đếm một, hai, ba, như tôi vẫn thường hay
đếm trước những ngôi mả xanh mướt ánh mắt người
chết. Tôi đếm một, hai, ba, ngậm chậu thược dược
tím bầm trong miệng.

05/ 01/ 03

© Copyright Trần Vũ

 
Đông Dương 1993
 

Trong lịch sử xâm thực giữa các đế quốc và thuộc địa, có lẽ


chưa có mâu thuẫn nào mãnh liệt, đẫm máu mà cũng đầy ám
ảnh, đam mê lẫn luyến tiếc bằng va chạm Việt-Pháp.

Trong quá khứ khi những thuyền buôn Tây Âu đổ xuống bến
cảng Đà Nẵng không chỉ có thánh kinh, hàng hoá, thuốc đạn...
mà còn có cả một khái niệm mới: Đông Dương.

Đông Dương dưới mắt thương buôn và các giáo sĩ Châu Âu


mang ý nghĩa của một thị trường duy nhất còn sót và bị khép kín.
Nhưng đối với Nho sĩ, Sĩ phu, Quan lại Việt Nam, L
´Indochine lại hoàn toàn mới mẻ. Trải nhiều ngàn năm dựng
nước, trí thức Việt chỉ biết tới một khái niệm duy nhất: “Quốc
Gia’’. Đại Cồ Việt, Đại Ngu, Đại Việt, Đại Nam hay vương quốc An
Nam đều là tên gọi của khái niệm đó. Đông Dương được triều
đình Huế hiểu là những vùng đất đã, đang và sẽ chịu Nam tiến rồi
Tây tiến.

Mâu thuẫn Việt-Pháp nhanh chóng xuất phát từ xung khắc khái niệm ấy. Một
bên xem là thị trường, tức tự do buôn bán, tự do truyền đạo, và trong đó Việt
Nam chỉ là một trong ba thị trường. Và một bên xem là đất đai linh thiêng, đất
hương hoả của tổ phụ; “tự do buôn bán’’ hay  “tự do quảng bá đạo’’ nghịch ý
Thiên Tử là xúc phạm.

Kể từ 1860, mâu thuẫn trở nên gay gắt, bùng nổ thành chiến
tranh khi phía Pháp ý nghĩa Đông Dương ban đầu cũng biến đổi
- từ thị trường chuyển sang thuộc địa - với tên gọi mới: L
´Indochine Française. Một trăm năm sau ngày hoàng đế Louis
Philippe gởi những chiến thuyền đầu tiên bắn phá cảng Đà Nẵng,
và 80 năm liền kể từ khi quân đoàn viễn chinh đầu tiên của
Napoléon đệ tam sang Đông Dương là một chuỗi xung đột với liên
tiếp những phong trào nổi dậy của hoàng gia, lẫn sĩ phu, nông
dân Việt. Nhưng dưới bất kì tên gọi nào: Phong trào Cần Vương,
phong trào Đông Du, hay phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Mặt Trận
Việt Minh... cũng chỉ là sự đối kháng của Việt Nam chống lại khái
niệm Đông Dương-Thuộc địa, áp đặt từ chính giới Pháp.

Trong số những gương mặt lớn của lịch sử Pháp, đã đến Đông
Dương trong quá khứ, có lẽ Leclerc là người trông thấy trước sự
tan rã không thể phản hồi của thực tế thuộc địa.

Việc tiếp xúc rồi thương thuyết với chính phủ kháng chiến
khiến Leclerc gặp nhiều chỉ trích. Với cao ủy D´Argenlieu đó là
hành động đầu hàng nhục nhã. Nhưng với riêng Leclerc, khi nhận
sứ mệnh “tái lập trật tự và bảo vệ quyền lợi Pháp’’ [1] tại Viễn
Đông, giải pháp cấp thời rất đơn giản: Tái lập trật tự phương thức
nào nhanh cho bằng đình chiến? Và bảo vệ quyền lợi của Pháp
cách nào hiệu quả hơn chính những người kháng chiến đang đe
doạ quyền lợi ấy đứng ra đảm bảo?

Trong tâm trí Leclerc, nước Pháp chỉ có thể hiện diện được lâu
dài trong một Đông Dương ổn định. Sự tin tưởng của Leclerc đưa
đến Thoả ước Sơ bộ [2] ngày 6.3.1946 (Convention préliminaire
Franco-Vietnamienne du 6 Mars 1946).

 
Cho đến thời điểm đó, không ai có thể trách Leclerc thiếu tài thao lược quân
sự. Khi tháng 10 năm 1945 bước chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất, nắm trong
tay chỉ vỏn vẹn chiến đoàn thiết kị của đại tá Massu, một đơn vị kết hợp từ Sư
đoàn 2 Kị binh danh tiếng (2ème Division Blindée) và một trung đoàn tiền phương
thuộc Sư đoàn 9 Thuộc địa (9ème Division d’ Infanterie Coloniale), Leclerc đã
nhanh chóng tái kiểm soát những trục giao thông huyết mạch ở các tỉnh lị miền
Tây và trên cao nguyên Darlac.
 
Giống như khi vào giải thoát Paris, Strasbourg, tiến vào Berchtesgaden,
Leclerc không bao giờ do dự khi đổ bộ xuống vịnh Bắc Việt trước sự hiện diện của
quân đội Trung Hoa. Nhưng như đã viết, Leclerc trông thấy trước lịch sử. Quân
đoàn viễn chinh cho dù thiện chiến, chỉ có thể thắng các trận đánh, không thể
chiến thắng một dân tộc. Thoả ứơc ngày 6.3.1946 công nhận quyền tự trị của
Việt Nam trong liên bang Đông Dương thuộc Liên Hiệp Pháp, là bước đầu trao
trả cho Đông Dương khái niệm khởi thủy: Thị trường thay Thuộc địa.

Nhưng trông thấy trước lịch sử không có nghĩa là chuyển


hoán, biến đổi hay tái tạo được lịch sử. Leclerc đơn độc trước thời
đại. Bất lực trước chính sách đối ngoại cứng rắn của De Gaulle
qua D´Argenlieu. Cô đơn trước tham vọng hiếu chiến của Valluy,
tiêu biểu cho hàng tướng lãnh Pháp cần một chiến thắng để xóa
nhoà thảm bại Đệ Nhị Thế Chiến xẩy ra năm 1940 trước Ðức
Quốc Xã. Biến cố Hải Phòng cuối năm 46 đưa đến tan vỡ toàn
diện giữa Việt-Pháp [3].

Những năm theo sau, quân đội Pháp cố gắng chống đỡ khái
niệm Thuộc địa, và Mặt trận Việt Minh nỗ lực khôi phục ý niệm
quốc gia thiêng liêng đã có từ bốn ngàn năm trước.

*
 

Tháng 2 năm 93 vừa qua, Tổng thống đương nhiệm Pháp


François Mitterrand đến Đông Dương, mở ra một dấu mốc mới
của lịch sử. Nhưng lạ lùng thay, đoạn diễn văn quan trọng, được
nhắc đi nhắc lại, trích dẫn qua nhiều phương tiện truyền thông:

“Je suis ici pour clore un chapitre. Et plus encore pour en


ouvrir un autre“  [4] (Tôi đến đây để đóng lại một chương sử,
và hơn thế nữa, để mở ra một chương mới), lại rất gần giống
và mang nhiều âm hưởng của diễn văn De Lattre tại Vĩnh Yên nửa
thế kỉ trước. Ngày 19.4.1951 trước đại diện Việt Nam là Trần Văn
Hữu, tướng De Lattre đã tuyên bố:  “Je suis venu ici pour
accomplir votre indépendance, et non pour la limiter“  [5] (Tôi đến
đây để hoàn thành nền độc lập của các bạn, không phải để
giới hạn nền độc lập đó).

Cả hai diễn văn đều cùng mang một ý chí, chu toàn một sứ
mệnh: “hoàn thành nền độc lập của Việt Nam“ – cùng một lúc De
Lattre từ bỏ chế độ thuộc địa Đông Dương; “mở một chương sử
mới“ - François Mitterrand khẳng định quyết tâm xoá bỏ mọi mâu
thuẫn khơi nguồn từ chế độ thuộc địa đó.

Đến đây, câu hỏi đặt ra: De Lattre có thật tâm? Chính sách
đối ngoại Pháp thay đổi cơ bản? Chấp nhận một thể chế mới cho
Đông Dương mà mới một năm trước hãy còn quyết liệt chối từ?
Nếu thật sự như vậy, dấu mốc mới của lịch sử phải ấn xuống
ngày 17.12.1950 khi De Lattre sang Đông Dương, để “hoàn thành
nền độc lập của quý quốc“. Nếu đúng, sẽ không thiếu những nghi
ngờ hôm nay về nhu cầu đeo đuổi chiến tranh từ phía Việt Minh.
Nhưng thực tế quá khứ có những diễn giải riêng.

Khác với Leclerc sáu năm trước, De Lattre đến Đông Dương
trong những giờ phút khó khăn đen tối nhất. Không phải ngẫu
nhiên mà diễn văn “Hoàn thành nền độc lập“ chỉ được De Lattre
soạn thảo sau khi đã tuyên bố trước các sĩ quan cấp úy:

“Je suis venu en Indochine pour vous sauver, mes lieutenants


et capitaines, car c´est vous qui vous faites tuer. Je serais
maintenant sans cesse auprès de vous. C´en est fini avec les
abandons. Le Tonkin sera tenu! Nous maintiendrons! Vous serez
commandés!’’ [6] (Tôi sang Đông Dương vì các anh, những
trung úy và đại úy, bởi chính các anh là những người đổ
máu. Tôi sẽ luôn sát cánh cùng các anh. Chấm dứt những
cuộc di tản. Bắc Kỳ sẽ được bảo vệ! Chúng ta sẽ tử thủ! Các
anh sẽ được chỉ huy!)

De Lattre không được ủy nhiệm “tái lập trật tự và bảo vệ


quyền lợi” như Leclerc trước đây, nhưng được gởi sang Đông
Dương để cứu vãn tình hình quân sự quá bi đát sau thảm bại
đường số 4 Thuộc địa (tuyến đường biên giới Cao Bằng-Lạng
Sơn). De Lattre đến Đông Dương để tìm chiến thắng; và chỉ
có một lối thoát duy nhất: Chiến thắng quân sự trước các binh
đoàn chủ lực Việt Minh đang dổ dồn xuống vùng châu thổ sông
Hồng, uy hiếp nặng nề Hà Nội.

Để hiểu lối thoát duy nhất, sự tình cờ của lịch sử cũng khiến


Mitterrand (quyền bộ trưởng chính phủ năm 1950) đã cảnh giác
De Lattre trước ngày lên đường:

“La politique vis-à-vis de Bao Dai est maintenant trop


engagée pour vous laisser une suffisante liberté d´action. Il y un
an ou deux, c´était autre chose. Aujourd´hui trop de choses sont
définies et fixées. Il est trop tard pour fonder: la page n´est plus
blanche.’’ [7]
(Giải pháp Bảo Đại đã bám rễ quá sâu khiến Đại tướng
có đủ tự do hành động. Cách đây một hai năm là chuyện
khác. Nhưng hôm nay quá nhiều cam kết cần được tôn
trọng. Đã quá trễ tràng để tạo lập một chính sách mới:
trang sử không còn trắng nữa.)

De Lattre như thế mất hẳn khả năng thương thuyết với Mặt
trận Việt Minh, để chỉ còn một lối thoát quân sự duy nhất: chiến
thắng.

Nhưng một chiến thắng quân sự luôn đòi hỏi giành lại quyền
chủ động chiến trường. Sự chủ động đó chỉ có thể đạt được bằng
cách gia tăng quân số. Trước tiềm lực yếu kém của mẫu quốc, De
Lattre không còn chọn lựa nào khác ngoài việc thành lập quân đội
bản xứ, thay thế cho những tiểu đoàn Lê dương bỏ nhiệm vụ
phòng thủ để kết hợp thành các liên đoàn lưu động...

Do đó, diễn văn “Hoàn thành nền độc lập’’ đọc trước đại diện
Trần Văn Hữu, chỉ là giải pháp cấp thời, bức thiết, giúp tạo dựng
một quân đội bản xứ thân Pháp. Có thể tự trong thâm tâm, De
Lattre ao ước thật sự một nền độc lập cho Việt Nam, nhưng định
mệnh ngắn ngủi của ông tại Đông Dương không cho phép De
Lattre dự phóng một tương lai xa.

De Lattre đến Đông Dương để tìm chiến thắng, và đạt được


chiến thắng. Vĩnh Yên, Mao Khê, Mao Trạch, Ninh Bình, Nghĩa
Lộ... cũng như Phủ Nho Quan, Phủ Tổng Hoà, Phủ Lạng Thương,
Thất Khê, Đồng Khê dưới thời Carpentier, De Lattre chỉ viết tiếp
trang sử dở dang mà Mitterrand đã cảnh giác: không còn trắng
nữa. Sau De Lattre, Salan rồi Narvarre chép tiếp những địa danh
khác: Hoà Bình, Nà Sản, Lai Châu, An Khê, Điện Biên Phủ...
 

13.3.1954 sơn pháo Việt Minh từ những suờn núi phía tây các
cứ điểm Anne-Marie, Huguette, Françoise, Claudine bắn trực xạ
xuống sân bay Điện Biên Phủ, chấm dứt vĩnh viễn khái niệm Đông
Dương-Thuộc địa đã được trì kéo suốt chín năm liền. Việt Nam
nhanh chóng rơi vào một cuộc nội chiến mà cường độ khốc liệt chỉ
có thể so sánh bằng quyết tâm chiếm hữu chủ thể quốc gia ở cả
hai miền Nam Bắc. Tổ quốc miền Nam-Tổ quốc miền Bắc. 20 năm
nội chiến chấm dứt, nhưng Đông Dương-thị trường vẫn không
được hiểu bởi chính quyền chiến thắng. Đông Dương cho tới
mãi tận cuối thập niên 80 vẫn được nhìn một cách truyền
thống: là những vùng đất «Nam tiến» hoặc «Tây
tiến». Không được xem như là thị trường, nên không có tự
do buôn bán và tự do hành đạo.

 
Cho đến hôm qua, mâu thuẫn giữa Việt Nam và Pháp, hay rộng hơn nữa, một
trong những mâu thuẫn giữa Việt Nam và thế giới vẫn là cái nhìn khác biệt về
Đông Dương.

Phải đợi đến đầu thập niên 90, khái niệm Đông Dương là
một thị trường chung, cho cả Việt Nam lẫn quốc tế, và Việt Nam
trước nhất tự bản thân cũng là một thị trường, không « thiêng
liêng», nhưng cũng không lệ thuộc, mới được giới lãnh đạo -
những người kháng chiến cũ – công nhận.

Không ứng xử nữa, như vương triều Nguyễn cách đây 150
năm: Nam tiến, khép kín, và phòng ngự. Việt Nam áp dụng vế
đầu của khái niệm Thị trường: «Tự do buôn bán». Vế sau «Tự do
đạo » vẫn còn bị ngăn cấm. (Đạo ở thế kỉ 20 nên hiểu là học
thuật và tư tưởng). Chính vì sự lơ lửng đó, mà chuyến công du
chính thức của tổng thống Pháp chịu nhiều chống đối - đặc biệt từ
giới chức quân sự và những cựu quân nhân từng tham chiến tại
Đông Dương.

Tướng De Biré,nguyên trung úy tiểu đoàn 2 Nhảy dù Lê


Dương (2è B.E.P.) kiêm hội trưởng Hội Ái Hữu Điện Biên Phủ, phê
phán nặng nề trên báo Le Figaro:

«A quand la légion d´honneur à Giap? On répète la


même erreur qu´avec les pays de l´Est: Quand les régimes
s’effondrent, on court les secourir!»[8] (Khi nào thì gắn
huân chương danh dự cho Giáp? Chúng ta lập lại lỗi lầm đã
làm với các nước Đông Âu, khi chế độ sụp đổ, chúng ta
chạy chữa!)

Dưới một vài khía cạnh nào đó, cùng trước một số nguyên
tắc, những công kích của tướng De Biré có thể xem là đúng.
Nhưng cũng giống Leclerc nửa thế kỉ trước, François Mitterrand
trông thấy lịch sử: Việt Nam không thể tách ra khỏi chuyển động
của thế giới. Nuớc Pháp cũng không thể chờ đợi, khi chờ đợi là
đánh mất Đông Dương vào tay tư bản Mĩ-Nhật. Nhưng khi nào thì
gắn huân chương cho Giáp? Đó là vấn đề của nguyên tắc mà giới
quân nhân muốn được tôn trọng. Câu trả lời có lẽ đối với
Mitterrand rất giản dị: lịch sử không chỉ có quá khứ, mà tiếp nối
bằng tương lai, và trong cả hai chiều thời gian nguyên tắc chỉ là
chi tiết, như một chi tiết trên một trang sử. Thứ trang sử không
còn trắng nữa.
 

Chắc chắn chính vì trang sử không còn trắng nữa, mà


François Mitterrand bày tỏ ước muốn Việt-Pháp cùng mở một
trang sử mới.

Nhưng sự lạ lùng của lịch sử, khiến chính những điều mà bộ


trưởng Mitterrand đã cảnh giác De Lattre năm xưa, tái diễn trở lại
với chính ông:

« L´Indochine pose des problèmes très difficiles. Vous y


remettriez en cause votre réputation. Votre fonction risque d
´être extrêmement ingrate.»[9] (Đông Dương đặt ra những vấn
đề cực kì khó khăn. Danh dự của Đại tướng sẽ bị thử thách
và có thể được đền đáp bằng những vô ơn.)

Đông Dương hai thế kỉ sau,vẫn là một thị trường duy nhất còn
sót ở Viễn Đông. Nhưng nếu Mitterrand gặp phải những chống
đối, mà ông đã lường trước, không ai có thể nghi ngờ thiện chí
của nhà lãnh đạo này: giúp Việt Nam trở thành một thị
trường ổn định, mĩ mãn, với tất cả những điều kiện cần và
đủ: Tự do buôn bán và tự do tư tưởng. Không phải vì thuần
túy thương mãi mà các chuyên gia Pháp đến giúp Việt Nam chấn
chỉnh lại hình luật.

 
Đông Dương như thế trong năm 1993 đánh dấu một biến cố quan trọng: nhà
lãnh đạo tối cao Pháp đích thân thông báo chuyển động mới của lịch sử Đông
Dương. Chương sử đẫm máu cũ, nước Pháp - kẻ cựu thù - đã khép. Nhưng
chương sử mới, chỉ có thể do chính người Việt tự tạo. Tiếp tục cô lập, nghèo nàn,
đớn đau, đẫm máu? Hay tươi sáng? Đòi hỏi sáng suốt và ý thức dân chủ.
 
Trong quá khứ, nếu Việt Nam đã chứng minh với thế giới: nền độc lập của
một dân tộc do chính dân tộc đó tự quyết định, tự « hoàn thành » hay chọn lựa,
thì vấn đề của chính quyền Việt Nam hôm nay là bắt kịp những trễ tràng mà
vương triều Nguyễn đã lỡ làng một trăm năm mươi năm trước.

12.3.1993

(tạp chí Trăm Con, Canada, số tháng 4.1993)

[1]
 Histoire d´une Paix Manquée, Sainteny, nxb Amiot- Du Mont, 1953

 
[2]
 Histoire du Vietnam de 1940 à 1952, P. Devillers, nxb Le Seuil, 1952

 Theo “Phúc trình Molière’’, tư lệnh Bắc phần năm 1946: Những gây hấn trong biến cố Hải
[3]

Phòng được chỉ thị trực tiếp bởi Valluy, quyền tư lệnh lâm thời quân đoàn viễn chinh trong thời
gian Leclerc vắng mắt.
[4]
 Le Monde số ra ngày 9.2.1993
[5]
 De Lattre, Jean Luc Barré, Edition Perrin, 1990
[6]
 Sđd

 Aux Frontières de l´Union Française, Tunisie, Indochine, Lettres, F. Mitterrand, Nxb Julliard,
[7]

1954
[8]
 Le Figaro số ra ngày 9.2.1993
[9]

   

© Copyright Trần Vũ

 
 

Tiểu luận: Lịch Sử Trong Tiểu Thuyết


một tùy tiện ý thức

Cách đây chưa lâu, giáo sư Nguyễn Văn Trung trên


tạp chí Văn Học số 200, đặt vấn đề những cách tiếp
cận lịch sử trong tiểu thuyết[1]. Bằng tất cả những cẩn
trọng, tri thức và kinh nghiệm của một đời dạy học,
cầm bút, đã hướng đạo biết bao thế hệ sinh viên
miền Nam, giáo sư đã lần lượt điểm qua một số tác
giả chuyên lôi lịch sử vào trong sáng tác[2], phê bình[3],
chính trị[4], sử ký[5], tiểu luận[6], điểm sách[7]… Với thái
độ thẳng thắn tranh luận, tôn trọng các tác giả dù
không đồng ý, bằng giọng văn trầm tĩnh ông đã triển
khai và đúc kết: Không nên sử dụng lịch sử một cách
tùy tiện trong mọi lãnh vực. 

Tôi hiểu như vậy, với riêng cá nhân mình, cũng


chuyên lôi lịch sử vào trong sáng tác. Bài viết dưới
đây, không phân tích một cách chính thức những luận
điểm của giáo sư, nhưng xin được phép trình bầy một
góc độ của sáng tác, cho riêng bộ môn tiểu thuyết.
Một bộ môn của hư cấu.

*
 Ở thời điểm tháng 12.2002,  giáo sư Nguyễn Văn
Trung khẳng định: “Người viết truyện về Nguyễn Ánh,
Nguyễn Huệ cần phải dựa vào tài liệu sử như người
viết sử và cần hơn người viết sử nữa. Vì tiểu thuyết
lịch sử không những chỉ cần tài liệu sử liên quan trực
tiếp đến các nhân vật lịch sử về đời công, hoạt động
chính trị, quân sự, cầm quyền, bối cảnh chính trị, xã
hội thời đại của họ, mà còn cần tài liệu liên quan đến
đời tư (gia đình, tình cảm, giao tế, cách ăn mặc).
Người viết truyện sẽ dựng lại cuộc sống cụ thể của
họ trong hoàn cảnh và thời đại… Ðặc biệt các đoạn
văn tả các nhân vật đối thoại với nhau: lối xưng hô
như thế nào thời đó[8]”. Ông đặït câu hỏi: “Viết sử hay
tiểu thuyết lịch sử về Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ, về
thời kỳ nội chiến, có nên chỉ bằng lòng với những tài
liệu như Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Ðại Nam
Thực Lục Tiền Biên, Hoàng Triều Ngọc Phả, Hoàng
Lê Nhất Thống Chí, Phủ Biên Tạp Lục,v.v.. hay
không? hoặc một vài tài liệu ngoại quốc đăng trong
tập san Sử Ðịa-Sàigòn trước 1975 (do cô Ðặng
Phương Nghi thực hiện)?[9]” Rồi ông trả lời, nên tham
khảo thêm tài liệu của các dòng tu, hội truyền giáo,
của những cố đạo ý, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Ðào
Nha, Hoà Lan thế kỷ 16, 17, “về đời sống hằng ngày
của dân chúng, những điều mắt thấy tai nghe tại chỗ,
ở nông thôn…được ghi lại trong thư từ của các giáo sĩ,
loại thư riêng gửi về cho gia đình, bạn bè hay bề
trên[10]”. Và kết luận: “Trong số những nhân vật có bộ
mặt phải, mặt trái, có thể có Nguyễn Huệ, Nguyễn
Ánh như những cá nhân cụ thể, có tên tuổi. Ðó chỉ
mới là nêu lên như giả thuyết, cần những tư liệu bằng
cớ không thể chối cãi được xác minh rằng Nguyễn
Huệ, Nguyễn Ánh quả thực có như thế. Nếu không
làm việc này thì là vu khống, chụp mũ, xúc phạm[11]”.

Với tất cả lòng tôn kính giáo sư, tôi vẫn không đồng ý.
Tại sao viết tiểu thuyết phải y chang như thật vậy? Và
tại sao phải kiêng cữ như giáo sư nhắc nhở, đề
nghị:“Người viết tiểu thuyết có thể không làm việc
của người viết sử, mà vẫn nói lên được những điều
muốn nói, một cách thật đơn giản là không nêu tên
những nhân vật cụ thể, chỉ đặt cho họ một cái tên gì
đó mà người đọc vẫn có thể hiểu là nói đến Nguyễn
Ánh, Nguyễn Huệ. Ðây là việc mà các nhà viết tiểu
thuyết thường làm: tạo dựng những nhân vật tưởng
tượng (hư cấu) mà người đọc không thể không liên
tưởng đến những nhân vật có thật bất kể đã chết hay
còn sống[12]”.

Thay tên là một hình thức kỵ huý[13]. Ðến hôm nay


nền quân chủ phong kiến đã cáo chung nhưng nhà
văn Việt vẫn cứ phải kỵ húy theo quán tính và kỵ húy
luôn cả những gì chưa cáo chung, còn đang sống,
chưa chết. Có phải vì dân tộc Việt Nam chưa bao giờ
lôi hoàng thượng của mình ra chém đầu công khai
giữa chợ nên mọi thứ liên quan đến mình Rồng vẫn
còn thiêng liêng cần thờ phượng, cúng bái [14]? Dân
tộc Pháp không vậy, họ lôi vua Louis XVI và hoàng
hậu Marie-Antoinette ra giữa quảng trường Concorde,
trước công chúng, chém một đường đao giông bão
không chùn tay. Lúc đó, không ai cần biết vua Louis
có bị vu khống hà hiếp nhân dân, chụp mũ phản
quốc, và mình Rồng đang bị xúc phạm nặng nề? Tất
cả chỉ muốn chấm dứt một sự thiêng liêng đã kéo quá
dài mà không ai hài lòng và cách chấm dứt triệt để
nhất là chém phăng đi thủ cấp nhà vua. Chắc chắn,
cuộc cách mạng quyết liệt của Maximilien de
Robespierre đã ảnh hưởng đến cách viết tiểu thuyết
về sau trong giới sáng tác Tây Phương mà cho đến
lúc đó, chỉ có thể hư cấu dịu dàng... “Máu thấm ướt
áo đầm nhung của hoàng hậu, khi chết vẫn còn giữ
nụ cười trinh nguyên công chúa của thời con gái sống
trong cung điện lộng lẫy của hoàng đế Phổ François
đệ nhất[15]”. Tiểu thuyết gia Tây Phương khi chứng
kiến hành quyết, trông thấy chiếc máy chém hậu cổ
điển, có lẽ, đã nghĩ từ đây họ có thể hư cấu tự do, táo
bạo hơn, không còn nỗi sợ hãi cung đình ám ảnh. Có
thể sáng tác: “Máu thấm ướt áo đầm nhung của
hoàng hậu, khi chết vẫn còn giữ nụ cười tinh quái
trông thấy đầu của người đàn ông ngoại tình bội bạc
rơi xuống trước, còn ngửi ra hơi thở thum thủm ở
miệng đức vua không bao giờ còn quát tháo, động
đậy. Marie-Antoinette thoả mãn cho chính những giọt
máu của bà đang chảy ra, làm như hoàng hậu hãy
còn muốn nhìn ngắm dòng máu đỏ thắm của mình
lần đầu tiên trôi chảy tự do trên những phiến đá xanh
mà chưa bao giờ bà được một lần thong dong thảnh
thơi dạo bước. Marie-Antoinette chỉ nhắùm mắt khi
biết chắc thủ cấp đã hoàn toàn rời khỏi xác, chấm dứt
một kiếp sống mà bà chưa bao giờ mong muốn, lát
nữa, hoàng hậu sẽ trở về Áo, nơi bà đã yêu say mê
vĩnh viễn tiếng vĩ cầm trác tuyệt của một thanh niên
kỳ tài Ludwig Van Beethoven…[16]”.

 Ðoạn văn trên do tôi…tưởng tượng, theo cách hư cấu


của tiểu thuyết bây giờ, giống như Christophe
Bataille[17], khi hai mươi tuổi đã mô tả hoàng tử Cảnh
bước chân lẫm chẫm trong cung điện Versailles vang
tiếng ợ buồn bã ủ rũ của vua Louis XVI, tiếng ợ âm u
qua những đại sảnh giát đầy kiếng vẫn còn soi y
nguyên gương mặt bất động của hoàng hậu Marie-
Antoinette…

Ðó là tâm tình của dân tộc Pháp và nền tiểu thuyết


Pháp. Christophe Bataille chỉ là một tác giả trẻ, sau
chuyến du lịch Việt Nam đầu tiên, đã dám hư cấu
ngay tức khắc câu chuyện hoàng tử Cảnh với giám
mục Pigneau de Béhaine (tên cúng cơm Bá Ða Lộc)
và hư cấu luôn cả vua chúa của chính đất nước anh.
Năm 1993, Christophe Bataille đoạt giải thưởng tiểu
thuyết đầu tay, An Nam[18] xây dựng hoàn toàn không
dựa trên sự thật, và tôi tình cờ có truyện ngắn đăng
chung với anh trên tập san Le Serpent à
Plumes[19] hai năm sau đó. Nhưng hãy quay trở về với
giáo sư Nguyễn Văn Trung và những cấm kỵ An
Nam.

