You are on page 1of 9

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ


MÔN: LÝ LUẬN CHUNG
VỀ NN & PL
ĐỀ BÀI: 09
Thông qua các bài viết: “Về khái niệm nguồn
của pháp luật” (Tạp chí Luật học, số 2/2008);
“Các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện
nay” của tác giả Nguyễn Thị Hồi (Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 12 (128) tháng
8/2008)…

HỌ VÀ TÊN : Nguyễn Bảo Hân


MSSV : 450335
LỚP : N02 – TL2
NHÓM : 01

Hà Nội, 2021
A. MỞ ĐẦU
Nguồn của pháp luật là một trong những khái niệm cơ bản của lý luận nhà
nước và pháp luật, và cũng là vấn đề gây nhiều tranh luận giữa các nhà khoa
học. Việc nghiên cứu nguồn của pháp luật có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to
lớn bởi xác định đầy đủ, chính xác và sử dụng đúng đắn các loại nguồn của
pháp luật sẽ góp phần tích cực vào công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật
và nâng cao hiệu quả của nó. Nước ta đang trong thời kì xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên việc đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật
luôn là vấn đề tiên quyết. Chính vì vậy việc nhận có nhận thức đầy đủ về các
loại nguồn của pháp luật là rất cần thiết để xây dựng hệ thống pháp luật hoàn
thiện và hạn chế những khiếm khuyết, sơ hở. Tuy nhiên tùy theo từng cách
quan niệm về nguồn và giá trị từng loại nguồn mà mỗi quốc gia có các loại
nguồn khác nhau, điều quan trọng là việc sử dụng các loại nguồn sao cho phù
hợp với điều kiện trong nước cũng như xu thế chung hội nhập. Vì vậy, để làm
rõ vấn đề trên, em đã lựa chọn chủ đề 9 trong danh mục bài tập học kỳ: “Khái
niệm về nguồn của pháp luật”.

B. NỘI DUNG
Câu 1: Tóm tắt nội dung bài viết “Về khái niệm nguồn của pháp luật” trong
khoảng 1200 từ (không quá 3 trang A4).
Nguồn của pháp luật là khái niệm cơ bản của lí luận về nhà nước và pháp
luật. Nghiên cứu nguồn của pháp luật giúp xác định đủ từ đó sử dụng đúng
đắn, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật. Tuy nhiên định
nghĩa và các quan niệm, quan điểm về nguồn của pháp luật còn chưa thống
nhất và đang gây rất nhiều tranh cãi giữa các học giả trong và ngoài nước.
Theo từ điển Black Law Dictionary, nguồn của pháp luật là “điểm khới
nguồn của pháp luật.” Nguồn của pháp luật trả lời cho câu hỏi “thẩm phán tìm
các quy định giải quyết vụ việc ở đâu?” Theo nghĩa này nguồn của pháp luật
gồm các đạo luật, án lệ, tập quán, quan điểm chuyên gia, đạo đức và luật công
bằng. Ở phạm vi nghiên cứu pháp lí, thuật ngữ nguồn của pháp luật nói tới ba
khái niệm: một là nguồn gốc của các khái niệm và tư tưởng pháp lí, hai là nói
tới cơ quan, tổ chức chính phủ đã tạo ra những quy định pháp luật, ba là các
quy định đã được công bố rõ ràng. Mọi cuốn sách, cơ sở dữ liệu, đĩa máy tính,
các phương tiện thông tin khác chứa đựng các thông tin về pháp luật là nguồn
pháp luật. Vậy theo từ điển này, nguồn của pháp luật là khái niệm rộng, được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Nghĩa hẹp chỉ những nơi có chứa đựng các
quy định mà thẩm phán có thể dựa vào để giải quyết vụ án thực tế. Theo
nghĩa rộng là nguồn gốc của các tư tưởng pháp lí, chủ thể có thẩm quyền ban
hành pháp luật. Các quy định, nơi chứa đựng quy định của pháp luật, hiệu lực
của các đạo luật, quyết định của tòa án.
Một số học giả Pháp cho rằng pháp luật có hai nguồn: nội dung và hình thức.
Nguồn nội dung là nguồn quan trọng nhất do là nguồn cơ bản, trả lời câu hỏi
tại sao lại ban hành quy phạm này, ấn định thời hạn, trật tự ưu tiên này?

