You are on page 1of 529

OSHO

Ta là Cái đó
Bài nói về Isa Upanishad

HÀ NỘI 3/2021
OSHO

I am That
Discourse on the Isa Upanishad
Mục lục

Lời giới thiệu ................................................................................... iii


1. Bên ngoài thay đổi ...................................................................... 1
2. Sống trong ánh sáng riêng của bạn ......................................... 33
3. Bằng việc đi theo không ai biết ................................................. 63
4. Buông xuôi từ tâm ..................................................................... 93
5. Được kết thân trong cùng nhau sâu sắc ................................ 129
6. Yêu tuyệt đối, tự do tuyệt đối .................................................. 163
7. Từng khoảnh khắc - Phép màu! ............................................. 195
8. Không biết gì về mọi thứ ......................................................... 225
9. Cả hai và nhiều hơn ................................................................ 253
10. Tôn giáo vĩnh hằng ............................................................... 285
11. Không tâm trí chút nào .......................................................... 319
12. Điều bí ẩn để được sống ...................................................... 353
13. Lời nguyện đơn giản xảy ra .................................................. 383
14. Không đàn bà - Không chư Phật .......................................... 419
15. Mọi người có tính duy nhất của mình ................................... 453
16. Nó đã là cái tốt nhất .............................................................. 479
Về Osho....................................................................................... 509

i
ii
Lời giới thiệu

Hai mươi nhăm thế kỉ trước Phật, Isa Upanishad đã


được truyền trao từ các Thầy cổ đại cho đệ tử của họ.
Những lời thơ này dường như vẫn còn bí ẩn làm sao cho
ngày nay.

AUM
Cái đó là cái toàn thể
Cái này cũng là cái toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể
tính toàn thể vẫn còn lại.

Vài dòng đầu tiên này là "mật chú hạt mầm" bao hàm
toàn thể Upanishad. Vậy mà chúng vẫn còn là bí ẩn trong
hàng thế kỉ.

Thầy chứng ngộ, Osho vẫn đang hiện hữu bây giờ, ngày
nay, sống động. Thầy đã thổi cuộc sống trở lại vào trong
những vần thơ cổ đại này bằng những ẩn dụ rạng ngời.
Hình dung xem, Thầy nói, từ một chiếc nến được thắp
sáng, các chiếc nến khác được thắp sáng lên. Chiếc nến
nguyên thuỷ không hề suy giảm. Từ ánh sáng, ánh sáng đã

iii
nổi lên, ấy vậy mà ánh sáng vẫn còn lại. Với một ẩn dụ này
thôi, Osho đã làm chói sáng lên toàn thể lời kinh.
Từ bản thân Upanishad, Osho làm chói sáng mọi cực
của cuộc sống:

Cái đó và cái này


cái Tuyệt đối và cái tương đối
thiền và hành động
tâm thức và vật chất

Từng cực này lần lượt được làm hiển lộ ra. Cái đó là cái
tuyệt đối, giống như trục bánh xe; cái này là cái tương đối,
vành bánh xe. Cái tuyệt đối là bất động, vậy mà quay quanh
nó, mọi bánh xe thường xuyên chuyển động. Cả hai là thực
và tạo nên một toàn thể.
Tương tự, thiền là rễ, hành động là cành. Sự sống phải
mang tính toàn bộ, Thầy nói. Nó được bắt rễ trong thiền và
hoa là trong hành động. Từ cái nhìn này, mọi sống được
định giá trị, được trải nghiệm; không cái gì cần mà bị từ bỏ,
nó là cái toàn thể.
Như lời thơ hạt mầm này bao bọc toàn thể Isa
Upanishad, cũng vậy, từ những bài nói này, tinh thần của
Osho đi tới cuộc sống. Upanishad nghĩa là "đi tới Thầy",
ngồi cùng Thầy, mở với Thầy toàn bộ tới mức việc giao cảm
là có thể được.
Tại đây với những ẩn dụ rõ ràng này, các câu chuyện và
chuyện cười, chúng ta được giới thiệu với cái nhìn của Thầy
chứng ngộ - một thế giới quan toàn bộ tới mức nó còn hơn
cả thế giới quan, nó mang tính vũ trụ, sự tái sinh của linh
hồn Upanishad.

iv
Bên ngoài từ ngữ trên những trang sách này, chúng ta
có thể cảm nhận thoáng nhìn về im lặng của Thầy nữa.
Quan sát những chỗ tạm ngưng xuất hiện ra, cảm thấy
chúng và cảm thấy kinh nghiệm chiều sâu có thể có với
Thầy. Khám phá thiền đi, Thầy nói - nhắm mắt lại.
Bằng cách nào đó chính chuyện cười đem tới cho chúng
ta kinh nghiệm về tính toàn thể của Osho. Cười và là một
với Thầy đi.
Thật đáng kinh ngạc làm sao khi Osho dễ dàng biến từ
việc làm khải lộ bí ẩn thành việc kể chuyện cười; cũng dễ
dàng khi Thầy liên tục kể ra cách thức chuyện cười vận
hành, và việc tính tôn giáo của Thầy dựa trên cảm giác khôi
hài.
Các nhà tiên tri cổ đại chắc sẽ yêu mến việc chiếu sáng
này vào những bí ẩn của họ. Với Osho là người hướng dẫn,
năm mươi thế kỉ lập tức được bắc cầu qua.
Chúng ta được ân huệ. Chúng ta có thể đọc và trượt vào
trong tính thiền, tiếng cười và vượt sang cõi bên kia cùng
Thầy. Chân lí bí ẩn là ở bên trong hiểu biết của chúng ta vì
bản thân Thầy là cái đó, và nếu chúng ta hiểu điều đó một
cách đúng đắn, tất cả nó đều sống.
Ma Mary Catherine, Ts khoa học, Ts văn chương

v
vi
1. Bên ngoài thay đổi

AUM
Cái đó là cái Toàn thể
Cái này cũng là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể
tính toàn thể vẫn còn lại.
Tại trung tâm của thế giới hiện tượng này
bên trong tất cả những dạng thay đổi của nó,
Vị chúa tể không thay đổi cư ngụ.
Cho nên, vượt ra ngoài việc thay đổi,
và, tận hưởng cái bên trong,
dừng lấy cho mình điều với người khác là của cải
Liên tục hành động trong thế giới,
người ta có thể mong mỏi được một trăm.
Vậy, và chỉ vậy, con người mới có thể tự do
khỏi việc trói buộc với ảnh hưởng của hành động.
Người không được khai sáng thực sự là người mà
thế giới bị che mờ bởi bóng tối mù quáng của dốt
nát.
Tất cả những người giết chết cái ngã đều chìm vào
trong cái chết này.
AUM

1
Purnamadah
Purnamidam
Purnat puramudachyate
Purnasya purnamadaya
purnameva vashishyate
AUM
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể,
tính toàn thể vẫn còn lại.

Hôm nay chúng ta đi vào một trong những thế giới bí


ẩn và mê say nhất - thế giới của Upanishad. Thời của
Upanishad đã là đỉnh cao nhất khi có liên quan tới cuộc truy
tìm tâm linh. Chưa bao giờ có trước đây và chẳng bao giờ có
về sau việc tâm thức con người đạt tới những đỉnh cao
Himalaya đó.
Những ngày của Upanishad thực sự là vàng, bởi nhiều
lí do. Điều quan trọng nhất trong chúng được hàm chứa
trong câu mật chú hạt mầm này:

AUM
Purnamadah
Purnamidam
Purnat puramudachyate
Purnasya purnamadaya
purnameva vashishyate

2
Nhấn mạnh của Upanishad là vào tính toàn thể. Nhớ
lấy, đấy không phải là tính hoàn hảo mà là tính toàn thể.
Khoảnh khắc người ta trở nên quan tâm tới tính hoàn hảo,
bản ngã bước vào. Bản ngã là sự hoàn hảo - ham muốn của
bản ngã là được hoàn hảo - và hoàn hảo đưa nhân loại tới
điên khùng.
Tính toàn thể là khác toàn bộ; hương vị của nó là khác.
Hoàn hảo là trong tương lai: nó là ham muốn. Tính toàn thể
là ở đây bây giờ: nó là sự khải lộ. Hoàn hảo phải được đạt
tới, và tất nhiên mọi thành đạt đều cần thời gian; nó phải dần
dần. Bạn phải hi sinh hiện tại cho tương lai, hi sinh hôm nay
cho ngày mai. Mà ngày mai chẳng bao giờ tới; cái tới bao
giờ cũng là hôm nay.
Sự tồn tại không biết gì về tương lai và không biết gì về
quá khứ; nó chỉ biết hiện tại. Bây giờ là thời gian duy nhất
và ở đây là không gian duy nhất. Khoảnh khắc bạn đi lạc lối
khỏi bây giờ và ở đây, bạn đi tới đầu cuối trong một loại
điên khùng nào đó. Bạn sẽ rơi vào manh mún; cuộc sống
của bạn sẽ trở thành địa ngục. Bạn sẽ bị xé ra từng mảnh:
quá khứ sẽ kéo một phần bạn về nó và tương lai kéo một
phần khác. Bạn sẽ trở thành tâm thần phân liệt, chia chẻ,
chia cắt. Cuộc sống của bạn sẽ chỉ là nỗi thống khổ sâu sắc,
run rẩy, lo âu, căng thẳng. Bạn sẽ chẳng biết gì tới phúc lạc,
bạn sẽ chẳng biết gì tới cực lạc bởi vì quá khứ không tồn tại.
Và mọi người liên tục sống trong kí ức, cái chỉ là dấu
chân còn lại trên cát; hay họ phóng chiếu cuộc sống vào
tương lai, cái cũng không tồn tại như quá khứ vậy. Một phía
thì không còn nữa, phía khác lại chưa có, và giữa hai phía
đó người ta đánh mất cái thực, hiện tại, cái bây giờ.
Tính toàn thể là về cái bây giờ. Nếu bạn đơn giản có thể
ở đây, thế thì chính khoảnh khắc này là sự khải lộ! Thế thì
nó không phải là dần dần, nó là bất thần, nó là sự bùng nổ!
3
Từ upanishad là cực kì quan trọng. Nó đơn giản nghĩa
là ngồi xuống gần Thầy; nó là sự giao cảm. Thầy đang sống
trong cái toàn thể; thầy đang sống ở đây bây giờ, thầy đang
rộn ràng ở đây bây giờ. Cuộc sống của thầy có âm nhạc,
cuộc sống của thầy có niềm vui, có im lặng của chiều sâu
mênh mông. Cuộc sống của thầy tràn đầy ánh sáng.
Chỉ ngồi im lặng cạnh Thầy là đủ, bởi vì sự hiện diện
của Thầy mang tính tiêm nhiễm, sự hiện diện của Thầy đang
tràn ngập khắp. Im lặng của thầy bắt đầu đạt tới chính tâm
bạn. Sự hiện diện của thầy trở thành từ lực hút bạn: nó hút
bạn ra khỏi bùn lầy của quá khứ và tương lai. Nó đem bạn
vào hiện tại.
Upanishad là sự giao cảm, không phải là sự trao đổi.
Trao đổi là từ đầu qua đầu còn giao cảm là từ tâm sang tâm.
Đây là một trong những bí mật lớn lao nhất của cuộc sống
tâm linh, và không ở chỗ nào khác, không vào lúc nào khác,
nó đã được hiểu sâu sắc thế như trong những ngày của
Upanishad.
Upanishad đã được sinh ra quãng năm nghìn năm trước
đây. Giao cảm bí mật, truyền trao bên ngoài kinh sách, giao
cảm bên ngoài lời... đây là điều Upanishad nghĩa là gì - bạn
ngồi im lặng, không chỉ lắng nghe lời tôi mà lắng nghe sự
hiện diện của tôi nữa. Lời chỉ là cái cớ để treo im lặng lên.
Im lặng là nội dung thực, lời chỉ là bình chứa. Nếu bạn trở
nên quan tâm quá nhiều vào lời, bạn bỏ lỡ hồn.
Cho nên đừng quá quan tâm tới lời. Lắng nghe nhịp đập
của lời đi. Khi Thầy nói, những lời đó đang tới từ cốt lõi bên
trong nhất của thầy. Chúng tràn đầy màu sắc của thầy, ánh
sáng của thầy. Chúng mang cái gì đó của hương thơm của
con người thầy. Nếu bạn mở và mong manh, cảm nhận, đón
chào, chúng sẽ thấm vào trong tâm bạn và một quá trình
được khởi động.
4
Điều Carl Guvstav Jung gọi là sự đồng bộ giải thích
đích xác điều xảy ra giữa Thầy và đệ tử. Nó không phải là
cùng điều xảy ra giữa thầy giáo và học trò. Giữa thầy giáo
và học trò có trao đổi; thông tin nào đó được truyền từ thầy
giáo sang học trò, nhưng không có biến đổi - chỉ truyền
thông tin. Bản thân thầy giáo không được biến đổi, bản thân
thầy giáo còn chưa đạt tới. Thầy giáo lặp lại lời của thầy
giáo khác, thầy giáo thậm chí còn lặp lại lời của các Thầy
khác, nhưng thầy giáo không biết tới bản thân mình; lời thầy
giáo là vay mượn. Thầy giáo có thể rất uyên bác, thầy giáo
có thể rất thông thái, nhưng đó không phải là cái thực.
Thông tin không phải là cái thực - biến đổi mới là thực. Và
chừng nào người ta chưa được biến đổi, người ta vẫn còn
chưa thể khởi động quá trình biến đổi trong người khác.
Carl Guvstav Jung gọi điều này là sự đồng bộ. Thầy
không thể làm cho bạn chứng ngộ được. Đó không phải là
quá trình khoa học, nó mang tính thơ ca hơn nhiều. Nó
không phải là qui luật giống như luật nhân quả; nó linh động
hơn nhiều, nó mơ hồ hơn nhiều, linh hoạt hơn nhiều. Thầy
không thể làm cho chứng ngộ xảy ra trong bạn được, nhưng
thầy có thể khởi động, và điều đó nữa cũng chỉ có thể nếu
bạn cho phép, không đi ngược lại ý chí của bạn. Chẳng cái
gì có thể được làm cho bạn chừng nào bạn chưa mang tính
cảm nhận toàn bộ. Điều này chỉ có thể xảy ra trong chuyện
tình.
Giữa thầy giáo và học trò có chuyện kinh doanh; giữa
Thầy và đệ tử có chuyện tình. Đệ tử đã buông xuôi; đó là
nghĩa của việc "ngồi xuống". Đệ tử đã buông xuôi, đệ tử gạt
bản ngã của mình sang bên. Đệ tử đơn giản mở, trong tin
cậy mênh mông. Tất nhiên, hoài nghi sẽ cản trở quá trình
này.

5
Hoài nghi là hoàn toàn tốt khi bạn thu thập thông tin:
bạn càng hoài nghi nhiều, bạn càng có nhiều khả năng thu
được nhiều thông tin, bởi vì mỗi hoài nghi sẽ tạo ra nhiều
câu hỏi trong bạn và câu hỏi là cần thiết để tìm ra câu trả lời.
Nhưng từng câu trả lời đến lượt nó sẽ lại bị hoài nghi nữa,
tạo ra nhiều câu hỏi nữa, và cứ thế mãi.
Nhưng với Thầy hoài nghi là cản trở. Đó không phải là
việc hỏi câu hỏi, nó là cuộc truy tìm của hồn; nó là truy vấn
của tâm, nó không phải là tò mò trí tuệ. Nó không là tò mò,
nó là quan trọng hơn nhiều - nó là câu hỏi về sống và chết.
Khi người ta mệt mỏi với mọi câu hỏi và mọi câu trả
lời, khi người ta chán ngán với mọi triết lí, chỉ thế thì người
ta đi tới Thầy. Khi người ta đã tích luỹ nhiều thông tin và
vẫn còn dốt nát, và tất cả những thông tin đó không tạo ra
ánh sáng nào bên trong hồn, thế thì người đó tới Thầy, ngồi
bên cạnh Thầy. Không có câu hỏi nào nữa; người đó bây giờ
chỉ biết mỗi một điều, rằng mọi câu hỏi đều vô tích sự.
Người đó đã cố gắng và người đó đã thấy toàn thể cái vô
tích sự của nó. Bây giờ người đó ngồi xuống trong im lặng,
mở, sẵn có, cảm nhận, như bụng mẹ.
Đệ tử trở nên mang nữ tính, và chỉ trong những khoảnh
khắc nữ tính đó Thầy, không có nỗ lực nào về phần mình,
bắt đầu tràn ngập đệ tử. Điều đó xảy ra một cách tự nhiên.
Đệ tử không làm gì, Thầy không làm gì - đấy không phải là
vấn đề làm chút nào. Thầy là bản thân thầy và đệ tử mở.
Khi mũi bạn không bị ngạt bởi lạnh và bạn đi ngang
qua một đoá hoa, bỗng nhiên bạn cảm thấy hương thơm.
Đoá hoa không làm gì đặc biệt cả; việc toát ra hương thơm
của nó là tự nhiên. Nếu bạn mở để đón nhận nó, bạn sẽ nhận
nó.

6
Từ upanishad nghĩa là đi tới Thầy, và người ta tới Thầy
chỉ khi người ta chán với các thầy giáo, chán các giáo lí,
chán các học thuyết, các tín điều, triết lí, thượng đế học, tôn
giáo. Thế thì người ta tới Thầy.
Và con đường tới Thầy là buông xuôi. Không phải sự
hiện hữu của bạn bị buông xuôi - chỉ bản ngã, ý tưởng giả
tạo rằng bạn là ai đó, người nào đó đặc biệt. Khoảnh khắc
bạn gạt ý tưởng về bản ngã sang bên, mọi cánh cửa đều mở
ra - cho gió, cho mưa, cho mặt trời - và sự hiện diện của
Thầy sẽ bắt đầu đi vào trong bạn, tạo ra điệu vũ mới trong
cuộc sống của bạn, cho bạn cảm giác mới về thơ ca, bí ẩn,
âm nhạc.
Đó là sự đồng bộ. Thầy đang gõ theo nhịp nào đó, thầy
đang múa trên bình diện nào đó. Nếu bạn sẵn sàng, cùng
điệu vũ đó bắt đầu xảy ra trong bạn - ngay từ đầu chỉ một
chút ít nhỏ bé thôi, nhưng thế là đủ, chút ít nhỏ bé đó là đủ.
Ngay từ đầu chỉ vài giọt sương, nhưng chẳng mấy chốc
chúng trở thành mang tính đại dương.
Một khi bạn đã nếm trải niềm vui của việc mở, bạn
không thể bị khép lại lần nữa. Ban đầu bạn có thể chỉ mở
một cửa sổ hay cửa ra vào, và thế rồi bạn mở tung mọi cửa
sổ và mọi cửa ra vào.
Và một khoảnh khắc tới trong cuộc đời đệ tử khi không
chỉ một cửa sổ và cửa ra vào mở ra, thậm chí mọi bức tường
đều biến mất! Người đó mở hoàn toàn, sẵn có theo nhiều
chiều. Đây là ý nghĩa của từ upanishad.
Upanishad được viết trong tiếng Phạn-sanskrit; tiếng
Phạn là ngôn ngữ cổ nhất trên trái đất. Chính từ sanskrit
nghĩa là được biến đổi, được tô điểm, được làm hoàn hảo,
được trang trí, được tinh chế - nhưng nhớ từ "được biến
đổi". Bản thân ngôn ngữ này đã được biến đổi bởi vì biết

7
bao nhiêu người đã đạt tới điều tối thượng, và bởi vì họ đã
dùng ngôn ngữ này, cái gì đó của niềm vui của họ đã thấm
nhuần vào trong nó, cái gì đó của thơ ca của họ đã đi vào tận
trong từng tế bào, từng thớ thịt của ngôn ngữ này. Ngay cả
bản thân ngôn ngữ này đã trở nên được biến đổi, được chói
sáng. Điều đó nhất định xảy ra. Cũng như điều đang xảy ra
hôm nay ở phương Tây, các ngôn ngữ đang trở nên ngày
một khoa học hơn, chính xác hơn, toán học hơn. Chúng phải
như vậy bởi vì khoa học đang cho chúng màu sắc của nó,
hình hài của nó, dáng dấp của nó. Nếu khoa học phát triển,
thế thì tất nhiên ngôn ngữ mà trong đó khoa học sẽ được
diễn đạt cũng sẽ mang tính khoa học.
Cùng điều này đã xảy ra năm nghìn năm trước đây ở Ấn
Độ với tiếng Phạn. Biết bao nhiêu người đã chứng ngộ và họ
tất cả đều nói tiếng Phạn; chứng ngộ của họ đã đi vào trong
nó với mọi âm nhạc của nó, với mọi thơ ca của nó, với mọi
lễ hội của nó. Tiếng Phạn đã trở nên chói sáng. Tiếng Phạn
là ngôn ngữ thi ca nhất và âm nhạc nhất trong sự tồn tại.
Ngôn ngữ thi ca chính là cái đối lập của ngôn ngữ khoa
học. Trong ngôn ngữ khoa học mọi từ đều phải rất chính xác
về nghĩa; nó phải có chỉ một nghĩa thôi. Trong ngôn ngữ thi
ca từ phải linh động, tuôn chảy, năng động, không cố định,
cho phép nhiều nghĩa, nhiều khả năng. Từ phải không chính
xác chút nào; càng không chính xác càng tốt, bởi vì thế thì
nó sẽ có khả năng diễn đạt mọi loại sắc thái.
Do đó những lời kinh tiếng Phạn có thể được đoán định
theo nhiều cách, có thể được bình chú theo nhiều cách -
chúng cho phép nhiều tính vui đùa. Chẳng hạn, từ tám trăm
gốc dẫn ra hàng nghìn từ, cũng như từ một gốc, cây phát
triển ra và nhiều cành và hàng nghìn lá và hàng trăm hoa.
Từng gốc riêng lẻ trở thành cây bao la với tán lá vĩ đại.

8
Chẳng hạn, gốc ram có thể có nghĩa trước hết là "được
bình thản", thứ hai là "nghỉ ngơi", thứ ba "vui thích", thứ tư
"làm cho vui thích", thứ năm "làm tình", thứ sáu "nối liền",
thứ bảy "làm hạnh phúc", thứ tám "được phúc lạc", thứ chín
"chơi đùa", thứ mười "được an bình", thứ mười một "đứng
tĩnh lặng", thứ mười hai "dừng lại, đi tới điểm chấm hết", và
thứ mười ba "Thượng đế, điều thiêng liêng, cái tuyệt đối".
Và đây chỉ là vài nghĩa của gốc này. Lúc thì các nghĩa có
liên quan với nhau, lúc thì không; lúc thì thậm chí chúng
mâu thuẫn với nhau. Do đó ngôn ngữ này có phẩm chất đa
chiều của nó. Bạn có thể chơi đùa với những từ đó và qua
việc chơi đùa này bạn có thể diễn đạt cái không thể diễn đạt
nổi; cái không thể diễn đạt nổi có thể được ám chỉ tới.
Tiếng Phạn được gọi là devavani - ngôn ngữ thiêng
liêng. Và chắc chắn nó là thiêng liêng theo nghĩa này vì nó
là ngôn ngữ mang tính thi ca nhất và âm nhạc nhất. Từng từ
đều có âm nhạc quanh nó, hương vị nào đó.
Điều đó xảy ra như thế nào? Điều đó đã xảy ra bởi vì
biết bao nhiêu người đã dùng nó, những người tràn đầy hài
hoà bên trong. Tất nhiên những từ đó đã trở nên chói sáng:
chúng đã được những người chứng ngộ sử dụng. Cái gì đó
của ánh sáng bên trong của họ thấm vào từ, đạt tới từ; cái gì
đó của im lặng của họ đã đi vào chính văn phạm, chính ngôn
ngữ họ sử dụng.
Bộ chữ để viết tiếng Phạn được gọi là devanagari;
devanagari nghĩa là "nơi cư ngụ của thượng đế", và chắc
chắn nó là như vậy. Từng từ đã trở thành thiêng liêng, chỉ
bởi vì nó đã được những người đã biết tới Thượng đế hay
tính thượng đế sử dụng.
Upanishad mà chúng ta đi vào hôm nay là nhỏ nhất - nó
có thể được viết trên tấm bưu thiếp - vậy mà nó lại là tài liệu
vĩ đại nhất trong sự tồn tại. Không có tài liệu nào chói sáng
9
như vậy, sâu sắc đến như vậy ở bất kì đâu trong toàn bộ lịch
sử nhân loại. Cái tên của Upanishad này là Isa Upanishad.
Thế giới của Upanishad rất gần với cách tiếp cận của
tôi. Trong thực tế, điều tôi đang làm ở đây là đem sự tái sinh
cho linh hồn của Upanishad. Nó đã biến mất ngay cả từ Ấn
Độ, và nó đã không có mặt ít nhất trong ba nghìn năm. Có
kẽ hở ba nghìn năm, và trong ba nghìn năm này Ấn Độ đã
phá huỷ thành tựu của riêng mình.
Điều thứ nhất là ở chỗ Upanishad không phản sự sống,
chúng không ủng hộ việc từ bỏ sự sống. Cách tiếp cận của
chúng là toàn thể: sự sống phải được sống trong tính toàn bộ
của nó. Chúng không dạy khuynh hướng thoát li cuộc sống.
Chúng muốn bạn sống trong thế giới này, nhưng theo cách
bạn vẫn còn ở trên thế giới, theo một nghĩa nào đó là siêu
việt lên trên thế giới, sống trong thế giới vậy mà không
thuộc vào nó. Nhưng chúng không dạy bạn rằng sự sống
phải bị từ bỏ, rằng bạn phải thoát li khỏi sự sống, rằng sự
sống là xấu hay sự sống là tội lỗi. Chúng hân hoan trong sự
sống! Nó là món quà của Thượng đế; nó là dạng hiển lộ của
Thượng đế.
Điều nền tảng này phải được ghi nhớ. Upanishad nói
rằng thế giới là dạng hiển lộ của Thượng đế và Thượng đế là
dạng không hiển lộ của thế giới, và mọi hiện tượng hiển lộ
đều có phần không hiển lộ bên trong nó.
Khi bạn nhìn đoá hoa, đoá hoa chỉ là dạng hiển lộ của
cái gì đó bên trong nó, tinh hoa của nó, cái không hiển lộ,
cái chính là hồn của nó, chính bản chất của nó. Bạn không
thể nắm bắt được nó, bạn không thể tìm thấy nó bằng việc
mổ xẻ đoá hoa ra. Với cái đó bạn cần cách tiếp cận thi ca,
không phải là cách tiếp cận khoa học. Cách tiếp cận khoa
học phân tích; cái nhìn thi ca khác toàn bộ. Khoa học sẽ
chẳng bao giờ tìm ra bất kì cái đẹp nào trong hoa bởi vì cái
10
đẹp thuộc vào dạng không hiển lộ. Khoa học sẽ mổ xẻ dạng
hiển lộ và sẽ thấy đủ mọi loại chất tạo nên hoa nhưng sẽ bỏ
lỡ hồn của hoa.
Mỗi và mọi thứ đều có cả hai, thân và hồn. Thân là thế
giới còn hồn là Thượng đế, nhưng thân không chống hồn,
thế giới không chống Thượng đế. Thế giới làm hiển lộ
Thượng đế, diễn đạt Thượng đế. Thượng đế là sự im lặng và
thế giới là bài ca của sự im lặng đó. Và cùng điều đó cũng
đúng về bạn. Mọi người đều có cả hai: cái hiển lộ, cấu trúc
thân tâm, và cái không hiển lộ, tâm thức bạn.
Tôn giáo bao gồm việc phát hiện ra cái không hiển lộ
trong cái hiển lộ. Vấn đề không phải là thoát li đi bất kì đâu;
vấn đề là thám hiểm chiều sâu bên trong nhất của bạn. Đó là
việc thám hiểm trung tâm im lặng, trung tâm của cơn xoáy
lốc. Và nó bao giờ cũng có đó; bất kì khoảnh khắc nào bạn
cũng đều có thể tìm được nó. Nó không phải là cái gì đó
phải được tìm thấy ở đâu đó khác, trong rặng Himalayas hay
trong tu viện. Nó là ở bên trong bạn! Bạn có thể phát hiện ra
nó trong Himalayas, bạn có thể phát hiện ra nó nơi bãi chợ.
Upanishad nói rằng việc chọn giữa cái tuyệt đối và cái
tương đối là sai. Bất kì chọn lựa nào đều sẽ làm cho bạn
thành bộ phận; bạn sẽ không là cái toàn thể. Và không có cái
toàn thể thì không có phúc lạc, không có cái toàn thể thì
không có tính thiêng liêng; không có cái toàn thể thì bạn bao
giờ cũng sẽ bị thiên lệch chút ít, điên khùng. Khi bạn là toàn
thể bạn mạnh khoẻ bởi vì bạn là toàn bộ.
Cái tương đối nghĩa là thế giới, cái thay đổi, thế giới
hiện tượng, còn cái tuyệt đối nghĩa là trung tâm không thay
đổi của thế giới thay đổi. Bạn tìm ra cái không đổi trong cái
thay đổi. Và nó có đó cho nên không có vấn đề gì; bạn chỉ
phải biết kĩ thuật khám phá ra nó. Kĩ thuật đó là thiền.

11
Thiền đơn giản nghĩa là trở nên được hài hoà với cái
không biểu lộ. Thân thể có đó, bạn có thể thấy nó; tâm trí có
đó, bạn cũng có thể thấy nó nữa. Nếu bạn nhắm mắt lại bạn
sẽ thấy tâm trí với mọi hoạt động của nó, với mọi việc làm
của nó. Các ý nghĩ trôi qua, ham muốn phát sinh, kí ức trồi
lên, và toàn thể hoạt động của tâm trí sẽ có đó; bạn có thể
quan sát nó.
Một điều là chắc chắn: người quan sát không phải là
tâm trí. Người đang ý thức tới các hoạt động của tâm trí
không phải là một phần của tâm trí. Người quan sát là tách
biệt, nhân chứng là tách biệt. Trở nên nhận biết về nhân
chứng này là đã tìm ra điều tinh tuý, điều trung tâm, cái
tuyệt đối, cái không đổi.
Thân thể thay đổi: có thời bạn đã là đứa trẻ, rồi là thanh
nam hay thanh nữ, rồi tuổi già... Một ngày nào đó bạn còn
trong bụng mẹ, rồi bạn được sinh ra, rồi lại một ngày nào đó
bạn chết đi và biến mất vào trong bụng mẹ của sự tồn tại.
Thân thể thay đổi mãi, liên tục thay đổi.
Tâm trí liên tục thay đổi. Buổi sáng bạn hạnh phúc,
buổi chiều bạn giận dữ, buổi tối bạn buồn bã. Các tâm trạng,
xúc động, cảm giác, liên tục thay đổi; ý nghĩ liên tục thay
đổi. Bánh xe này quay xung quanh bạn. Đây là cơn xoáy
lốc; thế giới hiện tượng là cơn xoáy lốc. Nó chẳng bao giờ là
một thứ, thậm chí cho hai khoảnh khắc liên tiếp.
Nhưng cái gì đó bao giờ cũng là nguyên vậy, bao giờ
cũng thế, chẳng bao giờ thay đổi - đó là nhân chứng. Tìm ra
nhân chứng đó là tìm ra Thượng đế.
Do đó Upanishad không dạy bạn tôn thờ, chúng dạy bạn
thiền. Và thiền có thể được thực hiện ở bất kì đâu bởi vì vấn
đề là biết tới nhân chứng này. Nếu bạn đi vào tu viện thì

12
cùng phương pháp này phải được áp dụng ở đó. Bạn có thể
ở nhà, ở gia đình, ở bãi chợ - vẫn cùng phương pháp này.
Thực tế, trong thế giới dễ thấy sự thay đổi hơn. Khi bạn
đi tới hoang mạc sẽ khó thấy sự thay đổi hơn bởi vì ở hoang
mạc hầu như chẳng có gì thay đổi, hay thay đổi tinh tế tới
mức nó không thấy được. Nhưng ở bãi chợ, ngồi bên cạnh
đường, bạn có thể thấy sự thay đổi liên tục, giao thông trên
đường đang thay đổi; nó không bao giờ như cũ.
Sống trong tu viện là sống trong thế giới cố định, trong
thế giới ngủ. Đó là sống như ếch trong ao, ếch ngồi đáy
giếng, bị khép kín. Sống trong đại dương sẽ làm cho bạn
nhận biết nhiều hơn về những thay đổi.
Sống trong thế giới là điều tốt: đó là thông điệp của
Upanishad. Những người thấy của Upanishad không phải là
người khổ hạnh. Tất nhiên họ từ bỏ nhiều thứ, nhưng việc từ
bỏ không tới qua nỗ lực, nó tới qua hiểu biết, nó tới qua
thiền. Họ từ bỏ bản ngã bởi vì họ thấy rằng nó chỉ là một
thực thể do tâm trí bịa đặt ra. Không có thực tại nào, không
có bản chất nào trong nó cả; nó là cái bóng thuần tuý, và phí
hoài cuộc đời bạn cùng nó là điều ngu xuẩn. Nói rằng họ từ
bỏ là không đúng; tốt hơn nên nói là bởi vì họ đã trở nên
nhận biết như vậy nên nó tàn lụi đi theo cách riêng của nó.
Họ trở nên vô sở hữu. Không phải là họ đã không sở
hữu cái gì, nhưng họ đã trở thành vô sở hữu. Họ vẫn dùng
mọi thứ. Họ không phải là người ăn xin. Họ sống vui sướng,
tận hưởng mọi thứ sẵn có cho mình, nhưng họ lại không
mang tính sở hữu, họ không là kẻ bám víu. Đó là từ bỏ
đúng: sống trong thế giới vậy mà vẫn còn tuyệt đối vô sở
hữu. Họ yêu, nhưng họ không ghen. Họ yêu toàn bộ nhưng
không có vị kỉ, không có ý tưởng gì chi phối người khác.

13
Đây là điều tôi đang cố gắng làm ở đây và có những kẻ
ngu ở Ấn Độ nghĩ tôi đang chống lại văn hoá Ấn Độ. Tất
nhiên tôi chống lại điều đã xảy ra trong ba nghìn năm này -
đó không phải là văn hoá đúng, đó là sự lệch lạc, đó là xấu.
Điều đó đã làm cho Ấn Độ thành nghèo, điều đó đã kìm giữ
Ấn độ là nô lệ trong hai mươi hai thế kỉ; điều đó đã làm cho
Ấn Độ chết đói thế, không mạnh khoẻ, không vệ sinh, bởi lẽ
đơn giản nếu bạn dạy mọi người rằng cuộc sống không đáng
sống - nó chỉ đáng từ bỏ, nó không có giá trị gì, giá trị duy
nhất nó có là từ bỏ nó, đức hạnh duy nhất là đối lập cuộc
sống - thì một cách tự nhiên cuộc sống sẽ trở thành đau khổ.
Nhưng điều này không phải là thông điệp của
Upanishad, và Upanishad là chính linh hồn của đất nước
này, mà cũng không chỉ đất nước này mà của tất cả những
người đã từng mang tính tôn giáo ở bất kì đâu. Họ sẽ tìm
thấy trong Upanishad chính tâm mình, họ sẽ vui sướng trong
Upanishad bởi vì Upanishad dạy về tính toàn thể.
Cái tương đối phải được sống như cái tương đối, cố ý
rằng nó là tương đối, cố ý rằng nó đang thay đổi, và liên tục
nhớ tới cái không đổi. Cư ngụ nơi cái không đổi và liên tục
sống trong cái thay đổi đi. Vẫn còn định tâm trong cái
không đổi, nhưng cho phép cái thay đổi, thế giới tuyệt vời
đang quay xung quanh bạn với mọi mùa vụ của nó , với mọi
màu sắc của nó, với mọi cái đẹp của nó, sự huy hoàng của
nó. Tận hưởng điều đó nữa, bởi vì nó là dạng hiển lộ của
Thượng đế. Đây là cách tiếp cận rất chỉnh thể.
Lời kinh thứ nhất:

AUM
Purnamadah
Purnamidam
Purnat puramudachyate

14
Purnasya purnamadaya
purnameva vashishyate
AUM
Cái đó là cái toàn thể
'Cái đó' nghĩa là cái tối thượng, cái tuyệt đối, khía cạnh
ẩn kín của thực tế, cái vô hình, cái không hiển lộ. Bạn có thể
gọi nó là Thượng đế, chân lí, niết bàn, Đạo, Dhamma -
Pháp, thần ngôn.

Cái đó là cái toàn thể


Cái này cũng là cái toàn thể.
Và 'cái này' được ngụ ý là thế giới hiện tượng, thế giới
hiển lộ, thế giới bao quanh bạn. "Cái đó" nghĩa là trung tâm
của bạn, "cái này" nghĩa là chu vi của bạn. Và cả hai đều là
cái toàn thể, thực tế cả hai là một cái toàn thể.

Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể

Từ "cái đó" nổi lên "cái này" và từ tính toàn thể chỉ
tính toàn thể có thể được sinh ra. Bạn không thể mổ xẻ được
tính toàn thể, bạn không thể phân chia tính toàn thể. Từ tính
toàn thể chỉ tính toàn thể được sinh ra, cho nên cả hai đều là
cái toàn thể.

Tính toàn thể tới từ tính toàn thể


tính toàn thể vẫn còn lại.

Mặc dầu tính toàn thể tới từ cái toàn thể điều đó không
có nghĩa rằng cái toàn thể, cái toàn thể nguyên thuỷ, bắt đầu
mất đi cái gì đó. Nó không mất gì cả; nó vẫn còn là cái toàn
thể. Đây là phát biểu cực kì quan trọng. Sẽ rất tốt để cố gắng
hiểu nó qua kinh nghiệm của bạn.
15
Bạn yêu ai đó; điều đó không ngụ ý rằng bởi vì bạn đã
cho; ngược lại, vấn đề thậm chí còn hơn nữa. Đấy không
phải là chuyện kinh tế thông thường. Trong kinh tế thông
thường nếu bạn cho đi cái gì đó, tất nhiên bạn sẽ có ít đi.
Nếu bạn có mười đồng và bạn cho ai đó năm đồng thì bạn
không thể vẫn còn mười đồng được, và chắc chắn bạn
không thể có mười lăm đồng được; bạn sẽ chỉ còn lại năm
đồng thôi. Đây là kinh tế thông thường, kinh tế của thế giới
bên ngoài.
Thế giới bên trong hoàn toàn khác. Bạn cho tình yêu và
bạn vẫn có cùng tình yêu đó hay thậm chí còn có nhiều hơn,
bởi vì bằng việc cho, tình yêu của bạn bắt đầu tuôn chảy. Nó
có thể đã ngủ, tù đọng; bằng chia sẻ nó bắt đầu tuôn chảy.
Điều đó cũng giống như bạn múc nước từ giếng lên: khoảnh
khắc bạn múc nước từ giếng, từ suối nguồn ẩn kín thêm
nhiều nước bắt đầu tới giếng để làm đầy chỗ đó. Nếu bạn
không múc nước lên từ giếng thì nước sẽ trở nên bẩn, nó
thậm chí còn có thể trở thành độc. Và suối nguồn sẽ không
được dùng tới; chúng sẽ bị chẹn lại. Nếu bạn liên tục lấy
nước lên mọi ngày, càng ngày càng nhiều nước sẽ chảy
trong giếng và suối nguồn sẽ trở nên lớn hơn bởi vì chúng sẽ
được dùng nhiều hơn.
Nhưng mọi người sống trong kinh tế bên ngoài ngay cả
trong cuộc sống bên trong. Vợ trở nên rất giận nếu cô ấy
thấy chồng mình mới chỉ thân mật với người đàn bà khác.
Chồng trở nên hung hăng, ghen tuông nếu anh ta thấy rằng
vợ mình có thời gian vui vẻ với ai đó khác, chỉ để tận hưởng
việc cười. Điều này cực kì ngu xuẩn! Đó không phải là hiểu
biết về thế giới bên trong và siêu kinh tế bên trong. Anh ta
vẫn nghĩ dưới dạng tiền - rằng nếu vợ mình mà cười với ai
đó khác thì điều đó nghĩa là cô ấy sẽ không có khả năng
cười với anh ta thêm nữa; bao nhiêu tiếng cười đã bị mất

16
rồi! Bây giờ anh ta là người mất, và tất nhiên điều đó tạo ra
giận dữ.
Thực tế, nếu vợ không cười với nhiều người, không tận
hưởng tình bạn, không yêu nhiều người, cội nguồn yêu của
cô ấy sẽ chết; cô ấy sẽ không có khả năng yêu chồng mình
nữa. Cô ấy sẽ quên cách yêu, suối nguồn của cô ấy sẽ khô
cạn.
Đó là lí do tại sao bạn thấy chồng và vợ trông buồn và
chán nhau thế; điều đó nhất định xảy ra. Họ đang đi ngược
lại qui luật bên trong tự nhiên: bạn có càng nhiều, bạn cho
càng nhiều. Việc cho không phá huỷ cái gì trong bạn; thực
tế nó mang tính sáng tạo. Người yêu nhiều người sẽ có khả
năng yêu vợ mình hay chồng mình toàn bộ hơn.
Nhưng nhân loại thậm chí vẫn chưa hiểu hiện tượng
đơn giản này. Chúng ta vẫn cư xử theo cách rất trẻ con và
ngu xuẩn.
Cũng hệt như khi người yêu của bạn yêu cầu bạn rằng,
"Anh có thể thở chỉ khi em có đó còn khi em không có đó
thì đừng thở nhé, vì quá nhiều hơi thở mất đi đấy, quá nhiều
cuộc sống sẽ mất đi. Và khi anh về nhà và anh đã thở ở mọi
chỗ, mọi nơi,thì anh sẽ gần chết rồi! Cho nên khi em không
ở cùng anh, dừng thở nhé!" Và chồng cũng nhấn mạnh rằng,
"Khi anh không ở nhà thì em đừng thở, để cho khi chúng ta
ở cùng nhau việc thở vĩ đại xảy ra!" Nhưng cả hai sẽ chết.
Đó là cách chúng ta đã giết chết yêu trong thế giới này,
chúng ta đã giết chết mọi thứ có giá trị, bởi vì toàn thể logic
của chúng ta là ngu xuẩn. Điều tốt là chồng vẫn đi dạo buổi
sáng và hít thở không khí trong lành, chạy bộ và chạy trên
bãi biển, và tận hưởng mặt trời. Và vợ cũng đi và tận hưởng
hoa và cây và cỏ. Và khi họ ở cùng nhau họ sẽ có khả năng
sống động hơn với nhau, yêu nhau nhiều hơn. Họ sẽ ở đỉnh

17
của mình; họ sẽ tràn đầy nhựa sống để chia sẻ. Nhưng điều
này còn chưa xảy ra.
Các sannyasin của tôi phải nhớ điều đó: ghen giết chết
yêu, sở hữu giết chết yêu. không ghen nếu bạn muốn tình
yêu lớn lao xảy ra; nếu bạn muốn cuộc sống của bạn phát
triển đa chiều, nó cần tự do. Bạn cần tự do và người bạn yêu
cũng cần tự do. Trong tự do chỉ có sự lan toả, phát triển.
Từ mà Upanishad dùng chỉ cái tuyệt đối là Brahma; nó
bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn bri; bri nghĩa là phát triển, lan
toả. Do đó từ tiếng Phạn để chỉ vũ trụ là brahmand.
Chỉ trong thế kỉ này Albert Einstein đã phát hiện ra ý
tưởng này, giả thuyết rằng vũ trụ giãn nở. Năm nghìn năm
trước Albert Einstein, Upanishad đã nói cùng điều đó: rằng
vũ trụ liên tục phát triển và lan toả. Cái tên họ đặt cho vũ
trụ, brahmand, nghĩa là cái lan toả mãi, cái liên tục phát
triển. Không có tận cùng cho sự phát triển đó, không có giới
hạn cho sự phát triển đó.
Sannyasin, thiền nhân, phải sống cuộc sống của mình
theo cách mọi thứ liên tục phát triển, lan toả, không có giới
hạn nào. Tình yêu của bạn, niềm vui của bạn, im lặng của
bạn, cuộc sống của bạn - mọi thứ đều nên được phép phát
triển. Và điều đó có thể xảy ra chỉ nếu bạn cho phép cùng
điều đó xảy ra cho người khác.
Nhưng điều chúng ta đã làm trong hàng nghìn năm
chính là điều ngược lại: chúng ta xâm phạm vào lãnh thổ
của nhau, chúng ta phá huỷ không gian của mọi người nhân
danh tình yêu, nhân danh tình bạn. Chúng ta dùng những lời
đẹp đẽ để che giấu thực tại xấu xí.
Nếu bạn thực sự yêu một người, bạn sẽ cho phép mọi
không gian có thể có cho người đó; bạn sẽ không bao giờ
xâm phạm vào tự do của người đó. Đó là chỉ dẫn duy nhất

18
về yêu của bạn, không phải là những bức thư tình ngu xuẩn
mà bạn viết ra! Bất kì kẻ ngốc nào cũng có thể làm được
điều đó - máy tính có thể làm hơn bạn rất nhiều! Máy tính
có thể viết những bức thư tình, chẳng có vấn đề gì trong nó
cả. Yêu của bạn có thể được chứng minh chỉ bởi một điều
thôi: bạn đem cho người khác bao nhiêu tự do - ngay cả tự
do yêu người khác; đó là chỉ dẫn duy nhất về yêu của bạn.
Và phép màu là, chúng ta càng cho phép lẫn nhau yêu
nhiều người nhất có thể được, bạn sẽ tìm thấy người có tình
yêu vô hạn hướng tới bạn, bởi vì yêu không phải là tiền bạc,
yêu không phải là hàng hoá. Nó là năng lượng bên trong, cái
phát triển lên bằng việc chia sẻ, cái chết đi bởi không chia
sẻ.
Mọi Upanishad đều bắt đầu bằng mật chú hạt mầm. Mật
chú hạt mầm này nghĩa là nó chứa toàn thể Upanishad. Nếu
bạn có thể hiểu mật chú hạt mầm, bạn đã hiểu toàn thể
Upanishad. Toàn thể Upanishad chính là cây mọc ra từ mật
chú hạt mầm. Đây là mật chú hạt mầm:

AUM
Purnamadah
Purnamidam
Purnat puramudachyate
Purnasya purnamadaya
purnameva vashishyate

Trong lời kinh nhỏ bé này toàn thể Upanishad được


bao hàm. Điều tiếp theo chỉ là sự phát triển ra từ hạt mầm
này. Đây là phần không hiển lộ của nó, thế rồi toàn thể
Upanishad là phần hiển lộ của nó.
Và mỗi mật chú hạt mầm này đều có trước nó âm AUM
huyền bí; cái thậm chí còn chứa cả mật chú hạt mầm này.
19
Nếu bạn hiểu AUM, bạn đã hiểu được mọi thứ rồi.
Upanishad được viết ra theo cách thức đẹp thế đấy: trước
hết là AUM… nếu bạn có thể hiểu điều đó thì không cần đi
thêm nữa. AUM nghĩa là cái không; nó không phải là lời, do
đó nó không được viết ra theo thứ tự chữ cái, nó là biểu
tượng.
Nó chứa ba âm: A, U, M. Đây là ba âm cơ sở: A, U, M;
mọi âm khác đều tới từ ba âm này. Đây là ba ngôi cơ sở của
âm thanh; thế rồi toàn thể âm nhạc của cuộc sống phát triển
ra từ điều này.
AUM ngụ ý đích xác điều Thiền nhân gọi là "tiếng vỗ
tay của một bàn tay". AUM là âm nhạc bên trong nhất của
con người bạn. Khi mọi ý nghĩ và ham muốn và kí ức đều
đã mất đi, đã biến mất, và tâm trí tuyệt đối yên tĩnh và im
lặng, không có tiếng ồn bên trong, bạn bắt đầu nghe thấy âm
nhạc hay vô cùng không chứa nghĩa gì. Nó là âm nhạc thuần
khiết không có nghĩa gì, đem cho bạn niềm vui lớn lao, rót
đầy bạn bằng lễ hội, làm cho bạn nhảy múa. Bạn sẽ muốn
kêu lên "Alleluia!" Nhưng bản thân âm nhạc này không có
nghĩa; nó là âm nhạc thuần khiết, không bị ô nhiễm bởi bất
kì nghĩa nào.
AUM biểu thị cho âm nhạc bên trong đó, sự hài hoà bên
trong đó, âm thành rì rào bên trong đó, điều xảy ra khi thân
thể bạn, tâm trí bạn, hồn bạn cùng vận hành trong hoà hợp
sâu sắc, khi cái thấy được và cái không thấy được, cái hiển
lộ và cái không hiển lộ cùng nhảy múa với nhau, khi chúng
giống như hai người yêu ôm nhau yêu mến, hội nhập, tan
chảy vào lẫn nhau, cái hiển lộ làm tình với cái không hiển
lộ, cái không hiển lộ làm tình với cái hiển lộ khi cái hiển lộ
và cái không hiển lộ không còn là hai mà đã trở thành một.
Điều này được biểu diễn trong Upanishad bằng số một
trăm. Số một trăm được dùng để tượng trưng cho trạng thái
20
tối thượng của tính một. Hai số không trong số một trăm
biểu diễn cho "cái này" và "cái đó", cái hiển lộ và cái không
hiển lộ, hiện tượng và con người - hai số không. Cả hai đều
là toàn thể, và khi cả hai cái toàn thể này trở thành một, số
một trong một trăm biểu thị cho tính một đó.
Một trăm là con số tượng trưng; nó có thông điệp. Số
hai - thân thể và linh hồn, thế giới và Thượng đế, cái thay
đổi và cái không đổi, thời gian và vô thời gian, vật chất và
tâm thức - được biểu thị bởi hai số không. Khi hai số không
đó trở thành một, khi chúng không đối kháng nhau - như
trong ba nghìn năm này cái gọi là người tôn giáo đã làm…
Họ đã phá huỷ biểu tượng đẹp này; họ đã để hai số không
này chống đối lẫn nhau. Họ đã tạo ra sự phủ định cuộc sống;
thay vì khẳng định cuộc sống họ đã kết án nó là tội lỗi. Khi
hai số không này hội nhập trong chuyện tình, trong vòng ôm
sâu sắc của những người yêu nhau, thế thì tính một được
sinh ra. Điều đó được biểu thị bởi số một trong một trăm.
Sự tồn tại vật chất đầy đủ với cuộc sống tâm linh đầy
đủ: đó là tính toàn thể. Và đó là thông điệp của tôi cho bạn.
Là người duy vật tâm linh - hay người tâm linh duy vật - bởi
vì với tôi họ không tách biệt. Khía cạnh bên trong là tâm
linh, khía cạnh bên ngoài là vật chất.
Tôn giáo đã phân chia nhân loại thành người duy vật và
người tâm linh. Bây giờ nước Nga xô viết, Trung Quốc và
các nước cộng sản khác nghĩ họ là người duy vật. Họ là
người cộng sản - họ phủ nhận Thượng đế, họ phủ nhận tâm
thức, họ phủ nhận linh hồn, họ phủ nhận cái không hiển lộ;
họ chỉ tin vào vật chất. Từ "vật chất - matter" bắt nguồn từ
"meter - cái đo" - cái có thể được đo đạc. Họ không tin vào
cái không thể đo được. Nhưng cái không thể đo được vẫn có
đó; dù bạn tin hay không tin không thành vấn đề. Việc tin
hay không tin của bạn không tạo ra khác biệt gì cho thực tại.

21
Cái không đo được vẫn có đó, và không chỉ các nhà huyền
bí nói điều đó là như vậy - bây giờ ngay cả các nhà vật lí
cũng nói như vậy, rằng cái không đo được vẫn có đó.
Sự tồn tại là không đo được; nó bao la tới mức nó
không thể nào được đo lường. Và tính bao la đó đang lan
toả, mọi ngày đều càng trở nên một lớn hơn. Nó đã là vô
hạn rồi, và nó liên tục trở nên vô hạn hơn! Nó đã hoàn hảo
rồi, và nó liên tục trở nên ngày một hoàn hảo hơn, từ hoàn
hảo này tới hoàn hảo khác. Nó chưa bao giờ không hoàn hảo
cả, cho nên không có vấn đề từ không hoàn hảo đến hoàn
hảo. Nó bao giờ cũng hoàn hảo, nó bao giờ cũng vô hạn,
nhưng nó liên tục lan toả mãi.
Đây là ngược đời của vật lí học hiện đại. Đây đã từng là
ngược đời cho mọi nhà huyền bí, nhưng họ không lo nghĩ về
điều đó. Đó là lí do tại sao họ được gọi là nhà huyền bí: họ
chấp nhận ngược đời, họ tận hưởng ngược đời. Họ yêu mến
tính ngược đời bởi vì họ biết chân lí chỉ có thể mang tính
ngược đời. Nhưng vật lí học hiện đại rất lúng túng, bởi vì
vật lí học bắt rễ từ logic và logic không thể chấp nhận được
ngược đời. Hoặc nó phải là "cái này" hay "cái kia" - nó bao
giờ cũng phải hoặc cái nọ hoặc cái kia.
Huyền bí chưa bao giờ mang tính cái nọ hoặc cái kia, và
nếu có mang tính cái nọ cái kia như vậy thì nó không phải là
huyền bí. Huyền bí là cả hai/và!
Tất cả những cái gọi là người tôn giáo đều chống lại tôi
- người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo, người Hindu
giáo, người Jain giáo, Phật tử - bởi lẽ đơn giản tôi dạy về
tính toàn thể. Tôi đang dạy cho các sannyasin của tôi: là
người duy vật tâm linh - bởi vì cả hai đều có đấy! Chúng ta
có thể làm được gì? Vấn đề không phải là sự chọn lựa của
chúng ta; nó đã có đấy rồi: vật chất có đó và tâm thức có đó.
Nhà logic bao giờ cũng chọn lựa…
22
Cái gọi là người tâm linh của thế giới này liên tục cố
chứng minh rằng thế giới này là ảo vọng để cho họ có thể
chứng minh rằng chỉ tâm linh tồn tại, thế giới không tồn tại -
nó là maya, nó là ảo vọng, nó là không thật, nó được tạo nên
từ cùng chất liệu tạo ra mơ. Còn người duy vật liên tục làm
cùng điều đó từ cực kia. Người đó nói không có ý thức; ý
thức là hiện tượng phụ. Karl Marc nói rằng ý thức là sản
phẩm phụ của vật chất và không gì hơn; nó không có bản
chất riêng của nó. Vật chất là thực và ý thức chỉ là cái bóng.
Cũng cùng logic đó thôi!
Berkeley nói: ý thức là thực và vật chất chỉ là cái bóng,
ý nghĩ, không gì khác ngoài mơ. Nhưng logic của họ là như
nhau: cả hai sợ việc chấp nhận cả hai, cả hai chọn một. Họ
sống trong thế giới của hoặc cái nọ hoặc cái kia.
Nhưng nhà huyền bí thực sự, nhà huyền bí Upanishad,
chấp nhận cả hai; người đó thậm chí không gọi chúng là hai
- chúng là một mà dường như là hai. Cái hai này là các khía
cạnh của một thực tại: cái bên trong và cái bên ngoài, vật
chất và tâm linh.
Cho nên với tôi không có vấn đề gì: các bạn đều mang
tính tôn giáo và khoa học, các bạn mang tính vật chất và tâm
linh. Sống trong thế giới này và sống một cách vui sướng đi,
nhưng vẫn còn định tâm trong tâm thức của mình. Đây là
việc bắc cầu trở lại Upanishad. Đó là sự phục sinh!

Tại trung tâm của thế giới hiện tượng này


bên trong tất cả những dạng thay đổi của nó,
Vị chúa tể không thay đổi cư ngụ.

Thượng đế hiện diện tại mọi nơi; mọi điều cần là con
mắt để thấy. Thế thì bạn sẽ thấy ngài trong tảng đá và trong
những vì sao và trong chim chóc và trong con vật và trong
23
mọi người xung quanh bạn. Nhưng kinh nghiệm đầu tiên
phải xảy ra bên trong bạn; chỉ thế thì bạn mới có khả năng
thấy ngài ở mọi chỗ khác.

Cho nên, đi ra ngoài việc thay đổi,


và, tận hưởng cái bên trong,
dừng lấy cho mình điều với người khác là của cải

Cái không đổi là Thượng đế còn cái thay đổi là thế giới.
... vượt ra ngoài việc thay đổi…

Đừng chống lại cái thay đổi, nhớ lấy - vượt ra ngoài đi.
Vượt ra ngoài không phải là chống lại. "Vượt ra ngoài"
nghĩa là sống nó, nhưng sống theo cách bạn vẫn còn ở trên
nó, giống như hoa sen vậy. Nó mọc trong hồ nhưng nó vươn
lên trên hồ. Nó sống trong nước, nhưng nước không thể
chạm vào lá mịn như nhung của nó. Ngay cả vào buổi sáng
khi những giọt sương tụ lại trên lá hay cánh hoa sen chúng
vẫn còn tách rời. Những giọt sương này có đó trên lá và bạn
có thể thấy chúng, đẹp thế dưới ánh mặt trời buổi sáng, như
ngọc, nhưng chúng tách rời. Lá vẫn còn tuyệt đối khô ráo;
giọt sương không thể làm cho nó ướt được.
Đó là cách thức của sannyasin, đó là cách thức của
Upanishad: sống trong thế giới vậy mà không là một phần
của nó.

...vượt ra ngoài việc thay đổi,


và, tận hưởng cái bên trong...

Đừng ép buộc - tận hưởng cái bên trong, và thế thì bạn
có thể hiểu cách tiếp cận của tôi rất dễ dàng. Vấn đề không
phải là ép buộc. Thiền phải không bị ép buộc; bạn không
24
phải bắt đầu một loại tổ chức chặt chẽ, với kỉ luật bạo hành.
Bạn không phải là lính, bạn là sannyasin!
Sannyasin đơn giản tận hưởng cái bên trong; người đó
tận hưởng cả cái bên ngoài nữa. Người đó tận hưởng! Người
đó tận hưởng cái bên ngoài và trên cùng con sóng của vui
thích đó người đó đi vào cái bên trong - đó là cùng con
sóng. Điều đó cũng giống như việc thở: hơi thở đi vào và
hơi thở đi ra. Bạn có cho rằng đây là hai việc thở tách biệt
không? Đó là cùng hơi thở cứ đi ra đi vào và đi ra đi vào…
Đó là cùng hơi thở, đó là cùng quá trình. Cùng hơi thở đi
vào và đi ra.
Tận hưởng cái bên ngoài, cưỡi lên niềm vui thích, và đi
vào cái bên trong cũng bằng cùng niềm vui đó, cùng điệu vũ
đó. Đừng tạo ra phân chia - không có phân chia chút nào.
Mọi phân chia đều do các tu sĩ, những nhà đạo đức giả, các
nhà luân lí tạo ra. Họ liên tục tạo ra ranh giới rằng: "Đây là
cái bên ngoài và đây là cái bên trong". Không có đường
phân ranh cái gì là bên ngoài và cái gì là bên trong; chúng là
một phần của một quá trình, một toàn thể.
Cũng như bạn đi ra khỏi nhà bạn… Khi trời quá lạnh
vào buổi sáng bạn đi ra khỏi nhà để ngồi trong ánh mặt trời,
để tắm nắng. Và khi trời thành quá nóng bạn đứng dậy và
bạn đi vào nhà. Không có vấn đề ép buộc; chỉ một chút nhận
biết rằng bây giờ trời quá nóng, cho nên bạn đi vào, vào
bóng râm, vào chỗ mát mẻ của ngôi nhà. Và khi trời quá
lạnh bên trong, chỉ chút ít nhận biết và bạn đi ra.
Tận hưởng cái bên ngoài và cái bên trong theo cùng
cách, và liên tục di chuyển, cưỡi lên cùng con sóng của
niềm vui. Và đừng tạo ra bất kì phân biệt nào - đó là cùng
con sóng, cùng thực tại.

Cho nên, vượt ra ngoài việc thay đổi,


25
và, tận hưởng cái bên trong...

Đừng làm cho điều đó thành cái gì đó rất nghiêm chỉnh.


Đừng làm cho mặt dài ra bởi vì bạn đang thiền, vì bạn là
sannyasin! Nhìn tranh của các thánh nhân mà xem - mặt dài
đến mức sống với các thánh nhân này sẽ thành địa ngục! Tôi
cho rằng các thánh nhân này chẳng bao giờ có thể vào thiên
đường được, hay bất kì chỗ nào họ tới thì họ sẽ tạo ra địa
ngục của họ. Địa ngục là trong cái nghiêm chỉnh của họ.
Có lần người ta hỏi Phật, "Thầy nói gì về việc xảy ra
khi người chứng ngộ chết? Người đó có lên cõi trời không?"
Phật nói, "Đừng hỏi những câu hỏi vô nghĩa! Bất kì chỗ
nào người chứng ngộ hiện hữu, có cõi trời - bất kì chỗ nào
người đó hiện hữu, chẳng thành vấn đề chỗ nào - bất kì chỗ
nào người đó hiện hữu... Nếu người đó xuống địa ngục, địa
ngục sẽ được biến đổi. Sự hiện diện của người đó mang cõi
trời của nó xung quanh người đó."
Cõi trời bao quanh vị Phật, bao quanh người chứng ngộ.
Bạn không thể đẩy người chứng ngộ xuống địa ngục được -
không thể được; và bạn không thể đưa cái gọi là thánh nhân
lên cõi trời được - không thể được. Địa ngục ăn sâu vào con
người họ thế; bất kì chỗ nào họ ở, họ sẽ tạo ra chán ngán
cho chính họ và cho người khác.
Thánh nhân không phải là bạn đồng hành tốt; thậm chí
tội nhân là tốt hơn nhiều. Tôi đã sống với cả hai loại này, và,
tin tôi đi, tội nhân là bạn đồng hành còn tốt hơn thánh nhân
nhiều. Thánh nhân chán lắm! Thánh nhân là lí thú chỉ nếu
họ là thánh nhân theo nghĩa của Upanishad, theo nghĩa tôi
gọi cho các sannyasin của tôi.
Sannyasin của tôi là thánh nhân, nhưng không theo
nghĩa thông thường của việc là thánh nhân Hindu hay thánh

26
nhân Jain hay thánh nhân Ki tô giáo. Thánh nhân Ki tô giáo
dường như xấu nhất - chán tới mức tôi có thể tin vào
Friedrich Nietzsche rằng Thượng đế chết rồi; ngài phải đã tự
tử! Bị bao quanh bởi tất cả những thánh nhân này, ngài có
thể làm gì được, ngài có thể làm cái gì khác được? Ngài
phải tự tử thôi, cảm thấy hoàn toàn chán ngán. Và người bạn
đồng hành này còn có đó cho tới tận vĩnh hằng từ bây giờ!
Bạn không thể thoát được.
Upanishad tràn đầy niềm vui, tràn đầy hoa và hương
thơm.

… tận hưởng cái bên trong - không ép buộc nó -


dừng lấy cho mình điều với người khác là của cải

Và Isa Upanishad không nói điều đó, từ bỏ thế giới. Nó


nói:

… dừng lấy cho mình…

Đừng sở hữu, đừng trở thành người chủ của người hay
vật; chỉ dùng chúng như món quà của vũ trụ. Và khi chúng
sẵn có, dùng chúng; khi chúng không sẵn có, tận hưởng tự
do. Khi bạn có cái gì đó, tận hưởng nó; khi bạn không có nó,
tận hưởng việc không có nó - điều đó nữa cũng có cái đẹp
của riêng nó.
Nếu bạn có cung điện để sống, tận hưởng đi! Nếu bạn
không có, thế thì tận hưởng chiếc lều và chiếc lều trở thành
cung điện. Chính sự thích thú mới tạo ra khác biệt. Thế thì
sống dưới gốc cây và tận hưởng điều đó. Đừng bỏ lỡ cây và
hoa và tự do và chim chóc và không khí và mặt trời. Và khi
bạn ở trong cung điện đừng bỏ lỡ nó - tận hưởng đá cẩm
thạch và chùm đèn treo...
27
Tận hưởng bất kì chỗ nào bạn hiện hữu, và không sở
hữu cái gì cả. Không cái gì thuộc về chúng ta. Chúng ta tới
thế giới này với bàn tay trống và chúng ta ra đi cũng với bàn
tay trống. Thế giới này là món quà, cho nên tận hưởng trong
khi nó có đó. Và nhớ, vũ trụ này bao giờ cũng cho bạn cái
bạn cần.
Một nhà huyền bí Sufi hàng ngày thường hay nói trong
lời cầu nguyện của mình, "Xin cám ơn ngài, Thượng đế, về
tất cả những điều ngài liên tục làm cho con. Làm sao con
đáp lại được? Con cảm thấy biết ơn thế!"
Có lần chuyện xảy ra là ông ấy đi du hành và trong ba
ngày nhóm của ông ấy bị từ chối chỗ ở vì họ bị coi là người
dị giáo, họ bị coi là phản tôn giáo, nổi dậy. Họ không được
cho thức ăn, thậm chí không cho cả nước uống, và không có
chỗ trú ngụ. Trong ba ngày, đói, khát...
Và ngày thứ ba khi ông ấy cầu nguyện, lần nữa ông ấy
nói với Thượng đế, "Xin cám ơn ngài! Làm sao con có thể
đền đáp được ngài? Con cảm thấy biết ơn thế!"
Bây giờ thế thì quá lắm. Đệ tử của ông ấy nói, "Bây giờ
là lúc phải nói cái gì đó chứ!" Họ nói, "Khoan đã - xin đợi
một chút! Thầy đang cám ơn cái gì vậy? Đã ba ngày rồi
chúng ta bị đói, khát, không chỗ trú ngụ, trong sa mạc, phó
mặc cho dã thú. Thầy đang cám ơn cái gì vậy?"
Và người Sufi này cười to và ông ấy nói, "Các ông
không hiểu - đây là điều ta phải cần tới cho ba ngày này!
Thượng đế bao giờ cũng cho ta bất kì cái gì ta cần. Điều này
phải đã là nhu cầu của ta, bằng không ngài đã không trao nó
cho ta rồi. Ta cám ơn vì điều đó. Ngài bao giờ cũng chăm
sóc. Ngài không bận tâm điều ta muốn; ngài bao giờ cũng
cho điều ngài cảm thấy là đúng. Ta đang cám ơn ngài... ba
ngày nhịn ăn, ba ngày không chỗ trú, ba ngày dưới bầu trời

28
mở đầy sao trong sa mạc, ngủ trong sa mạc, và không dã thú
nào tấn công chúng ta. Và sao các ông lại trông buồn thế?
Điều đó phải đã là nhu cầu thực của chúng ta đấy chứ!"
Đây là tin cậy, và đây là thái độ vui sướng. Đây là tính
chất sannyas thực!

Liên tục hành động trong thế giới,


người ta có thể mong mỏi được một trăm.

Liên tục hành động trong thế giới, và bây giờ nhớ:
người ta có thể mong mỏi được một trăm. Điều đó không có
nghĩa chỉ là sống lâu. Tất nhiên, nó cũng có nghĩa điều đó
nữa, bởi vì các nhà tiên tri Upanishad không chống lại cuộc
sống; họ muốn sống lâu và sống vui vẻ, cho nên điều đó là
hoàn toàn tốt - nghĩa đó là hoàn toàn đúng.
Mong mỏi sống lâu dài và ước mong sống sâu sắc, và
mong mỏi sống mãnh liệt và đam mê - hoàn toàn đúng! -
nhưng đừng quên biểu tượng của một trăm. Đó là nghĩa
đúng, nghĩa cao hơn, nghĩa vô hình.

... người ta có thể mong mỏi được một trăm.

Ngay cả sống và hành động trong thế giới bạn cũng có


thể trở thành số một. Hai số không kia của thế giới này và
thế giới kia, hai số không kia của thân thể và hồn, hai số
không kia của thay đổi và không đổi, có thể gặp gỡ và hội
nhập thành số một ngay cả khi bạn đang hành động trong
thế giới, cho nên không có nhu cầu từ bỏ.

Vậy, và chỉ vậy, con người mới có thể tự do


khỏi việc trói buộc với ảnh hưởng của hành động.

29
Không phải bởi từ bỏ hành động mà bởi hành động
trong nhận biết thế, trong tính thiền sâu sắc thế, người ta trở
nên tự do với hành động và tác động trói buộc của nó.

Người không được khai sáng thực sự là người của


thế giới bị che mờ bởi bóng tối mù quáng của dốt
nát.

Upanishad gọi mọi người là dốt nát... nếu họ sống theo


một nửa thì họ dốt nát. Người duy vật là kẻ dốt nát, người
tâm linh là kẻ dốt nát, bởi vì cả hai đều không nhận biết về
cái toàn thể. Chỉ người biết cái toàn thể có hiểu biết.

Tất cả những người giết chết cái ngã đều chìm vào
trong cái chết này.

Và với việc phân chia con người bạn làm đôi, điều đó
cũng giống như việc giết chết chính con người bạn, giết chết
chính bản thân bạn. Đừng tự làm mình què quặt, đừng tự
làm mình tê liệt. chấp nhận tính toàn bộ của bạn và sống nó
một cách vui sướng.

AUM
Purnamadah
Purnamidam
Purnat puramudachyate
Purnasya purnamadaya
purnameva vashishyate
AUM
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.

30
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể,
tính toàn thể vẫn còn lại.

31
32
2. Sống trong ánh sáng
riêng của bạn

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,Thượng đế là gì?

Prem Sukavi,
Thượng đế không phải là người. Đó là một trong những
hiểu lầm lớn nhất, và điều đó đã lan tràn lâu tới mức nó đã
trở thành gần như sự kiện. Ngay cả lời nói dối được lặp lại
liên tục hàng thế kỉ, nó nhất định có vẻ dường như nó là
chân lí.
Thượng đế là sự hiện diện, không phải là người. Do đó
mọi tôn thờ là cực kì ngu xuẩn. Tính cầu nguyện được cần,
không phải lời cầu nguyện. Không có ai để cầu nguyện;
không có khả năng nào cho bất kì đối thoại nào giữa bạn và
Thượng đế. Đối thoại là có thể chỉ giữa hai người, và

33
Thượng đế không phải là người mà là sự hiện diện - như cái
đẹp, như niềm vui.
Thượng đế đơn giản nghĩa là tính thượng đế. Chính bởi
sự kiện này mà Phật đã phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế.
Ông ấy muốn nhấn mạnh rằng Thượng đế là phẩm chất, là
kinh nghiệm - như yêu. Bạn không thể nói về yêu, bạn có
thể sống nó. Bạn không cần tạo ra ngôi đền của yêu, bạn
không cần làm tượng của yêu, và cúi lạy những bức tượng
đó sẽ chỉ là vô nghĩa. Và đó là điều đã xảy ra trong các nhà
thờ, trong đền chùa, trong nhà thờ Hồi giáo.
Con người đã sống dưới ấn tượng về Thượng đế như
người, và thế rồi hai thảm hoạ đã xảy ra qua điều đó. Một là
cái gọi là người tôn giáo, người coi Thượng đế ở đâu đó trên
cao, trên trời và bạn phải ca tụng ngài, thuyết phục ngài ban
ân huệ cho bạn, giúp bạn hoàn thành những ham muốn của
bạn, làm cho tham vọng của bạn thành công, trao cho bạn
của cải của thế giới này và của thế giới khác. Và đây là lãng
phí thời gian và năng lượng cực kì.
Và ở cực đối lập những người thấy cái ngu xuẩn của nó
tất cả đều trở thành vô thần; họ bắt đầu phủ nhận sự tồn tại
của Thượng đế. Họ đúng theo nghĩa nào đó, nhưng họ cũng
sai. Họ bắt đầu phủ nhận không chỉ tính cá nhân của
Thượng đế, họ bắt đầu phủ nhận ngay cả sự tồn tại của
Thượng đế.
Người hữu thần sai, người vô thần sai, và con người cần
cái nhìn mới để cho con người có thể thoát khỏi cả hai nhà
tù này.
Thượng đế là kinh nghiệm tối thượng về im lặng, về cái
đẹp, về phúc lạc, trạng thái mở hội bên trong. Một khi bạn
bắt đầu nhìn vào Thượng đế như tính thượng đế, sẽ có thay

34
đổi triệt để trong cách tiếp cận của bạn. Thế thì lời cầu
nguyện không còn có giá trị nữa; thiền trở thành có giá trị.
Martin Buber nói cầu nguyện là đối thoại; thế thì giữa
bạn và Thượng đế có mối quan hệ "tôi-ngài" - nhị nguyên
còn dai dẳng. Phật gần với chân lí hơn nhiều: bạn đơn giản
vứt bỏ mọi huyên thuyên của tâm trí, bạn tuột ra khỏi tâm trí
như con rắn tuột ra khỏi lớp da cũ. Bạn trở thành im lặng
sâu sắc. Không có vấn đề về bất kì đối thoại nào, không có
vấn đề về bất kì độc thoại nào nữa. Lời đã biến mất khỏi tâm
thức của bạn. Không có ham muốn về ân huệ nào cần được
xin, không có tham vọng nào cần được hoàn thành. Người ta
ở đây và bây giờ. Trong an bình đó, trong bình thản đó, bạn
trở nên nhận biết về phẩm chất chói sáng của sự tồn tại. Thế
thì cây và núi và sông và người tất cả đều được bao quanh
bằng hào quang tinh tế. Chúng tất cả đều toả ra sự sống, và
đó là sự sống trong các hình dạng khác nhau. Việc nở hoa
của sự tồn tại trong hàng triệu hình dạng, trong hàng triệu
đoá hoa.
Kinh nghiệm này là Thượng đế. Và đó là quyền tập ấm
của mọi người, bởi vì dù bạn có biết nó hay không bạn cũng
đã là một phần của nó rồi. Khả năng duy nhất là bạn có thể
không nhận ra nó hay bạn có thể nhận ra nó.
Khác biệt giữa người chứng ngộ và người chưa chứng
ngộ không phải là ở phẩm chất - cả hai đều tuyệt đối giống
nhau. Chỉ có một khác biệt nhỏ: đó là người chứng ngộ nhận
biết; người đó nhận ra điều tối thượng tràn ngập cái toàn thể,
thấm vào cái toàn thể, rung động, giao động. Người đó nhận
ra rằng vũ trụ không chết, nó sống động.
Sự sống động này là Thượng đế!
Người chưa chứng ngộ còn ngủ, ngủ và đầy mơ. Những
mơ đó vận hành như rào chắn; chúng không cho người đó

35
thấy chân lí của thực tại riêng của người đó. Và, tất nhiên,
khi bạn thậm chí không nhận biết về thực tại riêng của bạn,
làm sao bạn có thể nhận thức về thực tại của người khác?
Kinh nghiệm đầu tiên phải xảy ra bên trong bạn. Một khi
bạn đã thấy ánh sáng bên trong bạn, sẽ có khả năng thấy nó
ở mọi nơi.
Thượng đế phải được giải phóng khỏi mọi quan niệm
về nhân cách. Nhân cách là nhà tù. Thượng đế phải được
giải phóng khỏi bất kì hình dạng nào; chỉ thế thì ngài có thể
có mọi hình dạng. Ngài phải được giải phóng khỏi bất kì cái
tên riêng nào để cho mọi tên đều trở thành tên của ngài.
Thế thì người ta sống trong lời nguyện - người đó
không cầu nguyện, người đó không đi tới đền chùa, tới nhà
thờ. Bất kì chỗ nào người đó ngồi người đó đều mang tính
cầu nguyện, và trong tính cầu nguyện đó người đó tạo ra
ngôi đền của mình. Người đó bao giờ cũng đi cùng ngôi đền
của mình bao quanh mình. Bất kì chỗ nào người đó ngồi,
chỗ đó trở thành linh thiêng, bất kì cái gì người đó chạm vào
đều trở thành vàng. Nếu người đó im lặng thì im lặng của
người đó là vàng; nếu người đó nói thì bài ca của người đó
là vàng. Nếu người đó một mình, tính một mình của người
đó là thiêng liêng; nếu người đó trong quan hệ, việc quan hệ
của người đó là thiêng liêng.
Điều cơ sở, điều nền tảng nhất là nhận biết về cốt lõi
bên trong nhất của riêng bạn, bởi vì đó là bí mật của toàn thể
sự tồn tại. Đó là chỗ Upanishad mang tính cực kì quan
trọng. Họ không nói về Thượng đế, họ nói về tính thượng
đế. Họ không bận tâm tới lời nguyện, toàn thể sự nhấn mạnh
của họ là vào thiền.
Thiền có hai phần: bắt đầu và kết thúc. Việc bắt đầu
được gọi là dhyana (thiền) và việc kết thúc được gọi là
samadhi (ngộ). Thiền là hạt mầm, ngộ là việc nở hoa. Thiền
36
nghĩa là trở nên nhận biết về tất cả việc làm của tâm trí bạn,
mọi tầng của tâm trí bạn - kí ức của bạn, ham muốn của bạn,
ý nghĩ của bạn, giấc mơ - trở nên nhận biết về tất cả những
cái liên tục diễn ra bên trong bạn.
Thiền có tính nhận biết, ngộ là khi tính nhận biết đã trở
thành sâu sắc, sâu lắng, toàn bộ tới mức nó giống như ngọn
lửa và nó làm tiêu tan toàn thể tâm trí và vận hành của tâm
trí. Nó làm tiêu tan các ý nghĩ, ham muốn, tham vọng, hi
vọng, mơ mộng. Nó làm tiêu tan đi toàn thể chất liệu vẫn
tràn đầy tâm trí.
Ngộ là trạng thái khi nhận biết có đó, nhưng không có
gì để nhận biết bên trong bạn; nhân chứng có đó, nhưng
không có gì để chứng kiến.
Bắt đầu với dhyana, với thiền, và kết thúc trong
samadhi, ngộ, trong cực lạc, và bạn sẽ biết Thượng đế là gì.
Đấy không phải là giả thuyết, đấy là kinh nghiệm. Bạn phải
yêu nó - đó là cách duy nhất để biết nó.

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Bài nói của thầy về Isa Upanishad hay thế. Tôi đã
nghe người ta nói rằng Upanishad là những lời
bình chú hay sự mở rộng của Veda. Điều đó đúng
không? Tôi cúi lạy thầy.

Anand Santamo,

37
Upanishad không phải là những lời bình chú về Veda,
mà chúng cũng không phải là những mở rộng của Veda. Tất
nhiên, người Hindu liên tục nhấn mạnh rằng chúng là những
lời bình chú hay mở rộng của Veda, nhưng đó chỉ là những
điều dối trá do các tu sĩ duy trì vì các lí do riêng của họ.
Thực tế, Upanishad là sự nổi dậy chống lại Veda. Cái
tên khác cho Upanishad là vedanta. Các tu sĩ liên tục nói
rằng vedanta nghĩa là tột đỉnh của Veda; từ này có thể được
diễn giải theo cách đó, nhưng thực tế nó có nghĩa là kết thúc
của Veda và bắt đầu của cái gì đó tuyệt đối mới. Veda là rất
tầm thường khi được so sánh với Upanishad.
Upanishad nói rằng có hai loại tri thức: loại thấp hơn và
loại cao hơn. Tri thức thấp hơn là cõi của tu sĩ, học giả, bác
học, còn tri thức cao hơn là thế giới của chư Phật, của những
người chứng ngộ. Tu sĩ là nhà kinh doanh; toàn thể nỗ lực
của ông ta là để khai thác mọi người nhân danh tôn giáo.
Ông ta áp bức mọi người, thống trị mọi người, và tất nhiên
ông ta liên tụcnói, "Điều đó là vì chính bạn đấy." Ông ta làm
cho mọi người sợ về địa ngục và tham về vui thú cõi trời.
Đây là thủ đoạn tâm lí. Ông ta biết mọi người sợ, ông ta biết
mọi người tham, cho nên đây là hai điều ông ta liên tục thao
túng: sợ và tham. Và điều này được thực hiện bởi mọi tu sĩ
trong mọi tín ngưỡng trên khắp thế giới.
Upanishad là nổi dậy chống lại giới tu sĩ. Upanishad
không phải là các bình chú về Veda chút nào - Veda là thứ
rất trần tục, thông thường. Vâng, thỉnh thoảng bạn có thể
tìm thấy một lời kinh trong Veda thật hay, nhưng điều đó
chỉ chiếm nhiều nhất là một phần trăm thôi. Chín mươi chín
phần trăm là rác rưởi, trong khi Upanishad một trăm phần
trăm là vàng ròng - chúng là các phát biểu của những người
đã biết.

38
Veda đầy những lời cầu nguyện về những điều trần tục:
mùa màng tốt hơn, bò tốt hơn, tiền nhiều hơn, mạnh khoẻ
hơn, danh vọng, quyền lực, uy tín. Mà không chỉ thế thôi,
Veda liên tục cầu nguyện "tiêu diệt kẻ thù", "Tiêu diệt
những kẻ đối lập với chúng ta." Chúng đầy những ghen tị,
hằn học, bạo hành. Chúng không liên quan gì tới Upanishad.
Upanishad không phải là lời bình chú và chúng cũng
không phải là tột đỉnh của Veda. Upanishad là sự bắt đầu
hoàn toàn mới. Chính từ Upanishad có tầm quan trọng mênh
mông. Từ Upanishd bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn shad. Shad
có nhiều nghĩa và tất cả đều có ý nghĩa. Nghĩa thứ nhất là
"ngồi".
Thiền nhân nói:
Ngồi im, không làm gì,
Xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.
Đó là nghĩa của shad: chỉ ngồi im lặng trong thiền sâu;
không chỉ ngồi về mặt vật lí mà ngồi sâu cả về mặt tâm lí
nữa. Bạn có thể ngồi về mặt vật lí theo tư thế yoga, nhưng
tâm trí liên tục chạy, đuổi; thế thì đó không phải là ngồi
đúng. Vâng, về mặt vật lí bạn có vẻ tĩnh lặng, nhưng về mặt
tâm lí bạn đang chạy theo đủ mọi hướng.
Shad nghĩa là ngồi cả về mặt vật lí và tâm lí, bởi vì thân
thể và tâm trí không phải là hai thứ, không phải là hai thực
thể tách biệt. Thân thể và tâm trí là một thực tại. Chúng ta
không nên dùng cụm từ "thân và tâm"; chúng ta nên tạo ra
một từ thôi, "thân tâm". Thân thể là cái vỏ bên ngoài của
tâm trí và tâm trí là phần bên trong của thân thể. Trừ phi cả
hai ở trong tư thế ngồi, không chạy đi đâu cả - vào quá khứ,
vào tương lai - không chạy đi đâu cả, chỉ ở trong hiện tại,
bây giờ và ở đây... đó là nghĩa của shad; nó chính là nghĩa
của thiền.

39
Nó cũng có nghĩa là "lắng đọng". Bạn bao giờ cũng
trong hỗn loạn, trong trạng thái rối loạn, không ổn định, bao
giờ cũng do dự, lẫn lộn, không biết làm cái gì, không làm
cái gì. Không có sáng tỏ bên trong - biết bao nhiêu đám
mây, biết bao nhiêu khói bao quanh bạn. Khi tất cả những
đám mây này đã biến mất, khi tất cả những hỗn loạn này đã
biến mất, khi không có lẫn lộn chút nào, điều đó được gọi là
lắng đọng.
Khi người ta được lắng đọng tuyệt đối, sáng tỏ nảy sinh,
cái nhìn mới. Người ta bắt đầu thấy cái gì là hoàn cảnh. Mắt
không còn bị khói bụi bao phủ nữa; lần đầu tiên bạn có mắt
để nhìn cái đang hiện hữu.
Nghĩa thứ ba của shad là "tiến tới". Bạn bị lẫn lộn, bạn
đang sống trong tối, bạn không biết bạn là ai, bạn không biết
ý nghĩa cuộc sống của bạn, của sự tồn tại của bạn. Bạn phải
tiến tới tới ai đó, người đã về tới nhà, người đã tìm ra con
đường. Bạn phải tiến tới tới vị Phật, tới Thầy đã chứng ngộ -
một Lão Tử, một Zarathustra, một Jesus, một Mohammed.
Bạn phải tiến tới tới ai đó đang rực cháy cùng Thượng đế,
đang bốc lửa, người đang toả ra tính thượng đế, trong sự
hiện diện của người đó bạn cảm thấy được tắm, được làm
tươi lại, trong sự hiện diện của người đó cái gì đó bắt đầu
rơi đi từ tâm bạn - toàn thể gánh nặng, lo âu, phiền muộn -
và cái gì đó bắt đầu trào lên từ bên trong bạn: niềm vui mới,
sáng suốt mới. Do đó có nghĩa "tiến tới".
Upa-ni-shad được tạo nên từ ba từ. Shad là ngồi, lắng
đọng, tiến tới - tiến tới tới một Thầy, để ngồi cạnh thầy
trong trạng thái lắng đọng, im lặng. Và từ tiền tố upa có
nghĩa là gần, cạnh, trong hoà hợp, trong hài hoà với, trong
giao cảm... Khi bạn lắng đọng, ngồi im lặng bên Thầy,
không làm gì cả, không chạy đi đâu cả, thế thì hài hoà phát
sinh giữa bạn và Thầy, gần gũi, thân mật, thân thiết, khả

40
năng giao cảm, gặp gỡ của tâm với tâm, gặp gỡ của con
người với con người, hội nhập, giao cảm. Còn ni nghĩa là hạ
xuống, buông xuôi, trong trạng thái cầu nguyện, trong trạng
thái của vô ngã.
Đây là toàn thể nghĩa của từ Upanishad: ngồi trong
trạng thái lắng đọng, không lẫn lộn, sáng tỏ, tiến tới Thầy
trong vô ngã, buông xuôi, trong tính cầu nguyện sâu sắc,
mở, mong manh, để cho giao cảm trở thành có thể.
Đây là Upanishad - điều đang xảy ra ngay bây giờ giữa
bạn và tôi. Việc ngồi im lặng này, trong tâm trạng sâu sắc,
yêu mến, cầu nguyện, nghe tôi không phải qua trí tuệ mà
qua tâm, uống lấy, không chỉ nghe - giao cảm này là
Upanishad! Chúng ta đang sống Upanishad, và đó là cách
duy nhất để hiểu Upanishad là gì. Nó phải trở thành kinh
nghiệm sống cho bạn.
Veda bao gồm đủ loại tri thức của những ngày thời ấy.
Chúng là một loại Bách khoa thư, tất nhiên rất nguyên thuỷ,
ít nhất cũng cổ tới mười nghìn năm rồi - ít nhất đấy - có thể
chúng còn cổ hơn thế nữa. Các học giả vẫn chưa quyết định
được; có tranh luận rất lớn về thời điểm Veda được soạn ra.
Khả năng là chúng đã không được soạn ra vào một thời kì,
chúng đã được soạn ra vào những thời kì khác nhau. Có
những người nói chúng cổ ít nhất cũng đã chín mươi nghìn
năm; cho nên từ chín mươi nghìn năm cho tới mười nghìn
năm, một quãng thời gian dài.
Veda còn có tên là samhitas; samhitas nghĩa là tài liệu
sưu tập, bách khoa toàn thư. Chúng chứa mọi thứ, đủ mọi
loại thông tin của những ngày đó. Upanishad mang tính tôn
giáo thuần khiết, không gì khác. Từng lời một đều là ngón
tay chỉ trăng. Chúng không phải là tài liệu sưu tập của đủ
mọi loại tri thức; toàn thể sự nhấn mạnh của chúng là về
kinh nghiệm tức khắc về cái đang hiện hữu. Nhấn mạnh là
41
vào kinh nghiệm trực tiếp, không vay mượn - không từ kinh
sách, không từ người khác. Nó phải là chân lí riêng của bạn;
chỉ thế thì nó giải thoát.
Jesus nói: Chân lí giải thoát. Chắc chắn chân lí giải
thoát, nhưng nó phải là của riêng bạn. Nếu nó là của ai đó
khác, thế thì thay vì giải thoát nó cầm tù. Người Ki tô giáo
bị cầm tù, Jesus được giải thoát. Người Hindu bị cầm tù,
Krishna được giải thoát. Phật tử bị cầm tù, Phật được giải
thoát. Giải thoát tới bằng trải nghiệm chân lí theo cách riêng
của bạn; nó phải không là việc tích luỹ thông tin, nó phải là
biến đổi bên trong.
Nhấn mạnh của Upanishad là về kinh nghiệm ngay lập
tức và trực tiếp về tính thượng đế. Và tại sao vay mượn khi
có thể uống trực tiếp từ nguồn? Nhưng thông tin dường như
là rẻ. Biến đổi dường như là gian nan. Biến đổi nghĩa là bạn
sẽ phải trải qua cuộc cách mạng vĩ đại bên trong; thông tin
không đòi hỏi cách mạng trong bạn, không thay đổi triệt để
nào trong bạn cả. Thông tin đơn giản là thứ thêm vào: bất kì
cái gì bạn đang vậy, bạn vẫn còn như vậy, nhưng bạn trở
nên ngày một thông thái hơn.
Thông thái không phải là trí huệ; thông thái ngược lại
chính là cản trở trí huệ. Bạn càng trở nên thông thái, càng ít
có khả năng đạt tới kinh nghiệm riêng của bạn, bởi vì tri
thức lừa dối - nó lừa dối người khác, nó lừa dối bạn. Nó liên
tục cho bạn cảm giác dường như bạn biết, nhưng cái "dường
như" đó phải không được quên. Cái "dường như" đó có thể
dễ dàng bị quên khuấy đi và người ta có thể bị lừa.
Nhớ một câu châm ngôn rất có ý nghĩa trong
Upanishad: Những người dốt nát, họ nhất định bị lạc trong
bóng tối; còn những người thông thái, họ nhất định bị lạc
trong bóng tối còn lớn hơn và xa hơn cả người dốt nát.

42
Người dốt nát ít nhất vẫn còn thật thà: người đó biết
rằng mình không biết; ít nhất chân lí này cũng có đó. Nhưng
người thông thái che đậy vết thương của mình, dốt nát của
mình, lỗ đen của mình. Người đó che đậy chúng bằng kinh
sách và người đó bắt đầu giả vờ rằng mình biết. Người đó
đang làm hại người khác, nhưng điều đó là phụ, điều có ý
nghĩa hơn nhiều là ở chỗ người đó đang làm hại chính mình.
Người đó sẽ bị lạc trong bóng tối còn sâu hơn nhiều.
Đó là lí do tại sao rất khó cho các nhà bác học, các học
giả, cái gọi là người uyên bác, trở nên chứng ngộ; đấy quả là
phép màu nếu nó xảy ra. Kẻ tội lỗi dễ dàng hơn cho việc sẵn
sàng trải qua biến đổi vì họ chẳng có gì để mất - ngoại trừ
xiềng xích của họ, ngoại trừ dốt nát của họ. Nhưng người
thông thái sợ mất tri thức của mình; đó là kho báu của người
đó. Người đó bám lấy nó, người đó bảo vệ nó theo đủ mọi
cách. Người đó tìm cách hợp lí hoá, những cái cớ tại sao tri
thức lại cần phải được bảo vệ. Nhưng thực tế, bằng việc bảo
vệ tri thức của mình người đó đơn giản bảo vệ dốt nát của
mình. Ẩn đằng sau tri thức là dốt nát của người đó. Tri thức
chỉ là cái mặt nạ che phủ mặt nguyên thuỷ của người đó.
Bạn không thể thấy được mặt nguyên thuỷ của người đó,
bản thân người đó cũng không thể thấy được nó. Người đó
đeo mặt nạ, và nhìn vào gương người đó nghĩ, "Đây là mặt
nguyên thuỷ của mình."
Rất khó cho người thông thái vứt bỏ đi tri thức của
mình và trở thành người dốt nát lần nữa. Chừng nào người
đó còn chưa thu được đủ can đảm để lại trở thành người dốt
nát, trở thành lại giống như trẻ thơ - hồn nhiên, không biết
gì cả, điều Dionysius gọi là agnosia, đi vào trong trạng thái
của việc không biết...
Chắc chắn rất gian nan cho người thông thái - toàn thể
cuộc sống người đó đã tích luỹ hoài tri thức. Người đó đã bỏ

43
phí hoài cả đời mình, người đó đã đầu tư cả đời mình vào tri
thức. Làm sao người đó có thể vứt bỏ nó đi được? Cho nên
người đó bảo vệ nó, người đó tranh đấu cho nó.
Và đây là điều đáng ngạc nhiên nhất trên thế giới: tù
nhân đang tranh đấu để cho bạn không thể đưa người đó ra
khỏi nhà tù! Và tất nhiên người đó rất láu cá và rất tinh ranh,
cho nên người đó có thể chơi với từ ngữ và người đó có thể
trích dẫn kinh sách, nhưng mọi trích dẫn của người đó đều
như vẹt; người đó không có hiểu biết.
Upanishad nhấn mạnh vào trải nghiệm trực tiếp. Veda
thuộc vào các tu sĩ, các học giả, thuộc vào các brahmins,
những người chính là tu sĩ cổ nhất trên thế giới. Và tất
nhiên, bởi vì họ là cổ nhất nên họ cũng tinh ranh nhất trên
toàn thế giới. Không tôn giáo nào khác có thể đánh bại được
các tu sĩ Hindu, hiển nhiên: ông ta đã sống lâu thế, ông ta đã
trở nên rất láu cá trong khai thác, ông ta đã trở nên rất tinh
ranh trong việc hợp lí hoá, trong việc bảo vệ.
Upanishad là chiều hướng hoàn toàn khác. Tất nhiên
chúng không nói ngôn ngữ của nổi dậy - chúng rất hiền dịu -
nhưng nổi dậy vẫn có đó. Bởi vì Upanishad đã không thể tạo
ra được cuộc cách mạng nên Phật phải nói theo giọng điệu
gay gắt.
Phật nói cùng chân lí như Upanishad, nhưng cách thức
của ông ấy đã thay đổi. Thấy rằng Upanishad đã không gây
được tác động nào - bởi vì các tu sĩ bắt đầu thao túng: cả
Upanishad nữa và họ bắt đầu nói rằng Upanishad chẳng là
gì ngoài những lời bình chú về Veda - Phật phải tỉnh táo
hơn. Ông ấy đã không hiền dịu như Upanishad. Tất nhiên
thông điệp của ông ấy vẫn là vậy, nhưng hai, ba nghìn năm
đã trôi qua kể từ thời Upanishad được soạn ra và một điều
Phật đã trở nên tuyệt đối rõ ràng: rằng bạn phải rất khắc

44
nghiệt, rất nghiên khắc. Ông ấy đã mài sắc lưỡi kiếm của
mình.
Hai mươi nhăm thế kỉ lại đã trôi qua rồi, cùng một thời
kì. Upanishad và Phật bị phân chia bởi hai mươi nhăm thế
kỉ; giữa tôi và Phật lại hai mươi nhăm thế kỉ đã trôi qua. Tôi
phải mài lưỡi kiếm của tôi còn sắc bén hơn nữa, bởi vì Phật
cũng đã thất bại.
Dốt nát của con người là sâu sắc và các tu sĩ cũng tinh
ranh tới mức người ta phải thực sự cứng rắn. Nếu người ta
có từ bi, người ta phải tàn nhẫn, chỉ thế thì toàn thể cái ngu
xuẩn đã tồn tại nhân danh tôn giáo có thể bị phá huỷ và con
người có thể được tự do. Con người cần tự do khỏi mọi nhà
tù, khỏi mọi gông cùm.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Xin thầy nói điều gì đó về sự chân thành?

Yoga Punya,
Con người có thể sống theo hai cách: hoặc con người có
thể sống theo mệnh lệnh của người khác - những người khắt
khe đạo đức, các nhà đạo đức - hay con người có thể sống
theo ánh sáng riêng của mình. Theo người khác là dễ, điều
đó thuận tiện và thoải mái, bởi vì khi bạn theo người khác,
họ cảm thấy rất thoải mái và hạnh phúc với bạn.
Bố mẹ bạn sẽ sung sướng nếu bạn theo các ý tưởng của
họ, mặc dầu ý tưởng của họ tuyệt đối vô giá trị vì ý tưởng

45
của họ không làm cho cuộc sống của họ chói sáng, và điều
đó rõ ràng thế. Họ đã sống trong khổ, dầu vậy họ vẫn muốn
áp đặt ý tưởng của họ lên con cái. Họ không thể thấy được
một sự kiện đơn giản: rằng cuộc sống của họ đã là thất bại,
rằng cuộc sống của họ đã không mang tính sáng tạo, rằng
cuộc sống của họ chưa bao giờ nếm trải phúc lạc, rằng họ đã
không có khả năng phát hiện ra chân lí. Họ đã không biết tới
niềm huy hoàng của sự tồn tại, họ chẳng có ý tưởng nào về
nó tất cả là gì. Dầu vậy bản ngã của họ vẫn cứ khăng khăng
rằng trẻ em phải vâng lời, chúng phải tuân theo những mệnh
lệnh của họ.
Các bậc bố mẹ người Hindu sẽ buộc con cái trở thành
người Hindu, và họ thậm chí không nghĩ một khoảnh khắc
điều gì đã xảy ra cho họ. Họ đã tuân theo cùng ý tưởng đó
cả đời họ và cuộc sống của họ trống rỗng; chẳng cái gì đã nở
hoa. Nhưng họ tận hưởng ý tưởng rằng con họ biết vâng lời
và chúng đang tuân theo họ. Họ đã sống trong khổ, trong địa
ngục, và con họ sẽ sống trong khổ, trong địa ngục, nhưng họ
nghĩ họ yêu con họ. Với tất cả những ý định tốt lành đó họ
phá huỷ tương lai của con họ.
Các chính khách cố theo đủ mọi cách rằng xã hội nên
sống theo các ý tưởng của họ, và tất nhiên họ giả vờ với
người khác và với chính họ rằng họ đang phục vụ công
chúng. Tất cả những điều họ đang làm là phá huỷ tự do của
mọi người. Họ đang cố áp đặt mê tín nào đó đã từng bị áp
đặt lên họ bởi bố mẹ họ, bởi những người lãnh đạo, bởi các
tu sĩ.
Chính khách, tu sĩ, các nhà giáo dục, tất cả họ đang cố
tạo ra một nhân loại giả dối; họ đang tạo ra con người không
thành thực. Họ có thể không có ý định làm như vậy, nhưng
đấy là điều đã xảy ra. Và cây được đánh giá bằng quả; ý
định của người làm vườn không thành vấn đề. Nếu người đó

46
gieo cỏ dại và hi vọng, dự định, ham muốn rằng hoa hồng sẽ
mọc ra chỉ bởi vì ý định tốt của mình, hoa hồng không định
mọc ra từ cỏ dại đâu. Người đó đã phá huỷ toàn bộ cánh
đồng. Áp đặt cấu trúc nhân cách nào đó lên bất kì ai là làm
cho người đó trở thành không chân thành, là làm cho người
đó thành kẻ đạo đức giả.
Chân thành, Yoga Punya, nghĩa là sống theo ánh sáng
riêng của bạn. Do đó yêu cầu đầu tiên của chân thành là có
tính thiền. Điều đầu tiên là không phải là đạo đức, không
phải là tốt, không phải là đức hạnh: điều quan trọng nhất là
có tính thiền - để cho bạn có thể tìm thấy ánh sáng nhỏ bé
bên trong bản thân bạn và thế rồi bắt đầu sống theo ánh sáng
đó. Và khi bạn sống, nó phát triển lên và nó cho bạn sự trọn
vẹn sâu sắc. Bởi vì nó bắt nguồn từ con người bên trong
nhất của riêng bạn nên không có phân chia.
Khi ai đó nói với bạn, "Làm điều đó đi, nó phải được
thực hiện," một cách tự nhiên điều đó tạo ra phân chia bên
trong bạn. Bạn không muốn làm điều đó, bạn muốn làm
điều gì đó khác, nhưng ai đó - bố mẹ, chính khách, tu sĩ,
những người có quyền lực - họ muốn bạn đi theo con đường
nào đó. Bạn chưa bao giờ muốn đi theo nó cho nên bạn sẽ
theo nó một cách miễn cưỡng. Tâm bạn sẽ không ở trong
nó, bạn sẽ không cam kết với nó, bạn sẽ không có sự tham
gia nào với nó. Bạn sẽ trải qua nó như một nô lệ. Nó không
phải là chọn lựa của bạn, nó không bắt nguồn từ tự do của
bạn.
Các đệ tử đầu tiên của Jesus đã chọn ông ấy; đó là chọn
lựa của họ và họ đã chọn con đường rất mạo hiểm - sống
cùng với Jesus là nguy hiểm. Việc này bao giờ cũng như
vậy: sống cùng với bất kì ai cho bạn tự do là nguy hiểm bởi
vì người đó sẽ làm cho bạn độc lập tới mức bạn sẽ liên tục
trong tranh đấu với xã hội, với tổ chức, với những quyền lợi

47
được đầu tư. Bạn sẽ trong tranh đấu thường xuyên trong cả
đời bạn. Tất nhiên, tranh đấu đó xứng đáng và nó không
phải là tai hoạ, nó là phúc lành, bởi vì chỉ qua tranh đấu đó
bạn trưởng thành, bạn mở rộng. Tâm thức của bạn trở nên
ngày một sáng tỏ hơn; nó trở thành đỉnh cao. Bạn phải trả
giá cho nó; nó không rẻ đâu. Do đó có mạo hiểm.
Vài người theo Jesus đã nhận con đường nguy hiểm: họ
có thể bị đóng đinh, và họ đã bị hành hạ theo nhiều cách.
Nhưng ngày nay người Ki tô giáo không có mạo hiểm nào,
do đó nó là hư huyễn.
Người theo Phật sống một cách nguy hiểm, và sống
nguy hiểm là cách sống duy nhất. Nhưng họ là những người
chân thành: họ đi theo tiếng nói bên trong riêng của họ
chống lại toàn thể xã hội, chống lại toàn thể truyền thống,
tục lệ. Họ đi theo người nổi dậy và họ trở thành người nổi
dậy theo quyền riêng của họ. Nhiều Phật tử đã bị thiêu sống
cũng như những người Ki tô giáo thời kì đầu bị thiêu sống,
bị ném vào sư tử và các con vật hoang dã, bị tra tấn theo
mọi cách có thể. Nhưng dầu vậy họ vẫn đạt tới kinh nghiệm
tối thượng về tính thượng đế - họ đã trả giá cho điều đó.
Nhưng là một Phật tử bây giờ là rất thuận tiện không có vấn
đề gì về điều đó, bất kì ai đều có thể trở thành Phật tử. Và
cùng điều đó là đúng cho mọi tôn giáo.
Ngay bây giờ ở cùng tôi là nguy hiểm. Bạn sẽ liên tục
trong rắc rối; bất kì chỗ nào bạn tới bạn đều sẽ bị chống đối.
Bạn sẽ bị chống đối bởi người Ki tô giáo, bởi người Hindu,
bởi người Mô ha mét giáo, bởi người Jain giáo, bởi Phật tử.
Bạn sẽ bị hành hạ, bạn sẽ bị kết án, bạn sẽ không được chấp
nhận ở đâu cả. Nhưng bạn sẽ trở nên chân thành, bạn sẽ có
tính đích thực nào đó. Và bạn sẽ chịu đựng tất cả những sự
hành hạ này một cách vui vẻ vì bạn đã chọn chúng.

48
Thậm chí việc chọn địa ngục cũng là đẹp, thay vì bị
buộc phải sống trong cõi trời. Nếu bạn bị buộc phải sống
trong cõi trời, nó là địa ngục, còn nếu bạn chọn địa ngục, nó
là cõi trời - bởi vì đó là chọn lựa của bạn. Nó đem cuộc sống
của bạn tới đỉnh cao nhất của nó.
Chân thành nghĩa là không sống trong cuộc sống hai
mặt - và gần như mọi người đều sống trong cuộc sống hai
mặt. Người đó nói điều này, người đó nghĩ điều gì đó khác.
Người đó chưa bao giờ nói điều người đó nghĩ, người đó nói
điều thuận tiện và thoải mái, người đó nói điều sẽ được
người khác ưng thuận, chấp nhận. Người đó nói điều được
người khác trông đợi. Bây giờ điều người đó nói và điều
người đó nghĩ trở thành hai thế giới khác biệt. Người đó nói
điều này, người đó liên tục làm cái gì đó khác, và thế rồi
một cách tự nhiên người đó phải che giấu nó. Người đó
không thể tự phơi bày bản thân mình được bởi vì thế thì
người ta sẽ tìm ra mâu thuẫn, thế thì người đó sẽ bị rắc rối.
Người đó nói về những điều đẹp đẽ và sống cuộc sống xấu
xa.
Đây là điều nhân loại đã làm cho mình từ trước tới nay.
Nó đã từng là một quá khứ rất ác mộng.
Con người mới là tuyệt đối cần thiết bây giờ bởi vì con
người cũ đã hoàn toàn mục nát. Con người cũ liên tục trong
xung đột với bản thân họ; người đó đang tranh đấu với bản
thân mình. Bất kì điều gì người đó làm người đó cảm thấy
khổ. Nếu người đó đi theo tiếng nói bên trong của riêng
mình, người đó cảm thấy mình đang đi ngược lại xã hội,
ngược lại những người quyền thế, ngược lại tổ chức. Và tổ
chức đó đã tạo ra lương tâm trong bạn; lương tâm đó là một
thủ tục rất thủ đoạn, một chiến lược. Nó là viên cảnh sát bên
trong bạn, được xã hội cấy vào, người liên tục kết án bạn
rằng: "Điều này sai, điều này không đúng. Mình không nên

49
làm điều đó, mình nên cảm thấy mặc cảm về nó - mình đang
vô đạo đức đây."
Nếu bạn đi theo tiếng nói của bạn, lương tâm bạn trừng
mắt nhìn bạn; nó sẽ không cho bạn nghỉ ngơi,nó sẽ hành hạ
bạn, nó sẽ làm cho bạn khổ. Và bạn sẽ trở nên sợ - sợ rằng
ai đó có thể tìm thấy nó. Và điều đó rất khó che giấu bởi vì
cuộc sống có nghĩa là mối quan hệ - ai đó nhất định biết, ai
đó nhất định khám phá. Bạn không một mình.
Đó là lí do tại sao những kẻ hèn trốn vào các tu viện,
trốn lên các hang động Himalaya, chỉ bởi một lí do đơn
giản: rằng ở đó họ sẽ không bị ai tìm ra. Nhưng bạn có thể
sống loại cuộc sống gì trong hang? Bạn đã tự tử rồi. Sống
trong hang là sống trong mồ - mà vẫn sống! Nếu bạn chết và
ở trong mồ, điều đó dường như đúng - bạn có thể ở đâu khác
được? Nhưng vẫn sống và ở trong mồ - đó là địa ngục thực!
Trong tu viện mọi người sống cuộc sống khổ; đó là lí
do tại sao họ có mặt dài thế - không phải là họ mang tính tôn
giáo đâu. Những bộ mặt dài đó là kết quả đơn giản của cuộc
sống hèn nhát. Nếu bạn đang sống trong thế giới, sống với
mọi người, bạn không thể che giấu được lâu; bạn có thể lừa
dối vài người trong một lúc nào đó, nhưng không mãi mãi
được. Và làm sao bạn có thể lừa bản thân bạn được? Cho dù
bạn không bị người khác phát hiện ra, bạn vẫn biết rằng bạn
đang sống cuộc sống hai mặt - và mặc cảm...
Và mọi người đều mặc cảm, và các tu sĩ muốn bạn mặc
cảm bởi vì bạn càng mặc cảm, bạn càng nằm trong tay của
tu sĩ. Bạn phải tới họ để gạt bỏ mặc cảm của bạn. Bạn phải
đi tới sông Hằng để tắm, bạn phải đi tới Mecca, tới Kaaba,
để cho bạn có thể gạt bỏ mặc cảm của bạn. Bạn phải đi tới
linh mục Thiên chúa giáo để thú tội để cho bạn có thể gạt bỏ
mặc cảm này. Bạn phải nhịn ăn và làm những trừng phạt
khác và các loại khổ hạnh khác để cho bạn có thể trừng phạt
50
bản thân bạn. Đây toàn là trừng phạt! Nhưng làm sao bạn có
thể hạnh phúc được? Làm sao bạn có thể vui vẻ và phúc lạc
được? Làm sao bạn có thể hân hoan trong cuộc sống nơi bạn
thường xuyên cảm thấy mặc cảm và trừng phạt bản thân
bạn, kết án bản thân bạn?
Và nếu bạn chọn không tuân theo tiếng nói bên trong
của bạn mà theo mệnh lệnh của người khác - chúng có tên là
đạo đức, lịch sự, văn minh, văn hoá - thế nữa tiếng nói bên
trong đó sẽ bắt đầu dày vò bạn, nó sẽ liên tục chì chiết bạn.
Nó sẽ nói bạn đang không thực với bản tính của bạn. Và nếu
bạn cảm thấy rằng bạn đang không thật với bản tính của bạn
thế thì tinh thần của bạn không thể vui mừng được; nó sẽ chỉ
là cử chỉ trống rỗng.
Đây là điều xảy ra cho con người: con người đã trở nên
bị tinh thần phân liệt.
Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp các bạn trở thành cái
một. Đó là lí do tại sao tôi không dạy đạo đức nào, nhân
cách nào. Mọi điều tôi dạy là thiền để cho bạn có thể nghe
thấy tiếng nói bên trong của bạn rõ ràng hơn và đi theo nó,
với bất kì giá nào. Bởi vì nếu bạn đi theo tiếng nói bên trong
của bạn mà không thấy mặc cảm, mênh mông bao la sẽ là
phần thưởng của bạn, và nhìn lại sau bạn sẽ thấy rằng cái
giá chẳng là gì cả. Nó có vẻ rất lớn lúc ban đầu, nhưng khi
bạn đã đi tới điểm sự chân thành trở thành tự nhiên, tự phát,
khi không có phân chia gì thêm nữa, không có chia chẻ nào
nào thêm trong bạn, thế thì bạn sẽ thấy lễ hội đang xảy ra và
cái giá mà bạn đã trả không là gì nếu đem so với nó.
Bạn hỏi tôi, Yoga Punya: Xin thầy nói điều gì đó về
chân thành?
Chân thành là hương thơm của thiền.

51
Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi,
Tại khoảnh khắc này công ti phát thanh Ki tô giáo,
NCRV, ở Hà Lan, đã bắt đầu một loạt tám chương
trình về phong trào tâm linh mang tựa đề: Đừng bị
làm cho tin. Ông mục sư-đạo diễn, Sipke Van
Derland, người cũng đã ở đây với tổ của mình để
làm phim về thầy và cuộc sống ở đạo tràng, đã đặt
tên cho chương trình thứ nhất: Bhagwan, thầy dục
từ Poona. Đến cuối bộ phim ông ấy bình luận:
"Bhagwan chưa bao giờ nhìn vào bạn, ông ta bỏ
qua chúng ta. Đây là loại thầy gì vậy, trong đó ai
đó lôi kéo mọi người hướng tới mình mà không chú
ý gì tới họ? Jesus đã làm bẽ mặt bản thân ông ấy
để là bình đẳng với chúng như người hầu, nhưng
Bhagwan thì không. Bhagwan nâng bản thân mình
lên trên nhân loại - một kẻ cai trị kì lạ, kiêu căng
ngạo mạn."
Xin thầy bình luận về điều này?

Prem Pushpa này,


Người Ki tô giáo, người Hindu giáo, người Mô ha mét
giáo, họ không thể hiểu được tôi - họ dứt khoát không hiểu
tôi đâu. Điều đó đi ngược lại những quyền lợi được đầu tư
của họ. Họ sợ tôi và họ sẽ cố gắng theo đủ mọi cách để làm
mọi người lẫn lộn.
Vì đó là công ti phát thanh Ki tô giáo, họ phải tới với
những ý tưởng định kiến, họ phải đã tới với tâm trí khép kín.
Họ đã tới với những kết luận, do đó bất kì cái gì họ nói đều

52
chỉ ra điều gì đó về họ, không cái gì về tôi cả. Và nhớ, tiêu
đề của họ là đúng: Đừng bị làm cho tin!
Họ đã nhận được nhiều thư - tôi đã nhận được nhiều thư
nữa - và đã có nhiều bài bình luận trên báo chí ở Hà Lan. Và
hầu hết mọi báo đều đã hỏi một câu hỏi: rằng toàn thể
chương trình của họ về tôi không cho chỉ dẫn nào về tiêu đề,
Bhagwan, thầy dục ở Poona. Toàn thể chương trình của họ
không liên quan gì tới tiêu đề này cả. Mọi người đang thiền,
mọi người đang ngồi im lặng nghe tôi, mọi người đang làm
việc... Không có mối quan hệ chút nào với chương trình này
cả. Điều họ đã quay phim và điều họ đã cố gắng phóng
chiếu là hoàn toàn không liên quan gì! Nhưng họ thậm chí
đã không nhận biết, dường như vậy, rằng tiêu đề này không
có quan hệ gì với chương trình - nó không liên quan gì tới
dục!
Và vị đạo diễn này đã đáp lại cái gì? - bởi vì báo chí đã
hỏi ông đạo diễn này, "Sao ông đã cho cái tựa đề như thế,
không tham chiếu gì tới chương trình này chút nào? Nó biểu
lộ tâm trí định kiến!" Thế là ông ta trả lời rằng, "Đó là chính
chủ định của chúng tôi, đó là chính mục đích của công ti
phát thanh Ki tô giáo: phơi bày mọi thứ không mang tính Ki
tô giáo." Họ không bận tâm tới chân lí - dường như chân lí
là Ki tô giáo rồi! Chân lí không là Hindu giáo không là Ki tô
giáo không là Mô ha mét giáo.
Và ông ấy cũng nên được nhắc nhở rằng Jesus bản thân
ông ấy không phải là người Ki tô giáo! Ki tô giáo chưa bao
giờ tồn tại vào thời ấy. Jesus được sinh ra là người Do Thái,
đã sống là người Do Thái, đã chết là người Do Thái! Tôi có
thể mang chút ít tính chất Ki tô giáo - thực tế, nhiều tính Ki
tô giáo hơn là Jesus! - nhưng Jesus không thể là người Ki tô
giáo chút nào. Trước hết họ phải lên án Jesus đã - tại sao

53
ông ấy đã không phải là người Ki tô giáo; điều đó sẽ phục
vụ cho chủ định của họ chính xác hơn.
Và họ nên làm phim về Jesus. Jesus đã đi cùng gái mãi
dâm, Mary Magdalene - phải là thầy dục chứ! Ông ấy bao
giờ cũng trong cùng toán người mà nhà đạo diễn này sẽ
không chấp nhận - kẻ đánh bạc, kẻ say rượu, gái điếm. Bản
thân ông ấy cũng là kẻ say rượu đấy! Ông ta nên làm phim
về Jesus.
Và có tin đồn rằng ông ấy còn là kẻ đòng tính nữa! Tôi
không biết chúng đúng tới đâu, nhưng cũng có khả năng
đấy... bởi vì ông ấy đã thường xuyên đi với mười hai gã đàn
ông kia! Và người tôn giáo đều được biết, rất nổi tiếng là
những người đòng tính. Đòng tính là hiện tượng tôn giáo!
Khi bạn giữ đàn ông tách rời đàn bà và đàn bà tách rời đàn
ông, đòng tính là sản phẩm phụ tự nhiên.
Ông ta cũng đã nói trong một cuộc phỏng vấn với báo
chí, rằng "Các sannyasin của Bhagwan nói rằng, 'Chúng tôi
cảm thấy năng lượng mênh mông tới mức chúng tôi cảm
thấy sự hiện diện của Bhagwan làm biến đổi chúng tôi.'" Và
ông ấy nói, "Tôi đã sống ở đó vài ngày - tôi không cảm thấy
gì!"
Khi Jesus bị đóng đinh đã có ít nhất một trăm nghìn
người hiện diện. Họ có cảm thấy cái gì không? Nếu họ cảm
thấy cái gì đó thì Jesus chắc đã được cứu rồi. Một trăm
nghìn người kia có thể đã dễ dàng cứu ông ấy, bởi vì chỉ có
vài cảnh sát thôi; họ có thể đã bị tiêu diệt, bị đám đông giết
chết. Nhưng không ai có thể cảm thấy năng lượng nào,
không ai có thể thấy bất kì tính thượng đế nào trong Jesus.
Thực tế, mọi người đều chế giễu và cười ông ấy.
Họ đã chờ đợi ông ấy làm phép màu nào đó và họ đã
hét lên rằng, "Ông đã làm phép màu, chúng tôi đã nghe nói.

54
Chúng tôi đã nghe nói rằng ông đã đi trên nước, chúng tôi
đã nghe nói rằng ông đã đem mắt lại cho người mù, chúng
tôi đã nghe nói rằng ông đã chữa được những bệnh không
thể chữa được, chúng tôi thậm chí đã nghe nói rằng ông đã
đem Lazarus về từ cõi chết, ông đã làm cho ông ấy sống lại
- bây giờ làm phép màu cho chúng tôi xem đi!"
Và những người này trở về nhà rất thất vọng vì không
phép màu nào xảy ra. Jesus đã chết như bất kì người thường
nào. Và nhớ, đây là những người đơn giản - không phải là
nhà báo!
Ông đạo diễn này của NCRV, nếu như ông ấy có mặt ở
đó, chắc cũng trở nên rất thất vọng vì ông ấy đã đi tới đó với
cả toán của mình để làm phim về phép màu nào đó, mà nó
đã không xảy ra!
Bạn có cho rằng người Hindu cảm thấy năng lượng của
Phật không? Bạn có cho rằng người Jain cảm thấy năng
lượng của Phật hay phật tử cảm thấy năng lượng của
Mahavira không? Mahavira và Phật cả hai là những người
đồng đại, đã sống ở cùng một phần của nước này, Bihar, đã
đi tới cùng các thôn làng và thị trấn liên tục trong bốn mươi
năm, nhiều lần ở trong cùng làng và ít nhất một lần cũng ở
trong cùng một ngôi nhà - một nửa Phật ở và một nửa
Mahavira ở - dầu vậy các đệ tử của họ vẫn không có khả
năng cảm thấy năng lượng của người kia. Điều gì đã xảy ra?
Người Do Thái không thể cảm thấy năng lượng của
Jesus sao?
Đó là một hiện tượng đơn giản cần được hiểu: để cảm
thấy năng lượng bạn phải ở trong trạng thái nào đó. Điều đó
cũng giống - người đó sẽ hiểu điều này rõ hơn - điều đó
cũng giống như mang chiếc đài thu thanh theo bạn, nhưng
nếu bạn không bật nó lên thì không âm nhạc nào sẽ tuôn

55
chảy ra từ nó cả. Cho dù bạn có bật nó lên, và bạn không để
kim chỉ sóng cố định ở điểm nào đó, đài sẽ không bắt sóng.
Người ta cần mở, và chiếc kim phải ở điểm nào đó; sự hài
hoà sâu sắc là cần thiết. Dù đó là với Jesus hay Phật hay
Mahavira, không thành vấn đề: bạn hài hoà với bất kì ai bạn
sẽ cảm thấy năng lượng.
Nhưng người đó giống như người đứng trước mặt trời
mọc với mắt nhắm và người đó nói, "Không có mặt trời, vì
tôi không thể thấy được. Và những người nói có mặt trời
đều là giả dối - đừng tin! - bởi vì tôi không thể thấy được, và
tôi đã đứng đây hàng giờ rồi."
Bạn phải mở mắt để nhìn mặt trời. Và mặt trời là hiện
tượng thô: năng lượng của Thầy là hiện tượng rất tinh tế -
chừng nào bạn chưa trong tình yêu sâu sắc bạn sẽ không
cảm thấy nó.

Và ông ấy nói: Bhagwan chưa bao giờ nhìn vào


bạn.

Theo một cách nào đó thì ông ấy đúng đấy! Tôi chưa
bao giờ nhìn vào bạn bởi vì bạn là hai: cái giả và cái thật.
Tôi không quan tâm tới cái giả. Tôi không nhìn vào mặt nạ
của bạn. Tôi không nhìn vào cái ngẫu nhiên trong bạn. Tôi
nhìn vào cái bản chất, tôi nhìn vào chính cốt lõi của con
người bạn. Tôi không quan tâm tới mặt nạ và nhân cách của
bạn; toàn bộ mối quan tâm của tôi là về trung tâm của con
người bạn.
Và tại sao tôi phải nhìn vào bạn? Ông ấy phải đã cảm
thấy điều đó, bởi vì tôi hoàn toàn nhớ tôi chưa bao giờ nhìn
vào ông ấy! - bởi vì không có gì để nhìn, chỉ một người
trống rỗng, cái bình chứa không có nội dung nào. Sao tôi
phải phí thời gian của mình để nhìn vào những người như
56
vậy? Chỉ do từ bi họ được phép tới, và điều này nữa cũng sẽ
không xảy ra thêm nữa đâu. Trong cộng đồng mới tôi sẽ
ngăn cản tất cả những người này tới.
Tôi chắc chắn nhìn chứ, nhưng cách nhìn của tôi là cách
của tôi. Tôi nhìn đằng sau mặt nạ, bởi vì đó là chỗ dành cho
công việc của tôi.

Ông ta nói:... Ông ấy bỏ qua chúng ta.

Điều đó đúng, bởi vì tôi nhìn vào cái ngã siêu việt trong
bạn và đó là cái gì đó bên trên bạn, cao hơn bạn, vượt qua
bạn. Bạn là hơn rất nhiều thân thể bạn, hơn rất nhiều tâm trí
bạn, và tôi nhìn vào cái "hơn nhiều" đó. Và đó là cái thực và
cái đó phải được đem vào tiêu điểm của bạn. Tôi không phải
là nhà phân tâm - tôi không quan tâm tới cái bề ngoài mà
quan tâm tới cái vượt trội hơn bạn. Tôi quan tâm tới cõi bên
kia của bạn.

Và ông ta nói: Đây là loại thầy gì vậy, trong đó ai


đó lôi kéo mọi người hướng tới ông ấy mà không
chú ý gì tới họ?

Bản ngã cần sự chú ý, bản ngã được nuôi dưỡng bằng
sự chú ý, bản ngã muốn sự chú ý dồn vào nó; nó thường
xuyên khao khát sự chú ý. Trong khi ông ta ở đây ông ta
phải đã khao khát sự chú ý.
Điều đó là đã là một trong các vấn đề ở đây: bất kì khi
nào mọi người tới đây - các nhà báo đủ mọi loại - toàn thể
nỗ lực của họ là ở chỗ cộng đồng phải rất chú ý tới họ. Họ
muốn có cuộc phỏng vấn riêng tư với tôi, họ muốn hỏi tôi
những câu hỏi trực tiếp. Tôi không phải là chính khách! Tất
nhiên, nếu họ tới tổng thống hay thủ tướng của bất kì nước
57
nào họ sẽ tạo cho họ sự quan tâm lớn lao. Tôi không quan
tâm chút nào tới điều họ viết, điều họ chiếu trên truyền hình.
Tôi không quan tâm chút nào tới liệu họ viết là tiêu cực hay
tích cực, liệu họ làm phim ủng hộ tôi hay lên án tôi. Điều đó
với tôi như nhau cả.
Tôi tồn tại ở đây vì các sannyasins của tôi, toàn thể
năng lượng của tôi là dành cho họ; không nên phí hoài nó
cho những người ngu xuẩn. Cho nên ông ấy phải đã cảm
thấy rằng ông ấy không có được sự chú ý nào cả - và tôi cố
tình không bao giờ chú ý gì tới những người như vậy. Họ tới
với tâm trí khép kín, họ tới với bản ngã lớn - và chúng ta
không ở đây để nuôi dưỡng bản ngã của họ. Trong cộng
đồng mới họ sẽ bị ngăn cản; điều đó sẽ là sự chú ý duy nhất
mà chúng ta dành cho họ!

Và ông ta nói: Jesus đã làm bẽ mặt bản thân ông


ấy để là bình đẳng với chúng ta...

Điều tôi đang nói không liên quan gì tới Jesus cả; nó có
cái gì đó liên quan tới điều người này, ông đạo diễn này của
NCRV, đang nói. Cho nên nhớ điều đó.

Ông ta nói: Jesus đã tự làm bẽ mặt bản thân ông ấy


để là bình đẳng với chúng ta...

Điều đó đơn giản ngụ ý ông ấy biết rằng ông ấy không


bình đẳng với bạn! "Ông ấy đã tự làm bẽ mặt bản thân ông
ấy để là bình đẳng với chúng ta." Ông ấy không hiện hữu -
ta đây, cho nên làm sao tôi phải làm mất mặt bản thân tôi?
Để làm gì? Tôi đơn giản bình đẳng, không cần bẽ mặt!

58
Ông ấy đã tự làm bẽ mặt bản thân ông ấy để là
bình đẳng với chúng ta như người hầu!...

Tôi không là người chủ cũng không là người hầu. Tôi


không sở hữu bạn, tôi không là chiếm hữu bạn. Nếu Jesus cố
là người hầu của bạn, điều đó nghĩa là ở đâu đó sâu bên
dưới ông ấy phải đã tự ý thức rằng ông ấy sở hữu bạn, rằng
ông ấy chiếm hữu bạn - bằng không tại sao? Bạn không là
người hầu của tôi, sao tôi lại phải là người hầu của bạn?
Chúng ta là bạn bè ở đây! Không có nhu cầu là người hầu
hay là bẽ mặt bản thân người ta.
Và bạn cho rằng điều này đúng sao? Jesus đã tự gọi
mình là đứa con duy nhất của Thượng đế - đứa con duy
nhất. Làm sao ông ấy có thể bình đẳng với bạn được? Bạn
được sinh ra từ tội lỗi, ông ấy được sinh ra từ người mẹ
đồng trinh. Tôi không được sinh ra từ người mẹ đồng trinh!
Mẹ tôi ở đây, bạn có thể hỏi bà ấy. Và tôi không phải là đứa
con duy nhất của Thượng đế, bởi vì không có Thượng đế
nào cả, cho nên không có vấn đề của việc tôi là đứa con duy
nhất của Thượng đế. Đây toàn là chuyện tầm phào cực độ!
Thượng đế của người Ki tô giáo phải là đòng tính bởi vì
tất cả ba ngôi đều là ba đàn ông - không có đàn bà chút nào!
Trên trái đất Jesus được sinh ra từ mẹ đồng trinh. Điều đó là
vô nghĩa, ngớ ngẩn - phi logic, phi khoa học! Thứ hai, ông
ấy lại là đứa con duy nhất của Thượng đế; Thượng đế phải
đã mang ông ấy trong bụng mình. Bởi vì ngài không phải là
đàn bà, và không có đàn bà trong ba ngôi Ki tô giáo - trừ phi
Thánh thần thiêng liêng vận hành theo hai cách!
Điều này không đúng về Jesus. Ông ấy đã dùng bạo lực
lôi những kẻ đổi tiền ra khỏi đền; đó không phải là cách
thức của con người khiêm tốn. Với roi trong tay ông ấy đã
đuổi họ ra khỏi đền. Tôi đã không làm cái gì kiểu như thế!
59
Tôi chưa bao giờ đi vào đền - tôi chưa bao giờ coi bất kì đền
nào là đáng vào. Và chiếc roi này - đây là cách thức của
người khiêm tốn sao? Và đuổi người đổi tiền ra khỏi đền!
Ông ấy đã nguyền rủa cây sung vì họ đói... Jesus và các
đệ tử của ông ấy đói và cây sung có đó mà không có quả.
Ông ấy trở nên rất giận; ông ấy nguyền rủa cây sung. Cây
sung chết ngay lập tức! Đây là cách con người khiêm tốn
hành xử sao? Thế thì tại sao ông ấy đã bị đóng đinh nếu ông
ấy khiêm tốn thế?
Và làm tất cả những cái gọi là phép màu kia - bước đi
trên nước, làm người chết sống lại - đây là cách thức của
người khiêm tốn sao? Những điều đó tất cả đều là chiến
lược để chứng tỏ sự cao siêu, tất cả những phép màu đó.
Người này, ông đạo diễn của NCRV, đang nói điều cực
kì vô nghĩa. Ông ấy không biết gì về Jesus cả, ông ấy không
biết gì về tôi cả.

Và ông ta nói:...nhưng Bhagwan không thế.


Bhagwan đã nâng bản thân mình lên trên nhân loại
- một kẻ cai trị kì lạ, kiêu căng ngạo mạn.

Tôi chưa bao giờ cai trị bất kì người nào. Tôi chưa bao
giờ bước ra khỏi phòng tôi để cai trị bất kì người nào! Ông
ấy đã thấy loại cai trị gì ở đây? Tôi chưa bao giờ ra lệnh cho
bất kì ai, tôi không trao bất kì chỉ thị nào cho bất kì ai. Và
tôi chưa bao giờ nói rằng tôi ở trên nhân loại. Điều tôi nói là
mọi người đều ở trên nhân loại! Nhân loại chỉ là chiếc cầu,
không phải là chỗ để sống nhưng là cái gì đó để được vượt
qua.
Còn "Bhagwan", từ "Bhagwan", tạo ra hiểu lầm trong
tâm trí người Ki tô giáo, bởi vì họ lập tức dịch nó thành

60
"Thượng đế". Bhagwan đơn giản nghĩa là "Người được Ân
huệ", và tôi chắc chắn là Người được Ân huệ rồi - tôi không
thể phủ nhận điều đó! Chỉ để khiêm tốn mà tôi phải giả dối,
bắt đầu nói dối về bản thân mình sao? Tôi là phúc lạc, tôi là
Người được Ân huệ - và bạn cũng có thể phúc lạc và bạn
cũng có thể là người được ân huệ. Điều đã xảy ra cho tôi có
thể xảy ra cho bạn, bởi vì đây là quyền tập ấm của bạn nữa.
Nhưng ông ta đã tới với một ý tưởng đặc biệt. Theo một
cách nào đó điều tốt là mọi người trở nên sợ tôi nhiều thế.
Điều đó là tốt: nó chứng tỏ rằng tác động đang làm cho họ
run rẩy. Hà Lan đang trở thành một trong những nước màu
da cam quan trọng nhất của tôi. Người Ki tô giáo đang trở
nên sợ hãi - điều đó tốt. Làm cho họ sợ nhiều nhất có thể
được đi! Làm cho mọi người đều sợ bạn! Để cho họ tất cả
đều run rẩy - trước khi họ sụp đổ! Điều đó là tốt...

61
62
3. Bằng việc đi theo
không ai biết

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Đây có phải là pha mới trong công việc của thầy
không - hai bài nói đầy đủ mà không có một
chuyện cười?

