You are on page 1of 7

IRENE – AUTINH

Sự dữ muôn đời vẫn là một vấn nạn mà con người cố công đi tìm lời giải đáp. Trước vấn nạn đau
khổ và sự dữ, con người thường kêu than trách móc: đời xanh như lá, bạc như vôi hay đời là bể
khổ…, thậm chí lại có người kết án Chúa, trách Chúa là nguyên nhân của mọi sự dữ. Vậy, phải
chăng chúng ta chỉ biết cắn răng chịu đựng, cứ “mặc cho con tạo xoay vần” mà không một lời giải
đáp thỏa đáng nào cho vấn nạn đau khổ ư? Đây, hai vị đại thánh của Giáo hội là thánh Irenaeus và
Augustine sẽ cho chúng ta lời giải đáp thích hợp trước vấn nạn này.

Thời bấy giờ, có hai chủ thuyết là thuyết Nhị Nguyên (Dualism) và thuyết Lan Tỏa (Emanation) đã
cho chúng ta thấy khuôn mặt không trọn hảo của Chúa trước sự dữ. Thuyết Nhị Nguyên cho rằng,
vũ trụ này được cấu kết bởi hai nguyên lý là sự dữ và sự lành. Từ ban đầu đã có Thiên Chúa và
cũng có sự dữ. Nếu Thiên Chúa tồn tại, Ngài không toàn năng vì Ngài không tiêu diệt được sự dữ;
đó là hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối không đáng cho ta tôn thờ. Thuyết Lan Tỏa lại cho rằng,
Thiên Chúa tạo dựng mọi loài mọi vật bao gồm hồn vũ trụ, hồn thân xác, thân xác, và mức thấp
nhất của sự lan tỏa là vật chất. Chính bậc cuối cùng này phát sinh sự dữ. Thiên Chúa không toàn
thiện vì Ngài không muốn tiêu diệt sự dữ. Vậy, Thiên Chúa có ác ý ư ? Và một Thiên Chúa như thế
cũng không đáng cho ta thờ phượng.

Vì vậy, hai triết gia danh tiếng của Giáo hội đã sẵn sàng vào cuộc và giúp “gỡ rối” cho vấn nạn này.

Irenaeus khởi đi từ việc Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Chúa: “Chúng ta hãy
làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…” (Mt 16, 24). Để trở nên giống
Chúa, con người phải trải qua một hành trình đầy chông gai thử thách với biết bao sự dữ và sự ác.
Những tai họa thiên nhiên như động đất, bão lụt, hạn hán; những tai họa do con người gây nên khi
lạm dụng tự do Chúa ban như chiến tranh giặc giã và những đau khổ về thân xác và tinh thần như
đau ốm, bệnh tật và chết chóc… mang lại biết bao hậu quả tàn khốc cho con người. Tuy nhiên, dưới
cặp mắt của Irenaeus, những đau khổ này tựa như những viên đá khiến ta vấp ngã, nhờ đó ta vững
vàng hơn trên con đường hoàn thiện. Chúa muốn dùng những đau khổ ấy để luyện sạch linh hồn
chúng ta và để nhắc nhở chúng ta rằng thế gian này chỉ là nơi tạm bợ, “những Ki-tô hữu trên trần
gian này không có một quê hương vĩnh cửu, nhưng tìm kiếm một quê hương trong tương lai (x. Dt
11, 13-16; Pl 3, 20), … người Ki-tô hữu xem xã hội hiện tại như một nơi tha hương; họ thuộc về
một xã hội mới là mục đích của cuộc lữ hành trần thế, và là điều luôn được trông mong trong suốt
cuộc lữ hành này”[1]. Cũng chính nhờ đó mà họ có niềm hy vọng vươn tới, mong một ngày kia
được nên đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa, được thông dự vào vinh quang phục sinh với Ngài.
Chính thần lý học của Irenaeus cũng cho hay, ý định của Thượng Đế không phải là xây dựng một
địa đàng, ngược lại thế giới được nhìn nhận như một nơi để “tạo dựng linh hồn”[2] hay tạo dựng
con người, để họ gánh vác trách nhiệm của mình và có thể trở thành “con cái Thượng Đế”[3]. Như
vậy, thiên nhiên không hoàn hảo nhưng nó lại giúp hoàn hảo hóa con người. Chính lập luận này đã
bổ túc cho khái niệm Thiên Chúa toàn thiện.

