You are on page 1of 59

PHẬT TÂM

TỔ LONGCHEN RABJAM

SEMNYI NGALSO – THONG DONG LỚN LAO

1
2
PHẦN I

NHỮNG ĐOẠN TRÍCH TỪ CUỘC ĐỜI CỦA CÁC ĐẠO SƯ ĐẠI


TOÀN THIỆN ĐỂ MINH GIẢI NHỮNG ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH
TRONG ĐẠI TOÀN THIỆN

DẪN NHẬP

Những đạo sư đạt đến giác ngộ cao nhất của Đại Toàn Thiện và phô bày
những điều lạ lùng như một dấu hiệu về sự chứng đắc của các ngài tất cả
đều trải qua một tiến trình sôi nổi mãnh liệt tu hành trải qua hàng năm.
Điều ấy đúng với những đại đạo sư Đại Toàn Thiện quá khứ, như
Prahevajra, Manjusrimitra, Vimala-mitra, Padmasambhava, Longchen
Rabjam và Jigmed Lingpa, và nó cũng còn đúng cho nhiều đạo sư gần
đây gồm cả một số những vị thầy của chính chúng ta. Trạng thái thiền
định, sự chứng ngộ và sự hoàn thiện của kết quả của Đại Toàn Thiện là
tức thời, không cố gắng, tự phát và tự nhiên. Nhưng để đạt đến sự chứng
ngộ đó và hoàn thiện nó, hầu hết mọi người tu hành phải đi qua những
học hỏi và tu hành từng bước, theo khả năng và tính chất của họ, với sự
quy hướng mãnh liệt. Trong lịch sử Đại Toàn Thiện không có trường
hợp một người cầu đạo bình thường đã đạt chứng ngộ mà không có
những sửa soạn thiết yếu hay đã hoàn thiện sự chứng ngộ mà không cần
làm cho tốt hơn và tinh lọc nó qua thiền định về nó. Tuy nhiên sự chứng
ngộ thực sự là tức thời và sự hoàn thiện của nó là tự phát. Trong những
đạo sư Đại Toàn Thiện vĩ đại này, nhiều vị là những hiện thân của chư
Phật và chư Bồ tát, nhưng các vị tái nhập thân như những chúng sanh
bình thường và trải qua sự gian khổ tu hành để chứng tỏ một cách thức
tu hành trên đường đạo cho những người khác. Nhiều đạo sư vĩ đại khác
là những chúng sanh bình thường đã trở thành những chứng ngộ và
thành tựu qua sự tu hành lâu dài và tha thiết của mình.

3
VÀI ĐẠO SƯ ĐẠI TOÀN THIỆN THỜI XƯA

Phần sau là một tóm lược cuộc đời của một số đạo sư sơ thời từ Logyu
Chenmo và Dzamling Thatru Khyabpa‟i Gyen:

Đạo Sư Prahevajra là một vị thầy Phật giáo vĩ đại và ngài là đạo sư đầu
tiên trong loài người của Đại Toàn Thiện. Ngài ở trong định ba mươi hai
năm trong một lều cỏ. Ngài nhận những quán đảnh truyền pháp và
6.400.000 câu kệ của những tantra Đại Toàn Thiện từ Vajrasattva trong
một thị kiến thanh tịnh. Vào lúc chấm dứt cuộc đời, ngài hòa tan thân
thể thô của ngài vào một “thân Ánh Sáng” (A‟od Phung). Manjusrimitra
nhận những giáo lý Đại Toàn Thiện từ Prahevajra trong khoảng thời
gian bảy mươi lăm năm và rồi đạt đến “thân Ánh Sáng”.

Srisinha của Trung Hoa, sau khi học hỏi và tu hành nhiều pháp môn Phật
giáo trong hàng thập niên, đã nhận những giáo lý Đại Toàn Thiện từ
Manjusrimitra và thực hành chúng trong hai mươi lăm năm. Jnanasutra,
sau khi trải qua học hỏi và tu hành nhiều pháp môn Phật giáo đã để hàng
thập niên nhận lãnh những giáo lý và truyền pháp của nhiều giai đoạn
của Đại Toàn Thiện từ Srisinha, và rồi tu hành chúng.

Vimalamitra là một trong những nhà sư học thức uyên bác nhất trong
năm trăm học giả sống gần Vajra-sana, nơi đức Phật đã giác ngộ. Để đáp
ứng một lời tiên tri ngài nhận được từ Vajrasattva trong một thị kiến
thanh tịnh, ngài đến Trung Hoa và trong hai mươi năm nhận những giáo
lý của Ba Phạm Trù Đầu Tiên, Ba Phạm Trù Ngoại, Nội, và Bí Mật của
Đại Toàn Thiện, từ Srisinha và rồi trở về Ấn Độ. Bấy giờ để đáp ứng
một lời tiên tri do một Dakini ban cho, Vimalamitra đến Jnanasutra,
cũng là một đệ tử của Srisinha. Ngài đã nhận sự trao truyền những cấp
độ khác nhau của những giáo lý và những truyền pháp của Phạm Trù Bí
Mật Sâu Nhất của Đại Toàn Thiện, những quán đảnh truyền pháp, những
quán đảnh truyền pháp Tạo Tác, Không Tạo Tác, Đơn giản Và Tối Đơn
giản, dần dần qua nhiều năm từ Jnanasutra. Rồi ngài hoàn thiện những
chứng ngộ tương ứng của những giáo huấn và truyền pháp. Giống như
Guru Padmasambhava, Vimalamitra đạt được thân “Đại Chuyển Hóa”
(Pho-Ba Ch‟en Po). người ta tin rằng trong “thân Ánh Sáng” này, ngài
vẫn còn sống ở Ngũ Đài Sơn ở Trung Hoa và có thể thấy được đối với
4
người có phước. Longchen Rabjam, sau khi trở thành một đại học giả và
một đệ tử của pháp môn phổ thông của Phật giáo, đã nhận những giáo lý
và trao truyền Đại Toàn Thiện từ đạo sư vĩ đại Kumaradza. Rồi ngài trải
qua tu hành thiền định mãnh liệt trong sáu năm về những giáo lý ấy và
trở thành vị thầy và tác giả được kính trọng nhất của Tây Tạng về kinh
điển và giáo huấn Đại Toàn Thiện.

SÙNG MỘ GÂY RA CHỨNG NGỘ TRONG GYALWA’I NYUKU

Những tu hành thiện pháp trong đó có sùng mộ là quan trọng nhất trong
tu hành thiền định Đại Toàn Thiện. Chúng là những phương tiện cần
thiết để đem lại chứng ngộ và hoàn thiện nó. Trong tiểu sử của mình,
Pema Ledrel Tsal (1873-1941) diễn tả đạo sư của ngài là Nyoshul
Lungtok dạy ngài như thế nào trong đường lối sau đây:

Trong dòng này, qua sự sùng mộ với đạo sư mà người ta đạt chứng ngộ.
Cách thức có một vị thầy không phải là lễ phép mà là sùng mộ. Guru
Yoga không phải những cầu nguyện, mà là sùng mộ. Một lần nọ, Jigmed
Gyalwa‟i Nyuku thực hành thiền định trong nhiều năm ở Tsa-ri với khổ
hạnh và gian khổ mãnh liệt. Một hôm ngài đi ra khỏi hang, dưới ánh
sáng mặt trời. Ngài nhìn về phía Lhasa, và một sự tưởng nhớ mạnh mẽ
về bổn sư của ngài (Jigmed Lingpa) và về những vị thầy trong dòng khởi
lên trong tâm. Ngài cầu nguyện đến các vị với sự sùng mộ mạnh mẽ.
Trong một lúc như thể ngài mất ý thức. Khi tỉnh lại, ngài thấy rằng
không có gì để thấy hay để thiền định, vì tất cả những nắm bắt, quan tâm
đến thiền định đã tan biến vào cõi giới tối hậu. Ngài đã (thực sự) đạt đến
sự hiện diện tối hậu của tánh giác bổn nhiên, thoát khỏi những dao động
và mê lầm. Nhưng ngài (không biết bản chất sự việc là thế nào) và ngài
không bằng lòng (với điều mà ngài kinh nghiệm). Ngài nghĩ, “Than ôi!
Nếu ta không đi ra ánh sáng mặt trời thì ta còn có thiền định, bây giờ thì
chẳng có gì cả. Ta phải rời đây đi gặp Lama bởi gì bây giờ ngài đã già
và ta phải có những soi sáng cho sự thiền định của ta.... Ngài đến gặp
thầy là Rigdzin Jimed Lingpa, và trình bày sự chứng ngộ cho thầy nghe.
Jimed Lingpa vui lòng và nói: Con à, thế đấy! Con đã đạt đến giai đoạn
“Sự cạn kiệt của những Hiện Hữu Hiện Tượng trong Bản Tánh Tối
Hậu....” Và rồi ngài đi đến Thrama trong thung lũng Dza xứ Kham và
thiền định ở đó hơn hai mươi năm, và ngài được biết đến như là Lama
5
Thrama. Thế nên, chỉ chứng ngộ thì không đủ, mà người ta bấy giờ phải
tiến tới thiền định về nó. Những kinh nghiệm (khai triển qua thiền định)
cần được hoàn thiện (Klong-Du Gyur), và sự hoàn thiện cần được làm
cho trọn vẹn. Cho đến khi nào sự hoàn thiện được trọn vẹn, người ta cần
tu hành nó trong những thời kỳ thiền định. Khi nào với chính mình,
nghĩa của dứt tận (cạn kiệt) của những hiện tượng trong Đại Toàn Thiện
được hiện tiền, trí huệ phân biệt tất cả những hiện tượng, năng lực của
tánh giác bổn nhiên, sẽ bừng phát và những thừa và những giáo nghĩa
của các dòng phái có thể phân biệt không sai lầm. Và đối với những
người khác, nếu người ta tự nhiên phát sanh đại bi vượt khỏi những ý
niệm, thì thời gian cho người ta chỉ dạy, thảo luận và viết lách đã đến.

NHỮNG ĐỨC HẠNH KHAI TRIỂN TRONG NHỮNG NGƯỜI


CÓ NHỮNG KINH NGHIỆM ĐẠI TOÀN THIỆN

Khi người ta tiến bộ qua sự tu hành Đại Toàn Thiện, tất cả những đức
hạnh như lòng bi sẽ khai triển và mạnh mẽ. Trong tiểu sử của minh,
Pema Ledrel Tsal viết:

(Nyoshul Lungtog) hỏi tôi: “Con có kiêu mạn không?” Tôi trả lời ngài:
“Trong những thời kỳ xuất định, con không có kinh nghiệm nào ngoại
trừ sự đơn độc (sKyo Lhang-Lhang), bởi vì tất cả những hiện tượng là
không thật và không quan trọng.” Nyoshul Lungtok nói: “Phải nên như
thế. Người ta cần có những kinh nghiệm (về những tư tưởng đức hạnh),
như bậc toàn giác (Longchen Rabjam) nói:

Dầu có những kinh nghiệm (trong Đại Toàn Thiện), những kinh nghiệm
đức hạnh này sanh khởi:

(Sự chứng ngộ) vô thường và giảm thiểu giới hạn,


tầm mức của tâm thức, từ chiều sâu lòng mình,
Lòng từ và lòng bi không ngừng và
Tri giác thanh tịnh và sùng mộ không thiên chấp.

6
SỰ CHỨNG NGỘ ĐẠT ĐẾN TỨC THỜI BỞI NYOSHUL
LUNGTOG

Dù người ta phải trải qua những chuẩn bị học hỏi, nghiên cứu và thiền
định mãnh liệt để có được sự đưa vào chứng ngộ và hoàn thiện nó,
chứng ngộ thực sự thì tức thời khoảnh khắc khi thiền định đã chín muồi,
và không cần gì đến những ý niệm trí thức hay tinh thần. Khi đệ tử đã
sẵn sàng, qua nhiều phương tiện khác nhau vị thầy đưa vào, giới thiệu đệ
tử vào trạng thái chứng ngộ. Ngày nay, thông thường những vị thầy ban
cho sự trao truyền chứng ngộ Đại Toàn Thiện qua tập trung thiền định,
tán ca sùng mộ, và những cử hành nghi lễ. Nếu đệ tử đã sẵn sàng, y sẽ
đạt chứng ngộ, còn không thì nó chỉ tác động như một ban phước đặc
biệt từ đạo sư. Nhưng nếu đệ tử đang sẵn sàng và đạo sư là một bậc tinh
thông đã chứng ngộ, bấy giờ ngay cả một chỉ bày đơn giản nhất cũng
đem lại chứng ngộ cao nhất. Sau đây là một đoạn chỉ dạy mà Nyoshul
Lungtog đã nói cho Pema Ledrel Tsal về việc Patrul Rinpoche (1808-
1897) đã đưa Nyoshul Lungtog vào sự chứng ngộ Đại Toàn Thiện như
thế nào. Nyoshul Lungtog đã trở thành một đại học giả và đã dùng nhiều
năm thực hành sơ bộ và thực sự tantra và Đại Toàn Thiện, và khi ngài
nhận sự trao truyền sau đây từ thầy của mình, bởi vì ngài đã sẵn sàng, sự
chứng ngộ của ngài xảy ra trong một cách rất đơn giản. Nyoshul
Lungtog kể lại câu chuyện cho Pema Ledrel Tsal:

Nếu không có những phương tiện quyết định của giáo lý do những giáo
huấn truyền miệng, thì những lời nói trí thức, dù là thuộc về một sự
chứng ngộ cao từ một Lama cũng chẳng đi đến đâu. Ngày nay những vị
thầy (chỉ) nhảy múa theo âm điệu của những bản văn. Điều đó không đủ.
Một lần Abu (Patrul Rinpoche) đang sống với đám đệ tử bọn thầy trong
một cánh đồng trên triền Nagchungma này.... Mỗi ngày, lúc hoàng hôn,
Abu làm một thời thiền định về tu hành Namkha Sumthrug, nằm thẳng
lưng trên một thảm len mới cỡ bằng ngài trên đám cỏ. Một buổi chiều,
khi nằm đó như thường lệ, ngài nói với ta: “Lungtog thân yêu! Con đã
nói rằng con không biết tinh túy của tâm ư?” Ta trả lời: “Vâng, thưa
thầy, con không biết.” Abu nói: “Ồ, không có cái gì mà không thể biết.
Đến đây.” Rồi ta đến với ngài. Ngài nói: “Hãy nằm xuống, như ta đang

7
nằm, và nhìn vào bầu trời.” Khi ta làm như thế, (câu chuyện tiếp tục như
sau:)

“Con có thấy nhiều sao trên trời không?”


“Dạ có.”
“Con có nghe chó sủa trong tu viện Dzogchen không?”
“Dạ có.”
“Tốt lắm, đó là thiền định!”

Vào lúc đó, ta đạt đến một xác tín (về chứng ngộ) từ bên trong. Ta đã
giải thoát khỏi những ràng buộc của “có” và “không”. Ta đã chứng ngộ
trí huệ bổn nguyên, sự hợp nhất không che đậy của tánh không và tánh
giác bổn nhiên sẵn đủ. Ta đã được sự ban phước của thầy đưa vào sự
chứng ngộ này, như Saraha nói:

“Người nào trong lòng họ những lời đạo sư truyền vào


Thấy (chân lý) như một kho tàng trong lòng tay y.”

Về sau, khi những lời của Patrul Rinpoche được khảo sát theo cách trí
thức lý tính, thì chẳng có gì nhiều, mà ngài chỉ nói rằng nhãn thức và nhĩ
thức chính là tánh giác bổn nhiên. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng sự đưa
vào Đại Toàn Thiện xảy ra (qua những lời ấy) là do nhờ sự trao truyền
ban phước gia hộ, sự trao truyền tuyệt đối của sự chứng ngộ nghĩa của
Tâm Yếu (sNying-Thig).

PATRUL ĐẠT CHỨNG NGỘ QUA NĂNG LỰC YOGA CỦA


THẦY

Đôi khi những đại Yogi (thiền giả) ban cho những trao truyền như sự
trao truyền chứng ngộ Đại Toàn Thiện qua nhiều phương tiện và chỉ
thẳng khác nhau, và đệ tử đã sẵn sàng sẽ nhận sự đưa vào một cách thần
diệu. Không có những lý lẽ hợp luận lý và trí thức hay những cử hành
nghi lễ, mà chỉ là một sự phô diễn thiện xảo cái gì là thích hợp. Dodrup
Chen Jigmed Tenpa‟i Nyima viết ngài Patrul Rinpoche được Khyentse
Yeshey Dorje (1800-?) đưa vào chứng ngộ Đại Toàn Thiện như thế nào:
Khi Jigmed Yeshey Dorje, Hiện Thân Quý Báu Tuyệt Hảo của Bậc Toàn
Giác (Jigmed Lingpa), đang lang thang để thực hiện những pháp khổ
8
hạnh, một hôm ngài đến chỗ Patrul Rinpoche đang ở và kêu lên: “Ô
Palge (tên của Patrul Rinpoche trong dòng tu)! Ngươi có gan chăng?
Nếu có gan, hãy lại đây!” Khi Patrul Rinpoche đến, ngài nắm tóc Patrul
ném ngã xuống đất và kéo lê vòng vòng trên mặt đất. Một chút sau, một
mùi rượu phát ra và Patrul Rinpoche nghĩ thầm: “Ôi, ngài ấy uống rượu.
Dù một bậc lỗi lạc vĩ đại như ngài mà có thể có loại xử sự này cũng do
say. Đây là lỗi của rượu như đức Thế Tôn đã nói.” Ngay lúc đó,
Khyentse Yeshey Dorje thả Patrul ra và la lên: “Than ôi! Ngươi được
gọi là những người trí thức, tại sao có thể có một tư tưởng xấu như vậy
khởi lên trong ngươi? Đồ chó già.” Ngài nhổ nước miếng vào mặt Patrul
và đưa ngón tay út cho Patrul xem (cử chỉ nhục mạ tệ hại nhất) và rồi bỏ
đi. Thình lình Patrul thấu hiểu tất cả, “Ôi! Ta đã mê lầm.” Đó là một sự
đưa vào. Và ngài tiếp tục tư thế thiền định. (Ngay lúc đó) Patrul chứng
ngộ tánh giác bổn nhiên vô ngại, trong sáng như bầu trời không mây. Sự
đưa vào do Jigmed Gyalwa‟i Nyugu ban cho thì trong sáng như lúc bình
minh giờ đây trở thành sáng rỡ mặt trời đang lên. Về sau, Patrul
Rinpoche hay nói đùa, “Chó Già” là tên bí truyền của tôi do Kushog
Khyentse ban cho.”