Dân tộc Việt cho đến ngày hoàng tử Tây học Nguyễn
Vĩnh Thuỵ trên chuyến tàu về nước yêu say đắm
thiếu nữ công giáo Henriette Nguyễn Thị Lan mà sắc
đẹp vẫn chưa phai mờ hãy còn phảng phất trên
những tấm ảnh đen trắng cũ xưa, dường như chưa ai
biết mặt mũi vua chúa của mình. Mỗi khi kiệu
Rồng ngự đạo, thần dân quỳ rạp mình đầu chấm đất.
Hội họa An Nam cũng không mấy phát triển, ngoài
tranh dân gian làng Sình ngoài Huế, không thấy chân
dung truyền thần. Ngày nay ai biết mặt tổng đốc
Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương? chưa nói đến Trần
Thủ Ðộ, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt… Ðồ đạc bày
biện trong nhà bài trí ra sao, tổ tiên ăn mặc thế nào,
sau 4000 năm văn hiến, dân tộc cũng không biết nốt.
Khác xa Trung Hoa và Nhật Bản, chỉ cần xem phim
chưởng-Samourai của họ, thấy rõ đạo diễn Trung-
Nhật không lúng túng chút nào khi trang trí Hồng Lâu
Mộng, Shogun, Tần Thủy Hoàng, thoải mái thuê thợ
đo may quần áo fashion cách đây nhiều ngàn năm
cho Củng Lợi, Lăng Ba, Lạc Ðế, Miêu Khả Tú, v.v..
Ðạo diễn Việt, không đủ sức dựng một cuốn phim
như vậy thời Lý, nếu không vay mượn trí tưởng tượng
không biên giới bằng cách cầm nhầm trang trí nội
thất, y phục cổ Trung Hoa[20]. Tuy thế, trong mỗi
người Việt, vẫn có một hình ảnh về ông vua của mình
tạo dựng bằng trí tưởng, qua kinh nghiệm, kiến thức,
học vấn... Chính hình ảnh đó mới là hình ảnh thật,
cho dù không đúng với hình ảnh của vị thiên tử quyền
uy bao thế kỷ trước. Ðiều đó cũng đúng như hình ảnh
kinh thành Ba Lê, Hán Thành hay Mạc Tư Khoa, Cựu
Kim Sơn, Nhã Ðiển trong đầu những du khách chưa
bao giờ bước chân ra khỏi nhà. Hình ảnh có thể thay
đổi theo năm tháng, nhưng luôn luôn thật cho đến khi
cá nhân đó đặt chân đến Hán Thành, hay kém may
mắn xuống mồ.

Ở đây, sự thật cá nhân vượt lên trên sự thật tập thể và


chức năng chính yếu của nhà văn nằm trong công
việc khai quật sự thật cá nhân này. Ðiều mà văn học
chính quy hay văn học tập thể không chấp nhận.

Vì sao sự thật tập thể xuống giá vậy? tựa giá khách
sạn[21] Á Châu trước và sau dịch phổi cấp tính Hồng
Kông? Vì tập thể là một đám đông ba phải, gió cuốn
chiều nào xoay theo chiều ấy. Dân tộc Việt đã kiểm
chứng biết bao lần, tung hô Nguyễn Huệ vào Phú
Xuân, Bắc Hà rồi lại tung hô Nguyễn Ánh vào Gia
Ðịnh, Phú Xuân…lượt đi lượt về không biết bao nhiêu
bận. Giá trị tập thể, mặt khác, trong văn học không
phải là một giá trị. Có thể kiểm nghiệm tức khắc qua
tổng tập hồi ký của đại tướng Võ Nguyên Giáp, con
hùm xám của tổng bộ Việt Minh, vị tướng của sình lầy
như Tây Phương kính nể, nhưng 4 tập hồi ký [22] đã
không đem đến thêm một chứng liệu lịch sử nào,
thậm chí không một dòng phân tích quân sự. Ðọc
xong, chỉ có thể ngán, với tất cả dụng ý tuyên truyền
cho các nghị quyết đảng, ở mỗi trận đánh, công
thức Ta đã giải phóng bao nhiêu thôn, ấp, làng, diệt
bao nhiêu lính Ngụy-Lê Dương, hạ bao nhiêu máy
bay, xe tăng địch, đạt chỉ tiêu của quân ủy trung
ương  lập đi lập lại đến mệt mỏi. Tôi đã chờ đợi câu
trả lời vì sao Vĩnh Yên, Mao Trạch, Mạo Khê, Ninh
Bình, Gia Hội, Nghĩa Lộ, Nà Sản? Những trận đánh
sống mái và cực kỳ quan trọng quyết định kéo dài
thêm hay thu ngắn chiến tranh Ðông Dương. Nhưng
không một lời giải thích. Võ Nguyên Giáp không hề
cho biết vì sao ông chọn tấn công Vĩnh Yên trong
chiến dịch Trung-Du ‘‘Trần Hưng Ðạo’’ thay vì có thể
tiến đánh Hà Nội từ hướng Lạng Sơn-Dinh Lập hoặc
những thành phố cửa ngõ khác? Võ Nguyên Giáp
cũng lướt qua nguyên nhân chính đưa đến thất bại
của 2 sư đoàn 308 của Vương Thừa Vũ và 312 của
Lê Trọng Tấn, đã không chiếm ngay Vĩnh Yên đêm
14.01.1950 sau khi Vanuxem và liên đoàn 3 lưu động
bị thiệt hại trầm trọng ở Bao Chúc[23]. De Lattre tổng
chỉ huy, Salan phó tổng chỉ huy, De Linarès tư lệnh
Bắc Phần và Edon, Rodon, Vanuxem, Galibert, tư
lệnh chiến trường về sau đều công nhận nếu chiếm
Vĩnh Yên ngay đêm đó, Võ Nguyên Giáp đã mở tung
cánh cửa Hà Nội không còn gì chống giữ.[24] Ðêm đó,
De Lattre chưa kịp lập cầu không vận chuyển quân từ
Sàigòn ra Hà Nội[25], các liên đoàn lưu động của De
Castrie, Edon và Clément cũng chưa đến[26]. Võ
Nguyên Giáp đã đánh mất cơ hội thực hiện lời hứa
của Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Việt Minh: vào
ăn Tết thủ đô cùng đồng bào[27]. Sau đó các trung
đoàn 88, 36, 209 bị đánh bom Napalm tan tác khúc
Quật Lưu, nhưng không thấy ghi thiệt hại. Tương tự,
thất bại Mao Trạch, Mạo Khê, Ðông Triều, Sông Ðáy,
thảm bại trước con nhím Nà Sản, hay bất ngờ của
chiến dịch biệt kích Ducournau ở Lạng Sơn,v.v.. được
phớt qua nhẹ nhàng và không rõ rệt. Ðọc xong tổng
tập hồi ký, người đọc không biết bộ đội chủ lực Việt
Minh đã thiệt hại bao nhiêu chết, bị thương, mất tích
và nghĩ quân đoàn viễn chinh Pháp quân số phải
đông gấp 6, 7 lần thực tế. Những ai sống ở Pháp, đối
chiếu với tài liệu Tây, các sách phân tích quân sự đều
ngỡ ngàng, Pháp bại trận công bố thiệt hại [28], Việt
chiến thắng che giấu. Vì sao chiến thắng liên tiếp như
vậy, quét sạch đồn bót Tây hết trận này sang trận
khác mà phải mất đến 9 năm chiến thắng? Tinh thần
yêu nước quá nồng nàn, tình yêu tổ quốc là yêu
CNXH quá thiêng liêng, khiến vị đại tướng đã vượt
quá sự thật của thống kê, kiểm toán của lịch sử. Tất
cả, do ông tường thuật theo yêu cầu của một tập thể
có điều kiện. Các hồi ký của đại tướng Hoàng Văn
Thái[29], Lê Trọng Tấn[30], thượng tướng Nguyễn Hữu
An[31], Hoàng Cầm[32], Ðặng Vũ Hiệp[33], trung tướng
Ðồng Sĩ Nguyên[34] cũng không khác, đều nằm trong
khuôn mẫu hồi ký Le Domptage des Tigres của thống
chế Liên Xô Joukov, tư lệnh đệ nhất mặt trận Bắùc
Ukraine hay Tchouikov[35], Samsonov[36], Koniev[37],
Jeremenko[38] trong chiến tranh Nga-Ðức.

Sơ sài trên mặt quân sự so với các đồng nghiệp Ðức


Quốc Xã Guderian[39], Rommel[40], Von Manstein[41],
không tầm vóc chính trị của hồi ức De Gaulle[42], cũng
không giá trị nhân chứng của hồi ức Churchill [43], Võ
Nguyên Giáp chiến thắng lẫy lừng các đế quốc nhưng
thất bại khi ghi lại điểm hẹn lịch sử  củûa những năm
tháng không thể nào quên.

Hồi ký, một thể loại văn học đòi hỏi sự thật tuyệt đối,
của các tướng lãnh miền Bắc như thế cũng không
khác mấy hồi ký của các tướng lưu vong. Sự thật tập
thể ở đây biến dạng và kém trung thực so với sự thật
cá nhân trong hồi ký của những sĩ quan cấp úy vô
danh Trương Duy Hy[44], Cao Xuân Huy[45], Hoàng
Khởi Phong[46] hoặc Bảo Ninh[47] dưới dạng tiểu
thuyết. Bạn đọc sẽ hỏi: Nhưng sự thật cá nhân một
khi được tập thể chấp nhận sẽ trở thành sự thật tập
thể? Không đúng. Sự thật trong Tháng Ba Gẫy Súng
của Cao Xuân Huy nếu được đông đảo độc giả ngoài
nước chấp nhận, vẫn là một sự thật tập thể khởi đi từ
sự thật cá nhân của riêng Cao Xuân Huy. Trường hợp
này đúng cho tất cả mọi bộ môn nghệ thuật, vẫn
đúng khi tháp Eiffel tại Paris hôm nay, vẫn chỉ là cây
cầu sắt Paul Doumer (Long Biên) bắc qua sông Hồng
mà Auguste Eiffel đã thử nghiệm…khai phá ở Hà Nội
trước khi dựng thẳng đứng lên ở quảng trường
Trocadéro bây giờ. Dân tộc Pháp hôm nay hãnh diện
vì tháp Eiffel mặc dù đã chê bai thậm tệ khi vừa xây
cất. Cũng giống Nguyễn Huy Thiệp, những ngày đầu
Vàng Lửa, Kiếm Sắc, Phẩm Tiết, Không Có Vua [48] đã
bị công kích, tấn công dữ dội, nhưng đến ngày nay,
mười ba năm sau Tướng Về Hưu, cả nước ôm lấy ông
làm vật gia bảo so sánh với văn chương thế giới.

Thế giới? Jorge Luis Borges đã chiến đấu ròng rã


suốt 30 năm[49] tìm một chỗ đứng giữa lòng tập thể Á
Căn Ðình cho một sự thật hoang tưởng của cái
chết  đồng nghĩa bất tử   và tận cùng  khởi đầu vô
tận[50].
Trong thực tiễn sáng tác, có lần, một đồng
nghiệp[51] băn khoăn khi viết Ký, muốn miêu tả trận
tắm mưa thuở nhỏ, nhưng do dự vì chưa hề tắm
truồng bao giờ và Ký là thể loại đòi hỏi sự thật. Sau
cùng tác giả quyết định mô tả cảnh mình tắm truồng
trên sân thượng, vì một lý do duy nhất: Trận mưa đó,
ào ạt xối xả ký ức trần truồng thời bé, tuy đã không
xảy ra trong thực tế nhưng đã ám ảnh một ước mơ
kéo dài nhiều mươi năm mỗi khi những trận mưa réo
về qua mái ngói, cho đến tận bây giờ, vẫn còn khắc
khoải ham muốn một lần tắm truồng trong đời. Tác
giả đã trở về, đã tắm mưa trong Ký. Cơn mưa tắm rửa
thân xác trút đi vết tích những ngày lưu lạc, cơn mưa
của đứa bé khát khao nhìn trận mưa bay ngoài hiên
và tiếng cười nói ròøn rã của chúng bạn ồn ĩ. Tác giả
tắm trong Ký trận mưa mình thèm khát, chỉ đến khi
những giọt nướùc hắt thật sự từ hè đường ngoại ô An
Phú Ðông mới đem đến cảm giác thật sự trần truồng
của một Việt kiều trước quê hương xa lạ, trước vỉa hè
văn hoá quá khác biệt. Chính đây mới là sự thật, một
sự thật tiểu thuyết không phải của tắm mưa, nhưng
của khát vọng trần truồng và sợ hãi trần truồng đã
hiện hữu, đã có thật, vẫn ở đó, vĩnh viễn. Một sự thật
của một con người.

Trong hình học không gian, đường cong khi cắt ra


làm trăm triệu đoạn nhỏ, mỗi đoạn sẽ là một đường
thẳng, và trên đường thẳng đó các giá trị không ứng
nghiệm trên những mặt phẳng khác, sẽ có nghiệm số
ở mặt phẳng tí teo này. Ðịnh lý toán học trên cũng có
thể hổ trợ cho các nhà văn đem nhân vật lịch sử ra
cắt làm trăm triệu khúc và khảo sát phần nhỏ nhất.
Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh như thế bắt buộc phải biến
dạng, như Jésus đã biến dạng trong tiểu thuyết The
Last Temptation of Christ của Nikos Kazantzakis[52],
khi đến phút chót cuộc đời đấng Kitô trên thập tự giá
nhớ quay quắt Madeleine, cô gái điếm bị ném đá đã
đi theo bao ngày. Ðấng Cứu Thế bỗng hoài
nghi chọn lựa Thập Tự của chính mình, tại sao đã
không yêu Madeleine và sống cuộc đời bình dị của
một con người trong yêu thương của một con người?
Jésus de Nazareth trước lúc trút hơi thở cuối cùng đã
nghĩ đến những ân ái cháy bỏng đã hơn một lần mơ
ước. Madeleine, Người Yêu Của Ðấng Trời[53], như đề
tựa tiểu thuyết sau cùng của Nguyễn Thị Hoàng,
không là quỷ dữ cám dỗ, nhưng là một người đàn bà
do chính Thiên Chúa tạo ra, biết sống, biết khổ đau,
biết nhục nhã và biết yêu một người đàn ông. Jésus
de Bethléem, là một người đàn ông, bắt buộc phải
mang trên thân tất cả bản năng con người để hiểu và
cứu chuộc con người. 

Thế giới đã luôn có cấm kỵ và vượt cấm kỵ, đã lôi con


thượng đế ra đóng đinh và chặt đầu vua giữa chợ, rồi
lại đóng đinh những kẻ khi quân, phạm thánh. So với
thế giới, những vượt thoát đi tìm sự thật con người của
nhà văn Việt hôm nay vô cùng nhẹ nhàng, chưa có gì
quá đáng, nhưng sẽ không bình thường nếu chỉ có
tùng xẻo mà không có vượt thoát. 

Vấn đề chính nằm ở nghiệm thu công trình sau khi đã


băm vằm lịch sử. Nhà văn, anh tìm thấy gì? và có gì
để trình bầy với nhân loại?

‘‘Khi Thiếu úy Vương Văn Ðông bước chân vào quán


Cựu Lã Vọng, nhiều năm sau Thánh Chiến giáo dân
phố Chả Cá vẫn chưa quên hình ảnh dẫy xe kéo thay
nhau lật ngửa mỗi khi anh đi qua, làm như viên thiếu
úy mang trên thân những đảo điên của sự vật. Ðó là
lần đầu tiên viên sĩ quan trẻ thuộc tiểu đoàn 9 Bộ
Binh An Nam từ Nam Ðịnh biệt phái lên Cao Bằng
khám phá suốt dọc đường Thuộc Ðịa số 4, hễ anh
lên chuyến quân xa nào, chiếc GMC đó lật hố.

Thời gian pháo đài chịu vây hãm, Vương Văn Ðông
nhận ra không chỉ đồ vật, nhưng cả con người cũng
ngã bổ mỗi khi anh quan tâm. Từ binh sĩ phụ lực
quân đại đội C.L.S.M[54] ở giao thông hào những khi
anh thanh sát quát tháo, sợ hãi ngã chúi lên đống
bao cát đến các phụ nữ đoan trang của phố doanh
thương Tôn Thọ Tường cũng ngã bật lên giường chỉ
cần anh chạm nhẹ bả vai sau những tối khiêu vũ ở
câu lạc bộ sĩ quan La Grande Flotte. Hiện tượng
huyền bí xảy ra nhiều đến nỗi Vương Văn Ðông bắt
đầu hoài nghi thứ tự sắp xếp trong vũ trụ và tin có
một trật tự khác chỉ một mình anh hoán chuyển. Thời
kỳ đó, viên thiếu úy bắt đầu trông thấy định mệnh,
thứ định mệnh kỳ dị mà anh không sao giải thích.
Phải đợi đến một thập niên sau, trong những ngày
binh biến trước dinh Norodom, khi đảo chánh vị tổng
thống Cộng Hoà An Nam đầu tiên, viên sĩ quan đầy
tương lai hứa hẹn mới ý thức quyền lực siêu nhiên ở
anh không ứng nghiệm quá sáu thước đường kính.
Nhưng khi ấy, ở Cao Bằng, anh hoàn toàn cảm thấy
sung sướng sảng khoái.

Buổi trưa bước chân vào quán Cựu Lã Vọng, Vương


Văn Ðông cùng đi với hôn thê Yvonne Carstensen
Thục Hiền, một thiếu nữ xinh đẹp, trắng trẻo. Mối tình
của họ đầy gây cấn. Thời tiền hôn nhân, mỗi lần
kiểm tra chợ lồng thị xã, viên thiếu úy hay đùa giỡn
làm lật tung những thúng bắp cải, lật úp những rổ
tôm khô, chổng bốn vó những con trâu chỉ cần anh
trừng mắt, nhưng biết bao lần anh cố tình làm lật
thiếu nữ để trông thấy cặp đùi trắng mát, cô gái vẫn
điềm nhiên đứng đợi cân vịt bên cạnh hàng cháo
huyết. Yvonne Carstensen Thục Hiền mang thân thể
khác thường mà Vương Văn Ðông không thể đoán
Âu hay Á. Cô gái trắng tinh như lụa, sống mũi cao
thẳng như cột cờ tam tài anh chào mỗi sáng. Rõ ràng
thiếu nữ mang trên thân nỗi ham muốn nảy nở
phương Tây ám ảnh đàn ông An Nam, nhưng cũng rõ
ràng cô gái thở hơi thở Á Châu. Nhiều lần đứng gần
sát, viên thiếu úy đã ngửi ra trong hơi thở cô gái
hương vị bún bung Hà Nội, mùi bánh tôm Cổ Ngư, cả
hơi chanh chua xon xót làm sủi bọt chén mắm tôm
tím cà. Những ngày sau Vương Văn Ðông càng sửng
sốt khi thiếu nữ không hề ngã lật xuống giường dù
anh cố tình trừng mắt rồi vuốt dọc bả vai tròn trĩnh.
Sau nhiều đêm chứng kiến tận mắt quyền lực của
mình vô hiệu, viên thiếu úy quyết định cầu hôn thiếu
nữ, người đàn bà duy nhất mà anh tin có khả năng
đối phó định mệnh, có thể giúp anh vượt thoát những
trung đoàn Việt Minh ngày một xiết chặt pháo đài.

Ðó là thời kỳ Ðoàn Thị Ðiểm rán chả cá và Hồ Xuân


Hương chạy bàn cho khách Tây ở quán Cựu Lã Vọng
đối diện vương cung thánh đường Cao Bằng. Cũng là
thời kỳ tướng Lê Quảng Bá quyết định mở màn chiến
dịch Lê Hồng Phong trên đường biên giới. ’’

Ðoạn văn trên, hoàn toàn phi hiện thực, vẫn do tôi...
hư cấu. Cách đây một tuần, tôi gởi đến trung tá
Vương Văn Ðông cư ngụ ngoại ô Paris, thông báo sử
dụng vợ chồng ông làm nhân vật tiểu thuyết. Trung tá
hồi âm tức khắc, khuyên không nên, vì ông là một
nhân vật chánh trị, có thể gây hiểu lầm. Trung tá
Ðông đề nghị thay tên tuổi, cho cả vợ ông, Yvonne
Carstensen Thục-Hiền lai Pháp. Sau suy nghĩ, tôi
quyết định từ chối, vì toàn bộ tiểu thuyết Giáo
Sĩ[55] xây dựng trên những nhân vật có thật, với tên
cúng cơm, không kỵ huý. Trong thư hồi âm, trung tá
cũng cho biết thời gian 1950 ông tùng sự tại tiểu đoàn
9 Bộ Binh Việt Nam (9ème BVN) không phải tiểu đoàn
9 Bộ Binh An Nam, thuộc phân khu Nam Ðịnh–Thái
Bình dưới quyền chỉ huy của đại tá Gambiez, và trong
suốt binh nghiệp đã ở các đơn vị chủ lực chứ không
hề chỉ huy những đại đội phụ lực quân bao giờ. Trung
tá Ðông cũng cho hay ông sẽ thích hơn nếu tôi viết
về tâm trạng khắc khoải của một sĩ quan trẻ VNCH
trong chiến tranh, trước tình huống đất nước Quốc-
Cộng. Các chi tiết ông cung cấp vô cùng quý giá,
nhưng chỉ có giá trị với loại tiểu thuyết tâm lý tả thực
ngày xưa. Viên thiếu úy trẻ chưa bao giờ đặt chân lên
Cao Bằng? Không quan trọng, Cao Bằng chỉ là một
trong những mặt trận, như vô vàn các mặt trận trong
chiến tranh, không xảy ra nơi này thì xảy ra nơi khác.
Viên thiếu úy chưa hề nắm những trung đội phụ lực
quân? Chi tiết hư cấu vẫn không sai, nhìn toàn cảnh,
đặc biệt ở thời điểm 1950 khi quân đội quốc gia mới
ra đời, các tiểu đoàn khinh quân VN chỉ giữ vai trò
phụ trong chiến tranh, và danh từ An Nam, hoàn toàn
đúng trong mắt các sĩ quan thực dân, và vẫn hãy còn
đúng ở thời điểm hôm nay khi vận tốc đổi mới suy
nghĩ trong đầu người Việt quá chậm.

Tôi hiểu, việc thiếu úy Vương Văn Ðông trong tiểu


thuyết làm lật ngửa các con bò, con trâu chổng bốn
vó, lật hố các chuyến quân xa và các phụ nữ sau
khiêu vũ khiến trung tá Vương Văn Ðông đang sống ở
Paris giờ đây đã ngỡ ngàng. Ông không chờ đợi bị hư
cấu đến vậy. Nhưng Vương Văn Ðông mang trên
mình một định mệnh tiền định, chắc chắn đã có
những dấu hiệu khiến ông đã tin có khả năng đảo
chánh thành công cố tổng thống Ngô Ðình Diệm.
Chức năng của tiểu thuyết hiện thực thần kỳ là thể
hiện những dấu hiệu xác tín này một cách huyền ảo
từ lịch sử đã xảy ra, gần hay xưa cũ.

Tiểu thuyết không nhất thiết phải viết y chang như


thật, có thể pha trộn nửa thật nửa ảo và có quyền
phóng đại thực tế lên đến mức... tiểu thuyết. Kỹ thuật
chính của bút pháp hiện thực huyền ảo nằm ngay
trong phương thức phóng đại từng chi tiết nhỏ nhặt
này.

Sau suy nghĩ, dù phân vân cho giao tình tốt đẹp đã
có, tôi quyết định không di dời thiếu úy Vương Văn
Ðông ra khỏi Phố Chả Cá, không vì việc ông biến
mất sẽ gây khó khăn không ít làm xáo trộn cấu trúc
sắp sẵn, nhưng vì vững tin, thêm Vương Văn Ðông,
sẽ thêm chất hiện đại sống thực, thêm nối kết giữa
hiện tại với quá khứ.

Viết ra, công bố trích đoạn, rồi kể dông dài quá trình
xử lý chất liệu hầu đáp lời giáo sư Nguyễn Văn Trung
khi giáo sư phê phán gay gắt:‘‘Giả thử có một nhà
văn nào đó viết truyện phơi bày bộ mặt thật của
Nguyễn Huy Thiệp, pha trộn cái có thực và cái bịa
đặt, khó chê trách về mặt văn chương, nêu đích danh
Nguyễn Huy Thiệp như nhân vật chính của truyện, và
nếu có ai phê phán tại sao nêu đích danh, nhà phê
bình nào đó sẽ biện hộ cho tác giả rằng chỉ mượn
Nguyễn Huy Thiệp làm cái cớ để tố cáo nhà văn nổi
tiếng xây dựng sự nghiệp trên những bịp bợm hèn
nhát. Nói như thế có nghe được không? Ngay cả
trường hợp không bịa đặt, nói toàn sự thực có chứng
cớ và không nêu đích danh Nguyễn Huy Thiệp,
nhưng người đọc, nhất là những người quen biết quý
mến Nguyễn Huy Thiệp không thể không nhận ra đó
là Nguyễn Huy Thiệp. Liệu có nên dè dặt, đắn đo
không nỡ nói, hay nói ra làm sao đây? Vì một ngày
nào đó có thể gặp Nguyễn Huy Thiệp bằng xương
thịt hay bạn bè, những người quý mến Nguyễn Huy
Thiệp? Gabriel Marcel, nhà triết học đồng thời với
Jean Paul Sartre, đã viết đâu đó về «Óc trừu
tượng»  (Esprit d’abtraction) là yếu tố gây đố kỵ, và
chiến tranh. Trần Vũ, Nguyễn Huy Thiệp bịa đặt về
cuộc đời Nguyễn Huệ, hẳn biết rõ Nguyễn Huệ đã
chết, không còn ở trên đời để tự biện hộ, nhưng,
những người đang sống vẫn quý trọng, tôn thờ
Nguyễn Huệ, không thể không có cảm thức bị xúc
phạm. Nếu Trần Vũ, Nguyễn Huy Thiệp thay vì ngồi
ở Paris, Hà Nội đi thăm đền thờ Nguyễn Huệ và gặp
những người tôn thờ Nguyễn Huệ, liệu có dám nói
trước mặt họ những điều xúc phạm, lăng nhục, bịa
đặt như đã viết ra không?’’

Trường hợp trung tá Vương Văn Ðông nằm trong câu


hỏi thứ nhất, nhân vật còn sống, tên thật. Trường hợp
thứ hai, còn sống, tên giả hay tắt, tôi đã viết trong
truyện Nhã Nam[56] sau khi đọc Mưa Nhã Nam của
Nguyễn Huy Thiêïp mùa hè năm 1995 tại Sàigòn, khi
chưa gặp nhà văn. Cả hai, hôm nay tôi đều đã gặp.
Không phải lý do quen biết cho phép tùy tiêïn hư cấu.
Người viết truyện phải ý thức và làm chủ tự do biến
dạng lịch sử, con người, cũng như đời sống trong tác
phẩm mình. Với Nguyễn Huy Thiệp, tương đối đơn
giản, Nguyễn Huy Thiêïp miêu tả mọi nhân vật một
cách cực thực, cay độc, tàn nhẫn, lạnh tanh, và đôi
khi bí hiểm không giải thích như trường hợp Con Gái
Thủy Thần. Tại sao tôi không có quyền miêu tả nhà
văn, bằng chính giọng văn cộc lốc của nhà văn, qua
đó, trông thấy toàn cảnh xã hội, đất nước nơi nhà văn
đang sinh sống? Và tại sao không hư cấu cho
Nguyễn Huy Thiệp mua lại căn nhà của Nguyễn Ứng
Long dọn vào bán quán, khi hôm nay mua bán nhà
đất đang là thời trang và Nguyễn Huy Thiệp đã mở
nhà hàng Hoa Ban, trong một thời gian dài đã băn
khoăn với Nguyễn Trãi, vườn vải Lệ Chi Viên, đã lùng
kiếm những dấu hiệu lịch sử? Trường hợp Nguyễn
Huy Thiệp không khó biện giải, giới sáng tác thường
hay viết về nhau, một cách khắc họa chân dung thần
thái của lẫn nhau, xưa ngâm vịnh, nay viết truyện.
Xuân Sách lúc trước làm thơ tả Tố Hữu, máu ở chiến
trường hoa ở đây, không ra ngoài truyền thống này.
Nguyễn Khải bố đẻ Vinh Hoa cũng xuất hiện trong
Phẩm Tiết, Vũ Hồng Khanh[57], đức hộ pháp Phạm
Công Tắc[58], giám mục Lê Hữu Từ[59], rồi bác sĩ Trần
Kim Tuyến[60] đi cải tạo trong tác phẩm Nguyễn Khải,
lịch sử thường xuyên lập lại đầy nhân quả và ý thức.

Trường hợp Vương Văn Ðông có khác.

Khác trước hết ở câu hỏi Binh biến 11 tháng 11.1960


là một biến cố lịch sử, nhưng Vương Văn Ðông có là
một nhân vật lịch sử hay không khi khoảng cách thời
gian chưa đủ, khi cấp bực trung tá chưa cao? khi sử
ký chưa xem biến cố tầm cỡ? Với tôi, ở vị trí  người
viết truyện, không thấy quan trọng.

Khi quyết định binh biến, Vương Văn Ðông đã quyết


định hiến thân cho lịch sử. Trung tá không thành
công, đó là vấn đề riêng của ông, nhưng khi đảo
chánh, vô tình và hữu ý ông đã va chạm an nguy
chung của người Việt, thay đổi tương lai của dân tộc,
miền Nam cũng như miền Bắc. Ai biết? Nếu thành
công ông sẽ sáng suốt tránh cho VNCH sụp đổ năm
75? Và ai biết, thất bại binh biến khiến các cuộc đảo
chánh về sau tổ chức kỹ lưỡng hơn? Làm suy yếu
nền đệ nhất Cộng Hoà nhiều hơn? Ðược làm vua,
thua làm giặc, nhưng thành hay bại, Vương Văn Ðông
cũng đã đổi thay định mệnh của đất nước, ông bắt
buộc phải để cho người Việt phán xét chính bản thân
ông và cuộc đảo chánh. Tôi phán xét ông bằng thể
loại tiểu thuyết. Thủ pháp hiện thực huyền ảo khiến
ông bị biến dạng nhiều, nhưng Vương Văn Ðông
không thể đem danh dự sĩ quan quân lực VNCH ra
phản đối. Danh dự đó biến mất, không còn nữa ngày
trung tá quyết định truất phế tổng thống Ngô Ðình
Diệm, tổng tư lệnh tối cao quân lực. Ông chỉ có thể
kiện ra toà vì tội thoá mạ danh dự cá nhân, bôi bẩn
đời sống riêng tư của vợ chồng ông. Danh dự cá nhân
hiểu trong nghĩa dân sự sau binh biến, trước đó, đời
sống quân đội đã thuộc về lịch sử.