Trong khi đó, thần lý học của Augustine về sự dữ tập trung ở ba câu hỏi: Bản chất của sự dữ là gì?
Sự dữ từ đâu mà ra? Và sự dữ thể hiện thế nào trong thế giới?

Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Vũ trụ này được Chúa tạo dựng nên một cách tốt đẹp, tất cả mọi sự
hiện hữu, mọi hữu thể trên thế giới này cũng vậy. Riêng với sự dữ, Augustine cho rằng nó không có
hữu thể (absence of being). Vậy, sự dữ chỉ là ký sinh trùng; nó ăn bám vào hữu thể tựa như một căn
bệnh xuất hiện trong cơ thể người và nó sẽ biến mất khi nào người ấy chết. Augustine còn so sánh
sự dữ như căn bệnh mù lòa và nguyên do là vắng mặt thị giác, “Mắt tự bản chất nó tốt; sự ác của tật
mù hệ tại sự thiếu chức năng hoạt động đúng của mắt”[4]. Cũng vây, sự ác hệ tại sự rối loạn hoạt
động của một vật gì tự bản chất vốn là tốt.
Vậy, sự dữ từ đâu mà ra? Theo Augustine, sự dữ không thể từ Chúa mà ra vì nó không có hữu thể.
Sự dữ xuất phát từ sự lạm dụng tự do Chúa ban cho con người. Ông Adong và bà Evà cũng vì lạm
dụng tự do Chúa ban mà ăn trái cấm và đã để lại hệ lụy cho con cháu. Tuy nhiên, có người lại hỏi
nếu Chúa không ban cho con người tự do có tốt hơn không? Hẵn nhiên là không, vì tự do là một đặc
ân Chúa ban cho con người mà con vật không có. Tựu trung lại, cách giải quyết này như là một
“tuyệt chiêu” mà thánh Augustine dùng để “cứu Chúa” thoát khỏi trách nhiệm về sự có mặt của sự
dữ trên thế giới này.

Cuối cùng, Augustine đi tìm lời giải đáp cho vấn nạn sự dữ thể hiện thế nào trong thế giới? Thiên
Chúa là Đấng toàn năng đã tác tạo muôn loài: thiên thần, con người, muôn vàn tinh tú, hoa lá cỏ cây
và muông thú… Những tạo vật này càng nhiều càng triển nở phong phú, mức độ hoàn hảo biểu hiện
một cách khác biệt giữa loài này với loài khác. Vì thế, bậc thấp hơn nhận thức sự thấp kém của
mình và coi đó như là đau khổ hay sự dữ. Bằng cách này, thánh nhân đã giải thích được sự xuất
hiện của sự dữ tự nhiên.

Như vậy, Thánh Irenaeus đã giải thích được sự dữ trong thiên nhiên như là phương dược cho con
người, hầu đạt tới mục đích tốt đẹp là được nên giống Chúa. Đồng thời, thánh nhân cũng có công
giúp phát triển đạo đức luân lý của con người. Dưới nhãn quan của thánh Irenaeus, cuộc sống này
như là một trường huấn luyện đạo đức luân lý, nhằm giúp con người đạt tới cứu cánh của mình là
Thiên Chúa. Thế nên, những chông gai thử thách trong cuộc sống này không phải là gánh nặng
nhưng là cơ hội lập công và chúng không nằm ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa.

Thánh Augustine đã cho chúng ta một lời giải thích về sự dữ một cách có hệ thống hơn thánh
Irenaeus. Thứ đến, thánh nhân đã “giải cứu” Chúa khỏi trách nhiệm về sự hiện diện của sự dữ. Hơn
nữa, thánh Augustine đã bảo vệ được thuyết nhất nguyên và giải thích được tính toàn năng của
Thiên Chúa.