Premananda này,
Cám ơn bạn đã nhắc tôi! Tôi mới quên khuấy mất về
chuyện cười! Đây là hai chuyện cười cho hai bài nói:
Một thanh niên lái xe về nhà sau khi làm việc trong đêm
trời mưa và anh ta chú ý tới một phụ nữ hấp dẫn đang đứng
trên chỗ đường bộ, ướt sũng. Anh ta dừng lại và mời cô ấy
lên xe về nhà. Khi họ tới căn hộ của cô ấy, cô ấy mời anh ta
lên uống nước.

63
Sau vài chầu rượu bia điều nọ kéo điều kia và họ sớm ở
trong giường cô ấy làm tình. Bỗng nhiên anh ta nhận ra rằng
đã quá trễ và vợ anh ta sẽ nổi tam bành với mình.
Trước khi ra về anh ta xin người phụ nữ trẻ một mẩu
phấn. Anh ta đặt nó đằng sau tai mình rồi lái xe về nhà.
Ở nhà cô vợ la lớn với anh ta "Anh đã ở đâu vậy?"
"Em sẽ không bao giờ tin được điều này đâu, em yêu,"
người đàn ông đáp lại. "Anh đang lái xe về nhà từ cơ quan
tối nay lúc trời đổ mưa và anh đã dừng lại để đưa một phụ
nữ đang đứng trên hè về nhà. Anh đã chở cô ấy về nhà cô
ấy, cô ấy đã mời anh lên nhà, và bọn anh đã uống một chút,
rồi anh đã để hai giờ cuối làm tình!"
"Đừng có nói chuyện nhảm nhí thế cho em!" người vợ
càu nhàu. "Anh lại đã xuống phòng chơi bi a với tụi đàn
ông! Em có thể thấy viên phấn đằng sau tai anh!"

Và chuyện thứ hai:


Một anh chồng hay ghen thuê một thám tử rất giỏi trong
thị trấn để do thám vợ mình. Thám tử báo cáo lại sau vài
ngày, tay anh ta bị bó bột.
"Có chuyện gì vậy?" người chồng nóng lòng hỏi han.
Thám tử bắt đầu: "Vào hai giờ, chiều thứ bảy, tôi đã
thấy vợ ông nắm tay đi cùng một người đàn ông khác."
"Họ đi đâu?" người chồng hỏi.
"Họ vào khách sạn và được cho một căn phòng ở tầng
hai."
"Thế rồi sao?" người chồng thúc giục.

64
"Thế rồi tôi trèo lên cây và ngồi trên một cành để quan
sát họ qua cửa sổ mở. Họ ngồi bên cạnh giường, hôn và ôm
nhau. Thế rồi anh ta cởi quần áo ra..."
"Rồi sao, chuyện gì xảy ra nữa?" anh chồng phát rồ
nguyền rủa.
"Thế này, rồi cô ấy cởi quần áo ra..." viên thám tử tiếp
tục một cách thận trọng.
"Nói cho tôi, kể cho tôi điều gì xảy ra tiếp!" anh chồng
phát cuồng hét lên.
"Thế này, thưa ông, ông thấy đấy, vào lúc đó thì cành
tôi đang ngồi bị gãy. Tôi ngã lộn xuống đất và không thể
thấy được thêm nữa!"
Bạn hiểu không...? Bạn đã bỏ lỡ nó! Nghĩ về nó về sau
nhé!

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Xin thầy nói cho tôi ý kiến của thầy về J.
Krishnamurti, người nói rằng bạn sẽ không tự do
và do đó không hạnh phúc chừng nào bạn theo
đuổi bất kì tín ngưỡng, tôn giáo hay thầy nào?

Wolfgang,
Phật Gautam đã chia những người chứng ngộ ra làm hai
loại. Loại thứ nhất ông ấy gọi là a la hán còn loại thứ hai là
bồ tát. A la hán và bồ tát cả hai đều đã chứng ngộ; không có
khác biệt gì giữa kinh nghiệm của họ, nhưng a la hán không
65
phải là Thầy còn bồ tát là Thầy. A la hán đã đạt tới cùng
chân lí nhưng ông ấy không có khả năng truyền dạy điều đó,
bởi vì việc truyền dạy là một nghệ thuật hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, bạn có thể thấy cảnh mặt trời lặn đẹp, bạn
có thể trải nghiệm cái đẹp của nó thật sâu sắc, sâu lắng như
bất kì một Vincent van Gogh nào, nhưng điều đó không có
nghĩa là bạn sẽ có thể vẽ được nó. Vẽ nó là nghệ thuật hoàn
toàn khác. Trải nghiệm là một điều, việc giúp người khác
trải nghiệm nó không phải là cùng điều đó.
Đã có nhiều a la hán nhưng rất ít bồ tát. Bồ tát vừa
chứng ngộ vừa có kĩ năng dạy điều đã xảy ra cho mình. Đó
là nghệ thuật lớn nhất trên thế giới này; không nghệ thuật
nào khác có thể sánh được với nó, bởi vì nói ra điều không
thể nói được, giúp cho mọi người bước ra khỏi giấc ngủ của
họ, tìm ra và phát minh ra các phương cách để đem điều đã
xảy ra cho mình tới những người đang khao khát nó và giúp
họ có được nó... đó là món quà hiếm hoi.
Krishnamurti là a la hán, ông ấy không phải là bồ tát.
Chứng ngộ của ông ấy là vĩ đại như chứng ngộ của bất kì ai
khác; ông ấy là một Phật, một Jesus, một Lão Tử. Trong
chứng ngộ không có cấp độ; hoặc người ta chứng ngộ hoặc
người ta không chứng ngộ. Một khi một người đã chứng
ngộ, người đó có cùng hương vị, cùng hương thơm như bất
kì ai đã từng trở nên chứng ngộ hay sẽ trở nên chứng ngộ.
Nhưng kể lại trải nghiệm này, trao đổi về trải nghiệm này là
không thể được với mọi người.

Một lần Phật được người ta hỏi, "Bao nhiêu người đã


trở nên chứng ngộ trong số các đệ tử của thầy?"
Ông ấy nói, "Nhiều người." Ông ấy chỉ..."Nhìn đây!"
Manjushri đang ngồi bên cạnh ông ấy cùng Sariputra và

66
Modgalyayan và Mahakashyap. Ông ấy nói, "Bốn người này
ngay bây giờ hiện diện ở đây - họ đã trở nên chứng ngộ."
Người hỏi hỏi, "Nếu họ đã trở nên chứng ngộ, sao họ
không nổi tiếng như thầy? Sao không ai biết tới họ? Sao họ
không có hàng nghìn tín đồ?"
Phật nói, "Họ đã trở nên chứng ngộ nhưng họ không
phải là thầy. Họ là a la hán, họ không phải là bồ tát."
A la hán biết điều đó nhưng không thể làm cho người
khác biết về điều đó được; bồ tát biết điều đó và có thể làm
cho những người khác cũng biết về điều đó. Krishnamurti là
a la hán. Bởi vì điều này mà ông ấy không thể hiểu được thế
giới tươi đẹp của thầy và đệ tử của thầy.

Bạn hỏi tôi, Wolfgang: Xin thầy nói cho tôi ý kiến
của thầy về J. Krishnamurti, người nói rằng bạn sẽ
không tự do và do đó không hạnh phúc chừng nào
bạn còn theo đuổi bất kì tín ngưỡng, tôn giáo hay
thầy nào?

Ông ấy đúng đấy. Nếu bạn theo tín ngưỡng, tôn giáo
hay thầy - nhớ từ "theo" - bạn sẽ không được tự do và bạn sẽ
không được phúc lạc, bạn sẽ không biết chân lí tối thượng
của cuộc sống: bằng việc đi theo không ai biết điều đó. Bạn
có thể làm gì bởi việc đi theo truyền thống? Bạn sẽ trở thành
kẻ bắt chước. Truyền thống có nghĩa là cái gì đó của quá
khứ, và chứng ngộ phải xảy ra ngay bây giờ! Truyền thống
có thể rất cổ đại - nó càng cổ đại, nó càng chết.
Truyền thống không là gì ngoài dấu chân trên cát thời
gian của những người đã chứng ngộ, nhưng những dấu chân
đó không được chứng ngộ. Bạn có thể theo những dấu chân
đó một cách rất tôn giáo và chúng sẽ không dẫn bạn đến đâu

67
cả, bởi vì từng người là duy nhất. Nếu bạn nhớ tới tính duy
nhất của người đó thế thì không đi theo sẽ là sự giúp đỡ cho
bạn, bởi vì không thể có thường lệ cố định.
Đó là khác biệt giữa khoa học và tôn giáo: khoa học
phụ thuộc vào truyền thống. Không có Newton, không có
Edison, không có khả năng nào cho Albert Einstein tồn tại
chút nào. Ông ấy cần truyền thống nào đó; chỉ trên truyền
thống đó, trên vai của những người khổng lồ quá khứ trong
thế giới khoa học, ông ấy có thể đứng được. Tất nhiên khi
bạn đứng trên vai của ai đó, bạn có thể nhìn xa hơn một chút
so với người bạn đang đứng lên vai họ, nhưng người đó
được cần ở đó.
Khoa học là truyền thống, nhưng tôn giáo không là
truyền thống: nó là trải nghiệm cá nhân, hoàn toàn cá nhân.
Một khi điều gì đó được biết tới trong thế giới khoa học, nó
không cần được khám phá lại lần nữa, khám phá lại nó sẽ
chỉ là ngu xuẩn. Bạn không cần khám phá ra lí thuyết hấp
dẫn - Newton đã làm điều đó rồi. Bạn không cần đi và ngồi
trong vườn và quan sát táo rụng và thế rồi kết luận rằng phải
có lực nào đó trong đất kéo nó xuống; điều đó đơn giản là
xuẩn ngốc. Newton đã làm điều đó rồi; bây giờ nó là một
phần của truyền thống con người. Nó có thể được dạy cho
bất kì người nào có chút ít thông minh; ngay cả trẻ em
trường phổ thông cũng biết về nó.
Nhưng trong tôn giáo bạn phải phát hiện đi phát hiện lại
mãi. Không khám phá nào trở thành thứ kế thừa trong tôn
giáo. Phật đã khám phá ra, nhưng điều đó không có nghĩa là
bạn có thể đơn giản đi theo Phật. Phật là duy nhất, bạn là
duy nhất theo quyền riêng của bạn, cho nên cách Phật đã đi
vào chân lí sẽ không giúp cho bạn. Bạn là một loại nhà
khác; cánh cửa có thể theo các hướng khác. Nếu bạn đơn

68
giản theo Phật một cách mù quáng, chính việc đi theo đó sẽ
dẫn đi lầm đường.
Truyền thống không thể được đi theo. Bạn có thể hiểu
chúng và việc hiểu có thể giúp đỡ mênh mông, nhưng đi
theo và hiểu là những điều khác nhau toàn bộ.
Cho nên Krishnamurti là đúng khi ông ấy chống lại việc
đi theo, nhưng khi ông ấy bắt đầu nói rằng bạn thậm chí
không cần hiểu thế thì ông ấy sai. Thế thì ông ấy đang nói
ngôn ngữ của a la hán và ông ấy không nhận biết về thế giới
của bồ tát. Việc hiểu là có thể - bạn có thể hiểu Phật.
Ông ấy đã làm gì trong bốn mươi năm? Ông ấy đã làm
những nỗ lực nào trong bốn mươi năm? Làm sao Wolfgang
đi tới biết các ý tưởng của Krishnamurti? Ông ấy cố giải
thích, ông ấy cố với nỗ lực lớn lao để làm cho bạn hiểu. Bạn
không thể theo được Krishnamurti, nhưng bạn chắc chắn có
thể hiểu cái nhìn của ông ấy, cảnh quan của ông ấy, và điều
đó sẽ là sự phong phú. Nó sẽ không đem bạn tới chứng ngộ,
nhưng nó có thể được dùng như bậc đá để bước lên.
Krishnamurti nói ông ấy may là ông ấy đã không đọc
bất kì kinh sách tôn giáo nào. Điều đó không đúng. Ngay
chỗ đầu tiên điều đó không là sự kiện - ông ấy đã được dạy
cho mọi kinh sách cổ đại khi ông ấy còn trẻ, không chỉ một
truyền thống mà mọi truyền thống, bởi vì ông ấy đã được
nuôi lớn lên bởi các nhà thượng đế học, các nhà Thông thiên
học - những nhà tổng hợp lớn của tất cả những con đường
và mọi tôn giáo và mọi truyền thống. Thông thiên học là
một trong những nỗ lực lớn nhất đã từng được thực hiện để
đem mọi truyền thống lại gần nhau: Hindu giáo, Mô ha mét
giáo, Ki tô giáo, Do Thái giáo, Jain giáo, Phật giáo, Đạo
giáo. Thông thiên học đã cố gắng tìm ra cốt lõi bản chất của
tất cả chúng, và Krishnamurti đã được dạy theo mọi cách có
thể về tất cả những điều vĩ đại. Ông ấy có thể đã quên mất
69
về điều đó, và tôi biết rằng ông ấy phải đã quên rồi bởi vì
ông ấy sẽ không nói dối đâu, ông ấy sẽ không nói cái gì với
dụng ý dối trá. Nhưng ông ấy đã sống trong một loại thôi
miên trong hai mươi nhăm năm.
Ông ấy đã bị sở hữu bởi những nhà Thông thiên học khi
ông ấy chỉ mới chín tuổi, và thế rồi ông ấy đã được nuôi lớn
theo một cách rất đặc biệt. Nhiều phương pháp bí mật đã
được thử với ông ấy: ông ấy đã được dạy trong khi ông ấy
ngủ, ông ấy đã được dạy khi ông ấy đang trong thôi miên
sâu, cho nên ông ấy không nhớ điều đó chút nào.
Chỉ gần đây các nhà tâm lí học người Nga đã cố gắng
tìm cách dạy trẻ em trong khi chúng ngủ, bởi vì nếu chúng
ta có thể dạy trẻ em trong khi chúng đang ngủ, nhiều thời
gian có thể được tiết kiệm. Và một điều thêm nữa: khi đứa
trẻ ngủ nó có thể được dạy một cách dễ dàng hơn bởi vì
không có sự phân tán. Vô thức của nó có thể được dạy một
cách trực tiếp, điều là dễ dàng hơn. Khi chúng ta dạy đứa trẻ
qua ý thức của nó, điều đó là khó, bởi vì chung cuộc việc
dạy phải đạt tới vô thức, chỉ thế thì nó trở thành của bạn. Và
đạt tới vô thức qua ý thức phải mất thời gian lâu, lặp đi lặp
lại nhiều lần. Bạn phải liên tục lặp đi lặp lại mãi, chỉ thế thì
dần dần nó mới lắng vào đáy của ý thức, và từ đáy đó dần
dần nó sẽ thấm vào vô thức.
Nhưng trong ngủ say, hay chính xác hơn trong thôi
miên - thôi miên nghĩa là ngủ, việc ngủ được tạo ra một
cách có chủ định - bạn có thể trực tiếp đạt tới vô thức; ý
thức có thể bị bỏ qua, và điều gì đó có thể được đặt vào vô
thức. Ý thức sẽ không biết gì về điều đó cả.
Krishnamurti đã được dạy cho mọi kinh sách lớn lao
trong thôi miên sâu; ông ấy đã hoàn toàn quên khuấy mất.
Mà không chỉ thế: ông ấy thậm chí đã từng bị thao túng để
viết ra trong khi ông ấy đang bị thôi miên. Cuốn sách đầu
70
tiên của ông ấy, Dưới chân thầy, đã được viết ra trong thôi
miên, do đó ông ấy đơn giản nhún vai khi bạn hỏi về cuốn
sách đầu tiên đó - cốn sách này thực sự là một tài liệu hiếm
hoi có giá trị mênh mông. Nhưng ông ấy đơn giản nói, "Tôi
không biết bất kì cái gì về nó, làm sao nó đã xảy ra. Tôi
không thể nói được rằng tôi đã viết nó."
Krishnamurti đã được làm thực nghiệm bởi các nhà
Thông thiên học theo nhiều cách tinh vi, cho nên ông ấy
không nhận biết rằng ông ấy đã quen với mọi kinh sách lớn
lao và mọi tài liệu lớn lao, và điều ông ấy liên tục nói có sự
phản xạ của mọi giáo huấn lớn lao đó. Chúng có đó, nhưng
dưới dạng rất tinh tế. Ông ấy không thể trích dẫn các kinh
sách, nhưng điều ông ấy nói chính là tinh hoa của kinh sách.
Truyền thống phải được hiểu, và nếu bạn có thể hiểu
được nhiều truyền thống, tất nhiên điều đó sẽ làm giàu cho
bạn. Nó sẽ không làm bạn chứng ngộ, nhưng nó sẽ giúp cho
bạn hướng tới mục đích, nó sẽ đẩy bạn tới mục đích. Đừng
là tín đồ của bất kì truyền thống nào - đừng là người Ki tô
giáo hay người Hindu giáo hay người Mô ha mét giáo.
Nhưng sẽ là không may nếu bạn vẫn còn vô nhận biết về
những lời đẹp đẽ của Jesus, sẽ là cực kì không may nếu bạn
không biết tính thơ ca vĩ đại của Upanishad.
Điều đó sẽ dường như là một người chưa từng nghe bản
nhạc vĩ đại nào - Beethoven, Bach, Mozart, Wagner. Nếu
người ta không nghe, cái gì đó sẽ thiếu trong người đó. Sẽ là
không may nếu bạn đã không đọc Shakespeare, Milton,
Dostoevsky, Kalidas, Bharbhuti, Rabindranath, Kahlil
Gibran. Nếu bạn không quen thuộc với Tolstoy, Chekhov,
Maxim Gorky, cái gì đó trong bạn sẽ vẫn còn thiếu. Cùng
điều đó cũng đúng nếu bạn không đọc Lão Tử, Trang Tử,
Liệt Tử, Phật Gautam, Bồ đề đạt ma, Baso, Lâm Tế,
Socrates, Pythagoras, Heraclitus. Đây là những cảnh quan

71
duy nhất rất khác biệt, nhưng chúng tất cả sẽ giúp bạn trở
nên rộng lớn hơn.
Cho nên tôi sẽ không nói rằng các truyền thống là vô
dụng; tôi sẽ nói chúng trở thành nguy hiểm nếu bạn đi theo
chúng một cách mù quáng. Cố hiểu, hấp thu linh hồn này.
Quên câu chữ đi, chỉ uống lấy linh hồn. Thuộc vào tôn giáo
chắc chắn là điều nguy hiểm bởi vì điều đó nghĩa là bạn bị
cầm tù, bị giam hãm trong tín điều, giáo điều nào đó. Bạn
đánh mất tự do của bạn, bạn đánh mất cuộc truy hỏi của
bạn, cuộc thám hiểm của bạn.
Sống bị bao quanh bởi triết lí nhỏ là nguy hiểm. Bạn sẽ
là ếch ngồi đáy giếng; bạn sẽ không biết về đại dương.
Nhưng hiểu biết là hiện tượng khác toàn bộ. Chính nỗ lực để
hiểu mọi tôn giáo của thế giới sẽ làm cho bạn tự do với các
tín điều và giáo điều.
Đó là điều đang xảy ra ở đây. Tôi đang nói về mọi tôn
giáo bởi một lẽ đơn giản để cho bạn không trở nên bị mê
hoặc vào một quan điểm. Cuộc sống là đa chiều. Chắc chắn
Moses đã đóng góp cái gì đó cho nó mà không ai khác đã
làm. Chừng nào bạn chưa hiểu Moses, bạn sẽ bỏ lỡ khung
cảnh đó, chiều hướng đó; chừng ấy bạn sẽ là nghèo hơn.
Và những người nghe Krishnamurti, họ bắt đầu đi theo
ông ấy! Có những người kiểu Krishnamurti những người đã
nghe ông ấy trong bốn mươi năm hay thậm chí năm mươi
năm. Tôi đã bắt gặp những người già cùng tuổi như
Krishnamurti người đã nghe ông ấy trong năm mươi năm, từ
1930, và họ không đạt tới đâu. Mọi điều họ đã học là một
loại tính tiêu cực: "Cái này sai, cái kia sai." Nhưng cái đúng
là gì? Về điều đó dường như thậm chí không có lấy một
thoáng nhìn vào con người họ.

72
Đừng trở thành một phần của tôn giáo, nhưng tới thăm,
là khách của mọi tôn giáo. Trong đền chùa có cái đẹp, trong
đền thờ Hồi giáo cũng có, một loại cái đẹp khác, trong nhà
thờ lại có kinh nghiệm khác. Và đây là toàn thể gia sản kế
thừa của chúng ta; quá khứ của toàn thể nhân loại thuộc vào
bạn. Sao chọn lựa?
Người đi theo thì chọn lựa. Người đó khăng khăng là
người Ki tô giáo; người đó sẽ tránh né Upanishad, người đó
sẽ tránh né Dhammapada, người đó sẽ không bận tâm tới
Koran. Người đó tự làm mình què quặt một cách không cần
thiết, làm tê liệt bản thân mình.
Tôi cũng nói không đi theo, nhưng tôi sẽ không đồng ý
với phát biểu rằng: đừng cố hiểu. Cố hiểu không phải là đi
theo; việc hiểu của bạn trở nên rõ ràng hơn, sắc bén hơn.
Krishnamurti liên tục đọc các tiểu thuyết trinh thám.
Ông ấy có đi theo các tiểu thuyết trinh thám đó không? Ông
ấy có cố trở thành thám tử không? Nếu ông ấy có thể đọc
tiểu thuyết trinh thám, cái gì sai trong việc đọc Upanishad?
Và tiểu thuyết trinh thám chỉ là thứ tầm thường, chưa trưởng
thành, trẻ con. Upanishad là đỉnh Himalaya của tâm thức
con người. Đừng đi theo chúng - không có nhu cầu đi theo
bất kì ai.
Các sannyasin của tôi không phải là tín đồ của tôi, họ
chỉ là bạn đồng hành của tôi. Từ satsang, từ upanishad,
nghĩa là bạn đồng hành của Thầy. Đệ tử là bạn đồng hành,
người bạn lữ hành, và tất nhiên nếu bạn du hành với ai đó
biết vùng lãnh thổ, người đã thám hiểm vùng lãnh thổ, thì
cuộc hành trình của bạn sẽ dễ dàng hơn, cuộc hành trình của
bạn sẽ trở nên giàu có hơn, cuộc hành trình của bạn sẽ bớt
những gian truân không cần thiết; bạn sẽ có khả năng đạt tới
mục đích sớm hơn là đi một mình.

73
Truyền thống trở thành nguy hiểm chỉ khi bạn bám lấy
chúng; thế thì chắc chắn có nguy hiểm. Truyền thống là nỗ
lực của nhóm để giữ cho điều không được trông đợi khỏi
xảy ra. Nếu bạn trở thành một phần, thế thì điều đó là nguy
hiểm, bởi vì thế thì truyền thống trở thành cái cản trở bạn
không cho thám hiểm. Truyền thống khăng khăng vào niềm
tin - tin vào nó và tin mà không truy tìm. Đó là điều mọi
người đang làm, điều người Ki tô giáo và người Hindu giáo
và người Mô ha mét giáo đang làm - tin vào cái gì đó họ
chưa bao giờ truy tìm. Và tin vào cái gì đó mà không truy
tìm là rất bất kính đối với chân lí và đối với cái ngã riêng
của bạn.
Không, niềm tin sẽ không giúp đỡ - chỉ việc biết có thể
giải phóng bạn.
Và ông ấy nói cùng điều về Thầy. Điều đó là đúng cho
chín mươi chín cái gọi là Thầy, nhưng nó không đúng về
một, một Thầy thực sự. Ông ấy đúng chín mươi chín phần
trăm, bởi vì bất kì chỗ nào có đồng tiền thực, nhất định sẽ có
đồng tiền giả nữa. Truyền thống là chết; tôn giáo là triết lí,
niềm tin, giáo điều. Nếu bạn tin vào nó, nó dường như có ý
nghĩa; luận cứ của nó dường như rất lớn lao. Khoảnh khắc
bạn đứng sang bên và nhìn với cái nhìn tách rời, bạn có thể
thấy cái ngu xuẩn, cái ngu ngốc. Bạn có thể thấy rằng có
những giả định không được chứng minh, không được thiết
lập.
Một buổi sáng người ta thấy một triết gia lớn soải bước
dọc theo phố chạm vào mọi cọc mà ông ấy đi qua. Ai đó hỏi
ông ấy, "Này, giáo sư, sao ông chạm vào mọi cọc đó?"
Triết gia cười toe toét và nói, "Thế sao anh không chạm
vào mọi cọc đó?"
Khó trả lời được tại sao bạn khôngchạm!

74
Các triết gia có luận cứ riêng của họ; bạn có thể không
có khả năng biện luận ngược lại họ. Họ có thể làm bạn im
lặng; họ có thể đưa ra những chứng minh lớn lao, những
biện luận logic, cách hợp lí hoá. Họ có thể làm bạn im lặng,
nhưng điều đó không giúp ích gì.
Sau khi thuyết trình tại Đại học Columbia, triết gia nổi
tiếng, Bertrand Russell, trả lời các câu hỏi từ thính giả. Câu
hỏi phê phán của một sinh viên đưa ông ấy tới chỗ chết
đứng hoàn toàn. Suốt cả phút ông ấy không nói năng gì, tay
chống cằm. Thế rồi ông ấy nhìn chăm chú vào cậu sinh viên
và lặp lại câu hỏi này, làm cho nó chính xác hơn. Ông ấy hỏi
cậu sinh viên, "Em nói rằng đây vẫn là câu hỏi của em sao?"
Cậu sinh viên vui sướng trả lời, "Vâng."
Ông ấy, Russell, lại nghĩ, lần này còn lâu hơn, và hai
lần dường như định nói. Thế rồi ông ấy nói, "Đó là câu hỏi
rất hay, anh bạn trẻ. Tôi không tin là tôi có thể trả lời được
nó!"
Nhưng có rất ít triết gia như Bertrand Russell người sẽ
chấp nhận rằng họ không thể trả lời được. Họ sẽ bịa ra câu
trả lời, họ sẽ liên tục bịa ra chứng cớ, bịa ra bằng chứng.
Với mọi loại vô nghĩa bạn đều có thể tìm ra bằng chứng,
bạn có thể biện luận.
Mọi tôn giáo đều dựa trên thượng đế học, và chính từ
"theology - thượng đế học" là mâu thuẫn trong thuật ngữ.
"Theo" nghĩa là Thượng đế, "logy" nghĩa là logic - logic về
Thượng đế. Thực tế, không có logic về Thượng đế; có tình
yêu nhưng không logic. Bạn có thể tiếp cận tới hiện tượng
Thượng đế hay tính thượng đế qua tâm, qua yêu, nhưng
không qua logic.
Bằng việc đi theo truyền thống hay tôn giáo, bạn đang
làm gì? Cách tiếp cận của bạn nhất định là qua cái đầu. Đi

75
theo bao giờ cũng là từ cái đầu: bạn bị thuyết phục về mặt
logic, do đó bạn theo, nhưng đó không phải là chuyện tình.
Chuyện tình là có thể chỉ khi bạn tìm thấy Thầy sống.
Bạn không thể rơi vào yêu với Jesus bây giờ được, bạn
không thể rơi vào yêu với Phật bây giờ được; họ không còn
đó nữa. Những giọt sương đó đã biến mất vào trong đại
dương. Bạn có thể rơi vào trong yêu với một Thầy sống.
Phật phải đã từng rất đẹp, nhưng yêu có thể xảy ra chỉ giữa
hai trái tim yêu thương.
Krishnamurti là đúng tới chín mươi chín phần trăm về
cái gọi là các guru, nhưng người ta phải nhận mạo hiểm.
Nếu bạn trở nên quá thận trọng, bạn sẽ không bao giờ tìm
thấy người đúng cả. Để tìm ra người đúng bạn sẽ phải trải
qua nhiều người không đúng.
Một nhà tìm kiếm người Mĩ đi tới Everest sau một cuộc
hành trình dài, gian nan vòng quanh thế giới để tìm Thầy.
Và cuối cùng ông ấy đã tìm thấy một ông già cổ đại, vĩ đại
đang ngồi im lặng trên đỉnh Everest.
Nhà tìm kiếm người Mĩ nói, "A, thưa guru vĩ đại, tôi đã
cống hiến toàn bộ cuộc đời mình truy tìm chân lí, sự chân
thực, tình yêu và công bằng. Tôi đã đi tới tận chân trời góc
bể để trải nghiệm mọi khổ và mọi đam mê. Bây giờ tôi tới
thầy để hỏi: từ đây tôi sẽ đi đâu?"
Guru nói, "Quay lại và làm lại điều đó lần nữa, con ta."
"Xin cám ơn thầy, cám ơn thầy! Tôi có thể đền đáp lại
cho thầy cái gì đây?"
Và guru nói, "Anh có mang điếu thuốc lá Mĩ nào theo
không?"
Ông ấy đúng tới chín mươi chín phần trăm về các
gurus, nhưng ông ấy sai ở một phần trăm, và một phần trăm

76
đó thực sự thành vấn đề. Ông ấy sai về Phật, ông ấy sai về
Lão Tử, ông ấy sai về Jesus.
Nhưng để tìm ra một Thầy sống người ta phải tìm kiếm,
và thực tế, mọi gurus giả kia đều giúp bạn theo một cách
nào đó bởi vì với trải nghiệm qua họ bạn trở nên nhận biết
về cái gì là giả. Và biết cái giả là giả chính là bắt đầu biết
cái đúng là đúng, cái thật là thật. Nếu bạn tuyệt đối rõ ràng
về cái giả, bỗng nhiên bạn trở nên rõ ràng về cái thật là gì,
cái đích thực là gì. Cho nên ngay cả các guru giả cũng phục
vụ, theo cách gián tiếp, cho người tìm kiếm thực.
Wolfgang, Thầy là người sẽ không bảo bạn theo thầy,
nhưng thầy chắc chắn sẽ bảo bạn im lặng cùng thầy. Điều
đó không liên quan gì tới việc đi theo. Thầy thực, đích thực
không muốn tạo ra những bản sao, bản dập; thầy giúp bạn
khám phá ra mặt nguyên bản của bạn. Thầy sẽ không áp đặt
bất kì cấu trúc nào lên bạn; ngược lại, thầy sẽ giúp bạn gạt
bỏ mọi cấu trúc đã bị áp đặt. Thầy sẽ không huấn luyện bạn;
thầy sẽ chỉ hoá giải các huấn luyện của bạn và rồi để cho
bạn là chính bản thân bạn. Thầy sẽ không huấn luyện lại
bạn.
Khi bạn đi qua các guru giả, điều đó xảy ra: guru giả
mới sẽ hoá giải huấn luyện cũ của bạn rồi huấn luyện lại
bạn. Nếu bạn trở thành người Hindu từ việc là người Ki tô
giáo, bạn sẽ bị hoá giải trước hết để cho bạn có thể gạt bỏ
tính Ki tô giáo của bạn, và thế rồi Hindu giáo sẽ được áp đặt
lên bạn.
Đó là điều đang xảy ra cho những người Hare Krishna:
bây giờ họ đang được huấn luyện làm người Hindu. Họ đã
sống trong một loại nhà tù tên là Ki tô giáo, bây giờ họ sẽ
sống trong một loại nhà tù khác tên là Hindu giáo. Nó vẫn
thế, không khác biệt gì; chỉ nhà tù là khác. Bạn ra khỏi nhà
tù này và lập tức bạn vào nhà tù khác.
77
Thầy thực sẽ đưa bạn ra khỏi nhà tù và sẽ ngăn cản bạn
không vào nhà tù khác. Chắc chắn là khó tìm ra Thầy thực,
nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nên cố
gắng tìm ra; điều đó không có nghĩa là đó là điều không thể
được - tất nhiên là khó, nhưng không phải là không thể
được. Và khi bạn đã tới Thầy, người đơn giản truyền tình
yêu của mình, con người của mình, sự hiện diện của mình,
người chia sẻ niềm vui của mình, tiếng cười của mình cho
bạn, và không có ham muốn huấn luyện bạn, buộc bạn phải
vào hình mẫu nào đó, thế thì sự hiện diện của thầy có thể có
ý nghĩa xúc tác mênh mông; thầy có thể là tác nhân xúc tác.
Trong sự hiện diện của thầy cái gì đó có thể bắt đầu xảy ra
trong bạn mà có thể không xảy ra một mình trong nhiều thế
kỉ, có thể trong nhiều kiếp sống.
J. Krishnamurti là một người hay nhưng một chiều, rất
tuyến tính, một đường thẳng; ông ấy đi theo một rãnh. Do
đó bạn sẽ không tìm thấy mâu thuẫn gì trong ông ấy. Trong
năm mươi năm ông ấy liên tục lặp đi lặp lại đơn giản cùng
một điều. Không chủ định ông ấy đã huấn luyện mọi người;
chỉ bằng việc lặp đi lặp lại cùng một điều trong năm mươi
năm ông ấy đã thôi miên mọi người. Ông ấy đã tạo ra khó
khăn lớn cho những người đó: bản thân ông ấy không phải
là Thầy, ông ấy không thể truyền đạt được kinh nghiệm của
ông ấy - ông ấy là a la hán, không phải là bồ tát - và ông ấy
đã ngăn cản những người đó đi vào tìm kiếm Thầy sống
khác. Ông ấy đã tạo ra đống lộn xộn thực trong nhiều người:
họ đáng ra đã đi tìm một Thầy nhưng ông ấy đã ngăn cản
họ. Logic của ông ấy là rõ ràng, hấp dẫn, rất hấp dẫn với
người bản ngã, đặc biệt với cái gọi là giới trí thức, rất hấp
dẫn, bởi vì cái gọi là giới trí thức bao giờ cũng sợ buông
xuôi, bỏ bản ngã - họ là những người đầy bản ngã. Và khi
ông ấy nói, "Không cần phải theo, không cần đi tới Thầy
nào cả, không cần khai tâm nào cả," họ cảm thấy rất sung

78
sướng. Bản ngã của họ được bảo lưu nhưng bản ngã của họ
vẫn có đó.
Bây giờ bản ngã thậm chí còn có sự hỗ trợ của
Krishnamurti, và tất cả luận cứ của ông ấy sẽ được bản ngã
sử dụng. Và đó là điều đã xảy ra cho hàng nghìn người đã
nghe ông ấy. Ông ấy không phải là phúc lành, do logic
tuyến tính của ông ấy.
Vào thời cổ đại những người như Krishnamurti thường
giữ im lặng. Đó là cách thức của a la hán - bởi vì ông ấy
biết rằng ông ấy không thể truyền đạt được, ông ấy không
có kĩ năng, ông ấy giữ im lặng. Ông ấy không đi khắp thế
giới và nói với mọi người, rằng "Tôi không thể truyền đạt
được và không ai khác có thể làm được điều đó."
Đây là lần đầu tiên một a la hán đã cố gắng thuyết
giảng cho mọi người, và tất nhiên điều đó là mâu thuẫn. A la
hán không được giả định để thuyết giảng, và khi một a la
hán bắt đầu thuyết giảng thì ông ấy sẽ thuyết giảng ngược
lại giáo huấn, và những người trở nên quan tâm tới ông ấy
sẽ là những người bản ngã.
Bạn có thể thấy những bản ngã rất văn hoá quanh
Krishnamurti, và họ ở đó bởi vì ông ấy đã trở thành sự hợp
lí hoá của họ: không cần phải buông xuôi. Và điều kì cục, sự
kiện buồn cười là ở chỗ bản thân Krishnamurti đã trải qua
nhiều việc khai tâm, ông ấy có nhiều Thầy.
Thực tế, tôi không có Thầy còn ông ấy có nhiều Thầy,
nhưng có thể đó là lí do tại sao ông ấy chống lại Thầy còn
tôi không chống lại! - bởi vì tôi đã không có kinh nghiệm về
cái giả. Tôi chưa bao giờ ở với bất kì Thầy nào, tôi đã làm
việc theo cách riêng của tôi. Điều đó lâu, mất nhiều kiếp,
nhưng tôi chưa bao giờ được khai tâm bởi bất kì ai. Có thể

79
đó là lí do tại sao tôi có một góc dịu dàng dành cho các
Thầy!
Còn ông ấy đã bị ép buộc và bị đưa vào khuôn phép
theo mọi cách có thể được bởi các nhà Thông thiên học. Và
họ có nhiều bí mật sẵn có với họ, còn ông ấy đã được khai
tâm vào đủ mọi loại nghi lễ và đủ mọi loại huyền bí bí mật,
bí truyền, những cái không sẵn có cho công chúng. Ông ấy
phải đã trở nên mệt mỏi.
Và một sự kiện bao giờ cũng cần phải được ghi nhớ:
ông ấy không sẵn lòng ở đó - ông ấy đã được chọn và được
nhận làm con nuôi. Ông ấy thuộc vào một người brahmin rất
nghèo, con trai của một một người brahmin rất nghèo,
nghèo tới mức ông ấy thậm chí không có khả năng cho con
cái mình đi học. Và khi Annie Besant và Leadbeater tìm ra
hai anh em này, Krishnamurti và Nityananda, đang bơi trong
dòng sông bên bờ Adyar nơi có tổng hành dinh của Phong
trào Thông thiên học, tổng hành dinh thế giới gần Madras...
Leadbeater có nhạy cảm nào đó để tìm ra các tài năng; ông
ấy đã phát hiện ra nhiều người có tài. Ông ấy có cảm giác
nào đó để nhìn thấy ngay lập tức khả năng, tiềm năng. Ông
ấy lập tức bảo Annie Besant... họ đã đi dạo buổi sáng và ông
ấy thấy hai đứa trẻ này; Nityananda chắc phải mười một tuổi
còn Krishnamurti chín tuổi. Và ông ấy nói, "Hai đứa trẻ này
có giá trị lắm đấy - chúng có thể trở thành thầy thế giới!"
Thế là họ đi tìm. Họ tìm ra chúng thuộc về một người
rất nghèo; người mẹ đã chết, người bố chỉ là một thư kí rất
nghèo trong một văn phòng. Khó mà giáo dục, mà nuôi
dưỡng chúng cho đúng. Khi ông ấy nghe nói rằng Annie
Besant muốn nhận chúng làm con nuôi, ông ấy rất sung
sướng; ông ấy sẵn lòng trao lũ trẻ cho Annie Besant.
Và tất nhiên, Nityananda và Krishnamurti cả hai đều
được dạy như các hoàng tử hay thậm chí còn tốt hơn thế.
80
Chúng có những thầy kèm uyên bác nhất; chúng đã trải qua
giáo dục tư nhân ở Ấn Độ, ở Pháp, ở Anh, ở Mĩ, trên khắp
thế giới. Chúng được giữ tách xa khỏi công chúng để cho
chúng không bị ô nhiễm, chúng không bị tiêm nhiễm.
Chúng bị ngăn cản không cho gặp gỡ người thường. Chúng
được nuôi lớn như những người đặc biệt, những người được
chọn lựa - được chọn là thầy thế giới. Kỉ luật lớn đã được áp
đặt lên chúng. Tất nhiên điều đó là không được mong muốn;
chúng đã không tự chọn con đường này. Phải đã có sự
kháng cự lại - tự nhiên, hiển nhiên thôi; sâu bên dưới chúng
phải đã chống cự lại.
Nityananda chết, và cảm giác của tôi là cậu ta chết bởi
vì quá nhiều kỉ luật khắt khe - nhịn ăn, dậy sớm, vào ba giờ
sáng. Và cậu ta trở nên ốm; dầu vậy kỉ luật vẫn tiếp tục phải
giữ. Họ là những đốc công khắc nghiệt; họ muốn tạo ra siêu
nhân, và tất nhiên khi bạn muốn làm ai đó là siêu nhân thì kỉ
luật phải nghiêm khắc, nghiệt ngã.
Nityananda chết. Điều đó nữa đã là một vết thương
trong tâm trí của Krishnamurti, trong tâm ông ấy: rằng anh
ông ấy gần như đã bị kỉ luật giết chết. Và hai mươi nhăm
năm huấn luyện nghiêm khắc phải đã tạo ra sự đối kháng, sự
kháng cự.
Cho nên khi thời gian tới cho họ được công bố - những
người theo Thông thiên học tụ hội lại từ khắp nơi trên thế
giới và Krishnamurti được dự định công bố mình là hoá thân
mới của Phật Gautam, Thầy giáo của Thế giới - khi ông ấy
đứng trên bục để tuyên bố, mọi người đều bị sốc, mọi người
không thể tin nổi bởi vì ông ấy đơn giản phủ nhận. Ông ấy
nói, "Tôi không là Thầy của ai cả, tôi không nhận bất kì đệ
tử nào, tôi không dạy bất kì kỉ luật nào, và tôi giải tán toàn
thể tổ chức đã được tạo ra quanh tôi."

81
Một tổ chức nào đó đã được tạo ra quanh ông ấy - sáu
nghìn thành viên trên khắp thế giới. Tổ chức này có tên gọi
là "Ngôi Sao Phương Đông ". Ông ấy đã giải tán tổ chức
này, ông ấy trả lại tiền cho những người quyên tặng, bởi vì
nó có số tiền lớn. Ông ấy làm cho mọi người choáng váng:
họ đã làm việc lâu thế vì ông ấy và ông ấy đơn giản trốn mất
vào khoảnh khắc chót.
Và vết thương đó sẽ vẫn còn trong ông ấy, và ông ấy
không thể tha thứ được cho mọi Thầy đó, các kỉ luật của họ,
giáo huấn của họ - ông ấy không thể tha thứ được, do đó
ông ấy chống lại. Và bản thân ông ấy là một a la hán, ông
ấy không thể là Thầy được. Và toàn thể quá khứ cuộc sống
của ông ấy đầy những chống đối.
Kinh nghiệm của tôi là hoàn toàn khác, đối lập lại: tôi
không bị ai áp đặt cái gì lên tôi; bất kì cái gì tôi đã làm, tôi
làm theo cách riêng của tôi. Do đó tôi không thấy đối kháng
gì trong tôi với các Thầy, không có chống đối kỉ luật.
Nhưng chắc chắn đến chín mươi chín phần trăm tôi sẽ
đồng ý với ông ấy: Muktananda, Reverend Moon,
Prabhupad, đủ mọi loại người ngu xuẩn, khai thác - khai
thác việc tìm kiếm lớn lao đã nảy sinh trong tâm nhân loại.
Con người đang trên đường biên mới, con người đang
sắp đi vào trong lãnh địa mới. Một bước mới cần phải được
thực hiện. Do đó có việc truy tìm lớn lao trên khắp thế giới
về chân lí, về thiền, về nội tâm. Cái bên ngoài đã thất bại:
khoa học đã chứng tỏ là ảo vọng, mọi hứa hẹn của nó đã tiêu
tan; và con người bây giờ tuyệt đối biết rằng "Điều chúng ta
đã làm mãi cho tới giờ về cơ bản là sai - cuộc hành trình
phải đi vào nội tâm."
Bây giờ có những kẻ loè bịp, những người có thể khai
thác cơ hội này, nhưng điều này là hiểu được; không thể làm

82
được gì về nó cả. Người tìm kiếm phải trải qua mọi kẻ khai
thác, kẻ lừa bịp, kẻ đạo đức giả này, và phải nhận biết để
cho mình có thể tìm thấy người đúng vào một ngày nào đó -
người có thể hoá giải cho bạn và sẽ không huấn luyện lại
bạn, người sẽ để cho bạn là chính bản thân bạn trong tự do
tuyệt đối.
Nhận biết về các thầy giả đi - và có nhiều và nhiều loại
thầy giả đấy. Họ tới theo đủ mọi loại kích cỡ và đủ mọi hình
dáng và họ có thể rất hấp dẫn, bởi vì họ đáp ứng cho mong
đợi của bạn.
Thầy thực sẽ không bao giờ đáp ứng cho trông đợi của
bạn; thầy không có ham muốn thao túng bạn. Đáp ứng trông
đợi của bạn nghĩa là một ham muốn sâu sắc để thao túng
bạn. Bạn phải tỉnh táo, quan sát. Nếu ai đó cố đáp ứng trông
đợi của bạn, biết rõ rằng bản thân người đó không tự do -
người đó không thể truyền tự do cho bạn được.
Ở Ấn Độ, như ở các nước khác và các truyền thống
khác nữa, mọi người đều có mong đợi, trông đợi nào đó.
Chẳng hạn, người Ki tô giáo trông đợi rằng người chứng
ngộ phải tương tự như Jesus; bây giờ điều đó là tuyệt đối
không thể được. Jesus không thể được lặp lại, không cần
được lặp lại. Lặp lại Jesus bạn sẽ cần toàn thể hoàn cảnh và
hoàn cảnh đó không còn có thể có nữa. Jesus đã tồn tại trong
thế giới Do Thái, với mọi trông đợi, ham muốn, hi vọng và
hứa hẹn. Bây giờ thế giới đó đã biến mất rồi; hai nghìn năm
đã qua rồi. Biết bao nhiêu nước đã chảy xuôi qua sông
Hằng, không cái gì còn lại thêm nữa. Làm sao Jesus có thể
được lặp lại?
Nhưng người Ki tô giáo trông đợi Thầy thực phải giống
như Jesus. Không Thầy thực nào có thể giống như Jesus
được. Jesus đã không giống bản thân Moses - đó là rắc rối.
Đó là lí do tại sao người Do Thái đã chống đối nhiều thế: họ
83
đang trông đợi ông ấy giống như Moses. Moses đã sống
trong một thế giới hoàn toàn khác; ông ấy thuộc vào hoàn
cảnh Ai Cập, ông ấy lớn lên trong hoàn cảnh đó, ông ấy chỉ
có nghĩa trong tham chiếu đó. Jesus không thể là một Moses
được, điều đó là không thể được. Và người Do Thái đã trông
đợi ông ấy chỉ là một Moses, và bởi vì ông ấy đã không phải
vậy nên họ đã giết ông ấy.
Bây giờ người Ki tô giáo đang làm cùng việc đó: họ
trông đợi Thầy thực là bản sao của Jesus, sự bắt chước
Jesus. Không Thầy thực nào có thể là bản sao; chỉ kẻ ngốc
nào đó có thể bắt chước, chỉ người tầm thường nào đó có thể
là bản sao dập. Điều này là sỉ nhục sâu sắc cho con người
riêng của người ta - là bản sao của ai đó khác - không người
thông minh nào đã bao giờ làm điều đó. Nhưng cùng điều
đó là đúng với các truyền thống khác.
Phật tử vẫn đang chờ đợi Phật tới, và ông ấy phải đích
xác giống như Phật. Còn người Jain có sự trông đợi của họ
và người Hindu có sự trông đợi của họ. Người Hindu không
thể chấp nhận Mahavira là Thầy chứng ngộ bởi vì ông ấy
không giống như Krishna, và người Jain không thể chấp
nhận Krishna là Thầy chứng ngộ bởi vì ông ấy không giống
Mahavira. Người Jain không thể chấp nhận Phật là người
chứng ngộ bởi vì ông ấy không giống Mahavira, và Phật tử
đến lượt họ cũng không thể chấp nhận được Mahavira bởi vì
ông ấy không giống Phật. Không truyền thống nào có thể
chấp nhận người chứng ngộ của truyền thống khác bởi vì sự
trông đợi khác nhau.
Chẳng hạn, người Jain cho rằng Thầy chứng ngộ phải ở
trần. Bây giờ Jesus không đáp ứng điều đó, Mohammed
không ở trần, Zarathustra không ở trần, Krishna không ở
trần. Ngược lại, Krishna thích quần áo đẹp, ông ấy thích đồ
trang sức.

84
Trong những ngày xưa ở Ấn Độ đàn ông hay đeo đồ
trang sức, và điều đó dường như thực sự logic và tự nhiên.
Nếu bạn nhìn vào tự nhiên bạn sẽ thấy điều đó: nhìn con
công mà xem. Công cái không trang sức gì; chính công đực
mới trang điểm. Đừng bị lừa, khi bạn thấy con công đẹp với
bộ lông mầu cầu vồng, nhớ đấy là con đực, không phải là
con cái. Con cái đẹp chỉ bởi vì là con cái; nó không cần
trang điểm. Việc là con cái là đủ rồi. Là con cái là đủ! Con
đực đáng thương kia mới cần đồ phụ thêm.
Khi bạn nghe thấy tiếng chim cu véo von, nhớ đấy là
con đực, không phải con cái. Con cái không cần có tiếng hót
hay thế; chỉ là con cái là đủ rồi. Con cái đơn giản đậu kín
trong rặng xoài, còn con đực liên tục đổ tâm mình ra, viết ra
những bức thư tình!
Toàn thể tự nhiên là bằng chứng rằng con cái trông bình
thường và con đực trông rất đẹp. Điều kì lạ là tại sao con
người lại hành xử theo cách đảo ngược lại, sao đàn bà lại cố
gắng làm đẹp, dùng đồ trang sức và son bôi môi và lông mi
giả và những thứ linh tinh khác! Kì lạ thật đấy! để cho đàn
ông dùng mọi thứ này! Anh ta nghèo nàn, anh ta cần cái gì
đó. Đàn bà hoàn toàn đẹp như cô ấy đang vậy. Chỉ mang nữ
tính thôi cũng có sự duyên dáng, cái đẹp; không cần bất kì
thứ thêm gì khác.
Vào thời của Krishna mọi sự đã hoàn toàn tự nhiên: đàn
ông hay đeo đồ trang sức. Nếu bạn đã thấy tượng, ảnh của
Krishna, bạn sẽ thấy: ông ấy mặc váy bạc, váy mầu, vương
miện có lông công trên đó, và với chiếc sáo, cố gắng làm
điều con chim cu đực vẫn làm, và ông ấy đứng theo tư thế
nhảy múa.
Bây giờ người Jain không thể chấp nhận được ông ấy là
người chứng ngộ; đây không phải là cách thức của người đã
chứng ngộ. Ông ấy trông như đào kép! Theo huyền thoại
85
Jain ông ấy đã vào địa ngục thứ bẩy - địa ngục thứ bẩy là địa
ngục cuối cùng. Chỉ những người rất nguy hiểm mới bị tống
vào địa ngục thứ bẩy. Ngay cả Adolf Hitler cũng chưa tới
được địa ngục thứ bẩy; ông ta ở đâu đó, nhiều nhất là địa
ngục thứ ba, không nhiều hơn thế. Krishna ở địa ngục thứ
bẩy và Krishna sẽ không được tự do trong pha sáng tạo này.
Người Jain có các chu kì: một chu kì nghĩa là một kì
sáng tạo; thế rồi toàn thể việc sáng tạo trở nên tan rã, biến
mất vào cái không, và rồi việc sáng tạo khác bắt đầu, chu kì
khác. Krishna sẽ được thả ra chỉ khi chu kì thứ hai bắt đầu,
không trong chu kì này. Khi mọi mặt trời và mặt trăng và
toàn thể vũ trụ này tan biến qua lỗ đen, khi tất cả đều đã mất
đi và bỏ đi - không cái gì còn lại - thế thì chu kì thứ hai bắt
đầu. Krishna sẽ quay lại sau khi việc sáng tạo thứ nhất đã
chấm dứt, không trước đó; điều đó sẽ thành vĩnh viễn. Họ
rất giận Krishna - ông ta là loại người chứng ngộ gì vậy.
Những trông đợi này! Người Jain không thể nào tin
được rằng Jesus đã chứng ngộ, bởi vì theo họ người chứng
ngộ không thể nào bị đóng đinh được - không thể được.
Thực tế, họ có huyền thoại rằng khi Mahavira bước đi trên
đường... và ông ấy là người ở trần không giầy, và bạn biết
những con đường Ấn Độ đấy. Và Mahavira đã bước đi từ
hai mươi nhăm thế kỉ trước đây; cố thử hình dung ra loại
đường gì - ông ấy đã không bước đi - con đường phi đường!
Câu chuyện là: khi ông ấy bước trên đường, cho dù có
gai đấy nhưng nó lập tức quay lộn đầu lại bởi vì người
chứng ngộ đã chấm dứt hết mọi nghiệp của mình rồi, người
đó không phải chịu bất kì đau đớn nào nữa. Đau đớn phải
chịu đựng bởi vì nghiệp quá khứ của bạn; bạn phải đã phạm
tội lỗi nào đó trong quá khứ. Ông ấy đã chấm dứt mọi tội lỗi
rồi, ông ấy hoàn toàn tự do khỏi mọi nghiệp, cho nên đau

86
đớn là không thể có được. Phải nghĩ gì, phải nói gì về đóng
đinh đây?
Người Jain không thể tin được Jesus là người đã chứng
ngộ. Với họ, theo họ, thì không phải là người Do Thái đóng
đinh ông ấy đâu, không phải là thống đốc người La Mã đóng
đinh ông ấy đâu; đấy là những hành vi xấu quá khứ của ông
ấy, nghiệp quá khứ đang tạo ra đau đớn này cho ông ấy, khổ
này cho ông ấy.
Nếu bạn chỉ quan sát mọi trông đợi này bạn sẽ có khả
năng hiểu được rằng không người chứng ngộ nào có thể hoà
hợp được với những trông đợi của bạn; ông ấy phải sống
cuộc sống của mình một cách đích thực. Và nếu ông ấy
muốn khai thác bạn, ông ấy sẽ hoàn thành những trông đợi
của bạn. Nếu ông ấy muốn khai thác người Jain, ông ấy sẽ
đi trần, ông ấy sẽ nhịn ăn, và họ sẽ hài lòng - ông ấy là con
người vĩ đại. Nếu ông ấy muốn hoàn thành những trông đợi
của người Ki tô giáo, ông ấy sẽ phải trở thành một Mẹ
Teresa ở Calcutta: phục vụ cho người nghèo, người què,
người ốm. Nếu ông ấy muốn hoàn thành trông đợi của
người Mô ha mét giáo, ông ấy sẽ trở thành một Ayatollah
Khomaniac - cầm chiếc kiếm - bởi vì đó là điều Mohammed
đã làm. Và nhớ, người Mô ha mét giáo tin rằng điều đó bắt
nguồn từ từ bi, bởi vì nếu ai đó sắp đi vào địa ngục, cho dù
người có có thể bị ngăn cản bằng lưỡi kiếm thì người đó
cũng nên bị ngăn lại. Và bất kì ai không phải là người Mô
ha mét giáo đều đang đi xuống địa ngục, cho nên cải đạo
mọi người thành người Mô ha mét giáo, bằng bất kì phương
tiện nào điều đó cũng phải được thực hiện, nhưng nó phải
được thực hiện. Cho nên Ayatollah Khomaniac là thầy Mô
ha mét giáo hoàn hảo nhất ngay bây giờ!
Những kẻ ngốc ngày có thể giả vờ bởi vì họ phải nhìn
vào đám đông, trông đợi của đám đông là gì; họ có thể đáp

87
ứng cho các trông đợi của đám đông. Nhưng một thầy sống
thực sự nhất định tự do toàn bộ với mọi trông đợi của bạn.
Thầy không thể điều chỉnh theo bạn được; nếu bạn phải ở
cùng thầy bạn sẽ phải điều chỉnh bạn theo thầy.
Và đó là lí do tại sao người bản ngã thấy khó ở cùng với
thầy, và họ thích nhóm của Krishnamurti - bởi lẽ đơn giản vì
ông ấy không yêu cầu bạn phải làm tan biến bản ngã của
bạn hay buông xuôi hay điều chỉnh theo bất kì cách nào.
Ông ấy không yêu cầu điều gì với bạn. Ông ấy không trao
cho bạn bất kì sáng suốt nào, ông ấy đơn giản làm rõ ràng
quan điểm của một a la hán. Nhưng a la hán không bao giờ
giúp cho cho bất kì ai, và ông ấy không thể giúp được.
Và bây giờ đã nảy sinh ra nhiều loại guru mới; họ mọc
như nấm trên khắp thế giới. Các guru tôn giáo có đó và thế
rồi có các nhà tâm thần và nhà trị liệu. Họ đang chiếm chỗ;
họ đang trở thành rất quan trọng. Và tất nhiên họ hiểu cái gì
đó về cơ chế của tâm trí và họ có thể giúp bạn một chút ít,
nhưng bản thân họ là trong đống lộn xộn sâu sắc.

Đối thoại giữa hai nhà tâm thần:


"Phần lớn bệnh nhân của tôi đều bị rối loạn. Để tôi hỏi
ông vài câu hỏi - để cho ông một ví dụ. Cái nào có chỗ cong
đều đặn và đôi khi không thể kiểm soát được?"
"Cầu thủ ném bóng chày, tất nhiên rồi."
"Tiếp, cái gì mặc váy và có đôi môi đem lại cho bác sự
hoan lạc?"
"Hiển nhiên, người Scot chơi kèn."

88
"Ông biết các câu trả lời, nhưng điều đáng ngạc nhiên là
những lời đáp kì lạ làm sao tôi nhận được từ bệnh nhân của
mình!"

Những nhà phân tâm này, bây giờ họ là các guru của
Thời đại Mới. Họ biết những thủ đoạn nào đó về tâm trí,
nhưng họ không có ý tưởng gì về cốt lõi bên trong nhất của
con người bạn. Bạn phải rất cẩn thận và thận trọng bởi vì
chưa bao giờ có ham muốn biến đổi như thế, do đó nhất
định có nhiều người sẽ không bỏ lỡ cơ hội này để khai thác
bạn.
Theo nghĩa đó Krishnamurti là đúng, nhưng chỉ đúng
tới chín mươi chín phần trăm thôi. Và với tôi điều đó không
là gì nếu so với một phần trăm còn lại. Chín mươi chín phần
trăm kia có thể được bỏ qua, một phần trăm kia không nên
bị bỏ quên bởi vì đó là niềm hi vọng duy nhất: một Thầy
người có thể làm cho bạn tự do, người không làm bạn thành
nô lệ; một Thầy có thể dỡ bỏ các huấn luyện cho bạn và
không huấn luyện lại bạn; một Thầy không cho bạn học
thuyết, giáo điều, tín điều nào để tin tưởng, mà chia sẻ niềm
vui của thầy, sự mở hội của thầy với bạn.

Câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Xin thầy kể một câu chuyện cười mà tôi có thể cười
hết phần cuộc đời còn lại của tôi.

Prem Raquibo,

89
Không có chuyện cười nào như vậy đâu; điều đó là
không thể được. Điều đó không thể xảy ra trong chính bản
chất của mọi sự, bởi vì chuyện cười có thể được cười chỉ khi
bạn nghe nó lần đầu tiên. Bạn không thể cười nó trong cả
phần cuộc đời còn lại của bạn được, trừ phi bạn ngu, bạn
đần tới mức mỗi lần bạn nghe nó bạn đã hoàn toàn quên
khuấy là bạn đã nghe nó trước đây. Và bạn sẽ tự kể nó cho
bản thân bạn, bởi vì ai sẽ kể cho bạn trong cả đời bạn? Tôi
có thể kể cho bạn chỉ một lần thôi, thế rồi bạn sẽ phải tự kể
nó cho bạn. Hoặc là bạn phải hoàn toàn ngu hoặc là điên!
Tôi nghe nói về một người đang ngồi trong phòng đợi
của một ga tầu hoả, và tầu tới trễ - như tầu hoả Ấn Độ bao
giờ cũng thế. Ở Ấn Độ họ nói thời gian biểu tồn tại để cho
bạn có thể biết tầu trễ bao lâu. Bằng không làm sao bạn biết
nó trễ bao lâu? Việc trễ sẽ là vậy! Và ở Ấn Độ họ nói vé là
hợp lệ trong hai mươi bốn giờ. Nó là hợp lệ trong hai mươi
bốn giờ bởi vì không ai biết khi nào tầu hoả sẽ tới. Nếu nó
tới trong vòng hai mươi bốn giờ, điều đó nữa cũng là phép
màu!
Cho nên ông ấy chờ đợi, ngồi trong chiếc ghế, và một
người khác trong phòng đợi bị chút ít phân vân. Cuối cùng
một người trở nên tò mò tới mức ông ta không thể cưỡng lại
được sự tò mò của mình. Ông ta nói, "Thưa ông, tôi đáng ra
không nên can thiệp vào, nhưng cái gì đang diễn ra vậy?" -
bởi vì người này ngồi đó với mắt nhắm, đôi môi chuyển
động. Lúc thì người đó cười khúc khích và lúc thì người đó
cau mày; lúc thì người đó cười to và lúc thì người đó làm
các điệu bộ tay liên tục dường như người đó đang ném cái gì
đó đi. Cái gì diễn ra vậy?
Người này hỏi, "Ông đang làm gì thế? Đó không phải là
việc của chúng tôi và chúng tôi không nên can thiệp vào, và
đó là chuyện tuyệt đối riêng tư điều ông đang làm, nhưng tôi

90
xin lỗi... Liệu ông có thể làm sáng tỏ một chút cho tôi được
không?"
Người này nói, "Không có gì riêng tư về nó cả - tôi
đang kể chuyện cười cho chính mình thôi!"
Người kia nói, "Đó là... điều tôi có thể hiểu. Lúc thì ông
cười khúc khích và ông cười to - ông phải vui đùa lắm.
Nhưng lúc thì ông nghiêm nghị và ông làm bộ mặt xấu thế.
Rồi ông lại ném cái gì đó, đẩy cái gì đó bằng tay ông."
Người này nói, "Vâng, khi tôi nghe chuyện cười mà tôi
đã nghe trước đây!"

Ông ấy đang kể chuyện cười cho bản thân mình!


Bây giờ, Raquibo, một chuyện cười cho cả đời bạn
sao...? Điều đó chưa bao giờ xảy ra! Bạn có thể cười chỉ lần
đầu tiên thôi, bởi vì toàn thể nghệ thuật, bí mật của chuyện
cười là việc kết thúc không trông đợi. Đó là toàn thể bí mật -
chỗ rẽ không trông đợi. Chuyện cười ban đầu đi thep đường
nào đó, và thế rồi lấy chỗ rẽ không ngờ tới mức về mặt logic
bạn bị sốc trong một khoảnh khắc. Bạn đã đi cùng câu
chuyện cười này, trông đợi những điều nào đó xảy ra, và thế
rồi điều xảy ra không phải là điều logic. Cái gì đó phi logic
xảy ra - và cái phi logic đó làm cho chuyện cười thành hay,
cái đó làm cho bạn buột ra tiếng cười.
Logic không buồn cười, nó là thứ nghiêm chỉnh. Và khi
bạn bắt đầu nghe chuyện cười, tất nhiên tâm trí bạn bắt đầu
vận hành một cách logic. Bạn bắt đầu trông đợi một cách
logic rằng điều này sẽ xảy ra, điều này sắp xảy ra, và thế rồi
cái gì đó tới vào chỗ cuối mà bạn không thể hình dung nổi.
Nó phi logic thế, nó buồn cười thế, nó ngớ ngẩn thế! Cú
sốc... và toàn thể năng lượng đang đi vào một hướng, đi lên

91
tới cực đỉnh, và thế rỗi bỗng nhiên mọi thứ nổi đoá lên.
Toàn thể năng lượng bùng nổ trong tiếng cười. Nó là một
căng thẳng nào đó được xả ra. Logic tạo ra căng thẳng và
chuyện cười xả nó ra. Đó là điểm nút tạo ra thủ thuật.
Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra một lần thôi. Nếu bạn
biết điểm nút rồi, thế thì rất khó cho bạn thích thú nó bởi vì
bạn sẽ trông đợi nó. Bạn đã biết nó rồi, bây giờ nó đã trở
thành một phần logic của bạn. Cho nên không thể có bất kì
năng lượng đi lên nào, không thể có bất kì căng thẳng nào,
bạn sẽ ngồi thảnh thơi.

Một người chạc tứ tuần có mối bận tâm về chim của


mình. Nó đã phát triển rất cong queo và đã mọc mụn và lông
ở những chỗ không thích hợp nhất. Hoàn cảnh của anh ta
liên tục tồi tệ thêm qua năm tháng và anh ta quyết định tìm
kiếm lời khuyên y tế.
Bác sĩ địa phương khám kĩ cho ông ấy rồi nói rằng việc
thiến cắt đi là khả năng duy nhất cho việc lấy mẫu xét
nghiệm như trường hợp của ông ấy.
Anh chàng đáng thương đi sang bác sĩ khác để hỏi ý
kiến thứ hai. Ông ấy cũng khám rất kĩ càng, thế rồi nói rằng
điều đó phải được thực hiện.
Bây giờ trong trạng thái hoảng hốt, người này đi tới một
chuyên gia để hỏi ý kiến lần cuối. Ông bác sĩ khám chiều
dài chim, nghiêng người trên chiếc ghế bành của mình, suy
tư một chốc, rồi nói, "Không, thưa ông ấy, tôi cho rằng việc
thiến cắt là không cần thiết." Bệnh nhân thở phào nhẹ nhõm
"Vâng," bác sĩ tiếp tục, "không còn thời gian chút nào đâu
nó sẽ tự rụng đi thôi!"

92
4. Buông xuôi từ tâm

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Bạn tôi, người đã có bằng tiến sĩ về tin học, và có
luận án về "trí tuệ nhân tạo", nói rằng con người là
cái máy tính sinh hoá và không hơn gì thế. Phật đã
nói rằng mọi thứ là hợp thành và không có cái ngã,
không có hồn, không có linh hồn, không có "tôi",
điều này dường như phù hợp với quan điểm của
bạn tôi. Xin thầy giúp tôi, bởi vì tôi cảm thấy rằng
có cái gì đó thiếu từ những cách nhìn này mà tự tôi
không thể thấy được nó.

Prem Hamid,
Con người chắc chắn là cái máy tính sinh học, nhưng
còn là cái gì đó hơn nữa. Với quãng chín mươi chín phẩy
chín phần trăm mọi người, có thể nói rằng họ chỉ là cái máy
tính sinh học và không gì hơn nữa. Người bình thường chỉ là

93
thân thể và tâm trí, và cả hai là cái hợp lại.Chừng nào người
ta chưa đi vào trong thiền, người ta không thể tìm được cái
gì đó hơn nữa, cái gì đó siêu việt lên trên thân thể và tâm trí.
Các nhà tâm lí, đặc biệt là các nhà hành vi chủ nghĩa, đã
nghiên cứu con người cả nửa thế kỉ nay, nhưng họ nghiên
cứu người thường, và tất nhiên luận điểm của họ được
chứng minh bởi mọi nghiên cứu của họ. Người thường,
người vô ý thức, không có gì nhiều trong mình hơn sự hợp
lại thân tâm. Thân thể là phía bên ngoài của tâm trí và tâm
trí là phía bên trong của thân thể. Cả hai được sinh ra và cả
hai ngày nào đó sẽ chết đi.
Nhưng còn có cái gì đó hơn nữa. Cái gì đó hơn ấy làm
cho con người thành thức tỉnh, chứng ngộ, thành vị Phật,
thành Christ. Nhưng một Phật hay một Christ là không sẵn
có để cho Pavlov, Skinner, Delgado và những người khác
nghiên cứu. Nghiên cứu của họ là về con người vô ý thức,
và tất nhiên khi bạn nghiên cứu người vô ý thức bạn sẽ
không tìm được cái gì siêu việt trong người đó. Cái siêu việt
tồn tại trong con người vô ý thức như một tiềm năng, như
một khả năng; nó vẫn chưa được nhận ra, nó chưa là thực
tại. Do đó bạn không thể nghiên cứu nó được.
Bạn có thể nghiên cứu nó chỉ trong vị Phật, nhưng ngay
cả thế thì việc nghiên cứu cũng hiển nhiên rất khó, gần sát
với điều không thể được, bởi vì điều bạn sẽ nghiên cứu
trong vị Phật sẽ là hành vi của ông ấy. Và nếu bạn đã xác
định rằng không có gì hơn, nếu bạn đã kết luận rồi, thế thì
ngay cả trong hành vi của ông ấy bạn sẽ chỉ thấy những
phản ứng máy móc, bạn sẽ không thấy tính tự phát của ông
ấy. Để thấy tính tự phát đó bạn cũng phải trở thành người
tham dự vào thiền.
Tâm lí học có thể trở thành tâm lí học thực sự khi thiền
trở thành nền tảng của nó. Từ "tâm lí - psychology" nghĩa là
94
khoa học về hồn. Tâm lí học hiện đại chưa là khoa học của
hồn.
Phật chắc chắn đã phủ nhận cái ngã, bản ngã, cái "tôi",
nhưng ông ấy đã không phủ nhận hồn - và cái ngã và hồn là
không đồng nghĩa. Ông ấy phủ nhận cái ngã bởi vì cái ngã
chỉ tồn tại trong con người vô ý thức. Con người vô ý thức
cần ý tưởng nào đó về "tôi", bằng không người đó sẽ hiện
hữu mà không có trung tâm. Người đó không biết trung tâm
thực của mình. Người đó phải bịa ra một trung tâm giả để
cho mình ít nhất có thể vận hành trong thế giới, bằng không
vận hành của người đó sẽ trở thành không thể được. Người
đó cần ý tưởng nào đó về "tôi".

Bạn phải đã nghe nói về phát biểu nổi tiếng của


Descartes: "Cogito ergo sum - Tôi tư duy, nên tôi hiện hữu."
Một giáo sư, dạy về triết lí của Descartes, bị một sinh
viên hỏi, "Thưa thầy, tôi tư duy, nhưng làm sao tôi biết rằng
tôi hiện hữu?"
Vị giáo sư giả vờ nhìn chăm chú quanh lớp học. "Ai hỏi
câu hỏi này vậy?" ông ta nói.
"Tôi ạ," sinh viên đáp.

Người ta cần ý tưởng nào đó về "tôi", bằng không việc


vận hành sẽ trở thành không thể được. Do vậy vì chúng ta
không biết cái "tôi" thực, chúng ta thay thế nó bằng cái "tôi"
giả - cái gì đó được bịa ra, cái hợp thành.
Phật phủ nhận cái ngã bởi vì với ông ấy, "ngã" đơn giản
là cái tên khác cho bản ngã, với chút ít mầu sắc tâm linh,
bằng không không có gì khác biệt. Từ của ông ấy là anatta.

95
Atta nghĩa là "ngã', anatta nghĩa là "vô-ngã". Nhưng ông ấy
không phủ nhận hồn. Thực tế ông ấy nói khi cái ngã hoàn
toàn bị vứt bỏ, chỉ thế thì bạn đi tới biết hồn. Nhưng ông ấy
không nói gì về điều đó bởi vì không cái gì có thể được nói
về nó cả.
Cách tiếp cận của ông ấy là qua phủ định. Ông ấy nói:
Ông không là thân thể, ông không là tâm trí, ông không là
cái ngã. Ông ấy liên tục phủ nhận, khử bỏ dần. Ông ấy khử
bỏ mọi thứ mà bạn có thể quan niệm được, và thế rồi ông ấy
không nói gì về cái gì còn lại. Cái còn lại đó chính là thực
tại của bạn: bầu trời hoàn toàn thuần khiết không mây,
không ý nghĩ, không đồng nhất, không xúc động, không
ham muốn, không bản ngã - không cái gì còn lại. Mọi mây
đã biến mất... chỉ còn mỗi bầu trời thuần khiết.
Đó là cái không thể diễn đạt được, cái không thể gọi tên
được, cái không thể định nghĩa được. Đó là lí do tại sao ông
ấy giữ tuyệt đối im lặng về nó. Ông ấy biết điều đó rằng nếu
bất kì cái gì được nói về nó, bạn sẽ lập tức nhảy lùi về ý
tưởng cũ của bạn về cái ngã. Nếu ông ấy nói, "Có hồn trong
ông," bạn sẽ hiểu cái gì? Bạn sẽ nghĩ ngay rằng, "Ông ấy
gọi nó là linh hồn và chúng ta có thể gọi nó là cái ngã - đấy
là cùng một điều. Có thể là cái ngã tối cao, cái ngã tâm linh;
nó không phải là bản ngã thường." Nhưng tâm linh hay
không tâm linh, ý tưởng về hiện hữu của tôi là một thực thể
tách rời là vấn đề.
Phật phủ nhận rằng bạn là một thực thể tách rời khỏi cái
toàn thể. Bạn là một với sự thống nhất hữu cơ của sự tồn tại,
cho nên không có nhu cầu nói gì về sự tách rời của bạn.
Ngay cả từ "hồn" cũng sẽ cho bạn một ý tưởng nào đó về sự
tách rời; bạn nhất định hiểu nó theo cách vô ý thức riêng của
bạn.

96
Hamid, bạn của bạn nói rằng: con người là cái máy
tính sinh hoá và không hơn gì thế.

Cái máy tính sinh hoá có thể nói được điều đó không?
Cái máy tính sinh hoá có thể phủ nhận cái ngã, hồn không?
Không máy tính sinh học nào hay bất kì loại máy tính nào
khác có ý tưởng gì về cái ngã hay vô ngã. Bạn của bạn đang
làm điều đó đấy - chắc chắn anh ta không phải là cái máy
tính sinh hoá. Không máy tính sinh hoá nào có thể viết được
luận án về trí tuệ nhân tạo! Bạn có cho rằng trí tuệ nhân tạo
có thể viết ra được luận án về trí tuệ nhân tạo không? Cần
cái gì đó hơn nữa.
Và anh ta hoàn toàn sai khi nghĩ rằng Phật cũng nói
cùng điều đó:

... rằng mọi thứ là hợp thành và không có cái ngã,


không có hồn, không có linh hồn, không có cái
"tôi".

Anh ta sai khi nghĩ rằng Phật đồng ý với quan điểm của
anh ta - không đồng ý chút nào. Kinh nghiệm của Phật là về
thiền. Không có thiền không ai có thể có được ý tưởng nào
về điều Phật đang nói tới. Quan sát của bạn là từ quan điểm
của nhà khoa học nhìn từ bên ngoài. Đấy không phải là kinh
nghiệm của anh ta, đấy là quan sát của anh ta. Anh ta đang
nghiên cứu máy tính sinh hoá, trí tuệ nhân tạo, từ bên ngoài.
Ai đang nghiên cứu bên ngoài?
Bạn có thể quan niệm được hai máy tính nghiên cứu
nhau không? Máy tính chỉ có thể có cái đã được nạp vào
trong nó; nó không thể có nhiều hơn thế. Thông tin phải
được trao cho nó, thế rồi nó giữ thông tin đó trong bộ nhớ -
nó là hệ thống bộ nhớ. Nó có thể làm phép màu chừng nào
97
còn có liên quan tới toán học. Máy tính có thể hiệu quả hơn
bất kì Albert Einstein nào khi có liên quan tới toán học,
nhưng máy tính không thể là thiền nhân. Bạn có thể hình
dung máy tính chỉ ngồi im lặng không làm gì không, xuân
tới và cỏ tự nó mọc lên...?
Có nhiều phẩm chất không thể có được đối với máy
tính. Máy tính không thể ở trong yêu được. Bạn có thể để
nhiều máy tính cạnh nhau - chúng sẽ không yêu nhau! Máy
tính không thể có kinh nghiệm nào về cái đẹp. Máy tính
không thể biết gì về phúc lạc. Máy tính không thể có nhận
biết nào. Máy tính không có khả năng cảm thấy sự im lặng.
Và đây là những phẩm chất chứng tỏ rằng con người có cái
gì đó hơn cả trí tuệ nhân tạo.
Trí tuệ nhân tạo có thể làm công việc khoa học, công
việc toán học, tính toán - tính toán lớn và rất nhanh và rất
hiệu quả, bởi vì nó là cái máy. Nhưng cái máy không thể
nhận biết về điều nó đang làm. Máy tính không thể cảm thấy
chán, máy tính không thể cảm thấy vô nghĩa, máy tính
không thể kinh nghiệm sự khổ sở. Máy tính không thể bắt
đầu cuộc truy tìm về chân lí, nó không thể từ bỏ thế giới và
trở thành sannyasin, nó không thể đi lên núi hay vào tu viện.
Nó không thể quan niệm được gì bên ngoài máy móc - và
mọi điều có ý nghĩa nằm bên ngoài máy móc.

Một cảnh sát bắt đầu đuổi theo chiếc ô tô sau khi để ý
rằng lái xe là máy tính, người máy - đội mũ, hút xì gà và lái
xe với một tay thò ra ngoài cửa sổ.
Anh ta cuối cùng cũng thành công trong việc dừng xe
lại. Anh ta lại gần nó và với sự ngạc nhiên thấy rằng có một
người ngồi bên cạnh chiếc máy tính.

98
"Anh có điên không đấy?" viên sĩ quan kêu lên, "để cho
máy tính của mình lái xe?"
"Xin lỗi ông ấy cảnh sát," người này đáp, "tôi xin anh ta
cho đi nhờ đấy ạ!"

Vâng, trong chuyện thì mọi sự đều có thể, nhưng không


có trong thực tế.

Ông Polanski đang thích thú chơi với chiếc đồng hồ cúc
cu. Một sáng chủ nhật trời mưa ông ta tháo chiếc đồng hồ
cúc cu ra rồi lắp nó lại.
Vào mười hai giờ cả gia đình tụ tập lại, chờ đợi con
chim nhỏ xinh hót lên... mà không cái gì xảy ra. Họ đợi mãi
tới một giờ - không có con chim cúc cu nào. Đến hai giờ họ
vẫn đợi cho con chim xuất hiện. Cuối cùng, vào lúc ba giờ,
cánh cửa nhỏ mở ra và con chim cúc cu thò ra.
"Mẹ kiếp!" nó rít lên. "Không ai trong các ông biết thời
gian sao?"

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Hôm qua thầy đã nói về Krishnamurti và các Thầy,
và điều đó chúng tôi có thể hiểu được, chúng tôi có
thể biết, chúng tôi có thể buông xuôi và chúng tôi
có thể đi vào tình yêu với Thầy, nhưng chúng tôi
phải không đi theo và tin vào Thầy.

99
Liệu có thể buông xuôi mà không tin được không?
Tâm tôi nói với tôi rằng buông xuôi và tin là một.
Tôi không thể cảm thấy được sự khác biệt.
Buông xuôi và tin là gì?
Tôi muốn tin. Tôi cần tin!
Nếu thầy nói rằng thiền là cội nguồn và tôi thực
hiện thiền, tôi tin thầy, tôi tin cậy vào thầy.

Dhyan Anna này,


Buông xuôi là không thể được chút nào nếu bạn tin, bởi
vì niềm tin là của đầu còn buông xuôi là của tâm. Tin nghĩa
là bạn bị thuyết phục một cách logic, một cách trí tuệ, rằng
điều đang được nói là đúng. Luận cứ hấp dẫn bạn. Tin
không liên quan gì tới tâm cả; nó tuyệt đối là của tâm trí,
hiện tượng tâm trí. Tin không phải là chuyện tình.
Tin nghĩa là về mặt trí tuệ bạn bị thuyết phục bởi vì bạn
không thể tìm ra luận cứ nào có thể bác được điều đó; mọi
luận cứ bạn có thể tìm ra được đều chứng minh điều đó.
Nhưng sâu bên dưới nhất định có luồng chảy ngầm của hoài
nghi. Niềm tin không thể phá bỏ đi nghi ngờ, nó chỉ có thể
che đậy điều đó mà thôi. Nó có thể che đậy hoàn hảo tới
mức bạn có thể quên mất hoài nghi, nhưng nó bao giờ cũng
vẫn đó. Chỉ gãi một chút xíu vào bất kì người hoài nghi nào
và bạn sẽ thấy hoài nghi lòi ra đó rồi. Đó là lí do tại sao
những người tin tưởng bao giờ cũng sợ nghe bất kì điều gì
đi ngược lại niềm tin của họ.
Nhà thờ Thiên chúa giáo liên tục cấm đoán người Thiên
chúa giáo: không được đọc cái này, không được đọc cái kia.
Họ liên tục đẩy các cuốn sách vào danh sách đen bị cấm đối
với người Thiên chúa giáo. Thư viện Vatican có hàng nghìn
tài liệu cực kì hay - trong hàng nghìn năm họ đã thu thập -

100
mọi kinh sách họ đã đốt, đã cấm, đã ngăn cấm. Nhưng họ đã
giữ lại vài bản ở thư viện Vatican như một quá khứ lịch sử,
và điều đã được thực hiện trong quá khứ và điều đã bị phá
huỷ trong quá khứ - bằng chứng nào đó về điều đó. Bất kì
cái gì chống lại Ki tô giáo đều bị phá huỷ.
Cùng điều đó đã được thực hiện bởi những người Mô
ha mét giáo, bởi những người Hindu, bởi gần như mọi người
tin trên thế giới. Tại sao có nỗi sợ này? - bởi vì họ tất cả đều
nhận biết về sự kiện là người tin không tự do với hoài nghi;
hoài nghi vẫn có đó và bất kì ai đều có thể khuấy bụi lên lần
nữa. Bằng cách nào đó họ đã xoay xở để làm nó lắng đọng
xuống, bằng cách nào đó họ đã che đậy vết thương, nhưng
vết thương đã không được chữa lành; nó có đó, và bên dưới
cái vỏ bọc nó vẫn liên tục lan rộng.
Mọi người tin vào Thượng đế, nhưng điều đó có nghĩa
là hoài nghi của họ đã bị vứt bỏ đi không? Nếu hoài nghi
không còn đó nữa, thì cần gì tới niềm tin? Niềm tin là thuốc
giải độc, nó là thuốc thôi. Nếu bạn khoẻ, không cần thuốc
gì: nếu không có hoài nghi trong bạn cũng không cần niềm
tin làm gì.
Niềm tin là rất hời hợt; nó phân chia bạn. Người tin là
phần nông cạn của bạn và phần còn lại, phần chính, chín
phần mười con người bạn, vẫn còn đầy những hoài nghi. Có
sự rối loạn bên trong mọi người tin và người đó sợ, thực sự
sợ bắt gặp cái gì đó có thể phá rối niềm tin của mình - và bất
kì cái gì đều có thể phá rối niềm tin của người đó.
Người cộng sản không được phép đọc cái gì ngược lại
chủ nghĩa cộng sản. Ở Nga, chính phủ không cho phép cái
gì chống lại chủ nghĩa cộng sản. Tại sao có nỗi sợ này? Nỗi
sợ này là vì họ biết rằng nếu mọi điều chống lại chủ nghĩa
cộng sản mà đi vào nước họ, mọi người sẽ bắt đầu nghĩ lại;
hoài nghi của họ sẽ nảy sinh.
101
Anna, điều đầu tiên bạn phải hiểu là: việc tin là của đầu
còn buông xuôi là của tâm. Buông xuôi không phải là niềm
tin, nó không phải là sự tin chắc của trí óc - nó là điều tối
thượng trong tình yêu. Bạn không thể đưa ra bất kì bằng
chứng nào cho sự buông xuôi của bạn; bạn có thể đưa ra cả
nghìn lẻ một bằng chứng logic cho niềm tin của bạn, nhưng
với việc buông xuôi của bạn, bạn không thể đưa ra được
bằng chứng. Và bất kì điều gì bạn nói sẽ có vẻ ngớ ngẩn với
chính bạn; nó sẽ không đạt tới đâu. Buông xuôi có cái đẹp
siêu việt, còn niềm tin là bình thường thế và bằng chứng là
tầm thường thế.
Đó là điều rắc rối tại sao người ta lại cảm thấy chút ít
lúng túng nếu bạn hỏi về yêu của họ. Nếu bạn hỏi một người
đàn ông tại sao anh ấy yêu một người đàn bà nào đó, anh ấy
sẽ cảm thấy chút ít lúng túng. Bạn đang hỏi điều gì đó mà
không thể trả lời được, do đó có lúng túng. Tại sao...? Anh
ấy có thể xoay xở nói điều gì đó, nhưng anh ấy sẽ không
thuyết phục được bạn mà bản thân anh ấy cũng cảm thấy
rằng điều đó không đáng nói ra. Anh ấy có thể nói người
đàn bà đó đẹp, đó là lí do tại sao... nhưng đây tất cả là hợp lí
hoá, không phải là lí do cho sự buông xuôi của anh ấy.
Buông xuôi không có lí do, không có động cơ chút nào.
Buông xuôi đơn giản nghĩa là việc xảy ra, không phải là
việc làm. Niềm tin là việc làm - bạn làm điều đó, bạn làm
mọi nỗ lực - nhưng buông xuôi xảy ra từ cõi bên kia. Bạn
đơn giản bị nó sở hữu.
Những người yêu biết điều đó, cách họ trở nên bị sở
hữu. Nếu bạn nói, "Bởi vì người đàn bà này đẹp," người
khác có thể nói, "Nhưng không ai khác yêu cô ấy. Và cô ấy
đã từng đẹp ngay cả trước khi anh đã gặp cô ấy, và cô ấy
đẹp, nhưng tôi không yêu cô ấy. Làm sao anh yêu được cô
ấy?"

102
Thực tế, đó chỉ là hợp lí hoá thôi, điều đó là không
đúng. Bằng cách nào đó anh ta đang cố gắng giữ thể diện.
Anh ta không muốn nói rằng anh không biết tại sao điều đó
đã xảy ra - nó đơn giản đã xảy ra rồi. Anh ta không muốn
chấp nhận rằng mình đang sống cái gì đó bất hợp lí, rằng
mình đã cho phép cái gì đó phi lí xảy ra với mình.
Thực tại là: người đàn bà đó trông đẹp bởi vì bạn đã yêu
cô ấy, không có điều ngược lại. Không phải vì cái đẹp của
cô ấy mà bạn đã yêu đâu, bằng không cả thế giới đã yêu
trước bạn rồi. Chính điều đối lập lại mới là trường hợp: cô
ấy trông đẹp với bạn bởi vì bạn đang trong yêu. Yêu làm
đẹp lên.
Và yêu một người đàn bà hay đàn ông là loại yêu thấp
nhất. Khi bạn yêu vị Phật hay một Christ hay một Krishna
đó là loại yêu cao nhất, cao trào. Điều đó ở quá xa! Điều đó
thật xa xôi! Bạn thậm chí không thể đưa ra được lí do nào
cho yêu bình thường của mình - bạn có thể nêu ra lí do gì
khi bạn yêu Thầy? Không có lí do chút nào.
Mới hôm nọ Vivek vừa kể cho tôi một chuyện cười. Cô
ấy nói, "Osho ơi,thầy có biết tại sao người Do Thái có cổ
ngắn không?"
Và tôi nói...(Osho nhúm vai)
Và cô ấy nói, "Vâng, đấy là lí do!"
Khi bạn yêu, Bạn có thể nói gì ngoại trừ việc nhún vai?
Và nếu bạn liên tục nhúm vai cả ngày thì bạn sẽ có cổ ngắn
thôi!

Anna, bạn hỏi tôi: Liệu có thể buông xuôi mà


không tin được không?

103
Không chỉ điều đó là có thể mà không có việc tin, đó là
điều có thể duy nhất nếu không có việc tin. Với niềm tin thì
không có khả năng nào - niềm tin là cái thay thế giả tạo.
Buông xuôi xảy ra từ tin cậy, mà tin cậy và niềm tin không
đồng nghĩa.
Đó là chỗ Anna bị lẫn lộn: cô ấy coi tin cậy và niềm tin
là một - chúng không là một. Niềm tin là của đầu, tin cậy là
của tâm. Niềm tin có luận cứ về nó, tin cậy không có luận
cứ. Niềm tin mang tính trí tuệ, tin cậy là siêu trí tuệ. Bạn
không thể nói được một lời ủng hộ cho tin cậy của bạn, và
nếu bạn nói bạn có thể bị bác bẻ ngay lập tức rất dễ dàng.
Bất kì kẻ ngu nào đều có thể phá huỷ được luận cứ của bạn
về tin cậy, bởi vì thực tế không luận cứ nào là có thể được.

Bạn nói, Anna: Tâm tôi nói với tôi rằng buông xuôi
và tin là một.

Nó không phải là tâm, Anna, nó là đầu đấy. Bạn bị lẫn


lộn. Bạn không biết cái gì là tâm và cái gì là đầu - và đây là
trường hợp xảy ra đối với hầu hết mọi người. Mọi người
sống qua cái đầu mình. Ngay cả họ yêu, họ yêu qua đầu. Họ
nói, "Tôi nghĩ tôi đang yêu." Tôi nghĩ - điều đó tới trước và
thế rồi yêu mới tới. Đấy không phải là vấn đề việc việc nghĩ
chút nào; bạn có nghĩ hay không cũng không thành vấn đề.
Nếu bạn đang yêu, bạn đang yêu. Yêu không tới qua cái
đầu.

Bạn nói: Tâm tôi nói với tôi rằng buông xuôi và tin
là một.

Không, đấy là đầu của bạn đang nói cho bạn rằng cả hai
là một: tin tưởng là buông xuôi. Đây là ngôn ngữ của đầu -

104
niềm tin là ngôn ngữ của cái đầu. Buông xuôi thuộc vào
chiều hướng hoàn toàn khác; nó không liên quan gì tới niềm
tin. Đó là lí do tại sao niềm tin có thể bị quấy rối, nhưng
buông xuôi không thể bị quấy rối.
Và điều này đã từng là kinh nghiệm làm việc của tôi với
hàng nghìn sannyasins: gần như bao giờ cũng xảy ra việc
bất kì khi nào một người tới tôi, cách tiếp cận của người đó
có tính trí tuệ. Cũng có vài ngoại lệ, điều đó không phải là
qui tắc tuyệt đối; nhưng có thể nói rằng gần như chín mươi
chín phần trăm mọi người đều theo cái đầu, và khi một
người tới tôi, người đó tới qua sự thuyết phục logic. Lắng
nghe tôi, cố gắng hiểu tôi, nếu người đó cảm thấy bị thuyết
phục, người đó trở thành sannyasin.
Nhưng tính chất sannyas của người đó không có giá trị
gì mấy. Bất kì ngày nào người đó có thể vứt bỏ tính chất
sannyas này. Bất kì ai đều có thể phá huỷ được niềm tin của
người đó bởi vì nó dựa trên logic, và logic chỉ là trò chơi
thôi. Nếu bạn bắt gặp một người logic hơn bạn, người đó sẽ
phá huỷ các chứng minh của bạn.
Tôi chưa bao giờ bắt gặp một chứng minh nào không
thể bị phá huỷ. Thực tế, chứng minh bất kì cái gì là khó, bác
bỏ nó là rất dễ dàng. Nếu bạn nói, "Mặt trời lặn đẹp thế,"
người ta có thể biện luận không phải vậy, và còn dễ dàng
hơn. Bất kì ai có thể phản đối, bất kì ai có thể nói, "Đưa
bằng chứng cho tôi đi! Anh ngụ ý gì với cái đẹp? Cái đẹp là
gì? Và làm sao anh có thể chứng minh được rằng mặt trời
lặn này là đẹp?" Và bạn sẽ bị lúng túng. Bạn biết nó đẹp,
nhưng việc biết đó không phải của cái đầu, việc biết đó là
của tâm - và tâm không thể biện minh được, nó đơn giản
biết.

105
Vấn đề là: đầu có mọi câu hỏi còn tâm có mọi câu trả
lời. Đầu có mọi hoài nghi và niềm tin còn tâm chỉ có tin cậy.
Đó là hương vị của tâm.
Có một câu chuyện hay về Chekhov, một chuyện ngụ
ngôn:

Trong làng có một người bị coi là kẻ cực kì ngốc, và tất


nhiên người đó cảm thấy rất bị xúc phạm. Người đó cố gắng
theo đủ mọi cách để thuyết phục mọi người, nhưng anh ta
càng cố thì mọi người lại càng trở nên biết rằng anh ta ngốc.
Một nhà huyền bí đi ngang qua làng ấy, và người ngốc
tới gặp nhà huyền bí và nói, "Bằng cách nào đó xin ông cứu
tôi với - cuộc sống của tôi trở thành không thể chịu đựng
nổi! Mọi người ở chỗ này nghĩ tôi là kẻ ngốc. Làm sao tôi
có thể gạt bỏ được điều này? - bởi vì điều đó hành hạ tôi cả
ngày lẫn đêm. Nó trở thành ác mộng! Tôi sợ cả việc đối diện
với bất kì ai trong thị trấn này, bởi vì bất kì chỗ nào tôi tới
mọi người bắt đầu cười. Tôi đã trở thành trò cười! Chỉ ông
có thể chỉ cho tôi cách thức. Tôi phải làm gì đây?"
Nhà huyền bí nói, "Điều này rất đơn giản. Từ sáng mai
anh bắt đầu hỏi mọi người những câu hỏi không thể nào trả
lời nổi."
Anh ta nói, "Ví dụ xem, như thế nào?"
Nhà huyền bí nói, "Nếu ai đó nói, 'Trông này, hoa hồng
đẹp làm sao!' anh lập tức nêu ra câu hỏi: 'Ai nói đấy? Bằng
chứng đâu? Cái đẹp là gì?' Nếu ai đó nói về thời gian, lập
tức hỏi, 'Thời gian là gì?' Nếu ai đó hỏi về Thượng đế, hỏi
người đó, 'Đưa bằng chứng ra cho tôi!' Ai đó nói về tình
yêu, đừng bỏ lỡ cơ hội đó - liên tục hỏi! Đừng nêu ra phát
biểu nào từ phía anh. Anh đơn giản hỏi các câu hỏi và làm

106
cho mọi người cảm thấy lúng túng, bởi vì đây là những câu
hỏi không ai có thể trả lời nổi!"
Và trong vòng bẩy ngày người này đã được dân làng coi
như một trong những thiên tài vĩ đại nhất, bởi vì bây giờ anh
ta không đưa ra phát biểu nào cho nên anh ta không sẵn đấy
cho bạn bắt bẻ. Anh ta đơn giản phủ nhận người khác.
Đó là toàn bộ nghệ thuật của chủ nghĩa vô thần: liên tục
nói không, và không ai có thể thuyết phục được bạn. Có tới
từ tâm, còn đầu rất thiện nghệ trong việc nói không. Và
không ai có thể chứng minh được... không cái gì có thể được
chứng minh bằng đầu. Và giá trị càng cao, càng khó chứng
minh.
Khi đàn ông tới tôi họ tới qua trí tuệ; tính chất sannyas
của họ không đáng tin cậy mấy. Nhưng khi đàn bà tới tôi...
và tất nhiên, lại có ngoại lệ, nhưng rất ít, theo cùng tỉ lệ.
Chín mươi chín phần trăm đàn bà sẽ vẫn còn là sannyasins.
Đó là lí do tại sao tôi đã cho tâm xã của tôi được có kỉ
luật toàn bộ, được kiểm soát bởi các nữ sanyasin - bởi lẽ
đơn giản vì cách tiếp cận của họ tới tôi là qua tâm; họ đáng
tin cậy hơn. Một phần trăm đàn ông đáng tin cậy, một phần
trăm đàn bà không đáng tin cậy - họ có thể bỏ tính chất
sannyas. Nhưng chín mươi chín phần trăm đàn bà đáng tin
cậy: họ tới qua tâm. Không ai có thể bác bẻ tâm của họ.
Cách tiếp cận của họ là qua tin cậy và yêu.
Anna, bạn phải hiểu khác biệt giữa đầu và tâm. Sẽ mất
chút thời gian bởi vì xã hội đã làm cho mọi người bị lẫn lộn.
Mọi người đều trong đống lộn xộn - không ai biết tâm ở đâu
và đầu ở đâu.
Ở đây đi - cô ấy là người mới - bạn sẽ sớm có khả năng
cảm thấy sự khác biệt rõ ràng.

107
Bạn nói: Tôi không thể cảm thấy được sự khác biệt.

Vâng, ngay bây giờ điều đó sẽ là khó, nhưng trở nên im


lặng thêm chút nữa đi. Trong im lặng sự phân biệt sẽ tới với
tiếng rất to.

Bạn nói: Tôi muốn tin. Tôi cần tin!

Đó là lí do tại sao khó cho bạn tạo ra sự khác biệt. Bạn


đang trong nhu cầu tin dữ dội, bạn sợ không tin, bởi vì bạn
không biết gì về tin cậy. Một khi bạn biết tới tin cậy, ai bận
tâm về niềm tin nữa? Ai lo nghĩ? Niềm tin không là nhu cầu
của ai cả. Nó là chiến lược của các tu sĩ được áp đặt lên bạn
rằng niềm tin là điều cần thiết - nó không phải là nhu cầu
đâu. Tin cậy chắc chắn là nhu cầu, là chất nuôi dưỡng,
nhưng niềm tin chỉ là thức ăn nhân tạo, có thể loè loẹt nhiều
mầu, nhưng không nuôi dưỡng.

Bạn nói: Nếu thầy nói rằng thiền là cội nguồn và tôi
thực hiện thiền, tôi tin thầy, tôi tin cậy vào thầy.

Xin bạn tin cậy nhưng đừng tin tưởng. Và tất nhiên,
thiền là cách thức, là cội nguồn - đó là lí do tại sao tôi cho
bạn cái tên Dhyan Anna. Dhyan Anna nghĩa là thiền, lời
nguyện. Qua thiền bạn sẽ đi tới lời nguyện. Lời nguyện là
dạng cao nhất của yêu, của tin cậy. Qua thiền người ta tìm
thấy tâm, và lời nguyện nảy sinh. Và qua thiền chung cuộc
người ta tìm thấy sự hiện hữu. Và khoảnh khắc bạn đã tìm
108
thấy sự hiện hữu, không có gì hơn nữa để được tìm thấy...
bạn đã về nhà.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Thầy có thể đọc trong Kinh Thánh rằng Jesus đã
cảnh báo về các Thầy khác sắp tới trong tương lai.
Thầy có cho rằng những lời cảnh báo của ông ấy
cũng bao gồm cả thầy không? Thông điệp của thầy
rất khác với phần lớn các giáo huấn của Jesus.
Làm sao có thể có chuyện các Thầy chứng ngộ nói
nhiều điều mâu thuẫn thế?

Dieter,
Một điều có tầm quan trọng lớn lao cần phải được hiểu
trước hết. Jesus đã trở nên chứng ngộ chỉ vào khoảnh khắc
cuối cùng trên cây chữ thập. Do đó các phát biểu của ông ấy
đã đưa ra trước kinh nghiệm đó đều không phải là của người
chứng ngộ - gần, rất gần, xấp xỉ, nhưng khi có liên quan tới
chân lí, không có gì giống như chân lí xấp xỉ.
Điều này đã không được nói chút nào cho người Ki tô
giáo, rằng Jesus đã trở nên chứng ngộ vào chính khoảnh
khắc cuối cùng. Trên cây chữ thập ông ấy đã trở nên chứng
ngộ, trên cây chữ thập ông ấy đã trở thành một Christ.
Với tôi cây chữ thập là quan trọng không phải bởi cùng
lí do như đã nêu cho cho người Ki tô giáo. Với họ cây chữ
thập là quan trọng bởi vì Jesus bị đóng đinh, và cây chữ thập

109
đã trở thành biểu tượng cho việc đóng đinh. Với tôi điều đó
là tuyệt đối sai - đó là một loại phủ định cuộc sống, đó là
việc tôn thờ cái chết, đó là việc làm ồn ào quá đáng về việc
đóng đinh.
Tôi có thể gọi Ki tô giáo là "Chữ thập giáo" bởi vì nó
không liên quan tới Christ, nó liên quan nhiều tới cây chữ
thập. Tôi cũng yêu mến biểu tượng về cây chữ thập, nhưng
bởi một lí do khác toàn bộ: không phải bởi vì việc đóng đinh
mà bởi vì Jesus đã trở nên chứng ngộ trên cây chữ thập, ông
ấy đã trở nên nhận biết về tính bất tử của con người tối
thượng. Với tôi nó không phải là việc đóng đinh, không phải
là cái chết, mà là sự bắt đầu của cuộc sống vĩnh hằng.
Vào khoảnh khắc cuối cùng Jesus nói với Thượng đế,
"Ngài đã bỏ rơi con sao?" Và điều đó chỉ ra rằng ông ấy vẫn
còn sống trong tâm trí, vẫn trông đợi, ham muốn, hi vọng -
thậm chí từ Thượng đế. Đã có vài trông đợi rằng vào khoảnh
khắc cuối cùng phép màu nào đó sẽ xảy ra. Không chỉ
những người đã tụ tập tại đó đang trông đợi phép màu đang
nhìn lên trời - đó là bàn tay thiêng liêng sẽ xuất hiện và
Jesus sẽ được nâng lên tới vinh quang tột đỉnh; ông ấy sẽ
được cứu vào khoảnh khắc cuối cùng - nhưng bản thân
Jesus cũng đã chờ đợi.
Ông ấy nói, "Ngài đã bỏ rơi con sao?" Điều đó nghĩa là
gì? Đó là phàn nàn, đó không phải là lời nguyện. Đó là chán
nản, đó là thất vọng. Và thất vọng là có thể chỉ nếu có ham
muốn sâu sắc nào đó, khao khát nào đó cần được hoàn
thành. Thượng đế đã bỏ lơ ông ấy rồi - Thượng đế đã không
tới để cứu ông ấy. Ông ấy đã hi vọng.
Và đây là những dấu hiệu của người chưa chứng ngộ.
Đây là là biểu tượng của bản ngã, của cái đầu, của chính quá
trình tâm trí.

110
Nhưng ông ấy là con người của thông minh lớn lao nữa:
lập tức ông ấy đã nhận ra rằng điều ông ấy nói là sai, chính
ham muốn đó là sai. Người ta không nên trông đợi điều gì từ
vũ trụ, người ta không nên cảm thấy thất vọng, người ta
không nên cảm thấy chán nản. Đây không phải là tin cậy!
Đây không phải là chuyện tình! Đây không phải là có tuyệt
đối, nó là có với điều kiện: "Ngài hoàn thành những điều
kiện này đi, thế thì tất nhiên tôi sẽ biết ơn. Nhưng bởi vì các
điều kiện đã không được hoàn thành nên tôi giận đấy." Có
giận dữ trong tiếng nói của ông ấy; có lo âu, thất vọng.
Nhưng ông ất đã hiểu ra vấn đề, và ngay lập tức ông ấy
đã sửa lại điều đó. Một khoảnh khắc thôi... và ông ấy không
còn là Jesus nữa, ông ấy đã trở thành Christ. Đột nhiên ông
ấy nhìn lên trời và nói, "Xin tha lỗi cho tôi! Cứ để vương
quốc của ngài tới, cứ để ý của ngài được thực hiện - không
phải ý của tôi. Cứ để ý của ngài được thực hiện đi!"
Đây là buông xuôi. Ông ấy đã vứt bỏ tâm trí, ông ấy đã
vứt bỏ bản ngã và mọi trông đợi. "Để cho ý của ngài được
thực hiện đi." Trong trạng thái vô ngã này ông ấy đã trở nên
chứng ngộ. Nhưng không may điều đó đã xảy ra ở chính
khoảnh khắc cuối cùng, và ông ấy không có thời gian còn lại
nữa.
Phật đã sống trong bốn mươi năm sau chứng ngộ của
ông ấy, do đó bất kì điều gì ông ấy nói có ý nghĩa hoàn toàn
khác những điều Jesus nói trong Tân Ước. Nó mang tính thơ
ca, hay, nhưng dầu vậy ông ấy vẫn đang còn loạng choạng
trong bóng tối, cố gắng đủ mọi nỗ lực để đạt tới ánh sáng,
nhưng ông ấy tới ánh sáng vào chính khoảnh khắc cuối
cùng. Ông ấy không thể nói một lời nào. Ông ấy chết đã
chứng ngộ, nhưng ông ấy đã không thể sống mà chứng ngộ.
Ông ấy đã chết quá sớm - ông ấy chỉ mới ba mươi ba tuổi.

111
Nếu bạn hiểu điều này, thế thì câu hỏi của bạn sẽ rất
đơn giản.

Bạn hỏi tôi, Dieter: Thầy có thể đọc trong Kinh Thánh
rằng Jesus đã cảnh báo về các Thầy khác sắp tới trong
tương lai.

Đó là nỗi sợ của người chưa chứng ngộ, nỗi sợ rằng ai


đó có thể thay thế Jesus, rằng ai đó có thể tới và có thể
thuyết phục mọi người về những điều khác. Nỗi sợ đó hoàn
toàn có thể hiểu được trong người chưa chứng ngộ, bởi vì
người đó ghen tị. Có nỗi sợ rằng một khi Jesus qua rồi, giáo
huấn của ông ấy có thể bị tiêu huỷ. Người đó quá bận tâm
tới tương lai.
Người chưa chứng ngộ sống trong quá khứ hay tương
lai, và Jesus đã làm cả hai điều này trong Tân Ước. Ông ấy
liên tục nói về quá khứ; ông ấy cố chứng minh rằng "Ta là
Chúa Cứu thế mà các ông đã từng chờ đợi. Ta là người đã
được các nhà tiên tri của thời xưa tiên đoán. Kinh Cựu ước
đơn giản đã chuẩn bị con đường cho ta!" Ông ấy quá bận
tâm về quá khứ. Ông ấy quá bận tâm vào việc thuyết phục
người Do Thái rằng ông ấy chính là Chúa Cứu thế được
trông đợi. Ai cần?
Mọi người đã hỏi tôi, "Chúng tôi nghe nói, Phật sắp sửa
quay lại sau hai mươi nhăm thế kỉ. Hai mươi nhăm thế kỉ đã
trôi qua rồi. Thầy có phải là Phật không?" Sao tôi phải là
Phật? Tôi chỉ là bản thân tôi thôi! Sao tôi phải là Phật? Ông
ấy đã làm việc của ông ấy, tôi đang làm việc của tôi. Tôi
không phải là bản sao của ai cả! Sao tôi phải là Phật? Nếu
ông ấy muốn tới, điều đó là tuỳ ở ông ấy, nhưng tôi không là
hoá thân của ai.

112
Người Hindu đã hỏi tôi rằng "Krishna nói, 'Bất kì khi có
nhu cầu ta sẽ tới.' Thầy có phải là người đó không?" Tôi
không phải, tuyệt đối không phải! Tôi chỉ là bản thân tôi
thôi. Nếu Krishna phải hoàn thành lời hứa của ông ấy thì
ông ấy sẽ tới!
Jesus quá quan tâm về quá khứ. Thực tế, mối quan tâm
đó đã mang ông ấy vào toàn thể rắc rối. Nếu như ông ấy
không bận tâm về việc là Chúa Cứu thế, người Do Thái có
thể đã không đóng đinh ông ấy, bởi vì thế thì họ bắt đầu hỏi
về những dấu hiệu rằng Chúa Cứu thế phải cho, và thế rồi
họ bắt đầu đòi hỏi rằng "Ông phải hoàn thành điều này và
ông phải hoàn thành điều nọ - chỉ thế thì chúng tôi có thể
chấp nhận được ông, rằng ông là Chúa Cứu thế." Và thế rồi
ông ấy đi vào việc biện luận không cần thiết, nhưng toàn thể
nỗ lực của ông ấy là để chứng minh rằng "Ta là Chúa Cứu
thế được trông đợi đây." Đây là mối quan tâm về quá khứ,
và chỉ người chưa chứng ngộ quan tâm về quá khứ.
Và ông ấy cũng rất quan tâm tới tương lai nữa. Ông ấy
cảnh báo về các Thầy khác sẽ tới trong tương lai. "Và nhận
biết về họ," ông ấy nói, "bởi vì họ sẽ làm phân tán các ông;
họ sẽ làm phân tán ông khỏi con đường" - con đường mà
ông ấy đã chỉ ra. Ông ấy đang làm cho chắc rằng không tín
đồ nào bị lôi ra khỏi đám con chiên ngay cả khi ông ấy đã
qua đời. Điều này giống như kinh doanh quá nhiều!
Và lí do là ở chỗ ông ấy đã trở nên chứng ngộ vào chính
khoảnh khắc cuối cùng và ông ấy không còn thời gian để
sửa lại, để thay đổi các phát biểu của mình. Các phát biểu
của ông ấy đã đưa ra trong trạng thái chưa chứng ngộ.
Đó là lí do tại sao bạn thấy cách tiếp cận của ông ấy tới
Thượng đế rất trẻ con. Ông ấy gọi Thượng đế là abba - bố,
cha! Không có ông bố nào cả - bố chết rồi! Đấy là tính trẻ

113
con. Đấy là nhu cầu của trẻ con, bởi vì trẻ con không thể tồn
tại được nếu không có bố. Do đó Thượng đế trở thành cha.
Và một điều kì lạ đã xảy ra: bây giờ các linh mục Ki tô
giáo đều được gọi là cha. Tu viện được ai đó định nghĩa là:
chỗ mà các cha không có vợ sống. Họ không có vợ nào, họ
không có con nào, mà họ là cha. Đây là loại cha gì thế này?
Nhưng nếu Thượng đế có thể là cha mà không có vợ thì dĩ
nhiên họ cũng có thể là cha mà không có vợ. Các linh mục
Thiên chúa giáo đều được gọi là cha. Các ni cô Thiên chúa
giáo được gọi là mẹ, là chị, Mẹ bề trên! Những người đã từ
bỏ cuộc sống, từ bỏ gia đình, vẫn đang níu bám lấy ý tưởng
nào đó về gia đình. Bây giờ Thượng đế trở thành cha, nhưng
người cha là cần thiết.
Jesus vẫn còn chút ít trẻ con trong cách tiếp cận tới
Thượng đế. Phật có sự trưởng thành, trưởng thành vô cùng.
Ông ấy trưởng thành tới mức ông ấy có thể nói không có
Thượng đế. Sự tồn tại là đủ, hơn thế là không cần thiết.
Không có đấng sáng tạo, việc sáng tạo là đủ rồi. Bản thân
việc sáng tạo là tính sáng tạo thiêng liêng; nó là quá trình
sáng tạo.
Nỗi sợ này của Jesus đơn giản chỉ ra nỗi sợ của nhà
kinh doanh Do Thái! Ông ta sợ khách hàng của mình có thể
đi sang ai đó khác. Ông ta đang đảm bảo rằng ngay cả trong
tương lai khách hàng cũng không bao giờ rời bỏ cửa hàng!
Ông ấy sẽ qua đời, chừng ấy là chắc chắn, sớm hay muộn
ông ấy sẽ qua đời, nhưng ông ấy đang đảm bảo rằng các linh
mục của ông ấy sẽ liên tục chi phối thế giới này; các đại
diện của ông ấy, các giáo hoàng của ông ấy sẽ tiếp tục và
tiếp tục mãi việc chi phối thế giới này.
Chính ý tưởng chi phối thế giới, thay đổi cả thế giới
thành Ki tô giáo, theo một nghĩa tinh vi chính là sự ích kỉ,

114
một loại bản ngã. Nhưng điều đó là hiểu được đối với người
chưa chứng ngộ; bạn không thể trông đợi nhiều hơn thế.

Và bạn hỏi tôi: Thầy có cho rằng những lời cảnh


báo của ông ấy cũng bao gồm cả thầy không?

Tương lai là tuyệt đối không biết được. Không ai biết


về tương lai; ngay cả người chứng ngộ cũng không biết. Đó
là cái đẹp của tương lai: nó là không thể dự đoán được.
Vâng, có thể làm vài suy diễn, nhưng chúng chỉ là suy diễn
mà thôi.
Nhưng mọi tôn giáo đã cố gắng chứng minh rằng người
sáng lập của họ là biết tuốt, là đấng toàn trí. Người Jain nói
Mahavira là đấng toàn trí: ông ấy biết toàn bộ quá khứ, toàn
bộ hiện tại, toàn bộ tương lai. Và đó là điều ngu xuẩn cực kì,
bởi vì một sự kiện rất nổi tiếng - Phật đã nhắc tới điều đó,
họ là những người đương đại - rằng Mahavira được biết đã
đi ăn xin ở một ngôi nhà không ai ở trong nhiều năm rồi: và
ông ấy đã đứng trước ngôi nhà đó với bình bát xin ăn của
mình!
Và ông ấy được nhà hàng xóm nói cho rằng, "Ngôi nhà
đó bỏ hoang và đã bị bỏ hoang từ nhiều năm nay rồi! Và
ông là người toàn trí - ông không thể thấy được rằng không
có ai trong ngôi nhà này sao?" Và ông ấy biết tất cả về
tương lai - ông ấy không biết gì về ngôi nhà này ngay trước
mình! Thực tế, nếu không có người sống trong ngôi nhà đó
nhiều năm, ngay cả người chưa chứng ngộ cũng sẽ có khả
năng suy luận, nhìn vào tình trạng của ngôi nhà đó - bụi
phủ, cửa đóng im ỉm trong nhiều năm - rằng không ai sống
ở đây. Bạn có thể dễ dàng thấy liệu có người sống trong
ngôi nhà này hay không. Nơi có người sống ngôi nhà có

115
phẩm chất khác, sự sống động; nơi không ai sống cả ngôi
nhà là chết.
Phật cũng đã nhắc tới, chỉ để đùa, về Mahavira, rằng có
lần ông ấy bước đi trên đường vào sáng sớm. Lúc đó là sáng
mùa đông, quá nhiều sương ở đó, và ông ấy đã dẫm vào
đuôi một con chó! Và khi con chó sủa lên, thế thì ông ấy
mới trở nên nhận biết rằng có con chó. Và ông ấy biết tất cả
về quá khứ và tất cả về tương lai đấy!
Không ai biết được về tương lai hay về quá khứ. Người
chứng ngộ chỉ biết bản thân mình, và thế là đủ. Biết bản
thân mình, về bản chất người đó biết mọi người - về bản
chất, nhớ, không về chi tiết. Về bản chất người đó hiểu mọi
người bởi vì người đó biết bản thân mình. Biết bản thân
mình người đó biết tiềm năng của bạn, khả năng của bạn.
Biết bản thân mình người đó biết rằng bạn đang trong bóng
tối. Biết bản thân mình người đó biết cách mình đạt tới ánh
sáng của mình, và người đó có thể giúp bạn đạt tới cùng ánh
sáng đó.
Nhưng người chứng ngộ chỉ biết bản thân mình và
không cái gì hơn. Người đó biết bản thân mình một cách
toàn bộ, tuyệt đối, toàn thể sự hiện diện của người đó đầy
ánh sáng, nhưng điều đó không có nghĩa là người đó biết
mọi điều về toàn thể sự tồn tại và quá khứ và tương lai, tất
cả. Điều đó là cực kì vô nghĩa! Bởi điều vô nghĩa này mà
biết bao nhiêu vấn đề đã nảy sinh vì tôn giáo.
Kinh Thánh nói về trái đất cứ như nó phẳng tẹt. Đó là
vấn đề đấy: rằng trong Thời Trung cổ các nhà khoa học lần
đầu tiên đã phát hiện rằng trái đất là hình cầu, tròn, đã bị
lâm vào rắc rối bởi vì họ đã đi ngược lại Kinh Thánh, và
Kinh Thánh là toàn trí. Làm sao bạn dám nói điều gì đó
ngược lại Moses, ngược lại Jesus và mọi nhà tiên tri? - bởi
vì họ nói về trái đất là phẳng.
116
Kinh Thánh nghĩ rằng mặt trời đi xung quanh trái đất,
và người ta có thể hiểu được tại sao, bởi vì tất cả chúng ta
đều thấy mặt trời chuyển động, buổi sáng mặt trời lên và
buổi chiều mặt trời lặn. Chúng ta thấy cung mặt trời đi
quanh: đó là một suy diễn thông thường.
Khi lần đầu tiên Galileo khám phá ra điều này là sai,
điều này chỉ dường như vậy thôi, nó là ảo vọng thị giác,
chân lí chính là điều đối lập lại - trái đất quay quanh mặt
trời, không phải là mặt trời quay quanh trái đất - ông ấy bị
mắc vào rắc rối. Ông ấy đã già rồi khi ông ấy khám phá ra
điều đó, bẩy mươi hay hơn, và rất yếu. Khi cuốn sách của
ông ấy được xuất bản ông ấy bị Giáo hoàng triệu tới. Ông ấy
tới đó, và ông ấy phải đã là một con người của hiểu biết lớn
lao... Tôi yêu con người đó. Nhiều người đã kết án ông ấy
bởi cùng điều này, nhưng tôi không kết án ông ấy. Tôi kính
trọng ông ấy bởi cùng điều mà ông ấy đã bị kết án trong ba
trăm năm hay hơn.
Giáo hoàng hỏi ông ấy rằng, "Ông đã viết điều này phải
không?"
Ông ấy nói, "Vâng, tôi đã viết đấy."
Giáo hoàng nói, "Điều này nói ngược lại Kinh Thánh.
Ông có sẵn sàng đổi lại lời này không? Bằng không ông sẽ
bị giết chết hoặc bị thiêu sống!"
Ông ấy nói, "Tôi hoàn toàn sẵn sàng thay đổi nó. Ông
không cần làm nhiều điều rắc rối thiêu sống tôi làm gì - tha
cho tôi đi. Tôi tuyên bố rằng chính mặt trời đi quanh trái đất,
chứ không phải là Trái đất. Nhưng nhớ, tuyên bố của tôi sẽ
không tạo ra thay đổi gì - trái đất sẽ vẫn liên tục quay quanh
mặt trời! Ai bận tâm về Galileo?" Ông ấy nói, "Mặt trời
không nghe tôi mà trái đất cũng không nghe tôi đâu. Nhưng

117
nếu điều đó làm ông bực mình, tôi hoàn toàn sẵn sàng đổi
lại nó!"
Mọi người đã coi rằng ông ấy hèn nhát; tôi không nghĩ
như vậy. Ông ấy có khả năng khôi hài! Ông ấy không phải
là kẻ hèn nhát, nhưng ông ấy không ngu xuẩn - chừng nấy là
chắc. Sẽ là ngu xuẩn khi khăng khăng về cái điều nhỏ bé ấy.
Sao phải bận tâm về điều đó? Ông ấy không tự tử - chừng
nấy là chắc. Nếu như ông ấy tự tử, nếu như ông ấy mang ý
tưởng tự tử trong ông ấy, thế thì đây là cơ hội tốt để trở
thành kẻ tử vì đạo. Thế thì tự tử mang mầu sắc tâm linh:
người ta trở thành kẻ tử vì đạo, nhà cách mạng.
Nhưng ông ấy cười vào toàn bộ sự việc như trò đùa và
ông ấy nói, "Tôi sẽ thay đổi điều đó ngay lập tức - tôi tuyên
bố!" Nhưng ông ấy lại nhắc nhở Giáo hoàng rằng, "Tuyên
bố của tôi không tạo ra khác biệt nào hết cả - không ai thèm
nghe tôi đâu."
Có một chỗ ông ấy làm rõ ràng ở cuối và ông ấy đã sửa
lại bằng một cước chú. Và trong cước chú ông ấy đã viết.
"Mặc dầu tôi sửa lại nó bởi vì nó nói ngược lại Kinh Thánh -
và tôi là người cuối cùng quấy rối tôn giáo của mọi người
khác - nhưng chân lí vẫn cứ là trái đất quay xung quanh mặt
trời."
Những người này... nếu bạn thử nhìn vào trong Veda,
vào trong Gita, vào trong Kinh Thánh, vào trong Koran, bạn
sẽ thấy cả nghìn lẻ một thứ hoàn toàn sai, nhưng tôi có thể
hiểu tại sao chúng lại sai. Họ đã viết ra từ hàng nghìn năm
trước đây, và vào thời đó đấy là những ý niệm chung chung;
họ đơn giản nói theo cách đó.
Ngay cả ngày nay mặc dầu chúng ta biết rằng trái đất
quay xung quanh mặt trời, ngôn ngữ của chúng ta vẫn mang
ý tưởng cũ - mặt trời mọc, mặt trời lặn - và tôi nghĩ nó sẽ

118
còn lại mãi mãi; chúng ta sẽ không thay đổi ngôn ngữ. Bây
giờ điều đó có nghĩa gì? Nó không có nghĩa gì cả! Không có
mặt trời mọc và không có mặt trời lặn, bởi vì mặt trời chưa
bao giờ quay quanh trái đất cả, cho nên bạn ngụ ý gì bằng
việc mọc và lặn? Nhưng ngôn ngữ mang ý tưởng cổ bởi vì
ngôn ngữ đã được tạo ra trong những ngày đó.
Cả Jesus lẫn Mahavira lẫn Phật lẫn bất kì ai khác đều
không biết gì về tương lai, nhưng các tín đồ liên tục cố gắng
theo mọi cách có thể để làm cho Thầy của họ là đấng toàn
trí, toàn diện, toàn năng! Và đây toàn là trò bản ngã. Và nếu
bản thân Thầy mà chưa chứng ngộ, bản thân ông ta sẽ giả
vờ.
Jesus chắc chắn có nói rằng, "Tỉnh táo, thận trọng, bởi
vì sẽ có nhiều người tới và sẽ nói theo cách thức, cách thức
thuyết phục tới mức các ông có thể bị xa rời khỏi con đường
đúng." Ông ấy đơn giản sợ. Bằng không con đường đúng
không nên sợ hãi chút nào.
Chân lí sẽ thắng. Không phải Jesus hay Krishna hay
Phật hay Mahavira sẽ thắng: bao giờ cũng là chân lí thắng.
Cho nên sao bị lo nghĩ? Nhưng để giữ mọi người bị cầm tù
những lời cảnh báo này giúp đỡ; những lời cảnh báo này
làm cho mọi người sợ.
Ông ấy không biết gì về tôi cả, ông ấy không thể biết
được. Tôi không biết gì về các Thầy sắp tới trong thế giới
này, và tôi sẽ không làm cho bạn nhận biết về các Thầy sẽ
tới. Tôi muốn bạn tận hưởng mọi Thầy mà các bạn sẽ tìm
thấy trong tương lai. Đừng bỏ lỡ một cơ hội nào. Tận hưởng
chân lí từ bất kì cội nguồn nào tới. Vấn đề là hiện hữu cùng
chân lí, không phải là cùng với tôi. Nếu bạn hiện hữu cùng
chân lí, bạn hiện hữu cùng tôi. Chân lí không phải là sở hữu
của ai cả; nó không phải là của tôi cũng không phải của
Christ, không phải của Phật.
119
Vào thời của Phật, Phật đã là cách diễn đạt rõ ràng nhất
của chân lí, đó là lí do tại sao mọi người đã sống cùng với
ông ấy. Vào thời của Jesus vài người đã sống cùng với Jesus
bởi vì họ có thể thấy cái gì đó đẹp đẽ trong ông ấy. Và điều
này bao giờ cũng là như vậy. Nếu bạn sống cùng với tôi,
bạn không ở cùng với tôi đâu - bạn đang ở cùng với chân lí
đấy. Bởi vì bạn cảm thấy chân lí được truyền đạt, được trao
đổi, đưa mưa rào lên bạn, đó là lí do tại sao bạn ở cùng với
tôi. Cho nên bất kì khi nào bạn tìm thấy chân lí trong tương
lai khi tôi không có ở đây, tự nuôi dưỡng mình từ nó đi.
Đừng bám vào con người. Con người là không có ý nghĩa,
chân lí có ý nghĩa.

Và bạn hỏi, Dieter này: Thông điệp của thầy rất


khác với phần lớn các giáo huấn của Jesus.

Nó nhất định là như vậy rồi, bởi vì hai nghìn năm đã


trôi qua rồi. Làm sao tôi có thể đích xác là giống như Jesus
được và tại sao tôi phải vậy? Không có nhu cầu. Trong hai
nghìn năm nhiều điều đã thay đổi: ngôn ngữ, cách hiểu của
mọi người, cách tiếp cận của mọi người. Con người đã trở
nên chín chắn hơn. Jesus nói theo cách rất trẻ con.
Tất nhiên, mọi người, các Thầy tới sau tôi sẽ nói theo
cách hay hơn nhiều so với tôi đang nói đây, hiển nhiên, bởi
vì họ sẽ hiểu biết nhiều hơn. Khi thời gian trôi qua những
cách diễn đạt ngày một tốt hơn sẽ thành có sẵn. Nhưng
chúng ta bắt đầu bám vào và điều đó tạo ra rắc rối.
Jesus đã nói trong hoàn cảnh của ông ấy, tôi đang nói
trong hoàn cảnh của tôi. Ông ấy không thể nói được theo
cách mà thế kỉ hai mươi sẽ hiểu. Tôi không thể nói được
theo cách mà Jesus đã chọn bởi vì những người đó không
còn ở đây nữa, những người mà ông ấy đã nói cho. Một

120
nhân loại khác đang ở đây; chín chắn hơn nhiều, nhân loại
chín muồi hơn nhiều đang ở đây.
Con người đã tới tuổi trưởng thành. Bây giờ nói về
Thượng đế như cha là ngu xuẩn; sau Sigmund Freud điều đó
là ngu xuẩn. Jesus không có ý tưởng gì về Sigmund Freud;
tôi phải chăm nom tới Sigmund Freud nữa, bởi vì Sigmund
Freud sẽ nói rằng việc nói về Thượng đế như cha đơn giản
là sự phóng chiếu, và ông ấy đúng. Chính niềm khao khát
của bạn có liên quan tới hình ảnh người cha, đó là ham
muốn trẻ con của bạn được phụ thuộc vào ai đó - bạn không
muốn được độc lập. Bây giờ sau Sigmund Freud tôi không
thể nói theo cùng cách như Jesus đã nói. Nhưng kinh
nghiệm tối thượng là như nhau, cách diễn đạt sẽ khác.
Điều Jesus đã trải qua vào khoảnh khắc cuối cùng trên
cây chữ thập, tôi đã trải qua rồi, nhưng trải nghiệm đó là về
im lặng tuyệt đối. Để đem nó vào ngôn ngữ, để tạo ra
phương pháp giúp người khác trải nghiệm nó, chắc chắn tôi
ở vị trí tốt hơn Jesus hay Phật hay Mahavira. Một cách tự
nhiên, các Thầy tới sau tôi sẽ ở vị trí tốt hơn tôi nhiều. Họ sẽ
có cách tiếp cận chính xác hơn nhiều tới chân lí, bởi vì con
người liên tục trưởng thành. Con người không suy thoái đi,
con người đang trưởng thành lên, con người đang đạt tới
những đỉnh cao hơn.

Và bạn hỏi: Làm sao có thể có chuyện các Thầy


chứng ngộ nói nhiều điều mâu thuẫn thế?

Chúng chỉ dường như là mâu thuẫn thôi - bởi vì ngôn


ngữ thay đổi, cách diễn đạt thay đổi, cách thức và phương
pháp thay đổi; bằng không chúng không mâu thuẫn. Và một
người như tôi nhất định không chỉ mâu thuẫn với Jesus và
Phật và Mahavira: tôi nhiều lần còn mâu thuẫn với chính

121
mình nữa bởi một lẽ đơn giản là tôi đang cố gắng đem mọi
tôn giáo vào sự tổng hợp cao hơn; các cách tiếp cận khác
nhau phải được nối lại cùng nhau. Tôi đang tạo ra dàn nhạc
giao hưởng.
Phật là người độc tấu sáo. Tất nhiên khi bạn đang độc
tấu sáo, có sự nhất quán, nhưng nó không phong phú như
khi sáo trở thành một phần của dàn nhạc. Thế thì nó có một
loại phong phú hoàn toàn khác, đa chiều. Nhưng thế thì bạn
phải trong hoà điệu với người khác; bạn phải liên tục tỉnh
táo không đi lạc điệu. Ai đó đang chơi cặp trống nhỏ và ai
đó đang chơi đàn sitar và bạn đang thổi sáo; cả ba người
phải trong hài hoà. Và tất nhiên chúng là ba nhạc cụ khác
nhau, rất khác nhau, nhưng đem chúng vào sự hài hoà có thể
tạo ra một loại âm nhạc cao hơn.
Jesus là người độc tấu, Phật cũng thế, Mahavira cũng
thế. Trong quá khứ điều đó nhất định phải là như vậy bởi vì
họ tất cả đều sống trong những thế giới nhỏ. Phật chưa bao
giờ đi ra khỏi Bihar, chỉ là một tỉnh nhỏ của đất nước này;
Jesus bị hạn chế, Krishna bị hạn chế. Bây giờ cả thế giới đã
trở thành một làng nhỏ, một làng toàn cầu. Bạn có thể thấy
điều đó - cả thế giới đã tụ tập lại đây! Phật không được may
mắn như vậy; ông ấy được bao quanh bởi những người ở
tỉnh Bihar. Jesus được bao quanh bởi người Do Thái.
Krishna được bao quanh bởi người Hindu. Họ chỉ có thể là
người độc tấu; họ nhất định như vậy bởi vì thính giả của họ,
những người mà họ làm việc cùng, đều thuộc vào một
truyền thống nào đó.
Bây giờ tôi đang làm việc với mọi truyền thống cùng
nhau. Người Do Thái ở đây và người Hindu và người Mô ha
mét giáo và người Ki tô giáo và người Parsi và người Sikh
và người Jain và Phật tử. Mọi truyền thống đều tụ tập lại

122
đây. Đó là thực nghiệm duy nhất trong toàn bộ lịch sử nhân
loại; nó chưa bao giờ xảy ra theo cách này.
Ngay cả những người đang đi vào các quốc gia khác
nhau cũng vẫn mang nhạc cụ độc tấu của mình. Chẳng hạn,
Maharishi Mahesh Yogi, mặc dầu ông ấy làm việc ở phương
Tây. Nhưng phương pháp ông ấy gọi là Thiền siêu việt
chính là một phương pháp Hindu rất cổ về tụng mật chú; nó
không siêu việt mà cũng không thiền gì cả; nó chỉ là thứ rác
rưởi cũ kĩ của việc tụng mật chú mà thôi! Bất kì từ nào cũng
sẽ có tác dụng; bạn cứ lẩm nhẩm nó liên tục mà xem. Nó tạo
ra trạng thái tự thôi miên chứ không gì hơn. Mặc dầu ông ấy
làm việc ở phương Tây, nhưng ông ấy đang dùng chỉ một
phương pháp tự thôi miên đã được phát minh ra từ hàng
nghìn năm trước bởi người Hindu.
Bây giờ có các Thiền sư làm việc ở Mĩ, có các trung
tâm Thiền ở Mĩ, nhưng điều họ đang là ở đó là phương pháp
cũ của Phật. Có những người Sufi làm việc ở phương Tây,
nhưng họ đang dùng các phương pháp đã được Jalaluddin
Rumi phát minh ra một nghìn năm trước.
Tôi đang dùng mọi phương pháp có thể, và khi mọi
phương pháp này gặp nhau thì dĩ nhiên sẽ đi tới mâu thuẫn
lớn. Nếu bạn không hiểu bạn sẽ chỉ thấy toàn những mâu
thuẫn và mâu thuẫn. Nếu bạn hiểu, bạn sẽ hiểu sự hài hoà
của mọi nhạc cụ này cùng nhau.
Mọi người đang luyện Vipassana và luyện nhảy múa
Sufi và luyện Yoga và luyện Mật tông và dùng các phương
pháp Thiền, toạ thiền và các phương pháp khác. Và không
chỉ các phương pháp cũ - họ đang làm mọi điều mới xảy ra
trong thế kỉ này sau Sigmund Freud, mọi phương pháp tâm
lí, mọi nhóm trị liệu tâm lí.