SỰ QUAN TRỌNG CỦA TU HÀNH QUYẾT LIỆT

Rất quan trọng là phải học hỏi và thực hành mãnh liệt. Nếu không thế,
chỉ có một vị thầy tốt nhất, con đường sâu thẳm nhất, hay là một đệ tử
thông thái cũng chẳng làm được gì và chỉ tạo thêm kiêu mạn trong chính
mình và coi thường người khác. Đại thiền giả Milarepa, trước khi gặp gỡ
đại dịch giả Marpa, đã nhận những giáo lý Đại Toàn Thiện, nhưng ngài
không có tiến bộ nào trong con đường thiền định vì ngài không thực
hành chúng. Tiểu sử của Milarepa thuật lại:

Milarepa đến Rongton Lhaga, một đạo sư Đại Toàn Thiện và nói: “Con
là một người từ vùng Latod. Con đã phạm những hành vi cực kỳ xấu xa.
Xin ngài ban cho con một giáo lý dẫn con đến giải thoát ngay trong kiếp
này.” Vị Lama nói: “Giáo lý thiêng liêng của ta, Đại Toàn Thiện, là
thắng lợi ở gốc, thắng lợi ở ngọn và thắng lợi ở quả. Nếu ngươi thiền
định nó ban ngày, ngươi sẽ thành Phật ngày đó. Nếu ngươi thiền định nó
ban đêm, ngươi sẽ thành Phật đêm đó. Đối với người phước đức đã chín
muồi những liên kết nghiệp quả, thì thậm chí không cần thiền định, chỉ
9
nghe cái ấy là đạt giải thoát. Nó là Pháp phần cho những ai thiện căn. Ta
sẽ cho ngươi giáo lý ấy.” Ngài ban cho thầy những truyền pháp và giáo
huấn. Bấy giờ thầy nghĩ: “Trong quá khứ khi mình thực hành bùa chú,
mình đã tạo ra những biểu hiện lớn lao trong vòng mười bốn ngày. Bảy
ngày đủ để làm mưa đá. Bây giờ mình đã gặp một Pháp còn dễ hơn bùa
chú và mưa đá, đến độ mình thiền định nó ban ngày, mình sẽ thành Phật
ngày đó, và nếu mình thiền định nó ban đêm, mình sẽ thành Phật đêm
đó. Đối với người phước đức đã chín muồi những liên kết nghiệp quả,
thì không cần cả thiền định. Thế thì mình phải là một người đã chín
muồi những liên kết nghiệp quả.” Với sự kiêu mạn này, thầy đã dành thì
giờ để ngủ mà không thiền định gì cả, và Pháp và bản thân thầy mỗi cái
đi mỗi ngã.

SỰ QUAN TRỌNG CẦN NƯƠNG DỰA VÀO NHỮNG


KINH ĐIỂN CHÍNH THỐNG

Rất quan trọng là phải nương dựa vào những kinh điển chính thức như
những tantra và những tác phẩm của Longchen Rabjam như là căn cứ và
phải có những giáo huấn của thầy như là những chìa khóa. Nhưng có
một số người nương dựa vào những giáo huấn từ một vị thầy và không
biết gì về kinh điển, những nguồn gốc của những giáo lý. Thêm vào sự
ban phước của dòng truyền chư Phật, những Vidyadhara và đạo sư, thì
những kinh điển này chứa đựng nhiều cấp độ và phương tiện khác nhau
của sự thực hành vừa chi tiết vừa cô đọng. Nyoshul Lungtog dạy Pema
Ledrel Tsal:

Từ giờ trở đi hãy tinh lọc (những chứng ngộ của) tự tâm con bằng (cách
so sánh chúng với) nghĩa của những kinh điển vĩ đại: Bảy Kho Tàng của
Bậc Giác Ngộ (Longchen Rabjam) cũng như Những Tâm Yếu Của Mẹ
Và Con. Có những người chỉ nghe lời của một Lama trưởng lão, bỏ qua
một bên Bảy Kho Tàng và Bốn Bộ và nói “Những sách này là những
trình bày văn bản. Sự trao truyền miệng không gì sánh đã được Lama
này, Lama kia ban cho tôi”, và họ thêm những ý niệm mới vào cho thiền
định như là, “Ở yên, chuyển động và biết”, cho sự an định với hoặc
không với những tính cách. Những khuynh hướng này làm mê lầm
những hành giả cao lẫn thấp là những giáo lý bị xuyên tạc do những thế
lực Ma.
10
GIỮ CHO KHÔNG BỊ THAO TÚNG BỞI MỘT SỐ
KINH NGHIỆM THẦN BÍ

Khi người ta tu hành thiền định Đại Toàn Thiện, quan trọng là không bị
bất kỳ loại kinh nghiệm nào thao túng, dù nó có vẻ là một dấu hiệu kỳ
diệu và quan trọng, mà phải ở trong con đường thiền định không dao
động, vì những kinh nghiệm ấy có thể không phải là sự chứng ngộ Đại
Toàn Thiện chân thật và những đức hạnh của nó. Nyoshul Lungtog kể
cho Pema Ledrel Tsal:

Một lần Patrul Rinpoche cho các huynh đệ thầy những giáo lý Ba Chu
Trình về Thư Giãn và những giáo huấn kinh nghiệm về Đại Toàn Thiện,
và chúng ta thực hành những thiền định về chúng trong rừng Ari ở thung
lũng Do (gần tu viện Dodrup Chen). Thời gian đó tất cả những hang ổ
giả dối trong nhận thức chấp thật (về ngã và pháp) của thầy sụp đổ. Mọi
hiện tượng khởi lên như những pha đoạn huyễn mộng. Pema hỏi ngài:
“Đó có là một chứng ngộ không?” Ngài Lungtog trả lời: “Không phải,
đó là một kinh nghiệm tốt.”

TÂM THÀNH THẬT THÌ TỐT HƠN NHIỀU SO VỚI


CÁI GỌI LÀ CHỨNG NGỘ CAO

Nhiều vị gọi là đại thiền giả, họ tin tưởng một cách mê mờ, nhanh nhạy
cho là hoặc khoe khoang ngạo mạn rằng họ đã thành tựu những chứng
ngộ cao. Nhưng thật ra chỉ có cái ngã và những phiền não của họ là tăng
trưởng. Đây là bằng chứng rằng những người ấy thậm chí không làm
một thực hành nào của Đại Toàn Thiện như nó được dạy mà chỉ lạm
dụng nó để đánh lừa chính họ và người khác. Pema Ledrel Tsal hỏi
Nyoshul Lungtog:

“Ngày nay có người nói rằng họ đã chứng ngộ tánh Không, nhưng
những cảm xúc phiền não của họ không giảm. Điều đó là sao, thưa
Ngài?” Ngài trả lời: “Đấy là những tuyên bố trống rỗng. Trong thời đen
tối này, có người nói, „Tôi đã chứng ngộ tánh không hay bản tánh của
tâm và (sự chứng ngộ) cái thấy của tôi là cao.‟ Nhưng thật sự họ đã tăng
trưởng niềm tin của họ vào những hạnh xấu, và xúc cảm phiền não của
họ thô lỗ dữ dội hơn. Họ chỉ tập chú vào truyền thống ngôn ngữ. Khi họ
11
đối mặt với những mối nối quyết định của sanh, chết và trạng thái trung
ấm, (sự tin tưởng của họ vào cái gọi là chứng ngộ cao) hóa ra còn thấp
hơn sự chứng ngộ của một người (chỉ) có một tâm tốt.”

DI CHÚC VÀ SỰ TRAO TRUYỀN CỦA DODRUP CHEN


VÀO LÚC NGÀI CHẾT

Vào thời xưa, khi một thiền giả Đại Toàn Thiện chết hay tan biến thân
thể ngài, ngài để lại chúc thư (kệ thị tịch) cho đệ tử trưởng, đệ tử đã
không tách lìa với đạo sư trong chứng ngộ và đệ tử ấy trở thành người
giữ dòng chính yếu. Manjusrimitra nhận di chúc của Prahevajra, Ba Lời
Thấu Nhập Cái Tinh Túy, Srisinha nhận di chúc của Manjusrimitra, Sáu
Kinh Nghiệm Thiền Định, Jnanasutra nhận chúc thư của Srisinha, Bảy
Điểm Cốt Yếu, và Vimalamitra nhận chúc thư của Jnanasutra, Bốn
Phương Pháp Tham Thiền. Nhưng ngay trong những thế kỷ mới đây,
nhiều đạo sư đã để lại những chúc thư cho những đệ tử chính yếu, đôi
khi trực tiếp và đôi khi trong những thị kiến thanh tịnh. Vào lúc Dodrup
Chen Rinpoche Đệ Nhất chết, một trong những đệ tử chánh yếu của ngài
là Do Khyentse Yeshey Dorje đang ở xa thầy khoảng vài tuần đi ngựa và
không được trực tiếp thông báo. Nhưng vào ngày Dodrup Chen chết, Do
Khyentse nhận một thị kiến thanh tịnh và di chúc như sau:
Lúc bình minh ngày mười ba tháng giêng năm con Rắn Kim (1821), tôi
thấy bậc vô tỷ, vua của Pháp, bậc nhân từ của ba cõi trong hình thức một
thân ánh sáng mặc áo lục năm màu ngời sáng trong một cỗ xe thêu kim
tuyến do bốn Dakini mang đi giữa những ánh sáng cầu vồng trên trời.
Bằng một giọng làm say mê, ngài nói:

Ta đang đi đến cõi bao la của Trí Huệ Bổn Nguyên của Cõi Giới Tối
Hậu,
Trí huệ bổn nguyên của cõi giới tối hậu thì không thể diễn tả và không
thể quan niệm.
Ta đang đi đến trạng thái của Trí Huệ Bổn Nguyên như Tấm Gương,
Nó là vầng sáng của sự sáng tỏ sống động và không dứt.
Ta đang đi đến cảnh giới của Trí Huệ Bổn Nguyên của Bình Đẳng,
Nó là sự tan biến của những ý niệm nắm hiểu của sanh tử và niết bàn
vào trong cõi giới tối hậu.
Ta đang đi đến trạng thái Trí Huệ Bổn Nguyên của Phân Biệt,
12
Nó là phương tiện cho sự sanh khởi trong sáng sáu thông.
Ta đang đi đến trạng thái Trí Huệ Bổn Nguyên của Thành Tựu,
Nó phô diễn nhiều biểu lộ khác nhau phù hợp với ước muốn của những
người tu hành.
Ta đang đi đến Ngọn Núi Vinh Quang Màu Đồng,
cõi Phật của những vị nắm giữ hiểu biết;
Khi ta đạt chứng ngộ bình đẳng với Heruka,
Ba hiện thân sẽ xuất hiện để giúp đỡ con.
Di chúc, xuất hiện rõ ràng trong chữ tượng trưng của
các Dakini,
Cho đến khi nào đúng thời,
Hãy giữ gìn nó kín đáo và bí mật, như một nấm mộ,
Dấu hiệu biểu tượng sẽ không biến mất. Nguyện rằng nó vững bền!
Con ta, hãy ở lại khỏe mạnh.
Bây giờ con đã thắng những ngăn chướng trong đời con.
Cho đến lúc những hiện hữu hiện tượng được giải thoát theo những chỉ
bày và những bản văn,
Hãy thấy sanh tử và niết bàn là mộng và huyễn.
Hãy hiến trọn mình để đem tất cả vào con đường giải thoát khỏi những
tư tưởng chấp có đối tượng.
Đây là sự quán đảnh truyền pháp của nguyện vọng và trao truyền trọn
vẹn.
Đây là quán đảnh truyền pháp thống lĩnh mọi quán đảnh.”

Rồi từ chữ „Ah‟ màu trắng trong sáng như bình pha lê chứa nước nơi tim
ngài, một ánh sáng năm màu phát ra và tan vào trong tôi. Tức thời tôi
mất ý thức và ở trong những làn sóng Kim cương vĩ đại. Bấy giờ Lama
biến mất đi đâu không dấu vết. Vào lúc mặt trời lên, tôi ra khỏi tình
trạng vô thức, nhưng tất cả ý niệm thô và tế đã được giải thoát vì “không
có sự nắm bắt ngay khi khởi sanh.” Tôi thấy tánh giác bổn nguyên tự-
nhiên-sanh-khởi một cách trần truồng và sống động. Trong ba ngày tôi ở
trong trạng thái không sửa sang và triệt suốt, không dơ nhiễm bởi những
nghi ngờ hay tự tin. Tôi tự do đối với những quan điểm phân tích “có”
và “không”. Bấy giờ trong tâm tôi, tôi thấu hiểu rằng tâm của bậc Pháp
vương, bậc nhân từ của ba cõi, đức Phật thứ hai, đã tan biến vào trong
cõi giới tối hậu, và tôi ở lại một lát trong bóng tối của buồn rầu, bởi vì

13
những đứa con mồ côi, tôi và các đệ tử khác, đã phải ở lại, lang thang
trên cánh đồng mịt mù của sanh tử.

NHỮNG DẤU HIỆU KỲ DIỆU VÀO LÚC CHẾT CỦA KONME


KHENPO

Nhiều thiền giả Đại Toàn Thiện thành tựu phô diễn nhiều dấu hiệu của
những thành tựu của các ngài vào lúc chết. Một số có những thị kiến
thanh tịnh về chư Phật, chư Bồ tát và những môn đồ, và nhận được
những cảm ứng, truyền pháp và đưa vào. Nhiều vị ở trong trạng thái
định nhiều giờ hay nhiều ngày, thậm chí sau khi những năng lực của
những nguyên tố đã tan biến, hơi thở đã dứt, và tâm chìm ngập vào sự
sáng tỏ bên trong (định quang minh), nhưng tâm các vị chưa rời khỏi
thân. Một dấu hiệu bên ngoài khi thiền giả còn ở trong trạng thái thiền
định là thân thể ấm áp nơi trái tim và đầu vẫn giữ thẳng. Nhiều vị để lại
những dấu hiệu trong tro khi hỏa thiêu. Chúng gồm những ảnh tượng, di
vật trong hình thức những viên nhỏ màu trắng gọi là Ringsel và những
viên đặc biệt lớn hơn, cứng chắc là Ringsel nhiều màu được gọi là Dung
(những xá lợi). Vào lúc chết hay hỏa thiêu, nhiều dấu hiệu kỳ diệu như
những tia sáng cầu vồng, âm thanh, mùi hương dịu dàng và những chấn
động của đất. Sau đây là một tường thuật ngắn vào lúc chết của Khenpo
Konchog Dronme, hiệu là Lobzang Kunkhyab, được dân chúng biết
nhiều với tên Konme Khenpo (1859-1936) ở tu viện Dodrup Chen. Ngay
trước lúc chết, Khenpo nhận từ một Dakini một sự đưa vào đặc biệt
trong sự sáng tỏ bên trong (định quang minh) như là năm trí huệ bổn
nguyên. Một trang ghi chú của những đệ tử có mặt nói:

Ngay trước lúc chết, vào đầu hôm ngày 28 tháng 12 năm con Heo Mộc
(1936), ngài nói với những đệ tử có mặt:

“Thầy có một giấc mộng (dù những đệ tử đã chắc chắn là ngài đã không
ngủ). Một phụ nữ nói với ta: „Sokhe Chomo nói: „Định quang minh hiện
tiền này là sự chứng ngộ tánh Không. Bởi vì nếu cái này không phải là
tánh Không, vốn là bản tánh của hiểu biết bổn nguyên, thì bấy giờ Trí
Huệ Bổn Nguyên của Cõi Giới Tối Hậu của Phật quả và định quang
minh hiện tiền sẽ không thể được xác định là không phân biệt. Cái định
quang minh hiện tiền này là Đức Hạnh Hùng Vĩ Quý Báu. Bởi vì, nếu
14
tất cả mọi đức hạnh của quả không tự nhiên hiện diện (trong nó) mà
không phải tìm kiếm, thì bấy giờ trí huệ bổn nguyên của chư Phật và
định quang minh hiện tiền sẽ không thể được xác định là không khác
biệt.‟ Thầy nói với người phụ nữ: „Vâng, đó là một cái hiểu hoàn hảo.
Bất luận thế nào, nếu người ta mở rộng nó hơn nữa bằng cách thiền định
về nó qua con đường của Tham Thiền Tự Nhiên Không Sửa Sang và nếu
người ta thấu hiểu sự toàn thiện trọn vẹn của tánh giác bổn nhiên, bấy
giờ (định quang minh) này là năm Trí Huệ Bổn Nguyên. Sự sáng tỏ và
vô niệm không sanh khởi từ hai che chướng chính là Trí Huệ Bổn
Nguyên như Tấm Gương. Sự tự do không rơi vào những thiên chấp và
chiều kích là Trí Huệ Bổn Nguyên của Bình Đẳng. Biết tất cả những
hiện hữu hiện tượng không mê mờ là Trí Huệ Bổn Nguyên Phân Biệt.‟ ”
Rồi Khenpo ngồi trong tư thế Thư Giãn trong Trạng Thái Tự Nhiên của
Tâm và ra đi.

Ngài ở trong định mà không bỏ thân trong hai ngày. Theo truyền thống,
sau hai tuần, với một nghi lễ trọng thể ngài được thiêu trong một cái
tháp đặc biệt, giữa những dấu hiệu những tia sáng cầu vồng trên bầu
trời, và rồi cái tháp được niêm lại. Sau hai ngày, khi tháp được mở ra để
gom tro, những đệ tử của ngài thấy hàng trăm hạt xá lợi trắng, đỏ, vàng,
xanh từ xương đã cháy. Về sau, họ xây một tháp bằng vàng và giữ gìn
hầu hết xá lợi ở trong đó. Tôi có bốn hạt xá lợi bốn màu này trong một
cái hộp nhỏ, nhưng vào khoảng cùng thời gian khi cái tháp bằng vàng ở
tu viện Dodrup Chen ở Tây Tạng bị hủy hoại, tôi cũng mất cái hộp nhỏ
ấy ở Ấn Độ. Có vẻ như khi thời điểm đến, mọi sự đã giả định ra đi sẽ ra
đi, bằng cách này hay cách khác, dù chúng ở đâu.

