You are on page 1of 43

Deadline các phần chủ nhật (23/10)

Riêng phần 1.2 + 1.3 là thứ 5 (20/10)

Lưu ý:
- Các bạn không ĐẠO VĂN.
- Trích dẫn nguồn theo chuẩn APA
- Các tài liệu mà mọi người tham khảo nhớ đưa
vào mục TLTK (Ghi đầy đủ thông tin để tiện
cho việc trích APA)

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Tác giả và tác phẩm

1.1.1. Tác giả

1.1.2. Tác phẩm

1.2. Quan niệm về cái ác (1 người) Quốc

1.2.1. Khái niệm về cái ác

Cái ác từ lâu luôn là một vấn đề gây tranh cãi cho các nhà triết học
phương Tây, họ đặt ra câu hỏi rằng “Nếu Chúa là người tạo ra thế giới vậy thì
tại sao ngài lại tạo ra cái ác?”, đã không ít ý kiến xoay quanh vấn đề này. Thánh
Augustine - tín đồ phái Manichean cho rằng cái ác không được tạo ra bởi Chúa,
ông phủ nhận sự tồn tại của cái ác, định nghĩa cái ác theo hướng là thứ không
hiện hữu, thế nhưng điều này không giải quyết vấn đề hiện thực mà cái ác mang
lại- sự đau khổ, chính vì vậy ông cũng thú nhận rằng, luận điểm này chưa thật
sự được giải quyết xác đáng vấn đề ý nghĩa cái ác. Bên cạnh đó, theo quan niệm
tôn giáo, Do Thái giáo cho rằng, cái ác không phải do chúa tạo ra mà là xuất
phát từ những hành động xuất của con người, tức con người chính là thứ tạo ra
cái ác, và nó chỉ thực sự hiện hữu với con người. Song, Kito giáo chỉ ra rằng cái
ác chính là việc làm trái với ý muốn của Chúa, xuất phát từ hành động, ý nghĩ
sai lệch với Chúa. Nhìn chung, cái ác được khẳng định là do con người tạo ra,
tùy vào từng thời kì mà quan niệm về nó sẽ khác nhau, Nhà thờ Đức Bà Paris
của Victor Hugo tái hiện xã hội thời Trung cổ, lúc mà Kitô giáo nắm vị trí độc
tôn, chính vì thế khái niệm cái ác trong tác phẩm sẽ có vài điểm tương đồng với
quan niệm của tôn giáo này. Từ đây ta có thể chia khái niệm cái ác thành các
biểu hiện: Cái ác luân lý, cái ác khác biệt, cái ác không hài hòa.

1.2.2. Biểu hiện của cái ác

Cái ác luân lý

Như đã nói, cái ác được tạo ra từ khi con người xuất hiện, điều này được
chứng minh qua câu chuyện của Adam và Eva: Adam ăn trái cấm, dẫn đến việc
Chúa trời đã trừng phạt hai người, và tội lỗi của con người cũng hình thành từ
đây, hay còn được gọi là tội tổ tông- tức là con người khi sinh ra đã là mang tội.
Trong cuốn Cái Ác - Một Thách Thức Đối Với Tiết Học Và Thần Học của tác
giả Paul Ricoeur có đề cập “Cái ác thì hoặc là Peccatum-tội, hoặc là poena-
hình phạt”(2021, tr.49) Vậy từ đây ta nhận thấy rằng, cái ác và tội lỗi có vài
điểm tương đồng với nhau, con người phạm tội tức là con người ác. Song, một
khía cạnh khác của cái ác chính là sự đau khổ, Kitô giáo cho rằng cội nguồn
chung của tội lỗi và đau khổ chính là cái ác, Paul Ricoeur cũng đã lý giải vấn đề
này, ông cho rằng “Một mặt, sự trừng phạt sự đau khổ về thân xác và tinh thần
được thêm vào cho cái ác luân lý, chẳng hạn hình phạt về thân xác, tước bỏ sự
tự do, sự xấu hổ, ân hận,... Mặt khác, một trong những nguyên nhân chính của
đau khổ là bạo lực con người gây ra cho người khác”(2021,tr.35) Căn cứ những
điều trên, ta đi đến một kết luận, việc con người phạm tội, việc gây hại, làm
điều bất công, gây đau khổ cho người khác, tất cả đều được quy là cái ác.

Cái ác là cái khác

“Thế nhưng bọn quân dữ được trình bày với chúng ta như là sự xấu xa từ
bên trong bởi vì chúng tự đặt mình về phía đối lập với Chúa, kết án ngài, nhạo
báng ngài, tra tấn ngài, đóng đinh ngài, và ý niệm về cái ác bên trong và sự thù
địch với Chúa được thể hiện ra bên ngoài bằng vẻ xấu xí, thô bỉ, man rợ, giận
dữ, và ngoại hình méo mó.”[1]. Xuất phát từ quan niệm của Kitô giáo cho rằng
cái ác chính là những gì trái với mong muốn của Chúa. Vào thời Trung cổ, khi
Kito giáo trở thành quốc giáo, nó đã đặt cho xã hội một khuôn khổ và buộc mọi
người phải theo đó. Trong lịch sử tôn giáo, ta đã chứng chiến không ít lần Kito
giáo đã thẳng tay đàn áp, bài trừ những người đi trái luật lệ của tôn giáo. Galileo
và tuyên bố của mình về việc trái đất quay xung quanh mặt trời, phát ngôn của
ông đã bị giáo hội cho là đi ngược lại với giáo lý và gán nó là dị giáo. Việc gán
dị giáo được coi là xảy ra thường xuyên ở thời đại này. Song, ta sẽ không bàn
đến vấn đề dị giáo và sự bảo thủ của giáo hội lúc bấy giờ. Chỉ tập trung vào
quan niệm cái khác mà giáo hội đặt ra, thì cái ác được thể hiện ở những gì khác
biệt so với cộng đồng, cái khác ở đây bao gồm về cả ngoại hình, tính cách lẫn tư
tưởng.

Cái ác lai ghép

Lai ghép có thể hiểu là sự pha trộn nhiều thứ vào nhau, nhưng sự pha
trộn này lại bị cho là cái ác theo Victor Hugo. Quay trở lại bối cảnh ra đời của
tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris, đây như sự cầu cứu dành cho nhà thờ Đức Bà
của Victor Hugo, khi mà nhà thờ lúc này đang dần bị hủy hoại bởi sự chạy đua
theo thời đại, những cái pha trộn từ nhiều nền văn hóa đã khiến cho nhà thờ
đánh mất đi vẻ đẹp ban đầu của nó. Chính vì điều này mà ông cho rằng, sự lai
ghép là một biểu hiện của cái ác, nó đã làm hủy hoại đi cái truyền thống vốn có.
Song, chính sự pha trộn này còn là nguyên nhân dẫn đến cái khác biệt, một cá
thể khi được pha trộn nhiều thứ sẽ dẫn đến dị biệt, điều này cũng được Victor
Hugo thể hiện qua nhân vật trong tác phẩm và sẽ được làm rõ ở chương sau.
Tóm lại, cái ác lai ghép xuất phát từ sự phê phán những cái pha trộn- thứ làm
mất đi vẻ đẹp toàn vẹn.

1.3. Quan niệm về cái thiện (1 người) Hân 023

1.1. Quan niệm về cái thiện

1.1.1. Khái niệm về cái thiện

Cái thiện là chân lý của mọi sự, trong cuộc sống hay trong văn học cái thiện
đều là trung tâm, là hướng đi mà con người từ xưa đến nay luôn cho là nên đi theo, cái
thiện thường được hiểu là cái tốt nhưng tốt là một từ rộng, và chỉ mang tính bao quát,
trong tư tưởng Phương Đông, Khổng Tử cho rằng: “ý niệm thiện là ý niệm về những
điều lành, việc tốt, có ích lợi cho mình, cả cho người” (Nguyễn Thu Phong, 1997,
trang 40) hay theo tâm niệm của Thích ca “Người có tâm thiện, trước những nỗi khổ
đau của tha nhân, họ xúc động, thấy nỗi đau của người như nỗi đau của chính mình.
Từ đó, người thiện dùng lời an ủi, vỗ về, xoa dịu thương đau cho kẻ khổ” (Nguyễn
Thu Phong, 1997, trang 172). Phương Đông quan niệm cái thiện là cái tâm của con
người, là sự thấu cảm, dìu dắt, giúp đỡ giữa người này và người khác, là lòng tốt của
con người đối với kẻ khổ.

Với tư tưởng Phương Tây, Platon cho rằng cái thiện chính là sự hạnh phúc, con
người hướng tới cái thiện cũng chính là hướng tới hạnh phúc, theo Kant, thiện là cái
xuất hiện từ khi con người mới sinh ra, là cái cơ bản nhất của một con người.: “Thiện
chí là thước đo hành vi đạo đức của ta. Thiện chí là sự tốt lành không suy suyển của
hành vi con người. Và thiện chí là cái mà bất cứ ai cũng nhận thức được một cách
tiên thiên và tuyệt đối chắc chắn: khác với tri thức khoa học là cái con người phải học
tập lâu năm và thường đòi những khả năng đặc biệt, ý thức đạo đức là cái được in
sẵn trong đáy lòng mỗi người” (Trần Thái Đỉnh, 2005, trang 196). Trong chủ nghĩa
khắc kỷ cái thiện lại chính là sự hòa hợp với thiên nhiên: “Cái thiện tối cao hay chủ
đích tối hậu (telos) là sống bằng sự am hiểu với những gì phù hợp với thiên nhiên và
hòa mình với chúng” (Lê Tôn Nghiêm, 2000, trang 519).

Trong mỗi thời đại, cái thiện được quan niệm khác nhau, ở mỗi người cũng đều
khác nhau nhưng từ những quan niệm cả phương Đông lẫn phương Tây, cái thiện
không chỉ là cái tốt của người đối với người mà cả đối với mình, là cái được in sẵn
trong lòng mỗi con người, sống hạnh phúc, hòa nhập với thiên nhiên. Cái thiện còn
thể hiện về tính cách, hành động về vẻ ngoài, cái thiện chính là hướng đi tới thành
công và hạnh phúc mà con người luôn mong muốn, cái thiện đi vào nghệ thuật nói
chung và văn học nói riêng như là tiền đề bởi trong mỗi tác phẩm nghệ thuật đều bắt
nguồn từ ranh giới thiện- ác.

1.1.2. Biểu hiện của cái thiện

Cái thiện xuất phát từ lòng trung thành

Cái thiện trước hết gắn với chân, mỹ “chân- thiện- mỹ” vì vậy khi nói về đặc
điểm của cái thiện trước tiên là cái chân thật, chân thật là cái đúng đắn trong tâm con
người, là sự đối đãi và gắn bó với người khác, là lòng trung thành của con người.
Theo quan niệm của Kitô giáo, đạo này đòi hỏi cái thiện trước hết là trung thành.
Lòng trung thành không chỉ gói gọn là chỉ giữ trọn lời hứa mà còn là sự gắn kết trong
tình yêu, tình bạn, giữa con người và những người chức cao hơn họ.

Cái thiện là cái toàn vẹn

Cái thiện đồng thời cũng gắn liền với cái đẹp “mỹ”,Quan niệm của Hegel
trong nghệ thuật là con người hoàn thiện bên ngoài sẽ hoàn thiện về cả bên trong, hay
nói các khác là đẹp về cả nội dung và hình thức, bên ngoài thấp hèn nghĩa là là bên
trong cũng thấp hèn, cái đẹp được thể hiện qua sự toàn diện trong tính cách, hành
động, vì vậy, có thể nói cái thiện chính là cái hoàn hảo, cái trọn vẹn về tính cách, và
ngoại hình của con người.
Cái thiện là chân tâm

Theo Kant: “Thiện chí không được coi là thiện vì những gì nó thể hiện, cũng
không phải vì nó giúp ta dễ dàng đạt được mục tiêu ta theo đuổi, nhưng nó được coi
là thiện vì hành động ước muốn (par le vouloir même) của ta, nghĩa là nó tốt tự nó”
(Trần Thái Đỉnh, 2005, trang 195), Kant nêu quan điểm thiện chí chính là thước đo
đạo đức của con người vì vậy ngoài cái chân thật, cái đẹp còn là những hành động tốt,
nội tâm tốt, là sự giúp đỡ người khác xuất phát từ tâm từ lòng thành không vì một mục
đích nào.

CHƯƠNG 2: CÁC BIỂU HIỆN CỦA CÁI ÁC VÀ CÁI THIỆN

TRONG TÁC PHẨM NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS

2.1. Biểu hiện cái ác trong tác phẩm (2 người) (Hạnh + Hiền)

2.1.1. Cái luân lí trong tác phẩm NTĐB

Đầu tiên, cần hiểu vấn đề “luân lý” chính là ý muốn nói đến hệ thống chuẩn mực về
cái tốt trong một xã hội, cộng đồng dựa trên quyết định từ hành vi của đối tượng.
Trong “Luân lý học” của Aristotle đã nhiều lần nhắc đến luân lý là phải “lựa chọn đạo
đức”, “nhân cách đạo đức”, “trạng thái đạo đức”, “hành động đạo đức”, “phẩm hạnh
đạo đức”... đều thể hiện cho mục đích hướng tới điều tốt (2020, Tr.9). Từ đó ta có thể
hiểu rằng luân lý là nỗ lực thể chế hóa các hành vi dựa trên các giá trị đạo đức.