1
Trong cuốn “Nhập môn luật học”, Jean- Claude Ricci viết đó là căn nguyên
pháp luật, các động cơ chính trị kinh tế xã hội tôn giáo, văn hóa, đạo đức.
Nguồn hình thức được Michel Mirally định nghĩa là các cách thức và văn
bản nơi các quy phạm có thể tồn tại về mặt pháp lí và phát huy hiệu lực (gồm
nguồn hình thức được thiết lập và các nguồn hình thức tự nhiên). Theo
nguyên tắc nguồn được thiết lập là nguồn mới- nguồn pháp luật và có hiệu lực
nhờ vào hình thức trình bày, được ban hành bởi cơ quan quyền lực có thẩm
quyền, có chế tài xử lí. Xác định nguồn này là xác định cơ quan ban hành ra
các quy phạm pháp luật có tính bắt buộc của nhà nước, luật xuất phát từ ai?
Ai có thẩm quyền xây dựng nên quy phạm pháp luật? Ai là tác giả của quy
phạm pháp luật? Đây là điểm phân biệt giữa nguồn hình thức được thiết lập là
nguồn với nguồn tự nhiên. Về mặt lí thuyết, các loại nguồn này có hạn chế
nhất định. Do được thiết lập nên có tính chất tương đối bất biến, tạo ra những
thiếu hụt, lỗ hổng nghiêm trọng không lường trước, gây khó phù hợp với
những thay đổi, phát triển không ngừng của thực tế, nhanh chóng khiến các
quy phạm trở nên lỗi thời hoặc mất hiệu lực tại một thời điểm nào đó.
Hans Kelsen - học giả người Đức cho rằng nguồn của pháp luật là khái niệm
không rõ ràng: Nguồn của pháp luật là những quy phạm chung của hiến pháp
và những quy phạm khác được ban hành phù hợp với hiến pháp. Kelsen chủ
yếu đề cập đến nguồn hình thức của pháp luật. Có hai phương pháp tạo nên
các quy phạm chung: một là sự ban hành sáng tạo có mục đích những quy
định bất thành văn được các bên chủ thể pháp luật tạo nên, hai là biểu thị cơ
sở pháp lí cơ bản của hệ thống pháp luật. Ở nghĩa rộng nhất, nguồn của pháp
luật biểu thị mọi quy phạm pháp luật cả chung và riêng, tức các quy phạm đặt
ra quyền hoặc nghĩa vụ pháp lí. Như vậy, quyết định của tòa án là nguồn của
1 nghĩa vụ đặc biệt. Song dẫn đến sự mơ hồ của cụm từ nguồn của pháp luật,
đặt ra vấn đề: Quy phạm chung nào là nguồn của quy phạm riêng?
Ở Việt Nam vấn đề nguồn của pháp luật được đề cập ở nhiều góc nhìn, mức
độ khác nhau. Nhiều người cho rằng khái niệm “hình thức pháp luật” và
“nguồn của pháp luật” là một. Trong một số sách, giáo trình pháp luật, hình
thức của pháp luật gồm hình thức bên trong (các nguyên tắc chung của pháp
luật, hệ thống pháp luật, chế định pháp luật, quy phạm pháp luật) và hình thức
bên ngoài (tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật, luật tôn
giáo hay học thuyết pháp lí). “Hình thức nội tại là kết cấu của những yếu tố
tạo thành nội dung pháp luật”. Hình thức bên ngoài là hình dạng bề ngoài
chứa đựng nội dung.
Trong sách chuyên khảo những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật,
hình thức bề ngoài (nguồn của pháp luật) gồm văn bản pháp luật, hiệp ước
quốc tế, tập quán và tục lệ, hợp đồng, luật tục, án lệ, quy định của tôn giáo,...
Một số học giả khác cho rằng tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm
pháp luật là hình thức của pháp luật - các quan niệm, cách thức mà giai cấp
thống trị sử dụng nâng ý chí của mình thành pháp luật. Đây là quan niệm cũ,
không hoàn toàn chính xác.