THÂN CẦU VỒNG CỦA SODNAM NAMGYAL

Như đã đề cập ở trước, có hai chứng đắc tối thượng về thân thể của
những đạo sư Đại Toàn Thiện thành tựu cao nhất. Cái thứ nhất là sự
chứng đắc Đại Chuyển Hóa (Pho-Ba Ch‟en-Po) thành tựu bởi rất ít
những vị lỗi lạc được biết đến như Vimalamitra, Padmasambhava, và
Chetsun Senge Wangchug, những vị đã chuyển hóa thân xác thành thân
ánh sáng vi tế và sống chứ không chết, xuất hiện bất cứ khi nào thích
hợp. Cái thứ hai là sự chứng đắc Thân Thể Cầu Vồng (Ja-lus) của nhiều
thiền giả Đại Toàn Thiện suốt thời đại của pháp Đại Toàn Thiện ở Ấn
15
Độ và ở Tây Tạng cho đến giữa thế kỷ hai mươi. Khi chết những thiền
sư này, do đã đạt được bản tánh tối hậu qua thực hành Đại Toàn Thiện,
làm tan biến thân xác với một sự phô diễn những ánh sáng và chỉ để lại
móng tay chân và tóc. Thiền giả sau cùng đạt được Thân Thể Cầu Vồng
có sự chứng kiến rõ ràng gây nhiều chú ý vào năm 1952. Ngài là
Sodnam Namgyal (1874?-1952) thuộc bộ tộc Tag-rong trong thung lũng
Yidlhung ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Ngài là cha của Lama quá cố
Gyurtrag (mất 1975), một bạn Pháp thân thiết của tôi. Sau đây là biến cố
được Lama Gyurtrag kể lại cho tôi, và cũng có vài thông tin rút từ những
lời cầu nguyện cho cha bởi Lama Gyurtrag:

Cha tôi là một người thợ săn vào thời tuổi trẻ. Nhưng về sau ông trở nên
rất tín ngưỡng và có thực hành nhiều. Nhưng chúng tôi không biết ông là
một thiền giả Đại Toàn Thiện đã thành tựu. Ông dấu rất kín về việc thiền
định của ông. Ông đã làm tròn 100.000 thực hành Sơ Bộ Năm Phần
trong mười ba lần. Ông đã nhận những giáo huấn thiền định Đại Toàn
Thiện từ thiền sư Jinpa Zangpo, một đệ tử của Khyentse Yeshe Dorje
(1800-?). Hầu hết cuộc đời mình, cha tôi dùng thời gian để tạc những
hình tượng, những thần chú và kinh điển vào đá ở nhiều nơi, chủ yếu ở
Mani Kedgo trong thung lũng Yidl-hung. Ngài rất tầm thường và không
ai mong đợi ngài thành một người đặc biệt, như một yogi chân thật phải
như vậy. Một lần tôi đang nhập thất. Anh tôi đến và nói với tôi: “Cha
hơi bệnh. Anh thấy không có gì trầm trọng, nhưng ông bảo ông sắp
chết.” Rồi sau hai ngày, vào chiều tối ngày bảy tháng tư năm con Rồng
Thủy (1952) Cha chết vào lúc 79 tuổi. Một lama đã khuyên anh tôi rằng
họ cần chăm sóc đặc biệt thân xác cha tôi khi ông chết, nhưng những bà
con của tôi không hiểu điều đó có nghĩa là gì. Thế nên, sau cái chết của
người, họ vội sắp xếp cho cái xác theo cách đối với người thường.
Nhưng họ bắt đầu nhận thấy những ánh sáng cầu vồng và những màn
cầu vồng chung quanh chỗ họ, và cái xác bắt đầu giảm kích thước. Bấy
giờ họ hiểu rằng cha họ đã đạt giác ngộ trong bản tánh tối hậu nhờ thiền
định Đại Toàn Thiện và rằng thân thể thô của người đang tan biến vào
cái thường được biết như là “Sự Tan Biến Vào Thân Thể Cầu Vồng.”

Sau hai ngày (Tôi không nhớ anh ấy nói với tôi bao nhiêu ngày), toàn bộ
xác chết đã tan biến. Tôi vội vã chấm dứt kỳ nhập thất và về nhà. Bấy
giờ mọi thứ đã biến mất và chỉ còn hai mươi móng tay chân và tóc còn
16
để lại trên chỗ đặt xác trước kia. Chúng tôi thu góp những cái còn lại này
và chỉ trừ vài mảnh nhỏ mà chúng tôi giữ cho riêng chúng tôi, chúng tôi
cúng tất cả móng tay chân và tóc cho Jamyang Khyentse Chokyi Lotro
(1893-1959), vì ngài muốn có chúng. Mọi người trong thung lũng đều
nói về cái chết của cha tôi. Nếu một Lama nổi tiếng chết theo kiểu ấy, sẽ
không gây ngạc nhiên, nhưng khi một người cư sĩ tầm thường bày lộ
một thành tựu lớn lao như vậy, tất cả chúng tôi đều sửng sốt. Thật ra, dĩ
nhiên là một đời sống tầm thường là một hỗ trợ lớn lao cho thiền định và
thành tựu. Tên tuổi, danh tiếng và giàu có có thể dễ dàng trở thành
những chướng ngại. Tầm thường khiêm hạ là một ưu thế lớn lao cho một
thiền giả Đại Toàn Thiện, nhưng người bình thường không thấy sự việc
theo cách đó. Họ chỉ bị hấp dẫn và tin vào những tên tuổi trống rỗng, sự
giàu có lừa gạt và những lý luận trí thức kiêu ngạo.

Lama Gyurtrag có một mảnh nhỏ móng chân của cha mình như là một di
vật và ông đã cho tôi một phần rất nhỏ của cái đó.

YUKHOG CHATRALWA, MỘT VỊ THẦY ĐẠI TOÀN THIỆN

Đa số người thường đánh giá quá cao khả năng, trí thông minh và tính
chất của họ bởi vì họ bị bao bọc trong bóng tối vô minh của những cái
bóng ích kỷ của chính họ. Những tham vọng và mong mỏi của họ vượt
quá mức khả năng thực sự của họ có thể cung cấp cho họ. Quan trọng là
thấu hiểu phạm vi khả năng của mình và theo đuổi mục tiêu phù hợp.
Sau đây là tường thuật sự thăm viếng của chúng tôi ở một đạo sư Đại
Toàn Thiện rất nổi tiếng, ngài Yukhod Chatralwa, nhà ẩn sĩ hay khổ
hạnh tên là Choying Rangtrol từ thung lũng Yu. Vị thầy phụ đạo của tôi
là Kyala Khenpo, Chochog (1893-1957) và tôi đến gặp Chatralwa cùng
với người em trai của Khenpo, Kyali Loli và vài người khác.

Năm 1951 chúng tôi đến chỗ ẩn cư gọi là Yagegar, trang trại đẹp đẽ, để
diện kiến Chatralwa, nhà khổ hạnh. Ngài có khoảng hai trăm đệ tử, hầu
hết là nhà sư. Phần đông các đệ tử sống trong những lều và hang nhỏ
vừa với một giường để ngồi và ngủ, trên đó họ có thể ngủ, ngồi, và thiền
định. Gần giường có những lò để nấu trà, một bàn thờ nhỏ với vài cuốn
sách. Nhiều người khó đứng thẳng trong thất của họ. Nhiều đệ tử đang
hành thiền định Đại Toàn Thiện, nhưng đa số vẫn còn trong nghiên cứu
17
và thực hành chung của kinh và tantra và những sơ bộ của Đại Toàn
Thiện, họ được các đệ tử trưởng của Chatralwa dạy. Phần lớn Chatralwa
chỉ đưa cho những chỉ dạy và soi sáng về thiền định và triết học của Đại
Toàn Thiện và chỉ gặp riêng đệ tử, ban cho giáo huấn thiền định theo
những kinh nghiệm của đệ tử. Ngài không thuyết pháp với những đám
đông vì những đệ tử có những nhu cầu thiền định khác nhau. Điều ấn
tượng nhất về nơi ẩn tu này là trong khi mọi đệ tử sống bằng những nhu
cầu đủ sống, nhưng sự bình an, vui tươi, tĩnh lặng, bi mẫn, hài lòng và
năng lực của họ, và những nụ cười trên mặt họ nói lên toàn bộ chuyện
đời và những thành công của họ. Thường thường trừ phi bạn ở lại một
thời gian lâu, Chatralwa sẽ không gặp bạn. Nhưng ngài rất yêu trẻ nhỏ,
và chúng có thể đi vào nhà bất kỳ lúc nào ngài rảnh. Ngài chơi đùa với
chúng và kể chuyện. Ngài đã rất già, có lẽ hơn 80 hay khoảng 90, nhưng
không ai biết tuổi thật của ngài. Thường người ta phải giúp ngài đứng
hay đi vì đầu gối ngài đã yếu; nhưng có những bất ngờ như một lần ngài
chạy theo những trang sách bị gió thổi tung, và không có ai thấy để trả
lời tiếng gọi của ngài. Người ta tin rằng ngài có thể đọc tâm thức của
người khác và ai cũng luôn luôn sợ về tư tưởng của họ khi họ ở gần
ngài. Sau ngày đầu phỏng vấn của thầy phụ đạo Kyala Khenpo và tôi,
Khenpo nói với người em Kyali Loli một số minh giải về thiền định Đại
Toàn Thiện mà thầy đã nhận từ Chatralwa. Hôm sau, trước khi cáo từ
sau buổi phỏng vấn thứ hai, Chatralwa bất ngờ nói với Khenpo: “Chớ cố
gắng tìm ngay người nào để huyên thiên môi miệng.” Điều này làm
mạnh thêm sự tin tưởng và cả e sợ rằng ngài có thấu thị. Và dĩ nhiên
Khenpo hết dám nói những minh giải cho em mình.

Chatralwa sống như một thiền giả độc thân. Ngài có bộ tóc xám thưa;
tóc dài và hơi đóng thành lọn. Tôi nhớ lời ngài: “Thầy tôi, Adzom Drupa
(1842-1924) nói với tôi rằng tôi nên sống một cuộc đời của hành giả mật
thừa, và ngài tiên tri tôi sẽ trở thành một Terton, một người khám phá
kho tàng. Nhưng tôi không muốn lấy vợ, vì nó có thể dẫn đến một cuộc
sống tranh đấu, nhưng cũng không khám phá một Kho Tàng Giáo Lý
mới nào. Thế nên, như một tượng trưng cho sự tuân thủ lời thầy, tôi giữ
bộ tóc dài này như trang phục của một hành giả mật thừa.”

Vì rất khó cho bất kỳ ai để gặp Dodrup Chen Rinpoche Đệ Tam và bởi
vì Chatralwa cũng không bao giờ có dịp may nào để gặp người, ngài đã
18
nhận những minh giải từ Rinpoche qua Terton Sogyal (1856-1926) mà
ngài đã ở lại một thời gian lâu. Chatralwa nói với chúng tôi: “Dĩ nhiên
tôi không bao giờ có dịp may gặp Rinpoche, nhưng tôi đã nhận nhiều
minh giải kỳ diệu từ ngài. Khi tôi ở chỗ của Terton Sogyal, khi nào
Terton trở về sau khi gặp Rinpoche, ngài luôn luôn gọi tôi và chuyển
cho tôi tất cả những giáo pháp và thiền định đã nhận được từ Rinpoche,
hay bất cứ điều gì họ đã bàn luận về những điểm cốt lõi.” Cất cao giọng,
ngài tiếp tục: “Các huynh! Làm sao tôi có thể quên những chỉ dạy vàng
ngọc đó chứ? Tôi đâu có điên!”

Chatralwa có một ngôi nhà lớn tiện nghi với nhiều sách và vài thị giả.
Nếu bạn cho ngài quà tặng hay vật cúng dường, đôi khi ngài nhận hay
gởi chúng cho những công việc tôn giáo, nhưng đôi khi ngài biểu lộ giận
dữ và ném chúng đi. Nhưng nếu bạn đem đến cho ngài một bữa ăn ngon,
đặc biệt là Zhemog, ngài sẽ luôn luôn dùng nó với sự thích thú lớn lao
và sẽ nói ra câu nói nổi tiếng của ngài: “Ồ, cái này xứng đáng bằng hàng
trăm con ngựa và bò.”

Có một câu chuyện tức cười về ngôi nhà lớn của Chatralwa. Một hôm có
một Lama có tiếng tên là Rinchen Targye, đã được Dodrup Chen Đệ
Nhất tiên tri là một môn đồ lớn, có một cuộc tham hỏi Chatralwa. Vị
Lama này vào phòng Chatralwa và nhìn chung quanh thay vì ngồi xuống
nói chuyện với Chatralwa. Chatralwa gay gắt hỏi: “Ông mất cái gì?” Vị
Lama trả lời: “Tôi nghe ngài là một Chatralwa, một nhà khổ hạnh.
Nhưng ngài có đủ để có thể gọi là một người giàu có. Làm sao người ta
có thể gọi ngài là một Chatralwa?” Chatralwa trả lời: “Chatralwa nghĩa
là người nào đã cắt đứt những tham luyến xúc tình vào những sự vật thế
gian hay vào đời sống. Nó không có nghĩa là nghèo và khao khát chúng
như nhiều người vẫn làm.” Chatralwa luôn luôn thích người thẳng thắn
và táo bạo.

Chúng tôi ở Yagegar mười tám ngày. Kyala Khenpo và tôi gặp
Chatralwa nhiều lần. Chatralwa cho Khenpo những trả lời rất chi tiết, và
sau mỗi câu trả lời ngài kể một câu chuyện lý thú thời quá khứ trước khi
tiếp tục câu hỏi khác. Tôi không hiểu nhiều những giáo lý chính yếu
nhưng thích thú những câu chuyện. Nhìn vào ngài cho người ta cảm giác
ngài rất xưa cổ, không tuổi tác, thông thái, tự nhiên và bao la. Tôi cứ
19
nghĩ đi nghĩ lại: “Ồ, Kun-khyen Jigmed Lingpa phải giống như vị Lama
này.” Vào lúc đó tôi không nghĩ nhiều về ý nghĩa khác thường của nó,
nhưng về sau, và đến bây giờ khi nào tôi cố gắng hiểu, tôi cũng không
tìm ra câu trả lời nào là tại sao ngài đã để cho tôi tham dự những cuộc
tham hỏi rất bí truyền ấy. Vì tôi đã được công nhận như một Tulku của
một đại Lama mà Chatralwa rất kính trọng, hay vì tôi chỉ là một đứa trẻ
mười hai tuổi? Tôi nghĩ lý do không phải là hai chuyện ấy. Bất cứ khi
nào tôi nghĩ về ngài và sự hiện diện của ngài, nó vẫn còn đem lại một
bình an lớn lao trong tôi. Đấy ắt là lý do thật sự để vị đại Lama có thấu
thị này cho phép tôi có mặt.

Hai ngày trước khi chúng tôi ra đi, Khenpo thu xếp cho người em, Kyali
Loli, có một cuộc tham hỏi với Chatralwa. Loli không phải là một học
giả cũng không phải là một thiền giả đã hoàn thành. Dầu sao, ông cũng
đã nhận những giáo lý Đại Toàn Thiện và đã thực hành chúng sau khi
làm tròn những thực hành và những sơ bộ chung. Nhưng khi ông gặp
Chatralwa, có sự thất vọng cho ông. Không phải vì ông không làm tốt sự
thiền định Đại Toàn Thiện của mình, mà thậm chí ông không thể sẵn
sàng bắt đầu nó.

Vào ngày đó, một trong những ngày quan trọng nhất của đời mình,
Kyali Loli đến gặp Chatralwa. Loli là một người rất can đảm và không
có gì làm ông bối rối. Thế nên Loli giải thích sự thực hành của mình, đặc
biệt liên quan đến những kinh nghiệm Đại Toàn Thiện của mình, và ông
cầu thỉnh những giáo huấn và minh giải. Chatralwa không có nhận xét
nào về sự trình bày của Loli, nói rằng:

Trước hết anh cần phải niệm với lòng sùng mộ danh hiệu Phật Amitabha
100 lần mỗi ngày, rồi tăng lên 200 và v.v.... Một ngày nào tới lúc mà anh
làm bất cứ việc gì, anh sẽ luôn luôn được hợp nhất với sự biểu lộ của
danh hiệu Phật và với cảm giác sự hiện diện của Phật. Nếu điều đó xảy
ra, khi anh chết, anh sẽ chết với sự biểu lộ của danh hiệu Phật và những
cảm giác có sự hiện diện của Phật. Bấy giờ do công đức của anh và
những ban phước của Phật, những tri giác sẽ biểu lộ như là cõi Phật, và
tương lai của anh sẽ bình an và hạnh phúc. Rồi anh sẽ được trang bị để
phụng sự những người khác.

20
Rồi ngài viết ra vài dòng, một trích dẫn từ một kinh mở bày những công
đức và lợi lạc của sự tụng niệm danh hiệu Phật Amitabha.

Kyali thất vọng vì ông không có giáo lý Đại Toàn Thiện nào, và điều đó
làm tan vỡ trái tim kiêu hãnh của ông. Nhưng giờ đây nghĩ lại, tôi có thể
hiểu những giáo lý này hoàn hảo cho ông như thế nào, và sẽ lợi lạc cho
ông hay bất kỳ ai dùng những giáo huấn này như thế nào. Quan trọng
cho vị thầy là tốt lòng, thẳng thắn, chắc chắn và sáng tỏ và cho đệ tử là
thực tiễn, cẩn thận, nhẫn nại và rộng mở, như một câu nói:

“Có Đại Toàn Thiện như những giáo lý thì chưa đủ,
Người ấy cần trở thành Đại Toàn Thiện.”

CUỘC ĐỜI CỦA KUNKHYEN LONGCHEN RABJAM

Trong những đạo sư Dzogpa Chenpo (Đại Toàn Thiện) từ thời Guru
Padmasambhava và Vimalamitra (thế kỷ thứ 9), Kun-khyen Longchen
Rabjam (1308-1363) là người lỗi lạc nhất, thiền giả, triết gia và tác giả
vĩ đại nhất. Ngài sinh trong một làng tên là Todtrong, trong thung lũng
Tra miền Yoru – một trong hai miền vùng trung Tây Tạng, Yoru và
Wuru – vào ngày mười tháng mười một năm con Khỉ Thổ. Cha ngài, đạo
sư Tensung là con một nhà hiền triết Nyingma tên là Lhasung thuộc bộ
tộc Rog. Lhasung sống đến một trăm lẻ năm tuổi, là cháu đời thứ hai
mươi lăm của Gyalwa Chog-yang, một trong hai mươi lăm đệ tử chánh
của Guru Padmasambhava. Mẹ của Longchen Rabjam là Sodnamgyen
của bộ tộc Drom.

Những điều mầu nhiệm đi theo với sự sanh ra của ngài. Khi ngài ở trong
thai, mẹ ngài mộng thấy hai mặt trời trên đầu một con sư tử khổng lồ
chiếu sáng toàn thế giới và tan vào bà. Lúc ngài được sinh ra nữ hộ pháp
Namtru Remati xuất hiện trước mẹ ngài trong hình thức một người đàn
bà đen hoa một cây gươm. Ôm đứa bé trong tay, nữ hộ pháp nói: “Ta sẽ
bảo vệ nó.” Bà giao lại cho mẹ ngài ẵm và biến mất. Một ngày nọ khi
mẹ ngài đang làm việc ngoài đồng, một cơn mưa đá rơi xuống và bà
chạy về nhà, quên đứa bé đang ở ngoài đồng. Khi nhớ ra, bà đi tìm nó,
nhưng đứa bé đã biến mất. Bà bắt đầu kêu khóc và người đàn bà đen lại
xuất hiện, với đứa bé trong tay và giao nó lại cho bà mẹ.
21
Theo nhiều lời tiên tri, một trong những đời trước của Longchen Rabjam
là Công Chúa Premasal, con của Vua Thrisong Deutsen (790-858). Khi
công chúa chết, Guru Padmasambhava đã giao phó cho công chúa sự
trao truyền Nyingthig, những giáo lý Tinh Túy Sâu Xa Nhất của
Dzogchen.

