You are on page 1of 95

NĂNG LỰC 

TRÍ TUỆ
Những Lời Dạy Căn Bản Của Phật Giáo
Nguyên tác: WISDOM ENERGY, BASIC BUDDHIST TEACHINGS
Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche - Vô Huệ Nguyên dịch
Wisdom Publications xuất bản

 Mục Lục

 Giới Thiệu
 Chương một : Bước vào con đường tâm linh

 1. Mục đích của thiền định


 2. Để tiến tới việc nghiên cứu Phật Pháp
 3. Tìm hiểu nguyên nhân của bất hạnh
 4. Vọng tâm phát sinh như thế nào
 5. Tìm hiểu đau khổ và kiểm soát tâm

 Chương hai : Thiền định

 1. Ba khía cạnh chính của con đường dẫn đến giác ngộ


 2. Áp dụng Đạo Pháp vào đời sống thường ngày
 Phụ Lục của người dịch: Thơ của Milarepa

  Giới Thiệu

 Tôi rất vui vì nhà xuất bản Wisdom đã quyết định đánh dấu 25 năm kỷ niệm quyển
sách Năng Lực Trí Tuệ của Lama Thubten Yeshe và Lama Zopa Rinpoche bằng cách cho
tái bản quyển này, một quyển sách quan trọng giới thiệu quan điểm và cách thực
hành Phật giáo. Đã có rất nhiều thay đổi trong một phần tư thế kỷ qua từ khi quyển sách
này ra đời, nhưng những nhu cầu căn bản của con người về chiều hướng khai phá vẫn
không thay đổi, nói lên sự quan tâm bây giờ vẫn như ngày xưa.

 Vào cuối thập niên sáu mươi đầu thập niên bảy mươi ở Nepal và Ấn độ, hai thầy bắt đầu
dạy người Tây phương, một số học trò của các ngài là những người đã rời bỏ xã hội nơi họ
đã sinh trưởng. Có rất nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chính là vì chiến tranh Đông
Dương, đã làm cho họ chán ghét quyền lực xã hội, chính trị và tôn giáo. Những phong
trào híp-pi đã hướng về Kathmandu, Dharamsala và những nơi tương tự, họ được kích
thích bởi những tư tưởng của Ram Dass Ở Đây Bây Giờ, Hermann Hesse Hành Trình về
Phương Đông, Đức Phật (Câu chuyện dòng sông, DG) và đặc biệt là cuốn chuyện tâng bốc
người Tây Tạng của Lobsang Rampa. Một số không nhỏ trong thành phần này đã kinh
nghiệm được thế nào là ảnh hưởng của ma túy. Bị vỡ mộng về những huyền thoại xa xưa
giầu có và chủ nghĩa duy vật, họ muốn đi tìm cái gì chân thật sâu xa hơn.

 Bằng nhiều cách, một số phần tử trong nhóm này đã làm những cuộc hành trình qua Hy
Mã Lạp Sơn, tại đây họ đã chạm trán với hai người khác thường. Mặc dầu mang
một truyền thống hoàn toàn khác biệt với những người trẻ mới tới, Lama Yeshe và Lama
Zopa Rinpoche – một là người Tây Tạng một là người Sherpa (vùng biên giới Tây Tạng)-
đã tiếp đón họ rất thân thiện và chứng tỏ một khả năng đặc biệt với nhóm người đa dạng đi
tìm tâm linh này. Mặc dù với một khả năng Anh ngữ nghèo nàn – như Lama thường nói-
hai ngài đã tiếp xúc trực tiếp với họ một cách rất thân thiện, bỏ qua mọi khác biệt văn
hóa, ngôn ngữ và những lời dậy bảo của các ngài đã đánh thức tận thâm sâu trái tim họ.

 Một cá tính nổi bật trong sự thân thiết của các ngài – bên cạnh những đức tính nhiệt tình
và cởi mở - là không khinh thường, không coi họ như những người xa lạ, người ngoại quốc
tới tham khảo, học hỏi về tâm linh. Các ngài không đòi hỏi họ phải tôn kính các ngài như
những vị đạo sư, thánh sư, và thường nhắc đệ tử bỏ đi cái khuynh hướng tôn sùng các
ngài như những nguồn giải thoát không thể sai lầm. Lama Yeshe đặc biệt nhắc đi nhắc lại
rằng tất cả những câu trả lời, tất cả giải đáp cho những gì chúng ta đang tìm kiếm đã có
sẵn trong mỗi người chúng ta; chúng ta chỉ cần tự giải thoát chính mình khỏi những thói
quen vọng tưởng, những ham muốn điên khùng vô nghĩa trong đời và hãy lắng nghe tiếng
nói trí tuệ sâu thẳm ở bên trong.

 Dĩ nhiên các vị lạt ma đã tin tưởng sâu xa, vững chắc vào những phương pháp toàn


thiện mà các ngài đã thực tập từ rất nhỏ, nhưng thay vì đòi hỏi họ phải chấp nhận Phật
pháp như những chân lý không thể bắt bẻ, không được thắc mắc thì các ngài lại khuyến
khích những người nghe nên thực tế và hãy khám nghiệm thái độ của họ về sự bất mãn, về
sự chỉ trích phê bình của họ. Do đó, thay vì cảm thấy bị truyền đạo, bị thúc giục chấp
nhận một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng cũ, họ cảm thấy đang đứng bên cạnh một
người bạn tâm linh nói những lời thông minh chân thật và sẵn sàng hướng dẫn họ trên
cuộc hành trình tâm linh cá biệt.

 Lama Yeshe thường nhấn mạnh, một trong những trở ngại lớn nhất ngăn cản chúng
ta không tiếp xúc được với nguồn trí tuệ nội tâm là thái độ tự thương thân trách phận
của chúng ta, quan niệm sai lầm rằng chúng ta là những người bất toàn, tội lỗi, không đáng
được hưởng hạnh phúc lâu dài. Ngài nhận định đây là căn bệnh trầm trọng của hầu hết
những học trò mới đến, nên ngài đã dồn cả năng lực vào việc hướng dẫn họ giải
thoát khỏi tình trạng tâm linh rối bời này. Như tôi đã viết trong lời giới thiệu quyển sách Đưa
Vào Mật Tông của Lama Yeshe (Ni Sư Trí Hải đã dịch, DG) xuất bản năm 1987, ba năm
sau khi ngài qua đời: 
 

 Lama Yeshe có một năng lực kỳ diệu khi tiếp xúc với những người đến gặp ngài là, kíck
động được trung tâm của sự bình an, trí tuệ và phúc lạc nơi họ, những điều này rất lờ
mờ với họ trước đây. Có lẽ lời dậy sâu sắc nhất của ngài là, trong tâm mỗi người chúng
ta đều đã có sẵn những câu giải đáp cho vấn đề của chính mình mà còn có tiềm năng sống
một cuộc đời cao cả hơn mình tưởng. Không những Lama Yeshe đã đạt đến tiềm năng ấy
cho chính bản thân ngài mà ngài còn có khả năng làm một nguồn cảm hứng cho tất cả
những người đến nghe ngài, đem lại cho họ niềm tin vững chắc vào chính họ cũng có cái
tiềm năng vô giới hạn đang chờ đợi được khai mở.

 Tự bản thân Lama Yeshe và Zopa Rinpoche là những vị thầy đầy năng lực và rất cao
thâm. Nhưng các ngài lại làm việc chung với nhau cho chúng ta một cảm tưởng rất đặc
biệt. Các ngài đã kết hợp diễn giảng rõ ràng tự nhiên trong những buổi thuyết giảng chính
của khóa tu tháng 11 hàng năm tại đồi Kopan ở thung lũng Kathmandu. Lama Zopa thường
là thầy giảng chính, hướng dẫn từ 150 học trò trở lên trong những khóa tu tập, thực
hành thiền theo truyền thống từng bước một dẫn đến giải thoát, giác ngộ, thường được gọi
là lamrim. Sự tập trung vững vàng của ngài đã tạo nên một bầu không khí trang nghiêm,
tĩnh mịch của thiền định, nhưng không tránh khỏi cảnh thực tế ồn ào của những người
đến tham dự. Theo tôi – kinh nghiệm của hai tham dự viên không bao giờ giống nhau, ý
kiến về một sự kiện thường có nhiều khác biệt – khi nhận thức được tình trạng tự hủy hoại
của một cái tâm không thể chuyển hóa thường cho tôi cảm tưởng mình đã bị lôi kéo
vào địa ngục. Giống như khi đang bị căng thẳng vì tự vấn, làm tăng trưởng sự khó chịu, tức
bực, không thoải mái, rồi khi Lama Yeshe đến, mọi sự lập tức trở nên sáng sủa và đầy
tiếng cười! Giống như khi biết thói quen của mình thường tạo ra cảnh địa ngục, rồi bây giờ
mình lại có thể thấy và cảm nhận được mình cũng có thể tạo ra thiên đàng.

 Sau chín năm, vì số học trò Tây phương tăng lên ở Nepal và Ấn độ, Lama Yeshe và
Zopa quyết định làm một cuộc hành trình qua Tây phương vào năm 1974 để thấy tận mắt lý
do tại sao lại có những người đi tìm các ngài. Quyển sách Năng Lực Trí Tuệ là kết quả của
chuyến du hành đầu tiên này (đề tài Vọng Tâm Phát Sinh Như Thế Nào được thêm vào
trong lần xuất bản 1982.) Cuộc hành trình đầu tiên ở Hoa Kỳ rồi sau đó là Úc châu và Tân
Tây Lan vào năm 1975 đã gieo những hạt giống mà sau này đã lớn mạnh trong toàn cầu
với hơn 100 trung tâm Phật giáo ở hơn 25 quốc gia. Vì Lama Yeshe qua đời năm 1984 rồi
được khám phá ra sự tái sinh của ngài ngay năm sau đó, nên người đệ tử tâm huyết của
ngài là Lama Thubten Zopa Rinpoche đã trông coi, phát triển và sinh hoạt thường
xuyên trong những trung tâm này.

 Hai mươi lăm năm trước đây những quyển sách về Phật giáo Tây Tạng bằng Anh ngữ rất
hiếm so với bây giờ và những hành giả Tây phương ngộ đạo viết sách cũng rất hiếm.
Thường chỉ là những quyển sách viết về Phật giáo Tây tạng dưới hình thức lịch sử hoặc
nhân chủng học. Quyển Năng Lực Trí Tuệ xuất hiện theo một căn bản hoàn toàn khác biệt.
Như Lama Yeshe đã từng giải thích nhiều lần, khi chúng ta nghiên cứu Phật giáo là thật
sự chúng ta tìm hiểu chính mình. Có nghĩa là chúng ta xử dụng những phương pháp phân
tích và thiền định mà Đức Phật đã dậy từ hơn 2500 năm trước, được các vị thầy Ân
độ và Tây Tạng thảo luận tỉ mỉ sau đó, về quán tâm của chính mình rồi sẽ khám
phá ra chúng ta đã bị cầm tù và sẽ được giải thoát như thế nào. Ngoài Phật giáo ra không
một phương pháp thực hành nào có thể giúp chúng ta tìm hiểu tâm của chính mình và
những cảm thọ của chính mình.

 Sự quán tâm như thế - không làm an tâm như đã được chứng minh - có một giá trị rất cao
vì rất nhiều người đã chân thành tìm đọc quyển Năng Lực Trí Tuệ trong 25 năm qua, và
bây giờ vẫn còn tiếp tục. Mặc dù trong một phần tư thế kỷ qua kỹ thuật đã tiến một cách
vượt bực, đáng ngạc nhiên, ảnh hưởng sâu xa đến đời sống thường ngày của chúng ta –
với những giàn máy vi tính tinh vi siêu tốc độ trong mỗi nhà, mỗi văn phòng, mang
những sinh hoạt trên thế giới gần lại với nhau – nhưng chúng cũng không thể giải
đáp được những vấn nạn thâm sâu: làm thế nào cho cuộc đời của chúng ta có ý
nghĩa hơn? Hình như khi truyền thông tin tức đi nhanh thì sự giao tế giữa con người với
nhau, đây là điều quan trọng, lại đi chậm lại. Sự phát triển kỹ thuật và tiến bộ vật
chất chỉ giải quyết, chỉ thỏa mãn cấp thời những mục tiêu đòi hỏi lâu dài trong đời sống
của chúng ta, chúng không thể giải quyết, càng không thể thỏa mãn những nhu cầu sâu
thẳm trong tâm ta. Tôi hy vọng rằng quyển Năng Lực Trí Tuệ xuất bản lần thứ 25 sẽ đem
lại nguồn cảm hứng và hy vọng cho những ai còn quan tâm đến vấn đề này trong thiên niên
kỷ mới.

 Jonathan Landau
 7/2000
Chương một:
BƯỚC VÀO CON ĐƯỜNG TÂM LINH
 

1. MỤC ĐÍCH CỦA THIỀN ĐỊNH


 

 Tôi muốn nói vài lời giới thiệu về sự thực hành thiền. Rất nhiều người trên thế
giới này, Đông phương cũng như Tây phương, thích thiền. Họ bị lôi cuốn vào sự thực
hành thiền và họ thực sự tha thiết với nó. Nhưng, gia nhập thì nhiều mà thực sự hiểu nó thì
quá ít.

Mỗi người trong chúng ta ở đây đều có một thân xác được cấu tạo bởi xương, thịt, máu
huyết ...vân vân...Ngay hiện tại, chúng ta không thể hoàn toàn kiểm soát tất cả thân xác
của chúng ta như ý muốn, chúng ta luôn luôn có những vấn đề. Một nhà tỷ phú có thể sở
hữu rất nhiều tài sản trên thế giới, nhưng, hãy tạm quên sự giầu sang của ông ta đi, nếu
tâm của ông ta bị nhốt trong một thân xác không thể kiểm soát được thì chắc chắn ông ta
sẽ đau khổ lắm lắm. Dù giầu hay nghèo, không một người nào trong chúng ta có thể trốn
thoát được những vấn đề. Cho dù có cố gắng bằng nhiều cách, chúng ta cũng không bao
giờ có thể ngăn cản được những điều khó khăn hay những vấn đề xẩy ra cho chúng ta.
Nếu chúng ta thanh toán được vấn đề này, vấn đề khác đã tự động đến thay thế.
Những bất mãn và đau khổ tràn ngập thân xác của chúng ta ở bất cứ nơi nào chúng
ta đến. Nếu chúng ta dùng trí tuệ để nhìn thật sâu vào trong trái tim của chúng ta về
những vấn đề này và hiểu tường tận đường đi nước bước của chúng thì chúng ta sẽ nhanh
chóng phát giác được những tình trạng bất mãn khủng khiếp này. Một điều cũng rất rõ và
cần biết là nếu chúng ta không có một thân xác không được kiểm soát như thế thì chúng
ta cũng sẽ không có một cách nào để kinh nghiệm được những sự đau khổ liên hệ đến nó.

Vấn đề căn bản mà tất cả chúng ta đều có là chúng ta đã không đạt được những gì chúng
ta ước muốn nên chúng ta đau khổ. Đó là những gì chúng ta cần cho đời sống vật chất như
cơm ăn áo mặc nhưng chúng ta lại muốn tự hào hoặc thích thú về chúng, chúng ta lại
muốn có những lời khen tặng và được tâng bốc. Có nhiều cảnh khổ chúng ta có thể nhìn
thấy ngay, như một người đói rách vô cùng nghèo túng. Nhưng một cách nào đó, tất
cả chúng ta đều là những kẻ đói khát và không thể kiểm soát được những gì chúng ta ước
muốn.
Hãy lấy một thí dụ, có những người tốt phước được sinh ra trong một gia đình giầu có.
Trong cả cuộc đời của anh ta, có thể anh ta sẽ không kinh nghiệm được một chút gì về
sự thiếu thốn vật chất. Anh ta có thể mua được bất cứ gì anh ta muốn và được tự do đi du
lịch ở bất cứ nơi nào anh ta thích để hưởng được tất cả những thú vui mà các nền văn
hóa khác nhau đem đến. Rồi khi mà không còn một nơi nào để đi, không còn một cái gì
để sở hữu, không còn một thú vui nào để hưởng, anh ta vẫn cảm thấy thiếu, vẫn cảm
thấy không thỏa mãn nên anh ta vẫn than khổ. Trong trạng thái bất an như vậy, trong tâm
trạng bất mãn như vậy, nhiều người đâm ra điên loạn, họ không còn kiểm soát được tình
trạng này và bắt đầu thấm mùi tê tái của khổ đau.

Như vậy, một đời sống hoàn toàn sung túc, tràn đầy thú vui thì đau khổ vẫn có ở đó,
vẫn hiện diện ngay ở đóù. Sự thật là càng sở hữu vật chất bao nhiêu thì tâm bất mãn càng
tăng lên bấy nhiêu, bởi vì sự sở hữu vật chất không có một chút khả năng nào ảnh
hưởng đến hoặc cắt đứt được cái mầm mống căn để của khổ đau. Một dòng liên
tục của bất mãn, lầm lạc, lo lắng và những liên hệ với chúng vẫn còn đó. Nếu sự tích tụ tất
cả những tiện nghi vật chất ở bên ngoài mà thực sự có khả năng loại bỏ được khổ đau thì
khổ đau phải chấm dứt và bất mãn phải ngưng đọng mới được. Nhưng cho đến khi nào
tâm của chúng ta còn bị ràng buộc với cái thân xác, vẫn còn liên hệ với cái thân xác không
thể kiểm soát này thì đau khổ vẫn còn liên tục tiếp diễn. 

Thí dụ, để bảo vệ đôi chân khỏi giẫm phải đá nhọn trên đường chúng ta phải mang giầy
dép. Nhưng sự kiện này không hoàn toàn chấm dứt vấn đề. Chính đôi giầy cũng thường
mang lại cái đau. Chúng có thể làm đau những ngón chân hoặc cho chúng ta những lúc
không thoải mái. Đây hoàn toàn không phải lỗi lầm của những bác thợ giầy. Nếu chân
của chúng ta không dài quá, lớn quá, nhậy cảm quá thì những đôi giầy thời trang kia
phải hoàn toàn thoải mái cho chúng mới đúng. Như vậy, nếu chúng ta nhìn sâu vào vấn
đề chúng ta sẽ khám phá ra cái nguồn gốc không thoải mái này không phải tại những lý
do ở bên ngoài mà thực sự những nguyên nhân đang nằm sâu trong cơ thể và tinh
thần của chúng ta, chính cơ thể và tâm thần của chúng ta tạo ra tình trạng không thoải
mái này.

Đây chỉ là một thí dụ về kinh nghiệm đau khổ qua thân xác của chúng ta. Từ khi sinh ra đến
khi lìa cõi đời này, chúng ta đã phải dùng biết bao nhiêu sức lực để bảo vệ cái thân xác này
khỏi đau khổ. Thật ra, tất cả mọi người chúng ta chỉ dùng thời giờ để bảo vệ cái thân xác
này một cách vô ích, không hữu hiệu, hoàn toàn không mang lại một kết quả
nào. Mục đích của thiền không phải để bảo vệ cái thân xác này. Không bao giờ nên nghĩ
như vậy. Nó có một mục đích cao hơn, giá trị hơn. Dùng thiền để chữa bệnh thân xác hay
mưu cầu lợi ích bề ngoài thì thật là vô nghĩa lý và làm mất đi sự diệu dụng của một phương
tiện thiện xảo, dùng như vậy nó chỉ cho chúng ta một giá trị nhất thời giống như dùng thuốc
aspirin để chữa bệnh nhức đầu. Bệnh nhức đầu có thể hết nhưng không có nghĩa là chúng
ta được bảo đảm hoàn toàn. Một thời gian sau nó sẽ trở lại bởi vì phương pháp điều trị này
không có khả năng chấm dứt tận gốc rễ của vấn đề, vì thế sự giải quyết chỉ có tính
cách tạm thời. Vì sự dễ chịu nhất thời và sự giảm đau tạm có thể dùng những phương
tiện bên ngoài, nên không cần phải dùng đến thiền định hay bất cứ một sự thực hành tâm
linh nào cho mục đích đó. Chúng ta không nên phung phí sức mạnh của thiền định cho
những mục đích hạn hẹp như vậy.

Mục đích chính của thiền là trị bệnh tâm. Mặc dầu thân xác và tâm của chúng ta có
những liên hệ nội tại nhưng chính chúng cũng có những hiện tượng hoàn toàn khác nhau.
Thân xác của chúng ta là một đối tượng mà mắt của chúng ta có thể nhìn thấy được,
nhưng tâm thì không như vậy. Những thành phần trong một gia đình có thể có những nét
giống nhau, nhưng mỗi một đứa trẻ lại có một cá tính khác nhau, đức tính khác nhau, sở
thích khác nhau...vân vân... Mặc dầu cùng học chung một trường nhưng sự thông minh,
sự hấp thụ bài học của mỗi học sinh lại hoàn toàn khác nhau, vì chúng ảnh hưởng từ cha
mẹ hay ông bà chúng. Sự khác biệt tinh thần không thể giải thích bằng những phương
pháp vật lý.

Một điều cũng cần nói đến ở đây, có những đứa trẻ nhớ rất rõ và chính xác những gì xẩy ra
trong kiếp trước của chúng. Chúng có thể nói nơi nào chúng đã sinh ra, chúng sinh sống
như thế nào ...vân vân... chúng còn có thể nhận diện được người và sự vật trong kiếp
trước của chúng. Những sự kiện này có thể kiểm chứng được, đây là những bằng
chứng hiển nhiên và xác thực cho bất cứ người nào muốn nghiên cứu lãnh vực này với
một tâm vô tư không thiên kiến.

Trong bất cứ trường hợp nào cũng đều có một lý do ẩn sâu khác biệt ở tính bẩm sinh của
mỗi thành phần trong gia đình, ở mỗi người và đặc biệt ở một số trẻ chúng nhớ được
những kiếp trước của chúng, tất cả những sự kiện này cho chúng ta biết một sự thật: tâm
của chúng ta không có một chỗ bắt đầu nhất định. Kiếp trước thật sự có. Chúng ta không đi
sâu vào vấn đề huyền bí ở đây về sự tiếp nối của kiếp này và kiếp khác, một điều quan
trọng cần nhớ là: tâm của chúng ta liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, vậy thì nó có thể
mang những gì ở hiện tại qua tương lai. Đời sống của chúng ta trong hiện tại là kết quả từ
những hành động, của cả tinh thần lẫn thể xác, mà chúng ta đã tạo ra trong kiếp trước.
Cũng như thế, những hành động của chúng ta đang làm trong kiếp này sẽ xác định đời
sống cho kiếp sau của chúng ta. Vì thế, trách nhiệm hình thành tất cả những gì trong cuộc
sống đang nằm trong tay của chính chúng ta. Thật là vô cùng quan trọng khi nhận
ra được vấn đề này nếu chúng ta muốn đi tìm những ý nghĩa đích thực cho việc cắt
đứt toàn diện những đau khổ tinh thần lẫn thể xác.

Mỗi một người chúng ta đã từng sinh ra làm người. Như vậy, chúng ta có cơ hội đem lại
cho đời sống của chính chúng ta một ý nghĩa và mục đích. Để chiếm lấy tất cả những lợi
ích này, chúng ta cần phải đi ngược lại những gì mà loài thú thấp hơn có thể làm được.
Nhờ hiểu biết về sự tái sinh và nhờ kiểm soát được tâm của chính mình, chúng ta có thể
kiếm tìm được căn nguyên của tất cả mọi đau khổ. Chúng ta có thể giải thoát khỏi
vòng luân hồi chết và tái sinh chỉ trong một vài kiếp sống. Chúng ta cứ phải trôi lăn
vào vòng sinh tử mà không có một sự lựa chọn hay kiểm soát nào, nó là như vậy, chúng
ta đã kinh nghiệm biết bao nhiêu là đau khổ về một cái thân xác không thể kiểm soát được.
Nhưng với một ý chí quyết tâm thực hành, cái vòng luân hồi này sẽ bị phá hủy hoàn
toàn, chúng ta sẽ được giải thoát khỏi đau khổ và bất mãn một cách trọn vẹn viên mãn.

Tuy nhiên, chỉ chạy trốn khỏi luân hồi sinh tử cho chúng ta thôi thì không được, chưa đủ.
Đây không phải là một cách áp dụng khôn ngoan cho đời sống làm người của chúng ta.
Không phải chỉ một mình chúng ta bị đau khổ và bất mãn mà tất cả những chúng sinh khác
cũng đang chịu như chúng ta. Nhưng, hầu như họ thiếu trí tuệ -con mắt Đạo pháp- để
tìm con đường đúng mà chấm dứt hoàn toàn đau khổ. Không trừ một ai, tất cả mọi chúng
sinh trên mặt đất này đều dành trọn vẹn cả cuộc đời để tìm cách thoát khỏi khổ đau, tìm
kiếm hạnh phúc và an lạc. Nhưng tâm của họ tràn đầy u minh tăm tối, sự kiếm tìm của họ
rơi vào hão huyền lạc lõng. Tâm vô minh, thay vì hướng dẫn họ đi tới mục tiêu phúc lạc, nó
lại dẫn họ từ khổ đau này đến bất mãn khác. Họ cố gắng loại bỏ những nguyên nhân của
khổ đau, nhưng bất hạnh thay mỗi ngày họ lại đi xa niết bàn hơn.

Tất cả chúng sinh đều bị khổ và đều mong muốn thoát khổ như chính chúng ta. Nếu chúng
ta nhận thức được điều này, chúng ta sẽ hiểu được sự ích kỷ của chúng ta khi chúng ta chỉ
mong giải thoát, vào niết bàn một mình. Tốt hơn chúng ta hãy cầu mong cho tất cả
đều được giải thoát. Nhưng trước khi có thể dẫn dắt người khác vào con đường chấm
dứt khổ đau, chính chúng ta phải là người giác ngộ trước. Nói khác đi, chính chúng ta cần
phải tinh tiến trên con đường tu tập giải thoát để có thể hướng dẫn người khác.

Vấn đề này có thể cắt nghĩa như sau: gỉa sử chúng ta muốn đem một người bạn đi ngắm
cảnh ở một công viên nào đó, nếu chúng ta bị mù thì không có cách chi chúng ta có thể
dẫn cô ta đến đó được, mặc dầu chúng ta muốn lắm. Điều kiện tiên quyết là chúng ta phải
có một cặp mắt tốt và phải biết đường đi đến công viên. Cũng giống như vậy, chúng ta phải
có kinh nghiệm về con đường giác ngộ trước khi chúng ta có thể chỉ cho người khác, mỗi
người sinh ra khác nhau, từ tính tình cho đến đời sống, nên con đường dẫn đến giải
thoát cũng khác nhau.

Vậy, mỗi khi nói về mục đích của thiền định là chúng ta nói về sự đạt giác ngộ, một
sự thành đạt chẳúng những cho chính chúng ta mà còn cho tất cả những người khác nữa.
Đây là mục đích và cũng là lý do chính yếu khi chúng ta bước chân vào con đường thiền
định. Tất cả các vị đạo sư du gìa cũng như tất cả các bậc thầy về thiền định trong qúa khứ
đều đã thực hành Đạo pháp theo tâm nguyện đó. Giống như vậy, khi chúng ta bước chân
vào con đường thiền định - theo Đức Phật, có hàng ngàn hàng ngàn phương pháp thực
tập thiền định khác nhau, tùy theo căn cơ của mỗi người - chúng ta nên có những động
năng thúc đẩy này.

Sự thực hành tâm linh thật là cần thiết. Chúng ta không thiền chỉ vì bắt chước một phe
nhóm nào, một người nào hay ngay cả vì Thượng đế. Nhưng chỉ vì trách nhiệm của chúng
ta đối với chính sự đau khổ của chúng ta, chính chúng ta chịu trách nhiệm bảo vệ chúng
ta. Chúng ta tự đứng lên đi tìm hiểu chính mình và cũng chính chúng ta tạo ra hoàn
cảnh cho mình để tự giải thoát. Do đó, vì đau khổ đã dày vò cuộc đời chúng ta, nên
chính chúng ta phải làm một cái gì cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. “Một cái gì” này
chính là sự thực hành tâm linh, hay nói một cách khác, chính là thiền định. Nếu chúng
ta không quay trở vào bên trong để huấn luyện tâm ta mà cứ dồn hết năng lực vào việc sắp
xếp rồi lại sắp xếp những chương trình cho cuộc đời vật chất hiện tại này thì khổ đau vẫn
còn đó, cứ mãi mãi tiếp tục. Khổ đau không có chỗ bắt đầu, nếu không thực
hành một phương pháp tâm linh hữu hiệu thì khổ đau cũng không có chỗ chấm dứt.

Nói một cách tổng quát, thật là khó thực hành Đạo pháp trong một môi trường sống tràn
đầy vật chất như ngày nay. Vì có qúa nhiều trở ngại, có qúa nhiều điều hấp dẫn hơn sự tu
tập thiền định. Tuy nhiên, căn bản của những điều cản trở này lại không phải là nguyên
nhân và môi trường của chính nó. Khổ đau không tại những nhà máy trong khu kỹ nghệ, nó
không phải tại đồ ăn thức uống của chúng ta, cũng không phải tại bất cứ cái gì khác. Nó
đang nằm ngay trong tâm của chính chúng ta. Đây là điểm rất ngạc nhiên cho tôi trong thời
gian này, chuyến thăm viếng đầu tiên của tôi qua Tây phương, để thấy tận mắt bên cạnh
sự tiến bộ vật chất là sự thích thú thực hành Đạo pháp và thiền định trong nhiều chiều
hướng khác nhau của người Tây phương. Có rất nhiều người chân thành đi tìm một ý
nghĩa cao cả hơn cho cuộc đời của con người, họ cố gắng chuyển hóa mỗi ngày. Với lòng
ngưỡng mộ đặc biệt, tôi nghĩ rằng đây là một việc làm rất khôn ngoan khi con người biết cố
gắng hoà hợp đời sống vật chất và đời sống tinh thần, có một đời sống sâu xa về nội
tâm cũng như một đời sống đầy đủ tiện nghi cho thể xác. Với những người như vậy đời
sống chắc chắn không phải là một sự hứa hẹn trống rỗng.

Món ăn mà được chế tạo bởi nhiều thực phẩm khác nhau thì chắc chắn phải ngon. Cũng
vậy, nếu chúng ta có những công việc làm, có những hoạt động và cố gắng thật nhiều cho
việc kiện toàn con đường tâm linh theo Đạo pháp thì đời sống của chúng ta thật là phong
phú. Sự lợi lạc, ơn ích mà chúng ta có được nhờ biết kết hợp hai lãnh vực này thì thực là vĩ
đại bao la.

Có một sự khác biệt rất lớn giữa tâm, xúc cảm và những kinh nghiệm của một người
biết áp dụng Đạo pháp vào cuộc đời của họ và một người không biết áp dụng. Trong lúc
phải đương đầu với những khó khăn của cuộc sống tràn đầy vật chất này, người biết áp
dụng Đạo pháp sẽ ít lầm lẫn hơn và kinh nghiệm cuộc đời ít đau khổ hơn. Họ biết kiểm
soát tâm và biết phải làm gì ở bên trong tâm của họ để sẵn sàng giải quyết những vấn
đề xẩy ra một cách thành thạo, khôn ngoan. Sự áp dụng này không phải chỉ cần cho đời
sống thường ngày của họ mà đặc biệt ngay cả trong lúc họ chết.

Nếu chúng ta không bao giờ thực hành đời sống tâm linh thì chúng ta sẽ không bao giờ
huấn luyện được tâm của chúng ta qua kỷ luật thiền định, rồi khi sự chết đến, chúng ta sẽ
phải chiến đấu rất gay go. Sự lợi ích quan trọng nhất mà một người thực hành Đạo pháp có
được là họ coi cái chết như là một cuộc hành trình đầy vui thú trở về nhà. Nó giống như là
đi đến dạo chơi trong một công viên tuyệt đẹp. Và ngay cho cả những người chưa đạt giác
ngộ trong thiền định thì cái chết đối với họ cũng nhẹ nhàng, không đáng sợ hãi. Có những
người đối diện sự chết --chúng ta không thể tránh được -- với một cái tâm thật bình thản.
Họ không sợ hãi chút nào, không lo âu về những điều mà họ sẽ gặp hay về những
người thân yêu, về của cải và ngay cả về chính thân xác của họ. Trong cuộc đời này chúng
ta đã kinh nghiệm sự sinh ra và bây giờ chúng ta đang kinh nghiệm về tiến trình gìa.
Chỉ duy nhất có một sự kiện mà tất cả chúng ta đang phải đi đến chính là sự chết. Vì thế,
sự thực hành tâm linh sẽ giúp chúng ta đối diện với một sự kiện không thể tránh được một
cách bình thản an nhiên, như vậy sự thực hành thiền định mới có ích lợi -- mặc dầu nó còn
có những mục đích cao hơn nữa mà chúng ta có thể áp dụng.