123
Đây là sự gặp gỡ của toàn thế giới. Chính là tính tôn
giáo vũ trụ mà tôi đang tạo ra ở đây. Nó nhất định là đa
chiều nếu bạn hiểu. Nếu bạn không hiểu, nếu bạn vẫn bám
lấy truyền thống nào đó, thế thì nó sẽ có vẻ mâu thuẫn với
bạn.

Câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Khác biệt giữa trải nghiệm và đam mê là gì?

Deva Tapodhana này,


Khác biệt giữa trải nghiệm và đam mê là khác biệt về
nhận biết; không có khác biệt nào khác, không có phân biệt
nào khác. Nếu bạn không nhận biết, đó là đam mê; nếu bạn
nhận biết, đó là trải nghiệm - cùng một điều cả thôi. Đó có
thể là ăn thức ăn, đó có thể là làm tình, nghe nhạc, tận
hưởng bầu trời đêm đầy sao - dù nó là bất kì cái gì. Nếu bạn
không ý thức ở đó, nếu bạn không là nhân chứng cho nó,
nếu bạn vẫn còn vô ý thức, máy móc, tựa như người máy,
thế thì đó là đam mê. Nếu bạn nhận biết, thế thì đó là trải
nghiệm. Và trải nghiệm là đẹp, đam mê là xấu. Nhưng nhớ
phân biệt mà tôi vừa nêu.
Trong quá khứ mọi tôn giáo đều đã dán nhãn lên mọi
thứ; tôi không dán nhãn lên các thứ. Họ đã dán nhãn lên mọi
thứ: "Đây là đam mê và đây là trải nghiệm." Tôi không dán
nhãn lên mọi thứ - mọi thứ không thể được dán nhãn. Mọi
thứ là như nhau.

124
Phật ăn thức ăn và bạn ăn thức ăn: khi có liên quan tới
bên ngoài, khi có liên quan tới quan điểm đối thể thì cả hai
làm cùng mộtviệc. Bạn ăn, Phật ăn. Nó là gì vậy? Phật đang
trải nghiệm, bạn đang đam mê. Khác biệt không phải trong
hành động, nó là ở trong nhận biết của bạn. Phật ăn là ăn
như một nhân chứng, và ông ấy sẽ ăn chỉ đủ mức cần thiết
bởi vì ông ấy là nhận biết toàn bộ. Ông ấy sẽ tận hưởng thức
ăn, ông ấy sẽ tận hưởng nhiều hơn bạn có thể tận hưởng, bởi
vì ông ấy nhận biết nhiều hơn. Bạn sẽ không tận hưởng thức
ăn: bạn đơn giản tọng nó vào, bạn không tận hưởng. Và thực
tế bạn không có đó chút nào để tận hưởng; bạn đang ở đâu
đó khác, bao giờ cũng ở đâu đó khác. Bạn chưa bao giờ ở
nơi bạn đạn đang ở - ở chỗ nào đó khác. Bạn có thể ở trong
cửa hàng, bạn có thể ở trên cánh đồng, bạn có thể trong
xưởng máy, bạn có thể nói chuyện với bạn bè: về mặt vật lí
bạn đang ăn, nhưng về mặt tâm lí bạn không có đó.
Phật ở đó một cách toàn bộ: về mặt vật lí, tâm lí, tâm
linh. Khi ông ấy ăn ông ấy đơn giản là việc ăn.
Một Thiền sư, Lâm Tế, đã được người ta hỏi, "Sadhana
của thầy là gì? Công phu tâm linh của thầy là gì?"
Ông ấy nói, "Chẳng có gì mấy, chẳng có gì mấy để mà
ba hoa về nó; nó rất đơn giản: khi ta thấy đói ta ăn và khi ta
thấy buồn ngủ ta đi ngủ."
Người này nói, "Nhưng đấy là điều tất cả chúng tôi
làm!"
Lâm Tế nói, "Ông sai ở đó đấy - rút lại lời mình đi - bởi
vì ta đã sống như ông, ta có cả hai kinh nghiệm này. Ta đã
sống như người máy - cách ông đang sống là cách ta đã
sống qua - cho nên ta biết khác biệt. Ông ăn khi ông không
đói, ông ăn bởi vì đến giờ ăn, ông ăn bởi vì thức ăn ngon,
ông ăn bởi vì ông được mời ăn. Ông không quan tâm tới cái

125
gì là cần thiết. Ông ngủ bởi vì đấy là thói quen; liệu ông có
cần nó hay không không phải là vấn đề. Và khi ông ăn, ông
không chỉ ăn, ông làm cả nghìn lẻ một thứ khác - có thể làm
tình trong tưởng tượng của ông. Và khi ông ngủ chắc chắn
ông không chỉ làm một điều, ngủ - ông mơ. Cả đêm tâm trí
ông liên tục tạo ra hết giấc mơ nọ tới giấc mơ kia."
Cho nên tôi không dán nhãn, Tapodhana, vào bất kì cái
gì như trải nghiệm và đam mê. Vấn đề là về nhận biết.

Hai người say trong một quán trọ thấy một con bọ rơi
xuống quầy bán rượu. Người say thứ nhất nói, "Con bọ."
Người kia gật đầu và nói, "Con bọ."
Người thứ nhất nhìn sát vào và nói, "Con bọ cái."
Người say kia nói, "Đồ mắt tinh chết tiệt!"

Một người say lắm mồm trong rạp xiếc nhìn với vẻ khó
hiểu vào nghệ sĩ uốn dẻo khi người này trình diễn tiết mục.
Không kìm được mình, anh ta kêu lên, "Có chuyện gì thế
này? Anh trông hệt như tôi đang say!"

Có một câu chuyện về một đứa trẻ nhỏ bị bố mẹ bỏ lại


trong Công viên Quốc gia Đá vàng. Nó được bầy chó hoang
nuôi dưỡng. Nhiều năm sau người ta thấy nó đi bằng bốn
chân, ăn thịt sống và sống ngoài trời. Nó được đưa vào
trường học nơi chỉ một năm nó đã lướt qua trường tiểu học,
trung học và đại học. Ngày hôm sau ngày nó nhận bằng tiến
sĩ nó bị chết - khi đang săn đuổi ô tô.

126
Cho dù bạn có bằng tiến sĩ, bạn vẫn săn đuổi ô tô - thói
quen vô ý thức! Bạn có thể trở nên thông thái, nhưng điều
đó không làm biến đổi bạn; bạn sẽ liên tục đam mê. Bạn có
thể trốn khỏi thế giới, nhưng điều đó sẽ không tạo ra khác
biệt gì: bạn sẽ vẫn đam mê.
Học cách nhận biết đi.

Tầu hoả tăng tốc qua miền quê thì, từ khoảng cách xa,
người lái tầu để ý thấy cái gì giống như một đôi đang say
sưa làm tình, nằm ngay trên đường ray.
Người lái tầu kéo còi... một lần, hai lần, rồi kéo còi đi
kéo còi lại, mà không có đáp ứng gì từ đôi kia. Người lái tầu
bắt đầu hoảng sợ và, xem như phương sách cuối cùng, đóng
sập phanh khẩn cấp. Đôi tình nhân vẫn tiếp tục trò của họ, lờ
tít.
Cuối cùng chiếc tầu rít lên ken két dừng lại sát nút đôi
này. Người lái tầu cáu tiết. Anh ta nhảy ra khỏi buồng lái và
quát tháo họ.
"Chúng mày làm cái đéo gì thế?" anh ta la lên với họ.
"Chúng mày không thấy tầu hoả đang tới sao? Chúng mày
không nghe thấy tiếng còi tầu sao? Chúng mày phải ở nhà,
đằng sau cửa phòng ngủ chứ!"
Người đàn ông nằm trên đường ray nhìn vào người lái
tầu một cách rất bình thản và nói, "Nghe đây, anh bạn, cô ấy
tới, tớ tới, và anh bạn tới... nhưng anh đã có phanh rồi!"

127
128
5. Được kết thân trong
cùng nhau sâu sắc

Bản thân cái Một không bao giờ chuyển động,


vậy mà quá nhanh đối với tâm trí.
Các giác quan không thể đạt tới nó,
vậy mà nó bao giờ cũng ở ngoài nắm bắt của
chúng.
Vẫn còn tĩnh lặng, nó bỏ xa mọi hoạt động,
vậy mà trong nó hơi thở của mọi cái chuyển động
vẫn còn lại.

Nó chuyển động, vậy mà không chuyển động.


Nó là xa, vậy mà nó là gần.
Nó ở trong mọi cái này,
và vậy mà ở bên ngoài mọi cái này.

Người nhìn mọi thứ không là gì ngoài cái Ngã,


và cái Ngã trong mọi thứ người đó nhìn,
người thấy như vậy rút lui từ hư không.
Với người chứng ngộ, mọi thứ tồn tại
không là gì ngoài cái Ngã,
cho nên làm sao đau khổ hay ảo vọng nào

129
tiếp tục cho những người biết tới tính Một này?

Người tràn ngập tất cả, là rạng ngời,


không bị giới hạn và không bị ô uế,
không thể bị tổn thương và thuần khiết.
Người đó là người biết, Tâm trí một,
Toàn diện và tự đầy đủ.
Người đó đã làm hài hoà sự đa dạng
qua thời gian vĩnh hằng.

Aum
Purnamadah
Purnamidam
Puranat Purnamudachyate
Purnasya Purnamadaya
Purnameva Vashishyate.

Aum
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái toàn Thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.
Tính toàn thể bắt nguồn từ tính toàn thể,
Tính toàn thể vẫn còn lại

AUM biểu thị cho âm nhạc của sự tồn tại, âm thanh vô


âm, âm thanh của im lặng, khi toàn thể con người bạn âm
vang với niềm vui. Aum biểu thị cho sự hài hoà tối thượng,
điều Heraclitus gọi là "sự hài hoà ẩn kín". Trở thành một với
âm nhạc này của sự tồn tại là đạt tới việc nở hoa, sự hoàn
thành.
Khoảnh khắc bạn làm mất đi sự bất hoà với cái toàn thể,
khoảnh khắc bạn trong hoà hợp với cái toàn thể - chữ hoà

130
hợp (attunement) đơn giản nghĩa là "ở cùng cái một" (at-
onement) - khi bạn là một với cái toàn thể, mọi thớ thịt của
con người bạn, mọi tế bào của con người bạn đều nhảy múa,
không bởi lí do nào hết. Đó là điệu vũ chỉ vì điệu vũ mà
thôi, niềm vui không nguyên nhân, do đó nó vĩnh hằng -
niềm vui không có động cơ, niềm vui không phụ thuộc vào
cái gì. Đó là âm nhạc bản chất của bạn, âm nhạc tự nhiên, sự
tự phát của bạn.
Tất cả Upanishad đều bắt đầu bằng việc nhớ này:

Aum
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.

Cái đó biểu thị cho cốt lõi bên trong nhất của cái này.
Nó được gọi là cái đó bởi vì nó vẫn chưa được biết tới đối
với bạn. Những người biết, với họ chỉ có duy nhất cái này
mà không có cái đó, hay chỉ có cái đó mà không có cái này.
Nhị nguyên biến mất, nhưng với người mù nhị nguyên có
đó. Mọi thứ đều là nhị nguyên, nếu bạn không nhận biết đầy
đủ - bị phân chia.
Cái này có nghĩa là cái bạn có thể thấy còn cái kia ngụ ý
là cái vô hình. Cái này là bánh xe và cái kia là trục xe. Bánh
xe chuyển động trên trục xe nhưng trục không chuyển động.
Mọi chuyển động tuỳ thuộc vào cái gì đó bất động: mọi thay
đổi phụ thuộc vào cái gì đó vĩnh hằng. Thời gian phụ thuộc
vào vô thời gian. Sinh và tử xảy ra trong cái gì đó không bao
giờ sinh và không bao giờ tử.
Cái này đại diện cho mọi cái được biết tới với người
chưa chứng ngộ và cái kia được biết tới khi bạn trở nên
chứng ngộ. Khi bạn đầy ánh sáng, bạn có sáng tỏ, cảm nhận,
trong suốt; bạn có thể thấy xuyên thấu. Trong cái nhìn đó,
131
cái này bắt đầu tan chảy vào cái kia; chu vi biến mất trong
trung tâm. Trung tâm bị che khuất một cách tự nhiên, nó
nhất định bị che khuất rồi; chỉ chu vi là sẵn có cho các giác
quan. Bạn chỉ có thể thấy bề mặt, bạn không thể thấy chiều
sâu. Nếu bạn đi ra đại dương bạn có thể thấy chỉ bề mặt và
sự rối loạn bề mặt; bạn không thể thấy chiều sâu. Để thấy
chiều sâu bạn sẽ phải chìm sâu, khi có liên quan tới cái đó
tối thượng, chỉ chìm sâu chưa có tác dụng: bạn sẽ phải chìm
sâu tới mức bạn biến mất toàn bộ, trở thành một với nó.
Trong tính một đó Thượng đế được nhận ra.
Những người liên tục tranh biện về Thượng đế không
biết gì về Thượng đế. Những người biết, họ không thể tranh
biện về Thượng đế được. Vâng, chính sự hiện diện của họ là
bằng chứng, chính sự tồn tại của họ toả ra điều tối thượng,
"cái này" của họ đang tuôn tràn với "cái kia", nhưng họ
không thể chứng minh được một cách logic, một cách trí tuệ
về sự tồn tại của Thượng đế. Thượng đế không phải là đối
thể, do đó nó không thể được đặt ra trước bạn. Nó không thể
được làm thành kinh nghiệm tập thể.
Đó là lí do tại sao khoa học liên tục phủ nhận Thượng
đế, và khoa học sẽ liên tục phủ nhận Thượng đế bởi vì khoa
học lệ thuộc vào quan sát tập thể; nó tin chỉ vào cái có thể
được quan sát bởi mọi người. Nó tin vào tảng đá bởi vì tảng
đá có thể được mọi người quan sát; mọi người có thể đồng ý
rằng nó tồn tại.
Từ "đối thể" là có ý nghĩa; "đối thể" ngụ ý cái gây cản
trở. Nếu bạn cố đi qua tường, bạn sẽ bị tường đập đau điếng.
Tường là đối thể: nó phản đối việc đi qua nó của bạn. Bạn
không thể đi qua tảng đá được - nó phản đối, nó ngăn cản,
nó cản trở.
Thượng đế không phải là đối thể - bạn có thể đi qua
Thượng đế, bạn đang đi qua Thượng đế mọi khoảnh khắc.
132
Bạn đang thở Thượng đế; chính nhịp tim đập của bạn là
nhịp tim đập của Thượng đế. Nhưng Thượng đế gần thế...
ngay cả từ "gần" là không đúng, bởi vì từ "gần" hay "tính
gần" chỉ ra khoảng cách.
Cái quạt này gần tôi, nhưng nó là tách rời. Cái
microphone này thậm chí còn gần hơn, nhưng dầu vậy nó
vẫn tách rời. Thân thể thậm chí còn gần hơn nữa, nhưng nó
vẫn tách rời. Thượng đế là không tách rời với bạn; do đó
ngay cả từ "tính gần" cũng không đúng. Thượng đế là chính
con người bạn, chính tâm thức bạn. Nó không thể là đối thể,
nó không thể ngăn cản bạn; nó giúp bạn, nó nuôi dưỡng bạn.
Nó là tính chủ thể của bạn. Vì nó là cốt lõi bên trong nhất
của bạn, nó vẫn còn bị ẩn kín ngay cả với bản thân bạn - trừ
phi bạn quay một trăm tám mươi độ, trừ phi bạn quay ngược
lại chính bản thân bạn.
Bạn phải đã thấy biểu tượng này - một biểu tượng cổ
đại và rất có ý nghĩa nữa - về con rắn ngậm đuôi riêng của
nó. Nhiều trường phái huyền bí cổ đại đã dùng biểu tượng
đó; nó chắc chắn rất mang tính chỉ dẫn. Rắn ngậm đuôi
riêng của nó ngụ ý quay một trăm tám mươi độ. Rắn quay
lại bản thân nó, tâm thức đã dội lại bản thân nó.
Và rắn đã được lấy làm tiêu biểu cho trí huệ trong hầu
hết các nền văn hoá của thế giới. Jesus nói: khôn như rắn.
Và ở phương Đông rắn, mãng xà, đã biểu tượng hoá cho
năng lượng bên trong của con người, kundalini; do đó nó
được gọi là quyền năng rắn. Năng lượng này được cuộn lại
ở trung tâm thấp nhất của con người bạn; khi nó duỗi ra, rắn
bắt đầu vươn lên. Điều đó đơn giản biểu thị rằng có cái gì
đó trong rắn mà có thể được dùng như biểu dụ.
Rắn có thể bắt giữ đuôi riêng của nó; chó không thể làm
được điều đó. Chó cố làm - bạn phải đã thấy chó cố làm
điều đó rồi - và chúng càng cố, chúng càng phát rồ, bởi vì
133
đuôi liên tục nhảy cùng chúng. Chúng nghĩ đuôi là cái gì đó
tách rời. Chúng cố gắng bắt lấy đuôi, và khi chúng không
thể bắt được đuôi... tất nhiên chúng cố một cách vô vọng,
nhưng chúng càng cố, chúng càng lúng túng hơn. Chỉ rắn có
thể làm điều đó, không con vật nào khác.
Cùng điều đó xảy ra trong chứng ngộ: năng lượng của
bạn tự nó bắt đầu chuyển động, điều đó trở thành vòng tròn.
Thượng đế là tính chủ thể của bạn; bạn không thể tìm
thấy Thượng đế ở bất kì chỗ nào khác. Nhưng một khi bạn
đã tìm thấy Thượng đế bên trong bạn, bạn sẽ thấy ngài ở
mọi nơi khác nữa. Mọi luận cứ là ngu xuẩn, và những luận
cứ này thực sự là ấu trĩ. Bất kì bằng chứng nào đã được nêu
ra về Thượng đế đều ấu trĩ tới mức người ta phải tự hỏi các
nhà thượng đế học này đã làm gì. Họ chứng minh bằng các
luận cứ của họ duy nhất một điều: rằng họ là kẻ ngốc!
Thượng đế là kinh nghiệm, không chứng minh được,
bởi vì giác quan của bạn không thể đạt tới ngài được. Nếu
như Thượng đế là một đối thể, các giác quan của bạn sẽ có
khả năng đạt tới. Thượng đế cũng không là ý nghĩ, do đó
tâm trí bạn không thể hiểu thấu được điều đó. Nhưng chúng
ta đã làm Thượng đế thành đối thể; tượng đã được tạo ra.
Những tượng đó là các đối thể; chúng được làm bằng đá hay
gỗ hay chất liệu nào đó khác. Và làm Thượng đế thành đối
thể là báng bổ lớn nhất bởi vì Thượng đế là tính chủ thể.
Bạn đang thay đổi toàn thể ý tưởng về Thượng đế; bạn đang
thu nó thành vật. Thượng đế không phải là vật.
Đó là lí do tại sao Phật Gautam gọi Thượng đế là "tính
không". Nhớ, khi ông ấy dùng từ "tính không" ông ấy ngụ ý
"không có tính vật" - ông ấy không phủ định. Ông ấy không
nói là không có Thượng đế; từ "hư không" đơn giản ngụ ý
nó không là vật.

134
Và các đền chùa và nhà thờ, tất cả họ đã làm Thượng đế
thành vật, cho dù có thể không có tượng nào - trong nhà thờ
hồi giáo không có tượng. Nhưng mọi người đang cầu
nguyện Thượng đế dường như ngài có đó, không ở sâu trong
tâm thức riêng của bạn mà ở đâu đó khác. Nó là cùng một
điều thôi! - dù bạn đang cúi lạy bức tượng hay cúi lạy một
Thượng đế ở đâu đó trên mây, dầu vậy nó là một đối thể.
Bạn đang cầu nguyện ai? Lời cầu nguyện của bạn ngụ ý là
bạn đã chấp nhận ý tưởng về sự tách rời của Thượng đế khỏi
bạn - ngài phải được cầu tới. Bạn là người cầu nguyện còn
ngài là người được cầu nguyện. Bạn là người ca tụng còn
ngài là người được ca tụng. Sự phân tách được chấp nhận,
và điều đó là phi tôn giáo.
Nhưng mọi người liên tục tranh đấu trên từng và mọi
thứ. Thực tế, họ muốn tranh đấu; tranh đấu dường như là
niềm vui của họ. Thế thì Thượng đế là một trong những cái
cớ hay nhất để đánh nhau bởi vì không bao giờ có thể quyết
định được về nó một cách thuyết phục.

Trong một thành phố nghèo nàn ở phía trước một cửa
hàng tạp hoá hai người đang đánh nhau. Một cậu bé mười
tuổi ở trong số khán giả đang thích thú xem trận đánh nhau.
Một người lạ tới và hỏi cậu bé điều gì đang diễn ra.
"Bố cháu và một người đang có cuộc đánh nhau thực
sự," đứa bé giải thích.
"Người nào là bố cháu?" người lạ hỏi.
"Điều đó," đứa bé nói, "là điều mà họ đang đánh nhau
đấy!"

135
Và đây là điều những người tôn giáo đã từng làm hàng
thế kỉ. Họ nghĩ họ đang tạo ra các ý tưởng triết lí lớn lao.
Các giáo sư triết học và các giáo sư thượng đế học không
biết gì về bản thân họ, nhưng họ đang cố gắng chứng minh
rằng ý tưởng của họ về Thượng đế là đúng. Bản thân họ
sống trong vô ý thức tuyệt đối. Nếu như họ không vô ý thức,
họ đã không tranh cãi về Thượng đế; họ sẽ sống Thượng đế,
họ sẽ rạng ngời Thượng đế. Thượng đế sẽ là hương thơm
của họ, sự hiện diện của họ.

Một giáo sư triết học đãng trí đi ăn tối với vợ mình.


"Em không thích cái cà vạt anh đeo," cô ấy nói. "Em
ước là anh sẽ lên tầng và đeo cái khác vào."
Vị giáo sư yên tĩnh vâng lời. Nhiều phút trôi qua mãi
đến cuối cùng cô vợ không kiên nhẫn được leo lên tầng để
xem điều gì đã xảy ra. Trong phòng ông ta cô ấy thấy chồng
mình cởi hết quần áo và đang nằm trong giường.

Thói quen cũ mà! Khoảnh khắc ông ta cởi cà vạt ra ông


ta nghĩ đã tới lúc lên giường rồi.
Và đây là những người liên tục đề nghị các hệ thống tư
tưởng lớn lao. Immanuel Kant đã tạo ra một trong những hệ
thống triết học lớn lao nhất trên thế giới, và bản thân ông ấy
là người vô nhận biết đến mức dường như không thể nào có
chuyện một người lại có thể vô nhận biết đến thế. Có hàng
nghìn giai thoại về cuộc đời ông ấy.

Một hôm ông ấy về nhà sau cuộc đi dạo buổi tối... Ông
ấy là con người rất đều đặn trong thói quen, trong việc

136
thường lệ. Ông ấy không bao giờ lấy vợ bởi một lí do đơn
giản là phụ nữ có thể quấy rối hình mẫu của ông ấy. Ông ấy
không bao giờ cho phép bất kì tình bạn nào bởi vì thế thì
bạn phải lịch sự với bạn bè. Và nếu bạn muốn đi ngủ còn
bạn của bạn vẫn ngồi đấy, chỉ vì xã giao, kiểu cách, bạn phải
liên tục nói chuyện. Và ông ấy là người máy móc tới mức
vào đúng chín giờ - và chín nghĩa là chín, không một phút
sớm hơn, không một phút muộn hơn - ông ấy sẽ lên giường.
Ông ấy chưa bao giờ lấy vợ bởi lẽ đơn giản đàn bà là phi
logic và họ sẽ không hiểu, và sẽ có cãi nhau không cần thiết.
Ông ấy nuôi một người phục vụ, và người phục vụ được
dùng để tuyên bố chỉ thời gian. Không cần nói bất kì cái gì,
người phục vụ sẽ đơn giản tới và nói, "Thưa ngài, bây giờ
chín giờ rồi," và ông ấy sẽ nhảy vào giường.
Người phục vụ phân vân rằng lúc đó gần mười giờ đêm
và đèn phòng ông ấy vẫn sáng, cho nên ông ta đi lên xem
điều gì xảy ra. Ông ta nhìn qua cửa sổ và ông ta không thể
tin nổi vào mắt mình: ông ấy đang đứng trong góc phòng
với mắt nhắm nghiền, và chiếc gậy chống của ông ấy nằm
trên giường! Khi ông ấy về nhà sau việc đi dạo ông ấy quên
mất ai là ai - chỉ chút ít lẫn lộn! Và lúc đó là chín giờ cho
nên không có thời gian ngay cả cho việc nghĩ về vấn đề, cho
việc hình dung ra nó, ai là ai. Ông ấy trong vội vàng thế!
Người phục vụ bước vào, lay ông ấy và hỏi, "Có
chuyện gì vậy? Ông đang làm gì thế?"
Và ông ấy nói, "Tôi cũng nghĩ có chuyện gì thế nhỉ - vì
tôi cảm thấy rất mệt! Bây giờ tôi biết vấn đề là gì rồi." Khi
ông ấy thấy chiếc gậy chống nằm trên giường nghỉ, thế thì
ông ấy nhận ra.
Và những người này đã tạo ra những hệ thống tư tưởng
lớn lao, và họ nói về Thượng đế và họ nói về chân lí và họ

137
nói về tình yêu và họ nói về cái đẹp, và họ định nghĩa đức
hạnh là gì và tội lỗi là gì. Vô ý thức thế!
Ở phương Đông chúng ta có cách tiếp cận khác toàn bộ.
Bạn không thể nghĩ một hiện tượng như vậy với Phật
Gautam hay với người thấy Upanishad, bởi vì toàn thể cách
tiếp cận là việc ngày một ý thức nhiều hơn. Người ta phải là
ngọn lửa của tâm thức, người ta phải tỉnh táo và nhận biết.
Một bên là Immanuel Kant, bên kia là Phật Gautam.
Đại đệ tử của ông ấy, Ananda, người đã sống với ông
ấy trong bốn mươi năm và đã phục vụ ông ấy với tình yêu
lớn lao... Ông ta hay quan sát Phật theo mọi cách có thể, bởi
vì ông ta đã liên tục theo ông ấy như cái bóng, và từng cử
động của Phật là đẹp, nó mang vẻ duyên dáng. Ông ta cũng
quan sát Phật khi Phật ngủ, bởi vì ông ta thường ngủ trong
cùng phòng nhỡ khi Thấy cần ông ta trong đêm; ông ta
thường quan sát Phật khi ông ấy ngủ. Thức hay ngủ, vẻ
duyên dáng của ông ấy vẫn thế, cái đẹp của ông ấy vẫn thế,
im lặng của ông ấy vẫn thế.
Một hôm ông ta hỏi Phật rằng, "Tôi đáng ra không nên
hỏi những câu hỏi như thế - nó có vẻ ngu xuẩn thế - nhưng
tôi không thể kìm được sự tò mò. Thầy ngủ, nhưng tôi đã
quan sát thầy hàng giờ. Đôi khi vào giữa đêm tôi thức dậy
và quan sát thầy, đôi khi chỉ ngay trước khi thầy dậy buổi
sáng sớm tôi quan sát thầy, nhưng kinh nghiệm của tôi là tới
mức với tôi dường như thầy vẫn thức ngay cả trong giấc
ngủ. Thầy trông sống động thế, tươi tắn thế! Và một điều
thêm nữa - thầy không bao giờ đổi tư thế. Thầy đi ngủ và
thầy thức dậy trong cùng một tư thế. Bí mật của điều đó là
gì?"
Phật nói, "Không có bí mật gì trong đó. Thân thể đi
ngủ; một khi ông thức tỉnh, ông thức tỉnh! - dù đó là ngày
hay đêm không tạo ra khác biệt, ngọn lửa bên trong liên tục
138
cháy sáng. Thân thể đi ngủ bởi vì thân thể mệt mỏi, và bây
giờ không có tâm trí nữa cho nên không có vấn đề tâm trí
nảy sinh chút nào."
Chỉ có hai điều. Trong người chưa chứng ngộ có ba thứ:
thân thể, tâm trí, hồn. Và bởi vì tâm trí mà người đó không
thể thấy được hồn. Tâm trí là sự rối loạn, sự hỗn loạn; nó
toàn là khói, nó toàn là mây. Người chứng ngộ không có
tâm trí; chỉ có im lặng. Cho nên người đó có thân thể và
người đó có hồn. Thân thể mệt mỏi, cần nghỉ, nhưng hồn
không bao giờ mệt mỏi, không cần nghỉ; nó bao giờ cũng
thức. Thân thể bao giờ cũng ngủ còn hồn bao giờ cũng thức.
Bản tính của thân thể là vô ý thức và bản tính của hồn là có
ý thức. Đây là những phẩm chất cố hữu. Một khi tâm trí
không còn có đó nữa, thế thì ngay cả trong giấc ngủ của
bạn, chỉ thân thể ngủ, bạn không ngủ.
Ở phương Đông chúng ta đã gọi là những người này là
có tính tôn giáo: những người đã biết tới việc thức tỉnh thế
mà không thể bị che mờ bởi bất kì giấc ngủ nào thêm nữa.
Phương Tây đã từng nghĩ về Kant và Hegel và Fichte và
Bertrand Russell và Nietzsche và Wittgenstein - những
người này, dường như họ là những nhà thám hiểm vĩ đại về
chân lí. Họ là những nhà tư tưởng.
Và bao giờ cũng nhớ, chỉ người mù nghĩ về ánh sáng.
Người có mắt biết nó: người đó không cần nghĩ về nó. Đây
là những người mù - dù họ láu lỉnh đến đâu trong biện luận
nhưng họ mù.
Upanishad thuộc về những người thấy. Nó diễn đạt rằng
cái được tải nghiệm trong sự hoà hợp tối thượng nơi bạn
không còn là một thực thể tách rời khỏi cái toàn thể, khi giọt
sương trượt xuống từ lá sen và trở thành đại dương.
Lời kinh thứ nhất:

139
Bản thân cái Một không bao giờ chuyển động,
vậy mà quá nhanh đối với tâm trí.

Bạn sẽ bắt gặp nhiều phát biểu tự mâu thuẫn, bởi lẽ đơn
giản vì chân lí là ngược đời. Nó phải mang tính ngược đời
bởi một lẽ đơn giản vì nó chứa cái toàn thể, và cái toàn thể
ngụ ý mâu thuẫn cũng được hàm chứa trong nó. Nó chứa cả
hai cực, phủ định và khẳng định. Nó chứa ngày và đêm,
sống và chết, mùa hè và mùa đông. Nó chứa mọi cái đối lập;
trong nó những cái đối lập đó không còn là đối lập nữa,
chúng là phần bù. Cho nên đừng coi chúng là mâu thuẫn.
Với người thấy, với người đã đi tới đỉnh tối thượng của
thiền, người đã đạt tới samadhi, mọi cực đều được nối liền
với nhau trong một sự tồn tại. Chúng không tách rời - không
cái gì là tách rời. Sự tồn tại là một thực thể hữu cơ, do đó
nói bất kì cái gì về nó sẽ phải mang tính ngược đời nếu nó
phải bao quát toàn thể chân lí. Cho nên bạn sẽ tới lặp đi lặp
lại từ các phía khác nhau. Các mâu thuẫn phải bị tan biến,
chúng phải được nói tới, để cho bạn trở nên nhận biết về
tính bù của chúng.
Lời kinh thứ nhất:

Bản thân cái Một không bao giờ chuyển động,


vậy mà quá nhanh đối với tâm trí.

Nó không bao giờ chuyển động và vậy mà quá nhanh,


bất động vậy mà chuyển động. Nhưng nhớ, những cái này
không tách rời, hai hiện tượng này: chuyển động và bất
động. Lần nữa để tôi nhắc bạn về biểu dụ bánh xe và trục
xe: trục vẫn còn bất động; chính bởi vì trục bất động mà
bánh xe chuyển động. Chúng hỗ trợ lẫn nhau. Nếu trục cũng
140
chuyển động thế thì bánh xe sẽ không có khả năng chuyển
động được. Bằng việc vẫn còn bất động nó hỗ trợ cho bánh
xe chuyển động.
Thế giới là cái bánh xe. Từ tiếng Phạn cho thế giới là
samsara; samsara đơn giản ngụ ý bánh xe - nghĩa đen là cái
bánh xe. Đó là lí do tại sao tiếng Phạn là ngôn ngữ thuộc
vào phân loại khác toàn bộ: nó là ngôn ngữ được biến đổi,
được biến đổi bởi người thấy. Từng từ đều đã được tạo ra
theo cách mà nó có thể được dùng theo hai cách: nó có thể
được dùng theo nghĩa trần tục; nó cũng có thể được dùng
theo nghĩa linh thiêng. Nó là ngôn ngữ diễn đạt nhất về điều
tối thượng, về cái không diễn tả được.
Từ tiếng Phạn cho thế giới là samsara; samsara nghĩa
là cái bánh xe. Nó liên tục chuyển động. Nhưng đừng quên
cái trục, chính trung tâm mà toàn bộ việc chuyển động tuỳ
thuộc vào, và nó phải bất động. Bánh xe và trục xe không
phải là kẻ thù; chúng là trong quan hệ cộng tác, tình bạn sâu
sắc. Chúng là cùng nhau; chúng nhất định trong sự cùng
nhau sâu sắc.

Bản thân cái Một không bao giờ chuyển động,


vậy mà quá nhanh đối với tâm trí.

Một điều nữa phải được hiểu: bất kì khi nào Upanishad
nói "bản thân cái Một", nhớ, nó đích xác là điều Phật nói khi
ông ấy gọi thực tại tối thượng là "vô ngã". Cách diễn đạt của
họ là đối lập lẫn nhau. Upanishad nói ngôn ngữ của khẳng
định, Phật nói ngôn ngữ của phủ định. Upanishad là qua tính
khẳng định, và cách tiếp cận của Phật - hay ít nhất cách diễn
đạt của Phật - là qua tính phủ định. Cả hai là những cách
tiếp cận hợp lệ; điều đó tuỳ thuộc vào người mà bạn nói với.

141
Upanishad đã được nói ra trong một hoàn cảnh khác;
chúng đã được nói ra hai mươi nhăm thế kỉ trước khi Phật
tới - tính từ ngày nay, năm nghìn năm trước ngày nay. Nó đã
là một thế giới khác toàn bộ. Những người thấy thời
Upanishad đã không đi từ chỗ này sang chỗ khác; họ không
nói cho đám đông, họ không tranh cãi với tâm trí ngần ngại.
Họ đã chỉ nói cho các đệ tử của họ, vài người được chọn; nó
đã là hoàn cảnh khác toàn bộ. Nói với đệ tử riêng của bạn
chắc chắn là khác với nói cho những người đang ngần ngại,
hoài nghi, chống đối.
Những ngày mà Isa Upanishad được sinh ra đã là những
ngày của rất hồn nhiên, hồn nhiên sâu sắc. Mọi người là đơn
giản, không triết lí. Họ không quan tâm mấy tới logic; họ rất
tin cậy vào mọi người, thật thà, chân thành, đích thực. Và
rồi những người thấy Upanishad đã sống trong các đạo tràng
nhỏ bé của họ.
Đạo tràng, cộng đồng của Thầy và các đệ tử, là một
khám phá của thời Upanishad. Nó không phải là tu viện; đó
là một hiện tượng hoàn toàn khác. Trong tiếng Anh, thông
thường đạo tràng - ashram được dịch thành tu viện - nó
không phải là tu viện đâu. Tu viện là cái gì đó chống lại thế
giới; tu viện có nghĩa là bạn đã trốn khỏi thế giới; tu viện
đơn giản chỉ ra sự kết án của thế giới.
Đạo tràng không phải là sự kết án thế giới. Thay vì thế
nó là chỗ học tập - nơi bạn học nghệ thuật về cách sống
trong thế giới. Mọi người thường tới các Thầy thời
Upanishad để học cách sống trong thế giới.
Vào những ngày đó, đây là quá trình của cuộc sống. Giả
dụ rằng một người sẽ sống được một trăm năm, cuộc sống
được chia thành bốn phần. Hai mươi nhăm năm đầu tiên
mọi người phải ở cùng với Thầy đã thức tỉnh nào đó để cho
người ta có thể có hương vị của cõi bên kia, cho nên người
142
đó có kinh nghiệm nào đó về điều thiêng liêng. Giai đoạn
thứ nhất này được gọi là brahmacharya. Nhớ, việc dịch
brahmacharya thành "vô dục" là không đúng. Từ
brahmacharya đơn giản ngụ ý sống như vị thần, sống với
kinh nghiệm về Brahma, cái tuyệt đối, sống một cách thiền.
Nếu tôi mà dịch brahmacharya tôi sẽ dịch nó là "sống
thiền."
Hai mươi nhăm năm đó, phần bắt đầu của cuộc sống...
nó sẽ có vẻ kì lạ. Sao Thượng đế phải được trải nghiệm
ngay lúc bắt đầu? - bởi nhiều lí do. Thứ nhất: phần đầu tiên
của cuộc sống là phần hồn nhiên nhất, dũng cảm nhất, phiêu
lưu, sống động, thông minh. Một khi bạn trở nên bị nặng
gánh với kinh nghiệm của cuộc sống, bạn bắt đầu trở nên
tinh ranh. Sống trong thế giới mà không tinh ranh là rất khó.
Đối diện với thế giới bạn sẽ phải tinh ranh, đối diện với thế
giới bạn sẽ phải cảnh giác, thận trọng; bằng không bạn sẽ bị
lừa, bạn sẽ bị khai thác. Sống trong thế giới bạn phải liên tục
tranh đấu và cạnh tranh; bạn phải tham vọng và bạo hành và
xông xáo. Và nếu mọi kinh nghiệm này trở thành một phần
của tâm thức bạn - và chúng nhất định là một phần đấy - thế
thì tin cậy sẽ khó khăn hơn, hoài nghi sẽ dễ dàng hơn.
Tôi đã nghe nói:

Johnson là tay cờ bạc miễn cưỡng, nhưng bao giờ cũng


sẵn sàng cho và chia sẻ. Cho nên khi anh ta thua hết cả tiền
vào trò đánh cược quân bài thì Brown, một trong những bạn
nối khố của anh ta, cho anh ta tờ hai mươi đô la để khắc
phục khó khăn cho tới ngày hôm sau. Trên đường về nhà,
một người đàn bà ăn mặc xoàng xĩnh tiến lại anh ta với một
câu chuyện bất hạnh.

143
"Tôi không thể đi tiếp được," cô ấy cầu xin. "Tôi đã
không ăn cả ngày rồi. Nếu anh không giúp tôi, tôi sẽ đi nhảy
xuống sông"
Johnson hào phóng đưa cho cô ấy tờ hai mươi đô la.
"Tôi sẽ không bao giờ quên lòng tốt của anh," cô ấy nói
một cách biết ơn. "Anh đã khôi phục lòng tin của tôi vào
nhân loại."
Sáng hôm sau Johnson để ý tới một mục trên báo về
thân thể của một người đàn bà lạ đã được vớt lên từ sông.
Mô tả về quần áo của cô ấy khớp với người đàn bà anh ta đã
làm bạn. Anh ta phân vân.
Anh ta gặp Brown vào bữa trưa.
"Anh làm gì sau khi anh rời chúng tôi đi ngày hôm
qua?" Brown hỏi.
"Tôi đi về nhà," Johnson nói.
"Anh đã tiêu đồng nào chưa?"
"Không. Sao vậy?"
"Thế là tốt," Brown vừa nói vừa mỉm cười. "Chúng tôi
tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi anh thử tiêu cái tờ hai mươi đô la
giả mà tôi đã cho anh."

Trong thế giới này bạn nhất định sẽ bị làm hư hỏng -


thế giới này hư hỏng thế. Chính bởi vì sự kiện này mà vào
những ngày của Upanishad, người biết, người thấy đã quyết
định rằng trước khi bạn có bất kì kinh nghiệm nào về thế
giới, tốt hơn cả là có hương vị nào đó về Thượng đế, bởi vì
hương vị đó sẽ cứu bạn khỏi bị ảnh hưởng hư hỏng của thế
giới. Nếu bạn đã biết cái gì đó cao hơn, thế thì cái thấp hơn
không thể quấy rối bạn được; nếu bạn đã biết cái gì đó sâu
144
hơn, thế thì cái hời hợt không thành vấn đề nữa. Điều đó rất
khoa học và rất tâm lí.
Phần thứ nhất của cuộc sống, hai mươi nhăm năm, phải
được dành cho thiền, sống với Thầy, phục vụ Thầy, ở cùng
Thầy, tận hưởng sự hiện diện của thầy, vui mừng với sự
hiện diện của thầy. Đó không phải là tu viện; đó là trường
học, viện hàn lâm, đại học thực để học nghệ thuật của cuộc
sống.
Và sau hai mươi nhăm tuổi, giai đoạn thứ hai thường
bắt đầu... chính giai đoạn này được gọi là giai đoạn của chủ
hộ, grihastha. Thế thì người ta xây dựng gia đình, đi làm
việc trong thế giới, kiếm tiền, sống cuộc sống trần tục,
nhưng bây giờ người đó có một trung tâm bên trong, một
nền tảng. Thế giới không thể quấy rối được người đó, và
người đó biết rằng kinh nghiệm đó phải được đạt tới lần
nữa, rằng ánh sáng đó lại phải được đạt tới lần nữa. Bất kì
thoáng nhìn nào mà người đó có được trong hai mươi nhăm
năm qua sẽ ám ảnh người đó, sẽ nhắc nhở người đó lặp đi
lặp lại rằng thế giới này chỉ là tạm thời. Người đó sẽ không
trở nên điên dại vì tiền hay quyền hay danh. Người đó sẽ
làm mọi hành động của thế giới nhưng vẫn còn bất động sâu
bên dưới. Người đó sẽ trở thành bánh xe khi có liên quan tới
bên ngoài, nhưng bên trong người đó sẽ vẫn còn là trục xe,
không bị ảnh hưởng, bình thản. Dù thành công hay thất bại
tới là như nhau. Dù người đó trở nên giầu có hay nghèo khó
điều đó là như nhau. Dù người đó trở nên rất nổi tiếng hay
vẫn còn không là ai cả, điều đó là như nhau, bởi vì người đó
đã trải nghiệm niềm vui bên trong mình; bây giờ người đó
không thể bị lừa dối bởi bất kì cái gì từ bên ngoài.
Và kinh nghiệm này cũng cần tạo hiệu lực, tăng cường
cho kinh nghiệm đầu tiên của hai mươi nhăm năm. Đây là kì
kiểm tra, đây là tiêu chí để xem điều bạn đã đạt tới, bạn có

145
thực sự đạt tới nó hay không, hay đấy chỉ là trong ánh sáng
của Thầy, trong sự hiện diện của thầy, cái gì đó được vay
mượn. Bạn phải đi vào trong thế giới - đó là phép kiểm thử -
để cho bạn có thể thấy rằng nó là cái gì đó đã trở thành một
phần của con người riêng của bạn và không cái gì có thể lấy
nó đi được. Ngay cả việc đi xa khỏi Thầy sẽ không ảnh
hưởng tới nó; nó là riêng của bạn, đích thực riêng của bạn.
Đây là một thủ tục hay, có tính khoa học.
Và sau hai mươi nhăm năm khi người này sẽ đạt tới độ
tuổi năm mươi,người đó sẽ sẵn sàng tới đạo tràng, từ những
phương sách phi thường đó cho việc học. Con của người đó
bây giờ sẽ sẵn sàng. Chúng phải đón nhận hai mươi nhăm
năm già đi và chúng sẽ trên con đường trở về nhà. Bây giờ
chúng sẽ xây dựng gia đình và chúng sẽ thế chỗ của người
bố.
Và thử nhìn vào sự sáng suốt phương đông trong tâm lí
con người: khi người con quay về và anh ta xây dựng gia
đình, và nếu người bố vẫn liên tục sinh con, điều đó là xấu.
Điều đó giống như khi con trai nhỏ của bạn được sinh ra và
nó chơi với chiếc thuyền đồ chơi và bạn cũng chơi với chiếc
thuyền đồ chơi. Điều đó sẽ là ngu xuẩn; bạn sẽ đơn giản
chứng tỏ rằng bạn trì trệ. Nếu bạn liên tục mang con gấu
nhồi bông... điều đó hoàn toàn được cho đứa trẻ, nhưng một
người năm mươi tuổi mà mang gấu nhồi bông và không thể
ngủ được nếu thiếu con gấu đó, điều đó sẽ là xấu; điều đó sẽ
chỉ ra việc chưa trưởng thành; người này đã không lớn lên.
Năm mươi năm là tới thời gian rồi - đủ rồi! Hai mươi
nhăm năm bạn đã sống trong thế giới này; thế là đủ để thấy
rằng nó chỉ là vở kịch. Nó là đủ để cho bạn kinh nghiệm về
cái giả của nó, về ảo vọng của nó. Nó được làm từ cùng chất
liệu như mơ được làm ra. Xem nó thế là đủ rồi. Và bây giờ

146
con bạn sẽ chơi cùng trò chơi đó, và bạn cũng chơi cùng trò
chơi đó; điều đó có vẻ không đúng.
Khoảnh khắc con bạn quay về, trong những ngày của
Upanishad, người bố sẽ bắt đầu tự mình rời khỏi việc làm,
công việc, tiền bạc, trò chơi quyền lực - mọi trò chơi. Bây
giờ người con phải được nhường cho vị trí, không ngần ngại
- hân hoan, hạnh phúc. Bây giờ để cho nó chơi trò chơi.
Bằng không người bố cũng ở trong cùng trò chơi,con họ ở
trong cùng trò chơi,thậm chí đến cháu họ cũng trong cùng
trò chơi. Cháu theo đuổi con gái và ông theo đuổi con gái!
Điều đó có vẻ xấu thế, dường như không ai đã lớn lên. Có
thể về mặt thể chất họ là già, nhưng không trưởng thành về
tâm lí.
Già đi không phải là trưởng thành, nhớ điều đó. Trưởng
thành là quá trình tâm lí. Cho nên khi một người năm mươi
tuổi người đó sẽ bắt đầu nhường chỗ cho con mình, và
không có cạnh tranh. Bây giờ có mọi cạnh tranh trong mọi
lĩnh vực.
Ai đó như Morarji Desai, vào độ tuổi tám mươi nhăm
vẫn cố lại là thủ tướng của đất nước... Thế thì về con cái thì
sao? Nếu bạn quan tâm tới con gấu nhồi bông, thế thì về con
cái thì sao? Những thanh niên thực sự cần chỗ và cơ hội sẽ
thế nào? Những lão già này liên tục làm mãi; họ không dừng
lại. Không có tuổi về hưu cho các chính khách, không có
tuổi về hưu cho người giầu. Họ không bao giờ về hưu, họ
chỉ chết. Chỉ thế họ mới ngần ngại phải về hưu, bằng không
họ sẽ không về hưu.
Có một đại học ở London, đại học y; người sáng lập ra
đại học này, người cho tiền, ông ấy làm chủ tịch ban giám
đốc cả đời mình, và khi ông ấy chết di chúc của ông ấy được
mở ra và mọi người bị phân vân và bị sốc. Di chúc của ông
ấy là "Toàn thể số tiền của tôi là dành cho đại học, với điều
147
kiện tôi vẫn tiếp tục làm chủ tịch." Sau cái chết... và ông ấy
vẫn còn làm chủ tịch! Sau hai trăm năm ông ấy vẫn làm chủ
tịch ở trường đại học y đó. Thân thể ông ấy đã được bảo
quản. Thân thể ông ấy ngồi tại chỗ của ông chủ tịch... và
ban giám đốc họp và ông ấy chủ trì. Tất nhiên ai đó khác
thực hiện toàn bộ công việc như ông quyền chủ tịch, nhưng
chủ tịch thực có đó trong chiếc ghế! Thậm chí mọi người
không muốn về hưu sau cái chết - ông ta đã không về hưu.
Bây giờ nghĩ tới cuộc họp đó, các ông giám đốc khác
đang sống sẽ cảm thấy thế nào khi ngồi cùng một người
chết, một cái xác! Và ông ấy là chủ tịch, và họ phải xưng hô
với ông ấy, "Thưa ngài, thưa ngài chủ tịch..."
Nhưng đây là tình huống trên khắp thế giới! Ở Sri
Lanka một người chín mươi tuổi bây giờ là thủ tướng! Bây
giờ những người chết này nhất định tạo ra cảm giác xấu
trong thế hệ trẻ hơn, và họ nói chính thế hệ trẻ hơn là sai.
Nó không phải vậy.
Khi mọi người sống không lâu lắm, khi mọi người sống
không quá bẩy mươi tuổi, điều đó là được; thế hệ trẻ hơn có
thể dung thứ cho họ, với hi vọng rằng họ sớm hay muộn sẽ
chết - không vội vàng gì, không giết họ. Nhưng y học bây
giờ đã làm cho mọi người có thể sống vô hạn định.
Ở Nga có hàng nghìn người đã vượt qua độ tuổi một
trăm năm mươi,và họ vẫn làm việc. Bây giờ bạn muốn gì?
Thế hệ trẻ hơn nhất định giận lắm. Sớm hay muộn những
người trẻ hơn sẽ bắt đầu giết những người già này - họ phải
bị giết đi chứ! Bạn có thể dung thứ được bao lâu? Họ sẽ phá
huỷ toàn thể cuộc đời bạn! Vào lúc bạn một trăm họ có thể
chết, nhưng thế thì những người trẻ hơn lại có đó, người sẽ
đẩy bạn vào mồ!

148
Điều rất tâm lí là khi con bạn quay về từ gurukul... đạo
tràng được gọi là gurukul. Gurukul nghĩa là nơi Thầy sống
và gia đình thầy - các đệ tử là gia đình thầy - nơi Thầy sống
với các đệ tử của mình - gia đình của Thầy, cộng đồng của
Thầy.
Khi con cái bắt đầu tới, người bố, người mẹ, người già
cả phải nhường chỗ và vui sướng, bởi vì bây giờ họ được
giảm nhẹ. Hai mươi nhăm năm họ sẽ vẫn còn trong nhà cho
nên họ có thể giúp con cái mình sống trong thế giới, cho nên
họ có thể trao mọi thứ cho con cái. Vào lúc cháu họ bắt đầu
về nhà họ sẽ quay trở lại đạo tràng.
Đây là vòng tròn đầy đủ của cuộc sống, bốn giai đoạn.
Nó bắt đầu trong đạo tràng, nó kết thúc trong đạo tràng. Nó
bắt đầu trong đạo tràng như một đệ tử và nó kết thúc trong
đạo tràng như một Thầy. Vòng tròn là trọn vẹn. Một người
sau bẩy mươi nhăm tuổi - kinh nghiệm hai mươi nhăm năm
với Thầy, thế rồi thời gian thử thách hai mươi nhăm năm
trong thế giới, rồi hai mươi nhăm năm rút lui chậm dần,
không từ bỏ vội vã, việc rút lui rất mang tính thiền, chậm
rãi... và rồi quay trở vào rừng rậm, vào đạo tràng. Bây giờ
người đó tới như một Thầy theo quyền riêng của mình; cuộc
sống được sống đầy đủ, được trải nghiệm theo mọi cách có
thể, thiêng liêng và trần tục, bản thân người đó trở thành
Thầy... và con cái sẽ lại tới.
Thầy trong Upanishad đã nói với những người hồn
nhiên, không bị ô nhiễm bởi thế giới, không nghi ngại,
không biến chất, tin cậy, yêu mến.
Phật sau hai mươi nhăm thế kỉ đã nói với một thính giả
hoàn toàn khác. Đạo tràng đã biến mất, đã chết; toàn bộ thể
chế đẹp đẽ đã chết. Nó chết bởi vì người Jain - họ là thủ
phạm, bởi vì người Jain cứ khăng khăng rằng Thầy phải
sống ở một chỗ. Người Jain có thái độ rất phủ định cuộc
149
sống và họ cũng cổ như Upanishad. Họ khăng khăng vào
chủ nghĩa khổ hạnh, họ khăng khăng vào từ bỏ thế giới, và
họ khăng khăng rằng người ta không nên sống ở một chỗ
bởi vì nếu bạn sống ở một chỗ đủ lâu bạn có thể trở nên bị
gắn bó với chỗ đó. Nỗi sợ gắn bó của họ nhiều thế, họ bị ám
ảnh quá nhiều với nỗi sợ này, họ sống trong một loại ám
ảnh, trong hoảng loạn.
Người Jain muni, nhà sư Jain, được phép ở trong một
thị trấn chỉ ba ngày thôi, thế rồi ông ta phải ra đi, bởi vì nếu
ông ta ở lại lâu hơn thế thì có khả năng ông ta có thể bắt đầu
phát triển tình bạn, ông ta có thể trở nên yêu mến mọi
người, ông ta có thể trở nên bị gắn bó với chỗ này, với
những người này, ông ta có thể không thích di chuyển.
Người Jain chống lại đạo tràng. Đạo tràng nghĩa là
Thầy sống ở đó vĩnh viễn với các đệ tử của mình. Người
Jain khăng khăng rằng sư Jain phải là người lang thang; ông
ấy không được ở lại bất kì đâu. Họ phá huỷ thể chế đẹp đẽ
của Upanishad, họ phá huỷ nó hoàn toàn. Và họ hấp dẫn
nhiều với mọi người bởi vì mọi người ngu xuẩn thế, họ trở
nên bị hấp dẫn vào bất kì thứ gì phi tự nhiên. Họ trở nên bị
hấp dẫn tới các munis Jain; họ tưởng đây là những người từ
bỏ thế giới thực - bởi vì những người thấy Upanishad đã
sống rất bình thường, như mọi người khác sống. Khác biệt
duy nhất là họ hay sống trong rừng. Tất nhiên, sống trong
rừng là hay hơn nhiều so với sống trong bãi chợ. Họ không
chống lại bãi chợ, nhưng họ biết cái đẹp của rừng, của tự
nhiên và của mọi niềm vui của nó và mọi khí hậu của nó.
Họ không ở đó để chống lại thế giới; họ yêu cái đẹp của tự
nhiên. Họ ở đó không vì lí do tiêu cực nào, họ ở đó vì lí do
tích cực. Họ yêu cây cối, con vật hoang dã, hoa, im lặng của
rừng. Họ trong tình yêu mênh mông với rừng. Họ là nhà thơ.

150
Việc họ đi vào rừng không phải là từ bỏ, đó là vui mừng
trong tự nhiên. Nhớ sự khác biệt.
Người Jain đã bắt đầu một loại truyền thống hoàn toàn
khác ở Ấn Độ - truyền thống của những người lang thang -
và họ đã phá huỷ toàn bộ thể chế đạo tràng. Và những người
lang thang không thể là Thầy được, bởi vì bạn có thể dạy cái
gì trong ba ngày sống ở một chỗ? Và họ liên tục di chuyển
mãi. Họ sợ, rất sợ quan hệ với mọi người. Họ có thể dạy
được gì? Bản thân họ sợ, sống từ nỗi sợ; toàn thể khuynh
hướng của họ là sợ thế giới. Họ phá huỷ các đại học đẹp đẽ
đã tồn tại quanh Thầy.
Nỗ lực của tôi ở đây là để tạo lại đạo tràng thực, tâm xã
thực. Đó là lí do tại sao tôi muốn đi vào rừng. Tôi không
chống lại thế giới, không chống lại bãi chợ, nhưng tôi biết
cái đẹp của đồi núi, của hồ, của đại dương, và tôi muốn bạn
trải nghiệm điều đó cùng tôi để cho bạn có thể chia sẻ cái
nhìn của tôi, để cho bạn có thể nhảy múa cùng cây cối và
hát cùng chim chóc, để cho bạn có thể bắt đầu cảm thấy âm
thanh rì rào vọng tới khi bạn gặp gỡ với vũ trụ... AUM... để
cho bạn có thể cảm thấy âm nhạc đó, âm nhạc vĩnh hằng,
âm nhạc tinh tú.
Phật tới sau khi người Jain đã phá huỷ hoàn toàn thể
chế đạo tràng. Ông ấy phải nói với những người ngần ngại,
ông ấy phải nói với đám đông, ông ấy phải nói với những
người không bao giờ biết tới thiền. Do đó ông ấy đã chọn
cách diễn đạt phủ định. Ông ấy sẽ nói, "Điều tối thượng là
vô ngã." Nhưng Upanishad nói, "Điều tối thượng là cái Ngã
tối cao," nhưng chúng cả hai đều ngụ ý cùng một điều.

Các giác quan không thể đạt tới nó,


vậy mà nó bao giờ cũng ở ngoài nắm bắt của
chúng.

151
Hiển nhiên - giác quan là để hiểu thấu thế giới đối thể.
Bạn có thể thấy bằng mắt bạn toàn thể thế giới, ngoại trừ
bản thân đôi mắt. Nếu bạn muốn nhìn mắt của bạn, bạn sẽ
phải có gương, và thế nữa bạn vẫn không thấy mắt bạn đâu,
bạn chỉ thấy phản xạ trong gương. Và những cái đó không
phải là mắt bạn, chỉ là phản xạ, và phản xạ có thể không
đúng; tất cả phụ thuộc vào gương và phẩm chất của gương.
Gương có thể được làm tại Ấn Độ đấy! - và bạn có thể thấy
mắt của ai đó khác không liên quan gì tới bạn. Và bạn phải
đã thấy, có nhiều loại gương lắm. Trong một số gương bạn
trông rất nhỏ. Trong một số gương trông rất cao, trong một
số gương trông rất béo, trong một số gương lại rất gầy. Tất
cả đều tuỳ thuộc vào gương vào cách bạn nhìn. Thực tế, tôi
cho rằng không có gương nào mô tả đích xác bạn, một trăm
phần trăm; không thể có được.
Thấy ra vấn đề này đi: mắt bạn có khả năng thấy mọi
thứ ngoại trừ bản thân chúng; tay bạn có thể nắm mọi thứ
ngoại trừ bản thân nó. Các giác quan của bạn được tạo ra
cho thực tại bên ngoài; chúng là tầm với của bạn ra bên
ngoài. Nhưng với bên trong chúng bất lực; chúng không thể
hiểu được nội địa của bạn, và đó là nơi thực tại của bạn hiện
hữu. Chúng có thể hiểu thấu được bánh xe, nhưng trục xe
vẫn còn ở bên ngoài chúng.

Vẫn còn tĩnh lặng, nó bỏ xa mọi hoạt động,


vậy mà trong nó hơi thở của mọi cái chuyển động
vẫn còn lại.

Nó là cái trục.

152
…vậy mà trong nó hơi thở của mọi cái chuyển
động vẫn còn lại.

Và một khi bạn đã trải nghiệm trung tâm bất động, tuyệt
đối của bạn, bạn biết mọi hoạt động đều phụ thuộc vào nó -
mặc dầu nó không hoạt động.
Đây là ý nghĩa của nhấn mạnh của Upanishad vào
"hành động trong bất hành", hay nhấn mạnh của Thiền "nỗ
lực phi nỗ lực", hay phát biểu của Bồ đề đạt ma rằng nếu
bạn có thể chỉ ngồi im lặng không làm gì, mọi sự sẽ xảy ra.
Bạn không định làm gì cả, chỉ ngồi im lặng để cho bạn có
thể có trải nghiệm về cái trục của bạn. Ngồi im lặng bạn trở
nên nhận biết về cái trục hơn là cái bánh xe. Nếu bạn còn
mang tính hoạt động, bạn vẫn còn ở bánh xe, the vòng quay
vui thú... hay vòng quay buồn bã, tất cả điều đó tuỳ thuộc
vào bạn - nhiều hay ít nó vẫn cứ là vòng quay buồn bã! Bạn
bám lấy bánh xe và bánh xe liên tục quay mãi.
Ngồi im lặng nghĩa là lắng đọng vào chính trung tâm
nơi mọi hoạt động dừng lại, nhưng nó cũng là cội nguồn của
mọi hoạt động. Bất hoạt là cội nguồn của hoạt động, cái
không là cội nguồn của mọi vật.

Nó chuyển động, vậy mà không chuyển động.

Bạn bước đi, bạn đi dạo buổi sáng: theo một cách nào
đó bạn đang chuyển động; theo một cách nào đó bạn không
chuyển động. Thân thể bạn chuyển động, tâm trí bạn chuyển
động, nhưng tâm thức bạn vẫn vậy. Bạn đã là trẻ con, rồi
bạn trở thành thanh niên, rồi già lão. Mọi thứ đã chuyển
động vậy mà không cái gì chuyển động; tâm thức bạn vẫn
như vậy.

153
Đó là lí do tại sao nó là rất khó... nếu bạn không giữ
giấy tờ ghi chép, nếu bạn không có giấy khai sinh, nếu bạn
không có lịch, rất khó đánh giá về tuổi bạn. Nếu bạn nhắm
mắt lại và bạn cố gắng hình dung ra mình già thế nào, bạn sẽ
không thể nào hình dung được điều đó chút nào.
Đó là lí do tại sao nếu bạn đi tới các bộ lạc nguyên thuỷ
nơi không tồn tại đồng hồ, không có lịch, và không ai biết
khi nào mình đã được sinh ra bởi vì mọi người đều không
thể nào đếm được bên ngoài mười đầu ngón tay... Thậm chí
người có thể đếm mười đầu ngón tay đã được coi như là rất
thông thái, có giáo dục, có văn hoá. Người đó trở thành tu sĩ
hay thủ lĩnh! Nếu bạn hỏi mọi người, "Anh bao nhiêu tuổi
rồi?" họ sẽ không thể nào trả lời bạn được; không có cách
nào.
Bạn không thể phán xét được bằng con người bên trong
riêng của bạn; cần có cách đo bên ngoài nào đó. Tại sao? -
bởi vì khi bạn nhắm mắt và bạn nhìn vào bên trong, nó bao
giờ cũng là cùng một thứ, nó không bao giờ thay đổi - và
theo một cách nào đó, mọi thứ đã thay đổi. Bạn sẽ không có
khả năng nhận ra ảnh chụp của bạn khi bạn mới được một
ngày - hay bạn cho rằng bạn sẽ có khả năng nhận ra được?
Và trong bụng mẹ, trong thời gian chín tháng, bạn đã trải
qua mọi giai đoạn mà cuộc sống đã trải qua - hàng triệu
năm. Trước hết bạn giống như cá và cuối cùng bạn giống
như khỉ - và rất ít người trưởng thành ra ngoài giai đoạn đó!
Darwin có thể đúng về vài người - một Phật, một
Christ, một Zarathustra, một Lão Tử... thực tế tôi không tính
tới ngay cả Darwin! Ông ấy có thể đúng về vài người, rằng
họ đã tiến hoá ra ngoài khỉ, nhưng khi có liên quan tới người
khác, họ chỉ mới tụt xuống khỏi cây thôi - điều đó là đúng -
nhưng họ đã không tiến hoá. Họ đã không trở nên tốt hơn
khỉ.

154
Quan sát tâm trí của bạn và bạn sẽ thấy: con khỉ liên tục
nhảy nhót tứ tung. Tâm trí bạn là khỉ và nó liên tục nhảy dài
hơn - cú nhảy lượng tử - hơn bất kì khỉ nào có thể đã từng
làm. Khỉ có thể nhảy từ cành nọ sang cành kia, từ cây nọ
sang cây kia, không nhiều mấy, nhưng bạn lại có thể nhảy từ
trái đất lên mặt trăng. Tâm trí bạn đã trở thành con khỉ lớn
hơn.
Mọi đứa trẻ đều đi tới giai đoạn đó trong bụng mẹ. Nếu
bạn được cho xem một bức ảnh hay một loạt các bức ảnh
bạn sẽ không thể nào tin được rằng "Đây là mình!" Ngày
đầu tiên trong bụng mẹ, bạn có cho rằng bạn sẽ có khả năng
nhận ra được không? Nó sẽ chỉ là một cái chấm, gần như
không thể thấy được bằng mắt trần; bạn sẽ cần kính hiển vi
để nhìn nó. Và thế rồi... nhưng mọi thay đổi đó đều ở ngoại
vi; tại trung tâm bạn vẫn là một. Không cái gì thay đổi,
không cái gì đã từng thay đổi.
Quan sát khi bạn đi dạo buổi sáng ngày mai: thân thể
chuyển động, nhưng cái gì đó trong bạn vẫn còn bất động.

Nó chuyển động, vậy mà không chuyển động.


Nó là xa, vậy mà nó là gần.

Nó là xa nếu bạn đi qua tâm trí, nó là rất xa. Thực tế, nó


xa tới mức bạn sẽ không bao giờ đạt tới nó. Nhưng nếu bạn
đi qua thiền, nó rất gần, gần hơn cả bản ngã riêng của bạn;
nó là gần nhất. Nó là chính con người bạn, nhưng điều đó
còn tuỳ. Nếu bạn đi qua tâm trí, thế thì bạn đã lấy con
đường dài nhất có thể có; nếu bạn đi qua vô trí, thế thì bạn
đã lấy con đường ngắn nhất có thể có.

Nó ở trong mọi cái này,


và vậy mà ở bên ngoài mọi cái này.

155
Nó là ở bên trong và ở bên ngoài cả hai. Nhưng trước
hết bạn phải trải nghiệm nó ở bên trong bởi vì đó là điểm
gần nhất, cánh cửa gần nhất bạn có thể vào trong ngôi đền
của Thượng đế. Và thế rồi một khi bạn đã trải nghiệm nó
như chính cái ngã của bạn, bạn sẽ biết nó là cái ngã của mọi
người. Thế thì bạn sẽ thấy nó trong cây cối và trong tảng đá,
trong con vật, trong mọi người - bạn sẽ thấy nó ở mọi nơi.
Một khi bạn đã nhận ra nó bên trong bản thân mình, bạn
không thể bỏ lỡ việc nhận ra nó ở bất kì đâu.

Người nhìn mọi thứ không là gì ngoài cái Ngã,


và cái Ngã trong mọi thứ người đó nhìn,
người thấy như vậy rút lui từ hư không.

nhớ những lời cực kì có ý nghĩa này:

Người thấy như vậy rút lui từ hư không.

Toàn thể ý tưởng về từ bỏ là phi Aryan, nhưng người


Ấn Độ cho rằng đó là văn hoá của họ. Đó chỉ là vô nhận biết
tuyệt đối về điều họ đang nói tới. Từ bỏ là hiện tượng phi-
Aryan; nó không liên quan gì tới văn hoá Ấn Độ hay tôn
giáo Ấn Độ. Nó bắt nguồn từ người Jain, và người Jain
không phải là một phần của văn hoá Ấn Độ.
Khi người Aryan tới Ấn Độ, quãng độ mười nghìn năm
trước, Ấn Độ đã là nước rất văn minh. Khi người Aryan tới,
Ấn Độ đã nở hoa; nó không phải là không có dân cư. Bây
giờ các nhà thám hiểm đã khám phá ra Harappa và
Mohenjodaro. Hai thành phố này, chúng phải đã trải qua
những thảm hoạ cực kì lớn bởi vì cả hai thành phố đều để lộ
những chỉ dẫn rằng chúng đã bị phá huỷ bẩy lần. Bởi vì
156
người ta đã tiến hành đào bới và họ đã thấy bẩy tầng; tầng
cổ nhất là tầng thứ bẩy ở đáy. Người ta thậm chí không thể
nào hiểu được tầng cổ nhất đó là cổ đến đâu, nhưng bằng
cách nào đó nó đã bị phá huỷ - có thể là trận động đất lớn,
chấn động nào đó trong đất - và nó bị bao phủ bằng đất. Thế
rồi lần thứ hai thành phố này lại đông đúc dân cư và lần thứ
ba... bẩy lần nó đã đông đúc dân cư và bị phá huỷ. Một cách
tự nhiên nó đã bị phá huỷ bởi thảm hoạ tự nhiên nào đó và
có khả năng là Himalaya vươn lên cao rất gần đó, và khi
ngọn núi lớn đó vươn lên, thế thì mọi thứ xung quanh nó sẽ
bị chấn động lớn, nhất định là như vậy. Các chấn động
khổng lồ, vĩ đại... ngọn núi lớn nhất vươn lên nghĩa là hàng
nghìn dặm quanh đó mọi thứ sẽ thay đổi. Và Himalaya vẫn
còn lớn lên nữa. Nó là ngọn núi trẻ nhất trên thế giới - vẫn
còn phát triển, vẫn còn trở nên cao hơn. Nhưng khi lần đầu
tiên nó phải đã vươn lên khỏi mặt đất bạn có thể nghĩ làm
sao không thể không có thảm hoạ nào bao quanh toàn thể
bắc Ấn Độ; Harappa và Mohenjodaro đã bị phá huỷ bẩy lần.
Ở Harappa và Mohenjodaro người ta tìm thấy các tượng
mà chỉ có liên quan tới tôn giáo của người Jain - tượng trần,
ngồi giống Mahavira trong tư thế hoa sen hay đứng như
Mahavira, đang thiền. Chỉ người Jain mới được biết có việc
đứng thiền: không tôn giáo nào khác đã mô tả thiền phải
được tiến hành trong tư thế đứng. Và họ tất cả đều ở trần -
chỉ tôn giáo Jain tin vào Thầy ở trần. Harappa và
Mohenjodaro phải đã sống sót thêm một chút ít. Tôn giáo
Jain dường như là cổ hơn nhiều so với tôn giáo Hindu; nó
phải bắt nguồn từ Harappa và Mohenjodaro. Harappa và
Mohenjodaro phải đã từng thuộc vào văn hoá Jain; tàn dư
của nó vẫn còn và chúng xâm nhập vào tâm trí người Aryan.
Bằng không người Aryan không bao giờ thiên về việc
rút lui khỏi cuộc sống; họ bao giờ cũng vui sướng trong

157
cuộc sống. Nhưng người Jain đã làm nhiễm bẩn toàn thể tâm
trí. Họ đã thành công trong việc làm biến chất toàn bộ ý
tưởng này.

Người thấy như vậy, Isa Upanishad nói, rút lui từ


hư không.

Không có nhu cầu rút lui bởi vì tất cả là Thượng đế!


Rút lui khỏi thế giới ngụ ý rút lui khỏi biểu hiện của Thượng
đế. Hành động rút lui, từ bỏ là vô đạo. Upanishad tin vào vui
mừng, không vào từ bỏ, và đó cũng là cách tiếp cận của tôi
nữa.
Do đó tôi muốn nói với cái gọi là những người bảo vệ
văn hoá Ấn Độ rằng họ không thực là người bảo vệ văn hoá
Ấn Độ đâu. Tôi là người bảo vệ, bởi vì bất kì điều gì tôi
đang nói đều được bắt rễ vào trong cái nhìn của Upanishad:
Vui mừng trong mọi thứ, bởi vì tất cả là Thượng đế! Từ cái
thấp nhất đến cái cao nhất, mọi thứ là thiêng liêng. Tôi chắc
chắn chống lại thái độ của người Jain về việc rút lui, từ bỏ,
nhưng tôi không chống lại thái độ của Upanishad - tôi tất cả
ủng hộ nó.

Với người chứng ngộ, mọi thứ tồn tại


không là gì ngoài cái Ngã…

Cái Ngã tối thượng, bản thân Thượng đế.

cho nên làm sao đau khổ hay ảo vọng nào


tiếp tục cho những người biết tới tính Một này?

Không có vấn đề đau khổ hay ảo vọng. Khoảnh khắc


bạn vứt bỏ bản ngã của mình và bạn trở thành một với cái
158
toàn thể, mọi đau khổ biến mất. Đau khổ chỉ là ảo vọng; nó
là mơ, ác mộng. Khi bạn thức dậy, mọi mơ biến mất. Cũng
giống điều đó: khi bạn trở nên thức tỉnh, nhận biết, mọi đau
khổ biến mất. Cuộc sống trở thành niềm vui sướng vô cùng,
thành điệu vũ, thành lễ hội!

Người tràn ngập tất cả, là rạng ngời…

Thượng đế ngụ ý cái tràn ngập tất cả, và ngài rất rạng
ngời. Mọi điều bạn cần là mở mắt ra thôi. Nhưng trước hết
bạn phải thấy sự rạng ngời của ngài bên trong bản thân bạn;
chỉ thế thì bạn sẽ có khả năng nhận ra nó ở bên ngoài. Ngài
không bị giới hạn, vì vũ trụ bao la và không có biên giới.
Ngài là không bị ô uế, bởi vì không có cái gì khác có thể
làm bẩn được nó.
Đây là những tuyên bố mênh mông: bạn không bị bôi
bẩn, bạn rạng ngời, bạn không bị hạn chế. Chỉ bỏ bản ngã và
bạn trở thành một với cái vô hạn này, với cái vĩnh hằng này
mà chính là sự tồn tại.

Người đó không thể bị tổn thương và thuần khiết.

Bạn cũng vậy.

Người đó là người biết, Tâm trí một,

Điều Phật gọi là vô trí, Upanishad gọi là "tâm trí một",


nhưng chúng ngụ ý cùng một điều.

Người đó là người biết...

159
Thượng đế là người biết. Khi bạn trở thành người biết,
bạn là thượng đế. Biết chính là thượng đế, bởi vì ngài là
người biết:

Toàn diện ...

Người đó hiện diện ở mọi nơi,bởi vì không cái gì khác


có thể hiện diện.
Nhớ, Upanishad không tin vào bất kì quỉ nào, bất kì Sa
tăng nào, họ không tin vào bất kì địa ngục nào, bởi vì tất cả
là thiêng liêng - làm sao có thể có địa ngục được? Địa ngục
là bịa đặt của bạn, cái bóng của bản ngã. Nó chỉ là ảo vọng -
nó không tồn tại.

Người đó đã làm hài hoà sự đa dạng


qua thời gian vĩnh hằng.

Thượng đế là sự hài hoà của mọi cái đang đó, và bạn có


thể quan sát - mọi thứ là hài hoà. Cây cối đang đung đưa
cùng gió; có hài hoà. Chúng không tranh đấu với gió, chúng
nhảy múa cùng gió. Các vì sao đang di chuyển trong sự hài
hoà vô cùng. Sự tồn tại bao la này là dàn nhạc giao hưởng vĩ
đại: tất cả là hoà điệu với mọi thứ khác. Không có xung đột,
không phân chia, không mất hài hoà.
Chỉ con người có thể tin rằng mình là tách biệt, bởi vì
con người có tâm thức, và tâm thức cho bạn sự lựa chọn các
khả năng. Hoặc bạn có thể coi bạn là tách biệt - thế thì bạn
rơi vào khổ và địa ngục - hoặc bạn có thể cố hiểu cái một và
bỗng nhiên có phúc lạc. Là một với cái toàn thể là phúc lạc:
tách rời với cái toàn thể là khổ.

160
Aum
Purnamadah
Purnamidam
Puranat Purnamudachyate
Purnasya Purnamadaya
Purnameva Vashishyate.

Aum
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể,
Tính toàn thể vẫn còn lại

161
162
6. Yêu tuyệt đối, tự do
tuyệt đối

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Ngồi đấy bực bội, lúng túng vô tận, xuân có tới và
cỏ có tự nó mọc lên không?

Anand Daniel,
Xuân vẫn tới đấy. Nó không phụ thuộc liệu bạn ngồi im
lặng hay bực bội, liệu bạn ngồi hay không ngồi chút nào. Nó
không phụ thuộc vào bạn; nó tới theo cách riêng của nó. Và
cỏ liên tục mọc lên, nhưng nếu bạn không ngồi im lặng bạn
sẽ bỏ lỡ điều đó. Nó sẽ tới, nhưng bạn sẽ không có khả năng
cảm thấy nó. Nó sẽ tới, nhưng bạn sẽ không có khả năng trải
nghiệm nó. Cỏ sẽ lớn lên, nhưng bạn sẽ không lớn lên.
Mặt trời lên, đêm biến mất, nhưng ánh sáng chỉ dành
cho những người có mắt và chỉ dành cho những người mở

163
mắt ra: bằng không bạn sẽ vẫn còn trong bóng tối. Mặt trời
sẽ có đó, ánh sáng sẽ có đó, nhưng bạn sẽ không được tắm
trong ánh sáng của nó; bạn sẽ vẫn còn như cũ.
Toàn thể vấn đề là liệu bạn đóng hay mở. Im lặng mở
bạn ra; ồn ào bên trong giữ cho bạn bị đóng với sự tồn tại,
đóng bên trong và bên ngoài cả hai. Bên ngoài là thế giới
đẹp: toàn thể bầu trời đầy sao, hoa, chim hót líu lo, mây nổi,
sông, núi. Và thế giới bên trong thậm chí còn đẹp hơn nhiều,
bởi vì bên ngoài là phần biểu bộ của bên trong và bên trong
là bao la hơn bên ngoài. Cái không biểu lộ là vô giới hạn,
cái biểu lộ nhất định bị giới hạn. Cái không biểu lộ chứa
mọi khả năng tương lai; cái biểu lộ chỉ chứa cái đã trở thành
thực tại trong quá khứ. Cái không biểu lộ chứa tất cả vũ trụ
sẽ xảy ra trong vĩnh hằng sắp tới. Tất nhiên, nó lớn hơn cái
bên ngoài nhiều.
Giữa hai điều này là tâm trí. Giữa bên trong và bên
ngoài có bức tường - bức Trường thành Trung Quốc - gồm
các ý nghĩa, ham muốn, kí ức, trông đợi, thất vọng. Và bởi
vì bức tường dày và tiếng ồn thường xuyên nhất định có
đó... từng kí ức khao khát được lắng nghe, từng ham muốn
chì chiết bạn để được hoàn thành, từng tưởng tượng bó buộc
bạn để được thực hiện, từng trông đợi hành hạ bạn, dằn vặt
bạn để cho bạn có thể thành công trong việc hoàn thành nó.
Tiếng ồn là lớn; có xung đột lớn. Các ham muốn đối kháng
lẫn nhau.
Nếu bạn muốn quyền lực, tất nhiên bạn sẽ phải chọn vài
ham muốn và bạn sẽ phải bỏ vài ham muốn. Có những ham
muốn được nổi tiếng, ham muốn là giầu có, ham muốn có
quyền lực, và ham muốn được mạnh khoẻ, ham muốn được
yêu, và ham muốn có tính sáng tạo; tất cả chúng không thể
được hoàn thành đồng thời. Và bất kì khi nào bạn chọn, ham

164
muốn không được chọn sẽ chì chiết bạn; chúng sẽ cố lôi bạn
về phía chúng.
Hỗn độn này không thể cho phép bạn thấy cả cái đẹp
bao quanh bạn lẫn cái đẹp nằm bên trong bạn. Nó không thể
cho phép bạn thấy cầu vồng ở chu vi và nó không thể cho
phép bạn thấy cội nguồn của mọi niềm vui, của mọi chân lí,
của mọi cái đẹp bên trong bạn - vương quốc của Thượng đế
bên trong bạn.

Bạn hỏi tôi, Daniel: Ngồi đấy bực bội, lúng túng vô
tận, xuân có tới và cỏ có tự nó mọc lên không...?

Chắc chắn... xuân tới, nhưng không dành cho bạn. Bạn
không sẵn có, bạn không có đó. Bạn quá bận bịu, quá tham
dự, bạn không thể nhìn ra được, bạn không thể nhìn vào
được. Mắt bạn bị bao phủ bởi các tầng ham muốn và ý nghĩ.
Cỏ chắc chắn liên tục mọc, vì cỏ đang ngồi im lặng
không làm gì - nhưng bạn không ngồi im lặng, không làm
gì. Nếu bạn có thể ngồi im lặng không làm gì giống như cỏ,
bạn cũng sẽ lớn lên.
Đó là cách người dốt nát trở nên được chứng ngộ: trở
nên im lặng... ngay bây giờ... chỉ một khoảnh khắc im lặng,
chỗ dừng lại... và bạn có thể nghe thấy tiếng hót của chim và
bạn bỗng nhiên có thể cảm thấy cái im lặng. Thế thì không
còn năm nghìn sannyasins ở đây nữa: Phòng Phật là trống
rỗng, và cái trống rỗng đó là kinh nghiệm lớn lao. Nó là cực
lạc!
Xuân bỗng nhiên được cảm thấy - nó có thể được cảm
thấy ngay bây giờ! Thế thì không cái gì làm sao lãng bạn.
Tiếng ồn này của máy bay không phải là làm sao lãng; nó

165
thậm chí sẽ làm sâu sắc hơn im lặng của bạn, nó sẽ trở thành
cái tương phản cho im lặng, nó sẽ giúp xác định cái im lặng.
Tiếng ồn bên ngoài không phải là làm sao lãng; nhưng
tâm trí bên trong vẫn còn liên tục trong trạng thái không
lành mạnh là việc sao lãng duy nhất.
Và có những người ngu từ bỏ thế giới để tìm im lặng.
Thế giới này không quấy rối bạn; cái quấy rối là tâm trí bạn
- và họ không từ bỏ tâm trí. Khi một người Hindu trở thành
sư, người đó vẫn còn là người Hindu. Bạn có thấy cái ngớ
ngẩn này không? Người đó đã từ bỏ xã hội Hindu, nhưng
người đó vẫn mang ý tưởng về việc là người Hindu! Nếu
bạn đã từ bỏ xã hội Hindu... thế thì ý tưởng này về việc là
người Hindu đã được xã hội đó trao cho bạn, làm sao bạn có
thể mang được nó?
Ai đó trở thành linh mục Ki tô giáo, nhưng người đó
vẫn còn là người Ki tô giáo - người Thiên chúa giáo, người
Tin lành... Tâm trí ngu xuẩn thế; nếu bạn nhìn vào cái ngu
xuẩn của nó bạn sẽ ngạc nhiên, chưng hửng! Làm sao bạn
có thể là người Thiên chúa giáo nếu bạn đã từ bỏ thế giới
này? Nhưng những người từ bỏ thế giới, họ không từ bỏ tâm
trí - và tâm trí là sản phẩm phụ của thế giới! Đứa trẻ được
người Hindu nuôi dưỡng, thế rồi nó trở thành người Hindu,
bởi vì bố mẹ vun vén ý thức hệ Hindu - hay Ki tô giáo, hay
Mô ha mét giáo, hay Jain giáo.
Mới hôm nọ tôi đã nói về cách Jain giáo đã phá huỷ
khái niệm đẹp về đạo tràng Upanishad. Khi tôi đi một vòng
quanh Phòng Phật quay lại, tôi đặc biệt nhìn vào các
sannyasins Jain của tôi - họ có vẻ không hài lòng! Ngay cả
sannyasins của tôi đấy! Nhưng bất kì khi nào tôi phê bình
Hindu giáo và tôi đã thấy cùng các sannyasins đó - vui vẻ
thế. Tất nhiên người Hindu cảm thấy khó chịu. Ngay cả

166
sannyasins của tôi bằng cách nào đó sâu bên dưới họ vẫn
mang tâm trí của họ.
Tôi không dạy bạn từ bỏ thế giới này, tôi dạy bạn từ bỏ
tâm trí. Và đó là điều được ngụ ý bởi câu nói Thiền hay vô
cùng này:

Ngồi im lặng, không làm gì,


Xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.

Mọi điều cần thiết về phần bạn chỉ là im lặng tuyệt đối.
Và đó đúng là ý nghĩa của từ upanishad: ngồi im lặng,
không làm gì, bên cạnh Thầy - điều đó ngụ ý ngồi bên cạnh
mùa xuân - cho phép mùa xuân xâm chiếm bạn, đưa bạn đi
cùng nó như con sóng triều.
Con người bên trong của bạn không phải là cái gì đó
phải được phát triển; nó đã hoàn hảo rồi. Không phát triển
tâm linh nào là cần, chỉ phải phát hiện ra nó. Và một khi im
lặng giáng xuống bạn, bạn bắt đầu khám phá ra nó. Chính
tiếng ồn và bụi bặm mà tâm trí tạo ra cản trở việc khám phá
này.

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Bố mẹ tôi thất vọng về tôi thế, họ lo nghĩ mọi lúc.
Họ đã làm cho việc hiệu hữu của tôi ở đây thành
có thể, cho nên làm sao tôi có thể quay lưng lại với
họ được? Tôi nợ cái gì ở bố mẹ tôi?

167
Prem Shunya,
Rắc rối với gia đình là ở chỗ trẻ con lớn lên khỏi tuổi
thơ, nhưng bố mẹ không bao giờ lớn lên khỏi quyền bố mẹ!
Con người thậm chí chưa học được rằng quyền bố mẹ không
phải là cái gì đó bạn phải bám lấy nó mãi mãi. Khi đứa trẻ là
người đã lớn rồi, quyền bố mẹ của bạn bị chấm dứt. Đứa trẻ
cần quyền bố mẹ - nó bất lực. Nó cần mẹ, cần bố, sự bảo vệ
của họ; nhưng khi đứa trẻ có thể đứng theo cách riêng của
nó, bố mẹ phải học cách rút lui khỏi cuộc sống của đứa trẻ.
Và bởi vì bố mẹ không bao giờ rút lui khỏi cuộc sống của
đứa trẻ nên họ vẫn còn lo âu thường xuyên cho bản thân họ
và cho con cái. Họ phá huỷ, họ tạo ra mặc cảm; họ không
giúp đỡ ở bên ngoài một giới hạn nào đó.
Là bố mẹ là nghệ thuật lớn. Sinh ra trẻ con không là gì
cả - bất kì con vật nào đều có thể làm được điều đó; điều đó
là quá trình tự nhiên, sinh học, bản năng. Sinh ra con cái
không là gì lớn lao, nó không là gì đặc biệt; nó rất bình
thường. Nhưng là bố mẹ là cái gì đó phi thường; rất ít người
thực sự có khả năng là bố mẹ.
Và tiêu chí là ở chỗ bố mẹ thực sẽ cho tự do. Họ sẽ
không áp đặt bản thân họ lên con cái, họ sẽ không xâm lấn
không gian của nó. Từ ngay lúc bắt đầu nỗ lực của họ sẽ là
giúp cho đứa trẻ là bản thân nó. Họ dự định hỗ trợ, họ dự
định làm mạnh thêm, họ dự định nuôi dưỡng, nhưng không
áp đặt ý tưởng của họ, không cho cái phải và cái không phải.
Họ không tạo ra nô lệ.
Nhưng đó là điều các bố mẹ trên khắp thế giới liên tục
làm: toàn thể nỗ lực của họ là để hoàn thành tham vọng của
họ qua đứa con. Tất nhiên không ai đã bao giờ có khả năng
hoàn thành được tham vọng của mình, cho nên mọi bố mẹ ở
trong rối loạn. Người đó biết cái chết đang tới gần mọi ngày,
người đó có thể cảm thấy cái chết đang ngày một lớn hơn và
168
cuộc sống đang co lại, và tham vọng của người đó chưa
được hoàn thành, ham muốn của người đó vẫn không được
thực hiện. Người đó biết rằng mình đã thất bại. Người đó
hoàn toàn nhận biết rằng người đó sẽ chết với bàn tay trống
rỗng - như cách người đó đã tới, với bàn tay trống rỗng,
người đó sẽ ra đi.
Bây giờ toàn thể nỗ lực của người đó là làm sao cấy
tham vọng của mình vào đứa con. Người đó sẽ qua đời,
nhưng đứa con sẽ sống theo người đó. Điều người đó đã
không thể làm được, đứa con sẽ có thể làm được. Ít nhất qua
đứa con người đó sẽ hoàn thành mơ ước nào đó.
Điều đó sẽ không xảy ra đâu. Mọi điều sẽ xảy ra là đứa
trẻ sẽ vẫn không được hoàn thành như bố mẹ và đứa trẻ sẽ
lại liên tục làm cùng điều đó cho con cái nó. Điều này diễn
ra mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng ta liên tục trao
bệnh của mình; chúng ta liên tục làm con cái tiêm nhiễm các
ý tưởng của mình, điều đã không chứng minh được tính hợp
thức trong cuộc sống riêng của chúng ta.
Ai đó đã sống như người Ki tô giáo, và cuộc sống của
người đó có thể chỉ ra rằng phúc lạc đã không xảy ra qua nó.
Ai đó đã sống như người Hindu và bạn có thể thấy rằng
cuộc sống người đó là địa ngục nhưng người đó muốn con
mình là người Hindu giáo hay Ki tô giáo hay Mô ha mét
giáo. Con người vô ý thức làm sao!
Tôi đã nghe:

Một người rất rầu rĩ, âu sầu tới gặp bác sĩ ở London.
Ngồi ủ rũ trong chiếc ghế trong phòng đợi và lờ các bệnh
nhân khác, người đó đợi tới lượt mình. Cuối cùng bác sĩ ra
hiệu cho người đó vào phòng bên trong, nơi mà sau khi

169
được khám cẩn thận, người này dường như là nghiêm trọng
hơn, buồn và khổ hơn bao giờ.
"Không có gì thực sự thành vấn đề với anh đâu," bác sĩ
giải thích, "anh đơn giản bị suy nhược thôi. Điều anh cần là
quên đi công việc và lo âu của anh. Đi ra ngoài và xem phim
hài Charlie Chaplin và cười thật thoải mái vào!"
Cái nhìn buồn bã lan khắp khuôn mặt của con người
nhỏ bé này. "Nhưng tôi là Charlie Chaplin đây!" người đó
nói.

Đó là một thế giới rất kì lạ! Bạn không biết cuộc sống
thực của mọi người; mọi điều bạn biết là những mặt nạ của
họ. Bạn thấy họ trong nhà thờ, bạn thấy họ trong câu lạc bộ,
trong khách sạn, trong phòng khiêu vũ, và dường như mọi
người đều vui mừng, mọi người đều sống một cuộc sống
thiên đường, ngoại trừ bạn - tất nhiên, bởi vì bạn biết bạn
đang khổ bên trong thế nào. Và đấy cũng là cùng trường
hợp với mọi người khác! Họ tất cả đều đeo mặt nạ, lừa dối
mọi người, nhưng làm sao bạn có thể tự lừa dối mình được?
Bạn biết rằng mặt nạ không phải là mặt nguyên bản của bạn.
Nhưng bố mẹ liên tục giả vờ trước con họ, liên tục lừa
dối con riêng của họ. Họ thậm chí không đích thực với con
riêng của họ! Họ sẽ không thú nhận rằng cuộc sống của họ
đã là thất bại; ngược lại, họ sẽ giả vờ rằng họ đã rất thành
công. Và họ muốn con họ sống theo cùng cách họ đã sống.

Prem Shunya, bạn hỏi: Bố mẹ tôi thất vọng về tôi


thế...

Đừng lo nghĩ chút nào - mọi bố mẹ đều thất vọng về


con cái của họ! Và tôi nói tất cả, không ngoại lệ nào. Ngay

170
cả bố mẹ của Phật Gautam đã rất thất vọng về ông ấy, bố mẹ
của Jesus Christ đã thất vọng rất nhiều ở ông ấy, hiển nhiên.
Họ đã sống một loại cuộc sống nào đó - họ là những người
Do Thái chính thống - và đứa con này, Jesus này, đã đi
ngược lại nhiều ý tưởng, tập tục truyền thống. Bố của Jesus,
Joseph, phải đã hi vọng rằng bây giờ ông ấy già đi, con sẽ
giúp ông ấy trong nghề mộc, trong công việc của ông ấy,
trong cửa hàng - và đứa con ngu xuẩn bắt đầu nói về vương
quốc của Thượng đế! Bạn có cho rằng ông ấy đã rất hạnh
phúc trong tuổi già của ông ấy không?
Bố của Phật Gautam rất già và chỉ có một con trai, và
đứa con đó nữa đã được sinh ra cho ông ấy khi ông ấy đã rất
già. Cả đời mình ông ấy đã chờ đợi và cầu nguyện và tôn
thờ và đã làm đủ mọi loại nghi lễ tôn giáo để cho ông ấy có
thể có con trai, bởi vì ai sẽ chăm nom vương quốc lớn của
ông ấy? Và thế rồi một hôm người con đã biến mất khỏi
cung điện. Bạn có cho rằng ông ấy rất hạnh phúc không?
Ông ấy giận thế, giận một cách bạo hành, ông ấy chắc phải
giết Phật Gautam nếu như ông ấy tìm thấy Phật! Cảnh sát
của ông ấy, các thám tử của ông ấy đã sục sạo khắp vương
quốc. "Nó trốn ở đâu thế? Đem nó về cho ta!"
Và Phật biết điều đó, rằng ông ấy sẽ bị thám tử của bố
mình bắt, cho nên điều đầu tiên ông ấy làm là ông ấy đã rời
bỏ biên giới vương quốc của bố mình; trốn sang vương quốc
khác, và trong mười hai năm không ai nghe nói gì về ông
ấy.
Khi ông ấy trở nên chứng ngộ ông ấy quay về nhà để
chia sẻ niềm vui của mình, để nói với người bố rằng, "Tôi
đã về nhà," rằng "Tôi đã nhận ra," rằng "Tôi đã biết chân lí -
và đây là con đường."
Nhưng người bố đã giận thế, ông ấy run bắn người lên -
ông ấy già rồi, rất già. Ông ấy quát Phật và ông ấy nói, "Anh
171
là nỗi ô nhục cho ta!" Ông ấy nhìn Phật - Phật đang đứng đó
trong bộ áo choàng ăn mày với bình bát xin ăn - và ông ấy
nói, "Làm sao anh dám đứng trước ta như đứa ăn mày thế?
Anh là con của một hoàng đế, và trong gia đình chúng ta
không bao giờ có kẻ ăn mày cả! Cha ta đã là hoàng đế, cha
của cha ta cũng là hoàng đế, và trong bốn thế kỉ chúng ta đã
từng là các hoàng đế! Anh đã làm nhục cả dòng dõi kế thừa
này!"
Phật nghe trong nửa giờ, không nói một lời nào. Khi
người bố nói hết cơn, bình thản lại một chút... nước mắt tràn
ra từ mắt ông ấy, nước mắt của giận dữ, thất vọng. Thế rồi
Phật nói, "Ta cầu xin chỉ một ân huệ. Xin lau sạch nước mắt
của ông và nhìn vào ta - ta không phải là cùng người đã bỏ
nhà ra đi, ta đã được biến đổi toàn bộ. Nhưng mắt của ông
đầy nước mắt nên ông không thể thấy được. Và ông vẫn
đang nói với ai đó không còn nữa! Người đó đã chết rồi."
Và điều này làm bột phát cơn giận khác, và người bố
nói, "Anh cố dạy ta sao? Anh cho ta là đồ ngu à? Ta không
thể nhận ra con trai riêng của ta sao? Máu ta đang chảy
trong mạch máu anh - và ta không thể nhận ra anh sao?"
Phật nói, "Xin đừng hiểu lầm ta. Thân thể chắc chắn
thuộc về ông, nhưng tâm thức ta thì không. Và tâm thức ta
là thực tại của ta, không phải thân thể ta. Và ông là đúng ở
chỗ bố ông đã là hoàng đế và bố của ông ấy nữa cũng là
hoàng đế, nhưng như ta biết về bản thân mình, ta đã là kẻ ăn
xin trong kiếp sống quá khứ của ta và ta đã là kẻ ăn xin
trong kiếp trước nữa, bởi vì ta đã từng tìm kiếm chân lí.
Thân thể ta đã tới qua ông, nhưng ông chỉ là lối chuyển qua
mà thôi. Ông đã không tạo ra ta, ông đã là một trung gian,
và tâm thức ta không liên quan gì tới tâm thức của ông. Và
điều ta đang nói là ở chỗ bây giờ ta đã về nhà với tâm thức

172
mới, ta đã trải qua việc tái sinh. Nhìn vào ta đây, nhìn vào
niềm vui của ta đây!"
Và người bố nhìn vào người con trai, không tin nổi điều
người con đang nói. Nhưng một điều là chắc chắn có đó:
rằng ông ấy đã giận thế nhưng người con đã không phản
ứng chút nào. Điều đó đã là tuyệt đối mới - ông ấy biết con
trai của mình. Nếu như anh ta là người cũ, anh ta chắc đã trở
nên giận dữ như người bố hay thậm chí còn hơn, bởi vì anh
ta còn trẻ và máu anh ta nóng hơn máu người bố. Nhưng
anh ta không giận dữ chút nào, có an bình tuyệt đối trên mặt
anh ta, im lặng lớn lao. Anh ta đã không bị rối loạn, không
bị sao lãng bởi cơn giận của người bố. Người bố đã sỉ nhục
anh ta, nhưng điều đó dường như không có ảnh hưởng gì tới
anh ta chút nào.
Ông ấy chùi nước mắt từ đôi mắt già nua, nhìn lần nữa,
thấy sự duyên dáng mới...
Shunya, bố mẹ bạn sẽ thất vọng về bạn bởi vì họ phải
đã cố hoàn thành mong đợi nào đó qua bạn. Bây giờ bạn đã
trở thành một sannyasin, mọi trông đợi của họ đã sụp đổ
trên đất. Một cách tự nhiên họ thất vọng, nhưng đừng trở
nên mặc cảm bởi điều đó, bằng không họ sẽ phá huỷ niềm
vui của bạn, im lặng của bạn, trưởng thành của bạn. Bạn vẫn
còn không bị rối loạn, không lo nghĩ. Đừng cảm thấy bất kì
mặc cảm nào. Cuộc sống của bạn là của bạn và bạn phải
sống theo ánh sáng riêng của mình.
Và khi bạn đã đạt tới cội nguồn của niềm vui, của phúc
lạc bên trong của bạn, đi tới họ để chia sẻ đi. Họ sẽ giận dữ -
đợi đi, bởi vì giận không phải là cái gì thường hằng; nó tới
như mây rồi trôi qua. Đợi đi! đi tới đó, ở cùng họ, nhưng chỉ
khi bạn chắc chắn rằng bạn vẫn có thể bình thản, chỉ khi bạn
biết rằng không cái gì sẽ tạo ra phản ứng trong bạn, chỉ khi

173
bạn biết rằng bạn sẽ có khả năng đáp ứng bằng yêu cho dù
họ giận dữ. Và điều đó sẽ là cách duy nhất để giúp họ.

Bạn nói: họ lo nghĩ mọi lúc.

Đó là việc của họ! Và đừng cho rằng nếu bạn làm theo
các ý tưởng của họ, họ sẽ không lo nghĩ. Họ sẽ vẫn lo nghĩ;
đó là huấn luyện của họ rồi. Bố mẹ họ phải đã lo nghĩ và bố
mẹ của bố mẹ của họ phải đã lo nghĩ; đó là di sản của họ.
Và bạn đã làm họ thất vọng bởi vì bạn không còn lo nghĩ
nữa. Bạn đang đi lạc đường! Họ khổ, bố mẹ họ đã từng khổ,
và cứ như thế mãi... lên tới Adam và Eve! Và bạn đang đi
lạc lối, do đó có lo nghĩ lớn.
Nhưng nếu bạn trở nên lo nghĩ, bạn bỏ lỡ cơ hội, và thế
thì họ đã lôi bạn trở lại cùng vũng bùn. Họ sẽ cảm thấy thoải
mái, họ sẽ vui mừng rằng bạn đã quay lại con đường truyền
thống cũ, theo tục lệ, nhưng điều đó sẽ không giúp ích cho
bạn hay cho họ.
Nếu bạn vẫn còn độc lập, nếu bạn đạt tới hương thơm
của tự do, nếu bạn trở nên mang tính thiền nhiều hơn - và đó
là lí do tại sao bạn lại ở đây: để trở nên mang tính thiền hơn,
im lặng hơn, đáng yêu hơn, phúc lạc hơn - thế thì một ngày
nào đó bạn có thể chia sẻ phúc lạc của bạn. Để chia sẻ trước
hết bạn phải có nó; bạn có thể chia sẻ chỉ cái bạn đã có.
Ngay bây giờ bạn cũng có thể lo nghĩ, nhưng hai người
lo nghĩ đơn giản nhân việc lo nghĩ lên; họ không giúp được
lẫn nhau.

Bạn nói: họ lo nghĩ mọi lúc.

174
Điều đó phải đã trở thành việc huấn luyện của họ rồi.
Đó là việc huấn luyện của mọi người trên thế giới.

Một giáo sĩ được một gia đình đón tiếp, và người đàn
ông chủ gia đình này, bị ấn tượng bởi niềm vinh dự, đã dặn
dò con cái phải cư xử nghiêm chỉnh tại bàn ăn tối bởi vì ông
giáo sĩ vĩ đại đang tới. Nhưng trong quá trình bữa ăn chúng
cười cái gì đó và ông ấy ra lệnh cho chúng ra khỏi bàn ăn.
Thế rồi ông giáo sĩ đứng dậy và chuẩn bị ra đi.
"Có gì sai vậy?" người cha băn khoăn hỏi.
"Thế này," vị giáo sĩ nói, "Tôi cũng cười!"

Bạn đừng lo nghĩ về sự nghiêm chỉnh của họ, về việc lo


nghĩ của họ đối với bạn. Họ đang cố gắng một cách vô ý
thức để làm cho bạn mặc cảm. Đừng để cho họ thành công,
bởi vì nếu họ thành công họ sẽ phá huỷ bạn và họ cũng sẽ
phá huỷ cơ hội cho họ, điều sẽ trở thành có thể qua bạn.

Bạn nói: Họ đã làm cho việc hiệu hữu của tôi ở đây
thành có thể.

Biết ơn về điều đó đi, nhưng không có nhu cầu cảm


thấy mặc cảm.

Cho nên làm sao tôi có thể quay lưng với họ được?

Không có nhu cầu quay lưng lại họ, nhưng cũng không
có nhu cầu làm theo họ. Cứ yêu mến họ đi. Khi bạn thiền,

175
sau từng buổi thiền, nguyện với sự tồn tại rằng "Cái gì đó về
tính thiền của tôi sẽ tới bố mẹ tôi."
Cầu nguyện cho họ, yêu mến họ, nhưng không làm theo
họ. Điều đó sẽ không ích gì cho bạn hay cho họ.

Bạn nói: Tôi nợ cái gì ở bố mẹ tôi?

Bạn nợ điều này: rằng bạn phải là bản thân bạn. Bạn nợ
điều này: rằng bạn phải là phúc lạc, rằng bạn phải là cực lạc,
rằng bạn phải trở thành mở hội lên bản thân bạn, rằng bạn
phải học cười và hân hoan. Đây là điều bạn nợ họ: bạn nợ
họ việc chứng ngộ.
Trở nên được chứng ngộ như Phật Gautam và thế rồi đi
tới bố mẹ bạn để chia sẻ niềm vui của bạn. Ngay bây giờ
bạn có thể làm được gì? Ngay bây giờ không cái gì là có
thể. Ngay bây giờ bạn chỉ có thể cầu nguyện.
Cho nên tôi không nói quay lưng lại họ, tôi nói đừng
làm theo họ, và đây là cách thức duy nhất bạn có thể giúp
được cái gì đó cho họ. Họ đã giúp bạn về mặt vật lí, bạn
phải giúp họ về mặt tâm linh. Điều đó sẽ là cách duy nhất để
đền đáp lại họ.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Tại sao chính tôi cảm thấy đầy sống động chỉ khi
tôi đang trong? Tôi tự nhủ mình rằng tôi phải có
khả năng khuấy động bản thân tôi mà không có
người khác, nhưng tới giờ vẫn không may. Đây có

176
phải trò chơi ngu xuẩn "đợi ông Godot" mà tôi
đang chơi với bản thân tôi? Khi cuộc tình cuối
chấm dứt tôi đã thề với bản thân tôi là tôi sẽ không
để cho cùng quá trình cũ chết yểu xảy ra, nhưng ở
đây tôi cảm thấy nửa sống, chờ đợi cho anh ấy tới.

Prem Idama,
Người ta vẫn còn trong nhu cầu cần tới người khác tới
điểm đó đấy, tới kinh nghiệm đó, khi người ta đi vào cốt lõi
bên trong nhất của riêng mình. Chừng nào người ta chưa
biết tới bản thân mình, người ta vẫn còn có nhu cầu cần tới
người khác. Nhưng nhu cầu cần tới người khác là rất ngược
đời; bản chất của nó là ngược đời.
Khi bạn một mình bạn cảm thấy đơn độc, bạn cảm thấy
thiếu vắng người khác; cuộc sống của bạn dường như chỉ là
một nửa. Nó mất đi niềm vui, nó mất đi luồng chảy, việc nở
hoa; nó vẫn còn không được chăm sóc đủ. Nếu bạn ở cùng
người khác, thế thì vấn đề mới nảy sinh bởi vì người khác
bắt đầu xâm lấn vào không gian của bạn. Người đó bắt đầu
ra điều kiện cho bạn, người đó bắt đầu đòi hỏi các thứ từ
bạn, người đó bắt đầu phá huỷ tự do của bạn - và điều đó
gây tổn thương.
Cho nên khi bạn ở cùng ai đó, chỉ vài ngày khi tuần
trăng mật vẫn còn đó... và bạn càng thông minh, tuần trăng
mật sẽ càng nhỏ bé, nhớ lấy. Chỉ với những người cực ngu
nó mới có thể là chuyện lâu dài; với người không nhạy cảm
nó có thể là dài cả đời. Nhưng nếu bạn thông minh, nhạy
cảm, bạn sẽ sớm nhận ra điều đó, điều bạn đã làm. Người
khác đang phá huỷ tự do của bạn, và bỗng nhiên bạn trở nên
nhận biết rằng bạn cần tự do của bạn bởi vì tự do có giá trị

177
mênh mông. Và bạn quyết định không bao giờ bận tâm tới
người khác.
Lần nữa khi bạn một mình bạn được tự do, nhưng cái gì
đó bị thiếu - bởi vì một mình của bạn không phải là tính một
mình đúng; nó chỉ là tính đơn độc, nó là trạng thái phủ định.
Bạn quên tất cả về tự do. Bạn tự do, nhưng làm gì với tự do
này? Yêu không có đó, và cả hai là nhu cầu bản chất.
Và mãi cho tới nay nhân loại đã sống theo cách điên
khùng tới mức bạn có thể hoàn thành chỉ một nhu cầu thôi:
hoặc bạn có thể tự do, nhưng thế thì bạn phải vứt bỏ ý tưởng
về yêu... Đó là điều các sư và ni của mọi tôn giáo đã từng
làm: vứt bỏ ý tưởng về yêu, bạn tự do; không ai cản trở bạn,
không ai can thiệp vào bạn, không ai đưa ra đòi hỏi nào,
không ai sở hữu bạnu. Nhưng thế thì cuộc sống trở thành
lạnh lẽo, gần như chết.
Bạn có thể đi tới bất kì tu viện nào và nhìn vào các sư
và ni: cuộc sống của họ là xấu. Nó bốc mùi của chết; nó
không mang hương thơm của sống. Không điệu vũ, không
niềm vui, không bài ca. Mọi bài ca đã biến mất, mọi niềm
vui đã chết. Họ tê liệt - làm sao họ có thể nhảy múa được?
Họ bị què quặt - làm sao họ có thể nhảy múa được? Không
có gì để nhảy múa. Năng lượng của họ bị mắc kẹt, họ không
còn tuôn chảy nữa. Để tuôn chảy cần có người khác; không
có người khác, không có tuôn chảy.
Và đa số nhân loại đã quyết định lấy yêu và vứt bỏ ý
tưởng tự do. Thế thì người ta sống như nô lệ. Đàn ông đã
thu đàn bà thành thứ đồ, thứ hàng hoá, và tất nhiên đàn bà
đã làm cùng điều đó theo cách tinh tế riêng của mình: cô ấy
đã làm cho mọi anh chồng thành kẻ sợ vợ.
Tôi đã nghe:

178
Ở New York vài ông chồng sợ vợ liên kết lại với nhau.
Họ lập ra câu lạc bộ để phản đối, để tranh đấu - Phong trào
giải phóng đàn ông, hay cái gì đó kiểu như vậy! Và tất nhiên
họ đã chọn một trong những anh chồng sợ vợ nhiều nhất
làm chủ tịch câu lạc bộ.
Cuộc họp thứ nhất xảy ra, nhưng ông chủ tịch không
bao giờ quay lại. Họ tất cả đều lo nghĩ. Họ tất cả đổ xô về
nhà ông ta và hỏi ông ta, "Có chuyện gì thế? Ông quên mất
à?"
Ông ta nói, "Không, nhưng vợ tôi không cho phép tôi.
Cô ấy nói, 'Anh đi ra, và em sẽ không bao giờ cho phép anh
đi vào nữa!' Tới mức đó thì tôi không thể liều được."

Tôi nghe nói về cửa thiên đường có hai tấm biển - thực
tế có hai cửa. Một tấm biển được viết là: "Những kẻ sợ vợ
đứng ở đây." Đây là cửa cho họ, và cửa kia dành cho vài
người hiếm hoi không sợ vợ. Thánh Peter đã chờ đợi và đợi
mãi đến một hôm nào đó ai đó sẽ biến thành người đứng ở
phía cửa không dành cho kẻ sợ vợ, nhưng không ai đã từng
đứng ở cổng đó.
Một hôm thánh Peter ngạc nhiên: một người đàn ông rất
nhỏ bé, gầy gò, yếu ớt tới và đứng đó. Peter đâm ra phân
vân, ngạc nhiên. Ông ấy hỏi người này, "Ông biết đọc
không?"
Người đó nói, "Có chứ, tôi biết đọc - tôi là tiến sĩ, giáo
sư triết học đây!"
Thế là Peter nói, "Cửa này được ngụ ý dành cho những
người không phải là chồng sợ vợ. Sao ông lại đứng ở đây
khi cả hàng người đang đứng ở cửa bên kia?"

179
Ông ta nói, "Tôi có thể làm gì được? Vợ tôi đã bảo tôi
đứng ở đây! Và ngay cả Thượng đế có nói với tôi, tôi cũng
không thể rời khỏi chỗ này chừng nào vợ tôi chưa cho
phép!"

Đàn ông đã thu đàn bà thành nô lệ và đàn bà đã thu đàn


ông thành nô lệ. Và tất nhiên cả hai ghét sự nô lệ, cả hai
chống lại điều đó. Họ thường xuyên tranh đấu; bất kì cái cớ
nhỏ bé nào và cuộc chiến bắt đầu.
Nhưng tranh đấu thực là ở đâu đó sâu bên dưới; tranh
đấu thực là ở chỗ họ đòi tự do. Họ không thể nói điều đó rõ
ràng thế, họ có thể đã quên mất hoàn toàn. Trong hàng
nghìn năm đây là cách mọi người đã sống. Họ đã thấy bố
mình mẹ mình đã sống theo cùng cách, họ đã thấy ông bà
mình đã sống theo cùng cách... đây là cách mọi người sống -
họ đã chấp nhận nó. Tự do của họ bị phá huỷ.
Dường như chúng ta đang cố bay trong bầu trời bằng
một cánh. Vài người có cánh của tình yêu và vài người có
cánh của tự do - cả hai đều không có khả năng bay. Cả hai
cánh cần có.

Idama, bạn nói: Tại sao chính tôi cảm thấy sống
động tràn đầy chỉ khi tôi đang trong yêu?

Điều đó hoàn toàn tự nhiên, không cái gì sai trong nó.


Đó là cách nó phải vậy. Yêu là nhu cầu tự nhiên; nó giống
như thức ăn. Nếu bạn đói, tất nhiên bạn sẽ cảm thấy không
thoải mái sâu sắc. Không có tình yêu linh hồn bạn bị đói;
yêu là chất nuôi dưỡng cho hồn. Cũng như thân thể cần thức
ăn, nước, không khí, hồn cần tình yêu. Nhưng hồn cũng cần

180
tự do, và một trong những điều kì lạ nhất là chúng ta chưa
chấp nhận sự kiện này.
Nếu bạn yêu, không có nhu cầu phá huỷ tự do của bạn.
Chúng cả hai có thể cùng tồn tại với nhau; không có đối
kháng giữa chúng. Chính vì ngu xuẩn của chúng ta mà
chúng ta đã tạo ra đối kháng. Do đó các sư cho rằng người
thường là ngu, còn người thường sâu bên dưới biết rằng các
sư là ngu - họ bỏ lỡ mọi niềm vui cuộc sống.

Môt tu sĩ lớn được hỏi, "Tình yêu (love) là gì?"


Tu sĩ nói, "Một từ được tạo nên từ hai nguyên âm, hai
phụ âm và hai đứa ngu!"

Đó là sự kết án của họ với tình yêu. Bởi vì mọi tôn giáo


đều lên án tình yêu; họ đã ca ngợi tự do quá nhiều. Ở Ấn Độ
chúng ta gọi kinh nghiệm tối thượng là moksha; moksha
nghĩa là tự do tuyệt đối.

Bạn nói: Tôi tự nhủ mình rằng tôi nên có khả năng
tự khuấy động bản thân tôi mà không có người
khác, nhưng tới giờ vẫn không may.

Nó sẽ còn lại như vậy đấy, nó sẽ không thay đổi đâu.


Bạn đáng ra nên thay đổi ước định của bạn về yêu và tự do.
Yêu người đó, nhưng cho người đó tự do toàn bộ. Yêu
người đó, nhưng từ chính lúc ban đầu làm rõ ràng rằng bạn
không bán tự do của bạn.
Và nếu bạn không thể làm cho điều đó xảy ra được
trong tâm xã này, ở đây cùng tôi, bạn không thể làm cho nó
xảy ra được ở bất kì chỗ nào khác đâu. Đây là chỗ bắt đầu

181
của nhân loại mới. Tất nhiên bây giờ nó chỉ là hạt mầm,
nhưng bạn sẽ sớn thấy nó sẽ phát triển thành cây xum xuê.
Nhưng chúng ta đang thực nghiệm nhiều điều. Một trong
các chiều của thực nghiệm của chúng ta là làm cho yêu và tự
do có thể cùng chung sống, sự cùng tồn tại của chúng với
nhau. Yêu một người nhưng không sở hữu, và không bị sở
hữu. Kiên trì đòi tự do, và không để mất yêu! Không có nhu
cầu. Không có thù địch tự nhiên giữa tự do và yêu; nó là thù
địch bịa đặt. Tất nhiên trong hàng thế kỉ nó đã từng là như
vậy, cho nên bạn đã trở nên quen thuộc với nó; nó đã trở
thành một thứ được ước định.

Một nông dân già ở vùng miền Nam chỉ có thể nói vừa
đủ trên mức thì thào. Nghiêng người qua hàng rào ra phía
đường thôn quê ông ấy quan sát hàng tá cái lưng nhô lên
trong một khoảnh rừng. Cứ vài phút những con lợn lại rống
lên qua kẽ hở trong hàng rào, phóng ngang qua đường sang
khoảnh rừng khác, và lập tức sau đó chạy nhốn nháo trở lại.
"Có chuyện gì với lũ lợn thế nhỉ?" một khách qua
đường hỏi.
"Không có vấn đề gì với chúng cả," lão nông già thì
thào bằng giọng khàn khàn. "Những con lợn đó là của tôi và
trước khi tôi mất giọng tôi vẫn thường gọi chúng lại để cho
ăn. Sau khi tôi mất giọng tôi hay gõ lên hàng rào này bằng
chiếc gậy vào lúc cho ăn."
Ông ấy dừng lại lắc đầu một cách quan trọng. "Còn bây
giờ," ông ấy nói thêm, "lũ chim gõ kiến trên cây kia đã làm
cho những con lợn đáng thương này phát rồ!"

182
Chỉ là ước định! Lũ chim gõ kiến trên cây kia đã làm
cho những con lợn đáng thương này phát rồ - bởi vì khi
chúng gõ vào cây thì lũ lợn xô lại, cứ tưởng rằng đó là lúc
ăn.

Đó là điều đang xảy ra cho nhân loại.

Một trong các đệ tử của Pavlov, người sáng lập ra phản


xạ có điều kiện - người phát hiện ra lí thuyết về phản xạ có
điều kiện - đã thử một thực nghiệm theo cùng lối này. Ông
ấy đã mua một con chó con và quyết định huấn luyện nó
nhổm lên và sủa đòi ăn. Ông ấy giữ thức ăn của con chó
ngay vừa tầm với của nó, sủa vài lần, rồi để thức ăn lên sàn
trước con chó. Ý tưởng là ở chỗ con chó sẽ liên kết việc
nhổm dậy và sủa với việc ăn thức ăn và học làm như vậy khi
đói.
Điều này diễn ra trong một tuần lễ, nhưng con chó nhỏ
vẫn không học được. Sau một tuần nữa người này từ bỏ thực
nghiệm và đơn giản đặt thức ăn xuống trước con chó, nhưng
con chó vẫn từ chối ăn. Nó vẫn đợi ông chủ đứng đấy và
sủa! Bây giờ nó đã trở nên được ước định.

Đó chỉ là ước định, nó có thể bị vứt bỏ. Bạn chỉ cần,


Idama, chút ít tính thiền. Thiền đơn giản nghĩa là quá trình
hoá giải tâm trí. Bất kì cái gì xã hội đã làm đều phải được
hoàn tác lại. Khi bạn được hoá giải bạn sẽ có khả năng thấy
cái đẹp của yêu và tự do cùng nhau; chúng là hai mặt của
cùng một đồng tiền. Nếu bạn thực sự yêu một người bạn sẽ
cho người đó tự do tuyệt đối - đó là món quà của tình yêu.
Và khi có tự do, tình yêu đáp ứng vô cùng. Khi bạn đem tự

183
do cho ai đó bạn đã trao món quà lớn nhất, và tình yêu chạy
xô lại bạn.

Bạn hỏi tôi: Đây có phải trò chơi ngu xuẩn "đợi
ông Godot" mà tôi đang chơi với chính mình?

Không đâu, Idama.

Khi cuộc tình cuối chấm dứt tôi đã thề với bản thân
mình tôi sẽ không để cho cùng quá trình cũ chết
yểu xảy ra, nhưng ở đây tôi lại cảm thấy nửa sống,
chờ đợi cho anh ấy tới.

Nhưng chỉ bằng thề, chỉ bằng quyết định, bạn không thể
thay đổi được bản thân bạn. Bạn phải hiểu. Yêu là nhu cầu
cơ bản, cũng cơ bản như tự do vậy, cho nên cả hai phải được
đáp ứng. Và người tràn đầy yêu và tự do là hiện tượng đẹp
nhất trên thế giới. Và khi hai người của cái đẹp như vậy gặp
nhau, mối quan hệ của họ không phải là mối quan hệ chút
nào. Nó là việc quan hệ. Nó là luồng chảy thường hằng, tựa
dòng sông. Nó liên tục phát triển hướng tới những đỉnh cao
lớn hơn.
Chiều cao tối thượng của yêu và tự do là trải nghiệm về
Thượng đế. Trong Thượng đế bạn sẽ tìm thấy cả hai: yêu vô
cùng, yêu tuyệt đối, và tự do tuyệt đối.

Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi,

184
Sao thầy không chán khi thầy kể cùng câu chuyện
và cùng chuyện cười?

Divakar Bharti này,


Điều đầu tiên cần được hiểu là ở chỗ Divakar Bharti là
người Ấn Độ, và người Ấn Độ tuyệt đối không có khả năng
hiểu chuyện cười! Họ không có bất kì chuyện cười nào ở Ấn
Độ. Tôi không bắt gặp một chuyện cười Ấn Độ nào. Người
Ấn Độ là người nghiêm trang - người tâm linh, người tôn
giáo! Họ chỉ nói về những điều lớn lao: Thượng đế, cõi trời,
địa ngục, lí thuyết về nghiệp và tái sinh.
Khi bạn kể chuyện cười cho một người Ấn Độ người đó
cảm thấy bị xúc phạm... bạn thấy không? Người đó cảm
thấy bị xúc phạm, bị sỉ nhục! Bạn nhìn vào mặt người đó -
người đó cảm thấy lúng túng. Nói về cái gì đó bí truyền -
nói chuyện tầm phào cho người đó! - và thế thì người đó
hoàn hoàn hạnh phúc. Người đó không bao giờ cười, người
đó không thể cười được; tiếng cười ở bên ngoài người đó.
Người đó đã quên mất tiếng cười.
Đó là lí do tại sao, Divakar, câu hỏi này đã nảy sinh
trong bạn. Bằng không từng chuyện cười, trong các hoàn
cảnh khác nhau, là khác nhau. Chuyện cười trong bản thân
nó có thể là một chuyện cũ - và thực ra, không có chuyện
cười mới trong thế giới này. Câu ngạn ngữ rằng không có gì
mới dưới mặt trời có thể không đúng về những điều khác,
nhưng với chuyện cười nó tuyệt đối đúng. Nếu Adam và
Eve quay lại trái đất, họ sẽ nhận ra chỉ toàn chuyện cười chứ
không gì khác! Cùng những chuyện cười đó, nhưng hoàn
cảnh liên tục thay đổi, và trong hoàn cảnh khác cùng chuyện
cười đó có ý nghĩa khác.

185
Nhưng bởi vì bạn không thể hiểu được các chuyện cười
nên bạn phải cảm thấy chán.

G.C. Lichtenberg có một phát biểu sâu sắc. Ông ấy nói:


Một người để lộ tính cách của mình không gì rõ ràng hơn
khi những chuyện cười làm người đó bực tức.

Tôi đã nghe:
Chuyện kể rằng: Cá trang nghiêm nhất là con hàu, chim
trang nghiêm nhất là con cú, con vật trang nghiêm nhất là
con lừa, và con người trang nghiêm nhất là người ngu Ấn
Độ.

Có những người ngu đủ mọi loại, họ tới theo đủ hình


dáng và kích cỡ, nhưng người Ấn Độ là nhất! Từng giống
nòi phản ứng, đáp ứng khác nhau với chuyện cười...

Nếu bạn kể chuyện cười cho người Đức, người đó cười


một lần, chỉ để có lịch sự. Nếu bạn kể cùng câu chuyện đó
cho người Pháp người đó cũng cười một lần bởi vì người đó
hiểu ngay lập tức. Nếu bạn kể cùng câu chuyện đó cho
người Anh người đó cười hai lần: lần thứ nhất để cho có lịch
sự, và lần thứ hai vào nửa đêm khi người đó hiểu ra. Nếu
bạn kể cùng câu chuyện đó cho người Mĩ người đó cười,
nhưng không to, và nói rằng "Tôi đã nghe nó trước đây rồi!"
Nếu bạn kể cùng câu chuyện đó cho người Do Thái, thay vì
cười người đó nói, "Chuyện cười đấy cũ rồi, mà thêm vào
đó, anh kể nó sai tuốt! "

186
Và tôi không cảm thấy chán bởi vì tôi không thể cảm
thấy chán được - điều đó đơn giản là không thể được với tôi.
Tôi đã hoàn toàn quên mất cách cảm thấy chán! Bạn có thể
liên tục kể cho tôi cùng chuyện cười lặp đi lặp lại và tôi bao
giờ cũng tìm ra nghĩa mới nào đó, sắc thái mới nào đó, mầu
sắc mới nào đó, chiều hướng mới nào đó cho nó, nhưng tôi
không thể cảm thấy chán được bởi vì tôi không còn nữa. Để
cảm thấy chán bạn cần bản ngã; chính bản ngã cảm thấy
chán. Khi bản ngã không còn nữa, không thể cảm thấy chán
được.

Một bà già chất phác có một con bò bị ốm. Trong cơn


thất vọng bà ấy mời giáo sĩ tới cầu nguyện cho con bò khỏi
ốm.
Để an ủi người đàn bà tội nghiệp, viên giáo sĩ đi quanh
con bò ba lần vừa niệm, "Nếu nó chết, nó chết, nhưng nếu
nó sống, nó sống." May mắn sao con bò phục hồi lại được.
Một thời gian sau ông giáo sĩ bị ốm và người đàn bà
này, nhớ lại cách ông ấy đã chữa trị cho con bò của mình, đã
tới thăm ông ấy. Bà ấy bước quanh giường của ông ấy ba
lần, long trọng lặp lại, "Nếu ông ấy chết, ông ấy chết, nếu
ông ấy sống, ông ấy sống." Thế rồi ông giáo sĩ buột ra tiếng
cười như nắc nẻ mà sớm đưa ông ấy tới phục hồi.

Tôi không thể cảm thấy chán được - tôi không còn đó
nữa. Và tôi không nhớ tôi đã nói gì với bạn ngày hôm qua,
cho nên làm sao tôi có thể kể cùng câu chuyện cười được?
Nó không bao giờ là cùng một chuyện cả, nó không thể thế
được. Tôi không bao giờ nhớ điều tôi đã nói, và tôi đã kể
cho mọi người cả nghìn điều trong tất cả hai mươi nhăm
năm qua.

187
Tôi không bao giờ đọc bất kì cuốn sách nào của tôi, tôi
không bao giờ nghe bất kì bài giảng nào của tôi - sao tôi
cảm thấy chán được?
Nhưng Divakar, bạn ở chỗ sai ở đây rồi. Đây không
phải là chỗ cho những người nghiêm chỉnh như bạn! Bạn
nên tìm tu viện Hindu cổ nào đó.

Người đàn ông hơi đỏ bé thức dậy, vén tấm rèm hơi đỏ
lên và nhìn ra mặt trời mọc hơi đỏ. Anh ta đi tắm trong
phòng tắm hơi đỏ, mặc bộ quần áo hơi đỏ và rời ngôi nhà
hơi đỏ của mình. Chui vào chiếc xe hơi đỏ, anh ta lái xe qua
thị trấn hơi đỏ tới khối nhà văn phòng hơi đỏ. Tại đó anh ta
vào thang máy hơi đỏ lên tầng thứ mười, bước dọc theo
hành lang hơi đỏ và đi vào văn phòng hơi đỏ của mình. Anh
ta ngồi xuống chiếc bàn làm việc hơi đỏ và đọc tờ báo hơi
đỏ. Quyết định rằng cuộc sống của mình quá chán không
nên sống thêm nữa, anh ta rút ra một con dao hơi đỏ và cắt
vào cổ tay hơi đỏ của mình.
Mười phút sau cô thứ kí hơi đỏ của anh ta bước vào văn
phòng hơi đỏ và thấy ông chủ hơi đỏ của mình ngập trong
máu hơi đỏ. Cô ấy vớ lấy chiếc điện thoại hơi đỏ và gọi tới
bệnh viện hơi đỏ. Một chiếc xe cứu thương hơi đỏ sớm chạy
tới. Các nhân viên y tế hơi đỏ chạy xô vào văn phòng hơi
đỏ, đặt người đàn ông hơi đỏ lên chiếc cáng hơi đỏ và chạy
qua thị trấn hơi đỏ tới bệnh viện hơi đỏ. Họ nhanh chóng
đem người đàn ông hơi đỏ vào phòng mổ hơi đỏ và đặt anh
ta trên chiếc bàn hơi đỏ.
Một phút sau cánh cửa vào phòng mổ hơi đỏ mở ra và
một người hơi xanh bước vào. "Xin lỗi!" anh ta nói. "Tôi
dường như đã bước vào chuyện cười nhầm!"

188
Đây không phải là chỗ cho bạn - thế giới hơi đỏ, và bạn
là người xanh ở đây! Bạn đã bước vào chuyện cười nhầm,
Divakar - bước ra đi!

Câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Làm sao thầy bao giờ cũng tìm ra những cái tên
mới cho các sannyasin của thầy?

Prem Pramod,
Đấy là bí mật!

Hai người đàn bà đang xem những cuốn sách mới về


trong hiệu sách. Một người đàn bà rất quan tâm tới một
cuốn sách; tựa đề của cuốn sách đó là: Cách hành hạ chồng.
Bà ta bảo người đàn bà kia, "Trông cuốn sách này! Tôi sẽ
mua nó! Chị có quan tâm tới nó không?"
Người đàn bà kia nói, "Không, tôi có hệ thống riêng của
tôi!"

Tôi cũng có hệ thống riêng của tôi, nhưng tôi không thể
nói cho bạn được! Chắc chắn tôi đã cho nhiều tên hơn bất kì
ai đã cho tên trong toàn bộ lịch sử - gần hai trăm nghìn
sannyasins có đó trên thế giới này! - nhưng hệ thống của tôi
là ở chỗ tôi có thể cho tên cho toàn thể nhân loại.

189
Một cậu bé da đỏ hỏi bố nó, "Bố ơi,cách bố đặt tên cho
đứa trẻ mới là như thế nào? Tên của bố là Ngựa Đen, tên
của mẹ là Trâu, tên của bác là Mây Trắng - làm sao bố xoay
xở tìm ra cái gì là tên đúng cho người mới tới, con mới?"
Ông bố nói, "Chuyện đó khó gì - chúng ta có hệ thống
rồi. Bất kì khi nào một đứa con được sinh ra, thành viên cao
tuổi nhất trong gia đình - ông, bà hay bố - đi ra khỏi nhà, và
bất kì cái gì người đó thấy đầu tiên... Chẳng hạn khi ông đi
ra ngoài và thấy một con ngựa đen; đó là cách bố đã được
đặt tên là Ngựa Đen. Nhưng sao con hỏi, hở Hai chó đéo?"

Đó là tên cậu bé ấy!


Tôi có hệ thống riêng của tôi, nhưng tôi không thể nói
cho bạn được!