Ðến đây, khác với quan niệm tiểu thuyết của giáo sư
Nguyễn Văn Trung, khi giáo sư yêu cầu chỉ nên
tưởng tượng phần đời tư của nhân vật, tôi nghĩ khác,
cần tập trung hư cấu phần đời công hiến trao cho tổ
quốc không còn quyền gìn giữ, phần liên quan trực
tiếp đến lịch sử, mục đích tối thượng và tối hậu chính
vì sao nhà văn đem họ vào trong tiểu thuyết. Dưới
góc độ này, đêm hợp cẩn của Nguyễn Huệ với Ngọc
Hân công chúa từ một dàn xếp chính trị giữa triều Lê
với Tây Sơn, chỉ có thể là một đêm hợp cẩn...công
cộng, có quyền hư cấu. Cũng từ dàn xếp tân hôn-vu
quy này, người viết tiểu thuyết có quyền nghi ngờ tình
yêu thắm thiết của Hân dành cho Huệ, nghi hoặc
những ái ân mặn nồng từ thuở ban đầu cho đến phút
cuối, ngay cả khi có trong tay văn bản bài phú Ai Tư
Vãn của Lê Ngọc Hân. Trong lịch sử văn học đã
không hiếm thi sĩ làm thơ khóc thương lãnh tụ cho dù
trong lòng ráo hoảnh khô khan không một giọt nước
mắt. Trường hợp Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh như
vậy không khác, chỉ khác ở thiên tài quân sự của
Quang Trung và thành công vương quyền của Gia
Long. Cả hai đều đã thay đổi tương lai và định mệnh
của từng người Việt, và từng người Việt có quyền nghi
ngờ, thể hiện nghi ngờ của mình về họ, dưới mọi hình
thức. Người viết tiểu thuyết có quyền băn khoăn về
tập thể và phô diễn băn khoăn đó trong tiểu thuyết,
một thể loại mà chức năng nghi hoặc đã phủ trùm
một cách tự nhiên. ‘‘Le Doute’’ hay ‘‘Nghi Hoặc’’,
chiếc chìa khoá mở mọi cánh cửa đã đóng im ỉm suốt
nhiều ngàn năm. Viết như vậy không có nghĩa phải
viết tiểu thuyết hiện sinh mà đa số nhà văn Việt chỉ
biết đến thương hiệu, không nắm vững ý nghĩa. Viết
như trên chỉ để chứng minh, ‘‘nghi hoặc’’ là bản năng
lý trí của con người trong vũ trụ, trên thế giới, dù cấm
cản vẫn hiện hữu, dù che dấu vẫn tồn tại, dù giới hạn
vẫn rộng lớn. Vậy hãy để người viết tiểu thuyết viết
thẳng ra trang giấy những nghi hoặc của họ nếu
muốn tôn trọng sự thật. Một Sự Thật của Con Người.

Quanh đi quẩn lại chúng ta lại trở về với sự thật. Và


quanh đi quẩn lại chúng ta vẫn quẩn quanh trong vần
đề kỵ huý của tôn thờ, đền thờ và thần tượng khi giáo
sư Nguyễn Văn Trung nhận xét truyện ngắn Linh
Nghiệm của Trần Huy Quang:‘‘Ít ra có hai người hôm
nay được biết là can đảm nói đến ông Hồ. Kim Hạnh,
chủ trương biên tập báo Tuổi trẻ đã đăng một tin
chính xác: «Bác có vợ»  mặc dầu biết rõ nói lên điều
đó là một vi phạm cấm kị. Trần Huy Quang viết
truyện ngắn Linh Nghiệm đăng trên Văn Nghệ số 27
(4-7-1992), không nêu đích danh tên Bác, nhưng
người đọc không thể nghĩ về ai khác ngoài Bác. Cả
hai tác giả và những người trách nhiệm tờ báo đều
phải trả giá. Trần Huy Quang mới bước vào cuộc đời
viết văn, chưa rõ tài năng để được yêu chuộng,
nhưng đã được kính trọng, cảm phục về lòng can
đảm và lương tâm nhà văn.[61]’’

Ðến đây, giáo sư có hay không mâu thuẫn với những


gì ông đã viết[62]? khi Trần Huy Quang hay Kim Hạnh
cũng đã gây bực tức cho những gia đình bảo hoàng
vẫn còn bàn thờ nhang khói chủ tịch Hồ Chí Minh?
Nếu Kim Hạnh đã can đảm chu toàn chức năng một
ký giả công bố tài liệu chứng từ do phòng Nhì Pháp
lưu trữ, trường hợp Trần Huy Quang gây thắc mắc.
Qua truyện ngắn Linh Nghiệm, giáo sư Nguyễn Văn
Trung đặt thẳng vấn đề quan điểm lập trường với giới
sáng tác: Nhà văn theo ai? phò Lê theo chúa Trịnh
hay phò Lê theo chúa Mạc? Chúa Nguyễn hay Tây
Sơn? và Tây Sơn nào? Nguyễn Nhạc hay Nguyễn
Huệ? Ðứng trước… binh biến, khi Huệ kéo quân về
Quy Nhơn đảo chánh dưới chân thành chưởi mắng
anh ruột Nguyễn Nhạc, nhà văn phải chọn
lựa phe   nào tốt, phe nào  xấu? như Ngô Gia Văn
Phái sau binh đao đã chọn Gia Long khi viết Hoàng
Lê Nhất Thống Chí rồi sau chiến tranh Nam-Bắc
1975 Nguyễn Mộng Giác đã chọn Quang Trung khi
viết Sông Côn Mùa Lũ[63]?

Tôi không tin bước sang thế kỷ 21, tiểu thuyết gia
thiếu tự do tinh thần như vâïy, ít nhất với những tác
giả may mắn thụ hưởng bộ luật Cộng Hoà của nền
Cộng Hoà Pháp hay đạo luật Dân Chủ của Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ cho phép chế diễu các vị
nguyên thủ quốc gia trong báo chí, trên truyền hình.
Giới hạn hay thu hẹp tự do tinh thần đó, sẽ đưa đến
triệt sản trong sáng tác, tương tự áp dụng cưỡng bách
bộ luật Hồng Ðức ‘‘Quân, Sư, Phụ’’ trên khắp các lục
địa có nhà văn Việt sinh sống. Giáo sư Nguyễn Văn
Trung quên mất, chọn lựa nào cũng mất mát và công
pháp Hoa Kỳ, một công pháp cho phép thư ký
Monica Lewinsky lôi hoàng thượng Bill Clinton ra toà
xứng đáng áp dụng trong các toà án nhân dân Việt
Nam.

Chắc chắn bài vị hay kỵ huý lẫn zâm zục[64] không


phải là vấn đề lớn của tiểu thuyết. Tất cả những nhà
văn đích thật đều đủ can đảm vượt qua cấm kỵ. Vấn
đề quan yếu hơn hết: Quan niệm tiểu thuyết của một
ngườøi viết văn? Ở đâu? Ra sao? Như thế nào? Nhà
văn, anh muốn gì? tìm gì? và thể hiện cách nào điều
anh nghĩ, điều anh muốn và điều anh đã tìm thấy?

Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã rất quan tâm đến


những câu hỏi này và ông đã giới hạn cho giới sáng
tác, phần nào những khó khăn của nghề văn: ‘‘ Nhà
viết tiểu thuyết lịch sử chỉ được tưởng tượng phần đời
tư của nhân vật, không được thay đổi những sự kiện
lịch sử đã được nhìn nhận. Và dù viết sử hay tiểu
thuyết lịch sử cũng đều phục vụ mục tiêu trình bày
bài học lịch sử. Những phân biệt này đã không cho
phép người viết tiểu thuyết lịch sử tùy tiện trình bày
nhân vật lịch sử theo chủ quan của mình, trái lại phản
ảnh quan điểm của người dân, quần chúng thường
chỉ do sự khôn ngoan của lương tri soi sáng  (?)[65]’’.

Quan niệm của giáo sư, như thế, rất gần với quan
niệm tiểu thuyết của Tây phương thế kỷ 19. Victor
Hugo, Honoré de Balzac, Alexandre Dumas và Emile
Zola, những gương mặt rực rỡ của tiểu thuyết Pháp
thế kỷ 19, đều đã xây dựng tác phẩm trong cách thức
kể chuyện cổ điển với thời gian tuyến tính, tập trung
quan sát tả thực và phân tích tâm lý. Xã hội bên
ngoài ra sao, bên trong tiểu thuyết y như vậy. Con
người ngoài xã hội trông thấy bằng mắt trần như thế
nào, trên trang giấy đọc bằng mắt trần y như thế. Và
lịch sử đồng nghĩa biến cố tập thể có kiểm chứng.

Dumas, Hugo viết tiểu thuyết cách nào? Có thể chép


lại lần nữa, tóm lược của giáo sư Nguyễn Văn Trung
đã dẫn: “Vì tiểu thuyết lịch sử không những chỉ cần
tài liệu sử liên quan trực tiếp đến các nhân vật lịch sử
về đời công, hoạt động chính trị, quân sự, cầm
quyền, bối cảnh chính trị, xã hội thời đại của họ, mà
còn cần tài liệu liên quan đến đời tư (gia đình, tình
cảm, giao tế, cách ăn mặc). Người viết truyện sẽ
dựng lại cuộc sống cụ thể của họ trong hoàn cảnh và
thời đại… Ðặc biệt các đoạn văn tả các nhân vật đối
thoại với nhau: lối xưng hô như thế nào thời đó [66].’’ Vô
cùng rõ ràng. Tiểu thuyết phải tái tạo sự việc một
cách hiện thực, cụ thể, rõ mồn một. Nhà văn hư cấu
trong chi tiết, không thay đổi bối cảnh, những biến cố
lớn, thậm chí đến tâm tình, quần áo, lời ăn tiếng nói
của nhân vật lịch sử. Tiểu thuyết mang chức năng
của máy chụp hình lồng tiếng, có phụ đề, chỉ có thể
thêm đôi ba người ảnh mà ống kính xưa không thâu
hết. Victor Hugo khi thao thức lương tâm trong Những
Kẻ Khốn Cùng, Alexandre Dumas khi kể chuyện thập
tự-đại bác của xã hội tôn giáo-quyền lực dưới thời
hồng y Armand-Jean de Richelieu trong Ba Chàng
Ngự Lâm Pháo Thủ đã không ra ngoài toát yếu cần
ghi nhớ đó.

Thời điểm tháng 12.2002, khi giáo sư Nguyễn Văn


Trung viết những dòng trên, ở Pháp xẩy ra hai sự
kiện. Cuộc tranh luận trao giải Goncourt 2002 cho
nhà văn Pascal Quignard với tác phẩm Les Ombres
Errantes trong trường thiên Le Dernier Royaume [67] và
nghi lễ long trọng cất linh cửu Dumas vào điện
Panthéon, nơi an nghỉ của các vĩ nhân. Alexandre
Dumas, gương mặt của văn chương cũ và Pascal
Quignard, tác giả của  hư cấu tùy tiện. Cuộc tranh
luận phù du, giới sáng tác theo dõi chỉ giữ lại những
hốt hoảng của phê bình hàn lâm: “Tiểu thuyết lịch sử
ở Pháp đã chết, chôn vùi trong những văn bản kỷ
xảo, mất hết khả năng chuyên chở thời đại![68]”.

Thật sự, hàn lâm không sai. Nhiều thập niên qua,
ngoại trừ feuilletons, không có cuốn tiểu thuyết phẩm
chất nào về chiến tranh Algérie, nỗi ám ảnh không rời
của nền đệ ngũ Cộng Hoà hay cuộc nổi loạn trí thức
tháng 5.1968 trên đường phố Paris. Tiểu thuyết Pháp
đã không ghi lại những biến cố lịch sử lớn sau cùng
này, hay đúng hơn đã không ghi lại dưới dạng roman
historique.  Guy Scarpetta, bình luận văn học cho báo
Le Monde đặt câu hỏi: “Văn chương, chiếc gương soi
của lịch sử?”[69].  Georges Luckas trước đó, tuyên
bố:  “Roman historique đã trở thành một thể loại phế
tích không còn hợp thời nữa[70]”. Vì sao? Vì những dấu
hiệu sự thật mà tiểu thuyết lịch sử truyền thống có thể
trưng bầy đã bị các thể loại khác cướp mất. Diễn văn,
hồi ký, tiểu luận, biên khảo, luận án, phóng sự, báo
chí, v.v.. diễn đạt gấp trăm ngàn lần sự thật lịch sử
này, trong chi tiết, với tư liệu chuẩn xác, với độ dày
nghiên cứu công phu, hình ảnh đính kèm, mà tiểu
thuyết không sao sánh bằng. Ðể đạt đến mức chuẩn
xác khoa học đó, tiểu thuyết sẽ mất đi chất hư cấu,
cốt lõi của sáng tạo sẽ đồng hoá với các thể loại
đồng hành. Chính vì không muốn bán linh hồn cho
quỷ mà các nhà văn phương Tây đã dần dần thôi viết
tiểu thuyết lịch sử.

Thật ra, họ vẫn tiếp tục viết nhưng không dưới dạng
thức của thế kỷ 19. Nghi lễ long trọng diễn ra tháng
12.2002 trước công chúng đông đảo chứng kiến tro
tàn của Alexandre Dumas vào yên nghỉ nghìn thu
trong điện Panthéon cách đây 6 tháng, mang một ý
nghĩa đặc biệt: Cái chết vĩnh viễn của tiểu thuyết lịch
sử truyền thống mãi mãi  thuộc về quá khứ. Dạng tiểu
thuyết mà giáo sư  Nguyễn Văn Trung trong cùng thời
điểm, bên kia Ðại Tây Dương, vẫn kiên trì đòi hỏi nhà
văn Việt thể hiện trong sáng tác. Giáo sư Nguyễn
Văn Trung với tất cả tấm lòng yêu quý văn chương
nghệ thuật trông đợi nhà văn Việt tra cứu chuyên cần,
am tường và chuyên nghiệp hơn nữa mỗi khi va chạm
lịch sử. Nhưng nếu sáng tác chấp nhận tức khắc yêu
cầu lục lọi, sưu tập, tìm kiếm và tra cứu tư liệu của
giáo sư, rất đông sẽ phủ nhận kết luận: Không nên
tùy tiện. Giữa tra cứu và tùy tiện là hai vấn đề khác
nhau. Am tường để tùy tiện hơn nữa, nghiên cứu kỹ
lưỡng để phóng tay hơn nữa, luôn là nhu cầu của
sáng tác.

Tại sao? Rất giản dị: tại sao phải chép lại gần như
nguyên văn tài liệu? và người đọc tìm gì trong tiểu
thuyết nếu có thể tìm thấy sự thật lịch sử trong thư
viện? Chức năng của tiểu thuyết hiện đại không
nhằm và không được quyền mô tả khái quát thực tế
của thế giới đã ghi chép, phân tích, sao lục, mổ xẻ,
chiếu X quang một cách tường tận trong những bộ
môn không hư cấu. Tại sao vậy? Vẫn rất giản dị, vì
có những điều chỉ có tiểu thuyết mới có thể trình bầy,
như công thức lừng danh ce que seul le roman peut
dire của Hermann Broch trong La Mort de Virgile.
Tiểu thuyết, thể loại được khai sinh, để nói lên điều
này, điều mà biên khảo, tiểu luận, sử ký, hồi ký,
phóng sự, báo chí và cả phê bình không thể nói. Tiểu
thuyết gia thế giới đã hiểu rất nhanh chức năng này.
Chức năng tách rời những khung cửa sổ tràn ngập
ánh sáng của chính sử luôn che đậy những vũng tối
ẩm thấp ra khỏi ngôi nhà hoang vắng nhưng rất nhiều
mồ mả để tìm hiểu phản ứng tâm lý của con người khi
không còn nắng. Chức năng ghi nhận những kinh
nghiệm nhân loại mà sử gia không quan tâm hay
không thấy giá trị. Chức năng làm ngã bổ những định
kiến chắc chắn, chính thống, làm sụp đổ những khái
niệm vĩnh hằng của thế giới vững tin đã định hình,
yên trí đã bất biến và thám hiểm những mặt khác của
vạn vật, v.v.. Có thể viết thành nhiều cuốn trường
thiên không chứa hết những chức năng không quy
ước vô tận này. Những chức năng sinh ra từ tự do tinh
thần tuyệt đối của tiểu thuyết gia trong thế kỷ 20.

Ðể thực hiện các chức năng không quy ước đó, có


nhiều thủ pháp, trường phái. Vẫn theo Guy
Scarpetta[71], một trong những khuynh hướng chính
hôm nay, và gần như con đường cho phép tất cả,
nằm trong lối thoát phi hiện thực. Hôm nay? thật ra
đã một thế kỷ. Tính từ khi Hermann Broch trong Les
Somnambules và Robert Musil trong L’Homme Sans
Qualité mô tả xã hội bên trong của đế quốc Áo-Hung,
nêu bật lên hình ảnh thế giới sinh sống trên một lỗ
thủng trống không những giá trị, và chính khoảng
trốâng không đó đưa đến man rợ của thế chiến thứ
nhất. Trong cùng mục đích, Aragon với những tiểu
thuyết hiện thực Les Cloches de Bâle, Les Beaux
Quartiers, Les Voyageurs de l’Impériale cố gắng tả
thực một thế giới thực những năm 30-40, đã không
mô tả được gì khác hơn xã hội đã được Balzac và
Emile Zola mô tả. Frank Kafka kể chuyện người hoá
bọ hoàn toàn không hiện thực, nhưng ghi lại toàn bộ
sự thật tâm lý con người trong xã hội và William
Faulkner ở Hoa Kỳ ghi nhận lịch sử hơn tất cả những
đồ đệ của Dumas, Balzac. Gần hơn, trong chiều
hướng chẩn đoán tâm thần nổi tiếng Le crime
commis en commun, “tội ác tập thể” của Sigmund
Freud, không phải những nhà văn hiện thực, nhưng
Kenzanurô Oé, một nhà văn viết tự truyện giả tưởng,
chuyên thám hiểm những vùng đất tạp kịch lộn xộn,
đã soi chiếu cho nhân loại tâm thức tội phạm ẩn náu
trong con người Nhật Bản gồng gánh và chịu đựng
lịch sử Nhật Bản[72]. Sau Ðông Âu, cũng không phải
trào lưu hiện thực, nhưng những truyện giả tưởng
phức tạp La Longue Vie des Marx, Etat de Siège,
nhồi nhét hư hỏng của Juan Goytisolo vẽ cho người
đọc vực thẳm phía sau cuộc chiến Nam Tư, phía sau
bức tường Bá Linh. Juan Goytisolo thuộc trường phái
huyễn tưởng của Jorge Luis Borges. Chưa hết, Milan
Kundera, thần tượng đang lên của sáng tác Việt,
chuyên gia khảo sát thế giới Cộng Sản cũng không
hoàn toàn là một nhà văn hiện thực, và dĩ nhiên, thế
giới biết đến những thần kỳ Nam Mỹ, những hợp âm
phù du chồng chất qua Gabriel Garcia Marquez và
Carlos Fuentès[73]. Vẫn chưa hết, đời sống di dân
chìm đắm trong thời kỳ hậu thuộc địa, pha trộn văn
hoá vẫn do một nhà văn không hiện thực trình bày,
Salman Rushdie[74], trường phái fantastique.

Những nhà văn kể trên, đã tạo ra một loại tiểu thuyết


mới, không truyền thống, và không bó buộc với
những nhân vật lịch sử có thật nhưng vẫn ghi lại đầy
đủ biến chuyển lịch sử của thế giới từ những biến cố
nhỏ nhặt như thay đổi cá tính của dân làng hẻo lánh
Macondo sau chứng bệnh mất ngủ trầm kha kinh
niên, mà độc giả khi đọc Trăm Năm Cô Ðơn của
Marquez hiểu như nỗi băn khoăn thường trực trước
nội chiến, trước xâu xé văn hoá bản địa-Tây Ban Nha
của sắc dân Nam Mỹ vừa chấp nhận, vừa thù ghét,
nhưng không lối thoát, khiến không thể chợp mắt cho
đến lúc lú lẩn phản xạ máy móc - đến biến cố tầm cỡ
như sự phân hoá của xã hội Roumanie, khi nhân vật
Mina Bailar, một thiếu nữ trẻ đột nhiên tin tưởng mình
sinh ra từ bắp đùi của Kafka, mang những tế bào của
một con bọ, không thể nằm ngửa, chỉ có thể ngủ sấp.
Maria Mailat, tác giả đang lên của tiểu thuyết ngoại
quốc tại Pháp, không ngần ngại sử dụng ảo thuật lẫn
hoang đường, khi cho một mụ phù thủy kiêm bói toán
Tzigane truyền cho tất cả đàn ông Roumanie tội ác
ngay khi sinh ra và thổi lên những cô gái chuẩn bị
làm vợ bản năng khâu vá mọi thứ cùng sức mạnh trí
tuệ với khả năng tiếp xúc các nhà văn lưu vong
Eugène Ionesco, Emile-Michel Cioran đã chết nhưng
hiện trở về và kể cho họ nghe lịch sử Roumanie sau
khi chỉ ra con vi khuẩn gớm ghiếc truyền nhiễm lây
lan gây bệnh của vùng Balkan-Transylvanie[75]. Một
tác giả khác, Léo Pérutz bạn thiết của Kafka, ngay từ
đầu thế kỷ đã ghi nhận tâm khảm sợ hãi của thanh
niên Do Thái sinh sống ở Tiệp Khắc khi cho những
họa sĩ trẻ, bất lực trước nghệ thuật tạo hình đi tìm
Dracula cầu khẩn quyền lực của bóng tối nhưng van
nài xin tha cắn cổ. Bá tước Dracula, vị vương tửû của
địa ngục, đã… nói huỵch toẹt bản chất bủn xỉn và yếu
đuối của dân tộc Do Thái trước chủ nghĩa Phát Xít
đang bùng nổ:“Ở tuổi các anh, mất chút máu cũng
tiếc?”[76]

  Tiểu thuyết, như thế, từ rất lâu đã rẽ sang nhánh


không hiện thực này. Rất nhiều tiểu thuyết gia hàng
đầu trên thế giới đã chọn con đường từ bỏ hiện thực
để biểu trưng suy nghĩ của mình. Ảnh hưởng của hiện
sinh gần như biến mất. Ảnh hưởng thiên anh hùng ca
của André Malraux và Ernest Junger, cũng biến mất.
Còn lại chủ nghĩa không anh hùng của Ernest
Hemingway và Claude Simon.

Ðến cuối bài viết, đọc lại, dường như do không am


tường phương pháp luận khiến phần chứng minh đảo
và phản chứng sự thật đã rất mong manh. Nhưng
không lẽ, chỉ vì mình không nắm vững hiện tượng
luận của Edmund Husserl mà sự thật trong lòng mỗi
nhà văn không tồn tại? Chắc chắn trong mỗi tiểu
thuyết gia đã có niềm tin thần thánh mỗi khi trước tác.
Nếu triết học thường chứng minh sự hiện hữu cá nhân
bằng hiện diện của kẻ khác, trong tiểu thuyết sự thật
của nhà văn hiện hữu ngay khi có độc giả đầu tiên
chia sẻ. Trường hợp độc giả không chia sẻ như giáo
sư Nguyễn Văn Trung đã không chấp nhận, đưa đến
vấn đề của sự thật. Và có vấn đề của sự thật.

Khi đòi hỏi sáng tác hư cấu trong giới hạn và trách
nhiệm, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã yêu cầu tái tạo
trong tiểu thuyết một sự thật của chính sử, và nếu
bước ra ngoài chính sử cần có bằng chứng, hoặc tập
thể kiểm nhận. Sự thật đó, hoàn toàn vật chất và cố
định, không sai nhưng không đủ, và cũng không tuyệt
đối. Trong vật lý, Heisenberg đã từ lâu chứng minh
con người chỉ có thể xác định chính xác hoặc vị trí
hoặc vận tốc của một hạt điện tích hay hạt nguyên tử,
nhưng không thể cả hai cùng một lúc. Một cách khác,
mọi toan tính để tìm biết giá trị của một thông số đem
đến hậu quả làm nhiễu loạn không thể dự kiến những
thông số khác của hệ thống. Nguyên lý Bất
Ðịnh[77] của Heisenberg minh chứng một chuyện
khủng khiếp, sự thật này hủy hoại sự thật kia.

Trong triết học, Henri Bergson định nghĩa sự thật


không do dự: “Sự Thật, là điều mà triết học chưa bao
giờ thẳng thắn chấp nhận khả năng sáng tạo liên tục
những mới lạ không thể dự báo”[78]. Với Bergson, sự
mới lạ đưa đến đứt đoạn thời gian, và chính sự mới lạ
chỉ có thêû kiểm nghiệm trong hiện tại đã chặt đứt
quá khứ, qua đó, tìm thấy bản chất thật của vũ trụ,
sức sáng tạo của thời gian. Triết học Bergson, hôm
nay được công nhận, bảo chứng hùng hồn cho nhãn
hiệu bảo hiên rồng vàng của các nhà văn trên thế
giới đã không ngừng đổi mới sáng tác và khi thay đổi
các dạng thức tiểu thuyết, họ đã thể hiện sự thật
Bergson và săn lùng sự thật của chính họ. Không
phải Bergson không gặp chống đối, và một chống đối
tầm cỡ. Ngày 6 tháng 4 năm 1922, Einstein sang
Pháp tham dự hội nghị triết học về thuyết Tương Ðối
đã bực bõ trước ghi nhận mang tính cách phủ định
của Bergson phân chia thời gian của triết học và thời
gian của vật lý[79]ù. Bực tức đến mức trong thư viết
cho Solovine một năm sau, Einstein phê phán gay
gắt:“Bergson, trong cuốn sách của hắn về thuyết
Tương Ðối, đã phạm những sai lầm quái vật, Chúa
tha tội cho hắn”[80]. Ở đây, đã có hai sự thâït cá nhân
dị biệt, được hai tập thể khác biệt Vật Lý và Triết Học
công nhận. Trong cả hai trường hợp, sự thật của hai
cá nhân thông thái xảy đến trước và ảnh hưởng lên
sự thật của tập thể về sau.

Cũng giống Bergson, Heisenberg giải Nobel vật lý


1932 gặp chống đối dữ dội của Nobel vật lý 1929
Louis de Broglie không chấp nhận tính vô định thực
sự[81]. Theo De Broglie, thuyết vô định của
Heisenberg chỉ phản ảnh tình trạng thiếu kiến thức
nhất thời của nhân loại, mà trong tương lai, có thể,
khoa học sẽ tiến bộ, sẽ nắm bắt vấn đề dưới góc độ
khác[82]. Như vậy, trong vật lý, một khoa học chính
xác, các nhà khoa học luôn luôn đặt lại vấn đề về
những xác thực đã thiết lập vững vàng. Như thế, tại
sao trong tiểu thuyết, một khoa học không chính xác, 
nhà văn không có quyền nghi hoặc đức độ của một
minh quân, không có quyền hư cấu vô giới hạn và
chiêm nghiệm hiện thực từ một góc độ khác, khi nhân
loại hôm nay đã biết rõ và hiểu ra sự thật thay đổi
trong thời gian và hoán chuyển tùy góc độ khảo sát.
Trong toán học, đã từ rất lâu không còn một ai tin vào
sự thật tuyệt đối, chỉ có sự thật cho những khung
riêng biệt với những tiên đề sắp sẵn không chứng
minh. Kinh thánh, một sự thật tập thể to lớn xây dựng
trên khuôn mẫu này với tiên đề là đức tin đừng thắc
mắc. Do đó, sự thật trong kinh thánh chỉ đúng cho tập
thể Công Giáo, không ứng nghiệm với tập thể Hồi
Giáo hay Phật Giáo. Sự thật của một cuốn tiểu
thuyết, đúng cho cuốn tiểu thuyết đó và thuyết phục
tập thể độc giả chia sẻ sự thật đó. Khác vật lý, tiểu
thuyết khảo sát sự thật từ nhiều góc độ nhưng không
cần chứng minh[83]. Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã
lầm lẫn khi đòi hỏi áp dụng công thức của thế kỷ 19
vào trong khung tiểu thuyết hôm nay xây dựng trên
tiên đề axiome của thế kỷ 20-21. Không thể đòi hỏi ở
ánh điện néon những tia lửa bập bùng của đèn cầy,
đặc biệt khi con người vẫn chưa thể phân chất lửa,
một sự thật cháy bỏng từ nhiều triệu năm.

Ponce Pilate, tổng lãnh binh La Mã của vùng Judée,


sau khi giao Jésus Christ cho tập thể đóng đinh, đã
nói với dân Do Thái: “Tôi vô tội trước cái chết của
người này, các anh chịu trách nhiệm”. Ponce Pilate,
gương mặt không thể thiếu của lịch sử Công Giáo,
sau khi giao Ðấng Trời cho đám đông hành quyết, đã
trở vào cung điện kêu lên trong tuyệt vọng:“ Ðâu là sự
thật?”

Sự thật nằm trong kinh thánh. Cựu Ước và Tân Ước,


những cuốn tiểu thuyết hiện thực huyền ảo.

