Professional Documents
Culture Documents
’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’01
TÔN GIÁO VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC SỰ KIỆN TÔN GIÁO
I. Mở đầu
Với tiến trình phát triển của lịch sử loài người, tôn giáo ra đời và trở thành một hiện
tượng xã hội. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới nhưng nhìn chung mọi tôn giáo
đều hướng tới con người với những giá trị tốt đẹp. Chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận
tuyệt đối tôn giáo mà dung hòa tôn giáo trong đời sống, chính trị, xã hội để phát triển.
Không những vậy, tôn giáo còn đóng vai trò nhất định trong đời sống tinh thần của con
người. Nhìn chung, mọi giáo lý của các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc.
Những triết lý ấy giúp cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với
bản thân, cộng đồng, với sự phát triển chung của toàn xã hội. Tôn giáo là sự tự do tín
ngưỡng của mỗi công dân, tuy nhiên là phải đi đôi với việc chấp hành pháp luật.
Bởi vì tôn giáo nằm trong một bộ phận cấu thành nên xã hội này nên cùng với sự thay đổi
của loài người mà tôn giáo cũng có những sự biến đổi dù là về nội dung hay là hình thức.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, chỉ có thể giải thích một cách khách quan
khoa học dựa trên những quan niệm của nền tảng triết học duy vật về lịch sử, cũng như
nhận thức duy vật khoa học. Tôn giáo là một hình thức phản ánh hư ảo, xuyên tạc đời
sống hiện thực và đã ra đời cách đây hàng chục nghìn năm nhưng ngày nay trước sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật trên thế giới, tôn giáo dường như vẫn có sự phát
triển đa dạng về hình thức và rộng lớn về quy mô. Vì vậy dường như không thể giải quyết
vấn đề tôn giáo một cách đơn thuần về mặt nhận thức xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, vấn đề tôn giáo hiện nay đã được
Đảng và Nhà nước ta xem xét, đánh giá lại trên quan điểm khách quan hơn, không xoá bỏ
một cách duy ý chí như trước nữa mà nhìn nhận trên quan điểm phát huy những mặt tích
cực, gạt bỏ những mặt tiêu cực trong các tôn giáo. đặc biệt là các chỉ thị về tôn giáo, hay
quan điểm của các tôn giáo hiện nay là: sống tốt đời đẹp đạo.
- Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn tồn tại và sẽ còn tồn tại lâu dài. Nguyên nhân chủ
yếu của tình hình đó là:
+ Tôn giáo cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đều có tính bảo thủ. Khi những
điều kiện kinh tế, xã hội sản sinh ra nó đã thay đổi nhưng bản thân nó biến đổi chậm hơn.
Vì vậy, tôn giáo tồn tại với tư cách là một sản phẩm của lịch sử để lại.
+ Bản thân chủ nghĩa xã hội vẫn chưa có khả năng khắc phục triệt để, ngay một lúc các
nguồn gốc làm phát sinh và duy trì sự tồn tại của tôn giáo.
+ Giáo lý và hoạt động tôn giáo có một số yếu tố phù hợp với xã hội. Đó là mặt đạo đức,
văn hóa của tôn giáo. Tôn giáo vẫn đang đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân.
+ Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu
hướng “đồng hành với dân tộc”, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa lòng dân
tộc”...
- Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo đã có những biến đổi cơ bản. Tín ngưỡng, tôn giáo tách
hẳn khỏi nhà nước và nhà trường, chỉ còn là công việc tôn giáo thuần túy. Nhà nước
không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo, niềm tin tôn giáo. Nhà nước tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các
tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng.
2.2. Những quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời
kỳ quá độ lên CNXH
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự biến đổi
trên nhiều mặt. Vì vậy, khi giải quyết các vấn đề đến tôn giáo, cần đảm bảo các nguyên
tắc sau:
Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng
liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự
do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng
việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người
dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội. được
quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi
đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc công dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do
tư tưởng của họ.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng là xuất phát từ việc tôn trọng quyền con người, thể hiện bản
chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp và
không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn
theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo và hoạt động tôn giáo bình
thường, các cơ sở thờ tự, các phương tiện phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng
của người dân được Nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ.
Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Nguyên tắc này để khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải quyết những
ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủ trương can
thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, muốn
thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ
ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy.
Mà điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức,
bất công, nghèo đói và thất học….cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là
một quá trình lâu dài và không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng; tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn
giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, tín ngưỡng tôn giáo chỉ biểu hiện thuần tuý về tư
tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp - chính trị ít nhiều đều
in rõ trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện và có mối
quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh mâu thuẫn
đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực lợi
dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động. Mặt tư
tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin, mức độ tin giữa những người có tín ngưỡng
tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như những người có tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo thực chất là phân biệt tính
chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn
đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ, trong đời sống xã hội,
hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong
tôn giáo thường đan xen vào nhau. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, vấn đề
tôn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị
hay tư tưởng thuần tuý trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh
khuynh hướng “tả” hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến
tín ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động
và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể.
Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã
hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh
vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ
thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và
đối với từng tôn giáo cụ thể
Hội này bắt đầu từ năm 1964, do ông Ahn Sahng-hong sáng lập.Theo số liệu do Hội
thánh này công bố, đến năm 2015 có trên dưới 2 triệu người tin theo, 2.500 Hội thánh
(trong đó Hàn Quốc có 400 Hội thánh), có mặt ở 175 quốc gia, Trụ sở chính đặt tại
Bundang, thành phố Seongnam, tỉnh Kyunggi, Hàn Quốc.
Những người đi theo hội này tin rằng Ahn Sahng-hong là chúa trời cha và bà Jang Gil-ja
(một nhà đồng sáng lập) là chúa trời mẹ. Điều này đã bị Hội đồng Quốc gia các Giáo hội
tại Hàn Quốc chính thức lên án hội này là báng bổ và dị giáo.
Hội Thánh Đức Chúa Trời du nhập vào Việt Nam từ năm 2001, hình thành điểm nhóm
đầu tiên tại TP Hồ Chí Minh vào khoảng năm 2005-2006, do Nguyễn Văn Hòa (truyền
đạo sư) phụ trách từ Đà Nẵng trở vào. Năm 2013, xuất hiện ở phía Bắc và rộ lên năm
2016 do ông Nguyễn Đình Tám (chấp sự) phụ trách từ Thừa Thiên-Huế trở ra.
Theo thông tin từ các cơ quan chức năng, "Hội thánh Đức Chúa Trời" có các đối tượng
cầm đầu, tổ chức giảng đạo. Các đối tượng được xem chủ chốt trong “Hội thánh Đức
Chúa Trời” thường lợi dụng danh nghĩa mở các văn phòng đại diện, thành lập công ty,
buôn bán hàng đa cấp, trung tâm từ thiện, nhân đạo trá hình... với mục đích là tuyên
truyền, phát triển tổ chức.
Dưới vỏ bọc là nhân viên như: gia sư, bán hàng online; kinh doanh, buôn bán các sản
phẩm hàng tiêu dùng như thiết bị điện, đồ gia dụng, máy lọc nước; tổ chức các hoạt động
từ thiện… các thành viên của “Hội thánh Đức Chúa trời” tìm cách tiếp cận người dân, sau
đó dò la tâm lý, nắm bắt sở thích, thói quen của từng người để dụ dỗ, lôi kéo. Khi đã có
danh sách các hội viên tiềm năng, các đối tượng này tiếp tục cử hội viên thường xuyên
gọi điện, gặp gỡ, chăm sóc và tuyên truyền đạo để lôi kéo hội viên tham gia.