Để tóm tắt, không còn một sự kiện bên ngoài nào của thiền định có vẻ quan trọng hơn nữa.
Mặc dù chúng ta ngồi xếp tay theo kiểu này hay xếp chân theo kiểu kia thì cũng chỉ có một
chút ảnh hưởng mà thôi. Điều vô cùng quan trọng trong con đường tu tập là kiểm
soát xem, theo dõi xem phương pháp thiền định mà chúng ta đang áp dụng có thực sự giải
thoát chúng ta ra khỏi đau khổ hay không. Nó có chấm dứt những sự kiện hão
huyền, huyễn ảo đang diễn ra ở trong tâm của chúng ta không? Nó có chấm
dứt được tham sân si không? Nếu nó thực sự giúp chúng ta giảm được những thái độ tiêu
cực của tâm thì đó là sự thiền định hoàn hảo, sự thực hành đúng và có giá trị. Nhưng, nói
một cách khác, nếu nó chỉ làm tăng thêm những thái độ tiêu cực, xấu (như tăng lòng kiêu
mạn,) thì đó lại là một nguyên nhân khác đem lại đau khổ. Trong trường hợp này, dù chúng
ta có nói là chúng ta đang thiền, đang tham dự những khóa tu tập, thì đó chẳng phải là thực
hành tâm linh hay thực hành Đạo pháp một chút nào.

Đạo pháp hướng dẫn chúng ta ra khỏi khổ đau, ra khỏi những sự rắc rối. Nếu sự thực
hành không dẫn chúng ta theo đường hướng này thì đã có một cái gì sai lầm trong đó
mà chúng ta cần phải khám xét lại. Thực ra, cốt tủy của việc thực hành Đạo pháp của tất cả
các vị hành gỉa là khám phá xem những hành động nào của họ mang lại khổ đau và những
hành động nào của họ là nguyên nhân của hạnh phúc. Từ đó, họ áp dụng sự thực
hành vào việc tránh khổ đau và tạo thêm hạnh phúc càng nhiều càng tốt. Đây mới là cốt tủy
của thiền định, đây mới là tinh yếu của Đạo pháp.

Tóm lại, tất cả chúng ta là những người bắt đầu bước chân vào con đường thực hành Đạo
-- bắt đầu thiền định và thực tập kiểm soát tâm -- chúng ta cần phải tin tưởng vào những
nguồn giáo lý, những sự dậy bảo. Chúng ta nên đọc những cuốn sách có giá trị, khi có
sự nghi ngờ hay thắc mắc, chúng ta nên hỏi những bậc thầy, những bậc đã thực sự tu
tập, chuyên cần thực hành và đã có những chứng nghiệm trên con đường tâm linh mà họ
đi. Đây là một điều vô cùng quan trọng. Nếu chúng ta chỉ theo sự chỉ dẫn của sách vở thì
đây là một việc vô cùng nguy hiểm cho con đường tu tập của chúng ta. Ngay cả việc chọn
lựa một vị thầy, một vị đạo sư hay một vị lạt ma. Hãy chọn cho đúng. Họ phải là những
người có thực chứng, đã từng thực hành và sống trong Đạo pháp.

Sự thực hành thiền định của chúng ta, sự thực hành con đường tâm linh của chúng


ta không thể tiêu cực, không thể có những thái độ thụ động được. Chúng ta không thể nào
phá vỡ được sự kiên cố của đau khổ bằng một sự mù quáng, nhẹ dạ khi đặt niềm tin vào
một vị nào đó --ngay cả một đại sư -- bảo chúng ta làm điều này, việc kia. Tốt hơn chúng
ta nên sử dụng sự thông minh nội tâm của chính chúng ta để xác nhận, để tìm
kiếm những phương pháp thích hợp hầu mang lại nhiều kết qủa hơn. Nếu chúng ta đã có
đầy đủ những lý do tốt lành để tin tưởng rằng sự dậy bảo này có giá trị và hữu ích
thì chúng ta nên thực sự thiết tha và chân thành theo đuổi nó. Giống như việc chọn thuốc,
một khi chúng ta đã chọn được đúng loại thuốc chữa lành căn bệnh của chúng ta thì chúng
ta phải dùng ngay lập tức. Nếu không, chúng ta cứ uống đại bất cứ loại thuốc nào
mà chúng ta có thì chúng ta chẳng những không khỏi bệnh mà còn mang thêm bệnh vào
người.

Đây là lời khuyên cuối cùng của tôi cho những người nào muốn bước chân vào con
đường thiền định và tu tập Đạo pháp. Con đường tâm linh rất là thâm diệu bao la,
nếu chúng ta không thể thực hành Đạo pháp mà chỉ học hỏi tìm hiểu nó thôi thì nó cũng
hữu ích cho cuộc đời của chúng ta rất nhiều. Đó là tất cả những gì tôi muốn chia sẻ.
2. ĐỂ TIẾN TỚI VIỆC NGHIÊN CỨU PHẬT PHÁP

 Tôi rất hân hạnh được gặp Trungpa Rinpoche (Rinpoche là danh từ Tây tạng chỉ những
bậc thầy đáng tôn qúi, thường là những vị tái sinh -Dg) và tất cả qúy vị ở đây. Tôi được
Trungpa Rinpoche cho biết qúy vị rất mong muốn tìm hiểu con đường dẫn đến giải
thoát, sự giải thoát nội tâm. Tôi rất thích khi được biết như vậy. Thực ra, tôi không có
ý thuyết giảng cho qúy vị ngày hôm nay. Tôi chỉ đến đây để thăm viếng tu viện Naropa và
như qúy vị đã biết người đi du lịch thường hay nói những gì!

Tất cả qúy vị ở đây thật có phước. Qúy vị đến với trí tuệ của Phật và chắc chắn qúy vị sẽ
có cơ hội để thực hành trí tuệ này. Rất nhiều người đã không hiểu được những cơ
duyên và những cơ hội hiếm có khi được tiếp xúc với Phật Pháp. Họ cho rằng đây chỉ là
một sự tình cờ có được một tư tưởng hay được gặp một người. Nhưng không phải như
vậy. Không có gì xẩy ra mà không có nguyên nhân, cái gì cũng có nhân và qủa. Vì thế qúy
vị đừng nên nghĩ và đón nhận Phật Pháp như là một món qùa tặng. Bởi vì rất khó và rất
hiếm mà có được, nên qúy vị hãy đón nhận nó bằng tất cả tấm lòng chân thành và trân qúi
của qúy vị.

Cũng có thể có những sự hiểu lầm về những kết qủa khi tiếp xúc với Phật Pháp. Như nghĩ:
“Hôm nay tôi được dậy bảo nhưng phải đợi đến một năm nữa tôi mới thực sự nhận ra nó,
mới chứng nghiệm được nó.” Họ thất vọng vì con đường đạt giác ngộ qúa xa. Người thời
nay không nhận ra được cái gì đang ở ngay trước mắt của họ! Mỗi khi chúng ta đến
với Phật Pháp, nếu chúng ta mở hết tâm hồn của chúng ta ra bằng một tấm lòng thực
sự chân thành thì chúng ta sẽ nhận được sự đáp ứng ngay lập tức. Chúng ta sẽ nhận
ra một cái gì mới lạ và sâu đậm về chính chúng ta, về thế giới chung quanh chúng ta và về
hiệu qủa của những gì chúng ta đang suy niệm. Nếu chúng ta suy gẫm những lời dậy bảo
vào buổi sáng, có thể buổi chiều chúng ta đã nhận ra kết qủa. Không cần phải đợi đến
tương lai mới nhận ra nó.

Qúy vị là những người thực sự có diễm phúc được đến với Phật Pháp qua vị Rinpoche khả
ái của qúy vị nên qúy vị không nên chậm trễ trong việc thực hành. Nếu qúy vị chỉ lo sưu
tầm tích trữ Đạo Pháp thì qúy vị đã tạo thêm rắc rối cho qúy vị rồi đó. Nếu như vậy
thì những lời dậy bảo đầy minh triết và đầy lý luận cũng sẽ chỉ là sự thông minh và lý
luận mà thôi. Chúng ta thường bị quyến dũ bởi những triết thuyết uyên thâm của Đạo
Phật và bởi những danh từ chuyên môn huyền bí phức tạp của nó, phần đông chúng
ta hăng say đón nhận những lời giải thích về Đạo pháp theo chiều hướng này. Những
kiểu thông minh như vậy, những lối đón nhận Đạo Pháp mà không thực hành Đạo Pháp thì
chỉ tích tụ thêm những nguyên nhân tạo thêm rắc rối, tạo thêm bất mãn trong tâm mà thôi.

Rất dễ có loại hiểu lầm này khi đến với Phật Pháp. Chúng ta thường quan tâm hay thường
chỉ để ý đến những danh từ và sự diễn dịch của nó mỗi khi chúng ta học hỏi một vấn đề gì.
Nhưng trong một Đạo viện, như Đạo viện Naropa này, thì vấn đề từ ngữ không nên qúa coi
trọng. Chúng thuần túy chỉ là những tấm bảng chỉ đường đi đến trí tuệ mà thôi, chúng
không phải là trí tuệ. Mục đích chính trong việc học tập ở đây là có được những chứng
nghiệm Đạo Pháp ở nội tâm. Qúy vị phải tự chứng nghiệm những lời dậy bảo trong tâm
của qúy vị thay vì đợi Đạo Pháp mang ơn ích lại cho tâm của qúy vị. Nếu qúy vị ý thức sâu
xa được vấn đề này và chân thành mở thật rộng tâm hồn ra thì sự giải thoát sẽ đến một
cách dễ dàng. Hoàn toàn tùy thuộc vào sự ý thức và tỉnh thức của qúy vị. Chiếc chìa khóa
để thâu thập kết qủa trong Đạo Pháp là luôn luôn cố gắng tìm hiểu xem làm thế nào những
lời dậy bảo có thể đem áp dụng thích hợp cho mọi sinh hoạt trong đời sống thường ngày
của chúng ta.

Nếu chúng ta đón nhận Đạo Pháp chỉ bằng trí thông minh khô cằn thì những triết
giáo chúng ta học hỏi được cũng chỉ mang lại cho chúng ta những cảm nghĩ mâu thuẫn và
những cảm thọ xung khắc mà thôi. Vì thế, thay vì tinh tấn trong tinh thần thì lại bị bệnh tâm
thần. Kết quả này không phải tại giáo pháp. Nó cũng không có nghĩa là có một cái gì đó sai
quấy trong sự trong sáng và minh triết của tư tưởng, nó chỉ là sự khác biệt của loại trí thông
minh khô cằn. Nguồn gốc của vấn đề là thái độ thu nhận Đạo Pháp. Nếu chúng ta thực
sự chân thành tiếp nhận những lời dậy bảo bằng cả tâm hồn mở rộng của chúng ta để tự
chứng nghiệm những gì đã học hỏi được thì giáo pháp và những triết thuyết sẽ ơn ích vô
cùng. Càng học hỏi, càng có nhiều ơn ích. Không có gì phức tạp khó hiểu cả. Nhưng,
nếu chúng ta đọc vội vàng, ngấu nghiến những lời dậy bảo mà không chịu ngừng lại để tiêu
hóa chúng thì chúng ta chỉ kinh nghiệm được khổ đau trong một tinh thần chất đầy bất
mãn mà thôi. Thí dụ, quý vị có thể hãnh diện về những tài liệu, sách vở và sự hiểu biết mà
quý vị tích trữ, thâu thập được; một cách không cần tiêu hóa chúng, quý vị tuyên bố rằng
qúy vị biết nhiều về Đạo Phật, quan niệm của quý vị tốt hơn, vượt xa những người
khác. Quan niệm này sẽ chẳng hướng dẫn quý vị đến đâu cả mà chỉ gây thêm rắc rối cho
chính quý vị và cho những người khác.

Tại sao những loại thông minh này lại đang gây rắc rối cho thời buổi này? Có thể một vấn
đề nào đó đang hoành hành ở thời đại phát triển vật chất ngày nay. Người ta vẫn tiếp
tục ham muốn những cái gì mới lạ, mà không bao giờ bằng lòng với những sản phẩm mà
kỹ thuật tân tiến đang cung cấp cho. Vì thế, người ta thích chạy theo những tư
tưởng khích động lòng ham muốn của họ rồi họ bị mê mệt bởi những mục tiêu không
giới hạn mà họ nghĩ rằng họ có thể chiếm đoạt được. Họ cảm thấy không có gì là nguy
hiểm khi buồn bực và khó chịu, bởi vì sự học hỏi thì cứ tiến tới không giới hạn và không
ngừng. Với một thái độ như vậy mà hướng về một cái tâm có khả năng bất tận thì cũng
chẳng có giá trị gì với trí tuệ -sự thông minh chân thật. Nó chỉ mang lại những mê
tín về chân tính mà thôi. Loại thông minh vồ chụp này chỉ phản ảnh những gì đang nằm sâu
trong sự mê tín mà nó đã được tích trữ từ lâu để mang lại những niềm vui, sự an toàn và
ngay cả sự giải thoát tạm thời.

Đừng coi những lời nói của tôi như là một sự khủng hoảng. Điểm mà tôi muốn nhấn
mạnh là chúng ta nên kiểm điểm tâm ta một cách vô cùng khôn ngoan và sâu thẳm.Tại
sao chúng ta lại muốn tìm hiểu học hỏi những lời dậy bảo của Đức Phật, và chúng thực sự
có ý nghĩa gì trong những sinh hoạt hàng ngày của chúng ta? Chúng ta có thể nghĩ
rằng chúng ta đang theo đuổi con đường dẫn đến giác ngộ, nhưng khi thực sự đi vào vấn
đề thì chúng ta thực hành nó ra sao? Nếu chúng ta thực tình đi sâu vào vấn đề, có
thể chúng ta sẽ nhận ra được những gì chúng ta đã thực hiện. Nhưng nếu chúng
ta đã kiểm soát kỹ rồi mà chúng ta vẫn không nhận thấy chúng quan trọng, chúng chỉ là
những khía cạnh của cuộc đời, thì có lẽ chúng ta đã không tiêu hoá những lời dậy bảo
mà chúng ta đã nhận được.

Chúng ta đang nghiên cứu học hỏi và thực hành Phật pháp, nhưng chúng ta đã chẳng bao
giờ tự hỏi chúng ta cái ý nghĩa chân thực của qui y Phật, Pháp và Tăng là gì? Nếu chúng
ta đã suy nghĩ về những điều này và đã có ngay một câu trả lời - như chúng ta đang viết
một bài khảo luận- thì có lẽ cũng chẳng có gì xảy ra nơi tâm của chúng ta. Rồi chúng ta vội
vàng đi đến kết luận là qui y chẳng có ý nghĩa gì hết. Đây là một sai lầm đáng buồn. Mặc
dầu chúng ta có thể có hàng chuỗi dài những định nghĩa bóng bảy đi nữa, sự qui y cũng
vẫn chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta nếu chúng ta không qui y bằng cả trái tim chân
thành mở rộng của chúng ta. Như vậy, sự tìm hiểu chân thật sẽ cho chúng ta hiểu được
rằng chúng ta đã không tiêu hoá cái gì mới thực sự là qui y. Chúng ta đã tự loại bỏ chúng
ta ra khỏi sự độ trì và an bình của Tam Bảo.

Nếu chúng ta nghiên cứu Phật Pháp bằng một cái tâm hoàn toàn cởi mở và chân thành, cố
gắng đi tìm những câu trả lời cho những vấn đề hàng ngày của chúng ta, thì qui y thực sự
đem lại rất nhiều ý nghĩa. Từ những kinh nghiệm riêng của chúng ta, chúng ta đã biết được
những gía trị thăng tiến vượt bực của Đức Phật về một tâm toàn giác. Chúng ta sẽ nhìn
thấy một cách vô cùng trong sáng thế nào là lòng từ bi giác ngộ, nó vượt xa những gì gọi
là ràng buộc và ham muốn thường tình, nó cho chúng ta những khả năng đem lại hạnh
phúc cho chính mình và cho những người khác. Bằng cách này, câu trả lời cho câu hỏi qui
y sẽ đến ngay từ trái tim của chúng ta chứ không phải bằng môi miệng.

Điều này không có nghĩa là chúng ta nên chấp nhận một cách mù quáng, đơn giản vì nó là
những lời dạy bảo của lạt ma. Đây là một sự sai lầm trầm trọng như chính những sự thông
minh hoá. Điều vô cùng quan trọng là chúng ta nên hiểu những lời dậy bảo bằng chính
sự tỉnh thức sâu xa của chúng ta. Chúng ta phải kiểm chứng những sự thật mà chúng ta đã
và đang được dậy bảo, không nên chấp nhận nó chỉ vì nó được nói ra bởi những người
mặc chiếc áo thầy tu, hay hoàn toàn ôm giữ nó bằng trí thông minh của chúng ta. Không có
một chỗ nào trong Phật giáo dành cho những kiểu mơ mộng hão huyền của loại tâm
linh siêu thị. (Đệ nhất nguyên nhân gây khổ đau cho chúng sinh là vô minh, ý nghĩa đơn
giản của vô minh là không sáng suốt, không biết, không hiểu mọi hiện tượng xẩy ra. Vì thế,
chiếc chìa khóa đầu tiên và duy nhất để đối trị căn bệnh này chính là trí tuệ, ý nghĩa đơn
giản của trí tuệ là hiểu mọi hiện tượng như nó là. Trí tuệ chỉ đến sau khi chính mình -không
phải ai khác- thành tâm thực hành Đạo Pháp, trí tuệ không đến qua kinh sách, lạt ma, đền
chùa hoặc bất cứ sự kiện bên ngoài nào; nếu có thì đây chỉ là trí thông minh bình
thường mà thôi, không phải trí tuệ -Trí Bát Nhã - trí thông minh cũng chỉ đem lại khổ đau,
một loại vô-minh-thông- minh. - Dg)

Khi chúng ta đã nghiên cứu học hỏi lâu rồi mà vẫn còn trở ngại với những kinh nghiệm cảm
thọ thường tình, chúng ta có khuynh hướng đi khiển trách vị lạt ma hay vị thầy của chúng
ta. Trong lúc này chúng ta nên tự vấn chính mình xem chúng ta có làm một điều gì hơn sự
đòi hỏi của tri kiến hay không. Thái độ của chúng ta có hoàn toàn thay đổi không?
Trong trường hợp này có thể chúng ta đã đầu độc tâm ta. Để tránh sự ô nhiễm này, Đạo
Pháp đặc biệt chú trọng đến vấn đề học tập và thực hành không được xa rời nhau.

Cái gì chúng ta đã thực hiện qua thân khẩu và ý của chúng ta thì quan trọng hơn những
gì chúng ta đã sưu tập được từ sách vở rất nhiều, hay ngay cả từ những điều học hỏi được
ở những vị lạt ma, những vị thầy, những vị đạo sư hoặc từ bất cứ ai. Trách nhiệm về sự
giải thoát và giác ngộ nằm ngay trong ta, không phải ở một vị lạt ma hay ở bất cứ một vị
thầy nào. Sự đạt đạo được lớn mạnh từ cá tính và khả năng của chính ta chứ không phải
từ bất cứ ai. Thật là sai lầm khi chúng ta khấn xin, “Lạy lạt ma, con có thể làm gì đây?” Đây
là một sự thật, hãy làm với tất cả những gì chúng ta có -bằng chính khả năng của chúng
ta - điều này xác định hiệu qủa của sự thực hành tâm linh.

Theo ý nghĩa thâm sâu của Đạo Pháp, chẳng những chúng ta phải chịu trách nhiệm về


những bối rối lầm lẫn và đau khổ của chúng ta mà chúng ta còn phải chịu trách nhiệm cho
cả những sự buông xả của chúng ta nữa. Nếu sự học hỏi Phật Pháp mang lại những phẫn
uất cho tâm của chúng ta thì đó chính là chúng ta đã thất bại trong việc phát triển sự học
hỏi đó ra trong ý nghĩ và hành động của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết làm thế nào
tiêu hoá được những gì chúng ta đã học, ngay cả một điều nhỏ mọn, thì nó cũng mang lại
rất nhiều ơn ích cho tâm chúng ta. Giống như một miếng chocolate hay một miếng bánh rất
ngon; sự hiểu biết tầm thường không thể so sánh được với nó. Sự hiểu biết tầm thường
không thể cho một hình ảnh nào về sự chân thực, về thực tướng, vì thiếu trực giác.
Như tôi đã nói, nếu chúng ta đem thực hành những gì chúng ta đã học hỏi được thì chúng
ta không cần đợi kết qủa. Ơn ích sẽ đến ngay. Tôi qủa quyết rằng những người nào trong
qúy vị ở đây đã có kinh nghiệm về thiền định đều nhìn nhận tất cả những khó khăn xảy ra
thường ngày đều được giải quyết một cách tốt đẹp, nhanh chóng. Sự thật đã xảy ra như
vậy, mặc dầu chỉ có một thời gian thiền định ngắn thôi cũng mang lại sự bình an lâu dài,
qúy vị đã có những kinh nghiệm này, phải không? Mỗi khi chúng ta có sự an tĩnh tại nội
tâm, mỗi khi chúng ta đem áp dụng sự bình an nộâi tại này là chúng ta thực sự tu tập, vì
thế chúng ta sẽ dễ dàng giải quyết được những vấn đề. Không có sự an bình này, việc tu
tập chỉ đem đến cho chúng ta những xung động mà thôi. Vì nội tâm luôn bận rộn với
những ý tưởng xung đột nên nó không còn một chỗ nào cho Đạo Pháp.

Những lời dạy bảo của Đức Phật rất đơn giản và ngay thẳng. Nếu chúng ta thấy nó phức
tạp chỉ vì chúng ta đã tạo ra như vậy. Có thể chúng ta nghĩ, “ Tôi có bằng tiến sĩ, tôi hiểu tất
cả những tư tưởng này, nhưng tôi vẫn không tìm ra được một phương pháp nào để thực
hành Đạo Pháp.” Liều thuốc để chữa căn bệnh này là hãy tự nhìn sâu hơn vào nội tâm của
chính chúng ta. Hãy cố gắng quan sát những ý niệm tâm linh bệnh hoạn của chúng ta và
hãy khám nghiệm những nguồn năng lượng thân khẩu và ý của chúng ta xem có chỗ nào
bị tắc nghẽn và bị hướng dẫn sai lầm không. Để làm công việc này có kết qủa, chúng
ta cần có một chút kinh nghiệm về sự kiểm soát tâm. Chúng ta cần có tinh thần kỷ luật,
luật tâm linh để giúp chúng ta thực hành một cách sống động linh hoạt hơn.

Nếu chúng ta không bắt đầu có hoặc bắt đầu phát triển ngay bây giờ một kỷ luật tâm
linh thì chúng ta sẽ mất, sẽ hoang phí rất nhiều thời giờ trong cuộc đời cho một cái tâm vô
kỷ luật. Không có chánh kiến từ khởi đầu nên lực vô minh cứ dẫn chúng ta tái sinh vào
vòng luân hồi hết kiếp này đến kiếp khác mà không có quyền lựa chọn. Chúng ta đã mở
cửa để tất cả những ảnh hưởng xấu tự do thấm nhập vào cả trong tâm hồn lẫn ngoài thân
xác của chúng ta. Động từ “MỞ” ở đây mang một ý nghĩa thụ động. Tuy nhiên, với một
sự áp dụng đúng đắn luật tâm linh, với một tinh thần kỷ luật cao độ, chúng ta có thể “MỞ”
trong ý nghĩa tích cực.

Tinh thần kỷ luật không phải là sự siết chặt thần kinh như chúng ta nghĩ. Nó hoàn
toàn không có nghĩa là chúng ta nhốt chúng ta vào một nhà tù mất hết sự tự nhiên và
không còn sáng tạo. Nó chỉ có nghĩa là chúng ta nên tỉnh thức trong tất cả mọi hành động
của chúng ta. Một cách từ từ và kiên nhẫn, chúng ta nên cởi bỏ, tháo gỡ tất cả những nút
thắt về những ý niệm sai lầm của chúng ta, từ đó chúng ta giải phóng chúng ta khỏi tất cả
những năng lượng thụ động mà nó đã cột chặt chúng ta từ muôn kiếp. Những lý
thuyết phức tạp không cần thiết cho tiến trình tinh tiến này. Điều vô cùng quan trọng
là chúng ta phải chấm dứt ngay tình trạng vô ý thức, tình trạng không thức tỉnh trên tất cả
những thói quen thường ngày của chúng ta.

Một số người nghĩ rằng giữ kỷ luật sẽ làm chúng ta mất hết sự cởi mở và tính tự nhiên. Họ
cho rằng chúng ta nên thoải mái và hãy để cho mọi thứ trôi chảy một cách tự do. Hành
động như vậy chẳng có gì ngược lại với kỷ luật. Nhưng thực ra, giữ kỷ luật lại giúp chúng
ta cởi mở một cách chân thật hơn. Nhiều khi chúng ta phải dẹp bỏ ý thức để được tự
nhiên và nhiều lúc chúng ta lại phải liều lĩnh để hành động. Khi chúng ta sống trong kỷ
luật trí tuệ của Đạïo pháp, chúng ta sẽ không còn bị ảnh hưởng của vọng tưởng và vô
minh nữa. Nếu chúng ta cố gắng hành động một cách tự do không cần kỷ luật thì thay vì
cởi mở với hoàn cảnh đang đối diện, chúng ta lại bị bưng bít bởi những sự lầm lẫn, bối
rối của chính chúng ta. Vì thế, để được tự nhiên chúng ta phải có một tinh thần kỷ luật từ
sự thức tỉnh và trí tuệ. 

Rất nhiều người phàn nàn rằng nếu liên tục chú ý vào những hành động của thân khẩu và
ý thì khó qúa. Nhưng thực ra nó chỉ khó khi nào họ không chú ý đến luật nhân qủa. Tất cả
những thói quen của chúng ta ở hiện tại sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến những gì sẽ xẩy ra
trong tương lai. Cũng giống như vậy, những gì chúng ta đang gặp phải bây giờ đều là kết
qủa của tất cả những gì chúng ta đã làm trong qúa khứ. Nếu chúng ta nhận thức được điều
này, chúng ta sẽ thận trọng với những hành động hiện tại của chúng ta một cách sâu
xa hơn vì đây là trách nhiệm của chính chúng ta chứ không phải của bất cứ ai khác. Chúng
ta sẽ nhận thức được hạnh phúc hay đau khổ là do quyết định của chính chúng ta.
Nếu chúng ta là người tử tế, dễ thương và cởi mở trong tinh thần kỷ luật thì kết qủa
là chúng ta sẽ có hạnh phúc thật . Nếu chúng ta là người độc ác, ích kỷ và hẹp hòi, chúng
ta sẽ chỉ gặp những khó khăn và đau khổ. Do đó, kỷ luật chỉ khó khăn đối với người nào
không biết hoặc không sợ luật nhân qủa, nên họ cũng chẳng có một sự thúc đẩy nào đến
với con đường tâm linh. Nếu chúng ta hiểu được sự liên hệ tự nhiên giữa những hành
động và những ảnh hưởng của nó đối với chúng ta và những người khác thì chúng ta sẽ tự
động phải ý thức và cẩn trọng trong mọi hành vi của chúng ta. Đây là lý do tại sao chúng
ta phải thức tỉnh.

Mỗi khi chúng ta tỉnh thức trong từng hành động của chúng ta là chúng ta phát triển thêm trí
tuệ. Từ đó chúng ta kiểm soát được luật nhân qủa. Nói cách khác, khi đó chúng ta có thể
thanh tẩy được nghiệp của chúng ta. Vì thế, với sự tỉnh thức, chúng ta sẽ có những ý
thức chân thực khởi phát chứ không phải do vô minh mà ra. Mật chú thường được dùng để
khai mở những buổi pháp đàm, như Om muni muni maha muniye svaha, ý nghĩa sâu
xa của ba lần lặp lại Muni là để “kiểm soát.” Muni đầu tiên để kiểm soát tam độc ở tâm -
tham, sân, si - ba thứ này mang lại đau khổ cho cuộc đời. Muni thứ hai để thanh tẩy ô
nhiễm và nghiệp, kể cả những hạnh nghiệp tốt mang lại niềm vui cho nhân loại, vì những
thứ này cũng làm cho tâm không thanh tịnh (nghiệp có nghiệp xấu và nghiệp tốt, nghiệp
nào cũng làm cho tâm không còn cân bằng thanh tịnh, Phật và chúng sinh tính thường rỗng
lặng, rỗng lặng thì không có tốt không có xấu, tâm rỗng lặng chỉ nhìn sự vật như thị, như nó
là, không có kiểu,” A, cái này tốt tôi nên giữ; ô cái kia xấu quá, bỏ đi.” --Dg) Với sự kiểm
soát như vậy, giúp chúng ta thoát khỏi luân hồi. Nhưng chúng ta không thể phát triển sức
mạnh này hay niềm an lạc này trong một khoảng khắc mà nó sẽ đến từ từ, từ từ, rất chậm
trong tiềm thức của chúng ta để rồi một ngày nào đó sẽ trở nên hoàn hảo. Maha
muniye, đại thanh tẩy, sự kiểm soát toàn diện, thanh tẩy tất cả những dấu ấn của ảo vọng
và nghiệp lực nằm rất sâu trong thể vi tế nhị nguyên của tâm ta. Trong sự phát triển cao độ
này, trong sự giác ngộ này, chúng ta có khả năng tỉnh thức trọn vẹn (toàn giác) để mang lại
ơn ích cho muôn loài chúng sinh.

Nhưng trước nhất chúng ta phải bắt đầu, từ từ, tinh tấn đều đều, đều đều, không hấp tấp,
không vội vàng. Đừng làm những bước nhảy vọt. Hãy áp dụng, hãy thực hành một
cách vững chắc. Nếu chúng ta bắt đầu tiến hành từ từ như vậy, chúng ta sẽ có khả
năng tiếp tục lâu dài một cách rất dễ dàng và rất thoải mái. Chúng ta sẽ thức tỉnh và kiểm
chứng được tất cả những gì chúng ta đang thực hành trong từng giây phút. Nếu chúng
ta nhảy vọt ngay từ lúc bắt đầu chúng ta sẽ bị gẫy chân; lúc đó nếu có lạt ma đến để chia
sẻ với chúng ta về sự tiến bộ, về những chứng nghiệm Đạo pháp thì chúng ta đã bị què
mất rồi, chẳng còn chia sẻ gì được. Trách nhiệm về sự thực tập lời dạy bảo này chẳng phải
ở ông thầy mà tại chính chúng ta.

Khi chúng ta qui y Phật, Pháp và Tăng là chúng ta quyết liệt với nghiệp của chúng ta. Có
nghĩa là chúng ta sẵn sàng canh giữ ba cửa ngõ thân khẩu ý của chúng ta và chúng ta tiếp
tục tỉnh thức trong từng hành động của chúng ta. Phương pháp để hoàn thành công việc
này là thiền định. Nếu chúng ta đã quyết định và đã có một phương pháp thích hợp thì
sự học hỏi triết lý và giáo pháp mới có ích lợi. Lúc đó càng học hỏi về thiền định và
biết thiền định trên những vấn đề gì, thì sự thực hành càng có kết qủa. Đời sống của chúng
ta và sự thực hành tâm linh của chúng ta sẽ dẫn chúng ta đến những bước cao hơn, do
chính sức mạnh và kết qủa của sự cố gắng này.