Cái ác gắn với ý niệm luân lý khi cái ác được đặt ra để xem xét trong mối quan hệ
đạo đức giữa con người với con người. Lúc này đây thì cái ác thuộc về thế giới tối tăm
sâu thẳm, và việc con người phạm tội, gây hại, làm ra những điều đau khổ cho người
khác đều là ác. Cái ác không được xem là bản thể, mà cái ác là luân lý. Mỗi nhân vật
trong Nhà thờ Đức Bà Paris, Victor Hugo đã xây dựng tính cách đều đạt đến những
giới hạn tột cùng, khi nhân vật dấn thân vào những vùng tối hun hút của cái gọi là ác,
thực hiện những điều nằm ngoài khuôn phép lí trí, phạm vi chuẩn mực đạo đức mà
trong một cộng đồng, thì chính lúc đó đã chạm đến đỉnh điểm của cái ác luân lý.
Vấn đề của cái ác luân lý từ nhân vật linh mục Frollo bắt đầu nảy sinh trong sự đối
thoại của sự biết và sự muốn. Sự biết nói ở đây là từ khi có sự xuất hiện của
Esmeralda – một vũ nữ xinh đẹp múa rong Bohémian, đã khiến cho Frollo đã có linh
cảm thấy rằng số phận của mình đã bị định đoạt, rằng trong chính con người ông ta có
một sự thay đổi lạ “Phải, từ hôm đó, trong ta xuất hiện một con người ta vốn không
quen…” (Nhị Ca, 2002, Tr.511), dần dà dẫn đến những ham muốn chiếm hữu, tạo nên
một thứ tình yêu mang đầy sự đoạ đầy, khổ sở, vật vã và độc tài “ Ta sẽ chiếm đoạt
em....Em sẽ theo ta, nhất định phải theo ta,…Hỡi người đẹp, hoặc chết, hoặc thuộc về
sát nhân!” (Nhị Ca, 2002, Tr.739). Điều đó đã làm biến chất tình yêu, không chỉ dừng
lại trong suy nghĩ mà Frollo biến nó thành những hành động đê tiện, bẩn thỉu, và biến
một linh mục ngoan đạo, mẫu mực thành một tên đồ tể điên rồ, độc ác. Mặc khác,
ngay từ xuất phát điểm, Frollo đã được khắc họa hết sức chuẩn mực“…nghiêm trang,
đứng đắn, học rất chăm và mau hiểu biết” (Nhị Ca, 2002, Tr.225), là người đam mê
khoa học, nhưng chính Frollo tự giết chết những luân lý đạo đức trong con người
mình, phản lại tôn giáo và những thứ khoa học mà mình từng tôn thờ “ Ôi! Bao nhiêu
đạo đức vứt đi hết! Ta tuyệt vọng thí bỏ cả chính bản thân ta! Là bác học, ta nhạo
báng khoa học; là quý tộc, ta xé nát tên tuổi; là linh mục, ta lấy sách kinh làm chiếc
gối dâm dật, ta nhổ toẹt vào giữa mặt đức cha của ta! ” (Nhị Ca, 2002, Tr.737),
Claude Frollo rơi dần vào trong sự mù quáng của tình yêu đơn phương, từ suy nghĩ,
đến nhân cách lẫn lí trí bị tha hóa và dẫn đến những hành động đi lệch với chuẩn mực
mà một phó giám mục cần phải có, đầu tiên là qua sự say đắm nhục dục nặng nề trước
sự linh thiêng của Kinh Thánh, Kinh Thánh như là một món quà từ Đức Chúa Trời,
mang đến niềm tin và sự dẫn lối cho người có niềm tin vào Chúa, nhưng Frollo lại vì
mê đắm dục tình làm, xem Kinh Thánh tựa hồ sẽ dẫn lối để thỏa mãn cho thứ tình yêu
đầy khát khao của mình “ luôn luôn nghe tiếng em âm vang trong đầu óc, luôn luôn
thấy chân em nhảy múa trên cuốn kinh thánh, đêm đêm mơ thấy vóc dáng em trườn
trên da thịt ta, ta thèm gặp lại em, sờ mó em,…” (Nhị Ca, 2002, Tr.511), từ suy nghĩ
đó đã dẫn đến hành động trái luân lý hơn là khi Frollo thực hiện hành vi cưỡng dâm
ngay cái chốn được coi là thiêng liêng nhất, trong sạch nhất “ Hôn ta đi, hỡi cô điên!
Hoặc nằm dưới mồ, hoặc nằm trên giường của ta. Mắt ông long lanh vấn đục và điên
cuỗng. Cái miệng dâm dật làm đỏ ửng cổ cô gái. Cô giẫy giụa trong vòng tay ông.
Ông sùi bọt mép hôn cô tới tấp ” (Nhị Ca, 2002, Tr.740). Và cuối cùng, cực điểm là
khi gã lồng lộng như con thú bị thương mất hết lý trí lẫn nhân tính, gã ghen tuông điên
cuồng rồi giết chết Pheobus – tình yêu trong tim Esméralda và đổ mọi tội lỗi lên nàng,
từ sự si mê rồi đến tuyệt vọng gã chuyển sang căm hận muốn giết chết Esmeralda,
Frollo cho rằng chính nàng là người đã gieo bao nỗi sầu thảm, bi kịch đời gã để giờ gã
sống không bằng chết, và cách để giải thoát khỏi địa ngục lấy lại được sự tự tôn trước
đây chỉ có giết cô gái này. Tóm lại, như đã trình bày cái ác luân lý ở Frollo ta thấy
được xuất phát từ sự biết và sự muốn, sự biết có thể là định mệnh, nhưng sự muốn
chính là tự bản thân hành động, tự bản thân ông ta “…lần lượt nếm hết mọi quả táo
trên cây trí tuệ, rồi cuối cùng cắn cả vào trái cấm, chẳng hiểu vì đói hay vì chán
ngán.” (Nhị Ca, 2002, Tr.248). Và bản thân ông ta đã biến linh hồn của mình trở
thành nạn nhân của chính mình, một tội nhân, mặc cho giáo lý bẻ cong và bản năng tự
nhiên trỗi dậy, chống lại các tín điều khổ hạnh, biến vị thầy tu thành con quỷ dữ, trong
bản dịch của mình, Nhị Ca có nói thêm: “...chính kẻ gieo mầm gian trá phải gặt hái
hậu quả bất lương. Đấng chăn chiên thiêng liêng đành chịu thua quỷ dữ, y tự phá
phách và trở thành tên giết người mà vẫn chưa chịu cất bỏ chiếc mặt nạ thần thánh.
Ở một con người nham hiểm như vậy, yêu thương chỉ trở thành hằn thù, không ăn
được thì đạp đổ, tính vị kỉ dẫn tới hủy diệt những gì y yêu quý nhất.”

Trước khi lý luận về vấn đề của cái ác luân lý từ nhân vật Quasimodo, cần hiểu
rằng ban đầu từ sự cảm thương vô hại của Frollo đã nhận nuôi đứa trẻ có “cảnh cùng
cực, hình thù quái gở, sự ruồng bỏ ”(Nhị Ca, 2002, Tr.231), làm lễ rửa tội cho đứa
con nuôi và đặt tên cho, rồi nuôi nấng, dạy nó nói, đọc, viết, chỉ bảo và cho nó một
công việc kéo chuông nhà thờ. Đối với Quasimodo mà nói thì “ Trên đời này, nó chỉ
còn tiếp xúc với hai thứ, nhà thờ Đức Bà và Claude Frollo ” (Nhị Ca, 2002, Tr.244),
có khi nó còn yêu thương Frollo hơn cả ngôi nhà thờ. Không chỉ thế, đối với
Quasimodo, với mối thù hận đối với tất cả mọi người thì chỉ có mình “phó chủ giáo
là con người duy nhất Quasimodo còn giao thiệp được” (Nhị Ca, 2002, Tr. 224).
Cũng vì thế mà phải nói sau hết và trên hết là lòng biết ơn được đẩy tới giới hạn tột
cùng, không có gì có thể so sánh được sự tận tụy, sự kính trọng Quasimodo dành cho
Claude Frollo, vừa có lòng tận tâm của như một người con, vừa mang tình quyến
luyến của đầy tớ; cả sự mê hoặc của một linh hồn mang một thể chất hèn kém đối với
một linh hồn khác trí tuệ sâu sắc, mãnh liệt, như là một gã đầy tớ ngoan ngoãn nhất,
nô lệ phục tùng nhất, con chó tinh nhanh nhất của Claude, “ chỉ cần Claude ra hiệu
và Quasimodo có ý muốn làm vừa lòng ông ta là nó sẵn sảng nhảy ngay từ ngọn tháp
nhà thờ Đức Bà xuống đất ” (Nhị Ca, 2002, Tr.244). Có thể nói, cũng xuất phát từ
tình cảm đó đã dẫn đến luân lý gây hại đầu tiên của Quasimodo khi nhận lệnh của
Frollo bắt cóc Esméralda, dù sự việc không thành Quasimodo bị bắt. Kế tiếp, lúc
Esméralda bị kết án treo cổ, Quasimodo để cứu Esméralda đã phá pháp trường, đem
nàng vào trong nhà thờ Đức Bà trú ẩn. Nhưng lúc này đây, những người ăn mày chờ
Esméralda khi không thấy nàng trở lại nên đã tấn công vào nhà thờ để cứu nàng, mà
Quasimodo đã hiểu lầm rằng họ đến đây là để giết nàng Esméralda nên gã đã tấn công
để đẩy lùi họ, vô tình tạo nên cuộc hỗn chiến thảm thương “Căm giận làm đỏ gay các
khuôn mặt hung dữ; những vầng trán đen nhẻm ròng ròng mồ hôi; mắt ai cũng nảy
lửa ”, những tiếng thét thật thê thảm cất lên “… chỉ nghe thấy tiếng rên rỉ của những
kẻ khốn nạn bị khúc gỗ giáng xuống đầu tiên, bụng đứt làm đôi trên cạnh đá bậc
thềm”; “ rải rác còn làm gãy thêm chân tay bọn ăn mày”;…Dù là sự hiểu lầm vô tình
gây nên nhưng Quasimodo vẫn đã làm chết những mạng người thiện lành, đây cũng
chính là một phần cái ác, vì phạm trù luân lý của cái ác là dù chỉ phạm một hoặc nhiều
hơn những lỗi lầm thì vẫn là cái ác. Và cuối cùng, luân lý gây hại đỉnh điểm của
Quasimodo là hành động xô ngã Frollo từ trên tháp chuông nhà thờ xuống đất “bất
thình lình nó điên cuồng lao tới, xô hai bàn tay to lớn vào lưng ông, đẩy ngã xuống
cái vực thẳm ông đang cúi nhìn” (Nhị Ca, 2002, Tr.779), như đã trình bày, đối với
Quasimodo thì Frollo không chỉ dừng lại là một người cha nuôi, một chủ nhân, mà
còn là một sự quý trọng cho cái linh hồn trí tuệ được coi là siêu việt, và quan trọng
hơn chính Frollo là người đã nhận nuôi và dạy bảo cho Quasimodo, trên cả cương vị
vừa là cha - con, vừa là chủ - tớ. Vậy thì hành động của Quasimodo theo luân lý chuẩn
mực đạo đức đã là cái ác, cái sai phạm, chính chi tiết gã “nó bất động và câm lặng
như kẻ bị sét đánh và một suối nước mắt dài lặng lẽ chảy ra từ con mắt cho đến nay
mới nhỏ một giọt lệ duy nhất” (Nhị Ca, 2002, Tr.780) đã cho ta hiểu rằng, chính
Quasimodo cũng hiểu rõ, cũng nhận thức rõ được hành động tội lỗi mà mình đang
làm, gã hiểu rõ ràng điều mình đang thực hiện là trái với luân lý đối với kẻ mình mang
ơn. Tóm lại, mặc dù Frollo là điểm xuất phát đầu tiên cho cái ác luân lý của
Quasimodo nhưng từ những hành động tiếp kế xuất phát đều tự bản thân vì lý do
muốn bảo vệ người trong lòng mình chính là Esméralda mới sinh ra những hành động
mang luân lý gây hại, và có thể nói rằng hành động này của Quasimodo chính là dùng
cái ác để luân trị cái ác, cái ác luân lý của Quasimodo gắn liền với sự thức tỉnh của
công lý.

Ta hiểu rằng cái ác sẽ mang đến sự tội lỗi và sự đau khổ, đây cũng chính là luân lý
gây hại đầu tiên từ nhân vật Esméralda. Nói đến tình yêu của nàng, nàng đã yêu
Phoebus một cách mù quáng, dù thực chất đó chỉ là một gã sở khanh đàn điếm, đã có
hôn thê, hết lần này tới lần khác hắn chỉ muốn dụ dỗ và chiếm đoạt nàng. Và vì tình
yêu mù quáng này nàng khước từ tình yêu từ Frollo và Quasimodo, nhưng đối với
Quasimodo, bản chất ban đầu gã không cần bất kì sự đền đáp nào vì đối với gã đây là
một thứ tình yêu, là tình thương trong sáng bất diệt, từ đó gã xem nàng như thánh nữ,
như thiên thần mà gã cần phải bảo vệ. Ngược lại hoàn toàn với thứ tình cảm của
Frollo, đối với thứ tình cảm đáng sợ và độc chiếm Esméralda đã thể hiện sự căm ghét,
ghê tởm, lạnh lùng, chính vì thái độ đó nàng đã khiến tình yêu của Frollo biến gã sống
trong dày vò, đau đớn và khổ sở “Liệu em có hiểu nổi thế nào là cực hình nó hành hạ
ta suốt những đêm dài..”; “ Ta mang ngục tối ngay trong lòng…Em có hiểu ta đau
khổ tới mức nào không?”; “ Ta chỉ là một kẻ khốn khổ!.. Nếu em từ địa ngục tới, ta sẽ
cùng đến đó với em. Ta sẵn sàng làm mọi chuyện.”; từ sự mê đắm trong tình yêu,
cùng sự khước từ của nàng ta đã khiến Frollo càng lún sâu vào những tội ác, làm nên
những hành động trái luân lý, đê tiện, điên rồ. Tóm lại, “ Esméralda ngây thơ và hồn
nhiên như một thỏi nam châm hút hồn hai con người tội nghiệp đã dấn thân cho
Chúa, từ thân thiết như tình cha con trở sang thù oán nhau ” [4], nàng là xuất phát
điểm gián tiếp cho cái ác luân lý cho cả Frollo và Quasimodo, Frollo vì để chiếm đoạt
tình yêu từ nàng mà dẫn đến cái ác, còn Quasimodo vì muốn bảo vệ nàng mà hành
động cái ác.