2
Có học giả cho rằng hai khái niệm “hình thức pháp luật” và “nguồn của pháp
luật” không hoàn toàn đồng nhất. Nguồn của pháp luật tiếp cận khác nhau cả
về lí luận và thực tiễn, “nguồn của pháp luật” được dùng trong giáo trình luật
chuyên ngành phổ biến, được hiểu là những văn bản quy phạm pháp luật chứ
đựng quy phạm pháp luật của ngành đó.
Có tác giả quan niệm hình thức bên ngoài là cái chứa đựng nội dung, quy tắc
pháp luật, hành vi theo ý chí nhà nước, còn gọi là nguồn của pháp luật. Quan
niệm này chỉ đề cập nguồn hình thức mà chưa đề cập nguồn nội dung. Cá biệt
có tác giả dùng thuật ngữ nguồn gốc của pháp luật (bao gồm nguồn của pháp
luật quốc nội và quốc tế) để chỉ nguồn của pháp luật.
Qua các quan điểm trên từ phương diện lí luận, pháp lí, thực tiễn, tác giả
Nguyễn Thị Hồi cho rằng nguồn và hình thức của pháp luật là các khái niệm
khác nhau, không thể đồng nhất. Nguồn của pháp luật chỉ những căn cứ mà
các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó xây dựng, ban hành, giải thích pháp
luật hay áp dụng để giải quyết vụ việc pháp lí thực tế. Vậy nguồn của pháp
luật bao gồm nguồn nội dung (xuất xứ, căn nguyên pháp luật, được các chủ
thể có thẩm quyền dựa vào xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật) và
nguồn hình thức. Các nguyên tắc chung của pháp luật cũng và nguồn của
pháp luật do các quy phạm pháp luật ban hành trên cơ sở và nội dung phù hợp
với yêu cầu nguyên tắc đó. Các điều ước quốc tế có thể trở thành nguồn nội
dung trong trường hợp văn bản đó nhằm nội luật hóa các điều ước quốc tế.
Các học thuyết khoa học pháp lí, nhu cầu quản lí kinh tế xã hội cũng là nguồn
nội dung của pháp luật.
Nguồn hình thức là phương thức tồn tại các quy phạm pháp luật trong thực
tế hay nơi chứa đựng các quy phạm pháp luật về giải quyết vụ việc pháp lí
trong thực tế. Trong giai đoạn phát triển của pháp luật, đa số các nhà nước
đều có nguồn hình thức cơ bản trên, ngoài ra còn có nguồn khác tùy mỗi nước
như: Hệ thống pháp luật Roman - Giecman có nguồn là luật, tập quán, thực
tiễn xét xử tòa án, học thuyết,... Nguồn pháp luật Anh gồm thực tiễn xét xử
tòa án, luật, tập quán, học thuyết lí trí,... Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay,
pháp luật đa số có các nguồn mới là tập quán và điều ước quốc tế mà nhà
nước công nhận, phê chuẩn.
Tóm lại, trong các công trình nghiên cứu luật học, các nguồn hình thức được
quan tâm nghiên cứu và đề cập nhiều hơn nguồn nội dung.

Câu 2: Cho biết quan điểm về nguồn của pháp luật của tác giả bài viết có
điểm gì giống và khác so với cách hiểu về nguồn của pháp luật mà em đã
được học trong môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
- Giống nhau:
+ Về cách đề cập vấn đề: Đưa ra một số quan niệm về nguồn của pháp luật ở
phần mở đầu: Chỉ đề cập đến vấn về nguồn của pháp luật trên phương diện
nguồn hình thức. Đều cho rằng các công trình nghiên cứu về luật học, các
nguồn hình thức được chú ý hơn nguồn nội dung.

3
+ Về quan niệm nguồn của pháp luật: Đều cho rằng có khá nhiều quan niệm
về nguồn của pháp luật. Thống nhất khái niệm nguồn của pháp luật dùng để
chỉ tất cả những gì mà các chủ thể có thẩm quyền có thể dựa vào đó để xây
dựng ban hành giải thích pháp luật cũng như giải thích các vụ việc đã xảy ra
trong thực tế. Nguồn nội dung là xuất xứ, căn nguyên, chất liệu làm nên các
quy định cụ thể của pháp luật.
+ Về cách phân chia các loại nguồn của pháp luật: 1 mặt đều chia nguồn pháp
luật thành hai loại nguồn nội dung và nguồn hình thức.
+ Về ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu về nguồn pháp luật: Dù có khá nhiều
quan điểm về nguồn của pháp luật nhưng tất cả đều có ý nghĩa to lớn cả về
mặt lí luận cũng như thực tiễn trong việc nghiên cứu các loại nguồn. Trong
hoạt động xây dựng pháp luật sẽ giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng
cơ sở pháp lí hướng dẫn cho các chủ thể cách xử sự. Trong hoạt động áp dụng
pháp luật sự dụng đa dạng linh hoạt các loại nguồn của pháp luật sẽ giúp bảo
vệ quyền và lợi ích cho chủ thể.