09/ 06/ 2003


 

[1]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận Vấn Ðề Nhân Vật Lịch
Sử: Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh và Những Cách Tiếp Cận,
tạp chí Văn Học số 200 tháng 12.2002
[2]
 Gió Lửa của Nam Dao, Mùa Mưa Gai Sắéc của Trần
Vũ, Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác, Phẩm
Tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Tâm Sự Gia Long của Trần
Nghi Hoàng, Gia Long Tẩu Quốc của Tân Dân Tử, Ðem
Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn Mạnh Côn, Mơ Thành
Người Quang Trung của Duyên Anh
[3]
 Thụy Khuê phê bình Trường Hợp Trần Vũ và Sử Thạch
Nguyễn Huy Thiệp
[4]
 Nguyễn Gia Kiểng tham luận chính trị Tổ Quốc Ăn Năn,
Cao Văn Luận hồi ký Bên Dòng Lịch Sử
[5]
 Trương Vĩnh Ký biên khảo sử ký Cours d’Histoire
Annamite, Tạ Chí Ðại Trường Lịch Sử Nội Chiến Việt
Nam, nhóm Tân Ðịnh – Sử Ký Ðại Nam Việt Quốc Triều
[6]
 Tiểu luận văn học Gió Lửa Mô Hình Xã Hội Trong Tiểu
Thuyết Lịch Sửû của Phạm Trọng Luật, Tại Sao Phải Là
Nguyển Huệ của Trương Vũ, Thời Ðiểm Của Câu Hỏi-
Thời Ðiểm Của Con Người của Trần Ðạo (Phan Huy
Ðường), tranh luận Vấn Ðề Của Chúng Ta của Lam Sơn
[7]
 Nguyễn Mạnh Trinh Ðọc Cái Chết Sau Quá Khứ của
Trần Vũ, Văn Thanh Vài Suy Nghĩ Về Cuốn Sách Truyện
Người Viết Sử
[8]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[9]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[10]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[11]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[12]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[13]
 Trương Vũ, Tại Sao Phải Là Nguyễn Huệ, Hợp Lưu
5.1992, đề nghị tương tự thay tên nhân vật lịch sử
[14]
 Tuyệt đại đa số các thiên tử Việt Nam đều băng hà vì
chiến tranh xâm lược-nội chiến, do gian thần hoàng thân
quốc thích hãm hại trong bóng tối, hay chịu bức tử trong
âm thầm lặng lẽ của những đổi ngôi bí mật, không do ý
thức và hành động của quần chúng.
[15]
 hư cấu riêng của người viết, trên Marie-Antoinette
1755-1793   
[16]
 hư cấu riêng của người viết, trên Ludwig Van
Beethoven 1770-1827
[17]
 Christophe Bataille, Annam, Le Seuil 1993, có thể xem
thêm tiểu thuyết Absinthe, Arléa 1994
[18]
 Christophe Bataille, sách đã dẫn
[19]
 Le Serpent à Plumes, n° 27,  Printemps 1995
[20]
 Một số biên khảo Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Ðình
Hổ, Việt Nam Văn Hoá Sử Cương của Ðào Duy Anh, Phủ
Biên Tạp Lục của Lê Quý Ðôn và đặc biệt  Lịch Triều
Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú ghi chép kỹ
lưỡng phong tục, nghi lễ, nghi thức, tế giao của triều đình
và dân gian Việt Nam, trên lý thuyết cho phép tạo mẫu
hàng mã hiện vật quá khứ. Nhưng trong thực tế, không tài
chánh, không phương tiện kỹ thuật, thiếu trách nhiệm và
tâm huyết khiến khoảng cách giữa văn bản và hình ảnh
vẫn tồn tại.  
[21]
 Giám đốc John Burger, trả lời phỏng vấn Thời Báo
Kinh Tế Sàigòn: sau SARS số phòng có khách đăng ký
trong khu vực giảm từ 80%  xuống 20%, Hilton Hà Nội
quyết định khuyến mãi trong tháng 4 chương trình «trả
bao nhiêu tùy ý với giá khởi điểm 1 USD», dành riêng
khách nội địa và khách nước ngoài lưu trú dài hạn. Tin
Việt Nam Net.
[22]
 Võ Nguyên Giáp, Những Năm tháng Không Thể Nào
Quên, nxb Quân Ðội Nhân Dân 2001
Võ Nguyên Giáp, Chiến Ðấu Trong Vòng Vây, nxb Quân
Ðội Nhân Dân 2001
Võ Nguyên Giáp, Ðường Tới Ðiện Biện Phủ, nxb Quân
Ðội Nhân Dân 2001
Võ Nguyên Giáp, Ðiện Biên Phủ-Ðiểm Hẹn Lịch Sử, nxb
Quân Ðội Nhân Dân 2001
[23]
 Lực lượng phòng vệ Vĩnh Yên cách Hà Nội 40 kms về
hướng Tam Ðảo, bao gồm trung đoàn 8 Spahis Algérie,
tiểu đoàn Mường với các đơn vị nhẹ tiểu khu dưới quyền
Galibert và liên đoàn 3 lưu động của trung tá Vanuxem.
Ðại tá Rodon chỉ huy toàn mặt trận.
[24]
 Quân chủ lực Pháp nằm ở Lục Nam-Cẩm Lý (đại tá
Erulin) và phía Bắc Hà Nội (đại tá Beaufre)
[25]
 Quân viện do tướng Chanson tư lệnh Nam Phần và
Lorillot tư lệnh Trung Phần trưng dụng Air France gởi ra
Hà Nội gồm 1 tiểu đoàn Lê Dương, 3 tiểu đoàn Bắc Phi
và 1 tiểu đoàn Dù ngay trưa 15.01.1950.
[26]
 Trong hai ngày 16 và 17.01.1950, De Lattre kịp huy
động tiểu đoàn 2 Nhảy Dù Thuộc Ðịa (2 ème B.P.C) ném
xuống Vĩnh Yên tăng cường cho Vanuxem. Rút liên đoàn
1 lưu động của De Castrie từ Lục Nam về Vĩnh Yên. Phản
công với liên đoàn 2 lưu động của Edon tăng phái tiểu
đoàn 10 Săn Giặc Nhảy Dù (10ème G.C.P.C) và chi đoàn
chiến xa M-24 từ Phúc Yên vượt Hương Canh theo đường
thuộc địa số 2 bọc sườn phía đông của Vĩnh Yên. Sau đó
tung liên đoàn lưu động Clément và tiểu đoàn 1 Dù
(1er B.P.C) quét mặt trận.
[27]
 Phân tích của Raoul Salan trong hồi ức Fin d’un
Empire, Presses de la Cité 1971: «Giáp quá tự tin sau
chiến thắng Biên Giới, đã tin có thể tràn ngập bằng biển
người cánh quân tăng viện, đã chấp nhận đánh giàn trận.
Giáp điều binh quá chậm, đã không khai thác thuận lợi
của hỗn loạn xảy ra sau triệt thoái Bao Chúc. Ðêm
14.01.1950, thay vì tập trung nỗ lực chính lên liên đoàn 3
lưu động đã mất tinh thần, Giáp đã chờ đợi, cho phép
chúng ta tăng cường Vanuxem và gởi viện binh, khiến
những đợt xung phong can đảm về sau của Việt Minh
trong hai ngày 16 và 17 hoàn toàn thất bại ».
[28]
 Theo trung tướng Salan, sách đã dẫn, 24 tiểu đoàn
quân chính quy Việt Minh (kiểm chứng chính xác 14 số
hiệu tiểu đoàn) bỏ lại chung quanh Vĩnh Yên 1280 xác
chết, 450 tù binh, ước tính tối thiểu 3000 thương binh.
Pháp bắn 50.000 đạn pháo binh 105 ly, 200.000 quả đạn
75 ly, 250 phi vụ oanh kích để yễm trợ cho 13 tiểu đoàn
tham chiến. Thiệt hại Pháp: 56 chết, 190 bị thương, 390
mất tích.
[29]
 Hoàng Văn Thái, Những Năm Tháng Quyết Ðịnh, Ðiện
Biên Phủ-Chiến Dịch Lịch Sử, nxb Quân Ðội ND
[30]
 Lê Trọng Tấn, Từ Ðồng Quan đến Ðiện Biên, nxb
Quân Ðội Nhân Dân
[31]
 Nguyễn Hữu An, Chiến Trường Mới, nxb Quân Ðội
Nhân Dân
[32]
 Hoàng Cầm, Chặng Ðường Mười Nghìn Ngày, nxb
Quân Ðội Nhân Dân
[33]
 Ðặng Vũ Hiệp, Ký Ức Tây Nguyên, nxb Quân Ðội
Nhân Dân
[34]
 Ðồng Sĩ Nguyên, Ðường Xuyên Trường Sơn, nxb Quân
Ðội Nhân Dân
[35]
 V.I Tchouikov, Au Début de La Route, Berlin 1961
[36]
 A.M Samsonov, De la Volga à la Baltique, Académie
des Sciences de l’URSS, Moscou 1963
[37]
 I. Koniev, La Libération de l’Ukraine et l’Arrivée sur La
Vistule, Moscou 1964
[38]
 A. I. Jeremenko, Stalingrad Notes d’un Commandant
de Front, Moscou 1961, Berlin 1964
[39]
 Heinz Guderian, Mémoires d’un Soldat, Heidelberg
1951
[40]
 Erwin Rommel, La Guerre Sans Haine, carnets
présentés par  Liđell-Hart,Presses de la Cité 1962 
[41]
 Eric Von Manstein, Les Victoires Perdues, Bonn 1955
[42]
 Charles de Gaulle, Mémoires de Guerre, Plon 1954
[43]
 Winston Churchill, Mémoires sur la Seconde Guerre
Mondiale, L’heure Tragique, L’Orage Approche, D’une
Guerre à L’Autre, La Drôle de Guerre, Plon
[44]
 Trương Duy Hy, Tử Thủ Căn Cứ Hoả Lực 30 Hạ Lào,
Xuân Thu tái bản
[45]
 Cao Xuân Huy, Tháng Ba Gẫy Súng, không nhớ nxb
[46]
 Hoàng Khởi Phong, Ngày N+,Văn Nghệ 1988
[47]
 Bảo Ninh, Nỗi Buồn Chiến Tranh, 1991
[48]
 Nguyễn Huy Thiệp, Những Ngọn Gió Hua Tát, nxb
Văn Hoá-Hà Nội 1989
[49]
 Thập niên 20, khi khởi nghiệp văn Borges sớm bị đồng
nghiệp rẻ rúng. Enrique Anderson Imbert, bình luận văn
học cho tuần san cánh tả La Vanguardia đã nghi ngờ tài
năng và trách cứ Borges quay lưng trước thực tế đói kém
của xã hội. Ramón Doll, lý thuyết gia cực hữu chưởi mắng
tác phẩm Borges mang mùi xú khí hôi thối. Tạp san
Mégafono phải tổ chức tranh luận về giá trị Borges.
Imbert sẽ trở thành một giáo sư đại học tiếng tăm ở Hoa
Kỳ và Doll, sẽ tham chánh. Thập niên 50, Á Căn Ðình
chịu chi phối bởi hai luồng tư tưởng Marx và hiện sinh,
khắc tinh của thể loại hoang tưởng, đưa đến những phản
ứng gay gắt của quần chúng và đàn áp của chính quyền
Péron. Nếu tính từ thi tập đầu tay Fervor de Buenos Aires
xuất bản 1923, cho đến La Nueva Generacion Thế Hệ
Mới, cuốn sách vinh danh Borges đầu tiên do Adolfo
Prieto biên khảo năm 1954, phải mất 3 thập niên nhà văn
mới được công nhận chánh thức trên chính quê hương
của ông.
[50]
 Các tác phẩm chính: La Bibliothèque de Babel xuất
hiện lần đầu năm 1941 trong tập 1 Le Jardin aux Sentiers
qui bifurquent, tái bản 1944 cùng với tập 2 Artifices, khởi
đầu dòng truyện huyễn tưởng của Borges (dịch sang
Pháp văn trong tập truyện ngắn Fictions, nxb Gallimard
1957).  Tiếp đó L’Aleph, Edition Losada xuất bản năm
1949 trong bộ sưu tập Les Prostateurs d’Espagne et
d’Amérique với các truyện ngắn L’Immortel, Les
Théologiens, L’Homme Sur Le Seuil,v.v.. tiếp nối mạch
truyện hoang đường này. Trước đó Histoire Universelle
de L’Infamie và Histoire de l’Eternité tập đôi xuất bản
năm 1935 chỉ bán được 37 cuốn (dịch sang  Pháp văn
năm 1951, nxb Rocher, Pléiade tái bản). Ngoài ra Otras
Inquisiciones, xuất bản 1952 tại Á Căn Ðình, bao gồm
các tiểu luận về bất tử và vô tận của Borges viết từ 1937
đến 1952 (dịch sang Pháp văn trong tập Enquêtes, nxb
Gallimard 1957, Pléiades tái bản dưới tựa gốc Autres
Inquisitions).
[51]
 Mai Ninh, Mưa Mùa Xa, Văn Xuân Quý Mùi chủ đề Ký
tháng 02.2003
[52]
 The Last Temptation of Christ, do đạo diễn Martin
Scorsese thực hiện năm 1988, phỏng  theo tiểu thuyết
của Nikos Kazantzakis viết về cuộc đời của Jésus
(Willem Dafoe), một thợ mộc sinh sống bằng nghề đóng
thập tự gỗ bán cho quân La Mã dùng đóng đinh các tử tội.
Một ngày Jésus gặp Judas (Harvey Keitel) rồi gái điếm
Marie-Madeleine (Barbara Hershey) sẽ đi theo anh lên
đồi Golgotha. Khác với diễn dịch chính thống trong phim
truyện của Franco Ziffirelli (version chánh thức được
Vatican cho phép), Jésus không sắm vai tiên tri, nhưng
trình diện như một nạn nhân của định mệnh, ngay cả
Judas không phản bội, nhưng yêu thương che chở Jésus
hết mực và Marie-Madeleine, là người duy nhất hiểu đấng
Christ. Tiểu thuyết Kazantzakis đảo ngược cách tiếp nhận
kinh thánh quen thuộc.
[53]
 Nguyễn Thị Hoàng, trích đoạn tiểu thuyết Người Yêu
Của Ðấng Trời, Hợp Lưu 71 tháng 06.2003
[54]
 C.L.S.M compagnie légère de supplétifs militaires, đại
đội nhẹ phụ lực quân
[55]
 Giáo Sĩ, trích đoạn tiểu thuyết đăng trên Hợp Lưu 68,
tháng 12.2002
[56]
 Truyện ngắn Nhã Nam, tạp chí Văn Học số 114 tháng
10.1995
[57]
Nguyễn Khải, Một Cõi Nhân Gian Bé Tí, nxb Văn Nghệ
TP HCM, 1989
[58]
 Nguyễn Khải, Ðiều Tra Về Một Cái Chết, không nhớ
nxb
[59]
 Nguyễn Khải, Thời Gian Của Người, nxb Tác Phẩm
Mới 1986
[60]
 Nguyễn Khải, Thời Gian Của Người, nxb Tác Phẩm
Mới 1986
[61]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[62]
 Giáo sư Nguyễn Văn Trung đưa ra 2 luận điểm: dùng
tên giả có quyền hư cấu, nếu dùng tên thật phải có bằng
chứng sự kiện đã diễn ra như vậy, nếu không sẽ là phỉ
báng. Trong trường hợp Linh Nghiệm, Trần Huy Quang
không dùng tên thật Hồ Chí Minh, giáo sư không mâu
thuẩn với luận điểm 1, nhưng đã không áp dụng luận
điểm 2, khi Trần Huy Quang không dựa trên chứng liệu
lịch sử nào cụ thể. Mâu thuẫn khác, giáo sư đã không hỏi
Trần Huy Quang “đi thăm đền thờ Hồ Chí Minh và gặp
những người tôn thờ Hồ Chí Minh, liệu có dám nói trước
mặt họ những điều xúc phạm, lăng nhục, bịa đặt như đã
viết ra không?’’
[63]
 Nguyễn Mộng Giác, Sông Côn Mùa Lũ, nxb An Tiêm
1991
[64]
 trong cùng tiểu luận đã dẫn, giáo sư Nguyễn Văn
Trung đặt vấn đề Dâm Tính dưới hình thức Tây Phương
trong sáng tác Việt Nam mà phạm vi khoanh vùng lịch sử
của bài viết này không cho phép triển khai, xin đề cập
đến ở một dịp khác.
[65]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[66]
 Nguyễn Văn Trung, tiểu luận đã dẫn
[67]
  Pascal Quignard, Dernier Royaume, 3 tập: Les
Ombres Errantes, Sur le Jadis, Abimes, nxb Grasset
2002
[68]
 Guy Scarpetta, La Littérature, Miroir de l’Histoire? Le
Monde Diplomatique, Mars 2003
[69]
 Guy Scarpetta, báo Le Monde đã dẫn
[70]
 Guy Scarpetta, báo Le Monde đã dẫn
[71]
 Guy Scarpetta, báo Le Monde đã dẫn
[72]
 Kenzanurô Ôé, Le Jeu de Siècle, Gallimard.
[73]
 Carlos Fuentès, các tiểu thuyết La Plus Limpide
Région, La Mort d’Artémio Cruz, Christophe et  Son Oeuf,
La Frontière de Verre, Gallimard, Edition Livre de Poche
[74]
 Salman Rushdie, các tiểu thuyết Les Versets
Sataniques, Le Dernier Soupir du Maure, Est-Ouest,
Plon.
[75]
 Maria Mailat, La Cuisse de Kafka, Fayard 2003
[76]
 Léo Pérutz, Le Maitre du Jugement Dernier, Fayard
1989, collection Livre de Poche
[77]
 Nguyên lý Bất Ðịnh (principe d’incertitude) ra đời năm
1927, do Heisenberg chủ thuyết, khởi nguồn cho hệ
thống dùng lý thuyết xác suất của ngành cơ học sóng
(mécanique ondulatoire), đã đóng vai trò quan trọng
trong sự tiến hoá của ngành cơ học nguyên lượng
(mécanique quantique) và trong lối suy nghĩ mới của triết
học hiện đại. Ðây là định luật căn bản khiến vật lý 
nguyên lượng khác biệt vật lý cổ điển vốn mang tính chất
chính xác.
[78]
 Henri Bergson, Le Possible et le Réel trong La Pensée
et le Mouvant, trg 115
[79]
 Henri Bergson cho xuất bản La Durée et Simultanéité
năm 1922, với tiểu tựa A propos de la théorie d’Einstein,
phê bình Thời Gian đa chiều và co giản trong thuyết
Tương Ðối.  
[80]
 Albert Einstein, Correspondances françaises trong
Oeuvres Choisies, Seuil /CNRS
[81]
 Louis de Broglie, Nouvelles Perspectives en
Microphysique
[82]
 theo Jean Michel Counet, Centre de Philosophie des
Sciences, Université Catholique de Louvain
[83]
 Milan Kundera, trích dẫn từ La Vie est ailleurs: «Thi ca
là một vùng đất mà mọi xác quyết trở thành sự thật. Thi sĩ
đã nói hôm qua: Ðời sống trống rỗng như một giọt nước
mắt, thi sĩ nói hôm nay: Ðời sống tươi như một nụ cười, và
ở mỗi lần thi sĩ đều có lý. Hắn nói hôm nay:  Tất cả chấm
dứt và tàn lụi trong im lặng, hắn nói ngày mai: Mọi thứ
chưa chấm dứt, tất cả hãy còn kêu vang vĩnh cửu và cả
hai đều thật. Thi sĩ không cần chứng minh; bằng chứng
duy nhất tồn tại trong cường độ của rung cảm. »
 

© Copyright Trần Vũ

 
 

Hợp Lưu 12 năm


Trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại
 

Cách đây 12 năm, tháng 10/91 họa sĩ Khánh Trường


sang Pháp ra mắt Hợp Lưu số đầu tiên. Ðón anh ở
phi trường, tôi nhận ra ngay nhân vật Khánh của Có
Yêu Em Không. Nhân vật làm tình kinh khiếp trên căn
gác gỗ với em gái của đồng đội hãy còn quàn ở nhà
dưới trong mùi nhang khói tang tóc luồn qua kẽ hở,
nhân vật mỗi chiều say đẵm phóng xe lao vào căn
hẻm miệt Phú Thọ Hòa đi tìm tình yêu và cái chết.
Khánh Trường với Khánh là một. Một con người và
một nhân vật với tất cả liều lĩnh khinh mạn, nửa hảo
hớn, vừa du đãng, chất ngất đam mê nhưng cũng bất
cần đời và đôi lúc biết mất dạy. Buổi sáng đó, mái tóc
dài mafia, Khánh Trường mang hình ảnh Franco Nero
trong miền viễn tây bước ra khỏi sân bay ngang tàng
với... thùng tạp chí Hợp Lưu trên xe đẩy.

Những ngày sau tôi khám phá anh là type Django


như tôi ưa thích. Tôi cũng thích có một người anh chịu
chơi như vậy, đầy thói hư tật xấu nhưng biết hiên
ngang bao che cho đứa em khi cần thiết. Tất cả bắt
đầu bằng lá thư anh gởi đến bằng hữu mùa hè năm
91. Lá thư kêu gọi đổi mới cho sinh hoạt văn học VN
ngoài nước. Lá thư từ bỏ thái độ qua sông chặt cầu,
phong tỏa bao năm của hội đoàn. Lá thư công nhận
sự hiện hữu của con người VN sau 75 trên quê
hương, cho dù con người đó không Quốc Gia, không
Cộng Hoà. Anh chép tay thêm dòng chữ: Vũ thích gì
viết ấy, cứ viết, có anh hứng mũi chịu sào. Và chỉ với
dòng chữ ngắn đơn giản này anh đã quyến rũ được
tôi, lôi về mình biết bao người viết trẻ dạo đó. Trân
Sa, Lê Thị Thấm Vân, Vũ Quỳnh Nh., Nguyễn Thị
Thanh Bình, Phạm Thị Ngọc, Phạm Chi Lan, Nguyễn
Thị Ngọc Lan, Nguyễn Hoàng Nam, Hoàng Mai Ðạt,
Ðỗ Kh., Trầm Phục Khắc, Ngọc Khôi, Hồ Ðình
Nghiêm, Vũ Ðình Kh., Vĩnh Hảo... chứng minh sự
thành công này.

Hợp Lưu như thế chánh thức ra đời trong hiệu phở
Thụ quận 13. Nhưng khác với Võ Phiến khi làm tạp
chí Văn Học Nghệ Thuật bộ cũ, buổi chiều tháng
10/91 khi Khánh Trường bước chân vào hiệu phở gọi
một tô chín nạm, văn chương Việt ngoài nước đã bắt
đầu một thập niên thương khó. Những năm 78-79, tuy
chưa có computer, chưa internet, chưa font chữ Việt,
mọi thứ còn chép tay, đánh máy bỏ dấu tay, sách bày
chung với thực phẩm, người viết người đọc rải rác,
đầy khó khăn - nhưng Võ Phiến đã lên đường với
niềm nhớ quê hương mãnh liệt không nguôi vô bờ
bến của cả một lớp người di tản. Mọi người trân trọng
chữ Việt, yêu quý, ôm ấp gìn giữ chữ Việt, thứ chữ
Quốc ngữ của một đám đông vừa đánh mất tổ quốc.

Thời điểm 91, chữ "Phỡ" trên thực đơn phở Thụ viết
với dấu ngã. Tiếng Việt đã không còn là quốc ngữ,
mất thiêng, không mấy ai quan tâm và rất nhiều pha
Anh, Pháp vào trong câu chuyện. Chữ Việt giản dị chỉ
là chữ viết của một sắc tộc thiểu số sinh sống ở Ău
Mỹ, hay quốc ngữ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà xa lạ nào mà mọi người bắt đầu du lịch. Chữ Việt
in trong số Hợp Lưu ra mắt là thứ chữ không còn có
thể dùng để hái ra tiền, một thứ tử ngữ.

Chị Thụy Khuê mời tôi với anh và bác Mai Thảo ăn
phở trước để dằn bụng tiếp khách. Tôi hỏi Mai Thảo:
Bác thấy phở hải ngoại có bằng phở Sài Gòn ngày
xưa? Phở bên này ít nước, mau nguội bánh. Mai Thảo
ầm ừ trả lời. Ông chỉ hút một cọng phở duy nhất. Tô
phở của chị Thụy Khuê, của tôi, của anh Khánh
Trường cũng nguội nhanh. Nguội nhanh như văn
chương hải ngoại đang lạnh dần.

Gần 10 năm trước, 1982 năm Mai Thảo quyết tâm tục
bản tạp chí Văn, sinh hoạt văn học hải ngoại chưa
nguội, ngược lại bắt đầu hâm nóng. Người Việt đã bắt
đầu an cư sống tập quần. Tuy các cây viết mới hãy
còn hiếm, Mai Thảo đầu đàn của văn nghệ miền nam
quy tụ dễ dàng các bạn bè của ông. Con hùm xám
Vũ Khắc Khoan, Thanh Nam, Mặc Ðỗ, Nghiêm Xuân
Hồng, Tuý Hồng, Viên Linh, Nguyễn Ðông Ngạc,
Trang Châu, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Hà Huyền Chi,
Du Tử Lê, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Xuân Hoàng, với
Bình Nguyên Lộc qua sau... là những gương mặt nổi
tiếng của miền Nam một thời. Bằng kinh nghiệm của
một chủ bút tài hoa lẫy lừng, Mai Thảo nhanh chóng
khám phá, thừa nhận và thúc đẩy những ngòi bút nữ:
Lê Thị Huệ, Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Ngọc
Nhung, Trần Diệu Hằng, Phạm Thị Ngọc, Cao Bình
Minh sẽ làm nên hiện tượng nữ sau đó. Không chỉ
phát hiện những cây bút nữ, mục Người Viết Trẻ mỗi
tháng giới thiệu một gương mặt mới, có tháng trong
cùng một số báo có đến 4 người viết mới Nguyễn
Thạch Giang, Ý Ngôn, Vũ Phương Nam, Ðặng Mai
Lan. Suốt 6 năm 82- 87 tạp chí Văn không thiếu sáng
tác, không thiếu người viết lẫn sự trợ giúp đông đảo
của các văn hữu.

Sau Mai Thảo, tạp chí Làng Văn trình làng. Làng Văn
thừa hưởng không khí bừng bừng khí thế của một
cộng đồng đang độ tăng trưởng chín muồi sung mãn,
kèm nỗi nhớ nhaø nóng bỏng của lớp người mới vượt
biên. Một tạp chí mới, một lớp độc giả mới với một
tâm tình mới. Huyền Châu, Tuệ Nga, Hồ Trường An,
Ngô Nguyên Dũng, Nguyễn Ngọc Ngạn, Lê Văn Lân,
Ngọc Khôi, Nguyễn Tấn Hưng, Thái Vaên Kiểm, Võ
Kỳ Ðiền, Nguyễn Văn Ba, Trần Long Hồ, Phan Ni
Tấn, Luân Hoán, Lâm Hảo Dũng, Diệu Tần, Hoàng
Xuân Sơn, Nguyễn Ðức Bạt Ngàn... đem đến cho
Làng Văn những độc giả trung thành trường kỳ.
Những năm 84-89 thời kỳ cực thịnh, Làng Văn thành
công rực rỡ, số bán vượt xa các tạp chí khác. Người
Làng đông như trẩy hội  như nhà báo Nguyễn Hữu
Nghĩa nhận xét.

Cùng thời gian đó, 1985 Võ Phiến tục bản Văn Học
Nghệ Thuật bộ mới, rồi từ tháng giêng 86 đổi tên là
tạp chí Văn Học do Nguyễn Mộng Giác điều hành có
thể xem là tạp chí uy tín nhất của giai đoạn 85-88. Ða
số những bài viết xuất sắc đều xuất hiện trên diễn
đàn này và bên cạnh những nhà văn cộng tác trụ cột
thường xuyên Nhật Tiến, Võ Ðình, Lê Tất Ðiều, Ðịnh
Nguyên, Tưởng Năng Tiến, Võ Phiến, Nguyễn Bá
Trạc, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Tất Nhiên, Thế Uyên,
Hoàng Khởi Phong, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc
Tuấn, Nguyễn Xuân Hoàng, xuất hiện vô số người
viết mới: Khế Iêm, Ngu Yên, Phạm Việt Cường, Phan
Tấn Hải, Kiệt Tấn, Thường Quán, Cao Xuân Huy,
Trịnh Y Thư, Nguyễn Ðức Lập, Nguyễn Ý Thuần, Hồ
Ðình Nghiêm, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Mạnh
Trinh, Trần Trúc Giang, Trần Thị Kim Lan, Trần Thị
Lai Hồng, Trân Sa, Lê Bi, Vũ Huy Quang, Trương Vũ,
Thế Giang, Trần Vũ, Ðỗ Kh., Mai Kim Ngọc, Vũ
Quỳnh Hương, Nhược Thủy (Y Chi)... Cũng chính trên
diễn đàn này khởi đầu nền phê bình ngoài nước qua
các bài viết đầu tiên của Thụy Khuê, Bùi Vĩnh Phúc
và Nguyễn Hưng Quốc. Văn Học như thế đã ra đời
trong hoàn cảnh vô cùng thuận tiện, với một nguồn
nhân lực mới mẽ hùng hậu đang trong giai đoạn khởi
viết.

Trường hợp Hợp Lưu khác hẳn. Hợp Lưu ra đời khi đa
số những tác giả kể trên, một số đã bỏ cuộc, một số
đông khác các sáng tác hay nhất của họ đã viết
xong. Giống Mai Thảo nhận xét phở hải ngoại ít
nước, mau nguội. Lý do quá nhiều bánh, quá nhiều
thịt, nhưng ít nước. Nhận định đó đúng cho giới sáng
tác Việt sống ngoài tổ quốc. Ðã nhiều bài viết lý giải
những khó khăn của người sáng tác bị cách ly khỏi
quê hương. Chất liệu sáng tác sáo cũ, ngôn ngữ mẹ
đẻ mỗi ngày một nghèo đi, kinh nghiệm quê nhà
thiếu cập nhật, sự hội nhập lấn dần tính hoài niệm
hao mòn dần căn cước gốc, không nhuận bút, không
độc giả, ít sinh hoạt chung đưa đến tình trạng băng
giá. Ðó là những nguyên nhân nội tại, nguyên do bên
ngoài nhiều hơn nữa: Tranh sống kiếm cơm, viết văn
tay trái tối chủ nhật, biến động Ðông Âu đưa đến
hoang mang, văn chương trong nước... bất ngờ đổi
mới cạnh tranh bất chính, khủng hoảng kinh tế thất
nghiệp khiến mãi lực mua bán của độc giả giảm...
Hợp Lưu chào đời trong hoàn cảnh tăm tối đó.

Năm 91 là năm khởi đầu của nhiều bài viết cảnh giác
thái độ nhẩn nha cầm chừng trong sáng tác, tranh cãi
hay kết án những vòng tường ghetto bao vây. Ðiều đó
chứng minh sau một thập niên khởi sắc, sáng tác hải
ngoại gặp khủng hoảng. Trong tình trạng thụt lùi như
vậy, làm báo chỉ từ chết đến bị thương giống họa sĩ
Khánh Trường than. Nhưng đó chỉ mới là khó khăn
riêng của một bộ môn sáng tác, những sáng tác mà
Khánh Trường luôn luôn rất cần cho những số Hợp
Lưu nối tiếp. Còn nhiều khó khăn khác.

