You are on page 1of 19

,’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’

’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’01
TÔN GIÁO VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC SỰ KIỆN TÔN GIÁO
I. Mở đầu
Với tiến trình phát triển của lịch sử loài người, tôn giáo ra đời và trở thành một hiện
tượng xã hội. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới nhưng nhìn chung mọi tôn giáo
đều hướng tới con người với những giá trị tốt đẹp. Chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận
tuyệt đối tôn giáo mà dung hòa tôn giáo trong đời sống, chính trị, xã hội để phát triển.
Không những vậy, tôn giáo còn đóng vai trò nhất định trong đời sống tinh thần của con
người. Nhìn chung, mọi giáo lý của các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc.
Những triết lý ấy giúp cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với
bản thân, cộng đồng, với sự phát triển chung của toàn xã hội. Tôn giáo là sự tự do tín
ngưỡng của mỗi công dân, tuy nhiên là phải đi đôi với việc chấp hành pháp luật.
Bởi vì tôn giáo nằm trong một bộ phận cấu thành nên xã hội này nên cùng với sự thay đổi
của loài người mà tôn giáo cũng có những sự biến đổi dù là về nội dung hay là hình thức.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, chỉ có thể giải thích một cách khách quan
khoa học dựa trên những quan niệm của nền tảng triết học duy vật về lịch sử, cũng như
nhận thức duy vật khoa học. Tôn giáo là một hình thức phản ánh hư ảo, xuyên tạc đời
sống hiện thực và đã ra đời cách đây hàng chục nghìn năm nhưng ngày nay trước sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật trên thế giới, tôn giáo dường như vẫn có sự phát
triển đa dạng về hình thức và rộng lớn về quy mô. Vì vậy dường như không thể giải quyết
vấn đề tôn giáo một cách đơn thuần về mặt nhận thức xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, vấn đề tôn giáo hiện nay đã được
Đảng và Nhà nước ta xem xét, đánh giá lại trên quan điểm khách quan hơn, không xoá bỏ
một cách duy ý chí như trước nữa mà nhìn nhận trên quan điểm phát huy những mặt tích
cực, gạt bỏ những mặt tiêu cực trong các tôn giáo. đặc biệt là các chỉ thị về tôn giáo, hay
quan điểm của các tôn giáo hiện nay là: sống tốt đời đẹp đạo.

II. Nội dung


1. Tổng quan về tôn giáo
1.1. Các quan điểm về tôn giáo
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con
người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên
kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự
nhiên một chút ân huệ của mình”
Ph.Ăngghen cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con
người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần
thế”
→ Các quan điểm trên giải thích cho bản chất, nguồn gốc của tôn giáo.

1.2. Bản chất và nguồn gốc của tôn giáo


Bản chất của tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hóa do
con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản
ảnh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con
người lại bị lệ thuộc vào tôn giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng tôn giáo vô điều kiện. Chủ
nghĩa Mác – Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế xét đến cùng
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có
tôn giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, các thiết chế tôn giáo đều được
sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống nhất định trong xã hội và
thay đổi theo những thay đổi của cơ sở kinh tế.

Nguồn gốc của tôn giáo:


Nguồn gốc tự nhiên, KTXH:
Trong xã hội công xã nguyên thủy, do lực lượng sản xuất chưa phát triển, trước thiên
nhiên hùng vĩ tác động và chi phối khiến cho con người cảm thấy yếu đuối và bất lực,
không giải thích được, nên con người đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực
thần bí.
Khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối kháng, có áp bức, bất công, do không giải thích
được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức bóc lột, bất công, tội ác,… cộng với
lo sợ trước sự thống trị của các lực lượng xã hội, con người trông chờ vào sự giải phóng
của một lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế
Nguồn gốc nhận thức:
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và
chính bản thân mình là có giới hạn. Khi mà khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn
tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải
thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng
minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện,
là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. Thực chất nguồn gốc nhận thức của
tôn giáo chính là sự tuyệt đối hóa, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người,
biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh
Nguồn gốc tâm lý:
Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay trong những lúc ốm đau, bệnh tật;
ngay cả những may, rủi bất ngờ xảy ra, hoặc tâm lí muốn được bình yên khi làm việc lớn
(ví dụ: ma chay, cưới xin, làm nhà, khởi đầu sự nghiệp kinh doanh…), con người cũng dễ
tìm đến với tôn giáo. Thậm chí cả những tình cảm tích cực như tình yêu, lòng biết ơn,
lòng kính trọng đối với những người có công với nước, với dân cũng dễ dẫn con người
đến với tôn giáo (ví dụ: thờ các anh hùng dân tộc, thờ các thành hoàng làng,…).