Trong số những cuộc đời của Công Chúa Premasal, sự tái sanh trực tiếp
trước Longchen Rabjam là Pema Ledreltsal (1291?-1319?), người khám
phá những giáo lý Nyingthig. Chúng được Guru Padmasambhava giao
phó cho Công Chúa Premasal như là một Terma (Kho tàng Pháp được
khám phá) và sau được biết với tên là Khadro Nyingthig.

Từ thuở nhỏ ngài đã có những phẩm tính cao cả của một Bồ tát, như là
niềm tin, lòng bi và trí thông minh phi thường. Khi lên năm, ngài hoàn
thiện những thiện xảo về đọc và viết. Khi bảy tuổi, cha ngài ban cho
ngài những quán đảnh, giáo huấn và tu hành những nghi thức và thiền
định của các tantra và Terma của Nyingma, như là Kagyed Desheg
Dupa. Ngài cũng được dạy y học và chiêm tinh học. Khi lên tám tuổi,
mẹ ngài mất.

Ngài nhớ cả hai bản văn “Tám Ngàn” và “Hai Mươi (hay hai mươi lăm)
Ngàn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật” sau khi đã đọc chúng một trăm lần.
Khi mười một tuổi, cha ngài mất. Năm mười hai tuổi ngài xuất gia tại
chùa Samye với Khenpo Samdrup Rinchen và Lobpon Lha Kunga, và
được ban pháp danh Tshulthrim Lodro. Ngài thông thạo Vinaya (Luật)
và dạy chúng vào năm mười bốn tuổi. Năm mười sáu tuổi ngài nhận
nhiều giáo lý của Tantra Mới (phái Tân dịch) từ Trashi Rinchen và
những vị khác. Từ mười chín tuổi ngài nghiên cứu theo lối học giả
những bản văn gồm bảy luận về luận lý học của Dharmakirti, năm bản
văn của Maitrinatha/Asangha, và nhiều bản văn Trung Quán và Bát Nhã
ở đại học tu viện Sangphu Neuthog trong sáu năm với nhiều đại giáo sư
trong đó có Lobpon Tsengongpa, vị nắm giữ chức trụ trì đời thứ mười
lăm, và Latrenpa Chopal Gyaltshen, vị nắm giữ chức trụ trì đời thứ mười
sáu của phái Lingtod và Lingmed.

22
Sangphu được xây dựng năm 1073 bởi Ngog Legpa‟i Sherab, một trong
ba đệ tử chính của Atisha. Nó là trung tâm của Ngog Loden Sherab
(1059-1109), dịch giả nổi tiếng của thời kỳ “Hoằng Pháp Về Sau.”
Trong hàng thế kỷ nó là một trong những cơ sở học viện quan trọng nhất
ở Tây Tạng, nhưng thời gian gần đây những sự nghiên cứu nhờ đó nó
được nổi tiếng đã bị gián đoạn trừ ở trại mùa hè của những học giả, và
những học trò phái Gelug. Khi Khyentse Wangpo (1820-1892) thăm
Sangphu vào khoảng 1840, ngài thấy nó đã trở thành một cái làng của
người đời với vài đồ vật có giá trị tôn giáo. Sangphu và Samye là hai cơ
sở tu viện, thêm nơi ẩn cư của Đạo Sư Kumazaraja, là những nơi Long-
chen Rabjam chủ yếu nhận được sự giáo dục và tu hành của mình. Với
dịch giả Panglo Lodro Tenpa (1276-?), ngài học tiếng Sanskrit, thơ ca,
luận văn, kịch, năm kinh chính và Abhidharma. Ngài có những thị kiến
thanh tịnh về nhiều hóa thần bổn tôn, như Manjusri, Sarasvati,
Vajravarahi, và Tara, như một kết quả của sự thiền định về những
Sadhana của các vị. Ngài chu du một vòng học hỏi hàn lâm ở nhiều cơ
sở nghiên cứu khác nhau, và vì mức độ học vấn của ngài, ngài trở nên
nổi tiếng với những danh hiệu danh dự, Samye Lungmangpa (Vị từ chùa
Samye, Người Làm Cho Nhiều Kinh Điển Được Tôn Cao) và Longchen
Rabjam (Cái Sâu Thẳm và Vô Biên), hay Tiến sĩ về Siêu Hình học Sâu
Thẳm.

Ngài lang thang nhiều nơi và học với nhiều học giả nổi tiếng. Ngài nhận
những giáo lý của những Kinh, Mayajala và Cittavarga, và ba phần
chính của những tantra Cổ từ đạo sư Zhonu Dondrub của (tu viện?)
Danphag, Nyonthingmawa Sangye Trag-od và những vị khác. Từ
khoảng hai mươi đạo sư, gồm Sangye Tragpa của Nyothing, Zhonu
Gyalpo, Zhonu Dorje, Karmapa Ranchung Dorje (1284-1334), Sonam
Gyaltshen (1312-1375) phái Sakya và những vị khác, ngài nhận tất cả
những giáo lý và trao truyền của những tantra cả cổ và tân của nhiều
dòng đang được dạy ở Tây Tạng vào thời bấy giờ.

Ngài cảm thấy không thích tính tình thô lỗ và ghen tỵ của một số nhà sư
từ tỉnh Kham ở Sangphu, học viện chính của ngài, và bỏ đi. Trong tháng
thứ năm của tám tháng nhập thất trong tối ở một hang ở Gyama‟i
Chogla, ngài có một thị kiến vào lúc bình minh. Ngài đang đứng trên bờ
cát của một con sông, từ đó ngài có thể thấy vài ngọn đồi. Ngài nghe
23
tiếng hát đi cùng với âm nhạc. Nhìn về hướng có âm thanh, ngài thấy
một phụ nữ mười sáu tuổi mặc đồ thêu kim tuyến, trang sức bằng vàng
và ngọc lam và mang một mạng vàng che mặt. Bà cỡi một con ngựa có
yên da và chuông. Ngài cầm lấy phần chót của áo bà và cầu xin: “Ôi,
Đức Bà Cao Quý (tức là Tara), xin từ bi chấp nhận con.” Bà đặt vương
miện bằng ngọc quý lên đầu ngài và nói: “Từ giờ trở đi, ta sẽ luôn luôn
cho con những ban phước và những thần lực.”

Vào lúc đó thân tâm ngài chìm trong một trạng thái thiền lạc phúc, sáng
tỏ và thoát khỏi những ý niệm. “Tôi đã không tỉnh dậy trong một thời
gian lâu!” như ngài nói. Dù ngài thức dậy vào bình minh, ngài đã ở trong
cùng trạng thái ấy trong suốt ba ngày (theo bản TTD 9b/1: một tháng).
Nó thiết lập nhân duyên cho sự gặp gỡ của ngài với những giáo lý
Nyingthig. Sau cuộc nhập thất ngài ban quán đảnh Vairocana cho
khoảng ba mươi người đàn ông và đàn bà. Có thể đó là sự truyền pháp
đầu tiên của ngài. Sau đó ngài đi đến tu viện Samye.

Năm hai mươi bảy tuổi, như những thần bổn tôn của ngài đã tiên tri,
ngài đi gặp Rigdzin Kumaradza (1266-1343), vị giữ sự truyền thừa vĩ
đại của Nyingthig tổng quát, và đặc biệt những giáo lý Nyingthig được
truyền ở Tây Tạng bởi Vimalamitra, có tên là Sangwa Nyingthig hay
Vima Nyingthig.

Đạo sư sống ở Yartod Kyam với các đệ tử trong một trại có khoảng bảy
mươi chỗ ở. Đạo sư vui vẻ tiếp đãi Longchen Rabjam và gợi ý cho ngài
với lời tiên tri rằng ngài sẽ trở thành người giữ dòng truyền Nyingthig.
Đạo sư nói: “Hồi đêm ta mộng thấy một con chim kỳ diệu, một con
chim thiêng, với một đàn một ngàn chim. Chúng đến và đem những bản
văn của ta đi khắp mọi hướng. Đó là một dấu hiệu rằng con sẽ trở thành
một người giữ sự truyền thừa những giáo lý của ta. Ta sẽ cho con những
giáo lý trọn vẹn.”

Longchen Rabjam rất vui mừng bởi sự tiếp đón và những lời của đạo sư.
Nhưng ngài không có tài sản vật chất nào để đóng góp vào cho cộng
đồng, mà đây là một đòi hỏi để được cho ở. Ngài buồn bã, nghĩ rằng,
“Ta sẽ là người độc nhất phải từ bỏ Lama bởi vì không có một sự đóng
góp theo pháp. Ta phải rời bỏ thung lũng này trong đêm trước lúc mặt
24
trời lên, vì sẽ nhục nhã khi bỏ đi lúc ban ngày trước mắt mọi người.”
Đạo sư đọc tư tưởng của Longchen Rabjam bằng tha tâm thông.

Lúc gần sáng khi Longchen Rabjam thức dậy, có hai người đến từ đạo
sư, nói rằng, “Bậc Pháp Vương muốn ông đến gặp ngài.” Đạo sư ban trà
cho ngài và nói với những người trông nom cộng đồng: “Ta trả sự đóng
góp theo pháp đối với cộng đồng nhân danh Geshe Samyepa (Longchen
Rabjam). Ông ta sẽ là người tốt nhất trong tất cả các đệ tử của ta.” Trong
năm đó, ngài nhận những quán đảnh truyền pháp và giáo huấn của giáo
lý Nyingthig của dòng Vimalamitra. Năm sau, thêm vào những truyền
pháp và giáo huấn khác, ngài nhận những trao truyền tất cả những tantra
và những giáo huấn khác của ba phạm trù Dzogpa Chenpo (Đại Toàn
Thiện).

Khi học với Rigdzin Kumaradza, Longchen Rabjam sống trong những
hoàn cảnh nghèo khổ khắc nghiệt. Trong mùa đông cực kỳ lạnh lẽo, ngài
chỉ có một cái bao rách dùng như nệm và mền. Trong hai tháng ngài
sống bằng ba lít bột và hai mươi mốt viên thuốc Ngulchu cỡ bằng hạt
đậu. Để chiến đấu chống lại tham luyến, Lama dạy phải dời trại từ vùng
đất không người này sang vùng khác. Trong chỉ một mùa xuân, họ dời
trại chín lần, và điều ấy gây khó nhọc lớn lao cho Longchen Rabjam.
Khi ngài vừa ở yên, thì đến lúc phải dời trại. Chính trong những hoàn
cảnh như vậy mà ngài đã nhận toàn bộ giáo lý sâu thẳm nhất của
Nyingthig từ đạo sư, như nước đổ từ một bình chứa vào một cái khác.
Và bằng cách thực hành ngày đêm, ngài đã thực hiện sự chứng ngộ như
nhau với thầy mình. Ngài được trao quyền là người nối pháp của đạo sư
và là người giữ dòng truyền thừa cho những đệ tử tương lai.

Như ngài hứa với vị Lama của mình, ngài thực hành những giáo lý của
đạo sư trong nhiều chỗ thiêng liêng khác nhau trong bảy năm nhập thất ở
Chimphu của Samye. Ngài thấy những thị kiến thanh tịnh về những biểu
lộ An bình và Hung nộ của Guru Padmasambhava, Vajrasattva, Tara và
những Hóa Thần Bổn Tôn Gốc. Những hộ pháp nguyện phụng sự ngài
và đáp ứng những mong muốn của ngài. Với những hóa thần bổn tôn
của Tám Đại Mạn Đà La, ngài có thể giao tiếp như giữa người với
người.

25
Thỉnh thoảng ngài thăm viếng Rigdzin Kumaradza và nhận những soi
sáng về những giáo lý và về sự tu hành của ngài. Ngài làm hài lòng thầy
mình bằng những đồ cúng dường là sự thực hành Pháp; những chứng
ngộ về cái thấy tiến bộ trong thiền định, và trí huệ biết tất cả những chủ
đề có thể biết. Ngài cũng cúng dường mọi tài sản vật chất của ngài bảy
lần. Ngài tự tả những chứng đắc của ngài trong Lịch sử của Lama
Yangtig:

Không còn nữa sự tham luyến sanh tử trong tôi. Tôi đã giải thoát khỏi
chuỗi những hy vọng và lo sợ. Tôi luôn luôn ở trong cái thấy và sự tham
thiền Đại Toàn Thiện Tuyệt đối.

Khi ngài cầu nguyện và cúng dường cho tượng Chowo ở Lhasa, ngài
thấy một ánh sáng vọt ra từ trán của bức tượng và tan vào trong trán
ngài. Việc đó khiến cho ngài nhớ lại những đời trước của ngài là một
học giả ở núi Linh Thứu ở Ấn Độ và cũng ở xứ Li, và hiểu biết kinh điển
của ngài từ những thời đó thức dậy. Nó làm rộng thêm cái học của ngài
hơn nữa. Năm ba mươi mốt tuổi, ngài ban những quán đảnh và giáo
huấn Nyingthig cho một số đệ tử lần đầu tiên ở Nyiphu Shugseb.

Bấy giờ đệ tử Thiền giả Odzer Gocha cúng dường ngài những bản văn
của Khadro Nyingthig mà ông tìm ra sau một cuộc tìm kiếm rất vất vả.
Cùng lúc đó, nữ hộ pháp Shenpa Sog-drubna cũng đưa cho ngài một bản
in của bản văn đó, nó có ý nghĩa quan trọng. Khadro Nyingthig là những
giáo lý Nyingthig được truyền ở Tây Tạng bởi Guru Padmasambhava
cho Lhacham Pemasal (thế kỷ 9) và rồi được cất dấu như một Terma và
được khám phá từ một ngọn núi ở thung lũng Danglung Thramo bởi
Pema Ledreltsal, tái sanh mới vừa đời trước của Longchen Rabjam.

Năm sau, ba mươi hai tuổi, ngài ban cho tám đệ tử may mắn những quán
đảnh truyền pháp và giáo lý giữa những biểu lộ, thị kiến và kinh nghiệm
kỳ diệu ở Chimphu Rimochen. Nữ hộ pháp Ekadzati cho những tiên tri
qua một đệ tử nữ. Vừa nhảy múa, Longchen Rabjam hát bài ca kim
cương:

26
Hỡi những thiền giả, hoan hỷ và hạnh phúc biết bao!
Đêm nay, trong cõi Phật không gì sánh,
Trong chính thân thể mỗi người, cung điện của những thần Bình an và
Hung nộ,
Mạn đà la của chư Phật, tánh sáng tỏ và tánh không,
đã khai triển.
Phật không ở bên ngoài mà hiện hữu ở bên trong....
Đấy là nhờ lòng tốt của Lama.
Lama không ở ngoài mà trụ ở bên trong,
Lama của sự thanh tịnh bổn nguyên và hiện diện tự nhiên
Trụ trong trạng thái của sáng tỏ và tánh không,
thoát khỏi mọi nắm bắt....
Hỡi những người tham thiền! Tâm các vị có trụ một mình?
Chớ có giữ những tư tưởng của các người trong chính các người, mà
hãy để cho chúng đi bất cứ nơi đâu theo ý chúng.
Vì tâm là tánh không, dù nó đi hay ở,
Bất cứ cái gì khởi lên là trò chơi của trí huệ....
Do biết tiến trình của năm ánh sáng bên trong,
Những ánh sáng bên ngoài của mặt trời mặt trăng khởi lên liên tục,
Do kết thúc những tư tưởng bên trong ngay tại gốc của chúng,
Những hoàn cảnh tốt xấu bên ngoài khởi lên như đại lạc.
Do tăng cường những hạt tinh túy bên trong,
Những đám mây Dakini bên ngoài luôn luôn nhóm tụ.
Do giải thoát những nút thắt bên trong của những kinh mạch ánh sáng,
Những nút thắt bên ngoài của người nắm bắt và cái được nắm bắt được
giải thoát.
Tôi đi đến trạng thái của sáng tỏ và đại lạc.
Hỡi các anh chị em kim cương, đây là hạnh phúc và hoan hỷ.
Trong những thị kiến Guru Padmasambhava ban cho sự trao truyền
Khadro Nyingthig. Ngài ban cho Longchen Rabjam pháp danh Trimed
Odzer và Yeshe Tshogyal ban cho pháp danh Dorje Zijid.

Ở Chugpotrag, gần D‟oi Choten của Zurkhardo, sau khi cử hành một lễ
cúng Tshog, ngài khai thị những giáo lý Khadro Nyingthig. Đêm đó,
ngài kinh nghiệm trạng thái thiền sáng tỏ an trụ trong trạng thái thanh
tịnh bổn nguyên, Pháp thân, biểu lộ năng lực của Pháp thân là Báo thân,
và phóng sự sáng tỏ của nó ra bên ngoài, tức là Hóa thân, bấy giờ ngài
27
khám phá ra và ghi lại Khadro Yangtig như là Kho Tàng Pháp từ Tâm
(dGongs-gTer), những bản văn bí truyền phụ vào Khadro Nyingthig.

Khi đang viết Khadro Yangtig, ngài có những thị kiến về Guru
Padmasambhava, Yeshe Tshogyal và Yudronma. Đặc biệt, Yeshe
Tshogyal, phối ngẫu của Guru Padmasambhava đã hiện diện trong bảy
ngày, ban cho những nhập môn và sự trao truyền ủy thác từ tâm (gTad-
zGya) về những dấu hiệu, ý nghĩa và những thí dụ của Khadro
Nyingthjg. Dù ngài khám phá hạt giống của bản văn này ở Chimphu,
ngài thực sự ghi lại nó ở Kangri Thodkar, và như thế lời kết từ nói rằng
ngài viết nó ở Kangri Thodkar. Dù ngài là hiện thân của Pema
Ledreltsal, người khám phá Khadro Nyingthig và ngài cũng nhận những
trao truyền từ Guru Pamasambhava và Yeshe Tshogyal ngay trong đời
này, ngài đã nhận sự trao truyền từ Sho‟i Gyaltse Legpa (1290-1366), đệ
tử trực tiếp của Pema Ledreltsal, để đặt một gương mẫu cho những
người theo học đời sau về sự quan trọng của việc nhận những trao truyền
thích đáng. Có những Kho Tàng Pháp từ Đất dành cho ngài khám phá
nhưng ngài từ chối, nói rằng, “Tôi đang mở cánh cửa Kho Tàng Pháp
của sự sáng tỏ bên trong, không cần Kho Tàng Pháp từ những vết nứt
của núi đá.”