Mới đêm hôm nọ tôi đã trao tính chất sannyas cho một
người đàn bà đẹp; tên cô ấy là Diotima. Tôi đã gọi cô ấy là
Dhyan Diotima. Diotima là cái tên huyền thoại: trong huyền
thoại Hi Lạp Diotima là nữ tu sĩ của tình yêu hay thần ái
tình. Nhưng nó cũng có thể được suy dẫn từ một gốc khác
nữa, diota; và diota nghĩa là cái bình có cổ và hai tay cầm.
Cho nên tôi đã bảo người phụ nữ này rằng "Đây là tình
huống của bạn ngay bây giờ: chiếc bình có cổ và hai tay
cầm. Đó là điều đàn bà tất cả là gì! Nhưng qua thiền bạn có
thể trở thành nữ tu sĩ của tình yêu; biến đổi đó là có thể.
Bằng không bạn sẽ vẫn chỉ là cái bình có cổ và hai tay
cầm!"
Điều đó không khó lắm, và tôi càng cho nhiều tên, điều
đó càng trở nên dễ dàng hơn, bởi vì tôi đã trở nên thiện nghệ
hơn! Tôi có thể tìm ra cách nào đó, hoặc từ gốc của từ... và

190
có những gốc khác nhau; ngay trong một ngôn ngữ một từ
cũng đã ngụ ý nhiều điều. Đôi khi một từ có các gốc khác
nhau trong các ngôn ngữ khác nhau: trong ngôn ngữ này nó
ngụ ý điều này, trong ngôn ngữ khác nó ngụ ý điều khác. Và
rất dễ có thể chơi chữ, và tên không là gì ngoài trò chơi.
Tôi cho bạn cái tên chỉ để làm cho bạn cảm thấy rằng
tên là không quan trọng. Tên cũ của bạn đơn giản có thể
biến mất bởi vì nó chỉ là cái nhãn, nó có thể được thay đổi.
Bạn không phải là cái tên. Nhất quyết sự kiện này, nhấn
mạnh sự kiện này lên tâm thức của bạn, rằng cái tên không
phải là thực tại của bạn...
Mọi đứa trẻ tới thế giới này đều không có tên, nhưng
chúng ta phải cho một cái tên; cái tên có sự tiện dụng nào
đó. Nó tuyệt đối là giả, nhưng trong thế giới bao la với hàng
triệu người sẽ khó quản lí nếu không ai có tên gì; gần như
không thể quản lí được. Cái tên nào đó là cần thiết; chúng là
giả, nhưng chúng có tác dụng, chúng có sự tiện dụng. Chúng
không có thực tại, nhưng chắc chắn chúng có sự tiện dụng.
Nhưng thông thường bạn lớn lên cùng cái tên của bạn;
thực ra, bạn trở nên ý thức chỉ mãi về sau. Cái tên của bạn là
sâu hơn tâm thức bạn, do đó nảy sinh sự đồng nhất với cái
tên. Bạn bắt đầu cảm thấy, "Đây là tên mình, đây là mình."
Khi bạn trở thành sannyasin tôi muốn phá bỏ đi sự đồng
nhất đó, bởi vì đây là việc bắt đầu của việc phá huỷ mọi sự
đồng nhất. Trước hết tôi phá huỷ sự đồng nhất với cái tên,
thế rồi sự đồng nhất với thân thể, thế rồi sự đồng nhất với
tâm trí, thế rồi sự đồng nhất với tâm. Khi mọi sự đồng nhất
này đã bị phá bỏ bạn sẽ có khả năng biết bạn là ai: không
danh tính, không tên tuổi, vô hình dạng, không xác định. Và
đó là nhân chứng thuần khiết duy nhất trong bạn; không cái
gì có thể được nói về nó cả, không lời nào là thích hợp để
giải thích nó.
191
Do đó tôi đã đổi tên - cho bạn sự cắt đứt, cho bạn ý
tưởng rằng cái tên chỉ là một thứ được trao cho. Tên cũ của
bạn biến mất, tên mới trở thành thực tại của bạn, nhưng bây
giờ bạn sẽ không bị đồng nhất nhiều nữa bởi vì bây giờ bạn
trưởng thành hơn. Cái tên đầu tiên đã được trao cho bạn khi
bạn còn là đứa trẻ nhỏ; bạn không nhận biết. Bây giờ bạn đã
có chút ít nhận biết rồi. Và bằng việc trở thành sannyasin
bạn đang trở nên cam kết ngày một nhiều hơn với nhận biết,
với cuộc sống của việc chứng kiến mà trong đó mọi sự đồng
nhất đều phải bị vứt bỏ.
Con người là tuyệt đối tự do chỉ khi không sự đồng nhất
nào còn lại. Bạn không là người Ki tô giáo, không là người
Hindu giáo không là người Mô ha mét giáo; bạn không là
người Ấn Độ không là người Nhật Bản không là người Đức;
bạn không là đàn ông không là đàn bà. Bạn chỉ là tâm thức
thuần khiết, và tâm thức đó là vĩnh hằng. Upanishad đang
nói về tâm thức đó.
Điều duy nhất cần được học trong giao cảm với Thầy là
nhân chứng đó, người quan sát đó, người thấy đó, người
quan sát trên núi đó, người ở bên ngoài mọi sự việc. Mọi thứ
không đạt được tới nó, cái mang tính siêu việt. Để biết tới
thực tại siêu việt đó của bạn tôi bắt đầu bằng việc đổi tên
bạn; đó chỉ mới là việc rút đi một viên gạch khỏi cái dinh
thự giả của bạn. Và thế rồi nếu bạn cho phép tôi lấy ra một
viên gạch, tôi sẽ liên tục lấy tiếp các viên gạch khác. Tôi đổi
quần áo của bạn chỉ để cho bạn sự gián đoạn với quá khứ.
Bạn phải trở nên gián đoạn với quá khứ. Chừng nào bạn
chưa làm chết đi quá khứ, bạn không thể được tái sinh, bạn
không thể ở đây bây giờ. Quá khứ phải hoàn toàn bị vứt bỏ
và quên đi - nó đã là mơ, không gì hơn - và từ quá khứ nảy
sinh ra tương lai. Nếu quá khứ bị vứt bỏ, tương lai biến mất.
Thế thì thực tại duy nhất là bây giờ và ở đây. Và ở đây và

192
bây giờ, tuyệt đối ở đây và bây giờ, là biết mọi điều đáng
biết, là sống thực cuộc sống chân thực, đích thực, cuộc sống
tràn đầy chân lí và phúc lạc và tính thượng đế.

193
194
7. Từng khoảnh khắc -
Phép màu!

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Người đã chứng ngộ có thể sai được không? Điều
này nhắc tới điều thầy đã nói cho chúng tôi về J.
Krishnamurti, người thường xuyên nói rằng người
ta không cần Thầy, mà thực tế là không đúng. Xin
thầy bình luận.

Prem Pantha,
Người đã chứng ngộ không bao giờ có thể sai được. J.
Krishnamurti không sai, nhưng ông ấy không bao giờ xem
xét tới tình huống bạn đang hiện hữu. Ông ấy xem xét chỉ
mỗi không gian ông ấy đang hiện hữu, và tự do đó là một
phần của chứng ngộ.
Người chứng ngộ đã đạt tới đỉnh cao nhất của tâm thức;
chỗ của người đó là ở trên đỉnh Everest. Bây giờ chính tự do

195
của người đó là nói tương ứng với đỉnh đó, đỉnh đầy ánh
mặt trời nơi người đó hiện hữu, hay quan tâm đến những
người vẫn còn trong thung lũng tối tăm, người không biết gì
về ánh sáng, với những người đó đỉnh Everest chỉ là mơ, chỉ
là "điều có thể". Đây là tự do của người đã chứng ngộ.
Krishnamurti nói theo lời ở chỗ ông ấy hiện hữu.
Tôi nói theo lời ở chỗ bạn hiện hữu, tôi quan tâm tới
bạn, bởi vì nếu tôi nói với bạn, bạn phải được tính tới. Tôi
phải dẫn bạn hướng tới đỉnh cao nhất, nhưng cuộc hành
trình sẽ bắt đầu từ trong thung lũng tối tăm, trong tâm thức
của bạn. Nếu tôi nói về kinh nghiệm của tôi, tuyệt đối không
đếm xỉa gì tới bạn, tôi vẫn đúng, nhưng tôi không hữu dụng
cho bạn.
Người chứng ngộ không bao giờ sai, nhưng người đó có
thể hữu dụng hay người đó có thể vô dụng.
J. Krishnamurti là vô dụng! Ông ấy hoàn toàn đúng; về
điều đó thì không có vấn đề gì, bởi vì tôi biết đỉnh đó và
điều ông ấy đang nói chắc chắn là đúng - từ cái nhìn của
đỉnh đó. Những người đã đạt tới, với họ cuộc hành trình trở
thành gần như hiện tượng mơ. Với những người chưa đạt tới
cuộc hành trình là thực, mục đích chỉ là mơ. Họ đang sống
trong hai thế giới khác nhau. Khi bạn nói với người điên bạn
phải quan tâm tới người đó; nếu bạn không quan tâm tới
người đó, bạn không thể giúp người đó được.

Có lần một người điên được đưa tới tôi. Anh ta có ý


tưởng quái dị là một buổi trưa khi anh ta đang ngủ, một con
ruồi đã chui vào mồm anh ta. Và bởi vì anh ta thường ngủ
há mồm, nên không ai có thể phủ nhận được khả năng này.
Và từ đó trở đi anh ta bị rất bối rối bởi vì con ruồi bay vẩn
vơ bên trong anh ta, nhảy nhót bên trong anh ta, chuyển vào

196
trong bụng anh ta, chuyển tới bàng quang, tuần hoàn theo
dòng máu, đôi khi chui cả vào đầu, đôi khi xuống tận chân.
Và tất nhiên anh ta không thể nào làm được gì bởi vì anh ta
liên tục bị bận tâm, bị ám ảnh bởi con ruồi này.
Anh ta đã được đem tới các nhà phân tâm và họ nói,
"Điều này chỉ có trong tâm trí anh thôi - làm gì có ruồi! Và
không con ruồi nào có thể di chuyển được trong dòng máu
của anh, không có khả năng nào. Cho dù ruồi có chui vào nó
phải đã chết rồi! Và bây giờ sáu tháng đã trôi qua; nó không
thể sống được trong anh."
Anh ta nghe, nhưng anh ta không thể nào tin được điều
đó bởi vì kinh nghiệm của anh ta là vững chắc hơn nhiều.
Anh ta đã được đưa tới các bác sĩ và mọi người khám cho
anh ta và họ đã làm mọi điều, nhưng cuối cùng họ đều nói,
"Đấy chỉ là vấn đề tâm trí. Anh đang tưởng tượng đấy thôi."
Anh ta sẽ nghe điều họ nói, nhưng anh ta không thể tin cậy
được bởi vì kinh nghiệm của anh ta là chắc chắn hơn lời của
họ nhiều.
Gia đình anh ta đem anh ta tới tôi xem như phương sách
cuối cùng. Người này trông rất mệt mỏi bởi vì anh ta đã
được đem tới người này, rồi tới người nọ, rồi mọi loại bác sĩ
điều trị - đối trị liệu pháp và vi lượng liệu pháp và tự nhiên
liệu pháp - và anh ta đã thực sự mệt mỏi. Ngay chỗ đầu tiên
con ruồi làm cho anh ta mệt mỏi, và bây giờ đủ mọi thứ
"liệu pháp", thuốc thang này. Và mọi người đều xúc phạm
anh ta - rằng đó chỉ là cảm giác của anh ta, rằng họ đang nói
rằng anh ta chỉ hoang tưởng. Anh ta có ngu hay điên không,
mà anh ta đi tưởng tượng ra điều như vậy? Họ tất cả làm
anh ta mất mặt - đó là cảm giác của anh ta.
Tôi nhìn người này và tôi nói, "Quá rõ ràng là con ruồi
đang ở bên trong!"

197
Anh ta sững sờ một chốc. Anh ta không thể nào tin nổi
vào tôi, vì không ai đã từng nói điều đó cho anh ta - bởi vì
không ai quan tâm tới anh ta. Và họ tất cả đều đúng còn tôi
sai - làm gì có ruồi, nhưng người điên phải được quan tâm
tới.
Và tôi nói, "Tất cả lũ ngốc kia làm phí thời gian của
anh; anh đáng ra nên đến đây trước tiên. Lôi con ruồi đó ra
là việc đơn giản thế; không cần phải bận tâm. Thuốc không
ích gì - anh đâu có ốm. Phân tâm sẽ không ích gì - anh đâu
có điên."
Và ngay lập tức anh đã là một người được thay đổi!
Anh ta nhìn vợ và nói, "Bây giờ em nói gì? Đây mới là
người đúng," anh ta nói, "người thực biết. Và tất cả lũ ngốc
kia đều cố gắng thuyết phục anh rằng không có ruồi. Nó có
đây này!"
Tôi nói với anh ta rằng, "Đơn giản lắm - chúng tôi sẽ
lấy nó ra. Anh nằm ra đi."
Tôi đắp chăn lên anh ta và bảo anh ta nhắm mắt lại và
"Tôi sẽ đọc mật chú nào đó, làm phép thuật nào đó, và
chúng ta sẽ mang con ruồi ra. Anh chỉ việc yên lặng để cho
con ruồi đậu lại đâu đó. Bằng không chú ruồi này liên tục
liên tục chạy - bắt nó ở đâu được?"
Anh ta nói, "Điều đó có vẻ logic quá đi rồi. Tôi sẽ giữ
tuyệt đối tĩnh lặng!"
Và tôi nói, "Đừng có mở mắt ra đấy. Cứ im lặng, thở
chậm, để cho con ruồi đậu lại đâu đó, thế là chúng ta có thể
tóm được nó!"
Rồi tôi chạy xô vào trong nhà tìm ruồi. Điều đó có chút
ít khó khăn vì lần đầu tiên tôi thử làm việc đó, nhưng cuối
cùng tôi cũng thành công - tôi đã bắt được một con ruồi vào

198
cái lọ. Và tôi đi tới người này. Tôi huơ tay lên người anh ta,
và tôi hỏi anh ta, "Con ruồi ở đâu?" Và anh ta nói, "Ở trong
bụng." Còn tôi chạm vào bụng anh ta và tôi nói, "Dĩ nhiên
nó ở đó rồi!" Và tôi thuyết phục anh ta rằng tôi hoàn toàn tin
tưởng vào anh ta và rồi tôi mở chăn ra và chỉ cho anh ta con
ruồi.
Và anh ta nói với vợ, "Bây giờ thấy chưa! Và xin thầy
cho tôi cái lọ này; tôi sẽ đi tới tất cả lũ ngốc kia và đòi lại
mọi phí tổn mà họ đã lấy của tôi! Tôi đã lãng phí hàng nghìn
rupi, và mọi điều họ đã làm là họ bảo tôi là thằng điên! Còn
bây giờ tôi không cảm thấy ruồi ở đâu cả, bởi vì nó đang ở
trong chiếc lọ này!"
Anh ta lấy chiếc lọ, anh ta đi tới các bác sĩ.
Một trong các bác sĩ biết tôi, ông ta tới gặp tôi. Ông ta
nói, "Anh xoay xở thế nào vậy? Con ruồi có thể sống được
sáu tháng trong thân thể sao? Và người kia đã đòi tôi trả lại
tiền chữa bệnh, bởi vì anh ta đã làm nhặng xị lên đến mức
tôi nói, 'Tốt hơn cả là trả lại tiền cho anh ta!' Và anh ta đã
chứng minh rằng anh ta đúng!"
Tôi nói, "Ai đúng không phải là vấn đề."

Phật Gautam định nghĩa chân lí là "cái có tác dụng".


Đây là định nghĩa thực chứng cổ đại nhất về chân lí: "cái có
tác dụng"! Mọi phương cách là chân lí theo nghĩa này:
chúng có tác dụng; chúng chỉ là phương cách. Công việc
của Phật là upaya; upaya đích xác nghĩa là phương cách.
Thiền là một upaya, một phương cách. Nó đơn giản
giúp bạn gạt bỏ cái bạn đã không có ngay chỗ đầu tiên - con
ruồi: bản ngã, khổ, phiền não! Nó giúp bạn tự do khỏi bản

199
ngã, nhưng thực tế bản ngã không có đó. Nhưng điều đã
không được nói...
Và Krishnamurti đã từng làm điều đó: ông ấy đã nói
cho những người khùng rằng con ruồi không tồn tại và bạn
không cần bác sĩ nào. Tôi nói với bạn: con ruồi tồn tại và
bạn cần bác sĩ! Bởi vì chỉ nói với bạn rằng con ruồi không
tồn tại sẽ không giúp gì cho bạn chút nào.
Trong hàng nghìn năm bạn đã được bảo bản ngã không
tồn tại. Điều đó có giúp đỡ bạn theo cách nào không? Đã có
những người từng nói, đặc biệt là trong nước này, rằng cả
thế giới này là ảo vọng, maya, nó không tồn tại, nhưng điều
đó đã giúp gì cho Ấn Độ theo bất kì cách nào không? Phép
kiểm thử đúng có đó: liệu nó có giúp ích không, liệu nó có
làm cho mọi người đích thực hơn, chân thực hơn không. Nó
đã không giúp ích chút nào. Nó đã làm cho mọi người tinh
ranh, chia chẻ, tinh thần phân liệt sâu sắc hơn; nó đã làm
cho họ thành đạo đức giả.
Mọi tôn giáo đã làm điều này, bởi vì họ không quan tâm
tới bạn. Và bạn là quan trọng hơn chân lí tối thượng rất
nhiều, bởi vì chân lí tối thượng không liên quan gì tới bạn
ngay bây giờ. Bạn đang sống trong thế giới mơ; phương
cách nào đó là cần để có thể giúp bạn thoát ra khỏi nó.
Khoảnh khắc bạn thoát ra khỏi nó, bạn sẽ biết nó là mơ -
nhưng một người đang mơ, bảo người đó rằng đấy tất cả là
mơ là điều vô nghĩa.
Bạn chưa từng quan sát trong mơ của bạn rằng khi bạn
mơ nó có vẻ thật vậy sao? Và mọi sáng bạn đều thấy rằng
nó không thật, nhưng đến đêm bạn lại quên mất mọi hiểu
biết của bạn trong ngày - mơ trở thành thực. Điều đó diễn đi
diễn lại mãi: mọi đêm mơ trở thành thực, mọi sáng bạn biết
nó là giả, nhưng việc biết đó không giúp ích gì. Trong mơ
người ta thậm chí có thể mơ rằng đây là mơ.
200
Và đó là điều đã xảy ra ở Ấn Độ: mọi người đang sống
trong maya, sâu trong nó, và vẫn nói rằng "Đây tất cả là
maya." Và việc nói này nữa cũng là một phần của mơ của
họ; nó không phá huỷ mơ. Thực tế nó làm cho mơ bắt rễ
hơn vào họ, bởi vì bây giờ không có nhu cầu gạt bỏ nó - bởi
vì nó là mơ! Cho nên sao gạt bỏ nó? Điều đó không thành
vấn đề.
Theo một cách tinh vi mọi tôn giáo đều đã làm điều
này: họ đã nói từ những đỉnh cao nhất cho những người mà
đỉnh đó chưa tồn tại. Những người này đang sống trong
bóng tối, và bạn liên tục bảo họ rằng bóng tối không có sự
tồn tại. Điều đó là đúng - bóng tối không có sự tồn tại, nó
chỉ là việc thiếu ánh sáng - nhưng chỉ bằng việc nói cho mọi
người rằng bóng tối không có sự tồn tại không đem được
ánh sáng vào.
Đó là điều Krishnamurti đang làm; nó đã được nhiều
người làm rồi. Nagarjuna đã làm điều đó - Krishnamurti
không phải là mới, ít nhất không mới ở phương Đông.
Nagarjuna đã làm điều đó: ông ấy nói, "Mọi vật là giả. Thế
giới này là giả, bản ngã là giả, không cái gì tồn tại. Bởi vì
không cái gì tồn tại nên ông đã tự do rồi. Không có nhu cầu
về bất kì cách thiền nào, không có nhu cầu về Thầy nào.
Không có nhu cầu tìm ra bất kì phương cách nào, chiến lược
nào, kĩ thuật nào, bởi vì ngay chỗ đầu tiên không có vấn đề.
Sao đi tìm giải pháp? Những giải pháp đó sẽ tạo ra nhiều
vấn đề hơn; chúng sẽ không giúp ích."
Nagarjuna đã làm điều đó; trước Nagarjuna,
Mahakashyap đã làm điều đó, và điều đó đã là một truyền
thống lâu dài. Thiền nhân đã từng nói cùng điều đó hàng thế
kỉ. Krishnamurti không bao giờ dùng từ "Zen", nhưng bất kì
cái gì ông ấy nói tới đều không là gì ngoài thiền Zen - Zen
đơn giản.

201
Thiền nói vô nỗ lực là cần thiết, không cái gì phải được
làm. Khi không cái gì phải được làm, cần gì tới Thầy? - bởi
vì Thầy sẽ bảo bạn làm cái gì đó. Không cái gì phải được
làm cả - cần gì tới kinh sách? - bởi vì kinh sách sẽ bảo bạn
làm điều gì đó, biết cái gì đó. Không cái gì phải được làm,
không cái gì phải được biết. Bạn đã ở đó rồi nơi bạn đang cố
gắng đạt tới.
Và tôi biết điều này là đúng, nhưng nói về chân lí tối
thượng này cho những người đang sống trong bóng tối là vô
tích sự.
Prem Pantha, không người chứng ngộ nào có thể sai,
nhưng chỉ vài người chứng ngộ giúp đỡ. Đa số những người
chứng ngộ đã không giúp ích chút nào, bởi lẽ đơn giản vì họ
không bao giờ quan tâm tới người khác.
Trong thực tế, George Gurdjieff hay nói, "Không quan
tâm tới người khác." Đó là một trong những giáo huấn cơ sở
của ông ấy: "Không quan tâm tới người khác. Chỉ nói điều
tuyệt đối đúng." Nhưng chân lí tuyệt đối là chân lí chỉ khi
được trải nghiệm; mọi người đang sống trong chân lí tương
đối.
Cách tiếp cận của tôi khác với cách của Krishnamurti.
Tôi biết rằng một ngày nào đó bạn sẽ đi tới điểm mà không
cần cái gì nữa - không Thầy, không giáo huấn, không kinh
sách - nhưng ngay bây giờ kinh sách có thể giúp ích,
phương pháp có thể giúp ích, và chắc chắn một Thầy sống
có thể có giúp ích mênh mông.
Chức năng của Thầy là để cho bạn cái bạn đã có rồi và
lấy đi cái bạn không có chút nào.

202
Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Jesus, Phật, Krishna v.v.. chắc chắn đã là những
Thầy chứng ngộ. Nhưng Phật giáo, Hindu giáo, Ki
tô giáo và bất kì cái gì đã phát triển từ họ, đã
không liên quan gì mấy tới các ý tưởng của các
Thầy này. Osho ơi,tôi chắc thầy là một Thầy chứng
ngộ nữa, nhưng chúng ta có thể làm được gì, hay
cái gì có thể làm để ngăn cản Osho giáo?

Hermann,
Không cái gì có thể được làm chút nào, và đừng phí
thời gian của bạn. Bất kì cái gì đã xảy ra là tự nhiên. Ki tô
giáo nhất định xảy ra, điều đó là không tránh khỏi. Khi một
người như Christ bước đi trên thế gian ông ấy sẽ để lại dấu
chân trên cát của thời gian, và mọi người sẽ tôn thờ những
dấu chân đó. Ki tô giáo không là gì ngoài việc tôn thờ
những dấu chân đó; nó không dẫn bạn tới đâu. Nhưng nó
nhất định xảy ra.
Điều đó là không tránh khỏi cũng như việc sinh ra đứa
trẻ đem chết tới; bạn không thể tránh được chết. Nếu đứa trẻ
được sinh ra, chết nhất định xảy ra. Và tất nhiên chúng ta đã
biết rằng biết bao nhiêu người đã được sinh ra trước đây và
biết bao nhiêu người đã chết, cho nên khi con bạn được sinh
ra bạn có thể cố làm cái gì đó để nó không cần chết. Điều đó
là không thể được - sinh đem tới tử.
Khi một Thầy sống có đó, sớm hay muộn Thầy sẽ qua
đời và sẽ có giáo huấn chết còn lại. Giáo huấn chết đó trở
thành Ki tô giáo, Hindu giáo, Phật giáo; nó sẽ trở thành
Osho giáo nữa. Không thể làm gì được về điều đó - thực ra,

203
chính mối quan tâm của bạn là sự bắt đầu của nó, ngay cả
sợ. Điều đó nghĩa là Ki tô giáo chưa xảy ra, nhưng phản Ki
tô giáo đã tới rồi.
Và tôi đang sống đây! Osho giáo sẽ xảy ra, Hermann,
khi tôi qua rồi, nhưng với bạn nó đã xảy ra rồi và bạn đang
cố tìm cách ngăn cản nó. Và sao bạn phải bận tâm? Bạn là ai
để quyết định cho người khác? Bạn không phải là sannyasin,
bạn không phải là một phần của tâm xã của tôi, bạn không
có giao cảm với tôi, bạn đã không thưởng thức rượu đang có
sẵn ở đây - và bạn lo nghĩ về người khác, rằng những người
này sẽ tôn thờ cái chai khi rượu hết rồi! (Vào điểm này tiếng
chim cúc cu vang to lên trong tiếng hót.)...
Trông đấy...! Nó bao giờ cũng xảy ra đích xác đúng lúc
- ngay cả chim cũng đồng ý với tôi! Con chim này đang nói,
"Hermann ơi,anh là đồ ngu!" Bạn uống ngay bây giờ đi! và
bạn là ai mà bận tâm về tương lai? Và tại sao bạn phải ngăn
cản mọi người với Osho giáo? Nếu họ muốn điều đó, thế thì
đấy là việc của họ! Sao bạn phải nhận trách nhiệm? Sao bạn
phải ngăn cản mọi người với tự do của họ? Nếu họ muốn
tôn thờ cái gì đó chết, họ được quyền làm điều đó chứ!
Nhưng với tôi bạn là ngu xuẩn hơn những người đó. Ít
nhất họ sẽ tôn thờ cái chai - còn bạn bỏ lỡ rượu! Bạn uống
rượu và bỏ chai! Nếu mọi người muốn chơi với cái chai, họ
sẽ chơi; họ là những người sưu tầm. Có những người sưu
tầm đi thu thập các chai rượu, và đôi khi điều đó cũng có ích
nữa.
Tôi đã nghe một trường hợp:

Trong Thế chiến thứ nhất hai anh em bị chia li. Người
cha chia tất cả tài sản của mình, bởi vì ông ta già rồi và ông
ta lo nghĩ về người con thứ - bởi vì anh ta là kẻ say rượu và

204
anh ta sẽ phá phách mọi thứ, mà ngay cả người con cả cũng
phải chịu khổ bởi vì người em này. Cho nên ông ta quyết
định chia tài sản cho họ ngang nhau.
Và phép màu xảy ra. Trong Thế chiến thứ nhất giá trị
đồng tiền hạ xuống thấp thế, vì điều đó bao giờ cũng diễn ra
trong thời gian chiến tranh: mọi thứ trở nên rất đắt đỏ và
tiền mất khả năng mua của nó. Người say rượu có một thói
quen thu thập chai. Anh ta tiêu hết toàn bộ số tiền, anh ta
uống say và anh ta tận hưởng. Còn người con kia lại keo
kiệt tới mức anh ta níu bám lấy tiền mình có, nhưng tiền cứ
sụt giá mọi ngày.
Và phép màu là thế này: một khoảnh khắc tới khi tiền
trở thành gần như vô dụng, gần như vô giá trị, và người em
đã bán mọi chai của mình đi và anh ta thu được còn nhiều
tiền hơn là người anh. Anh ta tận hưởng rượu và anh ta bán
chai! Và người anh là ngu -anh ta chỉ bám lấy tiền.

Cuộc sống rất bí ẩn, và cách thức của Thượng đế cũng


rất kì lạ. Và Thượng đế bao giờ cũng ủng hộ người say!
Ngài yêu người khùng.
Hermann, nếu bạn thực sự cảm thấy rằng tôi là người
chứng ngộ, thế thì bạn đang làm gì ở đây? uống chứng ngộ
của tôi đi! Người khác đang uống đấy. Và tôi không nghĩ
rằng bạn coi tôi là đã chứng ngộ, bởi cách bạn nói:

Osho ơi,tôi chắc thầy là Thầy chứng ngộ nữa…

Bạn không chắc. Khi mọi người không chắc, chỉ thế thì
họ dùng từ "chắc"! Nếu bạn chắc rồi, thế thì lấy bước nhảy
vào đi! Thế thì sao bạn đứng trên bờ? Và trong khi dòng

205
sông đang sống động, làm điều gì đó để cho bạn có thể làm
dịu cơn khát của bạn đi. Và bỏ nó cho người khác.
Osho giáo nhất định xảy ra - tôi không lo nghĩ về nó.
Đó là hiện tượng tự nhiên. Đừng trở nên bị ám ảnh bởi nó.
Ki tô giáo đã xảy ra, Phật giáo đã xảy ra, Jain giáo đã xảy ra,
Hindu giáo, Mô ha mét giáo, đủ mọi loại "giáo". Chúng
không phải là không tự nhiên, bằng không chúng đã không
xảy ra.
Có những người có thể gắn mình chỉ với Thầy đã chết -
và bạn dường như là một trong những người đó, bạn cũng
có thể gắn với các Thầy chết. Bây giờ bạn quá quan tâm tới
Jesus, Phật, Krishna, bởi vì họ đã chết rồi. Bây giờ vài
người là người Ki tô giáo - họ bận tâm tới người chết. Bây
giờ vài người là người chống Ki tô giáo - họ cũng quan tâm
tới người chết...
Bertrand Russell đã viết cuốn sách: Tại sao tôi không là
người Ki tô giáo. Sao phải bận tâm về điều đó? Có những
người viết sách tại sao họ là người Ki tô giáo và có những
người viết sách tại sao họ không là người Ki tô giáo. Cả hai
làm phí thời gian của họ!
Friedrich Nietzsche đã trở nên bị ám ảnh với chống Ki
tô giáo tới mức trong những năm cuối đời của ông ấy, khi
ông ấy trở nên điên, ông ấy bắt đầu kí tên mình là
"Antichrist Friedrich Nietsche". Friedrich Nietzsche trở
thành phụ; thái độ chống Christ trở thành chính hơn. Và ông
ấy không thực chống Christ, ông ấy chỉ chống người Ki tô
giáo, nhưng khi bạn bắt đầu đi vào chiều hướng nào đó, nếu
bạn logic, bạn sẽ đạt tới đầu cuối logic. Trước hết ông ấy bắt
đầu lên án Ki tô giáo, và rồi dần dần ông ấy thấy ra rằng Ki
tô giáo là sản phẩm phụ của Christ, cho nên một cách tự
nhiên ông bắt đầu lên án Christ, và vì mọi thứ! Đôi khi ông
ấy sẽ đi tới những đoạn lê thê ngớ ngẩn để kết án Christ và
206
ông ấy sẽ tìm cách hợp lí hoá, những cái cớ, tới mức người
ta phải nói một điều: là ông ấy thực sự hoang tưởng và thực
sự logic.
Chẳng hạn, Jesus với lời nguyện cuối cùng tới Thượng
đế trên cây chữ thập rằng, "Xin tha thứ cho những người
này, thưa cha, bởi vì họ không biết điều họ đang làm." Đó là
một trong nhưng lời thốt ra hay nhất, nhưng Friedrich
Nietzsche đã trở nên bị ám ảnh với việc chống Ki tô giáo tới
mức ông ấy không thể chấp nhận được ngay cả một phát
biểu hay như thế. Và nếu bạn không quan tâm để chấp nhận
cái gì là đẹp, nếu bạn bị khuất phục để tìm ra cái gì đó sai,
bạn bao giờ cũng có thể tìm thấy. Ông áy đã tìm thấy cái gì
đó sai ngay cả trong điều này. Ông ấy nói, "Điều này nghĩa
là Jesus chỉ nghĩ mỗi ông ấy biết còn mọi người khác là dốt
nát."
Nhìn vào cách tiếp cận của ông ấy đi. Jesus đang cầu
nguyện Thượng đế, "Xin tha thứ cho những người này. Họ
đang đóng đinh tôi chỉ bởi vì họ không biết họ đang làm gì."
Friedrich Nietzsche kết án điều đó - ngay cả một phát biểu
hay thế này cũng bị kết án. Ông ấy tìm ra lí do logic, rằng
điều này chỉ ra mỗi cách tiếp cận ích kỉ, rằng "Ta biết, còn
mọi người này là ngu, dốt nát. Họ không biết, cho nên tha
thứ cho họ." Việc yêu cầu này, việc cầu nguyện tới Thượng
đế để tha thứ cho những người này, là một cách tiếp cận ích
kỉ; nó không phải là tình yêu, nó là bản ngã, theo Friedrich
Nietzsche.
Jesus đã nói, "Nếu ai đó tát vào má này của ông, chìa
má kia ra cho người đó." Bây giờ đây là một trong những
phát biểu vĩ đại nhất đã từng được đưa ra bởi bất kì ai, cực
kì hay, có tình yêu sâu sắc, không bạo hành - nhưng
Friedrich Nietzsche đã kết án nó. Ông ấy nói, "Đây là sự sỉ
nhục người kia. Đây là việc sỉ nhục tính chính trực của

207
người kia, tính nhân bản của người kia. Khi ai đó tát vào má
bạn và bạn chìa má kia ra cho người đó, bạn đang chỉ ra cho
người đó, 'Trông ta thánh thiện bao nhiêu, thiêng liêng hơn
anh, và anh chỉ là con vật.' Bạn đang sỉ nhục anh ta!"
Nietzsche nói việc đánh lại anh ta là tốt hơn nhiều, bởi vì
điều đó nghĩa bạn đã chấp nhận người đó dưới dạng bình
đẳng; bạn không hạ thấp người đó. Và nếu bạn nghe logic
của ông ấy, bạn có thể thấy có cái gì đó trong nó.
Logic là trò chơi; nó có thể được cả hai phía chơi. Logic
là con đĩ - nó có thể đi với bất kì ai, bất kì ai sẵn sàng trả
giá.
Nietzsche cả đời mình vẫn còn chống đối Ki tô giáo và
chống Christ. Bây giờ đây là lãng phí vô cùng! Có những
người cầu nguyện Christ và có những người lên án Christ,
nhưng cả hai đã quan tâm tới người đã chết. Và nếu bạn
quan tâm, tôi nghĩ cầu nguyện là tốt hơn kết án, bởi vì người
cầu nguyện có thể có được cái gì đó từ nó, nhưng người kết
án sẽ không thu được gì từ nó.
Cách tiếp cận của tôi, Hermann, là ở chỗ nếu bạn ngẫu
nhiên bắt gặp một Jesus, một Phật, một Krishna, đừng bỏ lỡ
cơ hội này. Và đừng trở nên quan tâm tới người khác - kính
trọng họ đi. Họ có cuộc sống riêng của họ và họ phải quyết
định về nó. Và hàng triệu người bao giờ cũng quyết định
sống cùng với Thầy đã chết bởi vì điều đó là thuận tiện,
thoải mái. Thầy sống bao giờ cũng là không thoải mái, bất
tiện.
Nghĩ về bản thân bạn, Hermann, đang ở cùng Jesus khi
ông ấy còn sống: có cả nghìn lẻ một khó khăn...
Một hôm Jesus là khách trong một nhà và Mary
Magdalene đến - và cô ấy là gái mãi dâm! - và cô ấy bắt đầu
rửa chân Christ bằng nước hoa rất đắt, bằng dầu rất đắt.

208
Judas không thể dung thứ được điều đó - ông ta là người xã
hội! Ông ta thực sự là sáng lập viên của chủ nghĩa cộng sản
trên thế giới; Karl Marx, vân vân, chỉ là chồi non.
Ông ấy lập tức nói với Jesus, "Điều này là không đúng!
Nước hoa này, dầu thơm này đắt tới mức nếu chúng ta bán
nó chúng ta có thể thết tiệc mọi người nghèo trong thị trấn
này ít nhất ba ngày. Và đây là lãng phí hết sức - thầy không
nên cho phép lãng phí như vậy. Một người như thầy nên lập
tức dừng lại.
"Điều thứ hai" - bây giờ ông ta còn tôn giáo hơn cả
Jesus - "gái mãi dâm không được phép chạm chân thầy; điều
đó là cấm kị. Một người như thầy, người của Thượng đế,
không nên cho phép gái mãi dâm chạm vào mình."
Còn Jesus nói, "Nhìn vào tâm cô ấy. Cả nghìn người tới
ta, nhưng hiếm khi ta thấy một tình yêu như vậy, sự buông
xuôi như vậy. Làm sao ta có thể nói với cô ấy, 'Đừng chạm
vào ta'? Điều đó sẽ là xấu!"
Bây giờ ở cùng con người này, người đi ngược lại toàn
thể truyền thống của tôn giáo, là nguy hiểm. Ở cùng với con
người này, người cho phép người đàn bà này phá huỷ thứ
quí giá mà có thể nuôi sống người nghèo... và Jesus nói gì?
Jesus nói, "Khi ta đi rồi người nghèo sẽ vẫn còn ở với
các ông, cho nên không có vội vàng; các ông có thể nuôi họ
về sau. Trong khi chú rể ở đây, mở hội đi!"

Bây giờ, Hermann, bạn sẽ sẵn sàng nói có với Jesus


chứ...? Lập tức tâm trí hợp lí của bạn sẽ nói, "Điều này là
không đúng! Ông ta không quan tâm tới người nghèo chút
nào. Ông ta không quan tâm tới truyền thống của các hiền

209
nhân chút nào. Ông ta rất phi xã hội, ông ta không hiểu bất
kì cái gì về kinh tế, ông ta không từ bi với người nghèo."
Bạn có cho rằng Mẹ Teresa ở Calcutta sẽ đồng ý với
ông ấy không? Không thể được! Bà ấy sẽ nói rằng "Cái này
có thể giúp cho nhiều trẻ mồ côi. Chúng ta có thể mở trường
học cho người nghèo hay chúng ta có thể mua thuốc cho
người ốm, và ông đang làm gì vậy?"
Bạn có cho rằng Jesus có thể được giải thưởng Nobel
không? Tôi không nghĩ vậy - không thể được. Bạn sẽ thà
đồng ý với Judas hơn - ông ta hợp lí hơn, xã hội hơn Jesus.
Ở cùng với Phật sẽ là khó cho bạn, Hermann, bởi vì ở
cùng với Phật nghĩa là buông xuôi, buông xuôi toàn bộ. Bản
ngã phải bị gạt sang bên.
Rất dễ dàng ở cùng Thầy đã chết bởi vì ở cùng Thầy đã
chết là nuôi dưỡng tốt cho bản ngã - rằng bạn là người đi
theo của Jesus, người đi theo của Phật, người đi theo của
Krishna. Nhưng ở cùng Krishna sẽ thực sự là không thể
được - ông ấy có mười sáu nghìn vợ! Hermann, bạn có đồng
ý với người này không? Krishna này là loại người chứng
ngộ gì vậy? Mười sáu nghìn vợ! Và họ không phải tất cả
đều lấy ông ấy - nhiều người ông ấy đã đánh cắp - họ đã là
vợ của người khác rồi! Làm sao bạn có thể đồng ý với người
này được?
Và ông ấy đã thuyết phục Arjuna đi vào chiến tranh, và
lí do ông ấy đã đưa ra là ở chỗ, "Hồn là vĩnh hằng, cho nên
đừng bận tâm. Anh có thể giết người - hồn không bị giết, chỉ
thân thể thôi, và thân thể đằng nào cũng chết. Cho nên
không có bạo hành tham gia vào, bởi vì hồn là bất tử và thân
thể là hữu tử. Anh chỉ là tách bạch cái bất tử ra khỏi cái hữu
tử, không có gì sai trong nó - chỉ là việc tách rời phần tinh
tuý ra khỏi phần không tinh tuý.

210
Bạn có cho rằng bạn sẽ đồng ý không?
Đó là lí do tại sao mọi người tạo ra Ki tô giáo, Phật
giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo - điều đó dễ hơn, rất dễ
dàng, bởi vì thế thì bạn có thể điều khiển Thầy chết theo ý
tưởng của bạn. Bạn có thể đặt ý tưởng của bạn vào miệng
thầy, bạn có thể bỏ qua những ý tưởng đi ngược lại bạn, bạn
có thể diễn giải, thao túng, hợp lí hoá... bạn có thể làm cả
nghìn lẻ một thứ bởi vì Thầy không có đó nữa.
Cho nên nhiều người cần Thầy chết, đó là nhu cầu của
họ. Và nhớ một luật kinh tế: bất kì khi nào có cầu sẽ có
cung. Bởi vì mọi người cần Thầy chết, đó là lí do tại sao cần
có Giáo hoàng - đại diện của Thầy chết. Cần có
Shankaracharya - đại diện của Shankara chết. Cần có
Ayatollah Khomaniac - đại diện của Mohammed chết. Mọi
người cần, đó là lí do tại sao những thứ này xảy ra, và không
thể làm được gì về nó.
Mối quan tâm của tôi không phải là về tương lai chút
nào. Tôi chấp nhận cách mọi sự đang hiện hữu; chúng
không thể khác được. Điều nhấn mạnh của tôi là: trong khi
tôi còn ở đây, nếu bạn thực sự quan tâm tới việc biến đổi
cuộc sống của bạn, thế thì cơ hội là sẵn có. Đừng bỏ lỡ nó.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Tôi bao giờ cũng cảm thấy rằng tôi phải hỏi thầy
nhiều điều. Tôi cảm thấy gánh nặng bên trong.
Nhưng cứ mỗi khi tôi hình thành ra một câu hỏi, nó
có vẻ buồn cười và ngu xuẩn.

211
Atmananda Bharati,
Nó buồn cười và nó ngu xuẩn đấy - bạn hoàn toàn đúng
khi không hỏi. Và cho dù bạn hỏi, bạn có nghĩ rằng tôi trả
lời không? Tôi không bao giờ trả lời bất kì câu hỏi nào, tôi
đơn giản phá huỷ câu hỏi này! Đấy không phải là việc trả lời
nó, đây là việc phá huỷ nó. Nó đánh thẳng vào câu hỏi từ
mọi phía. Nó là một loại giết chết: giết chết câu hỏi, và nếu
có thể, giết luôn người hỏi nữa! Cho nên không cái gì còn
lại, bởi vì nếu người hỏi còn lại, người đó sẽ lại hỏi.
Bạn thấy ở đây là năm nghìn người. Nhiều người đã bị
giết rồi! Họ không hỏi; họ đã hiểu rằng tôi không bao giờ trả
lời bất kì câu hỏi nào. Tôi chỉ chơi đùa quanh câu hỏi một
chút thôi, và nếu bạn quen thuộc với tôi và tôi biết rằng bạn
sẽ không trốn đi, thế thì tôi bắt đầu đánh bạn. Nếu tôi nghĩ
bạn sẽ trốn, thế thì trong vài ngày tôi cư xử rất lịch sự!
Tôi không bao giờ trả lời bất kì cái gì. Tôi là người Do
Thái cổ đại...

Một lần một giáo sĩ được một linh mục Ki tô giáo hỏi,
"Thưa giáo sĩ, ông có thể cho tôi câu trả lời thẳng thắn cho
câu hỏi mộc mạc này không? Tại sao người Do Thái bao giờ
cũng trả lời một câu hỏi bằng việc hỏi câu hỏi khác?"
Giáo sĩ nghĩ một chốc rồi đáp, "Họ hỏi à?"

Viên công tố hỏi một nhân chứng Do Thái.


"Ông có biết người vừa mới ra làm chứng không?"
"Làm sao tôi phải biết người đó?" người Do Thái nói.

212
"Anh ta nói ông đã vay anh ta năm nghìn đô la. Có
đúng không?"
"Sao tôi phải vay tiền từ anh ta?" người Do Thái nói.
Bực mình quá, quan toà ngắt lời, "Sao ông trả lời mọi
câu hỏi nêu cho ông bằng câu hỏi khác vậy?"
"Sao không?" người Do Thái nói.

Trong tài liệu tố tụng về thiệt hại, luật sư người Do Thái


cho bên nguyên có kinh nghiệm nhiều với bồi thẩm đoàn.
Ông ấy còn tăng lực cho lời mình bằng đủ mọi loại chuyển
động thân thể, vung tay lên, đấm nắm tay xuống, khuôn mặt
ông ta thể hiện cơn bão cảm giác điên dại. Cuối cùng ông ta
ngồi xuống, tiếng nói của ông ta dịu đi, thân thể ông ta kiệt
sức.
Luật sư bào chữa đứng dậy, cũng là một người Do Thái,
và bắt đầu bắt chước đối thủ của mình. Ông ta huơ hai cánh
tay ngay trước bồi thẩm đoàn, nhăn nhó và làm méo mó
khuôn mặt mình, chỉ trỏ bằng ngón tay, xé sự giận dữ của
mình thành từng mảnh - mà lại không thốt ra lấy một lời.
Sau vài phút ông ta vuốt tóc mình và nắn thẳng cà vạt
và nhanh chóng nói với bồi thẩm đoàn, "Bởi vì tôi đã trả lời
mọi luận cứ của đối thủ có học của mình, xin để tôi thảo
luận với các ông ấy về các sự kiện trong vụ này."

Bạn thấy tay tôi liên tục làm đủ mọi cử chỉ không? Đó
là truyền thống Do Thái cổ mà thôi!

Bạn hỏi, Atmananda Bharati: Tôi bao giờ cũng cảm


thấy rằng tôi phải hỏi thầy nhiều điều.

213
Mọi người đều cảm thấy, bởi vì tâm trí giống như cây.
Như trên cái cây lá liên tục mọc ra, trong tâm trí câu hỏi liên
tục sinh ra. Và nỗ lực của tôi ở đây không phải là để tỉa lá,
bởi vì việc xén tỉa đơn giản làm cho tán lá dầy hơn. Nỗ lực
của tôi ở đây là để cắt rễ, chính cái rễ, để cho cây chết đi.
Mọi người tới đây đều có nhiều câu hỏi, nhưng dù bạn
hỏi chúng hay không, chúng là vô dụng. Tôi trả lời chúng
chỉ để giữ bạn tham gia ở đây, để giữ cho bạn bận bịu. Và
ngay bên cạnh đó công việc thực được tiến hành: trong
thiền, trong nhóm trị liệu, tôi đã đặt người để cắt đi rễ của
bạn. Tôi liên tục trả lời để cho bạn cảm thấy rằng cuộc truy
tìm triết lí của bạn được thoả mãn, và bạn vẫn còn bị choán
bởi các câu hỏi và câu trả lời. Và tôi đã đặt người của tôi
rồi... trong khi đó họ cắt rễ bạn. Sớm hay muộn rễ của bạn
sẽ mất đi, thế thì lá biến mất theo cách riêng của nó.
Khi mọi câu hỏi biến mất, câu trả lời được tìm thấy,
không bao giờ trước điều đó. Câu trả lời không bao giờ
được tìm ra bằng việc hỏi; câu trả lời được tìm ra bằng việc
vứt bỏ mọi câu hỏi, việc hỏi như vậy, bởi vì câu trả lời là
kinh nghiệm riêng của bạn về im lặng, niềm vui, tính thượng
đế. Đó là câu trả lời. Chừng nào điều đó chưa được tìm thấy,
câu hỏi sẽ liên tục nảy sinh.
Nhưng điều tốt là bản thân bạn đã bắt đầu cảm thấy
rằng:

Mỗi khi tôi hình thành ra một câu hỏi, nó có vẻ


buồn cười và ngu xuẩn.

Mọi câu hỏi đều buồn cười và ngu xuẩn.

214
Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi,
Trong Mahabharata, Yudhisgtirha đã được một
yaksha hỏi một câu hỏi: "Cái gì gây ngạc nhiên?"
(kim ashcharayam). Nếu như thầy ở vào địa vị của
ông ấy, câu trả lời của thầy sẽ là gì?

Alkhilesh Bharti,
Điều gây ngạc nhiên nhất trong sự sống là ở chỗ không
ai dường như ngạc nhiên! Mọi người coi sự sống như đương
nhiên có đấy. Bằng không mọi sự là bí ẩn, mọi thứ đơn giản
đáng ngạc nhiên! Chính phép màu là ở chỗ hạt mầm trở
thành cây, ở chỗ mặt trời mọc buổi sáng chim bắt đầu hót.
Đó là phép màu! Từng khoảnh khắc bạn bắt gặp phép màu
mà dầu vậy bạn vẫn không có vẻ ngạc nhiên. Đây là điều
đáng ngạc nhiên nhất trong sự sống.
Câu trả lời của tôi chắc sẽ là ở chỗ mọi người coi sự
sống là đương nhiên có đấy - đây là điều đáng ngạc nhiên
nhất. Chỉ trẻ con không coi nó là đương nhiên có đấy. Đó là
lí do tại sao trẻ con có cái đẹp, vẻ duyên dáng, sự hồn nhiên.
Chúng bao giờ cũng sống trong ngạc nhiên; mọi thứ đem tới
sự kính nể. Nhặt đá trên bãi biển hay vỏ sò... quan sát trẻ
con, chúng chạy vui làm sao, chúng nhặt nhạnh vui làm sao
- chỉ toàn đá mầu, dường như chúng đã tìm thấy mẩu kim
cương lớn, nhặt hoa, hoa dại, và nhìn vào mắt chúng... hay
chạy đuổi theo bươm bướm, quan sát chúng. Toàn thể con
người chúng, từng tế bào của thân thể chúng là bí ẩn. Và đó
là phẩm chất quan trọng nhất làm cho sự sống đáng sống.

215
Người làm mất phẩm chất thấy ngạc nhiên của mình là
người chết. Khoảnh khắc ngạc nhiên của bạn chết, bạn chết.
Khoảnh khắc kinh ngạc của bạn chết, bạn chết. Khoảnh
khắc bạn trở nên không có khả năng cảm thấy kính nể, bạn
đã thành bất lực.
Được sinh ra với món quà tiếng cười và cảm giác rằng
thế giới này là điên là phẩm chất làm cho cuộc sống đáng
sống - không chỉ đáng sống mà còn đáng nhảy múa, đáng
mở hội.

Một lão nông tới xem rạp xiếc lần đầu tiên. Ông ấy
đứng trước chuồng lạc đà một bước, mắt như bật ra và mồm
há hốc hướng về phía con vật kì lạ bên trong. Buổi diễn xiếc
thực sự bắt đầu và đám đông bỏ đi để xem màn trình diễn
chính, nhưng lão già vẫn đứng trước cái chuồng trong im
lặng sững sờ, đánh giá mọi chi tiết của cái chân méo mó, cái
móng chẻ ra, cái môi trên đung đưa, và cái lưng u lên lạ kì
của con vật đang nhắm mắt ngủ.
Mười lăm phút trôi qua. Thế rồi lão nông quay đi trong
sự ghê tởm. "Đồ chết tiệt!" ông ta kêu lên. "Không có con
vật như vậy!"

Thay vì cảm thấy ngạc nhiên mọi người thích phủ nhận:
"Không có con vật như vậy!" Điều đó làm cho bạn lại thấy
thoải mái; bằng không bồn chồn nảy sinh trong bạn.

Tôi đã nghe nói về một tướng, một viên tướng quân sự


vĩ đại đã được bổ nhiệm tới Paris. Một sáng ông ấy đưa đứa
con trai nhỏ ra vườn, chỉ đi dạo buổi sáng. Ông ấy rất hạnh
phúc rằng đứa trẻ rất mê mải với bức tượng của Napoleon

216
cưỡi trên con ngựa, bức tượng đá cẩm thạch lớn. Và đứa con
nói, "Bố ơi,Napoleon đẹp thế, vĩ đại thế! Bố có thể đem con
đến hàng ngày khi bố đi dạo được không chỉ để nhìn vào
Napoleon vĩ đại?"
Người bố, là một vị tướng, rất hạnh phúc là đứa trẻ
cũng trở nên quan tâm tới những người như Napoleon: "Đây
là dấu hiệu tốt! Sớm hay muộn nó cũng sẽ trở thành một vị
tướng vĩ đại."
Sau sáu tháng ông ta được chuyển đi, và ông ta đưa đứa
con ra vườn lần cuối cùng để cho nó có thể nói lời tạm biệt
với Napoleon. Và đứa con đi ra đó, nước mắt đầm đìa, và nó
nói với bố nó rằng, "Con bao giờ cũng muốn hỏi một câu
hỏi, nhưng con trở nên bị mê say với Napoleon vĩ đại khi
con tới khu vườn này tới mức con bao giờ cũng quên mất
không hỏi câu hỏi đó. Bây giờ đây là ngày cuối cùng và con
muốn hỏi. Anh chàng này là ai vậy, bao giờ cũng ngồi trên
Napoleon đáng thương?"

Tôi nhớ tới câu chuyện này mới vài ngày trước đây...
Trong cuộc họp báo, Morarji Desai đã được hỏi, "Nếu mọi
người muốn ông trở thành thủ tướng Ấn Độ lần nữa, ông có
sẵn sàng không?"
Và ông ấy nói, "Có chứ, nếu mọi người muốn tôi cưỡi
lên con lừa, ngay cả thế tôi sẽ sẵn sàng."

Tôi nhớ lại về câu chuyện này. Sẽ có một vấn đề: làm
sao mọi người biết - "Anh chàng đang cưỡi lên Morarji
Desai đáng thương đáng thương này là ai vậy?" Và làm sao
họ sẽ phân biệt được ai là ai?

217
Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ trong buổi hôn lễ khi chú rể
đi tới nhà cô dâu, anh ta cưỡi lên ngựa. Đứa trẻ nhỏ hỏi bố
nó, "Sao chú rể bao giờ cũng cưỡi ngựa thế? Sao không cưỡi
lừa?'
Người bố nói, "Con không hiểu. Nếu anh ta cưỡi lừa,
thế thì làm sao cô dâu sẽ tìm ra ai là chú rể? Lừa cưỡi lừa sẽ
rất khó để phân biệt!"
Morarji Desai cưỡi lừa... sẽ thực sự là niềm vui lớn để
xem lừa cưỡi trên lừa!

Nếu bạn nhìn vào sự sống bạn sẽ thấy ở mọi nơi toàn
những điều ngạc nhiên mênh mông.

Ông ấy năm mươi và đã dành những năm tươi đẹp nhất


của đời mình với một người đàn bà thường xuyên chỉ trích
làm cho ông ấy phát điên lên. Bây giờ, khi sức khoẻ suy sụp
và với việc kinh doanh đang trên bờ phá sản, ông ấy làm
quyết định. Ông ấy đi vào phòng ăn, siết cà vạt của mình
trên chiếc đèn treo, và định chấm dứt mọi chuyện. Vào
khoảnh khắc đó vợ ông ấy bước vào phòng.
"John!" bà ấy kêu lên, bị sốc trước khung cảnh trước
mình. "Đó là chiếc cà vạt tốt nhất của anh đấy!"

Một thanh niên đi nghỉ ở khu rừng Midwest thượng đã


quyết định viết thư cho cô bạn gái, nhưng không có giấy bút
đem theo, anh ta bước tới trạm thông thương buôn bán.
Người phục vụ là một cô gái trẻ, hở ngực rõ nhiều thực sự
gợi tình.
"Cô có đồ văn phòng không?" anh ta hỏi.

218
"Này," cô ta mỉm cười, "Em có đến vài giây vừa xong,
và thế rồi em phát rồ!"

Quan sát xung quanh đi!

Một lính lên cảng New York sau hai năm dài ở nước
ngoài và được gặp cô vợ trẻ của mình.
Cuối cùng được một mình trong căn phòng khách sạn,
họ bị quấy rối bởi tiếng la hét trong hành lang và tiếng kêu
"Để tôi vào!"
Người lính cuống quít nhảy ra khỏi giường và nói hổn
hển, "Chắc phải là chồng em rồi!"
Bạn tình rối trí của anh ta cam đoan với anh ta. "Đừng
ngốc thế!" cô ấy nói. "Anh ấy ở cách xa hàng nghìn dặm rồi
ở đâu đó Châu Âu kia!"

Người ta chỉ cần cảnh quan rõ ràng, và từng khoảnh


khắc bạn ở trong ngạc nhiên lớn.

Cô ấy rất cận thị và rất xinh, nhưng quá tự phụ không


đeo kính vào tuần trăng mật và không thể nào đeo kính áp
tròng được. Khi cô ấy trở về từ tuần trăng mật, mẹ cô ấy lập
tức tiếp xúc với bác sĩ nhãn khoa. "Ông phải khám cho con
gái tôi ngay," bà ta cầu xin. "Đây là trường hợp cấp cứu!"
"Không có gì để mà bị kích động cả," ông bác sĩ tái
đảm bảo cho bà ấy. "Cô ta bị cận thị, có thế thôi."

219
"Có thế thôi sao?" người mẹ lặp lại. "Sao người thanh
niên nó có được không phải là người nó cùng đi vào tuần
trăng mật nhỉ!"

Điều duy nhất đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ bạn không
có vẻ ngạc nhiên. Và đây là cách cuộc sống của bạn trở
thành cuộc sống chán, cuộc sống buồn.
Đem phẩm chất ngạc nhiên của bạn trở lại như bạn đã
có nó trong tuổi thơ của bạn đi. Lại nhìn với cùng con mắt
hồn nhiên đó. Dionysius gọi nó là agnosia, trạng thái của
không biết, còn Upanishad gọi nó là dhyana - thiền,
samadhi - định, trạng thái của không biết. Nó không phải là
dốt nát.
Dốt nát và tri thức thuộc về cùng chiều: dốt nát ngụ ý ít
tri thức, tri thức ngụ ý ít dốt nát; khác biệt là ở mức độ.
Agnosia, samadhi không phải là dốt nát; nó ở bên ngoài cả
hai dốt nát và tri thức. Nó là trạng thái thuần khiết của ngạc
nhiên. Khi bạn tràn đầy ngạc nhiên, sự tồn tại đầy Thượng
đế.

Câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Tôi đã để mười ba năm trong các nữ tu viện khác
nhau, và đã được sinh ra trong một gia đình có một
linh mục, hai xơ, một sư và một nhà truyền giáo.
Với con số như vậy, bất kì chuyện cười nào thầy kể
về những người này đều gợi ra tiếng cười chữa

220
lành làm tôi biết ơn. Thầy có thể kể cho chúng tôi
thêm nhiều chuyện hay nữa không?

Kavisho,
Điều này thực sự đáng ngạc nhiên - một gia đình vĩ đại,
và bạn đã sống sót! Không chỉ điều đó, bạn đã tới đây rồi!
Điều đó làm cho tôi hi vọng vào nhân loại. Đó là lí do tại
sao tôi không bao giờ mất hi vọng.

Hai người đàn ông gặp nhau tại quán rượu và bắt đầu
nói chuyện. Sau một chốc một người trong họ nói, "Anh có
cho rằng anh có vấn đề gia đình không? Nghe tình huống
của tôi đây. Vài ngày trước đây tôi đã gặp một quả phụ trẻ
với đứa con gái mới lớn và chúng tôi đã lấy nhau. Sau đó bố
tôi lấy con gái riêng của tôi. Điều đó làm cho con gái riêng
của tôi trở thành mẹ riêng của tôi, và bố tôi trở thành con
trai riêng của tôi. Cũng thế vợ tôi trở thành mẹ vợ của bố vợ
của cô ấy. Thế rồi con gái của vợ tôi, mẹ riêng của tôi, có
con trai. Đứa con trai này là em cùng bố của tôi bởi vì nó là
con của bố tôi, nhưng nó cũng là con của con gái vợ tôi,
điều này làm nó thành cháu của vợ tôi. Điều đó làm cho tôi
thành ông của em cùng bố của tôi. Điều này không là gì mãi
cho tới khi vợ tôi và tôi có con trai. Bây giờ chị của con tôi,
mẹ chồng của tôi, cũng là bà. Điều này làm cho bố tôi thành
anh rể của con tôi, người có chị riêng là vợ của bố tôi.
"Tôi là anh rể của mẹ riêng của tôi, vợ tôi là cô của con
riêng của cô ấy, con trai tôi là cháu của bố tôi - và tôi là ông
riêng của tôi. Và anh nghĩ rằng anh có vấn đề gia đình!"

221
Kavisho, cảm thấy biết ơn Thượng đế đi: được sinh ra
trong gia đình như vậy là hiếm hoi. Nó là cơ hội duy nhất!

Một xơ Thiên chúa giáo trong một khách sạn thường trú
nhỏ phàn nàn với nhân viên quầy rằng người đàn ông trong
buồng bên cạnh cứ quấy rầy cô ấy bằng những bài hát
khiếm nhã.
"Bà chắc nhầm," nhân viên quầy đáp lại một cách lễ
phép "Ông Pritchard không bao giờ hát bài nào."
"Tôi biết," xơ Thiên chúa giáo đáp, "nhưng ông ấy huýt
sáo chúng."

Bà đã tới tám mươi rồi. Bà dễ dàng mệt mỏi, ăn kém


ngon, và đôi khi lẫn trí. Con trai bà ấy gọi bác sĩ, người này
tới ngay và được đưa lên buồng Bà. Nửa giờ sau ông ta đi
xuống.
"Không cần phải lo nghĩ" ông ấy giải thích. "Tôi đã
khám kĩ lưỡng cho bà ấy và không có gì thực sự sai với bà
ấy ngoại trừ tuổi già. Bà ấy sẽ ổn thoả thôi."
Con trai và và con dâu, được nhẹ nhõm nhiều, đi lên
cầu thang để thăm bà ấy. "Thế nào, mẹ," con trai bà ấy hỏi,
"mẹ thấy bác sĩ này thế nào?"
"Ồ, đấy là bác sĩ à?" bà ấy nói. "Mẹ cứ tưởng ông ấy
đóng vai mục sư khá thạo!"

Đôi thanh niên chuyển từ thị trấn nhỏ đến thành phố
lớn, bỏ lại đằng sau gia đình và họ hàng, phần lớn đều đã
già. Đứa con trai trẻ của họ vẫn tiếp tục đưa những người
này vào lời cầu nguyện ban đêm. Một đêm cậu ta dường như
222
đã quên mất Cậu Joseph. Khá kì lạ, ngày hôm sau họ biết
rằng Cậu Joseph đã qua đời.
Vài tháng sau cậu ta lại bỏ qua một cái tên trong lời cầu
nguyện của mình - Cô Mary. Ngày hôm sau họ biết rằng Cô
Mary đã qua đời.
Từ đó về sau họ lắng nghe cẩn thận lời cầu nguyện
hàng đêm của cậu ta để phát hiện ra liệu có bỏ sót lời kinh
nào không. Chắc chắn, vài tuần sau đó, sau khi đọc "Thượng
đế ban phước cho mẹ" cậu ta bỏ sót "Thượng đế ban phước
cho cha." Điều này làm cho bố cậu hoảng hồn, không dám
đi xuống phố cả đêm hay thậm chí không dám rời phòng
ngủ, mà cứ ở trên giường lo nghĩ về quyền năng tiên tri siêu
nhiên của con.
Sáng hôm sau họ nhận được tin nhắn từ thị trấn quê nhà
trước đây rằng ông linh mục thân thiết của họ đã chết.

Và chuyện cuối cùng, Kavisho:

Một người bán hàng bị buộc phải ở chung với một giáo
sĩ trong một khách sạn đông người. Ông ta vào phòng và
thấy giáo sĩ đang quì trong góc phòng, lúc lắc gót chân khi
lầm rầm cầu nguyện.
"Xin chào!" người bán hàng nói. "Tôi là bạn cùng
phòng mới của ông ấy đây."
Giáo sĩ gật đầu không ngừng lời cầu nguyện của mình.
"Được rồi, tôi nằm giường nào đây?"
Giáo sĩ trỏ vào một giường, tiếp tục cầu nguyện.

223
Người bán hàng bồn chồn mở túi mình ra, rồi bỗng
nhiên nói, "Này, giáo sĩ, có phiền gì ông không nếu tôi đem
một cô gái vào?"
Giáo sĩ vẫn cầu nguyện, giơ hai ngón tay lên.

224
8. Không biết gì về mọi
thứ

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Có gì sai với tôi không? Tôi cảm thấy tự hào là một
người Polack!

Prem Kavita,
Không cái gì sai khi là người Polack. Người Polack là
đẹp như bất kì ai khác, hay đẹp hơn chút ít, lí thú hơn chút
ít.

Một cáo thị bên ngoài đồn cảnh sát viết: Cần tìm đàn
ông hiếp dâm. Ngày hôm sau ba người Polack nộp đơn xin
việc này.

225
Nhưng chắc chắn là sai khi cảm thấy tự hào. Dù người
ta cảm thấy tự hào là người Ấn Độ hay người Polack hay
người Anh, không thành vấn đề. Đây chỉ là cái cớ. Điều
thực là ở chỗ bản ngã muốn sự hỗ trợ nào đó. Bản ngã
không thể đứng trên bàn chân riêng của nó được; nó cần cái
nạng. Nó nói rằng "Đất nước tôi là đất nước tốt nhất trên thế
giới, tôn giáo của tôi là cao siêu nhất, văn hoá của tôi là tiến
hoá nhất," vân vân và vân vân.
Bất kì cái gì có thể được dùng như cột đỡ cho bản ngã,
và cái đó chắc chắn là sai, đặc biệt đối với sannyasin, bởi vì
toàn thể nỗ lực của tính chất sannyas là để vứt bỏ bản ngã
dưới mọi dạng có thể, tinh tế hay thô thiển, biểu lộ hay
không biểu lộ, trực tiếp hay gián tiếp.
Người ta phải thường xuyên nhận biết về các thủ đoạn
của bản ngã; cách thức của nó tinh vi. Nếu bạn tống nó ra từ
cửa này nó sẽ đi vào từ của khác - và dưới dạng trá hình
mới. Chừng nào bạn chưa thực sự tỉnh táo, nó sẽ tóm lấy
bạn từ sau lưng.
Nhiều lần bạn cảm thấy khổ do bản ngã tạo ra và nhiều
lần bạn đã bỏ nó, nhưng nó lại tạo ra những cám dỗ mới. Và
bởi vì những cám dỗ này là mới, bạn cho rằng nó không
phải là cái rãnh cũ bạn đã ngã vào. Nó vẫn là cùng cái rãnh
đó thôi - tất nhiên được tô vẽ bằng mầu sắc tươi mới, được
thay đổi chút ít đây đó, được cải tiến...
Thận trọng với bản ngã đi! Tự hào là không tốt cho
sannyasin. Đó là khác biệt duy nhất giữa sannyasin và
không-sannyasin. Ý tưởng cũ về tính chất sannyas là từ bỏ
thế giới; ý tưởng của tôi về tính chất sannyas là từ bỏ bản
ngã, bởi vì cho dù bạn có từ bỏ thế giới, bản ngã sẽ liên tục
ẩn nấp bên trong bạn dù bạn đi bất kì đâu. Thực ra, khi nó
bắt đầu lấy mầu sắc tâm linh, việc gạt bỏ nó trở nên khó
khăn hơn.
226
Cũng giống như nếu xiềng xích của bạn được làm
không phải bằng thép thường mà bằng vàng ròng, được nạm
kim cương - thế thì bạn sẽ không muốn vứt bỏ chúng. Với
bạn chúng dường như giống đồ trang sức, và nếu ai đó nói,
"Đây là xiềng xích," bạn sẽ bị bực mình, bạn sẽ nổi giận.
Người Hindu bị xúc phạm nếu bạn nói với người đó
rằng là người Hindu tức là ở trong tù. Người Mô ha mét
giáo giận nếu bạn nói với người đó rằng là người Mô ha mét
giáo là một nô lệ. Cùng điều đó cũng đúng cho người Ki tô
giáo và người Jain và Phật tử.
Nhưng tự hào đơn giản nghĩa là bạn nghĩ bản thân bạn
tách rời khỏi sự tồn tại. Thứ hai: bạn đang nghĩ về bản thân
bạn là người đặc biệt.
Là sannyasin ngụ ý chỉ là tự nhiên. Bạn không cao hơn
bất kì ai và bạn không thấp hơn bất kì ai. Bạn đơn giản là
một phần của cùng sự tồn tại. Làm sao người ta có thể thấp
hơn hay cao hơn được? Vấn đề không chỉ là bình đẳng với
con người; bạn là bình đẳng với cây cối, với tảng đá, với các
vì sao. Đơn giản không có người nào bên trong bạn, người
cảm thấy tách biệt. Đây là bình đẳng đúng, và bình đẳng
đúng bao giờ cũng bắt rễ trong thanh thản, cân bằng.
Cảm thấy cao hơn theo bất kì cách nào đơn giản là bằng
chứng rằng sâu bên dưới bạn đang bị phức cảm yếu kém; nó
chỉ là việc bù lại. Chính khách cảm thấy cao hơn người khác
bởi vì ông ta có quyền lực, quyền lực chính trị. Người giàu
cảm thấy cao hơn người khác bởi vì người đó có quyền lực,
quyền lực kinh tế. Và cái gọi là người tâm linh cũng cảm
thấy cao hơn người khác bởi vì người đó đã lại thu được
cùng một thứ: quyền lực - quyền lực tâm linh, thuần khiết,
đạo đức, đức hạnh. Nhưng đây không là gì ngoài sự sở hữu.

227
Theo cái nhìn của tôi, sannyasin là hoàn toàn bình
thường, và trong chính sự bình thường đó cái phi thường
bùng nổ.

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Hôm nọ trong buổi darshan thầy đã nói về đàn bà
và việc biến đổi năng lượng của họ. Thầy đã nói
rằng trong quá khứ các Thầy như Jesus, Mahavira,
và ngay cả Phật Gautam đã không có khả năng
hiểu và biến đối năng lượng của đàn bà và cho
phép nó đi tới đỉnh. Thầy nói rằng lần này ở đây
với thầy cả đàn bà cũng như đàn ông đều có thể nở
hoa và đi tới đỉnh. Bằng cách nào đó tôi thấy xúc
động lắm bởi điều này. Thầy có thể nói thêm điều
gì đó về sự khác biệt này giữa đàn ông và đàn bà
và cách thầy làm việc với chúng tôi theo những
cách khác nhau không?

Anand Maria,
Khác biệt giữa đàn ông và đàn bà là không nhiều lắm
đâu; khác biệt là đơn giản. Nó giống như người bên cạnh
bạn đang đứng lộn ngược đầu: có khác biệt gì giữa người
đứng trên chân mình và người lộn ngược đầu xuống đất,
trồng cây chuối, trong tư thế sirshasana? Thực ra không có
khác biệt nào. Các bạn cả hai là như nhau - nhưng theo một
cách nào đó có khác biệt. Khác biệt là ở chỗ người đang

228
đứng trên đầu mình là ở tư thế lộn ngược. Đó là khác biệt
duy nhất giữa đàn ông và đàn bà.
Điều là có ý thức trong đàn ông là vô thức trong đàn bà,
và điều là vô thức trong đàn bà là có ý thức trong đàn ông.
Đàn ông là đàn ông chỉ trong ý thức của anh ta; trong vô
thức anh ta là đàn bà, nữ tính. Đó là lí do tại sao bất kì khi
nào bạn cảm thấy một người đàn ông theo bất kì cách nào
đang đi tới gần tới vô thức của anh ta, anh ta trở nên dịu
dàng, nữ tính, đáng yêu, trìu mến hơn.
Đó là lí do tại sao những người bị xã hội kết án, những
tội nhân, là những người đáng yêu hơn cái gọi là thánh nhân
của bạn. Cái gọi là thánh nhân của bạn bị treo trong ý thức;
họ không cho phép vô thức của họ, họ kìm nén nó. Họ đã
phân tách bản thân họ khỏi vô thức của họ, họ kết án nó. Họ
tạo ra khoảng cách giữa họ và vô thức; họ định nghĩa bản
thân họ chỉ qua ý thức. Đó là lí do tại sao họ có vẻ nghiêm
khắc thế.
Nhìn vào mặt của cái gọi là thánh nhân đi – những nhà
đạo đức, người khắt khe về đạo đức, những người liên tục
mang tải trọng của "linh thiêng hơn ngươi", chỉ nhìn vào
mặt họ, và bạn sẽ thấy những đường nét khắt khe, cứng
nhắc, căng thẳng –phẩm chất không thể nào được gọi là dịu
dàng, trìu mến, đáng yêu được.
Quan sát cái gọi là tội nhân, người bị kết án, và bạn sẽ
ngạc nhiên rằng họ còn có tâm trìu mến hơn. Họ là những
người đáng yêu hơn, dễ kết bạn hơn. Bạn có thể tận hưởng
việc làm bầu bạn với tội nhân, bạn không thể tận hưởng
được việc bầu bạn với thánh nhân. Nếu bạn để bốn thánh
nhân ở cùng nhau, họ sẽ thường xuyên cãi cọ - cãi cọ về
những điều ngu xuẩn: bao nhiêu thiên thần có thể nhảy múa
trên đầu kim, có bao nhiêu địa ngục... Phật nói chỉ có một

229
địa ngục, Mahavira nói có bẩy còn Sanjaya Vilethiputta nói
có bẩy trăm.
Nếu bạn để một tá thánh nhân trong một ngôi nhà thì sẽ
không có an bình chút nào trong ngôi nhà đó; họ sẽ thường
xuyên sủa vào nhau. Đôi khi tôi bị cuốn hút bởi ý tưởng
rằng chó có thể là hoá thân của thánh nhân - sủa vào bất kì
cái gì, và đặc biệt vào vài điều. Chẳng hạn, mọi chó chống
lại đồng phục. Chúng sẽ sủa vào người đưa thư, cảnh sát,
sannyasin. Có thể chúng giận từ kiếp sống quá khứ!
Nhưng tội nhân là rất thân thiện bởi một lẽ đơn giản...
Tôi không bảo bạn trở thành tội nhân đâu, tôi đơn giản nêu
ra vấn đề để cho bạn có thể hiểu tại sao tội nhân có vẻ dịu
dàng, đáng yêu, tính người, và tại sao thánh nhân có vẻ
không tính người thế. Lí do là tội nhân ở gần với vô thức
của họ hơn và vô thức của con người mang nữ tính.
Cùng điều đó xảy ra với đàn bà trí thức, đặc biệt là
những đàn bà thuộc vào Phong trào Giải phóng. Họ khắt
khe, xấu xí, cứng rắn, và thường hay lắm mồm biện luận.
Họ trở nên không đáng yêu, họ trở thành rất bản ngã. Họ là
phiên bản mới của nữ thánh nhân, lại bởi một lẽ đơn giản vì
họ đã đi ngược lại sự tự phát vô ý thức tự nhiên của họ. Họ
đang sống trong cái đầu của họ. Họ đã vứt bỏ chính ý tưởng
về vô thức, họ không cho phép bản năng của họ. Họ thiên
lệch; họ đã đánh mất sự cân bằng của họ.
Người cân bằng không là đàn ông không là đàn bà;
người đó là sự trộn lẫn của cả hai, đúng hơn là sự tổng hợp.
Nam tính của người đó bù cho nữ tính của người đó. Chúng
không hục hặc nhau, chúng nhảy múa trong hoà điệu, trong
hài hoà sâu sắc, cùng nhau. Có hoà hợp lớn lao.
Cho nên khác biệt là không nhiều; khác biệt là rất nhỏ.
Tất nhiên nó đã trở nên rất lớn bởi vì trong ít nhất mười

230
nghìn năm đàn ông đã chi phối hoàn cảnh. Đàn ông đã kìm
nén người đàn bà trong mình và bởi vì điều đó mà đàn ông
đã kìm nén đàn bà ở bên ngoài nữa. Đàn ông phải như vậy -
cả hai là một phần của một logic.
Nếu bạn cho phép người bà bên trong của riêng bạn
được tự do gặp gỡ với người đàn ông bên trong bạn, được
có sự cùng nhau sâu sắc, phẩm chất cực thích, để cho khi có
liên quan tới tâm thức của bạn, nó không còn bị chia chẻ
thành đàn ông và đàn bà... Nó là một, nó mang tính người,
nó mang tính toàn thể. Nó không còn là xung đột nữa; nó là
hài hoà. Nó đã đạt tới sự tổng hợp cao nhất có thể có. Khi
điều này xảy ra người ta là toàn thể; dù người ta là đàn ông
hay đàn bà không thành vấn đề.
Nhưng trong nhiều thế kỉ đàn ông đã chi phối, và cách
duy nhất để chi phối là phá huỷ người đàn bà bên ngoài, thu
cô ấy lại thành nô lệ, thu cô ấy lại thành món hàng, bán
được, mua được, cái gì đó của bãi chợ. Đây là điều xấu nhất
đã từng xảy ra trong quá khứ. Bởi vì điều này mà toàn thể
quá khứ của nhân loại đã mục nát, mất cân bằng, điên
khùng. Và nếu đàn ông kìm nén đàn bà ở bên ngoài, tất
nhiên đàn ông không thể cho phép người đàn bà bên trong;
đàn ông phải kìm nén điều đó nữa.
Và đàn bà đã được bảo rằng cô ấy phải có tính đàn bà;
điều đó nghĩa là cô ấy phải bác bỏ mọi cái là nam tính bên
trong cô ấy. Cô ấy đã bị buộc phải đi tới chính cực điểm của
việc là đàn bà và người đàn ông phải hoàn toàn bị phủ nhận.
Và điều này đã được dạy dường như nó là cái gì đó có giá trị
lớn lao - như văn hoá, như tôn giáo, như văn minh. Đàn bà
phải nhút nhát; đàn bà phải phụ thuộc vào đàn ông theo đủ
mọi cách. Cô ấy phải là người phục vụ, không phải là bạn,
không phải là người bạn.

231
Ý tưởng này ảnh hưởng tới mọi thứ, mọi tôn giáo. Và
những người như Jesus, Mahavira, Phật Gautam, những
người vĩ đại này đang rất buồn với nhân loại quá khứ, vài
người đã nở hoa, dầu vậy họ vẫn không thể đi ngược lại cấu
trúc xã hội một cách tuyệt đối. Tôi có thể hiểu tại sao họ
không thể chống lại được cấu trúc xã hội - bởi vì họ phải
làm việc với một xã hội không do họ tạo ra; nó đã có đó rồi.
Phật chỉ có bốn mươi năm làm việc. Bây giờ bạn không
thể biến đổi được mọi thứ trong xã hội. Ông ấy phải quyết
định liệu ông ấy phải làm việc và tạo ra cái gì đó hay ông ấy
phải tranh đấu. Nếu ông ấy tranh đấu cho một li thôi, thế thì
không công việc nào là có thể được. Ông ấy phải thoả hiệp.
Ông ấy đã chấp nhận nhiều điều mà tôi biết đã phải chấp
nhận rất miễn cưỡng.
Và cũng điều đó là đúng với Mahavira, Lão Tử,
Zarathustra, Jesus, Mohammed. Nhưng họ phải vận hành
trong một xã hội đặc biệt, đã cho sẵn, đã có đó rồi, và nó đã
tồn tại trong hàng nghìn năm. Và họ đã quyết định tốt hơn
cả là làm việc một cách im lặng và giúp cho vài người trở
nên chứng ngộ hơn là tranh đấu với xã hội và phí hoài toàn
thể thời gian của họ, và thậm chí không giúp vài người trở
nên chứng ngộ. Đó là chọn lựa trước họ.
Phật đã không sẵn lòng cho phép đàn bà được khai tâm
làm sannyasin bởi lẽ đơn giản vì xã hội Ấn Độ đã rất kìm
nén; nó đã tạo ra những bức tường lớn giữa đàn ông và đàn
bà. Phá huỷ những bức tường đó sẽ làm thoát ra hỗn độn.
Điều đó sẽ làm thoát ra nhiều năng lượng bị kìm nén tới
mức Phật cho rằng ông ấy sẽ không còn khả năng giúp được
ai nữa; mọi thứ sẽ nổi đoá. Do đó ông ấy đã trì hoãn lâu nhất
có thể được.
Khi đàn bà trở nên rất khăng khăng, và đặc biệt khi
người mẹ kế riêng của ông ấy yêu cầu được khai tâm, ông
232
ấy không thể từ chối được. Ông ấy mang ơn người đàn bà
này quá nhiều, bởi vì mẹ đẻ của ông ấy đã chết ngay ngày
ông ấy mới được sinh ra. Ông ấy đã được người mẹ kế này
nuôi lớn bằng sự chăm nom thế, với nhiều tình yêu thế. Ông
ấy không bao giờ cảm thấy rằng bà là mẹ kế; ông ấy không
bao giờ thiếu mẹ mình. Và khi người mẹ kế này yêu cầu
được khai tâm - và bà ấy đã rất già rồi, và cái chết đang tới
gần - ông ấy không thể nói không được. Ông ấy đã nói có
một cách rất miễn cưỡng.
Nhưng khi ông ấy nói có với người mẹ riêng của mình,
thế thì đàn bà khác cũng nói, "Bây giờ thầy đã chấp nhận
một người đàn bà làm sannyasin, thế thì sao ngăn cản chúng
tôi?" Và điều đó là logic. Cửa đã mở rồi...
Và Phật nói rất buồn rằng, "Tôn giáo của ta đáng thì sẽ
sống được ít nhất năm nghìn năm và giúp cho hàng nghìn
người trở nên chứng ngộ, nhưng bây giờ nó sẽ chỉ tồn tại
trong năm trăm năm thôi."
Và đó là cách nó đã xảy ra, bởi vì một khi đàn bà bước
vào, các sannyasins nam giới bị kìm nén bắt đầu bị mê tít.
Họ đã sống trong các ngăn kín và bỗng nhiên họ được tự do
- bỗng nhiên đàn bà có đấy, và đàn bà đẹp. Các sannyasin
đầu tiên tới đều gần như từ mọi gia đình hoàng gia. Điều đó
gần như bao giờ cũng xảy ra: khi một người như Phật tới
trên thế gian, chính những người thông minh nhất là những
người đầu tiên tới ông ấy. Điều đó là tự nhiên, bởi vì chỉ họ
có thể hiểu được.
Bạn có thể thấy điều đó đang xảy ra ở đây: những người
thông minh nhất trên thế giới từ mọi ngóc ngách, mọi góc
trên thế giới, đã tới đây. Nhưng đám đông Ấn Độ liên tục bỏ
qua điều đó, dường như điều đó không liên quan gì tới họ.
Họ chưa ở mức độ của thông minh đó nơi họ có thể hiểu

233
điều gì đang xảy ra ở đây. Nói gì tới đám đông bình
thường...
Mới hôm nọ quan toà Poona đã ra phán quyết liên quan
tới vụ kiện một người điên đã ném dao găm vào tôi, hiển
nhiên có ý định giết tôi. Ông ta đã thả anh ta ra, và lí do mà
ông ta đã thả anh ta, lí do cơ sở nhất mà ông ấy đã đưa ra,
thực sự đáng xem xét. Tôi cười vào điều đó, tôi tận hưởng
điều đó!
Lí do mà ông ta đã thả anh ta là ở chỗ nếu đấy mà là ý
định sát hại tôi, thế thì tôi chắc sẽ không tiếp tục bài nói của
mình nữa! Ai còn có thể tiếp tục nói khi ai đó định sát hại
bạn? Nhưng ông ấy không biết tôi. Tôi sẽ vẫn tiếp tục cho
dù tôi chết - tôi sẽ không kết thúc trước mười giờ đâu!
Nhưng ông ấy không thể hiểu được, và tôi có thể hiểu
ông ấy - ông ấy không thể hiểu được. Khi ai đó cố giết bạn,
bạn có thể liên tục nói theo cùng cách đó được không? Luận
cứ của ông ấy dường như rất hợp lệ. Cho nên nói gì về đám
đông thông thường? - ngay cả quan toà có giáo dục cũng
nghĩ theo cùng cách.
Một khi Phật đã cho phép đàn bà vào tâm xã của ông
ấy, các sannyasins nam giới bị kìm nén bắt đầu mất đi sự
chú ý vào tâm thức riêng của mình. Điều đó xảy ra bởi vì
kìm nén. Đó là lí do tại sao Jesus và Mahavira cũng có cùng
ý kiến.
Tôi có thể cho phép bởi lí do đơn giản là hai mươi
nhăm thế kỉ đã trôi qua và trong hai mươi nhăm thế kỉ này
nhiều điều đã xảy ra, đặc biệt ở phương Tây. Đó là lí do tại
sao hấp dẫn của tôi sẽ mạnh ở phương Tây hơn nhiều so với
phương Đông, bởi vì ở phương Đông không gì mấy đã xảy
ra. Karl Marx đã không xảy ra ở phương Đông, Friedrich
Nietzsche đã không xảy ra ở phương Đông, Sigmund Freud

234
đã không xảy ra ở phương Đông, Carl Gustav Jung đã
không xảy ra ở phương Đông, Albert Einstein đã không xảy
ra ở phương Đông...
Phương Tây sẵn sàng hơn nhiều. Phương Tây đã trải
qua cuộc cách mạng lớn về dục, về phân biệt giới. Phương
Tây đã vứt bỏ điều vô nghĩa cũ. Đó là lí do tại sao tôi có thể
cho phép đàn ông và đàn bà cùng ở đây. Và bạn có thể thấy
khác biệt: khi người Ấn Độ tới đây họ tạo ra rắc rối.
Trong sáu năm này tôi đã ở đây, ít nhất nhiều hơn ba tới
bốn trăm nghìn người phương Tây đã tới thăm chỗ này.
Không một người phương Tây nào đã thử cưỡng hiếp bất kì
đàn bà Ấn Độ nào. Nói gì tới cưỡng hiếp - họ thậm chí còn
không bận tâm tới đàn bà Ấn Độ, họ thậm chí không nghĩ
tới đàn bà Ấn Độ! Nhưng biết bao nhiêu người Ấn Độ đã cố
quấy rối, nỗ lực cưỡng hiếp; đủ mọi thứ họ đã làm. Và họ
liên tục hỏi tôi tại sao người Ấn Độ không dễ dàng được
phép vào đạo tràng. Họ tới với lí do sai, ngay cả những
người có giáo dục.
Mới vài ngày trước đây một người quản lí của Khách
sạn Ambassador tới để xem - nhà giầu, có giáo dục tử tế - và
khi ông ta thấy Padma đang làm việc trong căn hộ của mình
có một mình, ông ta lập tức sờ vú cô ấy! Và người đàn ông
này đã hỏi Sheela điều đầu tiên, là, "Sao tôi không thấy
nhiều người Ấn Độ ở đây?" Và khi ông ta bị bắt quả tang
Sheela đã bảo ông ấy, "Bây giờ ông biết lí do tại sao nhiều
người Ấn Độ không có trong đạo tràng này! Chúng tôi đã
tống cổ họ ra, cũng như chúng tôi đang tống cổ ông ra!"
Một quan chức chính phủ, một S.D.O. đã tới để điều tra
đạo đức của các sannyasin của tôi, và Sheela đã đưa cho ông
ta thăm quanh đạo tràng. Khi ông ấy thấy rằng Sheela và
ông ấy có một mình ông ta hỏi Sheela, "Anh có thể hôn em
được không?" Và ông ta tới để điều tra về đạo đức của đạo
235
tràng đấy! Và bởi vì Sheela phản ứng và mắng ông ta nên
ông ta đã viết một báo cáo rất sai trái và bẩn thỉu về đạo
tràng, và ông ta đã là một trong những nguyên nhân mà
chúng tôi đã không thể lấy được vùng đất Saswad cho tâm
xã. Ông ta đã tạo ra mọi rắc rối có thể có. Và ông ta đã gửi
một thông điệp rằng "Nếu Sheela tới với tôi, tôi sẽ giúp các
ông!"
Bây giờ những người này...! Phật đã phải làm việc với
những người này, và Jesus, và Mahavira. Họ có thể được tha
thứ. Họ đã muốn giúp cả đàn ông và đàn bà, nhưng rắc rối là
xã hội.
Với tôi có một khả năng. Tôi có thể chọn từ khắp trên
thế giới những người sẵn sàng vứt bỏ phân chia ngu xuẩn về
giới tính này. Tất nhiên cách tiếp cận sẽ khác: đàn bà sẽ bắt
đầu bằng yêu và kết thúc bằng thiền, còn đàn ông sẽ bắt đầu
bằng thiền và kết thúc bằng yêu. Chỉ có khác biệt như thế
thôi. Với đàn ông yêu sẽ tới như hệ quả, như hương thơm
của thiền. Với đàn bà thiền sẽ tới như hệ quả, như sản phẩm
phụ, như hương thơm của yêu.
Nhưng dù đàn ông hay đàn bà, khi họ đạt tới đỉnh cao
nhất của tâm thức, tới đỉnh Everest của tâm thức, họ cả hai
sẽ có đích xác sự cân bằng: thiền và yêu.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Thế việc kể dăm ba chuyện bí tầm phào cho chúng
tôi thì sao?

236
Prem Shraddhan,
Chuyện tầm phào đơn giản là tầm phào! Cho dù bạn
làm cho nó thành bí truyền, điều đó không làm thay đổi
phẩm chất của nó - nó vẫn bốc mùi! Bạn có thể cho nó cái
vỏ ngoài đẹp đẽ, bao bì đẹp đẽ, nhưng nội dung sẽ vẫn là thế
thôi. Bạn có thể bọc nó bằng cái gì đó đẹp, nhưng cái đó sẽ
chỉ là cái vỏ bọc. Khi bạn chìm sâu vào trong nó, thế thì bạn
sẽ biết - bạn đã rơi vào trong cống đầy những chuyện tầm
phào!

Một sannyasin và một người không là sannyasin mới tới


đang ngồi cùng nhau ở Vrindavan. "Này, Swami," người
không là sannyasin nói, "anh có lẽ đã ở quanh đây một thời
gian rồi. Anh có thể nói cho tôi Osho đang dạy gì cho anh
được không?"
Người sannyasin đắn đo về điều này một chốc, rồi nói,
"Nó giống thế này: tưởng tượng hai anh chàng đi dọc con
đường; cả hai cùng ngã xuống cống. Một người trong họ bị
bẩn, người kia không bị bẩn - người nào trong số họ sẽ phải
đi tắm?"
"Người bị bẩn, dĩ nhiên rồi!" người không là sannyasin
nói.
"Không. Người bẩn thấy người sạch và anh ta nghĩ bản
thân mình sạch. Người sạch thấy người bẩn và anh ta nghĩ
người kia bẩn, cho nên người sạch sẽ đi tắm. Bây giờ tưởng
tượng họ lại ngã xuống cống lần nữa - bây giờ ai sẽ đi tắm?"
"Bây giờ tôi biết rồi," người không sannyasin trả lời,
"người sạch chứ gì!"
"Không. Người sạch nhận ra trong khi tắm rằng mình
sạch, còn người bẩn nhận ra trong khi người sạch tắm, cho

237
nên bây giờ anh ta là người đúng phải đi tắm! Bây giờ tưởng
tượng cả hai lại ngã xuống cống lần nữa - bây giờ ai sẽ đi
tắm?"
"Từ giờ trở đi, tất nhiên bao giờ cũng là người bẩn!"
"Không. Anh đã bao giờ thấy hai anh chàng ngã xuống
cống ba lần, và bao giờ một người chui lên cũng bẩn còn
người kia bao giờ cũng sạch không?"

Một linh mục Thiên chúa giáo đang đi bộ dọc theo vách
đá cạnh biển thì ông ta nghe thấy tiếng la hét của ai đó đang
trong khó khăn. Ông ta thấy một người hiển nhiên không
biết bơi đang vật lộn giành sự sống trong nước.
"Cứu tôi với, cứu tôi với, cha ơi! Tôi đang chết đuối
đây!" người thanh niên kêu lên.
"Con là người theo Thiên chúa hay Tin lành, con ta?"
ông linh mục hỏi.
"Tin lành, thưa cha!" anh thanh niên thở hổn hển khi
chìm dần xuống nước. Ông linh mục bắt đầu bước tiếp.
"Lạy Chúa, thưa cha, xin cứu con!" anh chàng hoảng
hốt la lên khi trồi lên mặt nước lần nữa.
"Con theo tôn giáo nào, con ta?" ông linh mục ngoái lại
kêu to.
"Tin lành, thưa cha!" câu trả lời líu lưỡi vọng lại. Ông
linh mục lại bắt đầu bước đi khi anh chàng thanh niên không
may chìm xuống lần thứ hai.
"Vì tình yêu của Chúa, xin cứu con, cha ơi!" cậu ta la
lên trong tuyệt vọng.
"Con theo tôn giáo nào, con ta?" Câu hỏi lại cất lên.

238
Sau một chút ngần ngại anh thanh niên hét lên, "Con là
người Thiên chúa giáo, thưa cha!"
Ông linh mục lập tức cởi phăng quần áo, nhào xuống
biển và bơi ngay tới cậu bé, tóm lấy tóc cậu ta khi cậu ta
chìm xuống lần thứ ba và cũng là lần cuối.
"Con theo tôn giáo nào, con ta?" ông linh mục lại hỏi,
khi ông ta giúp cái đầu cậu thanh niên nhô lên khỏi mặt
nước.
"Thiên chúa giáo, thưa cha!" câu trả lời vọng lại.
Ông linh mục mỉm cười, bỏ tóc cậu thanh niên ra, và
khi cậu ta chìm xuống, ông ta nói, "Tốt, chết đi trong đức
tin!"

Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi,
Sao cái gọi là các học giả có thẩm quyền, các nhà
thượng đế học và các triết gia về tôn giáo chống
thầy?

Pritama,
Điều đó là tự nhiên. Họ triết lí hoá về Thượng đế, tôi
biết. Họ nghĩ về ánh sáng, tôi thấy. Họ đọc kinh sách, tôi đã
đọc vũ trụ. Chúng tôi không thể đồng ý được.
Điều đó giống như người mù thu thập thông tin về ánh
sáng. Làm sao người đó có thể đồng ý với người có mắt?
Mặc dầu người đó thu thập thông tin về ánh sáng, nhưng

239
thông tin về ánh sáng chỉ là thông tin mà thôi; nó không
phải là kinh nghiệm. Kinh nghiệm nhất định khác toàn bộ.
Kinh nghiệm khác về chất; nó không chỉ là vấn đề số lượng.
Không phải là tôi biết nhiều hơn điều họ biết hay biết ít hơn
điều họ biết; vấn đề không phải là nhiều hay ít. Tôi đơn giản
biết, còn họ đã thu thập thông tin từ người khác. Tri thức
của họ được vay mượn, và tất nhiên người sống với tri thức
vay mượn, người cả đời phụ thuộc vào tri thức vay mượn,
nhất định sợ người đã trải nghiệm nó.
Họ bao giờ cũng chống lại; điều đó không là gì mới.
Nếu họ không chống lại tôi, điều đó chắc đáng ngạc nhiên.
Điều đó sẽ gần như không thể nào tin nổi! Việc chống lại tôi
của họ đơn giản chứng tỏ người đó đã không học được bất
kì cái gì, dường như tiến hoá của con người đã dừng lại từ
lâu trước đây rồi. Họ vẫn cư xử theo cùng cách họ đã cư xử
với Jesus, với Phật, với Krishna. Hành vi của họ đã không
thay đổi, và tôi không thấy điều đó sẽ bao giờ thay đổi - bởi
vì quyền lợi được đầu tư của họ. Những người như tôi là
nguy hiểm cho kinh doanh của họ!
Đấy là vấn đề sống và chết đối với họ. Toàn thể nghề
nghiệp của họ tuỳ thuộc vào tri thức vay mượn, và nhấn
mạnh của tôi là vào việc giúp bạn biết điều đó theo cách
riêng của bạn. Và khoảnh khắc bạn biết, mọi thứ vay mượn
là mờ nhạt đi, trở thành không liên quan, vô nghĩa, mất đi
mọi ý nghĩa. Và cùng với nó mọi tu sĩ, mọi nhà thượng đế
học, mọi triết gia, mọi học giả, các bác học cũng biến mất…
Ngay bây giờ bạn kính trọng họ, bạn tôn vinh họ, bởi vì
bạn cảm thấy dốt nát và bạn nghĩ họ biết. Và người mù đang
dẫn kẻ mù đấy! Bạn là người chân thành hơn nhiều – ít nhất
bạn thừa nhận sự mù của bạn, các học giả là tinh ranh hơn
nhiều; họ không thừa nhận rằng họ dốt nát. Sâu bên dưới họ
biết điều đó, nhưng họ không trưng ra điều đó. Họ liên tục

240
che giấu nó theo đủ mọi cách có thể được. Và những người
như tôi bắt đầu phơi bày họ ra - làm sao họ có thể dung thứ
cho điều đó được?
Và một sự kiện bao giờ cũng được biết tới là các học
giả là người một chiều. Họ phải là người một chiều nếu họ
muốn là học giả. Nếu một người cố biết mọi thứ về Thượng
đế... và nhớ, "về". Bằng việc biết Thượng đế người đó sẽ trở
thành đa chiều, bởi vì Thượng đế nghĩa là toàn thể sự tồn
tại. Bằng việc biết Thượng đế người đó sẽ biết cái toàn thể,
nhưng bằng việc biết về Thượng đế người đó phải trở thành
một chiều. Người đó phải hội tụ tâm trí mình, người đó phải
liên tục làm hẹp dần ý thức của mình; người đó phải định vị
chính xác nó. Một cách tự nhiên người đó biết ngày càng
nhiều về Thượng đế, nhưng ngày càng ít về mọi thứ khác.
Việc biết của người đó trở thành chỉ về mỗi Thượng đế và
loại trừ đi mọi thứ khác.
Đó là lí do tại sao người có thẩm quyền bao giờ cũng
hành xử một cách ngu xuẩn. Khi có liên quan tới lĩnh vực
riêng của mình, họ là các chuyên gia lớn. Nếu bạn hỏi bất kì
câu hỏi nào về cái gì đó không phải là một phần tri thức
chuyên gia của họ, họ đâm ra lúng túng - họ ngu ngốc
dường như không kẻ ngu nào có thể vậy, bởi vì kẻ ngu còn
có chút ít tính đa chiều. Nhưng các học giả là tuyệt đối một
chiều, họ bị cố định vào một điểm; họ là người bị chuyên
môn hoá.
Lúc ban đầu, mới hai nghìn năm trước đây đã chỉ có
một tri thức không có phân chia nào; nó đã được gọi là triết
học. Vào những ngày của Aristotle nó đã được gọi là triết
học; triết học được ngụ ý mọi tri thức. Cho nên nếu bạn nhìn
vào các sách của Aristotle – người được coi như cha đẻ của
triết học phương Tây – bạn sẽ thấy mọi thứ, những thứ
không liên quan gì tới triết học chút nào.

241
Chẳng hạn, đàn bà có bao nhiêu răng. Bây giờ điều đó
có liên quan gì tới triết học? Và ngay cả về điều đó ông ấy
cũng sai! Và ông ấy có hai vợ, không chỉ một - ông ấy có
thể đã đếm rất dễ dàng. Khi có liên quan tới răng của đàn bà
bạn thậm chí không cần bảo cô ấy mở mồm ra - nó bao giờ
cũng mở rồi! Bạn có thể đếm rất dễ dàng; không có rắc rối
gì. Và có hai vợ mà phạm phải sai lầm thế! Ông ấy nói rằng
đàn bà có ít răng hơn đàn ông. Logic là: làm sao đàn bà có
thể có cái gì bình đẳng với đàn ông được? Ông ấy không
bao giờ bận tâm tới thực nghiệm.
Nhưng cuốn sách của ông ấy chứa đủ mọi thứ. Nó chứa
sinh học, tôn giáo, triết học, toán học, logic, ngôn ngữ, thẩm
mĩ học - mọi thứ có thể có. Nó chứa vật lí... Đó là cách thức
mà cái tên "siêu vật lí, siêu hình - metaphysics" được sinh
ra, bởi vì trong cuốn sách của Aristotle, sau vật lí là tới tôn
giáo. Siêu vật lí đơn giản nghĩa là “chương tiếp theo vật lí”.
Sau chương về vật lí có chương về tôn giáo, do đó nó được
gọi là siêu vật lí.
Nếu như Aristotle quay lại, ông ấy sẽ tuyệt đối bị ngỡ
ngàng. Nếu ông ấy tới Oxford, có ba trăm sáu mươi nhăm
chủ đề được dạy. Ông ấy sẽ không thể nào tin nổi - ba trăm
sáu mươi nhăm chủ đề! Và chúng liên tục tăng lên ngày một
nhiều mỗi ngày - nhánh của nhánh của nhánh.
Tôi đã nghe một câu chuyện tương lai:

Một người đi tới bác sĩ nhãn khoa. Người đó bị đau một


mắt, và người đó nói với bác sĩ.
Bác sĩ hỏi, "Mắt nào vậy, phải hay trái?"
Người đó nói, "Trái."

242
Và bác sĩ nói, "Rất tiếc, nhưng tôi chuyên khoa chỉ vào
mắt bên kia thôi. Anh phải đi tới ai đó khác."

Con của một người từ trường y trở về nhà, và người đó


hỏi con, "Con đi chuyên về cái gì?" Người đó là bác sĩ điều
trị già, kiểu bác sĩ trị liệu cổ hay chữa trị mọi loại bệnh tật.
Người con nói, "Con đi chuyên về mũi."
Và người bố hỏi, "Lỗ mũi nào?"

Vâng, điều đó sẽ xảy ra một ngày nào đó - lỗ mũi phải


hay lỗ mũi trái, và bạn sẽ phải đi tới các chuyên gia khác.
Đây là cách thức của chuyên môn hoá: người ta trở nên
bị hạn hẹp, người ta bắt đầu biết ngày càng nhiều về cái
ngày càng ít. Và một thời điểm tới, nó nhất định tới - ít nhất
về mặt logic người ta có thể quan niệm rằng nó sẽ xảy ra
một ngày nào đó... Nếu đây là quá trình của khoa học - thế
thì một ngày nào đó ai đó sẽ tuyên bố. "Tôi biết tất cả về cái
không."
Quá trình trải nghiệm là khác toàn bộ: nó biết ngày
càng ít về cái ngày càng nhiều. Và một khoảnh khắc tới:
người ta không biết gì về mọi thứ. Đó là điều Dionysius gọi
là agnosia, đó là trạng thái của thiền: người ta không biết gì
về mọi thứ. Người đó đã trở thành tuyệt đối đa chiều. Người
đó đơn giản là nhận biết, không phải là người biết. Không
có tri thức, người đó đơn giản là trí huệ.
Bây giờ làm sao chuyên gia có thể đồng ý với người trí
huệ được? Chuyên gia không thể đồng ý với Phật được,
không thể được; chiều hướng của họ là khác nhau toàn bộ.
Người này biết ngày càng nhiều về cái ngày càng ít, người

243
kia biết ngày càng ít về cái ngày càng nhiều. Người này
chung cuộc đạt tới việc biết mọi thứ về cái không, người kia
chung cuộc đạt tới việc không biết về mọi thứ - họ đi theo
các con đường phân kì. Nhưng Phật trải nghiệm và chuyên
gia chỉ tích luỹ thông tin.

Một cô thư kí rất xinh, mặc chiếc áo nịt và váy ngắn, đi


qua phòng thí nghiệm hoá học.
"Trông kìa!" một trong các nhà khoa học nói với người
kia.
Người kia ngước nhìn vào hình dáng bộ ngực nở nang
và đáp lại một cách dửng dưng, “Vậy thì sao? Cô ấy đến
chín phần mười là nước!"
"Chắc hẳn rồi," người thứ nhất nói, "nhưng sức căng bề
mặt thế nào!"

Một nhà khoa học lớn đi xe buýt để ý thấy chiếc đồng


hồ trên toà nhà chỉ chín rưỡi. Nhìn xa hơn ông ta thấy chiếc
đồng hồ khác; chiếc này chỉ chín giờ mười lăm. “Trời đất!"
ông ta kêu lên. "Tôi phải đi sai đường rồi!"

Một câu chuyện được kể về một vị giáo sư tiếng Anh bị


thất sủng và một hôm ở nhà. "Có chuyện gì vậy?" một trong
các học sinh hỏi con gái ông ấy.
"Ông ấy cáu kỉnh khủng khiếp," cô ta tiết lộ. "Đêm qua
một con cú trên cây liên tục nhắc đi nhắc lại mãi 'Ai cho? Ai
cho?' thay vì nói 'Cho ai?'"

244
Người vợ mới cưới là một giáo sư triết học, và điều gần
như bao giờ cũng xảy ra với các giáo sư triết học, là cô ấy bị
chứng mất ngủ. Cô ấy đánh thức chồng dậy bất kì khi nào
cô ấy nghe thấy tiếng động tầng dưới.
Cuối cùng anh ta nói, "Nào đi ngủ đi, em yêu. Kẻ trộm
đêm không gây tiếng động đâu!"
Thế là cô ấy bắt đầu đánh thức anh ta mọi lúc cô ấy
không nghe thấy gì.

Điều đó là logic! Điều đó là tính triết lí!

Trước khi bắt đầu cuộc giải phẫu tử thi bác sĩ muốn
kiểm tra ngực. Tử thi được chở xe tới khoa tia X và được cô
kĩ thuật viên xinh xắn đặt đúng vào máy, rồi cô ấy đặt tấm
phim chụp vào ngăn điều khiển. Khi cô ấy ngó đầu ra từ
đằng sau máy cô ấy nói một cách máy móc, "thở sâu và giữ
thế nhé!"

Kĩ thuật viên là kĩ thuật viên! Họ vận hành một cách


máy móc. Các chuyên gia vận hành rất vô ý thức. Họ không
biết họ đang làm gì, họ không biết họ đang nói gì. Họ không
biết gì bởi vì toàn thể ý thức của họ đầy những sự kiện và
thông tin chết. Họ có thể nói về yêu, nhưng họ không bao
giờ yêu. Họ có thể nói về Thượng đế...
Và nhớ nghĩa của từ “về”: về nghĩa là xung quanh. Họ
liên tục đi vòng vo, nhưng họ không bao giờ chạm tới trung
tâm của nó. Nó không thể được chạm tới chỉ bằng việc biết
về Thượng đế. Bạn có thể trích dẫn Kinh Thánh, Gita, Veda;

245
điều đó sẽ không ích gì, chừng nào bạn chưa thể nói ra từ
giao cảm bên trong riêng của bạn.

Và Jesus đã nói với họ, "Các ông nói ta là ai?"


Và họ đáp, "Ông là sự biểu lộ thời mạt thế của nền tảng
của con người chúng tôi, sức thu hút được biểu lộ trong
xung đột và quyết định trong quá trình nhân tính hoá."
Và Jesus nói, "Cái gì?"

Bây giờ đây là ngôn ngữ! Ngay cả Giáo hoàng Polack


chắc đã hiểu - đây là ngôn ngữ của các nhà thượng đế học
Ki tô giáo: "Ông là sự biểu lộ thời mạt thế của nền tảng của
con người chúng tôi, sức thu hút được biểu lộ trong xung
đột và quyết định trong quá trình nhân tính hoá."
Và Jesus nói, "Cái gì?!"

Bạn hỏi tôi, Pritama: Sao cái gọi là các học giả có
thẩm quyền...?

Họ không có thẩm quyền; họ trích dẫn người khác. Họ


có thể có thẩm quyền gì? Thẩm quyền phải tới từ kinh
nghiệm đích thực của riêng bạn. Đó là nguồn thẩm quyền
duy nhất; không có nguồn thẩm quyền khác.
Một Ramakrishna có thể nói một cách có thẩm quyền,
một Raman có thể nói một cách có thẩm quyền, nhưng
không phải Vivekananda; ông ấy chỉ là học giả. Mahavira
có thể nói một cách có thẩm quyền, nhưng không phải
Gautam Ganadhara, đệ tử của ông ấy, người chỉ là một học
giả brahmin thu thập thông tin, ghi chép, biên soạn điều

246
Mahavira đã nói. Jesus có thể nói một cách có thẩm quyền,
nhưng không phải các giáo hoàng.
Và điều nực cười là ở chỗ những người này được coi là
có thẩm quyền bởi vì họ có thể trích dẫn đích xác lời của
kinh sách. Nhưng lời của kinh sách có thể được máy tính
trích dẫn hiệu quả hơn nhiều, đích xác hơn nhiều! Nó có thể
được thực hiện bởi thiết bị máy móc; không ý thức nào được
cần tới cho điều đó, không nhận biết nào được cần cho điều
đó. Người ta không cần phải là một Christ để nhắc lại những
lời phúc lớn: "Được ân huệ là người nhu mì vì ân huệ của họ
là vương quốc của Thượng đế." Điều này có thể được máy
ghi âm lặp lại, máy hát lặp lại!
Bạn đã thấy công ti máy hát nổi tiếng nhất chưa, biểu
tượng của Tiếng nói của Thầy? - con chó vẫy đuôi. Đĩa hát
có thể làm điều đó, và đó là điều những giáo hoàng này
đang làm - Tiếng nói của Thầy - các shankaracharyas đang
làm, các ayatollah, imam đang làm - chỉ lặp lại.

Một đứa trẻ nhỏ đang dạy cho con vẹt của nó những lời
chửi tục. Người mẹ khi nghe thấy bị sốc. Cô ta chạy vào và
nói, "Con đang làm gì thế? Con có điên không đấy? Con
đang phá huỷ con vẹt này - con dạy nó chửi tục!"
Và đứa trẻ nói, "Không phải đâu mẹ ơi,con chỉ bảo nó,
'Xin nhớ nhé, các từ này mày không được nhắc lại!' Giống
như cách mẹ đã dạy bố và bố đã dạy con, con đang dạy nó
và con bảo nó, 'Nhớ bảo con mày không nhắc lại những từ
này. Đây là những từ rất xấu và nguy hiểm.'"

247
Bạn có thể dạy vẹt và nó có thể nhắc lại bất kì cái gì,
nhưng vẹt không phải là kẻ có thẩm quyền. Máy có thể làm
được, máy tính thậm chí còn có thể làm tốt hơn nhiều.
Cho nên, Pritama, đừng gọi những người này là người
có thẩm quyền - họ không phải vậy. Họ lừa phỉnh người
khác và có lẽ lừa phỉnh luôn cả họ. Họ không là các triết gia
thực đâu; họ còn là các "ngu gia" hơn là triết gia! Triết học,
chính từ này, ngụ ý tình yêu dành cho trí huệ, và họ không
liên quan tới trí huệ chút nào.
Trí huệ chỉ xảy ra qua thiền; nó không bao giờ xảy ra
bằng việc thu thập thông tin. Nó xảy ra bằng việc trải qua
biến đổi. Trí huệ là việc nở hoa của ý thức của bạn, việc mở
ra của bông sen một nghìn cánh của con người bạn. Nó là
việc toả ra hương thơm của bạn, việc toả ra sự huy hoàng bị
cầm tù.
Triết học thực không liên quan gì tới suy nghĩ; ngược
lại nó có mọi thứ liên quan tới việc siêu việt trên suy nghĩ,
đi ra ngoài và ở bên ngoài suy nghĩ, đi ra ngoài tâm trí, đạt
tới không gian thuần khiết của vô trí. Từ không gian đó cái
gì đó nở hoa trong bạn. Bạn có thể gọi nó là tâm thức Christ,
Phật tính, hay bất kì cái gì bạn thích. Cái đó là triết học
thực.
Từ hay hơn cho philosophy (triết học) - sẽ là philosia
(ái kiến) không chỉ yêu trí huệ mà còn yêu việc thấy chân lí.
sia nghĩa là thấy - kiến, philo nghĩa là yêu - yêu việc thấy.
Đó đích xác là từ Ấn Độ dành cho triết học, darshan;
darshan nghĩa là philosia - ái kiến. Đừng dịch nó thành triết
học philosophy. Tiến sĩ Radhakrishnan và những người
khác đã gây tác hại lớn cho phương Đông bởi việc dịch
darshan là triết học. Nó là ái kiến philosia.

248
Ở phương Đông mối quan tâm của chúng ta bao giờ
cũng là để thấy chân lí, bởi vì bằng việc thấy chân lí, như
Isa Upanishad nói, bạn trở thành bản thân chân lí. Chỉ bằng
việc trở thành chân lí bạn có thẩm quyền; thế thì chân lí nói
qua bạn. Bạn chỉ là trung gian, phương tiện, chiếc sáo trúc
hổng, và Thượng đế bắt đầu hát qua bạn.
Phép màu đó phải xảy ra cho các sannyasin của tôi. Đó
là điều giáo huấn duy nhất của tôi là gì: trở thành chiếc sáo
trúc hổng. Không cản trở. Để Thượng đế chảy qua bạn một
cách tự nhiên, tự phát. Và nếu bạn cho phép bản tính và tính
tự phát của bạn, hệt như mọi sông đạt tới đại dương, bạn
cũng sẽ đạt tới đại dương tối thượng của Thượng đế.

Câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Thầy liên tục nói rồi nói và tôi nghe thấy hoa và im
lặng và tiếng cười ở mọi nơi.
Tới bây giờ đi! Nhận nó đi! Thầy không trong
truyền thống của đệ tử Italia vĩ đại của Phật
Gautam, Maha-Gossipa, sao?

Yoga Nishant,
Tôi không là đệ tử của ai cả, và tôi cũng không là thầy
của ai. Tôi không là thầy của bạn, chỉ là người bạn trên
đường, bạn đồng hành. Và tôi không là đệ tử của ai cả, bởi
vì không cái gì có thể được học từ bất kì ai, và tôi không là
Thầy của ai cả bởi vì không cái gì có thể được dạy.

249
Tôi có thể cho phép bạn hiện hữu cùng tôi. Cái gì đó có
thể xảy ra mà không được làm bởi tôi, không được làm bởi
bạn. Không ai có thể tuyên bố rằng "Tôi là người làm điều
đó." Điều đó có thể đơn giản xảy ra, cũng như vào buổi sáng
mặt trời mọc và hoa nở ra và chim bắt đầu hót. Mặt trời
không thể nói "Ta đã mở đoá hoa ra." Mặt trời không thể nói
rằng, "Ta đã điều khiển toàn thể dàn nhạc này để âm nhạc
đột nhiên phát sinh trên thế gian." Chim cũng không thể nói
rằng, "Bởi việc hót của chúng ta mà mặt trời đã mọc."

Bạn phải đã nghe câu chuyện cổ về một người đàn bà


có một con gà mái, và bà ấy tin rằng chính bởi vì gà của bà
ấy mà mặt trời mọc lên, bởi vì sáng sớm ngay trước lúc mặt
trời mọc con gà đã kêu lên vui sướng. Và bà ấy rất tự hào
bởi vì bà ấy là người duy nhất có con gà mái trong làng.
Mà không ai dường như biết ơn bà ấy, cho nên một hôm
do phẫn nộ bà ấy nói, "Ta bỏ làng này ra đi, và thế thì các
người sẽ biết! Mặt trời sẽ không bao giờ mọc ở chỗ này bởi
vì ta đem con gà mái của ta đi."
Và bà ấy bỏ làng này ra đi, bà ấy sang làng khác, và tất
nhiên khi con gà kêu lên vui sướng vào buổi sáng, mặt trời
mọc lên ở đó và người đàn bà này cực kì vui sướng. Bà ấy
nói "Bây giờ, bây giờ những kẻ ngu kia sẽ hiểu ra. Mặt trời
đã mọc trong làng này, nó không thể mọc ở đằng kia được!
Bây giờ ở kia bao giờ cũng là đêm thôi!"

Chim không thể nói mà hoa cũng không thể nói được
rằng, "Mặt trời đã lên bởi vì chúng ta," mặt trời cũng không
thể nói được. Đó là sự đồng bộ. Từ này rất hay; nó được
Carl Gustav Jung tạo ra. Bạn hiểu luật nhân quả: trong luật
nhân quả điều này vận hành như nguyên nhân và điều khác

250
xảy ra như hậu quả. Bất kì khi nào nguyên nhân được tạo ra,
hậu quả nhất định theo sau. Đó là quá trình máy móc. Bạn
đun nước tới nhiệt độ nào đó và nó bay hơi; việc đun nóng
là nguyên nhân và bay hơi là hậu quả.
Sự đồng bộ là quan hệ phi nhân quả. Mọi sự xảy ra,
nhưng bạn không bao giờ biết cái gì là nguyên nhân và cái
gì là hậu quả. Chúng xảy ra đồng thời.
Đó là cái đẹp xảy ra bất kì khi nào bạn ở cùng với vị
Phật. Phật không phải là Thầy, bạn không là đệ tử; bạn
không học bất kì cái gì từ Phật, Phật không dạy bất kì cái gì
cho bạn. Đó chỉ là việc hiện hữu cùng nhau. Đó là chuyện
tình! Hiện hữu cùng nhau... và cái gì đó xảy ra, cái gì đó ở
bên ngoài cả hai. Cái gì đó được lẩy cò. Nhiều nhất có thể
nói rằng Phật vận hành như tác nhân xúc tác, nhưng bất kì
cái gì xảy ra là xảy ra trong bạn; ông ấy không gây ra nó.
Do đó tôi nói tôi không là đệ tử của ai cả và tôi cũng
không là Thầy của ai. Nhưng, Nishant, bạn đã tìm thấy tên
đúng cho tôi đấy: tôi là người Italy, Maha-Gossipa! Nhớ tới
tôi không phải là người đã cho bạn cẩm nang lớn lao mà
người đã cho bạn nhiều chuyện tầm phào. Cẩm nang của tôi
là chuyện tầm phào của tôi!

Tại câu lạc bộ của các doanh nhân địa phương, bốn
thành viên hội họp với nhau sau vài chầu rượu và bắt đầu
thú nhận những thói hư tật xấu bí mật của mình.
"Tôi phải thừa nhận," ông chủ ngân hàng nói, "rằng tôi
là tay cờ bạc. Mọi tuần tôi đều đánh cá ngựa, không nhiều
lắm, nhưng tôi đã làm điều đó nhiều năm rồi."
"Này, tôi sẽ tới chùi sạch nhược điểm của tôi," giám
đốc điều hành lỗi lạc nói. "Không ai trong thị trấn này đã

251
từng thấy tôi say rượu, nhưng hai lần một năm tôi lái xe
sang thị trấn khác nơi không ai biết tới tôi, thuê một phòng
khách sạn trong vài ngày, uống say, rồi trở về nhà cảm thấy
khoẻ khoắn hơn bao giờ!
"Tôi không xấu hổ mà thừa nhận rằng nhược điểm của
tôi là đàn bà," một doanh nhân quan trọng khác nói. "Tôi
phải rất thận trọng, tất nhiên, nhưng với một thư kí cẩn thận
điều đó có thể xoay xở được khá dễ dàng. Tôi không bao
giờ bị phát hiện ra."
Thành viên thứ tư của nhóm, người đã ngồi nghe có chủ
định, không nói gì. Ông ta là giáo sĩ của làng. Những người
khác trông đợi ông ta để lộ điều gì đó, nhưng ông ta nhún
vai y như cách thức của mọi người Do Thái đủ mọi lứa tuổi.
Ông ta đơn giản nhún vai.
"Này," một trong số họ hỏi, "Ông giáo sĩ ơi, thế ông thì
sao?"
"Tôi thà không thú nhận," ông ấy nói vừa lắc đầu. Họ
nhìn ông ta với vẻ ngờ vực. Ông ấy có thể đang che đậy cái
gì đây? Từng người đều buộc tội ông ta là con bạc tồi, đặc
biệt vì họ tất cả đều đã mở.
Cuối cùng ông giáo sĩ nhượng bộ. "Thôi được," ông ta
nói với vẻ ngần ngại, "nếu các ông phải biết về nhược điểm
của tôi, đó là chuyện tai tiếng - và tôi khó có thể chờ đợi để
thoát ra khỏi chỗ này!"

252
9. Cả hai và nhiều hơn

Những người tôn thờ một mình hành động đi vào


bóng tối khó thấy.
Những người tôn thờ thiền đi vào bóng tối thậm chí
lớn hơn.

Vì Nó khác thiền,
Nó khác hành động.
Điều này chúng ta đã nghe từ người chứng ngộ.

Thiền và hành động -


Người biết hai điều này cùng nhau,
qua hành động bỏ lại chết đằng sau và
qua thiền thu được bất tử.

Người thần tượng hoá cái tuyệt đối đi vào bóng tối
khó thấy,
Người say mê cái tương đối đi vào bóng tối thậm
chí lớn hơn.

Vì Nó khác cái tương đối,


Nó khác cái tuyệt đối.

253
Điều này chúng ta đã nghe từ những người chứng
ngộ.

Aum
Purnam adaha
Purnam idam
Purnat purnamudachyate
Purnasya purnamadaya
Purnameva vashishyate

Aum
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể,
tính toàn thể vẫn còn lại.

P. D. Ouspensky đã viết một cuốn sách cực kì có ý


nghĩa, Tertium Organum. Nền tảng của Tertium Organum
được dựa trên và bắt rễ trong lời kinh này: cái toàn thể bắt
nguồn từ cái toàn thể, vậy mà cái toàn thể vẫn còn lại đằng
sau, nguyên vẹn. Từ cái đó mà cái này tới. Cái đó là cái toàn
thể, cái này là cái toàn thể, nhưng cho dù nó bắt nguồn từ
cái toàn thể, cái toàn thể không bị thu lại theo bất kì cách
nào. Nó vẫn còn như vậy, dường như không cái gì đã bị lấy
ra khỏi nó.
Đây là câu mật chú kì lạ, một trong những mật chú kì lạ
nhất, bởi vì nó đi ngược lại chính ý tưởng của số học. Nó
thuộc vào siêu toán học. Toán học thông thường sẽ không
đồng ý với điều này. Nếu bạn lấy cái gì đó từ bất kì cái gì,
thế thì cái đó bị giảm đi so với nguyên gốc, và nếu bạn lấy
cái toàn thể thì không còn lại gì đằng sau.

254
Ouspensky đã làm việc phục vụ lớn lao cho nhân loại
bằng việc đề nghị một toán học cao hơn, toán học của cõi
bên kia. Đó là chính là Upanishad.
Thứ nhất: cái toàn thể không phải là một thực thể hữu
hạn. Nếu nó hữu hạn, thế thì tất nhiên bạn lấy cái gì đó ra
khỏi nó, nó sẽ bị giảm đi, nó sẽ không là cùng cái cũ nữa.
Cái toàn thể là vô hạn, cho nên bất kì cái gì bạn lấy ra từ nó,
nó vẫn là vô hạn.
Và bạn có thể lấy ra từ đâu? Cái toàn thể lan tràn khắp
nơi, cho nên chính ý tưởng lấy ra chỉ là ý tưởng. Khi có liên
quan tới thực tại, không cái gì được lấy ra khỏi nó và không
cái gì được thêm vào nó; nó bao giờ cũng như là nó luôn là
vậy.
Thứ hai: trong toán học thông thường cái toàn thể là
tổng của các bộ phận của nó; trong toán học cao hơn điều đó
không như vậy. Cái toàn thể không phải là tổng của các bộ
phận của nó, nó là nhiều hơn thế nữa. Cái "nhiều hơn" đó là
rất có ý nghĩa. Nếu bạn không thể hiểu được cái nhiều hơn
đó, bạn sẽ vẫn còn tuyệt đối vô nhận biết về chiều hướng
tôn giáo của mọi việc.
Chẳng hạn, cái đẹp của bông hồng - nó có phải chỉ là
tổng của các bộ phận của bông hồng không? Nó đáng phải
vậy, tương ứng với toán học thông thường - nhưng nó không
phải thế. Cái đẹp là cái gì đó còn hơn. Chỉ bằng việc gắn
mọi hoá chất, nước, đất, không khí, và mọi thứ tạo thành
hoa - cho dù bạn có gắn mọi cái đó lại với nhau, cái đẹp vẫn
sẽ không nảy sinh. Cái đẹp là cái gì đó còn hơn nữa, do đó
trong phân tích nó biến mất.
Nếu bạn đi tới nhà hoá học, nhà khoa học, để truy tìm
về cái đẹp của hoa hồng, ông ấy sẽ phân tích nó. Phân tích là
phương pháp của khoa học. Phân tích ngụ ý phá nó ra thành

255
các bộ phận để cho bạn có thể biết cái gì tạo nên nó. Nhưng
khoảnh khắc bạn phá nó ra thành các bộ phận, cái "hơn nữa"
vô hình biến mất. Cái hơn nữa vô hình ấy tồn tại trong đơn
vị hữu cơ; bạn không thể phân tích nó được. Nó là tổng hợp,
nó là tính toàn bộ.
Cùng điều đó là đúng về mọi giá trị cao hơn. Bài thơ
hay không chỉ là các lời tạo nên nó; nó là cái gì đó hơn nữa.
Bằng không bất kì người nào có thể ghép các lời lại với
nhau theo dạng nhịp điệu sẽ trở thành một Shakespeare, một
Kalidas, một Milton, một Shelley. Thế thì bất kì nhà ngôn
ngữ nào, nhà văn phạm nào sẽ trở thành nhà thơ lớn. Điều
đó không xảy ra. Bạn có thể biết toàn bộ văn phạm của ngôn
ngữ, bạn có thể quen thuộc với mọi từ của ngôn ngữ, dầu
vậy việc là nhà thơ là hiện tượng khác toàn bộ. Thơ tới
trước, thế rồi lời tới, không có điều ngược lại - không phải là
bạn ghép các lời và thơ nảy sinh.

Vài sinh viên của Charles Darwin có lần đã đùa với nhà
khoa học lớn này - bởi vì ông ta liên tục đi tìm mọi dạng
sống và ông ta bao giờ cũng phân loại con vật hay sâu bọ
nào đó thuộc vào loài gì.
Hôm đó là ngày sinh của ông ấy và các sinh viên của
ông ấy nghĩ ra trò chơi tinh nghịch, chỉ để đùa. Họ mổ nhiều
sâu bọ rồi dán các bộ phận của chúng lại - chân từ con bọ
này, cánh từ con bọ khác, đầu từ con thứ ba, thân từ con thứ
tư, vân vân. Ít nhất từ hai mươi con bọ họ xoay xở dán
chúng lại với nhau để tạo thành con bọ mới không tồn tại ở
đâu cả.
Họ đem nó tới cho Charles Darwin và họ nói, "Con này
sẽ làm thầy ngạc nhiên lắm đấy, món quà sinh nhật cho thầy
đấy. Thầy có thể chưa từng bao giờ bắt gặp con bọ này! Và

256
chúng tôi đã giấu nó để dành cho hôm nay. Thầy có thể cho
chúng tôi biết nó thuộc vào loài gì không, tên nó là gì?"
Darwin nhìn con bọ và ông ấy hỏi các sinh viên chỉ mỗi
một câu hỏi; "Nó có kêu bìm bịp không?"
Họ nói, "Có, khi nó còn sống nó hay kêu bìm bịp."
"Thế thì," ông ấy nói, "nó là con bọ bịp!"

Bạn có thể gắn các bộ phận lại với nhau, nhưng bạn sẽ
tạo ra chỉ con bọ bịp mà thôi; bạn sẽ không có khả năng tạo
ra sự sống. Bạn sẽ không có khả năng tạo ra hình dạng mới,
biểu hiện mới của cái gì đó sống.
Upanishad nói về hai loại ba ngôi. Một loại được gọi là
satyam shivam sunderam. Satyam ngụ ý chân lí; shivam ngụ
ý cái thiện, đức hạnh, tinh tuý; sunderam ngụ ý cái đẹp.
Upanishad nói ba điều này ở bên ngoài toán học thông
thường.
Và họ cũng nói về loại ba ngôi khác: satchitanand - sat,
chit, anand. Sat ngụ ý hiện hữu, chit ngụ ý tâm thức, anand
ngụ ý phúc lạc. Upanishad nói loại tam thể này cũng thuộc
vào cõi giới cao hơn, thế giới của sự tổng hợp, tính toàn thể.
Nó ở ngoài logic thông thường, toán học thông thường.
Hai loại ba ngôi này là hay hơn, nhiều ý nghĩa hơn
nhiều so với ba ngôi Ki tô giáo về Thượng đế cha và Christ
con và thánh thần linh thiêng. So sánh với hai loại ba ngôi
này thì ba ngôi Ki tô giáo có vẻ rất chưa trưởng thành, trẻ
con. Đôi khi ngay cả trẻ con là sáng suốt hơn ba ngôi Ki tô
giáo.
Khi Sigmund Freud nói rằng Thượng đế cha không là gì
ngoài một ham muốn sâu sắc của người chưa trưởng thành

257
bám lấy người cha, ý tưởng về người cha, đó là sự dính chặt
vào người cha, ông ấy là đúng. Nhưng ông ấy đã không bao
giờ nghe nói về satyam shivam sunderam hay satchitanand.
Ông ấy chắc không có khả năng nói bất kì cái gì động chạm
tới những cái nhìn tối thượng này.
Ba ngôi Ki tô giáo chắc chắn rất trẻ con, và tôi nói với
bạn, đôi khi ngay cả trẻ con thậm chí là thông minh hơn
nhiều.

Một đứa trẻ nhỏ hỏi một đứa trẻ khác, bạn nó... chúng
đang học bảng chữ cái và đứa trẻ thứ nhất hỏi đứa thứ hai,
"Tại sao có chuyện B bao giờ cũng tới trước C?"
Và đứa trẻ kia nói, "Hiển nhiên rồi, đằng ấy có thể thấy
được chỉ nếu đằng ấy có đấy. Trước hết đằng ấy phải ở đó
đã và chỉ thế thì đằng ấy có thể thấy! Đó là lí do tại sao C tới
sau B. Làm sao nó có thể tới trước được?"

Bây giờ ngay cả hai đứa trẻ này là phát triển hơn nhiều,
cảm nhận hơn nhiều so với ba ngôi Ki tô giáo - cha, con,
thánh thần linh thiêng - họ đang nói về cái vô nghĩa gì vậy?
Những giá trị cao hơn là chân lí, cái thiện, cái đẹp, hiện
hữu, tâm thức, phúc lạc. Và tại sao chúng được gọi là cao
hơn? - bởi vì chúng không tới trong cõi giới của toán học
thấp hơn. Toán học thấp hơn nghĩa là cái toàn thể đơn giản
là tổng của các bộ phận của nó; điều đó xác định ra thế giới
của toán học thấp hơn. Và toán học cao hơn, siêu toán học,
ngụ ý cái toàn thể là nhiều hơn tổng các bộ phận của nó.
Bạn không thể biết được cái đẹp bằng việc phân tích; nó
cần cái nhìn khác, cái nhìn tổng hợp. Nhà thơ có thể hiểu cái
đẹp, nhà khoa học không hiểu. Hoạ sĩ có thể hiểu cái đẹp,

258
nhưng nhà hoá học không hiểu. Chân lí có thể được hiểu chỉ
bởi nhà huyền bí, không bởi triết gia. Nó có thể được hiểu
bởi người yêu nhưng không bởi nhà logic. Nó có thể được
hiểu thấu bởi trực giác nhưng không bởi trí tuệ. Trí tuệ phân
chia; trực giác gắn mọi thứ lại với nhau, và không chỉ gắn
mọi thứ lại với nhau - nó tạo ra một đơn vị hữu cơ.
Sự sống có thể được nhìn theo hai cách: khoa học, phân
tích, hay tôn giáo, tổng hợp.
Lời kinh hôm nay có giá trị lớn lao đến mức chúng là
vô song trong toàn thể sách vở tôn giáo. Ngay cả trong thế
giới của Upanishad - có tất cả một trăm linh tám Upanishad
- những lời kinh này vẫn là vô song, duy nhất.

Lời kinh thứ nhất:

Những người tôn thờ một mình hành động đi vào


bóng tối khó thấy.
Những người tôn thờ thiền đi vào bóng tối thậm chí
lớn hơn.