1.3. Vai trò của tôn giáo


Về hình thức, tôn giáo tách khỏi thế tục nhưng thực tế nó vẫn can thiệp vào thế tục ở các
mức độ khác nhau. “Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, tôn
giáo tác động trở lại đối với tồn tại xã hội”. Các tác động này bao gồm cả tác động mang
tính tích cực lẫn tiêu cực.
Mặt tích cực, tôn giáo có vai trò quan trọng trong việc liên kết tập hợp cộng đồng. “Trong
một chừng mực nhất định, tôn giáo là một trong những nhân tố ổn định những trật tự xã
hội tồn tại dựa trên các hệ thống giá trị và chuẩn mực chung mà nó hình thành”. Tôn giáo
cũng tạo nên những thăng hoa cho các sáng tạo nghệ thuật dân gian, có đóng góp lớn đối
với các di sản văn hóa của nhân loại.
Tôn giáo có tác động hai mặt đối với xã hội. Một mặt nó phản ánh khát vọng của con
người về một xã hội mới tốt đẹp hơn, làm tăng sự liên kết trong xã hội, hướng con người
đến những giá trị cao cả, đạo đức, hướng thiện. Tuy nhiên đi kèm với nó luôn có mặt tiêu
cực.
Mặt tiêu cực của tôn giáo là nguy cơ gây rạn nứt trong xã hội do sự sùng tín hay tính cục
bộ cố hữu của nó. Sự xung đột giữa các tôn giáo cũng là một nguy cơ đối với hòa bình và
an ninh thế giới. Tôn giáo cũng đồng thời kìm hãm khoa học và sự sáng tạo của con
người.
Tóm lại bên cạnh mặt tích cực, thế giới quan tôn giáo ẩn chứa nhiều mặt tiêu cực. Chính
những mặt tiêu cực của tôn giáo luôn bị các lực lượng thù địch với CNXH. Mặt dù “Chủ
nghĩa Mác Lê-nin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy tâm, thần bí, phản khoa
học, nhưng Chủ nghĩa Mác Lê-nin cũng thừa nhận tính chất, vai trò của tôn giáo, thừa
nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài”.
1.4. Chức năng của tôn giáo
1.4.1. Chức năng đền bù hư ảo
Tôn giáo là sản phẩm trong sự bất lực của con người, thể hiện cho sự kì vọng thoát ra
khỏi sự bất lực ấy.
Niềm tin trong trí tưởng tượng của con người về sự tồn tại của các thể lực siêu nhiên, về
sức mạnh của thần thánh,... phần nào có tác dụng xoa dịu, an ủi nỗi đau, phần nào có tác
dụng đem lại cho con người sự thăng bằng về trạng thái tâm lí.
Karl Marx: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” => Tôn giáo như liều thuốc an
thần đối với con người.
Lenin: hòn đá tảng trong thế giới quan của chủ nghĩa Mác Lê nin về tôn giáo.
Kết luận: Trong những hình thái xã hội khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác
nhau, tôn giáo đã và đang đóng vai trò là yếu tố đền bù hư ảo cho sự bất lực của con
người.
1.4.2. Chức năng thế giới quan
Thế giới quan: là hệ thống những quan điểm về thế giới, về con người xung quanh.
Tôn giáo nào cũng có tham vọng giải thích về vũ trụ, giải thích về tự nhiên, xã hội và con
người. Tạo ra một thế giới quan và truyền bá thế giới quan đó trở thành chức năng của
mỗi tôn giáo.
Bản chất mỗi tôn giáo là phản ảnh hư ảo, hoang đường về hiện thực khách quan nên mỗi
tôn giáo xây dựng nên một bức tranh riêng tưởng tượng về thế giới.
1.4.3. Chức năng điều khiển hành vi
Mỗi tôn giáo đều có một hệ thống các giá trị chuẩn mực để khuyên răn hay bắt buộc các
tín đồ phải tuân theo và hệ thống các giá trị chuẩn mực này tạo thành phần giáo luật của
mỗi tôn giáo
Tất cả những quy định đều được đưa ra cụ thể để nhằm giúp các tín đồ điều chỉnh hành vi
và thái độ với mỗi quan hệ trong gia đình, trong cộng đồng tín đồ và trong cộng đồng xã
hội.
Trong hệ thống giáo luật của mỗi tôn giáo đều có những giá trị chân - thiện - mĩ mang
tính chất xuyên thời gian và nó vẫn còn phù hợp với các giá trị đạo đức ngày nay.
Bên cạnh đó, các tôn giáo vẫn tồn tại những giá trị đạo đức đã trở nên lạc hậu, lỗi thời.
1.4.4. Chức năng liên kết
Chức năng liên kết của mỗi tôn giáo thể hiện:
- Các tín đồ cùng nhau tham gia nghe giảng giáo lí.
- Cùng nhau tham gia các buổi cầu nguyện tập thể.
- Cùng nhau tham gia các buổi tế lễ.
- Việc trừng phạt một người vi phạm các điều ranh giới đòi hỏi có sự chứng kiến
của cả một cộng đồng tôn giáo nhất định.
Tự sự liên kết về tôn giáo dần dẫn đến sự liên kết về tình cảm và từ sự liên kết về tình
cảm dẫn đến liên kết về kinh tế, văn hóa, giáo dục,...
Tuy nhiên, trong những điều kiện lịch sử nhất định, tôn giáo lại là nhân tố gây mất ổn
định, hòa bình, trật tự xã hội.
1.4.5. Chức năng giao tiếp
Các tín đồ của một tôn giáo giao tiếp với nhau thông qua các sinh hoạt tôn giáo. Sự giao
tiếp với nhau đó tạo nên sự gắn kết trong cộng đồng, trong tín hữu.
Các tín đồ tôn giáo không những chỉ liên hệ với nhau với tư cách là những người đồng tín
ngưỡng mà còn liên hệ với những người không cùng tín ngưỡng với họ. Đó chính là sự
giao tiếp xã hội rộng lớn, ngoài phạm vi tôn giáo, mang tính kinh tế, chính trị, văn hóa,...
Ngoài các chức năng trên, tôn giáo còn có nhiều chức năng khác như chức năng nhận
thức, chức năng văn hóa, chức năng đạo đức,... các chức năng trên của tôn giáo tồn tại
với tư cách là hệ thống, không biệt lập mà bao chứa lẫn nhau.
1.5. Tính tích cực và tiêu cực của tôn giáo
1.5.1. Tính tích cực của tôn giáo
Hướng con người tránh việc ác, làm điều thiện.
Đề cao luân lí gia đình.
Góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến
Chân - Thiện - Mỹ.
1.5.2. Tính tiêu cực của tôn giáo
Sự nhẫn nại phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện trong tôn giáo đã trở thành sự nhẫn nại
trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, không có giới hạn, đến mức nó trở thành sự nhẫn
nhục, cam chịu.
Tính chính trị phản động: thực tiễn lịch sử cho thấy mỗi khi tôn giáo bị giai cấp thống trị
lợi dụng bảo vệ cho lợi ích của chúng thì tôn giáo đi ngược lại lợi ích của quần chúng
nhân dân lao động.

2. Tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội


2.1. Nguyên nhân tồn tại tôn giáo trong CNXH

- Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn tồn tại và sẽ còn tồn tại lâu dài. Nguyên nhân chủ
yếu của tình hình đó là:

+ Tôn giáo cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đều có tính bảo thủ. Khi những
điều kiện kinh tế, xã hội sản sinh ra nó đã thay đổi nhưng bản thân nó biến đổi chậm hơn.
Vì vậy, tôn giáo tồn tại với tư cách là một sản phẩm của lịch sử để lại.

+ Bản thân chủ nghĩa xã hội vẫn chưa có khả năng khắc phục triệt để, ngay một lúc các
nguồn gốc làm phát sinh và duy trì sự tồn tại của tôn giáo.
+ Giáo lý và hoạt động tôn giáo có một số yếu tố phù hợp với xã hội. Đó là mặt đạo đức,
văn hóa của tôn giáo. Tôn giáo vẫn đang đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân.

+ Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu
hướng “đồng hành với dân tộc”, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa lòng dân
tộc”...

- Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo đã có những biến đổi cơ bản. Tín ngưỡng, tôn giáo tách
hẳn khỏi nhà nước và nhà trường, chỉ còn là công việc tôn giáo thuần túy. Nhà nước
không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo, niềm tin tôn giáo. Nhà nước tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các
tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng.

2.2. Những quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời
kỳ quá độ lên CNXH
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự biến đổi
trên nhiều mặt. Vì vậy, khi giải quyết các vấn đề đến tôn giáo, cần đảm bảo các nguyên
tắc sau:
Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng
liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự
do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng
việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người
dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội. được
quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi
đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc công dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do
tư tưởng của họ.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng là xuất phát từ việc tôn trọng quyền con người, thể hiện bản
chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp và
không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn
theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo và hoạt động tôn giáo bình
thường, các cơ sở thờ tự, các phương tiện phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng
của người dân được Nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ.

Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Nguyên tắc này để khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải quyết những
ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủ trương can
thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, muốn
thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ
ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy.
Mà điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức,
bất công, nghèo đói và thất học….cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là
một quá trình lâu dài và không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.

Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng; tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn
giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, tín ngưỡng tôn giáo chỉ biểu hiện thuần tuý về tư
tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp - chính trị ít nhiều đều
in rõ trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện và có mối
quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh mâu thuẫn
đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực lợi
dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động. Mặt tư
tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin, mức độ tin giữa những người có tín ngưỡng
tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như những người có tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng.

Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo thực chất là phân biệt tính
chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn
đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ, trong đời sống xã hội,
hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong
tôn giáo thường đan xen vào nhau. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, vấn đề
tôn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị
hay tư tưởng thuần tuý trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh
khuynh hướng “tả” hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến
tín ngưỡng, tôn giáo.

Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động
và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể.
Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã
hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh
vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ
thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và
đối với từng tôn giáo cụ thể

3. Khái quát tình hình tôn giáo hiện nay


3.1. Tình hình tôn giáo trên thế giới
Theo thống kê hiện nay, hiện nay trên thế giới có khoảng 20.000 tôn giáo, trong đó, các
tôn giáo có số lượng tín đồ 1 triệu trở lên có trên dưới 2.000 tổ chức; cùng với đó là sự
xuất hiện của rất nhiều các “hiện tượng tôn giáo mới” (châu Phi có 8.000, Mỹ có khoảng
3.000 tôn giáo mới). Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có:
- Kitô giáo có trên 2,4 tỷ tín đồ, chiếm hơn 31% dân số thế giới
- Hồi giáo: 1,8 tỷ tín đồ, chiếm khoảng 23% dân số thế giới
- Ấn Độ giáo: 900 triệu tín đồ, chiếm khoảng 15% dân số thế giới
- Phật giáo: 365 triệu, chiếm khoảng 6% dân số thế giới.
Nói chung có khoảng 87% dân số thế giới đang gắn bó với một tôn giáo nào đó; chỉ có
khoảng 13% là không tôn giáo.
Các hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh hưởng đến sinh hoạt tôn giáo ở
Việt Nam. Việc mở rộng giao lưu giữa các tôn giáo Việt Nam với các tôn giáo thế giới đã
giúp cho việc tăng cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tinh thần hợp tác hữu
nghị, hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích của các giáo hội và đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ
những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch với Việt Nam; góp
phần đào tạo chức sắc tôn giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng sự
mở rộng giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong và ngoài nước
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