Rồi ngài đến Ogyen Dzong Odzer Trinkyi Kyedmo‟i Tshal ở Kangri
Thodkar (Thành Oddiyana trong Động Mây Sáng Chói tại Núi Đỉnh
Tuyết Phủ), và chỗ ẩn tu này trở thành nơi ở chính của ngài. Ở đây ngài
khám phá và tạo hầu hết những Terma và tác phẩm nổi tiếng của ngài,
gồm khoảng hai trăm bảy mươi luận văn. Nhưng không may, nhiều tác
phẩm của ngài đã mất. Longchen Rabjam tả Kangri Thodkar bằng
những lời sau đây:

Nó nằm ở đông bắc chùa Trashi Gephel của Onkyangdo. Có vẻ quả núi
này được trang hoàng bằng một cái bờm tuyết và trắng như màu trăng
vào thời trước. Nhưng với thời gian, đỉnh của nó bây giờ trang hoàng
với đá và khuôn mặt nó phủ cỏ thuốc và những khe nước sạch. Hương
thơm dịu dàng của hoa và cỏ thuốc tỏa ra. Trên phía nam núi, giữa một
rừng cây là Ogyen Dzong (Thành Oddyana), hang động của những hiền
nhân đã được Guru Padma ban phước, vươn ra như cổ một con công.

28
Theo yêu cầu của thiền giả Odzer Gocha, ngài viết lại năm mươi lăm
luận văn của Khadro Yangtig, những bản văn bổ sung cho Khadro
Nyingthig, như những Kho Tàng Pháp từ Tâm. Khi những bản văn được
viết lại, bầu trời thường trực đầy những ánh sáng cầu vồng, và những
phô bày huyền thật kỳ diệu của những Dakini có thể được mọi người
hiện diện nhìn thấy. Longchen Rabjam thấy Vimalamitra trong những
thị kiến thanh tịnh và nhận những ban phước, trao truyền và tiên tri. Do
Vimalamitra cảm ứng, ngài viết Lama Yangtig trong ba mươi lăm luận
văn, như là một bản văn hỗ trợ cho Vima Nyingthig. Ngài cũng viết
Zabmo Yangtig, một bình giảng về cả hai Nyingthig. Những đức Phật,
bổn tôn, vị thầy và những hộ pháp, cũng như các hóa thần bổn tôn An
bình và Hung nộ, những Bổn tôn của Tám Đại Mạn Đà La, Guru
Padmasambhava và Vimalamitra xuất hiện đều đặn trước ngài, ban cho
những ban phước, và truyền cảm hứng cho ngài viết những bản văn rất
mật truyền này. Trong nhiều lúc, những đệ tử của ngài thấy những hộ
pháp trong phòng ngài. Ekajati, Vajrasadhu và Rahula thường sửa soạn
giấy và mực cho ngài viết.

Một số công trình học giả và thiêng liêng chính yếu của ngài là:

A. Dzodchen Dun, Bảy Đại Kho Tàng:

1. Yidzhin Rinpoche‟i Dzod, hai mươi hai chương, và tự bình giảng,


Pema Karpo, với những luận văn kết hợp. Một tổng quan về toàn bộ
giáo lý Đại thừa Phật giáo, soi sáng những đường lối nghiên cứu, phân
tích và tu hành trong Đại thừa và Kim Cương thừa.

2. Mengag Rinpoche‟i Dzod. Một luận văn dùng những bộ khác nhau
của sáu bộ phận cấu thành để tổng lược những kinh và tantra Phật giáo,
đặc biệt tinh túy của con đường và quả của Đại Toàn Thiện trong tính
toàn thể của chúng trong hình thức những giáo huấn đạo đức, triết học
và thiền định.

3. Choying Rinpoche‟i Dzod, mười ba chương với tự bình giảng, Lungki


Terdzod. Một giải thích những giáo lý sâu xa và rộng lớn về nền tảng,
con đường và quả của ba phạm trù chính của Đại Toàn Thiện, gọi là
Semde, Longde và Mengagde, đặc biệt là Longde.
29
4. Trubtha Dzod trong tám chương. Một giải thích nhiều quan điểm triết
học của mọi thừa kinh và tantra Phật giáo.

5. Thegchog Dzod trong hai mươi lăm chương. Bình giảng ý nghĩa về
Mười Bảy Tantra và Một Trăm Mười Chín Luận Văn Giáo Huấn của
Mengagde. Nó trình bày một dải rộng giáo lý Phật giáo từ sự biểu lộ của
vị thầy tuyệt đối, Ba Thân, đến sự hoàn thành quả cuối cùng tự nhiên
thành tựu của thực hành con đường Đại Toàn Thiện, bao gồm Thodgal
(Tiếp Cận Trực Tiếp). Có nói bản văn này được viết để đáp ứng cho
những nguyện vọng của Rigdzin Kumaradza vào lúc chết của ngài.

6. Tshigton Dzod trong mười một chương. Một tổng lược của Thegchod
Dzod giải thích những điểm quan yếu của thực hành. Nó bắt đầu với một
diễn tả cái nền tảng và kết thúc với quả, trạng thái giải thoát tối hậu.

7. Nelug Dzod trong năm chương với tự bình giảng. Nó giải thích nghĩa
tối hậu của tất cả ba phần của Đại Toàn Thiện.

B. Ngalso Korsum, Ba Chu Trình về Thư Giãn. Ngalso Korsum gồm


bản văn gốc, ba tổng lược, gọi là “vòng hoa”, ba tự bình giảng, gọi là
“cỗ xe”, và ba “bình giảng ý nghĩa” hay Những giáo huấn về Thực hành,
toàn bộ mười lăm luận văn:

1. Semnyid Ngalso, bản văn gốc trong mười ba chương, tổng lược của
nó, Kunda‟i Thengwa (đã mất); một tự bình giảng về bản văn gốc,
Ngeton Shingta Chenmo, một tổng lược của tự bình giảng, Pema
Karpo‟i Threngwa, và giáo huấn về thực hành, Changchub Lamzang.
Semnyid Ngalso giải thích mọi giai đoạn của con đường, sự bắt đầu,
chặng giữa và kết thúc của những giáo lý kinh và tantra.

2. Gyuma Ngalso, bản văn gốc trong tám chương; tổng lược của nó,
Mandara‟i Phrengwa; tự bình giảng, Shingta Zangpo; và giáo huấn về
thực hành, Yidzhin Norbu. Bản văn này là một giáo huấn về đoạn dứt
những trói buộc với những hiện hữu hiện tượng bằng những giáo lý về
tám thí dụ như huyễn.

30
3. Samten Ngalso, bản văn gốc trong ba chương; tổng lược của nó,
Pundarik‟i Threngwa, tự bình giảng của nó, Shingta Namdag; và giáo
huấn về thực hành, Nyingpo Chuddu. Bản văn là một giáo huấn về con
đường sâu xa của nhập định, trí huệ tự nhiên tự hữu. có hai bản văn phụ
thêm, một tổng lược của Ngalso Korsum có tựa đề Legshed Gyalso và
một bản mục lục tên là Pema Tongden. Ba tự bình giảng về Ngalso
Korsum cũng được biết với tên là Shinga Namsum, Ba Cỗ Xe.

C. Rangtrol Korsum, Ba Chu Trình cho Giải Thoát Tự Nhiên.

Chúng là những “bình giảng ý nghĩa” về những giáo huấn phần Semde
của Đại Toàn Thiện.

1. Semnyid Rantrol, Tâm Giải Thoát Tự Nhiên trong ba chương và một


bình giảng ý nghĩa hay giáo huấn về thực hành có tựa đề Lamrim
Nyingpo (Những bản dịch của hai bản văn này gồm trong sách này).

2. Chonyid Rangtrol trong ba chương, và một giáo huấn về thực hành có


tựa đề Rinchen Nyingpo.

3. Nyamnyid Rangtrol trong ba chương, và một giáo huấn về thực hành


có tựa đề Yidzhin Nyingpo.

D. Yangtig Namsum, Ba Tinh Túy Bên Trong. Nó chứa đựng những


điểm quan yếu của những giáo lý bí truyền Mengagde, cái cao nhất của
ba phần của Đại Toàn Thiện. Trong những bản văn này nhấn mạnh đặc
biệt vào tu hành Thodgal.

1. Lama Yangtig hay Yangzab Yidzhin Norbu gồm ba mươi lăm luận
văn. Nó cô đọng và giải thích chủ đề bao la của Bốn Bộ Giáo Lý Bí
Truyền của Vima Nyingthig và Một Trăm Mười Chín Luận Văn của
Giáo Huấn của Mengagde của Đại Toàn Thiện. Bốn Bộ Giáo Lý Bí
Truyền là Seryig Chen, Yuyig Chen, Dungyig Chen và Zang-yig Chen
với Phrayig Chen.

31
2. Khadro Yangtig gồm năm mươi lăm luận văn. Trong đời trước của
Longchen Rabjam như là Pema Ledreltsal, ngài có thẩm quyền về những
bản văn của Khadro Ningthig. Trong đời này ngài nhận những trao
truyền và chứng ngộ những giáo lý Khadro Nyingthig, và viết những
bản văn tựa đề Khadro Yangtig về Khadro Nyingthig.

3. Zabmo Yangtig là bình giảng chi tiết và sâu xa nhất về cả hai Vima
Nyingthig và Khadro Nyingthig.

E. Munsel Korsum, Ba Chu Trình về Xua Tan Bóng Tối.

Ba bản văn này là những bình giảng về Guhyamayajala-tantra theo


những quan điểm của Nyingthig.

1. Chidon Yidkyi Munsel,


2. Dudon Marig Munsel,
3. Drelwa Chogchu Munsel.

Ngài đã đạt sự Toàn Thiện của Tánh Giác Bổn Nhiên qua con đường bí
mật của Tiếp Cận Trực Tiếp (Thod-rGal), trạng thái toàn thiện tự nhiên
của tánh sáng tỏ của Đại Toàn Thiện.

Năm bốn mươi hai tuổi, hợp đúng với một số tiên tri được Vimalamitra
ban cho trong một thị kiến thanh tịnh, ngài trùng tu chùa Zha Pema
Wangchen ở Drada trong vùng Wuru. Ngôi chùa này được xây vào thế
kỷ thứ chín bởi Nyang Tingdzin Zangpo theo lệnh của vua Thrisong
Deutsen để bảo vệ khỏi những cuộc xâm lăng của “những ngoại đạo”
nước ngoài. Ngài cũng nhận ra chùa này như ngôi chùa đã được tiên tri
trong Langri Lungten trong Kajur, “sự hiện diện thiêng liêng của xứ
Zhva.” Ngài khám phá đủ vàng để chứa đầy một Gutse (một bình chứa
dành cho nghi lễ) ở Samye, và với nó ngài có tiền để trùng tu. Mỗi ngày
một cậu bé với bông đeo tai lam ngọc giúp nhóm xây dựng, nhưng đến
bữa ăn thì không thấy. Nhóm người làm nghi ngờ và để ý trông chừng
nó. Khi họ ngừng công việc họ thấy nó biến mất vào bức tường và họ
nói lại với ngài. Ngài bảo đó là Vajrasadhu đến giúp họ. Khi họ đào,
nhiều ma quỷ và lực lượng xấu thoát lên mặt đất và bay xung quanh với
một cơn mưa đất đá. Mọi người chạy thục mạng. Với năng lực thiền
32
định, ngài nhảy múa với những cử chỉ hung nộ, thốt lên những thần chú
bằng tiếng Sanskrit. Ngài tập trung chúng trở lại và chôn chúng trước
cặp mắt những người hiện diện. Lúc đó nhiều người thấy ngài trong hình
tướng Guru Padmasambhava Hung Nộ. Một lần khi những người làm
không thể dựng đứng hai trụ đá, ngài rung động áo dài và thốt lên những
lời-của-sự thật (tạ ơn), và tức khắc họ có thể dựng chúng. Vào ngày lễ
hoàn thành, nhiều người thấy ngài hiện thành nhiều hình tướng như Phổ
Hiền, và nhiều Phật và Bồ tát xuất hiện trên trời và mưa xuống những
hoa ban phước. Phật Maitreya (Di Lạc), chỉ vào ngài, cho lời tiên tri:
“Sau hai đời nữa, con sẽ thành Phật có danh hiệu là Rirab Marme‟i
Gyalt-shen trong cõi Phật có tên là Pema Tsegpa.”

Longchen Rabjam là một ẩn sĩ, và ngài từ chối có tổ chức hành chánh.


Nhưng bởi vì sự uyên bác và bản chất hiền thánh của ngài, hàng ngàn tín
đồ gồm những học giả, thiền giả, và người thường liên tục tụ tập chung
quanh ngài. Những học giả vĩ đại nhất và những quan chức chính quyền
cao nhất của thời đó được ngài gây cảm hứng. Do sự quan tâm thuần túy
tâm linh của họ, họ kính trọng ngài không bao giờ bởi vì cơ cấu hành
chánh hay vì uy tín xã hội, chính trị nào.

Gompa Kunrig xứ Drigung trở thành đệ tử của ngài và Longchen


Rabjam, hoàn thành một lời tiên tri của Guru Padma-sambhava, đã kéo
ông ra khỏi con đường chiến tranh. Trong tiên tri của Guru
Padmasambhava có nói:

Trong nơi có tên là Dri


Một đứa con của quỷ gọi là Kunga sẽ đến.
Trên thân nó sẽ được đánh dấu bằng một cây kiếm.
Sau khi chết nó sẽ xuống địa ngục.
Tuy nhiên, nếu một lưu xuất của Văn Thù từ phương nam (Tây Tạng)
Có thể hàng phục nó,
Nó sẽ thoát khỏi tái sanh vào địa ngục.

Kunrig tự xem mình là đối tượng của lời tiên tri vì ông có dấu tích một
cây kiếm trên lưng và đang hoạch định chiến tranh ở tỉnh Wu và Tsang
của Tây Tạng. Ông chỉ định một Lama tên là Palchigpa đi tìm xuất thân
của Văn Thù. Vào thời đó ở miền Trung Tây Tạng không có ai bác học
33
hơn Longchen Rabjam. Thế nên, sau khi tìm kiếm, vị Lama tin rằng
Longchen Rabjam là thân lưu xuất của Văn Thù. Kunrig nhận nhiều giáo
lý từ ngài, và đã cúng dường ngài một tu viện tên là Trog Ogyen.
Drikung Kunrig là đối thủ thế lực nhất với Tai Situ của Phagtru, vị cai trị
Tây Tạng, nên Longchen Rabjam đã thực sự ngăn chặn một cuộc chiến
tranh nghiêm trọng ở Tây Tạng.

Ở Tidro ngài làm những lễ cúng Tshog một thời gian dài. Ngài kéo lên
ngọn cờ chiến thắng trên một ngọn núi không ai có thể tới, và tâm hồn
nhiều người đã thức tỉnh với Pháp. Trên đường đến Lhasa, ngài bị bao
quanh bởi một lực lượng những người thù địch từ Yarlung, họ định giết
ngài vì nghĩ rằng ngài là thầy của Drigung Kunrig. Nhưng do năng lực
giác ngộ, ngài trở nên vô hình với họ. Ở Jokhang trước Jowo, ngài có
nhiều thị kiến về chư Phật và nhận những ban phước. Khi đến Shugseb,
qua sự biết trước của mình, ngài biết chiến tranh sẽ xảy ra năm Hợi Thổ
(1359). Thế nên ngài đến Mon (Bhutan). Ngài ban cho những giáo lý ở
Bumthang và Ngalong, nhờ đó thắp lên ánh sáng của Pháp ở đó, và ngài
đặt những hạn chế về săn bắn và đánh cá.

Ở Bumthang ngài xây một tu viện ẩn cư, đặt tên cho nó là Tharpaling,
Đất Giải Thoát, bởi vì có khoảng một trăm ngàn người tụ họp để nghe
ngài dạy Pháp, mong muốn được giải thoát. Ngài được mời đến Lhotrag.
Ở Layag Lhalung và Manthang, ngài ban những giáo lý Nyingthig cho
khoảng một ngàn đệ tử chủ yếu là những nhà sư. Ngài được Lama
Dampa Sodnam Gyalt-shen phái Sakya và Tragzang của Nyephu tôn
kính vì những trả lời uyên bác cho những câu hỏi của họ, xóa tan những
nghi nan về nhiều điểm quan yếu trong những quan điểm triết học và tu
hành thiền định. Tai Situ Changchub Gyaltshen của Phagtru người trở
thành cai trị của Tây Tạng năm 1349, ban đầu ghét Longchen Rabjam vì
ngài là thầy của Drigung Kunrig, kẻ thù chủ yếu của ông. Về sau, khi
ông nhận ra sự vĩ đại của cái học và bản chất Bồ tát của ngài, ông đã đặt
bàn chân sen của Longchen Rabjam lên đỉnh đầu mình như một viên
ngọc quý. Theo yêu cầu của Tai Situ, ngài ban cho ông và khoảng hai
ngàn tín đồ những giáo lý Tinh Túy Tối Thâm (Yang-gSang Bla-Med).
Nhiều lãnh tụ thời đó như Dorje Gyaltshen của Yardrog và Situ Sakya
Zangpo của Wurtod, trở thành tín đồ của ngài.

34
Ở Lhasa ngài đã được tiếp rước bởi một đám rước gồm nhiều vị sư. Từ
một cái ngai đặt giữa Lhasa và Ramoche, ngài ban giới nguyện Bồ đề
tâm và những giáo lý khác cho đám đông. Ngài đã thuần hóa nhiều học
giả kiêu căng bằng lý luận khúc chiết và đưa họ vào niềm tin chân thật
vào Pháp. Nhờ vậy ngài được biết một cách công khai như là Kunkhyen
Choje, Bậc Toàn Giác của Pháp.

Ở Nyephu Shugseb ngài ban những giáo lý Đại Toàn Thiện cho một
chúng hội hơn một ngàn tín đồ. Trong những vùng đồi đá gần tu viện
Trog Ogyen, ngài ban những quán đảnh và giáo lý Tánh Sáng Tỏ của
Tinh Túy Kim Cương cho khoảng ba ngàn người gồm bốn mươi vị thầy.
Vào lúc chấm dứt những giáo lý họ làm một lễ Tiệc Cúng Dường
(Tshog) và ngài nói với họ:

Lễ Tiệc Cúng Dường này là cái cuối cùng chúng ta cử hành chung với
nhau. Các ông cần từ bỏ những hành động thế gian và nắm lấy tinh túy
tối hậu (của đời sống) bằng con đường sâu xa của tu hành Pháp.