Buổi tối ra mắt Hợp Lưu trong hiệu phở Thụ là một
buổi tối thành công kỳ lạ. Ðông đến mức quán hết
chỗ, mọi người phải đứng và lần đầu tiên tôi thấy Mai
Thảo bị dịch giả Kim Lefèvre quay. Ðông, vui, như
cơn say quên trời đất của Kiệt Tấn, như ánh mắt hấp
háy lạc quan sau lớp kính ve chai của nhà nhạc học
Nguyễn Thiên Ðạo, nhưng nụ cười tươi của chị Thụy
Khuê không khỏa lấp những lo lắng cho ngày mai.
Hơn ai hết chị Khuê biết rõ khả năng tài chánh của
Hợp Lưu. Hơn ai hết chị hiểu rõ áp lực của hội đoàn
đảng phái. Họa sĩ Khánh Trường hùng dũng trấn an:
Chị cứ yên tâm, tôi không thua đâu.
Tôi không thua đâu.  Có lẽ đây là câu trả lời chính xác
nhất vì sao và tại sao chuyển động Hợp Lưu thành
công và tạp chí đứng vững suốt 12 năm. Câu trả lời
này xác định cá tánh đặc biệt của người chủ biên tạp
chí.

Ðể hiểu quyết tâm của Khánh Trường, phải sống trở


lại bối cảnh của cộng đồng VN đầu thập niên 90.
Chưa khi nào áp lực của hàng trăm hội đoàn mạnh
đến như vậy. Việc cướp máy bay, rải truyền đơn rồi
nhảy dù xuống VN của Lý Tống (xẩy ra sau vài số
Hợp Lưu) biểu trưng tất cả tinh thần quang phục đất
nước lúc đó. Phaûi đọc tất cả các báo Việt ngữ
xem affaire Lý Tống là một thiên anh hùng ca, phải đi
giữa đường phố Bolsa rợp lá cờ vàng để hiểu hành
động làm tạp chí Hợp Lưu của Khánh Trường là một
hành động can đảm. Phải trông thấy cảnh cuốn sách
Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương bị lôi trên đất và
đốt cháy để hiểu bầu không khí quá khích bao trùm
nặng nề lúc đó. Ðiện thoại chửi bới nửa đêm, fax
văng tục, mail hăm dọa, thư nặc danh, đập kính xe là
thực đơn hằng ngày. Cùng với Hợp Lưu, tạp chí Trăm
Con của Trân Sa và Tư Ðồ Tuệ cũng trong chiều
hướng giao lưu đã không chịu nổi áp lực phải đình
bản. Áp lực đến nỗi, khi cho xuất bản Cánh Cửa, nhà
văn Nhật Tiến trả lời phỏng vấn đã thẳng thừng chua
chát: Nhà văn VN ngoài nước không có tự do sáng
tác! Trước đó, chỉ với Mùa Biển Ðộng với một chương
tả người lính VNCH say rượu đeo xâu tai xác chết cắt
quanh người, Nguyễn Mộng Giác đã bị chê trách "Bôi
nhọ quân lực" và áp lực đến mức chủ bút Văn Học
Nghệ Thuật Võ Phiến phải mời trị sự của mình từ
chức, tạo nên sự cố Văn Học không dễ tuỳ nghi lúc
đó.

Chưa một tạp chí nào ra đời khó khăn như vậy.
Không chỉ một mình chủ biên Khánh Trường chịu búa
rìu dư luận, tất cả những nhà văn, nhà thơ chấp nhận
đăng bài trên Hợp Lưu đều mặc nhiên bị xem là VC,
hoặc lịch sự hơn: nối giáo cho giặc. Nhà văn Nhật
Tiến, người cha tinh thần đỡ đầu cho Hợp Lưu, người
chủ trương giao lưu sớm nhất từ Mồ Hôi Của Ðá, đã
gánh chịu không biết bao nhiêu phỉ báng, một trong
những lý do khiến ông buộc lòng rời khỏi Ban chủ
biên. Không ai có thể trách tác giả Thềm Hoang, Giải
thưởng văn chương phủ tổng thống VNCH là một nhà
văn thiên tả, không ai có thể trách Nhật Tiến là một
nhà giáo không gương mẫu, hay một người thiếu đạo
đức. Nhưng cũng không ai chịu hiểu tinh thần quang
phục đất nước chỉ là một tinh thần hoang tưởng đầy
ảo vọng. Nên khi Hợp Lưu, tạp chí thuần văn học đầu
tiên đưa ra cái nhìn khác - Ðã đến lúc người Việt phải
đối xử với nhau như những con người cho dù khác
chính kiến và VN hoâm nay phải không còn hận thù,
một văn bản nếu mang giá trị văn học là một văn bản
có giá trị, dù tác giả của nó sống trong hay ngoài
nước  - Cái nhìn mới này đã tạo ra một cơn sốt ý thức
rất lớn trong tâm hồn của rất nhiều những kỹ sư tâm
hồn.

Thời gian đó, với các văn, thi sĩ được chủ biên Hợp
Lưu gởi thư mời, chọn lựa không dễ. Với mỗi người đã
là một bước qua lời nguyền vô cùng khó khăn, với tất
cả rủi ro trấn áp kết án từ bạn bè, các báo quốc
gia đang cộng tác và cả với lương tâm của chính
mình, lương tâm nào đã quyết định rời bỏ quê cha đất
tổ ra đi vì không chấp nhận chính quyền đương nhiệm
và lương tâm nào ý thức không thể phân ly chia đôi
đất nước mãi mãi?

Nhưng thật kỳ lạ, nếu mở lại những số Hợp Lưu đầu


tiên, thành phần ban chủ biên tăng dần rất nhanh sau
mỗi số báo cho đến khi hầu hết các tác giả thường
xuyên viết trên các báo Cộng Hoà đều lần lượt xuất
hiện trên Hợp Lưu. Ðó là dấu hiệu mà Khánh Trường
nhận ra anh đã đi đúng hướng, và đó cũng là dấu
hiệu cho thấy những nhà văn Việt đã tự chất vấn
mình từ rất lâu. Chắc chắn trong thâm tâm, Khánh
Trường cảm tạ rất nhiều tấm lòng của những người
bạn Phan Tấn Hải, Ngu Yên, Phạm Việt Cường, Cao
Ðông Khánh, Nguyễn Mạnh Trinh, Trần Mộng Tú, Du
Tử Lê, Thường Quán, Khế Iêm, Lê Bi, Lê Thứ, Hồ
Ðình Nghiêm, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trần Long Hồ,
Trầm Phục Khắc, Vũ Huy Quang, Võ Ðình, Nguyễn
Thị Thanh Bình, Phạm Chi Lan, Chân Phương, Ðỗ
Kh., Hoàng Mai Ðạt, Trương Vũ, Nguyễn Thị Ngọc
Nhung, Nguyễn Hương, Lê Thị Thấm Vân, Trân Sa,
Vũ Quỳnh Nh., Thụy Khuê, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn
Thị Khoa Phương, Phan Thị Trọng Tuyến... đã tham
dự hết mình ngay từ những ngày đầu, và hơn nữa
cảm tạ dân tộc Việt hãy còn biết đến tha thứ, nhân
hoà.

Khó khăn vẫn chưa hết. Ai đã làm báo hiểu rõ khó


khăn kinh khủng nhất vẫn là khó khăn tài chánh. Bao
nhiêu tờ báo Việt ngữ đã sập tiệm. Hồn Việt chết theo
với Thanh Nam, Nhân Văn của nhóm Nguyễn
Thượng Văn và Tưởng Năng Tiến, Tân Văn của Hà
Thúc Sinh, Văn Lang của Nguyễn Mộng Giác, Văn
Xã của Nguyễn Hữu Nghĩa, Ý Thức của Viên Linh,
Chân Nguyên của Phạm Công Thiện, Tập Họp của
nhóm trẻ Úc, Ðối Thoại của Lê Bi, Việt của Nguyễn
Hưng Quốc đều phải đình bản. Võ Phiến cũng chết đi
sống lại hai lần với Văn Học Nghệ Thuật, và tạp chí
Thơ của Khế Iêm trong tình trạng khắc khoãi thường
trực của một cái chết được dự báo. Ðó là chỉ kể
những tạp chí tên tuổi. Khác với Thế Kỷ 21 được công
ty Người Việt hỗ trợ, Hợp Lưu chỉ sống bằng công quả
của bằng hữu, bằng công sức và lợi tức thu nhập cá
nhân của chính Chủ biên Khánh Trường. Sự sống sót
của Hợp Lưu liên tục suốt 12 năm qua, đều đặn gởi
đến tay bạn đọc bao nhiêu số chủ đề, bao nhiêu biên
khảo, phỏng vấn và sáng tác thơ, văn, kịch chính là
sự thành công riêng của Khánh Trường và sự sống
sót tinh thần của chính cá nhân anh.

Ðể hiểu khó khăn tiền bạc của chủ biên Hợp Lưu
túng thiếu nhường nào, tôi có một kỷ niệm đẹp về tình
bạn giữa Mai Thảo và Khánh Trường. Mùa đông năm
96, tôi hay thích đến căn lầu xép trai phòng của Mai
Thảo. Không có gì thú bằng ngồi dưới chân giường
Mai Thảo nhìn ra hàng hiên trồng những đọt chuối
xanh, nghe im lặng của buổi trưa phả hơi nóng nhẹ
nhàng xâm chiếm chậm rãi căn phòng. Nhất là căn
phòng đầy những chai lọ cognac tôi ưa thích, chỉ cần
với chân cũng khều được dăm chai. Buổi trưa sâu
thẳm yên tĩnh trong con hẻm Song Long, tôi vừa bị
Mai Thảo lừa cho uống cognac có ngâm cu con hải
cẩu thối hoắc, thứ rượu thuốc Nguyễn Xuân Quang -
tác giả Người Căm Thù Ruồi - tặng ông uống chống
lạnh, thì Khánh Trường ập vào, giọng anh hối hả:

- Anh có tiền cho em mượn, Hợp Lưu in xong rồi mà


em chưa có tiền lấy.

- Bao nhiêu? Nhiều thì không có, ít thì có thể.


Mai Thảo điềm nhiên lắc lắc ly rượu vàng lóng lánh.
Màu vàng của buổi trưa loang đến cườm tay ông
đọng lại thành vệt lỏng. Giá Khánh Trường có thể
ngồi xuống uống rượu thưởng thức sự im lặng của
trưa không có những phiền hà nợ nần của đời sống.
Ðâu ai biết gồng Hợp Lưu thường đắng như con hải
cẩu chết tiệt.

- Một ngàn đô, anh.

- Hà hà... tưởng bao nhiêu, một ngàn thì nhà băng lớn
nhất nước Mỹ này cho vay.

Mai Thảo, người thầy tinh thần của Hợp Lưu, bạn
nhậu của tôi với anh, lặng lẽ lục tìm ví đưa tiền cho
Khánh Trường mang ra nhà in ông Ðào Văn Ngoạn
lấy báo.

- Vẽ được mấy cái bìa sách em sẽ gởi trả anh.

- Không hứa, không hẹn gì cả, có tiền thì trả thế thôi!

Mai Thảo gắt, ông ghét nói chuyện tiền bạc. Ông đưa
tay quơ tìm baät lửa, đốt điếu thuốc Winston. Hành
động của ông vừa nãy thật đẹp. Cho vay vô điều
kiện, không thắc mắc dù ông cũng rất nghèo. Bác
Thảo lúc đó còn mạnh, cười móm mém :

- Tiền thì không có, nhưng rượu thì không khi nào
thiếu. Và không bao giờ thiếu, không thể thiếu
được! C'est inadmissible, insolent!

Mai Thảo đập mạnh tay xuống mặt đệm. Tôi biết ông
không bao giờ thiếu rượu. Tôi đã từng chở một cốp xe
30 chai cognac quà tặng cho ông đêm sinh nhật 63
tuổi. Mai Thảo là người giàu cognac và giàu tình bằng
hữu nhất trần gian. Mấy ngày sau, rời quán Song
Long sau điểm tâm với Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân
Huy, Du Tử Lê, tôi và người bạn làm báo văn học liên
mạng trên internet Phạm Chi Lan đến chơi với Khánh
Trường. Tôi với Phạm Chi Lan không giúp gì được
anh trong công tác tòa soạn, nhưng vẫn thích ngồi
quanh quẩn xem anh làm việc. Chúng tôi ngỡ ngàng
nhìn 1500 cuốn Hợp Lưu chất đầy mặt đất.

- Sao anh chưa gởi bưu điện, trễ hạn rồi mà? Lan hỏi.

- Ờ hớ, để anh vẽ xong mấy cái bìa băng, bìa sách có


tiền rồi gởi.

Khánh Trường thản nhiên, không có vẻ gì cấp bách,


nhưng tôi biết, đã 6 tây là trễ một tuần. Và từ hôm vay
tiền bác Thảo cũng gần cả tuần, có nghĩa anh chưa
có tiền. Phạm Chi Lan với tôi đi lạc quyên các anh chị
Lê Thứ, Lê Bi, Nguyễn Hương, nhà xuất bản Hồng
Lĩnh, và Trương Vũ từ miền Ðông qua chơi, cuối cùng
được vài trăm phụ với anh tiền cước phí bưu điện.
Những ai còn thắc mắc nguồn tài trợ Hợp Lưu thì thực
tế là như vậy. Và thực tế tài chánh này triền miên
dằng dặc từ số đầu cho đến nay. Hai tháng một số
báo qua thoăn thoắt, 66 số Hợp Lưu của 12 năm là
66 lần họa sĩ Khánh Trường xoay tiền chóng mặt.

Một lần Hợp Lưu được Viện Vận Ðộng Dân Chủ của
Quốc hội Hoa Kỳ đề nghị trợ cấp $10000 một năm, vì
tạp chí được xem có đóng góp cho chuyển động dân
chủ. Những ai đã sống ở Âu Úc Mỹ biết rõ, những tài
trợ của chính phủ, trường đại học, hay hiệp hội tư
nhân cho những hoạt động văn hóa, nhân văn vô
cùng bình thường. Ban chủ biên điều hành tạp chí lúc
đó, Nguyễn Hương, Lê Bi, Phan Tấn Hải, Khánh
Trường, Ðỗ Hữu Tài, và nhà văn Nhật Tiến đã thảo
luận cân nhắc việc nhận số tiền này. Giảm mối âu lo
tài chánh để rồi tai tiếng như tạp chí Sáng Tạo của
Mai Thảo đã nhận trợ cấp của Phòng thông tin Hoa
Kỳ? Nhận tài trợ nhưng nhất quyết giữ vững độc lập
của tạp chí? Cho thì lấy nhưng không dính gì đến Hoa
Kỳ? Nhưng ai cho tiền dễ dàng vô điều kiện như vậy?
Trong cuộc đời có vay, có trả. Nhật Tiến cương quyết
và dứt khoát nhất. Nhưng làm sao gồng triền miên
trong tình trạng thị trường chữ nghĩa khánh kiệt như
vầy? Ban chủ biên quyết định biểu quyết qua cách bỏ
phiếu kín. Mọi lá phiếu đều đã ghi một chữ duy
nhất: No! Tôi ở xa không rõ vụ việc, chỉ biết như vậy.
Cá nhân tôi tiếc mãi số tiền này, thêm tiền thêm
nhiều khả năng mới, tăng trang, phụ bản tranh màu,
đẩy mạnh nhà xuất bản Hợp Lưu, có thể trả nhuận
bút cho các tác giả nghèo trong nước, đỡ chật vật cho
Khánh Trường. Nhưng tôi hiểu nhân cách và lòng tự
trọng không cho phép Nhật Tiến chấp nhận điều này.
Và tôi cũng hiểu ông muốn tạp chí Hợp Lưu giữ linh
hồn trong sạch. Nhật Tiến là một người thầy, một nhà
văn đúng nghĩa, quyết định của ông được toàn Ban
chủ biên theo tuyệt đối. Quyết định đó, về sau, ngay
cả những lúc khánh tận nhất, Ban biên tập không ai
hối tiếc. Trừ tôi - vẫn nghĩ, tất cả sinh sống ở Âu Mỹ,
nhưng suy nghĩ giống quân tử Tàu. Nước Mỹ là một
nước Dân Chủ và có quy chế Dân Chủ. Chúng ta có
quyền hưởng quy chế xây dựng trên lá phiếu của
từng công dân và trích từ tiền thuế tất cả cùng đóng.
Nếu áp lực đến từ cơ quan nào đó của quốc hội Hoa
Kỳ, chỉ cần viết một bài báo đăng trên New York
Times, áp lực đó sẽ biến mất tức khắc. Các quân tử
đã không chịu hành xử quyền công dân Hoa Kỳ của
chính mình, thứ quyền công dân mà tất cả đã bỏ
nước đi tìm. Quân tử, nên những ngày Khánh Trường
bệnh nặng, không bảo hiểm y tế, không tiền túi, bạn
bè phải chạy lo thuốc thang, các tác giả bác sĩ chạy
giấy nhập viện, rồi anh xuất viện, toâi đến thăm, quần
vẫn còn ướt đẫm máu, lại nhập viện. Hay những khi
túng thiếu, Ban biên tập khất thực từng tác giả, nhưng
không phải ai cũng có tấm lòng của anh chị Trương
Vũ, anh chị Lê Tất Luyện, anh chị Hoàng Chính
Nghĩa. Khất thực một lần, lần thứ nhì, ni cô chê. Quân
tử Tàu, nên Khánh Trường phải viết dâm thư kiếm
tiền nuôi Hợp Lưu. Không một quân tử nào khác chịu
viết Kim Bình Mai chung với anh. Thê thảm là vậy,
cho Khánh Trường, kẻ ôm hoài bão văn chương.
Nhưng kỳ diệu, Khánh Trường không xuống bùn, bạn
đọc, văn hữu vẫn dành cho anh những tình cảm quý
mến vì tất cả hiểu, anh bán mạng cho Hợp Lưu.

Trong thư từ biệt của chủ biên, Khánh Trường nhìn


nhận sự bảo bọc của độc giả và nhiệt tâm đóng góp
của văn hữu. Nhưng anh quên mất: Chính anh xứng
đáng được nhận sự bảo bọc và nhiệt tâm đó. Không
phải ngẫu nhiên nhà phê bình Thụy Khuê thường
xuyên giúp đỡ anh, lo bài vở cho các số chủ đề,
phỏng vấn định kỳ, hỗ trợ anh trong những quyết định
khó khăn. Cũng không ngẫu nhiên mà mỗi lần anh
kêu cứu, nhà tiểu luận Trương Vũ bay từ Washington
DC sang cứu nguy, cũng không ngẫu nhiên mà chị
Thụy Khuê, rồi Trân Sa, rồi Mai Ninh, rồi Miêng, rồi
Phan Huy Ðường và nhiều bằng hữu nữa đứng ra lạc
quyên cứu trợ bão lụt miền Trung cho Hợp Lưu mỗi
lần... thiên tai hạn hán. Chuyển động Hợp Lưu là một
chuyển động dài, không ai có thể đơn thương độc mã
gánh vác, và như Khánh Trường khẳng định: Tạp chí
Hợp Lưu không thuộc cá nhân ai, là một diễn đàn cấp
tiến chung cho tất cả - thì việc mọi người góp công,
góp của là bình thường và chính đáng.

Ðã trình bày ba khó khăn lớn nhất của Hợp Lưu: Sự


lão hoá của bộ môn sáng tác. Trấn áp trù dập từ các
hội đoàn quá khích. Tài chánh eo hẹp. Cũng đã trình
bày sự đứng vững của tạp chí suốt 12 năm. Hôm nay,
giờ phút thay đổi Chủ biên, bước ngoặt lớn cho những
ngày sắp tới, bạn đọc đã có đủ thời gian để nhìn lại
chặng đường HL vừa đi qua. Mục tiêu ban đầu - Giao
lưu văn hoá - có thật đạt được hay không ?

Mở lại số Hợp Lưu 1, chưa có bài trong nước gởi ra,


chỉ đăng lại các sáng tác quốc nội, dù việc đăng tải
những văn phẩm của những nhà văn quốc doanh lúc
đó ở ngoài nước là kỵ huý, thì chưa thể xem là đã có
dấu hiệu giao lưu thật sự trong số ra mắt. Tuy vậy,
điểm son chính là bài phỏng vấn Mai Thảo.

Nguyễn Ðăng Quý, bút hiệu Mai Thảo, sinh tại Nam
Ðịnh di cư vào nam năm 54. Chỉ một dòng chữ này,
một con người này thôi đủ biểu trưng cho tinh thần
quốc gia, sức đề kháng chống đối mọi tràn lấn đến từ
miền Bắc. Mai Thảo không bao giờ thoả hiệp. Mai
Thảo luôn vinh danh cho Tự Do Ở Ta như chữ ông
thường dùng trong mục Sổ Tay trên Văn. Nhưng ông
chấp nhận trả lời phỏng vấn đăng trên Hợp Lưu.
Chấp nhận tên tuổi mình hiện diện trên một tạp chí
đang bị khủng bố, và phỉ báng theo giặc. Có thể giải
thích vì tình bằng hữu với Khánh Trường là người ông
quý mến. Như thế quá dễ dàng vì Mai Thảo không
bao giờ khiên cưỡng, ông biết quyết liệt và biết mắng
thẳng vào mặt những điều ông khinh bỉ. Phải xem bài
phỏng vấn ông trên Hợp Lưu số 1 ở vào thời điểm gay
gắt nhất của cộng đồng là thái độ tôn trọng tự do của
Mai Thảo, một nhà văn bảo vệ quyền tự do. Bằng
hình thức đó, Mai Thảo chống đối những báo chí hội
đoàn đảng phái quá khích, và cũng bằng hình thức
này ông thừa nhận khuynh hướng giao lưu, và sau
hết khi cho phép Khánh Trường đem tên tuổi mình
lên tạp chí, ông gián tiếp giải thoát sự cô lập cho Hợp
Lưu. Ðây là một nghĩa cử hiệp sĩ mà Ban chủ biên
không thể quên. Trong số ra mắt, Mai Thảo, thủ lãnh
của văn nghệ miền Nam đã làm công tác giao lưu
trước nhất.

Tôi bước chân vào quán Monge quận 5 lần đầu tiên
một buổi sáng tháng 4/92. Ba số Hợp Lưu đã ra, vẫn
chưa có bài trong nước gởi đăng và lần đầu tiên 13
năm sau khi vượt biên tôi bước chân vào nơi lui tới
của những người tả khuynh. Ðịnh nghĩa Tả khuynh
dưới thời VNCH rất đơn giản: Thân Cộng. Ðịnh nghĩa
hữu khuynh: Tư Bản. Ðịnh nghĩa tư bản: Chống
Cộng. Khi vượt biển đến các nước Nam Dương, Thái
Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân, các thuyền nhân mang
theo định nghĩa này làm nền móng cho nền cộng hoà
Pulau Bidong, trại đảo tỵ nạn nổi tiếng khổ cực nhất
lúc đó. Sang định cư ở các quốc gia đệ tam, cộng
đồng tỵ nạn với tất cả đau đớn hy sinh của thân phận
thuyền nhân, với xấp định nghĩa giản lược thẳng tay
gạt bỏ những gương mặt tả khuynh có quá khứ phản
chiến và chống chánh quyền miền Nam. Tả khuynh
hàm nghĩa loài hủi, nổi cộm lên nghĩa trốn lính vừa
nhận học bổng của tổng thống Thiệu vừa đâm sau
lưng quân lực. Ngược lại, giới tả khuynh phản ứng
bằng cách không giao tiếp với hữu khuynh, bỉ thử
những thuyền nhân chạy theo Hoa Kỳ, đóng cửa xây
pháo đài. Trong một thời gian vô cùng dài, tả và hữu
khuynh hành xử với nhau như tả đô đốc Vũ Văn
Nhậm kình chống với hữu đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh
dưới thời Tây Sơn, chỉ chực hãm hại lùng giết nhau.

Trả lời phỏng vấn trên Hợp Lưu số 17, Nina


McPherson dịch giả của Dương Thu Hương, Bảo
Ninh, Ngọc Khôi, Nguyễn Thị Ấm, Ðỗ Kh., Ðỗ Phước
Tiến, Võ Ðình nhận xét: Văn chương VN toát lên một
nổi ám ảnh quá khứ. Người Việt bị quá khứ nhập
tràng. Nhà văn VN để tang cho quá khứ đánh mất,
làm như với cuộc ly tán, cùng những vết thương sâu
đậm của chiến tranh, quá khứ của người Việt bị cướp
mất. Và thiếu quá khứ chung, tương lai trở nên khó
hiểu.

Quá khứ nhập tràng hay thiếu quá khứ chung, tương
lai người Việt trở nên mù mờ khó hiểu. Chưa có lời
nhận xét nào văn chương và chính xác cho bằng và
cũng là lời giải thích cho mối xung đột tả hữu, nam-
bắc, trong-ngoài. Buổi sáng tôi bước chân vào quán
Monge, nền trời ẩm xám, hơi nước bốc lên mù các
tấm kính. Buổi sáng lạnh yên tĩnh nhưng tâm hồn tôi
xáo động. Tôi sắp gặp những gương mặt tả khuynh
chống chiến tranh VN, góp phần làm sụp đổ Sài gòn
khiến gia đình tôi ly tán. Tôi tiến đến chiếc bàn trong
góc coù nhiều người chờ với mặc cảm phản bội bố
mẹ đã bỏ hết nhà cửa của cải ở phố Sinh Từ và Hàng
Ðào di cư vào nam. Tôi rủa Tổng biên tập Khánh
Trường đã nhờ tôi thay anh ở xa, gặp nhóm chủ biên
Diễn Ðàn, hậu thân ly khai của tờ Ðoàn Kết hội Việt
Kiều Yêu Nước. Ban chủ biên Hợp Lưu quyết định
mời ban biên tập Diễn Ðàn viết bài đăng trên Hợp
Lưu và ngược lại. Tôi không rõ vì sao Khánh Trường
nhờ mình đại diện, có phải vì tôi nhỏ nhát, chưa kịp
có quá khứ để tương lai bớt mù mờ?

Chủ nhiệm Hà Dương Tường mời ăn bún bò. Tôi từ


chối để giữ thế giá của người Cộng Hoà. Ngoài biên
tập viên Trần Hải Hạc, phụ trách trang khoa học Bùi
Mộng Hùng, phụ trách trang văn học Ðặng Tiến, chủ
bút Nguyễn Ngọc Giao, còn có cựu "chính ủy" Phan
Huy Ðường bắc kỳ di cư.

- Làm gì nghiêm trọng thế? - Hà Dương Tường vỗ vai.

- Chúng tôi mời Vũ dùng bún bò ở quán này vì không


tệ lắm.

Nguyễn Ngọc Giao khuyến khích. Mọi người cùng ăn,


ngồi không tất kỳ, tôi cất thế giá của người Cộng Hoà
vào cartable. Chưa kịp gắp móng giò heo trắng muốt,
mềm như bàn tay một đứa bé, người Marxiste Phan
Huy Ðường đã kiểm tra kiến thức:

- Vũ nghĩ gì về cuốn sách của Lê Ngọc Trà?

Tôi chẳng nghĩ gì hết. Giản dị vì tôi không quan tâm


đến biên khảo, lý luận phê bình. Tôi chỉ đọc truyện
ngắn, tiểu thuyết và tuỳ bút. Sau kiểm tra vấn đáp
điểm zéro, sau...ba ly grand vin de bordeaux cuvée
du patron, tôi mạnh dạn đặt điều kiện:

- Hợp Lưu sẽ đăng các bài viết của các anh, ngược lại
những sáng tác của ban biên tập Hợp Lưu đăng trên
Diễn Ðàn đừng viết chapeau kiểu những đứa con lầm
lạc đi hoang đã trở về nhà và đây là điều kiện tiên
quyết!

Tất cả mọi người cười ồ cho đến khi chủ bút Nguyễn
Ngọc Giao trấn an:
- Chúng tôi đâu đến nỗi thế!

An tâm, nhưng tôi vẫn lập lại điều kiện một lần nữa,
dù Khánh Trường không dặn, vì lý do giản dị những
người bạn sáng tác trên Hợp Lưu thích đi hoang, chưa
chịu về, còn đi chơi tiếp. Còn khuya Sa mới về,  giống
Trân Sa ưa nguýt.  Giống Vũ Quỳnh Nh. đủ khả năng
uống cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất rồi đón
máy bay đi Prague chỉ để ăn sáng, trưa về lại Paris
và tối bay đi San José tìm một thiên đường khác.

Chuyển động Hợp Lưu với giới tả khuynh bắt đầu như
thế, trước tô bún bò Huế. Rất nhanh Diễn Ðàn số
tháng 7/92 làm chủ đề giao lưu văn hoá giới thiệu
trang trọng các sáng tác của Phạm Việt Cường, Lê
Bi, Thế Uyên, Thụy Khuê, Ðỗ Kh., Trần Vũ với minh
họa của Khánh Trường. Từ số này về sau tiểu luận
Thế Uyên, thơ Thường Quán, truyện ngắn Mai Ninh,
Miêng, Phan Thị Trọng Tuyến sẽ đăng đều đặn bình
thuờng. Ngược lại đông đảo các gương mặt khét
tiếng tả khuynh sẽ xuất hiện ồ ạt trên Hợp Lưu ngay
trong năm đầu tiên và sau đó: Trần Ðạo, Ðặng Tiến,
Ðơn Hành, Phạm Trọng Luật, Tạ Trọng Hiệp, Nam
Dao, Phan Nguyên, Huỳnh Mạnh Tiên, Lê Bá Ðảng,
Lê Thứ, Huỳnh Hữu Ủy... Chuyển động Giao Lưu
không chỉ ngừng ở trao đổi bản thảo giữa hai tạp chí
Diễn Ðàn-Hợp Lưu, mà còn bình thưòng hóa quan hệ
giữa những người tả khuynh với cộng đồng tỵ nạn.
Trên Thông Luận, Nguyễn Gia Kiểng, lãnh tụ tổng hội
sinh viên Sàigòn-Paris, viên chức cao cấp chánh phủ
cuối cùng trước ngày thất thủ, giới thiệu trân trọng
trường thiên tiểu thuyết Gió Lửa của Nam Dao, một
tiểu thuyết gia không cùng chung quá khứ. Phan Huy
Ðường, qua nhà xuất bản Philippe Piquier,
lập collection truyện VN dịch sang tiếng Pháp. Lần
đầu tiên một collection  bao gồm các tác giả trong
ngoài nước gồm nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn
được giới thiệu đến thế giới.

