You are on page 1of 10

1.

Giới thiệu
1.1 Tôn giáo và tín ngưỡng
1.1.1 Nguồn gốc của tôn giáo tín ngưỡng:
r Tôn giáo: xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người và hoàn thiện dần cùng
với sự phát triển của các môi quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện
gắn với những nguồn gốc sau:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội:
 Ở xã hội xã hội nguyên thủy (thời tiền sử) trình độ sản xuất thấp kém,
công cụ lao động thô sơ, phương tiện còn nhiều hạn chế thì con người sẽ
có những khó khăn, thử thách nhất định từ đó sinh ra sự yếu đuối, bất lực
trước thiên nhiên rộng lớn, bí ẩn. Và họ gán cho tự nhiên những sức
mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Từ đó hình
thức đầu tiên của tôn giáo xuất hiện và tồn tại. F.Ănggen nhấn mạnh rằng
tôn giáo trong xã hội nguyên thủy xuất hiện do kết quả phát triển thấp
của trình độ lực lượng sản xuất.
 Ở xã hội bắt đầu xuất hiện giai cấp đối kháng, sự áp bức giai cấp, chế độ
bóc lột là một nhân tố quan trọng làn nảy sinh tôn giáo. Bên cạnh sự yếu
đuối trước sức mạnh tự nhiên thì con người còn bất lực trước những sức
mạnh tự phát hay thế lực nào đó trong xã hội. Do sự phân hóa giai cấp,
những yếu tố ngẫu nhiên may rủi và làm cho con người không thể tìm ra
lối thoát hiện thực khỏi sự áp bức ở thực tại nên từ đó họ càng có những
niềm tin ảo tưởng hơn về “thế giới bên kia” dưới hình thức tôn giáo.
 Sự yếu kém về trình độ phát triển trong lao động sản xuất, sự
bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, bất lực trước những
bất công của xã hội hiện thực chính là nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo.
 Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Những người theo chủ nghĩa duy vật trước Karl Marx thường nhấn mạnh
đến nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Đối với những người theo chủ
nghĩa cổ điển theo chủ nghĩa Mác-Lênin, mối quan tâm chính của họ là
nguồn gốc kinh tế xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin
không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà còn làm sáng tỏ
nguồn gốc này trên cơ sở khoa học. Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo
cũng liên quan đến đặc điểm nhận thức của con người. Sự hiểu biết của
con người về thế giới khách quan ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn,
được tổng hợp thành các khái niệm, phạm trù và quy luật. Nhưng chúng
ta càng khái quát hóa, trừu tượng đến mức viển vông thì càng có nhiều
khả năng những sự vật, hiện tượng mà con người nhận thức đều xa rời
thực tế và dễ phản ánh sai thực tế. Sự tuyệt đối hóa, cường điệu hóa chủ
thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu tính khách quan, dần mất đi cơ sở hiện
thực, dễ rơi vào ảo giác, thần thánh hóa đối tượng.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
 Các nhà duy vật cổ xưa thường đưa ra lập luận rằng “sự sợ hãi đã sinh
ra thần linh”. V.I. Lênin đồng tình và phân tích sâu hơn: Sợ quyền lực
mù quáng của tư bản…, sự phá sản “đột ngột”, “ngẫu nhiên”, dẫn đến
diệt vong…, làm họ phải chịu cảnh chết đói, đây chính là căn nguyên sâu
xa của tôn giáo. Ngoài nỗi sợ hãi trước các thế lực tự nhiên và xã hội,
đức tin và tôn giáo còn tạo ra những tình cảm như lòng biết ơn, sự tôn
trọng và tình yêu thương trong mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên và giữa con người với con người. Đây là những giá trị tích cực của
đức tin và tôn giáo. Niềm tin và tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của
một số người, giúp bù đắp cho cuộc sống không như ý, sự trống trải về
tinh thần, đôi khi có thể an ủi, xoa dịu những bất hạnh của số phận. Vì
vậy, dù đây chỉ là thứ hạnh phúc viển hư ảo nhưng vẫn có rất nhiều
người tin tưởng và bám víu vào nó. Marx cho rằng tôn giáo là trái tim
của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng
thái xã hội không có tinh thần.
r Tín ngưỡng:
 Niềm tin thực chất xuất phát từ nỗi sợ hãi của con người thời tiền sử
 Con người đã chuyển từ sợ hãi sang tin vào thần thánh. Họ suy đoán và
dần dần “tin” rằng có những sức mạnh và linh hồn bí ẩn đằng sau những
hiện tượng mà họ không thể giải thích và kiểm soát được.
 Họ suy đoán sâu hơn và đi đến “tin” rằng họ có thể liên lạc và mua
chuộc các vị thần này để giúp đỡ họ thông qua việc thờ cúng và cúng
dường. Đây là những “niềm tin” của con người trong thời kỳ văn minh
thô sơ.
 Những niềm tin, hay tín ngưỡng này đã trở thành nền tảng của tín
ngưỡng, tôn giáo của con người cho đến ngày nay.
 Đức tin trở thành nhu cầu cơ bản của con người. Nhu cầu này là một
phần của quá trình tiến hóa và đóng vai trò quan trọng trong sự sống còn
của con người. Nhu cầu tín ngưỡng chỉ đứng sau các nhu cầu cơ bản
khác như ăn, uống, mặc, …
1.1.2 Vai trò của tôn giáo và tín ngưỡng trong đời sống xã hội:
r Tôn giáo:
 Tôn giáo với tư cách là một thực thể xã hội luôn có vai trò, đóng góp những
khía cạnh nhất định của đời sống xã hội tạo nên sự đa dạng và phong phú
Hòa nhập văn hóa dân tộc giúp hình thành các giá trị đạo đức cho quần
