You are on page 1of 6

BÀI DỰ 

THI
TÌM HIỂU PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Họ và tên người dự thi: Lê Thị Thanh Nhàn
Ngày tháng năm sinh: 09/05/1983
Số căn cước công dân (hoặc số CMT): 212189160
Địa chỉ: Thôn Thọ Lộc Bắc xã Tịnh Hà huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tịnh Sơn
Số điê ̣n thoại liên hê ̣: 0979199108
I. PHẦN THI TRẮC NGHIỆM

Câu hỏi Đáp án Câu hỏi Đáp án Câu hỏi Đáp án

Câu 1 A Câu 10 B Câu 19 C

Câu 2 D Câu 11 A Câu 20 C

Câu 3 B Câu 12 D Câu 21 B

Câu 4 D Câu 13 B Câu 22 A

Câu 5 D Câu 14 C Câu 23 D

Câu 6 D Câu 15 C Câu 24 D

Câu 7 D Câu 16 D Câu 25 D

Câu 8 B Câu 17 D

Câu 9 D Câu 18 A

II. PHẦN TỰ LUẬN


Anh (chị) hãy trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay?
Trả lời:

Trang 1
Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng

Tham nhũng không phải là hiện tượng mới xuất hiện. Nó ra đời và gắn liền
với sự tồn tại, phát triển của nhà nước. Tham nhũng thực ra là một căn bệnh cố hữu
của nhà nước. Mỗi khi đội ngũ cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất, quyền lực
nhà nước bị tha hóa thì những kẻ tham nhũng trở thành thế lực thao túng đời sống
xã hội. Cho đến nay, trên toàn thế giới, chưa phát hiện được quốc gia nào không có
tham nhũng. Nghĩa là, nó đang hiện diện ở mọi quốc gia không phân biệt sắc tộc,
văn hóa và chế độ xã hội. Tuy nhiên, tính chất, mức độ, loại hình tham nhũng ở
mỗi quốc gia, mỗi khu vực là rất khác nhau và phụ thuộc vào những điều kiện kinh
tế, văn hóa, xã hội và chế độ chính trị.
Tham nhũng dù tiếp cận dưới góc độ nào thì vẫn là hành vi bất hợp pháp của
người có trọng trách trong bộ máy công quyền nhằm trục lợi cá nhân. Rõ ràng, chủ
thể tham nhũng phải là người có chức, có quyền, có vị thế trong hệ thống quyền lực
công; mục đích tham nhũng là nhằm mang lại lợi ích cho bản thân; hành vi tham
nhũng là lợi dụng vị thế, quyền lực của mình để nhận hối lộ, đưa hối lộ, tham ô,
chiếm đoạt hay sử dụng trái phép tài sản chung, gây ảnh hưởng, tạo áp lực, nhũng
nhiễu, cửa quyền, bao che, cản trở, can thiệp...
Với mục đích và hành vi như thế, tham nhũng gây ra những hậu quả hết sức
nghiêm trọng cho mọi quốc gia không chỉ về kinh tế, đạo đức mà còn cả về chính
trị, xã hội, an ninh; nhất là những nước nghèo. Vì vậy, nhiều quốc gia coi tham
nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm, một quốc nạn trực tiếp tàn phá sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, gây mất ổn định xã hội, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ mới, Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã quan tâm nhiều tới công tác phòng, chống tham nhũng và lãng phí.
Vì vậy, trong nhiều thập niên, tệ tham nhũng chưa trở thành mối lo của xã hội ta.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, tham nhũng đang trở thành nỗi bức xúc của toàn xã
hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn của Quốc hội, tại các
kỳ đại hội Đảng các cấp, nhiều người đã chỉ rõ sự phổ biến của tệ tham nhũng và
phê phán gay gắt tệ tham nhũng, gọi tham nhũng là quốc nạn.
Nhận thức đúng những nguy cơ dẫn đến làm mất niềm tin của nhân dân, bất
ổn định xã hội và đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, kịp thời phản
ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân, Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng vạch

