Professional Documents
Culture Documents
KHẢO SÁT HOẠT TÍNH SINH HỌC VÀ KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN
CỦA TINH DẦU TỪ CÂY SẢ CHANH Cymbopogon citratus
TRỒNG TẠI MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM
Nguyễn Thị Thanh Mai1*, Trần Bảo Trâm1, Đỗ Thị Kim
Trang1, Trần Văn Quảng1, Trương Thị Chiên1, Mai Thị
Đàm Linh2
Tóm tắt: Nghiên cứu này đã tiến hành khảo sát chất lượng và khả năng kháng
khuẩn của tinh dầu từ cây Sả chanh (Cymbopogon citratus) trồng tại một số tỉnh
miền Bắc Việt Nam như: Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định. Kết quả cho thấy hàm
lượng citral dao động từ 75,35 - 79,71% (thân Sả chanh) và 77,10 - 80,73% (lá Sả
chanh). Tinh dầu Sả chanh thu được có khả năng chống oxy hóa với hàm lượng
DPPH đạt 89,31% (thân Sả chanh) và 69,31% (lá Sả chanh). Hoạt tính kháng
khuẩn của tinh dầu Sả chanh được thực hiện bằng phương pháp khuếch tán trên
đĩa thạch, sử dụng 07 chủng vi sinh vật kiểm định: Enterococcus faecalis (ATCC-
33186), Shigella flexneri (ATCC- 12022), Escherichia coli (ATCC- 25922),
Streptococcus pneumoniae (ATCC- 49619), Staphylococcus aureus (ATCC-
25923), Salmonella typhi (ATCC- 14028), Klebsiella pneumoniae (ATCC-
70063). Theo thực nghiệm cho thấy rằng tinh dầu Sả chanh C. citratus có khả
năng ức chế sự phát triển của cả vi khuẩn Gram (-) và Gram (+). Trong đó đường
kính vòng kháng khuẩn E. faecalis, S. flexneri, E. coli, S. pneumoniae, S.
aureus và
K. pneumoniae,... của tinh dầu Sả chanh cao nhất đạt 20 mm (D-d, mm) và ở các
chủng vi khuẩn S. flexneri và S. pneumoniae là 20,5 mm. Tinh dầu Sả chanh
C. citratus trong các mẫu thu thập của thí nghiệm này trồng tại Hòa Bình có hoạt
tính sinh học và khả năng kháng khuẩn tốt và cao hơn so với tinh dầu Sả chanh
C. citratus trồng tại Hà Nam và Nam Định.
Từ khóa: Hoạt tính kháng khuẩn, Sả chanh, thành phần hóa học, tinh dầu.
1. MỞ ĐẦU
Sả chanh (Cymbopogon citratus) là một cây thuốc lâu năm thuộc họ Poaceae, phân
bố trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới (Wagdi et al.,
2017). Trong y học cổ truyền, Sả chanh có vị the, cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng làm
ra mồ hôi, sát khuẩn, chống viêm, thông tiểu, hạ khí, tiêu đờm (Đỗ Tất Lợi, 2006). Do đó,
Sả chanh được sử dụng trong y học cổ truyền như một loại thuốc kháng khuẩn, chống
viêm, ho, táo bón, tiêu chảy, cúm, sốt rét, đau dạ dày (Đỗ Tất Lợi, 2006). Thành phần hóa
học của tinh dầu Sả chanh rất khác nhau phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như đất trồng,
nhiệt độ, độ ẩm, khí hậu (Tajidin et al., 2012; Paviani et al., 2006), do đó, ảnh hưởng đến
chất lượng cũng như hoạt động kháng khuẩn của tinh dầu thu được. Mặc dù có sự khác
nhau trong thành phần chính của tinh dầu Sả chanh nhưng hàm lượng citral- một hoạt chất
chính của tinh dầu Sả chanh luôn dao động trong khoảng 30,0 - 93,76% (Negrelle &
1Trung tâm Sinh học thực nghiệm, Viện Ứng dụng Công nghệ
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
*Email: thanhmai193@yahoo.com
PHẦN II. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SINH HỌC PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ 681
HỘI
Gomes, 2007) và neral aldehyde (25 - 38%) - thành phần tạo mùi hương đặc trưng cho
tinh dầu Sả chanh (Vyshali et al., 2016).
Một trong những đặc tính ưu việt của tinh dầu Sả chanh là có khả năng kháng lại
một số vi sinh vật, đặc biệt là vi khuẩn gây bệnh. Việc sử dụng các loại tinh dầu và các
chất chiết từ thực vật để kiểm soát mầm bệnh là một xu hướng phát triển tất yếu phù hợp
với sự phát triển của xã hội hiện đại. Nhiều nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn và kháng
nấm của tinh dầu Sả chanh trên thế giới đã được công bố (Tatiana et al., 2017, Vyshali et
al., 2016). Tính kháng khuẩn của tinh dầu Sả chanh được chứng minh là do sự hiện diện
của một số hoạt chất như citral, phenol, terpen và aldoketone (Tatiana et al., 2017).
Để bắt kịp xu thế ứng dụng các sản phẩm nguồn gốc tự nhiên, thân thiện môi trường
và an toàn cho người sử dụng, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu xác định một số thành
phần hóa học chính, hàm lượng hoạt chất đặc trưng cũng như khả năng kháng một số vi
khuẩn gây bệnh của tinh dầu Sả chanh trồng tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam như: Hòa
Bình, Hà Nam và Nam Định từ đó đưa ra các kết quả so sánh chất lượng tinh dầu của các
vùng trồng Sả chanh khác nhau và đề xuất hướng ứng dụng tinh dầu sả trong các sản
phẩm dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm.
