Professional Documents
Culture Documents
Pushkin gợi cả khung cảnh nơi đây qua “màu vàng”.Màu vàng như nhuộm thắm
không gian, ánh hắt lên cả bầu trời. Cảnh đẹp như bức họa Mùa thu vàng của
Levitan khiến bức tranh đất trời như xao động, cả cánh rừng rực màu vàng của
lá... Còn hơn thế bởi sau cảnh là phập phồng cảm xúc con người. Có gì như sự bồi
hồi xao xuyến, như sự nồng nàn say đắm của con người trước vẻ đẹp mùa thu.
Nhà thơ cũng miêu tả“Con đường mùa đông” rất đặc trưng Nga trong một đêm
trăng mờ. Con đường trắng xóa băng tuyết trải dài giữa thảo nguyên mênh mông
và hoang vắng. Cũng có trăng nhưng là ánh trăng vô hồn, ánh trăng buồn bã đang
uể oải chiếu sáng xuống cánh đồng buồn, điều đó càng làm gợi lên tâm trạng nhân
vật trữ tình đầy u buồn, cô quạnh:
“Trăng buồn bã dội ánh sáng
Lên cánh đồng u buồn.”
(Con đường mùa đông)
2.3.3 Ngôn ngữ giàu nhạctính.
Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ-
mà bằng cả âm thanh nhịp điệu của từ ngữ ấy.Ngôn ngữ trong thơ Pushkin chính là
như thế- giàu nhạc điệu và du dương như một bản Xônat làm say đắm lòng người.
Ngôn ngữ trong thơ của Pushkin giàu tính nhạc được thể hiện ở cách phối hợp âm
thanh, cách ngắt nhịp và vần.đó là sự thay đổi những âm thanh cao thấp khác nhau
giữa thanh bằng và thanh trắc nhằm tạo ra những câu thơ có độ vang trầm
bổng.Ngoài ra, nhạc điệu còn thể hiện ở việc Pushkin đã phát huy, vận dụng nghệ
thuật ngôn từ vào thơ góp phần tạo nên những vần thơ mang đậm tính trữ tình lãng
mạn, say đắm. Nghệ thuật ngôn từ đó có thể là cách láy từ, hệ thống điệp từ, … và
đặc biệt là sự thay đổi nhịp điệu linh hoạt trong thơ. Phong cách trữ tình thể hiện
tình yêu với giọng điệu thay đổi một cách sinh động, chân thực.
III. Đặc điểm thơ Pushkin qua bài “Tôi yêu em”
Trong quá trình làm sáng tỏ đặc điểm thơ Pushkin qua bài “Tôi yêu em”, chúng tôi
thống nhất sử dụng bản dịch nghĩa của Thúy Toàn.Bản dịch này cho đến nay vẫn
được coi là trội hơn cả, vì nó khá sát nghĩa và thể hiện được tình cảm đằm thắm,
chân thành gần với nguyên tác, trong đó có những hình ảnh, cảm xúc đồng điệu với
nhà thơ Pushkin.
3. 1 Chủ đề tình yêu
Thơ trữ tình Pushkin là kết quả của một tâm hồn được nuôi dưỡng bởi bầu sữa của
văn hoá dân gian Nga nên luôn trong sáng, ngọt ngào và giàu giá trị nhân
văn. “Tôi yêu em” là kết tinh xuất sắc nhất, là một trong những bài thơ tình nổi
tiếng của Pushkin, của thi ca Nga và của cả nền thơ ca thế giới. Với “Tôi yêu
em”, Pushkin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại, tên tuổi
Pushkin sống mãi trong lòng bạn đọc.
Pushkin cũng từng viết về những tình yêu không được đáp lại như thế nhưng với
một trạng thái cảm xúc khác. Tình cảm cũng rất chân thành, mãnh liệt nhưng trái
tim không được đáp lại thì không cao thượng, không sẵn sàng hi sinh như thế mà
cay đắng và khắc nghiệt hơn. Do đó, “Tôi yêu em” còn là một trong những bài thơ
tình yêu thấm đẫm “nỗi buồn sáng trong”, đó là : nhân vật trữ tình bao giờ cũng ý
thức được sự thay đổi tình cảm theo thời gian và luôn biết đặt hạnh phúc của người
mình yêu lên cao hơn nỗi đau của chính mình. Như vậy, nỗi buồn dù xót xa, thấm
thía nhưng không hề vị kỉ.