Trang 2
rõ: “Hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hết sức quan tâm đến cuộc đấu
tranh chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài gây bất
bình trong nhân dân và là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng
cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng
trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung
ương đến cơ sở... Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán
bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để
tham nhũng”, và “Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về
trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; khen
thưởng người phát hiện đúng những vụ tham nhũng”.
Triển khai những tư tưởng quan trọng của Đại hội IX của Đảng về chống tham
nhũng, kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Phòng, chống tham
nhũng vào ngày 29-11-2005, được Chủ tịch nước ký Lệnh và có hiệu lực từ ngày 1-
6-2006. Luật Phòng, chống tham nhũng gồm 8 chương với 92 điều. Đây là bộ luật
khá toàn diện, đầy đủ các khía cạnh pháp luật xung quanh vấn đề phòng, chống
tham nhũng ở nước ta; đồng thời, đã thể hiện được những tư tưởng cơ bản và quyết
tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta.
Mặc dù, công tác phòng, chống tham nhũng đã có sự chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước và sự quan tâm của toàn xã hội nhưng tình trạng tham nhũng vẫn chưa được
ngăn chặn, không giảm mà có xu hướng tăng. Đặc biệt, một loạt vụ án tham nhũng
lớn được công luận phát hiện chưa được điều tra và xét xử kịp thời... Trước thực
trạng đó, dư luận trở nên hết sức bức xúc và hoài nghi. Nhiều ý kiến cho rằng,
chống tham nhũng chủ yếu mang tính hình thức, trên giấy tờ, trong các cuộc họp,
hô hào khẩu hiệu; xử lý tham nhũng thiếu nghiêm minh, bao che, chạy tội, nể nang,
mang tính nội bộ, không công khai, không minh bạch, không bình đẳng; thậm chí,
còn có “vùng cấm”, “vùng an toàn” cho “quan tham”...
Trước thực trạng cấp bách đó, Đại hội X (tháng 4-2006) của Đảng chỉ
rõ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức
xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy
lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ
lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta...
Sắp tới, phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp
phòng, chống tham nhũng, lãng phí,... Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực
hiện Luật Phòng, chống tham nhũng...; bổ sung, sửa đổi Luật Khiếu nại và tố cáo.
Trang 3
Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng bất kể ở chức vụ
nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham
nhũng; những người bao che cho tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham
nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ; có cơ chế khuyến
khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực”. Đại
hội X khẳng định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ
trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc
tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục,
có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Đảng, Nhà nước và toàn xã hội”.
Cụ thể hóa những tư tưởng quan trọng của Đại hội X về phòng, chống tham
nhũng, Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) đã tập trung thảo luận và ra Nghị quyết Về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí. Hội nghị nhận định: “... cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn
nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra
nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất
phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một
trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Hội nghị chỉ rõ 4
nguyên nhân dẫn đến những yếu kém này; nêu rõ mục tiêu của phòng, chống tham
nhũng là: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển
biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng
tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán
bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”. Đồng thời, Hội nghị cũng nêu rõ 5 quan điểm
chỉ đạo và 10 chủ trương, giải pháp lớn nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí bước vào giai đoạn mới quyết liệt và triệt để hơn.
Hiện thực hóa những tư tưởng cơ bản của Đại hội X và triển khai Nghị quyết
Trung ương 3 về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, ngày 28-8-2006, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1039/2006/NQ-UBTVQHXI về
tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương
về phòng, chống tham nhũng và Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
1009/2006 về nhân sự Ban Chỉ đạo. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm
Trưởng ban, Phó Thủ tướng là Phó trưởng ban và các ủy viên gồm: Chánh Văn
phòng Ban Chỉ đạo (thường trực), Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công
an, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,

Trang 4
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương,
Phó Ban Nội chính Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tiếp đó, ngày 22-9-2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số
107/2006, quy định xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi
để xảy ra tham nhũng trong đơn vị do mình quản lý, phụ trách; ngày 5-10-2006, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1046/2006/NQ-UBTVQH XI
phê chuẩn Quyết định số 121/QĐ-VKSNDTC/V9 của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao về việc thành lập các đơn vị mới của Viện, trong đó có Vụ Thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng; ngày 31-10-2006, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1424/QĐ-TTg thành lập Cục Chống tham
nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ; ngày 13-11-2006, Bộ trưởng Bộ Công an đã ký
Quyết định số 1816 thành lập Cục Cảnh sát điều tra tội phạm tham nhũng; ngày 1-
2-2007, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã công bố Quyết
định số 13/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Văn phòng Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng...
Các tư tưởng chỉ đạo và sự triển khai công tác phòng, chống tham nhũng như
nêu trên đã thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù công
tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng tình
trạng tham nhũng vẫn mang tính phổ biến trong đời sống xã hội với rất nhiều biểu
hiện khác nhau. Nhiều vụ án lớn gây chấn động xã hội không được xử lý nghiêm
minh, dứt điểm đã gây nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân. Những vụ khiếu kiện
đông người, kéo dài chủ yếu là do người dân bức xúc bởi sự không công khai, minh
bạch và có dấu hiệu tham nhũng liên quan đến đất đai của một bộ phận không nhỏ
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương mà chỉ có rất ít người bị xử lý kỷ luật; thậm
chí, có người còn được thuyên chuyển công tác với chức vụ và quyền lực cao hơn.
Tệ tham nhũng đã có nhiều biến thái tinh vi khác thường, nó không chỉ dừng lại ở
biến tài sản công thành tài sản tư, không chỉ đơn thuần ở nhận và đưa hối lộ mà còn
ở sự tham nhũng cả địa vị, chức vụ, quyền lực, vị thế, cơ hội và liên kết tạo lập, bảo
vệ lợi ích nhóm. Sự biến hóa và phổ biến của tham nhũng trong xã hội ta thời gian
qua đã không chỉ thực sự gây bức xúc trong xã hội mà còn tạo ra nỗi bất bình và
thất vọng của không ít người.
Nhận thức đúng tình trạng tham nhũng và thẳng thắn chỉ rõ thực trạng công
tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI (tháng 1-2011), Đảng ta chỉ rõ: “Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt
Trang 5
được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với
những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã
hội”. Đại hội xác nhận tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí là nghiêm trọng; đồng thời cảnh báo “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân
dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế
độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.

Tịnh Sơn, ngày 25 tháng 9 năm 2021


NGƯỜI VIẾT BÀI DỰ THI

Lê Thị Thanh Nhàn

Trang 6

You might also like