Tín đồ được khuyên dành toàn bộ thời gian tham gia Hội, đóng góp 10% thu nhập nếu
điều này đúng thì tổ chức này đang hoạt động vì mục đích trục lợi. Hành vi này là hành vi
vi phạm pháp luật và có thể xem xét xử lý hình sự về Tội lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân theo Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tôn giáo này
cấm tuyệt đối việc tham gia tôn giáo, tín ngưỡng khác, ngay cả thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt
là tà đạo này khuyến khích người ta từ bỏ gia đình, sở thích, tiền bạc, tin vào sự cứu
chuộc của Đức Chúa Trời để được lên thiên đường sau khi chết...
Đối tượng mà “Hội thánh Đức Chúa trời” thường lôi kéo chủ yếu là nhắm đến là những
người có hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật, những phụ nữ đơn thân, người gặp hoàn cảnh éo
le, chưa có công ăn việc làm ổn định, những người bất mãn trong cuộc sống… Sau khi
lân la làm quen, khéo léo tiếp cận tìm hiểu gia cảnh của từng người và đánh vào tâm lý
muốn thoát nghèo, thoát khổ, tâm lý “nhẹ dạ cả tin” của họ để rao giảng, lôi kéo họ tham
gia sinh hoạt và theo vào Hội.
Ví dụ:Anh Đoàn Thế H. (SN 1986, trú thôn 2, xã Ngũ Lão, huyện Thuỷ Nguyên, Hải
Phòng) cho biết: Vợ anh sau khi sinh con được 3 tháng, vợ anh bế cả con đi mất tích, đi
tìm gần tháng trời mới thấy vợ con anh đang ở một ngôi nhà chật hẹp, bẩn thỉu với hàng
chục người khác. Khi về nhà, người vợ trong tình trạng như “người giời” cứ đơ đơ, rồi
nhân lúc anh đi vắng đã đập bỏ hết bát hương trên ban thờ. Mỗi ngày ngồi góc tối khoảng
2 tiếng chắp tay lẩm bẩm . Sau đó vợ anh lại tiếp tục bỏ đi trong khi đang mang bầu bé
thứ 2. Anh phải giả vờ nhập “Hội” và ở lại mấy ngày để tìm cách đưa vợ về nhà. Nhưng
điều đau xót nhất là vợ anh bị đau bụng mấy lần và được “trưởng nhóm” cho uống thứ
nước đen đen sắc bằng lá cây lạ để tẩy thai đi (vì theo Hội thì không được sinh con) kết
quả là cái thai chết lưu...
Và còn rất nhiều nạn nhân khác do Hội thánh này đã gây ra. Phần lớn người khi theo hội
thánh đều bỏ bê, chểnh mảng công việc làm ăn, vợ chồng mâu thuẫn, gia đình tan nát;
sinh viên, học sinh dang dở việc học hành. Chưa kể, họ còn xúi giục tín đồ đập bỏ bàn
thờ, bất kính cha mẹ, chỉ tin và thờ “Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ”.
Sau thời gian im hơi lặng tiếng thì mới đây trong 6/2023, “Hội Thánh Đức chúa trời”,
hay “Hội Thánh Đức chúa trời Mẹ” đã xuất hiện trở lại, gây hoang mang dư luận. Tại
Thanh Hóa, lực lượng Công an phát hiện giáo phái này có 500 người, ở 16 địa điểm khác
nhau.
Mặc dù đã được cơ quan công an, các cấp có thẩm quyền nhắc nhở, răn đe nhiều lần,
nhưng các đối tượng cầm đầu tổ chức này vẫn tiếp tục tổ chức các hoạt động tôn giáo trái
phép, thay đổi phương thức hoạt động, tiến hành lắp đặt hệ thống theo dõi trước nơi sinh
hoạt, không mở cửa cho người lạ. Khi lực lượng chức năng đến làm việc thì tìm các lý do
chối cãi.