Hình 1. Khả năng quét gốc tự do của Hình 2. Khả năng quét gốc tự do của tinh
tinh dầu thân Sả chanh dầu lá Sả chanh
684 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT
NAM
Kết quả ở Hình 1 và Hình 2 cho thấy ở tất cả các nồng độ thí nghiệm tinh dầu Sả
chanh đều có khả năng quét gốc tự do cả ở thân và lá Sả chanh. Tuy nhiên, khả năng quét
gốc tự do đạt cao nhất 89,31% (thân Sả chanh) và 69,31% (lá Sả chanh) ở nồng độ tinh
dầu bão hòa. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả của Rao et al., 2009 cũng báo
cáo cho thấy rằng khả năng quét gốc tự do DPPH của tinh dầu Sả chanh là 85%. Qua đó,
cũng cho thấy khả năng quét gốc tự do trong tinh dầu ở thân và lá Sả chanh trồng tại Hòa
Bình cao hơn ở Hà Nam và Nam Định.
3.3. Hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu Sả chanh
Tiến hành nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu sả với 07 chủng vi khuẩn
kiểm định: E. faecalis, S. flexneri, E. coli, S. pneumoniae, S. aureus, S. typhi, K. pneumoniae.
Kết quả được thể hiện tại Bảng 2.
Bảng 2. Hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu Sả chanh
Đường kính vòng vô khuẩn D-d(mm)
Chủng vi SHB SHN SNĐ
khuẩn Thân Lá Thân Lá Thân Lá
ĐC1 14,4±0,81 14,4±0,81 14,4±0,81 14,4±0,81 14,4±0,81 14,4±0,81
ĐC2 18±0,95 18±0,95 18±0,95 18±0,95 18±0,95 18±0,95
E. faecalis 14±0,64 13±0,79 12±0,95 12±0,82 12±0,89 10±0,94
S. flexneri 20±0,58 17±0,84 18±0,90 15±0,99 17±1,21 15±0,90
E. coli 18±0,51 15±0,66 18±0,69 17±0,53 16±0,61 17±0,75
S. pneumoniae 20,5±0,97 19±1,03 19±0,97 17±1,15 - -
S. aureus 16,5±0,79 15±0,86 14±0,88 11±0,64 15±0,65 14±0,76
S. typhi - - - - - -
K. pneu 10±0,54 8±0,81 11±0,72 10±0,77 10±0,83 10±0,94
(-): Không có hoạt tính kháng khuẩn
Kết quả tại Bảng 2 cho thấy tinh dầu Sả chanh có khả năng ức chế sự phát triển của
06/07 chủng vi khuẩn kiểm định bao gồm E. faecalis, S. flexneri, E. coli, S.
pneumoniae,
S. aureus, K. pneumoniae, không có khả năng ức chế sự phát triển của S. typhi. Tinh dầu
SHB có khả năng ức chế mạnh nhất sự phát triển của 02 chủng vi khuẩn S. flexneri và
S. pneumoniae với đường kính vòng kháng khuẩn đạt 20 mm và 20,5 mm. Ở tinh dầu thân
Sả chanh và ở tinh dầu lá Sả chanh là 19 mm đối với vi khuẩn S. pneumoniae. Đặc biệt,
một số tinh dầu sả có khả năng kháng khuẩn cao hơn cả đối chứng - là chất kháng sinh
thường được dùng trong nhiều trị nhiễm khuẩn hiện nay (như đường kính vòng vô khuẩn
của SHB với vi khuẩn S. flexneri là 20 mm trong khi ở kháng sinh ampicilin chỉ là 18mm).
Nghiên cứu của Tatiana et al., 2017 cũng cho thấy rằng tinh dầu Sả chanh có khả năng ức
chế sự phát triển của V. cholera, S. paratyphi, E. coli, B. subtilus, S. aureus.
Các nghiên cứu trong và ngoài nước đã cho thấy khả năng kháng khuẩn của nhiều
loại tinh dầu sả khác nhau, kháng được vi khuẩn Gram âm, vi khuẩn Gram dương, nấm
men và nấm mốc (Tatiana et al., 2017, Vyshali et al., 2016). Kết quả cho thấy tiềm năng
ứng dụng của loại tinh dầu Sả chanh và thích hợp cho việc sản xuất các loại nước rửa tay
diệt khuẩn - một sản phẩm đang có nhu cầu rất lớn hiện nay.
PHẦN II. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SINH HỌC PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ 685
HỘI
4. KẾT LUẬN
Hàm lượng một số hoạt chất chính trong tinh dầu Sả chanh trồng tại Hòa Bình cao
hơn so với tinh dầu thu được từ Sả chanh trồng tại Hà Nam và Nam Định với hàm lượng
citral đạt 79,71% (thân) và 80,73% (lá).
Tinh dầu thu được cả ở thân và lá cây Sả chanh đều có khả năng quét gốc tự do với
hàm lượng DPPH đạt 89,31% (thân) và 69,31% (lá). Tinh dầu Sả chanh trồng tại Hòa Bình
có khả năng ức chế mạnh nhất sự phát triển của 02 chủng vi khuẩn S. flexneri và S.
pneumoniae với đường kính vòng vô khuẩn đạt 20 mm và 20,5 mm; đối với vi khuẩn S.
pneumoniae là 19 mm ở mẫu tinh dầu thân và lá Sả chanh. Tinh dầu Sả chanh có khả năng
kháng 06/07 chủng vi khuẩn kiểm định sử dụng bao gồm cả vi khuẩn Gram âm và Gram
dương.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được thực hiện với sự hỗ trợ về kinh phí từ nhiệm vụ
KH&CN cấp Bộ Khoa học và Công nghệ: “Đánh giá chất lượng tinh dầu sả thu hồi từ
các phương pháp chưng cất khác nhau”.