chúng trong các giai đoạn lịch sử. từ Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Đây là chính sách nhất quán của đảng
cho đến nay. Điều 5, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo khẳng định: Nhà nước
bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của
pháp luật; Tôn trọng, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo; Giữ gìn và
phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên; Tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng nhằm góp
phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh và
đời sống tinh thần của nhân dân. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; Động viên các tổ chức tôn
giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. và đã góp phần tạo nên những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo Quan hệ xã hội lành mạnh giữa con
người với con người, giữa con người với tự nhiên giúp hình thành nền đạo
đức mới và tính cách của người Việt Nam ngày nay ở một mức độ nào đó
cũng như vậy. Những giá trị này cũng góp phần không nhỏ vào việc khắc
phục những vấn đề hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn tới
suy thoái đạo đức. Thực tế cho thấy “ở những nơi tôn giáo ổn định, có đông
tín đồ thì các tệ nạn xã hội ít hơn, trật tự ổn định và lối sống đạo đức nền
nếp hơn”. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tôn giáo chỉ mang tính tích
cực. Trên thực tế, một số hiện tượng xung đột có thể gây ra những hậu quả
tiêu cực Những việc nhỏ nhặt đối với xã hội đã và đang nảy sinh từ việc lợi
dụng tôn giáo. Vì vậy, chúng ta phải hiểu đúng vai trò của đạo đức tôn giáo
thì mới phát huy được đạo đức tôn giáo. Do đó, cần nhận diện đúng vai trò
của đạo đức tôn giáo nhằm phát huy những giá trị của tôn giáo và hạn chế
những tác động tiêu cực của nó đối với việc hoàn thiện nhân cách con người
Việt Nam hiện nay. Mặc dù có những khác biệt về thế giới quan và định
hướng, nhưng chắc chắn rằng Các phương pháp để đạt được các mục tiêu đã
được thiết lập giữa những người không theo tôn giáo và công chúng tôn giáo
nhưng đều có chung một định hướng tốt, nhằm xây dựng xã hội tốt đẹp hơn;
giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bất công; khát vọng xây dựng đất
nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đây là mạch kết nối, nơi
gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong tôn giáo với giá trị nhân văn của chủ
nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, việc chấp nhận sự khác biệt, làm rõ các
giá trị tôn giáo, tìm kiếm sự tương đồng, tạo sự đồng thuận giữa người theo
các tôn giáo khác nhau và giữa người theo tôn giáo với người không theo
tôn giáo sẽ tạo ra động lực tổng hợp trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước.
r Tín ngưỡng: Với chức năng cơ bản là điểm tựa tinh thần cho con người khi
gặp những vấn đề bế tắc trong cuộc sống; là hạt nhân của văn hóa làng/cộng
đồng, tín ngưỡng dân gian nói chung, thực hành tín ngưỡng dân gian nói riêng
vẫn phát huy những tác dụng nhất định của nó với cá nhân và cộng đồng trong
xã hội hiện nay.
 Đối với cá nhân con người: Nhiều nghiên cứu về đời sống tôn giáo của
người Việt xưa và nay đều khẳng định, có con người thì có tôn giáo; đời
sống xã hội dù văn minh, hiện đại đến đâu vẫn tồn tại những vấn đề nan
giải. Giải thích nó từ góc độ khoa học thông thường. Chưa kể sự phân công
lao động xã hội ngày càng rõ rệt và nhận thức không đồng đều giữa các
nhóm xã hội, những rủi ro do xã hội hiện đại mang lại vẫn tồn tại đối với
con người, vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn như: tai nạn giao thông,
mất an ninh lương thực, ô nhiễm môi trường, bạo lực. ... Những biến đổi về
chính trị Kể từ khi đổi mới, mở cửa năm 1986, kinh tế thị trường tuy mang
lại nhiều hệ lụy về kinh tế, xã hội nhưng cũng thể hiện sự mất mát và biến
đổi của nhiều yếu tố văn hóa, quan hệ xã hội, đạo đức, luân lý. lối sống nếu
bạn không muốn nó. Người ta cho rằng có dấu hiệu của một cuộc khủng
hoảng về đạo đức và lối sống.
 Đối với các gia đình Việt Nam hiện nay: Gia đình hiện nay được coi là có
nhiều cấp độ và hình thức tồn tại khác nhau: có gia đình lớn (nhiều thế hệ),
có gia đình nhỏ (hạt nhân 2 thế hệ); có gia đình đầy đủ (cha mẹ và con cái),
có gia đình không trọn vẹn (chỉ có cha và con). mẹ). ), cũng có những gia
đình đồng giới... Có thể thấy, quan niệm gia đình và cấu trúc gia đình hiện
nay trong xã hội Việt Nam đã có những thay đổi lớn. Trong bối cảnh đó,
việc thực hành tôn giáo, đặc biệt là việc thờ cúng các vị thánh/thần cũng là
một vấn đề nhạy cảm, đáng được quan tâm, nhất là từ góc độ lý trí. Thực
hành đức tin, tôn giáo trong gia đình không chỉ đơn giản là thực hiện và tiếp
tục các phong tục tập quán hay thể hiện niềm tin tôn giáo mà có thể được
coi là “công cụ an toàn” cho nhiều hành vi khác, thậm chí còn có tác động
không nhỏ đến hoạt động sống và sáng tạo. Văn hóa, giáo dục đạo đức và
quy tắc ứng xử trong gia đình.
1.1.3 Một số tôn giáo tín ngưỡng ở nước ta:

r Tôn giáo:
 Việt Nam là một Quốc gia đa tôn giáo, một số tôn giáo như là: Phật giáo,
Thiên Chúa giáo, đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài.
Mỗi một tôn giáo đều mang những nét đặc trưng riêng, tuy vậy các tôn
giáo đều có chung một đặc điểm đó là khuyến khích giáo dân của đạo
mình làm những việc tốt đạo đẹp đời , hoạt động tôn giáo trên khuân khổ
của pháp luật Việt Nam.

(Phật giáo)_ https://www.phattuvietnam.net/ve-su-ra-doi-cua-cac-to-chuc-phat-giao-


o-mien-nam-viet-nam-giai-doan-1951-1954/
r Tín ngưỡng:
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các vị Thần, Tổ nghề,…

(Tín ngưỡng thờ các vị Thần như Thổ


Công, Thần tài được hầu hết gia đình thực
hiện)
- Tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ cúng chúng sinh, thờ Thành Hoàng làng,…

(Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng) "Linh tinh tình phộc" -
Lễ hội thuộc Tín ngưỡng
Phồn thực tại Phú Thọ
(https://baolongbrass.com/cac-tin-nguong-dan-gian-noi-bat-tai-viet-nam-hien-nay)
1.2 Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại
hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh
bình đẳng và ổn định. Có rất nhiều loại kinh tế thị trường, chẳng hạn: kinh tế thị
trường tự do, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường tư bản
nhà nước, kinh tế thị trường xã hội…
Tiền đề cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường chính là sản xuất và trao
đổi hàng hóa. Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các yếu tố cơ bản của thị trường
(cung, cầu, giá…) sẽ tác động theo cách điều tiết nền kinh tế, đồng thời luân chuyển,
phân bổ các nguồn lực và tài nguyên.
Ở Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội lần thứ VỊ
Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 4986), được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm
1992 và các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Từ việc phát triển kinh tế trong cơ chế cũ
- cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây với hai thành phần kinh tế là kinh tế
Nhà nước và kinh tế tập thể (kinh tế tư bản, tư nhân không được thừa nhận), đến nay,
trong nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển
với những hình thức sở hữu khác nhau, trong đó, đáng chú ý là sự hiện diện của thành
phần tư bản nước ngoài đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Nhà nước Việt Nam
khuyến khích và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật, chính sách để các thành phần `
kinh tế cùng có cơ hội phát triển trong một môi š trường cạnh tranh lành mạnh.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán
ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận
dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng
Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự
khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng
kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển
của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là "cái phổ biến", còn kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt Nam, phù hợp với
điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.

Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế
thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản
lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.

Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có
chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị
trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ
thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm
giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu
hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn
thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải
quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát
triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và
vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam

2. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về mối quan hệ tôn giáo và xã hội
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của
chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét
nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thông qua các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo.
Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên, thế
giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con
người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các
nhà duy vật, vô thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết học duy
vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh
sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình;
rằng: “Thượng đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là toàn bộ
những đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng
tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc lập”. Tuy
nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh này,
ông vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời
chứ không phê phán tôn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những
điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm chí, ông còn cho rằng người ta vẫn
rất cần một thứ tôn giáo khác thay thế, đó là “tôn giáo tình yêu” để xoá bỏ đi những áp
bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để lý
giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội,
do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng
trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn
giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái
ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng
khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện
thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế giới
khách quan. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội
dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma.
Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho
con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”.
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến dạng,
sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách
khác, tôn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất người”.
Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản
chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi - dù đó chỉ là
chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con
người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính mình và đã
thần thánh hoá nó như một bản chất xa lạ nào đó”. Lột tả bản chất của tôn giáo, ông
cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người –
của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần
thế”.
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư ảo”
của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao vào tôn
giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và
nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế – xã hội. Trong lịch
sử tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải
vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải
tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện
tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở
cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp
bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ phận người dân rơi vào
tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự
phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ
hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta tìm đến và
dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những
thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được
phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau,
những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và
hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn
có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người,
một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ
với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy”. Bàn về
vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc
đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên
kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên
nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong
hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó – một hiện thực cần có tôn giáo và có điều
kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen,
C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện
thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài
của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh
thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo
trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng hào quang” ảo
tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là
niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực
trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước
tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của xã hội thì họ chỉ còn biết
“thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ
không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái
tim” trong tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở
che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc
sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng
định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất
yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi
đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và
chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý
giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho
cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư
ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh hoang
đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó không phải
không có những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ là những “bông hoa giả” tô điểm cho
một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu không có những “bông hoa giả”
ấy thì cuộc sống của con người chỉ còn lại “xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ
“thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực
với đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học thuyết
Mác về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán
bản thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo mà phê phán chính cái hiện
thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã
hội đã đẩy con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác
đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng
tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xoá bỏ tôn giáo, không
có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề
không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xoá bỏ bản thân cái “xiềng xích”
được trang điểm bởi những bông hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái những
bông hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới
hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xoá bỏ tôn giáo và giải phóng con
người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người
khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình độ nhận
thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng người bóc lột
người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-mac/
nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-diem-cua-chu-nghia-mac-lenin-ve-ton-giao-va-su-
van-dung-de-giai-quyet-van-de-ton-giao-trong-thoi-ky-3126
[2]. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-phat-trien.aspx
http://lrc.quangbinhuni.edu.vn:8181/dspace/bitstream/TVDHQB_123456789/1225/1/
nhung_van_de_ton_giao_7226.pdf;
https://lytuong.net/ton-giao-la-gi/#4_Nguon_goc_cua_ton_giao.
https://aovongvagongcum.yolasite.com/ngu%E1%BB%93n-g%E1%BB%91c-c
%E1%BB%A7a-t%C3%ADn-ng%C6%B0%E1%BB%A1ng-v%C3%A0-t%C3%B4n-
gi%C3%A1o.php#:~:text=T%C3%ADn%20ng%C6%B0%E1%BB%A1ng%20v
%C3%A0%20t%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20xu%E1%BA%A5t%20ph%C3%A1t
%20t%E1%BB%AB,m%E1%BB%99t%20nhu%20c%E1%BA%A7u%20c
%C6%A1%20b%E1%BA%A3n%20c%E1%BB%A7a%20con%20ng
%C6%B0%E1%BB%9Di.

You might also like