Mục sư Dương Văn Tuấn ở Hội Thánh Tin Lành Thanh Hóa cho hay: “Hội thánh Đức
Chúa Trời Mẹ là một tà giáo, có tác hại rất lớn đến an ninh xã hội. Họ mang danh “Hội
thánh của Đức chúa trời”, nhưng lại làm những việc trái với Kinh thánh, trái với lời của
Đức Chúa Trời. Hoạt động trái pháp luật nên những người đứng đầu không bao giờ lộ
diện, nếu gặp biến cố thì không dám đứng ra để chịu trách nhiệm hoặc bảo vệ tín đồ của
mình”.
Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ là một tổ chức hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại truyền
thống, tự tôn dân tộc, đi ngược đạo lý cổ truyền của người Việt Nam, tẩy chay truyền
thống, chống lại thuần phong mỹ tục, lợi ích quốc gia, dân tộc. Hoạt động dị giáo, trái
pháp luật này cần phải được ngăn chặn và loại bỏ.
Kết luận: Bộ Công an khẳng định, Hội Thánh Đức Chúa Trời là giáo phái chưa được
công nhận tại Việt Nam, hoạt động mang tính tà đạo, lợi dụng giáo lý để trục lợi cá nhân.
Trước khi nói về ông Thích Quảng Độ, thì hãy nhìn lại bối cảnh của Phật giáo Việt Nam.
Khi đất nước chưa thống nhất, hai miền Nam - Bắc còn bị chia cắt thì miền Nam có hơn
30 hệ phái Phật giáo. Đến tháng 12/1963, tại Sài Gòn, 11 hệ phái hợp nhất với nhau để
cho ra đời Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN). Riêng miền Bắc, chỉ
có duy nhất Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (HPGTNVN).
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, năm 1980, một đoàn của HPGTNVN đã vào
miền Nam, gặp gỡ các tổ chức Phật giáo tại đây để bàn việc quy về một mối. Tiếp đó, từ
ngày 4 đến ngày 7/11/1981, Đại hội thống nhất Phật giáo toàn quốc đã được tổ chức tại
chùa Quán Sứ, Hà Nội rồi sau đó, lấy tên chính thống là Giáo hội Phật giáo Việt Nam
(GHPGVN), và khẳng định đây là tổ chức hợp pháp duy nhất, đại diện cho PGVN về mọi
mặt trong quan hệ trong và ngoài nước.
Hầu hết lãnh đạo các cấp của GHPGVNTN đều đã trở thành những người lãnh đạo của
GHPGVN. Có thể kể ra đây các hòa thượng: Thích Trí Thủ (là Viện trưởng Viện Hóa đạo
GHPGVNTN - sau khi thống nhất Phật giáo đã trở thành Chủ tịch Hội đồng trị sự
GHPGVN), Thích Thiện Siêu, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu, Thích Thanh Khiển,
Thích Đức Nghiệp... Cũng kể từ đó, GHPGVNTN trước kia không còn tồn tại.
Tuy nhiên, vẫn có một số vị tu hành đã không tham gia GHPGVN, trong đó có ông Thích
Quảng Độ mà lý do chủ yếu vẫn là không đạt được ý đồ nắm trọn quyền hành. Trong thời
gian diễn ra đại hội, ông Thích Quảng Độ liên tục vận động một số các vị tu hành khác,
dùng nhiều hình thức gây chia rẽ nhằm làm cho đại hội tan rã.
Theo tiểu sử, ông Quảng Độ tên thật là Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1928, sinh quán tại
huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, cư trú ở Thanh Minh Thiền Viện, số 90 đường Trần Huy
Liệu, phường 15, quận Phú Nhuận, TP HCM. Ngay từ khi còn trẻ, ông đã xuất gia nhưng
trong lòng lại mang nặng mối thù với cách mạng vì một số người thân của ông ta là tay
sai cho Pháp, bị Việt Minh xử lý.
+ Hành trình 30 năm của ông Thích Quảng Độ là một chuỗi những hành vi vu khống,
“nằm vạ”, hối lỗi, van xin và sáng nắng chiều mưa cũng như ngựa quen đường cũ, thay
đổi chính kiến ngay sau khi được khoan hồng.
Năm 1977, Thích Quảng Độ và một số người cùng phe nhóm có những hành vi chống
phá chính quyền và bị bắt.