- Khác nhau:
+ Về hình thức thể hiện: Giáo trình đưa ra quan niệm về nguồn của pháp luật
ở Việt Nam. Tác giả Nguyễn Thị Hồi đưa ra quan niệm về nguồn của pháp
luật cả ở Việt Nam và thế giới.
+ Về mối liên hện giữa hình thức bên ngoài của pháp luật và nguồn của pháp
luật: Tác giả Nguyễn Thị Hồi không đồng ý với quan niệm đồng nhất nguồn
của pháp luật với hình thức pháp luật và hình thức bên ngoài là nguồn của
pháp luật, tác giả cho rằng quan niệm này chỉ đề cập nguồn hình thức mà
chưa đề cập nguồn nội dung. Tuy nhiên giáo trình môn lí luận cho rằng giữa
nguồn của pháp luật và hình thức bên ngoài có sự liên quan với nhau.
+ Về cách phân chia các loại nguồn của pháp luật: Giáo trình chia nguồn pháp
luật thành hai loại gồm nguồn cơ bản (văn bản quy phạm pháp luật, tập quán
pháp, tiền lệ pháp) và nguồn không cơ bản (điều ước quốc tế, đường lối chính
sách của lực lượng cầm quyền, tín điều tôn giáo,...) có giá trị bổ sung thay thế
khi các nguồn cơ bản không quy định hay bị hạn chế khiếm khuyết. Tác giả
Nguyễn Thị Hồi cho rằng có hai loại nguồn: nguồn hỗn hợp (các nguyên tắc
chung của pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế, quy
tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, phong tục tập quán) và nguồn nội dung
(đường lối, chính sách của Đảng, nhu cầu quản lý kinh tế – xã hội của đất
nước, các tư tưởng, học thuyết pháp lý)
Tác giả Nguyễn Thị Hồi cho rằng các nguyên tắc chung của pháp luật cũng
là nguồn của pháp luật do các quy phạm pháp luật sẽ được ban hành trên cơ
sở và có nội dung phù hợp với các nguyên tắc đó. Tác giả đưa ra định nghĩa
về nguồn hình thức là phương thức tồn tại của các quy phạm trong thực tế hay
nơi chưa đựng cung cấp các quy phạm pháp luật tức căn cứ mà chủ thể có
thẩm quyền giải quyết vụ việc pháp lí xảy ra trong thực tế.
Tùy theo từng cách hiểu mà có quan điểm như nguồn của pháp luật và hình
thức bên ngoài (phương thức tồn tại, yếu tố chứa đựng hoặc thể hiện nội
4
dung) có sự đồng nhất với nhau; hay lại có quan điểm rằng nguồn của pháp
luật có phạm vi rộng hơn hình thức bên ngoài của pháp luật.

Câu 3: Cho biết vị trí, vai trò của từng loại nguồn của pháp luật Việt Nam
hiện nay?
- Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL):
VBQPPL là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự,
thủ tục, hình thức do pháp luật quy định, trong đó chứa đựng các quy tắc xử
sự chung để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Hệ thống VBQPPL ở nước ta
đang dần hoàn thiện, góp phần đáng kể trong việc thể chế hóa chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước. Số lượng văn bản ban hành ra ngày càng
nhiều và chất lượng được bảo đảm, tạo hành lang pháp lí cho các hoạt động
của xã hội. Ngoài Hiến pháp là luật cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật ở
Việt Nam thường có tên gọi là luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư,... và được
chia thành 2 loại là văn bản luật và văn bản dưới luật. VBQPPL đã và đang
khẳng định vị trí là loại nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật Việt
Nam hiện nay. Đây được xem là hình thức tiến bộ nhất dễ dàng cho việc áp
dụng vào đời sống hoạt động của cá nhân, tổ chức, xã hội và cơ quan nhà
nước.