“Tôi yêu em” phảng phất nỗi buồn của mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể
hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu, là “nỗi buồn trong sáng” của một tâm
hồn yêu đương chân thành, mãnh liệt, nhân hậu, vị tha. Bài thơ dạy cho người ta
biết yêu một cách cao đẹp.
3.2 Kết cấu hài hoà cân đối
Mạch cảm xúc của bài thơ tự nó đã chia thành hai phần dưới hình thức hai khổ thơ
bốn câu: Bốn câu đầu, nhân vật trữ tình - tôi, khẳng định tình yêu vẫn còn nhưng
xin rút lui vì không muốn gây phiền muộn cho người mình yêu. Bốn câu cuối, dồn
tả các cung bậc khác nhau của tình yêu và lời khẳng định một tình yêu đằm thắm,
chân thành.Và trong mỗi câu thơ lại có hai vế. Điều quan trọng hơn là có thể thấy
sự tăng tiến mâu thuẫn từ khổ 1 sang khổ 2 dường như kết nối hai khổ thơ lại thành
một cấu trúc thống nhất cả tám câu thơ vận động theo mạch tâm trạng của nhân vật
trữ tình. Một kết cấu hài hoà cân đối đã làm nên vẻ đẹp của bài thơ nhưng không
làm suy giảm sự tinh tế của cảm xúc.
3.2.1 Khổ 1
Mở đầu bài thơ là một lời bộc lộ chân thành xuất phát từ một trái tim trung
thực, báo hiệu một tình yêu thực sự. “Tôi đã yêu cô”, lời lẽ giản dị mà mang bao
nỗi quyến rũ, bí ẩn muôn đời. Ngay trong hai câu đầu này đã xuất hiện hai đối cực:
lí trí của chàng trai muốn dừng tình yêu lại nhưng tình cảm vẫn còn cháy bỏng:
Tôi đã yêu cô: tình yêu còn, có thể là,
Trong tâm hồn tôi lụi tắt chưa hoàn toàn;
Đây là một lời khẳng định tình yêu, nhưng có thể thấy trong lời khẳng định ấy sự
cố gắng của lí trí muốn đẩy “tình yêu” vào quá khứ (“đã yêu”), gián cách mình với
người mình yêu (“cô”). Theo mạch logic, nhân vật trữ tình muốn khẳng định “tình
yêu…đã lụi tắt” nhưng ngay sau khi nhắc lại từ “tình yêu” thì cố gắng của lí trí vấp
phải vô vàn trở ngại tình cảm. Bất chấp cả nguyên tắc ngữ nghĩa và cú pháp , giọng
thơ trở nên ngập ngừng. Sự đứt quãng, không liền mạch của câu thơ hiện lên sự
trăn trở, phân vân day dứt của nhân vật trữ tình. Dùng một ngữ mang tính phủ
định“lụi tắt chưa hoàn toàn”, nhân vật trữ tình bày tỏ một tình yêu, một say mê
mang dáng vẻ âm thầm, dai dẳng, dấu hiệu của những cảm xúc vững bền, của một
trái tim chung thủy, không phải là sự đam mê bột phát vụt sáng lóe rồi lụi tàn ngay
đấy. Hai dòng thơ, đơn giản là một lời xác nhận sự tồn tại của một tình yêu. Một
tình yêu mà dù muốn cũng không thể nguôi. Mạch thơ chuyển đột ngột:
Nhưng hãy để nó không làm cô lo lắng nữa:
Tôi không muốn làm cô buồn vì bất cứ lẽ gì.