Hợp Lưu số 6 đăng một bài tiểu luận nhức nhối của
Ðặng Tiến. Ngoài tài hoa mà Ðặng Tiến thể hiện qua
biết bao nhiêu bài bình thơ như Lưu Trọng Lư, Ðoá
Mộng Ðầu hay Hoàng Cầm Cây Tam Cúc, nhà phê
bình thâm niên này đặt một câu hỏi: Thế nào là Dân
Chủ? Rồi ông thong dong giảng: Hồ Chí Minh xưng
bác với đồng bào là không dân chủ!  Bài tiểu luận đã
làm phiền lòng không ít những độc giả bảo hoàng.

Hợp Lưu số 15 đăng một bài tiểu luận nẩy lửa khác
của Trần Ðạo phê phán gay gắt quan niệm tiểu
thuyết của Nguyễn Khải, một nhà văn hàng đầu trong
nước. Ðọc lại một lần nữa phần nhập Gặp Gỡ Cuối
Năm, Khi Lập Trường Thắt Họng Văn Chương  để
thấy suy nghĩ của người tả khuynh từ cuối thập niên
80 không khác suy nghĩ của những thuyền nhân hôm
qua:

"Với những người khác họ chửi Cộng Sản hay bênh


Cộng Sản, tôi đều không quan tâm mấy, họ chửi
cũng chả hại được mình, họ bênh cũng chẳng làm
mình sang trọng hơn. Viết được về họ kể ra cũng vui
vui, không viết gì về họ cũng chẳng ai nỡ trách tại
sao lại thiếu... Người ta chỉ say mê có những con
người của hôm nay thôi."

"Ai thế?

Tài đức bao nhiêu mà ngạo mạn đến vậy?

Nếu là một bạo chúa thời Trung cổ thì đã đáng buồn:


Chúng ta thừa kế quá khứ của nhân loại, một phần
nhân phẩm của ta đúc kết bằng di sản đó. Nếu là một
nhà chính trị, thật đáng lo: trong lịch sử cận đại, quan
điểm đó về đồng loại đã đào khá nhiều hố chôn tập
thể khổng lồ, trong đó không thiếu gì người Cộng
Sản. Khủng khiếp thay! Ðây là câu văn của một nhà
văn có tiếng, có miếng, có tác phẩm được đăng, được
khen, và có quyền hành, tác giả tiểu thuyết Gặp Gỡ
Cuối Năm, Nguyễn Khải, một con họa mi trong cao
trào 'đổi mới' văn học."

(trích Trần Ðạo, HL15 trg 185).

Không thể kể hết 12 năm trong một vài trang giấy, chỉ
có thể ghi nhận, tuy ít sáng tác (thơ Huỳnh Mạnh
Tiên, truyện ngắn Nam Dao, Dã Tượng, Phan
Nguyên...) nhưng rất nhiều tiểu luận sắc nét cùng với
biên khảo, hiệu đính công phu của Tạ Trọng Hiệp,
Phạm Trọng Luật, Lê Thứ, Ðơn Hành, Huỳnh Hữu
Ủy... đã chứng minh những đóng góp nhiệt tâm, nhiệt
tình của giới tả khuynh trên Hợp Lưu. Chỉ với vài số
báo, Khánh Trường đã xoá đi bức tường ngăn cách,
giàn hoà Vũ Văn Nhậm với Nguyễn Hữu Chỉnh.
Không còn tả, không còn hữu, chỉ có con người Việt
Nam mà phẩm giá duy nhất để đo lường là nhân
cách. Chỉ vài số báo việc hợp lưu những con người dị
biệt quá khứ sống ngoài tổ quốc đã được thực hiện.
Ðây là một thành công.

Hợp Lưu số 8 chủ đề Văn Cao, đánh dấu một bước


ngoặt. Lần đầu tiên tín hiệu công khai giao lưu với
trong nước được thể hiện rõ qua bài viết của Hoàng
Cầm trách Phạm Duy hiểu chệch choạc (chữ của
Hoàng Cầm) về thi ca ông. Trong cùng số báo Phạm
Duy viết bài trả lời Về Những Cái Gọi Là Hoàng Cầm
Ca! Những số báo sau, cả hai sẽ có thư trao đổi làm
hoà. Trong chủ đề Văn Cao còn có hai bài viết khác
trực tiếp gởi từ trong nước ra theo lời mời của Ðặng
Tiến, một của Dương Tường và một của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, cả hai đều viết về Văn Cao. Hoàng Phủ
sẽ là người tham dự Hợp Lưu hết mình cho đến ngày
ông ngã quỵ. Bạn đọc ngoài nước rất bất ngờ khi
khám phá Hoàng Phủ Ngọc Tường - tên đồ tể
Huế như hội đoàn cộng đồng kết tội- biết viết những
trang tùy bút diễm ảo lạ thường. Ðường lên núi Bạch
Mã với đôi chim phượng bay về núi mỗi chiều qua
rừng tùng tím thẫm, rặng bạch đàn xanh ngút ngắt
biết thổn thức dọc Trường Sơn, giải đất đá khô cằn
nứt nẻ ngoài Bình Trị Thiên mỗi mùa cát lấp mất đi
tiếng khóc của trẻ nhỏ chào đời. Khó mà tin một tên
đồ tể thảm sát chôn người tập thể ngoài Huế lại nhậy
cảm và nhiều cảm xúc như vậy. Tôi không rõ Hoàng
Phủ Ngọc Tường có thật trách nhiệm thảm kịch Mậu
Thân 68 hay không, nhưng tôi biết tòa chưa tuyên án
chưa ai có tội, và tôi cũng biết: Sau Nguyễn Tuân,
Mai Thảo, Võ Phiến, Hoàng Phủ là người viết tuỳ bút
tài hoa nhất của đất nước. Lần cuối về thăm ông bại
liệt trong ngôi nhà cũ của Trịnh Công Sơn ở Phú
Cam, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn hỏi thăm từng
người trong Ban biên tập Hợp Lưu. Ông không còn đi
đứng được để dẫn tôi đi chơi lăng, để cùng ngồi uống
rượu đế Làng Truồi ở lăng Gia Long. Lăng mộ đẹp
nhất trong các lăng mộ vương triều Nguyễn. Ngồi bên
cạnh Hoàng Phủ, dưới gió núi hoang vu, trước lăng
tẩm của vị vương tử đầy quyền uy và quyết tâm
Nguyễn Ánh, tôi không bao giờ tìm ra câu trả lời Vì
sao ngày xưa ông nhảy núi? Nhưng tôi hiểu tại sao
ông yêu Huế, chính vì Hoàng Phủ Ngọc Tường
thương nỗi buồn trong từng con người Việt Nam và
Huế là thành phố buồn bã nhất. Ngắm bậc tam cấp
còn uốn các chú rồng nhỏ, ngắm viên quan chắp tay
cụt đầu, con ngựa cung đình thui chột, tôi nhớ Phan
Nhật Nam trong Dựa Lưng Nỗi Chết kể chuyện nhân
vật lính lên lăng Gia Long uống bia không đá và lấy
súng M-16 bắn ngựa mù mắt trong một buổi chiều
cuối năm sông Hương bốc mờ sương khói. Phan Nhật
Nam, cũng là người viết bút ký chiến trường hay nhất
Việt Nam. Phan Nhật Nam đã mở ra trong tôi bao
nhiêu khu rừng thông có cánh chim trắng bay chậm
rãi, cánh chim tinh khiết như tâm hồn các tân khoá
sinh sĩ quan võ bị quốc gia Ðà Lạt. Phan Nhật Nam,
thần tượng của một trời tuổi thơ, và bây giờ tôi ngồi
cạnh Hoàng Phủ, tên đồ tể đang bại liệt còn thăm hỏi
Hợp Lưu. Thiếu quá khứ chung khiến tương lai trở
nên khó hiểu?  Phải thế không Nina? Nhưng làm sao
McPherson, dịch giả trẻ khả ái này có thể hiểu và
nắm bắt nhanh như vậy nguồn gốc ung thư của
chứng bệnh trầm kha chia rẽ của dân tộc này? Chỉ
bằng xuyên qua dịch thuật mười truyện ngắn và ba
cuốn tiểu thuyết? Câu trả lời nằm trong khả năng kỳ
diệu huyền hoặc vô biên của văn chương.

Kỳ diệu và không biên giới, nên Hợp Lưu số 18 đánh


dấu mốc vô cùng quan trọng. Tháng 8/94, trong thư
ngỏ, Khánh Trường chính thức công bố hai bài viết
gởi ra từ trong nước của các giáo sư Hoàng Ngọc
Hiến, Nguyễn Huệ Chi thuộc Viện Văn Học Hà Nội.
Nếu bài viết Sức Mạnh Văn Hoá và Sự Phát Triển
Văn Minh của Hoàng Ngọc Hiến phân tích tổng quát
tiến trình giao lưu không thể tránh khỏi trong khuynh
hướng tương thùy (chữ của Hoàng Ngọc Hiến hàm
nghĩa theo chiều ngang, đa quốc gia, đa văn hoá), và
phân tích chi tiết sâu sắc những đòi hỏi văn hóa ở
con người, ở một quốc gia, ở một dân tộc; thì bài viết
của Nguyễn Huệ Chi, Vài Cảm Nhận Văn Học Việt
Nam Hải Ngoại, tập trung khoanh vùng một thực tế
đã khiến ông ray rức: Ðời sống tinh thần của người
Việt xa xứ. Bằng uy tín cá nhân, bằng nghiên cứu cẩn
trọng, Nguyễn Huệ Chi công khai tuyên bố sự hiện
hữu của một dòng văn chương ngoài nước và đặc biệt
- bài viết của ông toát ra khát khao chân thành tìm
hiểu những sáng tác bên này biển. Tuy thiếu tài liệu
tham khảo, giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã làm công
việc nghiêm túc của người làm văn học: Xác định và
đánh giá khách quan không thành kiến, không quan
điểm, không lập trường, chỉ bằng chính tấm lòng ngay
thẳng của mình. Bài viết của ông là một trong những
bài viết đầu tiên mở đường cho những nhận định khác
xây dựng trên cùng một giá trị vừa kể (xem Lê Hoài
Nguyên, Một Cách Nhìn 18 Năm Văn Học Nước
Ngoài HL14).

Tất nhiên, Khánh Trường và toàn Ban chủ biên, cùng


các tác giả có hay không tham dự Hợp Lưu không
chờ đợi Nguyễn Huệ Chi trích lục khai sinh. Cũng
không chờ đợi ông đóng một nhãn hiệu cầu chứng,
hay cấp bằng chất lượng ISO, cấp thẻ lưu hành cho
xe máy văn chương trên 100 phân khối. Tất cả đều
hiểu văn học hải ngoại hiện hữu bằng chính khả năng
sáng tạo đã có và không cần bất kỳ một thị thực nhập
cảnh nào, cho dù bị xem là văn chương Việt kiều.
Ðiểm son trong bài viết của Nguyễn Huệ Chi nằm ở
đây. Giáo sư không hề có tham vọng cấp hộ khẩu
văn chương, nhưng khát khao tìm hiểu sáng tác của
những nhà văn không có chứng minh nhân dân. Hợp
Lưu số 18 đánh dấu một cách nhìn mới ở trong nước,
một phần thưởng quý giá đối với Ban chủ biên, mà tất
cả đã quý trọng lòng dũng cảm vô biên không chỉ với
riêng Nguyện Huệ Chi mà còn với cả nhà phê bình
Hoàng Ngọc Hiến đã can trường gởi bản thảo, và
trách nhiệm hành động ý thức này.

Cùng trên Hợp Lưu 18, Phạm Thị Hoài gởi đăng hai
truyện ngắn mới nhất chưa hề xuất hiện trong nước,
hai truyện ngắn kinh dị của văn chương Việt Nam.
Tiệm May Sàigòn miêu tả đời sống tâm lý kinh hoảng
của bầy thợ may mang tên âm trắc, yêu dễ dãi và
chết dễ dãi trong u tối văn hoá. Thực Ðơn Chủ Nhật
liệt kê thức ăn đối chọi của hai thời đại xưa/nay, thời
đại cơm bát bửu bị nhốt vào trong xó nhà chết sình
thối không ai biết, và thời đại đái vào nồi rau muống
luộc diễn ra trên vỉa hè của những hàng cơm tập thể
thờ ơ với cái vừa chết. Phạm Thị Hoài, nhà văn duy
nhất của giai đoạn đổi mới bùng nổ còn giữ lại phẩm
chất sắc sảo trong tác phẩm, vẫn không
gian milimètre, vẫn chuốt nhọn từng chữ, cân
từng gramme dấu phẩy, đo từng đường kính mỗi dấu
chấm, và xếp suy nghĩ thành hình khối thách đố trí
tuệ. Truyện ngắn Ám Thị gần đây đăng trên Việt
chứng tỏ tài năng nguyên vẹn này. Phạm Thị
Hoài, trên sinh lộ mới của văn học  như Thụy Khuê
phân tích trong một bài phê bình cùng tên (HL11).
Nhưng Phạm Thị Hoài không ngừng ở đó. Bằng hoàn
cảnh sống, bằng những tham dự dấn thân, bằng thái
độ sống, và đặc biệt bằng phong cách diễn đạt qua
tác phẩm, Phạm Thị Hoài đã chiến thắng cụm từ Hải
Ngoại-Trong Nước. Không ai dám nhận vơ Phạm Thị
Hoài là nhà văn hải ngoại, và cũng thật khó khăn xếp
Hoài vào nhà văn trong nước, khi Hoài sinh sống tại
Bá Linh. Phạm Thị Hoài, một nhà văn Việt Nam,
không trong, không ngoài.

12 năm không biên giới đã cho phép Hợp Lưu đăng


tải voâ vàn những sáng tác, biên khảo, phỏng vấn
của các tác giả trong nước. Không thể liệt kê hết
16500 trang của 66 số báo, chỉ có thể nhắc lại những
ấn tượng chính:

Quả Vườn Ổi (Hoàng Cầm), Dị Mộng, Qua Sông


(Cung Tích Biền), Ðàn Sẻ Ri Bay Ngang Rừng (Võ
Thị Xuân Hà), Giấc Ngủ Nơi Trần Thế (Nguyễn Thị
Ắm), Ðảo Ngụ Cư (Ðỗ Phước Tiến), Vũ Ðiệu Của Cái
Bô (Nguyễn Quang Thân), Phù Thủy, Hậu Thiên
Ðường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Lão Khổ (Tạ Duy
Anh), Một Chuyện Phải Gió (Nguyễn Quang Lập),
Gió Dại, Khắc Dấu Mạn Thuyền (Bảo Ninh), Mùa
Hoa Cải Bên Sông, Người Ðàn Bà Xóm Trại (Nguyễn
Quang Thiều), Bảy Trích Ðoạn Mùa Xuân Vùng Da
Cam, Phòng Bốn Giường (Bùi Hoàng Vị), thơ Thanh
Thảo, Nguyễn Ðỗ, Hoàng Hưng, Bùi Chí Vinh,
Nguyễn Quyến, Nguyễn Quốc Chánh, Nguyễn Duy,
Nguyễn Trọng Tạo, Trần Vàng Sao, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Triệu Từ Truyền, Lê Ðạt. Truyện ngắn Nhật Tuấn,
Nguyễn Thị Minh Ngọc, Ngô Thị Kim Cúc, Phan Thị
Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Trung Trung Ðỉnh, Lý Lan,
Võ Thị Hảo, Trần Thị Trường, Hoà Vang, Nguyễn
Bản, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng, v.v... Biên khảo
lý luận của Nguyễn Kiến Giang, Lại Nguyên Ăn, Bùi
Thiết, Ðào Thái Tôn,Vương Trí Nhàn, Tiêu Dao Bảo
Cự, Lê Ngọc Trà, Phong Lê, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Huệ Chi, Phạm Xuân Nguyên, Lê Hoài
Nguyên, v.v... Ở mỗi bộ môn đều có rất nhiều bản
thảo gởi ra từ trong nước như trường hợp Thằng Bắt
Quỷ (Cung Tích Biền), Xuân Hồng (Nguyễn Huy
Thiệp), Từ Man Nương đến AK (Phạm Thị Hoài),
Không Ðề (Trần Vàng Sao), Chia (Nguyễn Trọng
Tạo), Người Thuận Tay Trái, Chạy Ðạn, Dặm Trường
(Trần Thị Ngh.), Tự Bạch, Tiểu thuyết Vô Ðề (Dương
Thu Hương), Ngọn Núi Ảo Ảnh, Tuyệt Tình Cốc
(Hoàng Phủ Ngọc Tường), Tầng Trệt Thiên Ðường,
Nghiệp, Dị Mộng, Khu X Nội Quang (Bùi Hoàng Vị),
Truyện Của Chíp, Bụi Nắng (Phan Huyền Thư), Văn
Học và Xã Hội VN (Phạm Thị Hoaøi), Nhìn Chung
Một Bức Tranh Hoàn Chỉnh Về Văn Học Dân Tộc
(Phạm Xuân Nguyên), thơ Hoàng Hưng, Nguyễn Ðỗ,
Nguyễn Quốc Chánh, nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn
Bạt Tụy, tiểu luận Trần Ðộ, v.v... Sau hết, trận bút
chiến kinh thiên giữa Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Xuân
Nguyên, Thường Quán với Nguyễn Hưng Quốc,
Hoàng Ngọc-Tuấn trong chủ đề Trí Thức-Phản-Trí
Thức bắt nguồn từ Phê Bình Văn Học Của Hoài
Thanh (Hoàng Ngọc Hiến) và ngay sau khi Lê Ðạt
cao tuổi trượt chân. Phạm Xuân Nguyên, nhà nghiên
cứu thuộc Viện Văn Học Hà Nội đã đóng lại đúng lúc
cuộc tranh luận bắt đầu nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng
lẫn nhau đó. Nhiều bạn đọc lo sợ cho không khí căng
thẳng có thể đổ bể bao công sức giao lưu, nhưng tôi
tin: Một nền văn học khoẻ mạnh là một nền văn học
phải có bút chiến, chỉ cần giữ được tinh thần bút
chiến Phan Khôi. Các trận Cóc, Phản Trí Thức càng
chứng minh hiện tượng giao lưu văn hoá là có thật.

Như vậy, mục tiêu ban đầu - Giao lưu văn hoá - có
thật đạt được hay không? Khánh Trường có thể trả lời
khiêm tốn: Thành công mỹ mãn! Hôm nay, bước vào
năm thứ 12, tiểu thuyết Chốn Vắng của Dương Thu
Hương, qua đại diện tại Pháp Phan Huy Ðường, tác
giả cho phép đăng từng kỳ trên Hợp Lưu. Chốn Vắng,
cuốn tiểu thuyết chưa bao giờ xuất hiện dưới dạng
gốc Việt ngữ dù đã được phiên dịch sang Anh, Pháp.
Chốn Vắng, mà mỗi trang in là mỗi trang thành tựu
của chuyển động hợp lưu.

Tôi bước chân vào nghĩa trang Gò Vấp một tối vừa
dứt mưa. Phần còn lại của nghĩa trang đã di dời, cải
tạo chỉ là những vừng cây um tùm lá. Một góc tường
đổ, chăng ngang sợi kẽm gai rỉ, đây đó lác đác vài
gốc mả hoang không thân quyến nằm lẫn những hố
sình. Buổi tối đen như mực. Càng bước vào sâu càng
tối ám. Nhật Tuấn biến đâu mất. Tôi không biết anh
ngồi ở đâu, cảm giác mình đi lạc. Tối quá, tôi mầy mò
cố tránh những vũng nước bẩn và những bụi mía,
đám trúc đâm tua tủa. Ai trồng mía ở đây? Bóng thiếu
nữ vụt hiện ra.

- Anh tới mả em!

Những cánh tay trắng bất ngờ chập chờn vẫy. Những
lùm cây lạo xạo. Ánh đèn cầy leo lét ở đâu cháy trong
các hốc mả. Một tim đèn dầu phựt lên ma trơi.

- Anh ơi, mả em đằng này!

- Em ở mả này anh!

Tôi bắt đầu nhận rõ những chiếc bóng mảnh khảnh


đang vây quanh vồ vập. Tiếng cười của các cô gái
khiến khu mả vụt trở nên sinh động. Ðám con gái ăn
sương cười rú chọc ghẹo.

- Anh tới mả em.

Tôi chọn cô gái đã mời đầu tiên. Thiếu nữ dắt tôi ra


sau tấm bia. Các ngọn nến phụt tắt. Những chấm tim
dầu đỏ cũng tắt ngấm. Khu mả trở lại tối tăm lạnh lẽo.

Cô gái trắng nhờ nhợ, chậm rãi bóc nhãn, rót bia. Lúc
đi ra sau mộ tìm chỗ tiểu, tôi bật quẹt để nhìn gương
mặt người chết: Nguyễn Thị Thanh Hương, hưởng
dương 21 tuổi, không có ảnh. Ngọn gió chao khiến
diêm quẹt tắt. Ý nghĩ cô gái ngồi cạnh cũng đang
nằm phía trước, nhưng Thanh Hương đã đút nhãn, xé
mực, mời bia. Ðêm nghĩa địa giống đêm trong bất cứ
một quán bia ôm nào. Tôi đứng lên khi nghe tiếng
Nhật Tuấn tìm. Thanh Hương chìa tay:

- Hoá vàng đi anh.

- Hoá vàng? Tôi không hiểu. Cô gái cười khúc khích:

- Tám lăm ngàn, tống đạt cho em đi.

Tôi đưa tiền, cô gái dặn với:

- Mả em ở lô 12/40, rảnh ghé chơi em.

Gò Vấp buổi tối khuya khoắc, đường về phía bệnh


viện Cộng Hoà cũ vắng vẻ. Tôi rủ Nhật Tuấn đi ăn
cháo Nhà Xác, nhưng anh nói xa lắm, tối quá không
chắc còn bán. Chúng tôi ăn cháo rắn ở sạp Ả Oai.
Ánh điện néon xanh mướt. Gương mặt cô bán cháo
tím tái tựa xác chết, vô cảm trước những lời chòng
ghẹo của vài khách nhậu. Tôi nghĩ đến cô gái bán bia
ôm lúc nãy. Nhật Tuấn trách :

- Mày nhát quá. Ði chơi, chơi cho đáng tiền!

- Không thể nào làm giữa bãi tha ma như vậy. Với
phải có tình cảm, trở lại nhiều lần thành bạn gái thân
thì mới có thể...

Tôi không biết giải thích sao cho anh hiểu, cũng
không sao phân biệt được trứng rắn với hạt sen trắng
nõn trong tô cháo bốc khói nghi ngút.

- Mày lãng mạn công tử máy lạnh quá! Ăn cháo đi, ở


đây rất ngon và rất rẻ.

Tôi húp cháo, vẫn nghĩ đến Thanh Hương. Làm sao
cô gái biết sử dụng ngôn ngữ hay đến vậy? Hoá
vàng? Tống đạt? Phải rồi vì đồng tiền tiêu ở quán bia
ôm là đồng tiền ma quỷ. Ðồng tiền Việt kiều đổi ra
bạc triệu như giấy cũng không có thật. Tất cả chỉ là
vàng mã. Làm sao người viết ở ngoài nước
với bill, voucher có thể nghĩ ra một câu gọi tính tiền
văn chương hay hơn? Làm sao Thanh Hương, một cô
gái trẻ bỏ học rất sớm, quê quán Cần Thơ chưa bao
giờ đọc tiểu thuyết có thể nghĩ ra điều đó? Ðồng tiền
đang tiêu trên đất nước này là đồng tiền ma quỷ.
Không phải tiếng lóng của giới son phấn, chưa cô gái
bia ôm nào nói với tôi ngôn ngữ đó và đồng nghiệp
của Thanh Hương không đòi Nhật Tuấn trả tiền giống
vậy. Hỏi Nhật Tuấn chuyên viên Ði Về Nơi Hoang Dã,
hỏi Cung Tích Biền tác giả Cái Chết Của Một Con Ðĩ
Ngựa, hỏi Nam Dao tác giả Người Mình, Phạm Xuân
Nguyên, Phan Nguyên, nhị nguyên rất rành, rất am
tường cũng chưa bao giờ nghe...

Sáng hôm sau, tôi bước chân vào quán bia-rượu-cà


phê của thi sĩ Triệu Từ Truyền, chủ biên tạp chí thơ
Gieo Mỡ. Sàigòn tháng 7, nắng gay gắt. Ðường Phan
Thanh Giản-Ðiện Biên Phủ giữa trưa hầm hơi thiêu
đốt. Càng tiếp xúc, tôi càng nhận ra cuộc đời tinh
thần của giới sáng tác diễn ra nơi hàng quán. Tôi đã
lê la bao nhiêu quán với Mai Thảo, Khánh Trường ở
Cali, đã ngồi chiếu thịt cầy Nhật Tân với Nguyễn Huệ
Chi, ăn bún chả Hàng Mành với Dương Thu Hương,
uống cà phê Hồ Xuân Hương với Bảo Ninh, chui dưới
gầm cầu Gia Hội ăn bánh khoái với Hoàng Phủ, leo
dốc Nam Dao ăn bún dấm nuốt với Ngụy
Ngữ, bar Thiên Ðường, Guns n' Roses với Cung Tích
Biền, cá sấu chấm chao, trúc, cheo, nhím, rắn, cóc,
dơi, khỉ ở quán Tri Kỷ, Quê Hương, Thuyền Quang,
Hàng Xanh, Hoàng Ty... Kể lại kỷ niệm hàng quán ở
câu lạc bộ Triệu Từ Truyền trưa đó để giải thích thêm
hiện tượng bản thảo trong nước đến tay chủ biên Hợp
Lưu đôi khi vòng vo tam quốc thật tình cờ. Trưa nóng,
tôi với Cung Tích Biền đánh cờ. Tôi thử đánh liên tiếp
pháo trùng, pháo lồng, song pháo, thua xiểng liểng...
Cung Tích Biền tác giả Ngoại Ô Dĩ An đánh cờ cũng
huyền ảo như ông viết Dị Mộng. Tôi loay hoay cố nhớ
truyện ngắn tâm lý Ván Cờ của Vĩnh Hảo để tìm lối
thoát. Triệu Từ Truyền dẫn một thanh niên to, cao
đến giới thiệu:

- Ðây là Bùi Chí Vinh, đây Trần Vũ viết trên Hợp Lưu.

- Ai cho đăng bài thơ Con Ngựa trên Hợp Lưu?

Bùi Chí Vinh đầy bia bọt, da sạm, đẹp trai, và du côn.

- Mày phải hỏi thằng Khánh Trường, hỏi chi ở đây. -


Anh Cung Tích Biền đỡ hộ.

- Chính Vũ chép lại gởi cho Khánh Trường bài thơ


Con Ngựa. - Tôi trả lời.

- Ai cho? Sao không xin phép? - Bùi Chí Vinh đã ngồi


xuống, hất hàm.

- Anh Nam Dao sang Pháp đọc cho nghe, rồi chép
lại.

Tôi kể lại chuyện những buổi tối cùng Nam Dao lê la


các hầm rượu Paris, Nam Dao ngâm bao nhiêu bài
thơ Bùi Chí Vinh đã đọc cho nghe năm 80. Tôi chép
bài Con Ngựa ưng ý nhất gởi cho Khánh Trường.

- Hà, hà.. tay Nam Dao. Nam Dao thì toàn quyền...

Bùi Chí Vinh cười rung người, rồi lại bực bội:

- Nhưng sao không trả nhuận bút?

- Trên Hợp Lưu ai cũng viết chùa. Khánh Trường rất


nghèo, không có tiền trả nhuận bút, nhưng nếu Vinh
đòi thì trả.

- Trả một chai Whisky đi. - Bùi Chí Vinh đề nghị.

- Rồi.

Triệu Từ Truyền đem ra một chai Johnnie Walker nắp


đỏ. Tôi đếm 180.000 đồng trả. Không khí tưng bừng
trở lại. Cung Tích Biền dẹp cờ tướng, Triệu Từ Truyền
ngâm thơ, đãi rượu rắn, cả đám cạn thêm két bia,
khui chai rượu nhuận bút uống cho hết một buổi
chiều hoang vu nữa trên mặt đất. Chép lại bài thơ
Con Ngựa đã đăng trên Hợp Lưu số 11, để nhớ người
thơ ngang tàng Bùi Chí Vinh và nhớ Khánh Trường
còn thiếu nợ chai rượu ứng trước.

Tụi nó cưỡi lên anh làm ngựa

Khiến lưng anh trổ lông

và gáy mọc ra bờm

Anh vừa hí

vừa vặn mình nôn mửa

Một đống lạ lùng nửa áo nửa cơm

Tụi nó lại treo trước đầu anh

một giỏ hoa thơm

Có mùi văn chương có hương nghệ thuật

Anh nghiến răng nhai vội cuống cuồng

Ðến khi ợ mới biết mồm tàn tật

Tụi nó lại bắt anh ăn tươi sự thật

Nên nước mắt em đã đông đặc thành chuông

Anh cố sải dù bốn chân cà nhắc


Ðể thấy rằng mình còn một quê hương

Bài thơ thẳng băng không ẩn dụ. Giống đời sống tinh
thần của giới sáng tác cũng diễn ra không ẩn dụ ở
hàng quán, và giao lưu văn hoá, có lẽ, sau chót là
giao lưu hàng quán với đầy tình cờ như tất cả đã gặp
gỡ. Nếu qua cung cách đối xử trở thành bạn, thì giữ
được tình bạn mới khó. Hợp Lưu đã thành công, giữ
được Hợp Lưu còn là một thách đố.

Ðã điểm qua giai đoạn hình thành lịch sử, những khó
khăn triền miên, những thành tựu nhất định, không
thể không tiếp tục dàn bài mà các giáo viên văn chủ
nhiệm không ngừng nhắc nhở: Ðã có thành tựu, phải
có giới hạn và truy xét kinh nghiệm bản thân... những
tiêu chuẩn đòi hỏi của văn học chính quy. Giới hạn
của Hợp Lưu nằm ở đâu?