- Tập quán pháp:


Tập quán pháp được Việt Nam chính thức thừa nhận là một loại nguồn của
pháp luật từ năm 1995. Hiện nay tập quán pháp ngày càng được coi trọng sử
dụng. Những tập quán lưu truyền trong đời sống xã hội được nhà nước thừa
nhận có giá trị pháp lí và trở thành các quy tắc ứng xử mang tính bắt buộc đối
với xã hội.
Trong điều kiện hiện nay tập quán đóng vai trò là nguồn bổ sung cho các
văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục những lỗ hổng của pháp luật, khắc
phục tình trạng thiếu pháp luật. Đối với nhà nước: tập quán pháp đóng vai trò
quan trọng tạo nên hệ thống pháp luật của một quốc gia. Theo từ điển Black’s
Law, tập quán là “thực tế mà bằng sự thừa nhận chúng và lâu dài đối với nó,
thói quen không thay đổi đã trở thành hiệu lực như pháp luật”. Ví dụ: Điều 6
Luật Hôn nhân gia đình 2000 “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình những
phong tục tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những
nguyên tắc quy định tại luật này thì được tôn trọng và phát huy”. Đối với xã
hội: tập quán pháp thể hiện sự chấp nhận của nhà nước đối với một thói quen
ứng xử của cộng đồng, đó chính là sự thống nhất giữa ý chí nhà nước với ý
chí cộng đồng.

- Tiền lệ pháp (án lệ):


Nước ta chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law)
nên văn bản quy phạm pháp luật có vị trí cao với sự hiện diện của các luật, bộ
luật. Việc thừa nhận án lệ, áp dụng án lệ trong xét xử là thành quả bước đầu
của cải cách tư pháp. Nguồn gốc của tiền lệ pháp xuất phát từ thực tế xã hội,
5
tiền lệ pháp là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền khi giải
quyết các vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu
để giải quyết các vụ việc tương tự khác.
Tiền lệ pháp góp phần khắc phục những lỗ hổng, những điểm thiếu sót của
văn bản quy phạm pháp luật và chiếm vị trí khá quan trọng trong hoạt động
xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân. Biểu hiện của án lệ trong hoạt động xét
xử được thể hiện qua những bản tổng kết hướng dẫn nghiệp vụ xét xử hàng
năm của Tòa án nhân dân tối cao để hướng dẫn thống nhất áp dụng luật hoặc
tháo gỡ khó khăn trong quá trình xét xử đối với những trường hợp pháp luật
chưa dự liệu.

- Điều ước quốc tế:


Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, điều ước quốc tế là một
loại nguồn của pháp luật quan trọng. Vai trò của điều ước quốc tế được thể
hiện rõ trong các quy định được nêu trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
nước ta: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của văn bản thì tuân theo các
quy định của điều ước quốc tế đó”.

- Quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội:


Trong nhiều trường hợp quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội được pháp
luật dẫn chiếu làm căn cứ pháp lí để các chủ thể thực hiện hành vi thực tế.
Quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội có vai trò bổ sung hạn chế, khiếm
khuyết trong hệ thống pháp luật quốc gia.

- Hợp đồng:
Hợp đồng được pháp luật tôn trọng thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ
hợp đồng dân sự, thương mại,... Hợp đồng có vai trò thiết lập quan hệ giữa
các đối tác về nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực. Là một trong những văn bản làm
cơ sở pháp lý cho việc đăng kí các giao dịch khác nhau trong nhiều lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội.

- Pháp luật nước ngoài:


Trong điều kiện hiện nay, pháp luật nước ngoài được coi là một loại nguồn
của pháp luật Việt Nam. Pháp luật nước ngoài đem lại nhiều lợi ích về kinh
tế, pháp lý,... như đơn giản hóa, giảm chi phí luật trong quá trình thương mại
quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội cạnh tranh
công bằng trên thị trường,...

C. KẾT LUẬN
Trong các hoạt động nghiên cứu cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hiện
nay, vấn đề nguồn của pháp luật ngày càng cho thấy sự quan trọng của nó.
Tuy nhiên, vai trò của nguồn pháp luật sẽ không thực sự được đánh giá đúng
khi còn hiện tượng không thống nhất trong nhận thức về nguồn của pháp luật
6
có ảnh hưởng rất lớn đến việc giảng dạy và áp dụng pháp luật vào cuộc sống.
Do vậy, nhận thức đúng, đủ về nguồn pháp luật để có cơ sở khoa học góp
phần vào công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ biến các tri thức pháp lý cũng
như vận dụng các tri thức này vào cuộc sống trở nên rất cần thiết. Bài viết
hướng tới việc góp phần cho việc nhận thức thống nhất lý luận về nguồn pháp
luật, về vai trò của các nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong
điều kiện hội nhập quốc tế.

7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Lí luận Nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nbx. Tư pháp, 2017.
2. Nguyễn Thị Hồi, “Các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2008.
3. Vũ Công Giao, “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp
quyền”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, số 25/2009.
4. Nguyễn Thế Anh, “Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.

You might also like