KẾT

Trên đây là phần trình bày về thần lý học của Irenaeus và Augustine, về những đóng góp quan trọng
của hai vị trên hành trình đi tìm lời giải đáp cho vấn nạn sự sữ. Thiết tưởng, đáp án về vấn nạn sự
dữ luôn là một vấn đề nóng bỏng mà con người mãi cất bước đi tìm. Hãy coi đây là điểm soi sáng
cho chúng ta khi đối mặt với sự dữ, nhờ đó chúng ta có thể vượt qua nó một cách dễ dàng, hầu đạt
tới hạnh phúc viên mãn.

Sơn Cước- chuacuuthenews.worldpress.com

[1]Benedicto XVI,Thông Điệp Spe Salvi, s. 4.

[2]Samuel Enoch Stumpf and Donald C. Abel, Nhập Môn Triết Học Phương Tây, (T.p HCM: Nhà
Xuất Bản Tổng Hợp, 2004), Tr. 147.

[3]Ibid. Tr. 147.

[4]Ibid. Tr. 145.

Trước hết, xin đọc GLHTCG số 309:


“Nếu Thiên Chúa là Cha toàn năng, đã sáng tạo một vũ trụ tốt lành và có trật tự, lại chăm sóc các
tạo vật của Ngài, vậy tại sao lại có sự ác? Đối với câu hỏi cấp bách và không thể tránh khỏi này, và
cũng là câu hỏi đau đớn và mầu nhiệm, không một câu trả lời mau lẹ nào có thể thỏa mãn. Toàn bộ
niềm tin Ki tô giáo sẽ là câu trả lời cho vấn đề này: sự tốt lành của việc sáng tạo, thảm kịch của tội
lỗi, tình yêu nhẫn nại của Thiên Chúa đã tới gặp con người qua những Giao ước của Ngài, qua việc
Nhập thể cứu chuộc của Con Ngài, qua việc ban Chúa Thánh Thần, qua việc tập họp của Giáo hội,
qua sức mạnh của các bí tích, qua lời kêu gọi hướng đến cuộc sống diễm phúc: các tạo vật tự do
được mời gọi hãy ưng thuận lời mời gọi này, nhưng do một mầu nhiệm đáng sợ, các tạo vật tự do
này cũng có thể từ chối lời mời gọi đó. Không một nét nào của sứ điệp kitô giáo mà không phải là
một phần của câu trả lời cho vấn nạn sự ác”

1.Khái niệm sự dữ :

Sự dữ là những tai họa xảy đến cho con người.


Sự dữ là thế lực đối nghịch và thù nghịch với Thiên Chúa. “Sự dữ không là một điều trừu tượng
nhưng là một cá vị, là Satan, là Ác thần, là thiên thần đã chống lại Thiên Chúa” (GLHTCG 2851)
(Từ Điển Công giáo 500 mục từ trg 294).
Như thế “sự dữ được hiểu như là tất cả những gì nghịch lại sự thiện, và sự thiện là những gì phù
hợp với bản chất của con người. Bởi vì con người là một hữu thể bao gồm thể chất và tinh thần,
nghĩa là tinh thần nhập thể trong thể chất hay một thân thể được sinh động bởi tinh thần, cho nên sự
thiện đối với con người là tất cả những gì phù hợp với thể xác và tinh thần. Điều thiện đối với thân
xác là thiện ích của thân xác : sức khỏe, khoái cảm, sự sống, còn điều thiện đối với tinh thần là sức
khỏe tâm linh. Nhưng con người không chỉ là một hữu thể đóng khung trong chính nó, mà là một
hữu thể có tương quan: tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới; còn điều xấu,sự
dữ là những gì phá hủy, ngăn cản những mối tương quan ấy”(x{3}).