Hành động ngụ ý cái là bên ngoài bạn, thiền ngụ ý cái là
bên trong bạn. Hành động là bên ngoài, thiền là bên trong.
Hành động là hướng ngoại, thiền là hướng nội. Hành động
là cách tiếp cận đối thể; khoa học được bắt rễ trong nó, do
đó khoa học nhấn mạnh vào thực nghiệm. Và bởi vì khoa
học nhấn mạnh vào hành động, thực nghiệm, nên nó phá
huỷ mọi thứ mà nhiều hơn cái bên ngoài - nó phủ nhận. Nó
đơn giản phủ nhận thế giới bên trong, thế giới chủ thể. Nó
ngớ ngẩn tới mức khoa học chấp nhận cái bên ngoài mà
không chấp nhận cái bên trong. Làm sao cái bên ngoài có

259
thể tồn tại chút nào mà không có cái bên trong? Điều đó là
vô nghĩa.
Nếu có đồng tiền, nó nhất định có hai mặt; bạn không
thể nào tìm được một đồng tiền chỉ có một mặt, đồng tiền
chỉ có một phía; điều đó là không thể được. Dù bạn làm cho
nó mỏng như thế nào nó bao giờ cũng có hai mặt; bạn không
thể làm nó mỏng tới mức nó chỉ có một mặt.
Nhưng khoa học liên tục nhấn mạnh vào sự ngu xuẩn
này: rằng cái bên ngoài là thực và cái bên trong là giả. Nó
tin vào vật chất, nhưng nó không tin vào ý thức. Nó nói vật
chất có tính hợp lệ, và khoa học yêu cầu sự hợp lệ khách
quan. Tất nhiên thế giới chủ thể không thể có sự hợp lệ
khách quan - điều đó hiển nhiên thế. Chính việc hỏi này là
sai. Cái bên trong không thể tới và biểu lộ bản thân nó như
cái bên ngoài, nhưng khoa học là mù về điều đó. Và những
người tin vào khoa học nói rằng ý thức là ảo vọng.
Karl Marx, người cho rằng mình tạo ra chủ nghĩa cộng
sản khoa học, nói rằng ý thức là hiện tượng phụ, sản phẩm
phụ của vật chất. Nó không tồn tại theo quyền riêng của nó;
nó chỉ là tổ hợp của các yếu tố vật chất, hoá học, vật lí. Nó
chỉ là tổ hợp, không gì nhiều hơn điều đó. Khi một người
chết đi các yếu tố bắt đầu tan rã và thế thì ý thức không còn
lại. Do đó không có sự bất tử, không có hồn. Con người trở
thành chỉ là cái máy với khái niệm sai rằng nó có hồn. Con
người không phải là một anh ấy hay một cô ấy mà chỉ là
một cái đó.
Cách tiếp cận khoa học này đã tô mầu lên ngay cả thế
giới tâm lí. Thực ra, chín mươi phần trăm các nhà tâm lí
không nên dùng từ "tâm lí" chút nào; dùng từ này là sai đối
với họ bởi vì họ phủ nhận hồn, vậy mà họ liên tục dùng từ
"tâm lí".

260
Chín mươi phần trăm các nhà tâm lí thuộc vào trường
phái có tên là Chủ nghĩa hành vi - Pavlov, Skinner, Delgado
và những người khác. Họ nói con người không là gì ngoài
hành vi của người đó; không có người nào bên trong người
đó. Bên trong không tồn tại; dù con người là bất kì cái gì,
người đó là ở bên ngoài. Do đó người đó có thể được nghiên
cứu giống như bất kì đối thể nào, bất kì đối thể khác, người
đó có thể được nghiên cứu giống như bất kì cái máy nào.
Isa Upanishad nói:

Những người tôn thờ một mình hành động đi vào


bóng tối khó thấy.

Họ rơi vào bóng tối khó thấy chỉ bởi việc đi theo cái
bên ngoài, hướng ngoại, mục tiêu. Họ mất đi mọi cảm giác
về cái bên trong. Họ sẽ tồn tại như người máy.
Đó là lí do tại sao một người như Joseph Stalin dễ dàng
giết hàng triệu người. Bạn thấy thế giới logic kì lạ này chưa?
Krishna có thể nói với đệ tử của mình, Arjuna, "Anh có thể
giết người, không có vấn đề gì cả, bởi vì hồn là vĩnh hằng;
nó không thể bị giết chết được, nó không thể bị thiêu cháy
được. Không vũ khí nào có thể đi vào trong nó. Nainam
chhindanti shastrani: không có cách nào - không kiếm,
không giáo nào có thể chạm được vào nó. Nainam dahati
pavakah: không lửa nào có thể thiêu cháy được nó. Hồn là
bất tử, vĩnh hằng; chỉ thân thể chết."
Do đó ông ấy nói với đệ tử của mình, Arjuna, "Đừng lo
nghĩ, đừng thấy mặc cảm. Anh có thể giết bởi vì không cái
gì bị giết: Na hanyate hanyamane shareere. Khi anh giết
một thân thể, không cái gì bị giết, bởi vì thân thể đã chết và
hồn là bất tử, cho nên ai bị giết? Thân thể đã chết rồi, bao
giờ cũng đã chết rồi; nó là vật chất. Và hồn bao giờ cũng bất
261
tử, vẫn bất tử. Anh chỉ ngắt móc nối chúng ra, và không có
gì sai trong việc ngắt móc nối chúng. Anh chỉ phân tách
chúng ra - phân tách cái tinh tuý ra khỏi các không tinh tuý.
Thực ra, anh đang làm việc phục vụ lớn lao cho người anh
giết! Bản thân người đó không thể tách được phần tinh tuý
ra khỏi phần không tinh tuý - anh đã làm điều đó hộ cho
người đó."
Và Joseph Stalin có thể giết hàng triệu người... logic là
khác toàn bộ, nhưng kết quả là như nhau. Đó là lí do tại sao
tôi nói thế giới của logic rất kì lạ. Joseph Stalin là người
cộng sản khoa học, một tín đồ cuồng tín của Karl Marx và
Friedrich Engels. Ông ấy nói không có hồn, cho nên không
cái gì bị giết cả - bạn có thể giết người! Thân thể chỉ là vật
chất, và vật chất sẽ còn lại. Không khí vẫn còn trong không
khí, đất sẽ quay trở lại đất, nước sẽ đi vào nước, và mọi yếu
tố sẽ rải rác trở lại. Và không có hồn, cho nên không cái gì
bị giết. Không có bất kì mặc cảm nào, ông ấy đã giết hàng
triệu người.
Arjuna cũng giết hàng triệu người mà không mặc cảm
nào, Mao Trạch Đông đã làm cùng điều đó, nhưng cách tiếp
cận của họ rất khác biệt. Nhưng dường như là phủ nhận một
thứ, hoặc bên ngoài hoặc bên trong, là nguy hiểm: kết quả
chung cuộc của nó sẽ là huỷ diệt.
Do đó Isa Upanishad là đúng:

Những người tôn thờ một mình hành động đi vào


bóng tối khó thấy.
Những người tôn thờ thiền đi vào bóng tối thậm chí
lớn hơn.

Một mình thiền lại dẫn tới cực đoan khác. Thiền ngụ ý
bên trong, chủ thể; nó ngụ ý hướng nội. Và hiển nhiên người
262
hướng nội bắt đầu phủ nhận tất cả thực tại bên ngoài. Họ bắt
đầu nói nó là maya, nó là ảo vọng.
Karl Marx nói cái bên trong là ảo vọng, hiện tượng phụ.
Và Shankara và Berkeley, họ nói cái bên ngoài là ảo vọng,
cái bên trong là chân lí duy nhất. Cả hai không có khả năng
chấp nhận tính toàn bộ. Họ chọn lựa, họ không phải là người
vô chọn lựa.
Tôn giáo được sinh ra từ nhận biết vô chọn lựa. Người
thứ nhất, người đã chọn một mình hành động, trở thành nhà
khoa học. Người thứ hai, người đã chọn một mình thiền, trở
thành triết gia. Nhưng cả hai bỏ lỡ cái toàn thể.
Và nhớ một điều: chân lí một nửa là nguy hiểm hơn bản
thân điều phi chân lí, chân lí bộ phận là có hại hơn bản thân
điều phi chân lí. Tại sao? - bởi vì rất khó bác bẻ chân lí bộ
phận bởi vì nó có cái gì đó của chân lí trong nó. Mặc dầu nó
là bộ phận, nhưng bởi vì sự hiện diện đó mà khó phủ nhận
nó.
Khó mà phủ nhận Karl Marx và khó mà phủ nhận
Shankara. Cả hai là những người tin tưởng vào một khía
cạnh của thực tại. Không ai trong họ mang tính tôn giáo.
Người này đang đi ra ngoài, người kia đang đi vào trong, và
thực tại là cả hai và hơn nữa.
Đó là cách tiếp cận của tôi ở đây, cách tiếp cận toàn bộ
tới sự sống. Do đó tôi không nói với các sannyasins của tôi,
"Trốn vào các tu viện hay các hang động Himalaya." Tôi
không nói, "Từ bỏ thế giới." Từ bỏ thế giới ngụ ý từ bỏ hành
động. Thế thì bạn sẽ làm gì trong các hang động và trong tu
viện? Thế thì chỉ thiền là còn lại.
Trong quá khứ điều này đã là hoàn cảnh: hoặc người ta
sống trong thế giới... thế thì người đó rất hoạt động nhưng
hành động của người đó là hời hợt vì không có thiền trong

263
người đó, không chiều sâu, không thế giới bên trong. Người
đó chỉ là hành vi của người đó; người đó chỉ là quần áo bên
ngoài của mình, ngoại vi của mình. Một cách tự nhiên người
đó đã tạo ra một thế giới nông cạn không có chiều sâu,
không có chiều cao; người đó đã tạo ra một thế giới rất
nghèo nàn.
Và thế rồi có những người cực đoan khác, người trốn
khỏi thế giới. Thấy cái hời hợt của nó, thấy tính chất ngoại
vi của nó, người đó từ bỏ nó. Tất nhiên người đó bắt đầu đi
sâu hơn vào bản thân người đó, nhưng việc đi sâu hơn của
người đó vào bản thân người đó trở thành phi sáng tạo.
Người đó có chiều sâu, nhưng chiều sâu đó vẫn còn không
được diễn đạt. Người đó im lặng, nhưng không có bài ca
trong nó. Và khi im lặng không có bài ca, nó là chết; nó có
chiều sâu nhưng không biểu lộ.
Bạn có thể là hoạ sĩ lớn nhưng chừng nào bạn chưa vẽ,
phỏng có ích gì để là hoạ sĩ lớn? Bạn có thể là nhà thơ lớn
nhưng chừng nào bạn chưa ca lên, việc là nhà thơ lớn của
bạn phỏng có ích gì?
Cho nên một mặt có những người đã chọn hành động,
thế giới - người hướng ngoại; và mặt khác có những người
hướng nội đã chọn con người riêng của họ. Cả hai đều thiên
lệch. Do đó tôi đồng ý với Upanishad: sự sống phải là toàn
bộ, không thiên lệch. Chỉ thế thì có cân bằng và trong cân
bằng đó là âm nhạc; trong cân bằng đó có trung tâm và chu
vi. Trong cân bằng đó bạn được bắt rễ vào bản thân bạn,
nhưng bạn không phải là phi sáng tạo, bạn mang tính sáng
tạo.
Các sư, các ni trong nhiều thời đại đã từng tuyệt đối phi
sáng tạo; họ đã không đóng góp bất kì cái gì cho thế giới.
Thực ra, những người nông cạn đã đóng góp còn hơn nhiều,
do đó có nhấn mạnh này. Isa Upanishad nói:
264
Những người tôn thờ một mình hành động đi vào
bóng tối khó thấy.
…đi vào bóng tối thậm chí còn lớn lao hơn, nhớ
nhấn mạnh này
Những người tôn thờ thiền đi vào bóng tối thậm chí
lớn hơn.

Upanishad thực sự dũng cảm: họ nói chân lí như nó


vậy, không thoả hiệp. Không ai đã từng nghĩ rằng
Upanishad sẽ khắt khe với thiền như vậy. Có thể dễ dàng
hiểu rằng chúng khắt khe với tâm trí hướng ngoại nhưng
chúng là khắt khe hơn với người hướng nội bởi lẽ đơn giản
là người hướng ngoại là nông cạn nhưng ít nhất người đó đã
đóng góp cái gì đó cho thế giới này.
Bạn có thể thấy điều đó: phương Đông đã sống với một
mình thiền và phương Tây đã sống với một mình hành động.
Phương Tây sống trong một loại mù, nhưng phương Đông
sống trong bóng tối sâu sắc hơn, trong mù sâu sắc hơn. Tâm
trí phương Tây là nông cạn, nhưng nó ít nhất đã đóng góp
nhiều - công nghệ, công nghiệp, nghề nông khoa học. Nó
cho mọi người một chuẩn mực sống tốt hơn; nó có thể đã
không cho họ phẩm chất cuộc sống tốt hơn nhưng ít nhất nó
đã cho họ một chuẩn mực sống tốt hơn. Nó cho họ nhà cửa
tốt hơn, đường xá tốt hơn, xe cộ tốt hơn, máy bay tốt hơn.
Nó có thể đã không cho họ ý thức tốt hơn, nhưng nó đã
đóng góp, nó đã có tính sáng tạo - tất nhiên nông cạn thôi.
Nhưng phương Đông, đã trở thành kẻ đào tẩu nhân danh
thiền, về cơ bản trở thành kẻ bỏ dở nửa chừng, đã không
đóng góp được nhiều như vậy.
Cái gọi là thánh nhân của bạn ở phương Đông đã đóng
góp được gì? Nó nghèo nàn bởi vì các thánh nhân đó, và nó

265
sẽ còn nghèo nàn chừng nào các thánh nhân đó vẫn còn
được kính trọng. Nhưng mọi người liên tục kính trọng cùng
những truyền thống già cỗi mục ruỗng đó; họ không thể
thấy được. Sự mù của họ càng sâu hơn, bóng tối của họ càng
tối hơn. Họ thậm chí không thể thấy được ai là nguyên nhân
của mọi khổ này.
Hai mươi hai thế kỉ nô lệ ở Ấn Độ. Ai là nguyên nhân
cho mọi điều này? Các thánh nhân của bạn, các mahatma
của bạn, cái gọi là các hiền nhân của bạn, những người trốn
vào tu viện, người trốn vào các hang động Himalaya, vào
rừng sâu, vào rừng rậm - và bạn đã tôn thờ họ, bạn đã kính
trọng họ. Khi bạn kính trọng ai đó, điều đó ngụ ý sâu bên
dưới bạn cũng muốn giống người đó - đó chính là điều kính
trọng ngụ ý.
Từ "respect - kính trọng" thật hay; nó ngụ ý nhìn đi
nhìn lại - "re-spect". Khi bạn đi qua một người đàn bà đẹp,
nếu cô ấy thực đẹp thì bạn sẽ phải nhìn đi nhìn lại. Đó chính
là respect: nhìn đi nhìn lại. Bạn sẽ bước chậm lại, bạn sẽ tìm
cớ để quay lại, bạn sẽ đi vào cùng cửa hiệu mà người đàn bà
đó đã vào, bạn sẽ bắt đầu hỏi về cùng món hàng cô ấy mua
để cho bạn có thể ở cùng một quầy. Bạn sẽ không nhìn vào
mọi thứ, bạn sẽ nhìn vào cô ấy. Đây là kính trọng - respect -
nghĩa đen của từ này!
Khi bạn kính trọng một người điều đó ngụ ý bạn bị mê
hoặc, mê tít. Bạn sẽ muốn giống như người đó. Và phương
Đông vẫn liên tục kính trọng cùng những kẻ ngu là nguyên
nhân cho khổ của nó, đói kém của nó, toàn thể trạng thái
xấu xí của nó.
Mọi người đang chết; sáu mươi phần trăm người ở Ấn
Độ đang chết đói, và đến cuối thế kỉ này Ấn Độ sẽ là nước
lớn nhất khi có liên quan tới dân số. Nó đang sắp sửa vượt
qua Trung Quốc; đến cuối thế kỉ này nó sẽ là nước đông dân
266
nhất. Ngay bây giờ vấn đề của nó đã mênh mông rồi - cái gì
sẽ xảy ra đến cuối thể kỉ này? Một thảm họa lớn đang chờ
đợi: ít nhất một nửa dân số sẽ chết bởi nạn đói, khan hiếm
thức ăn, lụt lội. Bởi gia trì của Thượng đế cái gì đó nhất
định xảy ra!
Ai chịu trách nhiệm cho mọi điều này? - những người
đã khăng khăng ít nhất trong ba nghìn năm rằng cái thực là
cái bên trong và cái bên ngoài là maya, ảo tưởng, sao bận
tâm về nó?
Trên toàn thế giới mọi thứ đã thay đổi, ngoại trừ ở mỗi
đất nước không may này. Ấn Độ chưa phải là một phần của
thế kỉ hai mươi; nó tụt lại đằng sau ít nhất một nghìn năm.
Mọi người ở Ấn Độ vẫn chưa có khả năng ngay cả việc
cung cấp cho bản thân họ các tiện nghi vệ sinh đơn giản. Cả
nước được dùng như cái nhà xí bao la và không ai dường
như bị bận tâm về điều đó! Nó được coi như đương nhiên.
Cả nước đang sống trong điều kiện mất vệ sinh, trong ốm
yếu, nhưng điều đó nữa được coi như đương nhiên. Và
chúng ta đã tìm ra lời giải thích và cách hợp lí hoá cho điều
đó - rằng đấy là vì nghiệp quá khứ mà chúng ta phải chịu
đựng. Điều đó ngụ ý mọi tội nhân được sinh ra chỉ ở Ấn Độ
còn mọi thánh nhân được sinh ra ở các nước phương tây -
những người duy vật! Họ đáng ra không nên đi tới đó chút
nào! Nhưng đây là cách để né tránh việc nhìn chân lí. Chân
lí là ở chỗ bạn đã ca ngợi cái bên trong quá nhiều và phá
huỷ cái bên ngoài.
Và tôi đồng ý với Upanishad: rằng nếu bạn phải chọn
giữa hành động và thiền, tốt hơn cho bạn là chọn hành động.
Nó sẽ dẫn tới bóng tối, nhưng nó sẽ không tối như nếu bạn
chọn chỉ mỗi mình thiền. Nhưng không cần chọn ngay chỗ
đầu tiên - bạn có thể có cả hai mà! Khi bạn có thể có cả hai,
sao chọn?

267
Vì Nó khác thiền...

Chân lí là khác thiền.

Nó khác hành động.

Chân lí là nhiều hơn nhiều so với hành động: nó là cả


hai và hơn thế. Và bạn sẽ biết cái "nhiều hơn" chỉ nếu bạn
có khả năng tạo ra sự tổng hợp giữa cái bên ngoài và cái bên
trong, giữa hành động và thiền. Thiền, nhưng để cho việc
thiền của bạn được diễn đạt trong hành động. Hành động, và
để hành động của bạn trở thành một phần của thiền của bạn.
Không có nhị nguyên, không có đối kháng giữa hai điều
này. Người ta có thể hành động mang tính thiền, người ta có
thể nhảy múa mang tính thiền.
Khi bạn nhảy múa mang tính thiền, điệu múa của bạn
bắt đầu có hương vị mới - cái gì đó của điều thiêng liêng đi
vào trong nó - bởi vì nếu bạn nhảy múa có tính thiền thế thì
bản ngã biến mất, người múa biến mất. Đó là toàn thể nghệ
thuật của thiền: biến mất của bản ngã, biến mất của tâm trí.
Người múa trở thành vô ý nghĩ, im lặng, điệu múa tiếp tục
còn người múa biến mất. Đây là điều tôi gọi là phẩn chất
thiêng liêng: bây giờ dường như Thượng đế đang nhảy múa
qua bạn, bạn không còn đó nữa.

Một trong những vũ công vĩ đại nhất của thời đại này là
Nijinsky, và phải đã có, bởi tình cờ thôi, sự tổng hợp nào đó
giữa múa và thiền trong ông ấy. Ông ấy không phải là thầy
về điều đó, bởi vì ông ấy không bao giờ biết tới nghệ thuật
của thiền. Điều đó phải đã xảy ra như hệ quả của nỗ lực toàn

268
bộ của ông ấy để đi vào trong điệu múa, cam kết toàn bộ của
ông ấy.
Và phép màu thỉnh thoảng xảy ra: Nijinsky sẽ lấy
những bước nhảy cao thế, nhảy vút lên trong không trung,
điều không thể làm được về mặt vật lí bởi vì sức hút của trái
đất. Và khán giả đơn giản bị bàng hoàng; họ sẽ mất đi vài
nhịp tâm đập. Thực là phép màu khi thấy Nijinsky chuyển
động, dường như không có trọng lực nào cả - ông ấy sẽ lấy
bước nhảy cao thế và dễ dàng thế!
Và điều thứ hai là, khi ông ấy bắt đầu hạ xuống, ông ấy
sẽ xuống như chiếc lông rơi xuống rất chậm, dường như
không vội vàng gì, dường như sức hút không kéo ông ấy
như nan châm. Theo các qui tắc khoa học điều đó là không
thể được, nhưng bạn có thể làm được gì khi điều đó xảy ra?
Ngay cả các nhà khoa học đã quan sát Nijinsky và họ bị
phân vân.
Nijinsky được hỏi đi hỏi lại, "Ông làm điều đó thế
nào?" Ông ấy nói, "Điều đó tôi không thể nói được, bởi vì
khi nó xảy ra tôi không có đó. Tôi đã thử điều khiển nó và
tôi bao giờ cũng thất bại. Bất kì khi nào tôi thử điều khiển
nó, nó đều không xảy ra. Thỉnh thoảng khi tôi quên mất bản
thân mình hoàn toàn, khi tôi hoàn toàn bị bỏ quên bẵng, nó
xảy ra. Nó xảy ra theo cách riêng của nó; tôi không thể điều
khiển được. Tôi không thể nói rằng mai nó sẽ xảy ra. Ông
không phải là người duy nhất bị ngạc nhiên đâu. Khi nó xảy
ra, bản thân tôi cũng ngạc nhiên, hoàn toàn ngạc nhiên, bởi
vì tôi trở nên vô trọng lượng."

Thiền nhân có thể là vũ công, thực ra là vũ công vĩ đại


hơn bất kì ai khác. Vũ công có thể là thiền nhân, thiền nhân
vĩ đại hơn bất kì ai khác. Hoạ sĩ có thể là thiền nhân, và thế

269
thì tranh của ông ấy sẽ có hương thơm hoàn toàn khác,
hương vị khác, cái đẹp khác.
Và điều này là như vậy đối với mọi hành động: bất kì
cái gì bạn làm, đừng từ bỏ nó - biến đổi nó qua thiền đi.
Hành động phải được biến đổi, không bị từ bỏ. Thế giới
phải được chuyển hoá, bạn không định trốn khỏi nó. Nó là
cơ hội Trời cho mà.
Và nhớ, chân lí tối thượng không thể bị thu lại thành
hành động hay thiền: nó là cả hai và hơn nữa. Đừng bao giờ
quên cái hơn nữa, bởi vì nếu bạn quên, bạn sẽ lỡ toàn bộ vấn
đề - bạn sẽ lỡ toán học cao hơn. Nó mang tính siêu việt; nó
vượt qua mọi nhị nguyên và mọi cực. Nó không chỉ là tổng
cộng của các bộ phận của nó, nó là cái gì đó hơn nữa - giống
như cái đẹp, giống như âm nhạc, giống như thơ ca.

Điều này chúng ta đã được nghe từ những người


chứng ngộ.

Nhớ, Upanishad này đã không được đích thân các Thầy


viết ra; đây là ghi chép của các đệ tử. Thầy bao giờ cũng tin
vào lời được nói ra; có lí do cho điều đó. Thầy không bao
giờ viết sách. Lời nói ra có phẩm chất sống động của nó;
chữ viết ra là chết, nó là cái xác.
Khi tôi nói với bạn đó là điều khác toàn bộ với khi bạn
đọc nó trong sách, bởi vì khi bạn đọc trong sách nó chỉ là lời
mà thôi; khi bạn nghe Thầy nó là nhiều hơn lời. Sự hiện
diện của Thầy chế ngự bạn! Trước khi lời đạt tới bạn, Thầy
đã tới rồi; thầy đã tràn ngập bạn rồi. Tâm bạn thở cùng
Thầy, đập cùng Thầy theo cùng nhịp. Bạn đang thở theo
cùng nhịp điệu. Có giao cảm, mối nối vô hình, sự hiện diện
của Thầy, cử chỉ của thầy, mắt thầy... những lời thầy nói ra
là những từ bình thường, nhưng khi được Thầy nói ra chúng
270
mang cái gì đó của cõi bên kia; chúng mang im lặng nào đó,
tính thiền nào đó, kinh nghiệm nào đó của thầy, bởi vì
chúng tới từ cốt lõi bên trong nhất của thầy.
Điều đó cũng giống như đi qua khu vườn: cho dù bạn
không chạm vào một đoá hoa nào, nhưng khi bạn về nhà
bạn có thể vẫn cảm thấy hương thơm của khu vườn; quần áo
bạn đã bắt mùi thơm đó, tóc bạn đã bắt nó. Phấn hoa vương
theo gió. Bạn không chạm vào cái gì cả, nhưng hương thơm
ở trong không trung; nó đã trở thành cái gì đó là một phần
của bạn.
Thầy đơn giản ngụ ý huệ quyển nào đó. Từ "huệ quyển
- noosphere" do Chardin đặt ra, một trong những người rất
kì lạ của thế kỉ này. Ông ấy về cơ bản được đào tạo là nhà
khoa học - ông ấy là nhà địa lí - nhưng toàn thể tâm của ông
ấy là tâm của nhà huyền bí. Điều rất không may là ông ấy đã
thuộc vào Nhà thờ Thiên chúa giáo, và Giáo hoàng đã ngăn
cản không cho công bố bất kì ý tưởng nào của ông ấy khi
ông ấy còn sống. Và ông ấy là người vâng lời thế, ông ấy
tuân theo mệnh lệnh, cho nên trong khi ông ấy còn sống
không ai biết tới ông ấy. Sách của ông ấy được công bố chỉ
sau khi ông ấy chết, nhưng những cuốn sách đó là quan
trọng vô cùng, bởi vì ông ấy là nhà khoa học và vậy mà là
thiền nhân, con người của lời cầu nguyện lớn lao; có sự tổng
hợp nào đó. Cách tiếp cận của ông ấy rất rõ ràng, giống như
cách tiếp cận của nhà khoa học vậy mà đầy tính thơ ca.
Nhưng thế giới đã bỏ lỡ giao cảm trực tiếp với Chardin.
Nhà thờ Thiên chúa giáo là thủ phạm - họ đã cấm đoán. Họ
bao giờ cũng chống lại bất kì cái gì mới xảy ra trên thế giới.
Cho nên chỉ khi ông ấy chết rồi bạn bè ông ấy mới bắt đầu
xuất bản sách của ông ấy. Bây giờ những người bắt gặp sách
của ông ấy đều có thể thấy thế giới đã bỏ lỡ cái gì, bởi vì
bây giờ chúng chỉ toàn lời - những lời hay.

271
Chardin đã sáng tác ra từ "noosphere - huệ quyển".
Chúng ta đã quen thuộc với từ "atmosphere - khí quyển";
bầu khí quyển ngụ ý không khí bao quanh bạn, khí hậu bao
quanh bạn. Noosphere - huệ quyển ngụ ý thế giới của những
rung động, ý nghĩ, tình cảm tinh tế đang bao quanh bạn.
Thầy mang huệ quyển quanh thầy; tôi gọi nó là "Phật
trường". Người Jain có một ý tưởng rất đặc biệt về nó; họ đã
làm việc cần mẫn để tìm ra nó, đích xác nó là gì. Và tôi nghĩ
không một tín ngưỡng nào đã từng khám phá ra mọi chi tiết
về Phật trường bao quanh một Thầy như Mahavira. Người
Jain đã làm việc - họ có chút ít tính khoa học trong cách tiếp
cận của họ - và tôi đồng ý với những khám phá của họ về
Phật trường.
Họ nói Thầy có Phật trường xung quanh Thầy trải ra
theo mọi hướng xa tới hai mươi bốn dặm - một vòng tròn
với bán kính hai mươi bốn dặm trở thành Phật trường bất kì
khi nào một người trở nên chứng ngộ. Không truyền thống
nào khác đã làm việc về điều đó với chi tiết khoa học đến
thế - cho dù họ đã đo chiều dài, vòng tròn lớn tới mức nào
bao quanh người đã thức tỉnh.
Bất kì ai có chút ít mở đi vào trong Phật trường sẽ cảm
thấy cái gì đó kì lạ mà người đó không bao giờ cảm thấy
trước đây. Nhưng điều đó xảy ra chỉ nếu người ta mở.
Nhiều người hỏi tôi, "Nếu chúng tôi tới đây và không
trở thành sannyasins, chúng tôi sẽ không có khả năng nhận
được ân huệ của thầy sao?" Từ phía tôi không có vấn đề gì:
tôi không gửi năng lượng của tôi tới bất kì ai nói riêng, nó
đơn giản có đó. Nó là huệ quyển; điều đó tất cả tuỳ thuộc
vào bạn.
Trở thành sannyasin đơn giản ngụ ý bạn vứt bỏ đi mọi
phòng thủ của bạn, ngụ ý bạn rút lui khỏi mọi biện luận của

272
bạn, ngụ ý bạn đang mở các cửa sổ và cửa ra vào cho tôi -
có vậy thôi! Đó là động thái về phía bạn rằng bạn mong
manh, bạn cảm nhận, nhạy cảm, rằng bạn thành sẵn có. Tôi
đang sẵn có đây dù bạn có là sannyasin hay không; điều đó
không thành vấn đề. Tôi sẵn có ngay cả cho những cái cọc
này của Phòng Phật! Nhưng tôi có thể làm được gì? - nếu
chúng không mặc áo da cam, chúng sẽ lỡ!
Sannyasin đơn giản ngụ ý tính sẵn sàng để đón nhận.
Năng lượng có đó; nếu cái gì đó bị lỡ, cái đó thuộc về phần
bạn.
Mọi Thầy của mọi thời đại đều phụ thuộc vào lời nói ra
bởi lẽ đơn giản vì lời nói ra đi trực tiếp từ cốt lõi bên trong
nhất của họ. Nó mang hương thơm của thế giới bên trong
của họ, sự phong phú của thế giới bên trong của họ, cái đẹp
của thế giới bên trong của họ. Nó thấm đẫm con người bên
trong của họ, nó tràn đầy năng lượng của họ. Vào lúc nó
được viết ra nó sẽ không phải là cùng điều đó nữa.
Lời nói ra ngụ ý giao cảm giữa Thầy và đệ tử. Lời viết
ra không phải là giao cảm, nó là trao đổi; bất kì ai cũng có
thể đọc được nó. Học sinh có thể đọc nó, học sinh không
cần phải là đệ tử. Kẻ thù có thể đọc nó, người đó thậm chí
không cần là học sinh. Ai đó có thể đọc nó chỉ để tìm ra các
lỗi trong nó, chỉ để tìm ra cái gì đó để cho người đó có thể
biện minh chống lại nó.
Nhưng với lời nói ra đó là điều hoàn toàn khác. Ngay cả
người đối lập có tới, lời nói ra vẫn nhảy múa xung quanh
người đó. Có mọi khả năng là mặc dầu người đó đã tới với
kết luận, ý tưởng định sẵn, ý tưởng định sẵn của người đó có
thể trở nên chùng lỏng ra chút ít, người đó có thể trở nên
thảnh thơi chút ít. Người đó có thể bắt đầu nhìn lại trước khi
người đó làm bất kì quyết định nào. Người đó có thể bắt đầu
gạt các ý tưởng tiên thiên của mình sang bên. Tin đồn mà
273
người đó đã nghe có thể dễ dàng bị gạt sang bên nếu người
đó tới tiếp xúc với lời được nói ra.
Đó là lí do tại sao đệ tử người đã viết ra những lời kinh
tuyệt diệu này, đã ghi lại chúng - chúng là bản ghi chép của
người đó - đã nói:

Điều này chúng ta đã được nghe từ những người


chứng ngộ.

Người đó không nói rằng, "Đây là kinh nghiệm của


tôi." Người đó không nói rằng, "Tôi là người viết ra những
lời kinh tuyệt vời này." Khiêm nhường của người đó... đó là
dấu hiệu của đệ tử. Điều đó đã biến mất khỏi thế giới này;
chính hiện tượng đệ tử đã trở thành ngày một hiếm hơn, nó
đã trở thành gần như không tồn tại. Bằng không đã không có
ai ngăn cản người đó kí vào những lời kinh này. Người đó
có thể đã nói, "Những lời kinh này là của tôi."
Mới vài ngày trước đây một cuốn sách về Marathi đã
được xuất bản từ Bombay. Ông ta đã đánh cắp cả một
chương từ một cuốn sách của tôi - cả chương mà không thay
đổi gì; thậm chí không thêm hay bớt lấy một từ. Và ông ấy
đã dùng cả chương đó làm phần giới thiệu cho cuốn sách
của ông ấy. Đó là một trong những lời giới thiệu của tôi về
Ashtavakra Gita, và khi điều đó bị phát hiện ra, một bức thư
đã được viết cho ông ấy rằng, "Chuyện đó xảy ra như thế
nào?" Ông ấy đã không đáp lại. Thế rồi một thư chính thức
đã được trao cho ông ấy - thế là ông ấy chạy tới và ông ấy
nói, "Tôi đã không nhận biết về luật pháp." Nhưng ông ấy
đã được bảo đấy không chỉ là vấn đề luật pháp.
"Ông không nhận biết rằng ông đang chuyển cả chương
này vào trong Marathi mà không đổi một lời sao? Ông đã
không nhắc tới việc ông lấy nó ra từ đâu, ông đã không hỏi
274
xin phép chúng tôi, nhưng điều đó không quan trọng mấy.
Ông thậm chí đã không nhắc tới... cho dù điều đó là không
quan trọng mấy. Chúng tôi đã viết một bức thư cho ông; ông
thậm chí đã không đáp lại bức thư đó."
Mọi người đã đánh mất mọi sự chân thành, và điều này
không nên như vậy với người bình thường - cho dù điều đó
đôi khi xảy ra cho các sannyasins của tôi. Khi họ quay về
nước họ và họ bắt đầu một trung tâm ở đó, sớm hay muộn,
chỉ vài người trong họ thôi - nhưng điều đó nữa là không
nên xảy ra - bắt đầu vận hành dường như điều họ đang nói là
của riêng họ. Họ bắt đầu giả vờ rằng họ là những người
chứng ngộ, rằng họ là những Thầy. Nếu bạn là người chứng
ngộ, không có vấn đề gì, nếu bạn là Thầy rồi, không có vấn
đề gì, nhưng bạn không là vậy! Và họ liên tục tới tôi, và họ
liên tục hỏi cùng những câu hỏi ngu xuẩn họ vẫn thường hỏi
trước đây, nhưng trở về nước họ bắt đầu hành xử có vẻ như
họ đã chứng ngộ hay họ là các Thầy theo quyền riêng của
họ. Họ lặp lại lời tôi mà thôi.
Mới hôm nọ tôi đã thấy một cuốn sách nhỏ của một tâm
xã ở Tây Ban Nha. Cộng đồng này tuyệt đối được cai quản
theo cùng đường lối như tâm xã của tôi, thậm chí họ tự gọi
bản thân họ là "người cam". Họ tự gọi bản thân họ là
sannyasin, họ mặc quần áo cam, họ đeo vòng mala. Khác
biệt duy nhất chỉ là ở chỗ không có trái tim lồng ảnh, thay
cho trái tim lồng ảnh họ có biểu tượng Hindu AUM. Họ làm
Thiền Động, họ làm Thiền Kundalini, họ tập Nadabrahma.
Họ đổi tên họ - họ dùng tên tiếng Phạn, tên Ấn Độ - nhưng
họ không muốn bị coi là họ thuộc vào tôi. Một tâm xã ba
mươi người hành xử độc lập.
Và người đứng đầu không bao giờ ở đây, nhưng người
đó liên tục phái người của ông ta tới. Nhiều người đã tới
đây, họ nhận tính chất sannyas ở đây, và khi họ quay trở về

275
thay đổi duy nhất phải được làm là bỏ bức tranh ra khỏi trái
tim lồng ảnh và đặt vào đó AUM, và mọi thứ là được!
Trong tờ rơi của họ, họ đã dùng lời tôi, phát biểu của
tôi, mà không nhắc gì tới tôi, chỉ dịch sang tiếng Tây Ban
Nha, và điều đó đã trở thành của riêng họ. Và bạn sẽ ngạc
nhiên: họ quản lí một cửa hiệu bán vòng đeo mala, một
tiệm, một Vrindavan. Nó là bản sao thực!
Mọi người đã đánh mất mọi tính chân thực. Người đã
viết những ghi chép này thậm chí không nêu tên mình,
nhưng người đó liên tục lặp đi lặp lại:

Điều này chúng ta đã được nghe từ những người


chứng ngộ.

Và nhớ, người đó không nói, "Điều này tôi nghe" cho


dù chúng ta đã nghe. Người này đơn giản đại diện cho toàn
bộ thế giới của đệ tử của Thầy. Người này thậm chí không
dùng từ "tôi" nữa, rằng điều này tôi đã nghe.

Điều này chúng ta đã được nghe từ những người


chứng ngộ.

"Những người đã biết, chúng tôi đã nghe nó từ họ."


Người đó không tự đem bản thân mình vào chút nào.
Mới hôm nọ tôi nhận được một bức thư từ Sudha. Vài
ngày trước đây cô ấy đã viết một bức thư rằng, "Osho ơi, tôi
đang trong xung đột lớn: tôi không thể rời bỏ thầy được, tôi
không thể sống thiếu thầy, vậy mà khi tôi ở trong tâm xã tôi
cảm thấy không thể tuyệt đối buông xuôi theo thầy được.
Điều đó làm cho tôi cảm thấy buồn. Tôi muốn tuyệt đối
được buông xuôi, vứt bỏ mọi tâm trí của tôi và mọi bản ngã

276
của tôi. Điều đó tôi không thể làm được, và bởi vì tôi không
thể làm được điều đó nên thầy đã phái tôi sang phương Tây.
Nhưng tôi không thể sống được cả ở bên phương Tây! Tôi
khao khát sự hiện diện của thầy, tôi muốn trở về nhà sớm
nhất có thể được."
Cô ấy nói điều này với một trong các sannyasin của
chúng ta, Gunakar, người quản lí một trung tâm đẹp ở Đức,
Karuna. Cô ấy nói với anh ta trên điện thoại và Gunakar đã
viết cho cô ấy một bức thư rằng, "Bạn tới tôi đi và tôi sẽ
giúp bạn gạt bỏ Osho, tôi sẽ giúp bạn vượt ra ngoài sự gắn
bó này."
Bây giờ anh ta đang quản lí một trung tâm cho tôi - giúp
mọi người gạt bỏ tôi! Anh ta đã ở đây. Hai lần anh ta đã cố
trở nên chứng ngộ và đều hỏng cả! Anh ta sẽ công bố anh ta
đã trở nên chứng ngộ và thế rồi anh ta sẽ quay trở lại với ý
thức của anh ta. Bây giờ quản lí một trung tâm, anh ta đang
bắt chước; bây giờ anh ta đang cố giúp cho mọi người vượt
ra ngoài sự gắn bó.
Sudha đã làm một việc tốt là viết một bức thư cho anh
ta rằng, "Tôi không muốn gạt bỏ đâu, tôi muốn gạt bỏ bản
thân tôi, không phải là gạt bỏ Osho! Và tôi không cần sự
giúp đỡ của anh. Trước hết anh giúp bản thân anh đi. Bác sĩ
trị liệu, chữa lành bản thân anh trước đi!"
Nhưng Gunakar đang mắc vào những ý tưởng ngu
xuẩn. Mới vài ngày trước anh ta đã viết một bức thứ cho
mọi thành viên của UNO rằng, "Tôi đại diện cho Osho, tôi
đại diện cho đẳng cấp các Thầy bí truyền, và tôi muốn các
bạn làm những điều này. Chừng nào những điều này chưa
được làm, thế giới sẽ không được cứu."
Bây giờ anh ta đang cố cứu thế giới đấy - mà thậm chí
anh ta đã không có khả năng cứu bản thân anh ta!

277
Nhưng những ý tưởng bản ngã đó nhất định xảy ra bởi
vì sâu bên dưới bản ngã đã sống lâu tới mức nó không muốn
rời bỏ bạn. Ngay cả khi bạn nghĩ bạn đã vứt bỏ nó, nó đơn
giản ẩn nấp ở đâu đó, trong góc tối nào đó của vô thức của
bạn, và nó bắt đầu vận hành từ đó.
Đây là cách thức đúng của đệ tử để nói:

Điều này chúng ta đã được nghe từ những người


chứng ngộ.

Thiền và hành động -


Người biết hai điều này cùng nhau,
Qua hành động bỏ lại cái chết đằng sau
và qua thiền thu được sự bất tử.

Những lời này đáng phải viết bằng vàng, quí giá hơn
nhiều so với bất kì kim cương nào có thể có. Đây là toàn thể
cách tiếp cận của tôi:

Thiền và hành động -


Người biết hai điều này cùng nhau,

Nó rõ ràng thế! Và ở Ấn Độ mọi người liên tục trích


dẫn Isa Upanishad, nhưng tôi cho rằng họ thậm chí không
suy nghĩ về điều họ đang trích dẫn. Họ toàn là những kẻ
chạy trốn, họ toàn là những người từ bỏ thế giới - họ đã bỏ
lại hành động đằng sau. Nếu như họ hiểu Isa Upanishad và
thông điệp của nó, họ sẽ là sannyasins của tôi, không phải là
sannyasin kiểu cổ, kiểu truyền thống.
Sannyasin của tôi đại diện cho sự cùng nhau của hành
động và thiền. Người đó ở trong thế giới vậy mà không là
của nó. Người đó giống như bông sen vươn lên từ bùn bẩn,
278
nhưng biến đổi bùn thành cái đẹp của hoa sen, sống trong hồ
vậy mà không bị nước dính vào, tuyệt đối không dính nước.
Sannyasin thực sự phải sống trong thế giới, trong hành
động, và bắt rễ sâu trong thiền. Rễ của bạn phải là ở trong
thiền, cành của bạn phải ở trong hành động. Bạn phải giống
như cây: cành của nó vươn cao lên trời, chúng khao khát các
vì sao; nó liên tục vươn lên cao. Nhưng nhớ, cây vươn lên
cao chỉ nếu rễ của nó ăn sâu, theo cùng tỉ lệ: rễ ăn càng sâu,
cành vươn càng cao; cành vươn càng cao hơn, rễ càng phải
ăn sâu hơn. Chúng cân bằng lẫn nhau. Rễ phải ở trong thiền
còn cành ở trong thế giới - trong ánh mặt trời tràn đầy, nhảy
múa trong gió, thì thào cùng mây - và sâu bên trong bạn,
trong thế giới bên trong, rễ bắt vào thiền. Thế thì bạn sẽ là
cây đầy đủ.
Cho tới giờ đã có hai kiểu người tồn tại: vài người đã
tồn tại mà không có gốc - tất nhiên, không có gốc, cây nhất
định là giả - và vài người đã tồn tại chỉ như rễ không có cây,
và chỉ rễ là xấu. Bạn có thấy rễ đẹp không? Hoa đẹp, nhưng
hoa cần tán lá, cành, mặt trời, mặt trăng, sao, mưa, gió -
chúng cần toàn thể thế giới - thế thì những hoa mầu sắc đó...
cả hai điều này phải có cùng nhau, chỉ thế thì bạn sẽ là
người toàn thể, được tích hợp.
Người trần tục chỉ có cành mà không có rễ, do đó người
đó đờ đẫn, vô vị, khô héo, chết, là cái xác, chỉ bằng cách nào
đó lê lết, từ thói quen cũ. Và các sư, các ni - Thiên chúa
giáo, Hindu giáo, Jain giáo, dù họ được gọi tên là cái gì - họ
chỉ là những cái rễ, xấu xí, không đáng nhìn. Không có vấn
đề kính trọng, thậm chí không đáng nhìn một lần - không có
chuyện nhìn lần thứ hai - và không có hoa nào.
Sannyasin của tôi phải là cả hai: có rễ ở thế giới bên
trong và có hoa ở thế giới bên ngoài. Sannyasin của tôi phải
là cả hai: có khả năng trí tuệ và cũng có khả năng trực giác.
279
Không có nhu cầu chọn lựa: bất kì cái gì Thượng đế đã trao
đều phải được dùng tới mức đầy đủ nhất của nó.

Qua hành động bỏ lại chết đằng sau và


qua thiền thu được bất tử.

Chính là chỉ qua hành động, qua sáng tạo mà bạn đi ra


ngoài chết. Hành động vận hành như cái phủ định: nó là
nghệ thuật về loại bỏ cản trở. Chẳng hạn, bạn đào giếng:
Hành động ngụ ý loại bỏ mọi tầng đất đá - nếu đôi khi cần,
phải cho nổ đá, khoan đá để cho bạn có thể tìm ra nguồn
nước. Chức năng của hành động là mang tính phủ định: nó
loại bỏ rào cản, cản trở, chướng ngại. Và chức năng của
thiền là nhận ra cái đang đó. Khi nước bắt đầu trào lên, thiền
là việc uống nước để làm dịu cơn khát. Cả hai đều cần: hành
động để loại bỏ đá còn thiền để làm cho bạn có khả năng
uống điều tối thượng, rượu của điều tối thượng.

Qua hành động bỏ lại chết đằng sau và


qua thiền thu được bất tử.

Và hai điều này là hai khía cạnh của cùng một hiện
tượng. Nếu bạn không bỏ lại chết đằng sau, làm sao bạn có
thể đi vào trong thế giới của bất tử? Bỏ lại thời gian đằng
sau để cho bạn có thể đi vào vô thời gian, đi vào cái không
bao giờ chết.

Người thần tượng hoá cái Tuyệt đối đi vào bóng tối
khó thấy,

Triết học thần tượng hoá cái tuyệt đối. Bradley, Hegel,
Shankara, họ thần tượng hoá cái tuyệt đối và họ phủ nhận

280
cái tương đối. Cái tương đối ngụ ý nó là ảo vọng; cái tuyệt
đối là thực và bất kì cái gì tương đối là ảo vọng.

Những người say mê cái tương đối đi vào bóng tối


còn lớn lao hơn.

Khoa học nhấn mạnh vào cái tương đối. Albert Einstein
đã khám phá ra lí thuyết tương đối. Jain giáo có một chút ít
thái độ khoa học, do đó người Jain là những người đầu tiên
suy tư về lí thuyết tương đối. Albert Einstein không biết
chính người Jain là người đầu tiên biết về lí thuyết tương
đối! Trước Albert Einstein, hai mươi nhăm thế kỉ trước ông
ấy, người Jain đã phát hiện ra sayadvada; sayadvada ngụ ý
lí thuyết tương đối. Einstein nói mọi thứ đều tương đối.
Sayadvada có thể được dịch theo từng chữ là "chủ nghĩa có
thể": mọi thứ chỉ là có thể; không cái gì tuyệt đối chắc chắn,
chỉ là điều có thể.
Nếu bạn hỏi Mahavira, "Thượng đế có tồn tại không?"
ông ấy sẽ nói, "Có thể." Nếu bạn hỏi ông ấy, "Ông có tuyệt
đối chắc chắn về điều đó không?" ông ấy sẽ nói, "Có thể
thôi." Ông ấy sẽ không bao giờ nhúc nhích khỏi cái có thể
của ông ấy. Mọi thứ chỉ là điều có thể, bởi vì mọi thứ là
tương đối. Không cái gì có thể được nói về tuyệt đối, chắc
chắn, dứt khoát. Điều đó còn tuỳ, và một thứ có thể được
nhìn từ nhiều quan điểm.
Sayadvada - "chủ nghĩa có thể" - có bẩy quan điểm.
Nếu bạn hỏi về Thượng đế, Mahavira sẽ cho bạn bẩy phát
biểu. Ông ấy sẽ làm bạn lẫn lộn nhiều hơn là bạn đã bị lẫn
lộn trước đây! Ông ấy sẽ nó, "Có thể có Thượng đế" - phát
biểu thứ nhất của ông ấy. "Có thể không có Thượng đế " -
phát biểu thứ hai của ông ấy. "Có thể Thượng đế vừa có vừa
không có" - phát biểu thứ ba của ông ấy. Thứ tư: "Có thể có

281
Thượng đế và không thể diễn tả được" - phát biểu thứ tư của
ông ấy. "Có thể không có Thượng đế và không diễn tả
được" - thứ năm. "Có thể có Thượng đế và không có, và
cũng không diễn tả được." Bạn có thể đã tới ông ấy với chút
ít hiểu biết ủng hộ hay chống đối, nhưng ông ấy sẽ phá huỷ
mọi quan điểm của bạn. Ông ấy sẽ cho bạn toàn thể viễn
cảnh, từ mọi quan điểm.
Đó là điều Albert Einstein đã làm, tất nhiên theo cách
thức khoa học hơn; cách thức của Mahavira mang tính triết
lí hơn nhiều. Albert Einstein thường nói rằng, "Nhiều lắm là
một tá người trên cả thế giới này hiểu được điều tôi đang
nói." Không phải là không có nhiều người thông minh hơn
trên thế giới, nhưng chính ý tưởng về tương đối có cái gì đó
về nền tảng bị sai về nó.
Cái gì đó có thể mang tính tương đối chỉ nếu bạn chấp
nhận cái tuyệt đối. Nếu bạn không chấp nhận cái tuyệt đối,
thế thì bạn ngụ ý gì bởi cái tương đối? Ngay cả nghĩa của từ
"tương đối" mất đi mọi ý nghĩa; nó mất nghĩa. Tương đối
đơn giản ngụ ý cái không phải là tuyệt đối, nhưng cái tuyệt
đối là gì? Theo Albert Einstein không có cái gì tuyệt đối, tất
cả là tương đối. Và theo các nhà tuyệt đối không có gì tương
đối, tất cả là tuyệt đối. Thế thì bạn ngụ ý gì bởi tuyệt đối?
Chính thuật ngữ này chỉ có nghĩa trong tương phản với cái
tương đối.
Upanishad rất rõ ràng. Họ nói:

Người thần tượng hoá cái tuyệt đối đi vào bóng tối
khó thấy,

Bởi vì họ đã lại chọn một mặt của đồng tiền: cái không
đổi, cái trục. Và:

282
Những người say mê cái tương đối đi vào bóng tối
lớn hơn.

Họ đã chọn mặt bên kia, cái bánh xe, cái chuyển động,
cái nhất thời, cái tạm thời, cái thay đổi. Nhưng thay đổi là có
thể chỉ trên nền tảng của cái không đổi. Bánh xe không thể
chuyển động được nếu không có trục. Và nghĩa của trục là
gì nếu không có bánh xe? Chúng là cùng nhau và chúng là
có nghĩa chỉ trong sự cùng nhau của chúng.
Isa Upanishad đang cố làm cho điều đó rõ ràng rằng:
đừng bao giờ chọn lựa, vẫn còn nhận biết vô chọn lựa và
chấp nhận cuộc sống như nó vậy. Đừng áp đặt chọn lựa nào
của riêng bạn. Cái tuyệt đối có đó, cái tương đối có đó. Tâm
trí bạn mang tính tương đối, nhưng tâm thức bạn mang tính
tuyệt đối. Thân thể bạn thay đổi, tâm trí bạn thay đổi -
chúng giống như bánh xe - nhưng tâm thức chứng kiến của
bạn giống như cái trục; nó bao giờ cũng vẫn còn như vậy,
không bao giờ thay đổi. Chính trên cái trục đó mà bánh xe
thân tâm chuyển động. Và chúng không chống nhau; chúng
hỗ trợ cho nhau, chúng là phần bù của nhau. Sự tổng hợp
cao cấp này là thông điệp của Upanishad

Vì Nó khác với cái tương đối,


Nó khác với cái tuyệt đối.

Bởi vì nó ở bên ngoài cả hai và còn hơn nữa.

Điều này chúng ta đã được nghe từ những người


chứng ngộ.

Đệ tử này liên tục lặp đi lặp lại điều đó để cho bạn


không quên rằng anh ta không nói theo thẩm quyền riêng
283
của mình, anh ta đơn giản ghi lại lời của Thầy. Sự chân
thành này là một phần của tính chất đệ tử, và chỉ qua sự
chân thành này mà đệ tử một ngày nào đó có thể trở nên
được chứng ngộ.
Chứng ngộ xảy ra chỉ nếu bạn trở nên ngày một chân
thành và đích thực hơn. Và bạn phải rất tỉnh táo bởi vì các
cách thức của bản ngã rất tinh vi: nó muốn công bố cái bạn
không có. Nhận biết về bản ngã đi!

Aum
Purnam adaha
Purnam idam
Purnat purnamudachyate
Purnasya purnamadaya
Purnameva vashishyate

Aum
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể,
Tính toàn thể vẫn còn lại.

284
10. Tôn giáo vĩnh hằng

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Những người Ấn Độ chúng tôi biết rằng chúng tôi
đã bị mắc những bệnh nặng hàng thế kỉ, nhưng khi
một bác sĩ vĩ đại như thầy từ chối chúng tôi, cái gì
sẽ xảy đến cho chúng tôi?

Prem Vinod,
Tôi không từ chối bất kì ai, nhưng tôi phải từ chối bệnh
của bạn, chắc chắn. Tôi không thể chấp nhận bệnh của bạn
được - không bác sĩ trị liệu nào có thể làm được điều đó. Và
những người chấp nhận bệnh của bạn là kẻ thù của bạn.
Bệnh của bạn phải bị tiêu diệt không thương tiếc, dù bạn là
ai - người Ấn Độ, người Đức, người Anh. Bệnh tới theo đủ
mọi hình thái, dạng thức, kích cỡ. Bạn có thể là người Hindu
giáo hay người Ki tô giáo hay người Do Thái; điều đó
không thành vấn đề.

285
Toàn thể quá khứ nhân loại đầy những lỗi lầm căn bản,
nhưng chúng đã tồn tại lâu tới mức chúng đã trở thành gần
như một phần của bạn. Do đó có cảm giác, Vinod, rằng tôi
bác bỏ bạn. Tôi đơn giản bác bỏ bệnh thôi, nhưng bạn bị
đồng nhất với bệnh này. Bạn nghĩ các bệnh của bạn, tổng
các bệnh của bạn, là điều bạn là vậy. Điều đó không đúng -
bạn không chỉ là bệnh của bạn. Bạn là cái gì đó bên ngoài
mọi điều đã xảy ra cho bạn trong toàn thể quá khứ. Mọi điều
đã xảy ra chỉ là việc ước định; nó có thể bị vứt bỏ, nó phải
bị vứt bỏ. Do đó tôi lên án nó, nhưng bản ngã của bạn cảm
thấy bị tổn thương. Tôi không thể giúp gì được; tôi không
thể có bất kì từ bi nào với bất kì loại bệnh nào.
Nhưng khi bệnh tồn lại trong một thời gian dài và
chúng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chúng trở
thành rất đáng kính. Bạn quên mất rằng chúng là bệnh; bạn
bắt đầu nghĩ rằng chúng là những đặc thù của bạn.

Chẳng hạn, T.M. Ramachandran đã hỏi: "Osho ơi, tại


sao thầy đã nói rằng không cái gì đã xảy ra ở phương
Đông? Những điều vĩ đại, lớn lao đã xảy ra ở phương Đông
đấy chứ. Chẳng phải Hindu giáo và cách sống của nó là tôn
giáo vĩ đại nhất trên thế giới hay sao?"

Thế cách sống Hindu này là gì vậy? Nó là phủ định sự


sống hoàn toàn! Ngay cả việc gọi nó là cách sống là không
đúng. Nó có thể được gọi là cách chết, nhưng không phải là
cách sống. Làm sao bất kì cái gì phủ định sự sống có thể trở
thành triết lí về sự sống được?
Hindu giáo dạy bạn bác bỏ sự sống, từ bỏ sự sống. Bạn
tôn thờ những người chạy trốn; bạn gọi họ là thánh nhân,
mahatma. Những người đã chống lại thế giới, những người

286
đã bác bỏ thế giới, những người đã kết án thế giới và mọi
điều nó chứa đựng, họ được coi là người của Thượng đế.
Thượng đế tồn tại trong thế giới biểu lộ như trung tâm
không biểu lộ của nó. Khoảnh khắc bạn bác bỏ hoa, bạn
cũng bác bỏ hương thơm của nó; nếu bạn trốn chạy khỏi hoa
bạn trốn chạy khỏi hương thơm của nó nữa - và Thượng đế
là hương thơm của sự tồn tại. Những người chống lại sự
sống về cơ bản là chống lại Thượng đế.
Bạn đã nghe câu ngạn ngữ: Mưu sự tại nhân, thành sự
tại thiên. Hindu giáo làm chính cái đối lập: Thượng đế đề
nghị, con người quyết định. Sự tồn tại này, sự sống này là đề
nghị của Thượng đế, nhưng con người quyết định điều đó.
George Gurdjieff, một trong những Thầy vĩ đại nhất của
thế kỉ này, thường nói rằng, "Mọi mahatma của bạn chống
lại Thượng đế" - và ông ấy tuyệt đối đúng, đúng một trăm
phần trăm, bởi vì các mahatama của bạn là những kẻ phản
đối. Họ phủ định. Họ làm cho bạn cảm thấy mặc cảm về
yêu, về sự sống, về tiếng cười. Họ làm bạn thấy mặc cảm
nếu bạn hân hoan, nếu bạn vui vẻ. Họ làm cho bạn thấy mặc
cảm nếu bạn thích thú thức ăn, nếu bạn tận hưởng tình bạn,
nếu bạn tận hưởng bất kì loại quan hệ nào. Họ làm cho bạn
thấy mặc cảm về mọi cái bạn thích thú và họ áp đặt lên bạn
những thứ không gây thích thú nào cho bạn.
Mọi điều bạn có thể làm với những thái độ tiêu cực này
là nuôi dưỡng bản ngã của bạn. Do đó các mahatma của bạn
là những người bản ngã nhất trên thế giới. Nhưng khi người
ta bắt đầu nghĩ về các bệnh tật này dường như chúng là cái
gì đó lớn lao, thế thì sự việc trở thành rất khó cho người đó
lắng nghe bác sĩ trị liệu.
Tôi không bác bỏ bất kì ai, Vinod. Với tôi mọi người là
như nhau dù bạn là người Hindu giáo hay Mô ha mét giáo

287
hay Ki tô giáo. Các bệnh của bạn có chút ít khác biệt nhưng
không cơ bản, bởi vì mọi tôn giáo đã tồn tại trong quá khứ
đã dùng một chiến lược tương tự, và đó là tạo ra mặc cảm.
Đó đã là kĩ thuật của các tu sĩ để chi phối bạn: làm cho mọi
người thấy mặc cảm về những niềm vui nho nhỏ - và tất
nhiên những niềm vui đó là tự nhiên và tự phát.
Và khi một người trở nên mặc cảm về bản tính riêng
của mình, người đó bắt đầu bác bỏ bản thân mình, người đó
bắt đầu chết. Đó là một loại tự tử dần dần. Người đó trở nên
buồn, người đó trở nên mòn mỏi. Cuộc sống của người đó
mất đi hương vị. Và thế rồi tất nhiên, run rẩy, người đó phải
tới các tu sĩ, bởi vì tu sĩ biết cách vượt ra ngoài mặc cảm
này. Tu sĩ tạo ra mặc cảm ngay chỗ đầu tiên - đó là bí mật
thương mại của ông ta - và thế rồi bạn phải tới tu sĩ bởi vì
không còn ai khác có thể hướng dẫn cho bạn. Đó là kinh
doanh của tu sĩ: hướng dẫn bạn về vấn đề tâm linh. Và bạn
cảm thấy buồn thế, khổ thế; bạn cần sự giúp đỡ, bạn cần ai
đó hỗ trợ cho bạn. Bạn cần ai đó dạy bạn cách thức, phương
tiện, phương pháp để cho bạn có thể gạt bỏ mặc cảm của
bạn.
Nhưng tu sĩ liên tục tạo ra ngày một nhiều mặc cảm
trong bạn. Ông ta tạo ra nhiều sợ sống trong bạn tới mức
Hindu giáo trở nên bị ám ảnh với ý tưởng làm sao gạt bỏ
sinh và tử, làm sao gạt bỏ aavagaman - tới và đi trong sự
tồn tại.
Sự sống tuyệt diệu thế!

Rabindranath, một trong những nhà thơ vĩ đại của mọi


thời đại, đang nằm trên giường chết. Một người bạn bảo ông
ấy - một người bạn rất tôn giáo, tất nhiên - rằng, "cầu

288
nguyện Thượng đế rằng đây nên là kiếp cuối cùng của ông,
ông nên được tự do."
Rabindranath mở mắt ra... khoảnh khắc cuối cùng của
ông ấy, nhưng ông ấy trở nên giận và ông ấy nói, "Ông im
đi! Tôi đang cầu nguyện Thượng đế rằng 'Sự sống của ngài
đã là món quà tuyệt diệu cho tôi tới mức cứ xin ngài đem nó
cho nó cho tôi lặp đi lặp lại mãi vào. Tôi muốn quay lại để
thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn, đêm đầy sao, hoa, chim tung
cánh, cây xanh, sông, núi, mọi người... Tôi muốn tới nữa
nữa và nữa! Nó bao la và không vét cạn thế, và nó đã không
phải là khổ cho tôi.'"
Rabindranath chống lại toàn thể truyền thống của cái
gọi là Hindu giáo. Ông ấy là một trong những người sáng
suốt nhất đã được sinh ra trong đất nước bất hạnh này. Ông
ấy đã sống một cách vui sướng, ông ấy đã sống cuộc sống
của mở hội. Ông ấy đã yêu thơ ca, đã sáng tác ra thơ ca.
Ông ấy yêu hội hoạ, ông ấy đã sáng tác ra nhiều tranh vẽ.
Ông ấy đã ca hát, ông ấy đã nhảy múa.
Đây là lời cầu nguyện thực! Và bởi vì điều này tôi nói
Rabindranath không phải là người Hindu. Ông ấy chống lại
việc từ bỏ nhiều tới mức ông ấy thậm chí còn dám viết bài
thơ chống lại Phật Gautam. Bài thơ này hay tuyệt vời và có
nghĩa lớn lao nữa.
Phật đã bỏ lại người vợ trẻ và đứa con mới một ngày
tuổi. Phật mới chỉ hai mươi chín tuổi và ông ấy đã bỏ trốn -
đó là cách thức Hindu cổ đại. Ông ấy đã trốn vào rừng để đi
tìm Thượng đế.
Rabindranath tả việc từ bỏ của ông ấy và tả rằng khi
ông ấy trở nên chứng ngộ ông ấy trở về nhà để chia sẻ kinh
nghiệm của mình.

289
Yashodhara, vợ ông ấy, đã hỏi ông ấy một câu hỏi mà
ông ấy không thể trả lời được. Ông ấy đứng trước
Yashodhara mắt nhìn xuống đất, xấu hổ. Duy nhất
Rabindranath có thể dám làm bài thơ như vậy. Câu hỏi mà
Yashodhara đã hỏi là gì? Cô ấy đã hỏi một câu hỏi rất đơn
giản: là, "Bây giờ anh đã trở nên chứng ngộ, xin anh trả lời
một trong những câu hỏi của em, điều đã từng ám ảnh em cả
ngày lẫn đêm trong ngần ấy năm trời anh xa vắng. Vì anh đã
bỏ đi, em bị câu hỏi này hành hạ và em đã chờ đợi, bởi vì
chỉ anh có thể trả lời được nó.
"Câu hỏi này là: bất kì cái gì anh đã tìm thấy trong im
lặng sâu thẳm của rừng rậm, chẳng lẽ không thể tìm thấy
được nó ngay ở đây trong cung điện này với em, với con,
với bố già của anh, người gần như bị mù vì khóc cho anh?
Và anh nhìn em đây! Em cũng đã già đi thế trong sáu năm
này, chỉ vì chờ đợi anh mọi khoảnh khắc, chợt thức nhiều
lần trong đêm khuya, có thể - anh đã bỏ nhà vào ban đêm,
anh có thể quay về chứ - mơ về anh. Anh hỏi con; nó liên
tục hỏi em, 'Bố đâu rồi?' Cả vương quốc buồn, cung điện
buồn; nó đã trở thành nghĩa địa. Trả lời câu hỏi của em đi:
bất kì cái gì anh đã tìm thấy trong rừng rậm, chẳng lẽ không
thể tìm thấy được nó ở đây sao?"
Và Phật đứng đó xấu hổ. Ông ấy không thể trả lời được.
Đây là câu chuyện ngụ ngôn do Rabindranath sáng tác
ra, nhưng có ý nghĩa lớn lao. Rabindranath đang nói có thể
tìm thấy Thượng đế ở đây và bây giờ. Không cần phải đi
vào rừng; không cần phải từ bỏ vợ, con, bố mẹ già. Không
cần đi ngược lại sự sống. Đi ngược lại sự sống là giống như
cố đi ngược dòng, tranh đấu với sông - tranh đấu không cần
thiết. Thảnh thơi, nghỉ ngơi, tận hưởng... và Thượng đế có
thể được tìm thấy ở bất kì đâu bởi vì ngài ở mọi nơi.

290
Hindu giáo mang tính phủ định sự sống; đó là lí do tại
sao nó đã kính trọng những người khổ hạnh. Bây giờ, người
khổ hạnh không là gì ngoài những kẻ tự bạo, tuyệt đối bệnh
hoạn, bệnh hoạn về tâm lí. Người khổ hạnh là người tận
hưởng việc tự hành hạ mình, và người Hindu đã kính trọng
người khổ hạnh. Bạn càng tự hành hạ bạn nhiều, bạn càng là
thánh nhân vĩ đại hơn. Cho nên nếu bạn nằm trên giường
gai, cả nghìn người sẽ tụ tập tôn thờ bạn. Nếu bạn nhịn ăn
vài tháng, thế thì tên tuổi và danh tiếng của bạn sẽ nổi như
cồn lan đi khắp mọi ngóc ngách của đất nước.
Và một trong những điều kì lạ nhất, không ai đã từng
hỏi, là "Người này đã đóng góp gì cho sự sống?" Nằm dài
trên giường gai nhọn đâu có phải là đóng góp; điều đó
không làm cho cuộc sống đẹp hơn, điều đó không làm giầu
thên cho cuộc sống theo bất kì cách nào. Chỉ bằng nhịn ăn
vài tháng không phải là hành động sáng tạo gì cả - nó mang
tính phá hoại, nó thực sự là tự tử.
Hindu giáo mang tính tự tử. Đó là lí do tại sao trong hai
mươi hai thế kỉ có thể có chuyện đất nước này vẫn còn trong
cảnh nô lệ - bởi lẽ đơn giản không ai quan tâm tới sự sống,
cho nên ai cai trị nó có thành vấn đề gì? Đó tất cả là mơ, đó
tất cả là maya. Kệ ai cai trị nó cũng được!
Đất nước này đã đánh mất hồn của nó, bởi vì chỉ những
người yêu tự do có thể có hồn. Đất nước này chỉ nói về hồn
thôi, nhưng người nô lệ không thể có hồn được. Nhưng
người nô lệ bao giờ cũng có thể hợp lí hoá; thực ra họ phải
hợp lí hoá, chỉ để tự an ủi mình.
Và người Hindu đã trở thành những nhà hợp lí hoá vĩ
đại; họ hợp lí hoá mọi thứ: "Đó là số mệnh, không thể làm
được gì về điều đó. Thượng đế đã an bài như vậy rồi. Ngay
cả chiếc lá rụng khỏi cây cũng không ngoài ý chí của
Thượng đế, vậy làm sao đất nước này có thể là nô lệ mà
291
không có ý chí của Thượng đế được? Ngài phải đã chọn lựa
rồi; chúng ta đơn giản chấp nhận số mệnh thôi."
Và khi người ta bắt đầu chấp nhận số mệnh, người ta
trở nên lười biếng, tuỳ tiện, bởi vì thế thì không còn cái gì
để lại cho bạn làm.

Đó là dư vị khó chịu của một đêm nhậu nhẹt, và anh ta


ngồi rên rỉ và ôm đầu mình.
"Này, nếu anh mà không say quá nhiều đêm qua anh
chắc đã không cảm thấy tệ hại thế bây giờ," cô vợ anh ta nói
một cách chanh chua.
"Việc uống rượu của anh chẳng liên quan gì tới điều
đó," anh ta trả lời. "Anh lên giường cảm thấy tuyệt vời và
tỉnh dậy cảm thấy kinh khủng. Đấy là do giấc ngủ gây ra
điều đó chứ!"

Bạn bao giờ cũng có thể hợp lí hoá. Bạn không chịu
trách nhiệm - bất kì cái gì phải xảy ra, phải xảy ra thôi. Bạn
có thể làm được gì về điều đó?
Ấn Độ vẫn còn là nước nghèo nàn nhất trên thế giới, và
không ai nghĩ rằng Hindu giáo là nguyên nhân của điều đó.
Nếu bạn tin vào số phận, bạn sẽ không cố trở nên giầu, bạn
sẽ không làm nỗ lực nào để mang tính khoa học, bạn sẽ
không tạo ra công nghệ, công nghiệp. Bạn sẽ đơn giản chờ
đợi: bất kì khi nào Thượng đế thay đổi ý chí của ngài, mọi
sự sẽ thay đổi. Khi có liên quan tới bạn, không cái gì có thể
được làm về nó.

292
Một quí bà mới giầu lên đã mua một chỗ nghỉ mùa hè ở
vùng Himalaya và thuê một bà già người làng chăm nom
nhà cửa.
"Tôi là người ít lời," bà ấy kiêu ngạo nói với bà già này.
"Nếu tôi vẫy ngón tay ra hiệu, điều đó ngụ ý 'tới đây'."
"Rất tốt, thưa bà," bà già Ấn Độ đáp lại. "Bản thân tôi
cũng là người ít lời thôi. Nếu tôi lắc đầu từ bên nọ qua bên
kia, điều đó ngụ ý 'Tôi không tới đâu'."

Quan sát đi - bạn đang nói về cái gì? Một tôn giáo vĩ
đại, tôn giáo vĩ đại nhất, và nó đã cho bạn cái gì? Nghèo
nàn, đói rách, ốm yếu. Cả nước này đang sống thiếu ăn, sáu
mươi phần trăm người dân bị đói, và không cái gì được làm.
Vấn đề liên tục tăng lên, và người Hindu đơn giản liên tục
ngồi đấy, tôn thờ thần voi, Ganesha, hay thần khỉ, Hanuman,
hay bò mẹ thiêng liêng, và liên tục hi vọng rằng những con
voi này, con khỉ này và bò này sẽ giúp! Điều đó bây giờ đã
trở thành bắt rễ sâu tới mức cần phải có cái gì đó quyết liệt.
Đó là điều tôi đang cố làm. Một cách tự nhiên tôi sẽ gây
khó chịu cho đám đông không thông minh; tôi chỉ có thể
được hiểu bởi vài người rất thông minh.

Kẻ vô công: "Anh đang pha đồ uống gì thế?"


Người đứng quầy: "Tôi gọi nó là rượu rum khai vị."
Kẻ vô công: "Cái gì trong nó?"
Người đứng quầy: "Đường, a chút ít nước sò, và rượu
rum."
Kẻ vô công: "Nó thế nào?"

293
Người đứng quầy: "Kích thích. Đường cho anh năng
lượng còn nước sò cho anh nghị lực."
Kẻ vô công: "Thế rượu rum?"
Người đứng quầy: "À, cái đó! Cái đó cho anh các ý
tưởng về phải làm gì với tất cả năng lượng và nghị lực."

Tôi đang pha rượu rum khai vị đấy! Bạn cần nghị lực
nào đó và bạn cần ý tưởng nào đó, điều phải thực hiện với
nghị lực và năng lượng đó.
Tôi không bác bỏ bất kì ai, Vinod, nhưng tôi phải bác
bỏ những thái độ phủ định sự sống này.
Ấn Độ đã trở thành một nước của những kẻ đạo đức giả
bởi lẽ đơn giản: bất kì khi nào bạn phủ nhận tự nhiên điều
đó nhất định xảy ra, bởi vì tự nhiên sẽ khẳng định, nhất định
khẳng định. Bạn có thể kìm nén nó một lúc nhưng không
mãi mãi được, và bất kì cái gì bị kìm nén sẽ trả thù bạn. Nó
sẽ quay lại, với việc báo thù nó sẽ quay lại.
Cho nên một mặt bạn sẽ thấy đạo đức Hindu giáo, chủ
nghĩa đạo đức Hindu, và mặt khác bạn sẽ thấy khiêu dâm
Hindu.
Kama Sutra của Vatsyayana là cuốn sách đầu tiên về
khiêu dâm trên toàn thế giới. Chỉ trong thế kỉ này Havelock
Ellis, Sigmund Freud, Kinsey, Các thầy và Johnson, những
người này đã bắt đầu nghĩ về các tư thế dục, năng lượng dục
và điều gì có thể được làm về nó. Nhưng Kama Sutra của
Vatsyayana đã ba nghìn tuổi. Vatsyayana là người Hindu, và
người Hindu đã kính trọng ông ấy. Họ đã gọi ông ấy là
maharishi, người thấy vĩ đại. Một bên là cái gọi là các nhà
đạo đức còn bên kia là Kama Sutra của Vatsyayana và Koka
Shastra của Học giả Koka. Học giả Koka là người brahmin

294
Hindu vùng Kashmir thuộc vào đẳng cấp cao nhất và cuốn
sách của ông ấy đã nghìn rưởi tuổi, và là một trong những
cuốn sách xấu nhất trên thế giới. Và ông ấy đã là một người
Hindu được phong chức.
Và ai đã tạo ra các ngôi đền ở Konarak, Puri và
Khajuraho? Một mặt người Hindu đã từng thuyết giảng về
brahmacharya, vô dục, như là mục đích cao nhất cho nhân
loại, mặt khác họ đã làm các bức điêu khắc khiêu dâm tới
mức nó là vô song. Không đâu khác trên thế giới còn có
ngôi đền kiểu như ngôi đền Khajuraho. Và đấy cũng không
chỉ là một ngôi đền, đó là toàn thể một thành phố các ngôi
đền. Ít nhất một trăm ngôi đền vẫn còn tồn tại; chắc phải đã
có hàng nghìn ngôi đền - các tàn tích vẫn còn đó - và từng
ngôi đền lại có hàng nghìn tư thế khiêu dâm. Họ chắc phải
đã mất hàng trăm năm để làm ra. Và nếu bạn thấy
Khajuraho bạn sẽ không thể nào tin được...
Những người đã xuất bản tạp chí Playboy và Playgirl
đáng phải tới và học từ Khajuraho! Bất kì cái gì họ đang làm
chỉ là bình thường thôi. Họ không thể đua tranh được với sự
phóng túng của người Hindu đâu - vì một lẽ đơn giản là họ
không thể cạnh tranh được với sự kìm nén Hindu! Một khi
bạn kìm nén cái gì đó tự nhiên, thế thì nó bắt đầu tới trong
tâm trí bạn, nó bắt đầu đi lên đầu bạn. Nó có thể biến mất
khỏi trung tâm dục, vốn là hiện tượng tự nhiên, nhưng bây
giờ nó đi vào trong đầu bạn.
Điều này đã dẫn toàn thể văn hoá Hindu hướng sang sự
tồn tại rất phân liệt. Dường như không thể nào có cách đặt
liên hệ giữa hai hiện tượng này với nhau.
Học giả Koka ở Kashmir... và ông ấy không một mình.
Nhân danh Mật tông gần chín mươi chín kẻ bịp bợm đã đem
dục vào từ phía cửa sau. Trong truyền thống Mật tông bạn
sẽ thấy chỉ một phần trăm Thầy đích thực; chín mươi chín
295
phần trăm là người giả dối, thủ đoạn. Nhân danh Mật tông
họ đã đưa toàn bộ vấn đề dục vào từ cửa sau.
Học giả Koka nói rằng nếu bạn thực sự muốn đi sâu vào
trong hiện tượng dục, bạn phải tìm ra một người đàn bà có
đẳng cấp thấp nhất. Cô ấy phải không là vợ bạn, bởi vì với
vợ bạn, bạn không có khả năng đi vào trong thế giới phóng
túng thực sự của tình dục. Loại người cô ấy bạn đã biết rồi,
hoàn cảnh địa lí của cô ấy bạn đã biết rồi; không còn gì để
mà khám phá. Cho nên tìm một người đàn bà không phải là
vợ bạn.
Điều thứ hai, người đàn bà này phải xuất thân từ đẳng
cấp thấp nhất bởi vì họ là những người sống động hơn.
Đẳng cấp càng cao, mọi người càng lạnh lùng hơn. Nếu bạn
đi tới các đẳng cấp thấp hơn mọi người sống động hơn,
hoang dã hơn. Do đó tôi nói với bạn rằng Coca-Cola phải đã
bắt nguồn từ học giả Koka - Cola phải đã là bạn gái của ông
ấy. Đó là lí do tại sao nó lại đậm đà thế! Đó là một phát kiến
mang tính mật tông vĩ đại - Coca-Cola!
Tôi không bác bỏ người Hindu, người Do Thái, người
Jain hay bất kì ai. Tôi không có đối kháng nào với bất kì ai.
Tôi không thuộc vào bất kì tín ngưỡng nào, do đó với tôi
mọi tín ngưỡng là như nhau; nhưng bởi vì tôi không thuộc
vào bất kì tín ngưỡng nào nên tôi có thể thấy rõ ràng các
bệnh. Khi bạn thuộc vào một tín ngưỡng bạn không thể thấy
được; mắt bạn bị che phủ, bạn mang định kiến.
Kìm nén đem tới đạo đức giả, và bạn có thể thấy điều
đó ở Ấn Độ mọi nơi. Mọi người sẽ nói rằng thế giới này là
ảo vọng và đồng thời họ sẽ tham tiền bạc như bất kì ai khác
trong thế giới này. Điều này là kì lạ - nhưng không thực.
Nếu bạn liên tục đi sâu vào trong nó, bởi vì họ đanng phủ
nhận cái gì đó tự nhiên... Thế giới này được Thượng đế trao
cho bạn. Nếu bạn phủ nhận nó bạn sẽ phải trở nên bị ám ảnh
296
với nó; mọi thứ phủ nhận đều trở thành ám ảnh. "Từ bỏ
tiền!" những người này liên tục nói...
Nếu bạn đi tới Vinoba Bhave, người đại diện cho tín
ngưỡng Hindu, và bạn cầm vài tờ bạc trong tay, ông ấy sẽ
lập tức nhắm mắt lại - ông ấy không nhìn tiền đâu. Bây giờ
mảnh giấy đáng thương này, chỉ là giấy in sẵn, mà làm cho
ông mahatma Hindu sợ tới mức ông ấy phải nhắm mắt lại!
Điều đó không thể là do các tờ tiền được; điều đó phải là nỗi
sợ sâu sắc nào đó, tham nào đó. Ông ấy không đụng vào
tiền.
Mặt khác những người này liên tục nói rằng vàng không
là gì ngoài cát bụi, nhưng họ sẽ không chạm vào vàng.
Tôi đã hỏi Vinoba khi tôi gặp ông ấy... Ông ấy rất háo
hức gặp tôi, cho nên tôi nói, "Được thôi, bây giờ đó là trách
nhiệm của ông đấy nhé. Nếu ông muốn gặp tôi thế thì tôi
không còn trách nhiệm nữa. Bất kì cái gì xảy ra, cứ diễn ra,
cứ diễn ra!"
Tôi hỏi ông ấy, "Nếu ông nói rằng vàng chỉ lại cát bụi,
sao ông không chạm vào vàng? Ông chạm vào cát bụi thôi
chứ!"
Thực ra, Vinoba Bhave tin vào thiên nhiên liệu pháp -
đắp bùn, tắm bùn. Ông ấy rất dễ chịu với bùn, tận hưởng nó!
Thế thì cái gì sai với vàng? Tôi tắm vàng, đắp vàng! Nếu nó
là như nhau, sao bận tâm? Nhưng nó không như nhau. Nếu
ông ấy sợ đụng vào vàng và không sợ đụng vào cát bụi, thế
thì ông ấy đang láu cá, lừa dối - không chỉ với người khác
mà với bản thân ông ấy nữa. Thế thì đừng gọi vàng chỉ là
cát bụi; thế thì vàng có đặc tính nào đó mà cát bụi không có.
Bạn sẽ thấy người Hindu là tham hơn bất kì ai khác,
đầy dục tình hơn bất kì ai khác, đầy những phóng túng dục
hơn bất kì ai khác, đầy những gắn bó hơn bất kì ai khác. Và

297
dầu vậy bạn vẫn nói rằng Hindu giáo là tôn giáo vĩ đại nhất
trên thế giới sao? Bạn đang nói về điều vô nghĩa gì vậy?
Người Hindu là những người không chân thực nhất bởi lẽ
đơn giản họ đã không trung thực để chấp nhận các thực tại
của sự sống.

Một người gặp gỡ một người bạn từ nhiều năm nay anh
ta không gặp và hỏi anh ta thấy sức khoẻ thế nào.
"Ác hại," người bạn đáp. "Bên cạnh cao huyết áp tôi
còn bị viêm khớp và hen xuyễn."
"Thế à, tôi mới biết điều đó. Vậy công việc của anh thì
sao?"
"Ồ, tôi vẫn làm việc cũ đã làm trong mười hai năm qua
- tôi bán thức ăn có lợi cho sức khoẻ."

Người này phải là một người Hindu rồi! - bán thức ăn


có lợi cho sức khoẻ, và chịu các chứng cao huyết áp, viêm
khớp và hen xuyễn.

Tất cả chúng ta đều biết truyền thuyết về việc Diogenes,


nhà huyền bí Hi Lạp vĩ đại, hay thắp đèn đi tìm người trung
thực, ngay cả trong ánh sáng ban ngày. Một số nhà phê bình
hiện đại hỏi tại sao triết gia hay phê phán này đi ban ngày
mà vẫn cầm cây đèn đang thắp sáng. Số khác hỏi tại sao ông
ấy không nhìn vào gương. Khá tự nhiên truyền thuyết này
xuất hiện trong những chuyện cười. Một câu chuyện kể
Diogenes đã mất vài giờ lần mò ở vùng New Delhi đầy kẻ
tội phạm để tìm kiếm người trung thực, và rất kiệt sức. Một
người đi qua, nhận ra ông ấy, đã hỏi, "Có may mắn không?"

298
"Mọi thứ đã được xem xét rồi, không tồi," Diogenes nói
lại. "Tôi vẫn còn chiếc đèn đây!"

Ở Delhi điều đó thực sự là may mắn rồi nếu bạn có thể


giữ được chiếc đèn của bạn, ngay cả giữa ban ngày! Chính
khách nào đó nhất định giằng lấy nó!
Chính khách Ấn Độ là loại chính khách tệ nhất trên thế
giới, bởi một lẽ đơn giản vì ông ta thuộc vào nền văn minh
rất xấu xí, ốm yếu, ung nhọt. Hindu giáo đang trên giường
chết, hay có thể đã chết rồi và mọi người đang tôn thờ cái
xác, bởi vì nó bốc mùi ra!
Tôi muốn thay đổi toàn thể tình huống này. Những
người Hindu, nếu họ đủ dũng cảm, sẽ tự ngắt mình ra khỏi
quá khứ của họ; điều đó sẽ là phục sinh. Và họ có thể xác
nhận, một cách chắc chắn, một ân huệ lớn lao cho toàn thế
giới, bởi vì trong hàng thế kỉ họ đã không làm việc; tiềm
năng của họ vẫn còn không được hiện thực hoá. Nó cũng
giống như một nông trại đã không được gieo trồng chăm sóc
hàng thế kỉ. Nếu bạn gieo trồng nó ngay bây giờ, nó sẽ cho
bạn mùa màng bội thu có thể được, bởi vì trong hàng thế kỉ
nó đã là một tiềm năng tích luỹ.
Người Hindu có thể khẳng định một thời đại mới trên
thế giới. Nếu họ phục sinh, nếu họ vứt bỏ quá khứ già cỗi
của họ, nếu họ ngắt bản thân họ ra khỏi tín ngưỡng của họ,
nếu họ có thể có việc sinh thành mới, thế thì họ có thể
chứng minh là người thông minh nhất trên thế giới. Đóng
góp của họ không chỉ có thể làm biến đổi đất nước này, nó
có thể là ân huệ, phúc lành cho sự sống trên trái đất, bởi vì
họ có các thiên tài - đã đi sai - họ có thông minh - đã đi lạc
lối. Nếu nó đi tới đúng chiều, sẽ tốt cho sự mạnh khoẻ của
riêng họ, sẽ tốt cho sự mạnh khoẻ của toàn thế giới.

299
Và cùng điều đó là đúng cho các giống nòi khác nữa.
Bất kì giống nòi nào vẫn còn bám lấy quá khứ sẽ vẫn còn
bám vào những cái xác. Người ta phải sống trong hiện tại
bởi vì tương lai được sinh ra từ hiện tại. Và Ấn Độ đang
sống trong quá khứ. Từ quá khứ không cái gì được sinh ra;
bám vào quá khứ là làm phí hoài thời gian của bạn.
Mọi thứ ở Ấn Độ đều có tính quá khứ. Mọi người vẫn
đọc câu chuyện về Rama, và đây là những ngày trên cả nước
họ vẫn dựng vở kịch về Rama. Mọi năm họ đều diễn cùng
một vở kịch; trong hàng nghìn năm họ đã từng làm điều đó.
Họ thậm chí không chán với nó! Dường như họ đã đánh mất
mọi thông minh. Họ liên tục nhìn vào cùng một điều, lặp lại
cùng một điều, dường như không có gì khác để làm. Và họ
liên tục nói về thời đại vàng - trong quá khứ, bao giờ cũng
trong quá khứ.
Nhớ điều này: trẻ nhỏ bao giờ cũng nghĩ ngày tốt lành
sắp tới; người già bao giờ cũng nghĩ ngày tốt lành, ngày
vàng là quá khứ. Trẻ nhỏ hướng tương lai, người già hướng
quá khứ, và thanh niên, nếu người đó thực sự trẻ - mà điều
này rất hiếm hoi đấy... Về mặt vật lí có biết bao nhiêu thanh
niên trên thế giới; họ tạo nên đa số. Nhưng nhiều người
trong họ vẫn đứng im trong thời thơ ấu về mặt tâm lí, và
nhiều người trong số họ đã trải qua tuổi già về mặt tâm lí.
Nếu ai đó thực sự trẻ, người đó sống trong hiện tại. Bây
giờ là thời gian duy nhất cho người đó và ở đây là nơi chốn
duy nhất cho người đó. Người đó không vẩn vơ giữa quá
khứ và tương lai, bởi vì cả hai không mang tính tồn tại; cái
tồn tại là hiện tại. Người trẻ sống trong hiện tại, và cũng
điều đó là đúng về nền văn minh.
Nền văn minh trẻ sống trong hiện tại, và nếu nền văn
minh liên tục sống trong hiện tại, nó vẫn còn trẻ trung. Đó là
toàn thể bí mật của việc duy trì trẻ trung. Nền văn minh mới,
300
vừa được sinh ra, chưa trưởng thành, còn ngây thơ, sống
trong tương lai, và nền văn minh già sống trong quá khứ.
Bạn có thể thấy ngay lập tức và quyết định được và phân
loại được bất kì nền văn minh nào, vào loại nào của nó.
Ấn Độ sống trong quá khứ; nó đang già đi, co lại. Nó đã
đánh mất niềm vui của sự sống, tính thanh xuân, sự tươi tắn.
Những nước như Nga, Trung Quốc sống trong tương lai.
Thời đại vàng của họ sắp tới, khi xã hội phi giai cấp, xã hội
không tưởng mà Karl Marx quan niệm sẽ xảy ra, khi sẽ
không có giai cấp, không người nghèo, không người giầu,
không ai bị chi phối và không ai đi chi phối, không tư sản,
không vô sản. Khi xã hội phi giai cấp và xã hội phi nhà
nước sẽ được sinh ra, ở đâu đó xa xăm trong tương lai, thế
thì nhân loại sẽ có thời đại vàng.
Các nước như Ấn Độ sống trong quá khứ; thời đại vàng
đã trôi qua lâu trước đây rồi. Con người đang tụt xuống. Có
nhiệt tình lớn ở Trung Quốc bởi vì tương lai dường như rất
hấp dẫn; không có nhiệt tình nào ở Ấn Độ. Ấn Độ đã trở nên
tự do trước Trung Quốc, nhưng Trung Quốc đã có khả năng
giải quyết nhiều vấn đề có tầm vóc bao la hơn các vấn đề
Ấn Độ bởi vì Trung Quốc có dân số lớn nhất trên thế giới.
Nhưng nó đã có khả năng giải quyết các vấn đề đó, nó đã có
khả năng trở thành nước mạnh.
Ấn Độ vẫn còn nghèo; các vấn đề của nó đã tăng lên, và
dường như không có khả năng nào để nó có thể giải quyết
được các vấn đề của mình theo cách nó đang biến chuyển
bây giờ. Thời đại vàng của nó đã qua rồi; không còn nhiệt
tình, không có tinh thần. Mọi người đơn giản kéo lê.
Mĩ còn trẻ, sống trong khoảnh khắc, do đó có cuộc
thám hiểm lớn đang diễn ra về mọi thứ: khoa học, tôn giáo,
triết học, nghệ thuật, những hình thái nghệ thuật mới, các
phương pháp mới, cách thức mới lên mặt trăng, lên sao Hoả
301
và cuối cùng tới các vì sao, những phương pháp mới,
phương pháp nhanh chóng hơn để đi vào trong thiền, vào
trong định samadhi. Theo mọi chiều Mĩ quan tâm thám
hiểm; tinh thần phiêu lưu của thanh niên có đấy. Họ đang đi
tới những ngóc ngách xa xôi nhất của thế giới để thám hiểm
mọi khả năng.
Ấn Độ già lão, sắp chết; Trung Quốc vừa mới sinh ra,
ngay bây giờ đang trưởng thành hướng tới tương lai; Mĩ còn
trẻ.
Tương lai có thể cho bạn những khả năng tốt hơn quá
khứ, nhưng dầu vậy tương lai mang tính không tồn tại; sớm
hay muộn bạn sẽ mệt mỏi về nó. Nga còn mệt mỏi hơn
Trung Quốc bởi vì trong sáu mươi năm họ đã chờ đợi và
chờ đợi, và bây giờ hi vọng biến thành tuyệt vọng. Bây giờ
sự việc đang ngày càng trở nên rõ ràng rằng cái xã hội phi
nhà nước đó không bao giờ xảy ra. Thực ra, nhà nước đã trở
thành mạnh hơn bao giờ hết so với trước đây. Ngay cả sa
hoàng đã không mạnh bằng Joseph Stalin. Sa hoàng bị cách
mạng lật đổ. Nhưng ở Nga bây giờ không có khả năng cách
mạng nào. Nhà nước đã trở thành một tổ chức bao la, mạnh
mẽ, được trang bị kĩ thuật tới mức không ai có thể nổi dậy
chống lại nó được, không ai có thể tổ chức ra bất kì cuộc
cách mạng nào chống lại nó được. Ngay cả nói cái gì chống
lại nó cũng nguy hiểm, ngay cả nghĩ cũng có thể nguy hiểm
trong vài năm nữa, bởi vì bây giờ họ đang phát hiện ra rằng
mọi đứa trẻ đều có thể được gắn điện cực vào đầu và điện
cực đó sẽ liên tục thông báo cho máy tính chính phủ điều
người này nghĩ, điều người đó định làm trong óc mình.
Ngay cả sóng não cũng có thể được ghi dấu vết, những chỉ
dẫn tinh tế có thể bị phát hiện ra, và trước khi người này thốt
ra một lời, người này sẽ biến mất.

302
Và những điện cực đó cũng có thể làm công việc khác:
chúng có thể cấy bất kì ý tưởng nào vào người này và bạn sẽ
không bao giờ nhận biết rằng bạn đang mang một điện cực
bên trong não bạn, bởi vì bên trong hộp sọ của bạn không có
cảm giác. Nếu một hòn đá được nhét vào bên trong hộp sọ
của bạn, bạn sẽ không cảm thấy rằng có hòn đá. Không có
thần kinh cảm giác trong não.
Một người mang một viên đạn trong não trong chín
năm, tuyệt đối không nhận biết. Ngẫu nhiên, qua chụp tia X,
người ta phát hiện ra rằng trong Thế chiến thứ nhất người đó
đã bị trúng một viên đạn, và thế rồi vết thương lành lặn và
viên đạn còn lại bên trong não trong chín năm, và người đó
không nhận biết chút nào.
Và điện cực là thứ rất nhỏ; chúng có thể được đưa vào
khi đứa trẻ ở bệnh viện. Và tất nhiên ở Nga mọi đứa trẻ đều
được sinh ra ở bệnh viện, cho nên mọi đứa trẻ đều có thể bị
đưa điện cực vào và điện cực đó sẽ vận hành theo hai cách -
nó sẽ thông báo cho chính phủ điều người này nghĩ, và nó
có thể làm thêm một điều nữa: chính phủ có thể thao túng
người này qua điện cực; nó có thể chèn các ý tưởng qua
sóng radio, qua điều khiển từ xa. Và người này sẽ nghĩ "Đây
là ý tưởng của mình"; người đó sẽ không bao giờ nghĩ rằng
những ý tưởng này đang tới từ nguồn khác nào đó.
Ở Nga cách mạng là tuyệt đối không thể có, do đó mọi
người đều trở nên ngày càng tuyệt vọng khi thấy rằng Marx
đã nói nhà nước sẽ phai mờ đi - một khi chủ nghĩa tư bản
mất đi thì sẽ không cần nhà nước nữa - nhưng nhà nước đã
trở nên ngày một mạnh hơn. Tiên đoán của Marx đã trở
thành tuyệt đối sai: chính điều đối lập đã xảy ra.
Cùng điều đó đang xảy ra cho Trung Quốc. Ngay bây
giờ họ đang rất nhiệt tình, nhưng họ sẽ sớm lắng vào cùng
cảnh nô lệ như nước Nga đã lắng đọng.
303
Những người thiên hướng quá khứ như người Hindu
đang sống với quá khứ chết đã lâu, lâu rồi - và vẫn mang nó
theo. Nó nặng như núi; họ bị đè nghiến dưới nó. Và không
có hi vọng nào vào tương lai. Người Hindu nghĩ rằng những
ngày tốt đẹp nhất là ở lúc bắt đầu; họ không tin vào tiến hoá,
nhớ - họ tin vào lùi hoá. Tiến hoá ngụ ý chúng ta đang đạt
tới những đỉnh cao hơn. Người Hindu tin chúng ta đang
thoái hoá, xuống thấp hơn, mọi ngày, thời đại cao nhất là ở
lúc bắt đầu; bây giờ chúng ta đang ở chỗ thấp nhất, kali
yuga, chỗ cuối cùng. Đây là trạng thái rất thấp của nhân loại
và không có hi vọng gì.
Một đất nước thực sự sống, thực sự mang tính phiêu
lưu, thám hiểm, tận hưởng, mở hội, phải thường xuyên trẻ
trung, không trong quá khứ không trong tương lai. Tôi
chống lại cả cách tiếp cận Hindu và cách tiếp cận cộng sản.
Tôi muốn toàn thể nhân loại trẻ trung và vẫn còn trẻ trung
mãi mãi, và cách thức để vẫn còn trẻ trung là liên tục làm
chết đi quá khứ và không bận tâm quá nhiều về tương lai.
Tương lai sẽ lấy tiến trình riêng của nó. Khi nó tới, nếu
chúng ta ở đây chúng ta sẽ đáp ứng cho nó; bằng không con
cái chúng ta sẽ đáp ứng cho nó. Sao bận tâm về nó quá
nhiều?
Sống ngay bây giờ đi. Sống sâu sắc và đam mê như bạn
có thể sống được đi, bởi vì đó là cách duy nhất để khám phá
ra Thượng đế. Đó là cội nguồn duy nhất để mở ra bí mật bị
giấu kín của sự sống. Thượng đế không chống lại sự sống,
Thượng đế là cốt lõi bên trong nhất của sự sống. Do đó tôi
dạy về tôn giáo khẳng định sự sống. Tôi không dạy về
Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo; tôi chỉ dạy một loại
tính tôn giáo. Thế giới đã chán ngấy với mọi "giáo" này.
Có ba trăm tôn giáo và ít nhất ba nghìn giáo phái của
những tôn giáo đó. Thế giới cần tính tôn giáo phổ quát.

304
Các sannyasin của tôi không thuộc vào bất kì tôn giáo
nào cả; họ đơn giản thuộc vào một hiện tượng mới: tính tôn
giáo phi tôn giáo. Cái tinh tuý của tôn giáo, của mọi tôn giáo
sẽ được giữ lại, nhưng phần ngoại vi sẽ phải bị vứt bỏ, cái
không tinh túy sẽ phải bị thiêu cháy một cách đơn giản.
Và cái không tinh tuý đã phát triển quá nhiều trong
Hindu giáo, chín mươi chín phần trăm là cái không tinh tuý.
Và cùng điều đó là đúng với các tôn giáo khác nữa, dù ít hay
nhiều, bởi vì Hindu giáo là tôn giáo cổ nhất. Ki tô giáo mới
được hai nghìn năm, Mô ha mét giáo mới một nghìn bốn
trăm năm, Sikh giáo chỉ mới năm trăm năm - tất nhiên,
chúng không cổ tới mức chúng có cuộc sống nhiều hơn chút
ít. Nhưng Hindu giáo, Jain giáo là rất cổ đại - Jain giáo có lẽ
thậm chí còn cổ hơn cả Hindu giáo, do đó mang tính chết
nhiều hơn, do đó trong mồ nhiều hơn, thậm chí nếu Hindu
giáo mà trên giường chết, ít nhất Jain giáo đã trong mồ rồi!
Chúng ta cần việc làm trẻ lại, không phải cho cái gì đó
cũ mà là cái tinh túy vốn vĩnh hằng. Tôi gọi cái tinh túy đó
là tính tôn giáo vĩnh hằng sanatan dharma: ais dhammo
sanantano - tôn giáo vĩnh hằng. Nó không liên quan gì với
Hindu giáo; nó không mang tính thời gian. Thiền là phần có
ý nghĩa nhất của nó, và từ thiền, là việc biến đổi của toàn thể
tính cách của bạn.
Tôi không chống lại bất kì ai, nhưng tôi phải nói chân lí
như nó thế. Tôi không thể thoả hiệp - chân lí bao giờ cũng
không thoả hiệp. Tôi không thể lịch sự nữa, bởi vì lịch sự đó
sẽ không ích gì. Tôi phải nện búa không thương tiếc, liên
tục, vào mọi cái sai và mọi cái xấu. Từng mảnh một, mọi
tôn giáo không tinh tuý, nghi lễ đều phải bị phá bỏ. Khi chỉ
cái tinh tuý còn lại, bạn sẽ thấy tính trẻ trung của nó, sự tươi
tắn của nó, hương thơm của nó.

305
Và thế giới bây giờ đang cần lắm, bởi vì con người như
hiện tại không thể tồn tại thêm được nữa. Hoặc con người
phải tự tử toàn cầu hoặc con người phải bước ra khỏi quá
khứ như con rắn thoát ra khỏi bộ da cũ. Con người phải
được tái sinh.
Chỉ con người mới có thể sống sót được; con người cũ
không có khả năng sống sót trong tương lai. Khoa học đã
phát triển nhiều tới mức chừng nào chúng ta chưa đem tôn
giáo tới cùng mức sẽ không có cân bằng. Tôn giáo đang bị
tụt lại xa đằng sau và khoa học đang phát triển mọi ngày với
tốc độ mà nếu chúng ta không đem tôn giáo tới hiện tại,
khoa học và tôn giáo không thể gặp nhau được. Và gặp gỡ
đó là niềm hi vọng duy nhất.
Gặp gỡ của khoa học và tôn giáo sẽ tạo ra con người
mới, sự tổng hợp mới.

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Thầy đã nói nhiều lần về các Thiền sư, và hôm nay
thầy nói rằng J. Krishnamurti là thiền và thiền ngụ
ý không giáo huấn. Thầy có thể giải thích điểm này
được không?

Anand Alok,
Thiền chắc chắn ngụ ý không giáo huấn chút nào,
không học thuyết. Đó là điều J. Krishnamurti đã từng nói
trong năm mươi năm hay hơn. Ông ấy không bao giờ nhắc

306
tới cái tên Thiền, nhưng điều đó không tạo ra bất kì khác
biệt nào; điều ông ấy nói là đúng, về bản chất là như vậy.
Nhưng một điểm có khác biệt lớn. Thiền nói không có
giáo huấn, chân lí không thể được dạy. Không ai có thể trao
cho bạn chân lí; chân lí phải được khám phá bên trong hồn
riêng của bạn. Nó không thể được vay mượn từ kinh sách.
Thậm chí không thể trao đổi về nó, nó là không thể diễn đạt
được; bởi chính bản chất của nó, về thực chất, là không thể
định nghĩa được. Chân lí xảy ra cho bạn trong im lặng vô
lời, trong thiền sâu, sâu sắc. Khi không có ý nghĩ, không
ham muốn, không tham vọng, trong trạng thái đó của vô trí,
chân lí giáng xuống bạn - hay thăng lên trong bạn. Khi có
liên quan tới chiều hướng chân lí cả hai là như nhau, bởi vì
trong thế giới của tính chủ thể bên trong nhất chiều cao và
chiều sâu là như nhau. Nó là một chiều hướng: chiều đứng.
Tâm trí chuyển theo chiều ngang, vô trí tồn tại theo
chiều đứng. Khoảnh khắc tâm trí dừng vận hành - đó là điều
thiền tất cả là gì: việc dừng lại của tâm trí, dừng lại toàn bộ
của tâm trí - tâm thức của bạn trở thành chiều đứng; chiều
sâu và chiều cao là của bạn.
Cho nên hoặc bạn có thể nói chân lí giáng xuống, như
nhiều nhà huyền bí như Patanjali, Badnarayana, Kapil và
Kanad đã nói. Nó là avatara (hoá thân) - từ các chiều cao đi
tới bạn. Do đó bất kì khi nào một người trở nên tự nhận biết,
người đó được gọi là avatara hoá thân. Hoá thân ngụ ý chân
lí đã giáng xuống người đó; từ avatara đơn giản có ngụ ý
giáng xuống từ trên cao, từ cõi bên kia.
Nhưng cách diễn đạt kia là hợp lệ. Adinatha,
Neminatha, Mahavira, Phật Gautam, những nhà huyền bí
này đã nói rằng chân lí không bắt nguồn từ cõi bên kia, nó
nảy sinh từ cội nguồn sâu thẳm nhất của con người bạn. Nó

307
không phải là cái gì đó đi xuống mà là cái gì đó dâng lên,
trào lên.
Cả hai cách diễn đạt là hợp lệ với tôi, hai cách nói về
cùng một điều: rằng chiều hướng là thẳng đứng. Hoặc bạn
có thể nói dưới dạng của chiều cao hoặc dưới dạng của
chiều sâu. Nhưng chân lí không bao giờ bắt nguồn từ bên
ngoài, cho nên không ai có thể dạy bạn được.
Khi có liên quan tới điểm này, Krishnamurti là Thiền
một cách tuyệt đối. Chân lí không thể được dạy, không thể
được truyền. Các Thiền sư - Bồ đề đạt ma, Lâm Tế, Bokuju,
Baso - họ tất cả đều đã nhấn mạnh vào một điểm: rằng
Thiền là việc truyền trao bên ngoài kinh sách, bên ngoài lời.
Về điểm này J. Krishnamurti là tuyệt đối đồng ý với Thiền.
Nhưng có một điểm hơn nữa trong Thiền mà thiếu trong
J. Krishnamurti, và bởi vì điều đó mà ông ấy đã hoàn toàn
thất bại. Ông ấy đáng ra có thể đã là sự giúp đỡ và nâng đỡ
lớn lao cho nhân loại, nhưng ông ấy đã hoàn toàn thất bại.
Thực ra, tôi không biết cái tên nào khác trong toàn bộ lịch
sử nhân loại, người đã hoàn toàn thất bại như J.
Krishnamurti. Không người chứng ngộ nào đã từng là thất
bại như vậy. Điều kia bị thiếu là nguyên nhân; có chút ít tinh
tế và bạn sẽ phải rất chăm chú về điều đó.
Thiền nói chân lí không thể được truyền trao, do đó nó
chỉ có thể xảy ra trong mối quan hệ Thầy-đệ tử. Nó không
thể được dạy cho nên không có vấn đề quan hệ giữa thầy và
người được dạy - bởi vì không có việc dạy cho nên không
có thầy và không có người được dạy. Nhưng đó là việc
truyền trao. Truyền trao ngụ ý từ tâm sang tâm: dạy ngụ ý từ
đầu sang đầu.
Khi đệ tử và Thầy gặp gỡ, hội nhập, tan chảy vào nhau,
đó là chuyện tình, đó là kinh nghiệm sâu sắc, cực đỉnh, sâu

308
sắc hơn nhiều so với bất kì tình yêu nào, bởi vì ngay cả
những người yêu liên tục mang bản ngã của họ và các bản
ngã nhất định va chạm, xung đột. Thầy và đệ tử tồn tại
không có bản ngã. Bản ngã của Thầy đã bay hơi rồi - đó là lí
do tại sao người đó là Thầy - và đệ tử buông xuôi bản ngã
của mình theo Thầy.
Và nhớ, bằng việc buông xuôi bản ngã đệ tử không
buông xuôi bất kì cái gì đặc biệt, bởi vì bản ngã chỉ là ý
tưởng chứ không là gì khác. Nó không có thực chất; nó
được làm từ cùng chất liệu tạo ra mơ. Khi bạn buông xuôi
mơ của bạn, bạn buông xuôi cái gì?
Nếu bạn tới tôi và bạn nói, "Tôi cúng dường mọi mơ
của tôi cho thầy," bạn cúng dường, nhưng tôi không được
bất kì cái gì! Và bạn có thể vẫn nghĩ rằng bạn đang cúng
dường những mơ lớn lao về những lâu đài vàng và đàn bà
đẹp và kho báu lớn... bạn đang cúng dường những mơ lớn,
nhưng tôi không được bất kì cái gì.
Khi bạn cúng dường bản ngã của bạn cho Thầy, bạn
đang cúng dường cái gì đó có liên quan tới bạn, bởi vì bạn
coi nó là rất bản chất, rất có ý nghĩa. Khi bạn buông xuôi
bạn cho rằng bạn đang làm điều gì đó lớn lao. Khi có liên
quan tới Thầy, thầy đơn giản cười vào toàn bộ câu chuyện
này, bởi vì thầy biết bản ngã của bạn là gì - chỉ là sự rỗng
tuếch mà thôi! không có gì mấy mà ba hoa về nó.
Nhưng phương cách, phương cách đơn giản có thể giúp
ích nhiều lắm. Đó chỉ là phương cách. Thầy nói, "Buông
xuôi bản ngã đi." Khi thầy nói, "Buông xuôi bản ngã đi," là
thầy đang nói, "Trao cho ta cái mà ông không có chút nào
nhưng ông tin là ông có. Trao cho ta niềm tin của ông đi - ta
sẵn sàng nhận nó. Để cái cớ này giúp cho ông." Bạn có thể
không có khả năng vứt bỏ nó theo cách riêng của bạn,
nhưng trong tình yêu với Thầy bạn có thể có khả năng, bạn
309
có thể thu được dũng cảm để mạo hiểm. Yêu khuyến khích
bạn mạo hiểm. Trong yêu bạn có thể làm bất kì điều gì. Khi
bạn trong tình yêu với Thầy và thầy nói, "Trao cho ta bản
ngã của ông," làm sao bạn có thể nói không?
Hiện hữu cùng Thầy ngụ ý ở trong trạng thái nói có, có
và có nữa! Đó là cái có tuyệt đối, cái có vô điều kiện. Cho
nên khi thầy nói, "Trao cho ta bản ngã của ông," bạn đơn
giản trao bản ngã của bạn cho Thầy. Với bạn nó là rất quan
trọng; với thầy nó không có nghĩa lí gì, không bản chất,
không sự tồn tại, nhưng thầy chấp nhận nó.
Khoảnh khắc bạn vứt bỏ bản ngã của bạn, gặp gỡ bắt
đầu xảy ra. Bây giờ hai số không bắt đầu đi vào trong nhau.
Hai người yêu đi vào thân thể của nhau; đó là hiện tượng vật
kí và cực thích xảy ra là điều vật lí. Thầy và đệ tử là những
người yêu trên bình diện tâm linh: hai số không, hai con
người vô ngã đi vào trong nhau. Trong hội nhập đó cái gì đó
được xảy ra. Không phải là Thầy cho bạn cái gì đó, không
phải là bạn nhận cái gì đó, nhưng bởi vì gặp gỡ này mà cái
gì đó xảy ra, từ gặp gỡ này mà cái gì đó xảy ra - cái gì đó
lớn hơn Thầy và lớn hơn đệ tử, cái gì đó nhiều hơn gặp gỡ
của hai người này, cái gì đó siêu việt.
Đó là phần bị thiếu trong Krishnamurti. Ông ấy nói
chân lí không thể được dạy, nhưng ông ấy đã bỏ lỡ điểm
khác. Vâng, điều đó không thể được dạy... nhưng ông ấy là
con người logic và đó là vấn đề của ông ấy. Ông ấy đang cố
thu xếp chứng ngộ của mình một cách rất logic; ông ấy
không muốn đem bất kì cái phi logic nào vào trong nó, bất
kì ngược đời nào vào trong nó.
Bây giờ các Thiền nhân không bận tâm tới logic; họ
sống điều ngược đời tối thượng. Họ liên tục nói không có
thuyết giảng và chân lí không thể được dạy, và dầu vậy
Thiền sư vẫn có đó và đệ tử Thiền vẫn có đó. Và mọi người
310
đã nêu ra câu hỏi, những người nghi ngại bao giờ cũng nêu
ra những câu hỏi rằng: "Đây là cái gì? Một mặt ông nói chân
lí không thể được dạy, và mặt khác sao ông vẫn khai tâm,
sao ông vẫn nhận người?"
Và Thiền sư bao giờ cũng cười, bởi vì điều ngược đời
này không thể được giải thích. Nếu bạn muốn biết nó một
cách thực sự, bạn phải trở thành đệ tử, bạn phải trở thành
người tham gia, bạn phải trở thành một phần của bí ẩn; chỉ
thế thì bạn có nếm trải về nó. Đó là việc nếm trải; không lời
giải thích nào có thể giúp ích. Nếu bạn đã nếm đường bạn
biết nó ngọt, nhưng không lời giải thích nào có thể cho bạn
ý tưởng về ngọt. Nếu bạn đã thấy ánh sáng, bạn biết nó là gì,
nhưng với người mù bạn không thể giải thích được; điều đó
là hoàn toàn vô tích sự.

Các Thiền sư không bao giờ bận tâm, do đó phát biểu


của họ rất ngược đời.

Một Thiền sư, Nhất Hưu, trọ lại trong một ngôi chùa, ở
tạm qua đêm, nhưng đêm đó là đêm lạnh và ông ấy rét run
người. Đến nửa đêm ông ấy trở dậy và thấy một bức tượng
Phật, bức tượng gỗ, bèn đốt nó, và rất sung sướng với ngọn
lửa và hơi ấm.
Sư trụ trì chùa, thấy ánh sáng và ánh lửa bên trong
chùa, không thể tin được điều đang xảy ra. Ông ta có chút
hoài nghi khi ông ta cho phép Nhất Hưu ở lại qua đêm trong
chùa, nhưng ông ta không hề nghĩ được rằng ông này sẽ làm
điều như vậy - "Ông ấy sẽ làm cho cả chùa bị cháy mất!"
Ông ta xô vào và ông ta thấy ông này đã đốt cháy một trong
những bức tượng Phật đẹp nhất. Và tất nhiên là ông ta giận
lắm, ông ta quát thẳng mặt Nhất Hưu rằng, "Ông làm gì

311
vậy? Ông cho rằng mình là Phật tử sao? Rồi ông còn mặc áo
choàng vàng của sư Phật giáo nữa! Mà ta thậm chí đã nghe
nói rằng ông không chỉ là một sư Phật giáo, ông còn là một
Thầy lớn và ông có nhiều tín đồ! Thế mà ông đã làm gì
vậy?" Bức tượng đã hoàn toàn bị cháy rụi!
Nhất Hưu lấy cây thiền trượng và bắt đầu khều khều cái
gì đó trong đống tro tàn. Sư này hỏi, "Ông tìm gì vậy?"
Ông ấy nói, "Ta đang tìm xương Phật đây."
Ở phương Đông chúng ta gọi xương là "hoa (xá lị)".
Khi một người chết chúng ta thu thập xương người đó sau
khi thân thể đã cháy hoàn toàn; những xương đó được gọi là
"hoa (xá lị)".
Cho nên ông ấy nói, "Ta đang tìm xá lị của Phật đây."
Ngay cả sư này không kìm được tiếng cười. Ông ta nói,
"Ông điên rồi! Làm sao ông có thể tìm được xá lị trong bức
tượng gỗ?"
Bây giờ đến lượt Nhất Hưu cười khanh khách, và ông
ấy cười và ông ấy nói, "Thế thì ông không ngu đến mức ta
tưởng! Đem tượng nữa tới đi... còn có hai tượng nữa trong
chùa và đêm vẫn còn dài lắm. Và sao ông không cùng tham
gia nhỉ? Lửa ấm thế, và chúng ta sẽ đốt hai bức tượng này
nữa. Khi không có xương trong nó, chắc chắn đấy không
phải là Phật thực rồi - chỉ là gỗ mà thôi."
Sư này đâm ra sợ người điên này quá, ông ta tống ông
này ra khỏi chùa. Thật là nguy hiểm mà giữ ông này bên
trong chùa - ông ấy có thể đốt cả hai tượng kia nữa! Chùa
chỉ có ba tượng mà thôi.
Đến sáng khi sư này mở cửa ra ông ta thấy Nhất Hưu
đang cúi lạy ngay phía trước ngôi chùa trước cột đá. Ông ấy
đã đặt lên đó vài đoá hoa - chắc phải đã lấy hoa dại nào đó

312
rồi - ông ấy đặt những đoá hoa đó lên cột đá và đọc lời cầu
nguyện buổi sáng và thiền. Và ông ấy lẩm nhẩm câu mật
chú Phật giáo nổi tiếng: "Buddham sharanam gachchhami -
Tôi tới chân Thầy, Bạch Phật. Sangham sharanam
gachchhami - Tôi tới chân tâm xã của Thầy. Dhammam
sharanam gachchhami - Tôi tới chân của chân lí tối thượng
mà Thầy đã nhận ra."
Sư này tới, lay ông ấy và nói, "Ông làm gì vậy? Ông
thực sự điên hoàn toàn rồi! Đây là cột đá, đâu có phải Phật!
Ông đã đốt tượng Phật trong đêm, còn bây giờ trước cột đá
ông đọc lời cầu nguyện và nói: Buddham sharanam
gachchhami, sangham sharanam gachchhami, dhammam
sharanam gachchhami? sao"
Nhất Hưu nói, "Vấn đề không phải là liệu nó có phải là
tượng hay không; vấn đề là tâm ta. Bây giờ là buổi sáng, ta
đang làm việc cầu nguyện. Bất kì cái cớ nào cũng được.
Trong đêm ta đốt một cái cớ - đó chỉ là cái cớ mà thôi, đó
không phải là Phật. Đây là cái cớ khác, và điều này là đơn
giản hơn nhiều bởi vì ta có thể tìm thấy cột đá ở bất kì chỗ
nào. Ta không cần phụ thuộc vào bất kì chùa nào, bất kì
tượng nào."
Sư nói, "Ông rất phi logic!"
Và đó là điều đã được kể cho các Thiền sư trong các
thời đại - từ ngày của Mahakashyap, Thiền sư đầu tiên, Tổ
thứ nhất, người ta đã lặp đi lặp lại rằng, "Các ông ngược đời
lắm. Một mặt các ông phủ nhận: rằng không có thuyết
giảng, mặt khác các ông trở thành đệ tử, Thầy. Một mặt các
ông nói không có cầu nguyện, mặt khác các ông cầu nguyện
Phật."

313
Bạn phải rất rất tỉnh táo để hiểu điều ngược đời này. Lời
nguyện phải đi ra từ tình yêu tuôn tràn của bạn; nó không
liên quan gì tới tượng hay tảng đá. Những cái đó chỉ là cái
cớ. Và Phật ở mọi nơi - với Phật tử, Phật ngụ ý Thượng đế.
Đá cũng là Phật như tượng vậy. Toàn thể sự tồn tại đầy Phật
tính, tính thượng đế, và Thầy đã trải nghiệm điều đó.
Đệ tử chấp nhận Thầy để cho người đó có thể tới gần
với thầy hơn. Trong việc nói có với Thầy, người đó trở nên
được đồng điệu với Thầy. Từ "đồng điệu" thật hay; nó ngụ ý
"như một". Người đó trở thành một với Thầy. Trong tính
một đó, cái gì đó không thể trao được qua lời là truyền được
qua việc hiện hữu - cái gì đó giống như việc đem một chiếc
nến chưa cháy lại gần chiếc nến đang cháy. Có một điểm
nào đó mà khi chiếc nến chưa cháy đi vào bên trong giới
hạn đó - đột nhiên ngọn lửa từ chiếc nến đang cháy nhảy
vào chiếc nến chưa cháy. Chiếc nến đang cháy không mất gì
cả, nhưng chiếc nến chưa cháy thu được nhiều vô hạn.
Bây giờ quá trình đảo ngược đang xảy ra: khi đệ tử tới
gần Thầy người đó trao bản ngã của mình và cứ tưởng mình
bị mất nhiều - và Thầy không được gì. Khi Thầy trao cái gì
đó là thầy cho vô hạn rồi, thầy cho ánh sáng của thầy, nhưng
thầy không mất gì cả; ánh sáng của thầy vẫn còn như vậy.
Từ một chiếc nến bạn có thể thắp sáng cả triệu chiếc nến, và
chiếc nến đang sáng không mất gì mặc dầu chiếc nến chưa
sáng thu được vô hạn.
Điểm này bị thiếu trong J. Krishnamurti, do đó bất kì
điều gì ông ấy nói là Thiền, nhưng ông ấy đã không thực
hành Thiền, nói mà không làm.
Tôi nói và làm cả hai, và chỉ việc làm mới đem tới sự
hoàn thành, sự nở hoa. Chỉ nói sẽ không ích gì. Dù bạn nói
cái gì đó tích cực về chân lí nó vẫn vô dụng, hay bạn nói cái
gì đó tiêu cực về chân lí. Ngay cả nói rằng chân lí không thể
314
được nói ra cũng là vô nghĩa. Suốt cả năm mươi năm cứ nói
đi nói lại rằng chân lí không thể được nói ra phỏng có ích
gì? Thế thì sao bận tâm? Nói một lần "Chân lí không thể
được nói ra" rồi mọi ngày cứ lặp lại "Như trên" - thế là đủ -
và về nhà! Không có ích gì mà nói điều đó lặp đi lặp lại mãi,
trừ phi bằng việc nói điều đó bạn khuyến khích mọi người
hướng tới hiện tượng nào đó khác.
Chân lí không thể được nói ra, đây là một phần. Phần
thứ hai là: nhưng chân lí có thể xảy ra. Nó có thể được chia
sẻ - không được nói ra nhưng được chia sẻ. Và để có việc
chia sẻ đó, chuyện tình của đệ tử và Thầy là điều phải có;
không có điều đó thì không thể được.

Câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,Thầy có gì trong ống tay áo xắn lên vậy?

Prem Shraddan,
Không có gì mấy đâu chỉ vài chuyện cười cho bạn thôi!
Chuyện thứ nhất:

Một người vừa bị mất tất cả tiền bạc trên bàn đánh bạc
ở Las Vegas đi xin một hào của một ông chủ khác để dùng
phòng vệ sinh đàn ông. Một trong các ngăn không bị khoá,
cho nên anh ta tiết kiệm được một hào, và rồi dùng nó để
chơi máy giật xèng. May mắn thay anh ta trúng số.
Với số tiền này anh ta lại thử cái máy khác, và lại trúng.
Vận may cứ liên tục mỉm cười với anh ta khi anh ta tới chơi
315
bàn ném xúc sắc và cò quay, liên tục thắng mãi tới một triệu
đô la.
Anh ta kể lại câu chuyện phi thường của mình ở khắp
Las Vegas - tại quầy rượu và các bữa tiệc. Bao giờ cũng bày
tỏ lòng biết ơn với ân nhân của mình, anh ta nói anh ta sẽ
chia số tiền triệu đô la này cho ân nhân. Sau vài tuần, trong
một nhóm người tại quầy rượu, một người trong số họ tuyên
bố, "Tôi chính là người đã cho anh hào đó đấy!"
"Tôi đâu có tìm anh," người gặp vận may trả lời. "Tôi
đang đi tìm người đã để cánh cửa mở kia!"

Chuyện thứ hai:


Jim Smith đâm sầm vào ông bạn cũ trên phố, người
đang phơi ra hai mắt bị thâm tím. Sau khi chào hỏi lẫn nhau,
Jim hỏi, "Này, cậu kiếm đâu ra những vết thâm tím đó?"
"Ở nhà thờ đấy," anh bạn anh ta đáp lại.
"Làm thế nào?" Jim hỏi, lấy làm ngạc nhiên.
"Thế này," anh bạn anh ta bắt đầu, "Tớ ngồi đằng sau
một bà béo, to lớn trong nhà thờ. Khi bà ấy đứng dậy tớ để ý
quần của bà ấy bị mắc vào rãnh của đầu núm bà ấy. Tớ mới
đi tới và kéo nó ra và bà ấy quay lại và thoi cho tớ một quả
vào mắt!"
"Úi chào!" Jim nói, thấy ngạc nhiên. "Nhưng làm sao
mắt kia lại cũng bị thâm tím thế?"
Thở dài, anh bạn anh ta nói, "Khi tớ nhận ra rằng bà ấy
không thích điều tớ đã làm, tớ để nó lại!"

Và chuyện thứ ba:

316
Johnny Tinh trùng và tất cả bạn bè nhỏ bé của anh ta
đang chuẩn bị cho trận công kích lớn của họ vào thế giới.
Họ luyện tập và xây dựng sức mạnh của mình. Johnny nói
với các tinh trùng khác, "Nghe đây, các bạn, tôi muốn là số
một - tôi muốn là người đầu tiên trở thành con người!"
Họ tất cả quây xung quanh thì bỗng nhiên tiếng chuông
Jerusalem vang lên, "Coong!... Coong!... Coong!" Johnny
lấy cú nhảy - anh ta là số một! Nhưng bỗng nhiên mọi tinh
trùng khác thấy anh ta quay lại và bắt đầu chạy lùi về phía
họ.
'Này, Johnny!" họ kêu lên. "Cái gì sai vậy?"
"Báo động giả, anh bạn," Johnny nói với họ. "Đấy là cú
đánh gió!"

317
318
11. Không tâm trí chút
nào

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Khi trả lời điều sau đây thầy sẽ nói cho nửa triệu
thính giả nghe đài ở châu Âu; phần lớn trong họ có
thể chưa nghe nói gì về thầy.
Nếu một trong những thính giả của chương trình
này là người sùng kính với chủ nghĩa xã hội, thầy
sẽ nói gì với người đó?
Nếu một trong những thính giả đang thực hành
Thiên chúa giáo, thầy có chuyện nào cho người
đó?
Nếu một trong những thính giả là người tìm kiếm
tiềm năng, thầy sẽ có thông điệp nào cho người
đó? Tuy nhiên, nếu thông điệp của thầy là im lặng,
làm sao thầy sẽ truyền đạt im lặng này qua radio?

Gotz Hagmuller,

319
Thứ nhất: tôi không ủng hộ chủ nghĩa xã hội, bởi vì với
tôi tự do có giá trị tối thượng; không cái gì cao hơn điều đó.
Và chủ nghĩa xã hội về cơ bản chống lại tự do - nó phải là
vậy, điều đó không tránh khỏi, bởi vì chính nỗ lực của chủ
nghĩa xã hội là đem cái gì đó phi tự nhiên vào trong sự tồn
tại.
Con người không bình đẳng, họ là duy nhất. Làm sao
họ có thể bình đẳng được? Mọi người không phải là nhà thơ
và mọi người không phải là hoạ sĩ. Mọi người có tài năng
duy nhất của mình. Có những người có thể sáng tác nhạc và
có những người có thể tạo ra tiền. Con người cần tự do tuyệt
đối để là bản thân mình.
Chủ nghĩa xã hội là độc tài của nhà nước; nó là một cấu
trúc kinh tế ép buộc. Nó cố làm bình đẳng hoá mọi người,
những người không bình đẳng; nó cắt gọt họ theo cùng kích
cỡ, và họ có những kích cỡ khác nhau. Một cách tự nhiên
với ít người, với rất ít người điều đó sẽ khớp, nhưng với đa
số mọi người điều đó sẽ là hiện tượng què quặt, tê liệt, phá
huỷ.
Tôi đánh giá cao tự do trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống để cho mọi người đều được phép là bản thân mình. Xã
hội không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện; mục đích
là cá nhân. Cá nhân có giá trị lớn hơn tổ chức xã hội. Xã hội
tồn tại vì cá nhân, không phải là điều ngược lại. Do đó tôi
tin vào để kệ cho làm.
Chủ nghĩa tư bản là cấu trúc kinh tế tự nhiên nhất; nó đã
không bị ép buộc, nó đã phát triển. Nó đã không bị áp đặt,
nó đã tới theo cách riêng của nó. Chắc chắn tôi mong muốn
nghèo nàn bị xoá sạch khỏi thế giới này - nó là xấu - nhưng
chủ nghĩa xã hội không thể làm được điều đó. Nó đã thất bại
ở Nga, ở Trung Quốc; trong mọi nước nó đã thất bại không
xoá được nghèo nàn. Vâng, nó đã thành công ở một điều: nó
320
đã làm cho mọi người nghèo như nhau; nó đã phân phối sự
nghèo nàn.
Và con người là ngu tới mức nếu mọi người khác cũng
nghèo như bạn, bạn cảm thấy thoải mái hơn; bạn không cảm
thấy ghen tị. Toàn thể ý tưởng về chủ nghĩa xã hội đã nảy
sinh từ ghen tị. Nó không liên quan gì tới việc hiểu con
người, tâm lí con người, sự trưởng thành của con người,
việc nở hoa tối thượng của con người; nó bắt rễ trong ghen
tị. Vài người trở nên giầu có; vài người đó là mục tiêu của
ghen tị của mọi người khác - họ phải bị kéo xuống. Không
phải là bạn sẽ trở nên giầu hơn bởi việc kéo họ xuống; bạn
có thể thậm chí còn trở nên nghèo hơn trước đây bởi vì vài
người đó biết cách làm ra tiền. Nếu họ bị tiêu diệt bạn sẽ
mất mọi khả năng để tạo ra giầu có.
Đó là điều đã xảy ra ở nước Nga: người giầu đã biến
mất, nhưng điều đó đã không làm cho toàn thể xã hội giầu
có; mọi người đã trở nên nghèo ngang nhau. Tất nhiên mọi
người cảm thấy sung sướng hơn theo cách đó bởi vì không
có ai giầu hơn họ. Mọi người là nghèo ngang nhau, tất cả là
ăn mày; điều đó cho cảm giác thoải mái. Ai đó vươn cao
hơn bạn, và bản ngã bạn bị tổn thương.
Mọi người nói về bình đẳng, nhưng cái gì đó căn bản
phải được hiểu: con người không bình đẳng về mặt tâm lí.
Có thể làm được gì về điều đó? Albert Einstein không bình
đẳng với bất kì Tom, Harry, Dick - ông ấy không bình đẳng
đâu! Sớm hay muộn bạn có thể bắt đầu làm mọi người
ngang nhau khi có liên quan tới thông minh; Shakespeare,
Milton, Shelley là không bình đẳng với người khác; họ có
chiều hướng riêng của họ.
Một điều tôi đồng ý: rằng nên có tự do cho mọi người,
và tự do bình đẳng cho mọi người, để là bản thân họ. Nói
điều đó chính xác hơn: tự do ngụ ý mọi người là tự do được
321
không bình đẳng! Bình đẳng và tự do không thể đi cùng
nhau, chúng không thể cùng tồn tại. Nếu bạn chọn bình
đẳng, tự do phải bị hi sinh và với tự do bị hi sinh mọi thứ bị
hi sinh. Tôn giáo bị hi sinh; thiên tài, chính khả năng của
thiên tài, bị hi sinh; phẩm chất cao hơn của con người bị hi
sinh. Mọi người phải khớp với mẫu số thấp nhất, chỉ thế thì
bạn có thể bình đẳng.
Điều đó giống như bạn trèo lên núi - nếu tất cả đều phải
bình đẳng, thế thì người lười nhất sẽ trở thành tiêu chuẩn;
mọi người phải chuyển động tương ứng theo người lười
nhất. Người đầu tiên sẽ không là tiêu chuẩn mà phải là
người cuối cùng. Đây sẽ là thảm hoạ lớn. Nếu người cuối
cùng trở thành nhân tố quyết định, thế thì với những người
giống như đỉnh Everest sẽ ra sao?
Và quan sát của tôi là ở chỗ mọi cá nhân được sinh ra
với tài năng riêng nào đó, thiên tài riêng nào đó cho bản
thân họ. Người đó có thể không phải là nhà thơ như Shelley
hay Rabindranath, người đó có thể không phải là hoạ sĩ như
Picasso hay Nandalal, người đó có thể không phải là nhạc sĩ
như Beethoven hay Ravi Shankar, nhưng người đó phải có
cái gì đó. Cái đó phải được phát hiện ra. Người đó phải
được giúp đỡ để người đó có thể phát hiện ra điều mình đã
mang tới cho thế giới như món quà từ Thượng đế.
Không ai tới mà không có quà; mọi người mang tiềm
năng nào đó. Nhưng ý tưởng về bình đẳng là nguy hiểm, bởi
vì hoa hồng phải là hoa hồng và hoa cúc vạn thọ phải là hoa
cúc vạn thọ và hoa sen phải là hoa sen. Nếu bạn bắt đầu cố
làm cho chúng bình đẳng thế thì bạn sẽ phá huỷ tất cả; hoa
hồng, hoa sen, hoa cúc vạn thọ, tất cả sẽ bị phá huỷ. Bạn có
thể thành công trong việc tạo ra hoa nhựa mà đích xác bình
đẳng như nhau, nhưng chúng sẽ chỉ là thứ chết.