3.2. Tình hình tôn giáo tại Việt Nam


Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2018, 26.4% dân số được xếp vào các
tín đồ tôn giáo:
- 14.91% là tín đồ đạo Phật
- 7.35% là tín đồ Công Giáo La Mã
- 1.09% là tín đồ đạo Tin lành
- 1.16% là tín đồ đạo Cao Đài
- 1.47% là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.
Trong cộng đồng tín đồ Phật giáo, Phật giáo Bắc Tông là tôn giáo chính của dân tộc đa
số, người Kinh (Việt), còn khoảng 1.2% dân số, hầu hết là nhóm dân tộc thiểu số Khmer,
thực hành Phật giáo Nam Tông.
Các nhóm tôn giáo nhỏ hơn cộng lại chỉ chiếm dưới 0.16% dân số, trong đó có
- Khoảng 70.000 người dân tộc Chăm thực hành dòng đạo Hindu riêng biệt ở vùng
duyên hải Nam Trung Bộ
- Khoảng 80.000 tín đồ Hồi giáo sống rải rác trên cả nước (trong đó khoảng 40%
theo dòng Sunni; 60% còn lại theo dòng Bani Islam)
- Khoảng 3.000 người theo đạo Baha’i
- Khoảng 1.000 người là tín đồ thuộc Giáo hội các thánh hữu ngày sau của Chúa
Giê su Ki tô (thuộc Giáo hội Chúa Giê su Ki tô).
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm tôn giáo
địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên
ngoài vào như: Tịnh độ Cư Sĩ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ tiên Chính
giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái Tin lành. Đến năm 2018, Việt Nam đã công nhận và
cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo, 55.870 chức sắc, 145.561 chức
việc, 29.396 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới và xây dựng lại
khang trang, đẹp đẽ.
Gần đây, các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển số lượng tín đồ, phát huy ảnh
hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng cường hoạt động mở rộng
ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ chức tôn giáo thế giới. Các cơ
sở tôn giáo được tu sửa, xây dựng mới khang trang đẹp đẽ; các lễ hội diễn ra sôi động ở
nhiều nơi. Tuy nhiên tình hình tôn giáo vẫn còn tồn tại những yếu tố phức tạp gây mất ổn
định. Vẫn còn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, quá khích gây tổn hại đến lợi
ích dân tộc; vẫn còn các hoạt động tôn giáo xen lẫn với mê tín dị đoan, còn các hiện
tượng tà giáo hoạt động làm mất trật tự an toàn xã hội. Các thế lực thù địch vẫn luôn lợi
dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng gắn vấn đề "dân chủ",
"nhân quyền" với cái gọi là "tự do tôn giáo"để chia rẽ tôn giáo, dân tộc; tài trợ, dụ dỗ các
phần tử xấu trong các tôn giáo truyền đạo trái phép, lôi kéo các tôn giáo vào những hoạt
động trái pháp luật, gây mất ổn định chính trị.

4. Các sự kiện tôn giáo


4.1. Chùa Ba Vàng
Chùa Ba Vàng được biết đến là một trong những ngôi chùa linh thiêng bậc nhất Quảng
Ninh. Chùa được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa trên núi có tòa chính
điện lớn nhất Việt Nam. Qua nhiều lần trùng tu cũng như khởi công xây dựng với quy mô
lớn, Chùa Ba Vàng trở thành một trong những địa điểm tâm linh thu hút khách du lịch
khi đến Quảng Ninh.
Chùa Ba Vàng có đầy đủ các kênh tuyên truyền hiện đại ngoài những tài liệu, sách vở,
phim ảnh được trình chiếu trong chùa. Website, Facebook, Zalo, Instagram, YouTube…
đều được nhà chùa khai thác tối đa để đăng tải những bài giảng.

Những bài giảng trái giáo lý, phản khoa học:


Cuối tháng 3 năm 2019 sau những phản ánh của báo Lao Động thu hút sự quan tâm của
dư luận, nhiều người dễ dàng tìm ra những clip rao giảng của Đại đức Thái Minh - trụ trì
chùa và người phụ nữ tên Phạm Thị Yến (pháp danh Tâm Chiếu Hoàn Quán) trên các
trang Facebook và YouTube của nhà chùa.
Bà Yến lý giải những người phạm vào luân thường đạo lý như loạn luân, tà dâm ở nơi
linh thiêng như chùa chiền sẽ bị mắc những căn bệnh vùng kín khó chữa. Còn với những
hành động ‘tà dâm bình thường’ như: cặp bồ, ngoại tình… thì chỉ bị nghiệp báo là ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình hoặc tình duyên lận đận. Bà thậm chí còn nhắc đến vụ án
'Nữ sinh bị cưỡng hiếp và giết chết khi giao gà ở Điện Biên' là do các ác nghiệp trong tiền
kiếp, cộng với hành động sát sinh (giết gà) ở hiện tại dẫn đến thảm kịch của cô gái.
Trong một clip khác, Đại đức Thái Minh khẳng định: 'Phật dạy chúng ta biết bố thí và
cúng dường. Mình cúng để giải bệnh, giải nghiệp của mình mà mình lại còn kêu sao?
Phật dạy các phật tử mất tiền đấy! Phải mất tiền mới có phúc. Phật dạy bố thí đứng đầu
trong lục độ. Chịu khó bố thí đi!...'.
Sau những lùm xùm thu hút sự quan tâm của dư luận bởi thông tin việc truyền bá vong
báo oán, giải nghiệp thu về hàng trăm tỷ mỗi năm thì Ngày 22/3, ông Nguyễn Mạnh Hà,
Chủ tịch UBND TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh cho biết, đã giao cơ quan công an vào
cuộc xác minh dấu hiệu hoạt động mê tín dị đoan và một số biểu hiện vi phạm khác diễn
ra tại chùa Ba Vàng.

Nhiều hệ lụy từ cách chữa bệnh ở chùa Ba Vàng | VTC14

4.2. Hội Thánh Đức Chúa Trời

Nguồn gốc và sự ra đời

Hội này bắt đầu từ năm 1964, do ông Ahn Sahng-hong sáng lập.Theo số liệu do Hội
thánh này công bố, đến năm 2015 có trên dưới 2 triệu người tin theo, 2.500 Hội thánh
(trong đó Hàn Quốc có 400 Hội thánh), có mặt ở 175 quốc gia, Trụ sở chính đặt tại
Bundang, thành phố Seongnam, tỉnh Kyunggi, Hàn Quốc.
Những người đi theo hội này tin rằng Ahn Sahng-hong là chúa trời cha và bà Jang Gil-ja
(một nhà đồng sáng lập) là chúa trời mẹ. Điều này đã bị Hội đồng Quốc gia các Giáo hội
tại Hàn Quốc chính thức lên án hội này là báng bổ và dị giáo.