2.1.2. Cái ác là cái khác trong tác phẩm NTĐB

2.1.3. Cái ác lai ghép trong tác phẩm NTĐB


(phát triển từ 3 đặc điểm ở 1.2.2. và lấy dẫn chứng từ tác phẩm)

Như đã trình bày, sự pha trộn nhiều thứ trong một cá thể sẽ dẫn đến cái dị biệt.
Điều này được Victor Hugo thể hiện qua nhân vật trong tác phẩm, đầu tiên phải nói
đến Quasimodo là sự lai ghép giữa cái khủng khiếp dị biệt, cái bi thảm với cái cao
thượng. Victor Hugo đã khắc họa cái dị biệt, khủng khiếp của Quasimodo qua “vẻ
xấu xí hoàn hảo” ở ngoại hình của gã, cái hình thù quái dị mà “ chỉ có Chúa mới biết
bộ mặt hắn đã vươn lên tới đỉnh cao của sự xấu xí ”, “ Có thể nói đây là một gã
khổng lồ bị tháo rời từng mảnh và được hàn lại vụng về ”;…Tiếp đó, để nói về cái bi
thảm thì chính từ sự dị dạng bên ngoài của gã, ngoại hình đã là thứ khiến gã đau khổ
nay cuộc sống càng đau khổ hơn , nó trở thành nguyên nhân dẫn đến cái bi thảm của
cuộc đời gã, vì chính sự xấu xí mà gã được coi là hiện thân của một con quỷ mang cái
linh hồn “ vừa xấu lại vừa ác ”, gã là người của tầng lớp dưới đáy xã hội, bị đám
đông quần chúng, mọi người chửi mắng, khinh miệt, biến gã trở thành trò cười, và với
gã chỉ còn mỗi cái nhà thờ và Frollo – người cha nuôi, phương thức giao tiếp duy nhất
mà gã cảm thấy mình còn có giá trị sử dụng, song từ sự dị biệt trong ngoại hình cùng
cái bi thảm trong xuất thân, tầng lớp gã còn là sự pha trộn giữa môi trường thánh thiện
là nhà thờ và cái ác của Frollo, bản chất ai cũng hiểu rằng nhà thờ là nơi thánh thiện,
nuôi dưỡng tâm hồn cho một con người, nhưng con người bên trong nó lại mang một
tâm hồn độc ác là Frollo, bằng chứng để nói Quasimodo là sự pha trộn ở đây là nằm ở
việc gã bị Frollo sai khiến bắt cóc Esméralda. Cuối cùng, chính là sự cao thượng của
Quasimodo, đối với tình yêu đơn phương của gã dành cho Esméralda ví như “ đom
đóm yêu một vì tinh tú ”, sẵn sàng hy sinh bản thân để bảo vệ “ vì tinh tú ” của mình,
một thứ tình yêu cao thượng không cần sự hồi đáp. Tóm lại, chính sự pha trộn này đã
đẩy cuộc đời Quasimodo vào những cảnh trớ trêu, làm tiền đề cho những hành động
về sau của nhân vật.

Đối với nhà thờ Đức Bà, nó còn mang sự pha trộn ở bên trong giữa tình yêu bóng
tối và tình yêu thánh thiện. Tình yêu bóng tối chính là thứ tình yêu độc hại, độc tôn
mà Frollo dành cho Esméralda, thứ tình yêu khiến nàng cảm thấy đáng sợ và ghê tởm
đến mức van xin sự chết còn hơn chấp nhận thứ tình cảm đó “ Hãy giết ngay, giết
quách tôi đi cho xong! Rồi cô khiếp sợ rụt cổ như con cừu non đợi chiếc búa gã đồ tể
bổ xuống ”; “ ..hắn làm ta kinh sợ! Lạy Chúa, nếu không có hắn, ta đã sung sướng
biết bao! Chính hắn xô ta rơi xuống vực thẩm này! ”; “Ôi! Quân khốn nạn! Ngươi là
ai? Ta có làm gì ngươi đâu? Sao ngươi lại thù ghét ta đên như vậy? Chao ôi! Ngươi
thù ghét ta vì tội gì?”. Trái lại thứ tình yêu bóng tôi đó chính là tình yêu thánh thiện
của Quasimodo gửi gắm cho Esméralda, thứ tình thương thuần khiết dù cho không
cần sự hồi đáp, một thứ tình thương vượt qua cái vẻ ngoại hình đáng sợ, kinh khủng
của gã, gã hi sinh cao thượng cho tình yêu của mình. Có thể đây chính là một tình yêu
thuần khiết, đơn thuần, cũng là một mối tình căm lặng và dường như lúc bắt đầu đã là
tuyệt vọng nhưng cũng chính nó giúp cho Quasimodo biết đi đến những cảm xúc chân
thật như loài người. Như vậy, ta hiểu rằng mặc dù tình yêu của cả hai nhân vật có sự
đối lập nhưng chung quy đều vì tình yêu mà nhận lại những kết cục bi thảm, và chính
từ sự pha trộn giữa hai thứ tình yêu đối lập như vậy, mới dẫn đến sự thù địch trong
mối quan hệ của Frollo và Quasimodo.

2.2. Biểu hiện cái thiện trong tác phẩm (2 người) (Trân + Du)

2.2.1. Cái thiện xuất phát từ lòng trung thành trong tác phẩm NTĐB

Biểu hiện của cái thiện xuất phát từ lòng trung thành là sự yêu mến,
vâng phục của Quasimodo dành cho Frollo. Bởi lẽ Quasimodo còn chịu ơn nuôi
dưỡng, dạy dỗ của Frollo “Chàng làm lễ rửa tội cho đứa con nuôi và đặt tên là
Cadimôđô”(Nhị Ca, 2000, tr.200). Vì thế, hình thành trong Quasimodo một sự
trung thành gần như tuyệt đối đối với phó giám mục. “Có một nhân vật mà
Cadimôđô đặt riêng ra ngoài mối thù hận và tính độc ác của nó đối với mọi
người, một nhân vật mà nó yêu thương rất mực có khi còn hơn cả ngôi nhà thờ:
đó là Clôđơ Phrôlô.” (Nhị Ca, 2000,tr.210). Điều đó còn thể hiện ở cả hành
động cử chỉ, khi chỉ mới vừa nhìn thấy Frollo, Quasimodo liền phủ phục dưới
chân vị phó giám mục “Hắn nhảy xổ tới linh mục, nhìn ông ta rồi quỳ
xuống”(Nhị Ca, 2000, tr.95), dù hắn bị Frollo đối xử hách dịch, tệ bạc thì
“Cadimôđô chỉ quỳ rạp, nhẫn nhục, van xin.” (Nhị Ca, 2000, tr.95) mặc cho
hắn có đủ sức mạnh đánh tan cái kiểu cách hành xử như thế của ông ta “Thế mà
Cadimôđô chỉ cần dí ngón tay cái cũng đủ khiến linh mục chết bẹp.”(Nhị Ca,
2000, tr.95). Lòng trung thành đó cực đoan đến mức hắn sẵn sàng hy sinh cả
mạng sống của mình “Chỉ cần Clôđơ ra hiệu và Cadimôđô có ý muốn làm vừa
lòng ông ta là nó sẵn sàng nhảy từ ngọn tháp nhà thờ Đức bà xuống đất.”(Nhị
Ca, 2000. tr.211).

Theo quan niệm của Kitô giáo, đạo này đòi hỏi cái thiện trước hết là
trung thành. Bởi lẽ, sự trung thành của người tu sĩ là “kho tàng quý giá”. Vì,
ngay buổi đầu sơ khai Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng, những người đón nhận ơn
kêu gọi, tin tưởng, đi theo và vâng theo lời Người thực sự là không phải nhiều.
Tuy nhiên, chúng ta cần tách riêng lòng trung thành với hành động mang cái ác,
đó chính là theo lời sai khiến của phó giám mục, người mà Quasimodo một lòng
trung thành “Quả là một điều đáng chú ý về tất cả cái sức mạnh thể lực đó, nó
phát triển đến mức hết sức phi thường ở Cadimôđô và được mù quáng trao vào
tay kẻ khác sử dụng.”(Nhị Ca, 2000, tr.211).

2.2.2. Cái thiện là cái toàn vẹn trong tác phẩm NTĐB

Trong tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris, nhân vật Esmeralda là một cô gái
thánh thiện sở hữu tài sắc vẹn toàn, luôn có những hành động tốt bụng đối với
tất cả mọi người. Bên cạnh đó, cô còn có một tâm hồn trong sáng và một trái
tim chứa đựng cảm xúc tình yêu vô cùng mãnh liệt. Mọi đặc điểm của cái thiện
đều được tác giả khắc họa lên nhân vật này, từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến vẻ
đẹp lương thiện bên trong, vì vậy hoàn toàn có thể nói Esmeralda chính là biểu
hiện cho cái thiện toàn vẹn trong xuyên suốt tác phẩm này.

Biểu hiện không thể không nói đến của cái thiện toàn vẹn ẩn chứa trong
nhân vật Esmeralda đó là một cô gái tài sắc vẹn toàn. Bởi vì cái thiện gắn liền
với chân-mỹ, trong đó mỹ được hiểu là thẩm mỹ, là cái đẹp cụ thể ở đây chính
là vẻ đẹp ngoại hình cũng như tài năng mà cô gái này có được. Esmeralda là
một cô gái Bohemian, người Ai Cập và vẻ đẹp của cô ấy được miêu tả trong tác
phẩm như sau: “Cô ta không cao lớn, mặc dù có vẻ như vậy, vì dáng người
thanh mảnh vươn lên hết sức ngạo nghễ. Nước da nâu, nhưng ban ngày ánh
hẳn lên màu hồng tươi đẹp của dân Andolouse và dân La Mã. Bàn chân nhỏ
nhắn cũng là chân người Andolouse, vì xỏ vừa khít vừa thoải mái vào đôi giày
xinh xắn”, “gương mặt rạng rỡ của cô lại lướt qua đôi mắt to đen ngời sáng
như ánh chớp”, “đôi vai trần, cặp chân thon, cặp mắt rực lửa…” Qua những
chi tiết ấy cũng đủ để thấy được đây là một cô gái sở hữu ngoại hình trẻ trung,
xinh đẹp, tràn đầy sức sống. Song song đó tài năng của cô nàng cũng được ca
ngợi như sau: “Cô ta nhảy múa, xoay tròn, xoay tít, trên tấm thảm Ba Tư cũ,
trải tạm dưới chân” , “là một con người siêu phàm khi cô cứ thế nhảy múa theo
tiếng trống rền…” “Tiếng hát cũng như điệu múa và sắc đẹp của cô. Nó khó tả
mà đáng yêu: có thể nói, đó là cái gì trong sáng, âm vang, thanh thoát, bay
bổng”...Một cô vũ nữ với tài nhảy múa điêu luyện kèm thêm giọng hát trong
trẻo, truyền cảm, đi vào đánh thức lòng người như thế thì quả là tài sắc vẹn
toàn. Cái thiện tuy không chỉ nhìn vào vẻ ngoài mà đánh giá được nhưng để cái
thiện có thể vẹn toàn thì nhất định phải xét thêm về khía cạnh thẩm mỹ. Ở đây,
nàng Esmeralda đã có được điều đó, nên đã bước đầu minh chứng được cho
việc nàng chính là nhân vật có cái thiện toàn vẹn.

Bên cạnh tài sắc, Esmeralda còn là cô gái có một tấm lòng cao đẹp và
một tâm hồn thánh thiện. Lòng nhân từ ấy cũng chính là biểu hiện lớn nhất, rõ
ràng nhất cho cái thiện toàn vẹn chất chứa bên trong cô gái Ai Cập. Nàng
thường hay giúp người, giúp người ở đây không phải đơn thuần chỉ là giúp đỡ
miếng cơm manh áo cho người nghèo khó, mà cao cả hơn là nàng đã không
ngần ngại cứu sống được hai mạng người đó là thi sĩ Pierre Gringoire và
Quasimodo. Về phần thi sĩ Pierre Gringoire, khi anh sắp bị một tên ăn mày tự
xưng là đức vua của Tòa án của những kỳ quặc treo cổ thì Esmeralda đã xuất
hiện, không đắn đo suy nghĩ nhiều, nàng đã nhận làm vợ của thi sĩ mặc dù
không hề yêu để cứu ông ấy thoát khỏi cái chết đang đến gần:
“- Xin lỗi cô nương, Gringoire mỉm cười nói. Nhưng tại sao cô lại lấy tôi làm
chồng?

- Cứ thể để mặc cho anh bị treo cổ à?

- Hoá ra, nhà thơ nói hơi có vẻ thất vọng, cô lấy tôi không ngoài ý định muốn
cứu tôi thoát khỏi giá treo cổ?

- Vậy anh còn muốn tôi có ý định gì khác nữa?”

Còn về phần Quasimodo, trong lúc đang bị xử phạt treo trên cột bêu người, hắn
dường như sắp chết vì đau đớn, vì mệt mỏi và hơn cả những cảm giác kinh
khủng ấy đó chính là vì khát. Nhận thấy điều đó, Esmeralda đã không những
không cười nhạo hắn như bao người dân khác, cũng không trách giận hắn vì đã
bắt cóc mình, mà cô đã sẵn sàng giúp hắn uống nước, cứu hắn sống dậy sau cơn
khát chết người: “Không nói một lời, cô gái lại gần tội nhân đang vùng vẫy vô
ích để né tránh, rồi tháo chiếc bình nước ở dây lưng nhẹ nhàng đưa sát vào đôi
môi khô khốc, của kẻ khốn khổ.”Hai lần cứu người ấy, esmeralda đều đã thể
hiện được cái tâm trong sáng, thuần khiết và cao thượng của mình khi cứu giúp
người khác mà không màng đến lợi ích cá nhân. Vì thánh thiện nên nàng mới
đồng ý cưới Gringoire mặc cho trái tim mình không yêu chàng ấy. Và cũng vì
thánh thiện mà nàng cũng đã sẵn lòng cứu cả người đã từng bắt mình trước đó
mà không một chút ngần ngại hay sợ hãi.

Cái thiện không phải chỉ là mang cái tốt của mình dành cho người khác,
mà cái thiện còn là phải đối tốt với chính mình, phải khiến bản thân mình hạnh
phúc. Esmeralda cũng là kiểu người như thế, bên cạnh lòng tốt đối với mọi
người thì cô cũng rất nuông chiều cảm xúc cá nhân của mình khi cô đem lòng
yêu chàng kỵ sĩ Phoebus, là một đại úy của quân cung thủ thuộc đội bảo vệ nhà
vua. Tình yêu ấy nảy nở khi cô được chàng Phoebus cứu thoát khỏi vụ bắt cóc:
“Cô gái Bohemian duyên dáng ngồi dậy trên yên ngựa viên sĩ quan, hai tay vịn
lên đôi vai chàng trai trẻ và đăm đăm nhìn chàng vài giây, như vui sướng vì bộ
mặt tươi cười và sự cứu giúp của chàng trai đối với cô”. Cảm xúc của
Esmeralda dành cho Phoebus ngày càng mãnh liệt, say đắm khi cô đã theo tiếng
gọi con tim để có những hành động gần gũi với chàng kỵ sĩ: “Chỉ có Phoebus
và Esmeralda ngồi trên cái hòm gỗ cạnh một cái đèn. Cô gái đỏ mặt, chết lặng,
bồn chồn. Hàng mi dài của nàng cụp xuống, tỏa bóng trên đôi má hồng.” Cảm
xúc tình yêu trong sáng dành cho Phoebus chưa lúc nào vơi trong lòng cô nàng:
“ Cô quay đầu lại phía có tiếng gọi, con mắt long lanh đăm đăm nhìn Phoebus,
rồi ngưng luôn múa”, “Cô gái vẫn nhìn chàng, rồi đỏ mặt như có lửa bốc lên
má”. Qua đó, có thể thấy cô gái Ai Cập này không những tốt bụng với mọi
người mà cô còn tốt với cả chính mình, cảm thấy hạnh phúc khi đã sống nuông
chiều cảm xúc của bản thân với một tình yêu thuần khiết. Điều này đúng với
những quan niệm cả phương Đông lẫn phương Tây đó là cái thiện không chỉ là
cái tốt của người đối với người mà cả đối với mình, là cái được in sẵn trong
lòng mỗi con người.