Rồi ngài đến chùa Zha, và vào lúc thuyết pháp cho quần chúng, những
sự kỳ diệu xảy ra như có một cơn mưa hoa rơi xuống từ bầu trời.

Vào năm năm mươi sáu tuổi, trong năm Con Thỏ Thủy của Rabjung thứ
sáu (1363) giữa buổi ban pháp, ngài nói Gyalse Zodpa đem giấy, mực
đến. Trong sự buồn rầu cùng độ của những đệ tử, ngài viết di chúc tâm
linh của mình, có tên là Trima Medpa‟i Od, Tánh Sáng Rỡ Vô Nhiễm.
Đây là vài dòng từ di chúc ấy:

Chừng nào chúng ta biết bản tánh của sanh tử,


Thì những sở hữu thế gian không có tự tánh;
Thế nên giờ đây ta sắp bỏ thân vô thường
huyễn hóa này và
Ta sẽ nói cho các con cái gì độc nhất là tốt đẹp cho các con.
Hãy nghe ta....
Hôm nay, ta được cảm hứng bởi
Khuôn Mặt của bậc Pema bi mẫn,
Sự vui sướng của ta với cái chết thì lớn hơn rất nhiều
Sự vui sướng của những thương gia làm ra tài sản khi đi biển,
35
Của những vua chư thiên khi tuyên bố thắng trận;
Và của những bậc thánh đã hoàn thành nhập định.
Và khi thời đã đến, những người du hành đi trên
con đường của họ,
Bây giờ Pema Ledreltsal sẽ không ở lại đây lâu nữa,
Mà sẽ đến ở trong trạng thái an toàn, phúc lạc và bất tử....
Bây giờ chúng ta sẽ không có sự liên kết nào thêm trong đời này.
Ta là một người ăn xin sắp chết như nó muốn,
Chớ cảm thấy buồn mà hãy luôn luôn cầu nguyện.

Rồi ngài đến rừng ở Chimphu bằng con đường Gyama và Samye. Ngài
nói: “(Năng lực tâm linh của) Chimphu tương đương với nghĩa địa
Sitavan ở Ấn Độ. Chết ở nơi này tốt hơn một sự tái sanh ở những nơi
khác. Ta sắp bỏ thân thể cũ rách của ta ở đây.”

Rồi ngài hiện tướng bệnh tật của thân. Nhưng ngài vẫn giữ việc thuyết
pháp cho đám đông người tụ họp ở đó để nhận Pháp. Khi những đệ tử
xin ngài nghỉ ngơi, ngài bảo: “Ta muốn hoàn thành việc thuyết pháp.”

Vào ngày mười sáu tháng thứ mười hai của năm đó, ngài cử hành những
cúng dường tỉ mỉ cho những Daka và Dakini. Bấy giờ ngài cho thời pháp
công khai cuối cùng, nói rằng: “Các con cần hiến mình chỉ cho sự thực
hành Pháp. Không có tinh túy nào trong những hiện tượng hợp tạo. Đặc
biệt các con cần nhấn mạnh những thực hành Thregchod và Thodgal.
Nếu các con gặp những khó khăn trong việc hiểu những thực hành, hãy
đọc Yangtig Yidzhin Norbu; nó giống như một viên ngọc như ý. Các
con sẽ đạt đến niết bàn trong trạng thái Tan Biến mọi Hiện Tượng vào
Bản Tánh Tối Hậu.”

Vào ngày mười tám, ngài nói với vài đệ tử: “Hãy sắp xếp một lễ cúng
dường và rồi tất cả các con hãy ra khỏi phòng.” Khi các đệ tử biểu lộ
mong muốn được ở lại cạnh ngài, ngài nói: “Nào, ta sắp bỏ thân cũ rách
huyễn hóa này. Chớ gây tiếng động, mà hãy ở yên trong thiền định.”

Rồi tâm thức ngài hòa tan vào trạng thái bổn nguyên và bỏ lại thân thể
ngồi trong tư thế Pháp thân. Những người hiện diện chứng kiến mặt đất
rung kên và những âm thanh ầm ầm, mà kinh điển diễn tả như những
36
dấu hiệu của những chứng đắc cao. Họ để thân thể ngài trong hai mươi
lăm ngày. Trong khoảng thời gian ấy những ánh sáng cầu vồng thường
vòng qua bầu trời. Dầu trong tháng mười hai và tháng giêng, tháng lạnh
nhất ở Tây Tạng, trái đất trở nên ấm, băng chảy và hoa hồng nở. Vào
thời gian thiêu, trái đất rung ba lần và một tiếng trầm nghe được bảy lần.
Những cái còn lại không thiêu cháy được là trái tim, lưỡi và mắt của
ngài. Năm loại gDung và nhiều Ringsel có được từ xương là một dấu chỉ
sự chứng đắc năm thân và năm trí huệ của Phật quả. Có nói rằng những
Ringsel lớn tăng thành hàng trăm hàng ngàn. Một trong những hiện thân
chính yếu của Long-chen Rabjam là đại Terton Pema Lingpa (1450-?)
sinh tại Bhutan.

Longchen Rabjam là một trong những học giả và người kiệt xuất nhất và
vĩ đại nhất của Tây Tạng. Nhưng hạnh kiểm hàng ngày của ngài thì giản
dị, „rất người‟ và tỉ mỉ. Ngài là tái sanh của những bậc chứng ngộ, tuy
nhiên ngài bày tỏ cuộc sống của một cá nhân tầm thường sùng mộ
những hoạt động nghiên cứu, tu hành và kỷ luật để hoàn thành mục đích
của sự biểu lộ của ngài, đó là làm một tấm gương cho một người tu hành
và một vị thầy của Pháp. Đây là một số trong nhiều đoạn gây cảm hứng
và thích thú từ tiểu sử của ngài:

Mọi thứ gì được cúng dường cho ngài từ niềm tin sẽ chỉ được dùng để
phụng sự Pháp và không bao giờ cho chính ngài hay một mục tiêu thế
gian nào khác. Ngài không cho phép bất kỳ vật gì đã hiến cho Pháp lại
chuyển sai qua mục tiêu khác. Ngài không bao giờ bày tỏ sự tôn kính
cho một người thường, dù vĩ đại hay quyền thế bao nhiêu, và nói: “Tôn
kính phải được dành cho Tam Bảo mà không phải cho một người không
đức hạnh.” Ngài không bao giờ cho một chỗ ngồi hay tôn trọng người
kiêu căng vì thế lực hay giàu có. Khi phân phát những đồ cúng dường
cho các nhà sư, ngài bắt đầu từ hàng chót, nói rằng “Chúng ta cần cẩn
thận không bỏ sót người ở cuối, người ở hàng đầu dầu sao cũng có
những đồ cúng dường.” Theo kinh điển, nếu một người bình thường
nhận và chấp nhận sự tôn kính từ một người tâm linh cao cấp, nhiều
công đức của người ấy bị thiêu cháy vì việc đó. Dù những đồ cúng
dường cho ngài có lớn lao đến đâu, ngài nói những lời cầu nguyện hồi
hướng mà không bao giờ biểu lộ sự biết ơn, và ngài nói, “Những thí chủ
nên có cơ hội để tạo công đức.” Thế nên những thí chủ sẽ nhận được
37
công đức thay vì những biểu lộ biết ơn vì những đồ cúng dường của họ.
Vì ngài xa lìa những hy vọng và lo sợ của thành tựu thế gian, ngài sống
đời mình trong những chốn ẩn cư và từ chối thiết lập hay sống trong bất
kỳ chỗ ở nào, nói rằng, “Nếu tôi cố gắng, tôi có thể xây dựng một tu
viện, nhưng làm thế chỉ tạo ra những phóng dật. Thế nên tốt hơn là tập
trung vào việc điều ngự tâm thức (của người).”

Ngài tuân thủ những lễ cúng của hai ngày thứ mười (của trăng tròn và
khuyết, tức là ngày 10 và 25 âm lịch) và ngày mồng 8 mỗi tháng. Ngài
từ ái bao la với người nghèo và kém may mắn, và ngài thường rất thích
thú thức ăn do người nghèo cúng dường, dầu cho đó có thể có phẩm chất
khủng khiếp, và rồi ngài nói một số lời cầu nguyện cho họ.

Điều này đưa người ta đến một nhận xét rất thú vị từ quan điểm xã hội,
một người bình thường có thể nghĩ rằng Longchen Rabjam từ ái bao la
với người nghèo, nỗ lực của ngài phải là đem mọi sự vật ngài có cho
người nghèo. Trong nhiều trường hợp ngài hẳn phải làm như thế. Nhưng
trong các tiểu sử không có đề cập nào về một đường lối xử thế như vậy
cả. Bất luận thế nào, có một quan điểm tâm linh đàng sau sự việc ấy.
Hầu hết sự vật mà ngài có thể có, ngài không bao giờ giữ mà chuyển cho
những mục tiêu tôn giáo, đó đều là những “tặng phẩm của lòng tin” do
các tín đồ, và chúng được hướng đến những mục tiêu tôn giáo. Một vật
phẩm của lòng tin phải được tiêu dùng cho một mục tiêu tôn giáo, cho
sự phục vụ Phật, Pháp, hay Tăng, và không cho những mục tiêu thế gian
hay cho sự hưởng thụ của người thế tục. Nếu một vật phẩm của lòng tin
được người thế tục hưởng thụ thay vì được dùng cho những mục tiêu tôn
giáo, người thế tục sẽ tạo ra nghiệp mất công đức, điều đó sẽ tạo ra khó
khăn trong tương lai. Từ quan điểm của Pháp, bằng cách nhận những đồ
cúng dường của người nghèo khổ, ngài cho họ một cơ hội để tạo những
công đức, đó là nguyên nhân cho hạnh phúc tương lai. Thế nên ngài thật
sự ban ân cho người nghèo bằng cách cung cấp chính mình như một
phương tiện cho họ để làm ra công đức, mặc dù ngài có thể có những
bữa ăn tốt trong những gia đình giàu có nhất. Đó là lý do tại sao những
người viết tiểu sử đặc biệt nói về việc ngài thọ hưởng thực phẩm của
người nghèo để nêu lên lòng tốt của ngài với họ.

38
Trong Lịch sử của Lama Yangtig Longchen Rabjam khuyên những
người theo ngài bằng những lời giản dị:

Các người theo ta trong tương lai! Hãy bỏ lại những hoạt động thế gian
của cuộc đời này. Hãy bắt đầu những chuẩn bị cho những đời tới! Hãy
nương dựa vào một vị thầy đức hạnh toàn hảo! Hãy nhận lãnh những
giáo huấn về tinh túy của tánh sáng tỏ! Hãy thực hành những giáo lý bí
mật của Nying-thig trong vắng vẻ! (Hãy đạt đến quả của) sự siêu vượt
khỏi (những khác biệt của) sanh tử và niết bàn ngay trong đời này! Nếu
các người nhận được lời tiên tri nào, hãy hiến mình cho sự phụng sự
những người khác hết mức của mình! Hãy truyền bá những giáo lý trong
khi nhẫn chịu sự vô ơn và khó nhọc!

Một trong những tính cách nổi bật nhất trong những lời chỉ dạy của
Longchen Rabjam là sự nhấn mạnh của ngài vào sự hòa điệu với tự
nhiên: sự bao la và vẻ đẹp an bình của tự nhiên bên ngoài là chỗ nương
tựa và sự bao la và tỉnh giác an bình của bản tánh giác ngộ bên trong là
mục tiêu. Bằng cách nhìn thấy sự an bình không nhiễu loạn, sự sáng tỏ
không nhiễm ô và sự đơn giản không rối rắm của tự nhiên bên ngoài như
nó vốn là và bằng cách nương dựa vào chúng, người ta có được cảm
hứng để sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên bên trong hiện bày. Ngài cảm
kích, hân thưởng bản tánh của những hiện tượng bên ngoài và thấy
những đức hạnh của chúng. Ngài nhấn mạnh rằng đối với một người
mới học, những hiện tượng tích cực bên ngoài là một căn cứ quan trọng
để phát sanh tiến bộ thiền định. Những trích dẫn sau từ những tác phẩm
của ngài nói lên những quan điểm của ngài về tự nhiên bên ngoài và bên
trong.

Những hang động và những cánh đồng yêu thích trong rừng bình an
Trang hoàng với ngàn hoa khiêu vũ và những dòng suối âm vang
Những nơi đó, chúng ta có thể ngắm nhìn không lay động tâm thức mệt
mỏi của chúng ta,
Và ở lại đó để hoàn thành những mục đích của đời sống quý giá làm
người.
Nơi đó, không gặp chúng sanh hoang dã nào,

39
Đã làm bình lặng những phiền não nhiễm ô và hoàn thành bảy phẩm
tính cao cả,
Vào lúc xả bỏ thân thể này,
Mong rằng chúng ta đạt được đức vua của tâm thức, trạng thái bổn
nguyên.

Tự nhiên bên ngoài lợi lạc cho sự tu hành tâm linh bên trong:

Trên đỉnh đồi, trong rừng, trên một hòn đảo


Thích thú và hài hòa suốt bốn mùa,
Hãy tham thiền nhất tâm không xao lãng
Về tánh sáng tỏ thoát khỏi mọi tạo tác ý niệm....
Vì bên ngoài và bên trong là tương thuộc,
Người ta cần sống trong một nơi chốn vui thích, đơn côi.
Những đỉnh núi, vì chúng mở rộng và làm trong sáng tâm,
Là những nơi rất tốt để xua tan hôn trầm và tốt lành cho sự tu hành giai
đoạn phát sanh.
Những núi tuyết, vì chúng làm sạch sẽ tâm và làm trong sáng tham
thiền,
Là những nơi tốt cho tu hành quán chiếu, và sẽ có ít che chướng.
Những rừng cây, vì chúng làm ổn định tâm và khai triển sự an trụ của
tham thiền,
Là những chỗ tốt cho tu hành an định và tăng trưởng phúc lạc.
Những núi đá, vì chúng làm sanh khởi cảm giác hối lỗi và vô thường,
Sáng trong và uy lực, là những chỗ tốt để hoàn thành sự hợp nhất của
quán chiếu và an định.
Những bờ sông, vì chúng đã làm ngắn lại những tư tưởng,
Phát sanh sự khai triển của sự vọt khỏi sanh tử nhanh chóng.
Những nghĩa địa, vì chúng uy lực và khiến những chứng đắc đến nhanh,
Là những chỗ tốt để tu hành cả hai giai đoạn phát triển và thành tựu.
Sự lựa chọn những nơi chốn thiền định tùy thuộc vào sức mạnh và nhu
cầu của cá nhân thiền giả:
Những nơi chốn như thành thị, chợ phiên, nhà trống, cây đơn độc,
Nơi người và loài chẳng phải người hay lui tới,
Làm phóng dật những người mới học và thành chướng ngại.
Nhưng đó là chỗ dựa tối cao cho thiền giả rất an ổn.

40
Vẻ đẹp và bình an của cô đơn làm phát sanh cảm hứng, niềm vui và sự
an định trong tâm thức và đời sống. Longchen Rabjam truyền đạt những
đức hạnh của cô đơn khi diễn tả sự an định của rừng trong Kể Lại Niềm
Vui Trong Rừng:

Trong một khu rừng, tự nhiên có ít phóng dật và tiêu khiển,


Người ta xa khỏi mọi khổ đau của hiểm nguy và bạo lực.
Niềm vui lớn hơn rất nhiều sự hoan hỷ của những thành thị cõi trời.
Hãy hưởng thụ thiên nhiên tĩnh lặng của rừng hôm nay.
Hỡi tâm thức, hãy nghe những đức hạnh của rừng.
Những cây quý, vật cúng dường xứng đáng cho chư Phật,
Trĩu đầy trái cây lớn dần rực rỡ.
Hoa nở và lá cây phát ra mùi hương dịu dàng.
Hương thơm đầy khắp không khí.
Những dòng suối trên núi âm vang điệu nhạc mê hồn của trống.
Sự mát lạnh của mặt trăng xúc chạm mọi sự. Khoảng giữa cây cối
Phủ lấy áo mây dày.
Bầu trời trang hoàng bằng muôn vàn tinh tú.
Những đàn thiên nga bay quanh những hồ thơm ngát.
Chim và nai qua lại giữa an bình.
Những cây như ý, hoa sen và hoa loa kèn màu xanh
Đầy những con ong mật vo ve.
Cây cối chuyển động theo những điệu múa nhịp nhàng.
Những cánh tay của dây leo thõng xuống
Gởi lời chào mừng đến những kẻ viếng thăm.
Những ao trong mát phủ đầy hoa sen
Rạng rỡ như những khuôn mặt tươi cười.
Những thảm cỏ xanh như bầu trời giáng hạ trên mặt đất
Những hang động yêu kiều với những chuỗi cây hoa
Như tinh tú mọc trong bầu trời trong sáng.
Như chư thiên chơi đùa trong một vườn hoa,
Những con cu gáy phát tiếng ngọt ngào, làm say bằng niềm vui.
Gió mùa thổi như ban phát ngàn hoa.
Những đám mây âm vang tiếng sấm vui tươi.
Những trận mưa rào tuyệt vời đi đến làm mát lạnh hơi nóng
Thức ăn từ rễ, lá và trái
Không nhiễm độc bởi những hành vi bất thiện và được cung cấp suốt
41
bốn mùa.
Trong rừng những xúc cảm tiêu tan tự nhiên.
Không có ai nói những lời bất hòa.
Vì xa khỏi những phóng dật do tiêu khiển từ phố thị,
Trong rừng sâu sự thanh bình của nhập định lớn lên tự nhiên.
Đời sống trong rừng phù hợp với thánh pháp và thuần hóa tâm thức
Và hoàn thành hạnh phúc của thanh bình tối hậu.