Cuối năm 1978 ông ta bị đưa ra xét xử trước TAND TP.HCM. Trong một lá đơn viết tay
gửi các cơ quan tố tụng, ông ta nhận xét về bản thông tư 002 do mình soạn thảo và phát
tán trước đó là: “Ai đọc thông tư số 2 cũng phải sửng sốt kinh ngạc, cho rằng nội dung nó
mang tính chất một lời hiệu triệu kêu gọi Tăng Ni chống lại chính quyền cách mạng.
Chính bản thân tôi giờ nghĩ lại cũng phải cảm thấy hoảng sợ và ân hận... Tôi xin chính
quyền lượng xét khoan hồng tha thứ hoặc ân giảm tội trạng cho tôi để tôi còn có được cơ
hội hối cải....”
Năm 1995, Thích Quảng Độ lại cùng với một nhóm người thuộc phe cánh của mình âm
mưu phục hồi hoạt động của GHPGVNTN. Ông cho tay chân chuẩn bị một số tiền để đi
cứu trợ đồng bào lũ lụt. Chuyện sẽ rất đáng ghi nhận và hoan nghênh nếu ông Quảng Độ
làm điều đó với cái tâm trong sáng. Thế nhưng sự thật thì ngược lại.
Theo một bản khai viết tay ngày 6-1-1995, bị can Đặng Phúc Tuệ, tức Thích Quảng Độ
thừa nhận: “Mục đích của việc tổ chức cứu trợ là phục hồi hoạt động của GHPGVNTN,
đây là dịp rất tốt để cho quần chúng nhân dân và tăng ni Phật tử chú ý đến tổ chức
này...”. Khi bị ngăn chặn, ông Quảng Độ lại vu vạ trong một văn bản rằng công an đàn áp
những người cứu trợ, tiếng la khóc vang trời. Trong bản cung, ông cũng thừa nhận điều
này là vu khống.
Năm 1995, nhận định của chính ông ta về những văn bản đó: ”Đến nay tôi tự nhận thấy
việc phát tán, phổ biến những tài liệu do tôi viết ra đã dựa trên những thông tin của các
phần tử bất mãn, phần tử xấu nên có tác hại trong quần chúng nhân dân, gây chia rẽ giữa
nhân dân với chính quyền Nhà nước Việt Nam, làm giảm lòng tin của Phật tử với Giáo
hội, có hại đến khối đoàn kết toàn dân”.
Cũng như những lần trước, cuối bản khai, ông ta lại xin khoan hồng, hứa tìm một nơi yên
tĩnh để chuyên tâm dịch kinh kệ, đóng góp sức mình cho Phật giáo nước nhà.
Ông Quảng Độ bị phạt năm năm tù và năm năm quản chế về hai tội “phá hoại chính sách
đoàn kết” và “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tổ
chức xã hội”. Được khoan hồng, giảm án, ông Thích Quảng Độ lại tiếp tục những hành vi
trước đó. Ông quên rất nhanh những lời hứa của mình.
Ngày 17-7-2007, nhân cơ hội nhiều người dân khiếu kiện tập trung về trụ sở Vụ Công tác
phía Nam của Văn phòng Quốc hội tại số 194 Hoàng Văn Thụ, TP.HCM, Thích Quảng
Độ đã xem đây là một dịp để kích động chống phá chính quyền. Ông ta và Thích Minh
Nguyệt (một nhà sư có vợ, có chín người con và có bồ, đã bị cách chức trụ trì một ngôi
chùa nhỏ ở Tiền Giang) mang 300 triệu đồng (con số theo công bố của Quảng Độ, chưa
ai kiểm chứng) đến đây. Một tay cầm bó tiền, một tay cầm loa, Thích Quảng Độ đứng lên
nói xấu chính quyền và kích động người khiếu kiện.