Qua vẻ đẹp ngoại hình và tài năng, qua lòng thánh thiện và qua sự đối tốt
với chính bản thân mình, Esmeralda đích thị là nhân vật biểu hiện cho cái thiện
toàn vẹn.

2.2.3. Cái thiện là chân tâm trong tác phẩm NTĐB

Theo Kant, thiện chí có bản chất là tốt tuyệt đối. Tức là khi thực hiện một
việc thiện, hành động đó được làm mà không mang những mục tiêu về lợi ích
hay ưu đãi, vậy thì lúc đó hành động đó là hợp lý và xuất phát từ lòng thành.
Một hành động mang thiện chí thì cần phải vì bổn phận, tức là “hành động vì
chính ta ý thức rằng đó là việc phải làm và có làm thì mới yên lương tâm”
(Trần Thái Đỉnh, 2005, tr.196).

Theo Trần Thái Đỉnh, “Thiện chí là một chân lý hiển nhiên và tiên thiên”
(Trần Thái Đỉnh, 2005, tr.197). Ta làm việc đó vì trước đó ta đã phán đoán sự
thiện ác trong hành động, và làm việc đó vì thành tâm thiện ý là điều hiển nhiên,
mà không cần chứng minh hay biện luận về hành động đó. Tiên thiên là sự ý
thức đạo đức về thiện có sẵn trong lòng mỗi người.

Đức tổng giám mục thành Remx là mắt xích đầu tiên thực hiện hành động
cứu sống đứa trẻ xấu xí, nếu không có mắt xích này thì cũng sẽ chẳng có cái
việc thiện của Frollo sau đó. Đức Tổng giám mục thành Remx mang một trái
tim hướng về Thiên Chúa và tâm hồn thiện lương, ôm ấp những nguyện vọng
cứu trợ cứu nạn con người như cách chúa Giêsu hằng làm trong Kinh Thánh.
Đức ngài xuất phát từ tình thương xót, ý muốn cứu rỗi đối với những kẻ khốn
khổ khốn nạn, những kẻ bị ruồng bỏ. Đức tổng giám mục biết đứa bé xấu xí,
thọt chân, chột mắt bị bọn người Ai Cập đánh tráo với đứa con gái xinh đẹp
Agnès của cô Chantefleurie ở thành Remx là vô tội, không đáng bị thiêu chết
hay thả trôi sông. Vì thế, Đức tổng giám mục cứu đứa bé, không cho dân Remx
giết đứa bé, mà lại trừ tà và ban phép lành cho đứa trẻ, cứu rỗi nó và gửi nó về
Nhà thờ Đức Bà ở Paris làm trẻ mồ côi (“trẻ vô thừa nhận"), dù đứa bé bị mọi
người xung quanh ghẻ lạnh săm soi. “Không trôi sông mà cũng chẳng thiêu
sống, chị Giécve ạ. Đức tổng giám mục quan tâm đến đứa bé Ai-cập, đã trừ tà
và ban phép lành cho nó, đã đuổi hẳn ma quỷ ra khỏi người nó, rồi gửi tới Pari
để đặt lên chiếc giường gỗ ở nhà thờ Đức bà làm trẻ vô thừa nhận.” (Nhị Ca,
2000, tr. 295). Đức ngài làm chuyện này không vì bất cứ lợi ích hay ưu đãi nào,
mà vì biết hành động này là chính đáng, chuyện cần phải làm. Vì chính ngài là
tông đồ của Thiên Chúa.

Hành động của Đức Tổng giám mục như Chúa Con là Chúa Giêsu xuất
phát từ tình thương mà cứu rỗi, chữa lành kẻ bị phong cùi trong Tin mừng theo
thánh Mác-cô ( Mc 1, 40-45). Chúa Giêsu vượt qua lề luật không được gặp, trao
đổi hay đụng chạm vào người phong cùi, Ngài cho phép người phong cùi đến
gặp Ngài, Ngài chạm vào anh ta để làm phép chữa lành, chữa khỏi bệnh cho anh
ta, Ngài đưa anh trở về cuộc sống bình thường không bị ghẻ lạnh, chờ chết.
Tác giả phác hoạ nên một xã hội - nơi đức tin bị yếu đi, đau khổ ở khắp
nơi, chế độ triều đình mục nát. Cái thiện trong Đức Tổng giám mục đối với đứa
bé nổi bật lên giữa bức tranh xã hội ấy, những sự căm ghét, ghét bỏ của người
dân xung quanh, giống như Chúa Con không xua đuổi ghét bỏ người bị phong
cùi. Người ta cho rằng Đức tổng giám mục ỷ vào sự thông thái của mình mà
lắm chuyện, làm chuyện khác người “Mấy ông giám mục đó thật lắm chuyện!
Giécve làu bàu. Vì họ thông thái nên họ toàn làm khác người.” (Nhị Ca, 2000,
tr.195). Nhưng ngài chẳng biện luận hành động đó của ngài cho bất cứ ai biết về
sự thành tâm thiện ý của ngài. Tác giả cho thấy những con người khốn khổ dẫu
có bị xã hội ruồng bỏ, xua đuổi nhưng Thiên Chúa sẽ luôn cưu mang, cứu rỗi
những con người ấy.

Claude Frollo ý thức được sự đạo đức về thiện trong hành động nhận nuôi
đứa trẻ vô thừa nhận trên chiếc kê bên trái tiền đường của nhà thờ Đức bà.
Chàng trai đó chính xuất phát từ tình thương, sự đồng cảm đối với đứa trẻ còn
nhỏ mà đã mô côi, xuất phát lòng đồng cảm, thiện chí đối với kẻ cùng khổ,
người đồng hoàn cảnh với người em trai. Chàng không thể nhìn một đứa trẻ tội
nghiệp bơ vơ, với những lời hăm doạ về cái chết “Chàng liền đến gần đứa nhỏ
khốn nạn đang bị ghét bỏ và hăm doạ. Cảnh cùng cực, hình thù quái gở, sự
ruồng bỏ, nỗi lo lắng cho chú em, ý tưởng kỳ quái đột nhiên nảy ra trong óc là
nếu mình chết, chú em Giăng thân yêu rất có thể bị vứt bỏ khốn khổ trên chiếc
giường đặt trẻ vô thừa nhận, mọi cái đó ập vào tâm tư, chàng liền thấy cảm
thương vô hạn và bế đứa trẻ đi.”(Nhị Ca, 2000, tr.199). Frollo vừa thành niên
liền mất cha mẹ, gánh nặng cuộc sống đè lên chàng trai trẻ, cả trách nhiệm
chăm sóc đứa em còn bé, nhưng chàng trai vẫn có đủ năng lực để nuôi nấng
thêm một đứa trẻ nữa, nên chàng đã nhận nuôi đứa trẻ vô thừa nhận. Chàng bỏ
qua sự ghét bỏ của mọi người xung quanh đối đứa trẻ mà nhận nuôi đứa trẻ, rửa
tội cho đứa trẻ, đặt tên cho nó và cho nó một nơi nương tựa.
Đối với Kitô giáo, Frollo có một đức tin sâu đậm, chàng tin rằng lỡ sau này
em trai chàng có làm gì sai trái, thì sẽ được chuộc lại bằng việc thiện này “Vì
yêu quý em trai, chàng tâm nguyện sẽ nuôi thằng bé này, để mai sau dù chú em
Giăng có phạm lỗi lầm gì cũng sẽ được chuộc lại bằng công việc từ thiện này.”
(Nhị Ca, 2009. tr.200). Theo Victor Delbos, quan niệm đạo đức về thiện chí của
Kant xuất phát từ những suy nghĩ Kitô giáo của ông, “vì đạo này đòi hỏi trước
hết phải có lòng thành cũng gọi là thiện ý, và coi sinh hoạt đạo đức là một cái
gì có bản chất trong tâm hồn.”( V.Delbos, 1964, tr.87). Hành động cưu mang
của chàng xuất phát từ niềm tin vào Thiên Chúa. Một hành động vì tỏ lòng
thành thay cho người em trai, một sự tha thiết chuộc lỗi. Cho thấy, đạo Kitô
giáo là chỗ dựa tinh thần, thúc đẩy con người làm việc thiện, và cuối cùng là gặt
hái được sự yên nghỉ trong tâm hồn.

Trong tác phẩm, Esmeralda là nhân vật mà tác giả phác hoạ có lý trí đạo
đức dựa trên lý trí, những hành động mang cái thiện mà cô thực hiện không dựa
trên tình cảm và những dự tính lợi ích bị pha trộn bởi dục vọng và tư lợi. Victor
Hugo là một con chiên mộ đạo, nhưng lại xây dựng một nhân vật ngoại đạo có
mang một trái tim thiện lương không vụ lợi nhất trong tác phẩm này trong bối
cảnh toàn hơi thở của Kitô giáo. Một cô gái người Bohemian có quan niệm
thiện ác rõ ràng, và luôn sẵn sàng làm việc thiện.

Trong tâm trí của mỗi người đều có ý thức đạo đức, có lương tri. Theo
Kant, “Tính chất thực hành của những mệnh đề đạo đức thì luôn có tính cách
tuyệt đối, vô điều kiện: cho nên trong mỗi hoàn cảnh, ý thức đạo đức truyền ta
phải hành động thế này thế kia, và lệnh truyền này không có tính cách giả định
(như kiểu: nếu anh làm sẽ được lợi ích này lợi ích kia), nhưng có tính cách
tuyệt đối, nghĩa là nhất định phải làm ; dầu phải đau khổ và thiệt hại cũng phải
làm.” (Trần Thái Đỉnh, 2005, tr. 200).
Esmeralda cứu thi sĩ Pierre Gringoire khỏi giá treo cổ ở Cung điện thần kỳ.
Lương tri của cô gái người Bohemian không cho phép cô chỉ đứng yên đó. Trái
tim cô gái không cho phép cô thấy chết mà không cứu, đó chính là một mạng
người, chính trái tim thiện lương đã truyền cô phải cứu thi sĩ. Esmeralda đồng ý
cưới nhà thơ dù chẳng có tình cảm nào để giành lại mạng anh ta khỏi đám ăn
mày “Hoá ra, nhà thơ nói hơi có vẻ thất vọng, cô lấy tôi không ngoài ý định
muốn cứu tôi thoát khỏi giá treo cổ?”(Nhị Ca, 2000, tr.134). Rõ ràng trong trái
tim của cô gái cũng đang cất chứa một người khác, nhưng vì cứu sống một
người mà hy sinh làm vợ kẻ đó. Ở cái nơi toàn dân khốn khổ, một cô gái thấp cổ
bé họng luôn sẵn sàng để cứu giúp một mạng người, cô biết điều đó và cũng
không hề do dự mà làm điều đó. Khi xung quanh, bất kì ai cũng có thể làm điều
đó, nhưng chẳng ai muốn làm điều đó, mạng sống của một người khốn khổ
cũng rẻ rúng trong mắt của những người khốn khổ khác.

Esmeralda giúp Quasimodo uống nước trên giàn bêu tù. Esmeralda thấy
Quasimodo khát, cầu xin mọi người xung quanh cho hắn uống nước. Nhưng
chẳng ai làm điều đó, cũng có người có lòng từ thiện nhưng lại chùn bước trước
bầu không khí dữ tợn của dân chúng Paris xung quanh. Vì thế, cô gái rủ lòng
thương. Dù trước đó, tên gù ấy suýt bắt cóc cô, và giờ đây khi đang bị trừng
phạt bêu trên giàn bêu tù, thì cũng không đáng bị đối xử tệ bạc đến mức một
giọt nước cũng không thể uống, ngày cả tên tử tù trước khi bị thi hành án cũng
được ăn một bữa ngon. Vậy mà hắn lại bị đối xử tệ bạc như vậy, nên ý thức đạo
đức trong tâm trí Esmeralda thúc đẩy cô giúp hắn uống nước ngay trong chiếc
bình của mình, dầu lẽ ra cô nên tức giận hay trả thù vì sự kiện trước đó. “Cô gái
lại gần tội nhân đang vùng vẫy vô ích để né tránh, rồi tháo chiếc bình nước ở
dây lưng nhẹ nhàng đưa sát vào đôi môi khô khốc, của kẻ khốn khổ.”(Nhị Ca,
2000, tr.316). Khác với sự hung hăng chửi rủa của mọi người xung quanh, cô
gái đối xử thân thiện, nhẹ nhàng với tên gù xấu xí, điều này càng làm nổi bật sự
thiện lương trong cô “Nhưng nó quên cả uống. Cô gái Ai-cập sốt ruột khẽ bĩu
môi, rồi mỉm cười ghé chiếc bình vào sát cái miệng đầy răng của Cadimôđô.
Nó uống từng hơi dài. Nó đang khát cháy họng.”(Nhị Ca, 2000, tr.316).

2.3. Sự đối lập thiện và ác trong tác phẩm (2 người) (Trâm + Tú)
(Phần này vận dụng sự tương giao giữa thiện và ác - Ví dụ: trong
cái thiện có ẩn chứa cái ác, và ngược lại.)*thủ pháp tương phản
của Victor Hugo.

2.3.1. Sự đối lập thiện và ác trong Nhân vật Quasimodo

Giữa cái thiện và cái ác, giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa những cái xinh đẹp và
cái xấu xí, giữa những cái được coi là cao trọng trở nên thấp hèn và đáng lên án,
giữa những con người tưởng chừng đáng khinh bỉ loại bỏ lại trở nên đẹp đẽ lạ
thường. Điều đó được V.Hugo tái hiện sống động và sắc sảo khi xây dựng
những nhân vật tưởng chừng như xuôi thuận nhưng thật ra là tương phản với
những quan niệm đạo đức lúc bấy giờ. Khi nói về thủ pháp tương phản V.Hugo
đã từng nói: “Nghệ thuật hiện đại sẽ thấy không chỉ mọi vật trong thế giới đều
là cái đẹp, phù hợp với lòng người mà sẽ cảm thấy cái xấu bên cạnh cái đẹp,
cái dị dạng bên cạnh cái xinh xắn, cái thô tục được che giấu đằng sau cái cao
cả, cái ác tồn tại sau cái thiện, đen tối và ánh sáng trộn lẫn vào nhau”.