322
Và đó là điều sẽ xảy ra nếu chủ nghĩa xã hội trở thành
cách sống của chúng ta trên toàn thế giới: con người sẽ bị
thu lại thành món hàng, con người sẽ bị thu lại thành cái
máy. Máy móc là bình đẳng. Bạn có thể có triệu chiếc xe
Ford đích xác bình đẳng như nhau. Chúng liên tục tới qua
dây chuyển lắp ráp, tuyệt đối giống hệt nhau. Nhưng con
người không phải là máy, và thu con người thành máy sẽ
phá huỷ nhân loại trên trái đất.
Bạn có cho rằng ở nước Nga xô viết Phật Gautam là có
thể có, Jesus Christ là có thể có, Lão Tử là có thể có được
không? Và nói gì về Phật, Jesus và Lão Tử? Tôi hỏi bạn:
ngay cả Karl Marx liệu có thể có được không? Ngay cả Karl
Marx cũng không thể có được, bởi vì Karl Marx có thông
minh của riêng ông ấy và ông ấy sẽ không được dung thứ.
Ông ấy không phải là người thường; chắc chắn ông ấy
không phải là một phần của cái gọi là giai cấp vô sản. Ông
ấy là một phần của giai cấp tư sản giầu có nhất.
Cả đời mình ông ấy không bao giờ làm lao động. Từ
sáng tới tối ông ấy ngồi trong Bảo tàng Anh nghiên cứu.
Thực ra, Bảo tàng Anh không bao giờ bắt gặp một học giả
nào khác với cùng tầm cỡ. Ông ấy mê mải với nghiên cứu
của mình, say sưa tới mức khi tới giờ đóng cửa ông ấy bị
đuổi ra mọi ngày bằng vũ lực, bởi vì ông ấy cứ nài nỉ, "Cho
thêm chút nữa đi - để tôi đọc hết cuốn sách này đã! Đừng
quấy rầy tôi! Có thành vấn đề gì nếu các ông ấy đóng cửa
bảo tàng chận nửa tiếng? Nếu tôi không làm việc này, ngày
mai tôi có thể quên mất hoàn toàn dấu vết của nó. Để tôi kết
thúc nó!" Ông ấy phải bị đuổi ra, bị đuổi về vật lí.
Và điều đó xảy ra nhiều lần tới mức người ta thấy ông
ấy gần như trong trạng thái mê; nghiên cứu liên tục ông ấy
trở nên choáng váng tới mức ông ấy sẽ rơi vào vô ý thức,

323
ông ấy sẽ ngất đi, và ông ấy phải được mang ra trên chiếc
cáng về nhà.
Bây giờ người kiểu này không còn có thể có thêm nữa.
Ngay chỗ đầu tiên Bảo tàng Anh đã không thể có ở Nga.
Tôi đã nghe:

Một nhà báo Mĩ - phải là ai đó như Gotz Hagmuller - đã


viếng thăm nước Nga. Ông ấy hỏi một ông giáo sư... cứ
tưởng rằng ông giáo sư đó sẽ trả lời ông ấy một cách thông
minh, nhưng bất kì cái gì ông ấy hỏi thì ông giáo sư này bao
giờ cũng bắt đầu câu trả lời của mình, "Vâng, mới hôm nọ
tôi có đọc trong tờ Pravda..."
Từ tiếng Nga pravda ngụ ý sự thật. Khôi hài làm sao!
Nó đáng phải có ngụ ý dối trá! Pravda là tờ báo nói dối nhất
trên thế giới, nhưng nó ngụ ý sự thật.
Ông ấy bao giờ cũng bắt đầu. "Tôi đã đọc trong tờ
Pravda...
Phẫn nộ quá, nhà báo cuối cùng hỏi, "Thế ông không có
ý kiến nào của riêng ông à?"
Vị giáo sư này nói, "Có chứ, tôi có ý kiến riêng của tôi
chứ, nhưng tôi không tin vào chúng!"

Ở Nga không có tự do tư tưởng, bởi vì tự do tư tưởng


ngụ ý bắt đầu sự không bình đẳng. Tự do tư tưởng ngụ ý
con người không phải là cái máy, và thế thì hai người không
thể bình đẳng được.
Ý tưởng về bình đẳng là tuyệt đối phi tâm lí. Tôi có thể
chấp nhận nó chỉ theo một nghĩa: rằng mọi người nên được
trao cho cơ hội bình đẳng để là bản thân mình - và điều đó
324
ngụ ý bất bình đẳng. Bạn phải hiểu sự ngược đời này: mọi
người phải được trao cho cơ hội bình đẳng và tự do là bản
thân mình, và điều đó đơn giản ngụ ý mọi người phải được
trao cho sự bình đẳng được bất bình đẳng.
Nghèo nàn có thể bị tiêu diệt - không có nhu cầu về chủ
nghĩa xã hội - nghèo nàn có thể bị tiêu diệt chỉ bằng hệ
thống tư bản cao hơn. Karl Marx đã tiên đoán rằng nước đầu
tiên đi sang chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội sẽ là
Mĩ; tiên đoán của ông ấy đã chứng tỏ sai tuyệt đối. Ông ấy
không bao giờ nghĩ rằng một nước như Nga hay Trung
Quốc sẽ trở thành nước cộng sản; Nga và Trung Quốc rất
lạc hậu về kinh tế. Vào thời của Karl Marx, Nga đang sống
trong thế giới của chế độ phong kiến; ngay cả chủ nghĩa tư
bản chưa xảy ra ở đó.
Nếu Karl Marx quay lại ông ấy sẽ tuyệt đối không có
khả năng hiểu làm sao có chuyện xảy ra là nước Nga trở
thành nước cộng sản đầu tiên, xã hội xã hội chủ nghĩa đầu
tiên. Ông ấy đã hi vọng Mĩ sẽ trở thành nước cộng sản đầu
tiên. Tại sao ông ấy đã hi vọng điều đó? - bởi vì chủ nghĩa
tư bản phát triển và đạt tới đỉnh của việc tạo ra của cải tới
mức tối đa, nghèo sẽ tự nhiên biến mất, bởi vì khi của cải
quá nhiều không ai muốn tích trữ nó. Bạn không tích trữ
không khí - nó sẵn có đấy. Nó sẵn có một cách tự do, nó có
đó nhiều thế. Bạn chỉ tích trữ cái gì đang trong trạng thái
khan hiếm.
Mọi người có tâm trí hám tiền, tham lam bởi vì tiền bạc
là hiếm. Nếu bạn không tích trữ nó, nếu bạn không bám lấy
nó, ai đó khác sẽ giằng lấy nó ra khỏi bạn. Trước khi ai đó
khác làm điều đó bạn phải làm điều đó. Bằng không bạn sẽ
là kẻ mất. Và cách duy nhất để phá huỷ nghèo nàn là tạo ra
thật nhiều của cải đến mức tham lam trở thành không liên
quan. Khi của cải đủ rồi, nghèo nàn sẽ biến mất. Tất nhiên

325
sẽ vẫn có những người có nhiều của cải hơn và những người
sẽ có ít của cải hơn, nhưng điều đó là tự nhiên và không có
gì sai trong nó. Ai đó sẽ thông minh hơn và ai đó sẽ mạnh
khoẻ hơn và ai đó sẽ kém mạnh khoẻ hơn, nhưng chúng ta
có thể tạo ra một xã hội nơi mọi người có thể đạt tới mức
cực đại của mình. Cho dù thế thì bất bình đẳng vẫn nhất
định còn đó, và không có nhu cầu phá huỷ điều đó bởi vì
điều đó tạo ra tính đa dạng, và tính đa dạng đem tới sự giầu
có. Điều tốt là mọi người không bình đẳng.
Nghèo nàn phải ra đi, nhưng cách duy nhất cho nó ra đi
là tạo ra nhiều của cải hơn, là công nghiệp hoá xã hội theo
cách khoa học hơn, đem tới ngày một nhiều công nghệ, và
với hiểu biết sâu sắc về tự nhiên để cho công nghệ của bạn
và công nghiệp không phá huỷ tự nhiên. Chúng nên trở
thành một phần của sinh thái, chúng không nên đi ngược lại
sinh thái. Đó là sự phát triển có tính khoa học cao nhất. Nó
không thể xảy ra qua chủ nghĩa xã hội; nó chỉ có thể xảy ra
qua chủ nghĩa tư bản.
Từ "chủ nghĩa tư bản" đã trở thành rất không tương
xứng, nhưng tôi không lo nghĩ về điều đó. Tôi tin vào chủ
nghĩa tư bản và không tin vào chủ nghĩa xã hội, bởi vì với
tôi chủ nghĩa tư bản là hi vọng duy nhất cho tự do, cho
trưởng thành, cho tính duy nhất cá nhân. Đó là sự kính trọng
với cá nhân; chủ nghĩa xã hội thiếu tôn trọng cá nhân. Chủ
nghĩa xã hội không tin vào hồn của con người; nó không thể
tin được bởi vì nếu bạn tin vào hồn của con người thế thì
bạn không thể cư xử dường như con người là cái máy. Bạn
phải kính trọng tính duy nhất của mọi cá nhân. Không có
kính trọng đó ngụ ý tự tử.
Điều thứ hai bạn hỏi: Nếu một trong những thính giả
đang thực hành Thiên chúa giáo, thầy sẽ kể chuyện nào cho
người đó?

326
Là một Christ là tốt, là người Ki tô giáo là xấu - Thiên
chúa giáo hay Tin lành, không thành vấn đề. Là vị phật là
tốt, nhưng là Phật tử là xấu. Khi bạn có thể là một Christ, tại
sao chấp nhận điều kém hơn? Khi tâm thức Christ có thể nở
hoa bên trong bạn, khi bạn có thể trở thành vị Phật theo
quyền riêng của bạn, khi bạn có thể trải nghiệm điều Phật và
Christ đã trải nghiệm, thế thì sao chỉ là tín đồ, kẻ bắt chước,
bản sao? Tôi chống lại mọi bản sao.
Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn khám phá ra mặt
nguyên bản của bạn, dù bạn đang thực hành Thiên chúa giáo
hay Tin lành hay Hindu giáo hay Mô ha mét giáo, mọi cái
đó đều sai. Yêu Christ, nhưng đừng là người Ki tô giáo. Yêu
là hiện tượng hoàn toàn khác. Nếu bạn trở thành người Ki tô
giáo, bạn bị nghiện với Christ, bạn trở nên lệ thuộc vào
Christ. Nếu bạn là người Ki tô giáo, bạn nhất định chống lại
Phật, chống lại Mahavira, chống lại Lão Tử, chống lại
Zarathustra, chống lại Patanjali. Chỉ chọn lựa Christ và trở
nên chống lại mọi cá nhân thức tỉnh vĩ đại khác, những
người đã bước đi trên trái đất này, là trở nên nghèo nàn,
nghèo không cần thiết. Khi bạn có thể đòi toàn thể di sản
của nhân loại, khi tất cả chư Phật, mọi người chứng ngộ có
thể làm giầu có cho con người bạn, sao làm hạn hẹn tâm
thức của bạn? Sao trở nên bị hội tụ và bị ám ảnh bởi Christ
hay Phật hay Mahavira hay Krishna?
Người Thiên chúa giáo ngụ ý người đó bị ám ảnh bởi
Christ, người Hindu giáo ngụ ý người đó bị ám ảnh bởi
Krishna, người Jain giáo ngụ ý người đó bị ám ảnh bởi
Mahavira, và ám ảnh là bệnh tâm lí.
Người ta nên mở, người ta nên sẵn có, với các vì sao,
với mặt trời, với mặt trăng, với gió, với hoa, với chim chóc.
Người ta nên sẵn có cho tất cả, bởi vì cái toàn thể này thuộc
vào chúng ta.

327
Yêu Christ đi, bởi vì yêu không loại trừ người khác; yêu
là hiện tượng bao hàm. Nếu bạn yêu Christ bạn phải yêu
Phật nữa, bởi vì đó là một khía cạnh khác của việc là một
Christ. Nếu bạn yêu Christ bạn phải yêu Mahavira nữa, bởi
vì đó lại là một khía cạnh khác của cùng một sự hoàn thành.
Phật, Christ, Mahavira, Mohammed, Bahauddin, Kabir,
Nanak - những khía cạnh khác nhau của chân lí.
Chân lí mang tính đa chiều. Sao chọn một chiều? Sao
trở thành tuyến tính? Sao keo kiệt thế, ngay cả trong tình
yêu tâm linh của bạn? Sao không mở và sẵn có, mong manh
cho tất cả, để cho họ tất cả đều có thể nhảy múa trong con
người bạn?
Tôi muốn các sannyasins của tôi là những người yêu tất
cả. Tận hưởng mọi loài hoa! Không trở nên bị nghiện với
hoa hồng, bởi vì hoa sen có cái đẹp của nó cũng như hoa
hồng có cái đẹp của nó. Và vấn đề ở đâu? Bạn không thể tận
hưởng được cả hoa hồng và hoa sen cùng nhau sao? Chỉ một
điều cần phải được hiểu: nếu bạn yêu cái đẹp, bạn có thể tận
hưởng được tất cả, nếu bạn yêu chân lí bạn có thể tận hưởng
mọi người chứng ngộ.
Nhưng người thực hành Thiên chúa giáo không yêu
chân lí - người đó tin. Không người tin nào là người tìm
kiếm chân lí; mọi người tin không phải là người tìm kiếm.
Họ đã tin mà không truy tìm, không đi vào cuộc thám hiểm,
không phiêu lưu vào trong lãnh thổ chưa biết. Họ đã trở nên
bị định kiến.
Và bạn ngụ ý gì bởi "người thực hành Thiên chúa
giáo"? Bạn có thể thực hành cái gì nhân danh Thiên chúa
giáo? Bất kì điều gì bạn làm sẽ không là gì ngoài nỗ lực ước
định bản thân bạn tương ứng với niềm tin của bạn. Nó sẽ là
trạng thái tự thôi miên, và tự thôi miên sẽ không giúp ích gì
cho bạn trở nên được thức tỉnh.
328
Tôn giáo không phải là vấn đề thực hành chút nào. Nếu
bạn thực hành bạn sẽ bỏ lỡ tôn giáo và cái đẹp của nó. Tôn
giáo là trải nghiệm về tâm thức tuôn chảy tự phát. Thực
hành ngụ ý áp đặt cái gì đó lên bản thân bạn, trau dồi tính
cách. Tôn giáo không liên quan gì tới việc trau dồi tính
cách. Nó là cuộc truy tìm vào "Tôi là ai?" Nó đi vào bên
trong, đạt tới chính đáy tảng đá của con người bạn, tới nền
tảng của con người bạn, khám phá ra trung tâm của bạn. Và
từ khám phá đó sự bùng nổ xảy ra và nhân cách cũ của bạn
đơn giản biến mất tựa như cơn ác mộng, và một phẩm chất
mới nảy sinh trong bạn. Bạn sống động hơn, vui sướng hơn,
tràn đầy tình yêu hơn, tràn đầy mở hội hơn. Và trạng thái
mở hội này làm cho bạn nhận biết rằng sự tồn tại không
chết. Bởi vì bạn sống động nên bạn có thể tiếp xúc với
những cội nguồn sống của sự tồn tại - đó chính là Thượng
đế.
Thượng đế không phải là người mà chỉ là kinh nghiệm
rằng toàn thể sự tồn tại là hiện tượng sống động; nó không
chỉ là một mình vật chất. Nó rộn ràng cùng cuộc sống! Nó
tuôn tràn với cuộc sống; rằng nó có nhịp tim đập. Khoảnh
khắc bạn biết rằng vũ trụ có nhịp tim đập bạn đã khám phá
ra Thượng đế. Nhưng trước hết, xin khám phá ra nhịp đập
tim riêng của bạn, khám phá ra trung tâm riêng của bạn.
Tôn giáo không phải là vấn đề thực hành, nó là vấn đề
khám phá. Nó không phải là vấn đề niềm tin. Niềm tin
chống lại chân lí; chúng làm cho tâm trí bạn bị định kiến.
Niềm tin ngụ ý bạn không biết, dầu vậy bạn vẫn giả vờ biết.
Niềm tin là dối trá, nó là đạo đức giả.
Cho nên nếu ai đó đang thực hành Thiên chúa giáo hay
Hindu giáo hay Mô ha mét giáo, mọi người đang thực hành
đó là nguy hiểm. Họ là giả dối, rởm; họ không chân thực, họ
không thực. Người thực là người tìm kiếm.

329
Và điều thứ ba bạn hỏi: Nếu một trong những thính
giả là người tìm kiếm tiềm năng, thầy sẽ có thông
điệp nào cho người đó?

Toàn thể thông điệp của tôi chỉ dành cho người đó,
người tìm kiếm tiềm năng. Đây là các phẩm chất của người
tìm kiếm. Thứ nhất: người đó sẽ không là người Ki tô giáo,
không là người Hindu giáo, không là người Mô ha mét giáo,
không là người cộng sản; người đó sẽ không là người vô
thần không là người hữu thần. Để tìm kiếm, yêu cầu căn bản
này phải được hoàn thành: bạn phải gạt sang bên mọi niềm
tin của bạn, bởi vì nếu bạn mang niềm tin của bạn, niềm tin
của bạn sẽ bóp méo cái nhìn của bạn. Niềm tin giống như
chiếc kính mầu: chúng sẽ làm cho toàn thể sự tồn tại mang
cùng mầu như kính của bạn. Nó sẽ không phải là mầu thật
của sự tồn tại; nó sẽ được truyền qua bởi chiếc kính của bạn.
Bạn phải gạt sang bên mọi kính của bạn. Bạn phải tiếp xúc
trực tiếp, ngay lập tức với thực tại. Không nên có ý tưởng
nào giữa bạn và sự tồn tại, không có kết luận tiên thiên nào.
Người tìm kiếm thực phải ở trong trạng thái mà
Dionysius gọi là agnosia - trạng thái của không biết.
Socrates nói vào lúc cuối đời ông ấy, "Tôi chỉ biết mỗi một
điều, là tôi không biết gì." Đây là trạng thái của người tìm
kiếm đích thực.
Ở phương Đông chúng ta gọi trạng thái này là thiền:
không niềm tin, không ý nghĩ, không ham muốn, không
định kiến, không ước định - thực ra, không tâm trí chút nào.
Trạng thái vô trí là thiền. Khi bạn có thể nhìn mà không có
tâm trí can thiệp vào, bóp méo, diễn giải, thế thì bạn thấy
chân lí. Chân lí đã là mọi thứ xung quanh rồi; bạn chỉ phải
gạt tâm trí bạn sang bên thôi.

330
Người tìm kiếm phải hoàn thành một điều cơ bản:
người đó phải vứt bỏ tâm trí của mình. Khoảnh khắc tâm trí
bị vứt bỏ, im lặng lớn lao nảy sinh - bởi vì tâm trí mang toàn
thể quá khứ của bạn; mọi kí ức về quá khứ liên tục khao
khát sự chú ý của bạn, chúng liên tục chen chúc quanh bạn,
chúng không để chừa chỗ trống nào bên trong bạn.
Và tâm trí cũng ngụ ý tương lai. Từ quá khứ bạn bắt
đầu mơ màng viển vông về tương lai. Nó là việc phóng
chiếu của quá khứ thôi. Bạn đã sống một cuộc sống nào đó
trong quá khứ: đã từng có vài khoảnh khắc của niềm vui và
nhiều nhiều đêm tối. Bạn không thích có những đêm tối đó;
bạn sẽ có tương lai đầy những khoảnh khắc vui vẻ đó. Cho
nên bạn lựa chọn từ quá khứ của bạn: bạn chọn vài thứ và
bạn phóng chiếu chúng vào tương lai, và bạn chọn vài thứ
khác và bạn cố né tránh chúng trong tương lai. Tương lai
của bạn không là gì ngoài quá khứ được tinh luyện - có chút
ít được sửa đổi đây đó, nhưng nó vẫn là quá khứ bởi vì đó là
mọi cái bạn biết.
Và một điều rất quan trọng cần phải nhớ: những khoảnh
khắc vui vẻ đó mà bạn đã có trong quá khứ về cơ bản chỉ là
một phần của những đêm tối dài dằng dặc kia, cho nên nếu
bạn chọn những khoảnh khắc đó, các đêm tối kia sẽ tự động
tới; bạn không thể tránh được chúng. Cái may không thể
được chọn một cách tách biệt khỏi cái rủi. Trong đêm tối
bạn thấy bầu trời đầy sao; ban ngày những vì sao đó biến
mất. Bạn có cho rằng chúng bay hơi đi không? Chúng vẫn
đấy thôi, nhưng thiếu hoàn cảnh. Chúng cần bóng tối; chỉ
thế thì bạn mới có thể thấy được chúng. Trong đêm, bạn sẽ
có khả năng thấy lại chúng. Đêm càng tối, sao càng sáng.
Trong sự sống mọi thứ là xoắn xuýt với nhau. Vui của
bạn xoắn xuýt với đau của bạn, cực lạc của bạn trộn lẫn với
khổ của bạn không tránh khỏi, không tách rời. Cho nên toàn

331
thể ý tưởng về tương lai của bạn là cực kì vô nghĩa. Bạn
không thể điều khiển được nó, không ai đã bao giờ có khả
năng điều khiển được nó, bởi vì bạn đang cố làm cái gì đó
mà không thể được làm trong chính bản chất của mọi sự. Nó
đơn giản sẽ chỉ là việc lặp lại quá khứ của bạn.
Bất kì cái gì bạn ham muốn sẽ không tạo ra khác biệt
nào. Nó sẽ lặp đi lặp lại quá khứ của bạn thôi, cùng quá khứ
ấy, có thể khác biệt chút ít, nhưng không phải bởi vì trông
đợi của bạn - chút ít khác biệt bởi vì sự sống liên tục thay
đổi, mọi người liên tục thay đổi, sự tồn tại liên tục thay đổi.
Cho nên sẽ có vài khác biệt nhưng không khác biệt cơ bản,
chỉ ở những phần không bản chất. Về bản chất nó sẽ là cùng
tấm thảm kịch cũ.
Vứt bỏ tâm trí ngụ ý vứt bỏ quá khứ, và cùng với nó tất
nhiên tương lai biến mất. Vứt bỏ tâm trí ngụ ý bạn bỗng
nhiên thức tỉnh vào trong hiện tại, và hiện tại là thực tại duy
nhất có đó. Quá khứ là không tồn tại, tương lai cũng vậy.
Quá khứ không còn nữa, tương lai chưa tới, chỉ hiện tại
đang đấy. Bao giờ cũng là bây giờ - chỉ bây giờ tồn tại. Và
thiền nhân bắt đầu hội nhập và tan chảy với bây giờ.
Và đó chính là điều im lặng là gì. Điều đó có thể được
truyền đạt, Gotz Hagmuller, cho thính giả radio của bạn.
Những chỗ dừng này... những khoảnh khắc không lời này...
khi bạn bắt đầu cảm thấy cái bây giờ, cái ở đây... khi bỗng
nhiên bạn trở nên nhận biết rằng năm nghìn người đang ngồi
ở đây, nhưng dường như không có ai. Phòng Phật tuyệt đối
trống rỗng.
Khi chúng ta đang ở trong hiện tại... im lặng giáng
xuống. Bạn có thể nghe thấy chim chóc líu lo, nhưng chúng
không quấy rối im lặng này - chúng nâng cao nó, chúng làm
đẹp cho nó.

332
Đem thông điệp của tôi tới người của bạn đi. Điều thứ
nhất: tự do là mục đích tối thượng và chủ nghĩa xã hội đi
ngược lại nó, do đó tôi thiên về trạng thái để kệ cho làm.
Điều thứ hai: không ai có thể thực hành được tôn giáo. Tôn
giáo thực sự ngụ ý tính tự phát của bạn, bản tính của bạn.
Bạn không thể thực hành nó được, bạn phải cho phép nó.
Bạn phải vứt bỏ mọi rào chắn cái ngăn cản luồng chảy của
bản tính của bạn. Điều đó giống như dòng suối bị ngăn cản
bởi tảng đá: bỏ tảng đá đi. Không có vấn đề thực hành; nó
đã có đấy rồi. Nó là bản tính của bạn! Khi chướng ngại
không còn đó nữa bạn bắt đầu tuôn chảy, giống như dòng
sông chảy hướng tới đại dương.
Từng tâm thức đi tới Thượng đế, đi tới đại dương tối
thượng, là có tính tôn giáo. Tôn giáo không phải là Ki tô
giáo, không phải là Hindu giáo không phải là Mô ha mét
giáo. Đây tất cả là những trò chơi chính trị nhân danh tôn
giáo. Người tôn giáo đơn giản mang tính tôn giáo, tự nhiên,
tự phát, sống từ ánh sáng riêng của mình.
Phật đã nói với các đệ tử của ông ấy, và đây là thông
điệp cuối cùng của ông ấy trên thế gian: "Là ánh sáng lên
bản thân ông" - sống theo ánh sáng riêng của bạn đi, đừng đi
theo và thực hành ánh sáng của ai đó khác, bởi vì điều đó sẽ
làm cho bạn chỉ là bản sao, và dù bản sao đẹp thế nào nó
vẫn cứ là bản sao mà thôi.
Khám phá ra cái nguyên bản của bạn đi, và điều đó
không thể được thực hiện bằng việc thực hành. Thực hành
ngụ ý áp đặt ý tưởng nào đó lấy từ người khác, cố hành
động như người khác muốn bạn hành động. Hành động như
bạn muốn hành động đi. Nhận lấy mạo hiểm đi - nó là nguy
hiểm.

333
Có tính tôn giáo là sống trong nguy hiểm - nó là bất an
ninh. Sống trong tôn giáo ngụ ý thường xuyên thám hiểm
cái không biết và chung cuộc thám hiểm cái không thể biết.
Và điều thứ ba: là người tìm kiếm, không bao giờ là
người tin. Nếu bạn không thể nói được, "Tôi biết Thượng
đế," xin đừng nói, "Tôi tin vào Thượng đế," bởi vì điều đó là
dối trá. Điều đó thậm chí không đúng về Thượng đế, thậm
chí không chân thành với Thượng đế. Vậy thì bạn sẽ định
chân thành với ai đây? Nếu bạn không biết, nói, "Tôi không
biết." Ít nhất điều đó là đúng. Đừng giả vờ rằng bạn biết bởi
vì việc giả vờ là nguy hiểm. Chúng sẽ lừa dối người khác và
chúng có thể lừa dối bản thân bạn nữa.
Và chỉ người tìm kiếm có thể trở thành thiền nhân.
Thiền ngụ ý im lặng tuyệt đối. Chính chỉ trong im lặng mà
người ta đi tới biết, người ta đi tới yêu, người ta đi tới điệu
vũ trong hài hoà với sự tồn tại.

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Thầy đang cố làm đích xác cái gì ở đây?

Govind Narayan,
Đó là câu hỏi rất khó trả lời. Ngay chỗ đầu tiên tôi
không cố làm gì cả; chính từ "cố" không khớp với tôi. Nếu
ai đó hỏi bạn, "Anh có cố yêu người đàn bà này không?"
bạn sẽ nói gì, hả Govind Narayan? Cố yêu sao? Hoặc có yêu
hoặc không yêu. Cố yêu đơn giản ngụ ý bạn không yêu, do

334
đó bạn cố. Nhưng bạn có thể xoay xở được cái gì bằng việc
cố? Những cử chỉ trống rỗng. Bạn có thể nói với người đàn
bà này "Anh yêu em" cả nghìn lẻ một lần theo cả nghìn lẻ
một cách, nhưng sâu bên dưới bạn sẽ vẫn biết rằng đấy chỉ
là nỗ lực; tâm bạn sẽ không cùng nó.
Tôi không cố làm bất kì cái gì, tôi chỉ là bản thân mình.
Thế thì bất kì cái gì xảy ra là xảy ra - nó là việc xảy ra. Điều
đang xảy ra ở đây, nhớ, điều đó không do tôi làm. Bạn
không thể làm cho tôi chịu trách nhiệm về bất kì điều gì
đang xảy ra ở đây - tôi không chịu trách nhiệm chút nào! Nó
đang xảy ra, chắc chắn, nhưng tôi không làm gì mà các
sannyasin của tôi cũng không làm gì. Nhưng trong việc
không làm này cái gì đó lại diễn ra.
Nhưng Govind Narayan không phải là sannyasin; anh
ấy phải là một khách thăm tình cờ, do đó câu hỏi đã nảy sinh
cho anh ấy. Và anh ấy sẽ không hiểu điều tôi đang nói,
nhưng anh ấy có thể hiểu điều này:

Tu jism ke khushrang libason pai hai najan


Tu jism ke khushrang
Tu jism ke khushrang libason pai hai najan
Main ruh ko mohtaje kafan dekh raha huin
Kya puchhte ho hal mere karobar ka
Aaine bechta hun main andhon ke shahar main.
Tu jism ke khushrang libason pai hai najan
Main ruh ko mohtaje kafan dekh raha huin
Kya puchhte ho hal mere karobar ka
Aaine bechta hun main andhon ke shahar main.

Đại thể điều đó có thể được dịch ra là:

335
Đừng hỏi tôi, thưa ông, về điều tôi đang làm ở đây.
Ông tự hào về mầu sắc phiêu diêu tựa giấc mơ
của thân thể và tâm trí,
nhưng tôi có thể thấy cái chết đang gõ cửa nhà ông.
Ông bị lạc trong thế giới mơ, và tôi có thể thấy
cái chết đang tới mọi khoảnh khắc một gần hơn.
Đừng hỏi tôi, thưa ông, về công việc của tôi ở đây.
Tôi bán gương trong thành phố của người mù!
Aaine bechta hun main andhon ke shahar main.
Tôi bán gương trong thành phố của người mù!

Và đây chắc chắn là thành phố của người mù! Toàn thể
trái đất này đầy những người mù - mù bởi vì họ không thể
thấy được cái chết đang tới gần, mù bởi vì họ không thể
thấy được rằng sự sống đang bay hơi mọi khoảnh khắc, mù
bởi vì họ không thể thấy được tính nhất thời của mọi cái họ
đang tích luỹ, mù bởi vì họ không biết họ từ đâu tới, tại sao
họ tới, họ được định mệnh đi đâu, mù bởi vì họ thậm chí
không nhận biết ai đang cư ngụ ở cốt lõi bên trong nhất của
con người họ.
Khi Alexander Đại Đế tới Ấn Độ... và ông ấy tới vào rất
đúng khoảnh khắc chín muồi... Phật đã rời khỏi thân thể ông
ấy chỉ mới ba trăm năm trước; rung động của ông ấy vẫn
còn sống động. Mọi người vẫn còn tràn đầy niềm vui, im
lặng mà họ đã trải nghiệm ở Phật. Ông ấy đã ra đi, hoa đã
biến mất, nhưng hương thơm vẫn còn trong không trung,
vẫn lơ lửng đâu đây. Nó lơ lửng ít nhất trong năm trăm năm.
Alexander đã rất ngạc nhiên; ông ta không bao giờ cảm
thấy tính chất như vậy. Ông ấy đã bắt gặp nhiều người mà
ông ấy không bao giờ bắt gặp trong cả đời mình. Họ là kì lạ
- họ nói ngôn ngữ kì lạ, họ sống cuộc sống kì lạ. Ông ấy
thấy khó hiểu.
336
Ông ấy đã gặp một tu sĩ khổ hạnh ở trần và ông ấy rất bị
ấn tượng bởi cái đẹp của người đó, duyên dáng của người
đó, im lặng của người đó, phúc lạc của người đó, tới mức
bỗng nhiên ông ấy cảm thấy cái nghèo nàn của riêng mình.
Và ông ấy đã là người chinh phục vào thời đó, người chinh
phục thế giới đã được biết tới, người chinh phục vĩ đại nhất
đã từng có. Và ông ấy cảm thấy cái nghèo nàn của mình
trước người ăn xin trần trụi này, bởi vì ông ấy có thể thấy
mình trống rỗng. Và con người trần trụi này đã tràn ngập
với nghĩa, với niềm vui, với sự huy hoàng.
Alexander cầu xin người ăn xin này rằng, "Cho ta món
quà nào đó có thể giúp được cho ta!"
Người ăn xin rút ra một chiếc gương nhỏ - chuyện kể
như vậy - từ trong túi của mình, và đưa chiếc gương đó cho
Alexander Đại Đế. Thấy rằng đấy chỉ là chiếc gương tầm
thường, và rất rẻ nữa, Alexander nói, "Ông cho rằng đây là
món quà tặng lớn lao sao? Ta mong đợi từ một người như
ông cái gì đó thực sự kì diệu!"
Và tu sĩ khổ hạnh phá lên cười và ông ấy nói, "Nó là
nhiều hơn cả điều ông đã từng trông mong đấy. Giữ nó cho
an toàn cho tới ngày những câu hỏi nảy sinh trong ông về
'Ta là ai?' và rồi nhìn vào trong nó."
Alexander không thể cưỡng lại được sự cám dỗ này.
Ngay đêm đó khi ông ta có một mình, ông ta nhìn vào tấm
gương và ông ta ngạc nhiên: ông ta thấy mặt nguyên bản
của mình.
Đây chắc phải là câu chuyện thôi, bởi vì không tấm
gương nào có thể phản chiếu được cho bạn mặt nguyên bản
của bạn - trừ phi tấm gương đó ngụ ý thiền. Thiền có thể
phản chiếu mặt nguyên bản của bạn. Câu chuyện này đơn
giản nói lên rằng người ăn xin đã trao cho ông ấy bí mật của

337
thiền; đó là cách nói biểu dụ. Thiền là tấm gương. Mọi tấm
gương chỉ có thể phản chiếu mặt vật lí, nhưng thiền có thể
phản chiếu cho bạn mặt tâm linh của bạn.
Và đó là điều tôi đang làm ở đây:

Aaine bechta hun main andhon ke shahar main.


Tôi bán gương trong thành phố của người mù!

Và đó thực sự là thành phố của người mù, người điên,


người điếc; đủ mọi loại người kì lạ đã tụ tập trên thế gian
này. Dường như là thế gian phải là chỗ gom rác của vũ trụ
bởi vì các nhà khoa học nói ít nhất có năm mươi nghìn hành
tinh có sự sống, cho nên họ cần chỗ nào đó để xả rác. Họ
phải dùng thế gian này như chỗ gom rác - vì nó đầy những
người điên, đầy những người điếc, đầy những đồ tầm
thường, ngu ngốc...

Một đôi nhạc sĩ jazz, đã chết thực, đang quan sát một
miệng núi lửa phụt lên.
"Này cậu," một người kêu lên, "đào cái bật lửa thuốc lá
kì quái đó đi!"

Một thanh nữ túng quẫn hoàn toàn trong nhiều tuần


nhặt được tờ mười đô la trong cống rãnh. Quá vui mừng, cô
ta xô vào trong siêu thị gần nhất và tiêu tất số tiền vào các
thứ đồ tạp phẩm. Khi cô ấy bước ra với gói đồ thì đụng phải
một người say và ngã lăn ra mặt sàn giữa đống lổn nhổn
những sữa, bột cà phê, trứng vỡ và nước sốt cà chua.

338
Thấy giấc mơ về bữa tiệc của mình tan tành, cô ấy buột
khóc nức nở cay đắng. Người say loạng choạng trên đôi
chân và nhìn chăm chăm trong im lặng mê mẩn vào hai quả
trứng nổi lên giữa đống nước sốt cà chua. Thế rồi anh ta
nhìn vào người phụ nữ và lắp bắp, "Đừng lo thưa bà, đằng
nào thì nó cũng không sống được - mắt nó rời xa nhau quá
rồi!"

Một người say loạng choạng đi xuống phố vào giữa ban
ngày ban mặt, hiển nhiên là ăn mặc xấu xí, và suýt đụng
phải một linh mục Thiên chúa giáo, người đang trên đường
đi thăm một giáo dân già lão.
"'Tôi xin lỗi, thưa đức cha," người say lắp bắp, "nhưng
ngài có thể chỉ cho tôi tới Kẻ nghiện rượu ẩn danh được
không?"
Nét mặt tư lự của linh mục sáng lên và ông ấy giơ tay
lay vai người say một cách nồng nhiệt. "Con ta," ông ấy
ngân nga, "ta hài lòng khi thấy rằng ngay cả trong trạng thái
say sưa mà con vẫn có thể thấy ra lỗi lầm của con đường của
mình, và đã có ý thức tốt để đi tới tham gia vào Kẻ nghiện
rượu ẩn danh."
"Tham gia á? Đồ chết tiệt!" người say nói. "Tôi sắp từ
nhiệm rồi!"

Một đứa trẻ đang đuổi quạ khỏi phá cây trên cánh đồng,
kêu lên, "Đéo chơi! Đéo chơi!"
Một linh mục đi ngang qua, gọi với cậu bé và trách móc
cậu bé vì dùng lời lẽ thô tục.

339
"Phải nhớ," ông ta lên mặt, "Thượng đế ở mọi nơi và
nghe thấy mọi lời con thốt ra. Đừng xúc phạm tai của ngài
bằng ngôn ngữ như vậy! Hơn nữa, nếu con kêu lên, 'Xuỳ,
xuỳ!' đủ to, thì chúng sẽ đéo chơi thật nhanh!"

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Người ta nói rằng Zarathustra đã cười to khi ông
ấy được sinh ra. Có đúng thế không?

Narendra,
Điều ấy phải đúng chứ, bởi vì người như Zarathustra tới
thế giới này với sáng suốt lớn lao. Ông ấy phải đã nhìn thấy
thế giới này ngay lập tức - ông ấy phải đã thấy toàn thể
khung cảnh điên rồ này! Điều đó tuỳ thuộc vào việc bạn có
được bao nhiêu thông minh. Vài người mất cả đời để nhận
ra rằng họ đã sống trong nhà thương điên. Ông ấy phải đã
thấy ngay khoảnh khắc đầu tiên rằng "Đây là chỗ điên rồ mà
ta đang đi vào!"
Và không chỉ có Zarathustra đâu - mọi đứa trẻ, khoảnh
khắc đứa trẻ trở nên có khả năng tập trung đúng, nó bắt đầu
mỉm cười, bởi vì thế thì nó có khả năng thấy bố nó có vẻ
giống cái gì!

Một câu chuyện mới đây kể về đứa trẻ nhỏ cười khúc
khích và cười khanh khách hàng phút sau khi được sinh ra.
Bác sĩ sản khoa để ý nó có sự điều khiển cơ bất thường, nắm

340
đấm tí hon bên trái của nó nắm lại. Khi bác sĩ cậy nắm đấm
ra ông ta thấy viên thuốc tránh thai.
Zarathustra chắc phải đã cười to! Dù ông ấy có cười hay
không... tôi không quan tâm tới lịch sử, nhưng với tôi tiếng
cười của ông ấy là rất có ý nghĩa. Thế giới này trong đống
lộn xộn thế! Thông thường trẻ con được sinh ra đều khóc -
điều đó nữa cũng là phán xét của chúng! Chúng đang nói,
"Trời đất! Vậy đây là thế giới mà mình được sinh vào đó
sao?"
Zarathustra có thái độ khác, từ một cực đoan khác - ông
ấy cười. Ông ấy phải đã là một người như tôi, do đó tôi có
tình yêu rất sâu sắc với Zarathustra.

Một giáo sĩ và một sư Hindu, người hiển nhiên là một


người bài rượu, tình cờ được ngồi cùng nhau trong toa ăn
của tàu hoả. Khi giáo sĩ gọi rượu martini, sư Hindu bị sốc.
"Tôi thà ngoại tình còn hơn!" ông ta chế giễu.
"Tôi không biết liệu họ có cho ông chọn lựa ở đây
không," giáo sĩ đáp.

Tân binh tại vùng quê được cho kiểm tra thể lực. "Này,
mọi sự chỉ có vậy nhưng còn thử nước tiểu nữa," bác sĩ nói.
"Tôi muốn có một mẫu nước tiểu của anh để vào một trong
những cái chai nhỏ kia trên giá ở cuối phòng."
"Bác sĩ nói gì vậy?" anh thanh niên hỏi.
"Chỉ là nước tiểu để vào một trong những cái chai nhỏ ở
phía dưới kia," bác sĩ nhắc lại.
Anh lính mới vẫn có vẻ hoài nghi. "Bác sĩ ngụ ý làm
ngay ở đây à?" anh ta hỏi.
341
Một người lang thang nghĩ ra cách mới để kiếm sự
thông cảm. Anh bấm chuông cửa, rồi quì xuống và bắt đầu
gặm cỏ. "Anh làm gì ở đó thế?" một quí bà hỏi khi bà ta mở
cửa ra.
Kẻ lang thang đứng dậy yếu ớt trên đôi chân, ôm chặt
bụng với vẻ đau đớn giả tạo và than vãn, "Bà ơi,tôi đói tới
mức phải ăn cỏ đây."
"Sao thế, anh thật đáng thương, đừng ăn cỏ khô cũ
nữa!" người phụ nữ kêu lên với vẻ thông cảm. "lùi lại chỗ cỏ
xanh hơn và dài hơn ấy!"

Một người trúng con gà tây trong cuộc xổ số và đem nó


về nhà, nhưng vợ ông ta lại khó chịu. "Ai thèm vặt lông
nó?" cô ta nói với vẻ giận dỗi.
"Nếu như em cảm thấy khó chịu," anh ta đáp, "thì tự
anh sẽ vặt lông nó và nấu nó."
Thế là anh ta bận rộn vặt lông nó và khi anh ta cuối
cùng đã làm xong anh ta buộc nó lại và cho nó vào trong lò.
Nhưng anh ta lại quên mất không bật ga. Sau khi rửa tay anh
ta vùi đầu vào đọc báo. Nửa giờ sau anh ta nghe thấy một
giọng nghèn nghẹt nói, "Anh đang định làm gì đấy?"
Không ngước mắt khỏi tờ báo anh ta nói, "Làm gì à?"
Tiếng nói trả lời, "Tôi bị lạnh rồi. Hoặc là gắn trả lại
lông cho tôi hoặc là bật ga lên!"

Nếu Zarathustra cười, cái gì sai trong nó? Ông ấy phải


đã thấy toàn thể cái ngu xuẩn, rằng ông ấy phải sống với
những người này, và ông ấy bắt đầu bằng tiếng cười.
342
Giảng viên bất khả tri nổi tiếng, Robert G. Ingersoll, có
lần nói: "Không người khôi hài nào đã từng sáng lập ra tôn
giáo."

Ông ấy sai - Zarathustra đã làm điều đó rồi. Tất nhiên,


với chín mươi chín phần trăm các tôn giáo Ingersoll đúng;
phát biểu của ông ấy là có ý nghĩa. Ông ấy nói, "Không
người khôi hài nào đã từng sáng lập ra tôn giáo." Điều đó
đúng về Jesus, về Buddha, về Mohammed, về Krishna - điều
đó là tuyệt đối đúng; những người này dường như không có
tính khôi hài nào - ngoại trừ Zarathustra. Có thể Ingersoll
không bao giờ nghe nói về Zarathustra.
Ông ấy là con người duy nhất được biết tới là người bắt
đầu cuộc sống bằng tiếng cười - chắc phải đã có sự khôi hài
ghê lắm. Bắt đầu cuộc sống của bạn bằng tiếng cười không
phải là việc dễ đâu. Ông ấy phải đã chuẩn bị cho điều đó
trong nhiều kiếp rồi; ông ấy phải đã đi tới sự sẵn sàng rồi.
Người Ki tô giáo nói Jesus không bao giờ cười trong cả
đời ông ấy; có thể họ đúng. Tôi không muốn tin vào điều đó
bởi vì điều đó ngụ ý sự kết án lớn với Jesus, nhưng nếu
người Ki tô giáo nói vậy, thế thì, tất nhiên, tôi là ai mà dám
bất đồng với họ? Họ là những người có thẩm quyền, ít nhất
là về Jesus - họ sở hữu Jesus mà!
Nhà thờ Tin lành ở Đức đã cấm sách của tôi trong nhà
thờ, trong thư viện của nhà thờ. Người ta đã bảo mọi mục
sư, mọi nhà thờ, rằng tên tôi, ngay cả tên tôi nữa, không
được nhắc tới trong bất kì buổi giảng đạo nào. Không được
trích dẫn bất kì cái gì từ sách của tôi, ngay cả việc bác bẻ
nó, bởi vì mọi người sẽ trở nên quan tâm!

343
Đây có thể là một trong các lí do tại sao Jesus đã thành
công trong việc thay đổi gần nửa nhân loại thành Ki tô giáo,
bởi vì mọi người đều buồn. Zarathustra đã không tìm ra mấy
tín đồ, bạn có biết không? Tín đồ của ông ấy chỉ hạn chế ở
Bombay - chỉ vài nghìn người. Tại sao Zarathustra đã thất
bại? Có thể tiếng cười đó là nguyên nhân: ông ấy có tính
khôi hài.
Mọi người nghiêm chỉnh, buồn bã, khổ, do đó cây chữ
thập của Jesus dường như rất hấp dẫn, bởi vì cuộc sống của
họ cũng trên cây chữ thập. Họ có thể hiểu được Jesus và
buồn khổ của ông ấy - họ đang trải qua nó. Toàn bộ cuộc
sống của họ không là gì ngoài việc mang cây chữ thập. Họ
có thể tìm thấy đồng cảm sâu sắc với Jesus, với việc đóng
đinh của ông ấy - họ cũng bị đóng đinh. Nhưng họ có thể
tìm thấy đồng cảm nào với Zarathustra? Tại sao Zarathustra
lại thất bại?
Phật giáo đã tìm được hàng triệu người đi theo; toàn thể
châu Á là Phật tử. Ki tô giáo đã tìm được hàng triệu người
đi theo; nửa trái đất là người Ki tô giáo. Mô ha mét giáo
đứng tiếp sau Ki tô giáo - và Mohammed không có tính khôi
hài chút nào. Với lưỡi gươm trong tay ông ấy rất nghiêm
trang, thực sự nghiêm chỉnh. Ông ấy quan tâm nhiều tới việc
chăm sóc cho bạn - nếu bạn không nghe ông ấy, ông ấy sẵn
sàng đánh bạn, nhưng ông ấy nhất quyết thuyết phục bạn
bởi vì ông ấy nhất quyết cứu hồn bạn. Ngay cả nếu ông ấy
phải dùng gươm, ông ấy cũng phải cứu bạn. Làm sao ông ấy
có thể cho phép bạn rơi vào địa ngục được? Đấy là vì riêng
bạn mà thôi.
Zarathustra là người duy nhất không thể nào tìm ra
người đi theo. Tôi có thể thấy ra vấn đề: với tính khôi hài, ai
sẽ nghe bạn?

344
Tôi đang cố làm cái gì đó giống như Zarathustra. Nỗ
lực của tôi ở đây là để chứng minh Ingersoll sai. Tôi đang cố
lập ra một tôn giáo dựa toàn bộ trên tính khôi hài!
Shakespeare và những người khác đã chơi chữ mô tả
những kẻ giả vờ triết lí ngu ngốc là ngu gia. Bằng cùng cách
chơi chữ đó, triết học của ngu gia được gọi là ngu học.
Bertrand Russell bao giờ cũng chỉ trích những ngu gia,
vì họ thiếu cả hiểu biết thường tình lẫn cảm giác khôi hài.
Ông ấy kể có lần ông ấy đã gần chết bởi việc mê sảng viêm
phổi trong ba tuần. Sau khi ông ấy sống lại, bác sĩ nói với
ông ấy, "Khi ông ốm ông cư xử giống như một triết gia thực
thụ: mọi lúc ông trở về chính mình ông làm ra chuyện cười."
Russell sau đó đã viết, "Tôi không bao giờ được lời
khen nào làm tôi hài lòng hơn."

Bản thân ông ấy là người nghiêm chỉnh. Trong trạng


thái mê man của mình ông ấy phải đã quên mất tất cả triết
học và tính nghiêm chỉnh của mình, phải đã trở nên được
thảnh thơi hơn, phải đã quên mất rằng mình là triết gia và
ông ấy phải nghiêm chỉnh - ông ấy phải đã đùa cợt.
Với tôi tính khôi hài nên là hòn đá tảng cho tính tôn
giáo tương lai của con người. Không cần nghiêm chỉnh thế.
Con người là con vật duy nhất có tính khôi hài. Bạn không
bao giờ thấy con trâu cười đâu, hay lừa cười. Chỉ mỗi con
người có thể có cảm giác buồn cười, về cái ngớ ngẩn. Cần
thông minh lớn lao để có tính khôi hài; trên bình diện thấp
hơn điều đó không tồn tại. Và ngay cả mọi con người không
phải đều có nó; những người tồn tại ở bình diện thông minh
thấp hơn nhất định là nghiêm chỉnh - nghiêm chỉnh như lừa.
Lừa là những kẻ rất nghiêm chỉnh, bao giờ cũng suy nghĩ về

345
những điều nghiêm chỉnh, dường như, bị quấy rồi nhiều bởi
đủ mọi vấn đề của thế giới.
Tôi đã quan sát lừa rất kĩ; từ chính thời thơ ấu của mình
tôi đã rất quan tâm tới lừa. Nếu Pavlov có thể tìm ra nhiều
điều về con người bằng việc nghiên cứu chó, nếu Skinner có
thể tìm ra nhiều điều về con người qua chuột trắng, nếu
Delgado cũng có thể tìm ra nhiều điều qua việc nghiên cứu
khỉ, tôi cảm thấy tại sao những người này đã bỏ lỡ lừa? Nó
tới gần với con người nhất - một triết gia nghiêm chỉnh, một
bác học, một học giả, một nhà thượng đế học! Ai đã từng
nghe nói về lừa cười chưa?
Zarathustra dường như là một trí thông minh có tầm cỡ
cao nhất, kiệt xuất nhất. Ngay cái nhìn đầu tiên vào thế giới
ông ấy đã cười. Ông ấy không thể kìm được mình, ông ấy
không thể cưỡng lại được cám dỗ khi thấy nơi ông ấy tiếp
đất…

Ông giáo sư triết học già vừa về hưu phát biểu cho lớp
của mình: "Các em, tôi có hai phát biểu cần nói trước khi tôi
ra đi," ông ấy nói "Phát biểu thứ nhất là ở chỗ một nửa điều
tôi đã dạy cho các em là không đúng. Phát biểu thứ hai là ở
chỗ tôi không biết nó là nửa nào!"

Một quí ông già lão ngoan đạo nghe thấy một đứa trẻ
khó bảo trên phố chửi thề với bạn cùng chơi. "Cháu có biết
không," ông ấy răn bảo đứa bé, "dùng các từ tục tĩu đó là sai
đấy? Thượng đế sẽ trừng phạt cháu."
Đứa bé nhìn ông già này với sự khinh miệt. "Thượng đế
không thể nghe được cháu đâu," nó nói. "Ông ấy ở tít trên
trời kia."

346
"Anh bạn trẻ, Thượng đế ở mọi nơi chứ."
"Ông ấy có ở phía trên nhà cháu không?"
"Chắc chắn là có rồi."
"Ông ấy có ở trong sân nhà cháu không?"
"Dĩ nhiên."
"Ông điên thì có - nhà cháu không có sân!"

Trẻ con là sáng tỏ hơn nhiều: bạn không thể lừa chúng
dễ dàng thế. Và ngay khoảnh khắc đầu tiên khi đứa trẻ mở
mắt ra, sáng tỏ của nó là tuyệt đối. Không tu sĩ nào bước
vào, không chính khách nào đã làm biến chất nó. Nó chưa bị
ước định bởi người Thiên chúa giáo và người Tin lành và
người Hindu và người Mô ha mét giáo. Nó chưa bị nói cho
đủ loại dối trá và niềm tin và mê tín. Đôi mắt nó là trong
sáng, nó có thể thấy rõ thấu suốt.
Zarathustra đã làm điều đúng - rằng ông ấy đã cười.

Một lần Diogenes xin của bố thí của một người có tâm
trí sính triết lí. "Trước khi tôi cho ông một đồng drachma,"
người này nói, "thuyết phục tôi tại sao tôi phải làm vậy."
"Nếu tôi nghĩ ông mà tuân theo lí trí," Diogenes bảo
ông ấy, "Tôi sẽ khuyên rằng ông đi và treo cổ ông lên."

Ai tuân theo lí trí? Thế giới này là phi lí, và Diogenes là


đúng. Người này đang hỏi, "Thuyết phục tôi đi – tại sao tôi
phải cho ông bất kì cái gì? Tại sao?” Câu trả lời của
Diogenes là đúng rằng: "Nếu tôi nghĩ rằng ông có thể hiểu
được lí trí, thế thì điều duy nhất tôi sẽ gợi ý cho ông là ông

347
treo cổ ông lên, bởi vì ông đang làm gì trong thế giới phi lí
này? Người có lí trí thế!"
Tiếng cười của Zarathustra có vẻ phi lí, nhưng nó
không phi lí. Thấy cái phi lí khắp xung quanh ông ấy chắc
phải nhạy cảm, rất nhạy cảm.
Câu chuyện này là kì lạ. Có nhiều phép màu đã được
nói tới về những người như Jesus, Phật, Mahavira, Krishna,
nhưng chúng gần như là một. Phép màu đi trên nước được
lặp lại trong hàng nghìn câu chuyện; nó không phải là cái gì
đặc biệt của Jesus. Phép màu chữa mọi người khỏi bệnh nan
y không là gì mới của Jesus. Nó cũng là cùng phép màu
được biết bao nhiêu người trên khắp thế giới thực hiện,
trong mọi tín ngưỡng, trong mọi tôn giáo. Ngay cả phép
màu làm người chết sống lại cũng không mới; điều đó nữa
là phép màu chung được coi như nhiều người có.
Nhưng phép màu này của Zarathustra đơn giản là duy
nhất; không người nào khác đã từng được coi là làm được
phép màu này. Không ai đã từng nghĩ về nó. Và nó có ý
nghĩa hơn nhiều so với việc làm người chết sống lại, bởi vì
làm người chết sống lại không giúp ích gì. Lazarus chung
cuộc vẫn phải chết, sớm hay muộn cũng phải chết, vậy thì
có thành vấn đề gì - tuần này hay tuần sau? Ông ấy có thể đã
sống thêm vài năm - rồi để làm gì? Chữa một người khỏi
bệnh của người đó không thành vấn đề gì nhiều, bởi vì đằng
nào thì chết vẫn cứ đến, bệnh tật khác sẽ đến. Ngay cả việc
ông ấy bắt đầu thấy - ông ấy trước đó là người mù - có thành
vấn đề gì? Biết bao nhiêu triệu người có mắt - cái gì đã xảy
ra cho họ?
Thực ra, có một câu chuyện Sufi về Jesus, không được
người Ki tô giáo kể lại trong kinh sách của họ. Họ phải đã
né tránh nó. Kinh Thánh không đích xác đúng đâu; nhiều
chỗ đã bị cắt xén thêm bớt. Bất kì cái gì sẽ tạo ra rắc rối cho
348
các nhà thượng đế học, cho các tu sĩ, cho giáo hoàng, đều đã
bị cắt xén, loại ra. Nhưng bao giờ cũng có vài người sẽ
không bỏ lỡ cơ hội như vậy; họ sẽ thu thập mọi phần bị bác
bỏ đó - bởi vì chúng là quan trọng hơn nhiều so với phần đã
được chấp nhận.
Câu chuyện này là câu chuyện bị người Ki tô giáo bác
bỏ, nhưng người Sufi đã giữ gìn nó, và họ đã làm việc phục
vụ lớn lao cho nhân loại.

Jesus vào một thị trấn và ông ấy bắt gặp một người
đang nằm trong cống rãnh quát tháo những lời tục tĩu, say
khướt. Jesus lại gần người đó, nhìn vào khuôn mặt người đó
và nhận ra rằng người đó rất quen thuộc với mình. Ông ta
rất ốm, Jesus đã cứu người đó, đã kéo ông ta gần như từ
ngưỡng cửa cái chết trở lại.
Jesus lay người say và hỏi người đó, "Ông có nhận ra ta
không?"
Người đó nói, "Có, tôi nhận ra ông rõ lắm. Ông là
người đã gây rắc rối cho tôi! Tôi sắp chết rồi - sao ông đã
cứu tôi? Và bây giờ sao ông đã tới nữa? Ông định làm thêm
cái gì đó nữa sao?"
Jesus không thể nào tin được vào cách thức người này
cư xử, dường như Jesus đã làm cái gì đó sai cho anh ta.
Jesus nói, "Sao ông giận thế?"
Người này nói, "Tôi giận bởi vì tôi sắp chết và toàn thể
mọi sự sẽ chấm dứt, và ông đã cứu tôi! Bây giờ tôi không
biết phải làm gì với đời tôi đây. Ông thấy đấy, tôi nằm trong
cống rãnh - ông phải chịu trách nhiệm! Bây giờ tôi đơn giản
đang cố quên đi bản thân tôi và vấn đề của tôi và những lo
âu của tôi bằng việc uống rượu nhiều hết mức có thể. Và tôi

349
biết nó là chất độc đấy, nhưng làm gì khác được? Tại sao
ông đã cứu tôi? Tôi đã đi tìm ông – may mà đích thân ông
đã tới. Trả lời tôi đi!"
Và Jesus không thể nào trả lời ông ấy được. Người này
đang hỏi một câu có liên quan: "Tại sao ông đã cứu tôi? Để
làm gì? Vì cái cống này sao? Để uống và cố quên đi khổ của
tôi sao?"

Jesus xúc động, bẽ bàng, bị sốc.


Ông ấy thấy một người khác đang theo đuổi một gái
mãi dâm. Ông ấy cản người này lại - ông ấy đã quên người
thứ nhất - chỉ là thói quen cũ! Ông ấy đã cản người thứ hai
và nói, "Ông làm gì vậy? Thượng đế đã cho ông đôi mắt chỉ
để thèm khát đàn bà thôi sao? Ngay cả nghĩ tới sự thèm khát
là tội lỗi rồi - ông sẽ bị đoạ xuống địa ngục đấy!"
Và người này nói, "Thôi mọi thứ vô nghĩa này đi!
Chính ông đã chữa cho tôi khỏi mù! Tôi hoàn toàn hài lòng
với sự mù của tôi bởi vì tôi không bao giờ nhìn thấy đàn bà,
cho nên tôi không bao giờ bị quấy rối. Tôi không bao giờ
quan tâm ai đi qua, đàn ông hay đàn bà, điều đó là như
nhau. Chính ông đã chữa cho tôi. Bây giờ tôi phải làm gì với
đôi mắt này? Đôi mắt này cảm thấy bị hấp dẫn tới cái đẹp.
Và nhớ, vào khoảnh khắc cuối cùng của ngày phán xử, tôi
sẽ chỉ vào ông đấy - rằng ông là kẻ chịu trách nhiệm. Tôi đã
là người mù hồn nhiên. Ông đã cho tôi đôi mắt, và tôi thậm
chí đã không đòi hỏi! Tôi chỉ ngồi đó, ông tới và chạm vào
mắt tôi và ông đã chữa cho tôi! Ông thậm chí không hỏi
tôi!"
Jesus bây giờ thực sự bị sốc. Ông ấy không vào thị trấn
nữa, ông ấy rời khỏi thị trấn này. Khi ông ấy đi ra ông ấy
thấy một người đang chuẩn bị tự treo cổ lên cây. Ông ấy lại

350
quên mất - thói quen cũ khó chết đi! Ông ấy đi lại người này
và nói, "Ông làm gì thế?"
Và người này không phải là ai khác mà chính là
Lazarus! Ông ta nói, "Vậy là ông lại tới rồi! Biến đi! Tôi tự
tử đây - thế là đủ rồi! Và làm sao ông đi tới biết? Lần trước
các em tôi đã mời ông, Martha và Mary, họ đã mời ông. Và
tôi đã chết rồi - ít nhất tôi đã chết, nghỉ ngơi an bình, và ông
tới và làm tôi phục sinh. Và bây giờ ông lại tới! Ông sẽ
không cho phép tôi có an bình nào sao? Tôi phải sống bao
lâu nữa, và tại sao tôi phải sống? Tất cả điều đó phỏng có
ích gì?"
Mọi phép màu này là vô nghĩa, nhưng phép màu của
Zarathustra về việc cười vào khoảnh khắc sinh ra thực sự có
ý nghĩa.

Một Thiền sư vĩ đại nằm ốm nặng lắm. Khi thầy lang


của ông ấy chuẩn bị ra về, ông ta nói một cách vui vẻ, "Tôi
sẽ tới thăm ông vào buổi sáng nhé."
Mặc dầu Thầy sắp chết biết giờ của mình đã điểm, thầy
vẫn không cưỡng được lời châm biếm, "Tất nhiên rồi.
Nhưng tôi sẽ gặp ông chứ?"

351
352
12. Điều bí ẩn để được
sống

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Từ nhiều ngày nay tôi đã hừng hực lửa bên trong.
Tôi cảm thấy cái không biết trong một phần của
tôi, và tôi sợ nhảy. Mọi thứ đều cất tiếng cúc cu, và
điều đó vừa đẹp vừa kinh hoàng đồng thời.
Đẩy tôi đi, Osho!
vào lửa,

Vivek,
Điên rồ, trẻ con, điên rồ! Đó là điều vì nó mà tôi ở đây,
để đặt bạn vào lửa. Và một khi nó bắt đầu xảy ra, không cái
gì khác được cần làm nữa. Thế thì nó liên tục phát triển bởi
chính nó, mặc cho mọi sợ của bạn; chúng không thể ngăn
cản được lửa. Sợ là tự nhiên - chúng tới từ quá khứ của bạn,
nhưng quá khứ bất lực khi nó đương đầu với hiện tại. Lửa là
hiện tại, lửa là bây giờ, và sợ tới từ quá khứ; chúng đã chết

353
rồi. Chúng thuộc vào cái không tồn tại, và cái không tồn tại
không thể làm được bất kì cái gì với cái tồn tại.
Chúng giống như tối. Tối có thể rất cổ kính, cổ đại, cổ
hàng triệu năm, nhưng chỉ một chiếc nến nhỏ là đủ xua nó
đi. Nó không thể nói rằng, "Ta rất cổ đại, vậy làm sao mi
dám đương đầu? Mi chỉ là một chiếc nến nhỏ và mi đã vào
sự tồn tại trong chính khoảnh khắc này, và ta cổ kính thế, cổ
đại thế." Nhưng không có thời gian cho tối nói điều đó chút
nào. Khoảnh khắc chiếc nến được thắp lên, tối bắt đầu biến
mất. Vấn đề là làm sao thắp sáng chiếc nến; một khi nó có
đó, thế thì không có vấn đề chút nào. Nếu chiếc nến không
có đó thế thì tối là rất thực, quá thực - mặc dầu nó không tồn
tại. Nó chỉ là sự thiếu vắng.
Vivek, một khi ngọn lửa là ở bên trong, cho dù chỉ một
phần nhỏ của bạn trên ngọn lửa, điều đó vẫn có tác dụng -
nó sẽ lan toả. Không phải là ngọn lửa chết. Một khi nó có đó
nó sẽ thiêu đốt bạn toàn bộ; điều đó là không tránh khỏi.
Công việc của tôi chấm dứt vào khoảnh khắc ngọn lửa
bùng lên. Thế thì lửa sẽ làm...

Bạn nói: Trong nhiều ngày nay tôi đã hừng hực lửa
bên trong. Tôi cảm thấy cái không biết trong một
phần của tôi, và tôi sợ nhảy.

Sợ nhảy là điều tự nhiên. Và nhảy vào lửa giống như


giết chết bản thân bạn. Theo một nghĩa nào đó nó là tự tử:
bản ngã sẽ chết. Do đó có sợ, bởi vì chúng ta đã tồn tại như
bản ngã; đó là sự đồng nhất của chúng ta. Vứt bỏ nó ngụ ý
cái chết. Tâm trí không thể quan niệm được cái gì khác sẽ
còn lại một khi bản ngã mất đi. Tâm trí chỉ biết bản ngã; nó
không biết gì ở bên ngoài, cõi bên kia. Nó không biết gì về
cái siêu việt. Tâm trí là một phần của bản ngã, và khi bản
354
ngã chết đi, tâm trí bắt đầu chết, và nó tạo ra đủ mọi loại sợ
hãi, lo âu. Đó chỉ là việc tự bảo vệ.
Nhưng khi lửa đã bùng lên, tâm trí bị chấm dứt. Có thể
phải mất chút thời gian để lửa lan toả ra toàn thể khu rừng
con người bạn, nhưng tâm trí không thể làm được bất kì cái
gì để ngăn cản điều đó.
Khoảnh khắc tâm trí trở nên bất lực, công việc của Thầy
đã chấm dứt. Thế thì thầy đơn giản quan sát. Thế thì thầy
tận hưởng sự biến mất của bản ngã của bạn, tâm trí của bạn,
cái gọi là nhân cách của bạn.

Bạn nói, Vivek: Mọi thứ đều cất tiếng cúc cu.

Ban đầu nó sẽ giống điều đó, bởi vì tâm trí là logic của
chúng ta và lửa sẽ phá huỷ logic của chúng ta - bởi vì sống
là nhiều hơn logic. Thực ra, sống là phi logic; nó phải vậy
bởi vì nó chứa mâu thuẫn. Logic là chọn lựa; bạn liên tục
chọn cái nhất quán với ý tưởng của bạn. Sống là hơn thế
nhiều.
Nếu bạn tin rằng sống chỉ có ngày, thế thì bạn sẽ bỏ qua
đêm. Bạn sẽ không chú ý gì tới đêm bởi vì chúng sẽ tạo ra
lẫn lộn. Thế thì cái gì sẽ xảy ra cho ý tưởng của bạn, định
kiến của bạn, rằng sự sống chỉ có ngày? Bạn phải bám lấy ý
tưởng của bạn; đêm dường như lẫn lộn thế. Bạn phải phủ
nhận, bạn phải bị đóng lại đối với đêm. Bạn phải nói chúng
là ảo vọng, chúng là chất liệu mơ, chúng không thực; cái
thực là ngày. Đây là cách tâm trí cố được nhất quán và
logic. Nếu nó chấp nhận đêm, thế thì logic bắt đầu biến mất,
thế thì mẫu thuẫn đã xảy ra, thế thì tính nhất quán bị mất.
Nếu bạn chấp nhận chỉ hoa hay chỉ gai thôi, bạn sẽ
tránh cái đối lập, và sống bao gồm các đối lập cực. Nếu bạn

355
chấp nhận chỉ hoa hay chỉ gai thôi, bạn sẽ tránh cái đối lập,
và sống bao gồm các cực đối lập. Sống không thể nhất quán
được, nhớ điều đó; chỉ chết là nhất quán. Do đó logic hoà
hợp với chết hơn là hoà hợp với sống. Sống là bao la, nó bao
la đến độ nó có thể dễ dàng bao cả mâu thuẫn; thực ra, nó
hân hoan trong mâu thuẫn. Trong cùng một bụi hồng mọc cả
hoa lẫn gai. Làm sao nó có thể logic được? Logic sẽ nói,
"Hoặc mọc gai hay mọc hoa thôi."
Logic ngụ ý hoặc cái nọ hoặc cái kia, và sống ngụ ý cả
hai. Do đó khoảnh khắc tâm trí bắt đầu trượt đi, chết đi,
người ta cảm thấy dường như người ta sắp điên.
Ở phương Đông chúng ta đã liên tục quan sát hiện
tượng này; chúng ta gọi nó là một loại điên khùng tâm linh.
Ở Bengal các nhà huyền bí đều được gọi là Baul; baul ngụ ý
người điên. Theo truyền thống Sufi nhà huyền bí được gọi là
mast; mast ngụ ý người điên. Và Jesus, Bahauddin, Francis,
Eckhart, Kabir, Trang Tử, đây toàn là người điên - bởi lẽ
đơn giản vì họ đã không chọn lựa; họ đã chấp nhận cuộc
sống như nó trong tính toàn bộ của nó.
Khoa học mãi cho tới thời Albert Einstein vẫn còn rất
nhất quán, rất logic. Albert Einstein là nhà huyền bí đầu tiên
trong thế giới khoa học; ông ấy đã đưa vào chủ nghĩa huyền
bí khoa học, và ông ấy đã khuấy động toàn thể dinh thự của
khoa học cổ. Sau Albert Einstein, khoa học, đặc biệt là vật lí
học, chính là sở trường của ông ấy, không còn như cũ nữa -
bởi vì ông ấy đã chấp nhận mâu thuẫn. Thực ra ông ấy nói
rằng, "Khi tôi bắt đầu công trình của mình tôi cứ tưởng rằng
sống và logic là đồng nghĩa - công trình của tôi là giải quyết
bài toán một cách logic - nhưng khi tôi đi sâu hơn tôi trở nên
nhận biết rằng sống không đồng nghĩa với logic: nó chứa
các mâu thuẫn. Và thực ra bởi vì các mâu thuẫn đó mà nó
đẹp, bởi vì những mâu thuẫn đó mà nó có sự căng thẳng nào

356
đó; sự căng thẳng đó cho nó tính sống động, cho nó những
khả năng để mà năng động, chuyển động."
Và đến cuối đời mình ông ấy nói, "Bây giờ tôi không
thể nói được rằng sống là bài toán nữa. Gọi sống là bài toán
là một phát biểu logic, bởi vì bài toán có ngụ ý cái gì đó cần
được giải qua logic, nếu không phải hôm nay thì ngày mai.
Sớm hay muộn logic sẽ tìm ra cách thức và bài toán sẽ tan
biến."
Einstein nói, chỉ hai ngày trước khi ông ấy chết rằng,
"Sống không còn là bài toán đối với tôi nữa, nó là bí ẩn."
Và khác biệt giữa bí ẩn và bài toán là mênh mông, về
chất. Bài toán có thể được giải một cách logic; bí ẩn không
thể được giải một cách logic hay theo bất kì cách nào khác.
Bí ẩn phải được sống, được chấp nhận như nó vậy; không có
cách nào để giải nó. Sống là bí ẩn; nó là bí ẩn bởi vì nó
mang tính mâu thuẫn. Và hàng nghìn mâu thuẫn đang có đó,
nhưng những mâu thuẫn đó cho nó sự đa dạng, tính bao la.
Cho nên ngay lúc đầu khi tâm trí bắt đầu mất đi nắm
giữ của nó lên bạn, nó cảm thấy dường như người ta đang
sắp thành chim cúc cu. Nhưng là chim cúc cu thực sự đẹp
hơn là bác học, giáo sư, nhà thượng đế học, tu sĩ, chính
khách nhiều lắm. Bạn chưa từng nghe thấy tiếng hót xa xăm
của con chim cúc cu sao, hay làm sao? Và chim cúc cu thì
điên khùng rồi! Cái đẹp của tiếng hót của con chim cúc cu
mang tính siêu việt. Nó đáng không phải như vậy - khi nhìn
vào cuộc sống trần tục này, nhìn vào cuộc sống bình thường
này. Con chim cúc cu hót mãi dường như nó sống trong thế
giới khác.
Mọi sannyasin của tôi phải là chim cúc cu! Họ phải học
bài ca này: Bài ca của Solomon, bài ca của tình yêu, cuộc
sống, tiếng cười.

357
Điều duy nhất hay trong Cựu Ước là Bài ca của
Solomon; mọi thứ khác là tầm thường. Tất nhiên người Do
Thái và người Ki tô giáo rất lúng túng bởi Bài ca của
Solomon; họ không muốn có nó trong Cựu Ước. Nó không
có vẻ gì tôn giáo cả: nó ca ngợi sự sống, nó rất núng nính,
nó rất sống động. Nó ca ngợi tình yêu - nó mang tính thơ ca
vô cùng. Nhưng họ không thể phủ nhận được nó - nó có đó.
Mọi điều họ có thể làm là hoặc bỏ qua nó hoặc cho nó
những ý nghĩa bí truyền nào đó, mà tất cả đều vô nghĩa.
Đó là một bài ca rất đơn giản; nó không phải là chuyện
ngụ ngôn và nó không mang tính biểu dụ. Nó rất trực tiếp,
tức khắc. Nó nói đích xác điều nó nói; cũng giống như hai
cộng với hai là bốn.
Vivek, đọc Bài ca của Solomon đi - nó sẽ giúp cho
ngọn lửa bên trong của bạn. Nó là một trong những tài liệu
vĩ đại nhất trên thế giới, một trong những tài liệu hay nhất.
Ngay cả Bhagavad Gita, khi được so với Bài ca của
Solomon, không có cái đẹp đó. Nó ca lên bài ca của trái đất;
nó hân hoan trong cái bình thường. Và khoảnh khắc bạn hân
hoan trong cái bình thường, bạn làm biến đổi cái bình
thường đó.
Có hai điều trong Cựu Ước: một là Bài ca của Solomon
và điều kia là Mười lời răn. Về Mười lời răn, Vivek, nhớ
điều này:

Hai người đàn ông đang cãi nhau kịch liệt ầm ĩ về cái gì
đó thì một người trong họ nói, "Rắc rối với ông, Bill, là ở
chỗ ông không đồng ý với bất kì ai về bất kì cái gì. Tôi đánh
cuộc ông thậm chí không chấp nhận Mười lời răn."

358
"Điều đó không đúng," người kia bất đồng. "Nếu ông
chỉ làm một thay đổi nhỏ trong chúng thì tôi sẽ đồng ý với
mọi điều đó."
"Điều đó chắc chắn đáng ngạc nhiên," người thứ nhất
nói. "Điều thay đổi nhỏ ông muốn làm là gì?"
"Chỉ cần gạch đi từ 'không' từ đầu tới cuối."

Và đó là chính là Bài ca của Solomon: từ "không" nhỏ


bé đó đã bị gạch đi từ đầu tới cuối.

Và bạn hỏi tôi, Vivek này: Đẩy tôi đi, Osho ơi! vào
lửa...

Điều đó tôi đang làm mà không xin phép bất kì ai bao


giờ! Tôi không bao giờ tới từ cửa trước bởi vì không ai cho
phép tôi tới từ cửa trước. Tôi không bao giờ gõ cửa, tôi
không bao giờ hỏi, "Tôi vào được chứ, thưa ông hay thưa
bà?" Tôi vào như trên trộm, tôi vào từ cửa sau. Và chắc chắn
tôi phải vào như tên trộm rồi bởi vì bạn đang ngủ; gõ cửa
không ích gì. Bạn sẽ hợp lí hoá trong giấc ngủ của bạn,
"Chắc đấy là gió thôi, hay máy bay bay qua, hay cái gì đó
khác." Bạn sẽ hợp lí hoá, trở mình, chui vào chăn và bắt đầu
lại mơ. Có thể việc gõ cửa làm nảy ra vài giấc mơ mới trong
bạn; đó là mọi điều nó gây ra. Bạn ngủ say thế, tôi phải tới
từ cửa sau thôi.
Ở Ấn Độ chúng ta có một nghìn cái tên của Thượng đế;
cả một cuốn kinh sách chỉ dành cho những cái tên. Không
cái gì khác được viết trong kinh sách đó: Vishnu
Sahasranam - Một nghìn cái tên của Thượng đế. Chỉ tên
không cũng đã được đếm tới một nghìn rồi. Cái tên đẹp nhất
mà tôi thích là Hari; Hari ngụ ý tên trộm tối thượng.

359
Mới hai hôm trước đây tôi đã trao tính chất sannyas cho
một sannyasin xinh đẹp. Tôi đã cho cô ấy cái tên Haridasi -
buông xuôi theo tên trộm tối thượng. Và khi tôi bảo cô ấy
rằng, "Tâm bạn bị đánh cắp," trong thoáng chốc cô ấy được
chuyển sang một thế giới khác. Tay cô ấy đột nhiên đưa lên
tim và tôi nói, "Nó không ở đó đâu!" Và cô ấy hiểu ra vấn
đề ngay lập tức. Cô ấy mất vài nhịp tim đập; nước mắt của
niềm vui mừng lăn dài từ mắt cô ấy. Cô ấy không thể nói
được lấy một lời; giọng cô ấy nghẹn lại. Điều đó nhất định
xảy ra khi tim bạn mất đi!
Tôi liên tục làm mọi điều theo cách riêng của tôi. Và
với bạn, Vivek, tôi không lo nghĩ. Bạn đang trong lửa rồi,
tim bạn đã bị đánh cắp đi từ lâu trước đây rồi. Và tôi đang
đẩy bạn đó, và tôi tuyệt đối chắc chắn rằng điều mà vì nó
bạn ở đây là đang xảy ra cho bạn. May mắn bạn không là
người Polack, bằng không chắc đã có nguy hiểm...

Các bạn đã nghe nói về lính dù Ba Lan mới chưa?


Họ mở dù lúc va chạm... nhưng họ gặp khó khăn lớn vì
phần lớn người Polack bỏ lỡ mặt đất!

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Nhiều năm trước đây thầy đã dụ dỗ chúng tôi,
người mù, vào việc mua những chiếc gương màu
nhiệm của thầy. Chúng tôi đã mua chúng, cứ tưởng
chúng rẻ và xinh xắn. Nhưng chúng sớm phơi ra
cho chúng tôi mặt xấu xí của chúng tôi và chúng

360
tôi hoảng sợ. Nhưng trước khi chúng tôi đập vỡ
những chiếc gương đó, thầy đã động viên chúng tôi
liên tục nhìn, liên tục quan sát, liên tục chứng kiến,
và trong mặc cả, thầy đã đòi chúng tôi cái giá là
chính cuộc sống chúng tôi.
Tuy nhiên, nhìn lại, Osho ơi, tôi thấy tôi vẫn chưa
trả cái gì cho thầy. Đó tất cả đều đã là món quà ân
huệ từ thầy – chẳng vì cái gì. Làm sao tôi nói được
lời cám ơn thầy, Osho ơi,về mọi điều này, và để
bảo tồn chúng tôi và làm cho chúng tôi bám dính
lấy cho tới lúc chúng tôi thực sự nhìn thấy mặt
nguyên bản của chúng tôi trong chiếc gương thiền
nhiệm màu?
Dầu vậy tôi không thể nào không ngạc nhiên, Osho
ơi, tại sao và làm sao mà nhiều người thế bỏ lỡ
thầy. Họ sợ người siêu bán hàng này sao?
Osho ơi, họ chờ đợi cái gì vậy? Họ chờ đợi ai, khi
món quà này của các món quà mưa rào không dứt
lên tất cả?

Ajit Saraswati,
Công việc của thầy thực sự là việc dụ dỗ đấy: thầy dụ
dỗ bạn vào cái không biết. Không có cách khác, chỉ dụ dỗ
có thể giúp ích. Bạn không thể bị thuyết phục về cái không
biết; bất kì cái gì bạn có thể được thuyết phục nhất định là
cái đã biết. Cái không biết là không được biết tới. Bạn đã
không nếm trải nó, bạn thậm chí đã không nghe nói gì về
nó, bạn không có ý tưởng nó là gì.
Tôi có thể thuyết phục bạn về cái bạn đã có ý tưởng nào
đó, nhưng cái không biết là tuyệt đối không biết - và không
chỉ không biết, nó là không thể biết được nữa. Không có
cách nào để biết nó bởi vì đó là phẩm chất cố hữu của bản
361
thân người biết. Nó không bao giờ trở thành cái được biết;
không có điểm nào nó trở thành cái biết. Bạn càng đi sâu
hơn vào trong nó, bạn càng nhận ra rằng nó không chỉ là cái
không biết mà là cái không thể biết bởi vì nó là trung tâm
của bản thân người biết. Làm sao bản thân người biết có thể
trở thành cái được biết? Điều đó là không thể được; người
biết bao giờ cũng sẽ đứng bên ngoài cái được biết, vượt hơn
cái được biết.
Do đó công việc của Thầy thực ra là việc dụ dỗ. Thấy
cám dỗ bạn, thầy làm bạn mê say; thầy hứa hẹn với bạn về
phúc lạc, chân lí, tự do - thầy cho nó nhiều cái tên. Thầy làm
cho bạn bắt lửa khao khát. Một khoảnh khắc tới khi niềm
khao khát thành mãnh liệt và đam mê tới mức bạn lấy cú
nhảy. Điều đó thực sự điên khùng! Không người logic nào
có thể làm điều đó.
Do đó tôi phải phá huỷ dần việc bám dính của bạn vào
logic. Tôi phải dịch chuyển năng lượng của bạn từ đầu tới
tâm, bởi vì tâm là phi logic và từ tâm có một khả năng, một
cây cầu, cây cầu vồng hướng tới cái không biết và chung
cuộc hướng tới cái không thể biết.
Do đó từ "dụ dỗ" thực ra mô tả toàn thể công việc của
tất cả chư Phật. Nhưng những người quá bám lấy logic
không thể bị dụ dỗ được. Nếu họ trước hết đòi hỏi phải được
thuyết phục, thế thì không có cách nào. Nếu họ đòi chứng
minh, thế thì không có cách nào. Nếu bản thân Thầy là
chứng minh, thế thì có cách. Nếu sự hiện diện của Thầy là
đủ cho bạn niềm vui mà có thể đưa bạn vào cuộc phiêu lưu,
nếu chính sự hiện diện của Thầy cho bạn lòng dũng cảm để
đi vào nơi chưa có bản đồ, chỉ thế thì cuộc hành trình bắt
đầu.
Một điều là chắc chắn: một khi cuộc hành trình bắt đầu
bạn không thể quay lại được nữa. Cuộc hành trình bắt đầu là
362
một nửa công việc đã được thực hiện rồi; một khi nó bắt đầu
nó phải đạt tới cực đỉnh của nó. Chỉ phần bắt đầu là phần
khó khăn nhất.
Do đó tôi phải nói về chiếc gương màu nhiệm và tôi
phải ca tụng những chiếc gương màu nhiệm đó của thiền;
Tôi phải liên tục nói mãi chúng sẽ cho bạn những cực lạc
lớn lao thế nào. Bạn không quan tâm tới thiền, bạn không
quan tâm tới việc nhìn vào mặt nguyên bản của bạn, nhưng
bạn chắc chắn quan tâm tới cực lạc.
Nhưng khi bạn lần đầu tiên cầm chiếc gương trong tay
nó cho bạn nỗi đau, không cực lạc gì, bởi vì bạn phải đương
đầu với mọi cái xấu xí trong bạn, bởi vì cái xấu ở ngay trên
bề mặt. Nhưng một khi bạn đã thấy cái xấu đó rồi bạn không
thể vẫn còn thoải mái với nó được nữa. Đó là hi vọng duy
nhất, bởi vì không ai có thể vẫn thoải mái với cái xấu của
mình. Một khi thấy rồi, bạn phải xoá bỏ nó, bạn phải vứt bỏ
mọi mặt nạ xấu xí đó, bạn phải bóc cả lớp da xấu đó đi. Và
đằng sau bề mặt có cái đẹp vô cùng. Đằng sau các mặt nạ -
và có nhiều mặt nạ - mặt nguyên bản của bạn không là gì
ngoài mặt riêng của Thượng đế. Trong cội nguồn của bạn,
bạn không tách rời Thượng đế; trong nhân cách của bạn, bạn
tách rời.
"Nhân cách - personality" bắt nguồn từ chữ Hi Lạp
persona; nó có ngụ ý cái mặt nạ. Trong tính cá nhân của
mình bạn là một với Thượng đế. Thế thì bạn có cái đẹp của
Phật, Krishna, Christ, cùng sự duyên dáng đó. Nhưng trước
khi người ta có thể đạt tới nó thì người ta sẽ phải bóc đi các
tầng xấu xí của mình tựa như người ta bóc hành. Và khi bạn
bóc hành, nước mắt trào ra, việc đó đau đớn. Và những mặt
nạ giả của bạn đã ở với bạn lâu tới mức chúng gần như trở
thành mặt của bạn. Loại bỏ chúng không giống như bỏ quần

363
áo, nó thực ra giống như bóc da bạn ra - đau đớn. Do đó chỉ
những người dũng cảm quan tâm tới biến đổi bên trong.

Bạn hỏi tôi, Ajit Saraswati: Osho ơi, tại sao và làm
cách nào mà nhiều người liên tục bỏ lỡ thầy thế?

Họ hèn nhát, họ không có dũng cảm nào. Họ không


muốn mạo hiểm cái gì, và không mạo hiểm không cái gì có
thể thu được trong cuộc sống. Bạn muốn đạt tới đỉnh càng
cao, rủi ro càng lớn.
Con đường của việc tìm kiếm bên trong thuộc vào
những người đánh bạc, không thuộc vào doanh nhân. Và
những người rất tính toán, họ thường xuyên tính toán, họ
bao giờ cũng nghĩ dưới dạng tính toán. Thậm chí không một
khoảnh khắc nào họ sẵn sàng mạo hiểm cái gì. Họ muốn
mọi loại an ninh, đảm bảo, an toàn, chỉ thế thì họ nhúc nhích
một li. Và trong cuộc truy tìm tâm linh không có an toàn,
không có an ninh đâu. Thực ra, đó là lí do tại sao nó có cái
đẹp tuyệt diệu như vậy: nó là cuộc phiêu lưu.
Cuộc phiêu lưu không thể an ninh được; nó đi ra ngoài
các biên giới của cái đã biết. Khi bạn sống trong biên giới
của cái đã biết, mọi sự đều an ninh; bạn biết mọi thứ, bạn
hiệu quả. Khi bạn đi ra ngoài cái đã biết bạn đang nhận mạo
hiểm. Bạn có thể mất đi cái đã biết, và ai biết liệu bạn có thu
được cái gì trong cuộc phiêu lưu này hay không?

Bạn hỏi tôi: Họ có sợ người siêu bán hàng này


không?

Họ đơn giản sợ chân lí. Bởi vì họ đã sống trong quá


nhiều dối trá lâu đến mức họ sợ: nếu chân lí tới, mọi dối trá
của họ sẽ sụp đổ. Và họ đã đầu tư không chỉ kiếp sống này
364
mà nhiều kiếp sống trước nữa trong những dối trá đó. Đầu
tư của họ là lớn và chân lí sẽ làm tan tành. Họ không đủ
dũng cảm để cho phép chân lí tới, để chấp nhận sự kiện là
nếu chân lí phá huỷ dối trá, tốt hơn cả là những dối trá kia
nên bị phá huỷ sớm còn hơn là muộn, bởi vì nếu bạn không
phá huỷ chúng hôm nay, ngày mai lại thêm một ngày bị mất
đi, thế thì kiếp sống tiếp lại bị mất thêm, và đầu tư của bạn
trở nên ngày một lớn hơn cùng những dối trá. Tốt hơn cả là
chấm dứt nó thật nhanh chóng; bạn càng chấm dứt sớm bao
nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhưng để có điều đó cần tới tính
thanh niên nào đó.
Và trên đất nước này đặc biệt chỉ có hai loại người thôi,
hoặc là trẻ con và người già, thanh niên không tồn tại. Từ
thời thơ ấu mọi người đơn giản đi vào tuổi già. Thời của
thanh niên, tuổi trẻ, nổi dậy, phiêu lưu, không bao giờ xảy
ra.
Và với tôi chỉ người trẻ - trẻ trong tâm linh, tôi ngụ ý
vậy - có thể có giao cảm nào đó. Và không chỉ với tôi: nó
bao giờ cũng là như vậy. Với Phật, với Jesus, với Lão Tử,
nó bao giờ cũng là trường hợp này: chỉ rất ít kẻ phiêu lưu trẻ
tuổi đi cùng những người nguy hiểm đó. Họ đạt tới những
kho báu lớn lao, nhưng những kho báu đó là không chắc
chắn, không được đảm bảo; không có bảo hiểm gì.

Bạn nói:... Nhưng trước khi chúng tôi đập vỡ


những tấm gương đó, thầy đã động viên chúng tôi
liên tục nhìn, liên tục quan sát, liên tục chứng kiến,
và trong mặc cả, thầy đã đòi từ chúng tôi cái giá là
chính cuộc sống chúng tôi. Tuy nhiên, nhìn lại,
Osho ơi, tôi thấy tôi vẫn chưa trả cái gì cho thầy.

365
Không có nhu cầu trả bất kì cái gì cho tôi, bởi vì bất kì
cái gì tôi đang trao cho bạn không phải là của tôi, nó là của
Thượng đế. Bạn có nhiều như tôi có. Cái tôi đang trao cho
bạn đã từng được trao cho tôi. Đây là cách tôi cám ơn
Thượng đế - bằng việc trao nó cho bạn.
Và, Ajit Saraswati, cách duy nhất để cảm thấy biết ơn là
chia sẻ nó với người khác. Lan toả nó thật xa và rộng. Bất kì
cái gì bạn đã trải nghiệm, chia sẻ nó đi. Và đừng lo nghĩ
điều mọi người sẽ nghĩ về bạn - họ sẽ cho rằng bạn điên!
Nhưng nếu bạn nói với cả trăm người, ít nhất có khả năng
một người tới cùng bạn. Điều đó là quá đủ; nó là phần
thưởng lớn rồi. Nếu bạn có thể biến đổi chỉ một người thôi,
thế là đủ. Hàng triệu người nhất định vẫn còn trong bóng
tối; không thể làm được gì về điều đó bởi vì đó là chọn lựa
của họ, đó là tự do của họ. Nếu họ quyết định vẫn còn trong
bóng tối; chúng ta là ai để buộc họ vào ánh sáng? Chúng ta
có thể cố, nhưng chung cuộc, đó sẽ là quyết định của họ.
Cách duy nhất để bày tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối
với Thầy là giúp người khác. Nếu đó đã là món quà nhân từ
cho bạn, trao nó cho người khác như món quà nhân từ. Cho
nó mà không có ý tưởng nào về việc cho, chỉ thế thì nó mới
có tính nhân từ. Cho nó mà không có ý tưởng nào về đền ơn,
chỉ thế thì nó mới mang tính nhân từ. Đơn giản cho nó vì
niềm vui cực kì của việc cho nó.

Bạn cũng nói: Làm sao tôi có thể nói cám ơn thầy,
Osho ơi?

Điều đó không cần phải nói ra. Bạn không cần nói nó
ra, nhưng tôi vẫn nghe thấy nó. Chính im lặng của bạn là đủ.
Điều đó có thể được nói chỉ qua im lặng; không có cách nào
khác để nói nó. Lời là rất không thích hợp.
366
Và cuối cùng, bạn hỏi: Osho ơi,những người này
muốn gì vậy? Họ chờ đợi ai, khi món quà của các
món quà mưa rào mãi lên tất cả?

Ajit Saraswati, thế giới này đã từng bị làm cho điên


khùng - điên khùng không theo nghĩa của tính điên tâm linh,
điên khùng theo ngụ ý mọi người đã trở nên bị chia chẻ, mọi
người đã trở nên bị tinh thần phân liệt, mọi người đã bị thu
về trạng thái thông minh thấp nhất, bởi vì mọi kẻ áp bức,
những kẻ bóc lột, những lãnh đạo, các guru, họ tất cả đều
muốn điều đó theo cách này. Con người phải không được
phép tự do, con người phải không được phép mang tính nổi
dậy, con người phải không được phép thông minh. Người
thông minh là nguy hiểm cho nguyên trạng, cho giới quyền
uy. Giới quyền uy muốn mọi người là nô lệ, như máy, người
máy, và họ đã thành công. Họ bắt đầu phá huỷ đứa trẻ vào
khoảnh khắc nó được sinh ra; họ bắt đầu làm què quặt nó, tê
liệt nó.
Đó là một thế giới rất kì lạ: trước hết họ làm què bạn,
rồi họ đem nạng cho bạn. Và khi họ cấp nạng cho bạn họ
nói, "Thấy việc phục vụ lớn lao mà chúng tôi đang làm cho
các anh!" Trước hết họ làm cho bạn mù và thế rồi họ cho
bạn đôi kính để cho bạn có thể thấy một chút ít. Trước hết
họ làm cho bạn phụ thuộc và thế rồi họ bắt đầu bảo bạn cách
tự do.
Chúng ta đang sống trong một thế giới rất kì lạ. Mãi cho
tới giờ nhân loại đã sống theo cách thức điên rồ. Điều đó là
kì cục và ngớ ngẩn, và đây là lúc điều này phải bị chấm dứt.
Chính nỗ lực của tôi ở đây là: thông qua các sannyasin
của tôi để đem một loại người mới vào thế giới này, người
sẽ điên khùng một cách thiêng liêng nhưng không phân liệt -
367
con người mới được định tâm vào sự hiện hữu của mình. Đó
là ý nghĩa của từ "cá nhân": người đó là không thể phân chia
được; bạn không thể chia chẻ được người đó.

Một người đàn bà tới nhà phân tâm và hỏi ông ta, "Ông
có thể chia tôi ra thành hai được không?"
Nhà phân tâm không thể nào tin nổi vào tai mình. Mọi
người đã tới ông ấy, những người phải chịu đựng nhân cách
chia chẻ, mà người đàn bà này lại hỏi, " Ông có thể chia tôi
ra thành hai được không?"
Ông ta nói, "Có chuyện gì với bà vậy? Sao bà muốn
được chia đôi?"
Bà này nói, "Tôi cảm thấy đơn độc thế!"

Nếu bạn quan sát quanh mình bạn sẽ ngạc nhiên về


cách chúng ta đã tạo ra một nhân loại điên rồ.

Sau vài chầu rượu trong buổi tiệc cốc tai, một người
đàn bà quay sang chồng mình, "Henry, anh không dám uống
cốc nữa đâu. Mặt anh đã mờ dần đi rồi!"

Một người to béo một trăm năm mươi cân bị dẫn tới giá
treo cổ. Anh ta nhìn vào cái giá treo cổ và hỏi người treo cổ,
"Anh có chắc rằng cái này an toàn không?"

Một nhà nghiên cứu xã hội học làm cuộc điều tra về
đòng tính bấm chuông vào một căn hộ. Người đàn ông trả

368
lời qua cửa đáp lại câu hỏi của ông ấy, "Đòng tính à? Tôi
không bao giờ nghe thấy từ đó. Đợi đấy, tôi sẽ hỏi vợ tôi."
Quay đầu lại, anh ta gọi, "Ernest!"

Buổi sáng sau khi rời khỏi tuần trăng mật, cô dâu trở về
nhà. Cô ấy kể: "Tôi cởi quần áo ra. Rồi anh ấy cởi quần áo
ra. Rồi anh ấy mặc quần áo của tôi và bỏ đi! Và anh ấy đã
không quay lại."

Một giáo sĩ kể lại một câu chuyện:


"Một hôm một tiều phu nghèo bắt được một đứa trẻ mới
đẻ ở trong rừng, nhưng anh ta không biết làm sao cho nó ăn.
Cho nên anh ta cầu nguyện Thượng đế và phép màu xảy ra -
người tiều phu mọc vú ra và có thể cho đứa bé bú."
"Giáo sĩ ơi," một người nghe ngắt lời, "tôi không thích
chuyện này đâu. Sao có cái thứ kì quặc như vú trên đàn ông
được? Nếu Thượng đế là toàn năng ngài có thể thả xuống
một túi vàng để cho người tiều phu này đủ tiền mua thức ăn
cho đứa bé chứ."
Giáo sĩ nghĩ về điều này một chốc, rồi nói, "Sao
Thượng đế lại phải tiêu nhiều tiền thế khi ngài có thể chỉ cần
làm phép màu?"

Trong quán rượu lèo tèo hai người đang ngồi ở hai đầu
đối diện của phòng. Người Do Thái và người Nhật Bản
thỉnh thoảng ngồi uống rượu mà không để ý tới nhau, rồi
bỗng nhiên người Do Thái bước ra khỏi chiếc ghế đẩu, đi tới
chỗ người Nhật Bản và thoi một quả vào mũi anh ta. Người

369
Nhật choáng váng, cố đứng trên đôi chân, hỏi người Do
Thái sao anh ta lại làm điều đó.
"Đấy là vì Trân Châu Cảng," người Do Thái đáp, và
bước về chiếc ghế của mình.
Sau vài chầu rượu nữa người Nhật đứng dậy từ chỗ của
mình và bước tới người Do Thái. Anh ta thoi thật mạnh vào
mũi người Do Thái. Người Do Thái, từ tư thế ngã sụp trên
sàn, hỏi đấy là vì cái cái gì.
"Đấy là vì Titanic," người Nhật nói.
"Nhưng đấy là do núi băng chứ!" người Do Thái phàn
nàn.
"Ồ," người Nhật đáp, "Iceberg (núi băng), Greenberg
(núi lục), Silverberg (núi bạc)... chúng tất cả như nhau thôi!"

Khi trận lụt cuối cùng đã qua đi và các con vật ra khỏi
chiếc mảng của Noah, con voi quay sang con bọ chét đang ở
sau nó và nói, "Đừng đẩy tao!"

Đây là thế giới chúng ta đang sống đấy! Mọi người bị


dẫn tới thông minh thấp nhất có thể được, và việc nâng
thông minh của họ trở lại là nhiệm vụ gian nan.
Nếu ai đó nghe tôi, hiểu tôi và bắt đầu biến đổi bản thân
mình, đó là phép màu đấy. Điều đó đang xảy ra cho bạn,
AJit Saraswati - bạn được ân huệ. Rất ít người được ân huệ
như vậy trên thế giới này.

Câu hỏi thứ ba:

370
Osho ơi,
Hoài niệm là gì?

Sahajo,
Hoài niệm là khao khát quay lại những ngày xưa tươi
đẹp khi bạn không khoẻ không già.

Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi,
Thầy không bao giờ sợ rằng thay vì tạo ra loại
người mới, đây là việc tạo ra loại cừu mới sao?

Dick,
Tôi không sợ chút nào đâu, vì cho dù cừu mới được tạo
ra nó là tốt hơn cừu cũ - ít nhất nó sẽ mới! Và là mới là tốt,
là mới là tươi tắn, là mới mở ra những khả năng mới. Do đó
tôi không sợ.
Nhưng bạn phải bị gắn bó với loại cừu cũ, do đó bạn sợ.
Tôi chỉ có thể cố cho sinh ra con người mới, nhưng việc
sinh ra này không thể được bảo đảm tuyệt đối. Tôi sẽ làm
hết sức mình. Không thành vấn đề với tôi liệu tôi thành công
hay thất bại. Điều thành vấn đề là liệu tôi đã cố hết sức hay
không - và tôi đang cố hết sức đây. Và đó là mọi điều tôi
đang quan tâm tới.

371
Tôi thích thú với công việc của tôi. Ai bận tâm về kết
quả? Những người quan tâm quá mức tới kết quả đơn giản
làm phí hoài năng lượng của họ, bởi vì quan tâm về kết quả
lấy đi nhiều năng lượng của họ. Thế thì họ trở nên lo nghĩ
về kết quả - cái đó là sự phân tán - thế thì mục đích trở
thành quan trọng hơn bản thân cuộc hành trình.
Với tôi bản thân cuộc hành trình là đủ, bản thân việc
tìm kiếm là quá đủ. Với tôi phương tiện và mục đích không
tách rời, chúng là không thể phân tách được. Do đó điều tôi
đang làm tôi tận hưởng; cái gì xảy ra, điều đó không phải là
vấn đề chút nào với tôi.
Nhưng sao bạn lo nghĩ? Bạn phải đang quan tâm tới
việc giữ mọi người trong cái bẫy cũ của họ rồi. Tôi chỉ có
thể làm một điều thôi... Bạn đã nghe về câu ngạn ngữ cổ -
đây là bản mới hiệu đính của câu ngạn ngữ cổ đó:

Bạn có thể dẫn người hip pi tới nước, nhưng bạn không
thể làm cho người đó tắm được.

Tôi sẽ đưa người hip pi tới nước – chừng nấy tôi có thể
làm được - tôi sẽ thuyết phục anh ta, nhưng thế rồi mọi việc
là tuỳ ở anh ta có nhảy xuống sông hay không. Và tôi là ai
mà ném anh xuống sông được? Tôi có thể chỉ cho anh ta con
đường ra sông, tôi thậm chí còn có thể đưa anh ta tới dòng
sông, thế rồi đấy là tự do của anh ta. Nếu anh ta chọn vẫn
còn là người cũ tôi sẽ không quấy rầy tự do của anh ta, tôi sẽ
không làm gì chống lại anh ta.
Tôi yêu mọi người như người đó đang vậy. Tôi yêu
công việc của tôi; nó không phải là công việc cho tôi chút
nào bởi vì tôi yêu nó - nó chỉ là trò chơi. Nhưng với bạn,

372
Dick, dường như có vấn đề nào đó bên trong bạn. Câu hỏi
của bạn không liên quan gì tới công việc của tôi, nó có cái gì
đó liên quan tới định kiến của bạn.

Bạn hỏi tôi: Thầy không bao giờ sợ rằng thay vì


tạo ra loại người mới, đây là việc tạo ra loại cừu
mới sao?

Tôi đang cố tạo ra con người mới. Cho dù trong cả trăm


người, một người mới được tạo ra, điều đó sẽ đem toàn thể
tâm thức nhân loại một bước tiến lên, một bước đi lên. Có
khả năng nhiều người sẽ chỉ trở thành loại cừu mới, nhưng
điều đó nữa là không xấu, điều đó nữa là ích lợi. Là sống
động, trẻ trung, tươi tắn, mới mẻ là tốt hơn cho dù bạn là
cừu.
Nhưng bằng cách nào đó bạn phải đã quan tâm sâu sắc
tới việc giữ mọi người trong hình mẫu cũ của họ; đầu tư của
bạn phải có đó. Định kiến của bạn phải là định kiến của
người Ki tô giáo, người Do Thái, người Hindu, người Mô ha
mét giáo.

Hai nhạc sĩ đang bước đi trên phố thì một cái chuông
lớn từ một toà nhà đang bị đổ gần đó rơi ngay cạnh với một
tiếng boong to. "Cái gì đấy?" một người hỏi.
"Tớ không chắc," người kia nói, "nhưng tớ nghĩ đấy là
căn hộ B."

Mọi người có ngôn ngữ riêng của họ, định kiến riêng
của họ, và họ bám lấy định kiến của họ. Cho dù định kiến
của họ đã là nỗi khổ vô cùng với họ, họ vẫn bám lấy.

373
Nếu bạn là cừu cũ, Dick, ít nhất trở thành cừu mới đi –
mầu cam! Nó sẽ không phải là cách mạng rất ghê gớm gì,
nhưng ngay cả chút ít thay đổi là tốt. Chỉ vì những thay đổi
nhỏ bé đó... và thay đổi nhỏ bé có thể mở ra những cánh cửa
cho những thay đổi lớn hơn.

Hai kẻ sống lang thang ngồi dựa lưng vào cây sồi già.
Phía trước họ là con suối lăn tăn chảy. Hôm đó là một ngày
thú vị, vậy mà một người trong họ vẫn buồn phiền.
"Anh biết đấy, Slim," anh ta nói, "việc đi lang thang qua
cuộc đời không phải là điều thường là vậy. Mọi thứ mỗi
năm một khắc nghiệt hơn. Tôi thường nhảy thình thịch
mang nặng lên dốc đứng rất dễ dàng, nhưng những tầu
diesel này chạy như điên. Và tôi thấy mệt vì mất cả đêm
trong ngôi nhà đơn sơ lạnh lẽo này và trên chiếc ghế công
viên, tự hỏi bữa mai tới từ đâu. Và việc vặt ngày càng hiếm
hơn vào mọi lúc..." Giọng anh ta kéo dài ra khi anh ta thở
dài.
Bạn đồng hành của anh ta quay mặt đối diện anh ta.
"Nếu đó là cách cậu cảm thấy, sao cậu không treo cổ cậu lên
và thấy cậu làm được một việc thực sự?"
Kẻ lang thang thứ nhất ngẩng đầu lên và mở mồm một
cách sửng sốt. "Cái gì!" anh ta kêu lên. "Và thừa nhận tôi là
thất bại sao?"

Ngay cả kẻ lang thang, người làm rong, kẻ ăn xin không


muốn chấp nhận rằng anh ta là sự thất bại.
Dick, cách bạn đã hỏi câu hỏi này đơn giản chỉ ra rằng
bạn là cừu cũ - Thiên chúa giáo, Tin lành - và bạn sợ cừu
mới. Bạn không quan tâm tới con người mới. Con cừu cũ

374
này bị lo nghĩ, bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho những định kiến
cũ, kết luận cũ, ý thức hệ cũ? Dường như là nó sẽ là sự gián
đoạn sâu sắc với quá khứ, dường như người ta chết đi và
được tái sinh.
Nhưng những người sẵn sàng vứt bỏ cái cũ không là
cừu. Chính việc dũng cảm vứt bỏ cái cũ là đủ để chứng
minh rằng họ là sư tử! Chính dũng cảm mà với nó họ sẵn
sàng thoát ra khỏi bộ da cũ của mình, định kiến cũ của
mình, ý thức hệ cũ của mình, tôn giáo, triết học, chỉ ra một
điều rất rõ ràng, dứt khoát: rằng họ không phải là cừu. Và
chính dũng cảm đó là hi vọng cho việc sinh thành con người
mới.
Bạn chỉ gạt những định kiến cũ của bạn sang bên và thế
rồi cố hiểu cái gì đang xảy ra ở đây. Được tham gia vào chút
ít đi, tham dự vào điều đang xảy ra ở đây đi. Bạn đã sống
theo những niềm tin cũ của bạn. Nếu bạn bằng lòng, tôi sẽ là
người cuối cùng quấy rối bạn; nhưng nếu bạn bằng lòng, sao
bạn ở đây? Để làm gì? Bạn phải đã không hài lòng.
Đây là một trong những điều kì lạ nhất về con người:
cho dù người đó không bằng lòng người đó liên tục tin, cứ
giả vờ rằng người đó hài lòng. Và bất kì khi nào có cơ hội
để thay đổi - và người đó đang tìm kiếm cơ hội thay đổi, đây
là điều kì lạ - khi người đó tìm ra cơ hội cho thay đổi, người
đó bám lấy quá khứ.

Một võ sĩ quyền anh, bị rối loạn bởi mất ngủ, tới xin tư
vấn bác sĩ.
"Anh đã thử đếm cừu chưa?" bác sĩ hỏi.
"Có đếm, nhưng không ích gì. Cứ mỗi lần tôi đến số
chín là tôi lại bật dậy!"

375
Võ sĩ quyền anh cổ! Khoảnh khắc anh ta đếm tới chín,
anh ta không thể cưỡng lại được. Thay vì cho anh ta giấc
ngủ ngon điều đó sẽ làm rối anh ta - anh ta bật dậy. Mọi
người vận hành một cách máy móc, vô ý thức. Câu hỏi của
bạn đã bắt nguồn từ vô ý thức của bạn, Dick.

Quán trọ ở gần trại lính, và cô phục vụ xinh xắn được


các anh binh nhì ưa chuộng, đặc biệt vì cô ấy ưa thích họ
hơn các sĩ quan hống hách.
Một đêm một binh nhì trẻ lễ phép ngồi cạnh viên trung
uý vênh váo đang người cố hẹn hò cô ta. Khi viên trung uý
đi vệ sinh cô ấy ghé mặt mình sát anh binh nhì và thì thào,
"Bây giờ là cơ hội của anh đấy, anh lính ạ!"
Anh binh nhìn nhìn vào cặp môi đỏ lựng quyến rũ và
rồi kêu lên, "Phải rồi!" và anh ta vội vàng uống ngay cốc bia
của viên sĩ quan.

Bạn ở đây nhưng không thực ở đây. Và cách tôi nói


phải là khó hiểu với bạn. Nếu bạn đã từng nghe các buổi
giảng đạo của các linh mục trong nhà thờ hay trong đền
chùa hay trong nhà thờ hồi giáo, thế thì điều tôi đang nói ở
đây sẽ có vẻ rất phi tôn giáo, sẽ có vẻ rất kì lạ với ý tưởng
của bạn về tâm linh phải là gì. Nhưng tôi không thể nói theo
cách bạn đã quen nghe được. Bạn có thể đang chờ đợi
chuyện tầm phào bí truyền nào đó!

Kohn về nhà sau khi đi khám bệnh ở bác sĩ và gặp


người bạn, anh ta hỏi, "Anh-anh bị-bị bệnh-bệnh gì vậy?"

376
"Tớ bị viêm tuyến tiền liệt," Kohn đáp.
"Nó-nó là-là cái-cái gì vậy?"
"Tớ đái theo cách cậu nói!"

Con người mới chỉ có thể được tạo ra với mọi thứ mới:
cách tôi nói, cách người của tôi sống, cách họ cư xử, tất cả
phải khác toàn bộ với con người cũ. Con người mới không
thể tin vào đạo đức mục ruỗng của bạn - đạo đức của bạn
chỉ tạo ra những kẻ đạo đức giả. Con người mới chỉ có thể
sống một cách đích thực; người đó không thể bị bận tâm với
các ý tưởng đạo đức và phi đạo đức của bạn. Người đó chỉ
có thể sống mang tính thiền. Người đó không thể bị coi như
con người của nhân cách, cách thức bạn đã trở nên quen
nghĩ về những người tôn giáo.
Con người mới sẽ không phải là con người của tính
cách, con người mới sẽ hoàn toàn phi tính cách. Nhưng khi
tôi nói "phi tính cách", xin đừng hiểu lầm tôi; tôi không nói
theo cách bạn hiểu đâu. Với tôi người phi tính cách là người
duy nhất có tính cách. Tôi gọi người đó là phi tính cách bởi
vì người đó không tuân theo bất kì mệnh lệnh nào từ bên
ngoài. Người đó sống theo ánh sáng riêng của người đó,
người đó sống có tính thiền. Tính cách của người đó không
tới từ lương tâm của người đó.
Lương tâm là một đại lí được xã hội cấy vào trong bạn,
nó không phải là của bạn. Đừng gọi lương tâm là của bạn -
nó không phải là của bạn đâu. Nó thuộc vào nhà thờ Ki tô
giáo, nó thuộc vào Hindu giáo, nó thuộc vào triết lí Jain, nó
thuộc vào ý thức hệ cộng sản. Nó không liên quan gì tới
bạn; nó được người khác cấy vào bạn. Nó là chiến lược rất
tinh vi để chi phối bạn từ bên trong. Ở bên ngoài họ đã đặt

377
cảnh sát, quan toà, toà án, và ở bên trong họ đã tạo ra lương
tâm.
Con người thực, con người mới, sẽ sống tương ứng theo
ý thức, không theo lương tâm. Tất nhiên, bất kì cái gì ý thức
của người đó cảm thấy đúng, người đó sẽ làm, dù bất kì rủi
ro gì, dù người đó phải trả bất kì cái gì cho điều đó. Cho dù
người đó phải trả bằng cuộc sống của mình người đó sẽ sẵn
sàng trả cho nó, bởi vì có những điều còn cao hơn bản thân
sự sống. Ý thức là cao hơn nhiều so với sự sống. Nhưng
người đó sẽ không theo lương tâm.
Con người của lương tâm được biết tới như con người
của tính cách - đó là lí do tại sao tôi gọi con người mới là
phi tính cách, bởi vì người đó sẽ không có bất kì lương tâm
nào, người đó sẽ hành động từ ý thức. Lời răn của người đó
sẽ tới từ trung tâm riêng của người đó, và khi chúng tới từ
trung tâm riêng của bạn, chúng cho bạn tự do. Và từ tự do
sự sống mang hương vị mới, vẻ đẹp mới. Bạn làm điều
đúng, nhưng bây giờ điều đúng không do người khác quyết
định. Không còn cảnh nô lệ nữa, đó là tự do tuyệt đối.
Con người mới sẽ sống từ thiền, từ ý thức, từ ánh sáng
bên trong riêng của người đó. Con người mới sẽ là một cá
nhân, không phải là một phần của bất kì tập thể nào.
Các sannyasin của tôi ở đây không phải là một tập thể.
Từng sannyasin được quan hệ trực tiếp với tôi. Đó không
phải là nhà thờ, đó không phải là tổ chức: đó là mối quan hệ
yêu thương. Và bởi vì họ tất cả đều yêu tôi, tất nhiên họ bắt
đầu cảm thấy yêu lẫn nhau nữa; đó là điều phụ. Tình yêu
của họ hướng tới tôi là chính, thế thì tình yêu của họ với
sannyasin khác là phụ; họ là bạn đồng hành. Nhưng không
ai nhất định phải theo tôi hay theo bất kì ai khác. Đó là tâm
xã của các bạn đồng hành, bạn tìm kiếm.

378
Không có khác biệt về chất giữa tôi và các sannyasin
của tôi. Khác biệt duy nhất là khác biệt rất nhỏ, rất không
đáng kể: tôi nhận biết về thế giới bên trong của tôi, họ
không nhận biết, nhưng họ có thế giới bên trong cũng như
tôi có nó. Tôi không có nó nhiều, họ không có nó ít. Họ có
toàn thể vương quốc của Thượng đế bên trong họ. Tôi
không đặc biệt theo bất kì nghĩa nào. Tôi không tuyên bố
rằng tôi là con của Thượng đế, tôi không công bố rằng tôi là
đấng hoá thân avatara của Thượng đế, tôi không nói rằng
tôi là teerthankara. Tôi đơn giản nói một điều: rằng tôi đã
từng ngủ, nay tôi thức tỉnh; bạn đang ngủ và bạn có thể thức
tỉnh nữa. Tôi đã biết cả hai trạng thái - trạng thái ngủ và
trạng thái thức - còn bạn chỉ biết một trạng thái, trạng thái
ngủ.
Nhưng nhớ, người có khả năng ngủ là có khả năng thức.
Chính sự kiện người đó có thể ngủ là một chỉ báo rằng
người đó có thể thức! Không có khác biệt nào.
Tôi sẽ liên tục cố giúp mọi người thức tỉnh. Người thức
tỉnh sẽ là con người mới. Người đó sẽ không phải là người
Ki tô giáo, người đó sẽ không là người Hindu, người đó sẽ
không là người Mô ha mét giáo; người đó sẽ không là người
Ấn Độ, người đó sẽ không là người Đức, người đó sẽ không
là người Anh. Người đó sẽ đơn giản là người đã thức tỉnh.
Nhưng, Dick, có thể rằng có vài người sẽ chỉ chuyển
thành loại cừu mới, nhưng thế nữa cũng không tệ. Khi có
liên quan tới cừu cũ, thì điều đó là tốt hơn rồi. Cho nên nếu
bạn là cừu cũ, trở thành cừu mới đi, và từ đó cuộc hành trình
bắt đầu, một khả năng. Nếu cừu cũ có thể trở thành cừu mới
đó là thay đổi triệt để. Cừu quyết định theo kiểu mới - đó là
cuộc cách mạng. Và nếu chừng này là có thể, thế thì nhiều
điều nữa cũng là có thể nữa.

379
Câu hỏi thứ năm:

Osho ơi,
Đinh nghĩa của thầy về chính khách là gì?

Nartan,
Nếu một người tránh ô tô, người đó là người đi bộ. Nếu
người đó tránh thuế, người đó là doanh nhân. Nếu người đó
tránh trách nhiệm, người đó là giám đốc điều hành. Và nếu
người đó né tránh mọi thứ, người đó là chính khách.

Và câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Có lần thầy kể một chuyện cười cho Purna, người
đã đi rồi. Tôi đang ở lại. Thầy sẽ kể một chuyện
cười cho tôi nữa chứ?

Anand Donna,
Được,

Một giáo sĩ Do Thái quyết định ngồi cùng một linh mục
trong phòng xưng tội để học các nguyên tắc của Thiên chúa
giáo. Hai người đàn bà bước vào, người nọ tiếp người kia,
và thú nhận đã có giao hợp với bạn trai của họ, không chỉ

380
một lần mà ba lần. Để hối lỗi, linh mục bảo họ nói ba lần
Pater Nosters rồi để mười đô la vào hòm công đức.
Linh mục bị gọi đi khẩn cấp để làm lễ rửa tội cuối cùng
cho một người sắp chết. Ông ấy bảo giáo sĩ ở lại và nghe lời
xưng tội cho những người còn lại. "Nhớ lấy mười đô la
đấy," ông ấy nói trước khi ra đi.
Người xưng tội thứ nhất là một cô gái trẻ, cô kể cho ông
giáo sĩ rằng cô đã giao hợp với bạn trai của mình.
"Ba lần à?" giáo sĩ hỏi.
"Ồ không, thưa cha, chỉ mỗi một lần thôi," cô gái đáp
lại.
"Con có hoàn toàn chắc đấy không phải là ba lần
không?"
"Không, thưa cha, chỉ mỗi một lần thôi," cô gái trẻ
khăng khăng.
"Thôi được," giáo sĩ gợi ý, "Ta nói cho con điều phải
làm: nói ba lần Pater Nosters, để mười đô la vào hòm công
đức, và nhà thờ sẽ cho con nợ hai lần đéo."

381
382
13. Lời nguyện đơn
giản xảy ra

Tuyệt đối và tương đối -


người biết cả hai điều này cùng nhau,
qua cái tương đối bỏ lại cái chết đằng sau
và qua cái tuyệt đối thu được tính bất tử.
Ngưỡng của thực tại bị che giấu bởi bức màn vàng.
Làm lộ nó ra, hỡi Chúa tể, vì pháp của ta là biết
chân lí.
Hỡi Chúa tể của Ánh sáng, người biết,
người bảo vệ bằng vàng, người đem sự sống cho
tất cả,
toả ra các tia sáng của ngài, thu lại sự chói sáng
của ngài,
Điều ta có thể cảm nhận bản tính tinh tuý nhất và
huy hoàng nhất của ngài,
điều tâm linh vũ trụ nằm ở tâm của ngài.
vì bản thân ta là Cái đó!
để hơi thở của ta hội nhập với hơi thở vũ trụ,
cầu mong thân thể ta như cát bụi,
nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm.
Nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm.

383
Ôi Agni, chỉ cho chúng ta con đường đúng,
dẫn chúng ta tới tự do vĩnh hằng,
Ngài người biết tất.
Cầu mong chúng ta không bị phân tán khỏi mục
đích của mình,
Vì với tất cả sự tận tâm chúng ta tự hiến mình cho
Đấng Ba.
Aum
Purnamadah
Purnamidam
Purnat puramudachyate
Purnasya purnamadaya
purnameva vashishyate
AUM
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể,
tính toàn thể vẫn còn lại.

Đóng góp vĩ đại nhất của những người thấy của


Upanishad là ở chỗ họ đã làm cho thế giới này và thế giới
bên kia thành đồng nghĩa. Họ đã vứt bỏ ý tưởng về thế giới
trần tục và thế giới thiêng liêng. Cái đó biểu thị cho cái
tuyệt đối, cái tối thượng, bờ bên kia; cái này biểu thị cho cái
ngay trước mắt, cái ở đây bây giờ, bờ này. Cả hai là một bởi
vì: cái đó là cái toàn thể, cái này là cái toàn thể - không có
phân biệt chút nào.
Tôn giáo thông thường sống với việc kết án thế giới
này; bằng việc kết án thế giới này họ ca ngợi thế giới kia.
Upanishad có cách tiếp cận hoàn toàn khác: họ ca ngợi thế
giới này với tất cả vẻ đẹp, huy hoàng của nó; qua việc ca

384
ngợi thế giới này họ ca ngợi thế giới kia. Cách tiếp cận này
mang tính khẳng định sự sống.
Upanishad là trong tình yêu vô cùng với sự sống. Họ
không dạy từ bỏ, họ dạy hân hoan. Họ chắc đã đồng ý với
Jesus khi Jesus nói đi nói lại cho các đệ tử của mình, "Hân
hoan đi! Hân hoan đi! Ta nói lại với các ông hân hoan đi!"
Upanishad có cách tiếp cận rất thẩm mĩ tới sự sống - không
phải là cách tiếp cận của người khổ hạnh mà là cách tiếp cận
của nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, vũ công. Cách tiếp cận của họ
không theo con đường bệnh hoạn.
Nhưng cái nhìn đó đã hoàn toàn biến mất. Thay vì cái
nhìn cực lạc về cuộc sống, trong ba nghìn năm nhân loại đã
sống với một ý tưởng rất tự bạo: hành hạ bản thân mình và
dạy người khác để họ có thể cũng hành hạ bản thân họ, bởi
vì đó là cách duy nhất để làm cho Thượng đế hân hoan.
Điều này thực sự là việc kết án Thượng đế, dường như
Thượng đế là kẻ tra tấn, dường như ngài tận hưởng mọi
người trong đau đớn và khổ sở.
Ngay cả ngày nay chúng ta liên tục ca ngợi thái độ khổ
hạnh. Người tự hành hạ mình trở thành thánh nhân vĩ đại.
Nếu người đó nhịn ăn, bỏ đói thân thể mình, nằm trên
giường gai, đứng trần trong giá rét, ngồi trong mùa nóng
bức bị bao quanh bởi lửa, thế thì chúng ta có kính trọng lớn
lao với người đó.
Kính trọng này đơn giản chỉ ra rằng tâm trí chúng ta
đang trong trạng thái rất ốm yếu. Chúng ta không vì mạnh
khoẻ, vì tính toàn thể, vì niềm vui, vì phúc lạc. Chúng ta
mang tính tự tử, giết hại. Và nhân danh tôn giáo tự tử thành
lớn lao. Toàn thể nhân loại đã trở thành mang tính tự tử.
Để hiểu những lời kinh cuối cùng của Upanishad nhớ
một điều: với Upanishad cõi bên kia không chống lại thế

385
giới này, nó là một phần cố hữu của thế giới này. Cõi bên
kia là ở bên trong thế giới này; nó không ở xa xăm gì, nó ở
sâu bên dưới ở đây và bây giờ. Cũng như dòng sông cần đôi
bờ, sự sống cần cả cái này và cái đó.
Khi bạn nhìn vào sông bạn thấy đôi bờ, nhưng nếu bạn
chìm sâu vào trong sông thì bạn sẽ thấy đôi bờ đó không
tách biệt; bên dưới sông chúng được nối liền với nhau,
chúng là một. Theo cùng cách này, cái này và cái đó là một.
Chúng dường như bị chia ra, nhưng đó chỉ là vẻ bên ngoài;
đừng bị lừa bởi nó. Chìm sâu để cho bạn có thể thấy sự
thống nhất tối thượng.
Cái gọi là những kẻ tự bạo, các thánh nhân khổ hạnh đã
từng nói về advaita, cái một, nhưng điều đó dường như chỉ
là nói, chỉ là lời đãi bôi, bởi vì cách họ cư xử, cách họ sống,
đơn giản chỉ ra tính hai mặt. Họ từ bỏ thế giới này. Nếu thế
giới này là ảo vọng, sao từ bỏ nó? Cái gì có đó để mà từ bỏ?
Không ai từ bỏ mơ của mình. Khi bạn thức dậy vào buổi
sáng bạn không đưa ra tuyên bố lớn lao cho thế giới rằng:
"Tôi đã từ bỏ mọi mơ trong đêm của tôi!" Khi bạn thức dậy
bạn đơn giản biết những mơ đó không phải là một phần của
thực tại; chúng chỉ là những hình ảnh tưởng tượng của tâm
trí. Không có gì để từ bỏ; tự chúng đã bay hơi hết. Và nếu
bạn khăng khăng từ bỏ mơ, điều đó đơn giản chỉ ra rằng bạn
vẫn còn mơ. Bây giờ mơ của bạn là mơ về việc từ bỏ mơ -
một mơ mới. Mơ cũ bị thay thế bằng mơ mới.
Ai đó đang cố chinh phục thế giới - người như
Alexander - và ai đó khác đang cố từ bỏ thế giới - người như
Shankara. Nhưng cả hai là đồng ý ở một điểm: rằng thế giới
này tồn tại. Shankara nói nó là không thực. Nếu nó là không
thực, thế thì bạn đang đi đâu? Thế thì tại sao bạn từ bỏ nó?
Thế thì tại sao có việc khăng khăng này, nhấn mạnh này?

386
Toàn thể việc nhấn mạnh chứng minh chính điều ngược lại
của điều được nhấn mạnh.
Khi tôi còn là sinh viên, một trong các giáo sư của tôi ở
đại học bao giờ cũng nói về tính bạo dạn, tính không sợ hãi
của ông ấy, nhiều tới mức thậm chí không một ngày nào ông
ấy không nhắc tới theo cách này hay cách khác rằng ông ấy
là người bạo dạn. Tôi nghe ít nhất trong hai, ba tháng, và thế
rồi tôi đứng dậy và hỏi ông ấy, "Ngày nào cũng nói mãi
rằng thầy là người lớn lao, bạo dạn chỉ đơn giản chứng tỏ
rằng phải có hèn nhát nào đó bên trong thầy. Bằng không tại
sao nói đi nói lại thế? Thầy đang định chứng minh cho ai?
Chúng tôi không hỏi liệu thầy là kẻ hèn nhát hay bạo dạn.
Chúng tôi không đến đây để điều tra về sự bạo dạn hay hèn
nhát của thầy, dù nó là cái gì chúng tôi không quan tâm tới
nó. Sao thầy phải nói đi nói lại mãi thế?" Và từ bất kì tham
chiếu nào, từ bất kì hoàn cảnh nào ông ấy đều sẽ nhảy vào
kết luận, dường như ông ấy bao giờ cũng tìm bất kì cái cớ
nào để chứng minh rằng ông ấy là người bạo dạn.
Ông ấy bị sốc. Ông ấy gọi tôi tới nhà trong đêm và bảo
tôi rằng, "Em là người đầu tiên đã làm cho tôi nhận biết về
nỗi sợ nào đó trong tôi. Tôi thực sự là người đầy những sợ
hãi. Tôi không định thuyết phục em đâu - thực ra, bằng việc
nói chuyện với em tôi đang cố tự thuyết phục mình. Và tôi
xin cám ơn," ông ấy nói, "mặc dầu khi em nói điều điều đó
lần đầu tiên trước những người khác tôi đã bị sốc, giận lắm,
phát rồ. Nhưng về sau khi tôi nghĩ về điều đó một cách bình
thản, yên tĩnh, tôi mới nhận ra sự thật của điều đó."
Những người liên tục nhấn mạnh thế giới này là ảo
vọng đơn giản đang cố tự chứng minh cho mình rằng nó là
ảo vọng nhưng họ biết nó không phải vậy. Họ đang cố tạo ra
làn khói lớn quanh mình rằng nó là ảo vọng, đáng từ bỏ:
"Nó vô giá trị, không có nghĩa gì trong nó cả!" Nhưng tại

387
sao có nhấn mạnh này? Nếu không có nghĩa trong nó, không
có nghĩa trong nó. Nếu nó là ảo vọng, nó là ảo vọng. Bạn
đâu cần nói điều đó. Và cái gọi là những thánh nhân này đã
viết biết bao nhiêu sách chứng minh rằng thế giới này là ảo
vọng.
Những thánh nhân này đã từng nói về tính ảo vọng của
thân thể đàn bà, rằng nó là xấu, nó không đẹp: "Nhìn vào
bên trong làn da kia: chẳng có gì ngoài xương, máu, mủ,
nước nhầy." Họ đang cố chứng minh những điều này cho
ai? Và tại sao có nhấn mạnh liên tục này? Dường như là có
hấp dẫn lớn trong họ về thân thể đàn bà. Họ đang cố tạo ra
sự đề phòng.
Upanishad không bao giờ nói một lời chống lại thế giới
này; điều đó dường như là cái nhìn chân thực hơn. Thế giới
có đó, nó là thật. Tất nhiên thực tại của nó là tương đối, và
đó là sự kiện; mọi người đều biết thực tại của nó là tương
đối. Bạn yêu một người đàn bà hôm nay, ngày mai bạn có
thể không yêu. Hôm nay với bạn dường như là bạn sẽ yêu
cô ấy mãi mãi, và ngày mai tất cả ý tưởng đó đã đơn giản
bay hơi hết. Chỉ một ngày trước bạn đã sẵn sàng chết vì cô
ấy, và một ngày sau đó bạn sẵn sàng giết chết cô ấy!
Nó là thế giới tương đối, không có gì thường hằng ở
đây cả, điều đó là đúng. Mọi thứ đều đang thay đổi, như
luồng chảy; nó là nhất thời. Nhưng điều đó không ngụ ý nó
là không thực, không ngụ ý nó là ảo vọng. Cho dù nó là nhất
thời, nó vẫn đúng, nó vẫn thực. Nó có thực tại tương đối.
Thế giới kia, cõi bên kia, cái tuyệt đối, có một loại thực
tại hoàn toàn khác; nó không tương đối. Nhưng cả hai đều
thực. Cái tương đối và cái tuyệt đối là hai khía cạnh của
cùng một thực tại. Quan sát dòng sông: theo cách này nó
liên tục thay đổi mãi, theo cách khác nó vẫn là cùng một
dòng sông. Quan sát tâm trí bạn: tâm trí liên tục thay đổi -
388
mọi khoảnh khắc cái gì đó mới tới cái gì đó cũ chết đi -
nhưng theo cách khác tâm thức của bạn, người quan sát của
bạn vẫn là một. Bạn có thể trải nghiệm những điều này ở
bên trong bạn: tâm trí là thực tại tương đối và tâm thức bạn
là thực tại tuyệt đối.
Bạn đi xem phim. Màn ảnh vẫn vậy, nhưng cảnh trên
màn ảnh liên tục thay đổi. Cả hai đều thực. Cảnh hiện hữu
trong một khoảnh khắc và thế rồi chúng trôi qua, nhưng màn
ảnh vẫn còn như cũ. Bởi vì cảnh mà bạn không thể thấy
được màn ảnh. Khi cảnh dừng lại, máy chiếu phim dừng lại,
bỗng nhiên màn ảnh có đó hoàn toàn trống rỗng. Đó là kinh
nghiệm về cái tuyệt đối: nó là tính trống rỗng, hệt như màn
ảnh trắng; không có gì chuyển động, không có gì thay đổi.
Nó vĩnh hằng, vô thời gian. Nhưng thế giới của thời gian,
thế giới của thay đổi là một phần của nó.
Nhớ biểu dụ về chiếc bánh xe và cái trục xe: trục xe là
tuyệt đối và bánh xe là tương đối. Nhưng bánh xe cần trục
xe; không có trục, bánh xe không thể chuyển động được - nó
sẽ chuyển động trên cái gì? Và trục xe cần bánh xe; không
có bánh xe nó sẽ không là trục xe chút nào. Chúng là phần
bù, không đối kháng.
Cái này và cái đó là hai mặt của cùng một đồng tiền.
Lời kinh:

Tuyệt đối và tương đối -


người biết cả hai điều này cùng nhau,
Qua cái tương đối bỏ lại cái chết đằng sau
Và qua cái Tuyệt đối thu được tính bất tử.