Phàm truyền thống của người dân Việt, làm điều tốt không đợi hàm ơn, người nhà Phật
lại càng xem nhẹ sự khoa trương. Thế nhưng Quảng Độ mang tiền đến và không quên bố
trí người quay phim, chụp ảnh. Chỉ 30 phút sau khi ông ta rời nơi phát tiền, những thông
tin thổi phồng và thêm thắt và xuyên tạc đã được gửi cho Võ Văn Ái, Giám đốc trung tâm
thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris để tay này đưa lên mạng.
Thế nhưng dù ông Thích Quảng Độ đã dùng tiền để mua chuộc và kích động, người dân
vẫn tự nguyện giải tán sau khi được chính quyền tiếp xúc và phân tích. Ngày 18-7, những
người khiếu kiện đã lên xe về địa phương.
Không dừng lại ở đó, Thích Quảng Độ bày mưu khác. Ngày 23-8 ông ta cử Thích Không
Tánh mang 300 triệu đồng ra Hà Nội để kích động người dân khiếu kiện. Âm mưu này
không thành do bị chính quyền phát hiện.
Xâu chuỗi những gì ông Thích Quảng Độ đã làm trong những năm qua, có thể thấy rất rõ
một điều ông ta là kẻ cơ hội.
Từ chỗ là một Viện trưởng Viện Hóa đạo tự phong, không được cả Phật tử, Giáo hội và
chính quyền thừa nhận, ông Quảng Độ đã làm đủ trò để gây sự chú ý. Nhiều lần ông ta bị
xử lý về những hành vi bịa đặt, vu khống, chống phá chính quyền. Chính bản thân ông
nhiều lần thừa nhận hành vi sai trái, xin tha và hứa hẹn sẽ hối cải nhưng rồi ông lại nhanh
chóng nuốt lời.
Dù tự nhận mình luôn làm việc vì chánh pháp, vì sự lớn mạnh của Phật giáo nhưng Thích
Quảng Độ luôn làm những điều ngược lại.
Điều ông ta nói và làm là hai thái cực, như dân gian vẫn nói: “Khẩu Phật, tâm xà”.
5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo
5.1. Trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác tôn giáo.
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công
tác tôn giáo. Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên trong hệ thống chính trị về công tác tôn giáo.
Hai là, tiếp tục triển khai thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án phát
triển KT-XH, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Ba là, nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo theo
quy định pháp luật. Cần nhận thức một cách sâu sắc về nội dung cốt lõi của công tác tôn
giáo là công tác vận động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào
các tôn giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gìn và phát huy những
truyền thống văn hóa của dân tộc, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với Nhân
dân, đồng thời chủ động đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn
giáo để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước,
lợi dụng, kích động chia rẽ Nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ lương- giáo, gây rối,
xâm phạm an ninh quốc gia.
Bốn là, tiếp tục đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động đồng bào giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa truyền thống dân tộc
Năm là, nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh liên quan đến tôn
giáo, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. không để các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; đấu
tranh, ngăn chặn kịp thời các âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng,
Nhà nước, đặc biệt là âm mưu lợi dụng đạo Tin lành để hoạt động tuyên truyền thành lập
"Nhà nước Mông".
5.2. Trách nhiệm sinh viên trong thực hiện quan điểm, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà Nước
Là sinh viên, chúng ta cần phải có trách nhiệm trong việc thực hiện những quan điểm,
chính sách về vấn đề tôn giáo của Đảng và Nhà nước, cụ thể như sau:
Hầu hết các tôn giáo vẫn mang rất nhiều giá trị quan trọng thu hút một bộ phận đông đảo
quần chúng tham gia không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Các tôn giáo chỉ còn
mang giá trị văn hoá chứ không tham gia vào chính trị. Một số tôn giáo có sự biến đổi
liên tục nhanh chóng phù hợp với sự phù hợp về kinh tế xã hội. Tuy nhiên một số tôn
giáo ở vùng dân tộc đang bị các thế lực phản động sử dụng, đây là địa bàn khó kiểm soát
vì dân trí không cao và các thế lực thù địch có thể tuyên truyền sai lệch các quan điểm
của Đảng gây kích thích sự chia rẽ đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy việc tuyên truyền chính
sách mới của Đảng hiện nay rất quan trọng.