Để chứng nghiệm Đạo Pháp, cần hai điều kiện: học hỏi và thực hành. Không áp


dụng hai điều kiện này thì sự nguy hiểm nằm ngay trong phương pháp đó. Nếu chúng
ta đến với Đạo và học Đạo bằng cái “tôi” của chúng ta thì chúng ta sẽ chẳng thâu thập
được gì mà lại còn chuốc thêm đau khổ bởi chính sự ô nhiễm tinh thần này. Thí dụ, chúng
ta sẽ chỉ trở nên một người rất tinh thông về những danh từ và ý niệm mà thôi. Nếu chúng
ta học và thực hành không trọn vẹn, sự kiện này sẽ là nguyên nhân gây đau khổ cho
cái bản ngã kiêu mạn của chúng ta. Vì thế, mặc dầu Đức Phật có xuất hiện ngay trước
mặt chúng ta mà giảng dạy Đạo Pháp cho chúng ta, chúng ta cũng nhún vai mà nói với
Ngài rằng: “ Tôi biết rồi, ông không phải nói với “Tôi” những điều này nữa.” 

Thay đổi thái độ tâm linh này rất khó. Sức mạnh tinh thần của chúng ta có thể cấu tạo một
hàng rào hoài nghi rất vững chắc để bảo vệ chặt chẽ những ý niệm sai lầm “dễ thương”
của chúng ta. Cái thái độ sắt thép này chẳng những ngăn cản chúng ta tiếp xúc với người
khác mà nó còn phá hủy hoàn toàn những gía trị căn bản của một con người. Bởi vì chúng
ta cho rằng chúng ta biết tất cả mọi thứ nên chúng ta bị cầm giữ trong vô minh, như
vậy chúng ta sẽ chẳng còn một cơ hội nào đánh thức tâm ta để trốn thoát khỏi khổ đau.

Do đó, chúng ta cần nhiều cố gắng để thực hành những gì chúng ta đã học hỏi được. Thực


hành những gì chúng ta đã nghe, đã đọc và đã làm, đã nghĩ bằng tất cả năng
lực của chúng ta. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói. Hãy coi chừng nghiệp của chúng ta.
Nghiệp là một danh từ Phật giáo, tiếng Phạn là Karma, đây là một danh từ Aán độ, ý
nghĩa rất phức tạp. Hàng ngày chúng ta ăn, uống, ngủ, đi và nói chuyện với người khác.
Tất cả những hành động ấy tạo ra nghiệp, là nghiệp. Nói một cách đơn giản, tất cả
những năng lượng phát ra từ thân khẩu và ý đều là nghiệp. Tất cả nghiệp lực đều có phản
ứng, rồi nó lại tạo ra những phản ứng khác nữa, khác nữa, khác nữa.... Chúng ta không
cần đi sâu xa, phức tạp hơn nữa. Như vậy cũng đã qúa đủ để xác định khi vui sướng là
nghiệp qủa của những động lực lành mạnh đã được tạo ra từ trước, khổ đau là kết qủa của
những hành động bất thiện. Để nói về nghiệp, có khi phải cần cả một ngày, một tuần, một
tháng hoặc cả năm mới luận bàn hết được. Tuy nhiên, lời dậy bảo đơn giản bao giờ cũng
thấm hơn là những bài thuyết trình cầu kỳ bóng bảy, toàn là những lời trống rỗng, trò chơi
của chữ nghĩa.

Từ khi sinh ra đến bây giờ, những gì chúng ta đã nói, đã nghĩ, đã làm đều là những cơ hội
tạo ra nghiệp cho tương lai. Không có một giây phút nào mà chúng ta không tạo ra
nghiệp, chúng ta tạo nghiệp trong từng giây từng phút. Có thể chúng ta không tin nghiệp và
luật nhân qủa. Nhưng dù tin hay không tin, nó vẫn ở đó, như chiếc kim đồng hồ không
ngừng di chuyển. Cho tới khi nào chúng ta hiểu được tiến trình tạo nghiệp này, chúng
ta mới tỉnh thức về tất cả những hành động xấu mà chúng ta đã tạo ra do thói quen, lúc
đó chúng ta mới dễ dàng nhận ra bao nhiêu là rắc rối mà chính chúng ta đã mang lại
cho chúng ta.

Mỗi một phút chúng ta tạo ra hàng trăm thứ nghiệp, có nghiệp chúng ta đã cố tình tạo ra.
Trong sự yên tịnh của thiền định, chúng ta có thể nghe được tâm ta, đây là nguồn gốc và
nơi chốn của tất cả mọi hoạt động. Ở đây chúng ta có thể học hỏi, kinh nghiệm và nhận
diện được mọi hành động của chúng ta từ rất xa, sâu thẳm mà chúng ta không hề biết
trước kia. Công việc tự tỉnh thức này dẫn đến việc tự kiểm soát, đây là khả năng làm
chủ nghiệp lực của chúng ta thay vì để nó điều khiển chúng ta.

Phật giáo Đại thừa dậy rất rõ ràng minh bạch về con đường chuyển hoá tất cả những sinh


hoạt hàng ngày thành những phương tiện thiện xảo đưa đến giác ngộ. Ngay cả
những năng lượng tiêu cực cũng có thể chuyển thành những kết qủa tích cực. Điều này có
thể thực hiện được bởi vì tất cả những năng lượng này đều là sự diễn dịch của những thái
độ tinh thần, những thái độ này có thể dẫn đến mục đích đạo đức hoặc không đạo đức. Tất
cả đều đòi hỏi một sự tỉnh thức cao độ.

Vì hiểu và sinh hoạt với những nguồn năng lượng của chúng ta mỗi ngày nên chúng ta có
khả năng tạo được những bước rất dài trên con đường tâm linh. Không cần chúng ta phải
cắt bỏ những hoạt động hàng ngày của con người để đi đến một nơi nào đó tu dưỡng tâm
linh. Chúng ta có thể học hỏi ở mọi nơi mọi lúc. Phật giáo là con đường trung đạo, nó tránh
tất cả những gì gọi là cực đoan. Vì thế, nếu chúng ta thực sự chân thành muốn thực
hành Đạo pháp trong đời sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta thực sự cần một
đời sống quân bình. Đừng thẩm định qúa thấp hoặc quá cao công việc gì mà chúng
ta muốn hoàn thành, hãy cố gắng làm việc ở trong nội tâm càng nhiều càng tốt.
Nếu thực sự chân thành thực hành Đạo pháp trong đời sống hàng ngày, chúng ta sẽ được
đổ đầy lòng nhiệt tâm. Nếu chúng ta là những người có tuổi thì tâm hồn chúng ta sẽ trở nên
trẻ trung và tươi mát như một thiếu niên 15 tuổi. Còn không, thân xác và tâm hồn chúng
ta sẽ bị gìa đi và suy nhược chung với nhau. Chúng ta sẽ chẳng có trí tuệ, chúng ta sẽ
sống quãng đời còn lại rồi chết đi trong sự sợ hãi và ngu muội.

Vậy, chúng ta hãy cố gắng sống trong sự bình an của tâm hồn càng nhiều càng tốt. Hãy cố
gắng sống vui vẻ. Có qúa nhiều cơ hội sống tốt đẹp ở xã hội này, vậy hãy dùng nó cho
khôn ngoan. Hãy nhớ rằng mục đích chính của một xã hội đầy máy móc là để tiết kiệm thời
gian. Vậy hãy tổ chức đời sống sao cho có thật nhiều giờ dành cho thiền định. Rồi, khi nào
bắt đầu biết để ý đến nghiệp lực được tạo như thế nào qua thân khẩu và ý thì lúc đó là
lúc chúng ta mới thực sự thực hành Phật Pháp. Ngoài ra, mỗi khi chúng ta cố gắng ngồi
thiền chúng ta chỉ ngồi đó mà chẳng thực hiện được một kết qủa hữu dụng nào.

Ngồi, tự nó chẳng phải là thực hành.Tinh tấn và chuyển hoá mới thực sự là thực hành.
Khi tinh tấn, chúng ta cảm nhận được. Không cần phải hô hoán lên, “Ô Lạt ma, con đang
học Phật Pháp, con có tiến bộ không?” Sự cảm nhận chỉ có thể được chứng nghiệm bởi
chính anh, không phải Lạt ma hay bất cứ người nào khác. Chúng ta mỗi người đều có khả
năng nhận ra sự tinh tấn này.

Tôi nghĩ rằng tôi đã nói quá nhiều, nhưng tôi cũng nghĩ rằng tôi đã nhấn mạnh một điều gì
đó. Bây giờ chẳng còn gì để nói với quý vị nữa. Ước mong rằng sự gặp gỡ hôm nay sẽ
mang lại một nghiệp qủa tốt và tạo nhiều ơn ích. Nếu được như vậy, xin đừng phí phạm.
Hãy hồi hướng tất cả những thành qủa này cho muôn loài chúng sinh. Cám ơn qúy vị.

Tôi rất sung sướng vì ở Hoa kỳ có rất nhiều người mong muốn đi tìm sự bình an trường
cửu để đạt giác ngộ. Thật là may mắn cho qúy vị được chia sẻ nghiệp qủa với Trungpa
Rinpoche. Mong rằng sự cố gắng của ngài và sự thực hành liên tục của qúy vị sẽ mang
lại hạnh phúc và sự an lành cho tất cả mọi người.

3. TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN CỦA BẤT HẠNH


Sự thấu hiểu bản tính thật hay chân tính của những hiện tượng ở nội tâm có sức mạnh cắt
đứt tất cả những tình trạng mê mờ ảo vọng của tâm. Giống như một lưỡi kiếm cắt đứt
những vọng tưởng. Lưỡi kim cương sắc bén này có khả năng phá hủy trọn vẹn những
nguồn năng lượng tiêu cực. Với sự hiểu biết sâu xa của trí tuệ, tâm chúng ta sẽ tự nhiên đi
vào trạng thái trong sáng thanh tịnh, khi đó cảnh bình an chân thật của nội tâm sẽ
được thành lập. Chính vì lý do này mà Phật Pháp không chấp nhận một tình trạng hiểu
biết mù quáng. Điều vô cùng quan trọng là chính cá nhân chúng ta phải tự thẩm định và tự
chứng nghiệm sự thật về những lời dậy bảo ở trong chính tâm hồn của chúng ta, chứ
không phải nhắm mắt tin vào giáo điều. Sự thành đạt trí tuệ như vậy mới mang lại kết qủa
thực sự cho việc huấn luyện tâm để đạt tới mục tiêu. Chúng ta sẽ chẳng có tinh
tấn trên con đường học đạo nếu trí tuệ của chúng ta không làm việc một cách sắc bén.
Điều này đi ngược lại với sự nhận xét của một số người về tôn giáo -- theo họ, tôn giáo có
những tín điều không thể thay đổi hoặc không được chống lại vì nó ở bên ngoài tất cả
những lý lẽ, thắc mắc, bàn luận và nghiên cứu khoa học. Đáng tiếc thay, những tư
tưởng suy đồi trong hệ thống tín lý của tôn giáo lại làm vững mạnh thêm cho những quan
niệm độc đoán một chiều này. Ở đây tôi không đề cập tới những hình thức thoái
hóa của tôn giáo vì thực ra nó chỉ là những mê tín dị đoan. Đúng ra, tôi chỉ muốn nhấn
mạnh đến khả năng kỷ luật của nội tâm, nó có thể tạo được sự bình an thật cho chính
tâm mình và người khác.

Thật là sai lầm khi nghĩ rằng người có đạo nên tránh những điều mới lạ và những cơ hội có
thể làm lay chuyển đức tin của họ. Một tôn giáo đúng nghĩa thì tràn đầy trí sáng suốt, tại
sao tín đồ lại phải sợ bóng tối? Aùnh sáng thực sẽ không bao giờ bị ảnh hưởng bởi bóng
tối. Giống như thế, tâm trong sáng của trí tuệ không hề bị quấy nhiễu bởi một cái tâm mù
mờ và lầm lẫn. Cũng như sự nghiên cứu theo đúng tinh thần khoa học dù dưới bất cứ hình
thức nào cũng không đi ngược lại sự chân thật của tôn giáo. Nói cho cùng, bất cứ
sự nghiên cứu nào của khoa học cũng không chối bỏ được ánh sáng của mặt trăng và mặt
trời, thế thì tại sao họ lại chối bỏ ánh sáng của nội tâm?

Những kẻ yếu đuối - những ai thiếu con mắt phân biệt của trí tuệ - chấp nhận giáo lý một
cách thụ động. Họ không có nền tảng triết học và hoàn toàn không có gì bảo vệ cho những
điều họ tin, vì thế khi có ai thắc mắc lòng tin của họ là họ sẽ khó chịu ngay. Những người
như vậy thường có một đời sống hay đắn đo, hoang mang, sợ hãi bất cứ người nào hay
bất cứ gì có thể ảnh hưởng đến căn bản tinh thần mập mờ của họ. Tuy nhiên, thái độ này
không phải tại tôn giáo nhưng tại sự hiểu biết qúa hẹp hòi của họ. Đạo pháp luôn luôn
hướng dẫn chúng ta đi con đường ngược lại với thái độ này. Đạo pháp có khả năng hướng
dẫn một người biết phối hợp tất cả những kinh nghiệm trong đời sống vào một sự hợp
nhất toàn thể (một là tất cả, tất cả là một ), từ đó sẽ không còn sợ hãi và bất an.

Dĩ nhiên, loại triết lý và luận lý của đức tin tôn giáo không hoàn toàn giống như những loại
được dạy ở trường học. Thí dụ, loại lý luận toán học ở trường học dạy chúng ta giải
quyết những vấn đề có tính cách bên ngoài sao cho hợp lý. Còn nguồn gốc sâu thẳm ở bên
trong thì lại không được chú ý đến hoặc nếu có thì nó cũng chỉ đem lại những kết qủa giới
hạn mà thôi. Ngược lại, Đạo Pháp có một giá trị cao hơn và có tính cách bao trùm. Nó trực
diện thẳng với những vấn đề ẩn sâu trong nội tâm và thường được dùng để giải
quyết những vấn đề quan trọng trong cuộc sống như : Làm thế nào để tìm kiếm hạnh phúc,
tránh khổ đau cho chính mình và cho những người khác. Khi chúng ta giải quyết những rắc
rối trong đời sống qua Đạo pháp, chúng ta sẽ không thuần túy chỉ đề cập đến một vấn
đề hoặc ở một khía cạnh mà chúng ta phải khám phá ra tất cả những liên hệ giằng co ở
sâu thẳm bên trong của toàn thể vấn đề. Đây là điều kiện cần phải có cho những người nào
muốn liên tục khám phá và tìm hiểu những lý do “tại sao” và “thế nào” mà họ đã thiếu sót.
Kết quả là chúng ta sẽ hài lòng hơn rất nhiều với lối giải quyết này vì nó ảnh
hưởng đến toàn thể những gía trị của đời sống con người.

Làm thế nào để áp dụng kiểu lý luận nội tâm theo Đạo pháp? Có thể qúy vị không được hài
lòng, và có thể sự chán ghét đang nổi lên trong tâm của qúy vị. Thay vì quan sát hiện
tượng này một cách thụ động hoặc bỏ qua một bên, qúy vị hãy tự hỏi và tìm hiểu xem cái gì
đang xẩy ra trong tâm của chúng ta, tại đây, ngay bây giờ. Hãy cố gắng khám phá xem tại
sao anh không hạnh phúc, anh không hài lòng để có tình trạng chán ghét xẩy ra. Nói cách
khác, hãy tự hỏi chính mình nếu phải làm một điều gì, liệu tôi có tinh tiến hay không. Phân
tích như vậy không phải là một hành động bấn loạn thần kinh. Nhưng, đây chính là đường
lối giải quyết vấn đề của chúng ta.
Hỏi như vậy là tạo ra một tiến trình cho nguyên nhân để dần dần dẫn đến một giải pháp. Nó
giống như tiến trình thí nghiệm đi thí nghiệm lại của một nhà khoa học để dần dần chứng
minh cho một vấn đề mà ông ta đang nghiên cứu. Trong lúc tạo những kinh nghiệm nội
tâm, chúng ta nên hỏi chúng ta thật nhiều câu hỏi cho cùng một vấn đề. Bằng cách
này, chúng ta sẽ phát triển và sẽ trưởng thành trong tâm linh, kết qủa là những sự khó chịu
và những bất mãn của chúng ta đang từ từ bị loại bỏ. Thí dụ, chúng ta sẽ phân tích được
sự chán ghét đang nổi dậy trong chúng ta và sẽ khám phá ra chẳng những nguyên
nhân của nó mà cả kết qủa của nó để chúng ta biết cách mà hoá giải nó.

Chúng ta thường bị đau khổ vì những tham vọng qúa lớn hoặc bám víu chặt vào cái gì đó.
Đây là kết qủa của những kinh nghiệm cảm thọ “hài lòng” không được kiểm soát,
không tỉnh thức trước kia mà bây giờ chúng đang có liên hệ tới đối tượng này bây giờ. Mỗi
khi cảm thọ này nổi lên, chúng ta nên quan sát nó và nhìn cho thật rõ cái gì đang xẩy ra,
đang dấy lên trong tâm của chúng ta. Đây là một điều vô cùng quan trọng để thẩm định lý
do tại sao cảm thọ hài lòng lại sản xuất ra, lại là nguyên nhân cho những tình trạng khó chịu
của lòng ước muốn và tham lam. Cũng giống như vậy, mỗi khi sầu khổ, mỗi khi có
chuyện bực mình, hãy cố gắng khám phá xem tại sao cảm thọ này lại tự động dẫn đến sự
thù hận, oán hờn và ganh ghét. Đôi khi chúng ta có những cảm thọ không vui cũng không
buồn trên một vài sự kiện nào đó. Những loại cảm thọ này thường dẫn đến tình trạng mờ
mờ ảo ảo, một tình trạng vô minh ngu ngơ làm chúng ta không muốn để ý đến đối tượng
một chút nào. Cả ba loại phản ứng này về những kinh nghiệm của chúng ta, chúng không
luôn luôn xuất hiện một cách rõ ràng, thiết thực hoặc sống động, nhưng nó thường xuất
hiện một cách rất tế nhị, ở thể vi tế. Là một con người, chúng ta bị chúng chi phối thường
xuyên không ngừng, ngay cả lúc chúng ta không để ý đến chúng. Vì thế, nếu chúng
ta muốn huấn luyện tâm, chúng ta cần phải mài sắc trí tuệ của chúng ta và luôn luôn tỉnh
thức: “cái gì đang thực sự xẩy ra ở bên trong tâm của tôi?”

Mỗi khi chúng ta nhìn thẳng vào bản tính của những cảm thọ và quan sát xem chúng hoạt
động như thế nào, chúng ta sẽ khám phá ra rất nhiều điều thú vị. Nếu tôi tạo ra một vài tâm
trạng ở đây thì qúy vị sẽ thấy tất cả những rắc rối tâm lý đều do những cảm thọ mà ra. Khi
một cảm giác vui sướng xẩy ra thì cái tâm không thức tỉnh của chúng ta liền bị quay cuồng,
bị đưa đẩy bởi chính những cảm giác vui sướng này. Khi một cảm giác khó chịu xẩy ra,
tâm chúng ta liền bị mất thăng bằng, liền bị mất kiểm soát và những rắc rối liền xuất
hiện tiếp theo đó. Ngay cả những cảm thọ trung tính, không vui không buồn, tơ lơ mơ cũng
dẫn chúng ta đến khổ đau hoặc trở ngại. Vì chúng ta muốn bỏ qua những gì đang phát
khởi ra ở giữa những cảm thọ này nên chúng ta đã bỏ qua thực tính của chúng. Kết qủa
của những gì chúng ta đã bỏ qua, đã nhắm mắt lại trước các hiện tượng xẩy ra lại là nền
tảng của vô minh, và nó hoàn toàn đi ngược lại với việc phát triển trí tuệ giải thoát.

Như vậy tham lam, ganh ghét và những rắc rối tâm lý khác đúng là do cảm thọ gây ra,
nhưng thực sự ra đây mới chỉ là một nửa mà thôi. Những tình trạng tâm lý này lại thay
phiên nhau trở lại để quấy rầy những cảm thọ khác nữa. Đây chính là cái vòng luẩn
quẩn xấu xa. Cái này là nguyên nhân của cái kia, chúng quay vòng vòng trong tâm
thức của chúng ta không bao giờ ngừng, chúng quấy phá cuộc đời chúng ta và những
nguồn năng lượng của chúng ta.

Thật là ích lợi biết bao nếu chúng ta tìm hiểu gần hơn, sâu xa hơn về thực tính của
những cảm thọ của chúng ta. Hãy quan sát xem cái gì đang xẩy ra trong ý thức, trong tư
tưởng, trong tâm của chúng ta, qúy vị gọi nó bằng bất cứ tên gì cũng được. Đây là một việc
làm rất có gía trị, có ai phản đối không? Chúng ta nên tự hỏi: những phương pháp mà giáo
lý tôn giáo dậy có hiệu quả cho việc tìm kiếm sự bình an thật ở tâm hồn không? Khoa học
và triết học có đi ngược lại những phương pháp khám nghiệm này không? Không, hoàn
toàn không. Sự thật là, nền tảng của triết học, như tôi đã trình bày trước kia, chỉ làm mạnh
thêm cho những ý thức phát khởi từ nội tâm. Không có niềm tin vững chắc đó, chúng ta sẽ
không có một câu trả lời xác thực mỗi khi có người nào hỏi chúng ta về nó. Một giải
quyết tinh thần không được mập mờ, không được lúng túng như vậy.

Chúng ta hãy tìm hiểu gần hơn, sâu xa hơn về bản tính của những cảm thọ của chúng ta.
Cho dù chúng vui, buồn hay không vui không buồn, hầu như tất cả đều là kết quả của
những sự phân biệt sai lầm. Sở dĩ có những sự phân biệt sai lầm vì chúng đặt căn bản trên
những vọng tưởng của tâm, mà những vọng tưởng này lại luôn luôn che mắt chúng ta,
không cho chúng ta nhìn đúng sự thật. Đây là sự thật của bất cứ một hiện tượng nào, dù ở
bên trong hay ở bên ngoài, dù có sinh khí hay không có sinh khí, dù hoạt động hay bất
động. Cảm thọ không chỉ phát khởi khi một người phản ứng với một người khác.
Chúng xuất hiện khi có sự liên hệ với bất cứ cái gì (duyên khởi). Trong hầu hết các nghịch
cảnh đều có một đối tượng mà những cảm thọ bị quấy rầy lại chính là chủ nhân. Điều này
cho chúng ta thấy rằng chúng khác biệt hay tách biệt với cái khác, ví dụ một người nói, “Tôi
ghét thằng đó,” nhưng thực ra, một cách nào đó, cảm thọ của anh ta đã tạo ra đối tượng
này. Vì thế tôi muốn nói rằng đối tượng của những cảm thọ của chúng ta không thể
gây ảnh hưởng đến thực tính của bất cứ một hiện tượng bên ngoài nào. Đó thuần túy chỉ là
những lớp sơn vọng tưởng của một cái tâm phân biệt một cách mù quáng mà ra.

Do đó, thực là dễ dàng, thực là đơn giản để đối diện, để đối đầu với những nguồn mâu
thuẫn tinh thần có thể xẩy ra. Chỉ cần nhớ bất cứ cái gì đến quấy rầy những cảm thọ nội
tâm của chúng ta đều là những ý niệm sai lầm của tâm vọng tưởng. Quan sát những đối
tượng này sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn sáng tỏ hơn về những sự việc đang xẩy ra mà
không cần phải dùng đến những phương pháp phức tạp nào khác. Chỉ cần chiêm
nghiệm đời sống của chính chúng ta. Bất cứ cái gì chúng ta đang nhận thức, đang sinh
hoạt, đang cảm nhận, hãy chiêm nghiệm ngay xem có phải chúng ta đang lừa dối chính
mình không. Hoặc nói một cách chính xác hơn, hãy quan sát xem tâm của chúng ta có
đang gán ghép, có đang phóng đại một nhận xét không có thực cho đối tượng mà chúng
ta đang nhận thức hay không, có thể nó đang lừa dối chúng ta vì một lý do mâu thuẫn và
nhiễu loạn.(Nhiều khi chúng ta nói sai sự thật cho một người hay cho một sự
kiện mà chúng ta đã gặp vì một lý do nào đó. --Dg)

Chúng ta thường nghĩ rằng những rắc rối của chúng ta là do người khác đem lại hoặc họ
chiếm mất hạnh phúc của chúng ta. Tuy nhiên, khi nhìn sâu xa hơn thì chẳng kiếm thấy
một kẻ thù nào cả. Từ vô thuỷ, qua biết bao nhiêu kiếp và từ khi sinh ra cho đến bây
giờ, chúng ta đã tự đánh lừa chính mình qúa nhiều rồi. Có thể chúng ta nghĩ, “ Tôi không
bao giờ hành động như vậy, tôi là một người tốt.” Nhưng chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu
được sự thật nếu chúng ta cứ mãi nhìn sự kiện theo chiều hướng này. Hãy khám xét
những thái độ tinh thần của chúng ta mỗi khi đối diện với sự kiện và hãy tìm
hiểu xem chúng ta đã gán ghép, đã phóng đại sai lầm cho những người mà chúng ta đã
gặp hay cho những hiện tượng xẩy ra trong cuộc sống như thế nào.
Hầu như lúc nào chúng ta cũng sơn phết cho mọi vấn đề: chúng ta tự diễn dịch mọi hiện
tượng theo lối nhìn hạn hẹp của chính chúng ta. Chúng ta có thể khám phá ra xu
hướng này một cách dễ dàng, không cần phải dùng tới những phương pháp phân tích đặc
biệt. Chỉ cần dùng luật tương đối, sự xuất hiện rất bình thường của sự vật, hãy tự hỏi chính
mình: “ Tôi là ai? Tôi là cái gì?” Một vài hình ảnh về cái tôi mà chúng ta nghĩ chúng ta sẽ là
sẽ xuất hiện ngay, nó rất tương đối với sự thật. Hãy tự nhìn cho thật rõ chính mình. “Đây
chính là tôi ư? Đây thực sự là tôi sao? Tôi luôn luôn xuất hiện như thế này với tất cả mọi
người ư?” Khi thật sự quan sát mình một cách vô cùng thành thật, chúng ta sẽ nhận ra lớp
sơn kia là giả dối. Chúng ta sẽ nhìn thấy chúng biến mất trong sự gỉa dối. Chúng
ta sẽ khám phá ra chính chúng ta đã bóp méo tất cả những nhận thức của chúng ta về
những hiện tượng ở bên ngoài. Chúng ta sẽ nhìn thấy lớp sơn của chúng ta, một
thế giới cảm quan toàn là những vọng tưởng sai lầm và chúng ta sẽ nhìn ra được
những cảm thọ được khởi lên bởi những vọng tưởng hư ảo đưa đẩy chúng ta tới lui giữa
những hứng khởi và tuyệt vọng. Cái vòng bất toàn này, căn bản là hư ảo, được gọi là luân
hồi, sự nghiên cứu và quan sát của chúng ta chỉ cho chúng ta biết đây chỉ là những ảo
cấu của tâm chúng ta.

Nếu chúng ta huấn luyện chúng ta nhìn sự vật theo chiều hướng này, chúng ta sẽ không
còn bao giờ nghĩ rằng những rắc rối của chúng ta là do lỗi lầm của xã hội, của quê hương
hay của cha mẹ chúng ta nữa. Chúng ta sẽ công nhận những vấn đề này là của tâm chúng
ta, xẩy ra ở trong tâm của chúng ta. Để sửa soạn cho phương pháp phân tích này, trước
nhất chúng ta cần phải biết làm thế nào suy nghĩ một cách rõ ràng trong sáng. Phương
pháp này giúp chúng ta biết sắp xếp những hiện tượng khác nhau mà chúng
ta muốn nghiên cứu học hỏi. Lại nữa, sự thật không hiển lộ ngay lập tức, mà tùy theo sự tin
tưởng của chính chúng ta. Có nghĩa là chính chúng ta phải đi trên tiến trình học hỏi này.
Bởi vì chính sức mạnh của trí tuệ không lầm lẫn của chúng ta là lực thúc đẩy chúng
ta trong sự học hỏi và tìm hiểu này, nó sẽ cho chúng ta rất nhiều năng lực để chúng ta kiểm
soát cuộc đời của chúng ta.

Không có gì nguy hiểm khi chúng ta chấp nhận khảo nghiệm đời sống hàng ngày


của chúng ta bằng chính những kinh nghiệm của chúng ta. Không có gì lừa dối và hướng
dẫn sai lầm trong triết lý thực hành này. Chúng ta sẽ nhìn ra được tất cả những rắc rối tinh
thần của chúng ta, chúng đều được tạo ra bởi lớp sơn vọng tưởng của thế giới cảm quan.
Vì bị u mê bởi ảo vọng, chúng ta đã phán đóan sai lầm cái này tốt cái kia xấu. Nhưng thế
giới ảo tưởng không phải là thế giới của con người. Nó là thế giới của ai? Chúng ta hãy tự
khám nghiệm lấy! Cái nhìn của tôi về “California” không phải là cái nhìn của người khác.
Đây là lý do tại sao Phật giáo giám mạnh dạn mà nói rằng, tất cả những hiện tượng đều do
tâm của chính chúng ta tạo ra. Lời nói này là một sự thật, ý nghĩa cốt tủy của nó không thể
phát sinh bởi những kẻ đạo đức giả hay bởi một cái tâm bị ô nhiễm. Chúng ta nên khám
nghiệm và tự kinh nghiệm lấy bản tính huyễn ảo trong những vọng tưởng của chúng ta. Chỉ
bằng cách này chúng ta mới có thể khám phá ra sự thật đang nằm sâu ở bên trong.

Truy tìm, khám nghiệm chính là thực hành. Thiền định không có nghĩa là ngồi yên trong
một góc nào đó mà không làm gì cả. Hoàn toàn không phải như vậy. Không cần biết anh
đang làm gì, cũng chẳng cần biết anh thuộc môn phái nào, anh có thể khám nghiệm bất cứ
lúc nào, phải không? Đây là một việc có thể làm được ở bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu.Thật
là vô cùng sai lầm khi nghĩ rằng thiền định của Phật giáo chỉ dành cho những kẻ lười biếng,
không muốn làm gì cả. “ Tất cả những thiền gỉa chỉ là những người ngồi không, ăn, ngủ và
đi cầu !” Những người không hiểu biết có thể nghĩ như vậy, một số thiền gỉa cũng có thể
nghĩ như vậy. Nhưng những vị chân thiền giả là những người hoàn toàn chịu trách
nhiệm về tất cả con đường tinh tiến và phát triển của họ. Họ không sợ bất cứ gì nên cũng
chẳng cần phải dấu diếm điều gì trong một góc nhà nào đó. Đức Phật không dậy thiền như
vậy. Sự hiểu biết nông cạn và bất hảo về Đạo pháp hay về tôn giáo có thể là nguyên
nhân dẫn đến sự bất toàn và xa rời sự thật. Sự chân thành thiền định là một sự thực
hành nghiêm chỉnh, một sự đối chất ngay thẳng để phá tan lớp mây mờ ảo vọng mà tiến
đến trái tim của chân tính.

Hãy nhớ rằng cảm thọ bao gồm luôn cả những cảm xúc. Chúng có thể là những cảm
thọ tinh thần, có thể là những xúc động hay ngay cả những niềm tin nhảm nhí. Tất cả
những hiện tượng đang diễn ra đều là đối tượng của cảm thọ. Tuy nhiên hầu như trong mọi
lúc chúng ta chẳng biết chúng ta đã cảm nhận chúng như thế nào. Đó là lý do tại sao chúng
ta hãy luôn luôn quay vào trong mà kiểm soát chính mình. Bằng cách này chúng ta sẽ từ từ
phát triển được trí phân biệt tối thượng. Với trí tuệ phân biệt này, chúng ta có khả
năng kiểm soát được những cảm thọ không trong sáng và những cảm thọ rối loạn để giải
thoát chúng ta khỏi vòng cương tỏa của chúng.

Người ta thường nói: “Đừng phân biệt ! Phân biệt là nguồn gốc mọi rắc rối .” Tuy
nhiên, chúng ta đều biết thế giới này luôn có hai ý nghĩa khác nhau. Sự phân biệt sai
lầm phát khởi khi lớp sơn huyễn ảo của tâm vọng tưởng nhầm lẫn về chân tính, nó
làm chúng ta nghĩ, “Tôi thích cái này,” “Tôi ghét cái kia,” “Oâng ta đúng,” “Cô ta sai,” ...vân
vân... Những phản ứng này tuyệt nhiên không có gì liên hệ đến chân tính nên loại phân
biệt này hoàn toàn là giả dối, lường gạt.