Hai loại sự dữ :

- Sự dữ luân lý là những hành động có ý thức tự do của con người, thí dụ giết người, trộm cắp…
- Sự dữ tự nhiên là hậu quả của những chuyển biến thiên nhiên như động đất và lũ lụt. Dĩ nhiên đôi
lúc pha lẫn cả hai, thí dụ lũ lụt làm chết người do không chuẩn bị kỹ càng hoặc xây nhà cách cẩu
thả.

2.Vấn nạn về sự dữ :

a/ Vấn nạn triết học: (x. {3})

Thường người ta lý luận theo những phạm trù này :


- Thiên Chúa hiện hữu
 Thiên Chúa thiện hảo
 Thiên Chúa toàn năng
 Sự dữ tồn tại
Nếu Thiên Chúa hiện hữu , Ngài chỉ muốn điều thiện hảo, và toàn năng để làm được mọi sự Ngài
muốn, thì sự dữ không tồn tại.
Nếu Thiên Chúa hiện hữu và chỉ muốn điều thiện hảo nhưng sự dữ vẫn tồn tại thì Thiên Chúa
không thể làm được điều Ngài muốn, như thế Ngài không là Đấng Toàn năng.
Nếu Thiên Chúa hiện hữu và toàn năng đồng thời sự dữ cũng tồn tại thì Thiên Chúa muốn sự dữ tồn
tại, như thế Ngài không thiện hảo.
Nếu “Thiên Chúa” được hiểu là “một hữu thể vừa thiện hảo vừa toàn năng” và sự dữ cũng tồn tại
thì một Thiên Chúa như thế không hiện hữu.
David Hume, một triết gia thế kỷ 18, khi đặt cây hỏi về Thiên Chúa, ông đã lập luận vấn đề sự dữ
như sau: “Có phải Thiên Chúa muốn ngăn cản sự dữ, nhưng không làm được? Vậy thì Ngài bất lực.
Có phải Ngài có thể ngăn cản, nhưng không muốn làm? Vậy thì Ngài ác tâm. Có phải Ngài vừa có
khả năng vừa muốn ngăn cản sự dữ? Vậy thì sự dữ bởi đâu?”(Craig,80). Những người chống lại
niềm tin vào Thiên Chúa đã phát biểu rằng: thật là phi lý hoặc không thể tin được một Thiên Chúa
tốt lành và toàn năng lại hiện hữu cùng một lúc với thực tại sự dữ và đau khổ. Vì một Thiên Chúa
tốt lành và toàn năng như thế không thể chấp nhận cho sự dữ tồn tại được.

b/ Vấn nạn tôn giáo: (x. {2})

Những sự dữ chúng ta phải đối mặt có thể không làm chúng ta mất niềm tin Thiên Chúa hiện hữu,
nhưng nó cũng có thể làm nguy hại tới sự tín thác của chúng ta nơi Thiên Chúa, Đấng chúng ta tự
do tôn thờ, yêu mến và cảm thấy được an vui trong tình yêu của Ngài. Vậy thì làm sao một Thiên
Chúa tình yêu lại để cho con cái Ngài phải chịu nhiều đau khổ lớn lao đến thế ? Đó là trường hợp
ông Gióp.
Và cũng không hiếm những người tin đã từ buồn phiền,đau đớn, khắc khoải đi tới đánh mất niềm
tin vào Thiên Chúa như trường hợp vợ ông Gióp: “hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho
rồi!”(Gióp 2,9)

3.Những cố gắng hóa giải :

a/ Hóa giải theo Sáng Thế Ký: (x. {5})

Con người đã được dựng nên trước khi sa ngã y hệt con người sau sa ngã: làm nên từ bụi đất và có
được hơi thở sự sống. Vườn Êđen về phía đông là món quà Thiên Chúa ban cho con người, như thế
“trạng thái địa đàng” không thuộc bản tính con người, có nghĩa là con người được dựng nên như
hiện đang thấy. Trong vườn Êđen con người được nâng lên trong “trạng thái địa đàng”, nhưng vườn
Êđen cũng là một môi trường thử thách cho con người vì có lệnh cấm ăn cây biết thiện biết ác của
Thiên Chúa; con rắn-Satan đã xuất hiện cảm dỗ con người và con người đã sa ngã nên bị đuổi ra
khỏi vườn Êđen với bao đau khổ kèm theo.
Nhưng lối giải thích của Sáng Thế ký khó làm cho ta thỏa mãn, vì thật ra nó không giải thích gì hết
về sự dữ.

