Professional Documents
Culture Documents
Ở phần phân tích này, nhóm đã lựa chọn bốn câu kệ cuối được viết bằng chữ Hán
trong bài phú chữ Nôm Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca Với tựa đề “Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca” đã cho ta thấy được tâm trạng Ngài đối với sự tu hành là khi Ngài xuất
gia, ở trên núi rừng, được niềm vui ngộ đạo nên làm bài ca này. Thú là đến, lâm là
rừng, tuyền là suối, tức là lên được trên núi, rừng, suối tu rồi thành đạo nên làm bài ca
này.
nếu chỉ học bài Cư trần lạc đạo phú, ta thấy dường như Ngài chỉ khuyến khích
người tu tại gia. Có học bài này ta mới thấy rõ với tư cách người xuất gia, đạt đạo,
Ngài khuyên dạy hàng tu sĩ với ý chí xuất trần phải tu hành như thế nào mới đạt được
kết quả mỹ mãn. Hai là, ở Trung Hoa có gia đình ông Bàng Long Uẩn tu hành ngộ
đạo, nhưng suốt đời chỉ giữ hình thức cư sĩ thôi, nên không thể truyền bá Phật pháp
cho ai. Ở Việt Nam có Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng ngộ đạo và chỉ ứng dụng Phật pháp
trong phạm vi của người cư sĩ. Đến vua Trần Nhân Tông thấy đạo từ thuở bé, đến khi
làm Thái thượng hoàng Ngài làm việc một buổi, để ra một buổi nghiên cứu kinh điển,
thấu suốt được lý thiền nên mới có bài Cư Trần Lạc Đạo Phú. Song nhận thấy nếu giữ
tư cách cư sĩ tự lợi cho mình và những người thân chung quanh, mà không lợi cho sự
truyền bá chánh pháp, nên Ngài quyết định xuất gia. Hơn nữa có đi sâu trong đạo mới
biết, Với Trần Nhân Tông tu thiền là trở về chính mình để nhận rõ ai ai cũng sẵn có
cái chân thật. Nhưng chỉ vì người ta mê lầm nên chạy theo cái giả mà quên đi cái thật.
Một khi nhận ra cái thật rồi, không còn mê lầm nữa, Chúng ta sẽ yên lòng ngồi tu mà
không có gì thắc mắc và không cần phải tìm kiếm nơi đâu. Ở đây, Ngài Nhân Tông
thấy rõ điều này nên mới quyết tâm vào núi rừng, ở một mình trong cảnh cô quạnh để
sống với lẽ thật mà Ngài đã thấy. Khi sống được hoàn toàn với lẽ thật ấy rồi, Ngài vui
mừng nên mới có bài ca Thành Đạo. Như vậy ta thấy con đường truyền bá Phật pháp
của Ngài lúc đầu giới hạn nơi bản thân và gia đình. Nhưng sau khi đi tu, đạt đạo rồi
Ngài truyền bá Phật pháp khắp nhân gian, đem đạo lý truyền cho tất cả mọi người. Ý
nghĩa siêu thoát là ở chỗ đó.
Câu đầu đã mở ra ý thơ: “Cảnh tịch an cư tự tại tâm” có nghĩa là người tu yên ở
trong cảnh lặng lẽ, tâm rất tự tại là tiền đề, khai ý của bài thơ. Đã thể hiện quan niệm
của Trần Nhân Tông về cách sống, lối sống và lý tưởng sống ở đời đó là: muốn sống
yên ả, tĩnh tại, muốn tận hưởng sự bình yên thì đâu cần phải tìm ở đâu xa xôi mà điều
đó là tự tại chính tâm mình.
“Lương phong xuy đệ nhập tùng âm”, trong đó “Lương phong” là gió mát, “xuy
đệ” là thổi qua, “nhập tùng âm” là vào bóng của cây tùng. Khi chúng ta ở trong cảnh
an tịnh, tâm tự tại rồi thì nghe gió mát thổi vào bóng cây tùng.
Đến câu “Thiền sành thụ hạ nhất kinh quyển”, có thể nói đây là câu thơ đắt nhất
trong bài. Dưới gốc giường Thiền, kinh một quyển... một cảnh sống thiền tịnh, thanh
nhàn, tự do, tự tại đáng ngưỡng mộ. Một lối sống an nhàn cùng Thiền, cùng kinh qua
cách nhìn của Phật hoàng không hề nhàm chán ngược lại mang đầy thi vị.
“Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm (kim)”: Hai chữ thanh nhàn quý hơn vạn nén
vàng... “Thanh nhàn” hai chữ nghe tưởng như thật dễ, thế nhưng để có thể đạt đến sự
“thanh nhàn” ấy là không hề đơn giản.
Tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên đỉnh núi Yên Tử, Trần Nhân Tông đã
dùng hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với
Ngài đều thông tỏ. Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông
vẫn rõ được triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm
tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc
quân vương tôn kính. Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và
phương nam, có được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang
giao giữa các nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.
Ở Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm Giáo lý,
Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều
Trần, giai đoạn phật giáo là Quốc giáo. Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu
hành của Vua Trần Nhân Tông tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế
tích cực.
Trần Nhân Tông là người đạt được quả chứng nên nhận thức được đời sống thực
tế, đó nên ngài cũng diệu dụng của một bậc thánh giả trong mỗi hoàn cảnh không
muốn làm khác đi mà vẫn cao siêu hơn người khi ngài nhận chân được báu vật “Chân
tâm” của chính mình, thì cuộc sống được tự tại, giữa vô thường vẫn thấy cái chân
thường, giữa đau khổ của cõi đời mà mình vẫn an lạc, giữa những sự bận rộn lo toan
của cuộc đời mà được thảnh thơi nhàn nhã, diệu dụng phương tiện thiện xảo cứu đời,
cứu người mà không dính mắc, thật là tuyệt vời, là sự thành tựu cao nhất, vinh quang
nhất của mỗi kiếp nhân sinh