Đối với người mới học, quan trọng là thấy những đức hạnh nằm trong
cái đẹp của những nơi chốn cô tịch như rừng núi để gây hứng khởi cho
tâm thức với sự cô đơn. Nếu người ta không khai triển một thói quen
thấy những mặt bình thường mà tích cực của cô đơn, như vẻ đẹp của nó,
người ta có thể không bao giờ dám bỏ những tiêu khiển của trần thế.
Mục tiêu thấy vẻ đẹp của thiên nhiên không phải là tạo ra một tương
quan xúc cảm với nó. Longchen Rabjam giải thích cách thấy và diễn
dịch những cảnh bình thường như một minh họa của Pháp và cảm hứng
cho Pháp:

Trong vườn hoa đẹp trên bờ sông


Những con ong-mật-Như-Lai ngồi trên những đóa hoa,
Làm đẹp trọn vẹn khu vườn và phát ra âm thanh trống Pháp,
Và toàn thể khu vườn hiển lộ như đang tôn kính nghe Pháp....
Bình an và giàu có với sự trang sức bằng những tràng hoa đức hạnh.
Được làm đẹp bởi những vinh quang của khổ hạnh.
Sự giàu sang không thể có ngay cả ở cõi trời Phạm Thiên.
Cây cối trĩu quả và lá.
Những vườn cây cung cấp những lạc thú khác nhau trong bốn mùa.
Những dòng sông phát ra âm nhạc dịu dàng.
Những khu rừng được trang hoàng bằng những nhà khổ hạnh tham
thiền.
Từ âm thanh cây cối tiếp xúc với gió,
Chim chóc, ong và nai
Nghe thánh pháp làm bình yên trong tiếng nói Phạm Thiên.
Những quang cảnh này làm nở đóa hoa ngàn cánh của niềm tin.
Như thể mọi nghiệp tốt được hoàn thành trong quá khứ,
Và những ban phước của lòng từ ái của những thánh nhân

42
Đã thâm nhập vào những sinh thể của đất này,
Và đại dương sanh tử đang dứt tận.
Longchen Rabjam giải thích như thế nào, sau khi đi vào sự cô đơn an
bình của rừng, tiến bộ trên con đường thiền định:
Sau khi vào rừng, hãy ở trong một cái hang dưới chân một ngọn đồi,
Dưới một gốc cây trong một đồng cỏ với cây thuốc và hoa,
Hay trong một lều tranh hay lợp bằng lá.
Với nước uống, thức ăn và trái cây,
Một lối sống giản dị duy trì thân xác
Và hiến mình ngày đêm cho Pháp đức hạnh.
Trong khu rừng, bằng thí dụ là những lá chết
Thấu hiểu rằng thân thể, tuổi trẻ và những giác quan
Dần dần thay đổi và không có tự tánh nào,
Và mọi loại thịnh vượng chắc chắn phải suy tàn.
Bằng thí dụ những lá lìa cây
Đi đến chỗ thấu hiểu rằng bạn, thù cũng như thân mình,
Đang tụ hội, đều thuận theo sự tan rã
Và phải trói buộc vào chia lìa.
Bằng thí dụ là những ao sen trống không
Thấu hiểu rằng những đối tượng khác nhau của tham muốn giàu sang
Tất yếu phải đổi thay, rằng không có tinh túy thật sự nào trong chúng,
Và cái gì được tích tập cái đó sẽ tiêu vong.
Bằng thí dụ là sự thay đổi của ngày, tháng và bốn mùa,
Thấu hiểu rằng thân thể như hoa nở mùa xuân
Phải chịu biến đổi khi thời gian trôi chảy, sự trẻ trung của nó phai dần,
Và thần chết sẽ đến là chắc chắn.
Bằng thí dụ là trái cây rơi rụng
Thấu hiểu rằng tất cả, trẻ, lớn hay già,
Phải lệ thuộc vào cái chết, rằng thời gian chết thì không thể định,
Và tất yếu cái gì có sanh cái đó có chết.
Bằng thí dụ là sự sanh khởi của những phản chiếu trong ao
Thấu hiểu rằng những hiện tượng khác nhau xuất hiện như không có
(hiện hữu) chân thật.
Chúng như những bóng huyễn, một ảo ảnh, một mặt trăng trong nước,
Và nhất định trống không, vô tự tánh.
Đã thấu hiểu những hiện tượng theo cách ấy,
Trên một chỗ rộng rãi hãy ngồi thẳng và thoải mái.
43
Với thái độ làm lợi lạc cho chúng sanh, hãy thiền định về tâm của giác
ngộ (Bồ đề tâm).
Không theo những tư tưởng của quá khứ và không đem đến những tư
tưởng tương lai,
Và giải phóng hiện tại khỏi sự suy nghĩ.
Hãy tham thiền trong một trạng thái không dao động, không có những
phóng chiếu và thu hồi....
An trụ trong tự do, sáng tỏ, trực nhận và sống động,
(Sự hợp nhất của) tánh không và sáng tỏ, thoát khỏi mọi nắm bắt.
Đây là sự thấu hiểu của chư Phật ba đời.
Ngoài việc tham thiền tự nhiên với sự thong dong
Trong nghĩa bổn nhiên vốn sẵn, bản tánh bổn nhiên của tâm như nó là,
Hãy không nghĩ điều gì cả, giải phóng tất cả tư tưởng.
Tự do khỏi những tư tưởng, phân tích và những ý niệm hóa
Là cái nhìn thấy (thị kiến) của chư Phật.
Thế nên, làm bình lặng khu rừng tư tưởng,
Hãy trông xem cái an bình tối hậu, bản tánh bổn nhiên của tâm.
Vào lúc kết thúc (thời thiền) Hãy hồi hướng những công đức bằng
phương tiện gọi là “thanh tịnh thoát khỏi ba phương diện.”

Hầu hết những tác giả Tây Tạng biểu lộ sự khiêm hạ của các ngài trong
những tác phẩm, như tự diễn tả mình là ngu dốt và thất học mặc dầu các
vị là những đại học giả; hoang dã và mê mờ mặc dù các vị là những
người chứng ngộ, và là những thành viên vô nghĩa và thấp thỏi của cộng
đồng mặc dù là những bậc được kính trọng nhất. Đó cũng là một cách để
huấn luyện mình không phát sanh kiêu hãnh và tự phụ trong tương quan
đời sống và khiêm hạ, rất “người”, và bình đẳng với tất cả và cũng để
dạy những người khác sự khiêm hạ. Nhưng Longchen Rabjam như vài
học giả chứng ngộ vĩ đại khác, để lộ đời sống chân thật của mình và
công bố tiếng gầm không sợ hãi và không giới hạn của sự học và cái
thấy thấu suốt của mình để gây cảm hứng và làm phát sanh sự xác tín
vào những giáo lý trong tâm thức những người theo đạo.

Cho đến giữa thế kỷ này, trong các tác phẩm, hầu hết những đại học giả
của Tây Tạng đã dựa vào kinh điển và những lời dạy của những thánh
nhân đã chứng ngộ chân lý như nó là, hay vào chính chứng ngộ của các
ngài về chân lý như nó là. Ngày nay nhiều học giả hiện đại viết ra những
44
nhận định và phê phán về kinh, luận mà không có một manh mối y cứ
nào, dù là về mặt trí thức, về thật nghĩa là gì.

Longchen Rabjam viết vì ngài đã học từ những đạo sư chứng ngộ của
mình và từ những kinh điển chính thống và vì ngài đã tự mình chứng
ngộ trực tiếp qua sự tu hành mãnh liệt trên con đường ngài đã được giới
thiệu vào. Ngài không trình bày điều gì chỉ nương dựa vào quan điểm trí
thức của mình. Chính Longchen Rabjam viết:

Vì tu hành từ đời này sang đời khác,


Và đã được đưa vào con đường này bởi những vị thầy thiêng liêng,
Tôi đã chứng ngộ nghĩa của tinh túy thậm thâm
Và đã thành tựu những thừa tối thượng như đại dương.
Bởi thế, trong trí huệ bao la như bầu trời,
Từ những đám mây lớn của sự học và phân tích với tia chớp của những
lợi lạc và hạnh phúc,
Kèm với sấm của những chứng ngộ và tham thiền,
Cơn mưa lớn này của giáo lý rải xuống.
Bởi vì sự bao la của cái học và phân tích trí thức,
Tôi đã hấp thụ nghĩa của tất cả mọi thừa
Và đã học trong con đường tuyệt hảo này của tánh Kim cương.
Thế nên tôi đã viết bình giảng này về cảnh giới sâu thẳm và bao la tối
hậu.

Trong Shingta Chenpo ngài viết:

Padma(sambhava) vinh quang, sanh từ đại dương của đại bi và trí huệ,
Người theo ngài, phú bẩm với ngàn Tia Sáng Vô Nhiễm (Longchen
Rabjam),
Là mặt trời của chúng sanh, xua tan bóng tối của tâm thức và
An trụ trong cõi giới bổn nguyên không che ám.

45
Trong Gyuma Ngalso ngài viết:

Bậc Chiến Thắng nói rằng tất cả mọi hiện tượng thuộc về tính cách hai
cái huyễn (nhiễm ô và thanh tịnh).
Vì mục tiêu chứng ngộ điều này,
Bằng cách cô đọng tinh túy của mọi kinh và tantra,
Tôi sẽ giải thích cái tôi đã chứng ngộ.

Trong Semnyid Rantrol ngài viết:

Những hiện hữu hiện tượng là vô sanh và bình đẳng,


Trong đó những tri giác (nhận thức và tâm) vốn nguyên giải thoát
Phổ biến khắp như nhau không nắm bắt;
Về sự thống trị kỳ diệu này, Tâm Tự Nhiên Giải Thoát
Hãy nghe khi tôi nói với các bạn cái tôi chứng ngộ.

Đôi khi mục đích viết là để cho chính sự học của người viết. Cách tốt
nhất trong ba cách học là viết. Hai cách kia là nghe (nghiên cứu) những
giáo lý và thảo luận hay tranh luận. Thế nên mục đích chính của việc
viết là xua tan bóng tối, vô minh của chính mình và của người khác.
Longchen Rabjam giải thích tại sao ngài đã viết Semnyid Rangtrol:

Giáo lý này, tinh túy của mặt trời,


Được tỏa sáng bởi sự khởi lên của những Tia Sáng
Vô Nhiễm (Longchen Rabjam)
Ngày nay chúng ta đang ở trong thời đại chiến đấu, bao phủ bởi bóng
tối của những tà kiến;
Để xua tan chúng, tôi viết bản văn này của nghĩa rốt ráo.

Longchen Rabjam kết luận bình giảng Nelug Dzod rằng:

Từ bầu trời bao la của những chủ đề có thể biết được,


Với trí huệ, ngàn Tia Sáng của Mặt Trời (Longchen Rabjam),
Cô đọng tinh túy cốt lõi những tantra, kinh điển và giáo huấn,
Tạo nên (sự chỉ dạy này) ở vùng núi Kangri Thodkar.

46
Longchen Rabjam, khác với nhiều tác giả Phật giáo khác, thì rất trực
tiếp và thành thật trong việc chỉ ra những quan điểm sai lầm của những
người khác, như một tục ngữ Tây Tạng nói: “Chỉ ra những lỗi lầm của
các đệ tử một cách trực tiếp là tính chất của một vị thầy.” Nó không phải
từ ghét giận hay khắc nghiệt mà bởi vì tâm thương xót và bản tánh
khiêm tốn, thành thật và cởi mở của ngài, Trong Choying Dzod, ngài
viết:

Bây giờ, những con voi khoe khoang họ là người theo Ati,
Tuyên bố rằng đám tư tưởng chập chờn là tâm giác ngộ.
Ôi! Những kẻ ngu này đã rơi vào hầm tối,
Họ xa lìa nghĩa của Đại Toàn Thiện.
Nếu các người không biết (những khác biệt giữa) năng lực của những
sanh khởi và năng lực của tánh giác ngộ bổn nhiên,
Làm sao các người có thể hiểu tinh túy của tâm giác ngộ?

Như Phật đã nói trong kinh, Longchen Rabjam cũng giải thích rằng ngài
chỉ có thể dạy Pháp, con đường đạt đến giác ngộ nếu người ta đi theo nó.
Ngài sẽ không có năng lực đem đến giác ngộ cho những tâm thức của
chúng sanh chỉ bằng cách sống giữa con người, thế nên ngài mong ước
sống trong cô đơn hoang vắng và bằng thực hành đạt đến địa vị Phật và
phụng sự chúng sanh hiệu quả hơn:

Để cho chúng sanh, tôi ở đây,


Cho vài giáo lý từ lòng bi,
Nhưng tôi không có thần lực để đem sự chứng ngộ tánh Như cho họ.
Thế nên tôi sống một mình trong rừng.
Trong một khu rừng nhiều nước sạch, đầy trái cây, hoa và lá.
Bao quanh với hàng rào tre và cây nho,
Với những chỗ ở mát mẻ, thích thú, hấp dẫn bằng tre,
Mong rằng tâm tôi đạt đến an định.
Nơi đây, không có người cũng không ma quỷ thấy tôi,
Sống bằng nước sạch và chỉ bằng những dưỡng chất khổ hạnh,
Và bằng thiền định về những ý nghĩa của những giáo huấn cam lồ của
Lama tôi,
Mong rằng tôi bỏ đi thân thể sống này.
Vào lúc đó, bằng cách chứng ngộ cái sáng tỏ vào lúc chết,
47
Giải thoát cái sáng tỏ của trạng thái trung ấm vào trạng thái bổn
nguyên,
Và trở nên không thể tách lìa với những thân và những trí huệ bổn
nguyên,
Nguyện tôi thành tựu những lợi lạc hai phần một cách tự nhiên.

Do đọc những tác phẩm ấm áp thích thú và thấu nhập của ngài, người ta
có thể cảm thấy sự xúc chạm của tâm bi mẫn của ngài. Những dòng sau
là một số diễn tả thường xuyên những cảm giác tự phát và tự nhiên trong
hình thức những mong ước trong những luận văn học giả của ngài:

Bất kỳ ai đối với tôi


Phát sanh giận dữ hay niềm tin, hay bất kỳ ai làm thương tổn,
Ca ngợi hay theo tôi,
Nguyện tôi dẫn dắt tất cả họ nhanh chóng đến giác ngộ.
Ngài kết thúc Shingta Chenpo với những ước nguyện sau:
Nguyện hạnh phúc của tôi được tất cả chúng sanh kinh nghiệm,
Nguyện những khổ đau của chúng sanh được chuyển di qua tôi.
Cho đến khi nào sanh tử trống rỗng
Nguyện tôi vẫn dẫn dắt chúng sanh (đến hạnh phúc và giác ngộ).

Giống như những đạo sư Phật giáo khác, Longchen Rabjam dùng tính
chất khổ đau và vô thường của sanh tử như là khí cụ để khuyến tấn
những đệ tử thực hành Pháp. Trong Terjung Rinpoche‟i Logyu ngài viết:

Cuộc đời vô thường như những đám mây mùa thu,


Tuổi trẻ vô thường như hoa mùa xuân,
Thân thể vô thường như tài sản mượn,
Giàu có vô thường như sương trên cỏ,
Bạn bè thân thuộc vô thường như một người khách trong một cửa tiệm;
Dù họ có hội hợp, họ sẽ tan lìa như những người bạn đi du lịch; và
Thần chết, như bóng của dãy núi phương tây, sẽ không trì hỗn....
Sự sanh thì còn đáng sợ hơn sự chết,
Bất cứ nơi nào người ta tái sanh trong sanh tử,
không có chỗ nào là hạnh phúc,
Đức Phật đã nói; nó giống như hầm lửa....
Bằng cách học hỏi người ta sẽ không đạt giải thoát khỏi đau khổ:
48
Trước hết, quyết định nhờ những học hỏi không sai lầm,
Xua tan mọi nghi ngờ và giả tạo bằng suy tư.
Và rồi thiền định về nó, người ta được giải thoát.
Thế nên, đã học nghĩa không sai lầm,
Quan trọng là thực hành nó một mình trong rừng....
Cuộc đời này có tự do và những phú bẩm,
Không biết khi nào nó sẽ mục nát; nó như một bình đất sét.
Tri giác về ngày mai hay đời tới
Người ta sẽ ra sao đều không được biết.
Thế nên xin hãy thực hành Pháp ngay ngày hôm nay.
Những công việc của đời này sẽ không bao giờ
chấm dứt cho đến khi chết.
Khi các bạn dừng chúng lại, chính là bản tánh của
chúng mà chúng được chấm dứt.
Niềm tin vào Pháp thì khó phát triển,
Thế nên bất cứ khi nào các bạn nhớ đến Pháp,
Hãy thực hành nó!

Sau đây là một số sáu thành tố do Longchen Rabjam ban cho trong
Mengag Dzod để tóm lại và làm rõ những điểm đạo đức, triết học, tôn
giáo và thiền định của Pháp. Những yếu tố quan trọng để đi vào Pháp:

Sáu điều quan trọng để đi vào Pháp là


Tuân thủ kỷ luật tu hành, nền tảng của con đường,
Học hỏi nhiều chủ đề khác nhau mà không thiên chấp,
Làm bình lặng ba cửa và tự tâm,
Ngừng dứt những hành vi bất thiện, và phát triển những hành vi thiện.
Có hổ thẹn, và phát triển lòng tin,
Và có một vị thầy đức hạnh và những người bạn đức hạnh.
Những điều ấy rất quan trọng cho người mới học.

49
Những tính cách của cô đơn:

Sáu yếu tố quan trọng để sống trong cô đơn là


Một nơi chốn đơn độc với những dấu hiệu tốt lành,
Nơi những bậc quá khứ đã đặt chân đến,
Ở đó những người giữ nguyện tụ tập vì nó không dơ bẩn bởi ô nhiễm,
Nơi không có những phóng dật và tiêu khiển,
Nơi những lương thực dễ có được,
Và nơi không có nguy hiểm từ người hay loài không phải người.

Longchen Rabjam nhấn mạnh rằng sự cô đọng của tất cả các thừa vào
một cái là phương tiện đạt đến Phật tánh, và ngài bác bỏ quan điểm rằng
chúng là những thân phần trái nghịch nhau của những giáo lý. Ngài kết
luận Semnyid Ngalso với những lời sau:

Bây giờ, những người bình thường mà tâm nhãn không thanh tịnh,
Cho những con đường khác nhau của “dòng tương tục” (tantra) và của
“hoàn thiện” (ba la mật)
Là trái nghịch nhau. Họ không biết cách kết hợp chúng thành một.
Bởi thế, họ có những con mắt thiên lệch.
Ở đây (trong bản văn này), những nghĩa sâu xa tối thượng của các thừa,
thừa nhân và thừa quả,
Tôi đã cô đọng thành một, là phương tiện của sự tu hành.

Theo quan điểm của Longchen Rabjam, mọi đức hạnh của chín thừa
được cô đọng trong tánh giác, tâm giác ngộ của Đại Toàn Thiện:

Những kinh điển của Thanh Văn, Bích Chi Phật và Bồ tát
Đồng ý trong cái thấy xác định không có sự hiện hữu của
cái ngã của người và cái ngã của pháp
Và trong sự tự do thoát khỏi những ý niệm hóa, như hư không.
Trong những kinh điển của yoga Ati bí mật tối thượng và vĩ đại,
Trong tự do như hư không thoát khỏi những phân biệt ta người,
Trí huệ bổn nguyên tự-khởi, người ta an trụ.
Thế nên tất cả nghĩa (của những thừa trước) được cô đọng trong tinh
túy tối thượng này (tánh giác).