Mở lại các trang báo cũ, bạn đọc nhận ra ngay từ Hợp
Lưu số 3, chủ đề văn chương nữ đương đại, Khánh
Trường đã tham vọng... khai phá, vung lựu đạn đòi
hỏi quyết liệt cách tân, đổi mới sáng tác. Hiện đại hoá
văn chương Việt, hậu hiện đại hoá, hay đương đại
hoá sẽ là khẩu hiệu, lá cờ quyết chiến-quyết thắng,
quyết tử cho văn chương quyết sinh của chủ biên
mặc dù anh không thể định nghĩa thế nào là hậu hiện
đại. Ðiều kỳ lạ, rất đông đảo giới sáng tác đã đồng
loạt lên đường trong giai đoaïn đầu, đồng loạt khởi
phát một phong trào sẽ để lại nhiều tiếng tăm lẫn tai
tiếng: Phong trào sinh dục hoá thi ca. Song song, nẩy
sinh một hiện tượng khác: Các sáng tác trên Hợp Lưu
(và tạp chí Thơ, một tạp chí đồng hành, chuyên
ngành, đồng tâm huyết) thường rất khác lạ, trên hình
thức, trong kỷ thuật, với đầy liều lĩnh.

Nhưng làm sao tổng biên tập Hợp Lưu, Khánh


Trường, chưa khoác lên mình áo hoàng bào trưởng
thượng, chưa đội vương miện thi bá, chưa xuống tay
đao phủ văn xuôi, chưa lập thuyết có thể triệu tập tinh
hoa của sáng tác ngoài nước? Và tại sao tất cả cùng
đi tìm dâm tính, noạ tính trong văn chương như
Trương Vũ nhận xét? Tôi không tin Khánh Trường có
khả năng giao tế đến mức quy tụ hào kiệt, anh đôi lúc
rất vụng về miền viễn tây, khiến một số sáng tác first
choice như trường hợp truyện ngắn xuất sắc Trong
Buốt Pha Lê, Kịch Câm, Treo Ðầu Dây Quan Họ của
Nam Dao, do tôi chuyển đến Hợp Lưu trước nhất,
cuối cùng vì Khánh Trường chậm trễ đã xuất hiện
trên Văn Học. Có thể giải thích, bằng ý chí quyết tâm
khai phá, bảo vệ môi sinh hoang dã, hỗ trợ tối đa
mạch văn không chính quy, giao hẳn mấy
chục hectare đất trên Hợp Lưu cho các tác giả trẻ
muốn làm gì làm, Khánh Trường đã lôi kéo về anh
sức mạnh của sáng tác. Chính tự do tuyệt đối trong
sáng tác, trên Hợp Lưu, không bài vị, không kỵ huý,
không Khổng Mạnh, không quốc cấm, "no care" như
Khánh Trường thường hãnh diện, đã tạo cơ hội mới
cho sáng tác. Nguyễn Hưng Quốc nhận xét hiện
tượng đó một cách tổng quan và đại cương hơn trên
Hợp Lưu số 40:

"Nếu quan sát kỹ sinh hoạt văn học hải ngoại từ trước
đến nay, chúng ta sẽ thấy hiện tượng thú vị: thỉnh
thoảng, có lúc, hình như, tự dưng một số nhà văn,
nhà thơ (đặc biệt là các nhà thơ), một cách hoàn toàn
tự phát nhưng lại gần như đồng loạt, từ giã tờ báo này
để cộng tác với một tờ báo khác. Sự 'chuyển luồng'
ấy thú vị ở chỗ: nó tự phát nhưng lại khá đồng loạt.
Và nó để lại dấu ấn không nhỏ trên diện mạo của cả
tờ báo trước lẫn tờ báo sau. (Theo tôi, những hiện
tượng 'chuyển luồng' như thế thể hiện rõ hơn đâu hết
quá trình vận động lặng lẽ của ý thức văn học của
từng thời kỳ). Những sự chọn lựa âm thầm ấy của giới
cầm bút góp phần quan trọng, chắc chắn còn quan
trọng hơn cá tính của người chủ biên, trong việc định
hình diện mạo và giá trị của tờ báo, từ đó, dẫn đến
hiện tượng có thể có hai tờ báo có những cộng tác
viên chính tương đối giống nhau mà chất lượng vẫn
khác hẳn nhau: một tờ khá, một tờ kém; một tờ cấp
tiến, một tờ bảo thủ; một tờ trăn trở đi tìm cái mới, một
tờ tiếp tục ầu ơ những bài ca cũ. Ðại khái, cũng chỉ
chừng ấy người viết chính"  (trích Vài Ý Nghĩ Thoáng
Về Báo Văn Học, Nguyễn Hưng Quốc, HL 40).

Nhà phê bình chụp bắt chính xác điều mà giới sáng
tác đã cảm nhận từ rất lâu. Phân tích đó đặc biệt
đúng với Hợp Lưu, một tạp chí chia sẻ người viết với
các báo bạn, Văn, Việt, Văn Học, Diễn Ðàn... nhưng
sự 'chuyển luồng' đó khác thường ở chỗ tập trung vào
mặt hình thức, dâm tính hoá văn chương cùng cực
dưới tên gọi: Khai Phá - mục tiêu chánh thức thứ nhì
của Hợp Lưu.

Có thể chia lớp người viết trẻ - hiểu theo nghĩa trung
niên trẻ mà Thế Uyên định nghĩa- tham dự trên Hợp
Lưu làm hai nhóm. Nhóm phá phách nổi: Ðỗ Kh.,
Nguyễn Hoàng Nam, Ðinh Linh, Trân Sa, Trần Vũ,
Vũ Quỳnh Nh., Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh
Bình, Nguyễn Thị Hoàng Bắc (trong thơ), Huỳnh
Mạnh Tiên, Thế Uyên, Nam Dao, Chân Phương, Mai
Ninh... và nhóm nghịch ngầm: Khế Iêm, Ngu Yên,
Hoàng Mai Ðạt, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phan Tấn
Hải, Dã Tượng, Ngọc Khôi, Phạm Việt Cường, Lê Thị
Huệ, Nguyễn Hương, Lê Bi, Thuận Ánh... Những tác
giả khác, hoặc thầm kín như trường hợp Hồ Ðình
Nghiêm, hay tách bạch trầm tĩnh, tĩnh mịch riêng rẽ
và độc lập tiếp tục văn nghiệp đã định hướng như Võ
Ðình, hoặc thu gọn trong trường phái nhất quyết
không phát vãng trinh tiết: Lê Minh Hà, Phạm Hải
Anh, Thơ Thơ, Hồ Minh Dũng, Phan Thị Trọng
Tuyến, Vĩnh Hảo, Miêng, Trần Thị Diệu Tâm, Sông
Phố, Song Thao, Trần Mộng Tú... Nếu Chân Phương,
Khế Iêm nhanh chóng chiếm chức lý thuyết gia của
phong trào, trên mặt thi ca, trong văn xuôi chưa ai lý
thuyết hoá những điều mình muốn viết. Tất cả chỉ biết
ra đấu trường giác đấu với một chủ biên no care, với
một tinh thần hung hãn của Mai Thảo.

Khai phá - phải hiểu là một cách nói đoạn tuyệt lịch
sự. Giống Mai Thảo đã đoạn tuyệt với Tự Lực, chấm
dứt một thời đại văn học, khởi sinh một thời kỳ Sáng
Tạo nguy nga mới ngay khi ông vào Nam. Ðoạn tuyệt
với Ðoạn Tuyệt của Khái Hưng, Nhất Linh. Ðoạn
tuyệt với cái Tôi xã hội, Tôi chung của mùa thu tiền
chiến. Lên đường, chất nổ đã ném vào, cờ đã phất
lên, dù chưa biết đi về đâu. Có thể xem đây là nền tư
tưởng chính của ban chủ biên Hợp Lưu cùng hai
nhóm nổi-chìm trong suốt giai đoạn vừa qua. Một lập
lại tư tưởng đoạn tuyệt của Mai Thảo, nhưng với
chính... Mai Thảo. Ðoạn tuyệt với các bạn bè ông: Vũ
Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Ðỗ, Thanh
Nam, Võ Phiến, Túy Hồng, Tô Thuỳ Yên, Nhã Ca,
Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, v.v... Ðoạn tuyệt
với cái Tôi Trí Tuệ của Thanh Tâm Tuyền! Ðoạn tuyệt
luôn với hai thập niên hải ngoại thừa kế vừa qua. Lớn
lao, khổng lồ, đầy tham vọng nếu đọc lại những gào
thét của chủ biên Khánh Trường trong những lá thư
toà soạn, nhưng đằng sau tư tưởng đó, là cả một vực
thẳm sương mù trùng điệp mênh mông dài sâu hun
hút, không đáy, không tiếng động, không hình dáng,
không có gì rõ rệt. Vùng tuyệt Mù, như Thụy Khuê sẽ
thật nhanh nắm bắt.

Trong đấu trường mờ mịt ở Châu Âu, Úc và Bắc Mỹ,


trong chốn vắng tư duy đó, các tác giả hung hãn
nhất, nhất quyết ra khơi. Phải nhìn nhận, trong những
số Hợp Lưu đầu tinh thần ra trận của Phạm Tiến Duật
đã có. Ðường ra trận mùa này đẹp lắm, trường sơn
đông hú gọi trường sơn tây...  Tất cả đã đồng loạt
cùng một lúc thay đổi bút pháp, hình thức, câu chữ và
đăng tập trung trong vài số báo. Nếu đại đa số chọn
khuynh hướng biểu trưng đậm đặc, một số khác chọn
trường phái dã thú, nhưng tất cả đều đã ùa đi tìm ấn
tượng. Truyện ngắn Sắc Màu của Vũ Quỳnh Nh. đã
mở đaàu bằng ba câu nhập hết sức khiêu khích:

- Gái tơ, trẻ đẹp đủ cỡ, ông thích không?

- Gái trẻ đẹp biết cách chiều chuộng, mời ông vô?

- Gái...

(trích Vũ Quỳnh Nh, Sắc Màu, HL3)

Chỉ với ba chữ Gái rao mời sáng tác khai phá, Vũ
Quỳnh Nh. đã khẳng định mình không thuộc trường
phái Chim Hót Trong Lồng của Nhật Tiến, vứt trả hết
cho thầy Trần Trọng Kim những tâm huyết của nghề
văn. Cùng trên Hợp Lưu số 3, Trân Sa viết truyện tình
Thời Nàng Còn Ðiên và chứng tỏ Sa biết điên. Bốn số
sau, Bản Chính trên Hợp Lưu 7, kể lại những ám ảnh
hốt hoảng của một thiếu nữ chạy đuổi bắt chính mình
thời nhỏ đang lao xuống vực thẳm của đời sống. Hốt
hoảng trước những vuốt ve si mê của Vũ Anh, một
người bạn gái, hốt hoảng trước những ngón tay mảnh
dẻ cởi cúc xoa êm dịu làn da trần dịu mát của buổi
chiều vừa chấm nắng. Sau ân ái, Trân Sa lặng lẽ
bước ra vườn, tắt đèn ngồi ở bậc tam cấp lắng nghe
những im lặng của chính mình. Truyện ngắn đã cố
dấy lên một luồng gió.

Trước 75, Trần Thị Ngh, Tuý Hồng, Nguyễn Thị


Hoàng, Lệ Hằng cũng táo bạo, nhưng chủ yếu ở suy
nghĩ, thường chay tịnh ở mặt hình thức. Trần Thị Ngh
vẫn bấm cúc mặc áo dài ra đường sau mỗi trận làm
tình ẩm ướt mồ hôi trong căn nhà hẹp có cửa khoá
trái. Túy Hồng nhìn lên vách chiếc bóng sinh lý của
đời sống vợ chồng. Nguyễn Thị Hoàng nằm suốt đêm
trên đất, giữa căn biệt thự vắng vẻ Ðà Lạt, chỉ với
những ngón tay xoắn xít trong tóc, chỉ dám mơn trớn
cườm tay của cậu học trò dậy thì tên Minh. Lê Hằng
loạn luân trong bản Tango cuối cùng và yêu rất nhiều
cha xứ, nhưng chưa làm vị linh mục nào xuất tinh.
Trân Sa, Vũ Quỳnh Nh, Phạm Thị Ngọc trong văn
xuôi, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc trong thơ không vậy. Nguyễn
Thị Hoàng Bắc vén áo dài thản nhiên ngồi tiểu, nghe
tiếng nước đái nhỏ giọt trong bồn cầu tí tách, thứ
nước ấm sóng sánh vàng hổ phách trong người tôi
tuôn ra (HL35). Phạm Thị Ngọc không mặc lại áo lót
sau khi làm tình nằm trần truồng nghĩ ngợi miên man,
cho phép các nữ sinh chơi trò cô dâu-chú rể, cho
phép trò Ngà đưa tay mân mê vú của trò Uyên giữa
trưa nắng đứng ngọ giữa đồng (HL15). Lê Thị Thấm
Vân năm 15 tuổi ngực dậy thì con gái, đầu vú nở
bung (HL13), liếm sạch những giọt mồ hôi tình, sau
Cuộc Tình (HL40) và Nguyễn Thị Thanh Bình, Trân
Sa thích trần truồng dẫy dụa như con nhộng  đưa
ngực cho người tình... điểm tâm không chút nuối tiếc
(HL18). Các tác giả nam còn táo bạo hơn nữa, Ðỗ
Kh, Nguyễn Hoàng Nam nhanh chóng khiến các độc
giả cao niên phải đội mũ bảo hộ mỗi khi đi xe ôm văn
chương trên Hợp Lưu. Có thể nói, phong trào sinh
dục hoá văn chương đã đem đến cách ân ái mới
trong thơ văn ở ngoài nước. Mai Ninh, một tác giả
chuyên trị nhục thể đến sau với Mây Một Ngày, với
những tấm màn trắng phất phới phập phồng trên thân
thể hai người đàn bà xiết chặt đùi ướt đẫm cùng giao
hợp thân xác trong căn phòng xanh xao trông xuống
cảnh vườn chùa u uẩn. Ðêm Rượu Ðợi của cùng tác
giả này, đăng ngay sau đó trên Hợp Lưu, đánh dấu
một cách nhìn tâm sinh lý khác. Lần đầu tiên, trong
văn xuôi, nhân vật nữ chính xưng tôi yêu mê đắm một
người đàn ông, chờ đợi suốt buổi chiều người tình lỗi
hẹn, rồi quyết định làm tình với ông lão gác dan để
thoả mãn dục vọng. Lệ Hằng, Nguyễn Thị Hoàng,
Tuý Hồng, Trùng Dương, Trần Thị Ngh, Nguyễn Thị
Thụy Vũ thời lao vào lửa đã chưa bao giờ cho phép
sinh lý lấn lướt tình yêu đến như thế. Các truyện ngắn
khác, Apocalypse Now của Vũ Quỳnh Nh., truyện
ngắn dâm dật chủ ý của Thế Uyên, Không Khí Thời
Chưa Chiến của Ðỗ Kh. với đối thoại sinh dục trắng
trợn trong một căn phòng khách sạn Hồng Kông,
hoặc Chỗ Trọ Trong Vườn Chuối của Ngọc Khôi, một
tác giả bình thường không phát vãng trinh tiết, bất
ngờ miêu tả những dòng nước lạnh chảy trên thân thể
đàn ông hâm hấp rắn chắc trong một vựa chuối của
hai mẹ con chuyên nuôi bệnh nhân trốn khỏi nhà
thương điên, hưởng dương vật của người bệnh rồi lấy
đá đập đầu cho đến chết! Với những miêu tả rõ ràng
không dấu giếm, truyện ngắn đã đi tìm trận gió kinh
thiên. Góp mặt của tôi giai đoạn đó, không khác bạn
bè cùng đến với Hợp Lưu, nếu Giấc Mơ Thổ không
nằm ngoài phong trào sinh dục, Mùa Mưa Gai Sắc là
nỗ lực đoạn tuyệt với Nguyễn Huệ trong Sông Côn
Mùa Lũ (xin hiểu đoạn tuyệt với cách nhìn chính
thống, không với tác giả Nguyễn Mộng Giác, nhà văn
đàn anh đã đem đến say mê bao ngày Mùa Biển
Ðộng).

Nhưng chính các thi sĩ mới là những kẻ đã lên đường


quyết liệt nhất. Cùng trên Hợp Lưu số 3, số của thời
nàng còn điên, số có gái tơ trẻ đẹp chiều chuộng đủ
cỡ, Ðỗ Kh. chính thức lập khai sanh cho phong trào
sẽ in đậm bàng quang anh: Âm đạo rung rinh có
động cơ điều khiển, Âm hạch xẻo luôn cho mày hết
đường động cỡn, Tôi kiếm con nào chừng mười ba
mười lăm, Vừa lú nhú li ti lông xoăn, trả Cash ! Chân
Phương thừa nhận và lập thuyết: Trong thơ phải có
vú... Rất nhanh, Linda Mặt Ngang, Trong Túi Việt
Kiều Cái Gì Tôi Cũng Có của Ðỗ Kh, thơ rách
toạc slip, soutien, mông, đít của Nguyễn Hoàng Nam,
thơ yêu chồng cho chồng sờ mó của Lê Thị Thấm
Vân làm thay đổi hẳn hình ảnh quý phái của thi ca.

Võ Phiến, một thời, đã định giá thơ một cách tôn


nghiêm sùng bái: Thơ, con đường vương giả trong
văn chương. Mai Thảo, cuối nghiệp văn, bỗng dưng
quên hết những Chuyến Tàu Trên Sông Hồng, Ðêm
Giả Từ Hà Nội, những Viên Ðạn Ðồng Chữ Nổi,
những Hạnh Phúc Ðến Về Ðêm, quên hết gia sản
của ba mươi năm viết tiểu thuyết, gia sản có Karen,
người tình của Viễn, người đàn bà Thụy Ðiển tóc vàng
nở nang, dâm đãng, khoả thân tự do đi lại trong
căn appartement đường Catina mở tung cửa cho mọi
người cùng nhìn ngắm.. quên heát những ngày ông
Gần Mười Bảy Tuổi để tự định nghĩa lại mình: Thơ là
tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn
chương! Tôi. Thơ.

Cuối nghiệp văn, có lẽ, Mai Thảo lẫn Võ Phiến đã


ngỡ ngàng nhìn con đường chung quyết trở thành bãi
tắm truồng, và thi sĩ mua dâm đứng phóng uế nhan
nhản ở mỗi ngã năm bùng binh vương giả. " Chúng
mày không đi ngã tắt vào văn chương, thơ không
phải là chỗ cho chúng mày bôi bẩn, chúng mày
không được bựa! Phất phơ hồn của bông hường,
nghe trong phiêu bạt còn vương máu hồng.. Thơ của
người ta biển trời, trí tuệ, chúng mày không bao giờ
có thể cất cánh được, thơ của chúng mày ở dưới
đất!"  Mai Thảo, sinh thời hay bẳn gắt, cáu giận mỗi
khi nghe bàn đến thơ hải ngoại. Ông xứng đáng...
làm trưởng thượng của lớp người muốn đoạn tuyệt với
ông. Trưởng thượng mắng lúc nào cũng nặng, nhưng
thi sĩ tỉnh bơ, như Chân Phương vẫn giả vờ cười hoát
ngộ, nghe ma quỷ vỗ tay (HL18).

Nhưng nếu Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh


Bình, Trân Sa còn giữ được chiếc quần tắm nhỏ xíu
xinh xắn dù mỏng manh của các nhà thời trang
Elisabeth Arden, Prada, Hermès, Valentino; Ðỗ Kh.,
Nguyễn Hoàng Nam, thêm Âm Hộ Ðịt của Trần Minh
Quân, đã khơi khơi phóng xe máy thơ tốc độ cao với
thân thể tô hô tồng ngồng không mảnh vải của họ.
Chưa có thời nào thi sĩ làm thơ ngon lành vậy, và
cũng chưa giai đoạn văn học nào bạn đọc thơ ngã xe
gắn máy vỡ óc chết tươi nhiều như vậy. Nguyễn
Hoàng Nam nhanh chóng tìm ra niêm luật của
thơ khai phá. Dành đường, lấn trái, phóng nhanh,
vượt ẩu bỗng nhiên, chỉ qua dăm bài thơ, một sớm
chiều vụt trở thành tấm bảng chỉ đường của cả một
nền thi ca hậu hiện đại.

Phản ứng của độc giả dữ dội, chắc chắn. Phản ứng
của các đồng nghiệp tiết hạnh sôi nổi, qua Trần
Mộng Tú, một thi nhân trong sạch, gởi bạch thư
kháng cáo. Hồi (hiếp) (d)âm tức khắc ân cần của Ðỗ
Kh., Nguyễn Hoàng Nam. Trong Tổng Tập 20 Năm
Văn Học Hải Ngoại, Nguyễn Hoàng Nam tự giới
thiệu: Phục vụ tận tâm, giá cả phải chăng , giao tận
nhà... Tận tâm đến mức Phạm Trọng Luật, ngòi bút
tiểu luận Phật tử thuần hành khúc chiết của tạp chí,
phải nhảy bổ vào làm Ðường Tăng phá vây cho Trần
Mộng Tú sắp... bị khai phá. Ðường Tăng chưa kịp lần
chuỗi hạt, Phạm Thị Hoài đã tiếp ứng Dương-Quá Ðỗ
Kh. bằng ngọc nữ tâm kinh Sờ Linda, sờ luôn Ðường
Tăng. Vương Trùng Dương của Toàn Chân Phái
Hoàng Nguyên Nhuận dùng nhứt dương chỉ điểm
mặt, và phái Võ Ðang chính giáo Mộc Hương, Ngô
Nhựt Tân lao vào tiếp chiến với Ỷ thiên kiếm. Tây
Ðộc Âu Dương Phong Thương Nguyên cứu Dương-
Quá hạ độc thủ hàm mô công: Nguyễn Du bây giờ
sống lại có thể viết Linda mặt ngang ! Hợp Lưu các số
31, 33, 36, chủ đề tranh luận Thanh-Tục, bỗng chốc
trở thành sân tinh võ, đấu chưởng hay hơn phim bộ.
Giữa những tuyệt chiêu và giữa những đường gươm
nguyên bá, Võ Ðình trầm tĩnh lập lại lời một hoạ sĩ
Nhật Bản: Tôi không vẽ con két, tôi chỉ vẽ không gian
két vừa bay qua. Võ Ðình muốn nhắc khéo tất cả:
Trong thơ, văn, không gian mới là quan trọng, hơn sự
vật. Ðỗ Kh đã có thể trả lời Trần Mộng Tú: Tôi không
miêu tả bộ phận sinh dục, tôi chỉ tả không gian bộ
phận sinh dục vừa đi qua... Duy phản ứng khác, trầm
trọng hơn, nhà văn Nhật Tiến có lẽ đã nghĩ lớp viết
trẻ dâm bôn ưa phá phách, không coi trọng chuyển
động tâm huyết Hợp Lưu, xa rời dần tờ báo. Nói sao
cho thầy hiểu, về người tình dễ thương bao ngày bọn
em say đắm...

Nhưng tư tưởng chính đằng sau những bộ phận sinh


dục treo, móc, dán, ướp, xâm trong thơ nằm ở đâu?
Và thế nào là nền thẩm mỹ mới? Chân Phương, Khế
Iêm, Hoàng Ngọc-Tuấn đã viết nhiều bài lý thuyết
đăng trên Hợp Lưu, Việt, Thơ, nhưng với rất đông, hố
thẳm sương mù vẫn sâu thăm thẳm. Tất cả đã cố
gắng bơi về những bến bờ cận đại của thế giới.
Sương mù phủ trùm lấp khó phân biệt đâu là bến hậu
hiện đại, bến Ða Ða, bến lập thể, bến hiện thực
huyền ảo.. Mặc, mù vẫn ra khơi. Không thấy đường
vẫn cứ lên đường. Ði đâu chưa biết, tách bến, nhổ
neo, sửa soạn chất nổ, chỗ nào có viện bảo tàng thì
ném vào! Không gìn giữ tiếng mẹ đẻ, phải phá bể
tiếng mẹ đẻ. Khoâng bảo tồn di sản văn hoá, phải
sắm sửa thêm cho văn hoá theo đúng thời trang thế
giới, áo thun hở rún, quần xệ có đinh, slip string,
piercing mũi, lưỡi, môi, rốn, văn chương ăn nhịp
chuyển động toàn cầu, hết rồi thần tượng Che, hết rồi
Marx, xa rồi Jane Fonda, phải bắt cho kịp dòng nhạc
Kim Khí Ðen Black Metal, căn bệnh u trầm của Kurt
Cobain và phơi bày cho bằng được cái đẹp sinh dục
trần trụi lõa thể không phân biệt giới tính... Có thể
tóm lược nền thẩm mỹ hình thức nỗ lực tối đa trên
Hợp Lưu qua những dòng trên. Một nền thẩm mỹ giao
(hợp) lưu như tên gọi bổn hiệu tạp chí. Giao hợp trong
nghĩa bóng lẫn nghĩa đen với thế giới, với nhân loại,
với những người đồng tính, với tất cả những gì có thể
giao hợp. Nhưng cũng có thể tóm lược một cách
nghiêm túc như Thụy Khuê đã nhạy cảm nắm
bắt: Vùng Tuyệt Mù.

Vùng Tuyệt Mù?  Phê bình thơ Nguyễn Thị Thanh


Bình, một gương mặt khai phá cấp tiến trên Hợp Lưu,
Thụy Khuê trích dẫn định nghĩa của Vũ Khắc
Khoan: Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị
thiện-trí-thức, chưa một vị bồ tát nào mô tả được hình
tướng, xác định được thể chất, cái đó có thể giản dị
như mưa và nắng, hiện hữu rất tự nhiên -mặt trời lại
mọc lúc đêm tàn- nhưng cũng lại có thể vô cùng phức
tạp, ẩn hiện khôn lường.. Cái đó -chính nó- đôi khi
vẫn thấp thoáng trong tôi, hoá trang thành những lời
tra vấn trớ trêu, những tại sao ray rứt, lãng đãng
quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại xa
vời, nhoà dần, biến hẳn, tuyệt mù  (Ðọc Kinh, Vũ
Khắc Khoan, nxb An Tiêm & Sóng Từ Trường 1, Thụy
Khuê, nxb Văn Nghệ).

Vùng tuyệt mù của con hùm xám Vũ Khắc Khoan,


cách đây nửa thế kỷ đã vô cùng phức tạp. Ngắn gọn
và trực tiếp hơn: Camille Claudel, nữ điêu khắc gia
nổi tiếng của Pháp, viết thẳng: Il y a toujours quelque
chose d'absence qui me tourmente.  Luôn có điều gì
đó vắng mặt tra khảo tôi.  Thú nhận đau đớn của nữ
điêu khắc gia đầu tiên đã tạc tượng bộ phận sinh dục
đàn ông.

Ðiều gì đó vắng mặt, chính là vùng tuyệt


mù hay vùng sân khuất, mà tất cả nghệ sĩ trên thế
giới lùng kiếm. Ðổi mới sáng tác trên Hợp Lưu, do đó,
trước tiên và sau hết, là đổi mới hình thức ghi khắc
vùng tuyệt mù này. Chính trước những tra khảo của
bản thân, Ðỗ Kh. viết: Tôi rất thích đĩ. Chính trước
những dằn vặt mà Camille Claudel hứng chịu đưa
đến cái chết trong điên loạn lúc cuối đời, khiến Ðỗ
Kh. tra vấn: Ðàn bà là đồ chơi của đàn ông?  Nguyễn
Thị Thanh Bình làm thơ trả lời: Ðàn bà không là đồ
chơi của đàn ông, cùng lúc thú nhận những tra khảo
của chính mình -và tham dự khai phá- Thanh Bình vô
tình chấp nhận làm đồ chơi, chơi chung trò chơi mới:
Trò chơi thân xác của ngôn ngữ. Những dòng thơ xối
xả của Lê Thị Huệ, những dòng thơ say mê không
dứt gợi cảm của Lê Thị Thấm Vân, những dòng thơ
nghịch ngợm trong trẻo tràn đầy phung phá của Trân
Sa tiếp tục đi tìm điều gì vắng mặt đang xâu xé hay
chưa biết đến. Bằng diễn đạt hình thức, đặt trọng tâm
thể xác, những nhà thơ sinh dục hoá thi ca đã đi tìm
sự chuyển hoán cái Tôi Trí Tuệ của Thanh Tâm
Tuyền sang cái Tôi Thân Xác. Một tiếp nối bắt buộc
và không tránh khỏi trong thời đại tín ngưỡng cơ thể
Âu Mỹ. Nhưng nếu Sinh duïc hoá thi ca là thành công
duy nhất, trong khai phá, cái Tôi Thân Xác là một thất
bại đậm nét.

Lý do? Khám phá và gìn giữ cái Tôi thuần thân


xác vô cùng khó. Ða số các nhà thơ muốn cách điệu
nâng cao thân xác, nhưng càng thăng hoa họ càng
lìa xa thân xác, đến gần với cái Tôi trí tuệ mà những
thi sĩ giác đấu muốn đoạn tuyệt. Tất cả thơ của
Thường Quán, Khế Iêm, Chân Phương, Thấm Vân,
Thanh Bình, Trân Sa, Trầm Phục Khắc, Nguyễn
Mạnh Trinh, Phạm Việt Cường.. đều mang dấu ấn
của Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên - ngay cả trong
những lúc cách tân đoạn tuyệt nhất. Cái Tôi thân
xác như thế cứ lấp lửng giữa trí tuệ và thể xác, hồn
không rõ hồn, xác không hoàn xác, hồn xiêu phách
lạc. Hiện tượng đó thấy rõ trong tâm trạng của những
cây viết nữ được xem bạo dạn, phá phách, hay thách
đố nhục cảm. Ở họ, những băn khoăn chia cách phần
trí tuệ và thân xác thể hiện rõ qua hai thể loại thơ và
truyện ngắn, làm như đến với thể loại này là một chọn
lựa ma quỷ, đến với thể loại kia là hướng thượng thiên
thần. Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc chỉ dâm trong thơ, bước sang
truyện ngắn họ là phụ nữ có chồng con ngăn nắp,
thao thức cho đất nước, xã hội, con người. Trân Sa,
Mai Ninh ngược lại, trong truyện ngắn, nếu cả hai ưa
làm tình sôi nổi, thèm những mơn trớn cháy bỏng,
thích vuốt ve dịu dàng người cùng phái, bước vào thơ
họ hốt hoảng sợ hãi hoá thân thành nữ tu thánh thiện.
Chính hai mặt ác quỷ và thiên thần này đã gieo hỏa
mù, không cho thấy rõ nỗ lực khai phá. Ðâu là quỷ,
đâu là ma, đâu là trí tuệ, đâu lời buồn thánh...? Chính
phần đối trọng thân xác, về sau nhiều thêm lên, đã
đè nặng cán cân trí tuệ, dẫn đến thất bại sau này. Thi
ca trở về ngắm liên đêm mặt trời với Thanh Tâm
Tuyền, nhổ tóc bạc cho Tô Thùy Yên, sau vài số báo
đi hoang làm tình mệt nhoài. Ðến năm thứ 12, Ðỗ
Kh., Nguyễn Hoàng Nam là những thi sĩ lãng mạn
cuối cùng trong cõi nhân gian bé tí.