Câu thơ toát lên cái điềm tĩnh của lí trí, cái dồn nén của cảm xúc.Từ “nhưng” cùng
với từ mạnh thể hiện quyết tâm như “hãy để…không”, “không muốn…bất cứ lẽ
gì” thể hiện sự gồng lên của lí trí để thoát ra, đoạn tuyệt với tình trạng lưỡng phân
ở hai câu đầu. Điệp từ “không” ở cả hai câu thơ nhấn mạnh sự dứt khoát: cần phải
dập tắt ngọn lửa tình yêu dù chỉ là âm thầm, dai dẳng để tránh cho “cô buồn vì bất
cứ lẽ gì.”. Nhưng đằng sau những lời lẽ điềm tĩnh, đúng mực ấy là bao nỗi niềm,
bao sắc thái của tình yêu: có cái chua xót của thân phận vì nếu tình yêu không đem
lại hạnh phúc, niềm vui mà chỉ là nỗi băn khoăn, buồn bã cho người mình yêu thì
nên chấm dứt tình yêu đó; có sự chế ngự của lí trí đối với con tim: có cái cao
thượng, tế nhị của tình tôi (điều quan trọng không phải là tình yêu của tôi mà là sự
yên tĩnh, thanh thản của cô gái mình yêu); có cái tôn thờ, sùng kính của bậc nam
nhi đối với người phụ nữ. Tình yêu có thể chấm dứt vì nhiều lí do, nhưng cái lí do
đầy dịu dàng, trân trọng và cao thượng ấy đối với nguời phụ nữ dễ mấy ai có được.
Một mong muốn cao thượng chỉ có thể xuất phát từ một tình cảm chân thành của
một trái tim biết yêu thương, biết hi sinh. Câu thơ đã xác nhận một chân lí của tình
yêu là đã yêu thì không đòi hỏi, yêu là mong muốn những điều tốt lành đến với
người mình yêu thương. Chấp nhận âm thầm chịu đựng tình yêu đơn phương, nhân
vật trữ tình đã nâng mình lên cao hơn.Tình cảm theo đó cũng không bị mất đi mà
chỉ bị nén xuống.
Khổ 1 xét bề ngoài câu chữ, nhân vật trữ tình dường như thông báo việc rút lui,
chối bỏ say mê, dập tắt lửa tình.Đó là trật tự lôgíc trong cách giãi bày tình cảm của
nhân vật trữ tình.Nhưng trật tự logic đó chỉ là bề ngoài, còn trong sâu thẳm tâm
linh, mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình cuồn cuộn chảy, bất chấp logic. Không
nén được, cảm xúc đó cứ bật lên thành ý thơ thẳng thắn, minh bạch và rất rõ ràng:
còn yêu và rất yêu nhưng không muốn làm cô phải suy nghĩ. Nhưng nếu chấp nhận
dễ dàng như vậy thì có vẻ lí trí quá và tình yêu của “tôi” đối với cô chưa đủ sức
thuyết phục, còn kém mãnh liệt. Sự mãnh liệt của tình yêu được thể hiện ở bốn
dòng thơ tiếp theo.
3.2.2 Khổ 2
Một lần nữa, mối tình đơn phương lại được xác nhận.Dù lí trí được nhấn mạnh
nhưng tình yêu vẫn còn nồng cháy, đây chính là sức cản khiến lí trí không thể
chiến thắng được tình yêu, lí trí phải đi vòng từ ngoài vào trong để thể hiện sự
quyết tâm.Không làm cô buồn, cô lo lắng, lí trí muốn dừng tình yêu lại mong cô
gái được bình yên, hạnh phúc.
Tôi đã yêu cô không lời, không hi vọng,
Khi thì bị sự rụt rè, khi thì bị thói ghen tuông giày vò;
Tôi đã yêu cô chân thành như thể, đằm thắm như thể,
Câu 5,6,7 mỗi câu thơ đều có hai sắc thái tạo thành một cặp đều được nhấn mạnh.
Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê dằn mạnh xuống từng vế như một lời kể vô vọng
với các yếu tố láy “không…không…”, “khi thì…khi thì” có hàm ý trách móc vô
cớ, nhấn mạnh đối cực tình yêu nồng cháy, mạch trào lên của tình cảm. Nhân vật
trữ tình bộc lộ thẳng thắn tâm hồn mình: một tình yêu âm thầm, không hi vọng.