Thấy ra điểm này: Người biết cả hai điều này cùng


nhau... Upanishad không nói biết cái tuyệt đối và từ bỏ cái

389
tương đối. Nó nói biết cả hai trong tính cùng nhau của
chúng. Chỉ thế thì việc biết của bạn là toàn thể, chỉ thế thì
việc biết của bạn là toàn bộ. Người quay lưng lại thế giới
vẫn còn bị thiên lệch cũng như người còn trong thế giới và
quên mất cõi bên kia. Cả hai đều mang tính bộ phận, và
mang tính bộ phận là ốm yếu bởi vì thế thì bạn không thể có
toàn thể con người của bạn, chỉ mảnh mẩu. Và chỉ có mảnh
mẩu là chịu đau khổ, là chịu khổ.
Do đó quan sát của tôi là: người trần tục đau khổ theo
cách này và cái gọi là người tâm linh của bạn đau khổ theo
cách khác, nhưng cả hai là khổ. Đau khổ tới từ chân lí bộ
phận. Phúc lạc là hương thơm của cái toàn thể.
Phúc lạc chỉ tới khi bạn sống cuộc sống trong tính toàn
bộ của nó. Tính toàn bộ bao gồm cái này và cái kia và nó
không tạo ra cấp bậc nào. Cái kia không cao hơn cái này; cái
kia ẩn kín trong cái này. Cái này là phần thấy được của cái
kia, và cái kia là phần không biểu lộ của cái này. Cái này là
thân thể của cái kia và cái kia là linh hồn của cái này.
Và bạn có thể thấy bên trong bạn: thân thể và hồn đang
sống trong hài hoà tuyệt đối. Theo cùng cách đó Thượng đế
và sự tồn tại của ngài đang hiện hữu trong hài hoà sâu sắc
không có xung đột. Xung đột được tạo ra bởi cái gọi là
những người tôn giáo của bạn; họ đã tạo ra đủ mọi loại tranh
đấu không cần thiết.
Do đó tôn giáo đúng sẽ gần với Upanishad hơn với
Shankaracharya, hơn với Mahavira, nó sẽ gần hơn nhiều với
Upanishad. Và Isa Upanishad này là chính tinh hoa của toàn
thể triết lí Upanishad về cuộc sống.

Tuyệt đối và tương đối -


người biết cả hai điều này cùng nhau,
Qua cái tương đối bỏ lại chết đằng sau
390
Và qua cái Tuyệt đối thu được tính bất tử.

Cái tuyệt đối không thể được biết tới bằng bất kì
phương pháp nào, nó không thể được biết tới bằng bất kì
giáo huấn nào, nó không thể được biết tới bằng bất kì kinh
sách nào. Cái tuyệt đối không thể được biết tới như đối thể
của tri thức bởi vì nó là chính trung tâm của cốt lõi bên
trong nhất của bạn, nó là nền tảng của mọi việc biết của bạn.
Do đó nó không thể được biết tới như cái đã biết. Không
phương pháp nào giúp ích, không giáo huấn nào giúp ích,
không triết lí nào thực ra sẽ có bất kì sự hỗ trợ nào; thực ra,
chúng sẽ cản trở. Để biết cái tuyệt đối, người ta phải vứt bỏ
mọi học thuyết, mọi triết lí, mọi ý thức hệ, mọi phương
pháp.
Mới hôm nọ ai đó đã hỏi: "Liệu có thể tìm thấy Thượng
đế bằng thực hành Yoga không?" Thượng đế không thể
được tìm thấy bằng việc thực hành bất kì cái gì - không
Yoga không Mật Tông không Thiền không Đạo. Thượng đế
không thể được biết bằng việc thực hành bất kì cái gì. Ai sẽ
thực hành? Mọi thực hành đều bị giới hạn vào tâm trí, và
tâm trí thực hành cái gì đó ngụ ý tâm trí được làm mạnh
thêm ngày một nhiều qua thực hành, tâm trí đang luyện tập
và trở nên mạnh hơn. Mọi thực hành làm mạnh thêm cho
tâm trí, và tâm trí thuộc vào tương đối; nó là chính nền tảng
của tương đối.
Bạn có thể thực hành Yoga: bạn sẽ có thân thể tốt hơn,
tâm trí tốt hơn, bạn sẽ có kí ức tốt hơn, bạn sẽ có cuộc sống
lâu hơn; mọi điều này là có thể. Nếu bạn đi sâu vào thực
hành Yoga bạn thậm chí có thể bắt đầu có vài quyền năng
huyền diệu, siddhis, bởi vì bạn sẽ phát hiện ra các lực tinh tế
của tâm trí và thân thể mà bình thường không sẵn có, không

391
hoạt động. Bạn sẽ bắt gặp nhiều năng lượng mới mà bạn
không bao giờ ngờ tới.
Các nhà tâm lí nói phần lớn bộ não không hoạt động, và
họ bị phân vân bởi vì nếu nó không hoạt động thế thì tại sao
nó có đó? Dường như không có chủ định và tự nhiên không
bao giờ tạo ra bất kì cái gì mà không có bất kì chủ định nào
- nó phải có chủ định nào đó. Nhưng tâm lí học chưa có khả
năng tìm ra bất kì chủ định nào và tâm lí học có thể không
có khả năng tìm thấy. Chừng nào mà Yoga, Mật tông,
Thiền, Đạo và mọi phương pháp luận này của việc làm hồi
sinh năng lượng tinh tế của tâm trí chưa được đưa vào trong
công trình nghiên cứu khoa học, tâm lí học có thể không có
khả năng nào tìm ra được bất kì hoạt động nào.
Ngay cả sinh lí học đã không tìm ra các chức năng cho
vài thứ, do đó mọi lúc họ sẵn sàng vứt bỏ ruột thừa của bạn
bởi vì nó không có chức năng nào. Các bác sĩ sẵn sàng vứt
bỏ amiđan của bạn vào bất kì lúc nào bởi vì chúng dường
như không có chức năng nào - dường như tự nhiên có thể
phát triển cái gì đó trong bạn mà không thực có chức năng.
Thế thì sao ruột thừa của bạn phải tồn tại chút nào? Thông
thường - sinh lí học là đúng và tâm lí học là đúng - chúng
không có chức năng nào; nhưng nếu bạn đi vào trong thế
giới của Yoga bạn sẽ ngạc nhiên: ngay cả ruột thừa của bạn
có chức năng, amiđan của bạn có chức năng, và phần lớn bộ
não, thường không vận hành, bắt đầu vận hành.
Bạn có thể bắt đầu đọc ý nghĩ của người khác. Điều này
sẽ được thực hiện bằng một trung tâm mới trong tâm trí; các
trung tâm cũ không thể làm được điều đó. Bạn thậm chí có
thể bắt đầu phóng ý nghĩ của mình vào tâm trí người khác;
họ sẽ nghĩ họ đang nghĩ các ý nghĩ đó. Thực ra, bạn đang
làm ngập tâm trí họ bằng các ý nghĩ của bạn. Bạn có thể có
quyền năng lừa dối lớn lao; họ sẽ không có khả năng nào

392
thấy được cách bạn đang làm điều đó - cách bạn đang vật
chất hoá chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ từ không khí, họ sẽ không
có khả năng thấy được. Như bạn biết một kĩ thuật đơn giản:
cách ngăn cản họ không cho biết điều sắp xảy ra chỉ ở ngay
trước mắt họ.
Nhưng mọi điều này không có liên quan gì tới việc biết
Thượng đế, điều tối thượng; mọi điều này là một phần của
cái tương đối. Các nhà ảo thuật có thể làm điều đó, các nhà
thôi miên có thể làm điều đó, những người có tài thôi miên
có thể làm điều đó và có nhiều cách để tìm ra những bí mật
này. Thực ra đây không phải là những điều rất tâm linh đâu;
chỉ những kẻ bản ngã phi tâm linh trở nên quan tâm tới
những điều này.
Cái tuyệt đối chỉ được tìm thấy khi bạn đã gạt bỏ mọi tri
thức; mọi kinh sách bị đốt, mọi lí thuyết bị bác bỏ, bản thân
tâm trí bị đưa đi ngủ. Thế thì cái tuyệt đối nổi ra. Nó chính
là bản tính của bạn. Khi mọi mây đã biến mất mặt trời chói
sáng lộ ra.

Nhưng các phương pháp có thể giúp gạt bỏ cái tương


đối. Chúng có thể giúp bạn trở nên mạnh mẽ hơn khi có liên
quan tới thân thể, liên quan tới tâm trí. Chúng cũng có thể
giúp bạn gạt bỏ đi cái tương đối, chúng có thể giúp loại bỏ
các rào chắn.
Khi tôi đang nói với bạn, đó đích xác là chủ định của
việc nói của tôi với bạn: để giúp bạn gạt bỏ cái tương đối.
Mọi phương pháp của Yoga, Mật Tông, Thiền và Đạo đều
mang tính phủ định - phủ định theo nghĩa chúng không cho
bạn cái tuyệt đối, nhưng chúng giúp bạn được kết thúc với
cái tương đối.
Lời kinh:

393
Qua cái tương đối người ta bỏ lại chết đằng sau
và qua cái Tuyệt đối người ta thu được tính bất tử.

Bạn có thể thấy ra điểm này: chết đại diện cho mọi cái
là tương đối và Bất tử đại diện cho mọi cái là tuyệt đối. Chết
đại diện cho thời gian, thay đổi, và tuyệt đối đại diện cho
vĩnh hằng.
Trong tiếng Phạn chúng ta có cùng một từ cho cả thời
gian và chết. Chúng ta gọi chết là kal và thời gian cũng là
kal. Tiếng Phạn có thể là ngôn ngữ duy nhất trên toàn thế
giới có cùng tên cho thời gian và chết. Đó là lí do tại sao
người ta có thể nói đúng đắn rằng tiếng Phạn là ngôn ngữ
duy nhất được biến đổi bởi sự sáng suốt của những người
thấy; mọi ngôn ngữ khác vẫn còn là ngôn ngữ thường.
Trong mười nghìn năm hàng nghìn người ở phương Đông
đã trở nên chứng ngộ, và họ đã thay đổi chính cấu trúc của
tiếng Phạn. Họ đã cho nó mầu sắc của chứng ngộ của họ, họ
đã làm cho các từ chói sáng; họ đã cho những từ đó các
nghĩa mới mà người chưa chứng ngộ không thể cho được.
Bây giờ gọi thời gian và chết bằng cùng một tên là sự
sáng suốt vĩ đại. Đó không phải là vấn đề biết ngôn ngữ, đó
là vấn đề về trải nghiệm cái gì đó cực kì có giá trị. Thời gian
và chết là một; sống trong thời gian ngụ ý sống trong chết.
Và khoảnh khắc thời gian biến mất, chết biến mất. Cho nên
khi bạn hoàn toàn im lặng, khi không ý nghĩ nào chuyển
trong tâm trí bạn, thời gian biến mất; bạn không thể có ý
tưởng nào về thời gian là gì. Và khoảnh khắc thời gian biến
mất và đồng hồ của tâm trí bạn dừng lại, bỗng nhiên bạn đi
vào thế giới của vô thời gian, thế giới vĩnh hằng, thế giới
của cái tuyệt đối.

394
Jesus được một người tìm kiếm hỏi... điều đó không
được kể lại trong Tân Ước, nhưng nó là một phần của truyền
thống Sufi. Một người tìm kiếm hỏi Jesus: Cái gì là điều có
ý nghĩa nhất trong vương quốc của Thượng đế của ông? Và
câu trả lời thật đáng ngạc nhiên. Jesus nói: "Sẽ không còn
thời gian nữa. Đó sẽ là điều có ý nghĩa nhất trong vương
quốc của Thượng đế của ta - sẽ không còn thời gian nữa. Sẽ
không có quá khứ, không có tương lai; sẽ chỉ có hiện tại."
Và để tôi nói cho bạn rằng hiện tại không phải là một
phần của thời gian. Tất nhiên thông thường ở trường phổ
thông, cao đẳng và đại học bạn đã được bảo và được dạy và
các từ điển của bạn nói đi nói lại mãi rằng thời gian có ba
thời: quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều đó tuyệt đối sai -
sai theo những người biết. Quá khứ và tương lai là thời gian,
nhưng hiện tại không phải là thời gian, hiện tại thuộc vào
vĩnh hằng. Quá khứ và tương lai thuộc vào cái này - thế giới
của tương đối, thay đổi. Giữa hai điều này cõi bên kia, cái
siêu việt thấm vào, và đó là hiện tại. Bây giờ là một phần
của vĩnh hằng.
Nếu bạn sống trong thời gian, chết nhất định xảy ra.
Thực ra, nói "nhất định xảy ra" là không đúng - nó đã xảy ra
rồi. Khoảnh khắc đứa trẻ được sinh ra nó bắt đầu chết đi.
Phải mất bẩy mươi,tám mươi năm để chết, đó là vấn đề
khác. Nó chết đi, dần dần, chi li, từng tí một, chút ít mỗi
ngày, mỗi giờ. Nó liên tục chết dần, chết dần, chết dần... thế
rồi quá trình này được hoàn thành sau bẩy mươi năm hay
tám mươi năm. Khi bạn nói rằng ai đó đã chết hôm nay,
đừng bị lạc hướng bởi phát biểu của mình: người đó đã chết
trong tám mươi năm, hôm nay quá trình này hoàn thành.
Có một truyền thống Trung Quốc cổ đại trong trường
phái Đạo gia, mà dường như là là truyền thống duy nhất trên
toàn thế giới mà khi đứa trẻ được sinh ra cả gia đình đều

395
khóc, họ khóc bởi vì việc sinh không là gì ngoài mũi tên lao
tới chết. Họ không mở hội cho điều đó, họ cảm thấy rất
buồn. Người khác đã đi vào trong thế giới của cái chết - làm
sao bạn có thể mở hội cho điều đó được?
Nếu người ta muốn mở hội, thế thì chết là điều đúng để
mở hội: người đã hoàn tất quá trình chết và có lẽ người đó
có thể không được sinh ra lần nữa; có lẽ người đó đã đi vào
cõi bên kia, hay ít nhất quá trình chết này đã chấm dứt. Có
thể người đó sẽ bắt đầu quá trình chết khác, nhưng đó là
tương lai và chúng ta không biết gì về nó. Mở hội sinh là dốt
nát: mở hội chết là hiểu biết.

Qua cái tương đối bỏ lại chết đằng sau...

Nếu bạn dùng phương pháp của thiền bạn sẽ bỏ tâm trí
lại đằng sau, và tâm trí là cội nguồn của thời gian và chết cả
hai. Tâm trí là thời gian, tâm trí là chết. Khía cạnh này của
tâm trí là thời gian, khía cạnh khác của tâm trí là chết. Qua
thiền, qua quan sát tâm trí, bạn có thể bỏ chết lại đằng sau.
Nhưng đây chỉ là quá trình phủ định; Upanishad gọi nó
là neti neti - không cái này không cái kia - quá trình khử bỏ
dần. "Ta không phải là cái này - thân thể này, tâm trí này.
Thế thì ta là ai?" Trước hết loại bỏ cái không bản chất, gạt
nó sang bên, và liên tục loại bỏ đi mọi cái không bản chất
cho tới lúc chỉ cái bản chất là còn lại. Và cái bản chất là gì?
Làm sao bạn sẽ quyết định rằng chỉ cái bản chất là còn lại?
Khi không cái gì còn lại để bị phủ nhận, không cái gì còn lại
để mà loại bỏ... liên tục làm trống rỗng ngôi nhà của bạn vứt
mọi đồ đạc ra. Khi không cái gì còn lại để mà bị vứt ra, thế
thì một khải lộ lớn lao xảy ra: bạn thu được tính bất tử; cái
tuyệt đối nảy sinh trong bạn trong tất cả vẻ đẹp và huy
hoàng của nó, trong tất cả cực lạc của nó. Nó tràn ngập bạn,

396
nó bắt đầu lan toả; nó bắt đầu đạt tới ngay cả người khác,
những người sẵn có, cảm nhận, mong manh.

Ngưỡng của Thực tại bị che giấu bởi bức màn


vàng.

Bây giờ Isa Upanishad nhắc nhở người tìm kiếm rằng:
nhận biết đi. Khi bạn đi vào trong thế giới của thực tại tuyệt
đối bạn sẽ bắt gặp bức màn vàng, rất đẹp, đẹp tới mức nhiều
người đã trở nên bị mê say và dừng lại đó.

Ngưỡng của Thực tại bị che giấu bởi bức màn


vàng.

Mọi tối biến mất và có ánh sáng vàng thế, phiêu diêu
thế... bạn không bao giờ trải nghiệm bất kì cái gì giống điều
đó. Bạn tưởng bạn đã về nhà. Đợi đã, thận trọng vào: đây
chỉ là ánh sáng bao quanh thực tại này. Bạn phải xuyên qua
ánh sáng này để đạt tới chính trung tâm của thực tại.
Khi bạn tới gần ngọn lửa, ngọn lửa được bao quanh bởi
ánh sáng vàng. Nhớ, ánh sáng vàng toả ra từ ngọn lửa,
nhưng ánh sáng vàng không phải là bản thân ngọn lửa. Khi
bạn nhìn vào mặt trời bạn thấy ánh sáng vàng toả ra từ mặt
trời. Chúng ta ở rất xa mặt trời; phải mất mười phút để ánh
sáng mặt trời đạt tới chúng ta, và mười phút với ánh sáng là
khoảng cách dài bởi vì ánh sáng đi với tốc độ cực kì cao, tốc
độ tối cao. Các nhà khoa học nói rằng đó là tốc độ cuối
cùng, không thể có tốc độ hơn nữa. Ánh sáng đi trong một
giây, một trăm tám mươi sáu nghìn dặm - trong một phút
sáu mươi lần hơn. Trong mười phút sáu trăm lần hơn. Nó ở
xa lắm, nhưng chúng ta có thể thấy ánh sáng đó; các tia sáng
đang đi tới chúng ta.

397
Nhớ, những tia sáng này đang tới từ mặt trời, nhưng
những tia sáng này không phải là bản thân mặt trời. Nếu bạn
muốn đạt tới mặt trời bạn sẽ phải đi ra ngoài những tia sáng
này. Và mặt trời này không là gì nếu so với các mặt trời
khác to lớn hơn nhiều. Cho dù mặt trời này không phải là
mặt trời nhỏ; nó to hơn trái đất sáu mươi nghìn lần, và đây
là mặt trời rất tầm thường trong vũ trụ. Có những mặt trời
còn lớn hơn thế này, lớn hơn hàng triệu lần.
Trong đêm khi bạn nhìn các ngôi sao bạn cho rằng
chúng nhỏ lắm - bạn sai đấy. Chúng ở rất xa xăm, đó là lí do
tại sao chúng trông nhỏ; chúng lớn hơn mặt trời này nhiều
lắm, nhưng khoảng cách của chúng gần như không thể nào
tin nổi. Mặt trời gần nhất với mặt trời này là ở xa bốn năm
ánh sáng; các tia sáng từ mặt trời đó tới chúng ta trong bốn
năm; từ mặt trời này phải mất mười phút, từ mặt trời đó phải
mất bốn năm, và đó là gần nhất. Có những mặt trời ở chỗ
mà phải mất hàng triệu năm ánh sáng mới đạt tới chúng ta,
và có vài mặt trời theo các nhà vật lí quan niệm thì ánh sáng
của chúng chưa tới được trái đất, kể từ khi trái đất được tạo
ra. Và có một khả năng là có thể có những mặt trời thậm chí
còn ở xa hơn, ánh sáng của nó không bao giờ đạt tới trái đất,
bởi vì trong khi đó trái đất sẽ biến mất. Nó đã đi vào sự tồn
tại, trong hàng triệu năm nó đã tồn tại, ánh sáng đã đi và đi
mãi với tốc độ cực kì lớn một trăm tám mươi sáu nghìn dặm
một giây. Vào lúc ánh sáng đạt tới, trái đất chắc đã chết rồi;
ánh sáng đó sẽ không bao giờ tới được trái đất.
Nhưng mọi mặt trời này, những mặt trời vĩ đại, không
là gì nếu so với thực tại tối thượng. Kabir nói, "Khoảnh khắc
tôi thấm vào trong cốt lõi bên trong nhất của mình tôi thấy
dường như bất thần hàng triệu mặt trời đã mọc lên" - không
phải một, mà hàng triệu mặt trời. Một cách tự nhiên, những
người thấy Upanishad đang làm cho bạn nhận biết:

398
Ngưỡng của Thực tại bị che giấu bởi bức màn
vàng.

Và ánh sáng này đẹp đẽ, phúc lạc đến độ bạn có thể bị
mắc vào trong lưới của nó và bạn có thể bắt đầu cho rằng
bạn đã đạt tới. Nhiều kinh sách của thế giới nói: Thượng đế
là ánh sáng. Những người đã nói điều đó đã hiểu lầm: họ
tưởng ánh sáng vàng là bản thân Thượng đế.
Thượng đế không là ánh sáng không là bóng tối; ngài là
cả hai và bên ngoài cả hai. Chừng nào bạn chưa đạt tới điều
tối thượng đó cái bao giờ cũng ở bên ngoài nhị nguyên, siêu
việt lên trên nhị nguyên, liên tục nhớ: bạn chưa về nhà đâu.
Liên tục truy tìm, liên tục thám hiểm đi.
Những người thấy Upanishad cầu nguyện với Thượng
đế:

để lộ nó ra, hỡi Chúa tể, vì pháp của ta là để biết


chân lí.

Upanishad bắt đầu trong thiền và kết thúc trong lời


nguyện. Đây là trình tự đúng. Không ai có thể bắt đầu bằng
lời nguyện bởi vì nếu bạn bắt đầu bằng lời nguyện, lời
nguyện của bạn sẽ là giả, nó không thể đúng được. Bạn sẽ
hỏi xin những thứ tầm thường - tiền, quyền, danh - bởi vì đó
là nơi bạn đang ở. Lời nguyện của bạn sẽ là một phần của
tâm trí bạn và tâm trí đầy những ham muốn, do đó lời
nguyện của bạn sẽ đầy những ham muốn và yêu cầu.
Đi và nghe những người đang cầu nguyện trong nhà
thờ, trong đền chùa đi. Họ đang hỏi xin cái gì?

399
Ngay cả một người như Hoàng đế Akbar vĩ đại thường
cầu nguyện thêm tiền, thêm quyền. Có lần một nhà huyền bí
Sufi vĩ đại, Farid, tới gặp ông ta. Ông ấy không bao giờ đi
tới Akbar cả; Akbar hay tới gặp ông ấy. Farid sống rất gần
Delhi, còn Akbar có sự kính trọng mênh mông với Farid.
Ông ta mời ông này tới cung điện, nhưng Farid sẽ cười vào
toàn thể ý tưởng này và ông ấy sẽ nói, "Ông bao giờ cũng có
thể tới bất kì khi nào ông muốn. Sao ông bận tâm tới tôi?"
Nhưng một hôm dân làng nơi Farid sống đã yêu cầu
ông ấy rằng, "Chúng tôi thậm chí không có một ngôi trường
trong làng mình, và hoàng đế vĩ đại hay tới ông. Ông có thể
nêu cho ông ấy vài gợi ý và lập tức điều đó sẽ xảy ra. Ông
có thể chỉ nói rằng chúng tôi cần một ngôi trường."
Farid nói rằng, "Nếu tôi phải hỏi xin cái gì đó từ ông ấy,
thế thì tốt hơn cả tôi nên đi." Và ông ấy đi tới gặp Akbar
Khi ông ấy tới cung điện của Akbar ông ấy được đón
tiếp nhiệt liệt; mọi người biết về ông ấy. Akbar đang trong
ngôi nhà cầu nguyện nhỏ của mình mà ông ta đã làm ra ở
bên trong cung điện. Theo nghi lễ ông ta làm tất cả năm lời
cầu nguyện mọi ngày, như người Mô ha mét giáo vẫn được
yêu cầu phải thực hiện. Ông ta đang làm lời cầu nguyện
buổi sáng. Không ai được phép bước vào điện thờ khi Akbar
đang cầu nguyện, nhưng lính gác đã không cản Farid; họ
không thể nghĩ được tới việc cản ông ấy.
Ông ấy đi vào; ông ấy đứng đằng sau Akbar. Akbar là
một trong những hoàng đế vĩ đại nhất đã từng sống trên trái
đất. Ấn Độ chỉ biết hai hoàng đế vĩ đại: một là Ashoka,
người kia là Akbar. Họ có vương quốc lớn nhất có thể được
- những người giầu nhất của mọi thời đại. Và Farid bị sốc.
Akbar không biết rằng Farid đang đứng đằng sau - không ai,
thậm chí cả vợ ông ta, được phép đi vào. Cho nên ông ta chỉ

400
cầu nguyện Thượng đế, nói với Thượng đế, không biết về
việc ai đó đang nghe.
Khi ông ta chấm dứt lời cầu nguyện ông ta giơ hai tay
lên trời và nói với Thượng đế, "Cho con nhiều tiền hơn,
nhiều quyền hơn, nhiều vương quốc hơn."
Farid bị sốc: "Con người này có nhiều thế, vậy mà ông
ta còn xin xỏ sao?" Ông ấy quay đi, ông ấy lập tức rời khỏi
điện thờ. Nhưng khi ông ấy bước xuống bậc, Akbar nhìn
thấy ông ấy. Ông ta chạy xô tới, quì xuống và nói, "Sao thầy
tới? Thầy có thể yêu cầu ta tới! Và bây giờ sao thầy ra đi?"
Farid nói, "Ta đã tới để đưa một yêu cầu nhỏ, nhưng
thấy rằng ông vẫn là kẻ ăn xin nên ta nghĩ đưa ra yêu cầu
thật không phải, bởi vì dân làng chỗ ta đã yêu cầu ông cho
một ngôi trường nhỏ, nhưng bây giờ ta không thể yêu cầu
được bởi vì điều đó ngụ ý ông sẽ trở nên kém giầu đi một
chút so với ông hiện tại; một chút ít tiền bạc sẽ phải đổ vào
cho ngôi trường. Không, ta không thể yêu cầu ông được. Vả
lại, nếu ông hỏi xin Thượng đế, ta cũng có thể hỏi xin bản
thân Thượng đế. Sao ta lại phải hỏi xin qua ông, qua đại lí
của ông? Nhưng," Farid nói, "ta không bao giờ nghĩ tới việc
hỏi xin bất kì cái gì từ Thượng đế cả, đó là lí do tại sao ta
ngu tới mức ta tới ông. Nhưng ông đã mở mắt cho ta. Ta đã
từng cầu nguyện cả đời mình, nhưng ý tưởng này không bao
giờ xảy ra cho ta rằng người ta phải hỏi xin bất kì cái gì."
Lời nguyện có thể có hai kiểu. Một: lời nguyện bình
thường được mọi người trên thế giới thực hiện; người Hindu
giáo, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, tất cả làm
điều đó. Họ đã không siêu việt lên trên tâm trí, cho nên lời
nguyện của họ đầy những ham muốn.
Để đạt tới lời nguyện thực trước hết bạn phải trở nên im
lặng, trước hết bạn phải đi qua thuật giả kim của thiền.

401
Thiền giúp bạn gạt bỏ tâm trí, và khi không có tâm trí bạn
có thể cầu nguyện, nhưng lời nguyện đó sẽ có phẩm chất
hoàn toàn khác của nó.
Đây là lời nguyện:

để lộ nó ra, hỡi Chúa tể, vì pháp của ta là để biết


chân lí.

Người thấy này đang nói rằng, "Ta đã làm bất kì cái gì
ta có thể làm được: ta đã thiền, thực hành Yoga, quan sát
tâm trí ta, ta đã làm tan biến tâm trí, đã khử bỏ mọi điều ngu
xuẩn trong ta, điều tầm thường trong ta, điều không thông
minh trong ta. Nhưng từ mọi nỗ lực đó ta chỉ đạt tới ánh
sáng vàng, bức màn của ngài. Bây giờ chừng nào ngài chưa
bỏ nó ra, không cái gì là có thể được. Bất kì điều gì ta có thể
làm ta đã làm rồi - người làm của ta đã kết thúc rồi, việc làm
của ta đã kết thúc rồi. Ta đã tới chính chỗ cuối của giới hạn
của ta; bây giờ con đường của ta chấm dứt ở đây. Bây giờ
chỉ ngài có thể đưa ta đi lên thêm nữa."
Lời nguyện chỉ bắt đầu khi bạn đã làm mọi điều bạn có
thể làm; thế thì lời nguyện của bạn có tính đích thực. Nó
ngụ ý, "Bây giờ tôi có thể làm cái gì đây? Mọi thứ có thể
được cho tôi thì tôi đã làm rồi, và đây là điều tôi đã đạt tới -
ánh sáng lớn lao, phúc lành lớn lao, nhưng dầu vậy tôi cảm
thấy rằng đây chỉ là phần bên ngoài nhất của con người
mình. Bây giờ chỉ ngài có thể giúp được."
Bạn có thể hỏi xin sự giúp đỡ khi bạn đã làm mọi điều
bạn có thể làm, không trước đó. Lời nguyện chỉ tới sau
thiền.
Đó là lí do tại sao tôi không dạy nguyện cầu cho bạn,
tôi dạy thiền, bởi vì tôi biết chỉ sau thiền lời nguyện là có

402
thể được. Và cái đẹp là ở chỗ nếu bạn đã thiền tốt, lời
nguyện tự nó tới theo cách riêng của nó, không cần phải dạy
điều đó. Như hoa nở ra và hương thơm toả ra, đích xác
giống như khi thiền xảy ra, hương thơm của lời nguyện tới
theo cách riêng của nó, nó đơn giản xảy ra. Và thế thì lời
nguyện chỉ có thể là lời này:

Để lộ nó ra, hỡi Chúa tể, vì pháp của ta là để biết


chân lí.

Từ pháp - dharma là không dịch được, đó là lí do tại sao


người dịch đã bỏ lại nó như nó vậy. Thông thường dharma
được dịch là "tôn giáo", điều này sai, tuyệt đối sai. Tôn giáo
là điều rất bình thường; tôn giáo ngụ ý tín ngưỡng, thuyết
thượng đế học, lí thuyết, giả thuyết, học thuyết. Dharma ngụ
ý bản tính cốt lõi bên trong nhất của bạn, svabhava, tự tính
của bạn. Dharma ngụ ý khao khát sâu sắc nhất của bạn về
chân lí, khát khao tối thượng của bạn về con người. Nó có
đó ở trung tâm của mọi người. Nó là hạt mầm; nó có thể trở
thành đoá hoa.
Hai điều phải được làm. Điều thứ nhất là phần thiền: nó
sẽ giúp cho cây phát triển, nó sẽ giúp cho nụ tới. Và thế rồi
bạn phải nguyện; phần thứ hai là lời nguyện. Nếu bạn bắt
đầu cưỡng bức việc nở ra của nụ, bạn sẽ phá huỷ toàn thể
cái đẹp; bạn sẽ phá huỷ hương thơm, ngay cả khả năng của
hương thơm. Thế thì bạn phải nguyện:

Để lộ nó ra, hỡi Chúa tể, vì pháp của ta là để biết


chân lí.
Khao khát sâu sắc nhất của ta là để biết chân lí, chân lí
tối thượng, chân lí trần trụi và không gì khác. Ta không
muốn ánh sáng vàng này, ta không thể bằng lòng với điều

403
này. Bức màn của ngài thật đẹp - tất nhiên nó là bức màn
của ngài, do đó nó đẹp - và cái gì đó của ngài đang toả ra từ
bức màn đó, nhưng ta muốn thấy ngài trong sự trần trụi
tuyệt đối, ta muốn thấy ngài không bị che bởi bức màn. Do
đó lộ ra đi, vén màn lên, hỡi Chúa tể, và đây là điều duy
nhất ngài có thể làm, ta không thể làm được. Ta đã đi tới
chỗ xa tới mức ta có thể thấy bức màn của ngài, nhưng
nhiều hơn thế ở bên ngoài ta.
Lời nguyện có ý nghĩa chỉ khi bạn đã làm mọi gì bạn có
khả năng; thế thì lời nguyện của bạn có sự chân thành.

Hỡi Chúa tể của Ánh sáng, người biết,


Người bảo vệ bằng vàng, người đem cuộc sống cho
tất cả,
toả ra các tia sáng của ngài, thu lại sự chói sáng
của ngài,
Điều tôi có thể cảm nhận bản tính tinh tuý nhất và
huy hoàng nhất của ngài,
Điều tâm linh vũ trụ nằm ở tâm của ngài.
Vì bản thân ta là cái đó!
Hỡi Chúa tể của ánh sáng...

Nhớ, Thượng đế là chúa tể của ánh sáng nhưng không


là bản thân ánh sáng; ngài cũng là Thượng đế của bóng tối
nữa. Ngài là chúa tể của cả hai, cái này và cái kia. Ngài là
chúa tể cả cả hai bờ sự sống.

Hỡi Chúa tể của Ánh sáng, người biết,


Người bảo vệ bằng vàng, người đem cuộc sống cho
tất cả,
lan toả ra các tia sáng của ngài...

404
Lời nguyện bây giờ là: "Cho phép tôi thấy ngài như
ngài vậy. Toả ra các tia sáng của ngài. Cho tôi chút ít cửa
sổ, cửa ra vào. Toả ra các tia sáng của ngài, để cho tôi có
thể có vài không gian để đi vào trong ngài; bằng không các
tia sáng của ngài đẹp thế chúng có thể ngăn cản tôi. Tôi có
thể bị chúng cám dỗ, tôi có thể trở nên bị chúng thôi miên.
Tôi đang trong nguy hiểm: nếu ngài không giúp tôi, tôi sẽ
nghĩ tôi đã đi tới chính chỗ cuối cùng rồi."

... thu lại sự chói sáng của ngài...

Xem lời nguyện này: thu lại sự chói sáng của ngài.
Đừng chiếu sáng nhiều thế, bởi vì tôi thậm chí không thể
mở mắt ra được - làm sao tôi có thể thấy ngài? Thu lại sự
sáng chói của ngài. Xin giúp tôi - rút sự chói sáng của ngài
lại đi. Thu lại các tia sáng của ngài để cho tôi có thể thấy
được ngài, để cho tôi có thể cảm nhận bản tính tinh tuý nhất
và huy hoàng nhất của ngài. Và tôi muốn thấy ngài bởi vì
tôi không tách rời khỏi ngài. Chừng nào tôi chưa biết tới
ngài, tôi sẽ không có khả năng biết tới bản thân tôi.

điều tâm linh vũ trụ nằm ở tâm của ngài.


Vì bản thân ta là cái đó!

Ta là cái đó. Đây là phát biểu tối thượng của


Upanishad: ta là cái đó! "Ta" này không ngụ ý bản ngã; "ta"
này đơn giản ngụ ý sự tồn tại thuần khiết của bạn, không có
bản ngã nào trong nó. Nhiều sự "hiện hữu" hơn là "tôi hiện
hữu". Không có cái tôi trong nó; nó là kinh nghiệm thuần
khiết. Người ta đơn giản hiện hữu.
Và khoảnh khắc bạn hiện hữu mà không có bản ngã,
hoàn toàn trống rỗng bản ngã, không có cái ngã, chỉ là tâm

405
thức thuần khiết không có ý tưởng nào về bất kì cái "tôi"
nào ở trung tâm của nó, thế thì bạn là cái đó, thế thì không
có khác biệt.
Đó là điều mà Al-Hillaj Mansoor đã bị đóng đinh. Nếu
như ông ấy ở Ấn Độ chúng ta chắc đã yêu mến và kính
trọng ông ấy như người thấy Upanishad, nhưng ông ấy đã bị
giết. Ông ấy tuyên bố: "Ana'l haq - ta là chân lí!" Những
người Mô ha mét giáo không thể dung thứ được ông ấy;
điều đó là quá thể. Bất kì ai tuyên bố, "ta là chân lí!" với họ
điều đó dường như là báng bổ, là chống lại tôn giáo của họ,
là thuyết duy ngã độc tôn, rằng con người này đang nói rằng
"ta là Thượng đế." Chân lí ngụ ý Thượng đế. " Ana'l haq - ta
là chân lí, chân lí tối thượng!" Nhưng họ không thể hiểu
được, họ không thể thấy được. Họ không có khả năng cảm
được con người của Mansoor.
Ông ấy không nói rằng Al-Hillaj Mansoor là chân lí.
Ông ấy nói Al-Hillaj Mansoor không còn nữa và cái còn lại
bây giờ là chân lí. Khi ông ấy nói, "ta là chân lí," thực ra
ông ấy đang nói, "Ta không còn nữa, chỉ chân lí hiện hữu."
Ngôn từ của nhà huyền bí phải được hiểu hết sức thận
trọng, bằng không có mọi khả năng hiểu lầm. Upanishad
nói: "Aham brahmasmi - ta là Thượng đế, ta là tuyệt đối, ta
là chân lí tối thượng." Nhưng nó không liên quan gì tới cái
"tôi". Thực ra, họ đang cố truyền đạt cái gì đó mà không thể
truyền đạt nổi. Họ đang nói, "Ta không hiện hữu, bây giờ
chỉ Thượng đế hiện hữu. Do đó ta nói ta là Thượng đế." Bây
giờ Thượng đế đang nói; họ không còn nói nữa.

Vì bản thân ta là Cái đó!


để hơi thở của ta hội nhập với hơi thở vũ trụ...

Đây là lời nguyện; chỉ sau khi thiền điều đó là có thể.


406
để hơi thở của ta hội nhập với hơi thở vũ trụ...

Tôi không nên tách rời khỏi cái toàn thể theo bất kì
cách nào. Tôi nên thở với cái toàn thể, tôi nên nhảy múa với
cái toàn thể. Đây là việc buông bỏ tối thượng. Thông thường
chúng ta liên tục xô đẩy dòng sông, tranh đấu với dòng
sông, cố đi ngược dòng. Do đó chúng ta khổ, bởi vì chúng ta
không thể thắng được, chúng ta nhất định thất bại.
Bạn không thể thắng khi chống lại cái toàn thể; bạn chỉ
là một bộ phận, một bộ phận tí hon thế, và cố thắng khi
chống lại cái toàn thể. Điều đó cực kì ngu xuẩn! Nhưng bạn
có thể thắng - bạn có thể thắng cùng với cái toàn thể, không
chống lại cái toàn thể. Bạn có thể thắng nếu bạn hội nhập
với cái toàn thể. Bạn có thể là người chinh phục.
Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi Mahavira là jina,
người chinh phục. Tại sao chúng ta lại gọi ông ấy là người
chinh phục? - bởi lẽ đơn giản ông ấy đã làm tan biến bản
thân mình cùng với cái toàn thể, ông ấy đã hội nhập cùng
với cái toàn thể. Việc thở của ông ấy không còn tách rời
nữa, nhịp tim của ông ấy không còn tách rời nữa. Nhịp tim
của ông ấy và nhịp tim của vũ trụ trong cùng nhịp điệu sâu
sắc, chúng trong hài hoà; có giao cảm lớn lao xảy ra.

để hơi thở của tôi hội nhập với hơi thở vũ trụ,
Cầu mong thân thể tôi như cát bụi,

Quên thân thể của mình đi - tôi biết tôi không còn trong
nó nữa. Xin nghĩ về tôi như tâm thức. Đây là lời nguyện!

nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm.

407
Đây là lời kinh rất có ý nghĩa, do đó Isa Upanishad lặp
lại nó hai lần:

nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm.


nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm.

Phát biểu thứ nhất - nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được
làm - ngụ ý nhớ điều đã được người khác làm cho bạn. Họ
đã làm cho bạn bị đồng nhất với thân thể. Khi đứa trẻ được
sinh ra chúng ta bắt đầu ước định đứa trẻ dường như đứa trẻ
không là gì ngoài thân thể. Do đó chúng ta tách rời con trai
khỏi con gái. Chúng ta liên tục nhấn mạnh lặp đi lặp lại rằng
con gái có thân thể nữ tính và con trai có thân thể nam tính.
Dù trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta nhấn mạnh sự kiện đó
nhiều tới mức nó trở thành ước định. Bất kì cái gì được lặp
đi lặp lại trở thành ước định. Và đàn bà trở nên bị đồng nhất
với thân thể và đàn ông trở nên bị đồng nhất với thân thể.
Và thế rồi chúng ta bắt đầu nhấn mạnh vào sự đồng
nhất mới - với tâm trí, với tham vọng, ham muốn. Chúng ta
liên tục nhồi nhét vào trẻ con đủ mọi loại vô nghĩa. Chúng ta
muốn chúng trở thành vĩ đại, nổi tiếng, giàu có, quyền lực,
tổng thống, thủ tướng, thế này thế nọ. Không ai dường như
quan tâm bảo chúng rằng, "Tôi không phải là thân thể không
là tâm trí - rằng tôi là cái gì đó siêu việt lên trên cả hai."
Toàn thể giáo dục của chúng ta là giáo dục sai bởi vì điều
này, và nó là quá trình lâu dài. Gần một phần ba đời bạn bị
phí hoài trong giáo dục - hai mươi nhăm năm. Khi bạn quay
về từ đại học như một tiến sĩ, một phần ba cuộc đời bạn đã
mòn mỏi mất đi. Và họ đã ước định bạn là thân thể và là tâm
trí.

nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm.

408
Nhớ mọi điều đã được làm cho bạn bởi những người
khác để cho bạn có thể hoá giải bản thân mình.

nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm.

Tại sao có sự lặp lại này? Chúng cả hai có nghĩa khác


nhau. Nghĩa thứ nhất là: nhớ điều đã được người khác làm
cho bạn; và nghĩa thứ hai là: nhớ điều bạn đã làm cho chính
bạn. Chỉ người khác vẫn chưa phải là thủ phạm: bạn đã làm
nhiều điều với bản thân bạn nữa. Bạn đã tham gia, bạn đã
chấp nhận, bạn không bao giờ nổi dậy, bạn rất vâng lời với
đủ mọi loại mê tín.
Nếu bố mẹ bạn nói, "Con là người Hindu," bạn trở
thành người Hindu. Bạn không bao giờ nói, "Tại sao?" Bạn
không bao giờ hỏi một câu hỏi. Bố mẹ bạn nói, "Con là
người Jain," và bạn trở thành người Jain, mà không truy tìm,
mà không hỏi. Bạn đã sẵn sàng là nô lệ; sự nô lệ được bạn
chấp nhận.
Cho nên nhớ điều đó nữa, điều bạn đã làm cho chính
bạn: bạn đã phản bội lại chính bạn, bạn đã không thực với
bản thân bạn, bạn đã giả tạo. Ngay cả khi bạn muốn nói
không, bạn nói có, bởi vì điều đó là thoải mái, thuận tiện.
Khi bạn muốn nổi dậy bạn vâng lời, bởi vì nổi dậy có thể
đưa bạn vào nguy hiểm, vâng lời là được trọng vọng. Khi
bạn muốn khóc bạn mỉm cười.
Bạn đã giả dối với bản thân bạn, bạn đã không sống
cuộc sống đích thực. Bạn đã không thực. Bạn đã đeo hết mặt
nạ nọ lên mặt nạ kia; bạn không bao giờ xác nhận mặt
nguyên bản của bạn. Bạn không bao giờ dám chỉ là chính
bản thân bạn. Bạn không bao giờ mạo hiểm. Bạn bao giờ

409
cũng sẵn sàng cúi mình trước người có quyền; họ có thể có
quyền tôn giáo hay chính trị. Bạn bao giờ cũng sẵn sàng để
tổ chức bắt làm nô lệ; nó có thể là Ki tô giáo, nó có thể là
Hindu giáo, nó có thể là Phật giáo; điều đó không thành vấn
đề.
Ngay cả những người bạn rất kính trọng về cơ bản cũng
là nô lệ.
Mới hôm nọ tôi vừa đọc một bức thư của một người Ki
tô giáo Tin lành. Anh ấy đã viết một bức thư cho Mẹ Teresa
ở Calcutta, bởi vì bây giờ Mẹ Teresa được coi là một trong
những vị thánh vĩ đại trên thế giới; vì bà ấy đã được giải
thưởng Nobel nên bà ấy đã trở thành một trong những người
đáng kính nhất trên thế giới. Và người Ki tô giáo Tin lành
này tới trại trẻ mồ côi của Mẹ Teresa nơi bà ấy dung nạp trẻ
con từ người ăn xin, trẻ con bị bỏ rơi, trẻ con nhà nghèo, và
anh ta muốn nhận một đứa trẻ về nuôi. Đó là điều Mẹ
Teresa đã làm cả đời bà ấy: thu nhận trẻ con mồ côi và rồi
đem cho chúng cho các gia đình, và bà ấy đã được kính
trọng bởi điều đó.
Nhưng anh ta đã bị hỏi liệu anh ta có là người Thiên
chúa giáo hay không. Anh ta nói, "Tôi là người Tin lành."
Anh ta bị từ chối - thế rồi anh ta không thể được nhận đứa
con nuôi nào. Anh ta phải là người Thiên chúa giáo La Mã.
Anh ta phân vân rất nhiều. Người đàn bà này được coi là
thánh nhân lớn, một trong những người phục vụ vĩ đại nhất
của xã hội, nhưng toàn thể dịch vụ và toàn thể sứ mạng về
cơ bản là chiến lược Thiên chúa giáo để cải đạo mọi người
theo Thiên chúa giáo. Nó là thủ đoạn, thủ đoạn chính trị.
Mọi nhà trẻ mồ côi đó là không thực vì trẻ mồ côi, họ đang
làm tăng số người Thiên chúa giáo La mã. Họ không có liên
quan gì với những người ăn xin; đó là trò chơi chính trị.
Ngay cả người Tin lành - anh ta cũng là người Ki tô giáo -

410
không thể được phép nhận đứa con nuôi. Mọi đứa trẻ đó sẽ
được đưa và các gia đình Thiên chúa giáo, cho nên người
Thiên chúa giáo trở nên ngày một nhiều, để cho họ có số
người lớn nhất trên thế giới. Đây là cách cải đạo, khai thác
người nghèo, khai thác sự nghèo nàn của họ.
Ngay cả Mẹ Teresa không là gì ngoài một đại lí của
Nhà thờ Thiên chúa giáo. Cái gọi là các thánh nhân của bạn,
mặc dầu họ được coi là thánh đấy, vẫn thuộc về nhà thờ, tôn
giáo, giáo phái nào đó; họ đã không vượt ra ngoài. Họ
không thể nói, "Tôi chỉ là một con người." Họ không thể
đơn giản nói rằng, "Tôi thuộc vào vũ trụ - không thuộc vào
Nhà thờ Thiên chúa giáo hay Nhà thờ Tin lành hay Hindu
giáo hay Phật giáo - Tôi thuộc vào vũ trụ." Họ không trong
hài hoà với hơi thở vũ trụ.
Bà ấy đang nhảy múa theo mệnh lệnh của Nhà Thờ
Thiên chúa giáo La Mã. Bà ấy đang nhảy múa theo giai điệu
của Vatican, của Giáo hoàng. Và thậm chí ở Ấn Độ mọi
người vẫn coi bà ấy là vị thánh vĩ đại. Họ viết thư cho tôi,
"Sao thầy không làm cái gì đó giống như Mẹ Teresa?" Tôi
có phải bắt đầu cải đạo mọi người sang Nhà thờ Thiên chúa
giáo La Mã không? Nhưng đằng sau cái mẽ ngoài đẹp đẽ có
che giấu những điều xấu xa.
Mọi nhà truyền giáo Ki tô giáo này phục vụ người
nghèo và người ốm và người bệnh mà không có liên quan gì
tới người nghèo hay người ốm. Toàn thể nỗ lực của họ là
làm sao mua được mọi người qua bánh mì, qua bơ, qua
thuốc, qua bệnh viện tốt hơn - chỉ làm sao mua được mọi
người qua tiền bạc, làm sao làm thêm nhiều người Thiên
chúa giáo trên thế giới.
Ai đó làm cho mọi người theo đạo bằng lưỡi kiếm, ai đó
làm qua tiền bạc, và ai đó đơn giản hành hạ trẻ con của họ,
làm què quặt, làm tê liệt trí thông minh của chúng.
411
Cho nên nhớ, hỡi tâm trí, nhớ điều đã được làm cho
bạn bởi người khác, và cũng nhớ điều đã được làm cho bạn
bởi chính bản thân bạn, bởi vì người khác có thể làm điều
đó cho bạn chỉ nếu bạn cho phép họ làm điều đó. Tôi biết trẻ
nhỏ không thể làm gì được, chúng không thể nổi dậy, chúng
bất lực. Chúng phải lệ thuộc vào bố mẹ chúng, và bởi vì sự
bất lực của mình mà chúng bị khai thác...
Trẻ em là những người bị khai thác nhiều nhất trên thế
giới, và nỗi khổ là bố mẹ riêng của chúng đang làm những
điều vô cùng tai hại. Họ có thể cho rằng họ đang làm điều gì
đó tốt, điều gì đó lớn lao; họ có thể cho rằng họ đang giúp
con cái của mình trở thành người tốt. Nhưng người Ki tô
giáo, người Hindu giáo và người Mô ha mét giáo đã làm gì
cho thế giới này? Toàn thể lịch sử là đẫm máu bởi vì các tôn
giáo này! Con người chưa có khả năng trở thành một, nhân
loại vẫn còn bị phân chia, và chiến tranh, viễn chinh liên
tục... Giết hại lẫn nhau nhân danh Thượng đế, nhân danh tôn
giáo! Và khi bạn giết bất kì ai nhân danh tôn giáo bạn không
phải là kẻ sát hại. Nếu bạn bị giết nhân danh tôn giáo, thiên
đường của bạn là tuyệt đối chắc chắn. Mọi người đã bị hối
lộ để giết và để bị giết.
Nếu bố mẹ thực sự yêu con cái họ, họ sẽ không ước
định con mình theo bất kì cách nào. Họ sẽ giúp đứa trẻ truy
tìm theo cách riêng của nó, trở thành người tìm kiếm.
Upanishad không thuộc vào người Hindu, nhớ lấy.
Cùng điều này không thể được nói cho Koran; Koran thuộc
về người Mô ha mét giáo. Cùng điều này không thể được
nói được về Ramayana. Ramayana thuộc về người Hindu.
Cùng điều này không thể được nói về Kinh Thánh; Kinh
Thánh thuộc về người Ki tô giáo. Nhưng về Upanishad một
điều có thể được nói một cách tuyệt đối, nói một cách dứt
khoát: chúng không thuộc vào người Hindu, người Mô ha

412
mét giáo, người Ki tô giáo - không thuộc vào bất kì người
nào. Toàn thể cách tiếp cận của chúng mang tính càn khôn,
nó là nguyên khối.

Ôi Agni, chỉ cho chúng ta con đường đúng,


dẫn chúng ta tới tự do vĩnh hằng,
Ngài người biết tất.
Cầu mong chúng ta không bị phân tán khỏi mục
đích của mình,
Vì với tất cả sự tận tâm chúng ta tự hiến mình cho
Đấng Ba.

Ôi Agni...

Agni ngụ ý lửa. Người dịch cũng đã bỏ nó lại không


dịch bởi lẽ đơn giản vì dịch nó là lửa sẽ cho bạn ấn tượng
sai, ý tưởng sai. Agni là biểu dụ, và biểu dụ trở thành khó
dịch hơn; chúng có cái gì đó mang tính thơ ca trong chúng.
Theo đúng từ nó ngụ ý lửa, nhưng biểu dụ là lửa bên trong
bạn, lửa của niềm khao khát sâu sắc mãnh liệt, đam mê về
chân lí, lửa của niềm khao khát ở cùng với người được yêu,
là một với vũ trụ.
Phát biểu cuối cùng của Phật trên thế gian là: "Là ánh
sáng lên bản thân ông" - và đây là lời kinh cuối cùng của Isa
Upanishad: "Hỡi lửa, hỡi lửa của ta, lửa bên trong của ta,
niềm khao khát của ta được là một với người ta yêu... chỉ
cho chúng ta con đường đúng. Bây giờ không ai có thể dẫn
được ta; chỉ niềm đam mê chân lí bên trong ta có thể dẫn lối
cho ta. Không người bên ngoài nào có thể là bất kì giúp đỡ
nào."
Thầy có thể giúp bạn gạt bỏ cái tương đối; ở đó chức
năng của Thầy chấm dứt. Thế rồi bạn phải phụ thuộc vào
413
sáng suốt bên trong riêng của bạn, trực giác riêng của bạn,
và sáng suốt đó được gọi là lửa. Nó là lửa bởi vì nó đốt cháy
và thiêu trụi bạn như một thực thể tách biệt, như một cá
nhân. Nó thu bạn vào hư không. Nó là lửa, nhưng từ lửa này
sự sống mới toàn bộ được sinh ra.

...chỉ cho chúng ta con đường đúng,


dẫn chúng ta tới tự do vĩnh hằng,

Chỉ lửa này có thể đưa bạn tới tự do vĩnh hằng. Khi bạn
bị thiêu cháy hoàn toàn, khi bạn được tự do khỏi bản thân
bạn, thế thì bạn tuyệt đối tự do. Nhớ hai cách diễn đạt này:
tự do của cái ngã và tự do với cái ngã. Cách thứ hai là nghĩa
của tự do tuyệt đối, không phải cách thứ nhất. Tự do của cái
ngã đơn giản ngụ ý bản ngã đã tới từ cửa sau. Tự do với cái
ngã bản thân nó là tự do toàn bộ, tự do tuyệt đối. Khi bạn
không hiện hữu, bạn thực tự do.
Đó là điều ngược đời: khi bạn hiện hữu, bạn trong lệ
thuộc, vì tâm trí của bạn là sự lệ thuộc, bản ngã của bạn là
sự lệ thuộc. Khi bạn không hiện hữu, sự huy hoàng bị cầm
tù của bạn được thoát ra.

Ngài người biết tất.


Cầu mong chúng ta không bị phân tán khỏi mục
đích của mình,

Bây giờ lời nguyện này phải là hương thơm thường


hằng của người tìm kiếm rằng, "Lạy Trời, xin giúp tôi
không bị chệch hướng," bởi vì khi bạn đi vào thế giới bên
trong, những kho báu lớn được lộ ra và có mọi khả năng bạn
có thể dừng lại đâu đó và bạn có thể cho rằng đây là chỗ kết
thúc. Nguy hiểm trở nên ngày một nhiều hơn khi bạn đi sâu

414
hơn, bởi vì sự giầu có lớn hơn, của cải lớn hơn, vương quốc
lớn hơn trở thành của bạn. Và bạn đã sống trong nghèo nàn
tới mức bất kì cái gì có thể làm bạn bị mê hoặc.
Có một chuyện ngụ ngôn hay:

Một nhà huyền bí thường sống dưới một cây, và trong


nhiều năm ông ấy thấy một tiều phu ngày nào cũng tới, một
ông già. Cả ngày ông ta sẽ chặt củi và bán củi, và thế nữa
vẫn khó nuôi sống bản thân ông ta, vợ và con ông ta.
Một hôm nhà huyền bí hỏi tiều phu, "Ông sẽ nghe ta
chứ?"
Tiều phu kính trọng nhà huyền bí này. Vào sáng sớm
khi ông ấy tới ông ấy sẽ cúi lạy nhà huyền bí, và đến tối khi
ông ấy đem củi về nhà, ông ấy sẽ lại cúi lạy nhà huyền bí.
Nhà huyền bí nói, "Nghe đây, đừng phí cuộc sống của
ông trong việc chặt củi. Đi lên trước thêm chút ít và ông sẽ
thấy mỏ đồng, và cái đó sẽ là đủ. Ông làm việc một ngày và
trong bẩy ngày sẽ đủ cho cả gia đình ông sống hoàn toàn
thoải mái, thuận tiện, và ông không cần làm việc mọi ngày."
Người này không tin. Nhà huyền bí này có thể biết gì về
đồng và mỏ? Ông ta không bao giờ thấy nhà huyền bí rời
khỏi cây. "Ông ấy bao giờ cũng ngồi đó dưới cây với mắt
nhắm - ông ấy có thể biết gì được?" Nhưng thế rồi ông ta
nghĩ, "Mình có mất gì nào? Thử một cú xem sao."
Ông ta đi lên trước và tìm ra mỏ đồng, và ông ta hài
lòng vô cùng. Bây giờ ông ta chỉ làm việc một ngày và cả
tuần còn lại không cần làm việc. Thế là đủ nuôi gia đình ông
ta, không chỉ nuôi mà thậm chí còn mời khách khứa, bạn bè.
Và tất cả đều ngạc nhiên rằng ông ta đã đột nhiên trở nên
giầu có.

415
Một hôm nhà huyền bí nói, "Ông ngu thế! Đi lên trước
thêm chút ít và ông sẽ thấy mỏ bạc - và làm việc một ngày
thôi, sáu tháng ông không cần làm việc chút nào."
Tiều phu rất sung sướng với mỏ đồng và ông ta không
tin nhà huyền bí này - lần nữa! Nhưng ông ta nói, "Lần đầu
tiên hoá ra là ông ấy đúng. Ai mà biết được? Để mình thử
xem sao!"
Và ông ta tìm ra mỏ bạc, và ông ta sung sướng vô cùng.
Và một ngày ông ấy sẽ tới rồi sáu tháng ông ấy sẽ biến mất,
và ông ấy sống trong xa hoa trong sáu tháng đó.
Một hôm ông ta tới, và nhà huyền bí nói, "Nhưng ông
vẫn ngu! Ông đi lên thêm chút nữa thôi và ông sẽ tìm thấy
mỏ vàng!"
Bây giờ điều này là quá nhiều! Tiều phu không thể nào
tin nổi rằng đây có thể là số mệnh của mình - không thể
được! Nhưng lần nữa ông ta lại bị dụ dỗ bởi ý tưởng này -
ông ta đi và tìm ra mỏ vàng. Bây giờ ông ta trở nên giầu có
tới mức trong nhiều năm ông ta sẽ không tới, và cho dù ông
ta có tới, ông ta thậm chí không bận tâm cúi mình trước nhà
huyền bí. 'Ai quan tâm tới kẻ ngu này? Ông ta chỉ ngồi dưới
cây, và ông ta biết chỗ có mỏ vàng, dầu vậy ông ta đã không
bận tâm..."
Một hôm nhà huyền bí gọi ông ta và ông ấy nói, "Ông
không tới gặp ta thêm nữa, ông không cúi lạy ta, nhưng dầu
vậy ta bây giờ già rồi và ta không thể chờ đợi thêm nữa. Đi
lên thêm chút nữa thôi là mỏ kim cương - và sao ông phí
thời gian của ông với vàng? Ông có thể tìm thấy kim
cương!"
Và người này đã tìm thấy kim cương; bây giờ trong
nhiều năm ông ta sẽ không tới. Rồi một hôm nhà huyền bí

416
gửi một thông điệp rằng, "Tới nhanh lên, vì ta đang trên
giường chết rồi và ta phải tiết lộ cho ông bí mật cuối cùng."
Ông ta không thể nào tin nổi - còn cái gì có thể hơn kim
cương đây? Đó là chỗ chấm hết rồi! Không thể có cái gì cả,
không thể có cái gì thêm nữa. Nhưng ông ta vẫn tới. Ông ta
hỏi, "Có chuyện gì vậy? Bây giờ ông lại định bảo tôi đi lên
trước nữa là?"
Ông ấy nói, "Đúng, bởi vì nếu ông đi lên thêm chút ít
ông sẽ thấy một kho báu không cạn kiệt được. Cái mỏ này
sẽ chóng hết thôi."
Tiều phu nói, "Tôi không tin ông thêm nữa. Và tôi hoàn
toàn sung sướng - sao tôi phải đi? Và nếu ông biết rằng có
kho báu không cạn kiệt nào đó, sao ông liên tục ngồi dưới
cây này?"
Nhà huyền bí nói, "Kho báu không cạn kiệt đó ở bên
trong ta, và đó là điều ta đã gọi ông tới, để nói cho ông đi
lên trước thêm chút ít nữa. Nếu ông đi lên trước thêm chút ít
nữa ông sẽ thấy bản thân ông, và đó là kho báu thực."
Nhưng điều đó là quá nhiều với tiều phu đáng thương
này ngay cả để hiểu ra. Ông ta cười vào toàn thể ý tưởng
này và ông ta nói, "Ông phải đã mất trí rồi! Tôi hoàn toàn
sung sướng mà."
Nhà huyền bí chết. Sau nhiều năm tiều phu nghĩ - cái
chết của ông ta cũng đang tới gần hơn - "Có thể ông ấy
đúng, mình nên đi xa thêm chút ít." Ông ta đi xa thêm chút
ít và ông ta tìm thấy một khu rừng đẹp tới mức ông ta muốn
ngồi dưới gốc cây. Và lúc đó trời đã im lặng tới mức ông ta
muốn nhắm mắt lại. Và điều đó cực kì an bình tới mức ông
ta bắt đầu chìm vào bên trong bản thân ông ta... Và ông ta
tìm ra kho báu mà nhà huyền bí đã nói tới, nhưng nó được
tìm ra bên trong bản thân ông ấy.

417
Người thấy của Isa Upanishad đang nói:

Cầu mong chúng ta không bị phân tán khỏi mục


đích của mình...

Chừng nào bạn chưa tìm thấy con người tối thượng của
bạn, bạn vẫn chưa tìm thấy cái gì cả, nhớ lấy. Và liên tục
cầu nguyện Thượng đế rằng chúng ta không nên bị phân tán.

Vì tất cả sự tận tâm chúng ta tự hiến mình cho


Đấng Ba.

Thiền là nỗ lực, nguyện là buông xuôi. Thiền là việc


làm của bạn, nguyện là trở thành sẵn có cho Thượng đế; bất
kì điều gì ngài muốn làm với bạn, bạn sẵn sàng. Đó là qui
phục, đó là thành tâm, nhưng thành tâm chỉ tới sau thiền.

AUM
Purnamadah
Purnamidam
Purnat puramudachyate
Purnasya purnamadaya
purnameva vashishyate
AUM
Cái đó là cái Toàn thể.
Cái này là cái Toàn thể.
Từ tính toàn thể nổi lên tính toàn thể.
Tính toàn thể tới từ tính toàn thể,
tính toàn thể vẫn còn lại.

418
14. Không đàn bà -
Không chư Phật

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Tôi thích rơi vào yêu, nhưng tôi sợ đàn bà đẹp, và
do vậy sợ yêu, và tôi không biết tại sao.
Tại sao rơi vào yêu với tôi là khó thế?

Prem Parivartan,
Yêu là điều khó nhất trên thế gian, gian nan nhất đấy.
Thực sự cần bạo dạn để hiện hữu trong yêu. Đó là lí do tại
sao trong hàng nghìn năm mọi người đã trốn chạy khỏi thế
giới nhân danh tôn giáo. Họ đã không thực sự trốn khỏi thế
giới, họ đã trốn khỏi yêu. Chính sợ yêu đã hướng họ đi xa
vào sa mạc, lên núi non, vào tu viện. Nhưng họ thậm chí
không đủ dũng cảm để chấp nhận sự kiện rằng họ sợ yêu; họ
che đậy nó bằng những từ tôn giáo mĩ miều. Họ kết án thế
giới thay vì kết án sự hèn nhát riêng của họ.

419
Và nhân loại đã tôn thờ những người này như thánh
nhân - kẻ hèn nhát đã được tôn thờ! Và một cách tự nhiên,
nếu bạn tôn thờ kẻ hèn nhát, bạn cũng sẽ trở thành kẻ hèn
nhát. Người ta phải chọn lựa rất cẩn thận và cẩn trọng người
để ngưỡng mộ, bởi vì bất kì ai bạn ngưỡng mộ, bạn bắt đầu
trở nên giống người đó - một cách vô ý thức, một cách
không chủ ý. Nếu một người trốn chạy khỏi chiến tranh
chúng ta gọi người đó là kẻ hèn nhát, chúng ta lên án người
đó - người đó đã phản bội. Nhưng những người trốn khỏi
trận chiến của sự sống được coi là anh hùng, được coi là làm
điều gì đó lớn lao. Sợ cơ sở của họ là về yêu - và tại sao có
sợ yêu nhiều thế?
Điều thứ nhất là yêu đòi hỏi bỏ bản ngã. Dễ dàng bảo
vệ bản ngã của bạn nhân danh tôn giáo, nhân danh đức
hạnh, đạo đức, chủ nghĩa đạo đức, tính cách - những từ mĩ
miều để trang điểm cho bản ngã, để nuôi dưỡng chăm nom
nó. Do đó cái gọi là các thánh nhân của bạn là những người
bản ngã nhất trên thế giới, và bạn có thể thấy điều đó. Các
sự kiện thì nhiều vô kể, bằng cớ hiển nhiên đến mức không
có cách nào phủ nhận chúng được. Các thánh nhân của bạn
đã gây ra nhiều cuộc đổ máu trên trái đất hơn bất kì ai khác,
bởi lẽ đơn giản vì bất kì khi nào có bản ngã sẽ có đổ máu.
Nhưng khi bạn ẩn nấp đằng sau những bề ngoài đẹp đẽ, bạn
không chỉ lừa dối người khác, chung cuộc bản thân bạn bị
lừa.
Yêu là một trong những hiện tượng nguy hiểm nhất.
Bạn phải gạt bản ngã của bạn sang bên, chỉ thế nó có thể nở
hoa. Yêu là tâm linh thực sự, nhưng khi tôi dùng từ "yêu"
bạn có thể lại hiểu lầm cực đoan khác - bạn có thể bắt đầu
nghĩ dưới dạng thèm khát. Yêu không phải là thèm khát. Nó
không phải là cái gọi là tôn giáo và nó không phải là cái gọi
là cuộc sống trần tục. Yêu là khác cả hai điều này.

420
Yêu là siêu việt lên trên thèm khát và bản ngã. Cuộc
sống tôn giáo cho bạn bản ngã và phá huỷ yêu, và cuộc sống
phi tôn giáo cho bạn sự thèm khát và phá huỷ yêu. Đây là
hai cực đoan: bản ngã và thèm khát. Đích xác ở giữa hai
điều này là yêu; nó không bản ngã không thèm khát, nó siêu
việt trên cả hai.
Thèm khát ngụ ý bạn đang cố khai thác người khác, và
một cách tự nhiên sẽ có sợ. Sợ sẽ là ở chỗ người khác có thể
khai thác bạn. Đi vào mối quan hệ ngụ ý đi vào không gian
nơi bạn nghĩ tới khai thác và người kia cũng nghĩ tới khai
thác. Cả hai dùng người kia như phương tiện. Do đó có hấp
dẫn lớn - cơ hội để khai thác người kia - và sợ lớn vì bạn có
thể bị khai thác.
Thèm khát không bao giờ có thể được tự do với sợ, bản
ngã không bao giờ có thể tự do với sợ. Do đó những người
đã trốn vào sa mạc, vào núi non, vào tu viện, vẫn còn sợ hãi,
run rẩy, bởi vì bạn có thể trốn khỏi thế giới nhưng làm sao
bạn trốn khỏi bản tính của bạn được?
Yêu là nhu cầu cơ bản. Bạn có thể trốn khỏi thế giới,
nhưng bạn sẽ vẫn cần thức ăn. Bạn có thể trốn khỏi thế giới;
điều đó không ngụ ý bây giờ không có nhu cầu thức ăn. Và
yêu là thức ăn cho linh hồn, cũng như lương thực là thức ăn
cho thân thể. Người ta không thể né tránh yêu. Nếu người ta
né tránh yêu người ta đang né tránh sự sống. Né tránh yêu
ngụ ý tự tử.
Các thánh nhân của bạn đã tự tử, các tội nhân của bạn
đã tự tử. Theo một cách nào đó họ cả hai là như nhau bởi vì
họ tồn tại ở các cực đối lập.
Các sannyasin của tôi phải siêu việt trên tính cực, cái
đối lập. Người đó phải đi ra ngoài cả hai. Bên ngoài thèm
khát ngụ ý không bao giờ tinh ranh, không bao giờ cố dùng

421
người khác. Điều đó là xấu, điều đó là vô nhân, điều đó là
phi tôn giáo. Điều đó là bạo hành, bạo hành thuần tuý. Kính
trọng người khác như mục đích lên chính người đó là cách
thức của sannyasin. Tránh sự tinh ranh ra.

Vài người đã trúng giải nhất trong kì xổ số quốc gia


bỗng nhiên bị họ hàng và bạn bè vây quanh, những người
trước đây đã bỏ quên mất anh ta. Nhưng anh ta từ chối
không cho họ tiền hay vay tiền.
"Anh bây giờ có nhiều tiền hơn anh sẽ tiêu được," một
người nói. "Sao anh nghiệt ngã thế?"
"Tôi có hai lí do chính đáng," người được vận may giải
thích. "Thứ nhất, tôi ghét họ hàng của tôi, và thứ hai, tôi yêu
tiền của tôi!"

Yêu ai đó ngụ ý kính trọng; nó ngụ ý không khai thác.


Yêu người nào đó ngụ ý cho tình yêu và mọi cái bạn có mà
không có ý tưởng nào về việc nhận được đền đáp lại bất kì
cái gì. Nếu cho dù có một thoáng ý tưởng, một thoáng động
cơ, nó là tinh ranh, nó là thèm khát. Ngay cả yêu cầu biết ơn
là sai. Yêu là có thể chỉ khi bạn yêu chỉ vì yêu.

Một người goá vợ giầu có mời ba con và vợ của họ tới


ăn bữa tối sinh nhật ở nhà ông ta. Khi họ đã ngồi vào bàn
ông ta giải thích tại sao ông ta đã mang tất cả họ tới cùng
nhau.
"Đây là ngày sinh thứ năm mươi tám của bố, như các
con đều biết, và bố định thay đổi di chúc. Bởi vì bố thất
vọng không được làm ông, nên bố sẽ trao 250000 đô la cho

422
đứa cháu trai đầu tiên của bố." Thế rồi ông ta cúi đầu và nói
lời cầu nguyện.
Khi ông ta ngẩng lên ông ta thấy còn mỗi mình ở bàn
ăn.

Đây là cách thức mọi người cư xử lẫn nhau đấy! Tâm


trí họ đầy những thèm khát, tham lam cả nghìn lẻ một lí do,
và họ liên tục gọi mọi điều này là yêu.
Prem Parivartan, nó không phải là bất kì cái gì cá nhân
cho bạn khi sợ yêu hay cảm thấy, "Sao nó khó khăn thế?"
Đấy là vấn đề của mọi người, nhưng điều đó đã được tạo ra
bởi việc ước định lâu dài, ngu xuẩn. Thay vì giúp bạn trở
nên rõ ràng về yêu là gì, thay vì giúp bạn yêu không có động
cơ nào, bạn đã được dạy yêu có động cơ. Bạn đã được dạy
yêu theo cách giả tạo.
Mẹ nói với bạn, "Yêu mẹ đi bởi vì mẹ là mẹ của con,"
dường như yêu là mệnh đề logic: "Bởi vì mẹ là mẹ của con,
do đó con phải yêu mẹ." Và đứa trẻ đáng thương cảm thấy
lúng túng; nó không thể nào hiểu nổi - yêu là thế nào? Bạn
có thể là mẹ hay là bố; điều đó không ngụ ý tình yêu sẽ nảy
sinh không tránh khỏi. Nếu nó nảy sinh tất yếu đối với mẹ,
với bố và anh và chị và họ hàng, thế thì sẽ không có nhu cầu
nói với bất kì ai về yêu mẹ mình, bố mình! Nó không nảy
sinh một cách tự nhiên; nó phải được nuôi dưỡng.
Và đứa trẻ chắc chắn bất lực; nó bắt đầu giả vờ. Nó trở
thành chính khách từ ngay lúc ban đầu - nó bắt đầu học
ngoại giao. Nó trở thành tín đồ của Machiavelli. Nó bắt đầu
giả vờ yêu mẹ bởi vì nó cần mẹ; nó không thể sống sót được
nếu không có mẹ. Nó mỉm cười với bố. Nụ cười đó là giả
tạo; không tới từ tâm nó. Nhưng đây là cách từ ngay ban đầu
tình yêu của nó đã bị đầu độc.

423
Về sau chúng ta nói, "Yêu đi - đó là vợ bạn. Yêu đi -
đây là chồng bạn." Chúng ta nói những điều ngu xuẩn này
cho mọi người: "Yêu đi - bởi vì... do đó..."
Yêu không phải là mệnh đề logic; hoặc nó có đó hoặc
nó không có đó. Nếu nó có đó, giúp phát triển nó; nếu nó
không có đó, chấp nhận điều đó. Không có cách khác.
Nhưng đừng tạo ra hiện tượng giả tạo.
Nhưng người mẹ đã sống không có tình yêu; cô ấy đã
không được chồng yêu. Anh ta yêu cô ấy bởi vì cô ấy là vợ
anh ta, bởi vì anh ta phải yêu; đó là nghĩa vụ xã hội mà anh
ta phải thực hiện, đó là hình thức. Cho nên cô ấy khao khát
tình yêu; cô ấy bắt đầu khai thác đứa trẻ.
Nhiều đàn bà quan tâm tới trẻ nhỏ không phải bởi vì họ
muốn là mẹ mà chỉ bởi vì khai thác đứa trẻ vì tình yêu là dễ
dàng hơn bất kì ai khác, bởi vì nó sẽ tuyệt đối phụ thuộc vào
bạn. Là mẹ là hiện tượng hiếm hoi. Khao khát con cái là
điều hoàn toàn khác; nó không liên quan gì tới việc là mẹ.
Khao khát đó bắt nguồn từ một nguồn hoàn toàn khác.
Làm bố thậm chí còn khó hơn làm mẹ, bởi vì làm mẹ ít
nhất có tính bản năng, sinh học. Bố là phát minh xã hội, thể
chế xã hội. Bố đã được tạo ra, không tồn tại trong tự nhiên;
do đó làm bố chân thực thậm chí còn khó hơn. Nhưng mọi
người đều muốn làm bố - để chứng tỏ tính đàn ông của
mình, để chứng tỏ rằng mình yêu vợ mình, để chứng tỏ rằng
mình có khả năng sinh sản, rằng mình thực sự là đàn ông.
Nhưng đây không phải là những điều có liên quan tới yêu.
Và thế rồi có nhu cầu chi phối trẻ con. Anh ta không chi
phối được vợ - vợ chi phối anh ta. Vợ cho phép anh ta biểu
lộ với thế giới rằng anh ta là người chủ; cô ấy cho phép điều
đó bởi vì cô ấy tự tin về quyền làm chủ của mình đối với
anh ta tới mức cô ấy không bận tâm. Ở bên ngoài anh ta có

424
thể chơi trò chơi là người chồng. Anh ta biết, cô ấy biết, mọi
người khác đều biết, ai là người chủ thực.
Người bố khao khát được làm người chủ; anh ta muốn
chi phối ai đó. Anh ta không thể chi phối được vợ, anh ta
không thể chi phối được sếp ở văn phòng, anh ta không thể
chi phối được bất kì ai. Trẻ con được cần tới; đó là ham
muốn chi phối. Và thế rồi anh ta bắt đầu yêu cầu đứa con,
"Yêu bố đi – bố là bố của con. Con phải yêu!" Dường như
yêu có thể được điều khiển. Mọi thứ thành giả tạo. Đến lúc
bạn là thanh niên, yêu của bạn gần như thành đồ nhựa, nó đã
mất đi tất cả tính tự phát. Nó đã trở thành rất tinh ranh, rất
tính toán.

Hai người đàn bà gặp nhau lần đầu tiên kể từ khi tốt
nghiệp trường phổ thông. Người thứ nhất hỏi, "Cậu xoay xở
sống một cuộc sống được lập kế hoạch tốt chứ?"
"Ồ được!" cô bạn nói. "Đầu tiên mình lấy một nhà triệu
phú, rồi một nghệ sĩ. Đám cưới thứ ba là với một người
giảng đạo còn bây giờ mình lấy người làm dịch vụ lễ tang."
"Mọi cuộc hôn nhân này có liên quan gì tới cuộc sống
được lập kế hoạch tốt?"
"Một vì tiền, hai để phô trương, ba để làm cho sẵn sàng
và bốn là để ra đi!"

Đây là cuộc sống được lập kế hoạch tốt đấy! Nhớ lời
kinh này: "Một vì tiền, hai vì phô trương, ba để sẵn sàng và
bốn để ra đi!" Đây là cách thức mọi người đang sống!

Bạn hỏi tôi, Parivartan: Tôi thích rơi vào yêu...

425
Đó không phải là vấn đề thích. Người ta đơn giản rơi
vào yêu hay người ta không rơi vào yêu! Bạn thích rơi vào
yêu - thế thì điều đó sẽ không xảy ra đâu. Việc rơi không
xảy ra qua thích - bạn đơn giản loạng choạng và bạn rơi!
Bạn đang cố xoay xở việc rơi. Bạn có thể xoay xở được,
nhưng nó sẽ không là việc rơi thực - không gãy xương,
không gì cả! Bạn có thể để tấm nệm Dunlop và bạn ngã lên
nó, nhưng bạn sẽ đơn giản có vẻ ngu xuẩn và không gì khác.
Một chút ít sượng sùng, có thế thôi.

Bạn hỏi: Tôi thích rơi vào yêu, nhưng tôi sợ đàn bà
đẹp...

Chỉ mỗi điều đó dường như là có chút ít thông minh!


Đàn bà đẹp là nguy hiểm, đàn bà xấu là tốt - họ phải tốt chứ.
Rơi vào yêu người đàn bà xấu đi... Đây là một trong những
quan sát của hàng nghìn năm... bất kì khi nào người đàn bà
là đẹp, cô ấy đều không cần chăm nom làm duyên. Đẹp là
đủ rồi, sao cô ấy lại phải có duyên nữa? Cô ấy sẽ khinh
khỉnh! Đàn bà xấu là rất duyên dáng, họ phải vậy, bằng
không ai sẽ rơi vào yêu với họ? Mặt họ, thân thể họ làm cho
bạn cảm thấy muốn tránh xa tới tận cùng thế giới và không
bao giờ nhìn lại - họ phải bù thêm vào đó. Họ bù thêm bằng
duyên dáng, bằng việc rất đáng yêu. Họ trở thành mẹ của
bạn; họ chăm sóc dường như bạn là đứa trẻ nhỏ, họ nuôi bạn
bằng sữa mẹ. Họ trở thành tuyệt đối cần thiết, họ làm cho
bạn hoàn toàn phụ thuộc, để cho bạn có thể dung thứ được
cái xấu của họ.
Parivartan, điều đó chắn chắn bạn đang nói với thông
minh nào đó. Và khi bạn đang nghĩ và lập kế hoạch cho một
cuộc sống được lập kế hoạch tốt, thế thì rơi vào yêu với
người đàn bà xấu đi. Điều đó sẽ khó lúc ban đầu, nhưng thế

426
rồi nó sẽ ngọt ngào theo mọi cách! Và bao giờ cũng nghĩ tới
tương lai đi - đó là cách những người tính toán vẫn làm. Nó
là gì vậy? Chỉ là viên thuốc đắng lúc ban đầu thôi, thế cũng
được, nhưng thế rồi nó rất tốt cho sức khoẻ. Đàn bà xấu là
thuốc, nhưng đàn bà đẹp là ngọt ngào lúc ban đầu và rất
đắng về cuối.
Và đây không phải là lời khuyên của tôi cho bạn; Phật
Gautam cũng nói cùng điều đó - trong hoàn cảnh khác, tất
nhiên. Ông ấy không thể thực thế như tôi đây. Ông ấy nói:
Thế giới này ngọt ngào lúc ban đầu nhưng rất đắng về cuối,
và thế giới kia rất đắng lúc ban đầu nhưng rất ngọt ngào lúc
cuối. Đó là hoàn cảnh khác toàn bộ, nhưng nó có ý nghĩa -
trong hoàn cảnh của bạn nữa.
Đàn bà đẹp có vẻ đẹp và bạn bị cám dỗ, nhưng nhớ các
triết gia lớn có nói rằng cái đẹp là ảo vọng; nó không là gì
ngoài cái trên bề mặt. Khi bạn thấy người đàn bà đẹp bao
giờ cũng nhớ tớ các triết gia lớn: rằng bên trong cô ấy không
là gì ngoài xương, máu, mủ vân vân và vân vân. Để trong
phòng ngủ của bạn một bộ xương, suy ngẫm về nó, và bất kì
khi nào bạn thấy người đàn bà đẹp, phóng chiếu ra bộ xương
này. Điều đó sẽ làm cho bạn hoảng sợ! Và bất kì khi nào
bạn thấy người đàn bà xấu, cảm thấy từ bi đi - từ bi là tốt, nó
là sự phục vụ vĩ đại. Thực ra nó đang chinh phục thế giới
đấy! Rơi vào yêu với người đàn bà xấu là thành thánh nhân
đấy, và phần thưởng của bạn sẽ lớn lao. Cô ấy sẽ duyên
dáng với bạn, và bao giờ cũng duyên dáng với bạn.
Vấn đề duy nhất là, Parivartan này, ở đây bạn sẽ không
tìm ra đàn bà xấu. Bằng cách nào đó đàn bà xấu không rơi
vào yêu với tôi, thế mới rắc rối chứ! Cho nên bạn ở sai chỗ
rồi.

427
Một người bán dạo một lần thấy mình ở trong một cơn
giông cực lớn gần một cây cầu ọp ẹp đâu đó bên trong nội
địa. Vì anh ta không thể nào lái xe được nữa nên anh ta ra
khỏi xe và đi tới một trang trại gần nhất. Một ông già ra trả
lời ngay cửa.
"Xin ông cho phép tôi nghỉ lại đêm nay?" người bán
hàng hỏi.
"Được, anh có thể ở lại đây," người nông dân nói,
"nhưng anh sẽ phải ngủ với con trai tôi."
"Con trai ông á?"
"Phải rồi."
"Xin lỗi ông," người bán hàng nói, "tôi phải vào nhầm
chuyện cười rồi!"

Parivartan, bạn ở đây trong chuyền đùa nhầm rồi; bạn


sẽ phải tìm chuyện cười đúng cho bản thân bạn. Ở đây bạn
sẽ không tìm thấy đàn bà xấu đâu; điều đó sẽ là khó đấy.

Bạn nói: Tôi thích rơi vào yêu, nhưng tôi sợ đàn bà
đẹp, và do vậy sợ yêu, và tôi không biết tại sao.

Không có gì mấy để biết trong đó; nó rất đơn giản và


hiển nhiên. Nó không phải là cái gì đó lớn lao để suy tư.

Anh ta: "Em đã bao giờ yêu bất kì ai nhiều như em yêu
anh chưa, Mary?"
Cô ta: "Không đâu, John. Em đôi khi có ngưỡng mộ đàn
ông vì dáng vẻ hay thông minh hay tiền bạc của họ. Nhưng
với anh, John này, đó là tất cả yêu - không gì khác."
428
Vào bữa trưa một người đàn bà nói với bạn cô ấy, "Tôi
không biết phải làm gì. Đêm hôm nọ tôi mơ rằng John đã ăn
trưa với cô tóc vàng nào đó, và họ cười nói với nhau."
"Ồ, lạy Chúa, Helen!" bạn cô ta phản đối. "Đấy chỉ là
giấc mơ ngu xuẩn mà thôi."
"Chỉ là giấc mơ," người kia lặp lại. "Nhưng nếu anh ấy
làm những điều như vậy trong giấc mơ của tôi, chị có thể
hình dung anh ấy phải làm gì trong giấc mơ của anh ấy
không?"

Sợ là tự nhiên bởi vì đàn bà ngụ ý sự bắt đầu của thế


giới; đàn bà ngụ ý sự bắt đầu của rắc rối. Trước đàn bà
không có thế giới và sau đàn bà không có thế giới. Trước
đàn bà là mọi bóng tối, sau đàn bà là mọi ánh sáng. Nhưng
giữa hai điều này là vấn đề, và mọi người phải đi qua nó.

Bà vợ sùng sục lục soát khắp áo vét của ông chồng vì


nghe nói điều gì đó không khéo khi người bạn nào đó gọi
điện. "Và đừng ngồi đực ra đấy," bà ta tiếp tục the thé, "lại
còn chìa nắm đấm trong túi vào tôi nữa kia!"

Trong số những vật được trưng bày tại Thư viện


Vatican có hai cuốn Kinh Thánh để cạnh nhau: một cuốn to
khổng lồ dầy quãng trên nửa mét, cuốn kia là cuốn tí hon bé
hơn ba centimét vuông.
Một trong những người hướng dẫn nói với khách thăm:
"Cuốn Kinh Thánh lớn này chứa đủ mọi thứ Eve đã nói với

429
Adam, còn cuốn bé này chứa mọi thứ Adam đã nói với
Eve."

Tôi không thể thấy được tại sao bạn lại không hiểu - nó
hiển nhiên thế! Mọi người bao giờ cũng sợ đàn bà bởi lẽ đơn
giản là đàn ông vận hành qua cái đầu và đàn bà vận hành
một cách trực giác. Họ không thể đồng ý về bất kì cái gì;
không có khả năng của đồng ý. Đàn bà nhảy luôn vào kết
luận, và rắc rối là cô ấy hầu như bao giờ cũng đúng! Còn
đàn ông đi quá quá trình logic rất dài, gian nan để đạt tới kết
luận, và lại nữa, gần như bao giờ anh ta cũng sai.
Cho nên tranh đấu với đàn bà - điều đó ngụ ý yêu đàn
bà - bạn chịu số thua rồi, bạn nhất định thất bại. Bạn không
thể thắng được với một luận cứ bởi vì cách thức tranh cãi
của cô ấy khó xử thế. Bạn muốn cô ấy ngồi xuống bàn và
thảo luận bình thản, còn cô ất bắt đầu kêu khóc và ném mọi
thứ. Bây giờ bạn không biết phải làm gì! Chính tiền của bạn
cô ấy đang phá huỷ đi cho nên bạn không thể ném các thứ
khác được bởi vì điều đó đơn giản sẽ là ngu xuẩn. Và cả
ngày bạn trở về nhà đã bị thế giới hành hạ rồi, bạn muốn
những khoảnh khắc an bình nào đó, còn cả ngày cô ấy đã
sẵn sàng, luyện tập. Cô ấy sẵn sàng tranh đấu! Bạn về nhà
hoàn toàn bị thất bại, và cô ấy tươi tắn và sẵn sàng chiến
trận. Bây giờ làm sao bạn có thể thắng được? Và bạn không
muốn tranh đấu chút nào, bạn muốn được bỏ lại một mình
để đọc báo, và cô ấy ném báo của bạn đi.
Cô ấy không thể dung thứ cho bất kì cái gì bạn làm -
ngoại trừ Thiền Động. Điều đó tới rất gần - điều đó làm cho
đàn bà sợ. Tôi đã phát minh ra Thiền Động cho đàn ông
đáng thương đấy: ít nhất một cách phòng thủ! Bạn có thể
đơn giản hét và nhảy và bắt đầu kêu hu-hu, và điều đó cô ấy
sẽ hiểu. Cô ấy sẽ bình thản và cô ấy sẽ bắt đầu đồng ý với
430
bạn; bằng không cô ấy sẽ tạo ra rắc rối. Đó là một trong
những phương pháp nữ tính cổ đại - tất nhiên cô ấy không
bao giờ gọi nó là thiền. Tôi gọi nó là thiền, để cho nó mầu
sắc tôn giáo thôi!
Prem Parivartan, cho nên đây là vài manh mối cho bạn.
Nếu bạn muốn cuộc sống an bình, tìm người đàn bà chất
phác và vợ bạn sẽ an bình - tất nhiên không có niềm vui.
Bạn không thể có cả hai đồng thời được. Nó sẽ là an bình,
hoàn toàn an bình, nhưng sẽ không có cực lạc trong nó. Nó
sẽ dường như bạn đã chết rồi; sẽ không có kích động. Nó sẽ
tẻ nhạt, tựa như lốp xì hơi,mắc kẹt vào một chỗ, ngồi im
lặng không làm gì, xuân tới và cỏ không tự nó mọc lên. Làm
sao cỏ có thể mọc lên được dưới cái lốp bẹp kia chứ? Điều
đó là không thể được! Bạn có thể cứ ngồi đấy và chờ đợi,
xuân sẽ tới rồi lại đi... Đó là khả năng thứ nhất.
Thứ hai là: nhận lấy rủi ro, rơi vào yêu với người đàn bà
đẹp. Sẽ có kích động lớn, cực lạc, nhưng sẽ có rắc rối nữa.
Cõi trời và địa ngục tới cùng trong một gói mà. Bạn sẽ có
vài khoảng khắc cõi trời, nhưng chúng đáng giá - vì mọi địa
ngục sẽ theo sau, chúng cũng đáng giá. Và chúng sẽ dạy cho
bạn bài học. Đó là cách người ta cuối cùng trở thành vị phật.
Không có đàn bà chắc sẽ không có chư phật; về điều đó tôi
tuyệt đối chắc chắn. Sẽ không có tôn giáo, không chư Phật,
không Mahaviras. Chính bởi vì đàn bà.
Nhiều đàn bà hỏi tôi câu hỏi, "Sao đàn bà đã không trở
nên chứng ngộ?" Làm sao họ có thể trở nên chứng ngộ
được? Ai sẽ hướng họ tới việc trở nên chứng ngộ? Đó là vấn
đề đấy. Họ hướng đàn ông tới trở nên chứng ngộ. Không
tìm ra cách nào khác trong cuộc sống, anh ta trở nên chứng
ngộ. Điều đó là đơn giản! Tôi đã không trả lời điều đó là có,
nhưng hôm nay tôi nghĩ tốt hơn cả là nói điều đó và giải
quyết nó vĩnh viễn. Đừng bao giờ hỏi lại tôi, "Sao đàn bà

431
không trở nên chứng ngộ?" Không có nhu cầu! Chức năng
của họ là làm cho mọi người được chứng ngộ - lái họ tới
phát khùng - cho nên sớm hay muộn họ bắt đầu thiền, sớm
hay muộn họ muốn được bỏ lại một mình. Họ được kết
thúc! Mơ của họ bị tan tành, họ bị vỡ mộng. Đó là công
trình lớn của đàn bà; toàn thể công lao thuộc về đàn bà.
Phật, Mahavira, Lão Tử và Trang Tử, họ là có thể chỉ
bởi vì đàn bà đã liên tục ép buộc họ: hoặc trở nên chứng ngộ
hoặc phát điên! Và họ đã quyết định trở nên chứng ngộ. Họ
nói, "Tốt hơn cả là trở nên chứng ngộ." Điều tốt là trải qua
trải nghiệm này.
Cho nên, Parivartan này, chọn lấy một người đàn bà
đẹp và rơi vào yêu toàn tâm đi... đừng giữ lại bất kì cái gì.
Bạn càng yêu sâu sắc, bạn càng sớm được tự do khỏi nó.
Bạn càng đi vào nó một cách đam mê, bạn càng nhanh
chóng bước ra khỏi nó.

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Trong bài nói ngày hôm qua thầy đã nói về công
việc của Thầy: giữ cho đệ tử của mình khỏi lắng
đọng vào ít hơn "tự do khỏi cái ngã".
Ở phương Tây, nhiều điều đã được thực hiện về
kinh nghiệm rằng "Cái này là nó," rằng không cái
gì có thể khác hơn cái đang vậy - ngay bây giờ!
Đây có phải là kinh nghiệm về mỏ đồng không?
Làm sao có thể có bất kì cái gì khác được?

432
Deva Sambuddha,
Tôi cũng nói cái này là nó đấy, nhưng khi tôi nói cái
này là nó đấy, điều đó có nghĩa hoàn toàn khác. Nó không
phải là cùng phát biểu như nó đã được đưa ra ở phương Tây
đâu. Phát biểu này trong chính nó không có nghĩa của riêng
nó; nghĩa tới qua kinh nghiệm của bạn.
Con người có thể sống ở những bình diện khác nhau.
Khi Phật Gautam nói "Cái này là nó đấy!" ông ấy đang dùng
cùng những từ như bạn dùng. Từ đích xác là như nhau và
nghĩa từ điển cũng là như nhau, nhưng nghĩa mang tính tồn
tại là khác toàn bộ; nó thậm chí có thể đối lập hẳn lại với
nghĩa của bạn.
Ở phương Tây điều đã trở thành thời thượng là nói rằng
cái này là tất cả, sống ngay bây giờ là mọi điều có đó.
Nhưng những người nói điều đó không có ý tưởng nào về
tính thiền, không có ý tưởng nào về im lặng tuyệt đối, nhận
biết vô ý nghĩ, họ đã không trải nghiệm việc chứng kiến. Do
đó điều họ nói - "Cái này là nó đấy" - không là gì có ý nghĩa
hơn tâm trí họ.
Cho nên nếu tâm trí bạn đầy những thèm khát, "Cái này
là nó đấy"của bạn sẽ chỉ là thèm khát và không gì khác. Nếu
tâm trí bạn đầy những tham lam, đầy những giận dữ, đầy
những ghen tị, làm sao nó có thể có cùng nghĩa như nó có
khi Trang Tử nói "Cái này là nó đấy" được? Nó không thể
nào có cùng nghĩa được. Nghĩa tới từ người đó, sự hiện diện
của người đó, việc nhận ra của người đó.
Phương Tây đã lấy lời nói rập khuôn từ phương Đông.
Bây giờ Thiền đã trở nên rất thời thượng ở phương Tây,
không phải là phương Tây có năng lực hiển Thiền. Thiền,
chính từ "Zen", bắt nguồn từ dhyana. Phật bản thân ông ấy
không bao giờ dùng tiếng Phạn; ông ấy là người chứng ngộ

433
đầu tiên ở Ấn Độ dùng ngôn ngữ của dân chúng. Đó là một
trong những điều làm cho giới tăng lữ, giới brahmins của
Ấn Độ, là đối kháng với Phật. Trong số nhiều điều, đó là
một trong những điều chính, bởi vì các tu sĩ của Ấn Độ bao
giờ cũng dùng tiếng Phạn là ngôn ngữ của họ, nó là tài sản
sở hữu riêng của họ. Và chỉ những người thông thái có thể
hiểu nó; quần chúng hoàn toàn dốt nát về nó. Do đó điều đã
được viết trong kinh sách chỉ được vài tu sĩ biết tới, và tất
nhiên qua tri thức đó họ có quyền lực. Và họ không bao giờ
muốn điều đó được quần chúng biết tới, bằng không quyền
lực của họ sẽ bị mất, những quyền lợi được đầu tư của họ sẽ
bị phá huỷ.
Phật là người đầu tiên làm nổ tung toàn bộ cơ ngơi của
họ. Ông ấy đã dùng ngôn ngữ của nhân dân; ngôn ngữ của
nhân dân trong thời Phật là tiếng Pali. Trong tiếng Pali,
dhyana được phát âm là jhana. Bởi vì Phật đã dùng từ jhana
nên nó đã đổi mầu sắc. Khi nó lan tới Trung Quốc qua Bồ
đề đạt ma nó trở thành ch'an, bởi vì trong chữ Trung Quốc
jhana không thể được viết ra; trong tiếng Trung Quốc không
có bảng chữ cái. Chữ Trung Quốc là ngôn ngữ hình ảnh, cho
nên hình ảnh gần nhất họ có mà có thể diễn đạt từ jhana là
ch'an hay ch'ana.
Và từ Trung Quốc nó lan tới Nhật Bản. Họ dùng cùng
ngôn ngữ hình ảnh, nhưng phát âm của họ là khác. Trong
tiếng Nhật Bản nó trở thành Zen; theo một cách nào đó nó
quay lại chỗ xuất phát. Nó tới gần hơn với jhana của Phật;
nó trở thành Zen.
Bây giờ phương Tây đã không hiểu nó tất cả là gì,
nhưng Zen có sức hấp dẫn bởi lẽ đơn giản nó rất ngớ ngẩn,
phi logic, ngược đời. Và phương Tây đã trở nên chán ngán
với các triết lí logic - với Kant, Hegel, Fichte, Bertrand
Russell, Wittgenstein - nó đã trở nên chán ngán. Từ

434
Aristotle tới Wittgenstein, hai nghìn năm của tư duy logic đã
không dẫn tới đâu ngoại trừ tới một điểm mà phương Tây
cảm thấy rằng cuộc sống là tuyệt đối vô nghĩa và ngẫu
nhiên. Bây giờ đây là đúng tình huống cho bất kì triết lí phi
logic nào trở thành thời thượng.
Hội hoạ phương Tây đã trở nên phi logic. Bạn có thể
thấy nó trong Picasso, Dali, Cezanne và các hoạ sĩ khác: hội
hoạ đã trở thành tuyệt đối phi logic, ngớ ngẩn. Thơ ca đã trở
nên phi logic - Ezra Pound và những người khác. Bạn có thể
đọc nó, nhưng bạn sẽ không tìm thấy nghĩa nào trong nó.
Các tiểu thuyết, các vở kịch, mọi dạng nghệ thuật khác đều
tới điểm rẽ ngoặt; chúng đã trở thành rất phi logic. Cái phi
logic này là kết quả của hai nghìn năm nỗ lực logic mà đã
hoàn toàn thất bại: nó đã không đưa ra được ý nghĩa và
nghĩa nào cho cuộc sống con người.
Trong cùng dòng chảy cuồn cuộn của điều phi logic,
Zen cũng đã trở nên có ảnh hưởng, nhưng lí do cho ảnh
hưởng của nó là khác toàn bộ. Không phải là phương Tây đã
trải nghiệm thiền - đơn giản chỉ là phản ứng chống lại logic
mà Zen đã trở thành hấp dẫn lớn. Những giai thoại vô lí,
những cuộc đời vô lí của các Thiền sư - dường như có sức
hấp dẫn bởi vì nó không có kết cấu logic.
Một Thiền sư vĩ đại, Lương Khoan, nổi tiếng ở Nhật
Bản là Đại Ngu - một Thầy vĩ đại, với cùng tầm cỡ như
Phật, nổi tiếng là Đại Ngu bởi lẽ đơn giản cả đời ông ấy là
vô lí, không thể dự đoán được. Nếu bạn hỏi ông ấy một câu
hỏi ông ấy có thể đánh vào đầu bạn; nếu bạn không hỏi ông
ấy câu hỏi nào ông ấy cũng có thể đánh đầu bạn. Ông ấy hay
nói, "Cứ hỏi ta câu hỏi là ta sẽ đánh ông; không hỏi ta câu
hỏi nào ta cũng đánh ông!" Ông ấy hay ném các đệ tử của
mình...

435
Một lần ông ấy chặt một ngón tay của đệ tử bằng con
dao, và khi ngón tay bị chặt rồi và đệ tử đang trong đau đớn
sâu sắc, ông ấy nói, "Cái này là nó đấy!" Và trong khoảnh
khắc đó đệ tử này trở nên chứng ngộ - bởi vì anh ta đã thiền
trong hai mươi năm. Đừng quên hai mươi năm đó! Ở
phương Tây hai mươi năm đó đã hoàn toàn bị quên mất. Hai
mươi năm đó đã đem tới cực đỉnh này. Vào đúng lúc Thầy
cho cú đẩy cuối cùng. Thầy muốn đem anh ta về hiện tại, và
việc chặt ngón tay là đau tới mức bạn không thể nghĩ được
tới quá khứ, bạn không thể nghĩ được tới tương lai, bạn
không thể tưởng tượng thêm nữa. Trong một khoảnh khắc
mọi thứ dừng lại. Điều đó cũng giống như cú sốc điện - bạn
đột nhiên ở đây bây giờ. Nhưng hai mươi năm thiền đó đã
tạo ra phẩm chất khác: cú sốc trở thành việc tỏ ngộ satori.
Chỉ bằng việc chặt đi ngón tay của ai đó, bạn không thể làm
cho người đó chứng ngộ được, nhưng Lương Khoan đã làm
phép màu.
Lương Khoan đã sống theo cách mà bất kì ai đều sẽ gọi
ông ấy là kẻ ngu, thằng khờ, và ông ấy thích thú lắm với từ
"kẻ ngu"; bản thân ông ấy hay tự gọi mình là kẻ ngu. Ông ấy
sẽ quên áo choàng của mình, sẽ đi ra bãi chợ trần trùng trục
- với mỗi đôi giầy thôi! Ông ấy sẽ quên hết mọi thứ.
Ông ấy đã viết ra một danh sách những thứ ông ấy phải
mang theo khi đi ra ngoài, và ông ấy đã dán danh sách này
lên cửa để cho ông ấy có thể nhìn thấy danh sách này, thấy
những điều ông ấy phải mang theo: thiền trượng, áo choàng,
giầy dép, mũ mão. Và thậm chí cả điều này cũng đã được
viết ra: "Chỗ ông phải đội mũ - là trên đầu." Bằng không
ông ấy sẽ quên, ông ấy có thể đội giầy lên đầu! Nhưng dầu
vậy điều đó vẫn liên tục tiếp diễn - bởi vì ông ấy sẽ quên
đọc danh sách này.

436
Lương Khoan này đã giúp cho nhiều người trở nên
chứng ngộ. Cách thức phi logic của ông ấy, những phương
pháp vô lí của ông ấy đã chứng tỏ cực kì giúp ích. Bây giờ ở
phương Tây mọi người sẽ yêu mến Lương Khoan; họ sẽ
cảm thấy thoải mái với ông ấy. Họ chán ngán với Aristotle.
Aristotle đã trở thành "Aristotlitis" - bệnh dịch lớn! Họ
không muốn làm gì với Aristotle nữa; họ muốn cái gì đó
sống động hơn, cái gì đó ngược đời hơn bởi vì sự sống là
ngược đời; nó không logic.
Nhớ điều đó, rằng sự sống không logic và không thể
được hiểu chỉ bằng logic. Sự sống là nhiều hơn logic nhiều
lắm, là lớn hơn logic nhiều lắm. Nó không mang tính số
học. Cho nên có những bình diện cần hiểu.
Phương Tây chưa có khả năng ở đây bây giờ; nó chỉ
nghe nói về từ này. Và có những động cơ khác nhau tại sao
thanh niên phương tây, đặc biệt là thế hệ mới, đã trở nên mê
mải với những thứ như Thiền. Chiến tranh thế giới thứ ba
đang tụ tập quanh đây. Sự sống dường như rất mỏng manh;
nó không bao giờ như thế trước đây. Chiến tranh bao giờ
cũng đã có đó rồi - trong ba nghìn năm chúng ta đã tham gia
năm nghìn cuộc chiến tranh - cho nên chiến tranh không
phải là điều mới, nhưng cái gì đó mới đã xảy ra. Chiến tranh
thế giới lần thứ ba sẽ là cuộc chiến tranh cuối cùng, nó sẽ là
chiến tranh toàn bộ. Nó sẽ phá huỷ không chỉ nhân loại mà
mọi sự sống trên trái đất. Và mây đang trở nên ngày một
đen tối hơn và tới ngày một gần hơn mọi ngày. Nó đang tạo
ra nỗi sợ lớn lao. Thế hệ mới phương tây đang thẫn thờ.
Và bây giờ bởi vì thế giới có thể chấm dứt, toàn thể
tương lai chấm dứt, Thiền dường như thành hấp dẫn: sống ở
đây và sống bây giờ bởi vì không có tương lai. Ngày mai có
thể không bao giờ tới. Đây là lí do khác toàn bộ cho điều tại
sao phương Tây đã trở nên quan tâm tới ngay bây giờ.

437
Sambuddha, điều này phải được ghi nhớ: động cơ là
khác nhau. Các nhà huyền bí phương đông, từ Phật tới
Lương Khoan, đã nói về cái đẹp của ở đây-bây giờ vì những
lí do hoàn toàn khác. Không phải là không có tương lai - có
tương lai vô hạn, vĩnh hằng - nhưng tương lai không bao giờ
tới. Tất cả cái tới là bây giờ; bây giờ là thực tại duy nhất.
Khi tương lai tới, nó cũng tới dưới dạng của bây giờ. Khi
ngày mai tới nó sẽ tới như hôm nay, cho nên bạn phải học
nghệ thuật của hiện hữu ở đây, sống hôm nay, bởi vì ngày
mai sẽ tới nhưng nó cũng sẽ là hôm nay khác. Và nếu bạn
biết cách sống ngày này thì bạn sẽ biết cách sống ngày mai
sẽ tới. Đây là cái nhìn khác toàn bộ.
Đây là bốn bình diện phải được hiểu. Thứ nhất là thân
thể. Trên bình diện thân thể, người ta sống bị đồng nhất với
thân thể, nếu người đó nói, "Cái này là nó đấy," người đó sẽ
chỉ ngụ ý thức ăn và dục và không cái gì khác. "Cái này là
nó đấy" của người đó sẽ chỉ chứa hai thứ, thức ăn và dục,
mà cũng không phải là rất khác nhau. Thức ăn là cái nuôi
dưỡng cho bạn; bạn không thể sống được nếu thiếu thức ăn.
Và dục là việc nuôi dưỡng cho các thế hệ sắp tới; họ không
thể tồn tại được nếu thiếu dục. Dục của bố mẹ bạn đã tạo ra
bạn, dục của bạn sẽ tạo ra con cái bạn. Xã hội cần dục như
thức ăn; nó là thức ăn, nó là sự sống còn cho xã hội, cũng
như thức ăn là sự sống còn của bạn.
Thức ăn và dục được gắn liền sâu sắc. Do đó điều bao
giờ cũng xảy ra là nếu ai đó bắt đầu kiểm soát dục, trở thành
độc thân, người đó sẽ bắt đầu ăn nhiều hơn; người đó sẽ
thay thế dục tình của mình bằng thức ăn. Điều đó gần như
bao giờ cũng xảy ra khi đàn bà lấy chồng họ bắt đầu trở nên
béo hơn, bởi lẽ đơn giản là trước hôn nhân họ quan tâm tới
dục, sau hôn nhân họ trở nên chán ngán nó. Họ bắt đầu cảm
thấy dường như đàn ông đang khai thác thân thể họ. Họ đi

438
vào việc đó một cách miễn cưỡng, nhưng họ chán ngán. Thế
rồi mối quan tâm của họ đổi sang thức ăn.
Và những người tự bỏ đói mình vì bất kì lí do nào - có
thể là thiên nhiên liệu pháp, ăn kiêng, hay lí do tôn giáo nào
đó, nhịn ăn - những người sẽ tự bỏ đói mình sẽ trở nên đầy
những phóng túng dục. Do đó các sư Jain có nhiều phóng
túng dục hơn bất kì ai khác, bởi vì việc nhịn ăn. Đó là thay
đổi tự nhiên: năng lượng của họ bắt đầu di chuyển từ cực
này sang cực khác.
Sambuddha, bất kì ai chỉ biết thân thể mình, "cái này là
nó đấy" của người đó đơn giản ngụ ý thức ăn và dục. Đó là
điều đang xảy ra trong các viện như Esalen - thức ăn và dục.
Đó là điều đang xảy ra ở khắp nước Mĩ. Sambuddha tới từ
Mĩ.
Bình diện thứ hai là tâm trí. Với thức ăn và dục bạn có
thể có hoan lạc và đau đớn. Ở mức độ thân thể, nếu thân thể
bạn được thoả mãn, bạn sẽ có cảm giác hoan lạc; nếu nó
không được thoả mãn bạn sẽ cảm thấy đau đớn. Hiện tượng
thứ hai ở trên thân thể là tâm trí. Tâm trí đi cao hơn một
chút so với hoan lạc; nó bắt đầu trải nghiệm hạnh phúc và
bất hạnh. Với thân thể chỉ có hai thứ, thức ăn và dục, chỉ hai
chiều; với tâm trí có nhiều chiều. Tâm trí mở ra một thế giới
lớn hơn: âm nhạc, thơ ca, hội hoạ, múa, vân vân và vân vân.
Nó mở ra nhiều chiều; bạn có thể tận hưởng nhiều hơn.
Với bình diện thứ nhất bạn giống như con vật; "cái này
là nó đấy" của bạn sẽ không là gì ngoài tính thú vật. Với
bình diện thứ hai, nếu bạn biết rằng bạn là nhiều hơn thân
thể, cao hơn thân thể, bạn sẽ có nhiều chiều, giầu có hơn.
Bạn trở thành con người, bạn vươn lên trên con vật. Khi bạn
nói, "Cái này là nó đấy," bây giờ nó sẽ là âm nhạc, thơ ca,
hội hoạ, múa; nó sẽ có nghĩa hoàn toàn khác.

439
Trên bình diện thứ ba là hồn, cái ngã. Với thân thể có
hai chiều; với tâm trí, nhiều chiều, tính nhiều; với hồn chỉ
còn tính một, và đó là thiền. Bạn sẽ biết nghĩa thực của "cái
này là nó đấy" chỉ khi bạn đạt tới điểm thứ ba này.
Và với bình diện thứ tư... Ở phương Đông chúng ta đã
gọi nó là cái thứ tư, đơn giản là "thứ tư", turiya; chúng ta đã
không cho nó cái tên nào bởi vì không tên nào là có thể
được, nó là không diễn đạt nổi. Với cái thứ tư, turiya, không
có hai, không có nhiều, không có một. Bạn có thể gọi nó là
cái toàn thể hay cái không. Phật hay dùng từ "cái không",
Isa Upanishad dùng từ "cái toàn thể"; chúng ngụ ý cùng một
điều. Số không tượng trưng cho cả hai, không có gì và cái
toàn thể. Đây là trạng thái của phúc lạc, cực lạc.
Trên mức độ thân thể hoan lạc được đối lập với đau
đớn; trên mức độ tâm trí hạnh phúc được đối lập với bất
hạnh; trên mức độ hồn vui được đối lập với khổ. Nhưng ở
mức độ thứ tư, phúc lạc không bị đối lập bởi bất kì cái gì;
phúc lạc không có cực đối lập với nó.
Chỗ bạn hiện hữu trên bốn bình diện này sẽ tạo ra khác
biệt. Khi tôi nói, "Cái này là nó đấy," tôi đang nói từ bình
diện thứ tư. Và khi ở Mĩ, trong các viện như Esalen, mọi
người đang nói về "cái này là nó đấy," họ đang nói về bình
diện thứ nhất, thân thể.

Bạn hỏi tôi, ở phương Tây, nhiều điều đã được


thực hiện về kinh nghiệm rằng "Cái này là nó đấy,"
rằng không cái gì có thể khác hơn cái đang vậy -
ngay bây giờ!

Vâng, không cái gì có thể khác hơn cái đang vậy, nhưng
bạn có thể khác. Thế giới vẫn như thế - với Phật, với người
đã chứng ngộ, với người chưa chứng ngộ - nhưng bạn là
440
khác và điều đó tạo ra sự khác biệt. Đó là khác biệt tạo ra
khác biệt. Thế giới vẫn như thế - Phật đi ở đây, bạn đi ở đây,
thượng đế sống ở đây, chó sống ở đây - nó vẫn là cùng thế
giới này thôi. Nhưng bởi vì nhận biết của họ là khác, chiều
sâu và chiều cao của họ là khác, nên "cái này là nó đấy" của
họ cũng sẽ khác nữa, cái bây giờ của họ cũng sẽ khác.
Cho nên khi tôi nói về bây giờ, "cái bây giờ" của tôi
chứa cái này và cái đó cả hai. Khi ở phương Tây mọi người
nói về bây giờ, bây giờ của họ chỉ chứa "cái này".
Nhớ điều Isa Upanishad nói: Cái này là toàn thể. Cái đó
là toàn thể. Cái toàn thể tới từ cái toàn thể, dầu vậy cái toàn
thể vẫn còn lại sau.
Đây là trạng thái thứ tư, turiya, trạng thái tối thượng mà
bên ngoài nó không cái gì xảy ra. Chừng nào bạn chưa đạt
tới nó, Sambuddha, bạn đang sống trong mỏ đồng thôi. Bạn
phải đi tới mỏ bạc, thế rồi tới mỏ vàng, và rồi tới mỏ kim
cương, và rồi tới cõi bên kia.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Cái gì sẽ là điều tốt nhất để làm nếu như thầy
điên?

Virendra,
Đổi tâm trí bạn đi!

441
Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi,
Tôi đã lấy lời thề vẫn còn vô dục cả đời tôi, nhưng
sao tôi vẫn phải chịu đựng các ý nghĩ, tưởng tượng
và mơ về dục?

Swami Nityananda Giri,


Điều đó là tự nhiên thôi - đấy là vì lời thề của bạn.
Không ai có thể thay đổi được sự sống của mình bằng ép
buộc. Lời thề đơn giản là hành động bạo hành chống lại bản
thân bạn. Nó sẽ chỉ kìm nén dục của bạn, và cái bị kìm nén
sẽ trả thù; nó sẽ tới đi tới lại mãi. Bạn sẽ đẩy nó từ cửa này,
nó sẽ đi vào từ cửa khác. Bạn không thể gạt bỏ được nó dễ
dàng thế, rẻ thế.
Mới hôm nọ, Morarji Desai đã tiết lộ rằng khi ông ấy
còn là thủ tướng ông ấy đã tới thăm một hộp đêm ở Canada,
chỉ để xem cái gì đang diễn ra ở đó. Bây giờ, tại sao ông ấy
phải quan tâm tới hộp đêm? Và bất kì cái gì diễn ra ở đó, tại
sao ông ấy quan tâm tới nó? Vào độ tuổi tám mươi hai! Và
ông ấy đã giữ điều đó như một bí mật mãi cho tới giờ; ông
ấy không bao giờ tiết lộ điều đó trước đây.
Bản năng dục bị kìm nén sẽ ám ảnh bạn tới tận cuối đời
bạn. Ngay cả khi bạn sắp chết bạn sẽ vẫn có những hình ảnh
tưởng tượng dục.
Swami Nityananda Giri, vẫn còn thời gian đấy - nhận
biết đi! Sự sống không bao giờ bị thay đổi bởi lời thề, sự
sống được thay đổi bởi nhận biết. Đừng bao giờ lấy lời thề;
lời thề đơn giản ngụ ý bạn đang ép buộc cái gì đó lên bản

442
thân bạn. Cố hiểu đi. Khi có hiểu biết, không cần lấy lời thề;
hiểu biết của bạn là đủ. Bạn thấy cái gì đó sai và nó rơi rụng
đi.
Việc thấy là đủ, việc hiểu là đủ; không cần kỉ luật nào
khác. Bất kì khi nào bạn cần kỉ luật nào đó điều đó ngụ ý
hiểu biết của bạn bị thiếu, cái gì đó bị thiếu trong hiểu biết
của bạn. Bạn đang cố bù lại hiểu biết của mình bằng việc lấy
lời thề, nhưng chính việc lấy lời thề chỉ ra rằng bạn sợ bản
năng dục của bạn. Thế thì nó sẽ tới, thế thì nó nhất định tới.

Và bây giờ bạn hỏi tôi: sao tôi vẫn phải chịu đựng
các ý nghĩ, tưởng tượng và mơ về dục?

Bạn phải đang hi vọng rằng bằng việc lấy lời thề mọi
điều này sẽ chấm dứt. Chính lời thề của bạn đang gây ra
điều đó đấy! Nếu bạn đã sống cuộc sống tự nhiên, nếu bạn
đã trải qua thế giới này và tất cả kinh nghiệm của nó về tốt
và xấu, hoan lạc và đau đớn, bạn sẽ học được điều gì đó;
bạn sẽ đi ra khỏi thế giới này với hiểu biết.
Nhưng trong hàng thế kỉ cái gọi là các thánh nhân đã lệ
thuộc vào bạo hành. Họ nói về bất bạo hành, nhưng họ liên
tục làm điều bạo hành với bản thân bạn.

"Em ốm yếu và mệt mỏi vì bị bỏ một mình vào các


ngày nghỉ cuối tuần," bà vợ người chơi golf lầu bầu vào bữa
sáng thứ bảy. "Nếu anh nghĩ anh lại đi chơi hôm nay..."
"Vô nghĩa thế, em," người chồng ngắt lời, với lấy chiếc
bánh mì. "Chơi golf là điều cao xa nhất trong tâm trí anh.
đưa cho anh gậy chơi golf đi."

443
Nếu bạn ép buộc mọi thứ chúng sẽ bùng phát, chúng sẽ
quay lại.

Một ông già bẩy mươi tuổi đi tới bác sĩ khám bệnh.
"Tôi đã hành nghề trong hai mươi nhăm năm nay," bác
sĩ bảo ông ta, "và tôi không bao giờ nghe nói tới lời phàn
nàn như vậy. Ông ngụ ý gì, tính đàn ông của ông quá cao là
sao?"
Người thọ bẩy mươi thở dài. Chỉ vào đầu mình, ông ta
nói, "Tất cả là tại tâm trí tôi."

"Tính đàn ông đã lên quá cao - tất cả là tại tâm trí tôi."
Bây giờ, Nityananda Giri, bạn đã lấy lời thề. Bản năng
dục của bạn bị kìm nén ở trung tâm tự nhiên của nó: nó đã
lên tới đầu bạn, và điều đó là nguy hiểm hơn nhiều bởi vì nó
sẽ đầu độc đầu bạn. Bây giờ trong mơ, trong ý nghĩ, trong
tưởng tượng nó sẽ tới.
Cứ nhịn ăn một ngày đi và bạn sẽ thấy điều tôi ngụ ý -
bạn sẽ nghĩ tới thức ăn cả ngày. Thông thường bạn không
nghĩ về thức ăn chút nào; thức ăn không phải là vấn đề. Khi
bạn cảm thấy đói bạn ăn, và thế rồi tất cả được quên đi.
Nhưng nhịn ăn, và bỗng nhiên thức ăn trở thành nỗi ám ảnh
bạn. Đó là sự kiện tâm lí đơn giản.
Nhưng người tôn giáo đã từng thực sự ngu xuẩn: họ liên
tục phủ nhận những sự kiện đơn giản, và họ bao giờ cũng có
thể hợp lí hoá. Họ sẽ nói, "Đấy là vì các nghiệp xấu của các
kiếp quá khứ của bạn mà, Nityananda Gin, bạn vẫn phải
chịu đựng các ý nghĩ dục." Họ sẽ bảo bạn thực hành yoga,
đứng trên đầu bạn, và đủ mọi thứ vô nghĩa.

444
Tuần trước tôi mới đọc về một người yogi, Dhirendra
Brahmachari, người liên tục biểu diễn các tư thế yoga trên ti
vi. Và ông ta tuần trước mới nói với các khán giả rằng, "Các
bạn có biết làm sao tôi duy trì mạnh khoẻ thế không? Tôi
kéo hậu môn của tôi thẳng lên lên ngay lúc này, nhưng các
bạn không thể thấy nó được bởi vì tôi mặc quần áo." Và thế
rồi ông ấy nói rằng đệ tử của ông ấy, một cô gái ngồi bên
cạnh ông ấy trình diễn tư thế yoga, "Cô ấy cũng giữ hậu
môn của cô ấy ngược lên trên nhưng các bạn không thể thấy
được bởi vì cô ấy mặc quần áo."
Cô gái này phải thẹn đỏ mặt! Điều tốt là Ấn Độ chưa có
ti vi mầu - trong ti vi đen trắng bạn không thể thấy được liệu
cô gái có đỏ mặt hay không. Nhưng thế thì bạn phải làm đủ
mọi loại điều vô nghĩa. Bây giờ kéo hậu môn của bạn lên
trên sẽ đơn giản buộc năng lượng dục của bạn đi vào đầu
bạn; đó chính là điều chủ định của nó là gì. Nó đang cố đem
bản năng dục hướng lên đầu, và bạn sẽ trong nguy hiểm
hơn.
Và đó là chủ định của sirshasana, đứng trên đầu. Đứng
trên đầu bạn, chủ định cơ bản của nó là buộc năng lượng
dục của bạn đi tới đầu bạn. Bởi vì sức hút của trái đất, nếu
bạn đứng trên đầu bạn, tự nhiên năng lượng dục của bạn bắt
đầu di chuyển tới đầu. Nhưng bạn có thể đứng trên đầu được
bao lâu? Sớm hay muộn bạn sẽ phải đứng trên chân bạn.
Và việc làm lộn xộn này xung quanh các trung tâm là
một trong những vấn đề mà mọi tôn giáo đã từng đối diện.
Gurdjieff, một trong những Thầy vĩ đại của thời đại
này, thường nói rằng con người đã trở nên xấu thế bởi lẽ
đơn giản không một trung tâm nào của người đó vận hành
theo cách tự nhiên; mọi trung tâm đều bị nhiễu bởi các trung
tâm khác, chúng tất cả đã trở nên rối rắm. Toàn thể nỗ lực

445
của ông ấy là làm sao gỡ chúng ra, làm sao đem năng lượng
tới từng trung tâm mà thuộc vào nó.
Và đó là nỗ lực của tôi ở đây nữa: đem năng lượng tới
đúng trung tâm, nơi nó thuộc vào. Khi mọi trung tâm của
bạn vận hành một cách tự nhiên bạn sẽ có im lặng sâu sắc
trong bạn, bạn sẽ có hài hoà tinh tế trong con người bạn;
niềm vui sẽ bao quanh bạn.
Nityananda Giri, bạn phải đã sống theo cách thức cũ,
truyền thống; cái tên của bạn chỉ ra điều đó. Giri là một
trong những truyền thống cổ đại nhất của các sannyasin
Hindu; bạn sẽ phải đi ra khỏi nó. Bạn sẽ phải đi ra khỏi sự
chính thống của bạn, ra khỏi những mê tín của bạn.

Một bà cô lớn tuổi tới bác sĩ và phàn nàn rằng giấc ngủ
của bà ấy bị quấy rối bởi những giấc mơ về một thanh niên
thường xuyên theo đuổi bà ấy và ve vãn bà ấy.
Bác sĩ kê ra một số thuốc, nhưng vài tuần sau bà ấy
quay lại.
"Bây giờ có chuyện gì vậy?" ông ta hỏi từ tốn. "Bà đã
ngủ tốt hơn, đúng không?"
"Không," bà ta nói, "Bây giờ tôi không thể ngủ được
bởi vì tôi thấy anh thanh niên đó quá ít!"

Sự sống không thể bị lẩn tránh một cách dễ dàng. Cách


duy nhất để vượt ra ngoài là đi qua nó. Sự sống là cơ hội để
trưởng thành - đừng né tránh nó. Nếu bạn né tránh nó bạn sẽ
vẫn còn bị chậm tiến.
Bây giờ điều đang xảy ra cho bạn không thể xảy ra cho
bất kì ai trong các sannyasin của tôi, điều đó là không thể

446
được - bởi vì các sannyasin của tôi đang sống một cách tự
nhiên, chấp nhận bất kì cái gì Thượng đế trao cho. Ngài biết
rõ hơn bạn. Nếu ngài đã cho bạn bản năng dục, thế thì điều
đó ngụ ý có cái gì đó cần được học qua nó. Nó là năng
lượng sáng tạo của bạn - đừng kìm nén nó. Tinh luyện nó đi,
dĩ nhiên rồi, làm cho nó thành thuần khiết nhất có thể được,
bởi vì chính năng lượng dục của bạn sẽ tạo ra nhiều điều
trong sự sống của bạn.
Đây là sự kiện được biết rõ, rằng các nhà thơ lớn tự
nhiên thấy rằng họ siêu việt trên bản năng dục của họ. Các
hoạ sĩ vĩ đại, vũ công vĩ đại, nhạc sĩ vĩ đại bao giờ cũng thấy
việc đi ra ngoài dục rất dễ dàng - nhưng cái gọi là các sư và
thánh nhân không như vậy được. Họ đã thấy chính cái đối
lập: họ càng cố, họ càng bị vỡ mộng, họ càng đi sâu hơn vào
đống lộn xộn.
Sự kiện này phải được suy tư xem xét. Nhạc sĩ sáng tạo
ra âm nhạc, do đó năng lượng dục của người đó được dùng
theo cách phi dục. Vũ công sáng tạo ra điệu vũ, người đó
không cần tạo ra trẻ con. Người đó trở thành người sáng tạo
ra cái gì đó cao hơn - cần gì tạo ra cái thấp hơn? Ngay cả
con vật có thể tạo ra con cái; điều đó không có gì đặc biệt
cho con người. Thực ra, con vật mang tính sinh sản nhiều
hơn - thậm chí muỗi có thể đánh bại bạn! Điều đó không có
gì đặc biệt với bạn.
Bây giờ có hai cách: hoặc kìm nén dục - như đã được
thực hiện bởi tất cả cái gọi là các truyền thống tôn giáo của
thế giới - hoặc biến đổi nó.
Tôi ủng hộ việc biến đổi, do đó tôi dạy các sannyasin
của tôi mang tính sáng tạo. Sáng tác âm nhạc, sáng tác thơ
ca, sáng tác tranh vẽ, sáng tác đồ gốm, điêu khắc - sáng tạo
ra cái gì đó! Bất kì cái gì bạn làm, làm nó với tính sáng tạo
lớn, đem cái gì đó mới vào sự tồn tại, và dục của bạn sẽ
447
được hoàn thành ở bình diện cao hơn và sẽ không có kìm
nén. Để cho dục của bạn trở thành ngày một nhiều yêu và
ngày một ít thèm khát. Và thế rồi cuối cùng để cho yêu của
bạn trở nên cao hơn một chút - đó là lời nguyện. Thèm khát
là dạng thấp nhất của dục, yêu cao hơn dục, và nguyện là
việc biến đổi tối thượng.
Người mang tính thiền có thể biến đổi bản năng dục của
mình mà không có bất kì đối kháng nào, không có bất kì
xung đột nào. Người đó trong thân thiện sâu sắc với mọi
năng lượng của người đó, dục hay các năng lượng khác;
người đó không trong bất kì tranh đấu nào. Tại sao tranh đấu
với năng lượng riêng của bạn? Yêu chúng, hân hoan trong
chúng, và giúp chúng siêu việt trên các dạng thấp hơn, dạng
con vật. Để chúng đi từ thân thể hướng tới turiya, cái thứ tư.
Đây là quá trình khác toàn bộ. Đó là lí do tại sao tôi bị
phản đối nhiều thế, vì tôi chống lại mọi truyền thống kìm
nén, mọi cái gọi là đạo đức, những cái ngu xuẩn khắt khe
đạo đức. Tôi đơn giản gọi chúng là ngu xuẩn. Tôi không
phải là con người lễ phép gì đâu. Nếu một con pich có đó tôi
gọi nó là con pich - thực ra, con pich ngu xuẩn! Tôi muốn rõ
ràng và thẳng thừng. Hai cộng với hai là bốn với tôi, không
nhiều không ít.

Một sannyasin Osho tới thăm một người bạn cũ sống


trong một thị trấn lớn. Chỗ trọ duy nhất anh ta có thể tìm
được là trong một khách sạn rất xác xơ. Tiếp tân bảo anh ta
là anh ta sẽ phải dùng chung giường đôi và ăn sáng - bánh
mì nướng, mứt và cà phê - ở tầng trên cùng một người vào
đêm đó.
Anh ta vào phòng và ngạc nhiên thấy một cô gái tóc
vàng lộng lẫy đang nằm trần trên giường, ngủ say. Anh ta

448
chuẩn bị giường cho mình, nói lời cầu nguyện và nằm
xuống ngủ.
Mười lăm phút sau, anh ta quay sang và nhìn vào hướng
cô gái đẹp. "Mình có nên hay không nên? Không! Mình
phải không được!" anh ta tự nhủ mình, và quay đi cố ngủ.
Nửa giờ sau anh ta lại quay sang, nhìn vào cô gái và tự
nói với mình, "Không, mình phải không được! Mình sẽ
không làm! Điều đó là không đúng!" Cho nên anh ta lại
quay đi và vào giấc ngủ.
Nhưng sau nửa giờ nữa anh ta ngồi dậy và nói to,
"Mình không thể cưỡng lại thêm nữa. Mình không để ý liệu
mình có phá luật hay không." Thế là anh ta dậy, bước qua
chân giường, rồi rót cà phê, phết bơ vào bánh mì... và ăn
bữa sáng!

Điều này là có thể chỉ cho sannyasin Osho.


Nityananda Giri, với bạn điều đó sẽ rất khó, không thể
được!

Có lần một Thiền sư được hỏi, "Các sư có loại cuộc


sống dục nào?"
Thiền sư nói, "Ni cô!"

Đừng kìm nén, cố hiểu năng lượng dục của bạn. Và bạn
sẽ ngạc nhiên, ngạc nhiên vô cùng, rằng nó không phải là kẻ
thù của bạn, nó là người bạn của bạn. Nó không phải là tai
hoạ, nó là ân huệ, bởi vì nó là cội nguồn của mọi sáng tạo
của bạn. Bạn có biết người bất lực nào mang tính sáng tạo
không? Bạn có biết người bất lực nào sáng tạo ra âm nhạc,
449
tranh ảnh, thơ ca vĩ đại không? Và tại sao cái gọi là các sư
trong các thời đại lại không mang tính sáng tạo? Họ đã
không đóng góp gì cho thế gian, họ đã không làm giầu có
cho thế gian. Họ đã không là phúc lành; ngược lại, họ đã
chứng tỏ là tai ương. Tại sao? - bởi vì mang tính kìm nén
bản năng dục của mình họ trở thành không sáng tạo, họ
không thể sáng tạo được.
Tính sáng tạo là tính dục, về cơ bản là tính dục. Khi hoạ
sĩ mất hút trong bức tranh của mình đó là cùng cực thích mà
hai người yêu nhau có khi họ gặp gỡ và hội nhập vào nhau;
trong một khoảnh khắc họ không còn tách rời. Hoạ sĩ có
cùng niềm vui đó, lâu hơn, sâu hơn, sâu sắc hơn nhiều, khi
người đó mất hút với bức tranh. Vũ công đi tới điểm cao
nhất...
Do đó có nhấn mạnh của tôi vào vũ điệu và âm nhạc ở
đây trong cộng đồng của tôi. Tôi muốn mọi người là vũ
công, là ca sĩ, bởi lẽ đơn giản vì đó là cách tự nhiên, tự phát
nhất của việc biến đổi dục của bạn. Khi vũ công hoàn toàn
bị mất hút, khi chỉ có điệu vũ và vũ công không còn lại,
người đó trải nghiệm cực thích lớn nhất, là toàn bộ hơn bất
kì cực thích dục nào có thể có.
Nityananda Giri, nếu bạn chấp nhận bản năng dục của
bạn, nếu bạn ôm choàng lấy nó bằng tình yêu sâu sắc và
lòng biết ơn hướng tới Thượng đế, biết rằng vì nó là món
quà của ngài cho nên phải có cái gì đó trong nó mà cần phải
được khám phá ra... không để bị bác bỏ. Bác bỏ nó sẽ làm
cho bạn thành không sáng tạo, và người không sáng tạo vẫn
duy trì sự sống khổ. Đó là lí do tại sao các thánh nhân của
bạn trông buồn thế, với mặt dài thế, gần như chết và bốc
mùi.
Nhìn lại đi - nhìn lại vào con người riêng của bạn, vào
kinh nghiệm riêng của bạn, và bạn sẽ ngạc nhiên lớn.
450
Một anh chàng được vợ bảo đem về nhà một con gà còn
sống để cô ấy chuẩn bị bữa ăn đặc biệt. Anh ta đen con gà
về sau giờ làm việc và trên đường về nhà anh ta chợt nhận
ra rằng mình quên mất chìa khoá cửa trước. Anh ta biết vợ
sẽ không có nhà trong vài giờ nữa, cho nên anh ta quyết
định giết thời gian bằng việc đi xem phim.
Anh ta không thể đem con gà vào rạp được nên anh ta
nhét nó vào dưới phía trước quần mình, rồi mua một chiếc
vé và vào rạp. Anh ta ngồi xuống hướng vào phía trước rạp
chiếu bóng, cạnh hai bà già. Anh ta nhanh chóng trở nên mê
mải với phim và không để ý rằng con gà đã thò đầu nó ra
qua khuy cúc quần.
"Winifred," bà già này thì thầm với bà già kia, thúc
khuỷu tay vào bà bạn. "Trông cái vật to tướng đang thò ra
qua cúc quần cậu kia!"
Winifred lầu bầu, "À, Millie, khi bà thấy một cái, bà đã
thấy tất cả chúng rồi!"
"Tôi biết điều đó," Millie đáp, "nhưng đã bao giờ bà
thấy một cái ăn bỏng ngô chưa?"