b/ Hóa giải sự dữ theo thánh Irênê: (x. {3})

Thế giới này phải là môi trường phát triển của con người, ngõ hầu đạt tới tầm vóc sung mãn ơn gọi
làm con Thiên Chúa. Sự phát triển này đòi hỏi một tiến trình lâu dài trong một môi trường thích
hợp. Đó là môi trường hỗn hợp giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tối, nhờ đó con người
có thể vận dụng tự do của mình để thực hiện ơn gọi.
Nếu chỉ nhằm mục tiêu: sự thiện phải hiện hữu bằng bất cứ giá nào, thì Thiên Chúa có thể trang bị
cho thế giới này tràn đầy những người máy, được lập trình hoàn hảo, chỉ biết làm điều thiện. Nhưng
những người máy như thế không bao giờ có thể phát triển đạt tới tầm mức con cái tự do của Thiên
Chúa. Việc đạt tới ơn gọi làm con Thiên Chúa, tùy thuộc con người vận dụng khả năng lựa chọn,
đáp trả hay khước từ lời mời gọi của Thiên Chúa. Chỉ trong tự do, con người mới có thể đi vào mối
tương quan tình yêu với Thiên Chúa. Đó là lý do biện minh tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ luân
lý có mặt trong thế giới này. Do đó, chính tự do phải chịu trách nhiệm về sự dữ luân lý.
Nhưng Thiên Chúa toàn năng có thể loại trừ mọi sự dữ hay đau khổ , vậy tại sao Ngài không làm
như thế ?
Giả sử chúng ta sống trong một thế giới mà Thiên Chúa không ngừng can thiệp để loại trừ bất cứ sự
dữ hay đau khổ nào khỏi cuộc sống con người, thì một sự can thiệp như thế sẽ đồng nghĩa với việc
loại bỏ luật lệ thiên nhiên. Chẳng hạn Thiên Chúa luôn phải làm cho sức nóng của ngọn lửa đang có
nguy cơ đốt cháy người hay vật trở thành vô hiệu. Một sự can thiệp như thế khiến cho thế giới này
không còn khả năng tiên liệu, do đó khoa học và kỹ thuật cũng không còn cơ may phát triển. Đàng
khác một sự can thiệp như thế khiến thế giới này không còn những thách đố phải vượt qua, không
còn những vấn đề phải giải quyết, như vậy cũng làm tiêu tan ý nghĩa cuộc sống, tình thương không
còn môi trường để bộc lộ, không còn chỗ cho sự tự hiến. Ơn gọi làm con Thiên Chúa thể hiện trong
mối tương quan tình yêu không thể thành hiện thực. Nhìn dưới góc độ này, những thử thách và đau
khổ có thể có những giá trị tích cực.

Những khó khăn của hóa giải này :

- Nếu sự dữ có mang lại lợi ích nào thì cũng phải trả giá bằng biết bao hủy hoại , vì trong thực tế, sự
bất hạnh thường làm cho con người đi trệch hướng hơn là làm cho nó trỗi dậy. nếu họa chăng có
được những cuộc chinh phục thì luôn luôn chỉ là một phần nhỏ so với cái nền thất bại.
- Đàng khác,quan điểm trên có thể mặc nhiên cho rằng Thiên Chúa trực tiếp dính líu vào sự ác, đau
khổ, làm cớ cho con người phủi trách nhiệm trước những sự ác mà nó gây ra.

c/ Hóa giải sự dữ theo thánh Âu Tinh và quan điểm loại suy thẩm mỹ. (x.{3})