Nhưng dù vậy, tình yêu ấy vẫn diễn ra với mọi sắc thái muôn thuở: Câu 5,6 kết
với nhau thành một khối, cùng một trường mực cảm muốn “hi vọng” nhưng không
“hi vọng” được; “rụt rè”-muốn mạnh mẽ mà không mạnh mẽ được , “ghen tuông”-
muốn tin mà không tin được. Đây là những tâm trạng của bề mặt tình yêu: nỗi đau
khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè, lòng ghen tuông giày vò. Câu thơ mang
tính chất thú nhận đã khơi mở những lớp tình cảm phức tạp và rất con người dưới
đáy sâu tâm hồn, chỉ cho phép nói rằng tình yêu của mình chưa li tắt chứ không
phải là đang bùng cháy mãnh liệt. Câu 7 láy lại lời khẳng định tình yêu “Tôi đã yêu
cô” một cách trọn vẹn với điệp từ “như thể…như thể” nhấn mạnh hai sắc thái kết
tinh bản chất của tình yêu: “chân thành”, “đằm thắm”. Lí trí không mất đi mà ẩn
đằng sau, làm câu thơ đưa đến nhận thức về bản chất của tình yêu.Nhân vật trữ tình
không chìm đắm trong day dứt của hiện tại và hướng tới tương lai, nhấn mạnh
hạnh phúc của người yêu là quan trọng nhất.
Câu thơ thứ 8 hóa giải mâu thuẫn của cả lí trí và tình cảm, trở thành lời cầu chúc
hướng tới cái tốt đẹp nhất của tương lai làm câu thơ sáng lên vẻ đẹp nhân văn:
Cầu trời ban cho cô được yêu bởi một người khác.
Như vậy, lí trí và tình cảm đều mong muốn hướng tới hạnh phúc của người mình
yêu. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng
ghen. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được
sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Nếu chỉ là lời cầu mong cho người
mình yêu những điều tốt đẹp nhất thì đơn giản quá và không có khả năng thể hiện
tình yêu như “Cầu trời ban cho cô được yêu bởi một người khác”.“Người khác”
thể hiện sự cao thượng tột cùng của lí trí, rất khó khăn khi một người khác có thể
đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.Đó là tình yêu vừa cao cả vừa trần thế- tình
cảm nhân văn thể hiện sự vượt qua chính mình nhưng vẫn thể hiện niềm tin của
chính mình.Tư tưởng và giá trị của bài thơ được cô đọng ở câu thơ này.Chỉ một lời
cầu chúc thôi nhưng nói được bao điều.Nó khẳng định tấm tình chân thành của
“tôi”, đồng thời thể hiện tình yêu mãnh liệt và chân chính.Lời cầu chúc cũng chính
là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực
sự, tình yêu xứng đáng nhất với em.Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời
nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh.
Như vậy, cấu trúc bài thơ dựng trên mâu thuẫn nghệ thuật giữa trật tự lôgic và
mạch cảm xúc, giữa lí trí điềm tĩnh và xúc cảm dâng trào.Nhưng nó đã được hóa
giải mâu thuẫn dựa vào sở trường hài hòa giữa các đối cực của Pushkin, điều đó
tạo nên một kết cấu hài hòa cho bài thơ.Ở cả bài thơ, hai đối cực vẫn hiện hữu, một
cực (lí trí) được nhấn mạnh nhưng cực còn lại (tình cảm) không hề bị mất đi. Trên
bề mặt kết cấu, trật tự lôgic và lí trí nói lên việc “rút lui”, chối bỏ say mê, dập tắt
ngọn lửa tình. Còn trong bề sâu mạch trần thuật trữ tình, xúc cảm không ghìm nén
được mà tuôn trào mãnh liệt, bất chấp lôgic và lí trí.Mâu thuẫn nghệ thuật này giúp
chúng ta cảm nhận sâu sắc tình yêu chân thành đằm thắm mà thiết tha mãnh liệt,
đam mê mà vị tha, độ lượng của nhà thơ.