Hội Thánh Đức Chúa Trời du nhập vào Việt Nam từ năm 2001, hình thành điểm nhóm
đầu tiên tại TP Hồ Chí Minh vào khoảng năm 2005-2006, do Nguyễn Văn Hòa (truyền
đạo sư) phụ trách từ Đà Nẵng trở vào. Năm 2013, xuất hiện ở phía Bắc và rộ lên năm
2016 do ông Nguyễn Đình Tám (chấp sự) phụ trách từ Thừa Thiên-Huế trở ra.

Cách thức hoạt động

Theo thông tin từ các cơ quan chức năng, "Hội thánh Đức Chúa Trời" có các đối tượng
cầm đầu, tổ chức giảng đạo. Các đối tượng được xem chủ chốt trong “Hội thánh Đức
Chúa Trời” thường lợi dụng danh nghĩa mở các văn phòng đại diện, thành lập công ty,
buôn bán hàng đa cấp, trung tâm từ thiện, nhân đạo trá hình... với mục đích là tuyên
truyền, phát triển tổ chức.
Dưới vỏ bọc là nhân viên như: gia sư, bán hàng online; kinh doanh, buôn bán các sản
phẩm hàng tiêu dùng như thiết bị điện, đồ gia dụng, máy lọc nước; tổ chức các hoạt động
từ thiện… các thành viên của “Hội thánh Đức Chúa trời” tìm cách tiếp cận người dân, sau
đó dò la tâm lý, nắm bắt sở thích, thói quen của từng người để dụ dỗ, lôi kéo. Khi đã có
danh sách các hội viên tiềm năng, các đối tượng này tiếp tục cử hội viên thường xuyên
gọi điện, gặp gỡ, chăm sóc và tuyên truyền đạo để lôi kéo hội viên tham gia.
Tín đồ được khuyên dành toàn bộ thời gian tham gia Hội, đóng góp 10% thu nhập nếu
điều này đúng thì tổ chức này đang hoạt động vì mục đích trục lợi. Hành vi này là hành vi
vi phạm pháp luật và có thể xem xét xử lý hình sự về Tội lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân theo Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tôn giáo này
cấm tuyệt đối việc tham gia tôn giáo, tín ngưỡng khác, ngay cả thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt
là tà đạo này khuyến khích người ta từ bỏ gia đình, sở thích, tiền bạc, tin vào sự cứu
chuộc của Đức Chúa Trời để được lên thiên đường sau khi chết...

Những đối tượng thường dễ bị lôi kéo

Đối tượng mà “Hội thánh Đức Chúa trời” thường lôi kéo chủ yếu là nhắm đến là những
người có hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật, những phụ nữ đơn thân, người gặp hoàn cảnh éo
le, chưa có công ăn việc làm ổn định, những người bất mãn trong cuộc sống… Sau khi
lân la làm quen, khéo léo tiếp cận tìm hiểu gia cảnh của từng người và đánh vào tâm lý
muốn thoát nghèo, thoát khổ, tâm lý “nhẹ dạ cả tin” của họ để rao giảng, lôi kéo họ tham
gia sinh hoạt và theo vào Hội.

Nạn nhân và hệ quả để lại:

Hội thánh này đã để lại những hệ lụy đáng sợ.

Ví dụ:Anh Đoàn Thế H. (SN 1986, trú thôn 2, xã Ngũ Lão, huyện Thuỷ Nguyên, Hải
Phòng) cho biết: Vợ anh sau khi sinh con được 3 tháng, vợ anh bế cả con đi mất tích, đi
tìm gần tháng trời mới thấy vợ con anh đang ở một ngôi nhà chật hẹp, bẩn thỉu với hàng
chục người khác. Khi về nhà, người vợ trong tình trạng như “người giời” cứ đơ đơ, rồi
nhân lúc anh đi vắng đã đập bỏ hết bát hương trên ban thờ. Mỗi ngày ngồi góc tối khoảng
2 tiếng chắp tay lẩm bẩm . Sau đó vợ anh lại tiếp tục bỏ đi trong khi đang mang bầu bé
thứ 2. Anh phải giả vờ nhập “Hội” và ở lại mấy ngày để tìm cách đưa vợ về nhà. Nhưng
điều đau xót nhất là vợ anh bị đau bụng mấy lần và được “trưởng nhóm” cho uống thứ
nước đen đen sắc bằng lá cây lạ để tẩy thai đi (vì theo Hội thì không được sinh con) kết
quả là cái thai chết lưu...

Và còn rất nhiều nạn nhân khác do Hội thánh này đã gây ra. Phần lớn người khi theo hội
thánh đều bỏ bê, chểnh mảng công việc làm ăn, vợ chồng mâu thuẫn, gia đình tan nát;
sinh viên, học sinh dang dở việc học hành. Chưa kể, họ còn xúi giục tín đồ đập bỏ bàn
thờ, bất kính cha mẹ, chỉ tin và thờ “Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ”.

Sau thời gian im hơi lặng tiếng thì mới đây trong 6/2023, “Hội Thánh Đức chúa trời”,
hay “Hội Thánh Đức chúa trời Mẹ” đã xuất hiện trở lại, gây hoang mang dư luận. Tại
Thanh Hóa, lực lượng Công an phát hiện giáo phái này có 500 người, ở 16 địa điểm khác
nhau.

Mặc dù đã được cơ quan công an, các cấp có thẩm quyền nhắc nhở, răn đe nhiều lần,
nhưng các đối tượng cầm đầu tổ chức này vẫn tiếp tục tổ chức các hoạt động tôn giáo trái
phép, thay đổi phương thức hoạt động, tiến hành lắp đặt hệ thống theo dõi trước nơi sinh
hoạt, không mở cửa cho người lạ. Khi lực lượng chức năng đến làm việc thì tìm các lý do
chối cãi.