Ăng-ghen đã nói mọi sự phát triển không có định hướng đúng đều để lại phía sau một bãi
hoang mạc. Tôn giáo là một bộ phận trong xã hội loài người nó có một số mặt tốt, những
ưu điểm mà con người cần phát huy. Tuy nhiên, tôn giáo dường như sẽ mất dần đi chỗ
đứng của mình, điều đó là tất nhiên bởi theo quy luật của sự phát triển thì cái cũ sẽ bị
thay thế bởi cái mới phát triển hơn. Con người càng ngày càng phát triển và dưới sức
mạnh của khoa học công nghệ thì con người ngày nay đã có những nhận thức đầy đủ về
thế giới và họ có thể cải biến tự nhiên cũng như xã hội bằng khả năng và theo ý muốn của
mình.
Tài liệu tham khảo
2.1 Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo” | Tạp chí
Tuyên giáo.
3.2
1. Phòng an ninh nội địa. 22/05/2023. Hội thánh Đức Chúa Trời trở lại, những hệ lụy
đáng sợ. Truy cập 24/07/2023, từ
https://conganthanhhoa.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chong-dien-bien-hoa-binh/hoi-thanh-
duc-chua-troi-quay-tro-lai-nhung-he-luy-dang-so.html .
2. Đậu Thị Phương Anh. 29/06/2023. Cảnh giác với các hoạt động trở lại của “ Hội
thánh Đức Chúa Trời Mẹ”. Truy cập 24/07/2023, từ
https://binhphuoc.gov.vn/vi/snv/ton-giao/canh-giac-voi-cac-hoat-dong-tro-lai-cua-ho
i-thanh-duc-chua-troi-me-486.html .
3. Phan Dương - Lê Quang.10/07/2023. Nhận diện và cảnh giác về sự xuất hiện trở lại
của Hội Thánh Đức Chúa Trời. Truy cập 24/07/2023, từ
https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/-nhan-dien-va-canh-giac-ve-su-xuat-
hien-tro-lai-cua-hoi-thanh-duc-chua-troi-me-i699756/
4. Nguyễn Thị Phương.07/06/2023. Hội Thánh Đức Chúa Trời hoạt động có bị xử lý
hình sự. Truy cập 24/07/2023, từ
https://luatminhkhue.vn/hoi-thanh-duc-chua-troi-me-hoat-dong-co-bi-xu-ly-hinh-su.
aspx
3.3, https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/thich-quang-do-la-ai-200345.htm
https://tuoitre.vn/ban-chat-khau-phat-cua-ong-thich-quang-do-217992.htm
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-su-pham-thanh-pho-ho-chi-minh/
quoc-phong/quan-diem-chinh-sach-ve-van-de-ton-giao-cua-dang-va-nha-nuoc-ta-hien-na
y-lien-he-den-trach-nhiem-cua-sinh-vien-hien-nay/23658444
https://stnmt.khanhhoa.gov.vn/noi-dung/id/5438/Duong-loi,-quan-diem,-chinh-sach,-phap
-luat-cua-Dang-va-Nha-nuoc-ve-tin-nguong,-ton-giao
https://vietnamembassy-usa.org/vi/hoat-dong/2001/04/chinh-sach-ton-giao-cua-dang-cs-v
a-nha-nuoc-viet-nam
Bùi Thị Nhung, Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề chính sách tôn giáo.
Truy cập ngày 30/07/2023.
https://luatminhkhue.vn/mot-so-giai-phap-nham-nang-cao-hieu-qua-van-de-chinh-sach-to
n-giao.aspx
Trách nhiệm của sinh viên trong vấn đề tôn giáo, truy cập ngày 30/07/2023.
https://biquyetxaynha.com/trach-nhiem-cua-sinh-vien-trong-van-de-ton-giao