Nhưng loại phân biệt đúng đắn lại là bản tính của trí tuệ. Nó biết cái gì là sự thật và luôn
luôn giúp tâm chúng ta hoạt động một cách trong sáng. Nếu không như vậy, sự vật sẽ
luôn xuất hiện một cách lung tung lẫn lộn. Ngay ở trong bình diện thế tục, trí phân biệt này
cũng cần thiết, nếu không có nó làm sao chúng ta có thể chuẩn bị được bữa cơm trưa nay.
Nếu chúng ta nghĩ, “Tôi đã thoát ra khỏi mọi sự phân biệt, tôi có thể trộn tất cả mọi thứ vào
cái bát này,” như vậy bữa ăn của chúng ta sẽ tệ lắm phải không qúy vị?

Vậy, để nhìn sâu vào những thái độ tinh thần của chúng ta, để khám phá xem cái gì mạnh
mẽ, cái gì cần được kiểm soát, dĩ nhiên chúng ta cần sự phân biệt. Nếu không, ai sẽ kiểm
soát chúng ta? Ví dụ như khi chúng ta đi sâu vào thiền định, một phần tâm của chúng
ta nên ở bên ngoài để chú ý theo dõi những giá trị của thiền định. Nó phải quan sát xem
các sự kiện có tiến triển đúng hay không? “ Các nguồn năng lượng có đi đúng hay không?”
“ Tôi có bỏ rơi đối tượng của thiền định không?” Nếu chúng ta không làm như vậy, cái tâm
không được kiểm soát của chúng ta sẽ đi lang thang lung tung trong hàng ngàn hướng
khác nhau. Rất nhiều người nghĩ rằng thiền định sâu có nghĩa là tâm không còn biết phân
biệt gì nữa cả. Không bao giờ chúng ta được rời xa sự chú tâm. Không cần biết chúng
ta đang làm gì - kiểm chứng một điểm nào đó trong Đạo Pháp, cố gắng nhất tâm thiền
quán, thực hành sâu xa hay đắm chìm trong đại trí -- thì sự thiền định và sự chú
tâm trong vấn đề đó cũng phải đồng điệu hoà nhập với nhau. Đây là điểm vô cùng quan
trọng và thực sự có gía trị để giữ cho sự tỉnh thức luôn luôn có ở tâm của chúng ta.

Hãy thử nghĩ xem, chúng ta đã tiêu hết bao nhiêu năng lượng cho các siêu thị. Đứng
trước bức tranh quảng cáo chiếc răng trắng long lanh của hãng bán thuốc đánh răng, hình
như chúng ta đã phải dùng trí lực để so sánh chọn lựa mua cái nào cho đúng, “Tôi có nên
mua cái này không? Có lẽ loại kia mới tốt. Cái nào rẻ hơn? Hộp kia trông hấp
dẫn hơn...vân vân....” Hao tốn qúa nhiều năng lượng! Khi đứng trước những đối tượng hào
nhoáng không thể quyết định, hãy tự hỏi cái nào thực sự đem đến sự thoải mái cho chúng
ta: những món hàng trong siêu thị hay sự hiểu biết của tâm? Siêu thị chỉ đem lại
những thoải mái giới hạn và nhất thời. Nhưng sự hiểu biết sâu xa của trí tuệ sẽ đem lại
sự thoải mái lâu dài và sự an lạc vĩnh cửu. Đây là một sự thật. Nói xa hơn nữa, không ai có
thể phá hoặc quấy rầy sự hạnh phúc mà chúng ta có được từ trí tuệ, bởi vì nó ở trong này,
trong tâm của chúng ta. Chỉ cần chúng ta biết huấn luyện, biết tu tâm thì sẽ không bao giờ
xa rời niềm hạnh phúc này.

Chúng ta có rất nhiều cơ hội, có rất nhiều may mắn để thực hiện sự thật này trong đời sống
hàng ngày của chúng ta. Nhưng trước khi chúng ta chấp nhận sự thực hành Đạo
Pháp, thực hành một giáo lý tôn giáo hoặc bất cứ một hình thức văn hoá nào, chúng
ta nên suy nghĩ và quyết định một cách vô cùng sáng suốt, nó có thực sự đem lại hạnh
phúc cho cuộc đời của chúng ta không. Chúng ta có thực sự tin rằng chúng ta có thể tìm
được hạnh phúc trong những mê hoặc của ước muốn trần gian không, hay chúng ta lại
phải tìm kiếm sâu xa hơn nữa cho sự viên mãn trường cửu? Nếu chúng ta không phân
biệt được và không thể thông suốt được vấn đề này thì sự chọn lựa con đường đạo
--một tôn giáo hay bất cứ gì--chỉ là một việc làm mù quáng mà thôi. Con đường phát
triển tâm linh chỉ tinh tiến rất hạn hẹp nếu không có một căn bản cốt tủy nằm sâu trong cá
tính của chính chúng ta. Sẽ chẳng có một ơn ích nào phát khởi trong tâm chúng ta vì nó
vẫn còn bị che phủ bởi một lớp mây mù và những cảm thọ đầy mâu thuẫn. Vậy, chúng
ta cần phải nhìn vào bên trong, trong sâu thẳm tâm thức của chúng ta xem cái gì mới thực
sự tốt nhất cho chúng ta, hãy cố gắng khám phá ra bản tính chân thật của tâm chúng ta.

4. VỌNG TÂM PHÁT SINH NHƯ THẾ NÀO


Mục đích của thiền định là để có trí tuệ hầu chấm dứt tất cả những ảo tưởng và u
mê. Trước tiên, sự chấm dứt này tùy thuộc vào ta có nhận ra được đặc tính và sự làm việc
của vọng tâm hay không. Thêm vào đó, cần phải hiểu rằng có rất nhiều yếu tố khác
nhau ảnh hưởng đến sự phát sinh một tâm huyễn ảo.Theo quan niệm này, Je Tsongkhapa
( Đại Lạt Ma của Tây Tạng sống vào thế kỷ 15, Ngài sáng lập ra các truyền thống tu
tập Lamrim và Ngagrim --Dg) liệt kê sáu yếu tố, sáu động lực có ảnh hưởng mạnh đến việc
phát sinh ra ảo tưởng: (1) nghiệp lực, (2) đối tượng, (3) ảnh hưởng của xã hội, (4) tuân
theo những lời dậy bảo sai lầm, (5) thói quen và (6) do những ý niệm sai lầm.

Nguyên nhân cốt tủy phát sinh ra vọng tâm là những dấu ấn của nghiệp lực đã để lại
trong tiềm thức của chúng ta bởi những hành động không tinh khiết trong qúa khứ. Vì
những hành động trước kia đã được hoàn thành trong vô minh, được điều động bởi
lòng tham lam, sân hận hoặc do muôn vàn những ảo vọng khác; có qúa nhiều dấu ấn - hạt
giống của nghiệp - đã được trồng trong tâm của chúng ta. Mỗi khi gặp điều kiện thích hợp,
những hạt giống này nảy mầm là vọng tâm lại phát sinh.

Chính đối tượng là yếu tố thứ hai giúp cho sự nảy mầm này. Mỗi khi đối tượng đến gần ta
cộng với nghiệp đã có sẵn trong tâm ta là, bang! ảo tưởng phát sinh, vọng tâm thành
hình. Thí dụ, một việc thường xẩy ra là khi chúng ta đi mua sắm, đi shopping. Đối tượng
(hàng hoá) sắp sẵn trên kệ, chúng đập vào mắt ta, ngay trước khi chúng ta chưa kịp nhận
diện được cái gì đang xẩy ra thì tâm của chúng ta đã bị chìm đắm trong đối tượng. Chúng
có thể ẩn sâu trong nhiều ngõ ngách và rất khó phân biệt đâu là tâm và đâu là đối
tượng ham muốn; tay của chúng ta đã tự động cho vào túi lấy tiền để mua, có khi còn chưa
kịp nhận ra chúng ta đang làm gì. Thật là đơn giản, phải không qúy vị? Vậy, mỗi khi chủ thể
(tâm) có liên hệ với đối tượng là ngay lập tức ảo vọng bùng nổ như một trái bom nguyên tử.

Ở Tây phương cái gì cũng xôi động, cũng nhanh, cũng được phóng đại ra nên cái vọng
tâm càng hoạt động nhiều hơn nữa. “Hãy nhìn đây, thật là tuyệt hảo ! Thật là vĩ đại !” Kỹ
thuật quảng cáo qúa tinh vi qúa hấp dẫn và được dùng thường xuyên đến nỗi khi chúng
tôi muốn trình bày về thiền, chúng tôi cũng phải quảng cáo, “ Thiền định thật là tuyệt vời!
Tâm của chúng ta thật là lạ thường! Kính mời qúy vị đến tham dự buổi thuyết trình để học
hỏi về chúng.” Hình như văn hoá của Tây phương qúa nhiều đối với tôi.

Đức Phật đã cho chúng ta một cái tên thật là đơn giản cho vấn đề này. Ngài gọi cõi
giới mà chúng ta đang sống là “cõi dục”, thế giới của dục vọng. Thật là rõ ràng và dễ
hiểu tại sao Ngài lại gọi nó như vậy. Thế giới của dục vọng -- dục vọng là ở đây! Mỗi khi
tâm vọng tưởng tiếp xúc với vật được ham muốn là ngay lập tức nó bị hướng dẫn vào u
mê, vào say đắm, đã u mê lại càng u mê hơn. Đó là lý do tại sao Milarepa ( đại thiền
giả, đại thi sĩ của Tây tạng sống vào thế kỷ thứ 11-- Dg) đã vào hang cốc để ở. Ngài đã biết
mỗi khi tâm vọng tưởng tiếp xúc với vật được ham muốn là ngay lập tức nó không còn
được kiểm soát nữa. Đó là lý do ngài cho rằng tốt hơn nên tránh tất cả những tiếp xúc cho
tới khi tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh.

Đối tượng làm nguyên nhân cho sự khởi phát một tâm vọng tưởng chắc chắn phải có
sự liên hệ với nghiệp lực. Đây là lý do mà chúng được gọi là “vật liên hệ, sự kiện liên
đới.” Thí dụ, có thể chúng ta đã có một nghiệp lực liên kết nào đó ở trong tâm của chúng ta,
nghiệp này được đánh thức bởi những ham muốn, nhưng lại không được đánh thức bởi
những gía trị mâu thuẫn hoặc khác biệt với nó. Như vậy là chủ thể tâm đã có sự ràng
buộc về nghiệp với đối tượng. Nếu không có sự tiếp xúc (duyên) với đối tượng thì chủ
thể ảo tưởng không thành hình .

Yếu tố thứ ba được Lạt ma Tsongkhapa nói đến là những sự ảnh hưởng từ bên ngoài.
Tính tiêu cực, sự sai lầm của những người chung quanh là nguồn gốc của ảo vọng. Những
người chúng ta quen biết, những người chúng ta tiếp xúc hàng ngày thường đem đến
cho chúng ta những lầm lạc, những tin tức không đúng sự thật. Do đó, khi tiếp xúc với bạn
bè hay thân cận với bất cứ một người nào cũng phải vô cùng thận trọng. Thí dụ, nếu tất cả
những người chung quanh chúng ta đều say sưa rượu chè thì chúng ta cũng bị ảnh
hưởng không ít thì nhiều. Nếu chúng ta có đủ lực để kiểm soát tâm thì sẽ bị ảnh
hưởng ít, nếu không chúng ta cũng sẽ buông xuôi trong một sớm một chiều.
Thật khó mà giữ được sự kiểm soát lâu dài đối với những ảnh hưởng mãnh liệt. Nếu chúng
ta thật tình muốn khám nghiệm đời sống chúng ta, tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ tìm ra rất
nhiều những thí dụ loại này. Sự ảnh hưởng này không có giới hạn cho cả bạn xấu cũng
như bạn tốt. Trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta gặp rất nhiều “những loại thầy” này, họ
toàn là những người cung cấp thêm ảo tưởng cho chúng ta. Do đó, phải rất thận trọng khi
chung sống với những người chung quanh, họ phải là những người cho chúng
ta những rung động đúng, những rung động của trí tuệ. Còn không, cả đời sẽ chỉ tiếp
xúc với ô nhiễm, với những làn sóng lầm lạc, u mê. Điều này không có nghĩa là chúng
ta phải hoàn toàn buông bỏ tất cả những người bạn xấu hoặc ghét họ hay nghĩ xấu cho họ.
Không, hoàn toàn không nên có phản ứng như vậy. Hãy luôn luôn phát tâm từ bi. Chúng
ta nên nhớ rằng chúng ta cũng đã bị ô nhiễm; chúng ta không nên đỗ lỗi cho bất cứ ai.
Sự ảnh hưởng của họ chỉ làm cho ô nhiễm càng ngày càng dầy thêm mà thôi.

Tâm của người Tây phương thật hấp dẫn, thật lạ lùng. Nó rất thực tế, nó nghi ngờ tất cả
mọi thứ. Đây có thể là phong cách tốt, ngay cả với những sự kiện sai sự thật. Nhưng, tâm
của họ cũng thật xa thực tế. Nếu nó nhìn ra được một sự kiện tốt, một hình ảnh đúng ở bên
cạnh thì nó sẽ không ngần ngại gì mà không chấp nhận ngay toàn thể vấn đề là tốt. Thái
độ này rất nguy hiểm. Họ nhận xét, tất cả những nền triết lý, giáo điều của các tôn giáo ít ra
nó cũng có điểm tốt. Ngay cả một kẻ xấu nhất trần gian cũng có một cái gì đó tốt ở trong
họ. Do đó, một cái tâm chạy lung tung không được kiểm soát khi nó tìm ra được một điểm
nào tốt, nó liền vồ chụp ngay lập tức, hành động này chẳng đúng chút nào.

Tôi không hiểu tại sao, nhưng hình như tâm của người Tây phương pha trộn nhiều thứ; nó
pha trộn rất nhiều hương vị khác nhau thành ra nó rất hấp dẫn. Xin qúy vị thử khám nghiệm
xem nhận xét này có đúng không. Trong bất cứ trường hợp nào, thái độ này cũng có thể
gây ra rắc rối hoặc phiền toái. Thí dụ, có thể anh đang chú tâm lắng nghe một người
đang diễn tả một tư tưởng mà thực ra nó hoàn toàn sai lạc. Anh nghĩ, “Chẳng cần biết
họ nói đúng hay sai nhưng nó thật hấp dẫn. Hãy cứ để ông ta nói thêm đi.” Tôi cho rằng
tâm của người Tây phương như vậy -- một sự hiếu kỳ lạ thường và sẵn sàng nghe bất cứ
gì. Nhưng thực ra, mỗi một ý niệm sai lầm, mỗi một tin tức sai lạc mà chúng ta chấp
nhận theo kiểu này, đều làm cho tâm vọng tưởng của chúng ta mỗi dầy thêm. Đó là lý
do tại sao tôi cho rằng thái độ này vô cùng nguy hiểm.

Tất cả những liên hệ đến yếu tố thứ tư làm nguyên nhân cho sự phát sinh một cái tâm vọng
tưởng là nghe theo những sự dạy bảo sai lạc. Yếu tố này khác với yếu tố trước, yếu tố thứ
ba, là nó đặc biệt chú trọng đến sự chọn lựa ai và cái gì có ảnh hưởng xấu đến chúng
ta. Yếu tố thứ ba đề cập một cách tổng quát đến kiểu sống của chúng ta, đến hoàn
cảnh sống của chúng ta. Tuy nhiên, yếu tố thứ tư đề cập đến sự tin tưởng đặc biệt vào một
vị thầy rồi lắng nghe và tuân theo những ý niệm sai lầm mà ông ta giảng dạy.

Thí dụ, trong thời Đức Phật Thích Ca sống có một người đã dùng một phương pháp rất
quái đản để tìm giải thoát, ông ta đi gặp một vài vị thầy. Thầy của ông bảo ông hãy đi giết
một ngàn người rồi lấy những ngón tay mà làm xâu chuỗi, “Khi nào xong việc, anh hãy trở
lại để nhận bài học khác.” Người đàn ông này tên là Angulimala, tin tưởng vào lời dậy bảo
của thầy, đã giết đến 999 người trước khi gặp Đức Phật, Phật chỉ cho ông cách thực
hành Đạo Pháp chân thật. Do đó ông đã vô cùng hối hận và sầu khổ vì sự tin tưởng mù
quáng của mình.
Những lời dậy bảo, về bất cứ loại nào, đều có thể rất hấùp dẫn. Nhưng khi con người đi tìm
sự thích thú ở sự vật thì thường thường đó chỉ là lòng ham muốn, mong cầu. Điều này thấy
rất rõ ở những đứa trẻ. Trước khi những đứa trẻ Tây phương đi ngủ chúng thường
được cha mẹ chúng đọc cho nghe những câu chuyện. Phải đúng như vậy không qúy vị?
Những câu chuyện nghe thật hay, thật hấp dẫn, nhưng hầu như toàn là chuyện vớ vẩn. Trẻ
con rất nhậy cảm và thích mơ mộng theo chuyện thần tiên. Chúng tin những chuyện đó là
có thật và dĩ nhiên chúng được in sâu vào trong tâm khảm. Phần nhiều các bậc cha
mẹ không để ý đến điều này, họ thường nghĩ, ”Không sao đâu, miễn là chúng thích và ngủ
đi là được rồi.” Họ không biết cái hậu qủa gì đang diễn tiến trong tâm trí của đứa trẻ, cái
hậu qủa gì đang sản xuất ra trong tâm của chúng. Điều quan trọng là chúng ngủ càng
nhanh càng tốt để cha mẹ được rảnh rỗi, để cha mẹ được ngủ yên, đừng quấy rầy là tốt
rồi. Nhưng điều này chẳng đúng một chút nào. Thật là chẳng tốt lành một chút nào khi cho
con mình một mớ kiến thức rác rưởi. Chỉ cho con mình thêm ảo vọng và làm cho tâm vọng
tưởng của chúng càng ngày càng dầy thêm.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta là người có trí tuệ, chúng ta đọc bất cứ tư tưởng rác rưởi nào cũng
không bị ảnh hưởng. Chúng ta có thể nghiệm ra điều này mà không cần phải giải
thích thêm. Không có chuyện gì xẩy ra. Nhưng khi chúng ta qúa ham thích, quá ước ao
--”Thích quá, thích quá, kể nữa đi !” thì nó lại in rất sâu vào tâm của chúng ta. Đây là một
điều vô cùng thiếu sót của trí phân biệt, nó không biết phân biệt rõ ràng cái gì tốt cái gì
xấu. Chúng ta đã thu nhận tất cả mọi thứ mà không cần biết đúng sai, chúng ta đã không
có óc nhận xét.

Các loại thu nhận khác cũng y như vậy. Thu nhận qúa nhiều, nhưng không dùng được,
toàn là rác rưởi, không biết phân biệt cái gì lợi cái gì hại. Hầu như tất cả các sản phẩm văn
hóa của người phương Tây như sách vở, báo chí, phim ảnh, truyền thông ...vân vân... đều
có khuynh hướng sản xuất thêm, tạo thêm sự ham muốn và u mê. Dĩ nhiên, cũng có những
điểm ngoại trừ trong một số phim ảnh. Nhưng hầu như tất cả đều được sản xuất ra theo thị
hiếu, theo sự ham thích của con người, theo cái gì mà tâm u mê đòi hỏi ---tất cả đều chạy
theo lòng ham muốn của con người. Các nhà sản xuất loại phim ảnh này, sách vở này đều
hiểu thấu tâm lý của con người. Họ biết rất rõ cái gì mọi người đang muốn, đang mê và cái
gì sẽ làm cho con người càng ngày càng đi vào cảnh mê mờ ảo vọng hơn là những cái họ
đã là.

Tóm lại, tất cả những ý niệm sai lầm và tất cả những tin tức sai lạc là những nguyên
nhân đem lại ảo tưởng, vọng tưởng cho tâm nếu tâm thiếu một trí phân biệt sáng suốt. Thí
dụ, chúng ta đã nhận qúa nhiều tin tức từ các máy truyền hình, nó đã khích cho chúng
ta trở nên hăng say, háo hức. Đôi khi nó hấp dẫn đến độ chúng ta phải đi ngay, phải vội vã
kẻo hết! Vậy, tất cả những tin nào khích động chúng ta thêm hào hứng, thêm hăng
say, chúng ta càng nên tránh, càng phải đề phòng. 

Yếu tố làm tăng thêm sức mạnh cho huyễn ảo chính là các thói quen của chúng ta. Thói


quen được tạo ra như thế này: trong một lúc nào đó chúng ta có được một kinh nghiệm với
một vật hoặc một sự kiện, khi chúng ta gặp lại đối tượng giống như vậy, chúng ta lặp
lại kinh nghiệm thứ nhất, rồi mỗi lần lặp đi lặp lại làm cho hành động này tăng thêm sức
mạnh trong ký ức, in sâu hơn vào tiềm thức, cho tới một ngày chúng trở nên mạnh đến độ
có thể ảnh hưởng đến tất cả những suy nghĩ và những tưởng tượng của chúng ta. Thói
quen xây đắp những thành trì vững chắc đến nỗi khi một hiện tượng xẩy ra gần giống như
vậy là tâm của chúng ta liền tự động chạy theo ảo tưởng. Có những người trở nên rất mẫn
cảm, u mê và say đắm những loại ảo vọng này đến nỗi họ không lúc nào quên được. Tại
sao nó lại xẩy ra như vậy? Tại vì kinh nghiệm đã được lặp đi lặp lại rất nhiều lần làm cho
dấu ấn trong tiềm thức càng ngày càng dầy thêm, đậm thêm. Tâm chìm sâu trong sự
tích trữ kinh nghiệm, bồi bổ thêm cho ảo tưởng. Họ không thể ngủ nếu thiếu những ảo
ảnh này xuất hiện trong những giấc mơ của họ. Tôi tin chắc rằng tất cả chúng ta đều
có kinh nghiệm về những hiện tượng này. Nếu những thói quen được lặp lại thường
xuyên và khi những dấu ấn đã đủ mạnh là chúng ta sẽ trở nên gắt gỏng nóng giận ngay.

Đôi khi đối tượng huyễn ảo còn tự nó in sâu vào trí tưởng tượng của chúng ta. Thí dụ,
bên Tây phương, khi người ta đã trở thành bạn trai bạn gái với nhau, người ta thề thốt, ”
Xin đừng quên anh/em! Hãy nhớ anh/em luôn nghe. Nếu anh/em quên em/anh, có nghĩa là
anh/em không còn yêu em/anh nữa.” Đó là lý do tại sao chúng ta không có tự do. Chúng
ta có thể thấy rất rõ chúng ta không có tự do, bởi vì chúng ta đã bị sở hữu bởi đối tượng.

Yếu tố thứ sáu là những ý niệm, chúng ta đã có sẵn những ý niệm trong tâm khảm, chúng
đã rất hấp dẫn trước khi đối tượng xuất hiện. Khi nhớ về một vấn đề gì, chúng ta đã có sẵn
một phán đoán về nó: “ Cái này tốt lắm! Nó thật là tuyệt! Nó tốt như thế này, nó hoàn
hảo như thế kia, nó thế này nó thế kia....” Chúng ta ca tụng giá trị của nó qúa đáng so
với giá trị thực của nó. Đó chính là sản phẩm của một ý niệm sai lầm.

Thí dụ, khi chị có bạn trai là chị đã bị lệ thuộc. Chị sẽ thấy dáng đi của anh ta hấp dẫn, thân
hình của anh ta tuyệt đẹp. Cái gì từ anh ta cũng đáng ca ngợi, ngay cả khi anh ta làm cái gì
xấu thì cái đó cũng là nguồn hạnh phúc của chị. Vì chị chỉ chú trọng đến sự hấp dẫn của
anh ta nên những hình ảnh tiêu cực về anh ta đều bị loại bỏ.

Tâm của chị sẽ làm việc như vậy cho đến một ngày nào đó người bạn trai này nói xấu chị,
không làm chị thỏa mãn, chị mới bắt đầu đổi thái độ. Lúc đó chị sẽ nghĩ, “Anh ta chẳng tốt
chút nào.” Rồi tâm của chị chỉ chú ý vào ý tưởng này “Không tốt, không tốt, thằng đểu....”
tất cả những gì tốt ở anh ta bắt đầu xuất hiện ngược lại; anh ta không còn có gì hấp dẫn chị
nữa. Chúng ta thấy hiện tượng này rất rõ, phải vậy không qúy vị? Tâm vọng
tưởng của chúng ta làm việc không thể tưởng tượng nổi. Trước tiên, một đối tượng xuất
hiện một cách hoàn toàn tích cực (tốt) rồi nó chuyển thành tiêu cực (xấu). Nhưng tôi nghĩ
rằng không có một cái gì, không có một chúng sinh nào hoàn toàn tích cực cũng như hoàn
toàn tiêu cực cả. Tất cả mọi sự đều có tốt có xấu. Chỉ có cái tâm chấp hữu mới nhìn sự vật
hoặc trắng hoặc đen, chỉ có cái tâm bám víu mới nhìn sự vật hoặc xấu hoặc tốt. Tây
phương có câu châm ngôn: “ Anh chỉ nghe cái gì anh muốn nghe.” Câu này diễn tả rất
đúng trạng thái của tâm, câu này chính là ngôn từ của Đạo Pháp. Nó diễn tả thật sát
nghĩa những gì mà chúng ta đang hội thảo.

Chỉ nhìn cái gì nó muốn, rồi, luôn luôn diễn dịch sai sự thật. Cái lối nhìn một chiều về sự
kiện của nó làm chúng ta mất trí phán đoán. Đồng thời chúng ta cũng nhìn nó như là tự
nó xuất hiện, tự nó có mặt ở đây (quên mất yếu tố duyên khởi, cái này có thì cái kia có, cái
này diệt thì cái kia diệt -- Dg) Chúng ta cho rằng tự nó đến với chúng ta và nó luôn luôn như
vậy, không bao giờ thay đổi. Chúng ta đã qúa sai lầm khi nhìn sự vật theo kiểu này và đây
chính là lối nhìn của tâm vọng tưởng mà ra. Thay vì nhìn như thế, chúng ta hãy nhìn sự
vật, nhìn sự kiện, nhìn hiện tượng như nó là, chúng xuất hiện như vậy, thế thôi, chứ không
phải xuất hiện theo ý kiến riêng của chúng ta. Thực sự chúng ta đã không biết cái gì đã xẩy
ra. Hãy chỉ nhìn sự vật như nó là. Tâm vọng tưởng nhìn sự vật một cách bao giàn hơn là
nhìn “nó là như vậy”. Sự vật vô thường thì vọng tâm lại cho là thường hằng, sự
kiện luôn biến đổi lại được nhìn như không bao giờ thay đổi. Những hiện tượng gây khổ
đau lại luôn được chấp nhận đem lại hạnh phúc. Chúng ta luôn luôn nhìn sự vật một cách
sai sự thật, chúng tự có và tự xuất hiện.

Lạt ma Je Tsongkhapa cho chúng ta biết tiến trình bám víu vào sự kiện, chấp vào sự vật
như vậy sẽ làm chúng ta đi xa thực tế, đi xa sự thật. Nó hoàn toàn không có liên hệ gì đến
hiện tính của sự vật. Chúng ta chấp vào sự vật, chúng ta nhận thức sự vật, rồi chúng ta tin
tưởng rằng chúng phải xuất hiện theo một cách nào đó mà chúng ta muốn nhưng kết qủa
là ảo tưởng của chúng ta lớn dần. Tâm vọng tưởng của chúng ta càng ngày càng trở nên
dầy hơn, mạnh hơn. Nhận xét này đưa chúng ta trở về một quan niệm mà chúng ta đã nói
đến trước kia: bất cứ cái gì xuất hiện --tốt xấu, thiên đàng địa ngục, luân hồi niết bàn...--
cũng đều là sản phẩm của tâm, đều là sự thị hiện của tâm. Khi tâm bị bao phủ bởi u mê,
bởi vô minh thì tự nhiên nó sẽ đưa đến đau khổ. Vì thế, để thoát khỏi khổ đau, điều vô
cùng quan trọng là phải hiểu thấu đáo cả hai đăïc tính tự nhiên của vọng tâm và những yếu
tố phát sinh ra nó cũng như sự tăng trưởng của u mê mù quáng. Hãy đặc biệt quan
tâm và thực hành thiền định trên sáu động lực này. Nó thật sự có gía trị. Sự hiểu
biết của chúng ta chính là sức mạnh làm cho tâm trở nên ngay thẳng. Nếu không như vậy
thì không còn một cách nào khác hơn có thể giúp chúng ta thoát khỏi những ảo vọng và mê
lầm.

5. TÌM HIỂU ĐAU KHỔ VÀ KIỂM SOÁT TÂM

 Mục đích của những bài giảng về Đạo Pháp là để giúp chúng ta nhận ra được những
điểm sai lầm trong từng hành vi, trong từng hành động của chúng ta và tìm cách giải
quyết những vấn đề trong cuộc sống. Đó là lý do quý vị đến đây để nghe và cũng là lý
do tôi đến đây để nói. Nhưng Đạo Pháp chỉ thực sự có gía trị khi người thầy chính là
một thí dụ sống động cho những gì ông ta giảng dậy. Đáng tiếc thay tôi không đáng được
qúy vị tôn kính như vậy. Tôi không biết gì về Đạo Pháp vì tôi cũng ăn, uống, bài tiết và ngủ
như qúy vị. Nhưng tôi được may mắn học hỏi từ những vị đã ngộ đạo nên tôi chỉ xin tường
trình với qúy vị những gì tôi đã học hỏi được. Vì thế những bài giảng này có giúp ích cho
qúy vị hay không lại do những nguyên nhân khác.

Hiểu được mục đích của Đạo Pháp là một điều vô cùng quan trọng. Tại sao chúng ta thiền,
tại sao chúng ta theo con đường tâm linh, tại sao chúng ta lại muốn sống một đời sống
đạo? Chỉ vì chúng ta mong muốn một cái gì khác với những sinh hoạt thường ngày. Nếu
không vì mục đích đó, chúng ta không cần phải tham dự những buổi diễn giảng này.
Tất cả những tôn giáo, triết học, hệ thống đạo đức...vân vân... trên thế giới đều có những
tên khác nhau và hoàn toàn có những phương pháp giảng dậy khác nhau. Nhưng dù khác
nhau chúng đều có chung một nguyên lý, một mục đích. Nếu tất cả những hệ thống tư
tưởng này có giá trị, thì nó phải quan tâm, nó phải làm dịu đi những đau khổ tinh
thần và vật chất của muôn loài chúng sinh. Nó phải cung cấp những giải pháp thâm
sâu hữu hiệu để xoá tan đi những nỗi thống khổ của nhân loại. Bởi vì tất cả những phương
pháp hiện có chỉ chú trọng đến sự giải quyết bên ngoài, chúng đã cho chúng ta biết không
có một chút hiệu qủa nào. 

Từ khi có sự sống xuất hiện trên qủa đất này, tất cả những tư tưởng lớn của cá nhân hay
của đoàn thể đã nỗ lực không ngừng để cải tiến những điều kiện sinh sống của chúng ta.
Ngay hiện tại, ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có rất nhiều hoạt động của các tổ chức
nhắm vào việc cải tiến nhân sinh. Mặc dù rất nhiều người trong xã hội đã nắm vững mục
đích và đã cố gắng hoạt động không ngừng, nhưng thế giới vẫn chưa tiến gần đến hoà
bình và hầu như con người chưa bao giờ được hưởng một nền hoà bình chân thật. Ngược
lại, có nhiều triệu chứng cho biết chúng ta đang bị thoái hoá. Tại sao sự tin tưởng vào
những tiến bộ khoa học vật chất lại không được thoả mãn, lại không mang lại nền hòa bình
vĩnh cửu?

Nguyên nhân chính yếu là chúng ta cứ nghĩ rằng những vấn đề, những khó khăn đều ở
bên ngoài, chúng đang hiện diện đâu đó ngoài kia chứ không phải trong tâm của chúng ta,
chúng không có liên quan gì đến tâm của chúng ta. Do đó, chúng ta nghĩ sự giải
quyết mà chúng ta có thể tìm được cũng đang ở bên ngoài kia. Mặc dầu tất cả những
sự giải quyết này có thể tạm thời hóa giải được một phần nào, nhưng những khó khăn rắc
rối lại xuất hiện, lại xuất hiện, lại tiếp diễn. Vì thế, những cố gắng của chúng ta coi như có
đem lại thay đổi nhưng thực ra nó không có một chút tác dụng sâu xa nào vào tận gốc rễ
của vấn đề, nó đã không có khả năng nhổ đi tận gốc rễ của vấn đề.