Thiên Chúa là Đấng toàn thiện. Thiện tính của Ngài được bộc lộ trong hành vi sáng tạo, do đó mà
mọi tạo vật đều có tính bản thiện. Tuy nhiên, sự dữ cũng thực sự hiện hữu, nhưng chúng chỉ hiện
hữu khi khiếm khuyết sự thiện, như bóng tối xuất hiện khi thiếu ánh sáng. Người ta tự hỏi tại sao
Đấng Tạo Hóa không sáng tạo mọi sự ở cấp hoàn hảo nhất, không còn chỗ cho những khiếm khuyết
xen vào ? Thánh nhân trả lời: Cần có nhiều loại hữu thể được sáng tạo ở những cấp độ hoàn hảo
khác nhau, nhờ đó sự phong phú và vẻ huy hoàng càng nổi bật.
Trong tương quan với sự thiện mà sự dữ có ý nghĩa: Quan điểm loại suy thẩm mỹ. Kinh nghiệm
thực tế về thẩm mỹ cho hay sự tương phản thường làm cho thực tại tăng thêm vẻ đẹp, như trong
một bản nhạc, đôi khi có những nốt nhạc không hòa điệu, một cách nào đó lại có thể làm cho toàn
bộ bản nhạc thêm tuyệt vời. Vậy nếu ta thấy sự không hài hòa trong vũ trụ, là tại chúng ta không
hiểu được bản giao hưởng của vũ trụ trong tổng thể của nó. Như thế sự dữ làm phát ra vẻ rực rỡ của
sự thiện.. Nó là phương thế cần thiết để đạt tới sự hài hòa tuyệt mức của thế giới.

Những khó khăn của cách hóa giải này.

Thật khó chấp nhận quan điểm sự dữ là phương thế cần thiết để đạt tới sự hài hòa tuyệt mức của thế
giới. Làm sao có thể chấp nhận quan điểm chủ trương hy sinh các thế hệ hiện tại,nếu cần,để giúp
đạt tới những ngày mai tươi sáng ! vì con người là một giá trị tuyệt đối, không bao giờ là phương
tiện. Mỗi một thời điểm đều được Thiên Chúa coi trọng, và không thể biện minh cho những tiến bộ
trong tương lai bằng cách lập luận rằng Thiên Chúa chủ ý muốn sự đau khổ cho bất kỳ một người
vô tội nào của ngày hôm nay.
Hơn nữa, người ta cũng khó chấp nhận lối nhìn của kẻ bàng quan, đứng ngoài xem tranh. Thái độ
đó không làm sự dữ mất đi, mà còn là cơ hội cho sự dữ tăng gấp bội. Trong tác phẩm “Hai nguồn
tôn giáo và luân lý” Bergson đã nhận định: “Các triết gia vẫn hài lòng với những lập luận kiểu đó
một mình trong bàn giấy, nhưng họ nghĩ sao trước cảnh một bà mẹ vừa mới chứng kiến con mình
chết thảm khốc? Không, đau khổ là một thực tại, có thể làm lu mờ khía cạnh Thiên Chúa quan tâm
tới con người cách cá vị, hoặc tệ hơn có thể gây hiểu lầm: con người chỉ là thành phần hay đơn vị
có thể bị hy sinh vì lợi ích của tập thể một cách tùy tiện”.

d/ Hóa giải sự dữ theo thánh Tôma: (x. {3})