Nhân vật trữ tình thể hiện qua dòng tâm tưởng chủ yếu qua dòng thời gian từ quá
khứ đến tương lai. Nhìn lại mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ thì
đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan
niệm rất nhân văn về tình yêu. Và mạch cảm xúc của bài thơ được phát triển theo
lôgíc tâm trạng nhưng có sự kết hợp rất khéo với lí trí. Sự hài hoà giữa cảm xúc và
lí trí đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho bài thơ.Tâm trạng được thể hiện không
quá bản năng nhưng cũng không quá nặng nề khô cứng.Cảm xúc có khi mâu thuẫn
với lí trí nhưng lại được giải quyết một cách rất hợp lí, hợp với sự phát triển của
mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình.
3.3 Ngôn ngữ giản dị, trong sáng; hàm súc, cô đọng và giàu nhạctính
3.3.1 Ngôn ngữ giản dị trong sáng
Bài thơ “Tôi yêu em” đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá
trị tinh thần chung của loài người: những tình cảm chân thành, cao thượng, nhân ái
của tình yêu chứa đựng trong những lời lẽ giản dị, trong sáng nhất. Những cảm xúc
này được Pushkin ghi nhận lại chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn và nhẹ nhàng
nhưng để lại một ấn tượng sâu sắc, điều này khác hẳn với những quan điểm truyền
thống là một bài thơ hay thì ngôn ngữ phải trau chuốt và độc đáo. Sức hấp dẫn của
bài thơ trước hết là bởi “Đối tượng tự nó hấp dẫn đến mức chả cần gì tới sự tô
điểm nào cả” (Pushkin).Có lẽ cũng vì vậy mà bài thơ không ngừng gây xúc động
trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Lời giãi bày tình yêu của Pushkin được thể hiện bằng hình thức giản dị mà tinh
tế.Chất thơ toát ra từ lời thơ giản dị đến mức trong suốt; ít dùng mĩ từ mà vẫn gợi
cảm, không ví von, bóng gió. Tác giả chỉ dùng vài từ mang tính phủ định “chưa
hoàn toàn”, “không làm”, “không muốn làm”, “không lời”, “không hi vọng”. Vì
thế mà câu thơ bộc lộ thấu đạt những xúc cảm, trải nghiệm chân thành, sâu sắc
trong trái tim yêu chân thực, chung thủy mà âm thầm kín đáo, da diết day dứt khôn
nguôi, có pha chút dè dặt ngậm ngùi và dự cảm dang dở của nhân vật tôi. Thơ tình
của nhân loại chưa bao giờ được chứng kiến một thiên tình sử trong một hình thức
nhỏ bé như vậy. Và cũng chưa bao giờ thơ tình của nhân loại đạt đến sự minh triết
của tình yêu sáng chói như vậy.
3.3.2 Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng
Ở phần trên, các đặc điểm của thơ Pushkin trong bài “Tôi yêu em” đã được làm
sáng tỏ dưới tư liệu là bản dịch nghĩa của Thúy Toàn để bám sát nguyên tác. Đến
phần ngôn ngữ hàm súc và ngôn ngữ giàu nhạc tính, tôi xin được lấy tư liệu là bản
dịch thơ của Thúy Toàn để quá trình phân tích được sáng rõ, cân xứng hơn.
Nếu Pushkin mở đầu bài thơ theo một cách khác thì bài thơ "Tôi yêu em" không
còn là bài thơ trữ tình mà là một trường ca. Puskin đã cắt ngang thiên tình sử để tự
sự và trữ tình. Mọi biến cố, mọi xúc cảm, thời gian và không gian đều được dồn
nén lại:
Tôi yêu em: đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai.