Rất nhiều người có thành tâm thiện chí muốn cải tiến toàn thể tình trạng nhưng thực ra lại
làm cho vấn đề càng ngày càng thêm mạnh, càng ngày càng thêm u tối, càng thêm phức
tạp. Thí dụ như việc phát triển nguyên tử năng. Mặc dầu ngay từ lúc khởi đầu, các nhà bác
học và các kỹ sư nguyên tử lực đều can đảm nhận lãnh trách nhiệm của họ trong sự phát
minh và trong sự ứng dụng nguyên tử, nhưng sự phát triển này đã gây ra rất nhiều tử vong,
đã đem lại nhiều kết qủa nguy hiểm cho thiên nhiên, cho môi sinh và cho sự bảo trì nền hòa
bình của nhân loại mà họ và chúng ta không thể tiên đoán được. 

Tại sao niềm mơ ước hòa bình cho toàn thế giới không thể thực hiện được? Tại sao chúng
ta cứ mãi bị tước đoạt đi công việc tìm kiếm chấm dứt khổ đau và những lỗi lầm? Thực
ra chúng ta không thiếu lòng thành tín và không thiếu những tư tưởng mưu tìm sự hòa
đồng giữa con người. Có thể chúng ta đã cố tình không hiểu hoặc không quyết tâm thi
hành, bởi vì chúng ta đã không cố gắng đủ trong việc kiếm tìm lợi ích cho chính mình hoặc
cho những người khác nên đã chẳng có một dấu hiệu tinh tiến nào. Điều vô cùng thiếu
sót trong kế hoặch tìm cầu hạnh phúc cho nhân loại trong đời sống hàng ngày là không có
một phương pháp thực sự hữu hiệu để đem lại kết qủa cho mục đích của chúng ta.
Một phương pháp thực sự mang lại kết qủa nếu nó cắt đứt được toàn diện gốc rễ của
những vấn đề của chúng ta. Phương pháp tối cần thiết là phải tiêu hủy tận bên trong chứ
không phải bên ngoài.
Tại sao một phương pháp hữu hiệu lại phải ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài? Tại
vì sự đau khổ mà chúng ta muốn loại bỏ nó không chỉ ở bên ngoài mà thôi. Nếu chúng
ta nghĩ rằng tất cả những rắc rối của chúng ta chỉ ở bên ngoài, vậy chúng ta hãy thử loại
bỏ, hãy thử thay đổi hoặc hãy làm bất cứ cách nào xem sao. Tuy nhiên, kết qủa đã cho
thấy thực là nhỏ bé so với vấn đề, so với những khổ đau; bởi vì gốc rễ của khổ đau không
ở bên ngoài mà chúng hiện đang nằm sâu trong tận tâm khảm của mỗi người chúng ta.

Mặc dầu chúng có thể xuất hiện với những đối tượng bên ngoài -- qua người, qua sự vật
hoặc qua hoàn cảnh mà chúng ta gặp trong cuộc sống -- nhưng chúng không phải là
những nguyên nhân chính yếu của bất mãn hay khổ đau của chúng ta. Thí dụ, có một số
người đi du lịch họ rất thích những nơi mà họ đã chọn cho những kỳ nghỉ hè. Nhưng với
một số người khác tuy cùng một trình độ, một giai cấp mà họ đã không hài lòng chút nào
với những nơi trên. Kinh nghiệm không hài lòng này, sự bất mãn này đã nằm sẵn trong đầu
họ nên họ không thể hoàn toàn đổ cho những hoàn cảnh ở bên ngoài. Nếu thực sự chỗ đó
không tốt, không đẹp, không hấp dẫn thì chẳng ai muốn tới đó để nghỉ hè. Cũng giống như
vậy, thức ăn hàng ngày trong gia đình, có người thích có người lại không hề chạm đũa vào.
Tại sao lại có tình trạng này, cùng một món ăn mà người thích, người ghét?

Một thí dụ khác về sự liên hệ giữa người với người, nếu là người chúng ta thích, chúng
ta sẽ coi anh ta/chị ta là một người rất tốt, rất dễ thương. Bất cứ khi nào gặp họ, chúng
ta cũng cảm thấy thoải mái trong tâm của chúng ta. Nhưng chính người dễ thương này lại
gây nhiều bất mãn, khó chịu cho một số người khác khi họ xuất hiện. Có thể anh ta/chị ta
lại là một người rất đáng ghét. Vì thế, một người có thể rất hấp dẫn với chúng ta nhưng lại
là người đáng ghét cho người khác.

Không cần phải so sánh cảm tình của chúng ta với những kinh nghiệm của người


khác chúng ta mới nhìn ra được sự khác biệt như thế nào trong phản ứng này. Hãy nhìn
ngay vào phản ứng của chính chúng ta đối với những người khác trong qúa khứ. Lúc
đầu anh ta là người xa lạ với chúng ta, rồi có thể chúng ta đã hoàn toàn quên anh ta.
Nhưng rồi một thời gian sau anh ta lại trở nên một người bạn thân của chúng ta. Sau
một thời gian quen biết chúng ta nhận thấy anh ta là một người rất tốt và khó có thể quên
được anh ta, anh đã là một tri kỷ. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta thật tốt, thật dễ
thương, thật đạo đức. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng sự kiện này bởi vì chất keo gắn
liền chúng ta và anh ấy đã qúa chặt.

Nhưng rồi hoàn cảnh đã thay đổi với thời gian. Có thể anh ta đã nói một câu nào đó
làm chúng ta không bằng lòng hoặc có một cử chỉ hành vi nào đó của anh ta làm chúng
ta bất mãn. Rồi không cần biết vì lý do gì --dù là một lý do rất tầm thường -- chúng ta cho
rằng anh ta đã hoàn toàn thay đổi, anh ta đã trở mặt. Giọng nói của anh ta không còn đúng
điệu, thái độ của anh ta có vẻ hung hăng, ngay cả bộ mặt của anh ta sao dữ tợn qúa. Anh
ta đã thay đổi hoàn toàn, không còn một chút gì của con người ngày xưa nữa, rồi bao
nhiêu gắn bó của chúng ta dành cho anh ta trước kia bây giờ trở thành hận thù. Khi chúng
ta bắt đầu ghét anh ta là sân hận và những ý nghĩ xấu ở trong tâm của chúng ta về anh ấy
cũng bắt đầu được hình thành và lớn mạnh. Kết qủa là chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu,
rất bực mình mỗi khi gặp anh ta.

Như vậy, rất dễ nhận diện được những đau khổ của chúng ta, không cần đến những thay
đổi ở bên ngoài, không cần đến sự thay đổi của đối tượng, bởi vì chính thái độ ở bên trong
của chúng ta đã thay đổi. Vì những trạng thái khác biệt của tâm thức nên chúng ta nhìn sự
vật cũng khác biệt như vậy, mặc dù vẫn cùng một đối tượng. Nói rộng hơn, tất cả đời sống
của chúng ta đã chất đầy những kinh nghiệm như thái độ vừa trình bày ở trên.

Những sự thay đổi này xẩy ra rất thường và rất nhanh. Có khi ngay trong lúc chúng ta đang
tức giận một người thì hình ảnh tốt đẹp của họ trong qúa khứ hiện ra trong tâm của chúng
ta. Chúng ta sực nhớ họ đã giúp chúng ta trong qúa khứ, họ đã đối xử rất tốt với chúng
ta. Trong khoảng kháéc ngắn ngủi đó của trí nhớ, có thể chúng ta không còn tức giạân họ
nữa mà coi họ như một người bạn rất thân. Kinh nghiệm này --thường có ở chúng ta--
cho chúng ta biết rằng chúng ta nên thận trọng chẳng những với những thay đổi thường
xuyên trong tâm của chúng ta mà chúng ta còn phải biết kiểm soát những tiến trình thay đổi
này để mang lại hạnh phúc hơn cho cuộc đời của chúng ta.

Nếu chúng ta thường tỉnh thức về những gì xẩy ra trong tâm của chúng ta, chúng ta sẽ có
khả năng chuyển hoá tất cả những tư tưởng tiêu cực, những ý nghĩ xấu của chúng ta trước
khi nó gây ra phiền phức hoặc đau khổ cho chúng ta. Thật ra có rất nhiều cách để nghĩ tốt
cho người khác thay vì nghĩ xấu cho họ. Nếu chúng ta đã biết phát triển những kỷ luật tâm
linh cần thiết và thực sự biết tỉnh thức trên tất cả những gì xẩy ra trong tâm thì không có
một lý do nào có thể ngăn cản công việc phát huy những tư tưởng này để mang lại hạnh
phúc cho chính mình và cho những người khác. Có thể cả thế giới sẽ chống lại chúng ta,
nhưng nếu khả năng kiểm soát tâm của chúng ta được phát triển đúng mức và tốt
đẹp, chúng ta vẫn có thể coi mọi người đều là bạn thay vì chống lại họ, ghét họ hoặc sợ họ.

Nếu chúng ta thực sự kiểm soát được tâm của mình, thử tưởng tượng một nền hòa bình vĩ
đại trên thế giới sẽ xẩy ra! Sẽ không còn nghi ngờ gì cả và cũng chẳng còn bất cứ vấn
đề gì cho chính chúng ta và cho người khác nữa. Kinh nghiệm thâm sâu về cuộc đời chính
là kết qủa của sự thực hành Đạo Pháp. Nó có thể xảy ra cho bất cứ ai biết quay vào con
đường tâm linh ở bên trong mà tìm hiểu chính mình.

Giải quyết những vấn đề bằng sự kiểm soát tâm chẳng những mang lại nhiều kết qủa
khi đối diện với những sự khó khăn mà nó còn là phương pháp dễ dàng nhất, ít nguy hiểm
nhất. Qua phương pháp này chúng ta có được sự bình an thật trong tâm của chúng ta mà
không làm tổn thương bất cứ ai. Qua phương pháp này chẳng những chúng ta hạnh
phúc mà còn mang hạnh phúc đến cho những người khác nữa. Ngược lại, nếu chúng
ta cho rằng nguồn gốc của những vấn đề ở bên ngoài kia thì chúng ta phải tiêu diệt tất cả
những ai là kẻ thù của chúng ta, lúc đó chúng ta mới cảm thấy an tâm. Nhưng dù chúng
ta có dùng phương pháp này mà đối diện với những vấn đề, với những khó khăn rắc rối thì
cái tâm bấn loạn cũng vẫn có đó. Vì thế nếu không có một phương pháp nội tại nào để tẩy
sạch những vấn đề lầm lẫn này thì chúng ta cũng vẫn còn đau khổ cho dù không còn kẻ
thù.

Như vậy, để đạt được những kết qủa tốt khi đối diện với những vấn đề, công việc đầu tiên
của chúng ta là phải khám phá ra được và phải nhận định ra được những yếu tố tinh
thần hiện đang ở trong chúng ta, đây mới là nguyên nhân sâu xa của tất cả đau
khổ. Phương pháp của chúng ta cũng giống như phương pháp của một vị bác sĩ chữa
bệnh cho bệnh nhân. Nếu ông ta không hiểu nguyên nhân của căn bệnh thì ông không thể
chữa lành bệnh được. Do đó việc làm đầu tiên của ông ta là phải chẩn bệnh, phải tìm
hiểu rõ ràng căn bệnh của bệnh nhân, sau đó ông mới có thể cho những viên thuốc thích
hợp để trị. Cũng giống y như vậy, nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng
ta theo phương pháp tinh thần nội tâm, trước tiên chúng ta phải hiểu thấu đáo, phải có
một hình ảnh trong sáng rõ rệt về cái gì đang làm chúng ta khổ. Nếu không như vậy chúng
ta sẽ bị đè bẹp, sẽ bị áp đảo, sẽ bị che dấu bởi chính cái bản tính nhẹ nhàng vuốt
ve thương thân trách phận của chúng ta, chúng ta phải trực tiếp đối diện với những vấn
đề của chúng ta. Chỉ như vậy chúng ta mới có thể thanh tẩy trọn vẹn từng vấn đề một
trong toàn thể.

Chúng ta hãy bắt đầu tìm hiểu sơ qua về những hình ảnh đau khổ qua những kinh
nghiệm về bào thai và trẻ sơ sinh. Chúng ta thường không nghĩ về những khổ đau xẩy ra
cho bào thai trong sự sinh nở, đây là một sự thật. Bởi vì tâm của người mẹ và thai
nhi không giống nhau, người mẹ cũng không hoàn toàn cảm thông được cái tinh
thần của thai nhi đang ở trong tử cung của bà ta. Cái bào thai đó hiện đang ở trong
một hoàn cảnh tinh thần và thể chất không được thoải mái.

Đứa trẻ cảm thấy bị gò bó trong một khung cảnh chật hẹp, mất hết tự do. Một cái di
chuyển nhẹ của bà mẹ cũng gây biết bao phiền toái khó chịu, không kể đến đồ ăn khi qúa
nóng khi qúa lạnh hoặc qúa cay; bên cạnh những mùi ô uế của đồ phế thải của bà và
những biến chuyển không tiên đoán trước được trong hệ thống tiêu hóa của bà ta.

Những khổ đau này hầu như không được chúng ta để ý đến, quan tâm đến, nhưng
những đau đớn của bà mẹ trong lúc sinh đẻ lại dễ dàng được chú ý hơn. Khi đến thời
kỳ sinh nở, thai nhi bị thúc đẩy, bị dồn ép hơn bất cứ sự kiện nào mà nó đã kinh nghiệm.
Nó được di chuyển dần dần ra âm đạo, nó cảm thấy đau đớn như bị ghiền giữa hai cục đá.
Sự đau đớn này chỉ có thể chấm dứt khi nó đã hoàn toàn lọt khỏi lòng mẹ. Da của nó
qúa mềm mỏng đến nỗi không khí ấm cúng của phòng sinh cũng làm nó cảm thấy giá lạnh
cắt da. Đứa bé được cuốn trong những tấm khăn mềm mại nhất nhưng nó cũng tưởng
chừng như đang bị trăm ngàn mũi gai nhọn đâm thấu thịt da. Thêm vào những cái đau của
thể xác, đứa bé nhìn thấy những linh ảnh được tạo ra giống như những hình ảnh đã được
nhìn thấy trong lúc chết. Vì thế khi chúng ta nhìn thấy đứa bé vừa mới chào đời chúng đã
khóc thét lên, tiếng khóc này không phải là không có lý do.

Hầu như tất cả chúng ta đã không nhớ được kinh nghiệm trong lúc chào đời. Điều này
không có nghĩa là chúng ta đã được thoải mái trong bụng mẹ và thảnh thơi khi sinh
ra. Chúng ta đã quên tất cả những kinh nghiệm này cũng như chúng ta đã quên hoặc
không có ý thức trên rất nhiều sự kiện đã xẩy ra trong đời. Tâm vô minh của chúng ta đã
tạo ra biết bao ô nhiễm cho cả bên trong tâm lẫn bên ngoài thân xác, vì thế những cảm
nhận của chúng ta về chân lý đã bị những đám mây dầy đặc che dấu. Mỗi khi chúng ta trực
nhận ra được những sự kiện không vừa ý, ngay cả những cái vụt thoáng qua trong
đầu, chúng ta không nên ngạc nhiên vì chúng toàn là những kinh nghiệm trước kia
của chúng ta.

Ngay khi vừa sinh ra là những đau khổ trong tiền kiếp bắt đầu được khơi dậy. Thân xác
của chúng ta trải qua hết khó chịu này đến khó chịu khác như những bệnh tật trong thời thơ
ấu và những chuỗi dài phiền não trong cuộc đời tiếp tục kéo đến. Chúng ta không cần
phải chống cự lại sự nhiễm trùng chúng ta mới có kinh nghiệm đau đớn của bệnh tật. Chỉ lo
lắng và sợ hãi bị bệnh thôi cũng đủ làm chúng ta thực sự đau khổ.
Nếu chúng ta có thể sống đến gìa để kinh nghiệm được những khổ đau của tuổi gìa thì tất
cả những kinh nghiệm, những sự đổi thay của cuộc đời mà chúng ta đã trải qua sẽ
làm chúng ta tăng thêm phiền muộn. Sức khoẻ của chúng ta, thị giác của chúng ta, thính
giác của chúng ta sẽ mất dần, tất cả những sinh hoạt của chúng ta thời trẻ sẽ không bao
giờ có được nữa. Thể xác của chúng ta sẽ không còn cử động như ý muốn, ngay cả tinh
thần của chúng ta cũng chẳng còn tinh tường, tất cả sẽ trở nên vô dụng.

Tất cả những kinh nghiệm về khổ đau trong cuộc đời chỉ làm cho chúng ta thêm khổ đau
vào lúc chết. Tất cả mọi người chúng ta ai cũng sợ chết. Khi tử thần đến, sự sợ hãi càng
trở nên vĩ đại hơn, thực hơn. Mặc dù chúng ta không muốn rời khỏi thân xác của chúng
ta, của cải của chúng ta, những người thân yêu của chúng ta, nhưng một điều vô cùng thật
và rất rõ ràng là chúng ta phải từ gĩa tất cả những thứ thân yêu này. Hơn nữa, chúng
ta chẳng biết sự việc gì sẽ xẩy ra cho chúng ta, tâm thức của chúng ta sẽ đi về đâu, chính
sự vô minh này sẽ đẩy chúng ta vào một tình trạng trầm thống bối rối hơn nữa.

Giường chết đang được bao quanh bởi những bác sĩ giỏi, bởi những người thân,
nhưng chúng ta chẳng nói được gì với họ. Khi mà giờ chia tay giữa thân xác và linh
hồn đến, sẽ chẳng có bất cứ một cái gì, một người nào có thể giúp chúng ta được. Chúng
ta phải ra đi, chúng ta chết --tuyệt đối không còn một sự chọn lựa nào. Đã qua bao nhiêu
năm trong cuộc đời, chúng ta o bế, chúng ta nâng niu, chúng ta săn sóc cho cái thân xác
này, nhưng giờ đây, trong giờ phút khủng khiếp này, dù còn một chút sức lực nào đi nữa
cũng chẳng níu kéo sự sống được thêm một phút một giây. Chúng ta không còn một chút
khả năng nào để kiểm soát cái gì đang từ từ đến với chúng ta, chỉ có sự khổ đau đang tràn
ngập như chưa bao giờ thấy. Chúng ta sẽ đi vào một nơi mà chúng ta chưa hề biết đến với
một tâm trạng chỉ có sợ hãi và lo lắng.

Tất cả chúng ta ở đây đã có kinh nghiệm khi đi vào cuộc đời này, sống trong cuộc đời này
và cũng đang kinh nghiệm về cái già đang từ từ đến, nhưng kinh nghiệm về sự chết thì
chưa có. Nó đang chờ chúng ta, sự đau đớn trong giờ của tử thần đang đợi chúng ta. Như
vậy, cuộc đời của chúng ta sẽ qua đi, nó sẽ chấm dứt như nó đã bắt đầu --- trong khổ đau !

Thêm vào những nỗi khổ trong lúc sinh ra, bệnh tật, già yếu, chết, chúng ta còn rất nhiều
những cái khổ khác nữa, cuộc đời tràn đầy bất mãn. Thí dụ, chúng ta luôn luôn cố gắng,
càng nhiều càng tốt, đạt cho được những điều ước muốn, chúng có thể là những món ăn
khoái miệng, quần áo đẹp đẽ, người tình hấp dẫn...vân vân... Chúng ta luôn luôn tìm sự
khoan khoái trong đối tượng nhưng chẳng bao giờ chúng ta nhìn ra được đau khổ đang
nằm sâu trong đó. Chúng ta ham muốn chúng nhưng rồi chúng ta lại thất vọng về chúng.
Sự đau khổ vì bất mãn là một trong những đau khổ tàn hại nhất bởi vì nó liên tục hướng
dẫn chúng ta bám víu hết đối tượng này đến đối tượng khác, sự thèm khát xẩy ra liên
tục không ngừng nghỉ. Nó thúc đẩy chúng ta trong suốt cả cuộc đời, nó không còn dành
cho chúng ta một khoảng trống nào để nghĩ đến con đường tâm linh, thiền định, thực
hành Đạo pháp hầu giúp chúng ta thoát khỏi những đau khổ trong đời.

Chẳng những chúng ta không tìm được bất cứ gì chúng ta mong muốn mà chúng ta cũng
chẳng chạy thoát được những gì chúng ta không mong muốn. Từ tinh thần đến thể
xác, chúng ta toàn gặp những kẻ thù, hoàn cảnh ngang trái, bất mãn triền miên, thức
ăn không hợp khẩu vị....Những đau khổ này đem đến cho chúng ta hết lầm lẫn này đến
những sai lạc khác trong cuộc đời.

Sự không được hài lòng và những bất mãn trong cuộc đời sẽ ngăn cản chúng ta đến với


bất cứ một loại an bình nào. Không cần biết chúng ta đã có những gì, không cần biết chúng
ta đã sở hữu những tài sản nào, lòng ham muốn của chúng ta vẫn tiếp tục. Chúng ta làm
việc và đặt kế hoạch, chúng ta bày mưu đặt kế để chiếm thêm, chiếm thêm, làm như chúng
ta sẽ sống cho đến muôn đời hoặc ít ra cũng thêm vài thế kỷ. Hãy nhìn cho kỹ, tất cả
những gì chúng ta đang lo lắng để chiếm đoạt, toàn là cho cái thân xác này ! Tất cả những
gì chúng ta đang cố gắng học hỏi trong cuộc đời chỉ để đủ điều kiện đi xin việc làm. Đủ điều
kiện để có thêm một chút tiền. Chúng ta không thể hy vọng để sống thêm 50, 60 hay 70
năm nữa, bằng đó năm cũng chỉ để cho bằng đó hoạt động. Mục đích gì đây?

Chúng ta đã dùng năng lực của đời ta cho nhiều thứ. Chúng ta lo lắng cho thân xác khỏi
bị đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, an toàn và, cuối cùng, chết. Cả đời đã phải tranh đấu để khỏi
bị nguy hiểm, cả đời đã phải hy sinh rất nhiều thứ để nô lệ cho những mục đích này. Có
thể chúng ta đã tự lừa dối chính mình, nhưng trong tận sâu thẳm của nội tâm chúng ta nó
có thể nhìn thấy tất cả những hoạt động này toàn mang lại khổ đau.

Mặc dầu chúng ta đã làm việc rất nhiều năm để có được sự an toàn, nhưng hoàn cảnh chỉ
thay đổi một chút thôi chúng ta cũng bị đau ốm, bị bệnh tật hoặc gặp phải những sự không
may. Để được an toàn thì thật là khó mà khổ đau thì đến luôn luôn. Ngay cả những
điều may mắn xẩy ra trong đời, tưởng rằng sự may mắn này giúp chúng ta thăng tiến cuộc
đời nhưng có ngờ đâu nó lại là nguyên nhân mang lại nhiều đau khổ. Thí dụ, tưởng rằng để
dành tiền đi nghỉ hè vui chơi, nào ngờ tai nạn khủng khiếp đã xẩy ra; chọn một nhà
hàng sang trọng để ăn nào ngờ bị ngộ độc. Đau khổ đến không chọn lựa ai cả.

Nếu chúng ta ghi lại tất cả những đau khổ đã xẩy ra trong đời, cái danh sách đó chắc dài
bất tận. Những gì được nói ra ở đây chỉ là tượng trưng. Tuy nhiên, tất cả mọi hình thức đau
khổ đều có thể xếp vào một trong ba nhóm: đau khổ của đau khổ, đau khổ của sự thay đổi
(hay thay thế) và đau khổ hiểu một cách rộng rãi. Chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.

Những kinh nghiệm đau buồn trong qúa khứ không còn diễn ra bây giờ nữa nhưng chúng
vẫn làm chúng ta đau khổ. Không có gì là hài lòng với bệnh tật, lo lắng, đau đớn, sợ
hãi hoặc những gì giống như vậy. Bất cứ sự kiện nào đã làm chúng ta không
hạnh phúc, không vui vẻ đều được coi như là đau khổ của đau khổ.

Những sự kiện khác, như thức ăn ngon miệng, quần áo đẹp hoặc những cái giống như
vậy, chúng ta có thể đo lường được sự vui thích, sự thoả mãn. Nhưng nếu tìm hiểu sâu
xa hơn, chúng ta có thể nhận thấy rằng chính những cái thỏa mãn này cũng có thể đem
lại đau khổ. Vì chúng chỉ cho chúng ta những thú vui tạm thời, trong một thời gian ngắn nào
đó mà thôi. Chúng không có khả năng tồn tại lâu dài. Thí dụ như ăn một món ăn ngon
miệng. Hầu như tất cả chúng ta đều cho rằng đây là hạnh phúc thật sự, không có một chút
gì buồn khổ trong đó. Nhưng nếu thực sự nó là như vậy -- ăn thức ăn ngon là hạnh
phúc thật-- thì càng ăn nhiều càng có thêm hạnh phúc mới phải. Ngược lại, nó không phải
như vậy. Nếu chúng ta tiếp tục ăn sau khi đã no, thì sự khoan khoái đã nhanh chóng biến
thành những cơn đau bụng. Chính vì lý do nó chỉ cho chúng ta những thoả mãn nhất thời,
tạm bợ nên chúng ta gọi nó là đau khổ đến thay thế.
Nếu chúng ta ngồi lâu trong một tư thế, chúng ta sẽ cảm thấy mỏi mệt, chúng ta muốn
đứng lên đi dạo một chút. Khi hành động như vậy chúng ta cảm thấy khoan khoái dễ chịu.
Nhưng thực ra nó chẳng phải thật sự khoan khoái. Sở dĩ chúng ta cảm thấy như vậy vì
sự mệt mỏi lúc ngồi đã biến mất khi chúng ta đứng lên. Và chúng ta tưởng rằng cảm nhận
này là sự khoan khoái, nhưng cứ cho nó là như vậy đi, thì nó cũng chẳng được dài lâu.
Khi chúng ta đã đi mệt thì cái mà chúng ta gọi là khoan khoái trước kia lại biến thành đau
đớn. Như vậy, không cần biết chúng ta nghĩ, chúng ta cảm nhận như thế nào, chẳng có gì
trong cuộc đời của chúng ta mang lại cho chúng ta sự khoan khoái thật, chẳng có gì mang
lại cho chúng ta chân hạnh phúc. Mọi cảm nhận thoải mái chỉ là nhất thời, ngắn ngủi rồi
mau chóng chuyển thành chán chường, mỏi mệt, đau buồn.

Về nhóm đau khổ thứ ba, rộng rãi bao la hơn, chúng nằm sâu trong hai thứ đau khổ vừa
trình bày ở trên. Đó chính là đau khổ vì có một thân xác và có một cái tâm, chúng là chủ
thể hấp dẫn cho đau khổ, giống như cục nam châm hút sắt; đã có thân xác và có tâm thì tất
nhiên phải khổ, cũng như đã là nam châm thì phải hút sắt. Thí dụ, đau khổ vì bao tử là
sự đau khổ tất nhiên phải xẩy ra của cái đau (đau khổ thuộc về tâm, cái đau thuộc về thân
xác --Dg). Sự khỏi đau tạm thời hay sự thoải mái tạm thời mà chúng ta cảm nhận được sau
khi dùng thuốc, rồi lại đau trở lại, là sự đau khổ đương nhiên phải xẩy ra của sự thay đổi
(dùng thuốc). Thật ra bao tử của chúng ta phải phản ứng như thế vì nó sẽ và có thể lại trở
nên đau, đây chính là cái đau tất nhiên của sự đau khổ rộng lớn, bao trùm.

Ngay cả thú vật cũng có thể nhận ra được cái đau như thế nào. Vì thế khi chúng ta nói
sự thành đạt của con đường tu tập phần lớn tùy thuộc vào sự hiểu biết thấu đáo về đau
khổ là không đúng, thực ra nó không phải như vậy, nó không có nghĩa như vậy. Cái ý
nghĩa đích thực, bản tính thật của đau khổ chỉ được khám phá ra khi nào chúng ta trực
nhận ra rằng tất cả những sự khoan khoái, tất cả những sự vừa lòng toại ý tạm thời chỉ là
một hình thức khác của đau khổ, và hơn nữa sự sở hữu một cái thân bất tịnh, một cái
tâm ô nhiễm là đã sở hữu sự bất mãn, là đã không thoải mái và đã là đau khổ. Chỉ khi
nào chúng ta thấu hiểu, chỉ khi nào chúng ta xác nhận một cách vững chắc được
hai nguyên nhân căn bản của đau khổ này --nhất là căn nguyên thứ hai, sở hữu một thân
tâm bất tịnh -- thì lúc đó chúng ta mới mong, mới có thể vượt thắng được khổ đau, mới có
thể kiểm soát được bất mãn.

Tất cả những sự khổ đau một cách tự nhiên, một cách tất nhiên này đều là do chúng ta có
một thân xác và có một cái tâm. Cả thân và tâm bị ô nhiễm đều bắt nguồn từ những yếu
tố nội tâm là ảo vọng và phiền não. Theo tâm lý học Phật giáo, có 84,000 loại tâm bệnh
khác nhau. Chúng bắt nguồn từ 6 loại ảo vọng chính: tham lam, kiêu mạn, nóng giận, do
dự ngờ vực, quan niệm sai lầm (bất chánh kiến) và vô minh.

Theo kinh điển, nguồn gốc của ảo vọng và bất chánh kiến là tin vào những điều sai
lầm, không thật và không tin vào những điều chân thật. Không tin vào những điều chân
thật như: từ chối những qui ước hiện hành của con người, những hiện tượng là căn
nguyên của khổ đau, sự chấm dứt của chúng, sự liên tục nối tiếp hết đời này qua kiếp khác
của chúng và không tin vào luật nhân quả. 

Năm nguyên nhân đầu của ảo vọng, tất cả những dục vọng và tất cả những khổ đau đều
bắt nguồn từ không thấu hiểu đúng đắn về sự hiện hành của chúng. Vì thế vô minh được
coi là căn bản, là “nguồn gốc của luân hồi”. Luân hồi là cảnh giới của khổ đau mà tất
cả chúng sinh đã tự tạo ra cho chính mình. Đó là những chu kỳ không có lựa chọn mà phải
sinh ra, chết đi và tái sinh lại trong khổ đau, ở trong đó tất cả chúng ta cần phải thanh tẩy
tâm cho sạch hết ô nhiễm. Sân hận, tham lam, kiêu mạn và cố chấp là những ảo vọng cũng
bắt nguồn từ vô minh. Đây là những hành vi, những thái độ xấu, chúng là những đám
mây đen che khuất chân tâm như mây đen che khuất bầu trời trong sáng.
 
Tại sao chúng ta lại gọi nó là những thái độ xấu? Vì những thái độ này được tạo thành
do ảnh hưởng của nghiệp lực và của ảo vọng, chúng đem chúng ta đến đau khổ. Bất cứ
người nào hành động dưới một cái tâm như vậy đều kinh nghiệm được những đau khổ là
do chính họ tạo ra. Đây chính là con đường của luân hồi, vòng khổ đau và vòng tái
sinh được thành lập. Như vậy tất cả những hành động sản xuất ra những kết quả này và tất
cả những ảo vọng tác động lên những hành động này đều được gọi là xấu, tiêu cực.

Nếu chúng ta thực sự muốn đạt chân hạnh phúc, sự bình an miên viễn, chấm dứt hoàn
toàn mọi khổ đau, chúng ta phải thanh tẩy tâm chúng ta cho sạch hết tất cả những sự xấu
xa, ô nhiễm này. Chỉ có cách này mới có thể thanh toán được những vấn đề, những rắc
rối của chúng ta. Thí dụ, nếu chúng ta khó chịu vì bụi dơ bám vào vật gì đó thì chúng
ta phải lau sạch, phải rửa sạch những lớp bụi này đi thay vì phá hủy hoặc đập vỡ vật đó đi.
Sau khi đã rửa sạch, chúng ta mới thưởng thức nó một cách trọn vẹn. Một công viên tuyệt
đẹp không thể luôn luôn có được. Một công trình xây cất không phải lúc nào cũng hấp
dẫn tất cả mọi người. Chúng cần được bảo trì, tu sửa, trang hoàng và làm sạch luôn luôn
thì mới hấp dẫn, mới lôi cuốn được du khách.