451
452
15. Mọi người có tính
duy nhất của mình

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Trong nhiều dịp thầy đã nói chống lại chủ nghĩa xã
hội, vậy mà tôi cảm thấy rằng trong tâm xã này
thực nghiệm đầu tiên về chủ nghĩa xã hội sống
đang xảy ra. Đây có phải là một điều nữa trong
những mâu thuẫn của thầy không?

Swatantra Sarjano,
Chủ nghĩa xã hội thực chỉ có thể là hương thơm của
một tâm xã sâu trong thiền. Nó không liên quan gì tới cấu
trúc xã hội hay nền kinh tế. Chủ nghĩa xã hội thực không
phải là cuộc cách mạng trong xã hội, nó không mang tính xã
hội: nó là cuộc cách mạng trong tâm thức cá nhân.
Nếu nhiều người đang trải qua cuộc cách mạng bên
trong mà sống cùng nhau, thế thì nhất định có phẩm chất

453
mới. Bạn có thể gọi nó là chủ nghĩa xã hội; từ tốt hơn sẽ là
"chủ nghĩa cộng sản", bắt nguồn từ "tâm xã". Chỉ tâm xã có
thể có chủ nghĩa cộng sản, nhưng tâm xã thỉnh thoảng tồn
tại.
Khi Phật còn sống một tâm xã đã phát triển quanh ông
ấy; ông ấy gọi nó là sangha - tăng đoàn, cái tên khác cho
tâm xã. Nghĩa của sangha là: nơi những người mới khai tâm
đã vứt bỏ bản ngã của mình và không còn vận hành như
những hòn đảo mà đã trở thành một với nhau, nơi giao cảm
xảy ra. Trao đổi là giữa những cái đầu; giao cảm là giữa
những tâm.
Bất kì khi nào nhiều tâm thế mở ra, trở thành hoa,
hương thơm lớn thoát ra. Hương thơm đó bao quanh vị Phật,
bạn có thể gọi nó là Phật trường. Năng lượng này là khác
toàn bộ: không có chính trị tham gia trong nó.
Chính trị thuộc vào thế giới của bản ngã. Trò chơi chính
trị là một đám bản ngã: làm sao là mạnh hơn người khác. Nó
là tham vọng dưới dạng xấu nhất của nó. Nó cực kì tinh
ranh, khai thác. Nó là nỗ lực để làm người khác thành nô lệ.
Nó là điều không thể được chút nào cho các thiền nhân, bởi
vì với thiền yêu cầu cơ bản là bỏ bản ngã. Bạn không thể
chơi trò chơi của bản ngã thêm nữa. Không có vấn đề cao
hơn, mạnh hơn người khác. Thực ra, không có vấn đề
"người khác".
Khoảnh khắc "tôi" biến mất, ngay lập tức "người" cũng
biến mất. Tôi và người tồn tại cùng nhau; chúng giống như
hai mặt của cùng một đồng tiền. Bỏ cái "tôi" và bạn sẽ ngạc
nhiên rằng với bạn không còn ai là người khác hơn bạn;
thực tại xuất hiện như một toàn thể hữu cơ. Nhưng điều đó
là có thể chỉ với một trung tâm.

454
Khi Phật chết tâm xã của ông ấy đã tồn tại ít nhất trong
năm trăm năm, nhưng chết dần; dần dần nó tàn lụi đi. Nó
vẫn còn sống cho tới khi... vài người tiếp tục trở nên chứng
ngộ và liên tục thay thế Phật. Khi không có ai chứng ngộ
thêm nữa, khi không có trung tâm, toàn thể trường biến mất.
Khi không có mặt trời, làm sao có thể có tia sáng? Nó là
hiện tượng cá nhân.
Nếu Phật có đó, tâm xã nhất định xảy ra; điều đó không
thể bị ngăn cản. Điều đó là không tránh khỏi. Những người
tìm kiếm thực sự sẽ bắt đầu tới Phật từ những góc xa xôi
nhất của thế giới. Điều đó giống như khi hoa thơm nở ra,
ong bắt đầu nối đuôi nhau tới từ những chỗ xa xăm. Bỗng
nhiên hương thơm trở thành sức hút từ lực - nhưng chỉ với
ong thôi, không phải với mọi người. Chó sẽ đi qua hoa mà
thậm chí không thèm nhìn vào hoa; hoa không tồn tại với
chúng, chúng không nhạy cảm với hoa.
Phật tồn tại chỉ cho những người có nhạy cảm, cảm
nhận, sẵn có, mở, tìm kiếm. Nhiều người bắt gặp Phật và bỏ
lỡ ông ấy. Hàng triệu người đã bắt gặp ông ấy, nhưng không
thể nhận ra ông ấy. Với họ ông ấy chỉ là người có học thức
khác, chỉ là thánh nhân khác. Và Ấn Độ bao giờ cũng đầy
các thánh nhân. Chẳng có gì đặc biệt với họ trong ông ấy.
Họ nghe ông ấy, họ thu lấy chút ít tri thức từ ông ấy và đi
theo đường của họ.
Nhưng những người có nhạy cảm, người có tâm mà có
thể nhảy múa với năng lượng mảnh mai này của vị Phật,
hương thơm tinh tế này, đã bị mất hút, hoàn toàn mất hút và
được tan biến, được hội nhập. Từ những cá nhân được hội
nhập này tâm xã nảy sing, Phật trường, sangha.
Điều đó đã xảy ra với Jesus, tất nhiên trên qui mô nhỏ
hơn, vì người Do Thái không bao giờ quan tâm gì mấy tới
nội tâm của con người. Họ là những người hướng ngoại;
455
toàn thể tôn giáo của họ vẫn còn hướng ngoại. Jesus chỉ
được nhận ra bởi rất ít người; những người đó có thể được
đếm trên đầu ngón tay.
Điều đó đã xảy ra lặp đi lặp lại quanh những viên kim
cương quí giá này - Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử, Lâm Tế, Mã
Tổ, Bahauddin, Jalaluddin, Kabir, Nanak - liên tục lặp đi lặp
lại. Nhưng vấn đề là: khi Thầy chết, tâm xã bắt đầu tàn lụi
đi. Có thể trong lúc có một chuỗi các Thầy liên tục...
Chẳng hạn, sau Nanak chín Thầy khác đã tiếp nối. Sau
Adinatha, Thầy Jain đầu tiên, hai mươi bốn teerthankaras
tiếp nối theo - từ Adinatha tới Mahavira, một khoảng thời
gian dài, gần ba nghìn năm. Nhưng điều đó rất hiếm. Điều
đó không thể bị ép buộc bởi chính phủ, bởi bất kì đại lí bên
ngoài nào; thế thì nó sẽ là nhựa thôi.
Sarjano, bạn đúng - nó là một trong những mâu thuẫn
của tôi. Tôi chống lại chủ nghĩa xã hội, cái bị áp đặt như
một ý thức hệ kinh tế, chính trị lên mọi người, bởi vì thế thì
nó phá huỷ đi cái gì đó rất quí giá: nó phá huỷ cá nhân. Thay
vì phá huỷ bản ngã nó phá huỷ cá nhân; nó tôn cao bản ngã.
Bản ngã được đại diện bởi nhân cách.
Hai từ này phải được hiểu rất rõ ràng: nhân cách là cái
được xã hội trao cho bạn, và tính cá nhân là cái bạn đã mang
cùng bạn từ cõi bên kia; nó là món quà của Thượng đế. Tính
cá nhân không có bản ngã trong nó, nó là vô ngã. Nhân cách
không là gì ngoài bản ngã.
Xã hội áp đặt cấu trúc nào đó, hình mẫu nào đó quanh
mọi cá nhân, xã hội rất sợ cá nhân đích thực. Nó tạo ra nhân
cách giả tạo, bởi vì nhân cách giả có thể dễ dàng bị thao
túng, bị làm nô lệ, bị chi phối. Nhân cách rất ngoan ngoãn,
nhân cách rất lệ thuộc vào xã hội, bởi vì xã hội đã tạo ra nó.

456
Nếu bạn đi ngược lại nhân cách của bạn, cái mà xã hội
đã tạo ra, bạn sẽ mất mọi kính trọng; bản ngã của bạn sẽ bắt
đầu sụp đổ. Và điều đó tạo ra sợ lớn trong bạn, cho nên bạn
liên tục đáp ứng cho các đòi hỏi của bố mẹ, của thầy giáo,
của các tu sĩ, của các chính khách, của đủ mọi loại người
bao quanh bạn và đang cố khai thác bạn theo mọi cách có
thể. Họ phụ thuộc vào nhân cách, và họ liên tục thúc ép
nhân cách chống lại tính cá nhân. Tính cá nhân phải bị đè
nén, bị quên lãng hoàn toàn, để cho bạn bắt đầu sống trong
cái giả và rởm.
Chủ nghĩa xã hội phá huỷ tính cá nhân nhiều hơn bất kì
loại ý thức hệ chính trị nào khác, bởi vì chủ nghĩa xã hội
ngụ ý xã hội là mục đích, không phải cá nhân. Cá nhân phải
bị hi sinh cho xã hội, không có điều ngược lại; xã hội không
thể bị hi sinh cho cá nhân. Và thực ra "xã hội" là từ mĩ
miều; đằng sau từ mĩ miều đó che giấu nhà nước xấu xa.
Thực sự chính nhà nước chi phối trong chủ nghĩa xã hội, và
nhà nước không muốn có bất kì loại tính cá nhân nào trong
mọi người. Nó xoá bỏ mọi tính cá nhân, nó tạo ra người
máy. Nó muốn mọi người đều chỉ là cái máy hiệu quả,
không gì hơn.
Loại chủ nghĩa xã hội này tôi chắc chắn chống lại,
nhưng chắc chắn có loại chủ nghĩa xã hội khác mà tôi tuyệt
đối ủng hộ. Nhưng quá trình là khác toàn bộ, chính điều đối
lập đối xứng: tính cá nhân phải được bảo lưu và nhân cách
phải bị làm tan biến.
Đó là nghĩa của việc buông xuôi theo Thầy: bạn buông
xuôi bản ngã, không phải buông xuôi tính cá nhân; tính cá
nhân không thể bị buông xuôi đi được. Khi bạn buông xuôi
theo cách riêng của bạn, khi bạn không bị ép buộc phải
buông xuôi, khi đấy không phải là vấn đề qui phục... chỉ từ
tình yêu và niềm vui của bạn, chỉ từ hiểu biết của bạn mà

457
bạn buông xuôi - đó là chọn lựa và quyết định của bạn. Khi
bạn buông xuôi, tất nhiên bạn buông xuôi cái giả; cái thật
không thể bị buông xuôi. Bạn là chân lí! Bạn đơn giản gạt
sang bên mọi cái đã bị áp đặt lên bạn, đã được ước định cho
bạn. Trong sự hiện diện của Thầy chỉ cái giả biến mất, và
cái thật tới trong việc nở hoa tuyệt đối của nó.
Trong tâm xã của vị Phật mọi người có tính cá nhân,
không ai có bất kì nhân cách nào. Không ai mang bản ngã,
nhưng mọi người có tính duy nhất của mình; người đó đóng
góp cho tâm xã theo cách duy nhất riêng của mình. Và mọi
người được kính trọng về bất kì cái gì người đó làm; có kính
trọng mênh mông với cá nhân.
Bạn có thể thấy điều đó đang xảy ra ở đây. Nhà phân
tâm được đào tạo bài bản, người có thể đã kiếm được hàng
nghìn đô la mỗi tháng ở phương Tây, có thể có học vị tiến sĩ
khoa học hay tiến sĩ văn chương và những văn bằng đào tạo
khác, được kính trọng theo cùng cách như người dọn vệ
sinh; không có khác biệt. Người dọn vệ sinh có cùng sự kính
trọng, cùng tính cá nhân; người đó đang đóng góp theo cách
riêng của người đó.
Và nhiều lần việc xảy ra ở đây là một tiến sĩ quyết định
vứt bỏ mọi điều anh ta đã học và anh ta muốn trở thành
người quét dọn. Có vài tiến sĩ đang là người dọn vệ sinh.
Đây có thể là chỗ duy nhất trên thế giới nơi các tiến sĩ đã
tìm thấy đúng công việc! Có các tiến sĩ y học đang dọn vệ
sinh. Họ được bảo, "Anh là tiến sĩ y học, sao anh không làm
việc ở trung tâm y tế?" Họ nói, "Việc lau dọn hay thế, thảnh
thơi thế! Chúng tôi không muốn bận tâm với Trung tâm Y tế
chút nào nữa."
Có các nhà thơ, hoạ sĩ - trứ danh, nổi tiếng - các tác giả
đã xuất bản nhiều, và họ có thể làm giầy hay chỉ làm việc ở
xưởng mộc hay làm công việc thủ công trong vườn, bởi vì
458
một điều là tuyệt đối rõ ràng: rằng việc làm của bạn không
tạo ra khác biệt gì, tính cá nhân của bạn còn nguyên ở mọi
nơi. Việc làm của bạn không cho bạn địa vị cao hơn, nó
không tạo ra cấp bậc nào. Mọi người khác đang làm theo
cách riêng của họ, một cách toàn tâm.
Tâm xã có thể xảy ra chỉ trong sự hiện diện của Thầy:
bằng không, nhận biết của bạn là ở mức bạn sẽ bắt đầu tranh
đấu, cãi vã, và trò chơi bản ngã của bạn sẽ bước vào. Điều
đó xảy ra mỗi lần Thầy chết. Nếu có dòng truyền thừa các
Thầy thì tốt, bằng không sẽ rất khó.
Chẳng hạn, Jesus đã không thể tạo ra dòng truyền thừa;
ông ấy đã không được cho đủ thời gian. Ông ấy đã làm việc
chỉ mới ba năm, từ độ tuổi ba mươi cho tới ba ba. Không đủ
thời gian cho ông ấy - ông ấy đã bị đóng đinh vào tuổi ba
mươi ba - ông ấy không có thời gian để làm việc.
Phật đã làm việc trong bốn mươi hai năm; ông ấy đã tạo
ra dòng truyền thừa lớn. Ông ấy đã làm lẩy cò nhiều người,
từ Ma ha ca diếp cho tới Văn Thù, Xá Lợi Tử,
Modgalyayan, Purnakashyapa... và nhiều người khác đã trở
nên chứng ngộ trong khi ông ấy vẫn còn sống và họ đã
mang ngọn đuốc đi.
Nếu dây chuyền được tạo ra thế thì tâm xã tiếp tục
sống, nhưng nó là hiện tượng rất mong manh, không thể nào
dự đoán được; nó có thể xảy ra, nó có thể không xảy ra. Cho
dù nó xảy ra, thế nữa nó không thể là hiện tượng thường
hằng. Người ta không thể quan niệm nổi rằng nó sẽ tiếp diễn
vĩnh viễn; nó có thể dừng lại ở bất kì chỗ nào. Thế giới này
là như sa mạc thế, và dòng suối chư Phật tạo ra là dòng suối
nhỏ bé thế; nó có thể bị mất hút trong sa mạc ở bất kì đâu.
Nhưng tâm xã thực duy nhất tồn tại khi Thầy còn sống.
Tôi ủng hộ tất cả cho loại tâm xã đó.

459
Nhưng chủ nghĩa cộng sản tồn tại ở nước Nga Xô viết
hay ở Trung Quốc không phải là chén trà của tôi! Nó thực
sự đích xác là cái đối lập với điều tôi đang cố làm ở đây.
Chủ nghĩa cộng sản nên nảy sinh tự phát, và khác biệt là
nhiều. Chẳng hạn, Karl Marx, Friederich Engels, V.I. Lenin
- tam thể cộng sản không linh thiêng - những người này đã
nói về chuyên chính vô sản; điều đó ngụ ý sự độc tài của cái
thấp nhất.
Trong tâm xã của vị Phật, ngay chỗ đầu tiên không có
độc tài, mặc dầu với người ngoài dường như là có độc tài.
Với người ngoài, nếu người đó tới đây, người đó sẽ nghĩ đây
là độc tài của tôi, mặc dầu tôi không bao giờ ra lệnh cho bất
kì ai. Tôi thậm chí không bao giờ tới thăm văn phòng lấy
một lần trong sáu năm này! Tôi không biết ai sống ở đó, bao
nhiêu người đang sống trong tâm xã. Tôi đã không tới thăm
các ngôi nhà khác trong tâm xã. Tôi đơn giản biết đường về
phòng tôi! Thậm chí tôi không thể tìm được nhà riêng của
tôi nơi tôi sống, Nhà Lão Tử, phòng của các sannyasin khác,
những người đang sống cùng tôi. Vivek đã từng bảo tôi
rằng, "Mỗi ngày lại cho chúng tôi một điều ngạc nhiên -
thầy tới bếp mà xem!" Tôi không bao giờ ở đó cả; tôi thực
sự không biết nó ở đâu. Cho nên thực ra tôi sẽ không có khả
năng tìm thấy nó trừ phi tôi được ai đó hướng dẫn. Tôi có ý
tưởng nào đó nó phải ở đâu đấy, nhưng điều đó rất mông
lung.
Nhưng bất kì ai từ bên ngoài sẽ cho rằng tôi là kẻ độc
tài; điều đó tuyệt đối sai. Mọi người làm việc ở đây là từ
tình yêu của họ, không ai bị ra lệnh. Và nếu họ hỏi tôi và tôi
nói điều gì đó, điều đó bao giờ cũng là gợi ý, không bao giờ
là mệnh lệnh. Họ được tự do chấp nhận nó hay không chấp
nhận nó. Họ bao giờ cũng chấp nhận nó – tin cậy đi với họ;

460
không liên quan gì tới tôi. Nếu họ không chấp nhận nó, họ
hoàn toàn tự do làm theo cách đó.
Trong tâm xã thực, tâm xã theo cái nhìn của tôi, cái cao
nhất trở thành trung tâm. Trong chủ nghĩa cộng sản của Karl
Marx, cái thấp nhất chi phối; đó là chuyên chính của vô sản.
Một cách tự nhiên, đây là hai điều khác nhau, các cực đối
lập.
Khi cái cao nhất... và với "cao nhất" tôi đơn giản ngụ ý
người không còn nữa, người đã trở thành một với cái toàn
thể, người không còn sự tồn tại tách biệt, người không còn
đẩy dòng sông, người chảy cùng dòng sông, người trong
buông bỏ sâu sắc, người chỉ là phương tiện, cây trúc hổng
trên môi Thượng đế. Và nếu Thượng đế ca, tất nhiên cây
trúc hổng trở thành cây sáo, nhưng điều đó mọi thứ phụ
thuộc vào Thượng đế. Bài ca không thuộc về cây sáo, nó
thuộc về người ca.
Qua Phật, qua người chứng ngộ, Thượng đế bắt đầu
tuôn chảy. Chính cái cao nhất, cái tối cao tạo ra tâm xã thực.
Chủ nghĩa cộng sản tồn tại ở Nga và Trung Quốc bị chi phối
bởi cái thấp nhất. Joseph Stalin và Mao Trach Đông thuộc
vào kiểu thấp nhất, người bạo hành, giết người nhất đã từng
tồn tại trên trái đất.
Cái tên của Joseph Stalin ngụ ý người bằng thép; đó
không phải là tên thật của ông ta. Stalin ngụ ý người bằng
thép; nó không phải là tên thật của ông ta, đó là vì tính khắc
nghiệt của ông ta.
Vị Phật được đại diện bởi hoa sen, không bởi thép. Hoa
sen ở phương Đông đã từng là biểu tượng cho tất cả chư
Phật - rất mảnh mai, rất tinh tế, với hương thơm phảng phất,
không hắc chút nào.

461
Nếu bạn buông xuôi theo vị Phật đấy là quyết định của
bạn, đấy là tự do của bạn; bạn không bị làm cho phải buông
xuôi. Và khi nhiều người buông xuôi theo vị Phật, họ thực
sự buông xuôi theo tương lai riêng của họ, tiềm năng tối
thượng riêng của họ. Phật đơn giản đại diện cho điều có thể
xảy ra đối với họ. Ông ấy chỉ là sự phản xạ của việc nở hoa
tối thượng của họ.
Khi bạn buông xuôi theo vị Phật bạn thực sự buông
xuôi thực tại thấp hơn của bạn theo thực tại cao hơn riêng
của bạn; vị Phật chỉ là cái cớ. Thế thì tâm xã thực đi vào sự
tồn tại. Nó bắt nguồn từ yêu, từ thiền và nguyện. Nó không
dựa trên bạo hành; nó không bắt rễ vào bạo hành; nó không
bắt rễ vào phẩm chất thấp, tính chất con vật của con người.
Sarjano, theo nghĩa đó bạn là đúng, rằng tâm xã thực
đang xảy ra ở đây, nhưng nó không phải là thực nghiệm đầu
tiên đâu, nhớ điều đó. Thực nghiệm này đã xảy ra nhiều lần
trước đây rồi. Nhưng nó bao giờ cũng giống như thế. Khi
bạn rơi vào yêu bạn nghĩ, "Loại yêu thế này không bao giờ
xảy ra trước đây; nó là cái gì đó duy nhất." Và theo một
cách nào đó nó là vậy - với bạn nó là kinh nghiệm mới. Bạn
không bao giờ trong yêu với vị Phật, cho nên với bạn nó là
thực nghiệm mới. Bằng không, trong hàng nghìn năm nhân
loại đã tồn tại, và nhiều lần những ốc đảo nhỏ trong sa mạc
đã phát sinh. Nhưng sa mạc là bao la và khắc nghiệt...
Và nhớ một luật nền tảng: bất kì khi nào cái thấp hơn
bước vào xung đột với cái cao hơn, cái cao hơn bị phá huỷ,
không phải cái thấp hơn. Nếu bạn đập hoa sen vào tảng đá,
đừng hi vọng rằng đá sẽ bị phá huỷ bởi hoa sen; hoa sen sẽ
bị phá huỷ. Cái cao hơn là mong manh hơn.
Đó là lí do tại sao tôi nói đàn bà có dục cao hơn đàn
ông: cô ấy mảnh mai hơn, cô ấy giống hoa nhiều hơn. Đàn
ông cứng cáp hơn, một chút ít của đá vẫn còn trong anh ta.
462
Đàn ông gần với con vật hơn đàn bà. Đàn ông năng nổ hơn
đàn bà; đàn bà mang tính cảm nhận. Và bởi vì phẩm chất
cao hơn này của đàn bà mà cô ấy đã bị đàn ông phá huỷ.
Tảng đá bao giờ cũng thắng đoá hoa.
Những tâm xã như vậy đã tồn tại lặp đi lặp lại. Chúng
không thể bị phá huỷ toàn bộ được bởi vì Thượng đế có đầu
tư vô cùng vào những tâm xã này. Chúng không thể bị phá
huỷ được, chúng sẽ tới lặp đi lặp lại mãi, nhưng thế giới bao
la này lại giống như sa mạc. Nhân loại lớn hơn vẫn chưa
được biến đổi, mặc dầu khả năng cho các tâm xã như vậy
đang trở nên ngày một nhiều hơn.
Con người đã tiến hoá, đã trưởng thành, và đặc biệt là
ngày nay. Thời gian đã tới khi hàng nghìn tâm xã như vậy
có thể bùng phát, bùng nổ trên khắp thế giới. Và đó là điều
tôi dự định làm bằng việc tạo ra thật nhiều sannyasin và rồi
phái họ trở về đất nước họ để cho hàng nghìn tâm xã bắt đầu
vận hành.
Tôi muốn tạo ra một dây chuyền các tâm xã trên khắp
thế giới, cho nên tâm xã này không chỉ là một ốc đảo trong
sa mạc bao la mà trở thành được liên kết với nhiều tâm xã.
Kiểu liên kết đó không bao giờ được thực hiện trước đây;
cái đó sẽ là mới. Các tâm xã bao giờ cũng tồn tại, nhưng
nhiều tâm xã vận hành trên khắp thế giới đã không thể có
trước đây; nó chỉ có thể vào ngày nay. Khoa học đã làm cho
điều đó thành có thể. Thế giới này bây giờ nhỏ thế, nó gần
như một cái làng, cái làng toàn cầu. Con người đã tới gần
đến mức bây giờ khả năng này tồn tại.
Tôi đã có hai trăm nghìn sannyasins làm việc trên khắp
thế giới, hai trăm tâm xã đang dần phát triển. Sẽ sớm có
hàng nghìn tâm xã trên khắp thế giới, và đây sẽ là dây
chuyền đầu tiên các tâm xã bao quanh toàn thể địa cầu! Và
khả năng thành công của họ đang trở nên ngày một nhiều
463
hơn so với trước đây, bởi lẽ đơn giản là khoa học đã đi tới
sự phát triển mà chừng nào tôn giáo chưa đạt tới cùng điểm,
nhân loại sẽ phải chịu số phận diệt vong. Mọi thứ đã trở nên
thiên lệch. Nó không bao giờ như vậy trước đây, thực ra
chính cái đối lập đáng là hoàn cảnh.
Tâm xã của Phật là tiên tiến hơn công nghệ và khoa học
thời Phật rất nhiều. Tâm xã của Mahavira là tiên tiến hơn
nhiều, đi trước hơn xã hội, hơn sự phát triển bên trong của
con người; đã có kẽ hở lớn. Bây giờ kẽ hở có đó, nhưng nó
là kẽ hở hoàn toàn khác. Xã hội, khoa học, công nghệ, đã
tiến xa lên trước sự phát triển bên trong của con người. Bây
giờ xã hội và khoa học và công nghệ đã chuẩn bị nền tảng;
chúng ta có thể dùng cơ hội này. Chúng ta có thể giúp con
người đi tới cùng sự phát triển, và điều đó sẽ là điều cân
bằng. Mọi tâm xã đó trong quá khứ đã được tạo ra trong mất
cân bằng; chúng đã mất hài hoà. Chúng đã đi xa trước thời
đại chúng, do đó chúng mang định mệnh thất bại.
Nhưng lần này chúng ta có thể hi vọng chúng ta có thể
thành công, bởi lẽ đơn giản là chúng không chống lại hay đi
quá xa trước thời gian. Thời gian đã sẵn sàng và chín muồi
và chúng ta đang trong hài hoà với nó. Chỉ chúng ta trong
hài hoà với nó; toàn thể xã hội vẫn còn tụt lại sau - công
nghệ hiện đại, khoa học hiện đại. Tất cả cái gọi là nhà thờ,
tôn giáo của bạn đã tụt lại sau khoa học hiện đại.
Điều tôi đang làm ở đây là hiện tượng rất cân bằng. Bây
giờ tôn giáo có thể tồn tại trên mức độ cao hơn nhiều so với
nó đã từng tồn tại, bởi vì khoa học đã cung cấp nền tảng
đúng. Và hơn thế nữa, khoa học đã tạo ra nỗi sợ vô cùng
trên thế giới rằng khoa học có thể phá huỷ toàn thể nhân
loại. Và bây giờ hi vọng duy nhất là ở chỗ tôn giáo có thể
cứu lấy nó. Và khi đó là vấn đề sống còn, hàng triệu người
nhất định trở nên quan tâm vào thiền bởi vì chỉ thiền có thể

464
cứu được họ; không cái gì khác có thể cứu được. Nếu con
người vẫn còn như cũ và khoa học liên tục phát triển, thế thì
chính việc phát triển khoa học sẽ trở thành núi đá đè nặng
con người.
Chính một sự kiện đã được biết rõ là đâu đó trong quá
khứ, một trăm nghìn năm trước, đã có những con vật khổng
lồ, to hơn voi nhiều, mười lần lớn hơn voi. Điều gì đã xảy ra
cho những con vật khổng lồ này? Chúng đột nhiên biến mất
khỏi trái đất; chỉ những bộ xương của chúng được tìm ra.
Thảm hoạ nào đã xảy ra? Không thảm hoạ nào từ bên ngoài,
nhưng chúng đã trở nên quá khổng lồ. Sức nặng của thân thể
chúng trở thành quá lớn tới mức chúng không thể mang nổi
nó; chúng trở nên không có khả năng từ bên trong. Phần bên
trong của chúng vẫn còn rất nhỏ và thân thể bên ngoài của
chúng trở nên quá lớn; nó mất cân bằng.
Cùng điều đó đang xảy ra với con người: hồn bên trong
con người quá nhỏ và công nghệ bên ngoài của con người,
khoa học của con người, đã trở nên quá khổng lồ. Nó có thể
đem tới Thế chiến thứ ba, cuộc chiến tranh toàn bộ, bởi vì
đó là vấn đề sống và chết; nó không bao giờ đã là vấn đề
như vậy trước đây. Có hi vọng rằng tôn giáo có thể bùng nổ,
và hàng triệu người tìm kiếm đích thực đang tìm nó.
Chúng ta có thể tạo ra một dây chuyền khắp trên thế
giới các tâm xã như vậy, và toàn thể thế giới có thể được
biến đổi thành Phật trường. Chỉ thế thì có khả năng về chủ
nghĩa cộng sản nảy sinh từ tình yêu và nảy sinh từ những cội
nguồn cao nhất, từ các đỉnh Everest - không phải là độc tài
của vô sản, mà là tin cậy, buông xuôi theo vị Phật. Và từ tin
cậy và buông xuôi đó mà một loại chủ nghĩa cộng sản mới
có thể được sinh thành.
Theo nghĩa đó tôi ủng hộ chủ nghĩa cộng sản - nhưng
người cộng sản sẽ rất chống lại tôi bởi vì nếu kiểu chủ nghĩa
465
cộng sản của tôi mà thành công thế thì kiểu chủ nghĩa cộng
sản của họ nhất định thất bại.

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Thầy nói rất logic, nhưng mặt khác cách làm việc
của thầy là phi logic thế.
Bí ẩn này là gì vậy? Xin thầy giải thích.

Prem Vinod,
Bài nói của tôi là logic bởi vì khi bạn tới tôi, bạn tới mà
bị ám ảnh với logic. Tôi có thể bắt đầu trao đổi với bạn chỉ
qua logic. Nhưng khi bạn bắt đầu thảnh thơi với tôi, cảm
thấy rằng tâm trí bạn không trong nguy hiểm, thế thì tôi bắt
đầu làm việc một cách phi lolic - bởi vì sự sống là lớn hơn
logic, lớn hơn logic nhiều so với logic. Làm việc phải phi
logic bởi vì làm việc ngụ ý tôi sẽ tạo ra tình huống cho sự
biến đổi của toàn bộ con người bạn; nó không thể logic
được.
Bài nói của tôi là logic chỉ bởi lí do đơn giản là: nếu tôi
bắt đầu nói phi logic bạn sẽ trốn mất, bạn sẽ không có khả
năng gắn với tôi. Cho nên tôi đi tới thung lũng bóng tối của
bạn để nắm tay bạn, và thế rồi dần dần tôi thuyết phục bạn,
dụ dỗ bạn đi tới các đỉnh cao của tôi.

Một sinh viên đại học láu cá làm mất cuốn sách giáo
khoa và dán một yết thị lên bảng tin của sinh viên. Nhưng

466
thay vì dán vào chỗ có đầu đề Mất đồ thông thường thì anh
ta lại dán yết thị vào đầu đề Dục.
Bên dưới nó anh ta viết: "Vì tôi có được sự chú ý của
các bạn..."

Ai bận tâm đọc bảng tin? Có nhiều yết thị thế. Và ai bận
tâm đọc yết thị với đầu đề "Mất đồ"? Nhưng nếu đầu đề là
"Dục", thế thì sẽ rất khó bỏ lỡ nó - khó cho các sinh viên,
khó cho các giáo sư, khó cho phó hiệu trưởng, khó cho cả
ông hiệu trưởng. Ông ta phải đọc nó.
Tôi là logic chỉ để cho "Vì tôi đã có được sự chú ý của
bạn..."
Sống là không logic, nó là siêu logic; logic chỉ là một
đoạn nhỏ của nó. Quan sát đi, và bạn sẽ thấy điều tôi đang
nói. Quan sát bản thân bạn đi - bạn có logic trong cuộc sống
của bạn không? Bạn có yêu người đàn bà một cách logic
không? Bạn có thể đưa ra bất kì bằng chứng nào tại sao bạn
yêu người đàn bà nào đó và không yêu ai đó khác? Thực ra,
bạn thậm chí không thể biện minh được rằng yêu mang tính
tồn tại, bạn thậm chí không thể chứng minh được sự tồn tại
của yêu. Chính một trong những khó khăn nhất là việc
chứng minh rằng yêu có sự tồn tại. Khoa học không thể cho
được sự hỗ trợ nào.
Bạn có thể tràn đầy tình yêu đi tới bác sĩ chuyên khoa
tim và hỏi ông ta, "Kiểm tra tim tôi xem - nó đang rộn ràng
với tình yêu đấy! Nhìn vào biểu đồ của ông trên đồ thị, liệu
cái gì có đó hay tôi chỉ tự lừa mình?" Và ông ta sẽ nói,
"Không có gì sai với tim anh cả - anh hoàn toàn bình
thường."

467
Thậm chí tim bạn có thể được giải phẫu và không tình
yêu nào được tìm thấy ở đấy. Đó là lí do tại sao khoa học
không thể chứng minh được tình yêu - tình yêu không phải
là vật chất. Khoa học không thể chứng minh được hồn của
bạn; hồn không phải là vật chất. Từ "vật chất - matter" là có
ý nghĩa: nó bắt nguồn từ meter; nó ngụ ý đo được, cái có thể
được đo đạc. Vật chất là cái có thể được đo đạc. Nhưng có
cái gì đó trong bạn không thể nào đo được, cái đó ở bên
ngoài phạm vi của khoa học, toán học, logic, vật lí, hoá học.
Nếu bạn đi tới nhà hoá học ông ta sẽ thấy mọi cái là hoá
chất trong bạn, nhưng ông ta sẽ không tìm thấy công thức
cho yêu. Nếu bạn đi tới nhà sinh học ông ta sẽ thấy mọi thứ
về hooc môn của bạn, vân vân, nhưng ông ta sẽ không tìm
thấy cái gì giống như tình yêu của bạn. Ông ta sẽ nói, "Nó
chỉ là thứ hooc môn mà thôi. Anh bị lừa đấy, anh bị ảo
giác."

Diogenes quan sát một cung thủ đang tập bắn, người
này vụng về tới mức Diogenes đi tới và ngồi ngay dưới bia.
"Đây là chỗ an toàn nhất để ở," ông ấy giải thích.

Hai thuỷ thủ Mĩ bị đắm tàu ở giữa Thái Bình Dương và


đã sống trên hòn đảo hoang vắng trong nhiều năm. Một hôm
một trong họ tìm được một cái chai trôi giạt lên bãi biển -
một chai Coca-Cola cỡ bự mà anh ta chưa hề nhìn thấy
trước đây. Anh ta xem xét nó, rồi bỗng nhiên một cơn sốc
điên dại trào lên anh ta.
"Joe!" anh ta kêu lên trong nỗi khiếp hãi. "Nhìn cái chai
Coca-Cola này - chúng ta đã co lại!"

468
Đây là logic. Cái chai Coca-Cola đã trở nên lớn thế, kết
luận logic duy nhất là: "Chúng ta đã co lại!"

Diogenes vào một rạp hát vừa lúc một khán giả chen ra.
Khi được hỏi tại sao, anh ta giải thích, "Tôi đã từng đối lập
với mọi người suốt đời mình!"

Một tên trộm phá vào một xưởng máy nhỏ và để ý tới
một dấu hiệu trên két sắt: "Đừng bỏ phí chất nổ. Két sắt này
để mở. Cứ bật khoá lên."
Nó làm theo vậy. Lập tức chỗ đó ngập tràn ánh sáng và
chuông hú lên.
Khi nó bị đưa về đồn cảnh sát nó nói, "Niềm tin của tôi
vào bản tính con người đã bị tan nát!"

"Sao anh trông buồn thế?" Johnny hỏi bạn anh ta.
"Thế này," bạn anh ta đáp, "vợ tớ lái xe lao qua mỏm
đá!"
"Khiếp quá!" Johnny kêu lên.
"Nhưng đấy chưa phải là điều tồi tệ nhất đâu," anh bạn
tiếp tục. "Đó là chiếc Mercedes mới toanh!"

Anh ta chán nản. "Người đàn bà tớ yêu đã bác bỏ tớ,"


anh ta nói với bạn mình. "Cô ấy sẽ không lấy tớ."
"Đừng chán nản thế," anh bạn anh ta nói, cố làm dịu đi
nỗi khổ của anh ta. "Anh không nhận ra cái không của đàn
bà thường ngụ ý có sao?"

469
"Nhưng cô ấy không nói không," anh ta trả lời. "Cô ấy
nói cóc cần!"

Cuộc sống là kì lạ! Nếu đàn bà nói không, bạn có thể


hiểu là có, nhưng nếu cô ấy nói cóc cần, bạn sẽ hiểu là gì?

Mulla Nasruddin ở bệnh viện. Một bà bác sĩ gõ cửa.


"Vào đi," Mulla nói.
"Xin mời anh cởi quần áo ra," bác sĩ nói.
"Cởi tuốt ra à?" Nasruddin hỏi.
"Ừ, cởi tuốt."
Sau khi cởi hết quần áo của mình ra, bà bác sĩ khám xét
kĩ lưỡng cho anh ta. Khi bà ấy hoàn tất, Nasruddin nói, "tôi
muốn hỏi bà một điều."
"Được?" bà ấy nói.
"Sao bà lại bận tâm tới gõ cửa?"

Nhìn quanh mà xem, và bạn sẽ thấy cuộc sống là không


logic - nó là điều phi logic nhất.

Cô ta đang tìm chỗ đỗ xe và thấy một chỗ gần tấm biển


ghi, "Không đỗ xe trên phố này."
Một cảnh sát đang đứng gần đó, cho nên cô ấy gọi anh
ta lại, "Tôi có thể đỗ xe ở đây được không?"
"Không," anh ta nói.
"Sao không?"

470
"Cô không thể đọc được tấm biển kia sao? Nó nói
'Không đỗ xe'."
"Nhưng thế mọi xe kia đã đỗ ở đây thì sao?"
"Nghe đây, thưa bà," viên cảnh sát nói, "họ đã không
hỏi tôi!"

Prem Vinod, quan sát sự sống và bạn sẽ thấy tính phi


logic của nó. Điều đó rõ ràng tới mức nếu bạn thực sự muốn
thay đổi cuộc sống, bạn phải tính tới mọi tính phi logic của
nó.
Tôi có thể nói một cách logic bởi vì ngôn ngữ thuộc vào
logic, nhưng tôi không thể làm việc một cách logic được; sự
tồn tại không thuộc vào logic. Ngôn ngữ được tạo ra bởi
logic, nó mang tính rất logic. Văn phạm và ngôn ngữ, toán
học, mọi thứ đã từng do con người phát minh ra là logic.
Toán học rất nhiều logic, nhưng sự sống thì không.
Và các nhà huyền bí bao giờ cũng biết điều đó; các nhà
vật lí đã đi tới biết điều đó chỉ mới gần đây, trong vòng năm
mươi năm này. Sau phát minh của Albert Einstein về lí
thuyết tương đối họ phải đương đầu với thế giới phi logic,
sự tồn tại phi logic. Và thế rồi họ nhận ra rằng trong ba trăm
năm khoa học đã sống chỉ ở một chỗ rất nhỏ được chiếu
sáng bởi logic con người. Điều đó cũng giống như ngọn nến
chiếu sáng một chỗ nhỏ, và toàn thể sự tồn tại là tối, rất tối.
Nếu bạn nghiên cứu lí thuyết tương đối của Albert
Einstein bạn sẽ rất phân vân; bạn sẽ không tin được rằng
đây là lời của một nhà khoa học. Lí thuyết của Albert
Einstein đề nghị rằng nếu một người ra đi trên con tầu
không gian với cùng tốc độ như ánh sáng, người đó sẽ
không bao giờ già đi. Chẳng hạn, nếu bạn ra đi hôm nay trên

471
con tầu không gian với cùng tốc độ như ánh sáng, tức là một
trăm tám mươi sáu nghìn dặm một giây, và sau năm mươi
năm bạn quay lại, tất cả bạn bè của bạn sẽ trong mồ hay có
thể rất già, còn bạn sẽ đích xác vẫn như vậy, cùng tuổi đó,
bởi vì thời gian dừng lại ở tốc độ đó.
Bây giờ điều này là rất phi logic! Tại sao thời gian dừng
lại tại tốc độ đó? Và Einstein bị hỏi đi hỏi lại mãi, "Logic ở
đâu?" Ông ấy nói, "Tôi có thể làm gì được? Nếu sự tồn tại
vận hành theo cách đó, tôi chỉ có thể nói cách nó vận hành."
Khi nguyên tử bị phá vỡ, bị chẻ ra, và người ta tìm ra
điện tử, một kinh nghiệm mới mà các nhà vật lí phải trải
qua. Nó rất quái dị, bởi vì điện tử bỗng nhiên biến mất từ
điểm này và xuất hiện tại điểm khác; ở giữa hai điểm này
chúng không hiện hữu.
Chẳng hạn, tôi biến mất ở đây và xuất hiện trong phòng
tôi - điều đó là rất phi lí, nhưng đó là cách các điện tử đã
làm vĩnh viễn; chỉ mỗi chúng ta không nhận biết về điều đó!
Khi hiện tượng này được biết tới nó đã gây rất lúng
túng. Eddington nói rằng vật lí đang trở thành huyền bí.
Ngay cả các nhà huyền bí cũng không thể làm được phép
màu như vậy; không nhà huyền bí nào đã được biết tới làm
điều đó. Họ đã bước đi trên nước và họ đã làm người chết
sống lại, nhưng ngay cả Phật phải bước đi từ làng nọ sang
làng kia - không xuất hiện trong làng này, biến mất, xuất
hiện trong làng khác. Thế rồi trong bốn mươi năm ông ấy đã
làm công việc ít nhất cho bốn nghìn năm!
Nhưng khi các nhà vật lí được hỏi, "Ông giải thích điều
đó như thế nào?" họ nói, "Chúng tôi không thể giải thích nó
được. Đây là cách nó là vậy." Họ được hỏi, "Điều đó không
khớp với logic." Cho nên họ nói, "Chúng ta phải đổi logic!"
Logic sẽ phải khớp với nó; sự tồn tại không có nghĩa vụ gì

472
phải khớp với logic. Tại sao nó phải khớp với logic của bạn?
Logic là phát minh của con người, sự tồn tại thì không. Bản
thân con người là một phần của sự tồn tại, và thế rồi con
người phát minh ra logic, chỉ là một phần của con người. Và
toàn thể sự tồn tại là bao la, mênh mông; bạn không thể hi
vọng được rằng nó phải khớp với logic của bạn.
Do đó nhiều điều đã thay đổi. Mặc dầu trong trường
phổ thông và cao đẳng và đại học chúng ta vẫn đọc về
Newton, Edison, Eddington, nhưng khoa học hiện đại đã đi
xa khỏi logic thông thường.
Hình học Euclide cổ điển bị thay thế bởi hình học phi
Euclide. Hình học phi Euclide là tuyệt đối phi logic; hình
học Euclide là logic. Hình học Euclide nói, "Khoảng cách
ngắn nhất giữa hai điểm là đường thẳng." Hình học phi
Euclide nói, "Không thể có đường thẳng. Đường thẳng
không tồn tại chút nào, chúng không thể tồn tại được." Và
bạn sẽ bị lúng túng - tại sao? Nếu bạn hỏi họ tại sao, họ nói,
"Bởi vì trái đất tròn nên bất kì cái gì bạn vẽ ra cũng chỉ là
một phần của hình tròn lớn. Nó là một phần nhỏ cho nên nó
có vẻ thẳng, nhưng không cái gì thẳng."
Chẳng hạn, cái sàn này mà bạn đang ngồi lên là thẳng,
nhưng nó không thể thế được; nó chỉ dường như thôi. Bạn
liên tục mở rộng mãi Phòng Phật này ra và thế thì bạn sẽ đi
tới biết rằng nó trở thành tròn, bởi vì nó sẽ đi vòng quả đất.
Cho nên ngay cả cái Phòng Phật nhỏ này cũng là một phần
của trái đất lớn, và trái đất là tròn.
Không đường thẳng nào tồn tại, không thể tồn tại được,
bởi vì trong sự tồn tại mọi thứ là hình cầu. Mọi ngôi sao là
hình cầu, mọi hành tinh là hình cầu. Bạn không thể tìm ra
được một chỗ nào mà bạn có thể vẽ đường thẳng. Bất kì chỗ
nào bạn vẽ nó sẽ chỉ là một cung, tất nhiên nhỏ tới mức bạn

473
không thể thấy được; với bạn nó dường như thẳng, nhưng
nó không thẳng.
Thông thường chúng ta được đào tạo về toán học với
mười chữ số, từ một tới mười. Lí do tại sao mười chữ số
không có lí do toán học đằng sau nó - lí do duy nhất là ở chỗ
con người có mười ngón tay. Bởi vì người nguyên thuỷ bắt
đầu đếm trên ngón tay, do đó có mười chữ số. Đây là loại
logic gì? Và toán học đã thử...
Một trong những nhà toán học vĩ đại, Leibnitz, đã thử
chỉ với ba chữ số - một, hai, ba, có thế thôi. Sau ba là đến
mười, mười một, mười hai, mười ba, hai mươi. Cho nên
trong hình học Euclide thế giới này là thế giới khác toàn bộ;
trong hình học phi Euclide nó là khác toàn bộ. Nếu bạn hiểu
Leibnitz, thế thì hai cộng với hai không phải là bốn, nó là
hai mươi,bởi vì bốn không tồn tại chút nào.
Albert Einstein đã thử với hai chữ số, một và hai. Ông
ấy nói, "Ngay cả ba cũng không bản chất. Khoa học nên đi
chỉ với cái bản chất, một và hai." Và thế rồi tới mười... và
theo cách đó, Einstein nói, mọi thứ đều có thể được tính
toán. Vâng, ít hơn hai sẽ không có tác dụng; ít nhất sẽ cần
có hai chữ số. Cho nên đó là cái bản chất nhất; mọi cái
không bản chất bị vứt bỏ.
Ngay cả khoa học không là logic thêm nữa, không thể
được. Nó đã đi tới điểm mà logic đã tụt xa đằng sau.
Các nhà huyền bí không bao giờ logic. Tôi không phải
là con người logic, nhưng chỉ để thuyết phục bạn, chỉ để lôi
kéo sự chú ý của bạn, tôi bắt đầu bằng logic. Nhưng tôi bao
giờ cũng chấm dứt trong điều phi logic nào đó!

474
Câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Tôi là một cựu linh mục Thiên chúa giáo. Tôi sắp
về nước ngày mai. Xin thầy kể cho tôi vài chuyện
cười cho các bạn Thiên chúa giáo khác của tôi?

John,

Chuyện thứ nhất:

Một linh mục Thiên chúa giáo, một người cộng sản và
một người theo giáo phái Baptist miền nam da đen lên tới
Ngọc Môn vào cùng một ngày. Thánh Peter bước ra và
người Thiên chúa giáo buông mình ngã sấp mặt ngay trước
thánh và kêu khóc, "Ôi, thánh Peter ơi, tội lỗi của tôi lớn
quá! Tôi không xứng đáng vào Thiên đường!"
"Có đức tin đi," thánh Peter nói, "vì Chúa của chúng ta
vừa vĩ đại vừa khoan dung. Đánh vần Chúa!"
Người Thiên chúa giáo lùi lại, nhưng nói ngập ngừng,
"Chu-úa." Kèn sáo vang lên, dàn hợp xướng thiên thần bắt
đầu hát, và Ngọc Môn kéo lên. Người Thiên chúa giáo
nhỏm dậy ngạc nhiên và bước vào cõi trời.
Người cộng sản, theo dõi mọi điều này, nhanh chóng
quì xuống và bắt đầu kêu, "Ôi, thánh Peter ơi, tôi đã là
người cộng sản cả đời rồi. Tôi đã không ở nhà thờ tất cả
những năm này - chắc chắn tôi không xứng đáng vào cõi
trời!"

475
Thánh Peter mỉm cười và nói, "Người anh em, mọi
người là một trong con mắt của Chúa. Ngài là đấng vĩ đại và
khoan dung. Đánh vần Chúa đi!"
Người cộng sản lấy hơi thở sâu và nhanh chóng nói,
"Chúa." Ngay khi ông ta vừa chấm dứt đánh vần lần nữa
kèn sáo lại vang lên và dàn hợp xướng thiên thần cất tiếng
hát. Ngọc Môn mở ra và người cộng sản sung sướng đi vào
cõi trời.
Người da đen theo Baptist phương Nam lập tức gieo
mình ra đất, bắt đầu kêu và đấm ngực: "Ôi, thánh Peter ơi,
điều đó là không tốt! Tôi đã là người ác độc, uống rượu và
chạy theo cùng đàn bà phóng đãng. Nhưng tôi đã đi nhà thờ
mọi chủ nhật và tôi đọc sách thiện!"
Thánh Peter nhìn vào người da đen và mỉm cười, "Thôi
được, người anh em, Chúa vĩ đại và khoan dung. Để vào qua
những cái cửa này mọi điều ông phải làm là đánh vần
Engelbert Humperdinck!"

Chuyện thứ hai:

Một linh mục từ tu viện Thiên chúa giáo viết về cho mẹ


mình, "Vào các sáng trời lạnh, con thường quên cái bô cũ
dưới giường."
Bà ấy viết lại, "Vào các sáng trời lạnh con thường quên
nó ở nhà nữa!"

Chuyện thứ ba, và chuyện cuối cùng:

476
Xơ Mary uống trà với Mẹ Bề trên. Khi xơ tới phòng của
Mẹ Bề trên xơ đụng phải cái khay và làm vỡ ấm trà.
"Ồ, cứt!" Xơ Mary nói. "Con làm vỡ ấm trà rồi... ôi chết
tiệt, con đã nói cứt... ôi Christ, con đã nói chết tiệt... ôi đéo,
con đã nói Christ!"

477
478
16. Nó đã là cái tốt nhất

Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,
Tôi cảm thấy bất lực. Tôi không biết tôi có thể làm
cái gì thêm nữa. Dường như mọi thứ tôi làm sẽ
không thay đổi điều này, nó chỉ làm cho mọi thứ tồi
tệ hơn. Nhưng cả không làm gì cũng không làm cho
mọi sự tốt hơn. Thầy nói rằng trống rỗng là phúc
lạc. Với tôi nó dường như là đờ đẫn và chán; nó
giống như là chết. Khi không có gì tôi không thể
thấy được cái đẹp nào trong nó. Tôi chán ngán với
nó, tôi muốn thoát ra. Xin trả lời tôi, nhưng xin
đừng trả lời tôi như thế này: rằng việc lấy tính chất
sannyas sẽ làm thay đổi mọi thứ và làm cho mọi
thứ đẹp lên. Cám ơn thầy.

Alexander,

479
Điều đầu tiên là hiểu rằng sự sống vẫn là như nó vậy dù
bạn làm bất kì cái gì. Nó đã hoàn hảo rồi; nó không thể được
cải tiến thêm. Chính ý tưởng về cải tiến nó là mang tính bản
ngã đấy; nó là nguyên nhân của khổ của chúng ta. Nó là
cách thức nó vậy - không có nhu cầu cải tiến nó. Tận hưởng
nó đi! Đừng phí hoài thời gian của bạn trong việc cải tiến
nó. Nếu bạn cố cải tiến nó bạn sẽ cảm thấy bất lực, hiển
nhiên, bởi vì bạn sẽ thất bại lặp đi lặp lại, không đạt được gì.
Và ham muốn của bạn không bao giờ có thể được hoàn
thành – nó không được hoàn thành theo chính bản chất của
mọi sự.
Ais dhammo sanantano, Phật Gautam đã nói: Đây là
cách mọi thứ là vậy. Bất kì khi nào mọi người hỏi ông ấy,
"Làm sao chúng tôi có thể cải tiến mọi thứ?" ông ấy bao giờ
cũng nói, "Ais dhammo sanantano." Không có nhu cầu cải
tiến, không có cách nào để cải tiến.
Và trong Isa Upanishad này chúng ta đã bắt gặp chân lí
này lặp đi lặp lại: AUM. Cái đó là hoàn hảo, cái đó là toàn
thể. Cái này là hoàn hảo, cái này là toàn thể. Cái toàn thể tới
từ cái toàn thể, cái hoàn hảo tới từ cái hoàn hảo. Làm sao nó
có thể bất toàn được? Cái toàn thể tới từ cái toàn thể, vậy mà
cái toàn thể vẫn còn lại đằng sau. Mọi thứ là như nó phải
vậy.
Chừng nào điều này chưa được hiểu ra... Phật gọi nó là
tathata, như vậy. Hoa hồng là hoa hồng, cúc vạn thọ là cúc
vạn thọ. Nỗ lực để làm cúc vạn thọ là hoa hồng là mang
định mệnh thất bại rồi. Thế thì có bất lực, khổ, thất bại. Bản
ngã cảm thấy bị tổn thương, bị thương.
Đây là điều thứ nhất: chấp nhận sâu sắc, toàn bộ về mọi
thứ như chúng vậy. Thế thì sự sống đi vào trong chiều
hướng khác - chiều hướng của niềm vui, mở hội - bởi vì thế

480
thì toàn thể năng lượng đều sẵn có cho nhảy múa, ca hát,
cho hiện hữu.
Bây giờ toàn thể năng lượng được tham gia vào trong
cải tiến, vào thay đổi, vào làm cho mọi thứ tốt hơn.

Bạn nói: Tôi cảm thấy bất lực.

Bản thân bạn đang gây ra bất lực này.

Bạn nói: Tôi không biết tôi có thể làm gì thêm nữa.

Bạn đã làm đủ rồi; đó là lí do tại sao bạn lại cảm thấy


bất lực. dừng làm lại! Và khi tôi nói dừng làm điều đó
không ngụ ý không làm gì. Đó là điều thứ hai cần được
hiểu: khi tôi nói dừng làm, đừng hiểu lầm tôi - tôi không nói
không làm gì. "Dừng làm" đơn giản ngụ ý dừng đẩy dòng
sông, chảy cùng dòng sông. Nó đã đi hướng tới đại dương
rồi. Nó sẽ đem bạn tới định mệnh của bạn, dù đó là bất kì
cái gì - XYZ, điều đó là không thể dự đoán được. Nơi dòng
sông sẽ đi vào đại dương không ai biết, khi nào và ở đâu, và
điều tốt là không ai biết. Điều đó tốt bởi vì sự sống vẫn còn
là điều bí ẩn, điều kinh ngạc thường xuyên. Người ta cảm
thấy ngạc nhiên ở mọi bước; sự kính nể lớn lao bao quanh
người ta.
Nhưng hiểu lầm bao giờ cũng có thể. Bởi vì tôi nói,
"Không cố cải tiến, không làm gì là tốt nhất," điều đó không
ngụ ý rằng bạn trở nên bất hoạt. Nó đơn giản ngụ ý bạn
không làm bất kì nỗ lực nào để cải tiến mọi sự, bạn thảnh
thơi. Bạn sẽ vẫn làm mọi thứ, nhưng bây giờ sẽ không có nỗ
lực trong việc làm của bạn, sẽ không có người làm trong
việc làm của bạn; chúng sẽ đơn giản xảy ra.

481
Khi bạn cảm thấy đói bạn sẽ ăn; điều đó không phải là
làm. Khi bạn không cảm thấy đói và bạn ép buộc bản thân
bạn phải ăn, đó là làm. Ép buộc là làm. Khi bạn cảm thấy
buồn ngủ bạn ngủ; đó không phải là làm. Nhưng khi bạn
không cảm thấy buồn ngủ và bạn ép buộc bản thân bạn ngủ,
đó là làm. Khi bạn cảm thấy buồn ngủ lắm, nhưng cứ cố
thức, đó là làm. Khi giấc ngủ qua rồi theo cách riêng của nó
và mắt bạn mở ra, đó không phải là làm.
Ăn khi đói, uống khi khát, ngủ khi buồn ngủ. Buông bỏ!
Không cố vật lộn, không làm sự sống thành xung đột. Tận
hưởng nó! Và thế thì từng khoảnh khắc là quí giá và bạn sẽ
không bao giờ cảm thấy bất lực và bạn sẽ không bao giờ
cảm thấy rằng không cái gì đang tốt hơn lên, bởi vì bạn
không trông đợi nó tốt lên.
Nó đã là thế giới tốt nhất có thể có được, sự tồn tại hoàn
hảo nhất có thể có được. Nhưng bản ngã của bạn muốn cải
tiến mọi thứ. Bạn nghĩ bạn biết giỏi hơn bản thân sự tồn tại
sao? Bạn chỉ là một phần nhỏ bé của nó thôi, bạn chỉ là một
gợn sóng nhỏ trong đại dương vô hạn - và bạn đòi cải tiến
đại dương sao? Điều đó chỉ là ngu xuẩn! Thảnh thơi đi!
Nhảy múa trong ánh mặt trời khi bạn hiện hữu! Hát bài ca
đi! Hiện hữu là đẹp và không hiện hữu cũng là đẹp. Khi
sóng dâng lên, tốt. Trong một khoảnh khắc tận hưởng bầu
trời, không khí, gió, mặt trời, mưa. Và khi sóng biến mất,
tốt; đi vào nghỉ ngơi sâu sắc.
Không cái gì đã từng sinh ra và không cái gì đã từng
chết đi. Mọi sự chỉ chuyển giữa biểu lộ và không biểu lộ.
Chúng trở nên thấy được, chúng trở nên không thấy được.
Trở nên không thấy được là chỗ nghỉ ngơi. Cũng như sau
mỗi ngày bạn cần giấc ngủ say trong đêm để làm tươi tắn lại
bạn, để làm cho bạn lại trẻ trung và tươi tắn, theo cùng cách
đó sau mỗi cuộc sống bạn cần chết. Chết là giấc ngủ sâu hơn

482
và không gì khác. Sau mỗi cuộc sống thân thể bạn mệt mỏi
thế, bạn cần một thân thể mới, một biểu lộ mới. Con sóng cũ
biến mất, nhưng nước ở con sóng đó vẫn còn trong đại
dương; nó sẽ lại tới trong con sóng mới. Cái cũ liên tục trở
thành cái mới - cho phép điều đó đi. Bạn đơn giản cho phép
sự sống và đi cùng nó trong tin cậy sâu sắc.
Đây là điều tôi gọi là tính tôn giáo - sự tin cậy này. Nó
không phải là niềm tin. Niềm tin bao giờ cũng trong giáo
điều, tín điều, lí thuyết, triết lí, ý thức hệ. Đây không phải là
niềm tin, đây đơn giản là việc tin cậy vào sự tồn tại. Chúng
ta đã bắt nguồn từ nó, nó là cội nguồn của chúng ta. Chúng
ta không phải là người ngoài cuộc, chúng ta là người trong
cuộc. Và chúng ta sẽ trở lại cội nguồn - nó là cội nguồn của
chúng ta. Đi ra từ nó là tốt, đi về lại nó là tốt. Tất cả đều tốt!
Việc cảm thấy điều đó đem lại niềm hân hoan - tất cả đều
tốt. Đó là nghĩa của việc tin cậy vào Thượng đế: rằng tất cả
là tốt.
Bạn đang lâm vào rắc rối một cách không cần thiết; bạn
đang cố cái gì đó một cách ngớ ngẩn. Bạn đang cố kéo bạn
lên bằng chiếc dây buộc giầy của riêng bạn. Bạn sẽ cảm
thấy bất lực - bạn không thể làm được điều đó. Bạn giống
như con chó vồ đuôi nó; điều đó là không thể được. Con chó
càng nhảy nhanh, cái đuôi càng chuyển động nhanh. Nó sẽ
làm cho con chó phát rồ!
Người ta nói rằng nếu bạn muốn một triết gia vẫn còn
bận rộn, chỉ cần đưa cho ông ta một mẩu giấy và trên cả hai
mặt đều viết P.T.O., thế là ông ấy sẽ nhìn mặt này rồi lật
mặt kia, và rồi lại P.T.O. lại có đó, thế là ông ta sẽ lật nó
lại... và ông ta sẽ phát rồ - nhưng ông ta sẽ vẫn còn bận rộn!
Bạn đang mang tính triết lí quá nhiều. Bạn hỏi tôi:

483
Thầy nói rằng trống rỗng là phúc lạc...

Tôi không nói - nó là vậy đấy! Ais dhammo sanantano.


Và điều bạn nói, là bạn nói đấy nhé. Tôi không nói, "Trống
rỗng là phúc lạc." Tôi có thể làm được gì? Nó là vậy! Nó là
kinh nghiệm của tôi, và điều bạn nói đơn giản là một phát
biểu không có kinh nghiệm nào. Bạn đã không trải nghiệm
trống rỗng, nhưng bây giờ xem bạn đã làm ra vấn đề lớn làm
sao từ cái gì đó mà bạn đã không trải nghiệm.

Bạn nói: Với tôi điều đó dường như là đờ đẫn và


đáng chán.

Dường như bạn đã trải nghiệm nó! Nghĩ lại về vấn đề


này đi. Bạn đã bao giờ trải nghiệm trống rỗng chưa? Và
trong trống rỗng làm sao có thể có chán được? Nếu có chán
nó không trống rỗng - nó đầy những chán! Nếu có đờ đẫn nó
không trống rỗng; tâm trí có đó đang cảm thấy đờ đẫn, cảm
thấy chán. Trống rỗng không thể chán được, nó không thể
đờ đẫn được. Trống rỗng đơn giản là trống rỗng - mọi thứ.
Bạn không thể nói được bất kì cái gì về nó. Nhưng bạn đã
không trải nghiệm nó, bạn chỉ nghĩ về nó thôi.
Vâng, nếu bạn nghĩ về trống rỗng nó sẽ có vẻ như chán,
nó sẽ có vẻ đờ đẫn, nó sẽ có vẻ chết. Nhưng những người đã
trải nghiệm nó - Phật, Jesus, Zarathustra, Lão Tử, Trang Tử,
Mahavira, Bồ đề đạt ma, Bahauddin, Nanak, Kabir - không
một người nào đã nói rằng nó là chán. Bạn thực sự là ngoại
lệ đấy! Nếu bạn đã trải nghiệm nó thế thì bạn đang phủ nhận
mọi người đã chứng ngộ - nhưng bạn chưa trải nghiệm nó
chút nào. Tôi có thể nói điều đó bởi vì tôi biết trống rỗng là
gì.

484
Khi tôi nói trống rỗng là phúc lạc tôi không nói rằng
trống rỗng là đầy phúc lạc - đừng hiểu lầm tôi. "Trống rỗng
là phúc lạc" đơn giản làm cho bạn nhận biết về sự đồng
nghĩa của chúng. Bạn có thể gọi nó là trống rỗng hay bạn có
thể gọi nó là phúc lạc; cả hai từ là đồng nghĩa. Trống rỗng là
phúc lạc bởi vì không có cái gì có thể làm chán bạn, không
có cái gì có thể làm cho bạn cảm thấy đờ đẫn, không có cái
gì có thể tạo ra lo âu, không có cái gì có thể làm cho bạn sợ,
không có cái gì có thể tạo ra phiền não. Không có gì hết cả!
Bởi vì không có gì, toàn thể tâm trí mất đi, trạng thái đó
được gọi là phúc lạc. Người ta có thể gọi nó là trống rỗng,
người ta có thể gọi nó là phúc lạc; đây chỉ là hai cách diễn
đạt cho cùng một hiện tượng.
Và, Alexander, đừng là kẻ hèn. Bạn có cái tên vĩ đại thế
- Alexander - đừng là kẻ hèn! Nhưng bản thân Alexander đã
là kẻ hèn theo nghĩa này. Ông ấy được Diogenes, một trong
những nhà huyền bí vĩ đại nhất của thời ông ấy, nói cho
rằng, "Dừng nỗ lực ngu xuẩn chinh phục thế giới này đi.
Nhìn ta đây! Không chinh phục thế giới nhưng ta đã chinh
phục rồi!"
Và Alexander nhìn vào Diogenes và cảm thấy cái đẹp
của con người này, sự duyên dáng của con người này. Ông
ấy nằm trần trên bờ con sông nhỏ, tắm nắng mặt trời buổi
sáng. Chỗ đó tuyệt đối im lặng, và Diogenes trông đẹp tới
mức Alexander cảm thấy ghen tị lần đầu tiên trong đời
mình. Alexander có mọi thứ, ông ấy đã chinh phục toàn thế
giới. Chỉ mỗi Ấn Độ còn bị bỏ lại, cho nên ông ấy đã tới Ấn
Độ và chắc chắn là ông ấy sẽ chinh phục Ấn Độ nữa. Nhưng
ông ấy cảm thấy ghen tị với Diogenes, một sư khổ hạnh trần
trụi không có gì, thậm chí không có cả bình bát ăn xin. Phật
ít nhất còn hay mang bát ăn xin, nhưng Diogenes đã vứt bát
ăn xin đi bởi vì một hôm ông ấy thấy con chó uống nước

485
sông, và ông ấy lập tức vứt bát ăn xin vào dòng sông, nói
với con chó, "Thưa thầy, thầy đã dạy cho ta một bài học lớn!
Nếu thầy có thể xoay xở không cần bát ăn xin, sao ta không
thể làm được?"
Ông ấy không có gì cả, ấy vậy mà ông ấy có cái gì đó bị
thiếu trong Alexander. Alexander lập tức nói rằng, "Nếu lần
sau Thượng đế bảo ta quay lại thế giới này, ta muốn là
Diogenes chứ không là Alexander." Nhưng, lưu ý bạn, ông
ấy nói "lần sau" - trì hoãn cho kiếp sau.
Alexander đã cười vì ông ấy đã nói điều gì đó lớn lao.
Ông ấy nghĩ Diogenes sẽ tán thưởng - nhưng Diogenes nói,
"Đừng là kẻ ngu! Đừng cố lừa ta! Ông ngụ ý gì, 'lần sau'
sao? Nếu ông quan tâm tới việc là Diogenes, sao không
ngay bây giờ? Bây giờ hay không bao giờ! Và ai ngăn cản
ông? Thượng đế không ngăn cản ông. Cái bờ này đủ lớn cho
cả hai chúng ta. Quẳng quần áo xuống sông đi, nằm ra, tắm
nắng! Và ông thậm chí không cần bận tâm về thức ăn, bởi vì
ta đi xin ăn, và ta sẽ đem đủ về cho ông nữa. Ông đơn giản
nghỉ ngơi ở đây, quên hết tất cả về thế giới đi. Là Diogenes
ngay bây giờ!"
Alexander nói, "Điều đó thì khó. Ngay bây giờ ta không
thể làm được điều đó, nhưng ta sẽ tới một ngày nào đó.
Trước hết ta phải kết thúc việc chinh phục của mình - ta
phải chinh phục toàn thế giới!"
Và Diogenes nói, "Hai điều ta phải nói. Một: nhớ, nếu
ông đã chinh phục xong toàn thế giới, thế thì ông sẽ làm
gì?" Và Alexander mới chỉ ba mươi hai tuổi vào lúc đó.
"Ông sẽ làm gì khi ông đã chinh phục xong toàn thế giới?
Ông có biết không? Không có thế giới khác! Ông sẽ lúng
túng! Ít nhất ngay bây giờ ông đang bận bịu, bận rộn, công
việc bên ngoài, nhưng nếu ông chinh phục toàn thế giới thế

486
thì vấn đề thực sẽ nảy sinh: làm gì tiếp đây? - bởi vì không
có thế giới khác."
Và tương truyền, Alexander cảm thấy buồn ngay cả
nghe ý tưởng rằng không có thế giới khác. Ông ta bị sốc.
Ông ta lập tức cảm thấy nỗi buồn lớn lao hạ xuống mình và
ông ta nói, "Đừng nói những điều buồn như vậy với ta.
Trước hết để ta chinh phục cái này đã và thế rồi ta sẽ xem.
Và ta sẽ tới thăm ông khi ta đã chinh phục toàn thế giới."
Diogenes nói, "Không người nào quay lại đâu - ông sẽ
không có khả năng quay lại đâu. Đừng chắc chắn thế về
tương lai. Người ta chỉ có thể chắc chắn về khoảnh khắc này
thôi."
Và thực tại sự việc đã xảy ra theo cách đó: Alexander
đã chết trên đường; ông ta không bao giờ trở về nhà. Ông ta
chỉ mới ba mươi ba khi ông ta chết, và ông ta đã thực sự
chết vì cùng lí do mà Diogenes đã chỉ cho ông ta. Khoảnh
khắc ông ta chinh phục Ấn Độ ông ta đã trở nên rất thất
vọng, nhiều tới mức ông ta trở nên nghiện rượu; ông ta bắt
đầu uống quá nhiều. Làm gì bây giờ? Ông ta chết vì uống
quá nhiều, ông ta chết như người nghiện rượu. Ông ta tự giết
mình - đó là tự tử. Bằng không ông ta hoàn toàn mạnh khoẻ,
nhưng ông ta đã liên tục uống rượu cả ngày lẫn đêm.
Tên bạn là Alexander - nhận biết chút ít đi! Đừng làm
cùng điều ngu xuẩn nữa. Bạn đã tới lần tiếp, và dầu vậy bạn
đã không muốn trở thành sannyasin! Và tôi không là ai khác
ngoài Diogenes đang yêu cầu bạn: Lấy cú nhảy đi, trở thành
sannyasin! Không cái gì sẽ thay đổi, nhưng mọi thứ sẽ trở
nên đẹp. Cám ơn nhé!
Phật khăng khăng gọi nó là trống rỗng, shunyata, và
Upanishad khăng khăng gọi nó là phúc lạc - và họ đang nói
về cùng một hiện tượng. Sự khăng khăng của Phật là tốt hơn

487
nhiều bởi vì nó áp dụng được nhiều hơn cho bạn. Bạn nhất
định hiểu lầm Upanishad bởi vì cách nói của Upanishad là
khẳng định. Nó nói đó là phúc lạc, và trong bạn điều đó nhất
định tạo ra tham; bạn bắt đầu tìm kiếm phúc lạc. Bạn khổ và
bạn muốn phúc lạc, bạn ham muốn phúc lạc; bạn bắt đầu
làm mọi nỗ lực để cải tiến mọi thứ để cho bạn có thể được
phúc lạc. Bạn đi lạc lối bởi vì từ "phúc lạc" và tính khẳng
định của nó.
Phật trở nên nhận biết về hiện tượng này. Hai mươi
nhăm thế kỉ đã trôi qua giữa Phật và Isa Upanishad. Isa
Upanishad hoàn toàn đúng - nó là phúc lạc - nhưng nói điều
đó cho bạn là không đúng vì bạn nhất định hiểu lầm nó. Do
đó Phật đã đổi toàn thể cách diễn đạt; ông ấy nói nó là trống
rỗng.
Việc gọi nó là trống rỗng có tầm quan trọng mênh
mông bởi vì không ai muốn trống rỗng - Alexander không
muốn trống rỗng. Nó không tạo ra tham trong bạn. Ai sẽ
tham trống rỗng? Chính tính phủ định của nó phá huỷ tham
lam, ham muốn, tham vọng và bản ngã.
Và Phật được hỏi đi hỏi lại mãi, "Điều gì xảy ra khi
người ta trở thành trống rỗng?" và ông ấy sẽ vẫn còn im
lặng. Ông ấy sẽ nói, "Đừng hỏi ta. Ông trở thành trống rỗng
đi và thấy điều xảy ra." Ông ấy sẽ không bao giờ nói, "Phúc
lạc xảy ra," bởi lẽ đơn giản vì bạn sẽ lập tức nhảy vào ý
tưởng về phúc lạc. Và với bạn phúc lạc sẽ chỉ ngụ ý hoan
lạc, nhiều nhất là hạnh phúc - cái gì đó của tâm trí, cái gì đó
của thân thể - nhưng nó sẽ không đích xác phúc lạc là gì.
Nó không phải của thân thể không phải của tâm trí. Nó
là siêu việt - siêu việt trên mọi điều bạn biết, trên mọi điều
bạn đã trải nghiệm, trên mọi cái bạn đang là vậy. Tốt hơn cả
gọi nó là trống rỗng; điều đó chặt bạn từ chính rễ.

488
Nhưng hai mươi nhăm thế kỉ đã trôi qua kể từ Phật, và
mọi người vẫn còn ngu xuẩn tới mức họ sẽ hiểu nhầm mọi
thứ. Họ đã hiểu nhầm Isa Upanishad nói về phúc lạc. Phật
đã cố chuyển sang cực đoan kia, bắt đầu gọi trạng thái tối
thượng là trống rỗng, shunyata, chỉ là số không, số không
thuần khiết và không cái gì. Điều đó có tác dụng cho thời
đó, khi ông ấy còn sống. Nó bao giờ cũng có tác dụng khi
Thầy còn sống - nó có tác dụng. Mọi phương pháp trở thành
phép thần khi Thầy còn sống, mọi lời trở thành có ý nghĩa
khi Thầy còn sống. Chính sức thu hút, chính sự hiện diện
của Thầy làm cho mọi sự có tác dụng. Đó là phép thần của
thầy.
Một khi Phật đã qua rồi, cùng những người đã hiểu lầm
từ "phúc lạc" bắt đầu hiểu lầm từ "trống rỗng". Những người
như Alexander, họ bắt đầu nghĩ trống rỗng là chán, trống
rỗng là đờ đẫn, trống rỗng không là gì ngoài cái chết. Phỏng
có ích gì mà đạt tới trống rỗng? Không biết gì về trống rỗng
họ bắt đầu kết án nó.
Phật giáo đã bị bật rễ tại Ấn Độ bởi lẽ đơn giản là Phật
đã dùng các thuật ngữ phủ định toàn bộ, và Ấn Độ đã trở
nên quen thuộc với thuật ngữ tích cực, khẳng định. Phật
dường như rất kì lạ, không thuộc vào truyền thống, đối
kháng với truyền thống. Ông ấy đã cố giúp đỡ.
Bây giờ tôi đang cố làm cả hai mọi sự cùng nhau. Tôi
đang nói phúc lạc là trống rỗng - một nỗ lực khác.
Upanishad đã nói nó là phúc lạc, Phật đã nói nó là hư
không. Bạn có thể đã trốn khỏi cả hai; tôi đang cố bắt giữ
lấy bạn từ cả hai phía. Tôi nói trống rỗng là phúc lạc, phúc
lạc là trống rỗng.
Bạn đang nói những điều mà bạn chưa trải nghiệm chút
nào. Bạn nói:

489
Khi không có gì tôi không thể thấy được cái đẹp
nào trong nó.

Khi không có cái gì, bạn cho rằng bạn sẽ có đó sao? Khi
không có gì bạn sẽ không có đó! Sẽ có cái gì đó mà không
thể được gọi là "tôi", cái không thể được đồng nhất với bản
ngã. Cho nên ai sẽ có đó để thấy cái đẹp? Sẽ không có cái
đẹp và sẽ không có cái đẹp và sẽ không có người thấy, sẽ
chỉ có im lặng: không tôi, không anh, không chủ thể, không
đối thể - không nhị nguyên... tính một thuần khiết, im lặng
hoàn toàn.
Nhưng bạn bị mắc, bạn bị mắc vào trong lời riêng của
bạn.

Bạn nói: Tôi chán ngán với nó.

Dường như bạn đang sống trong nó - bạn chán ngán nó.
Bạn thậm chí chưa nếm trải một giọt của hư không, trống
rỗng, và bạn chán ngán nó. Tâm trí thủ đoạn làm sao! Tâm
trí tinh ranh làm sao! Và chính trị làm sao mà nó tìm ra cách
né tránh những điều nào đó. Nó hợp lí hoá làm sao!
Một tháng trước đây một người bạn, Ajai Krishn
Lakhanpal, đã hỏi tôi - ông ta đã viết một bức thư - "Osho
ơi, tôi sẵn sàng nhận tính chất sannyas hôm nay. Nếu thầy
cho tôi tính chất sannyas hôm nay tôi sẵn lòng, tôi sẵn sàng
buông xuôi. Nhưng lựa chọn riêng của tôi sẽ là," ông ta nói,
"là tôi muốn nhận tính chất sannyas sau một tháng nữa, từ
25 tháng mười, bởi vì đó là ngày sinh nhật của tôi."
Xem cái "nhưng" của ông ấy... bởi vì tôi không thích
"nhưng". Ngoài ra, khi ai đó yêu cầu tính chất sannyas tôi
nhấn mạnh bây giờ. Cái gì có thể được nói về ngày mai?

490
Bạn không thể chắc chắn về ngày mai được. Ngày mai có
thể tới, có thể không tới. Cho dù nó có tới, tâm trí bạn
thường xuyên thay đổi. Làm sao bạn có thể chắc chắn về
ngày mai được? Ngày mai tâm trí bạn có thể đem cho bạn ý
tưởng khác nào đó.
Thấy cái "nhưng"của ông ta... đó là lần đầu tiên tôi cho
phép ông ta, người đầu tiên tôi đã cho phép - chỉ vì sự thay
đổi, để xem điều xảy ra. Tôi nói, "Thôi được, ngày 25 tháng
mười nhé, ấn định rồi. Bạn nhận tính chất sannyas vào ngày
25 tháng mười." Hôm qua là 25 tháng mười. Tôi bảo Sheela
gọi cho Ajai Krishn và hỏi ông ta, "Có chuyện gì vậy? 25 đã
tới rồi!" Bây giờ ông ta đã tìm ra cách hợp lí hoá. Tôi đã
trông đợi; cái "nhưng" đó là đủ chỉ ra cho tôi rồi. Ông ta đã
tìm ra cách hợp lí hoá.
Bây giờ ông ta nói - ông ta lại viết một bức thư - "Tôi
biết rằng tôi đã hứa với thầy để nhận tính chất sannyas vào
ngày 25..." Và lúc đó ông ta đã viết rằng, "Đó là vì ngày
sinh của tôi. Và điều thứ hai là tôi muốn xin phép mẹ tôi.
Tôi biết bà ấy sẽ nói được, cho nên không có vấn đề gì về
điều đó." Còn bây giờ ông ấy nói, "Mẹ tôi đã nói được,
nhưng bà ấy nói bà ấy sẽ không thật hạnh phúc về điều đó.
Bà ấy nói, 'Được, nếu con muốn nhận tính chất sannyas con
có thể nhận, nhưng ta sẽ không thực hạnh phúc về điều đó.'
Và tôi không muốn làm tổn thương tình cảm của mẹ." Và
hơn nữa, một trong các guru của ông ta, Kammu Baba, đã
nói với ông ta vài năm trước - ông này đã chết rồi, ông này
không còn sống nữa - rằng "Đừng bao giờ làm tổn thương
tình cảm của bố mẹ ông." "... cho nên tôi không thể làm tổn
thương tình cảm của bà ấy."
Tâm trí liên tục tìm ra các cách hợp lí hoá. Nó không
bao giờ thấy sự vật một cách trực tiếp; nó cố lảng tránh. Bây
giờ nếu Kammu Baba là đúng thế thì Phật là sai. Phật làm

491
tổn thương rất nhiều tới tình cảm của bố mẹ ông ấy, vợ ông
ấy, con ông ấy. Thế thì Mahavira là sai, thế thì Jesus là sai,
thế thì Nanak là sai. Thế thì ngoại trừ Kammu Baba... và tôi
không biết liệu Kammu Baba có nói điều đó cho Ajai
Krishn hay không hay ông ta đã bịa ra điều đó, hay ông ta
đã nghĩ rằng ông ta đã nói điều đó. Thế thì toàn thể truyền
thống tâm linh sẽ là sai.
Jesus nói với các đệ tử của ông ấy, "Chừng nào các ông
chưa ghét bố mẹ các ông, các ông không thể theo ta được."
Và điều đó không là gì...
Có lần chuyện xảy ra là một vị vua lớn, Presenjit, tới
gặp Phật Gautam. Khi ông ấy ngồi trước Phật, một người
tới, chạm chân Phật - một người rất già, một trong các đệ tử
của Phật, một sannyasin - và ông này nói rằng, "Tôi bây giờ
sắp làm cuộc hành trình dài để lan truyền thông điệp của
thầy. Xin ban ân huệ cho tôi."
Phật nhìn Presenjit và nói, "Con người này là câu trả lời
của ta cho câu hỏi của ông."
Presenjit đã hỏi rằng, "Tôi muốn trở thành sannyasin,
nhưng người mẹ già của tôi có thể cảm thấy bị tổn thương -
bà ấy quá già."
Phật nói, "Nhìn người này đi. Ông ấy đã giết cả bố và
mẹ mình rồi!"
Presenjit rất bối rối: Giết sao? Cả bố và mẹ? và Phật
đang ca ngợi người này! Khi người này đi rồi Presenjit nói,
"Tôi không hiểu! Thầy ca ngợi người đó và thầy nói người
đó đã giết bố và mẹ mình!"
Phật nói, "Đúng, về mặt tâm lí. Không giết thực đâu,
không về vật lí, mà sâu bên trong người đó đã vứt bỏ việc
níu bám vào bố và mẹ?"

492
Ajai Krishn đã bốn nhăm tuổi và vẫn còn bám vào tạp
dề của mẹ! Bây giờ khi nào ông ta mới trở nên chín chắn?
Đó là thời gian. Người ta phải giết... không phải người mẹ
bên ngoài, mà việc níu bám trong thế giới bên trong của
bạn.
Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói, "Chừng nào các
ông chưa ghét bố và mẹ mình..." Ông ấy không ngụ ý rằng
ghét bố và mẹ bạn: ông ấy ngụ ý sâu bên dưới bạn phải nhổ
bật rễ toàn thể ước định, toàn thể việc níu bám, toàn thể sự
gắn bó. Chỉ thế thì bạn có thể trở nên trưởng thành, định
tâm, tiếp đất. Chỉ thế thì bạn có thể là một cá nhân theo
quyền riêng của bạn. Nhưng tâm trí liên tục tìm các chiến
lược tinh vi để né tránh thực tại.
Bây giờ, Alexander, bạn đang nói rằng, "Tôi chán ngán
với hư không, cái trống rỗng. Tôi muốn thoát ra khỏi nó."
Và bạn phải đã tin điều bạn đang viết. Bạn không có ý
tưởng gì về hư không và bạn chán ngán nó, và bạn muốn
thoát ra khỏi nó! Điều thực là làm sao có được nó chứ!

Và bạn hỏi tôi: Xin trả lời tôi, nhưng xin đừng trả
lời tôi như thế này: rằng việc lấy tính chất sannyas
sẽ làm thay đổi mọi thứ và làm cho mọi thứ đẹp
lên.

Không, nhận tính chất sannyas sẽ không làm thay đổi


cái gì nhưng nó chắc chắn sẽ làm mọi thứ đẹp lên! Thế giới
vẫn như vậy, chỉ cách nhìn, thái độ, cách tiếp cận thay đổi.

493
Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,
Giáo hoàng John Paul mới đây đã phát biểu rằng
nếu một người nhìn một cách dâm đãng vào đàn
bà, người vợ của anh ta, anh ta rất có thể phạm tội
ngoại tình trong tâm mình. Thầy nói gì về điều đó?

Gayatri,
Có thể nói gì về điều đó đây? Người Polack là người
Polack là người Polack vậy thôi! Giáo hoàng hay không
giáo hoàng, người Polack vẫn cứ là người Polack. Bây giờ
đây là điều tối thượng trong sự ngu xuẩn, người ta không thể
vượt qua nổi điều đó: ngay cả nhìn vào vợ riêng của mình
với ham muốn cũng là ngoại tình! Thế thì sao ngay chỗ đầu
tiên người ta phải lấy nhau?Chỉ để phạm ngoại tình sao?
Theo một cách nào đó ông ta đã làm cho một điều đơn
giản thành rất phức tạp. Một trong các tờ báo ở Milan dường
như là thông minh hơn nhiều. Tờ báo này viết: "Cuộc sống
là khắc nghiệt với những kẻ ngoại tình - cái vòng vô tận của
những che đậy, thủ đoạn, sắp đặt lịch hàng ngày và nhu cầu
mua quà vô ích và tốn kém cho hai người đàn bà một lúc.
Bây giờ Giáo hoàng đã loại bỏ mọi lời thề này, bởi vì bạn có
thể không chung thuỷ trong nhà riêng của bạn!" Điều này
dường như là thông minh hơn nhiều. Việc có ngoại tình với
vợ riêng của mình thực sự đẹp và lí thú. Ý tưởng lớn đấy!
Nhưng những người bị kìm nén này nhất định làm điều
như vậy.
Tôi đã đi tới biết rằng trong cả năm, cả năm qua, trong
buổi giảng đạo mọi tuần của ông ấy, ông ấy đã nói về dục -

494
vì cả năm kết án, kết án... Bây giờ tại sao ông ấy quan tâm
nhiều thế tới dục, vì một năm liên tục kết án sao? Phải có cái
gì đó bên trong ông ấy, vết thương nào đó chưa lành.

Tại văn phòng tư vấn hôn nhân người chồng buộc tội vợ
mình lãnh cảm.
"Điều đó không đúng!" cô ấy nói. "Tôi không chấp
thuận quan hệ dục." Thế rồi quay từ chồng mình sang nhà tư
vấn cô ấy tiếp tục, "Nhưng tên quỉ sứ dục này trông đợi điều
đó mọi tháng!"

Người đàn bà này phải là một người Thiên chúa giáo!


Người Thiên chúa giáo đã làm một trong những điều tai hại
lớn nhất cho nhân loại. Ki tô giáo đã là một trong những tôn
giáo mang tính kìm nén nhất; điều đã xảy ra từ việc kìm nén
này chính là cái đối lập lại nó. Điều đó nhất định xảy ra, nó
là không tránh khỏi. Con lắc phải đung đưa sang cực đoan
kia ở phương Tây, và trách nhiệm toàn thể và duy nhất nằm
trên vai của nhà thờ. Mọi người đã trở nên mê đắm, mọi
người đã trở nên thực sư quá bị ám ảnh bởi dục.
Trong hai nghìn năm Ki tô giáo, đặc biệt là Nhà thờ
Thiên chúa giáo, đã từng kìm nén, kết án. Nhưng bây giờ
một điểm đã tới khi núi lửa đã bùng phát ra. Điều bạn thấy
bây giờ ở phương Tây là sự mê đắm cùng cực, xấu xí.
Dục là đẹp, nhưng nó có thể trở thành xấu theo hai
cách: hoặc bạn trở nên bị kìm nén - điều đó trở thành xấu;
hoặc bạn trở nên bị mê đắm - điều đó trở thành xấu. Dục là
đẹp nếu nó được chấp nhận một cách tự nhiên, như một
phần của cuộc sống. Không cần phải kết án nó, không có

495
nhu cầu ca ngợi nó nữa. Khi nào nhân loại sẽ chấp nhận mọi
thứ một cách dễ dàng, theo cách thức thảnh thơi?
Nhưng những người này đã không học bài học nào cả,
và họ diễn giải các kinh sách theo sự rối loạn bên trong
riêng của họ.
Điều Giáo hoàng Polack đã làm đơn giản là đưa ra lời
bình luận về một trong những phát biểu của Jesus. Phát biểu
này hoàn toàn khác, nhưng chỉ là trò múa rối từ ngữ, chỉ
thay đổi chút ít, và toàn thể sự việc đã đi sai.
Đây là phát biểu nguyên bản của Jesus. Jesus nói: "Các
ông đã nghe điều được nói, 'Các ông không nên phạm ngoại
tình.' Nhưng ta nói với các ông rằng mọi người nhìn đàn bà
một cách dâm đãng đều đã phạm ngoại tình với cô ấy từ
trong tâm của mình."
Bây giờ đàn bà là một việc và vợ là việc hoàn toàn
khác. Người Polack này đã đọc "vợ" thay vì "đàn bà" - vợ
riêng của bạn! Và tất nhiên ông ta có thể chơi chữ. Ông ta
có thể nói, "Tất nhiên vợ bạn cũng là đàn bà." Đúng, nhưng
nghĩa của việc cô ấy là vợ bạn là gì? Sao người ta lấy nhau?
Để sống cuộc sống tình dục tự nhiên, không rắc rối. Nhưng
thay đổi từ "đàn bà" thành "vợ" thực sự là xấu; điều đó
chống lại Jesus, điều đó không đúng với thông điệp của ông
ấy. Nhưng bạn không thể trông đợi cái gì tốt hơn từ người
Polack.

Làm sao bạn nhận ra một người Polack trong cửa hàng
giầy tấp nập?
Anh ta là người cố đi hộp đựng giầy.

496
Bây giờ cố đổi đàn bà thành vợ là đích xác giống như
vậy đó - cố đi hộp đựng giầy thay vì đi giầy!

Hai người Polacks đang lái chiếc xe tải cao ba mét. Họ


lái qua một biển báo hiệu chỉ ra có đường hầm phía trước
cao hai mét. "Cứ bỏ qua cái biển báo này đi, Sol. Tôi biết
rằng vào lúc này trong ngày cảnh sát không tới đó đâu!"

Wykowsky, người lau cửa sổ, được một chủ nhà gọi tới
để làm ước lượng. "Lau các cửa sổ trên tầng trệt mất bao
nhiêu?"
Wykowsky lôi ra một tập giấy, viết nguệch ngoạc một
phút rồi đáp, "Hai đô la một cửa sổ."
"Trên tầng hai?" người chủ nhà hỏi.
Wykowsky lại viết trên tập giấy và trả lời, "Một đô la
năm mươi xen một cửa sổ."
"Thế tầng hầm?"
"Năm đô la một cửa sổ,' Wykowsky nói.
"Đợi một phút nhé!" ngời chủ nhà nói. "Ông tính thế
nào mà hai đô la cho cửa sổ ở tầng thứ nhất, một đô la rưỡi
cho tầng hai, và ông lại đòi năm đô la cho từng cửa sổ ở
tầng hầm?"
"Thưa ông ấy," người Polack nói, "ông không nhận ra
kích cỡ của cái hố tôi phải đào để đặt thang vào à?"

Tại đám cưới người Ba lan:

497
Buổi lễ đã xảy ra tại phòng khiêu vũ của khách sạn thị
trấn. Người chồng mới cưới đi xuống từ phòng cô dâu và
nói với một anh bạn thân, "Người bạn thân nhất của tôi anh
ấy ở trên gác trên giường với vợ tôi!"
"Anh định làm... anh định làm gì về điều đó?" bạn anh
ta hỏi.
"Không làm gì cả," người Polack đáp. "Anh ấy say đến
mức anh ấy cứ nghĩ anh ta là tôi."

Người Polack đã trong tuần trăng mật, nhưng anh ta quá


thiếu kinh nghiệm để biết sự khác biệt giữa yêu và cuồng
dâm, bởi vì anh vừa mới trốn khỏi tu viện Thiên chúa giáo.
Sáng đầu tiên sau lễ cưới anh ta dậy, bước tới cửa sổ
khách sạn, và nâng bức rèm cửa lên. Hôm đó trời tối và và
âm u và mưa rơi như trút. Chán nản, anh ta hạ rèm xuống và
trèo lại giường.
Sáng hôm sau anh thanh niên lại dậy và nâng bức rèm
lên. Trời vẫn còn mưa. Thêm lần nữa anh ta hạ nó xuống và
bò trở lại vào giường.
Sáng thứ ba anh ta loạng choạng trèo ra khỏi giường,
lảo đảo đi tới nâng bức rèm - và đi theo nó.

Mọi điều tôi có thể nói: rằng người ta không thể trông
đợi cái gì tốt hơn từ Giáo hoàng - ông ấy là người Polack
thuần tuý! Điều ông ấy đã nói là tuyệt đối ngớ ngẩn - ngoại
tình tinh thần với vợ riêng của người ta sao? Nhưng theo
một cách nào đó đây là một trong những ý tưởng cổ hủ nhất
trong Nhà thờ Thiên chúa giáo. Hoan lạc dục là điều đáng
ngờ. Thực ra, mọi hoan lạc là đáng ngờ. Cái gọi là những

498
người tôn giáo này sợ hoan lạc, họ chống lại mọi hoan lạc.
Họ muốn cuộc sống của bạn trở thành hoàn toàn chán
chường, âm u, rầu rĩ tới mức bạn nhất định bắt đầu tìm kiếm
cuộc sống khác nào đó - cuộc sống bên ngoài cái chết. Toàn
thể nỗ lực của họ là để phá huỷ cuộc sống của bạn ở đây bây
giờ toàn bộ tới mức chỗ trú ẩn duy nhất được để lại cho bạn
là trong cuộc sống sau chết. Thế thì bạn trở thành sẵn có để
các tu sĩ khai thác.
Nếu bạn hạnh phúc, nếu bạn tận hưởng cuộc sống, nếu
bạn sống từng khoảnh khắc với niềm vui, điệu vũ trong tâm
và bài ca trên môi, nếu cuộc sống của bạn là niềm vui cực
độ, bạn sẽ không bận tâm nhiều về nhà thờ và đền chùa. Nếu
cuộc sống của bạn là lễ hội rồi, ai chăm lo tới cuộc sống cõi
bên kia? Chính khoảnh khắc này, nếu bạn sống một cách
toàn bộ, mọi bận tâm về tương lai biến mất.
Và những nhà thờ này, những tu sĩ này, tất cả đều phụ
thuộc vào ham muốn của bạn về cuộc sống tương lai. Toàn
thể chiến lược của họ là phá huỷ niềm vui của bạn ở đây để
cho bạn trở nên quan tâm tới niềm vui của cuộc sống trên
cõi trời. Và bạn thấy không? - cái họ phủ nhận ở đây họ
cung cấp ở đó.
Ở đây họ nói rằng yêu đàn bà là tội lỗi. Còn trên cõi trời
thì sao? - bạn được cung cấp đàn bà đẹp. Trong một số tôn
giáo thậm chí con trai đẹp cũng sẽ có sẵn cho bạn, cho nên
những người đồng tính khỏi phải lo nghĩ! Ở đây họ kết án
rượu và ở đó suối rượu tuôn chảy, trên cõi trời. Ở đây họ
khăng khăng cấm đoán và ở đó mọi cái bị phủ nhận và bị
cấm đều được làm thành có sẵn theo cả nghìn cách.
Người Hindu nói rằng mọi hoan lạc là sai, nhưng ở cõi
trời bạn sẽ ngồi dưới cây thoả ước - kalpavrishkas - và bất
kì cái gì bạn muốn sẽ lập tức được đáp ứng, ngay tức khắc,
thậm chí không một khoảng cách thời gian giữa ham muốn
499
và việc đáp ứng nó. Một cách tự nhiên họ phải phá huỷ mọi
khả năng ở đây để cho bạn trở nên bị tập trung vào tương
lai. Và thế rồi họ có thể khai thác bạn, bởi vì họ có chìa
khoá của tương lai.
Nếu bạn là người Thiên chúa giáo chỉ thế thì bạn có thể
được cứu; hay nếu bạn là người Mô ha mét giáo chỉ thế thì
bạn có thể được cứu; hay nếu bạn là người Hindu chỉ thế thì
bạn có thể được cứu. Chiến lược là như nhau, thủ đoạn là
như nhau. Mọi tu sĩ đã dùng cùng bí mật thương mại này:
phá huỷ hoan lạc trong cuộc sống của mọi người, làm cho
họ khổ nhất có thể được - một khi họ khổ, họ nhất định sụp
xuống dưới chân bạn và cầu xin lời khuyên và hướng dẫn
của bạn.
Không có gì sai trong hoan lạc. Ngay cả trong hoan lạc
vật lí cũng không có gì sai; đó là món quà của Thượng đế.
Nếu Thượng đế mà chống lại thân thể, ngài chắc sẽ không
trao cho bạn thân thể ngay chỗ đầu tiên; nếu ngài chống lại
dục ngài chắc sẽ không trao cho bạn năng lượng dục, ham
muốn dục và niềm khao khát. Nếu mọi điều này được tự
nhiên trao cho bạn, chúng là tự nhiên. Vâng, một điều là
chắc chắn: đừng vẫn còn bám lấy hoan lạc vật lí bởi vì có
những khả năng cao hơn, tiềm năng lớn hơn trong bạn.
Cho nên tôi nói hoan lạc vật lí là đẹp ở chỗ riêng của
nó, nhưng nó không phải là mục đích của cuộc sống. Bạn có
thể có hoan lạc tâm lí; hoan lạc tâm lí được gọi là hạnh
phúc. Nghe bản nhạc hay - Beethoven hay Mozart hay Ravi
Shankar - nghe bài thơ lớn - Kalidas, Balbhuti Shakespeare,
Milton - nghe tự nhiên - chim chóc, gió luồn qua cây cối,
điệu vũ của cây trong ánh mặt trời, hay nhìn vào bức tranh
đẹp, bức điêu khắc, kiến trúc vĩ đại - đây là hoan lạc của tâm
trí.

500
Hoan lạc vật lí chỉ có hai thứ: thức ăn và dục. Không gì
sai trong chúng, cho nên đừng kìm nén chúng, bởi vì kìm
nén sẽ đem tới đam mê. Chấp nhận chúng theo cách đơn
giản, hồn nhiên, và thế rồi đi lên trước. Đó không phải là
mục đích, đó chỉ là chỗ bắt đầu của cuộc hành trình.
Và ngay cả hoan lạc của tâm trí không phải là mục đích;
thế rồi có các niềm vui của linh hồn. Thiền, im lặng, cầu
nguyện, đây là niềm vui của thiền, niềm vui của linh hồn.
Và vẫn còn có cái tối thượng, turiya, cái thứ tư - thậm chí đi
ra ngoài cái ngã. Đó là điều Phật gọi là đạt tới số không, hư
không: chỉ hiện hữu, không có ý tưởng nào về "tôi". Điều đó
không thể nào diễn đạt nổi; nó được gọi là phúc lạc.
Đây là bốn bình diện: hoan lạc, hạnh phúc, niềm vui,
phúc lạc. Và bạn càng lên cao hơn, bạn càng trở nên giầu có
hơn. Nhưng nhớ, cái cao hơn chứa cái thấp hơn. Cái tối
thượng, cái thứ tư, là thứ tư chỉ bởi vì nó chứa tất cả ba. Nó
không chống lại cả ba: ba cái kia là nền tảng của nó, các bậc
đá, chiếc thang. Cái cao hơn chứa cái thấp hơn; cái thấp hơn
không chứa cái cao hơn. Một khi điều này được hiểu ra, thế
thì cái thấp hơn là tốt khi nó diễn ra, mặc dầu nó không đi
đủ xa.
Cho nên đi xa như nó đi được đi, nhưng đừng dừng lại
ở đó. Vẫn còn có nhiều thứ của cuộc sống. Thám hiểm đi!
Đi từ thân thể sang tâm trí, từ tâm trí sang cái ngã, và từ cái
ngã sang vô ngã, anatta, hư không. Chỉ thế thì bạn biết cái
không biểu lộ tối thượng của con người bạn. Điều đó là
phúc lạc, việc nở ra của hoa sen một nghìn cánh.
Và điều cuối cùng: điều Giáo hoàng Polack Pope đã nói
là mang tính chất trịch thượng nam. Ông ấy nói về đàn ông
thèm khát đàn bà nhưng không có điều ngược lại. Đàn bà
không được xét tới chút nào - họ không đáng xem xét.
Không ai bận tâm về họ. Ông ấy nói về đàn ông, rằng đàn
501
ông không nên thèm khát đàn bà, nhưng không nói về đàn
bà. Đàn bà thì sao? Không cái gì phải được nói. Họ không
được tính tới như con người; họ là món hàng, còn thấp hơn
nhiều. Họ không có tương lai nào, họ không thuộc vào thế
giới tâm linh.
Trong nhiều thế kỉ thái độ trịch thượng nam này đã
thịnh hành. Ở Ấn Độ cái gọi là thánh nhân liên tục nói mãi
rằng đàn bà là cánh cửa tới địa ngục, nhưng họ không nói
cùng điều đó về đàn ông. Họ liên tục kết án đàn bà, nhưng
họ không bao giờ nói gì về đàn ông. Nếu đàn bà làm đàn
ông mê tít, thế thì đàn ông làm đàn bà mê tít.
Nhưng ngay cả thánh nhân của bạn không là hiền nhân
thực - họ là những con lợn mang tính trịch thượng nam!
Bằng không đàn ông và đàn bà là hai mặt của cùng một
nhân loại; họ đòi hỏi có cùng sự kính trọng. Nhưng toàn thể
quá khứ đã kết án đàn bà. Nó chỉ chứng tỏ một điều, không
gì khác: rằng các thánh nhân của bạn sâu bên dưới sợ đàn
bà, do đó họ tạo ra đủ mọi loại rào chắn quanh họ, rằng "đàn
bà là cánh cửa tới địa ngục." Họ đã cố tự thuyết phục họ
rằng đàn bà chỉ toàn xương và máu và mủ và nước nhầy.
Còn họ bao gồm cái gì? - vàng, bạc, kim cương sao?
Điều đó rất kì lạ! Không một vị thánh nào nói mình bao
gồm cái gì - và ông ta bắt nguồn từ đàn bà. Từ bụng mẹ của
đàn bà ông ta chui ra, đem theo mọi máu và xương và mủ và
nước nhầy từ đàn bà, và ông ta kết án đàn bà. Ông ta thực sự
sợ, sợ bản năng dục riêng của mình; sợ bởi vì ông ta đã
được bảo cho rằng dục là tội lỗi. Và tất nhiên với ông ta đàn
bà tượng trưng cho dục.
Không ai bận tâm về đàn bà, tình huống của cô ấy là gì.
Thực ra, đàn bà rất không hăng hái khi có liên quan tới tình
dục. Không đàn bà nào có thể hãm hiếp được đàn ông, chỉ
đàn ông có thể hãm hiếp đàn bà. Bản năng dục của đàn ông
502
là năng nổ, bản năng dục của đàn bà là cảm nhận. Đàn bà có
thể sống không dục dễ dàng hơn đàn ông nhiều, do đó các ni
cô là thực hơn các sư nhiều - các sư là đạo đức giả. Nhưng
đàn bà đáng thương bị kết án liên tục.
Tôi muốn thay đổi toàn thể truyền thống xấu xí này.
Đàn bà sẽ được kính trọng chỉ khi dục cũng được kính
trọng, nhớ điều đó. Đàn bà sẽ được chấp nhận chỉ khi dục
cũng được chấp nhận là tự nhiên.
Các giáo hoàng này, các shankaracharya này, các
imams này, cái gọi là thánh nhân này đã tạo ra một tình
huống rất xấu. Nó phải bị phá huỷ hoàn toàn và sự bắt đầu
mới phải được thực hiện mà trong đó đàn ông và đàn bà
không còn tách biệt, không còn bị coi là tách biệt, trong đó
đàn ông và đàn bà được coi như bình đẳng bởi vì họ là hai
khía cạnh của cùng một dục, hai mặt của cùng một đồng
tiền.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,
Thế giới này có điên rồ không?

Siddhartha,
Nó dường như vậy thôi. Ít nhất cho tới giờ nó đã điên
rồ. Con người được sinh ra lành mạnh nhưng bị hướng tới
điên rồ bởi các tu sĩ, bởi các chính khách, bởi bố mẹ, bởi
toàn thể hệ thống giáo dục, bởi đạo đức của bạn, bởi mọi cái

503
bị áp đặt lên bạn, bởi mọi ước định. Bạn bị hướng tới điên
rồ.
Con người không cần bị điên rồ, nhưng vẫn chưa có khả
năng chấp nhận con người trong tính tự nhiên của người đó.
Chúng ta tạo ra cấu trúc quanh người đó, chúng ta gọt tỉa
người đó, chúng ta tiếp tục đưa hình và mẫu nào đó cho
người đó, chúng ta không cho phép người đó là bản thân
mình.
Và đó là toàn thể nỗ lực của tôi ở đây: chấp nhận nhân
loại với sự kính trọng, yêu mến, tin cậy sâu sắc tới mức con
người có thể thu lại sự lành mạnh của mình. Và vấn đề là ở
chỗ con người bị hướng tới điên rồ bởi cái gọi là những
người thiện chí của bạn. Những người đang cố giúp đỡ bạn
là những người đang đầu độc bạn. Điều gây hại lớn được
thực hiện bởi những đầy tớ nhân dân, các nhà truyền giáo,
bởi cái gọi là các thánh nhân. Họ là những người gây hại
nhất trên thế giới - không chủ ý, không ý thức, nhưng đó là
kết quả tối thượng của bất kì điều gì họ đã làm. Họ đã bị
làm cho điên rồ bởi các thánh nhân khác và họ đang làm cho
bạn điên rồ. Và nếu bạn không theo họ, bạn cảm thấy mặc
cảm; nếu bạn theo họ, bạn trở thành kẻ đạo đức giả. Họ
không để cho bạn bất kì phương án nào khác, chỉ hai
phương án: hoặc là điên rồ như họ hoặc cảm thấy mặc cảm.
Và cả hai phương án là ốm yếu, bệnh tật.
Siddhartha, quan sát cuộc sống xung quanh bạn và bạn
sẽ thấy trong mọi cách thức có thể rằng con người điên rồ.

Khi đứa bé bẩy tuổi bắt đầu đến trường, mẹ nó gợi ý


mềm mỏng, "Này con, nở nụ cười trên mặt và tỏ ra hạnh
phúc đi!"

504
Nhưng khi chú bé trở về nhà khuôn mặt cậu có vẻ tư lự
lớn.
"Có chuyện gì vậy?" mẹ nó hỏi. "Mẹ nghĩ con đã mỉm
cười và tỏ ra hạnh phúc tại trường."
"Không ăn thua gì mẹ à," nó nói. "Con đã cố mỉm cười,
nhưng thầy giáo nghĩ con có nhiệm vụ gì đó và bao giờ cũng
cho con cái nhìn khinh bỉ!"

Không ai muốn bạn hạnh phúc. Nếu bạn hạnh phúc,


mọi người sẽ trở nên nghi ngờ bạn: "Anh có chuyện gì rồi.
Sao anh trông hạnh phúc thế?" Nếu bạn buồn bạn được chấp
nhận - bạn là một phần của đám đông. Mọi người buồn và
bạn cũng buồn; vậy là khớp. Nhưng nếu bạn nhảy múa và
vui mừng thế thì bạn khùng, điên. Thế thì bạn phải bị đưa
vào bệnh viện, bạn phải được điều trị, cho sốc điện hay cái
gì đó, bởi vì làm sao bạn có thể hạnh phúc được? Làm sao
bạn có thể phúc lạc thế được? Khi toàn thể nhân loại đang
khổ, bạn phải khổ.
Và đám đông bao giờ cũng chống lại người phúc lạc.
Họ đóng đinh Jesus, họ đầu độc Socrates, họ sát hại
Mansoor; và tội duy nhất của những người này là ở chỗ họ
đã cố phúc lạc, ở chỗ họ đã không phải là một phần của đám
đông, của xã hội buồn rầu, ốm yếu. Họ đã cố là cá nhân.

Nhà tư vấn hôn nhân hỏi người đàn bà một số câu hỏi
về tính khí của bà ấy. "Bà có dậy mà gắt gỏng sáng nay
không?"
"Không," bà ấy trả lời. "Tôi để ông ấy ngủ."

505
Một nữ tài xế vượt đèn đỏ và đụng vào chiếc xe khác.
Nhảy ra khỏi xe mình, cô ta cắn cảu với người lái xe kia,
"Sao ông không nhìn chỗ ông đi thế? Ông là xe thứ ba tôi
đụng phải sáng nay đấy!"

Khi một khách hàng được bảo anh ta không còn được
mua thuốc theo đơn ưa chuộng của mình, anh ta giận dữ
mắng mỏ dược sĩ.
"Nhưng tôi bảo ông, nó bây giờ đã bị cấm rồi," dược sĩ
nhấn mạnh. "Bây giờ ông cần đơn của bác sĩ bởi vì đó là
thuốc gây nghiện."
"Nó không phải là thuốc gây nghiện!" ông khách kêu
lên. "Tôi biết nó không phải vậy bởi vì tôi đã uống nó mọi
ngày trong hai mươi năm!"

Một khách hàng phàn nàn với nhà tư vấn hôn nhân rằng
sự không chín chắn của vợ anh ta đã làm cho hôn nhân của
anh ta đi tới tan vỡ. "Cô ấy chưa chín chắn," anh ta buộc tội,
"tới mức mọi lần tôi tắm cô ấy lại vào và làm chìm thuyền
của tôi!"

Nhà triệu phú già cả nổi bật từ câu lạc bộ dành riêng
của ông ta cảm thấy chán nản và vô vọng, và chậm chạp trèo
vào chiếc limousine của mình.
"Đi đâu thưa ngài?" người lái xe của ông ấy hỏi.
"Lái ra khỏi mỏm đá đi, James," là câu đáp lại. "Tôi
định tự tử đây!"

506
Một chuyên gia tình dục hàng đầu khi được phỏng vấn
trên truyền hình đã được hỏi, "Ông nghĩ gì về cảnh người
liệt dương đang lên?"
"Tôi nghĩ câu hỏi này là tự mâu thuẫn!" ông ta đáp.

Nó là thế giới điên rồ!

Trong tuổi già Diogenes dừng một cựu binh lại và hỏi,
"Ông đã là gì trong cuộc chiến vừa qua?"
"Ồ, tôi chỉ là binh nhì," cựu chiến binh đáp.
Diogenes bối rối dường như sắp ngã. "Ối trời ơi!" ông
ấy thở hổn hển. "Sau rốt!" Rồi sau khi lấy lại hơi thở ông ấy
thổi tắt chiếc đèn của mình và đi về nhà.

Bạn nghĩ về điều đó đi - hơi khó đấy.

Và câu hỏi cuối cùng:

Osho ơi,
Thầy chắc là diễn viên hài ngồi vĩ đại! Điều gì xảy
ra nếu thầy đứng dậy?

Vivek,
Tôi không biết... Nhưng tôi có thể thử!

507
508
Về Osho
Osho sinh ra tại Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn Độ,
vào ngày 11 tháng 12 năm 1931. Từ thiếu thời ông đã là một
tâm trí độc lập và nổi dậy, nhấn mạnh tới chứng nghiệm
chân lí cho chính mình thay vì thu nhận tri thức và niềm tin
do người khác trao lại.
Sau khi chứng ngộ ở tuổi hai mươi mốt, Osho hoàn
thành học tập hàn lâm và dành nhiều năm giảng dạy triết
học tại Đại học Jabalpur. Đồng thời, ông đã du hành trong
toàn Ấn Độ để nói chuyện, thách thức các nhà lãnh đạo tôn
giáo chính thống trong các cuộc tranh luận công khai, đặt
câu hỏi về những niềm tin truyền thống và gặp gỡ mọi
người từ mọi nẻo đường cuộc sống. Ông đọc rất nhiều, mọi
thứ ông có thể tìm thấy để mở rộng hiểu biết của mình về hệ
thống niềm tin và tâm lí của con người hiện đại.
Đến cuối những năm 1960 Osho đã bắt đầu phát triển
các kĩ thuật thiền động duy nhất của mình. Con người hiện
đại, ông nói, bị quá nặng gánh với những truyền thống lạc
hậu của quá khứ và những lo âu của cuộc sống hiện đại đến
mức người đó phải trải qua quá trình tẩy rửa sâu sắc trước
khi người đó có thể hi vọng khám phá ra trạng thái thảnh
thơi,vô suy nghĩ của thiền.
Trong quá trình làm việc của mình, Osho đã nói về
mọi khía cạnh thực của việc phát triển tâm thức con người.
Ông đã cô đọng tinh hoa của điều có ý nghĩa cho việc truy
tìm tâm linh của con người hiện đại, dựa trên không chỉ hiểu

509
biết trí tuệ mà được kiểm nghiệm lại theo kinh nghiệm sống
của riêng ông.
Ông không thuộc về tín ngưỡng nào cả - “Tôi là người
bắt đầu cho tâm thức tôn giáo hoàn toàn mới,” ông nói. “Xin
đừng gắn tôi với quá khứ - điều đó thậm chí không đáng
nhớ.”
Bài nói của ông cho các đệ tử và người tìm kiếm tâm
linh đã được xuất bản trong hơn sáu trăm năm mươi tập, và
đã được dịch sang hơn bốn mươi ba thứ tiếng. Và ông nói,
“Thông điệp của tôi không phải là học thuyết, không phải là
triết lí. Thông điệp của tôi là giả kim thuật nào đó, khoa học
về biến đổi, cho nên chỉ những ai sẵn sàng chết như họ hiện
tại và được sinh ra lần nữa trong cái gì đó mới đến mức họ
không thể nào hình dung ra được điều đó ngay bây giờ... chỉ
vài người dũng cảm sẵn sàng lắng nghe, vì lắng nghe là sắp
nguy hiểm.
“Lắng nghe, bạn đã bước đi bước đầu tiên hướng tới
tái sinh. Cho nên đấy không phải là triết lí mà bạn có thể chỉ
choàng vào người và đi khoác lác về nó. Đấy không phải là
học thuyết mà bạn có thể thấy khuây khoả cho những câu
hỏi phiền nhiễu. Không, thông điệp của tôi không phải là
truyền giao bằng lời nào đó. Nó nguy hiểm hơn thế nhiều.
Nó không gì khác hơn là chết và tái sinh.”
Osho rời khỏi thân thể ngày 19 tháng 01 năm 1990.
Tâm xã khổng lồ của ông ở Ấn Độ tiếp tục là trung tâm
trưởng thành tâm linh lớn nhất trên thế giới hấp dẫn hàng
nghìn khách thăm quốc tế, người tới để tham dự vào thiền,
liệu pháp, các chương trình sáng tạo, hay chỉ để chứng
nghiệm hiện hữu trong phật trường.

510
Tâm xã Osho quốc tế

Pune, Ấn Độ
Tâm xã này là trường phái kì diệu cho việc thám hiểm
bên trong. Đó là phiêu lưu lớn lao nhất có đó, và cũng là lễ
hội lớn nhất.
Con đường bạn phải đi qua, bạn sẽ phải đi một mình;
nhưng biết rằng bao nhiêu người cũng đang du hành một
mình sẽ đem lại cho bạn sự động viên lớn lao.
Một ốc đảo nhỏ mà trong đó cuộc sống đang diễn ra
với cái nhìn hoàn toàn khác; nơi cuộc sống diễn ra có mục
đích, ý nghĩa, nơi cuộc sống diễn ra có phương pháp, nơi
cuộc sống diễn ra trong tỉnh táo, nhận biết, tỉnh thức; nơi
cuộc sống không phải chỉ là điều ngẫu nhiên, nơi cuộc sống
bắt đầu trở thành ngày một trưởng thành hơn theo chiều
hướng nào đó.
Và đây không phải là tu viện Ấn Độ; đây là tâm xã
quốc tế, nơi gặp gỡ của Đông và Tây. Tâm xã này đại diện
cho toàn thể loài người, không phải về quá khứ mà là về
tương lai.
Nỗ lực của chúng tôi là để làm cho thiền trở thành có
sẵn cho từng người và mọi người; bất kì ai muốn thiền, thiền
đều sẵn có tương ứng với kiểu của người đó. Nếu người đó
cần nghỉ ngơi,nghỉ ngơi cũng nên là thiền của người đó.
“Ngồi im lặng không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên” -
đó sẽ là thiền của người đó. Chúng ta phải tìm ra thật nhiều
chiều hướng cho thiền, nhiều như số người trên thế gian
này. Và khuôn mẫu phải đừng quá cứng nhắc, vì không có
hai cá nhân nào giống nhau. Đây là cuộc cách mạng. Cá

511
nhân phải không bị gò khít vào khuôn mẫu; nhưng khuôn
mẫu phải vừa vặn với cá nhân. Đó là lí do tại sao bạn thấy
có nhiều cách thiền thế đang diễn ra ở đây. Cách thức có thể
là chủ động hay thụ động, không thành vấn đề, mục tiêu là
một: làm sao làm cho bạn thành im lặng đến mức mọi ý
nghĩ biến mất và bạn chỉ là tấm gương, phản chiếu cái đang
đấy.

Đa đại học Osho


Trong tâm xã này có ít nhất năm mươi nhóm trị liệu
đang tiến hành, bởi những lí do nào đó. Nó chỉ là cách làm
cân bằng lại hàng nghìn năm đè nén. Nó chỉ để đem lại nhẹ
nhàng cho mọi cái bạn đã đè nén - như người Ki tô giáo,
người Hindu giáo, Phật tử. Nó chỉ hoàn tác lại cái hại của
hàng thế kỉ cũ kĩ đã gây cho bạn. Các nhóm trị liệu này
không phải là mục đích; chúng chỉ chuẩn bị cho bạn để
thiền, chứng kiến thụ động các ý nghĩ, tình cảm và hành
động mà không phán xét hay đồng nhất.
Sự bừng sáng của mỗi ngày là việc gặp gỡ vào buổi
tối: một buổi lễ hai giờ với âm nhạc, nhảy múa và thiền im
lặng theo dõi một trong những bài nói của Osho.
“Đấy không phải là bài học; đấy chỉ đơn thuần là
phương tiện để làm cho bạn thành im lặng, vì nếu yêu cầu
bạn phải im lặng không nỗ lực gì, bạn sẽ thấy rất khó khăn.
Tôi đang làm cho bạn im lặng mà không phải nỗ lực gì về
phần bạn. Việc nói của tôi trước hết là để dùng như một
chiến lược tạo ra im lặng trong bạn.”

512
Để biết thêm thông tin

http://www.osho.com
Osho Community International
17 Koregaon Park
Pune 411 011 (MS) Ấn Độ
Tel: + 91 (212) 628 562
Fax: + 91 (212) 624 181
Email: osho-community@osho.com
Osho International

410 Park Avenue, 15th Floor,


New York, NY 10022
Tel. +1 212 231 8437
Fax. +1 212 658 9508
http://www.osho.com/oshointernational
Klau Steeg:
klau.steeg@oshointernational.com
Montse Cortazar:
montse.cortazar@oshointernational.com
Office email:
oshointernational@oshointernational.com
Royalties: OshoOffice@oshointernational.com

Đại lí cho Việt Nam là Tuttle Mori Agency, Managing


Dirrector Pimolporn Yutisri
pimolporn@tuttlemori.co.th

513
Để xem tin tức, trao đổi nói chuyện, xem các trích đoạn và
toàn văn bài nói của Osho, các bạn có thể ghé thăm trang
web

http://oshovietnam.org

Để xem những trích đoạn mới nhất của sách Osho các bạn
có thể theo dõi trên Facebook:

https://www.facebook.com/OshoFansVietnam?ref=hl

Để xem một số bản dịch tiếng Việt của sách Osho, các bạn
có thể vào trang web:

http://oshovietnam.org/sach/sach-cua-osho/bai-noi-cho-
nguoi-tâm-kiem

http://oshovietnam.org/sach/sach-cua-osho/cach-song-co-y-
thuc

514
Về tác giả
Osho thách thức các phân loại. Hàng nghìn bài nói của
ông bao quát mọi điều từ cuộc truy tìm cá nhân về ý nghĩa
cho tới những vấn đề xã hội và chính trị khẩn thiết nhất mà
xã hội ngày nay đang đối diện. Sách của Osho không được
viết ra mà được dỡ ra từ các bản ghi âm thanh và video về
các bài nói ngẫu hứng của ông cho khán giả quốc tế. Như
ông đã nói điều đó, “Vậy nhớ lấy: bất kì điều gì tôi đang nói
không chỉ là cho bạn... tôi đang nói cho các thế hệ tương
lai.”
Osho đã được tờ Sunday Tâmes ở London mô tả là
một trong “1000 người làm nên thế kỉ 20” và được tác giả
người Mĩ Tom Robbins mô tả là “con người nguy hiểm nhất
từ Jesus Christ.” Tờ Sunday Mid-Day (Ấn Độ) đã chọn
Osho là một trong mười người - cùng với Gandhi, Nehru và
Phật - những người đã làm thay đổi Ấn Độ.
Về công trình riêng của mình Osho đã nói rằng ông
đang giúp để tạo ra hoàn cảnh cho sự ra đời của một loại
người mới. Ông thường đặc trưng con người mới là “Zorba
Phật” - có khả năng vừa tận hưởng vui thú trần gian của
Zorba người Hi Lạp và trung thực im lặng của Phật
Gautama.
Chạy như sợi chỉ xuyên suốt mọi khía cạnh của các
bài nói và thiền của Osho là viễn kiến bao quát cả trí huệ vô
thời gian của mọi thời đại quá khứ và tiềm năng cao nhất
của khoa học và công nghệ ngày nay (và ngày mai).
Osho được biết tới từ đóng góp cách mạng của ông
cho khoa học về biến đổi bên trong, với cách tiếp cận tới
thiền thừa nhận nhịp độ tăng tốc của cuộc sống đương đại.
515
Thiền Động duy nhất của OSHO được thiết kế để đầu tiên
xả ra những căng thẳng tích luỹ của thân thể và tâm trí, để
cho dễ dàng hơn việc trải nghiệm về tĩnh lặng và thảnh thơi
vô suy nghĩ trong cuộc sống thường ngày.

“Lời thầy hàm chứa im lặng quanh đó, lời thầy không
phải là tiếng động. Lời thầy có giai điệu, có nhịp điệu, có
âm nhạc và tại chính cốt lõi của lời thầy là im lặng hoàn
toàn. Nếu bạn có thể hiểu thấu lời thầy, bạn sẽ đi xuyên vào
im lặng vô hạn này. Nhưng để hiểu thấu lời của Phật, cách
thức không phải là phân tích, cách thức không phải là biện
luận, cách thức không phải là tranh luận. Cách thức là chìm
vào quan hệ với thầy, trở thành hoà hợp với thầy, đồng bộ
với thầy. Trong hoà hợp đó, trong sự chân thành đó, người
ta đi vào trong chính cốt lõi lời thầy. Và ở đó bạn sẽ không
thấy bất kì âm thanh nào, bất kì tiếng động nào; ở đó bạn sẽ
thấy im lặng tuyệt đối. Và nếm trải nó là hiểu thầy.”
Osho, Dhammapada: Con đường của Phật, 5

“Từ lời tôi bạn có thể bùng cháy, nhưng bạn sẽ không
thể nào tìm ra bất kì lí thuyết, học thuyết nào. Bạn có thể tìm
ra cách sống, nhưng không tìm ra được giáo lí để thuyết
giáo. Bạn có thể tìm ra tính cách nổi dậy hay tiêm nhiễm
nhưng bạn sẽ không tìm thấy chủ đề cách mạng nào được tổ
chức.
“Lời tôi không chỉ là ngọn lửa. Tôi đang đặt thuốc nổ
đây đó, chúng sẽ nổ tung trong nhiều thế kỉ. Tôi đang đặt
nhiều hơn là sự cần thiết - tôi không bao giờ tính hết cơ hội.
Gần như từng câu đều dự định để tạo ra rắc rối cho bất kì ai
muốn tổ chức tôn giáo quanh tôi.”
Osho, Từ nhân cách tới cá nhân

516
Sách Osho đã dịch sang tiếng Việt

Số Tên sách Năm


1. Con đường tôi con đường của mây trắng 1997
2. Biến chuyển Mật tông 1997
3. Ngón tay chỉ trăng 1997
4. Thiền là gì? 1997
5. Đi tìm điều huyền bí, t.2 1998
6. Thiền: Tự do đầu tiên và cuối cùng 1998
7. Kinh Kim Cương 1998
8. Tôi là lối cổng 1998
9. Nhịp đập của tuyệt đối 1998
10. Tâm Kinh 1998
11. Mưa rào không mây 1999
12. Nhạc cổ trong rặng thông 1999
13. Dhammapada: Con đường của Phật - t.1 1999
14. Thuyền rỗng 1999
15. Tín Tâm Minh: Sách về hư không 1999
16. Từ dục tới Siêu tâm thức 1999
17. Từ Thuốc tới Thiền 1999
18. Cương lĩnh Thiền: Tự do với chính mình 2000
19. Vô trí: Hoa của vĩnh hằng 2000
20. Bồ đề đạt ma: Thiền sư vĩ đại nhất 2000
21. Và hoa đã mưa xuống 2000
22. Đạo: Ba kho báu - t.1 2001
23. Kinh nghiệm Mật tông 2001
24. Bản kinh cuối cùng - t.6 2001
25. Chiều bên kia cái biết 2001
26. Kỉ luật của siêu việt - t.3 2002
27. Con đường bên ngoài mọi con đường 2002

517
Số Tên sách Năm
28. Không nước không trăng 2002
29. Om Mani Padme Hum 2002
30. Nam Tuyền: Điểm khởi hành 2003
31. Triệu Châu: Tiếng gầm của sư tử 2003
32. Mã Tổ: Gương rỗng 2003
33. Lâm Tế: Bậc thầy của điều phi lí 2003
34. Bách Trượng: Đỉnh Everst của Thiền 2003
35. Qui Sơn: Không dấu chân trên trời xanh 2003
36. Ngưỡng Sơn: Người thực của Thiền 2004
37. Đạo Nguyên Thiền sư: Tìm kiếm và hoàn 2004
thành
38. Dược Sơn: Thẳng tới điểm chứng ngộ 2004
39. Đi tìm điều huyền bí - t.1 2004
40. Dhammapada: Con đường của Phật - t.2 2004
41. Từ Thuốc tới Thiền (chỉnh lí) 2004
42. Trưởng thành: Trách nhiệm là chính mình 2005
43. Sáng tạo: Khơi nguồn sức mạnh bên trong 2005
44. Dũng cảm: Vui sống hiểm nguy 2005
45. Dược khoa cho linh hồn 2005
46. Cân bằng thân tâm 2005
47. Ta là cái đó 2006
48. Tình yêu, tự do, một mình 2006
49. Dhammapada: Con đường của Phật - t.3 2006
50. Kỉ luật của siêu việt - t.1 2006
51. Kỉ luật của siêu việt - t.2 2006
52. Kỉ luật của siêu việt - t.4 2007
53. Vui vẻ: Hạnh phúc từ bên trong 2007
54. Chuyến bay của một mình tới một mình 2007
55. Nhận biết: Chìa khoá sống trong cân bằng 2007
56. Tự do: Dũng cảm là bản thân mình 2007
57. Dhammapada: Con đường của Phật - t.4 2007
58. Trực giác: Việc biết bên ngoài logic 2007

518
Số Tên sách Năm
59. Dhammapada: Con đường của Phật - t.5 2008
60. Dhammapada: Con đường của Phật - t.6 2008
61. Thân thiết: Tin cậy bản thân mình và người 2008
khác
62. Dhammapada: Con đường của Phật - t.7 2008
63. Từ bi: Việc nở hoa tối thượng của tình yêu 2008
64. Đạo: lịch sử và giáo huấn 2008
65. Dhammapada: Con đường của Phật - t.8 2009
66. Dhammapada: Con đường của Phật - t.9 2009
67. Cuộc sống, tình yêu, tiếng cười 2009
68. Dhammapada: Con đường của Phật - t.10 2009
69. Dhammapada: Con đường của Phật - t.11 2009
70. Dhammapada: Con đường của Phật - t.12 2009
71. Đạo: Ba kho báu - t.2 2010
72. Đạo: Ba kho báu - t.3 2010
73. Đạo: Ba kho báu - t.4 2010
74. Đạo: Đường vô lộ - t.1 2011
75. Đạo: Đường vô lộ - t.2 2011
76. Đạo: Cổng Vàng - t.1 2012
77. Đạo: Cổng Vàng - t.2 2012
78. Cỏ tự nó mọc lên 2012
79. Yoga: Alpha và Omega - t.1 2012
80. Yoga: Alpha và Omega - t.2 2012
81. Yoga: Alpha và Omega - t.3 2012
82. Yoga: Alpha và Omega - t.4 2012
83. Yoga: Alpha và Omega - t.5 2012
84. Yoga: Alpha và Omega - t.6 2012
85. Yoga: Alpha và Omega - t.7 2013
86. Yoga: Alpha và Omega - t.8 2013
87. Yoga: Alpha và Omega - t.9 2013
88. Yoga: Alpha và Omega - t.10 2013
89. Bí mật của các bí mật - t.1 2013

519
Số Tên sách Năm
90. Bí mật của các bí mật - t.2 2013
91. Sen trắng 2014
92. Tương lai vàng - t.1 2014
93. Tương lai vàng - t.2 2014
94. Tìm trâu 2014
95. Khi giầy vừa 2014
96. Sống Thiền 2014
97. Nguyên lí thứ nhất 2014
98. Thầy hoàn hảo - t.1 2015
99. Thầy hoàn hảo - t.2 2015
100. Ngỗng ở ngoài 2015
101. A cái này 2015
102. Sét đánh bất thần 2015
103. Chim tung cánh 2015
104. Ngôn ngữ của sự tồn tại 2016
105. Niết bàn ác mộng cuối 2016
106. Phép màu 2016
107. Thiền - truyền trao đặc biệt 2016
108. Phật - trống rỗng của tâm 2016
109. Giả kim thuật mới 2016
110. Coi nó là dễ - t1 2017
111. Coi nó là dễ -t2 2017
112. Thiền sư Đại Huệ - t1 2017
113. Thiền sư Đại Huệ - t2 2018
114. Thiền: Điều huyền bí và Thơ ca của cõi bên 2018
kia
115. Thiền: Bước nhảy lượng tử từ tâm trí sang vô 2018
trí
116. Thiền: Sét Kim cương 2018
117. Thiền: Thú vị, Sức sống, Phấn khởi và Sinh 2019
động
118. Quay vào trong 2019

520
Số Tên sách Năm
119. Tùng tùng cắc tùng 2019
120. Trở về Cội nguồn 2019
121. Thiền: Chim đơn độc, chim cu cu của rừng 2019
122. Vigyan Bhairav Mật tông-t1 2019
123. Vigyan Bhairav Mật tông-t2 2020
124. Vigyan Bhairav Mật tông-t3 2020
125. Vigyan Bhairav Mật tông-t4 2020
126. Cảm và Biết 2020
127. Bước trong Thiền, ngồi trong Thiền 2021

521

You might also like