Động từ "yêu" trong nguyên tác đều dùng thì quá khứ đến hiện tại bằng hình ảnh
"ngọn lửa tình".Hình tượng ngọn lửa vừa thể hiện sự nồng nhiệt của tình cảm, và
diễn tả sự dài lâu, đằng đẵng của nhà thơ đối với người tình.Lối cắt ngang thiên
tình sử để giãi bày như vậy khiến cho bài thơ cô đọng, hàm súc.Tác giả không kể
lể, chừng mực trong lối biểu hiện cảm xúc, mực thước, kín đáo là những nét nổi
bật của phong cách cổ điển.Giai điệu chính của bài thơ đã xuất hiện mà điều muốn
nói chỉ mới được sửa soạn nói thôi, nghĩa là nó sẽ được nói qua những biến tấu
trong giây phút thăng hoa của tâm hồn thi nhân. Puskin say đắm với người tình,
mải mê kiếm tìm mộng đẹp, nhưng chỉ nhận được toàn cay đắng và não nề, cái mà
người tình thi sĩ kiếm tìm được lại là thơ. "Tôi yêu em..." là thơ rồi, tôi thôi, không
yêu em nữa là cũng để yêu em. Thơ tình của nhân loại chưa từng thấy những lời
yêu của trái tim nhân hậu như thế này:
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.
Tưởng chừng như Pushkin không dụng công làm thơ mà cấu tứ thật là mới
mẻ.Tình mới mà thành thơ mới, tâm hồn cao thượng mà thành thơ cao thượng.Nhà
thơ đã chấp nhận thất bại, nhưng không phũ phàng, hằn học.Biến đau thương thành
tình yêu thì thật lạ. Tứ thơ lớn cho nên không cần những lời hoa mĩ, không cần các
biện pháp tu từ mà vẫn cô đọng, thấm thía.Bài thơ tình phát triển theo những biểu
lộ mới mẻ của tình cảm và những nghịch lí:
Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm
Câu em được người tình như tôi đã yêu em.
Nhà thơ đã chọn những chi tiết chính xác để bày tỏ lòng yêu của mình."Tôi yêu em
âm thầm", đó là một thứ tình yêu như sóng ngầm, như than hầm, nung nấu, cháy
bỏng.Nhưng "không hi vọng", đây cũng là một sự thổ lộ thành thật. Tinh thần cao
thượng của Pushkin được diễn tả theo nhịp độ tăng cấp: không yêu em nữa là cũng
để yêu em và cầu cho người tình (từ chối mình) được sống hạnh phúc trong tình
yêu. Minh triết tình yêu đó là điều hết sức mới mẻ và tạo ra sức hấp dẫn lạ
thường.Đấy là nhân cách cao thượng của Pushkin, đấy cũng là tinh hoa của nền
văn học Nga, một nền văn học nhân đạo và lí tưởng.
3.3.3 Ngôn ngữ giàu nhạc tính
Ngôn ngữ trong thơ còn là ngôn ngữ giàu nhạc tính khiến bài thơ giàu nhạc điệu và
du dương như một bản Xonat làm say đắm lòng người. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc
tính thể hiện ở nhịp điệu bao gồm cách phối hợp âm thanh, cách ngắt nhịp và
vần.Nhạc tính trong thơ còn thể hiện ở sự trầm bổng, độ ngân vang của ngôn ngữ
thơ.Đó là sự thay đổi những âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và
thanh trắc. Trong bản dịch thơ của Thúy Toàn:
Tôi yêu em đến nay chừng có thể,
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai,
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.
BBBBBBBT
TTBBTTBB
BBBBBBBT
BBTBBBBTBB
Trong bản dịch thơ, “Tôi yêu em” lặp lại nhiều lần như một điệp khúc (tương ứng
với nó trong bản dịch nghĩa “Tôi đã yêu em” lặp lại ba lần ) mang lại nhiều cảm
xúc góp phần không nhỏ cho tính nhạc của bài. Nó vừa mang sự quyết tâm khẳng
định không chút hồ nghi, băn khoăn, do dự, vừa là một sự thú nhận với tất cả sự
chân thành thốt lên tự đáy lòng. Đó là khát vọng cháy bỏng của một trái tim yêu
muốn được đáp lại.
Nhạc tính còn thể hiện ở nhịp thơ: nhịp thơ trong bài rất linh hoạt, khi thì nhịp thơ
chậm rãi, giọng điệu trầm tĩnh ; khi thì nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện các
tính từ chỉ trạng thái cảm xúc (âm thầm, không hi vọng, chân thành, đằm thắm), đã
bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Độ trầm bổng, độ ngân vang của ngôn ngữ
thơ kết hợp hài hòa với nhịp thơ linh hoạt đã tạo nên đặc trưng của bài thơ là giọng
trữ tình dồn nén mà mãnh liệt, tạo được sức mạnh biểu đạt tình cảm lớn lao trong
lòng độc giả.