Hãy áp dụng giống như vậy cho tâm của chúng ta. Nếu những suy nghĩ tính toán
của chúng ta gây đau khổ phiền phức cho chúng ta thì chúng ta phải chấm dứt suy
nghĩ ngay. Tốt hơn chúng ta nên sử dụng những phương pháp nội tâm để thanh tẩy tất cả
những xấu xa khởi phát ra từ vô minh của chúng ta. Nếu chúng ta làm được như
vậy, chúng ta sẽ có sự an bình chân thật. Sự an bình này vượt xa những sự thoải mái,
những sự dễ chịu bình thường, như đã trình bày ở trên, kiểu hạnh phúc bình thường này
cũng chỉ là những hình thức vi tế của khổ đau mà thôi. Vì chấm dứt hoàn toàn những
nguồn gốc của khổ đau nên chúng ta có được chân hạnh phúc. Khi gốc của đau khổ đã bị
cắt đứt, thì đau khổ không thể trở lại. Lúc đó chúng ta sẽ kinh nghiệm được, sẽ chứng
nghiệm được thế nào là hạnh phúc thật, thế nào là viên mãn, không gì có thể so sánh với
nó.

Bây giờ chúng ta đã hiểu tại sao không có một con đường nào khác có thể giúp chúng
ta đạt được chân hạnh phúc nếu chúng ta không thanh tẩy những vọng tâm của chúng ta.
Cho tới khi nào tâm của chúng ta còn đắm chìm trong vô minh và dục vọng thì không có gì
có thể mang lại cho chúng ta chân hạnh phúc, nhưng toàn là đau khổ. Bởi vì chúng ngăn
cản sự kiểm soát của chúng ta và chúng áp chế tâm của chúng ta, như đã trình bày ở trên
chúng chính là những sự đau khổ tất nhiên. Bất cứ gì hiện hành ở trong tâm thái này là tự
nhiên bị đau khổ.
Thí dụ, giả thử có một cây độc mọc trong vườn của chúng ta. Nếu chúng ta không muốn
nguy hiểm, dĩ nhiên chúng ta sẽ không chỉ cắt tỉa bớt lá, bớt cành của cái cây này. Một
cách duy nhất để tẩy trừ tất cả những chất độc của nó phát ra từ thân, lá, cành, rễ... là đốn
bỏ, đốt toàn thể cái cây này đi. Chúng ta đào cho thật sâu để phá hủy tất cả những chiếc rễ
mà nó đã sản xuất ra chất độc. Chúng ta cũng nên dùng đường lối làm việc này cho tâm
của chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau và chặt đi tất cả những gì còn có thể sản
xuất ra khổ đau. Nếu chúng ta không quyết tâm mạnh mẽ như vậy, thì những gì chúng
ta áp dụng chỉ đem lại những niềm vui nhất thời, tạm bợ, rồi khổ đau lại ào ào kéo đến, trở
lại. Nếu chúng ta muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi, chúng ta phải chấm dứt tất cả
những nguyên nhân gây ra đau khổ, đó chính là vô minh.

Ngược lại với vô minh là trí tuệ. Trí tuệ là sự thấu hiểu sâu xa tận gốc rễ sự vật, hiện
tượng xuất hiện và chúng hiện diện như thế nào. Thường thường chúng ta rất mù mờ,
không thực sự hiểu sự vật hiện hành như thế nào. Như tôi đã trình bày, chúng ta thường
lầm tưởng rằng căn nguyên của đau khổ cũng là căn nguyên của hạnh phúc. Chúng ta đã
không nhận diện được vô minh, ảo vọng và ngay cả những khổ đau riêng tư của
chính chúng ta mỗi khi nó xuất hiện. Chúng ta đã đeo đuổi vô minh, đã phục tùng chúng
như là những vị thầy hoặc những hướng đạo viên của chúng ta. Tâm trong trạng thái mê
ảo thì luôn luôn tưởng tượng ra những ảo mê về thực tại, về chân lý, rồi trong sự mù
quáng đó chúng ta mơ tưởng, chúng ta ước ao chúng chính là sự thật, chúng có thật
(nhưng chúng chỉ là giả, vọng tưởng; dưới bóng mây đen thì cái gì cũng đen tối, đeo kính
màu gì thì chỉ nhìn thấy sự vật màu đó, dưới bóng của vô minh, của mê ảo thì sự vật, hiện
tượng cũng hiện hành là ảo, ngỡ là sự thật nhưng chính là mê ảo. Chỉ khi nào bỏ kính vọng
tưởng ra thì mới thấy màu thật của sự vật –Dg)

Sự thiền định của chúng ta, về Đạo pháp, chỉ có thể có kết quả trong việc gỉai quyết
những vấn đề, những rắc rối, nếu chúng ta đặt trọng tâm vào việc tẩy trừ vô minh. Con
đường của một tôn giáo duy nhất phải có chính là con đường xóa bỏ tận gốc rễ của đau
thương. Bộ mặt thật của vô minh mà chúng ta cần phải đối diện với và cần phải phá
hủy tan tành tận gốc rễ của nó chính là “chấp ngã, chấp cái tôi, TÔI” hay “tâm-thức-tôi.”
Nếu chúng ta tự chiêm nghiệm, tự quán xét nội tâm của chính chúng ta trong từng giây
phút, chúng ta sẽ nhận ra một cách rất rõ rệt là chúng ta luôn luôn bị ảnh hưởng của tâm-
thức-tôi này. Chính là nó, bởi vì chúng ta thiếu sự tỉnh thức của trí phân biệt nên chúng
ta không nhận diện được toàn thể tâm của chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi căn nguyên mê
mờ ảo vọng này.

Tâm-thức-tôi có thể được giải thích như sau. Không cần biết chúng ta đang làm gì –như
đang nghe thuyết giảng-- chúng ta có một cảm giác nào đó về ai hay cái gì mà chúng
ta đang là, về cái “TÔI”. Rất mạnh mẽ, chúng ta tin chắc chắn rằng cái “TÔI” là một cái
gì độc lập, tự hiện hữu, đứng tách biệt ra khỏi những cái khác. Chúng ta luôn luôn nghĩ
rằng nó biệt lập với thân xác, với tâm hay với bất cứ cái gì khác. Cái “TÔI” này xuất
hiện một cách vĩ đại, vững chắc và độc lập. Cảm giác này luôn luôn có ở chúng ta và chúng
ta chấp, chúng ta bám vào ý niệm này một cách vô cùng mạnh, vô cùng chặt. Trong chiều
hướng này, ý tưởng “Tôi là, Tôi...” trở nên rất quan trọng, hơn bất cứ một sự kiện nào khác.
Đây chính là khuynh hướng chuyển cái “TÔI” thành một cái gì đó để thành hình vô minh rồi
nhốt chúng ta vào đau khổ.

Chúng ta có thể nhận ra phản ứng của cái tôi rất dễ dàng mỗi khi chúng ta nghe những lời
nói không lịch sự, lỗ mãng. Người ta nói chạm tự ái của chúng ta, nhừng lời chê bai, những
lời chế diễu, những lời chọc tức...vân vân... khi nghe những lời này là ngay lập tức chúng
ta nổi nóng, chúng ta tức giận, tính xấu của chúng ta tự nhiên phát khởi và chúng ta không
còn tự chủ được nữa. Ngay lúc đó, cái “TÔI” của chúng ta trở nên mạnh mẽ và cao hơn cả
dãy Hy Mã Lạp Sơn. Con mãnh thú “TÔI” dồn vào trái tim của chúng ta uất ức, tức bực, nó
phừng phực, nó khó thở, nó nghẹn ngào để rồi bao nhiêu cái xấu xa trầm ẩn nổi ra cho hết,
tất cả những sự kiện này sản xuất ra đau khổ. Trong trường hợp này, bất chánh kiến về
chính chúng ta, cái nhìn vô minh về chính chúng ta càng độc lập, càng bảo thủ bao nhiêu
thì rắc rối càng đến bấy nhiêu, càng mạnh bấy nhiêu.

Chúng ta cho là tất cả những gì chúng ta nhận được đều bị bóp méo. Khi nghĩ về chúng
ta, chúng ta luôn luôn ở trong chiều hướng muốn bảo vệ cái tôi của mình, bám vào cái tâm-
thức-tôi của chính mình. Đứng trên căn bản của quan niệm sai lầm này, chúng ta thực sự
đã bám vào cái “TÔI” của chúng ta. Bởi vì chúng ta quan niệm thân xác “của tôi”, tâm “của
tôi”, và tài sản “của tôi” là những thực thể độc lập, tự hiện hữu, có thật, chúng ta bám chặt
vào chúng, từ đó rất nhiều tính xấu bắt đầu khởi lên, xuất hiện ra đều có liên hệ đến chúng.
Giống như thế, vì chúng ta quan niệm tất cả mọi hiện tượng là tự có và độc lập nên chúng
ta nghĩ nó đẹp và hấp dẫn, do đó sự mong ước chiếm đoạt chúng được khởi lên trong tâm
của chúng ta. Tâm bất mãn và bất an của chúng ta hướng dẫn chúng ta bám chặt vào
những đối tượng được coi là tự hiện hữu này, nhưng sự thoải mái và hạnh phúc mà chúng
ta đã đặt tin tưởng vào chúng lại không bao giờ xảy ra. Vì thế, đau khổ của chúng ta cứ lớn
dần, lớn dần thay vì giảm bớt đi.

Không những sự bám víu của chúng ta mà cả sân hận, kiêu mạn và tất cả những ảo
vọng, dục vọng khác cũng đều khởi phát ra từ căn bản vô minh này. Bởi vì chúng
ta nghĩ chúng ta, những đối tượng ở bên ngoài và tất cả những người khác hoàn toàn là
những cá thể độc lập, nên chúng ta muốn chiếm đoạt, đề phòng hoặc có những thái độ tâm
đóng kín đối với chúng. Chúng ta tấn công, chê bai chỉ trích hoặc mất thiện cảm với bất cứ
ai không làm vừa lòng chúng ta hoặc ngăn cản chúng ta, trong khi đó chúng ta lại bỏ qua
cho những ai giúp đỡ và đồng tình với chúng ta. Chúng ta đánh giá và xếp loại từng người
ai là “bạn”, ai là “thù”, ai là “kẻ xa lạ” rồi chúng ta cho bảng xếp loại này là sự thật, là có
thật. Trong trường hợp này, bên trong tâm của chúng ta sẽ khởi lên một sự sai lầm trầm
trọng về tình bằng hữu, tình con người. Thái độ của chúng ta bị tô mầu xấu xa, kết quả là
những hành vi cử chỉ của thân khẩu và ý của chúng ta sẽ không còn tốt đẹp và đạo
đức nữa. Như đã trình bày ở trên, những hành động thiếu đạo đức này sẽ hướng
dẫn chúng ta tạo ra nghiệp lực để thắt chúng ta mỗi ngày mỗi chặt hơn vào vòng luân
hồi của đau khổ. Như vậy, một lần nữa, chúng ta cần hiểu rõ nguồn gốc của tất cả
những đau khổ là do vô minh, chúng ta đã thực sự không biết sự vật hiện diện như thế
nào, hiện tượng xuất hiện như thế nào.

Giá trị đích thực của bất cứ một tôn giáo nào, dù thiền định hay dù áp dụng bất cứ phương
pháp nào, đều tùy thuộc vào khả năng của nó có giúp con người cắt đứt được những căn
bản vô minh hay không, để con người có thể thoát khỏi những đau khổ do ảo vọng mà ra
hay không. Bất cứ tôn giáo nào, bất cứ triết thuyết nào mà cung cấp những phương
pháp tẩy trừ vô minh đều là tôn giáo thật, đều là chánh Pháp. Qua lịch sử, đã có rất nhiều vị
thầy vĩ đại chỉ cho chúng ta những con đường thanh tẩy vô minh để chấm dứt đau khổ.
Nếu sự thực hành của chúng ta có hiệu quả trong việc cắt đứt căn nguyên vô
minh thì chúng ta có thể tin tưởng một cách mãnh liệt rằng chúng ta đang theo chánh Pháp,
không cần biết nó có tên là gì, được gọi như thế nào.

Đạo Pháp, Phạn ngữ Dharma, có nghĩa là “cầm giữ, nắm giữ.” Theo ý nghĩa đó, chúng
ta nắm giữ cái bình để nó khỏi rơi, khỏi bị bể vỡ, sự chân thành thực hành Đạo
Pháp giữ chúng ta khỏi những sự nguy hiểm và sai lầm dẫn chúng ta đến đau khổ. Như
vậy, bất cứ cái gì chúng ta làm –có thể là thiền định, có thể là một đường hướng sống hay
là một phương pháp hướng dẫn cuộc đời chúng ta—mà chữa được bệnh vọng
tâm của chúng ta thì đó chính là tinh túy của sự thực hành Đạo pháp. Phương pháp đó
không phải là đặc quyền của một truyền thống nghi lễ riêng biệt nào. Nó cũng chẳng tổn
hại gì, cho dù hành giả đó thuộc Hồi giáo hay Do thái giáo, Thiên chúa giáo hay Ấn độ
giáo, Phật giáo hay một thuyết giáo nào hoặc bất kỳ một tôn giáo nào. Nếu phương
pháp mà chúng ta đang thực hành giúp chúng ta phá tan được ảo vọng và cắt đứt được
tận gốc rễ của khổ đau của chúng ta thì đó chính là tinh túy của việc thực hành tâm linh, nó
gọi là Đạo Pháp.

Có rất nhiều cấp độ ảo vọng khác nhau nên cũng có nhiều cách thực hành Đạo pháp khác
nhau để chấm dứt ảo vọng. Tất cả những con đường tu tập chấm dứt ảo vọng đều nằm
trong Đạo pháp. Qua sự chân thành áp dụng những phương pháp thiền định có hệ
thống, chúng ta xóa bỏ khỏi tâm chúng ta những quan niệm sai lầm, những thái độ nhị
nguyên và những thói hư tật xấu của chúng ta. Chúng ta sẽ đạt giác ngộ, sự toàn mãn.
Sự thành đạt chắc chắn sẽ đến bởi vì tâm ảo vọng (vọng tâm) không phải là tâm bản nhiên,
bởi vì những gì xuất hiện ra trong tâm không phải là tâm. Tâm chỉ nhất thời chạy theo ảo
vọng cũng giống như một chiếc bình có một vết bẩn mà thôi. Một vết bẩn không phải là
chiếc bình, nó có thể được rửa sạch. Giống như vậy, tâm bản nhiên của chúng ta vốn trong
sáng, nhất thời bị ảo vọng che khuất, nó có thể được tẩy sạch.

Sự chấm dứt hoàn toàn đau khổ và giác ngộ là sự thành đạt rất cao quí, giá trị của nó
không gì sánh bằng nên chúng ta phải dồn hết năng lượng của chúng ta vào con
đường tâm linh. Hơn nữa, sự thực hành và sự học hỏi của chúng ta tùy thuộc vào sự lắng
nghe và vào sự nghiên cứu chân tính của bất cứ những gì chúng ta được dạy bảo. Như
vậy, sự học hỏi và kết quả của nó cũng vô cùng quan trọng và cần thiết cho con đường tâm
linh. Nếu chúng ta học hỏi nghiên cứu phương pháp Đạo pháp trong nội tâm rồi đem áp
dụng những điều học hỏi đó ở ngoài cuộc sống thì đời sống của chúng ta thực sự có một ý
nghĩa và tràn đầy ơn ích cho chính mình cũng như cho những người khác.

Nếu chúng ta theo một phương pháp toàn hảo, chúng ta sẽ không thất vọng vì để mất thời


giờ. Còn nữa, trong giờ phút cận tử, giờ phút của sự chết, chúng ta sẽ không sợ hãi và lo
lắng bối rối. Vì đã phát triển phương pháp liên hệ với nội tâm nên chúng ta có thể kiểm
soát được tiến trình của tâm linh, chúng ta có thể đối diện với tử thần một cách bình
tĩnh thanh thản, tự chủ và an nhiên. Biết rằng chúng ta đã sống một đời tốt đẹp nên chúng
ta sẽ có tự tin, vững chắc tin tưởng hạnh phúc và an lạc sẽ đến.

Tất cả những gì tôi trình bày ở đây đều là những kinh nghiệm của các vị thiền giả và những
vị đã và đang thực hành Đạo pháp. Có rất nhiều vị đã đạt giác ngộ, đã thành
công trong vấn đề thanh tẩy tâm. Họ đã áp dụng phương pháp này để thanh tẩy những ý
niệm sai lầm và những thói quen xấu của họ, chúng ta cũng có thể thực hành như vậy.
Khi đạt đến trình độ phát triển này, chúng ta có thể đem lợi ích đến cho người khác và giúp
những người khác trên con đường thực hành Đạo pháp. Vì lòng vị tha, chúng ta sẽ biết
hướng dẫn những người khác cùng thoát khổ tùy theo cá tính riêng của họ. Không còn
một mục đích nào khác trong cuộc đời cao đẹp hơn thế nữa.

Để kết luận, đây là phương pháp tối thiện xảo mà chúng ta có thể dùng để đối diện với
những vấn đề của chúng ta. Nếu tâm của chúng ta đầy dục vọng, chúng ta sẽ gặp rất
nhiều đau khổ mỗi khi chúng bị ngăn cản. Nhưng nếu chúng ta biết cách áp dụng Đạo
pháp, chúng ta có thể hướng dẫn tâm của chúng ta vào con đường thực hành Đạo
pháp trong đời sống, chúng ta sẽ có những chứng nghiệm hạnh phúc và an lạc ngay cả
trong những lúc gặp cảnh khó khăn. Mặc dầu chúng ta chưa phát triển thâm sâu Đạo pháp,
chỉ mới bắt đầu thực hành một chút, chúng ta cũng vẫn kinh nghiệm được sự an lạc trong
đời sống thường ngày của chúng ta. Do đó, hãy quan tâm đến tất cả muôn loài chúng
sinh –ngay cả đến một con vật nhỏ li ti – để phát triển chân hạnh phúc và để giải
thoát khỏi đau khổ, đây là điều vô cùng có giá trị trên con đường thực hành Đạo pháp,
trên con đường phát triển khả năng tâm linh của chúng ta.

Cám ơn quý vị nhiều lắm. Chúng ta vẫn còn giờ, quý vị có thể đặt câu hỏi.

Hỏi: Thưa ngài, chúng tôi bắt đầu thực hành như thế nào?

Trả lời: Trước nhất hãy học hỏi Đạo pháp. Nếu chúng ta không có căn bản, chúng ta sẽ
không biết thanh tẩy như thế nào. Do đó, trước hết chúng ta hãy tìm một phương
pháp đúng và thích hợp để học. Chúng ta hãy lắng nghe những lời giải thích của những vị
thầy có kinh nghiệm. Họ phải là người đã và đang thực hành những lời dậy bảo này. Vì
theo học những vị thầy như vậy, chúng ta mới vừa học hỏi những lời dậy bảo vừa kiểm
chứng họ đồng thời chúng ta cũng phải tự chứng nghiệm được những lời dậy bảo này.
Rồi chúng ta thiền định trên những gì đã được học hỏi, hãy đem tất cả những cái đó
ra thực hành trong đời sống thường ngày của chúng ta. Như vậy, trí tuệ của chúng ta sẽ từ
từ phát triển.

Hỏi: Vì Đạo pháp bắt nguồn từ văn hóa Đông phương, phải chăng Đạo Phật cũng có


thể thích hợp cho người Tây phương?

Trả lời: Như tôi đã trình bày, thực hành Đạo pháp không bắt buộc phải có một quy luật nhất
định cố chấp nào đó. Đạo pháp không phải là một cái gì có khuôn khổ cứng ngắc. Mặc
dầu có những người ngồi thiền khoanh chân nhắm mắt, nhưng những thế ngồi này tự nó
không phải là tinh túy của Đạo pháp.
Một hành động được coi là thực hành Đạo pháp chân thật khi nó thực sự tác động đến tâm.
Nếu ảo vọïng được nhổ đi tận gốc và đau khổ hoàn toàn biến mất khi chúng ta thực
hành một cái gì đó thì cái đó chính là Đạo pháp. Như vậy, chúng ta vẫn có thể thực
hành Đạo pháp cho dù chúng ta làm việc trong văn phòng tại một thành phố đông người
hay chúng ta là một lao công ngoài đường phố. Vấn đề chính yếu là ảo vọng của chúng
ta có giảm đi hay không.

Bất cứ một hành động nào cũng có thể chuyển thành sự thực hành Đạo nếu nó được hoàn
thành bởi một động lực đúng và chân thành. Nếu chúng ta quyết tâm làm việc để tẩy trừ vô
minh của chúng ta và chúng ta có thể giúp những người khác thắng được những đau
khổ của họ thì đó là Đạo pháp, bất kể nó là phương pháp nào. Đạo Phật, một trong những
đạo chính của thế giới, giảng dậy rất nhiều phương pháp để thanh tẩy những động năng
của chúng ta. Nó được áp dụng và có khả năng thích hợp với tất cả mọi hoàn cảnh của bất
cứ xã hội nào, Đông cũng như Tây. Do đó, một người Tây phương hiểu được tinh
túy của Đạo pháp và hình thức văn hóa mà nó sẽ hội nhập vào, thì họ có thể mang lại rất
nhiều ơn ích cho chính họ và cho những người khác bất kể những gì họ học được.

Hỏi: Có sự liên hệ gì giữa triết lý mật tông và sự thực hành Đạo pháp?

Trả lời: Không có bất cứ một sự thực hành mật tông nào mang lại kết quả nếu chúng
ta không có căn bản về Đạo pháp. Chính mật tông là sự thực hành Đạo pháp, nên đừng
nghĩ rằng có một sự thực hành nào đó ở bên ngoài Đạo pháp.

Nếu chúng ta kiếm được một văn bản nào đó nói về mật tông rồi thử áp dụng nó mà không
thấu hiểu Đạo pháp thì không thể có kết quả. Đây là sự thật, thay vì những sự thực
tập mang đến những kết quả tốt, giảm bớt u mê ảo vọng thì nó lại làm tăng thêm vô
minh và càng đi sâu vào sai lầm nhiều hơn nữa.

Mục đích của mật tông cũng giống như Đạo pháp, là để thoát khỏi khổ đau, bằng cách bỏ
đi những chướng ngại tinh thần (sở tri chướng.) Mật tông được coi như một phương
pháp rất thâm sâu bởi vì nó là một phương pháp rất nhanh trên con đường tiến tới giác
ngộ. Nhưng động năng thúc đẩy vào con đường thực hành mật tông chính là sự ước muốn
đạt giác ngộ càng nhanh càng tốt để cứu độ muôn loài chúng sinh càng mau có kết quả.
Chỉ có sự thúc đẩy của một Bồ đề tâm bao la mới mong thực hành mật tông có kết quả.

Như vậy, mục đích và động năng thúc đẩy của mật tông hoàn toàn giống như Đạo pháp, nó


là một thành phần của Đạo pháp, sự dậy bảo cao thâm này nương theo sự dậy bảo tổng
quát. Nếu nghĩ nó là một thành phần riêng rẽ biệt lập thì nó sẽ tạo thêm những rắc rối,
những vấn đề khác nữa, khác nữa.

Hỏi: Ngài có coi việc dùng thuốc (ma túy) là con đường thực hành tâm linh không?

Trả lời: Không, tôi không cho là những người chân thành thực hành Đạo pháp lại nghiện
ngập. Tuy nhiên, tôi không phủ nhận có một số người trong lúc bắt đầu phát triển, một
vài kinh nghiệm nào đó của thuốc có thể giúp họ. Thí dụ, tâm của một số người rất hạn
hẹp, không được cởi mở, họ không tin vào bất cứ sự hiện hành nào của hiện tượng mà
nó xuất hiện qua bình diện vật chất. Vì thế, nó có thể giúp họ nhận ra được sự thật trong
một chiều hướng khác với chiều hướng bình thường, có giới hạn. Sự kiện này có thể mở
cho họ một khả năng phát triển tâm mà những người khác không biết. Như vậy, sau khi sự
phát triển đã được chứng nghiệm mà họ vẫn còn tiếp tục dùng thuốc thì họ đã tạo ra
thêm ấn tượng cho ảo tưởng, thực ra sự kiện này đã chẳng giảm bớt vô minh. Kinh
nghiệm dùng thuốc có giúp gì được hay không tùy theo người dùng thuốc. Tôi không coi
việc dùng thuốc là một phương pháp tốt khi bước vào con đường tâm linh.

Hỏi: Khi bước chân vào con đường tâm linh, vị thầy quan trọng như thế nào? 

Trả lời: Ngay cả làm một việc nhỏ mọn tầm thường, như đi du lịch từ nước này đến nước
khác chúng ta cũng cần phải có người đã có kinh nghiệm hướng dẫn. Nếu chúng ta muốn
học một ngoại ngữ, chúng ta cũng cần phải có một ông thầy hiểu và nói được thứ tiếng đó.
Đây là một sự cần thiết, một sự hướng dẫn rất thông thường mỗi khi chúng ta muốn học
hỏi nghiên cứu một vấn đề gì.

Đây là một sự thật dành cho tất cả mọi vấn đề học hỏi, như vậy học hỏi Đạo pháp lại còn
cần thầy hơn nữa. Tại vì con đường Đạo không quen thuộc với chúng ta, nó hoàn toàn xa
lạ mà nó lại có liên hệ đến rất nhiều khía cạnh của chính chúng ta và với những hiện
tượng khác nữa. Lý do chính yếu mà chúng ta đau khổ là chúng ta có thói quen nhìn
sự chân thật qua cái lăng kính bệnh hoạn ngã chấp độc tôn của chúng ta. Nếu chúng
ta muốn tẩy sạch những ảo vọng, những u mê trong tâm của chúng ta, chúng ta cần
phải có một vị thầy đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này, đã có thực chứng về vấn
đề này.

Vì tính cách quan trọng trong việc theo đuổi con đường tâm linh, vị thầy hướng dẫn tâm
linh của chúng ta phải là một vị thầy hoàn hảo. Họ phải là người sống cho Đạo pháp, phải
là một thí dụ điển hình của Đạo pháp. Điều vô cùng quan trọng là tâm của họ đã có
những chứng nghiệm, đã hoàn toàn lãnh hội được những trạng thái thực hành đúng và họ
đã nắm vững những sự hiểu biết không sai lầm. Nếu chúng ta nhận được những lời giải
thích đúng đắn chân thật của vị thầy, rồi nghiên cứu, chiêm nghiệm và thiền định nghiêm
túc trên những lời dậy bảo đó, chúng ta sẽ đạt được thành quả theo ý muốn. Ngược laiï,
nếu chúng ta tin tưởng vào vị thầy không có đủ khả năng thì rất nguy hiểm, sự thực
hành của chúng ta sẽ đi vào hết lầm lẫn này đến lầm lẫn khác, để rồi cuối cùng chẳng đi
đến một kết quả nào.

Hỏi: Làm thế nào để tránh được trường hợp chấp, bám víu vào con đường thực hành tâm


linh?

Trả lời: Có những người muốn theo đuổi con đường tâm linh để quyến rũ người khác. Họ
thích được gọi là một người thánh thiện hoặc một người có đời sống tâm linh. Đây là một
sự hiểu lầm Đạo pháp, đây là sự lợi dụng Đạo pháp. Nhưng nếu thành tâm muốn chấm
dứt khổ đau và muốn cho tâm mình và tâm những người khác được an tịnh thì ước muốn
này không xấu. Đây không phải là trường hợp chấp hoặc bám víu mà nó có thể gây rắc
rối phiền muộn cho chúng ta. Ngay từ lúc bắt đầu bước chân vào con đường mà đã có
nguyện ước như vậy thì đã có ơn ích rất nhiều rồi, đây không phải là bám víu, chúng
ta không cần phải lẩn tránh.

Những bám víu xấu luôn luôn dẫn đưa chúng ta đến đau khổ. Với những động năng tham
dục, chúng ta sẽ tạo ra những hành động không đạo đức, nó sẽ đem lại khổ đau cho
chính chúng ta và cho những người khác. Nhưng lòng ao ước thực hành Đạo pháp không
được coi là tham dục. Nó hoàn toàn khác. Động năng thúc đẩy chúng ta thực hành Đạo
pháp khuyến khích chúng ta đi vào sự thực hành để giảm bớt, không tăng lên, những đau
khổ. Không có sự thực hành này, chúng ta sẽ bị trói buộc vào vòng luân hồi và chẳng được
hưởng một chút ơn ích gì trong kiếp người.

Phải có một động năng thúc đẩy mãnh liệt lắm thì mới có thể bước vào con đường tâm
linh, bởi vì sinh ra là chúng ta đã bị hướng dẫn vào con đường chấp ngã. Do đó, vì ước
muốn thực hành Đạo pháp để đạt kết quả tốt nên ngay từ khi bắt đầu chúng ta không nên
lo sợ bị dính mắc, bị lệ thuộc. Chúng ta nên cố gắng tiếp tục thực hành với một động
lực càng trong sạch càng tốt, hãy mong muốn thật nhiều ơn ích cho muôn loài chúng sinh.
Chương hai:
THIỀN ĐỊNH

1. BA KHÍA CẠNH CHÍNH CỦA CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIÁC NGỘ

Quán tưởng sự thanh tẩy

Chúng ta sẽ bắt đầu một thời thiền ngắn để thanh tẩy tâm của chúng ta và dĩ nhiên để
giúp chúng ta thu thập được những lời giảng dậy một cách tốt đẹp.

Mỗi người hãy ngồi theo thế ngồi thiền quen thuộc thoải mái của mình. Nếu quý vị cảm
thấy ngồi trên ghế sẽ thoải mái hơn thì cứ ngồi. Việc quan trọng là làm sao kiểm soát, theo
dõi được tâm. Ngồi thẳng lưng và cân bằng hai vai giúp cho sự kiểm soát này. Mắt nên mở
một chút để ánh sáng vào được, nhưng đừng mở lớn quá sẽ bị quấy nhiễu. Nếu
không buồn ngủ thì quý vị có thể nhắm mắt.

Chúng ta bắt đầu quán tưởng đến muôn vàn chúng sinh đang ngồi chung quanh chúng ta,
cùng nhìn về phía trước. Họ cùng chia sẻ với chúng ta tất cả những ơn ích, tất cả
những phước đức mà chúng ta có thể lãnh nhận được từ việc thiền thanh tẩy này. Tất
cả chúng sinh đều mang hình dạng con người, chúng ta hãy tưởng tượng quang cảnh bao
la bát ngát chung quanh chúng ta mọi người cũng đang ngồi thiền định.

Bây giờ, hãy quán tưởng trong con mắt của tâm, ở ngay trước mặt chúng ta, cách khoảng
một cánh tay, ngang với đầu chúng ta, có một tòa mầu vàng rất lớn trang hoàng đầy châu
báu. Sự quán tưởng này phải thật trong sáng, hãy tiếp tục quán tưởng một đóa sen trắng
nở lớn ở giữa tòa này. Đóa sen thật rực rỡ trong sáng, không một khuyết điểm, trắng tuyết.
Ngay trong hoa sen có vầng trăng và mặt trời, lồng vào nhau. Đức Phật Thích Ca ngồi trên
đó. Ngài mặc tăng bào. Bàn tay phải của Ngài đặt trên đầu gối phải, ngón tay chạm
vào hoa sen, bàn tay trái đặt trên lòng giữ bát khất thực. Dù quán tưởng đến Đức
Phật Thích Ca hay quán tưởng đến bất cứ gì ngay cả một hạt nguyên tử li ti thì cái đó cũng
phải thật trong sáng, là ánh sáng trong suốt.

Hãy nghĩ đến sự toàn giác, đại viên mãn của Đức Phật Thích Ca, Ngài hoàn toàn trong
sáng, thanh tịnh tuyệt đối, không một chút bợn nhơ, không nhị nguyên. Ngài là bậc toàn
tri toàn trí, siêu tuyệt. Ngài là đấng toàn năng có thể hướng dẫn muôn loài chúng sinh thoát
khỏi khổ đau và những phương pháp của Ngài sẽ dẫn dắt chúng sinh tu tập đến giác
ngộ, thành phật. Lòng từ bi bao la của Ngài che chở muôn loài, cả chúng ta, để lập
tức chấm dứt tất cả khổ đau.