Cách hóa giải của thánh nhân nhằm biện minh rằng Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ.
Thánh nhân đã sử dụng những ý niệm siêu hình về hữu thể để xây dựng lý thuyết của mình và trình
bày vấn đề trong Tổng Luận Thần Học, phần I chương 48-49:
Theo Ngài sự dữ không phải là một tạo vật, mà là sự thiếu sót hay khiếm khuyết sự thiện trong bất
cứ tạo vật nào.. Như thế trên bình diện hiện hữu mọi tạo vật đều tốt lành hay thiện hảo. Sự thiện là
điều mọi người mong ước và không có gì đáng ước mong nếu nó không hiện hữu. Có hiện hữu mới
làm cho vật khác yêu thích được. Vì thế người ta chỉ nhận ra sự dữ trên bình diện cách thế hiện hữu
của nó mà thôi. Sự dữ được biết đến là do một hữu thể nào đó thiếu hay khiếm khuyết một sự thiện
nào đó, như bóng tối được nhận biết là do thiếu ánh sáng.. Tự nó, sự dữ không thể hiện hữu được.
Đôi mắt là sự thiện hảo phải có của con người, nên người khiếm thị được coi là người bất hạnh. Khi
dịnh nghĩa sự dữ là một thiếu sót hay khiếm khuyết trong tạo vật, thánh Tôma không hề muốn làm
giảm nhẹ hiệu quả hay tính bi đát của sự dữ: Hậu quả của sự dữ vật lý cũng như luân lý thật tồi tệ,
cần phải khuất phục hay lên án. Ngài chỉ muốn khẳng định: sự dữ không có bề dày hữu thể nào hết,
nên Thiên Chúa không phải là tác giả sự dữ vì Ngài chỉ là nguyên nhân mọi hữu thể.
Tuy nhiên thánh nhân cho rằng sự dữ đôi khi cần cho sự hòa điệu của vũ trụ. Về phương diện này
Thiên Chúa có thể là nguyên nhân gián tiếp sinh ra sự dữ vật lý. Muốn sinh tồn, các vật trong vũ trụ
phải nương vào nhau. Con người nuôi sống mình bằng những vật hạ cấp; các vật khác cũng vậy. Sự
tác động qua lại này tạo nên sự quân bình sinh thái, được coi như một thứ thiện hảo của vũ trụ.
Song sự dữ vật lý không đúng nghĩa là sự dữ.
Dẫu sao cách hóa giải của thánh Tôma nếu tránh được cho Thiên Chúa trách nhiệm tạo ra sự dữ thì
vẫn còn nguyên vấn đề đối với một Thiên Chúa toàn năng, thiện hảo.

e/ Hóa giải của Giáo Hội: (x.{1})

+Tại sao Thiên Chúa đã không sáng tạo một vũ trụ toàn hảo đến độ khổng thể có sự ác ? Theo
quyền năng vô cùng của Ngài, Thiên Chúa đã có thể sáng tạo một cái gì tốt hơn, nhưng trong sự
khôn ngoan và tốt lành của Ngài,Thiên Chúa đã muốn tự do sáng tạo một vũ trụ “trong tình trạng
đang tiến tới” sự toàn hảo tối hậu của nó. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, cuộc tiến hóa này gồm
sự xuất hiện của một số sự vật cùng với sự biến mất của một số sự vật khác, có cái hoàn hỏa hơn và
có cái it hoàn hảo hơn, có những xây dựng và cũng có những tàn phá trong thiên nhiên. Như vậy
bao lâu sự sáng tạo chưa đạt tới mức toàn hảo của nó, thì cùng với sự thiện vật lý sẽ vẫn có sự ác
vật lý(GLHTCG 310)(x.hóa giải của St Tôma).
Đối với sự ác luân lý, sự ác tinh thần, Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của sự ác luân lý dù
cách trực tiếp hay cách gián tiếp. Tuy nhiên Ngài cho phép như thế để tôn trọng sự tự do của tạo vật
của Ngài, và một cách mầu nhiệm, Ngài biết rút ra điều thiện từ sự việc này. Như vậy, với thời gian,
người ta có thể khám phá ra rằng, trong sự quan phòng toàn năng của Ngài, Thiên Chúa có thể rút
ra một sự thiện từ nơi những hậu quả của sự ác, dầu là sự ác luân lý, do các tạo vật của Ngài gây
nên, như việc Giuse bị bán sang Ai Cập để cứu cả một dân tộc, việc Chúa Giêsu bị đóng đinh Thập
giá để nên ơn cứu độ cho mọi người. Nhưng không phải như thế là điều ác trở thành điều thiện
(GLHTCG 311,312,324).
+“Tất cả mọi sự đều quy về lợi ích cho những người mến yêu Thiên Chúa”(Rm 8,28) như xác tín
của thánh Catarina thành Siêna “Mọi sự phát xuất từ tình yêu, mọi sự đều quy hướng về ơn cứu độ
của con người, Thiên Chúa làm tất cả mọi sự vì mục đích đó” và của thánh Tôma More “Không có
gì xảy ra mà không do Chúa muốn, mà tất cả những gì Ngài muốn, dầu có vẻ ác hại đến đâu, cũng
là điều tốt nhất cho ta” (GLHTCG 313).