Nỗ lực khai phá thơ trên Hợp Lưu không chỉ ngừng ở
sinh dục. Chân Phương đã thay nhớt ẩn dụ, Khế Iêm
xoáy cylindre ngữ nghĩa, Thường Quán thay mặt nạ
cấu trúc, Phạm Việt Cường tăng sên câu chữ,
Nguyễn Ðăng Thường thay bửng, Diễm Châu lắp bạc
đạn nhạc tính, Ngu Yên đổi phuộc nhún nhạc điệu,
Huỳnh Mạnh Tiên gạt chống ngang, Nguyễn Mạnh
Trinh so căm, Lê Bi đổi lốp, Du Tử Lê
chỉnh/ga/nhịp/lục/bát. Chiếc xe máy thi ca được thay
đổi mẩu mã hoàn toàn, kiểu dáng VN, lắp ráp tại Úc,
Mỹ, Gia Nã Ðại, Pháp, toàn bộ do thợ VN, giá thành
rẻ và thường xuyên khuyến mãi. Các thi sĩ chỉ chưa
thay động cơ hai thì của Thanh Tâm Tuyền, bốn thì
của Tô Thùy Yên, và tất nhiên vẫn tiếp tục chạy
xăng super của các hãng xăng dầu phương tây: Paul
Valéry, Paul Celan, Pablo Neruda, Nicanor Parra,
Johannes Bobrowski, Cavafy... cung cấp.

Trường hợp văn xuôi không khác.

Văn xuôi không đợi Ðỗ Kh. phát động sinh dục mới
viết bạo. Trước đây Ngô Nguyên Dũng với tiểu thuyết
Ðêm, Hồ Trường An với truyện dài Hợp Lưu, Diệu
Tần trong Mùa Xuân Và Hố Thẳm, Nguyễn Xuân
Quang với Hái Thận đã vô cùng bạo liệt những lúc
làm tình và Vũ Quỳnh Hương đã cho những cụ già hút
xì gà bằng âm hộ trong Miền Vĩnh Phúc. Khai phá táo
bạo mạnh tay trên Hợp Lưu chỉ nhấn mạnh thêm nữa,
xã hội không còn chay tịnh. Lối viết tiết hạnh khả
phong tránh né, không đề cập, không băn khoăn,
không đi hết tận cùng hố thẳm con người, đã không
phaûn ảnh lối sống tự do tình dục của xã hội Âu Mỹ,
nơi tuyệt đại đa số di dân VN sinh sống. Giống thi ca,
khai phá văn xuôi tập trung vào hình thức, cố gắng
cách tân, cập nhật kỹ thuật của Châu Âu, Bắc và
Nam Mỹ vào truyện ngắn Việt Nam. Ðiều đó thấy rõ ở
Phạm Thị Hoài, dù Hoài đã tự định hướng ngay khi
khởi nghiệp văn. Ðiều đó thấy rõ trong loạt truyện
Nhà Cho Thuê (chủ đề văn học lạ lùng, mà tiêu đề lẽ
ra... phải nằm trong mục rao vặt của nhật trình Người
Việt). Trong 12 truyện ngắn đăng trên Hợp Lưu số 54,
12 tác giả đã nỗ lực sắp xếp dàn bài, chỉnh trang cấu
trúc, chuyển hoán nhân vật và hệ thống kết cấu. Kỹ
thuật lộ liễu trông thấy ở các truyện ngắn Trăng Thuê
Ảo Ảnh (Nam Dao), Phép Lạ, Venezia (Dã Tượng),
Vách Mận Trắng (Mai Ninh), Già Rossy Và Hương Cô
Quạnh (Phan Nguyên). 12 tác giả, chỉ một thành
công duy nhất: Eric Nguyễn Việt, một tác giả trẻ
thuộc Hội y sĩ Không Biên Giới, công tác tại Sierra
Leone, đã nhấn chìm kỹ thuật vào trong sáng tác, đã
lôi cuốn bạn đọc vào không khí bất an loạn lạc với
một người đàn bà nóng bỏng dữ dội không buông tha,
yêu chết chóc, yêu đến ghiền, đến nhớ mùi, để cuối
cùng thổ lộ: Người đàn bà ấy, không ai khác hơn
"Chiến Tranh" đã ăn nằm bao ngày với vùng đất
nghèo khổ lạc hậu này. Văn chương Việt Nam cần
thật nhiều những Eric Nguyễn Việt.

Một số khai phá khác, đi tìm cái Tôi Lịch Sử, cái Tôi
Dân Tộc trách nhiệm, thể hiện rất nhiều trong tác
phẩm Nam Dao, đặc biệt qua hai bộ trường thiên Gió
Lửa và Ðất Trời. Nam Dao thổi suốt 1500 trang tiểu
thuyết một cái nhìn mới: Không chỉ nhìn lại các nhân
vật lịch sử ở góc độ con người tầm thường như
Nguyễn Huy Thiệp đã làm, nhưng nhìn lại chính bản
sắc của dân tộc u mê và tăm tối đã đưa đến thảm
kịch của quá khứ. Nam Dao không chỉ phán xét anh
hùng, nhưng phán xét cả đất nước, đồng loại và văn
hoá Á Ðông. Ðây là một tinh thần mới trong văn xuôi
Việt Nam, nhưng hãy còn là một cố gắng cá nhân
biệt lệ. Mai Ninh, tác giả nổi bật của hai năm sau
cùng, tác giả ngoài phóng đãng còn chở mang một
tâm hồn, đã cố gắng trau chuốt hình thức, mỗi chữ là
một viên ngọc, mỗi dấu chấm là một hạt trai, và mỗi
dấu ngã là giải lụa mỏng hiếm quý. Mai Ninh không
ngừng đào bới cốt truyện, tìm kieám những âm,
những chữ mới, thật hợp, thật trùng, cách điệu cho
câu văn. Truyện ngắn Mai Ninh giống một tấm gương
quý phái, đặt trên chiếc bàn phấn cổ xưa có chiếc
lược bạc, còn vướng những lọn tóc rối của một người
đàn bà đẹp, vừa vắng mặt, vừa chải tóc. Tất cả
không gian của bàn phấn im lặng chỉ tấm gương còn
phản chiếu những hình ảnh thác loạn điên cuồng vừa
xẩy ra trước mặt kiếng. Mai Ninh, cây bút nổi nhất
của năm 2000, thành công với nỗ lực thẩm mỹ hóa tối
đa câu văn, nhưng cùng lúc đánh mất sự tự nhiên
không thể thiếu trong văn xuôi. Nguyễn Thị Ngọc
Nhung là một trường hợp ngược hẳn, không chải văn,
không đi tìm thẩm mỹ trong câu chữ, giữ sự tự nhiên ở
giọng văn, tìm cái đẹp trong đời sống năng động của
xã hội phô diễn vây quanh nhân vật. Văn Nguyễn Thị
Ngọc Nhung mạnh, cốt truyện chắc, tuy thời gian đơn
điệu, không đa chiều và tỏa ra từ nhân vật thay vì
nhân vật phải mọc ra từ mạch suy nghĩ chủ đạo của
truyện. Cốt truyện, nhân vật do đó làm nền chính.
Còn nhiều tác giả khác, Nguyễn Hương với kiến trúc
mới lạ trong truyện ngắn, Thuận Ánh thông minh
nghịch ngợm chịu nhiều ảnh hưởng của Phạm Thị
Hoài trong các truyện A & B, Vô Va, Ðinh Linh thích
giác hơi xã hội Hoa Kỳ...

Khai phá văn xuôi như thế đã đặt nặng vấn đề kỹ


thuật, cốt truyện, và nhìn toàn cảnh, là một thất bại.
Truyện ngắn đã đi tìm trận gió kinh thiên, nhưng chỉ
thổi lên được luồng gió mát, làm giật mình bất chợt
các độc giả đang thiu thiu ngủ. Thất bại ở thực tế
không gây thành phong trào. Song Thao, Sông Phố,
Ngự Thuyết, Hồ Minh Dũng, Trần Doãn Nho, Hồ Ðình
Nghiêm, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trần Mộng Tú,
Phan Thị Trọng Tuyến, Phạm Chi Lan, Trần Thị Diệu
Tâm, Miêng, Thơ Thơ, Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh,
Vĩnh Hảo... không hề chịu tác động của khai phá, vẫn
tiếp tục lối viết cũ của họ, không mảy may bận tâm
luồng gió kinh thiên đang réo bên ngoài. Phạm Chi
Lan tiếp tục viết truyện hoà bình, yêu cỏ cây thiên
nhiên, biển cả, vạn vật. Phan Thị Trọng Tuyến tiếp
tục viết hài kịch không đối thoại. Hồ Ðình Nghiêm tiếp
tục những bứt rứt thầm kín của những mối tình lặng lẽ
trong khuya khoắt của một xã hội không lối thoát.
Trần Doãn Nho, sau Vết Xước Ðầu Ðời, một truyện
ngắn tâm lý xuất sắc, bớt sôi nổi. Song Thao đi tìm
những mối tình bình nhật. Miêng thủ thường với các
truyện ngắn của mình. Trần Thị Diệu Tâm quá hài
lòng những truyện đã viết. Thơ Thơ, Lê Minh Hà,
Phạm Hải Anh, lớp người viết trẻ cuối cùng, qua sáng
tác đã chứng tỏ họ có giọng văn gẫy gọn, truyền
cảm, xúc tích, nhưng cả ba, cho đến bây giờ đều
thiếu liều lĩnh trong cách dựng truyện, không nổi loạn
trong suy nghĩ, chưa dứt khoát Tự Lực. Ðây là những
người viết đều tay nhất, chuyên cần và mẫn cán,
chính những nhà văn này đã sáng tác không ngơi
nghỉ, đã lấp đầy 66 số Hợp Lưu. Ðiều đó cho thấy rõ,
phong trào cải cách ruộng đất trong văn xuôi, trên
Hợp Lưu, hoàn toàn thất bại, ít ai hưởng ứng.

Tại sao? Quá chú trọng vào kỹ thuật chỉ là một


nguyên nhân. Chọn lựa khai phá nhục cảm, khiến...
tô phở ít nước của Mai Thảo đầy thịt, chóng ngán,
mau nguội? Có thể. Ai cũng biết, nhiều tình dục dễ
đưa đến ít lý trí. Dành nhiều chỗ cho sạp bán thịt,
khiến truyện ngắn, một thể loại không rộng bằng chợ
Bà Chiểu, phải giải tỏa các sạp hàng khác. Nhưng đó
vẫn chỉ là những lý do kỹ thuật, mà mọi tác giả tài
hoa đều có thể vượt qua. Không thiếu những tác
phẩm đầy dâm tính vẫn chở mang triết lý con người.

Với hai nhóm chìm-nổi khai phá trên Hợp Lưu, ngoài
vài truyện ngắn hay, nổ lực cách tân thất bại. Kỳ lạ,
với các tác giả không tham gia cách tân, các sáng tác
của họ cũng thất bại, không chỉ trên Hợp Lưu mà cả
trên các báo bạn Văn, Văn Học. Chính sự thất bại
chung của sáng tác đã khiến không khí văn học trở
nên đưa đám, cáo phó, u trầm, mất hẳn sinh khí,
buồn chán đến thờ ơ lạnh lùng. Không ai còn dám
khen văn xuôi đang khởi sắc và tất cả vụt trở nên
thích đọc... bút chiến hơn sáng tác! Chúng ta có
quyền tiếc một số đông tác giả đã không khai thác
hết khả năng của truyện ngắn, đã không đi tìm điều
khác thường trong văn chương, dù không nhất thiết
dâm bôn, không nhất thiết phải đổi mới. Mỗi khi được
hỏi về tình hình sáng tác ở ngoài nước, tổng biên tập
Khánh Trường than vãn: Cứ viết làng nhàng mãi! Với
tôi, đây là lý do khiến anh đánh mất đam mê làm báo,
và quyết định buông tay.

Làng nhàng, như thế, là tên gọi của một giai đoạn
văn học.  Chắc chắn, không phải đánh giá riêng của
Khánh Trường, các chủ bút khác, Nguyễn Hưng
Quốc, Nguyễn Mộng Giác qua một số bài viết, cũng
nhận định như vậy và đa số người viết đều đồng ý.

Ðến đây, có một sự trùng hợp nghiêm trọng: Sáng tác


quốc nội sau giai đoạn rực rỡ 87-92, giai đoạn của
Thiên Sứ, Những Trận Gió Hua Tát, Những Mảnh Ðời
Ðen Trắng, Ði Về Nơi Hoang Dã, Nổi Buồn Chiến
Tranh, Mảnh Ðất Lắm Người Nhiều Ma, Bến Không
Chồng, Ác Mộng, Dị Mộng, Ðảo Ngụ Cư, Giấc Ngủ
Nơi Trần Thế, v.v... bỗng dưng tắt phụt trong nhiều
năm, và nếu sự xuất hiện của Nguyễn Bình Phương,
Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Thị Ngọc Tư mới đây cứu vãn
phần nào, nhìn chung với dân số 70 triệu, vẫn là một
đám ma văn chương lê thê, im phắc, không kèn
trống. Và ở tất cả mọi bộ môn nghệ thuật, làng
nhàng đã biến thành tình trạng chính, một tình trạng
kinh hoàng cho đám con rồng cháu tiên có bốn ngàn
năm văn hiến. Ở thời điểm hôm nay, chưa thấy có
dấu hiệu thay đổi.

Tại sao? Câu trả lời nằm trong chốn vắng tư duy, mà
nguồn gốc khởi sinh từ sự thất lạc ở trong từng người
Việt, đặc biệt, trong từng người viết. Không ngẫu
nhiên Văn Cao, lúc sinh tiền trả lời phỏng vấn của
Nguyễn Châu Phong, nghiêm khắc nhận xét: " Ngoài
Hoàng Hưng không còn ai cả. Tôi ít đọc, nhưng thỉnh
thoảng đọc thơ trên báo Văn Nghệ cứ nghe chuồi
chuội, có một vài câu thơ ngồ ngộ vui vui, nhưng
không có tư tưởng mà con chữ cứ sền sệt xúm xít nối
đuôi nhau"  (HL13).  Không ngẫu nhiên Lê Ðạt thích
chơi chữ, chỉ đùa giỡn với bóng chữ, xác chữ. Không
ngẫu nhiên Khế Iêm, Chân Phương bày cuộc chơi
tung ném tự vị bách khoa rồi xếp lại theo sức hút của
trọng lực. Không ngẫu nhiên Ðỗ Kh, Nguyễn Hoàng
Nam thích nhìn âm hộ, mông, vú phụ nữ. Không ngẫu
nhiên mà phẩm chất trong sáng tác Nguyễn Huy
Thiệp, từ Sang Sông, Thiên Văn, hát bội Xuân Hồng,
giảm sút đến mức không hiếm bạn đọc phải mua
thêm hợp đồng bảo hành văn chương đọc kèm với
tác phẩm mới của ông. Trường hợp Nguyễn Duy, Lê
Minh Khuê tương tự. Không ngẫu nhiên Phan Thị
Vàng Anh im lặng sau khi đi Hoa Kỳ và Châu Âu...
Không ngẫu nhiên văn học hải ngoại lạnh dần rồi
băng giá. Không phải tất cả không còn tài hoa, ngược
lại, chưa bao giờ giới sáng tác kinh nghiệm và tự do
như bây giờ. Tất cả chỉ cùng một lúc thất lạc với chính
mình. Phân tích sự thất lạc đó, đòi hỏi cả một viện
nghiên cứu tâm thần.

Thất lạc vì nhân loại đổ xô đi đào vàng? Thế giới lao


vào kỷ nguyên khoa học kỹ thuật? Thất lạc vì sức tàn
phá hung hãn của kinh tế thị trường lên người viết văn
trong nước? Thất lạc vì cánh cửa bất chợt mở toang
khiến nắng ập vào nhà chói chang loá mắt? Thất lạc
vì phải hướng tác phẩm đến nhân loại nhưng không
sao hiểu thấu đáo nhân loại vì chưa kịp trang bị đầy
đủ? Ðó chỉ là những lý do nổi. Cũng nổi như giải thích
đánh mất căn cước cá nhân của người viết ngoài
nước. Sau đánh mất căn cước chính trị, sau đánh mất
căn cước lưu vong, người viết ngoài nước trở về nhà,
kinh ngạc nhận ra mình không còn giống người Việt ở
trong nước, không giống suy nghĩ, không giống cung
cách sống, và kinh khủng hơn, nhà văn Việt kiều
khám phá mình không muốn trở về sinh sống tại quê
nhà. Muộn mất rồi, con trùng hội nhập đã cắn nát trái
tim. Sự chọn lựa lưu vong lần thứ nhì, đầy đau đớn vì
là hành động tự nguyện. Lần đầu tiên, người Việt
ngoài nước sau trở về, ý thức mình không còn Việt.
Ðánh mất căn cước cá nhân khởi đầu từ lúc này. Một
đánh mất khác hẳn buổi chiều 30/ 04 chôn thẻ bài,
đốt giấy tờ tùy thân, khác hẳn mất mát lý lịch khi mua
khai sanh gốc Hoa vượt biên bán chánh thức, lên trại
đảo khai trụt tuổi, lấy một cái tên nào đó của anh em
họ hàng trong gia đình. Chắc chắn, trong tiềm thức
của những kỹ sư tâm hồn, những kẻ vô cùng nhậy
cảm, đã trổi dậy vô số câu hỏi cắn xé: Tại sao mày
không đủ can đảm trở về sống với dân tộc mày, lúc
này, cùng chia sẻ vận mệnh của đất nước mày đang
bước vào thế kỷ 21? Ðất nước mày sẽ đi lên, hoặc sẽ
lụi tàn trong những thập niên sắp tới, mày bám víu
tiện nghi ở đây để làm gì? Không. Ðất nước không
xem tôi là người Việt, mà là Việt kiều. Ðất nước bắt
tôi gia hạn khai sinh mỗi ba tháng, không cho mua
nhà, mọi thứ bắt trả giá gấp đôi mọi người. Ðất nước
không cho tôi viết văn tự do...  Lý trí trả lời. Và tình
cảm trấn an: Mày là công dân quốc tế.  Nhưng tình
cảm ăn gian, công dân quốc tế, một thứ thông hành
chưa bao giờ có trên trái đất. Một bước, tất cả khởi
đầu hành trình thất lạc. Nhưng đó cũng chỉ là khía
cạnh nổi. Chốn vắng tư duy  nằm trong sự thất lạc
thâm sâu hơn nữa: Hội chứng Babylone.

Nhà văn Việt bắt đầu leo lên ngọn tháp ngất ngưởng
đó. Sau một trăm năm đô hộ, chiến tranh, phong tỏa,
vượt biển, ngọn tháp hiện ra sừng sững ám ảnh. Lần
đầu tiên người Việt trông thấy thật sự ngọn tháp nhân
loại nhắc đến trong kinh thánh. Với trong nước, cửa
tháp mở toang sau hủy cấm vận. Với ngoài nước,
đông đảo bắt đầu chuyến hành hương ngay khi an
cư. Thật ra, chỉ một số can đảm mua vé, rất mắc, và
tự túc leo lên, đa số còn ngồi ăn hột vịt lộn ở ngoài
bãi giữ xe. Ngọn tháp nhân loại mà những tầng cao
chìm trong mây, vần vũ tiếng gào của gió xoáy bên
trong cầu thang trôn ốc trơn trợt, lạnh lẽo. Tất cả đã ý
thức, phải lên đến đỉnh, để có cái nhìn xuyên suốt trái
đất, để tiếp xúc với tất cả nhân loại. Nhưng số đông,
đã đi thang máy. Số đông đã muốn mình là người lên
trước nhất, nhanh nhất, để..chụp hình. Không ai chịu
hiểu năm ngàn năm nhân loaïi, hai ngàn năm văn
minh phương tây có nền, có nếp, có thang, bậc,
không thể lên tầng Kant trước tầng Aristode, không
thể đứng ở bao lơn Trừu Tượng không qua đại sảnh
Cổ Ðiển, không thể viếng tầng Hiện Sinh chỉ đứng ở
quaày giải khát hành lang, chụp ảnh lưu niệm chỗ
Sartre đã ngồi với Camus. Và kinh khủng hơn, hai
ngàn năm tư tưởng và học thuật tây phương chia làm
trăm triệu đại sảnh mênh mông, bát ngát, đầy cửa,
đầy ngõ ngách, những sảnh đường thẳm thẳm, những
tả hữu trường lang bất tận không chấm dứt, bắt nối
nhau, chồng chéo, chập chùng san sát nhau, không
bảng chỉ đường, không mũi tên hướng dẫn... Chính
trong những tầng lầu không thể đếm hết của tháp
Babylone khổng lồ, nhà văn ngoài nước đã bắt gặp
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Duy, Lê Ðạt, Lê Minh
Khuê, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh... cũng đang
thất lạc. Trong-Ngoài gặp nhau bất ngờ ở tầng trệt,
cùng đi lên, và tứ tán. Tất cả chỉ biết tầng cuối cùng
mang tên Hậu Hiện Ðại, đa số không biết mình ở
đâu, muốn gì. Nhà văn Việt đã khó khăn định vị trí
mình trên tháp. Tầng nào cũng dừng lại nhìn ngắm
chụp đèn trần, bước tránh tấm thảm sang trọng ở lối
vào, lật vài pho sách, trả lời phỏng vấn của nhân loại,
rồi tiếp tục... Tham quan, nhưng không rõ giá trị thực
sự, vì thiếu kinh nghiệm thế giới. Những người quyết
chí, tỉnh táo nhất, biết mình tìm gì, nhưng lại khoâng
biết mình cần gì. Lên thẳng tầng lựa chọn rồi băn
khoăn trước mật mã văn hoá. Không biết mình muốn
gì, tìm gì, và cần gì ở nhân loại nên thất lạc, đưa đến
chốn vắng tư duy trong sáng tác. Chốn vắng tư
duy  khiến tập trung đổi mới vào hình thức và kỹ
thuật.  Nhưng cũng chính Chốn vắng tư duy khiến kỹ
thuật và hình thức không đủ sức vực dậy văn chương.
Rất hiếm tác phẩm VN nào chở mang tư tưởng rõ rệt
làm xương sống chủ đạo cho toàn truyện, và các
nhân vật mọc ra từ xương sống đó như những xương
sườn của xương sống đó.

Gabriel Garcia Marquez, trong Trăm Năm Cô Ðơn,


miêu tả sự thất lạc của linh hồn tuyệt đẹp: José
Arcadio Buendia bị xích trên giường mập ra rất nhiều
lần sức nặng bình thường, không thể cử động được.
Mỗi tối Buendia mơ thấy mình rời khỏi giường, mở
cửa đi sang một căn phòng khác, cũng giống y như
căn phòng có chiếc giường bệnh, ông lại mở một
cánh cửa khác dẫn sang một căn phòng khác, cũng
bài trí y như căn phòng ông đang đứng. Cứ thế
Buendia đi hết từ căn phòng này sang căn phòng
khác, mở cánh cửa này đến cánh cửa khác, tiếp nối
vô tận, cho đến lúc ông bất ngờ gặp lại Prudencio
Aguilar, người bạn thời trẻ mà do ghen tuông ông đã
tự tay phóng lao thọc cổ giết chết. José Arcadio
Buendia đi ngược trở lại tất cả những căn phòng đã đi
qua, và chỉ tỉnh dậy khi Prudencio Aguilar đập tay lên
vai trong căn phòng thực tế đầu tiên. Nhưng đến một
đêm, Aguilar đập tay trong một căn phòng trung gian
và Buendia đã ở lại đó mãi mãi vì tin đã trở về căn
phòng thực. Ðám táng José Arcadio Buendia diễn ra
dưới trận mưa hoa vàng. Những cánh hoa nhỏ rơi
suốt đêm, đến sáng các phu đòn phải lấy xẻng xúc
hoa dọn đường khiêng linh cữu.

Không phải chỉ có nhà văn Việt thất lạc trên tháp
Babylone, mở hết những cánh cửa này sang cánh
cửa khác, đi từ phòng này sang phòng khác, tiếp nối
vô tận. Thế giới cũng có rất đông, rất nhiều nhà văn
thất lạc. Nhưng người Việt đánh mất phương hướng
cùng một lúc, đồng loạt. Hậu quả của đóng cửa, đô
hộ, nội chiến, phong tỏa và tự cấm vận. Ðó là lý do vì
sao sáng tác Trong-Ngoài nước rất thanh bần. Sáng
tác VN mạnh khi ghi lại kinh nghiệm đau thương bản
thân, nhưng yếu khi đi tìm thẩm mỹ và sáng tạo. Bùi
Ngọc Tấn chứng minh sự thành công của vế đầu,
Nguyễn Huy Thiệp, từ Thiên Văn, chứng minh khó
khăn của vế sau. Ngày nào José Arcadio Buendia tìm
được lối ra khỏi tháp Babylone, hắn sẽ trở thành nhà
văn đích thực, có quyền vứt bỏ nhãn "nhà văn Việt
Nam" do các chủ báo phong vương. Ðám ma hắn
không chỉ có trận mưa hoa vàng, mà sẽ rất đông độc
giả đi đưa, không như bây giờ.

Thay Lời "Hậu" Lộ:

Hợp Lưu như thế, mang trên thân thành công giao lưu
và thất bại của sáng tác. Công bằng phán xét: Không
có tạp chí Hợp Lưu, chuyển động giao lưu vẫn xảy ra,
ở thời điểm 93-94 khi du lịch bùng nổ. Hợp Lưu chỉ đi
trước chuyển hoá tâm lý cộng đồng 3 năm. Ðó là một
thành công không nhỏ, của Khánh Trường, và tất cả
các tác giả trong-ngoài nước đã tham dự, đã hoàn
thành một chức năng ngành phê bình hay đòi hỏi:
Tính dự báo trong văn chương.

12 năm, rất dài, nhưng vô cùng ngắn ngủi, tựa một


sát na trong đạo Phật, khi tất cả mọi người cùng một
lúc ngộ ra không chỉ có Quốc với Cộng, không chỉ có
đen với trắng, nhưng còn có Con Người đằng sau
khẩu hiệu. 12 năm Hợp Lưu, tựa một trang tôn kinh
huyền hoặc, đã ghi lại dấu vết của những đổi thay
trong lòng người Việt. Sao không huyền hoặc khi hôm
nay, khách du lịch và dân chúng chứng kiến mỗi ngày
cảnh tượng Chúa Nguyễn Hoàng, Chúa Nguyễn
Phúc Chu, Chúa Nguyễn Phúc Loan của Ðàng Trong
hàn huyên thân ái với Chúa Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng,
Trịnh Bồng của Ðàng Ngoài, huyên náo ăn sò huyết
trên vỉa hè Phú Nhuận, tâm đắc nhậu thịt chó ở
Quảng Bá. Chỉ có chúa Trịnh Sâm vắng mặt vì Tuyên
Phi Ðặng Thị Huệ, viết cho báo Phụ Nữ chống say
xỉn, không cho đi. Các Chúa nhậu xong cùng quàng
vai nhau đi karaoké  ôm người con gái Việt Nam da
vàng yêu quê hương như yêu đồng lúa chín của Trịnh
Công Sơn... Sao không huyền hoặc khi mình đã nghĩ
đánh mất vĩnh viễn Sài Gòn, bỗng đứng trước ngôi
nhà nơi mẹ đã sinh ra ở phố Hàng Ðào.

Ngày mai đi tu, Khánh Trường có quyền hãnh diện,


và biết đâu anh chẳng bị sư trụ trì từ chối: Ðến cửa
Phật phải có duyên. Con chưa có duyên với nhà
Phật, con chỉ có duyên với Hợp Lưu. Thôi con về trị
sự và layout tiếp.  Giống sư trụ trì đã từ chối Nghiêm
Xuân Hồng hai mươi năm trước, khi ông nhất quyết
xuất gia. Ngày xuống tóc, Nghiêm Xuân Hồng đau
ruột dư phải vào bệnh viện, một chữ duyên tan thành
mây khói. Trở về Cali, Nghiêm Xuân Hồng cho xuất
bản Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc, làm thơ, viết truyện
ngắn, đăng trên Văn kể lại ngày Mai Thảo tiễn ông ở
phi trường, tưởng đã không gặp lại nhau, hay gặp lại
một bên Bạch Thầy, một bên Bần Tăng đã thọ trai
giới không còn uống được nữa.. Ngày mai, ở lưng
chừng núi Big Bear, bị sư trụ trì từ chối, Khánh
Trường sẽ buồn vô hạn, anh đã vượt qua bao khó
khăn để gầy dựng Hợp Lưu, cuối cùng không vượt nổi
cửa Phật. Họa sĩ Khánh Trường sẽ trở xuống chân
núi, nhìn những áng mây đỏ thẫm ráng chiều đang ào
ạt trôi qua đầu về phía mái chùa còn vàng cong cánh
sen đẹp rực rỡ. Khánh Trường sẽ ra parking lấy xe về
lại Garden Grove, anh còn nghe tiếng gió đuổi xô
trên vách núi, đuổi bắt tiếng gọi với của Thượng
Toạ: Con nhớ chăm lo nỗi buồn 'chín tã' và gởi báo
tặng, nghe đâu số tới chủ đề truyện tình hậu hiện đại,
thầy cũng trông lắm...

Cuối cùng, gởi đến anh chị, bạn bè, bằng hữu lời tạ
lỗi đã đem hết tất cả nhúng lẩu, xay sinh tố. Hy vọng
món lẩu vừa ăn, không quá cay, đã bảo hành khả ái
và bao trọn gói. Cùng gởi đến đương kim tổng biên
tập Phùng Nguyễn lời chúc: Sẽ xuất hiện trên Hợp
Lưu Ðồ Long Ðao và Lục Mạch Thần Kiếm...

20/08/2002

© Copyright Trần Vũ

You might also like