Victor Hugo tựa như nhà quay phim tài ba, từng thước phim của ông quay cận
cảnh Paris thời kì đen tối, khi cái ác không thể định vị chỉ bằng mắt thường.
Những biểu tượng tượng trưng cho cái thiện, cái đẹp có sự tráo đổi, ẩn sâu trong
cái hào hoa phong nhã là những tâm hồn của quỷ dữ, tràn đầy nhục dục. Một
Paris tăm tối với những kẻ lang thang, cướp bóc tồn tại ngay trong lãnh địa của
Chúa. Nổi bật trên nền cảnh đó là hình ảnh thằng gù Nhà thờ Đức Bà –
Quasimodo.

Quasimodo là ai? Một người đàn ông gù lưng dị hợm hay một người đàn ông có
tâm hồn trong sáng, có khả năng dũng cảm làm việc vì lợi ích của người khác?
Sinh ra là một đứa trẻ vô thừa nhận, hắn bị bỏ rơi khi mới bốn tuổi, nó là “sản
phẩm của một tên Do thái với mụ lợn sề”, còn bất hạnh hơn, người đời đều xa
lánh, sợ sệt khi đến gần nó. Quasimodo sinh ra đã bị tật nguyền. Toàn bộ con
người Quasimodo đã được Hugo miêu tả ở mức đáng sợ nhất. Diện mạo xấu xí,
kệch cỡm và nó đã lớn lên trong sự khinh ghét, kinh tởm của dân chúng thành
Paris. Cái hình hài kì dị của nó được miêu tả rõ hơn trước con mắt của đám
đông trong ngày hội cuồng đãng - vẻ xấu xí hoàn hảo: “... cả người hắn là một
khối nhăn nhúm. Cái đầu to tướng lởm chởm tóc đỏ quạch; giữa hai vai là cái
bướu kếch xù khiến trước ngực hắn như nhô ra; bộ đùi và chân vòng kiềng bị
bẻ quẹo rất kỳ quái, chỉ có thể chạm nhau ở đầu gối, nhìn thẳng đằng trước
trông hai cẳng chân hắn giống như hai lưỡi hái kề nhau ở chỗ tay cầm; bàn
chân, bàn tay to bè và lớn khủng khiếp; cùng với hình thù quái dị ấy là một
dáng đi mạnh mẽ, nhanh nhẹn và quả cảm đáng sợ, một ngoại lệ kỳ lạ khác với
luật lệ muôn thuở cho rằng sức mạnh cũng như vẻ đẹp là kết quả của sự hài
hòa.” (Nguyễn Hoài Giang dịch, 2021, Tr.80) Có thể nói đây là một gã khổng lồ
đã bị ai đó tháo rời từng mảnh và được hàn lại một cách vụng về. Hắn được làm
lễ rửa tội, do đó đã xua đuổi "ma quỷ" và sau đó được gửi đến Paris, đến Nhà
thờ Đức Bà. Tại đây, họ muốn ném hắn vào lửa, nhưng Claude Frollo, một linh
mục trẻ, đã đứng ra bảo vệ. Ông nhận nuôi cậu và đặt tên cho cậu là Quasimodo
(đây là cách người Công giáo gọi ngày Chủ nhật đầu tiên sau lễ Phục sinh -
ngày cậu bé được phát hiện). Kể từ đó, nhà thờ Đức Bà trở thành nhà của hắn,
Claude Frollo thành người thân duy nhất của hắn. Khi hắn được mười bốn tuổi,
Claude Frollo đã giao cho hắn vị trí người rung chuông của Nhà thờ. Chuông
trở thành niềm đam mê của Quasimodo. Nó đã thay thế niềm vui giao tiếp của
anh ta và đồng thời dẫn đến một bất hạnh mới: Quasimodo bị điếc sau tiếng
chuông. Quasimodo lớn lên, không câm nhưng dần điếc, sống trong thế giới tăm
tối của mình với hai tình yêu lớn duy nhất: gác chuông nhà thờ Đức Bà và phó
giáo chủ Claude Frollo, cho đến trước khi anh gặp Esmeralda. Việc mô tả chân
dung Quasimodo như thế đã nhấn mạnh đến ý thức về cái đẹp, cái hài hoà khi
mô tả những bộ phận kì dị, Victor Hugo muốn phản ứng lại với luật lệ muôn
thuở cho rằng vẻ đẹp là sản phẩm của một chỉnh thể hài hoà. Như vậy, khi xây
dựng nhân vật Quasimodo, Hugo đã ý thức rất rõ về sự ra đời của một nhân vật
có mức độ dị hình: chột, khoèo chân, điếc, gù. Đó là mức độ kì diệu của cái xấu.

Quasimodo ghét sự xấu xí của mình, nhưng đồng thời cũng sở hữu trái tim nhân
hậu... Gã tôn thờ Nhà thờ, tòa nhà thay thế cho gia đình, quê hương và xã hội
của anh. Không ai yêu thương Quasimodo, nhưng với gã, tình yêu dành cho nhà
thờ Đức Bà là đủ. Đối với hắn - một kẻ dị hình xấu xí không được ai yêu
thương, nhà thờ Đức Bà là cả một thế giới an ủi. Tình yêu mà Quasimodo dành
cho nhà thờ Đức Bà là một thứ tình yêu gắn bó sâu nặng đến sửng sốt. “Từ
bước chân đầu tiên đi giữa mọi người, Quasimodo đã cảm thấy, rồi nhìn thấy
mình bị chửi mắng, hành hạ, xua đuổi. Lời nói của người đời với nó bao giờ
cũng chỉ là chế giễu hoặc nguyền rủa. Lớn lên, nó chỉ thấy toàn thù hằn vây
bọc chung quanh. Nó chấp nhận, thu nhận sự độc ác của mọi người. Nó nhặt
lấy thứ vũ khí mà họ đã dùng đả thương nó.”).

Tóm lại, “nó chỉ miễn cưỡng quay mặt lại tiếp xúc với mọi người. Tòa nhà thờ
là đủ với nó rồi. Nhà thờ đầy tượng đá, nào vua chúa, thần thánh, linh mục, ít
nhất đã không cười vào mặt nó mà chỉ nhìn nó bằng cặp mắt bình thản và ân
cần. Các tượng khác, tượng quái vật và quỷ sứ cũng chẳng thù hằn gì nó.”
(Nguyễn Hoài Giang, 2021, Tr.223). “Thần thánh là bạn và ban phước lành
cho nó; quái vật cũng là bạn và chở che nó. Cho nên, nó thường than thở rất
lâu với các bạn đó. Cho nên, đôi khi nó ngồi xổm hàng giờ liền trước mặt pho
tượng, một mình trò chuyện với tượng. Nếu có ai chợt đến, nó bỏ chạy như kẻ
tình nhân bị bắt gặp đang dạo khúc tình ca.” “Nó thấy nhà thờ không chỉ là xã
hội, mà còn là vũ trụ, còn là toàn bộ thiên nhiên. Nó không mơ ước rặng cây
bên đường nào khác ngoài các khung cửa kính vẽ hoa, không mơ bóng râm nào
khác ngoài vòm lá bằng đá đầy chim chóc, xum xuê tỏa rộng trên đỉnh dãy cột
kiểu Xắc-xông, không mơ núi non nào khác ngoài dãy tháp khổng lồ của nhà
thờ, không mơ biển cả nào khác ngoài Paris đang rì rầm dưới chân tòa tháp.”
“Cái nó yêu thương nhất trong tòa nhà mẫu tử, cái làm thức tỉnh tâm hồn nó và
mở rộng đôi cánh tội nghiệp mà tâm hồn vẫn giữ gìn khép nép khổ sở trong
hang động, cái làm nó đôi khi sung sướng, đó là các quả chuông. Nó yêu mến,
vuốt ve, trò chuyện, thông cảm với chúng. Nó yêu thương tất cả, từ chuông nhỏ
trên tháp nhọn tới chuông lớn trên cổng chính.” (Nguyễn Hoài Giang, 2021,
Tr.224). “Gác chuông nhỏ, cũng như hai tòa tháp, đối với nó là ba cái lồng lớn
nhốt bầy chim do nó nuôi và chỉ hót cho nó nghe. Mặc dù chính các chuông đó
đã làm nó điếc, nhưng như bà mẹ lại thường lại yêu đứa con nào làm mình đau
khổ nhất.” (Nguyễn Hoài Giang, 2021, Tr.225)

Sự tương phản nổi bậc nhất, đáng chú ý nhất là sự tương phản của hai nhân vật:
Quasimodo và mục sư. Một người xấu xí, dị dạng, bị xã hội coi khinh nhưng có
tâm hồn cao đẹp, trái tim giàu tình cảm, dùng hết sức lực vốn có để bảo vệ
người mình yêu. Còn vị linh mục đáng kính, được xã hội coi trọng nhẽ ra phải
có tâm hồn thánh thiện thực chất lại mang trái tim độc ác, hành động một cách
hết sức tàn nhẫn, ích kỉ. Đối với Quasimodo, Claude Frollo là người thân quan
trọng nhất, hắn biết ơn người đã cưu mang hắn, cứu vớt hắn (mặc dù mang mục
đích khác). Không gì có thể so sánh được sự tận tụy, sự kính trọng Quasimodo
dành cho Claude Frollo, vừa có lòng tận tâm của như một người con, vừa mang
tình quyến luyến của đầy tớ, hơn cả sự mê hoặc của một linh hồn mang một thể
chất hèn kém đối với một linh hồn khác trí tuệ sâu sắc, mãnh liệt, như là một gã
đầy tớ ngoan ngoãn nhất, nô lệ phục tùng nhất, con chó trung thành nhất của
Claude. Ở Quasimodo là sự thiếu thốn tình thương, sự quan tâm của cuộc đời,
con người. Cái mà nó nhận được là sự “chửi mắng”, “xua đuổi”, “hành hạ”,
“chế giễu”. Nó không được yêu thương nên không biết yêu thương. “Nó thu
nhận sự độc ác của mọi người” nên nó cũng trở nên độc ác. “Nó độc ác vì nó
man rợ, nó man rợ vì nó xấu xí”(Nguyễn Hoài Giang, 2021, Tr.223). Nó ghê
gớm nên người đời ghê sợ và người đời ác độc, nó thu nhận và trở nên ác độc
với mọi người. Đó là vòng tuần hoàn dành cho nó, của nó. (Hugo, 2018, tr. 175)
Nhất là khi hắn còn sùng bái tuyệt đối với “ác quỷ đội lót người” Claude Frollo,
“ chỉ cần Claude ra hiệu và Quasimodo có ý muốn làm vừa lòng ông ta là nó
sẵn sảng nhảy ngay từ ngọn tháp nhà thờ Đức Bà xuống đất ”. Cũng vì vậy hắn
ta hành động ác đầu tiên là bắt cóc Esmeralda theo yêu cầu của người cha nuôi -
Frollo và bị đưa ra xét xử vì điều này. Vị thẩm phán cũng bị điếc như
Quasimodo, và sợ rằng chứng điếc của mình sẽ bị lộ ra, ông quyết định trừng
phạt người bấm chuông nặng hơn, thậm chí không biết ông ta phạt anh ta vì lý
do gì. Kết quả là, Quasimodo đã kết thúc bằng sự xấu hổ. Đám đông tụ tập ở
đây chế giễu anh ta, và không ai cho gã gù uống nước, ngoại trừ Esmeralda. Từ
giây phút đó, trong thế giới tăm tối của anh, ngoài Claude Frollo, đã có một mặt
trời mới - Esmeralda. Ái tình và dục vọng, cũng là khởi nguồn của mọi bi
kịch…

Thế giới nội tâm của Quasimodo đã có bước chuyển mình tích cực khi gặp
Esmeralda. Quasimodo rơi vào bi kịch của tình yêu và không được yêu. Được
miêu tả với ngoại hình của một quỷ dữ, không một ai dám đến gần, là đứa con
rời của tạo hóa khi hắn không có cho mình bất cứ điểm gì đẹp đẽ. Song
Quasimodo lại là kẻ đáng được coi là con người nhất trong tác phẩm. Vẻ đẹp
của tâm hồn tựa hạt ngọc trong ngần ẩn sâu trong vỏ bọc xù xì xấu xí. “Con
quái vật” rung chuông ở nhà thơ ấy vẫn đem lòng yêu Esméralda. Điều đó tạo
một sự tương phản mạnh mẽ cho cả 2 nhân vật, một đẹp đến mức bất kì ai cũng
phải yêu quí, còn một lại xấu xí đến mức không bình thường. Quasimodo yêu
Esméralda không vì sắc đẹp của nàng, mà còn vì cử chỉ cao đẹp mà không một
ai khác, không người dân thành Paris nào có thể đối xử với anh, ngay cả đó là
một vị cha nuôi đáng kính. Ngay giữa lúc anh bị cả thành phố Paris đối xử như
một tù nhân, một con vật để thỏa mãn thú vui tra tấn, giữa lúc Quasimodo chết
vì khát, vì sự độc ác của con người thì Esméralda là người duy nhất trao cho anh
sự sống. Cô mang nước đến cho Quasimodo và từ đó, những giọt nước mắt của
Quasimodo chảy dài trên khuôn hình dị dạng. Khoảnh khắc đó cũng đánh thức
tình cảm dịu dàng trong anh dành cho cô gái. Thứ tình cảm này không chỉ là
tình cảm nam nữ mà còn là tình thương. Và cuộc gặp gỡ ấy chính là hiện thân
của cái đẹp, cái cao cả cứu vướt con người khỏi những bất hạnh của định mệnh
mà tạo hóa (dị hình của Quasimodo) và thậm chí là xã hội (sự ghê tởm của xã
hội) đem đến cho họ.

Nhớ lại việc làm tốt của cô gái Ai Cập xinh đẹp, Quasimodo quyết định cứu cô
gái. Anh ta bắt cóc cô ngay từ khi hành quyết và đưa cô đến nhà thờ lớn, biết
rằng bên trong tòa nhà, không một tên tội phạm nào có thể bị bắt giữ.
Quasimodo và Esmeralda sống trong nhà thờ lớn. Hai số phận gắn liền với nhau
- một kẻ quái đản không gốc rễ và một vẻ đẹp. Người đàn ông gù lưng mang
quần áo và thức ăn cho cô, nhận thấy rằng cô ấy phản ứng một cách đau đớn
trước sự xuất hiện của anh ấy nên anh ta ngủ ở lối vào phòng giam trên nền đá,
bảo vệ sự bình yên cho người vũ nữ Ai Cập này. Chỉ khi cô gái đang ngủ, anh ta
mới cho phép mình chiêm ngưỡng cô ấy. Quasimodo, nhìn thấy cô ấy đau khổ
như thế nào, muốn mang Phoebus đến với cô ấy. Ghen tuông, giống như những
biểu hiện khác của lòng ích kỷ và ích kỷ, là xa lạ với anh ta. Trong quá trình của
cuốn tiểu thuyết, hình ảnh của Quasimodo thay đổi, anh ta ngày càng trở nên
hấp dẫn hơn. Lúc đầu, người ta nói về sự man rợ và hung ác của anh ta, nhưng
về sau không còn cơ sở nào cho những đặc điểm đó nữa. Quasimodo bắt đầu
làm thơ, bằng cách này, cố gắng mở rộng tầm mắt của cô gái với những gì cô
không muốn nhìn thấy - vẻ đẹp của trái tim anh:

Đừng nhìn khuôn mặt,

Hỡi cô thiếu nữ, hãy nhìn trái tim…

Trái tim chàng đẹp trai lại thường méo mó

Có những trái tim chẳng giữ được tình yêu


Thiếu nữ ơi, cây thông chẳng đẹp như bạch dương

Nhưng đông đến vẫn giữ nguyên cành lá

Than ôi! Những lời vô ích!