Ngài hằng muốn chỉ cho chúng ta con đường thoát khổ, nhưng bổn phận của chúng ta là
phải chuyển hướng tâm của chúng ta vào trí tuệ, vào từ bi và vào sức mạnh độ trì của
Ngài. Vì thế, hãy quán tưởng càng trong sáng càng tốt, mỗi một người chúng ta hãy tự phát
nguyện: “Con qui y Phật, đấng toàn năng toàn giác Thích Ca Mâu Ni; con qui y Pháp, trí bát
nhã và những lời dậy bảo của Ngài; con qui y Tăng, là những người biết kiểm soát tâm của
họ theo lời dậy của Ngài. Con qui y và hoàn toàn nương tựa nơi Tam Bảo cho đến khi
đạt giác ngộ. Con kính xin Ngài độ trì con và muôn vàn chúng sinh. Cho tất cả chúng con
nhận được sự chỉ dậy đúng trên con đường tu tập, từ vị đạo sư đến sự chứng đắc cuối
cùng của giác ngộ.”

Bây giờ hãy quán tưởng ba chủng tử xuất hiện trên thân thể của Phật Thích Ca.


Những chủng tử này có thể là những Tạng ngữ, Anh ngữ hay dưới dạng ngôn ngữ nào
cũng được. Trên trán của Ngài xuất hiện chủng tử màu trắng OM, ở cổ của Ngài chủng
tử màu đỏ AH, và ở ngực của Ngài chủng tử màu xanh HUM. Những chủng tử này cũng là
ánh sáng rực chiếu thoát ra từ trí tuệ siêu tuyệt qua thân khẩu và ý của Phật. Từ những tia
sáng trắng, đỏ và xanh của những chủng tử này chúng chiếu rọi khắp nơi và thâm
nhập vào tất cả chúng sinh để thanh tẩy tất cả những ô trược nghiệp chướng của thân
khẩu và ý của chúng sinh. Khi tia sáng trắng thâm nhập vào trán của chúng ta, chúng
ta hãy nghĩ rằng tất cả những vọng tưởng, tất cả những ô nhiễm và tất cả những xấu
xa nghiệp chướng của thân xác chúng ta đang được tẩy rửa cho đến không còn một dấu
vết nào nữa. Chúng hoàn toàn bị xóa bỏ. Cũng giống như vậy, những tia sáng đỏ và xanh
thấm nhập vào cổ và tim của chúng ta, chúng thanh tẩy tất cả những ô nhiễm của
những lời nói và tâm tưởng của chúng ta, để chúng ta thoát khỏi nghiệp ác. Trong tiến trình
thanh tẩy này, chúng ta hãy kinh nghiệm, hãy chiêm nghiệm sự rỗng lặng của khổ đau và
những tình trạng sai lầm của tâm và hãy cảm nghiệm những ô nhiễm tâm thần này đang
bị tiêu diệt xóa bỏ toàn diện.

Trong khi những tia sáng thanh tẩy đang chiếu sáng từ sự quán tưởng Đức Phật Thích
Ca, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện sau đây rồi tụng những câu mật chú, lặp lại càng
nhiều lần càng tốt:

 Kính lạy Đạo sư, người sáng lập,


 Con đường thanh tẩy hoàn toàn ô nhiễm,
 Ngài là Phật, bậc toàn giác
 Ngài là đấng chiến thắng,
 Là đấng khôn ngoan của dòng Thích ca ---
 Con xin kính lạy Thầy và con xin qui y,
 Con kính xin Ngài nhận lễ vật của con.
 Con kính xin Thầy độ trì con.
 Tayatha om muni muni maha muniye svaha

Khi làm xong lễ quán tưởng thanh tẩy này, chúng ta hãy nghĩ rằng chúng ta đã nhận
được sự độ trì và trí tuệ từ thân khẩu và ý thánh thiện của Đức Phật Thích Ca. Hãy cố
gắng cảm nhận sự an lạc vô biên này bằng cả tâm hồn lẫn thể xác và hãy thường
xuyên tập trung vào nó. Chúng ta đã thanh tẩy, bây giờ bằng cả tâm hồn và thể xác, chúng
ta hãy ca hát trong niềm an lạc tự nhiên này. Với sự sửa soạn như vậy, chúng ta bắt đầu
nghe những lời giảng dậy về Đạo Pháp.
 

Sự thực hành tâm linh tối cao


 

Chúng ta đang đi vào một lãnh vực thực hành đặc biệt, có thể là hoàn toàn mới lạ với một
số người. Có một vài sự kiện chúng ta chưa bao giờ gặp, chưa bao giờ làm trong cuộc
đời của chúng ta. Chúng ta đang tìm một phương pháp thực tế để giải quyết những vấn đề,
những khó khăn của chúng ta, để từ đó chúng ta giải thoát chúng ta khỏi khổ đau,
nhưng phương pháp này hoàn toàn khác với những phương pháp mà chúng ta đã gặp
trong quá khứ. Khả năng tốt nhất mà những phương pháp khác có thể mang lại cho chúng
ta chỉ là trì hoãn sự khổ đau; còn tệ hại hơn, chúng lại hướng dẫn chúng ta, chúng lại
đem chúng ta đến những bất mãn, những nỗi chán chường to lớn hơn. Ngược lại, ở
đây chúng ta sẽ được dậy bảo, những lời dậy bảo này có khả năng tạo sự tự tin mãnh liệt
trong mỗi người chúng ta, vô số lượng chúng sinh trong quá khứ đã đạt giác
ngộ theo phương pháp này. Sự thật này chắc chắn cũng sẽ xẩy ra cho thời đại của chúng
ta và cho cả trong tương lai nữa. Đây là Đạo Pháp, đã được truyền dậy bởi những bậc toàn
giác, bởi Phật Tổ.

Đạo Pháp không lừa dối chúng ta. Nó chính là liều thuốc giải độc, là liều thuốc hóa giải tất
cả những sự lừa dối và tất cả những hiện tượng khổ đau đang diễn ra trong thế giới luân
hồi này, thế giới này luôn luôn chỉ có đau khổ và lừa dối tiếp diễn. Tại sao chúng tiếp
diễn như vậy? Chúng xuất hiện như thế nào? Nếu chúng ta không nhận diện được tính
cách vô thường của chúng hoặc nếu không hiểu chúng xuất hiện như thế nào thì chúng
ta chỉ biết nhắm mắt mà tin theo chúng thôi. Vì bị u mê say đắm trong sự xuất hiện của
chúng nên chúng ta đã hoàn toàn đặt niềm tin của chúng ta vào những quan niệm, vào
những ý niệm sai lầm của những đối tượng trong luân hồi. Từ đó chúng ta nhìn sự vật xuất
hiện trong thế giới này không còn thật như chính chúng là mà đã bị méo mó theo
những vọng tưởng của chúng ta rồi. Đây chính là những khuôn mẫu của tất cả những hành
vi và thái độ của chúng ta đã được chất chứa từ muôn vàn kiếp cho đến ngày hôm nay.
Chúng không là gì khác hơn là chỉ hướng dẫn chúng ta từ đau khổ này đến những đau
khổ khác.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta thực hành không đều đặn, chỉ áp dụng khi có dịp hoặc lơ


là thì phương pháp thực hành Đạo này cũng chẳng giúp gì được chúng ta, vì như chúng
ta đã biết những thói quen đã hằn in dấu vết trong tâm thức của chúng ta từ nhiều kiếp rồi.
Sẽ chẳng có một chút ơn phước nào, nếu có thì cũng chẳng tồn tại lâu được vì chúng
ta chỉ áp dụng trong một vài năm hoặc chỉ trong những dịp đi nghe thuyết pháp. Chúng
ta cần phải thực hành liên tục trong từng giây phút, ở bất cứ đâu, bất cứ chỗ nào. Chúng
ta đang sống trong một thời đại đầy nguy hiểm, từ thiên nhiên và từ chính con người làm
ra. Chẳng có gì là chắc chắn vững bền, ngay cả việc bảo vệ cái thân xác này. Vì thế chúng
ta nên chuyển tất cả những gì chúng ta làm trong đời sống hàng ngày vào việc thực
hành Đạo Pháp. Chúng ta không nên viết đầy trong tập ghi chép của chúng ta hay chất đầy
vào tâm của chúng ta những gì gọi là thông minh của những lời dậy bảo. Thay vì thế, ngay
lập tức, chúng ta hãy cố gắng dồn tất cả nỗ lực vào việc thực hành Đạo Pháp. Như vậy,
ngay cả việc đang ngồi lắng nghe bài giảng bây giờ cũng trở thành hoạt động tinh
túy của Đạo Pháp, mang lại thật nhiều ơn phước. Không cần phải cầu kỳ về vật
chất hoặc tinh thần mới có thể thực hành tâm linh có kết quả.

Không thể lấy những lợi ích trần gian để đo lường ơn phước trong việc thực hành Đạo
Pháp. Chúng ta có thể có những phần thưởng hoặc những lời khen ngợi trong những công
việc đòi hỏi nhiều khả năng tài chánh cũng như sự mạo hiểm, nhưng những sự thành
đạt này hoàn toàn không có nghĩa lý gì nếu so sánh với sự thực hành tâm linh. Nếu chúng
ta có gom góp ngọc ngà châu báu trong cả vũ trụ này lại thì chúng ta cũng không thể mua
được sự giác ngộ, sự giải thoát, thanh tẩy vọng tưởng, sự bình an thật trong tâm hồn, lòng
từ bi, tâm bồ đề, tâm buông xả, không gì có thể mua được những ơn phước mà chúng
ta có được từ sự thực hành Phật Pháp.

Đừng ngạc nhiên khi những giá trị vật chất không thể mang lại cho chúng ta những giải
quyết rắc rối trần gian. Tại sao vậy? Tại vì nếu chúng ta có chất chứa, có thâu góp tất cả
những gì chúng ta đã sở hữu trong kiếp này và trong muôn vàn kiếp trước vào một nơi thì
cả cái vũ trụ này cũng quá nhỏ bé chật hẹp đối với chúng. Mặc dù chúng ta có giầu đến độ
không thể tưởng tượng nổi thì cũng không thể mua được cái gì có thể thay thế khổ đau
của chúng ta. Tâm của chúng ta cũng vẫn rối loạn, cũng vẫn loạn động, cũng vẫn đòi hỏi để
rồi lại tạo ra nhiều đau khổ hơn nữa cho chính mình và cho những người khác.

Tuy nhiên, qua việc thực hành Đạo Pháp, chúng ta có khả năng đạt giác ngộ và có rất
nhiều ơn phước hướng dẫn chúng ta đến sự giải thoát tối thượng. Chúng ta sẽ được mãn
nguyện trong sự hiểu biết của chúng ta về tất cả các hiện tượng ở bên trong tâm của chúng
ta cũng như tất cả những hiện tượng xẩy ra ở bên ngoài. Hơn nữa, niềm an lạc của Đạo
pháp sẽ không hề bị mất đi hay biến thành khổ đau. Nó mang lại hạnh phúc vĩnh cửu. Lạc
thú của luân hồi và phúc lạc của Đạo Pháp hoàn toàn khác nhau. Đừng cố gắng đi
tìm hạnh phúc ở những giá trị trong cõi luân hồi, vì không sớm thì muộn những giá trị này
cũng tan biến mất. Hãy nhìn thẳng vào đời sống của mỗi người chúng ta, chúng ta sẽ tìm
ra được rất nhiều bằng chứng cụ thể về sự thật này. Ngược lại, sự thực hành Đạo Pháp sẽ
đem chúng ta đến giải thoát và giác ngộ, ngay khi bắt đầu thực hành chúng ta đã thấy
những kết quả khác biệt rồi, niềm hạnh phúc này không bao giờ chấm dứt.

Vấn đề chính của chúng ta là chúng ta thiếu sự phân biệt và trí tuệ để hiểu rõ những gì kinh
nghiệm của chúng ta dậy chúng ta về thực tính của những sự kiện xẩy ra trong cõi luân
hồi. Mặc dầu chúng ta biết những khoái lạc trần gian chỉ dẫn chúng ta đến bất mãn và bất
mãn, nhưng chúng ta vẫn cố tình quên đi sự thật căn bản này và vẫn tiếp tục đuổi theo
những ảo ảnh hạnh phúc. Trong chiều hướng đó, những hiện tượng trần gian sẽ lôi
cuốn chúng ta vào cạm bẫy, và hơn thế nữa, chính chúng ta tình nguyện để bị bẫy.
Tinh túy của sự thực hành Đạo pháp là tỉnh thức trong từng hành động của chúng ta và học
hỏi từng kinh nghiệm của chúng ta. Nếu chúng ta thường xuyên liên tục làm như vậy
thì không có gì có thể đánh lừa, đánh bẫy được chúng ta và tâm của chúng ta sẽ an trú sâu
trong an lạc, mặc dầu chúng ta đang sống trong thế giới của mê mờ vọng tưởng. Đây
là con đường tích lũy ơn phước chẳng những cho kiếp này mà còn cho tất cả những kiếp
trong tương lai nữa.

Phương pháp căn bản, phương pháp cốt tủy trong việc chuyển hóa tất cả những sinh


hoạt hàng ngày vào những hoạt động Đạo Pháp là kiểm soát tất cả những động lực, những
động năng thúc đẩy trong chúng ta. Hãy hiểu rằng tất cả những việc chúng ta làm đều
mang lại ơn phước cho chính chúng ta và cho những người khác. Nếu có động năng thúc
đẩy tốt thì bất cứ gì chúng ta thực hiện đều mang lại những kết quả tốt lành. Đây chính là
sự hòa nhập trong thực tại. Sản phẩm của tâm không phải chỉ có đau khổ mà còn có
cả hạnh phúc và giác ngộ nữa. Tất cả đều khởi phát ra từ tâm. Vì thế, nếu chúng ta điều
khiển được động năng, thái độ đúng của tâm, thì bất cứ gì chúng ta làm đều có thể hướng
dẫn chúng ta đến giải thoát, đến giác ngộ, đến đại lạc.
 

Thật quý giá khi được mang thân người


 

Vị đại đạo sư Tây Tạng Je Songkhapa, người đã đạt sự toàn tri trong giác ngộ, nói:
 Trong cõi đời này,
Được làm thân người, thật quý giá thay,
Còn hơn cả ngọc ngà châu báu.
Thực là khó tìm vì nó dễ tàn phai,
Như ánh chớp bay qua bầu trời.
Nghĩ đến bản tính của đời sống,
Đạt được tinh túy là điều cần thiết,
Trong cả đêm lẫn ngày.
Ta, một yogi, đã thực hành như vậy.
Còn ngươi, kẻ muốn được giải thoát,
Hãy cố gắng mà noi theo.

Chúng ta đã biết được mang thân người là một điều vô cùng quý giá, còn hơn cả ngọc
ngà châu báu. Với thân xác này, chúng ta có trí thông minh và đầy đủ thời giờ để tu
tập thành quả vị phật, giải thoát chúng ta khỏi luân hồi sinh tử và hưởng rất nhiều ơn
phước mà không có gì có thể mua được, dù chúng ta là người giầu có nhất trần gian.

Được mang thân người thật qúy gía, không phải chỉ vì giá trị của nó mà chỉ vì nó quá hiếm
hoi. Đại đạo sư Je Songkhapa nhấn mạnh điểm này bởi vì chúng ta chỉ có thể được một
lần thôi, “trong thời hiện tại này.” Đây là một việc vô cùng khó khăn trong sự kết tập nghiệp
qủa để tạo nên một con người. Chắc chắn chúng ta đã phải tích tụ biết bao nhiêu thiện
nghiệp nên mới được sinh ra làm người trong kiếp này, thật là khó khăn thay. Sống đạo
hạnh trong thời đại này thật là khó khăn, lại càng khó khăn hơn nữa nếu phải ở trong
những cõi thấp hơn, cõi mà chỉ có khổ đau. Ở cõi cao hơn thì còn có chút thời giờ để
tạo thiện nghiệp, bởi vì họ còn biết lánh xa khoái lạc.
Còn nữa, chúng ta cần biết sự thật quan trọng là không phải bất cứ ai cũng được ơn
phước này. Phải có rất nhiều điều kiện khác nhau trước kia mới tạo ra được hoàn
cảnh dẫn đưa đến mục đích hôm nay. Những lời giảng dậy về Đạo Pháp đã thâm nhập vào
xứ sở mà chúng ta đã sinh sống và chắc chắn phải có những vị đạo sư đã hướng
dẫn chúng ta, đó là hoàn cảnh bên ngoài. Lý do ở nội tâm là chắc chắn chúng ta phải thích,
phải ước muốn, phải quyết tâm tìm kiếm đạo và thực hành đạo. Thêm vào đó, chắc
chắn chúng ta phải được tự do, phải có đủ điều kiện trong cả hai phương diện tinh thần lẫn
thể xác để có thể học đạo và thực hành đạo. Nó đòi hỏi rất nhiều tinh thần đạo đức để
cho tình trạng này có thể xẩy ra được và cũng không chắc gì chúng ta có thể tạo thêm
được nhiều thiện nghiệp nữa để có lại thân người. Vì thế, đạo sư Je Tsongkhapa
khuyên chúng ta nên lợi dụng cơ hội cuối cùng, hiếm có và quí báu này.

Cơ hội hiếm được mang thân người này cũng rất dễ bị mất, nó đi nhanh như “ánh chớp
ngang qua bầu trời.” Chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào, trước khi chúng ta đề cập đến
nó. Nếu chúng ta nhìn vào chính chúng ta, có thể chúng ta thầm nghĩ mình sẽ còn sống lâu
lắm. Nhưng biết đâu tử thần đã kề bên mặc dù một ngày chưa qua hết, trong khi niềm hy
vọng sai lầm sống lâu trăm tuổi vẫn còn đang ôm ấp.

Ý niệm sai lầm này là một trong những trở ngại to lớn nhất ngăn cản sự tinh tấn trên con
đường thực hành Đạo Pháp, bởi vì nó sẽ tạo ra sự lười biếng và trì hoãn. Vì tưởng rằng
mình sẽ còn sống lâu nên không quyết tâm tu tập, không cố gắng thiền định và không chú
tâm thực hành Đạo. “Tôi mệt qúa, người uể oải qúa, thôi để đến mai hãy thiền, làm gì mà
vội... hãy đợi tuần sau đi, năm sau cũng chẳng sao mà!” Khi nghĩ như vậy, chúng ta đã
tự đánh lừa mình và làm mất hết những gì đã học hỏi được.

Có lẽ tất cả chúng ta đã nghe những lời dậy bảo và đã làm quen với một số hướng dẫn về
thiền định. Nếu chúng ta không thực sự áp dụng những sự hướng dẫn này vào thiền
định thì chúng ta sẽ chẳng đón nhận được ơn ích nào cả. Ngày tháng sẽ đi qua mau,
nhưng cơ hội thì không còn, rồi cũng chẳng chứng nghiệm được gì. Chúng ta lại tiếp
tục sống với những thái độ tiêu cực quen thuộc của chúng ta, rồi cũng sẽ chẳng có một
chút tinh tấn nào trên con đường tìm hiểu và thực hành Đạo Pháp. Như vậy, trước khi có
thể nhận biết được nó thì chúng ta đã chẳng còn sống nữa. Chúng ta sẽ đánh mất một cơ
hội hiếm hoi để thoát khỏi kiếp luân hồi mà ra đi trong niềm nuối tiếc và hối hận. Mặc dù có
sống cả trăm năm mà không tinh tấn trong Đạo Pháp thì cũng uổng phí thôi, vì cái chết sẽ
tới nhanh như ánh lửa lóe lên trong bầu trời.

Một khi chúng ta thiền định sâu xa về giá trị, về sự hiếm hoi và dễ tan vỡ của thân
xác chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra được những hoạt động trần gian, những sinh
hoạt trong kiếp luân hồi chẳng còn một chút giá trị nào, chúng chỉ giống như cái vỏ thóc mà
thôi. Chúng ta càng thiền định về những sự kiện này, càng quán tưởng về cuộc đời riêng
của chúng ta và những gì liên hệ đến nó, chúng ta càng nhận ra rằng phúc lạc chân thật chỉ
có từ sự thực hành Đạo Pháp. Chúng ta chỉ có thể đạt giác ngộ khi chúng ta cố gắng chân
thành chuyển hóa tâm ta.

Điểm này dẫn chúng ta trở về với câu hỏi động năng thúc đẩy. Nhờ kiểm soát được tâm,
nhờ theo dõi từng lời nói và hành động của mình, chúng ta có thể tránh được những sinh
hoạt tiêu cực mà chính nó có thể dẫn chúng ta đến những kiếp tái sinh thấp hơn, nhiều đau
khổ hơn. Nhưng, như chúng ta đã hiểu, mặc dù chúng ta có sinh lại trong một kiếp may
mắn hơn chúng ta cũng vẫn không giải quyết được những vấn đề của chúng ta. Có những
kiếp sinh ra ít đau khổ hơn đau khổ của kiếp trước nhưng sự đau khổ của kiếp hiện
tại cũng đủ bao trùm cả cuộc sống rồi. Do đó, nếu chúng ta muốn giải quyết toàn diện đau
khổ, chúng ta cần phải tu tập hướng tới sự chấm dứt nguyên nhân phát sinh ra luân hồi.

Như vậy, động năng tu tập để thoát khỏi đau khổ một mình không phải là động năng thúc
đẩy cao nhất. Vô lượng chúng sinh đang khát vọng niềm an lạc và kinh hãi khổ đau
như chúng ta, họ cũng đang bị giam trong luân hồi. Nếu chúng ta chỉ nghĩ giải thoát một
mình trong khi những người khác đang u mê và vô vọng, thiếu thầy chỉ dậy cho con
đường chấm dứt khổ đau của họ thì sao? Do đó, động năng tu tập, động năng thực
hành Đạo Pháp của chúng ta không thể thiếu lòng từ bi, chúng ta cần phát triển tâm bồ
đề. Chúng ta tu tập để giác ngộ, chúng ta cần giải thoát chính mình đồng thời cũng phải
phát triển tâm từ và trí tuệ để có đủ khả năng giúp đỡ những người khác . Như vậy, những
hoạt đôïng như đến đây lắng nghe Đạo Pháp cũng có thể chuyển thành sự thực hành đạo
một cách vô cùng hiệu quả nếu chúng ta hoàn thành với một tâm nguyện bồ đề. Phát
khởi tâm từ là một điều kiện vô cùng cần thiết trong việc tinh tấn tu tập và tỉnh thức.
 

Tâm Hoàn Toàn Buông Xả
 

Nếu phải đề cập đến tinh túy của Đạo Pháp thì chúng ta có thể thâu tóm vào ba lãnh vực,
được gọi là ba nguyên lý căn bản của con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là Tâm Hoàn
Toàn Buông Xả, Tâm Bồ Đề và Quan Niệm Đúng về Tánh Không. Nói vắn gọn, chúng như
là chất dầu đặc biệt đẩy phi thuyền của chúng ta thẳng tới mặt trăng toàn giác. Chúng
ta sẽ tìm hiểu chúng trong phần còn lại của bài giảng này. Theo phương pháp này, có thể
sẽ dễ hơn và nhanh hơn để chúng ta chiến thắng những tính tiêu cực mà chúng đã hành
hạ chúng ta trong vô lượng kiếp. Đạo sư Je Tsongkhapa đã để lại một bài kệ vô cùng quí
gía về ba nguyên lý này, tôi sẽ trình bày nó theo lối viết của ngài Kyabje Pabongka
Rinpoche, một đại hành giả tu khổ hạnh Tây Tạng đã đạt ngọâ theo lối thiền mật
tông Heruka Chakrasamvara.

Cánh cửa mở ra cho tất cả những con đường tâm linh, từ sự giải thoát cá nhân đến sự giác
ngộ tối thượng, chính là tâm hoàn toàn buông xả. Như là một giấy thông hành, một sự
chủng ngừa và một số tiền độ thân cần thiết cho một cuộc đi du lịch, muốn tinh tấn trong
sự thực hành Đạo, tâm cần phải buông xả một cách toàn diện. Một thiền giả sẽ không đạt
được một sự tiến bộ nào nếu không thực tâm buông xả tất cả. Mặc dù họ đang ở nơi tu
tập, đang lắng nghe và đang nhận lãnh những lời dậy bảo về thiền định, nhưng họ cũng
đang tiếp tục bị ràng buộc bởi những chướng ngại thầm kín của cả tinh thần và thể xác
họ. Sở dĩ nói như vậy bởi vì họ đã không phát triển sức mạnh của tâm hoàn toàn buông xả.
Cho tới khi nào sức mạnh của lòng thành tâm buông xả tăng lên, thì những chướng ngại ẩn
náu sâu xa kia sẽ tự động sút giảm và kết quả của sự thiền định sẽ tới ngay. Lúc đó, tâm
cũng tự điều chỉnh để mang lại sự tinh tấn.

Đức Phật Thích Ca đã tinh tấn trên con đường tu tập của Ngài bởi vì Ngài quyết tâm buông
bỏ tất cả. Do đó, Ngài có thể thanh tẩy, tinh tiến vượt bực, có khả năng chuyển hóa muôn
vàn chúng sinh, hướng dẫn họ sinh vào những cõi cao hơn, giải phóng họ và giúp họ
đạt giác ngộ, cho đến ngày hôm nay. Cũng giống như vậy, đại thiền giả du già Tây
Tạng MIlarepa đã từ bỏ tất cả để tu tập và Ngài đã hoàn toàn giác ngộ chỉ trong một kiếp.

Người ta thường nghĩ rằng phát triển tâm buông xả như vậy sẽ làm chúng ta bi quan và
ngu dốt đi, nhưng hoàn toàn ngược lại, tất cả những vị thiền giả tinh tấn trên con
đường thiền định đều kinh nghiệm được sự hạnh phúc chân thật và an lạc ngay trong cuộc
sống trần gian này. Nếu chúng ta nghĩ rằng sự buông xả sẽ phá hủy sự hưởng thụ trong
cuộc sống này thì chúng ta đã hiểu sai ý nghĩa của nó rồi. Khi một người thực sự phát triển
tâm buông xả, họ sẽ có kinh nghiệm và thực chứng sâu xa về hạnh phúc và an lạc, cả tinh
thần lẫn vật chất, niềm hạnh phúc của họ vượt xa những người chỉ biết quanh quẩn với
những thú vui xa hoa vật chất mà không có thực chứng.

Chúng ta hãy thử nhìn sâu vào lãnh vực này xem sao. Một người sở hữu tài sản to lớn có
thể nói rằng họ đang tận hưởng cuộc đời, như vậy họ không cần sống đạo, không cần Đạo
Pháp. Họ nói như thế nhưng tâm của họ đang hờn giận ganh ghét, vô minh, kiêu
mạn,...vân vân... Nếu đây là tất cả những gì họ tin tưởng, thì tại sao chúng ta lại bảo rằng
họ đang khổ, còn nhà tu hành từ bỏ tất cả kia lại sung sướng hạnh phúc hơn họ? Câu trả
lời là người đó đang đi tìm hạnh phúc và sự an toàn trong luân hồi, những thứ này đang
làm họ mờ mắt, dù họ biết hay không biết, đau khổ rồi sẽ đến. Để tạm thời bảo vệ cái tâm
trạng của mình, họ từ chối không nhận những điều bất mãn mà họ đang kinh qua. Hơn
nữa, họ không có khả năng nhìn ra được vọng tưởng đang nằm trong vấn đề này. Vì thế,
điều mà họ cho là đang hạnh phúc thực ra chỉ là sai lầm u mê, nói một cách rất thành thật,
họ chẳng hạnh phúc chút nào. Ngược lại, thiền giả vượt qua được những chướng
ngại trong tâm chính là nhờ sức mạnh của tâm buông xả, làm họ thoát khỏi những khổ đau
của vọng tưởng mà tiến tới một đời sống vững chắc trong sự an lạc của cả thể chất lẫn tinh
thần.

Những vấn đề vật chất đều phát khởi từ tinh thần. Còn nữa, chúng ta thường cho


rằng nguyên nhân tạo ra đau khổ không phải là kết quả của lòng ganh tị và ham muốn, mà
chỉ có những bệnh tật của thân xác mới đem lại khổ đau. Thực ra, nguyên nhân của cái
đau phát xuất từ một tâm tiêu cực và đây chính là cái khổ của chính nó.

Thí dụ như lòng mê vọng kiêu mạn, khi bị nó ảnh hưởng chúng ta sẽ không còn yên
ổn mà vô cùng bực bội. Chúng ta bị bơm phồng lên như một trái banh. Nếu kiểm
điểm, chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng khó chịu và sẽ nhận thấy nhiều hiện tượng xẩy ra
chung quanh mình, thân xác thì run lên tinh thần thì bấn loạn. Nếu chúng ta công nhận tình
trạng “bất an” này là đau khổ thì chắc chắn chúng ta phải liệt kê kiêu mạn vào trong danh
sách này.

Thật là dễ dàng để nhận ra rằng nóng giận cũng nằm trong danh sách của khổ đau. Chẳng
có một chút thoải mái nào khi ở vào tình trạng này. Nóng giận gây ra đau tim, mất bình
tĩnh và biết bao nhiêu hậu qủa xấu xa khác cho tâm hồn. Nó chẳng mang lại một niềm hạnh
phúc nào ngoài đau khổ.

Lòng tham lam là một loại mê vọng gây đau khổ khó nhận ra nhất. Đây cũng chính là
một chướng ngại, một nguyên nhân mang lại đau khổ. Hãy tưởng tượng chúng ta đang ở
trong một cửa tiệm, có một món hàng mà chúng ta rất thích thú, muốn có cho bằng được.
Tâm của chúng ta liền bị khựng lại khi nhìn thấy món hàng đó, không thể không mua được,
phải mua ngay. Mỗi khi ý tưởng này xuất hiện ra trong tâm của chúng ta, chúng ta cảm
thấy có một cái gì đó thắt chặt tim ta hoặc như một lưỡi dao nhọn dí vào trái tim ta. Có
thể chúng ta cho rằng đây là một thói quen rồi chấp nhận nó như một niềm hạnh phúc,
nhưng nếu nhìn gần hơn, sâu hơn chúng ta sẽ thấy thực sự đây là một tình trạng bị gò bó,
một sự thắt chặt.

Cũng như vậy, tất cả những phiền não tinh thần và những ảnh hưởng của nó đều mang lại
khổ. Rất nhiều người trong chúng ta không nhận ra được những tâm trạng tiêu cực này
là bệnh hoạn mà cứ tưởng rằng họ vẫn khỏe mạnh lắm. Chúng ta có thể hiểu được sự
thật này qua sự sử dụng thuốc men. Nhiều khi chúng ta đi khám bệnh mà không có một lý
do rõ rệt nào, nhưng bác sĩ lại phát giác ra chúng ta đang mang một chứng bệnh hiểm
nghèo. Như vậy điều mà trước kia chúng ta nói rằng chúng ta chẳng có bệnh gì hết là sai
lầm, nếu khôn ngoan thì chúng ta nên nghe theo lời bác sĩ mà chữa bệnh ngay. Do đó một
người cho rằng họ không khổ, việc thực hành Đạo chỉ để dành cho những người thất bại
hoặc những người bất mãn với thời cuộc, nếu họ tự kiểm điểm một cách sâu xa về
những thái độ tự vệ này thì họ sẽ trở nên khôn ngoan hơn.

Một tâm hoàn toàn buông xả sẽ dẫn đến phúc lạc vì những nguyên nhân gây ra xáo trộn đã
không còn hoạt động. Phát triển tâm buông xả không có nghĩa là đi sống biệt lập với xã
hội và rời xa những sinh hoạt lợi lạc của nó. Nếu nó xẩy ra như vậy thì chúng ta sẽ không
còn khả năng và cơ hội để phát triển tâm buông xả nữa mà phải đợi cho đến khi nào rời
khỏi xác thân này, vì thân xác cũng là một phần của thế giới vật chất. Nó cũng không có
nghĩa là chúng ta phải vất đi tất cả những tài sản của chúng ta. Trong một khía cạnh nào
đó, tâm của chúng ta cũng là một tài sản, làm sao chúng ta có thể chạy trốn nó được? Vì
thế, buông xả không phải là một hành động tách biệt, chia cắt hoặc lìa bỏ; nó không là một
cái gì đó mà chúng ta có thể hoàn thành giống như làm xong một công việc. Đúng hơn, nó
là một hoạt động của tâm.