Đưa ra nhận định về tôn giáo này

Mục sư Dương Văn Tuấn ở Hội Thánh Tin Lành Thanh Hóa cho hay: “Hội thánh Đức
Chúa Trời Mẹ là một tà giáo, có tác hại rất lớn đến an ninh xã hội. Họ mang danh “Hội
thánh của Đức chúa trời”, nhưng lại làm những việc trái với Kinh thánh, trái với lời của
Đức Chúa Trời. Hoạt động trái pháp luật nên những người đứng đầu không bao giờ lộ
diện, nếu gặp biến cố thì không dám đứng ra để chịu trách nhiệm hoặc bảo vệ tín đồ của
mình”.

Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ là một tổ chức hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại truyền
thống, tự tôn dân tộc, đi ngược đạo lý cổ truyền của người Việt Nam, tẩy chay truyền
thống, chống lại thuần phong mỹ tục, lợi ích quốc gia, dân tộc. Hoạt động dị giáo, trái
pháp luật này cần phải được ngăn chặn và loại bỏ.

Kết luận: Bộ Công an khẳng định, Hội Thánh Đức Chúa Trời là giáo phái chưa được
công nhận tại Việt Nam, hoạt động mang tính tà đạo, lợi dụng giáo lý để trục lợi cá nhân.

4.3. Thích Quảng Độ


+ Đầu tiên, ta đi tìm hiểu về bối cảnh Phật giáo Việt Nam và tiểu sử ông Thích Quảng
Độ.

Trước khi nói về ông Thích Quảng Độ, thì hãy nhìn lại bối cảnh của Phật giáo Việt Nam.
Khi đất nước chưa thống nhất, hai miền Nam - Bắc còn bị chia cắt thì miền Nam có hơn
30 hệ phái Phật giáo. Đến tháng 12/1963, tại Sài Gòn, 11 hệ phái hợp nhất với nhau để
cho ra đời Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN). Riêng miền Bắc, chỉ
có duy nhất Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (HPGTNVN).

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, năm 1980, một đoàn của HPGTNVN đã vào
miền Nam, gặp gỡ các tổ chức Phật giáo tại đây để bàn việc quy về một mối. Tiếp đó, từ
ngày 4 đến ngày 7/11/1981, Đại hội thống nhất Phật giáo toàn quốc đã được tổ chức tại
chùa Quán Sứ, Hà Nội rồi sau đó, lấy tên chính thống là Giáo hội Phật giáo Việt Nam
(GHPGVN), và khẳng định đây là tổ chức hợp pháp duy nhất, đại diện cho PGVN về mọi
mặt trong quan hệ trong và ngoài nước.

Hầu hết lãnh đạo các cấp của GHPGVNTN đều đã trở thành những người lãnh đạo của
GHPGVN. Có thể kể ra đây các hòa thượng: Thích Trí Thủ (là Viện trưởng Viện Hóa đạo
GHPGVNTN - sau khi thống nhất Phật giáo đã trở thành Chủ tịch Hội đồng trị sự
GHPGVN), Thích Thiện Siêu, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu, Thích Thanh Khiển,
Thích Đức Nghiệp... Cũng kể từ đó, GHPGVNTN trước kia không còn tồn tại.

Tuy nhiên, vẫn có một số vị tu hành đã không tham gia GHPGVN, trong đó có ông Thích
Quảng Độ mà lý do chủ yếu vẫn là không đạt được ý đồ nắm trọn quyền hành. Trong thời
gian diễn ra đại hội, ông Thích Quảng Độ liên tục vận động một số các vị tu hành khác,
dùng nhiều hình thức gây chia rẽ nhằm làm cho đại hội tan rã.
Theo tiểu sử, ông Quảng Độ tên thật là Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1928, sinh quán tại
huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, cư trú ở Thanh Minh Thiền Viện, số 90 đường Trần Huy
Liệu, phường 15, quận Phú Nhuận, TP HCM. Ngay từ khi còn trẻ, ông đã xuất gia nhưng
trong lòng lại mang nặng mối thù với cách mạng vì một số người thân của ông ta là tay
sai cho Pháp, bị Việt Minh xử lý.

+ Hành trình 30 năm của ông Thích Quảng Độ là một chuỗi những hành vi vu khống,
“nằm vạ”, hối lỗi, van xin và sáng nắng chiều mưa cũng như ngựa quen đường cũ, thay
đổi chính kiến ngay sau khi được khoan hồng.

Luôn luôn phạm tội, luôn luôn xin tha

Năm 1977, Thích Quảng Độ và một số người cùng phe nhóm có những hành vi chống
phá chính quyền và bị bắt.

Cuối năm 1978 ông ta bị đưa ra xét xử trước TAND TP.HCM. Trong một lá đơn viết tay
gửi các cơ quan tố tụng, ông ta nhận xét về bản thông tư 002 do mình soạn thảo và phát
tán trước đó là: “Ai đọc thông tư số 2 cũng phải sửng sốt kinh ngạc, cho rằng nội dung nó
mang tính chất một lời hiệu triệu kêu gọi Tăng Ni chống lại chính quyền cách mạng.
Chính bản thân tôi giờ nghĩ lại cũng phải cảm thấy hoảng sợ và ân hận... Tôi xin chính
quyền lượng xét khoan hồng tha thứ hoặc ân giảm tội trạng cho tôi để tôi còn có được cơ
hội hối cải....”

Năm 1995, Thích Quảng Độ lại cùng với một nhóm người thuộc phe cánh của mình âm
mưu phục hồi hoạt động của GHPGVNTN. Ông cho tay chân chuẩn bị một số tiền để đi
cứu trợ đồng bào lũ lụt. Chuyện sẽ rất đáng ghi nhận và hoan nghênh nếu ông Quảng Độ
làm điều đó với cái tâm trong sáng. Thế nhưng sự thật thì ngược lại.