Không hòa hảo chẳng nên xuất hiện;

Sắc đẹp chỉ yêu sắc đẹp.

Tháng Tư lánh mặt tháng Giêng.

Sắc đẹp là hoàn hảo,

Sắc đẹp có thể làm được mọi điều,

Duy nhất sắc đẹp không tồn tại nửa chừng

Quạ chỉ bay ban ngày.

Cú chỉ bay ban đêm.

Thiên nga bay cả đêm lẫn ngày.

Tình yêu chân thành nhất dành cho Esmeralda được nuôi dưỡng bởi sinh vật
khủng khiếp nhất - Quasimodo, người đánh chuông ở Nhà thờ, người đã từng
được tổng giáo sư của ngôi đền Claude Frollo nhặt về. Đối với Esmeralda,
Quasimodo sẵn sàng làm bất cứ điều gì, thậm chí yêu cô thầm lặng và thầm kín
từ mọi người, thậm chí trao cô gái cho tình địch.

Quasimodo sẵn sàng phá nát mọi thứ, thậm chí cả Nhà thờ, với danh nghĩa cứu
người Ai Cập. Chỉ có Claude Frollo, người là nguyên nhân gốc rễ của những rắc
rối, cho đến khi bàn tay của anh ta nổi lên. Frollo thuyết phục mọi người giải
cứu Esmeralda khỏi thánh đường để hoàn thành cuộc hành quyết, nhưng
Quasimodo không còn là một gã gù nhẫn tâm nữa mà trở thành một chàng trai
yêu say đắm lòng người. Vì vậy, anh ta bảo vệ vũ công và nhận thấy đám đông
dưới chân nhà thờ chống trả. Anh ta không biết rằng những người mà anh ta
ném khúc gỗ từ độ cao và đổ chì nóng chảy không phải là kẻ thù, mà là vị cứu
tinh của cô gái. Nhưng người đẹp đã không đáp lại anh chàng gù lưng, vì anh ta
chỉ gây ra cho cô nỗi sợ hãi. Quasimodo cũng bảo vệ Notre Dame (Nhà thờ Đức
bà) khỏi vết xe đổ của Tòa án Phép màu cho Esmeralda, mà không biết rằng họ
đã đến để cứu cô gái. Trong trận chiến này, anh ta đã giết em trai của Claude
Frollo, Jehan Frollo - anh ta nằm trong số những người đang bao vây ngôi đền.
Nhận thấy rằng những kẻ lang thang đang rút lui, Quasimodo đến báo cáo điều
này với Esmeralda, nhưng cô ấy không có ở Nhà thờ. Dù là sự hiểu lầm vô tình
gây nên nhưng Quasimodo vẫn đã làm chết những mạng người thiện lành, đây
chính là một phần cái ác.

Cao trào nút thắt được đẩy lên đỉnh điểm khi chính Quasimodo quyết định giết
chết người đã cưu mang mình thuở nhỏ - phó giám mục, để giải thoát cho người
mình yêu, “ bất thình lình nó điên cuồng lao tới, xô hai bàn tay to lớn vào lưng
ông, đẩy ngã xuống cái vực thẳm ông đang cúi nhìn ” ( Nguyễn Hoài Giang,
2021, Tr.678). Bởi lẽ anh nhìn thấy từ các bức tường của Nhà thờ họ đã treo cổ
cô như thế nào, và vào lúc đó, anh nhận ra Claude Frollo, cũng đang nhìn
Esmeralda và phá lên cười man rợ trong lúc đứng nhìn Esmeralda đang dãy dụa
khi bị treo cổ. Quasimodo chỉ có thể chống lại ông ta khi thấy ông ta cười đắc
thắng lúc Esmeralda bị hành quyết. Hành động của Quasimodo theo chuẩn mực
đạo đức đã là cái ác, hắn đã giết người mình mang ơn. Hành động ác của
Quasimodo cũng là sự thức tỉnh của cái thiện. Mặc dù Frollo là điểm xuất phát
đầu tiên cho cái ác của Quasimodo nhưng những hành động sau đó đều xuất
phát từ chính hắn vì muốn bảo vệ người mình yêu – Esméralda.

Sau cùng, Quasimodo tuy xấu xí ở hình dáng bên ngoài nhưng hành động của
nó lại nghĩa hiệp, cao thượng. Trước khi gặp Esmeralda, nó hoàn toàn vâng
phục đức cha Frollo, nhưng khi chứng kiến cái ác độc nơi con người đức cha,
nó đã thức tỉnh. Một phần để thể hiện sự giận dữ, căm phẫn đối với hành vi của
Claude, nhưng có lẽ nổi bật hơn hết đó chính là biểu hiện của một tâm hồn đã
thức tỉnh. Ở đây, ta thấy rõ cái Ác song hành cùng cái Thiện, Bóng tối song
hành cùng Ánh sáng. Quasimodo - một người xấu xí, dị dạng, bị xã hội coi
khinh (cái ác) nhưng có tâm hồn cao đẹp, trái tim giàu tình cảm, dùng hết sức
lực vốn có để bảo vệ người mình yêu (cái thiện). Quasimodo con người được
nhắc đến với hình hài của “ tội ác”, thì trái tim hắn cũng bị đánh thức trước giai
điệu tình yêu, yêu chân thành mà không cần hay nói đúng hơn một tình yêu
không được đáp trả. Tình yêu chính là nguyên nhân của tất cả những điều mà
Quasimodo đã làm, khiiến hắn làm ra hàng loạt các hành động ác sau này. Hắn
chấp nhận đánh đổi tất cả những gì đã tồn tại trước đây để có được những
khoảnh khắc sống thật với tình yêu của mình. Và đó là con đường mà hắn lựa
chọn từ đầu cho tới khi kết thúc tác phẩm. Khi hắn đã dám giết chết người đã
cưu mang hắn từ nhỏ, để giải thoát cho nàng Esmeralda, và cũng tự giây phút
ấy, hắn kết thúc cuộc sống của mình. Vòng tròn ái tình chạy quấn quanh lấy họ,
cái chết như sự giải thoát như để chỉ rõ đâu mới thực là những giá trị thực của
cuộc sống nơi tình cảm con người.

2.3.2. Sự đối lập thiện và ác trong Nhân vật Nhà thờ Đức Bà

Nhà thờ Đức Bà Paris có thể nói là kiến trúc trọng điểm trong tiểu thuyết
Nhà thờ Đức bà Paris. Nó đã được Victor Hugo kì công miêu tả trong suốt tác
phẩm của mình với những đường nét và sắc màu sinh động khác nhau. Nhà thờ
Đức Bà Paris đã hiện lên những trang tiểu thuyết là một ngôi thánh đường mang
vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng. “Mọi con mắt đều hướng lên phía trên nhà thờ. Cái
chúng trông thấy thật kỳ lạ. Trên đỉnh tháp cao nhất, một ngọn lửa lớn bốc cao
giữa hai gác chuông. Những tia lửa cuộn xoáy. Một ngọn lửa lớn lộn xộn, giận
dữ, gió cuốn lên từng mảng trong màn khói mù mịt. Phía dưới ngọn lửa ấy, hai
máng nước như hai miệng quỷ phun ra không ngừng trận mưa bỏng rẫy.
(Nguyễn Hoài Giang, 2021, Tr.550)
“Quảng trường bập bùng hàng nghìn bó đuốc như sao. Cảnh tượng hỗn
độn này, trước khi bị vùi trong bóng tối, bỗng bừng lên như cháy trong ánh lửa.
Sân nhà thờ rực lên, rọi ánh sáng lên trời. Đống lửa trên sân thượng vẫn cháy,
chiếu ánh sáng ra xa, chiếu vào thành phố. Bóng của những tòa tháp khổng lồ
phóng to lên, trùm lên mái nhà của Paris. Trong ánh sáng chúng tạo thành
những khoảng tối. Paris dường như bị chấn động.”(Nguyễn Hoài Giang, 2021,
Tr.5566)

Khoảng hai thế kỷ trước, nhà thờ Đức Bà Paris còn ở trong một tình trạng
bị bỏ bê, không được tu sửa, xuống cấp trầm trọng và không được người dân
Paris khi đó yêu mến, trân trọng bởi những quan niệm mới trong nghệ thuật
kiến trúc khi ấy khiến người ta cho rằng công trình này đã quá xưa cũ, cổ lỗ.
Khi ấy, đại văn hào Victor Hugo cảm thấy thật cần thiết phải viết nên một tác
phẩm nào đó để bảo vệ cho công trình kiến trúc tuyệt diệu này. Cuốn tiểu thuyết
“Nhà thờ Đức Bà Paris” ra đời, Hugo đã không hề lấp lửng mơ hồ về đối tượng
thực sự mà tác phẩm muốn hướng độc giả tới.

Xuyên suốt tác phẩm, nhà thờ Đức Bà được xem là khung cảnh trọng tâm
nhất nơi chứng kiến gần như toàn bộ những cao trào bi kịch xảy ra. Những miêu
tả tỉ mỉ đầy ấn tượng được khắc họa rõ nét dưới ngòi bút của Victor Hugo. Kiến
trúc của nhà thờ trở thành bối cảnh của mọi diễn biến, là phông nền cho các
nhân vật chính, và vĩnh viễn gắn chặt số phận họ lại với nhau. Từng chi tiết từ
bức tượng con thú trang trí bên ngoài gờ mái đến đường lên gác chuông tối om
và nguy hiểm, mọi ngóc ngách đều được đại văn hào khám phá và thuật lại một
cách sống động, làm cho công trình kiến trúc kì vĩ ấy như hiện lên trước mắt
người đọc.

Trong các tác phẩm tiểu thuyết của mình, Victor Hugo thường sử dụng
nghệ thuật tương phản như là một đặc trưng, ở đây cũng không ngoại lệ. Sự
tương phản nhằm làm nổi bật sự cao cả cùng nhân phẩm tuyệt vời bị che lấp, ẩn
náu trong bản thân những con người bị xã hội bất công tước đoạt nhân quyền
làm cho họ tha hóa, trở nên xấu xí thô kệch… Qua hình tượng Nhà thờ Đức Bà,
ta có một cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống của thời đại đó. Thời đại đó chứa quá
nhiều biến động, bức tranh chân thực ông vẽ ra đều dựa trên những mặt trái
trong xã hội ấy. Một xã hội nơi mà vô vàn nghịch lý được giấu dưới lớp vẻ
ngoài hào nhoáng. Nghịch lý rằng những người đáng lẽ ra được hưởng hạnh
phúc lại phải kết thúc trong bi thương; những người không xứng đáng lại sống
an nhàn, vui vẻ. Hình ảnh tương phản giữa số phận của đại úy Phoebus và
chàng trai Quasimodo đã thể hiện rõ rệt điều đó. Một chàng trai với trái tim
nhân hậu dưới lớp vỏ xù xì, vừa chịu đựng thuở thơ ấu bất hạnh vừa không thể
chạm đến tình yêu, cuối cùng lại tự kết thúc cuộc đời của chính mình. Thế mà,
một gã trăng hoa dưới vẻ bề ngoài đạo mạo lại chiếm trọn tình yêu chân thành
của Esméralda. Hay phải nhắc đến hình tượng nhân vật phó giám mục Claude
Frollo, một người uyên thông, sống trong u uẩn hà khắc lại bị nàng Esméralda
chinh phục để rồi dần mất đi bản chất ban đầu, trở thành một con quỷ đội lốt tu
hành. Victor Hugo đã kín đáo gửi đến cho các đức giáo hoàng, các linh mục
trong nhà thờ kia một nụ cười đầy mỉa mai, châm biếm.

Cứ theo lẽ thường, khi nhắc đến nhà thờ Thiên Chúa giáo thì người ta sẽ
nghĩ ngay đến giới tăng lữ với những giờ cử hành nghi lễ tôn giáo. Đặc biệt vào
thời trung cổ, nhà thờ lại là nơi thể hiện quyền bính của vua chúa, lợi ích của
bọn quí tộc. Thế nhưng, trong tiểu thuyết này, Victor Hugo lại cho thấy một
điều cực kì khác lạ, những con người gắn liền với nhà thờ Đức Bà Paris và được
ca ngợi không phải là giới tăng lữ hay vua chúa, nhưng lại là những tầng lớp
thấp hèn nhất của xã hội Paris: đó là Quasimodo và Esmeralda.

Quasimodo, một nhân vật có hình dáng thật kinh dị, xấu xí lạ thường.
Nhưng bên trong cái lớp vỏ xù xì, gai góc đó lại làm một tấm lòng lương thiện,
giàu tình yêu thương hy sinh. Có thể nói rằng, chính ngôi nhà thờ này đã ấp ủ,
dung chứa và làm cho tâm hồn của Quasimodo được hồi sinh. Nó được đến
sống ở đây và trở thành người kéo chuông. Sống lâu tại nơi đây, Quasimodo
xem Nhà thờ Đức Bà như “vỏ trứng, cái tổ, căn nhà, tổ quốc, vũ trụ”. (Hugo,
2018, tr. 172). Sự gắn bó của Quasimodo với nhà thờ được miêu tả là “nó trở
nên giống hệt nhà thờ, gắn chặt vào đó, và có thể nói dính liền như một bộ phận
của tòa nhà”, “các góc lồi của nó khớp với các góc lõm của nhà thờ và nó không
chỉ là kẻ trú ngụ mà nó còn là nội dung tự nhiên của nhà thờ”. “Tinh thần của nó
hình như cũng được cấu tạo rập khuôn theo nhà thờ”. (Hugo, 2018, tr. 173)

Không chỉ có Quasimodo, Esmeralda cũng được nhà thờ che chở khi gặp
nạn. Trong bối cảnh xã hội Paris thời trung cổ, nhà thờ là một trong những nơi tị
nạn bất khả xâm phạm. Nhà thờ hiện lên như một con người có uy danh trước
mặt xã hội. Nó có thể bao bọc, chở che cho những phận người bất hạnh. “Nhà
thờ, tòa nhà rộng lớn bao bộc cô khắp xung quanh, che chở, cứu vớt cô, tự nó
cũng là liều thuốc an thần kì diệu. Đường nét trang trọng của kiến trúc, thái độ
sùng bái của mọi vật xung quanh, tư tưởng thiêng liêng và thanh tịnh cơ thể
thoát ra từ mọi chỗ chân lông khối đá vô hình chung tác động đến cô”. (Hugo,
2018, tr. 403).