IV.Tổng kết
Kết lại, thơ trữ tình của Pushkin đã thể hiện sâu sắc thái độ phê phán chế độ Nga
Hoàng, thể hiện khát vọng tự do của con người; Ông đã khắc họa rõ nét tình yêu
thiên nhiên xứ sở nươc Nga và đặc biệt Pushkin đã thể hiện tình yêu rất chân
thànhsâu sắc. Thơ trữ tình của Pushkin có kết cấu mang tính đối xứng được thể
hiện ở sự hài hòa giữa các đối cựcđặc điểm ngắn gọn,ngôn ngữ trong các tác phẩm
thơ của Pushkin vừa giản dị, tinh tế, dễ hiểu, đầy tính nhạc mà vẫn luôn mang ý
tưởng sâu sắc.Đây chính là điều làm nên giá trị chân lý toàn cầu của Ông. Thơ của
Ông là tổng hòa của niềm say mê với cảm xúc tràn trê và với ánh sáng trí tuệ. Nó
được xem như là cuốn sử biên niên của thời đại.
Qua thơ trữ tình của Pushkin, chúng ta có thể thấy được hình ảnh con người
dũng cảm kiên cường trong đấu tranh, chân thành chung thủy trong tình bạn, lành
mạnh, trong sáng và tha thiết trong tình yêu, ý thức trách nhiệm cao trong sáng tác
nghệ thuật.
Thơ của Puskin có tác dụng to lớn trong việc nhân đạo hóa con người, giáo
dục con người sống tốt hơn, nhân bản hơn
Qua việc tìm hiểu đặc điểm thơ trữ tình trong bài thơ “Tôi yêu em”ta thấy
Ông đã thể hiện được tình yêu chân thành đằm thắm, rạo rực tha thiết và cao cả
sâu sắc hơn là tấm lòng nguyện hi sinh để người mình yêu luôn được hạnh phúc.
Tình yêu của Pushkin được thể hiện trong bài thơ qua kết cấu hài hòa đối
xứng.Cấu trúc bài thơ dựng trên mâu thuẫn nghệ thuật giữa trật tự lôgic và mạch
cảm xúc, giữa lí trí điềm tĩnh và xúc cảm dâng trào.Nhưng nó đã được hóa giải
mâu thuẫn dựa vào sở trường hài hòa giữa các đối cực của Pushkin, điều đó tạo
nên một kết cấu hài hòa cho bài thơ.Đồng thời, nhà thơ sử dụng lớp ngôn từ rất
chân thành, giản dị, trong sáng, hàm xúc, cô đọng.Lời giãi bày tình yêu của
Pushkin được thể hiện bằng hình thức giản dị mà tinh tế.Chất thơ toát ra từ lời thơ
giản dị đến mức trong suốt; ít dùng mĩ từ mà vẫn gợi cảm, không ví von, bóng
gió.Và bài thơ nói về một tình yêu cao thượng, không vị kỉ nhưng không kém phần
đau đớn trần thế. Trong chỉnh thể hài hòa ấy, ta không thể xác định được cao
thượng nhiều hơn hay đau đớn trần thế nhiều hơn. Chính nhờ sự giao hòa giữa
“mặt đất và bầu trời” ấy mà nỗi buồn trong thơ Pushkin luôn luôn trở thành “sáng
trong”
Bằng tấm lòng nhân đạo tài năng nghệ thuật Pushkin đã mang đến cho nền
văn học Nga giá trị văn học to lớn sâu sắc.Không chỉ vậy, Ông còn là người dẫn
đường cho rất nhiều thế hệ văn học trên thế giới. Pushkin được nhân dân Nga ca
ngợi thừa nhận là “Mặt trời của thi ca Nga”, Ông xứng đáng là nhà thơ trữ tình vĩ
đại nhất trong nền văn học Nga cũng như trên diễn đàn văn học thế giới.