Theo một bản khai viết tay ngày 6-1-1995, bị can Đặng Phúc Tuệ, tức Thích Quảng Độ
thừa nhận: “Mục đích của việc tổ chức cứu trợ là phục hồi hoạt động của GHPGVNTN,
đây là dịp rất tốt để cho quần chúng nhân dân và tăng ni Phật tử chú ý đến tổ chức
này...”. Khi bị ngăn chặn, ông Quảng Độ lại vu vạ trong một văn bản rằng công an đàn áp
những người cứu trợ, tiếng la khóc vang trời. Trong bản cung, ông cũng thừa nhận điều
này là vu khống.

Năm 1995, nhận định của chính ông ta về những văn bản đó: ”Đến nay tôi tự nhận thấy
việc phát tán, phổ biến những tài liệu do tôi viết ra đã dựa trên những thông tin của các
phần tử bất mãn, phần tử xấu nên có tác hại trong quần chúng nhân dân, gây chia rẽ giữa
nhân dân với chính quyền Nhà nước Việt Nam, làm giảm lòng tin của Phật tử với Giáo
hội, có hại đến khối đoàn kết toàn dân”.
Cũng như những lần trước, cuối bản khai, ông ta lại xin khoan hồng, hứa tìm một nơi yên
tĩnh để chuyên tâm dịch kinh kệ, đóng góp sức mình cho Phật giáo nước nhà.

Ông Quảng Độ bị phạt năm năm tù và năm năm quản chế về hai tội “phá hoại chính sách
đoàn kết” và “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tổ
chức xã hội”. Được khoan hồng, giảm án, ông Thích Quảng Độ lại tiếp tục những hành vi
trước đó. Ông quên rất nhanh những lời hứa của mình.

Nhân danh cái thiện

Ngày 17-7-2007, nhân cơ hội nhiều người dân khiếu kiện tập trung về trụ sở Vụ Công tác
phía Nam của Văn phòng Quốc hội tại số 194 Hoàng Văn Thụ, TP.HCM, Thích Quảng
Độ đã xem đây là một dịp để kích động chống phá chính quyền. Ông ta và Thích Minh
Nguyệt (một nhà sư có vợ, có chín người con và có bồ, đã bị cách chức trụ trì một ngôi
chùa nhỏ ở Tiền Giang) mang 300 triệu đồng (con số theo công bố của Quảng Độ, chưa
ai kiểm chứng) đến đây. Một tay cầm bó tiền, một tay cầm loa, Thích Quảng Độ đứng lên
nói xấu chính quyền và kích động người khiếu kiện.

Phàm truyền thống của người dân Việt, làm điều tốt không đợi hàm ơn, người nhà Phật
lại càng xem nhẹ sự khoa trương. Thế nhưng Quảng Độ mang tiền đến và không quên bố
trí người quay phim, chụp ảnh. Chỉ 30 phút sau khi ông ta rời nơi phát tiền, những thông
tin thổi phồng và thêm thắt và xuyên tạc đã được gửi cho Võ Văn Ái, Giám đốc trung tâm
thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris để tay này đưa lên mạng.

Thế nhưng dù ông Thích Quảng Độ đã dùng tiền để mua chuộc và kích động, người dân
vẫn tự nguyện giải tán sau khi được chính quyền tiếp xúc và phân tích. Ngày 18-7, những
người khiếu kiện đã lên xe về địa phương.

Không dừng lại ở đó, Thích Quảng Độ bày mưu khác. Ngày 23-8 ông ta cử Thích Không
Tánh mang 300 triệu đồng ra Hà Nội để kích động người dân khiếu kiện. Âm mưu này
không thành do bị chính quyền phát hiện.

Xâu chuỗi những gì ông Thích Quảng Độ đã làm trong những năm qua, có thể thấy rất rõ
một điều ông ta là kẻ cơ hội.

Từ chỗ là một Viện trưởng Viện Hóa đạo tự phong, không được cả Phật tử, Giáo hội và
chính quyền thừa nhận, ông Quảng Độ đã làm đủ trò để gây sự chú ý. Nhiều lần ông ta bị
xử lý về những hành vi bịa đặt, vu khống, chống phá chính quyền. Chính bản thân ông
nhiều lần thừa nhận hành vi sai trái, xin tha và hứa hẹn sẽ hối cải nhưng rồi ông lại nhanh
chóng nuốt lời.
Dù tự nhận mình luôn làm việc vì chánh pháp, vì sự lớn mạnh của Phật giáo nhưng Thích
Quảng Độ luôn làm những điều ngược lại.

Điều ông ta nói và làm là hai thái cực, như dân gian vẫn nói: “Khẩu Phật, tâm xà”.

5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo

5.1. Trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác tôn giáo.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công
tác tôn giáo. Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên trong hệ thống chính trị về công tác tôn giáo.

Hai là, tiếp tục triển khai thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án phát
triển KT-XH, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Ba là, nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo theo
quy định pháp luật. Cần nhận thức một cách sâu sắc về nội dung cốt lõi của công tác tôn
giáo là công tác vận động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào
các tôn giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gìn và phát huy những
truyền thống văn hóa của dân tộc, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với Nhân
dân, đồng thời chủ động đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn
giáo để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước,
lợi dụng, kích động chia rẽ Nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ lương- giáo, gây rối,
xâm phạm an ninh quốc gia.

Bốn là, tiếp tục đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động đồng bào giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa truyền thống dân tộc

Năm là, nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh liên quan đến tôn
giáo, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. không để các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; đấu
tranh, ngăn chặn kịp thời các âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng,
Nhà nước, đặc biệt là âm mưu lợi dụng đạo Tin lành để hoạt động tuyên truyền thành lập
"Nhà nước Mông".

5.2. Trách nhiệm sinh viên trong thực hiện quan điểm, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà Nước
Là sinh viên, chúng ta cần phải có trách nhiệm trong việc thực hiện những quan điểm,
chính sách về vấn đề tôn giáo của Đảng và Nhà nước, cụ thể như sau:

- Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân.