Như vậy, hình ảnh Nhà thờ Đức Bà Paris đã hiện lên tác phẩm là một
công trình kiến trúc có sự tác động mạnh mẽ của thời gian và con người, sừng
sững giữa đô thành Paris, chứng kiến bao sự đổi thay của dòng chảy lịch sử.
Hình ảnh nhà thờ còn hiện lên là một thành phố Paris thu nhỏ, dung chứa những
hạng người khác nhau. Nhà thờ là biểu tượng của một tinh thần tinh khôi cho
những người cùng khốn tựa nương, ẩn mình, là chứng nhân cho những sự kiện
chết chóc, thương tâm và như thế nó cũng lên án những hủ tục lạc hậu và mời
gọi người ta hướng đến việc làm phát triển đời sống con người.

2.3.3. Sự đối lập thiện và ác trong Nhân vật Esmeralda


2.3.4. Sự đối lập thiện và ác trong Nhân vật Claude Frollo

Xây dựng nhân vật Claude Frollo là một linh mục, say mê khoa học, đắm
mình trong tri thức nên có chỗ đứng cao trong xã hội. Nhưng Victo Hugo lại
xây dựng nhân vật Frollo với sự đối nghịch giữa cái thể hiện bên ngoài và nội
tâm bên trong. Nếu như bề ngoài ông là người có: “trí tuệ cao cả và sâu sắc,
mạnh mẽ và siêu việt” (229), “trở thành một đức cha khắc khổ, nghiêm trang,
buồn rầu”, “người không hề sao nhãng việc giáo dục em mình” (230). Frollo
“chán nản trong tình yêu con người, nên càng hăm hở vào khoa học”, “Dần dần
ông trở nên thông thái, đồng thời”(231). Ông không phải là người tầm thường,
ông thuộc gia đình trung lưu, thông mình, tài giỏi nên ngay từ nhỏ đã được tạo
điều kiện để học hành. Con người mang trong mình đầy trí tuệ siêu việt, đầy
ước mơ với nền khoa học, chiếm lĩnh tri thức. Với cái trán hói uyên bác, Frollo
thích hợp với vẻ nghiêm trang của nhà thờ, với cương vị giáo chủ.

Tồn tại với vẻ bề ngoài uyên bác, tri thức, trái tim nhân hậu: “Claude
Frollo đã thâu nhận nó, nhận nó làm con nuôi, đã nuôi nấng, dạy dỗ, che chở
cho nó, đã cho nó làm người kéo chuông”(228) nhưng Frollo lại phá tan cánh
cửa do chính mình xây dựng về tình yêu, bởi trước đó “Ông đã xin giám mục
ban bố một chỉ dụ cấm những cô gái bohemien không được vào nhảy trong
quảng trường nhà thờ” (232) nhưng chính ông lại phá tan nguyên tắc đó. Chính
ông lại đi ngược với quan điểm của mình: “đứng im phăng phắc như pho tượng,
con mắt đăm đăm nhìn xuống quảng trường, trông như vẻ im lìm của con diều
hâu vừa phát hiện ra một tổ chim sẻ rồi nhìn chằm chằm” (335). Chính chi tiết
này là lúc bắt đầu Frollo phá tan nguyên tắc, làm cho cuộc đời ông hoàn toàn
thay đổi từ lúc Esmeralda – cô gái Bohemien bước vào cuộc đời ông. Trong
chính Frollo bắt đầu xuất hiện hai con người: con người thuộc về tôn giáo và
phi tôn giáo, con người tu hành và dục vọng, mặt người và thú tính. ( Cái
nghịch dị). Bởi chính cương vị là linh mục, bởi chính trước đó quan điểm của
ông là xa lánh đàn bà, cấm những cô gái bohemien, căm ghét gấp đôi bọn đàn
bà Ai Cập. Cô vũ nữ rong lọt vào trái tim của vị linh mục như một bản năng của
con người. Vì là một người có quyền lực về chính trị và tôn giáo nhưng lại đem
lòng yêu cô gái Bohemien – cô gái múa rong người Ai Cập. Đứng giữa lí trí và
con tim, đứng giữa yêu và không được yêu, ông trở nên mù quáng, điên dại, bị
cuống vào vòng xoáy dục vọng và tội ác. Đầu tiên, hắn đã hét với Gringoire –
người chồng chính thức của Esmeralda rằng: “Đồ khốn khiếp, mày dám làm thế
à? Ông hét lên, giận dữ nắm cánh tay Gringoire, phải chăng mày đã bị Chúa bỏ
rơi đến mức dám xâm phạm đến cả cô gái này hay sao?”. Hắn tức giận với tất cả
những ai yêu nàng, tức giận với Quasimodo khi biết hắn yêu thầm nàng: “Ông
mơ hồ cảm thấy ghen tuông dấy lên trong lòng, mối ghen không hề chờ đợi,
mối ghen làm cho ông đỏ mặt và tức giận vì xấu hổ”.

Trước đó, Frollo “chán nản với tình yêu con người” (231) nhưng nay lại
khao khát cơn dục vọng với Esmeralda. Cái thiện và cái ác ngự trị trong Frollo,
cùng đấu tranh nhưng ngay lúc này, cái ác đã hoàn toàn độc chiếm tâm hồn
Frollo. Dục vọng tăng cao, nỗi ghen tuông được đẩy mạnh đúng như cách Victo
Hugo xây dựng hình tượng nhân vật trong thủ pháp tương đối. Để khắc họa rõ
nét hơn nhân vật Frollo, cái ác được chèn vào và đẩy mạnh, nếu như trước đó
nhân vật này chỉ là vị linh mục bình thường, với vẻ nghiêm trang, buồn bã trông
rất nhạt nhòa. Nhưng con người bao giờ cái thiện, cái ác cũng ngự trị trong góc
khuất, dưới ngòi bút Hugo, Frollo hiện lên với cái thiện và ác đối lập rõ rệt như
một con người đời thường. Frollo với một cuộc đời thiện trước đó, sống một
cuộc đời khổ hạnh nhưng nay lại sống một cuộc đời tàn ác của một con quỷ dục
vọng. Khi chứng kiến cảnh ân ái của Esmeralda và Phoebus, hắn như điên dại,
hắn nảy sinh cơn thèm muốn như một bản năng của con người trần tục. Nhưng
hắn là linh mục, hắn lại khao khát dục vọng, hắn phá tan quy tắc, hắn đạp đổ lí
tưởng sống của chính mình. Giờ đây, cái thiện và cái ác đấu tranh rất dữ dội
trong thâm tâm một linh mục với vẻ bề ngoài uyên bác. Nhưng khi Esmeralda
khước từ, con quỷ dục vọng trong hắn như càng điên loạn, vẫy vùng dữ dội.
Frollo trút lên cô vũ nữ tất cả các dục vọng, ham muốn cả tình yêu tự nhiên bị
kiềm nén đã lâu. Hắn như trở thành một con người khác, hạ thấp danh dự, địa vị
của chính mình để chạy theo ham muốn vẻ đẹp trần thế, vẻ đẹp của dục vọng.

Chính vì tình yêu với Esmeralda mà Frollo đã đâm gã Phoebus rồi bỏ


trốn vì điên dại khi rình mò đôi tình nhân và không kiềm chế được. Không kiềm
chế được nỗi ghen tuông cũng là lúc Frollo đạp đổ vị thế của chính mình. Đến
cuối cùng, từ một vị linh mục uyên bác lại trở thành kẻ điên dại vì tình yêu:
“Nếu em nhắc tới tên đó, ta không biết mình sẽ làm gì, nhưng chắng phải ghê
gớm” (629), Từ một vị linh mục quy tắc nay lại trở thành người mà trước đây
ông từng rất ghét: “Một người đàn ông yêu một người đàn bà, đâu phải lỗi của
hắn!” (631). Hắn trở nên tàn ác, cuồng loạn: “Tôi, tôi yêu em. Chao ôi! Điều đó
tuy vậy mà rất thật. Không gì thoát khỏi ngọn lửa đang đốt cháy tim ta suốt
đêm! Đúng thế, em ơi suốt ngày đêm, vậy mà cũng không xứng đáng một chút
tình thương nào hay sao? Một tình yêu thâu đêm suốt sáng, một cực hình, em ơi.
Trời ơi! Ta đau khổ quá, hỡi cô gái tội nghiệp! Hãy tin đây này thực sự đáng
thương. Em cũng thấy tôi đang dịu dàng với em. Tôi rất muốn em không còn
ghê sợ tôi”, “Chính vì thế mà tôi trở nên tàn ác em thấy không, và tôi ghê tởm
chính mình. Dù tâm hồn tôi chỉ toàn hiền dịu và khoan dung, trông em toát ra vẻ
đẹp dịu dàng nhất, cả con người em đều toát ra hương hiền hậu, nhân từ và
duyên dáng” (631), “Ôi! Vứt bỏ bao nhiêu đạo đức! Ta tuyệt vọng vứt bỏ cả
chính bản thân ta! Là học giả, ta nhạo báng khoa học; là quý tộc, ta xé nát thanh
danh; là linh mục, ta lấy sách kinh làm chiếc gối dâm dật, nhổ toẹt vào mặt đức
cha của ta! Tất cả chỉ vì em, hỡi kẻ bỏ bùa yêu!” (632)
CHƯƠNG 3: CÁC BIỂU TƯỢNG VỀ CÁI ÁC VÀ CÁI THIỆN

TRONG TÁC PHẨM NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS

Các bạn làm biểu tượng thì nên sử dụng thêm tài liệu tham khảo là cuốn
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (Jean Chevalier.) *cái cuốn trong link
drive cô có gửi cho mình trên gr lớp á.

3.1. Biểu tượng về cái ác trong tác phẩm (1 người) ( Ngọc Hân 022)

3.1.1. Biểu tượng Con dê

Con dê trong Nhà thờ Đức bà Paris gắn liền với nàng Esmeralda ngay từ khi nàng
xuất hiện trong tác phẩm, nó cùng nàng diễn xiếc trên phố để kiếm tiền. Bằng sự ăn ý
cùng nhau, nàng Esmeralda cùng con dê này biểu diễn được những trò kì lạ như hỏi
đáp với nhau bằng trống.

Việc xét Con dê là một biểu tượng của cái ác là bởi vì: thứ nhất, trong Biểu
tượng văn hóa thế giới có đề cập “dê cái xuất hiện như một biểu tượng của nhũ mẫu
và người truyền pháp...” (Jean Chevalier và Alain, 1997: 253), con dê cái được xem là
người truyền pháp, ở đây nó đang lan truyền một nền văn hóa khác vào Paris, pha trộn
vào cùng với nền văn hóa hiện tại vốn bị người dân nơi đây ghét bỏ và nó manh nha
làm thay đổi truyền thống vốn có, đây là biểu hiện của cái ác lai ghép. Song, nàng
Esmeralda đến từ Ai Cập và việc này làm cho mọi người dân Paris vô cùng ghét bỏ và
bài xích nàng. Con dê gắn liền với nàng ngay từ lần đầu xuất hiện trong tác phẩm, thế
nên nó cũng phải hứng chịu sự kì thị cùng nàng, trong mắt người dân Paris, con dê và
chủ của nó là nền văn hóa khác được du nhập vào nơi đây - vốn đang sùng bái Kito
giáo - tạo nên sự khác biệt trong tư tưởng. Việc diễn xiếc bằng những trò kì lạ và dân
chúng cho rằng đây là những trò của phù thủy, mà theo Giáo hội thì phù thủy là những
người tà đạo, không được phép xuất hiện ở những nơi mà người ta tôn kính như nhà
thờ hay đơn giản là trước mặt những con người sùng đạo. Sự khác biệt này chính là
cái ác là cái khác, những thứ khác biệt với cộng đồng thì sẽ không được chấp nhận và
phải bị bài trừ.
3.1.2. Biểu tượng Đài treo cổ

Nhắc đến Đài treo cổ Montfaucon trong tác phẩm thì mọi người cũng đều liên
tưởng đến tội ác: một là, nơi hành quyết những kẻ có tội đúng nghĩa, khiến chúng phải
trả giá cho những việc làm sai trái mà chúng làm ra; hai là, nơi đây phải hành xử
những người dân vô tội, làm cho họ bị đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần (sự xấu hổ
cùng oan ức); thứ ba, không chỉ hành quyết mà mà còn dùng để nhạo báng những
người không tuân theo lời của giai cấp quý tộc đương thời, buộc họ lấy sự nhục nhã
này để làm bài học. Thế nên, Đài treo cổ ở đây được chúng tôi đề cập đến là một biểu
tượng của cái ác, cụ thể là cái ác luân lý. Đài treo cổ hiện lên ghê rợn, đáng sợ, “...trên
dây xích lủng lẳng những bộ xương người trên cánh đồng gần đó là một thập tự đá và
hai đài treo cổ khác kém về thế hơn trên bầu trời là đèn quả không ngớt bay lượn.”
(Nguyễn Hoài Giang dịch: 2021, trang 868), là nơi hành hình vô số tội phạm bị tòa án
phán xử, nơi chôn thây của biết bao kẻ ác và cả những con người quyền cao chức
trọng “Trong hầm mộ sâu, bao cho bụi con người và bao tội ác cùng mục nát, cả kẻ
quyền cao chức trọng ở thế gian, và kẻ vô tội cùng nhau gửi nấm xương tàn ở đây”
(Nguyễn Hoài Giang dịch: 2021, trang 868). Cái ác nằm ẩn bên trong Đài treo cổ, nó
chính là công cụ cho giai cấp quý tộc hãm hại biết bao người dân. Trong đó có
Quasimodo và Esmeralda.