50
Những loại (tantra ngoại) Kriya, Upa (yoga) và Yoga (tantra),
Đồng ý rằng nhờ phương tiện những mây cúng dường của tự mình,
bổn tôn và những tham thiền
Người ta đạt được sự thành tựu tịnh hóa ba cửa.
Trong tột đỉnh kim cương bí mật, vua của những giáo lý,
Người ta chứng nghiệm những tri giác, âm thanh và tư tưởng là những
bổn tôn từ trạng thái bổn nguyên
Và thành tựu sự tịnh hóa ba cửa.
Thế nên sự chứng ngộ của (ba thừa) này được thành tựu trong tinh túy
tối thượng này (tánh giác).
Ba tantra nội Maha, Anu và Ati đồng ý:
Thế giới và chúng sanh, những hiện hữu hiện tượng,
là những bổn tôn nam và nữ và cõi tịnh độ của các vị,
Cõi giới tối hậu và trí huệ bổn nguyên hợp nhất viên mãn,
Và bản tánh tối hậu là trí huệ bổn nguyên bất biến và tự-khởi.
Trong cái bí mật tối thượng nhất này (tánh giác),
bởi vì tất cả vốn toàn thiện,
Và ngoại trừ (những xuất hiện của) những lâu đài vô tạo tác
trong cõi tịnh độ của pháp giới bổn nguyên lạc phúc,
Chúng toàn khắp trong không có những chiều kích trong hay ngoài,
Không có những đặc thù của nỗ lực, chấp nhận hay chối bỏ.
Tất cả là giải thoát trong pháp giới vô cùng của Pháp thân,
Thế nên tất cả những chứng ngộ của chín thừa đều được thành tựu trong
tinh túy bí mật vĩ đại này (tánh giác).

Longchen Rabjam diễn tả sự chứng ngộ của Đại Toàn Thiện trong
những lời giản dị, sống động mà sâu xa:

Nếu người ta chứng ngộ sanh tử không có căn cứ, mối manh,
đó là niết bàn.
Nếu người ta chứng ngộ niết bàn chỉ là giả danh,
đó là cõi giới bổn nguyên.
Nếu bạn tự do khỏi những nỗ lực và vượt lìa tâm thức, đó là Pháp thân.
Nếu bạn trong tham thiền không có tư tưởng,
đó là siêu vượt khỏi những tư tưởng và diễn tả.
Nếu không có những ý niệm và bám luyến, đó là trạng thái tự nhiên.
Nếu bạn vượt khỏi tâm thức và những hiện tượng đều Không,
51
đó là nghĩa tối hậu.
Nếu bạn tự do khỏi “là” và “không là”,
đó là tự do khỏi những cực biên.
Nếu bạn cắt đoạn gốc rễ những lo sợ và nghi ngờ, đó là giác ngộ.
(Giáo lý Đại Toàn Thiện) là tinh túy chân thực và tối hậu;
Tôi dạy nó cho những người phước đức mai sau.
Bạn và những người theo đạo phước đức khác,
Hãy bảo đảm sự chứng đắc vĩnh cửu trong trạng thái vô tướng.

Đoạn sau là một số trích dẫn từ những tác phẩm kệ của Longchen
Rabjam để làm rõ cái thấy của ngài về đời người và những hiện tượng
thế gian, và sự trình bày của ngài về cái thấy, thiền định và những kết
quả của sự tu hành Đại thừa:

Sáu phương diện người ta cần nương dựa cho đến chứng đắc rốt ráo:
Hãy bỏ thân thuộc và nương dựa vào những thiện tri thức tuyệt hảo,
Hãy bỏ những bạn bất thiện và nương dựa vào những vị thầy có học
và khéo léo hộ trì,
Hãy bỏ những đồng ý và nương dựa vào sự tương hợp tối hậu với Pháp,
Hãy nhận sự học hỏi và tư duy và áp dụng chúng cho tâm,
Hãy bỏ những thành thị và ở trong núi non hoang vắng,
Và tìm kiếm những giáo lý và thực hành chúng với chuyên cần.
Nếu người ta có thể theo như thế, người ta sẽ hoàn thành những chứng
đắc nhanh chóng.

Man-Ngag Rinpoche’i Dzod MD 7b/1:

Đối với việc (làm bình lặng) sự nắm bắt cái ngã của những đối tượng,
hãy nhìn vào sự thay đổi của chúng trong bốn mùa,
Đối với bám chấp vào sự thường còn của cuộc đời,
hãy nhìn vào hạt sương trên cỏ,
Đối với vô minh về nhân và quả,
hãy nhìn vào những hạt giống và trái của nó.
Đối với vô minh của tri giác và tâm thức,
hãy nhìn vào những giấc mộng khi ngủ,
Đối với vô minh về một vị,

52
hãy nhìn vào mật mía và những phản chiếu của nó,
Và đối với vô minh về bất nhị, hãy nhìn vào nước và băng.
Những cảnh tượng này là những đối trị vĩ đại.

MD 43a/3:

Sự từ bỏ sáu hành vi thiện và bất thiện trộn lẫn là:


Chớ nương dựa vào một vị thầy không có tinh túy tâm linh mà lại khiến
giận ghét và tham luyến tăng trưởng,
Chớ chấp nhận một đệ tử là một bình chứa không thích hợp (với Pháp)
và nghĩ đến những lỗi lầm (của những người khác),
Chớ thực hành những đức hạnh (trên danh nghĩa) chúng (thật ra) là sự
tích tập những hành vi không đức hạnh,
Chớ ban bố từ thiện với mong mỏi được kính trọng và được đáp đền,
Chớ làm những cúng dường để phục vụ cho thân thuộc và sự giàu có
của mình.
Và chớ ban cho những giáo lý để lừa dối người ta mà kiếm lợi.
Theo những khuyên bảo này, người ta sẽ tương ưng với Pháp.

MD 9a/5:

Chứng đắc quả Phật dựa vào Sáu phương diện:


Dụng cụ tuyệt hảo cho tu hành Pháp nương dựa vào việc có một đời
người quý báu,
(Chứng đắc giải thoát) nương dựa vào sự tu hành vì không có tu hành
người ta không đạt giải thoát,
Tu hành dựa vào hiểu biết trọn vẹn,
Hiểu biết nương dựa vào học hỏi,
Sự hoàn thiện của học hỏi nương dựa vào suy nghĩ,
Và tất cả nương dựa vào việc có một đạo sư đạo hạnh.

53
MD 13a/4:

Sáu nâng đỡ tuyệt hảo của thực hành Pháp:


Tôn kính Tam Bảo như đối tượng tôn thờ tối thượng,
Hy sinh những hoạt động của cuộc đời này như sự hy sinh tối thượng,
Có lòng tin, học và suy nghĩ như sự giàu có tối thượng,
Nhận biết tự tánh của Tâm như người bạn tối thượng,
Buông bỏ bám chấp vào những tham muốn ích kỷ
như thái độ tối thượng,
Và thấy Lama như Phật, đó là sự thành tựu tối thượng.
Nếu người ta hành động theo những đường lối này, người ta sẽ hoàn
thành những mục tiêu hai phần.

MD 64b/4:

Sáu đức hạnh quan trọng là:


Lòng bi cho chúng sanh là quan trọng cho việc chứng ngộ vô ngã,
Tin vào nhân quả là quan trọng cho sự thâm nhập tánh Không,
Không lưu lại trong sanh tử là quan trọng cho sự an trụ trong an lạc,
Không mong chờ những kết quả là quan trọng cho lòng từ thiện,
Từ bỏ khoe khoang là quan trọng cho sự tuân thủ kỷ luật tu hành,
Và sự khiêm tốn trong nhu cầu là quan trọng cho việc sống cô đơn.
Nếu có sáu điều này người ta thành tựu việc tu hành Pháp.

MD 46a/1:

Những cần thiết của sáu cái bình đẳng:


Cần thiết cảm nhận rằng con của mình và kẻ thù là bình đẳng do biết
rằng chúng sanh của sáu đường là những bà mẹ,
Cần thiết thấy sự bình đẳng giữa vàng và sỏi đá do chứng ngộ giàu có
vật chất là huyễn,
Cần thiết thấy sự bình đẳng của những hành vi thiện và bất thiện vì
không có nhân và quả trong thật tánh của chúng,
Cần thiết thấy tánh nhất như của thiền định và xuất định do chứng ngộ
thật tánh của sáu thức.
Cần thiết thấy tánh vô phân biệt do diệt trừ những phiền não bằng cách
thấy chúng là những trí huệ.
54
Và cần thiết thấy sự bình đẳng của sanh tử và niết bàn vì bản tánh của
chúng là bổn nhiên thanh tịnh.
Thấy những bình đẳng này là đại yoga.

MD 48a/5:

Tu hành sáu hoàn thiện (sáu ba la mật) không tách lìa là:
Không để cho lòng rộng lượng bị đánh cắp bởi kẻ thù keo kiệt,
Không để cho những tên cướp, tà hạnh, phá hủy kỷ luật đạo đức,
Không để cho lòng khoan dung bị đâm thủng bởi vũ khí của giận dữ,
Không để cho tinh tấn bị trói buộc bởi xiềng xích của giải đãi,
Không để cho tham thiền bị ô nhiễm bởi thuốc độc của những xao động,
Và không để trí huệ bổn nguyên bị che ám bởi bóng tối của vô minh.

MD 50a/4:

Tu hành sáu tính chất tuyệt hảo là:


Từ bỏ những hoạt động của thân mê lầm,
Từ bỏ những diễn tả của ngữ vô nghĩa,
Từ bỏ những phóng chiếu của những tư tưởng của tâm,
Từ bỏ những bám luyến của tham hưởng thụ,
Từ bỏ dấn thân vào những phóng dật và tiêu khiển,
Và từ bỏ sự nịnh hót như một phương tiện để giữ gìn cho tâm những của
người khác.

MD 59b/4

Sáu cách cô đọng sự tu hành các thừa là:


Tu hành tri giác thanh tịnh bằng cách nhận
chân thế giới và chúng sanh là những tri giác như huyễn,
Tu hành lòng bi bằng cách nhận chân sanh tử là thống khổ,
Tu hành lòng từ bằng cách nhận chân chúng sanh sáu đường
là những bà mẹ,
Tu hành ba thệ nguyện bằng cách nhận chân nghiệp
là nhân quả duyên sanh,
Tu hành những giai đoạn phát triển và thành tựu bằng cách

55
đồng hóa bốn quán đảnh truyền pháp với ba cửa,
Và tu hành bản tánh tối hậu bằng cách nhận chân những hình tướng, âm
thanh và tư tưởng là bản tánh tối hậu.
Nếu người ta hoàn thiện những tu hành này sẽ không có những che
chướng và lỗi lầm.

MD 33b/6:

Sáu lời kim cương của Đại Toàn Thiện Dzogpa Chenpo:
Đại Toàn Thiện của nền tảng là sự xác minh cái Tâm,
Đại Toàn Thiện của con đường là sự thâm nhập
điểm cốt yếu cho giải thoát,
Đại Toàn Thiện của quả là chứng đắc sự dừng dứt
của những hy vọng và lo sợ,
Đại Toàn Thiện của những đối tượng là sự giải thoát
của những tri giác không có nắm bắt,
Đại Toàn Thiện của tâm là sự khởi sanh của
những tư tưởng như là những hỗ trợ,
Và Đại Toàn Thiện của nghĩa là sự tan biến tự nhiên
của những chuyển động.
Bất cứ ai thực hiện được những điều này là vua của các thiền giả.

MD 74a/3:

Sáu xác tín của chứng ngộ về cái nhìn thấy sâu xa là:
Chứng ngộ những hiện tượng là trung đạo thoát khỏi những cực biên,
Chứng ngộ những hiện tượng là tánh sáng tỏ vĩ đại, cái hợp nhất,
Chứng ngộ những hiện tượng là tánh bình đẳng,đại lạc,
Chứng ngộ những hiện tượng là bất nhị, tinh túy đơn nhất,
Chứng ngộ những hiện tượng là sự thành tựu tự nhiên,
tự do khỏi mọi thiên chấp.
Và chứng ngộ những hiện tượng là thanh tịnh bổn nguyên, tự nhiên bổn
nguyên. Dù người ta hoàn thiện chúng,
(Trong thật tánh của chúng) không có người chứng ngộ,
Cũng như bản thân sự chứng ngộ không có ý tưởng gì về chứng ngộ.
Thế nên, maya yoga (yoga huyễn) này thoát khỏi mọi thí dụ.

56
MD 74a/5:

Đã chứng ngộ như thế, có sáu cách giải thoát:


Những đối tượng bên ngoài, ngay lúc chúng xuất hiện,
Được giải thoát ngay trong bản tánh của sự xuất hiện,
như băng tan vào nước.
Sự tri nhận bên trong, ngay lúc tri nhận,
Được giải thoát ngay trong bản tánh của sự tri nhận,
như bọt tan vào trong nước.
Hai tư tưởng trung gian, ngay lúc chúng chuyển động
Được giải thoát ngay trong bản tánh của những chuyển động,
như tia sấm chớp trong bầu trời.
Những âm thanh, những chỉ danh và tên, ngay lúc vang lên
Được giải thoát ngay trong bản thân sự gọi tên,
như những âm thanh của một tiếng vang.
Những lý thuyết nắm hiểu, ngay điểm xác nhận,
Được giải thoát ngay bản thân những xác nhận,
như những cầu vồng biến mất trong bầu trời.
Những kết quả của thành tựu, ngay lúc đạt được,
Được giải thoát ngay trong bản tánh của những chứng đắc,
như những ước muốn được đáp ứng tức khắc bởi viên ngọc như ý.
Bản tánh thì vốn tự-giải thoát và những đối trị thì tự tan biến.
Nó tự do khỏi những chỉ định và những đối tượng,
và nó là sự thành tựu tự nhiên của chứng ngộ.

TRL (gTer Byung Rinpoche’i Lo-rGyus) 52b/2:

Hãy thấy trí huệ tự nhiên khởi, vua của những cái thấy (tri kiến),
Hãy thiền định về tánh sáng tỏ tự nhiên khởi, vua của những thiền định,
Hãy tu hành những hiện hữu hiện tượng là huyễn,
vua của những hành động.
Hãy đạt được sự tan biến vào trong trạng thái bổn nguyên,
vua của những kết quả.
Người ta sẽ trở thành Samantabhadra (Phổ Hiền),
trong trạng thái tự nhiên thành tựu.

57
YD 42a/6:

Quả hoàn thiện của thiền định là:


Sự chứng đắc những thân và những trí huệ bằng việc
hoàn thiện những đoạn trừ và những chứng ngộ.
Như mặt trời và mặt trăng không bị mây che phủ,
Khi bản tánh tự do khỏi những che ám,
Nó được gọi là giác ngộ, và rồi những đức hạnh
hiện tiền tự nhiên xuất hiện,
Và những sự xuất hiện của thân, các thức và nhữngtri giác,
Những thói quen của ba cái che ám, sẽ được giải thoát.
Như một ngọn đèn trong một cái bình vỡ,
một tượng thờ trong một đóa hoa nở ra,
Những công đức hiện diện tự nhiên bày hiện.
Khi những thói quen của ba cái che ám được giải thoát,
Chúng xuất hiện là những cõi Phật, những trí huệ, và những thân Phật.

Trong những tác phẩm của Longchen Rabjam, thỉnh thoảng ngài cũng
có những trích dẫn sai xuất xứ bản văn. Đôi khi ngài đổi lời của một
trích dẫn, nhưng không có lỗi lầm trong ý nghĩa. Theo học giả nổi tiếng
Mipham Namgyal (1846-1887) Longchen Rabjam đã nhớ rất nhiều kinh
điển. Ngài cũng sáng tác rất nhiều tác phẩm trong hoang vắng nơi không
có những bản văn để quy chiếu. Thế nên khi trích dẫn ngài chỉ viết ra
theo trí nhớ chứ không dựa vào bản văn có sẵn. Khi Mipham biên tập
cuốn Pema Karpo và bình giảng của nó để in, ngài không sửa chúng, vì
không có những khác biệt trong ý nghĩa, và ngài thấy những biến đổi ấy
như là một dấu hiệu về sự vĩ đại của tác giả. Mipham nói trong cuốn
Giải Thích Một Số Điểm Khó của Yidzhin Rinpoche‟i Dzod:

Có nhiều lỗi trong những tiêu đề của những bản văn gốc. Rõ ràng rằng
Bậc Toàn Giác Vĩ Đại đã nhớ tất cả kinh, tantra và những bình giảng của
chúng, và ngài được dân chúng biết đến như là “Bậc từ chùa Samye với
Nhiều Kinh Điển.” Có nói rằng về sau, khi ngài tạo những tác phẩm
trong cô đơn, không nhìn vào những bản văn mà chỉ trích chúng từ trí
nhớ, điều đó là thật. Có những lỗi trong những tiêu đề trích dẫn và cũng
có một số khác biệt trong những lời trích dẫn, nhưng không có sự khác
biệt trong ý nghĩa với bản văn gốc. Chúng không phải là những lỗi do
58
người thợ sắp chữ về sau. Bởi vì chúng thuộc về những tác phẩm gốc
của ngài, tôi giữ nguyên chúng, bởi vì nếu chúng được duy trì không sửa
lại chúng sẽ bảo tồn những ban phước vĩ đại của ngài. Trong những lỗi
ấy, không có một sự khác biệt nhỏ nhất nào trong những điểm quan
trọng của nghĩa. Nếu người ta có thể thấy điều này, bấy giờ những sự
việc đó có khả năng phát sanh thán phục. Thế nên tốt hơn là không thay
đổi chúng dù là ai trong mai sau.

NHỮNG DANH HIỆU CỦA LONGCHEN RABJAM VÀ


Ý NGHĨA CỦA CHÚNG

Longchen Rabjam dùng nhiều tên khác nhau trong những kết từ của các
tác phẩm để phân biệt những chủ đề của những bản văn:

Trong những tác phẩm chủ yếu về những chủ đề có thể giải thích được,
những khoa học thế gian như thi ca, vần luật và khoa học ngôn ngữ, tên
được dùng là “bởi Samylpa Tshul-thrim Lodro.” Trong những tác phẩm
chung cho cả tantra ngoại và nội, tên là: “bởi Dorje Zijid.” Trong những
tác phẩm chủ yếu về những chủ đề sâu xa giải thích qua những giai đoạn
của các thừa, và về lời và nghĩa giải thích những phân chia của các thiền,
tên được dùng là: “bởi Drimed Odzer.” Trong những tác phẩm dạy lãnh
vực của bản tánh bất khả tư nghì trong những chi tiết lớn lao nhất, tên
được dùng là: “bởi Longchen Rabjam.” Trong những tác phẩm trong đó
các thừa, những lý thuyết, tánh Như v.v.... được giải thích chi tiết, tên
được dùng là: “bởi Kunkhyen Ngagi Wangpo.”

59

You might also like