Thay lời kết:

Trước mầu nhiệm sự dữ, chúng ta có thể có những nhận định sau:

1.Chúng ta vững tin rằng Thiên Chúa là Chủ của vũ trụ và của lịch sử. Nhưng các con đường của
Chúa quan phòng thường không được chúng ta nhận biết. Chỉ khi đã tới cuối con đường, khi đó ta
mới thấy tất cả các con đường mà Thiên Chúa đã dùng, qua cả những thảm kịch của sự ác và tội lỗi,
để dẫn đưa các tạo vật của Ngài tới sự an nghỉ của ngày Sa-bát vĩnh cửu, đó là cùng đích của Ngài
khi sáng tạo nên trời và đất (GLHTCG 314)

2.Đứng trước đau khổ, chúng ta nên tìm lấy sự an ủi qua suy niệm Kinh Thánh. Kinh Thánh bảo
đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa thấu suốt và chăm sóc cho hoàn cảnh của chúng ta và Ngài hứa
sẽ ở với chúng ta để an ủi và gìn giữ chúng ta : “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ”(Tv 34,19),
và khi chúng ta phải đi qua “thung lũng của bóng tối sự chết” thì Chúa hứa ở cùng chúng ta (Tv
23,4). Thánh Phêrô mời gọi chúng ta hãy trút bỏ mọi nỗi lo sợ cho Thiên Chúa “vì Người chăm sóc
anh em” (1Pr 5,7).

3.Đau khổ là dịp để chúng ta chứng tỏ đức tin chân chính cũng như để tinh luyện đức tin (1Pr 1,7)
như trường hợp ông Gióp.

4.Những thử thách khắc nghiệt cho những người tin vào Thiên Chúa cơ hội để bày tỏ tình yêu của
họ đối với tha nhân là chi thể của Đức Kitô, Đấng “mang lấy gánh nặng cho người khác”(1Cr 12,16
; Gl 6,2). Chúng ta đã được Thiên Chúa nâng đỡ ủi an trong lúc đau khổ, như thế chúng ta có khả
năng tốt hơn để an ủi tha nhân (2Cr 1,4).

5.Đau khổ đóng một vai trò để làm phát triển những nhân đức, cũng như gìn giữ chúng ta khỏi
phạm tội, như thánh Phaolô nhận ra “ cái gai trong thân xác ngài” giúp ngài khỏi tự cao tự đại và
luôn bám víu vào Thiên Chúa (2Cr 12,7). Chính Đức Kitô “ phải trải qua nhiều đau khổ mới học
được thế nào là vâng phục”(Dt 5,8).

6.Sự dữ và đau khổ giúp chúng ta lòng khao khát mạnh mẽ hướng về Nước Trời, nơi đau khổ và
buồn sầu không còn nữa (Kh 21,4).

7. Đứng trước sự dữ, chẳng những không chút thối chí mà với sự sáng suốt, trong niềm cậy trông
vào sức mạnh của Thiên Chúa, con người nỗ lực không ngừng làm giảm những bất công cũng như
đau khổ xung quanh mình.

8. Người có niềm tin vào Thiên Chúa có khả năng đem đến cho người đau khổ niềm an ủi và niềm
hy vọng để họ vượt qua; còn người vô thần không có khả năng ấy vì họ không có gì để trao ban.

You might also like