Quasimodo bị ngài đô trưởng Robert phạt nhục hình một giờ rưỡi ở Đài treo cổ
này chỉ vì ông ta nghĩ Quasimodo coi thường ông ta. Ở một nơi được gọi là thực thi
công lý nhưng cũng là nơi hành hạ một người vô tội đau đớn đến tột cùng, thêm vào
đó là những tiếng cười nhạo và hả hê của tất cả mọi người “Tiếng kêu tuyệt vọng
không làm ai mủi lòng họ chỉ làm cho đám đông dân chúng Paris vây quanh thêm
thích thú” (Nguyễn Hoài Giang dịch: 2021, trang 318). Cái ác luân lý được hiện lên rõ
nét ở sự tuyệt vọng đau khổ của Quasimodo, làm cho anh chàng phải hứng chịu bạo
lực về mặt thể xác lẫn tinh thần: những trận đòn rạch sâu lên da cùng sự cười cợt của
dân chúng khiến cho anh chàng xấu hổ cùng cực. Đài treo cổ đã chứng kiến không
phải một mà là rất nhiều vụ hành hạ man rợ, đó có thể là những người phải chịu án
phạt oan như chàng Quasimodo, chịu đựng những đau đớn, thống khổ và xấu hổ, ân
hận. Nàng Esmeralda còn đau đớn hơn, nàng bị treo cổ ở nơi đây đến chết. Cô nàng bị
kéo lê đến chân Đài treo cổ, cổ cô bị tròng thòng lọng, cô gái quằn quại giãy lên một
cách kinh khủng cũng đủ hiểu sự đau đớn trước khi bị tước đoạt mạng sống như thế
nào. Ở đây, Đài treo cổ không chỉ chứng kiến cái chết bi thương của cô gái vô tội mà
còn chứng kiến sự thống khổ của Quasimodo khi tận mắt thấy cô gái mà mình yêu quý
và bảo vệ đang co giật, giãy chết trên đó.

Vì thế nói, Đài treo cổ là biểu tượng của cái ác luân lý bởi vì chính tại nơi đó
chứng kiến được sự độc ác của con người (từ người bị xử tội, đến người xử tội và cả
đông đảo dân chúng). Đó không chỉ là tội lỗi của người có tội, mà còn thể hiện tội lỗi
của toàn nhân loại.

3.2. Biểu tượng về cái thiện trong tác phẩm (1 người) (Hiền Hiền)

3.2.1. Biểu tượng nhà thờ

Nhà thờ Đức Bà hiện lên là một công trình cổ kính, sừng sững, uy nghiêm. Trải qua
năm tháng dài đằng đẵng, tòa nhà này vẫn vượt lên trên tất cả biến cố và sống mãi với
thời gian. Tất cả những điều gian ác, giả dối dù nhảy cao bao nhiêu, cuối cũng vẫn sẽ
rơi vào cái rãnh chân lý, lương thiện đã được cài sẵn cho nó. Nhà thờ Đức Bà chính là
thể hiện của cái thiện. Nhưng Chỉ có mỗi nhà thờ thôi thì đó chỉ là một công trình tôn
giáo thuần túy, cái thiện vẫn chưa thực sự toàn vẹn, mà trong đó còn phải có giáo hội
và những con chiên. Trong “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, giáo hội được xem
là “thần dân của Chúa. Giáo hội bao gồm hết thảy mọi con người đoan chính, kể từ
Abel cho tới người đoan chính cuối cùng.”

Câu chuyện về thằng gù ở nhà thờ Đức Bà cùng các nhân vật khác mở đầu bằng hình
ảnh nhộn nhịp của nhà thờ, khi buổi sáng mùng 6 tháng giêng năm 1482, tất cả thần
dân đến “xem biểu diễn mixtera và bầu Cuồng đãng giáo hoàng.” Và biểu tượng cái
thiện này cũng xuyên suốt câu chuyện về thằng gù nhà thờ Đức Bà thông qua những
tình tiết, những nút thắt được lấy bối cảnh tại nhà thờ: “nhà thờ Đức bà Paris vẫn còn
là một tòa nhà hùng vĩ và thiêng liêng”, là chứng nhân cho câu chuyện cảm động về
lương tri, về cái thiện và ác của thằng gù với nàng Esmeralda, của chàng nghệ sĩ
Gringoa với Esmeralda và con cừu, của thằng gù với Hồng Y giáo chủ Frollo,...
Nhà thờ là nơi bao bọc Quasimodo, bảo vệ cậu khỏi ánh nhìn của người đời, trở thành
một phần của nhà thờ và ký gửi linh hồn nơi Thiên Chúa: “nó sống ở đó, ngủ tại đó,
hầu như không bao giờ ra ngoài, suốt ngày chịu đựng một áp lực bí hiểm, nó trở nên
giống hệt tòa nhà thờ, gắn chặt vào đó, và có thể nói dính liền như một bộ phận của
tòa nhà.”

3.2.2. Biểu tượng tiếng chuông

Tiếng chuông làm thủng màng nhĩ Quasimodo: “Tiếng chuông đã làm thủng màng
tai, nó bị điếc.” Tiếng chuông thiện là bởi giúp Quasimodo tránh xa khỏi những âm
thanh hỗn tạp bên ngoài thế giới. Giống như Edison bị điếc, vậy nên ông có thể bỏ qua
những ồn ào của thế giới và chăm chú vào những phát minh của mình, phát minh ra
bóng đèn điện, máy nghe nhạc…. Quasimodo cũng vậy, việc những lời cay nghiệt nói
hắn là quái vật, thằng điếc, thằng chột,... chính là những nhát dao cứa sâu vào tâm hồn
hắn, khiến hắn tổn thương và chết dần chết mòn khi phải nghe những âm thanh cay
nghiệt ấy. Vậy nên điếc cũng là chuyện tốt, hắn có thể tránh được tối đa những lời lẽ
xấu xí của người đời đổ vào và tập trung sống tốt cuộc đời của mình. Dù bị điếc,
nhưng thằng gù vẫn kết nối được với Chúa thông qua phương diện tâm linh, vẫn dùng
ý niệm của mình một lòng hướng về chúa và cống hiến cho nhà thờ, cho thiên Chúa.

Một khía cạnh khác, vì “trời không sinh người vô dụng, đất không mọc cỏ vô danh”,
sứ mệnh của Quasimodo là người đánh chuông nhà thờ, là đứng giữa lựa chọn thiện-
ác để tất thành nên câu chuyện cảm động và hùng tráng xoay quanh nhà thờ Đức Bà.
Sứ mệnh đó chỉ có thể hoàn thành tốt khi thế giới của hắn tĩnh lặng, không bị ảnh
hưởng bởi âm thanh bên ngoài. Tuy nhiên, trong truyện lại cho rằng đây là nỗi bất
hạnh, khiến hắn trở thành người ác. Thực ra thiện ác là lựa chọn của mỗi người, đứng
trước hoàn cảnh khốn cùng đến đâu, con người ta vẫn có thể lựa chọn giữa thiện và ác.
Vậy nên không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh.
3.2.3. Biểu tượng bộ xương, bộ xương hóa thành cát bụi

Trong sách “Từ điển biểu tượng văn hóa” ngoài việc bộ xương được định nghĩa là
“hiện thân của tử thần và đôi khi của ác quỷ”. Bộ xương còn được cuốn sách này
định nghĩa rằng đây là thể hiện cho một “sự chết năng động, ..., sự chết báo hiệu và là
công cụ cho một hình thức sống mới. … Tượng trưng cho tri thức của con người đã
bước qua ngưỡng của cái vô tri.”

Cũng trong cuốn từ điển đó, “bụi” được định nghĩa là biểu tượng của “sức mạnh sáng
thế và của tro. Bụi được ví với hạt giống, với phấn hoa”. Khi gỡ xương của
Quasimodo “ra khỏi bộ xương nó đang ôm chặt, nó liền tan thành bụi.” Điều này có
thể hiểu rằng: Khi đã hoàn toàn rũ bỏ tất cả, bỏ cả bộ xương của Esmeralda lẫn bộ
xương của mình, Quasimodo mới có thể thực sự tiếp nhận một hình thức sống mới.
Mọi đau khổ, bất hạnh ở đời này gửi lại hết thảy, không lưu lại dù chỉ một bộ xương.
Tức là cuộc đời Quasimodo từ khi sinh ra đến tận khi chết đã quá nhiều khổ ải (hình
hài bộ xương lúc chết cũng là dị thường, “cột xương sống nó cong lệch, đâu rụt
xuống, giữa xương bả vai và chân nọ ngắn hơn chân kia”). Cái chết và việc bộ xương
hóa bụi này thiện ở chỗ, có thể giải thoát hết thảy khổ đau cho Quasimodo, cũng là
giải thoát cho Esmeralda. Vì cả khi Esmeralda chết, tình yêu của nàng vẫn hướng về
Phoebus, không cách nào tiếp nhận tình yêu của thằng gù. Vậy nên giải thoát bộ
xương của hắn ra khỏi nàng để mọi sự ràng buộc, vướng bận tình cảm đều được gỡ bỏ
cũng là một biểu tượng của cái thiện.

Ở một khía cạnh khác, cái chết của Quasimodo chính là nhân quả được an bài hợp lý
nhất. Khi hắn lựa chọn giết người đã cưu mang hắn và em trai của người đó để cứu
người con gái hắn yêu. Sau đó hắn lại lựa chọn cho mình cái chết để trả lại những gì
đã gây ra, toàn vẹn tất cả.

3.2.4 Biểu tượng ngọn lửa, đám cháy tại nhà thờ Đức Bà

Đám cháy tuy không có thật, nhưng thằng gù đã dùng ngọn lửa giả đó để đánh lạc
hướng lũ ăn mày cùng đám cướp đang có ý định tấn công nhà thờ. Trong “Từ điển
biểu tượng văn hóa”, thì ngọn lửa được xem là “biểu tượng của sự tẩy uế, sự tỏa sáng
và tình yêu theo nghĩa tinh thần. Ngọn lửa là hình ảnh của tinh thần và của sự siêu
việt, linh hồn của lửa.”

Quasimodo cứu Esmeralda nên đưa cô trốn trong nhà thờ. Đám ăn mày và cướp thấy
Esmeralda vào nhà thờ mà mãi chưa ra liền muốn tấn công vào nhà thờ để cứu cô.
Quasimodo đã tạo một đám cháy để đuổi họ đi. Hình ảnh đám cháy trong truyện:
“Mọi ánh mắt đều hướng lên đỉnh nhà thờ, chứng kiến cảnh tượng kinh ngạc. Trên
đỉnh của phòng trưng bày cao nhất, cao hơn cửa sổ hoa hồng trung tâm, có một ngọn
lửa lớn dữ dội bốc lên giữa hai gác chuông. Bên dưới ngọn lửa, dưới những lan can
ảm đạm, hai ống máng bằng đá như mồm hai con quái vật đang phun không ngớt cơn
mưa lửa... Hàng loạt bức tượng quỷ dữ và rồng đau đớn trong biển lửa. Ánh sáng từ
ngọn lửa dữ dội phản chiếu lên mắt chúng... Một sự câm lặng kinh hoàng giữa đám
ăn mày. Tất cả âm thanh còn lại là tiếng kêu báo động của những linh mục bị nhốt
trong tu viện...".

Đến đây lại có một câu hỏi, tại sao một thằng gù được người đời xem là kẻ dị dạng, dị
hình, bị cả xã hội gạt bỏ lại có thể nghĩ đến việc dùng lửa để đuổi bọn ăn mày và đám
cướp? Có vài luận điểm đưa ra để giải thích cho điều này. Và những luận điểm này
đều chỉ về cái thiện của thằng gù:

Thứ nhất: Thằng gù sống trong nhà thờ, lớn lên và “dính liền như một bộ phận của
tòa nhà”. Thế nên hắn bảo vệ nhà thờ như bảo vệ chính hắn, như trách nhiệm cần có
của một người được nuôi dưỡng bởi nhà thờ và lớn lên trong tình yêu của Chúa.

Thứ hai: Ngọn lửa cũng là thể hiện của tâm hồn thằng gù, thân xác dù không vẹn toàn
như bao người, nhưng tâm hồn của hắn lại lấp lánh sự thanh sạch. Cuộc đời hắn có thể
thiệt thòi, thể xác có thể khuyết thiếu và xấu xí, nhưng thẳm sâu trong tâm hồn hắn là
ngọn lửa rực rỡ. Ngọn lửa ấy sẽ cháy sáng khi gặp thời điểm thích hợp (thời điểm bảo
vệ Esmeralda và nhà thờ).
Thứ ba: Esmeralda là người đánh thức trái tim hoen gỉ sau chừng ấy năm chịu nhận
những lời miệt thị và ánh mắt ghê sợ của người đời để tồn tại và lớn lên. Esmeralda
khiến một người sống lay lắt như hắn biết yêu, cao hơn nữa là biết thương và động
lòng trắc ẩn. Vậy nên việc Quasimodo làm mọi cách, kể cả mượn nhà thờ để bảo vệ
nàng lẫn việc tạo dựng ngọn lửa giả để đuổi đi những kẻ mà hắn cho rằng có thể gây
nguy hiểm cho Esmeralda chính là hành động xuất phát từ cái thiện. Và ngọn lửa
chính là biểu tượng cho hành động đó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hà Vũ Trọng. Ngày đăng 1/4/2021
http://havutrongarchives.blogspot.com/2021/04/umberto-eco-su-kho-nan-cua-
chua-kito.html (truy cập ngày 19/10/2022)

2. Nguyễn Hoàng Giang (dịch). (2021), Victor Hugo: Nhà thờ Đức bà Paris, Nhà
xuất bản Dân Trí.
3. Jean Chevalier và Alain. (1997), Từ điển Biểu tượng Văn hóa Thế giới, Nhà
xuất bản Đà Nẵng.
4. Narcissus. Ngày đăng 3/11/2017.
https://tienkiss.wordpress.com/2017/11/03/trai-tim-pho-giam-muc-claude-
frollo-trong-tac-pham-nha-tho-duc-ba-paris/ (truy cập vào ngày 22/10/2022)
5. Nhị Ca (dịch) (2002). Victor Hugo: Nhà thờ Đức bà Paris, Nhà xuất bản Văn
học.
6. Trần Thái Đỉnh. (2005). Triết học Kant. Nhà xuất bản Văn Hoá Thông
Tin.
7. V.Delbos. (1964). Trong cuốn Fondements de la métaphysique des
mœurs do ông dịch và chú giải.
8. Nhị Ca (dịch) (2000). Victor Hugo: Nhà thờ Đức bà Paris. Nhà xuất bản
Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
9. Hêghen. (1999). Mỹ học. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Học.
10. Đỗ Văn Khang. (2002). Mỹ học đại cương. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
11.Nguyễn Thu Phong. (1996). Tính thiện trong tư tưởng Đông Phương.
TPHCM: Nhà xuất bản Văn Học.
12. Lê Tôn Nghiêm. (2001). Lịch sử triết học Tây Phương tập 2: Triết học
thời thượng cổ. TPHCM: Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh.
13. Immanuel Kant. (2004). Phê phán lý tính thuần túy. Hà Nội: Nhà xuất
bản Văn Học.
14.Hoàng Ngọc Hiến. (2009). Francois Jullien và Nghiên cứu so sánh văn
hóa Đông Tây. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động.
15. Trần Thái Đỉnh. (2005). Triết học Kant. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin.

You might also like