- Tôn trọng và thực hiện tốt các quan điểm, chính sách về vấn đề tôn giáo của Đảng
và Nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà Nước.
- Tôn trọng các tôn giáo, không kì thị, phân biệt đối xử với những người theo đạo.
Tìm cách xóa bỏ mặc cảm, định kiến, thường xuyên củng cố tình đoàn kết giữa
cánhân có đạo và không có đạo.
- Vận động, tuyên truyền trong nhân dân để mọi người cùng thực hiện.
- Không ủng hộ, xuyên tạc, gây kích động các tổ chức tôn giáo chống lại Nhà Nước.
- Không tham gia truyền đạo không được sự công nhận của Nhà Nước.
- Nếu phát hiện đối tượng gây kích động các tổ chức tôn giáo chống lại Nhà Nước
thì phải nhanh chóng báo cáo với tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
- Tôn trọng các tôn giáo có tư cách pháp nhân, bày trừ những tôn giáo tự phát.

III. Kết luận

Hầu hết các tôn giáo vẫn mang rất nhiều giá trị quan trọng thu hút một bộ phận đông đảo
quần chúng tham gia không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Các tôn giáo chỉ còn
mang giá trị văn hoá chứ không tham gia vào chính trị. Một số tôn giáo có sự biến đổi
liên tục nhanh chóng phù hợp với sự phù hợp về kinh tế xã hội. Tuy nhiên một số tôn
giáo ở vùng dân tộc đang bị các thế lực phản động sử dụng, đây là địa bàn khó kiểm soát
vì dân trí không cao và các thế lực thù địch có thể tuyên truyền sai lệch các quan điểm
của Đảng gây kích thích sự chia rẽ đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy việc tuyên truyền chính
sách mới của Đảng hiện nay rất quan trọng.

Ăng-ghen đã nói mọi sự phát triển không có định hướng đúng đều để lại phía sau một bãi
hoang mạc. Tôn giáo là một bộ phận trong xã hội loài người nó có một số mặt tốt, những
ưu điểm mà con người cần phát huy. Tuy nhiên, tôn giáo dường như sẽ mất dần đi chỗ
đứng của mình, điều đó là tất nhiên bởi theo quy luật của sự phát triển thì cái cũ sẽ bị
thay thế bởi cái mới phát triển hơn. Con người càng ngày càng phát triển và dưới sức
mạnh của khoa học công nghệ thì con người ngày nay đã có những nhận thức đầy đủ về
thế giới và họ có thể cải biến tự nhiên cũng như xã hội bằng khả năng và theo ý muốn của
mình.
Tài liệu tham khảo

1.2, 2.2 giáo trình - chủ nghĩa xã hội khoa học

2.1 Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo” | Tạp chí
Tuyên giáo.

3.1 Bê bối chùa Ba Vàng: Những chuyện đau lòng

3.2

1. Phòng an ninh nội địa. 22/05/2023. Hội thánh Đức Chúa Trời trở lại, những hệ lụy
đáng sợ. Truy cập 24/07/2023, từ

https://conganthanhhoa.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chong-dien-bien-hoa-binh/hoi-thanh-
duc-chua-troi-quay-tro-lai-nhung-he-luy-dang-so.html .

2. Đậu Thị Phương Anh. 29/06/2023. Cảnh giác với các hoạt động trở lại của “ Hội
thánh Đức Chúa Trời Mẹ”. Truy cập 24/07/2023, từ

https://binhphuoc.gov.vn/vi/snv/ton-giao/canh-giac-voi-cac-hoat-dong-tro-lai-cua-ho
i-thanh-duc-chua-troi-me-486.html .

3. Phan Dương - Lê Quang.10/07/2023. Nhận diện và cảnh giác về sự xuất hiện trở lại
của Hội Thánh Đức Chúa Trời. Truy cập 24/07/2023, từ

https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/-nhan-dien-va-canh-giac-ve-su-xuat-
hien-tro-lai-cua-hoi-thanh-duc-chua-troi-me-i699756/

4. Nguyễn Thị Phương.07/06/2023. Hội Thánh Đức Chúa Trời hoạt động có bị xử lý
hình sự. Truy cập 24/07/2023, từ

https://luatminhkhue.vn/hoi-thanh-duc-chua-troi-me-hoat-dong-co-bi-xu-ly-hinh-su.
aspx

3.3, https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/thich-quang-do-la-ai-200345.htm

https://tuoitre.vn/ban-chat-khau-phat-cua-ong-thich-quang-do-217992.htm

https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-su-pham-thanh-pho-ho-chi-minh/
quoc-phong/quan-diem-chinh-sach-ve-van-de-ton-giao-cua-dang-va-nha-nuoc-ta-hien-na
y-lien-he-den-trach-nhiem-cua-sinh-vien-hien-nay/23658444
https://stnmt.khanhhoa.gov.vn/noi-dung/id/5438/Duong-loi,-quan-diem,-chinh-sach,-phap
-luat-cua-Dang-va-Nha-nuoc-ve-tin-nguong,-ton-giao

https://vietnamembassy-usa.org/vi/hoat-dong/2001/04/chinh-sach-ton-giao-cua-dang-cs-v
a-nha-nuoc-viet-nam

Bùi Thị Nhung, Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề chính sách tôn giáo.
Truy cập ngày 30/07/2023.

https://luatminhkhue.vn/mot-so-giai-phap-nham-nang-cao-hieu-qua-van-de-chinh-sach-to
n-giao.aspx

Trách nhiệm của sinh viên trong vấn đề tôn giáo, truy cập ngày 30/07/2023.

https://biquyetxaynha.com/trach-nhiem-cua-sinh-vien-trong-van-de-ton-giao

You might also like