Vậy thì tâm buông xả là gì? Đây chính là sự buông bỏ những nguyên nhân gây ra đau khổ,
những sự buồn lòng tự chính nó. Mỗi khi chúng ta loại bỏ được những nguyên nhân này thì
những khó khăn rắc rối không còn xẩy ra một cách dễ dàng nữa – cho một cá nhân hay
cho cả một cộng đồng xã hội -- như vậy tham lam, giận dữ và kiêu mạn sẽ không còn làm
gì được chúng ta. Chúng ta sẽ không còn bị rơi vào những vấn đề gây ra buồn phiền hay
không buồn phiền, bởi vì những nguyên nhân của chúng đã bị loại bỏ.

Xin nhấn mạnh điều này, từ bỏ không có nghĩa là vất bỏ đi tất cả những thú vui trần gian
mà chúng ta đang có. Đã có rất nhiều vị giác ngộ là những thương gia giầu có, vua chúa,
vân...vân...Đây không phải là sự sở hữu của chúng ta mà chính là sự vô minh của chúng
ta, tất cả những thái độ bám víu, níu kéo, dính mắc và nuối tiếc của chúng ta vào
chúng cần phải buông bỏ (Một vị đạo sư nói: hãy thưởng thức tất cả những gì có trên đời
này nhưng đừng bám víu vào bất cứ cái gì, đó là nguồn gốc của khổ đau và hạnh phúc. –
Dg ). Mặc dầu trong hiện tại chúng ta không để ý, không thực tập trên thái độ này nhưng
nếu chúng ta chỉ hiểu ý nghĩa thực sự buông bỏ là gì thì chúng ta cũng đã bớt được rất
nhiều phiền muộn. Tuy nhiên, nếu chúng ta thực sự thực hành phát triển tâm buông
xả thì chúng ta sẽ tiến rất xa trên con đường giải thoát. Chúng ta sẽ xử dụng những của
cải của chúng ta một cách khôn ngoan hơn để không bị chúng hành hạ. Chúng ta sẽ biết
cách đối trị những mâu thuẫn nội tại về ý nghĩa thật của sự buông xả, thấu suốt được toàn
triệt những niềm tin nhảm nhí đã dẫn dắt chúng ta đến khổ đau, bất hạnh, yếu hèn như một
kẻ ăn xin.
 

Buông Bỏ Đau Khổ


 

Không có một tâm hoàn toàn buông bỏ khổ đau thì không có cách nào thoát khỏi biển trầm
luân. Chúng ta đã bị chới với trong biển này từ muôn vàn kiếp và sẽ tiếp tục chìm lặn trong
đó nếu chúng ta không quyết tâm ngay từ bây giờ thoát ra khỏi nó. Với quyết tâm buông
bỏ toàn diện như vậy sẽ tạo nền tảng vững chắc cho con đường giải thoát đến giác ngộ,
đây chính là những lời dậy bảo trước kia về động năng thúc đẩy đến giác ngộ, đây cũng
chính là một quan điểm đúng đắn về tính không.

Chúng ta không hy vọng phát triển được tâm buông xả nếu chúng ta không hiểu luân hồi là
gì và đau khổ là gì. Nếu chúng ta không nhận thức được bản tính khổ đau của luân
hồi thì chúng ta cũng không có một năng lực nào thúc đẩy chúng ta tìm con đường thoát
khổ. Vì thế, chúng ta cứ mãi hoài ngụp lặn trong những thú vui tạm bợ, nhất thời, bị mù
quáng và bị cột chặt vào bánh xe khổ đau và bất mãn. Chúng ta như những tên tù khờ dại
chẳng hiểu biết gì về nhà tù khốn khổ khi so sánh với một đời sống thoải mái tự do, nên
chẳng bao giờ tạo cơ hội mà trốn thoát. Do đó, thiền định trên bản tính của khổ đau là
một việc làm vô cùng quan trọng nếu chúng ta muốn tìm kiếm và theo đuổi con đường giải
thoát khỏi luân hồi.

Có rất nhiều người hiểu sai về luân hồi. Một số người nghĩ đó là một xứ sở, một nơi chốn,
một căn nhà hay là một loại thức ăn ...vân...vân. Vì hiểu lầm như vậy nên người ta nói rằng
ở Tây Tạng có những người chuyên môn phục dịch cho những lạt ma cao cấp. Những
người này ở với lạt ma cả đời, phục vụ ông ta và lo lắng tất cả mọi việc cho ông ta. Rồi một
ngày nào đó họ thay quần đổi áo bằng một bộ cà sa tu hành.

Một thời gian ngắn sau họ được gửi đến một vị lạt ma khác. Lạt ma này nghĩ rằng chắc ông
đã hiểu Đạo thâm sâu vì đã ở với cao tăng lâu lắm rồi. Lạt ma hỏi ông đã tinh tấn như thế
nào trên đường tu tập. Ông trả lời: “Con đã thoát khỏi luân hồi.” Vị lạt ma có vẻ hài lòng và
hỏi thêm làm sao mà ông ta đạt được điều đó. Ông trả lời: “ Dễ thôi, con đã thay quần áo
rồi !”

Đó là những kiểu hiểu lầm về luân hồi. Lại có những người khác, họ rời bỏ lối sống thường
ngày để đi vào hang động và rừng sâu để tu, họ nghĩ rằng như vậy là đã trốn
thoát khỏi luân hồi. Đây cũng là một hiểu lầm, dù có lên mặt trăng mà ở, chúng ta cũng vẫn
ở trong luân hồi. Luân hồi không phải là một nơi chốn để mà chạy trốn, nó chính là tình
trạng và thái độ của tâm chúng ta.

Luân hồi (samsara) là một danh từ tiếng Phạn (Sanskrit) có nghĩa là “chu kỳ, vòng tròn” hay
“vòng hiện sinh.” Cho tới khi nào chúng ta chưa kiểm soát được vòng chết và tái
sinh là chúng ta còn ở trong luân hồi. Ngay bây giờ, chúng ta đang du hành qua hình
dạng con người. Khi đời sống này qua đi, tâm thức của chúng ta –hoặc, chính xác hơn,
sự liên tục của năng lượng tinh thần—sẽ bay theo cơn gió nghiệp vào một đời sống khác
mà không có quyền lựa chọn. Như vậy là nó lại cư trú vào một thân nghiệp khác. Và rồi đời
sống này lại cũng sẽ chấm dứt, tâm thức của chúng ta lại ra đi không có quyền chọn lựa.
Trừ khi chúng ta kiếm ra được một con đường để thoát nếu không tiến trình này sẽ liên
tục tự lặp đi lặp lại không bao giờ chấm dứt.

Cái gì làm chúng ta lòng vòng trong bánh xe luân hồi? Đó chính là nghiệp lực được tạo ra
bởi chính những hành động của chúng ta cộng với những vọng tưởng của chúng ta thúc
đẩy chúng. Hai lực này cột chặt chúng ta vào những thân nghiệp khác nhau như những sợi
dây cột tù nhân. Điều khác biệt là chính chúng ta tự trói chúng ta bằng những sợi dây
nghiệp và vọng tưởng do chính chúng ta tạo ra, không có một ai khác trói chúng ta cả.

Cho tới khi nào chúng ta còn tiếp tục tái sinh vào một thân xác trong luân hồi thì chúng
ta còn tiếp tục bị phiền não và bất mãn. Hãy thử nghĩ mà xem, tất cả những khó khăn, tất
cả những vấn đề mà chúng ta găïp đều chỉ vì chúng ta mang cái hình thể hiện tại. Chúng
ta phải cho nó ăn, phải cho nó mặc, chúng ta phải săn sóc nó rất cẩn thận thì mới mong nó
được khỏe mạnh. Chúng ta phải làm việc cực nhọc để có tiền mà phục vụ nó, ngay cả việc
phải có một căn nhà để giữ nó ấm. Sau một ngày làm việc cực khổ, tâm chúng ta bị mệt
mỏi, chán chường vì thân xác của chúng ta rã rời và uể oải. Còn nữa, mặc dù chúng
ta đã cố gắng hết sức bảo vệ nó, thân xác của chúng ta vẫn thường xuyên bị nhiễm trùng
và bị thương. Măïc dù bị như vậy nhưng không một ai trong chúng ta muốn xa rời
cái nguyên nhân bất an này, dường như không còn một con đường nào khác để trốn
thoát nếu không có nó. Sự thiếu tự do chọn lựa này là một sự kiện rất tự nhiên của luân
hồi.

Chúng ta không thể có tự do sau khi tự tử. Hành động điên cuồng này, sinh ra trong tuyệt
vọng, chỉ để thay thế một thân xác bệnh hoạn khác mà thôi. Thay vì như thế, giống như
một tù nhân cắt đứt sợi dây trói, chúng ta cũng phải cắt đứt nghiệp và những vọng
tưởng của chúng ta. Chỉ có cách này mới giải thoát chúng ta khỏi luân hồi. Chỉ có sự hiểu
biết sâu xa và sự kinh hãi khổ đau đã kinh nghiệm được trong những kiếp luân hồi mới tạo
nên những động năng mãnh liệt để thúc đẩy chúng ta vượt thoát khỏi nó. Như vậy thiền
định trên sự buông xả cần phải được đào sâu và phát triển thật nhiều, nhiều hơn nữa.

Có rất nhiều lý do khiến chúng ta phải tìm hiểu càng sâu xa càng tốt. Trong mỗi một
phút chúng ta tạo ra hàng trăm thứ nghiệp, và, tùy theo cường độ và sự lặp đi lặp lại của
chúng, chúng có thể đẩy chúng ta vào rất nhiều loại hiện sinh khác nhau, rất nhiều hoàn
cảnh sinh hoạt khác nhau. Chỉ cần thận trọng để ý tâm của chúng ta mỗi khi nó nổi cơn
nóng giận là chúng ta biết ngay cảnh địa ngục chúng ta thường tạo ra như thế nào. Nếu
trong khi chết mà chúng ta mang một tâm trạng đầy u uất và trầm thống bởi những vọng
tưởng thì thử hỏi cái thân xác nào sẽ thích hợp với những tâm thức u uẩn khổ đau
đó? Chắc chắn nó sẽ không mang hình dạng con người!

Nói rộng hơn nữa, mặc dù với một nhãn quan hạn hẹp chúng ta cũng có thể nhìn thấy
được rất nhiều đời sống khác ngoài con người, và cũng có rất nhiều hình dạng con
người khác nhau trên trái đất này. Không ai có thể chứng minh được đau khổ của loài vật
hay của một người bị bệnh tâm thần không ảnh hưởng đến chúng ta, chúng thực sự có ảnh
hưởng đến chúng ta! Vì thế, một tâm buông xả toàn diện phải được bao trùm trên tất cả
mọi cuộc sống, từ chỗ cao nhất đến nơi thấp nhất. Nhờ sự chuyên cần theo dõi trong thiền
định, không những chúng ta có thể phát triển được tâm buông xả mà chúng ta còn phát
triển được tâm từ bi đến tất cả những chúng sinh bất hạnh đang trầm luân trong khổ
đau. Tâm từ bi đó rất quan trọng và cần thiết, đặc biệt cho tiến trình tinh tấn tu
tập của chúng ta.
Đức Phật Thích Ca đã dậy chúng ta có ba cõi thấp hơn cõi con người, mỗi một cõi đều
do nghiệp cấu tạo ra những tình trạng tương ứng như vậy. Ba cõi đó là : cõi Địa Ngục, cõi
của khổ đau; cõi Ngạ Quỷ, cõi của đói khát và cõi Súc Sinh, cõi của sợ hãi. Tùy theo nghiệp
của từng cá nhân, những tình trạng khổ đau này sẽ được thị hiện ra trong mỗi một hoàn
cảnh, nơi chốn vật chất và thân thể khác nhau, hay tác động trên tâm thức ở mức độ nông
sâu khác nhau. Dù ở bất cứ trường hợp nào, những đau khổ này đều rất thật đối với những
người đã tạo ra nghiệp đó để thực sự kinh nghiệm nó.

Nhờ thực hành tâm linh sâu vào những cõi giới bất hạnh này, chúng ta mới tạo ra được
những động lực mạnh hầu buông bỏ những hành động tiêu cực dẫn chúng ta vào tái sinh.
Nhờ nếm một chút khổ đau bây giờ trong thiền định, trong khi còn có cơ hội chuyển hóa ác
nghiệp, còn hơn là cứ giữ mãi tình trạng khinh thường không sợ hãi cho đến một ngày phát
giác ra mình đang bị sập bẫy. Khi đó thì quá trễ rồi, chẳng còn làm được gì nữa, chỉ còn
chờ cơn thống khổ đến muôn đời.

Nếu chúng ta nghĩ được rằng những cõi khổ đau này là do nghiệp quả mà ra thì rất có
thể chúng ta đã được hưởng nhiều ơn ích trong cuộc đời lắm rồi. Thí dụ, có thể chúng
ta thường rất tự hào và có những hành vi ngạo mạn đối với những cái đáng lý ra chúng
ta nên hạ mình xuống. Nhưng, nếu chúng ta hiểu được rằng những ngạo mạn đó sẽ
dẫn chúng ta sinh vào một trong ba cõi thấp nói ở trên và nếu chúng ta có kinh nghiệm về
khổ đau trong lúc thiền định thì tâm của chúng ta sẽ tự động thoát khỏi những tâm trạng
khổ này. Biết rằng sợ hãi sẽ làm khổ tâm cũng đủ để chấm dứt việc tạo ra những nguyên
nhân gây khổ đau khác, đây không phải là một điều xấu, không phải là một thái độ tiêu cực.
Đó là một ơn ích, một việc rất có lợi. Nếu là thái độ tiêu cực nó sẽ dẫn đến khổ đau. Do đó,
vì sợ tạo ra ác nghiệp nên sẽ dẫn đến việc quyết tâm chấm dứt khổ. Đây là một việc tốt,
không xấu.

Ngài Shantideva (Thế Thân), một vị đại bồ tát người Ấn độ, đã dẫn chứng những ơn ích khi
thiền về những cõi khổ như sau:

 Kẻ nào nhớ đến những khổ đau mà bực bội


Kẻ đó sẽ hết kiêu căng. 
 Khi khám phá ra sự khổ đau của mình
 Kẻ đó cũng khám phá ra khổ đau của người khác.
 Đó là cơ hội cho lòng từ bi khởi phát.

Như vậy, những chúng sinh bình thường như chúng ta, là những người luôn luôn tạo ra
nghiệp và không thể kiểm soát được vọng tưởng, thì thiền trên những khổ đau của ba
cõi giới này là cách tốt nhất để chúng ta tu tập và phát triển tâm buông xả toàn diện.
 

Sáu Nẻo Luân Hồi


 

Cõi tái sinh thấp nhất là cõi địa ngục, chúng sinh ở cảnh địa ngục. Chúng ta tạo ra nghiệp
và kinh nghiệm được khổ đau qua nghiệp khi chúng ta cố tình gây khổ đau và thương tích
cho người khác. Đánh nhau, chém giết nhau, hãm hiếp kẻ khác ...vân vân... là những hành
động không đạo đức, kết quả là sẽ tái sinh vào đây. Cõi địa ngục có thể rất nóng hoặc rất
lạnh, tái sinh vào cõi giới này thường ở rất lâu dài. Mang một nghiệp này sẽ bị tái
sinh vào địa ngục nóng có thể dài tới 9 tỷ năm! (nghĩa là cho tới khi nào hoàn toàn thanh
tẩy hết nghiệp đó, nhưng chúng ta cũng nên biết rằng trong lúc chúng ta đang tẩy nghiệp
này thì chúng ta cũng vẫn tạo thêm nghiệp, thí dụ chúng ta đang thanh tẩy khẩu nghiệp là
không nói xấu người khác nhưng chúng ta cũng vẫn thường nói không đúng sự thật về
người khác. Vì thế, nếu không tỉnh thức thì thời gian tái sinh có thể còn dài hơn 9 tỷ năm –
Dg)

Rất đau đớn trong từng giây từng phút ở địa ngục. Có kẻ sẽ phải chiến đấu với kẻ
thù do chính nghiệp tạo ra. Mỗi khi bị chết, họ sẽ hồi sinh lại để đánh nhau tiếp. Cái đau
mà chúng ta cảm như hàng trăm mũi nhọn đâm vào da thịt chẳng có thể so sánh được với
cái đau của những kẻ xấu số trong địa ngục.

Càng đi sâu vào địa ngục thì càng kinh nghiệm thêm đau khổ và cuộc tái sinh sẽ lại tăng
lên gấp hai. Nơi thấp nhất trong địa ngục nóng là A-tỳ địa ngục, ở đây đau khổ triền
miên, liên tục không ngừng, lửa thiêu đốt thân xác không bao giờ tắt, hết ngày này qua
ngày khác, hết kiếp này qua kiếp kia.

Nếu vào địa ngục lạnh thì như trong ngục tối tăm bao bọc bởi đá băng. Chúng ta bị ép
trong những dẫy núi đóng đầy băng tuyết. Khi những cơn bão tuyết tràn tới, nhiệt độ cứ
giảm dần mà thân xác thì như bị vỡ tan ra từng mảnh. Nghiệp sẽ tạo ra những con trùng
nhỏ chui rúc vào những nơi thịt da rạn nứt mà chúng ta không thể làm gì được, vì đang
trong tình trạng đông cứng.

Còn có những cảnh diễn tả khủng khiếp hơn nữa nhưng chúng ta không thể nói ở đây. Có
những cảnh khổ y như chúng ta cảm nhận được ở trong cõi loài người (Một người đang
trong cảnh cùng cực cô đơn, với từng cơn ray rứt, buồn tủi, sợ hãi thì đâu có khác gì đang
ở trong địa ngục lạnh --Dg). Rất nhiều cảnh khủng khiếp này đã được dịch sang Anh ngữ.
Khi chúng ta đọc những cảnh này hoặc khi chúng ta thiền về những cõi giới này chúng
ta không nên coi đó chỉ như là những cuốn sách truyện. Đức Phật Thích Ca đã dậy chúng
ta về những cảnh giới này theo sự chứng ngộ của Ngài và do lòng từ bi của Ngài. Ngài đã
nhìn thấy chúng sinh bị trầm luân trong những cảnh giới này và chỉ cho chúng ta cách thoát
ra khỏi những nơi khủng khiếp đó. Nếu chúng ta coi những cảnh này như là những câu
chuyện cổ tích mà không thay đổi lối suy nghĩ hoặc thay đổi những thái độ của chúng
ta thì chúng ta đã bỏ qua một cơ hội hiếm có, một cơ hội quí báu để thoát khỏi khổ
đau. Chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng lười biếng và bị lôi cuốn đến bất cứ nơi nào mà tâm
của chúng ta bị cơn gió nghiệp thổi đi. 

Cõi tiếp theo là cõi Ngạ qủy, ma đói, hồn ma vất vưởng cực kỳ đói khát. Chúng ta có thể
cảm nhận sự đau khổ, sự dày vò của họ qua những hành động điên cuồng của mê
vọng tham dục, khát khao, bủn xỉn và hà tiện. Trong cõi ngạ quỷ không phải chỉ bị đói
khát mà còn bị lạnh lẽo, mệt mỏi, nóng bức và sợ hãi cùng cực nữa. Nói rộng ra, đây là cõi
không bao giờ được thỏa mãn, không bao giờ được hài lòng với bất cứ gì mà họ mong
muốn, ước vọng.

Ngạ quỷ lang thang hết năm này qua năm khác, hết kiếp này qua kiếp khác mà không bao
giờ tìm được một giọt nước. Nếu nhìn thấy nước, khi tới gần thì nước lại biến mất. Từ xa
họ nhìn thấy hồ nước trong xanh, mát mẻ, họ vội vã, họ hối hả chạy lại nhưng họ chỉ
thấy bùn lầy và rác rưởi. Nếu may mắn tìm được một chút nước thì đó cũng chỉ là vọng
tưởng, là ảo ảnh, uống vào thì nó lại là một chướng ngại. Miệng của họ nhỏ hơn con mắt
của họ, bao tử của họ lớn hơn cổ của họ, cổ của họ bị thắt lại nên cái bụng to bao giờ cũng
đói. Nước thì bị bốc hơi ngay tại cửa miệng hay nó biến thành nước độc trước khi vào bao
tử.

Đời sống trong cõi này thường rất dài, nó được tính từng ngàn năm một. Nơi cư ngụ của
họ trong lòng đất nhưng họ cũng đi lang thang trong cõi loài người và cõi súc sinh. Có
những người nhìn thấy họ do duyên nghiệp nhưng hầu hết chúng ta không nhìn thấy họ.
Tất cả chúng ta đã từng nhìn thấy những người có tính bủn xỉn, tham lam vô độ, nhưng
thực sự chúng ta không biết họ thuộc cõi giới nào.

Cõi kế tiếp là cõi súc sinh (thế giới loài vật). Tái sinh vào cõi này là kết qủa của bản tính súc
vật mù quáng, bản năng trì độn tâm đóng kín mít. Nếu chúng ta phải sinh vào cõi
này, chúng ta sẽ mất hết cơ hội để giúp đỡ chính mình, không còn khả năng học hỏi. Cả
đời chỉ biết tạo thêm ác nghiệp và bị trầm luân trong đau khổ và sợ hãi. Nếu có người
nào cố gắng dậy bảo chúng ta những điều tốt đẹp mong tẩy xoá đi những ác
nghiệp thì chúng ta cũng chẳng biết gì cả chỉ biết gật đầu để xin ăn.

Hầu như đau khổ lớn nhất của loài thú là đói, khát và sợ hãi bị con thú khác lớn hơn ăn
thịt. Thường thường, khi một con vật bắt được miếng mồi, nó cấu xé, nhai ngấu nghiến
như sợ bị cướp mất, đôi mắt láo liên nhìn chung quanh sợ mình bị giết bởi con thú khác.
Những con thú nuôi trong nhà được may mắn hơn không sợ con khác bắt như loài thú
hoang nhưng lại bị chủ bắt làm những công việc nặng nhọc hoặc bị xiềng xích như một tù
nhân. Thêm nữa, rất nhiều loài thú còn bị con người săn đuổi và bị giết, họ giết thú vật một
cách tàn nhẫn không thương tiếc, còn dã man hơn là chính loài thú giết nhau. Chúng
ta phải tưởng tượng mới nhìn ra được đau khổ của cõi điạ ngục và ngạ qủy nhưng
những đau khổ của cõi súc sinh thì chúng ta đã nhìn thấy tận mắt của chúng ta thường
ngày. 

Đây chỉ là những diễn tả ngắn gọn về những cõi bất hạnh, khổ đau. Còn nữa, có ba
cõi khác được coi là “may mắn” hơn, gọi như thế vì họ được hưởng một số lạc thú khác
nhau trong luân hồi. Ba cõi này là: cõi con người; cõi thần hay A tu la và cõi trời, cõi thiên
hay còn được gọi là cõi tiên, có tiên nam và tiên nữ. Nói chung, được sinh vào ba cõi này vì
đã tạo được rất nhiều ơn phước. Tuy nhiên, vì được hình thành trong vô minh và do
những động lực không thanh tịnh nên chúng ta vẫn bị nghiệp lực và vọng
tưởng quăng chúng ta vào chốn luân hồi. Những đau khổ mà chúng ta cảm nhận trong
những cõi giới này có thể vi tế hơn ở những cõi bất hạnh nói ở trên kia, nhưng cũng đủ
làm chúng ta bất mãn, chán chường.

Cõi trời là cõi cao nhất trong sáu cõi luân hồi, cõi này được hưởng đầy phước lạc. Đây là
những tòa lâu đài tráng lệ, lộng lẫy với đủ loại lạc thú. Nhưng vì đây là cõi lạc thú nên họ
chỉ biết hưởng lạc mà không còn biết nghĩ đến chuyện tạo thêm phước đức cho chính
mình. Tất cả thời giờ ở đây chỉ để dành cho những nghiệp quả tốt mà họ đã tạo được ở
trong quá khứ nên khi chết họ chỉ còn lại những nghiệp quả xấu mang đi với họ, do đó,
cuộc hành trình mới là đi vào những cõi thấp hơn.
Vào tuần cuối cùng trong cuộc đời của một vị tiên (cũng khoảng 350 năm ở trần thế) họ
sẽ cảm thấy đau khổ hơn những chúng sinh ở cõi ngạ quỉ. Họ biết rằng họ sắp chết và họ
cũng biết rằng họ sẽ phải sinh vào những cõi thấp hơn. Những người bạn của họ biết rằng
họ sắp chết nên rời xa họ. Họ bị cô đơn, những đóa hoa tươi mát, óng ả đang từ từ ngục
xuống, chờ chấm dứt một quãng đời vinh quang.

Cũng tương tự như vậy, ở cõi thần lúc nào cũng có chiến tranh, họ luôn luôn tranh
giành lẫn nhau. Họ ganh tị với cõi trời, họ điên khùng vì ghen tương. Nhưng họ không thể
thắng nổi cõi trời, họ không thể giết được thần tiên. Sự ganh tị tức tối của họ làm họ không
lúc nào bình an mà hưởng phúc lạc của cuộc đời thành ra những cố gắng của họ chỉ mang
lại những chán chường tái tê hơn nữa và hơn nữa.

Cuối cùng là cõi loài người. Chúng ta đã luận bàn nhiều về những khổ đau trong sinh lão
bệnh tử của con người mà chúng ta đã gặp trong cuộc đời, chúng ta đã từng thích thú, vừa
lòng, bất mãn và chán chường tái tê với cuộc đời. Hơn nữa, trong từng kinh nghiệm về khổ
đau của năm cõi kia đều tìm thấy ở nơi con người. Còn rất nhiều đau khổ khác đã không
được nhắc tới, chúng ta không có đủ thời giờ để bàn luận về tất cả mọi thứ khổ đau
mà chúng ta đã trải qua hay chưa gặp phải.

Một trong những cái làm cho con người đau khổ nhất mà chúng ta đã không nhắc đến đó
chính là sự sở hữu, sự hy vọng hão huyền (vọng tưởng), học thức và nhất là tình
trạng hiện tại của chúng ta. Chúng ta đã tốn biết bao nhiêu thời giờ và công lao để có được
những cái tốt đẹp, nhưng có gì bảo đảm những cái đó không tàn phai hoặc chúng ta sẽ
không bao giờ mất chúng. Một sự thật hiển nhiên mà chắc chắn ai cũng biết là những cái
này không tồn tại mãi mãi, chúng vô thường, chúng luôn luôn thay đổi và chúng sẽ hư nát.

Chúng ta không nên để chính chúng ta bị lừa bịp bởi những thứ hấp dẫn, chúng quyến
rũ chúng ta vào vòng luân hồi như những tài sản, thân xác và những vui thú trần gian
của chúng ta. Những vấn đề, những rắc rối không nằm trong sự thưởng thức, trong sự sử
dụng những đồ vật khi chúng ta sở hữu chúng, nhưng chính là sự bám viú, chính là sự
khao khát, chính là những vướng viú gắn bó vào chúng. Chúng ta nên nhớ rằng chúng
ta đã từng sở hữu cả một trời ham muốn trong những kiếp trước nhưng có cái nào giúp
tâm chúng ta giải thoát khỏi khổ đau không? Không! Chẳng có cái nào cả. Chúng
ta vẫn trầm luân trong luân hồi hết kiếp này qua kiếp khác mà chẳng nhìn thấy một lối đi ra. 

Trong cả sáu nẻo luân hồi, chúng ta đã từng bị khổ đau vì phải rời bỏ thân xác của chúng
ta nhiều lần. Đây là bằng chứng của vô thường. Để hiểu được những ý tưởng khó khăn
này, chúng ta cần phải tưởng tượng ra rất nhiều, càng nhiều càng hay, gia phả của chúng
ta – đó là cha mẹ chúng ta và cha mẹ của những người khác, ...vv... Bao nhiêu người
mà chúng ta có thể tưởng tượng được là bấy nhiều đời mà chúng ta đã trải qua. Đó cũng
chính là cách mà tổ tiên của chúng ta đã sinh ra, sống một thời gian, rồi chết, rồi chúng
ta lại sinh ra, lại sinh ra, rồi lại rời bỏ thân xác, rồi lại đầu thai ...

Ở ngay trong những khoảng thời gian ngắn của một đời, chúng ta cũng kinh qua, cũng tạo
ra biết bao nghiệp. Chúng ta có thể là một người tầm thường, một tổng thống hay một vị
vua trong một thời rồi bị bắt, bị cầm tù vì chính trị. Thí dụ, ở Tây Tạng, có những người
giầu họ cứ tưởng là họ sẽ giầu mãi mãi, nhưng chỉ một thời gian ngắn, họ mất tất cả tài
sản, có khi còn mất cả mạng sống.
Có lúc chúng ta buồn khổ vì cô đơn. Mặc dù chúng ta có rất nhiều bạn bè, rất nhiều người
thân, nhưng chúng ta luôn luôn phải đối diện với những cơn khủng hoảng, với những
nỗi tuyệt vọng của cuộc đời một mình. Chúng ta sinh ra rồi chết đi mà chẳng có ai chia sẻ
được với chúng ta những nỗi niềm riêng tư sầu khổ và lo lắng. Cứ như thế, chúng ta đi
vào sáu nẻo luân hồi đầy khổ đau. Đây không phải vì bi quan hay vì tin vào số
mệnh khi chúng ta nói về khổ, mà đây chính là sự thật. Tốt hơn, chúng ta hãy trực tiếp đối
diện với những vấn đề một cách thẳng thắn và từ đó tìm ra một con đường giải thoát hơn là
cứ chạy trốn nó, cứ lẩn tránh thực tại để rồi cứ phải tiếp tục khổ đau.

Cần phải nhấn mạnh là không có một nghiệp quả nào trong luân hồi mà không có nguyên
nhân. Chúng không thể xuất hiện nếu không có người này, vật kia tạo ra, chúng cũng
không thể tự hiện diện. Chính chúng ta đã tạo ra những nguyên nhân và hoàn cảnh cho
những đau khổ xảy ra qua thân (hành động), khẩu (lời nói) và ý (tư tưởng) của chúng ta.
Nghiệp của chúng ta thay đổi theo từng cõi luân hồi. Không có một khoái lạc nào hay một
khổ đau nào trong luân hồi tồn tại mãi mãi. Chúng tùy thuộc vào thái độ của chúng ta,
chúng thay đổi theo thái độ tinh thần của chúng ta. Tuy nhiên, những hành động không đạo
đức mang lại khổ đau và những hành động đạo đức mang lại hạnh phúc thì luôn luôn hiện
diện. Vì thế, chúng ta cần phải tránh những hành động không có đạo đức và luôn luôn thực
hiện những hành động đạo đức càng nhiều càng tốt.

Chúng ta không thể phá hủy bánh xe luân hồi nếu chúng ta không nhận diện được tất cả


khoái lạc chỉ là hình bóng khác của khổ đau. Và chúng ta không thể có được nhận xét này
nếu chúng ta không phát triển lòng kinh hãi luân hồi và đặc biệt là những bất hạnh của từng
cõi trong sáu cõi. Chúng ta phải hiểu thấu suốt điều này, nếu chúng ta để bị lôi cuốn vào
những vọng tưởng thì hậu quả là chúng ta sẽ bị mang nghiệp rất nặng trong khổ đau, bây
giờ và cả trong tương lai. Trở ngại mạnh nhất ngăn cản chúng ta không cho chúng ta nhận
ra được sự thật là chúng ta cứ chạy theo những khoái lạc của luân hồi, của trần gian.
Sự bám víu cũng giống như chất dầu, rất khó mà tẩy được dầu khi nó đã thấm vào giấy.
Bụi bậm đất cát đã hòa tan trong dầu nên nó càng làm cho giấy dơ bẩn hơn nữa. Giống
như vậy, chính sự bám víu đã làm ô nhiễm tâm ta, nó càng làm tâm ta dễ lấn sâu vào vọng
tưởng. Cách tốt nhất để chúng ta có thể thoát khỏi những vọng tưởng là luôn luôn nhớ đến
những khổ đau của luân hồi để chúng ta phát triển tâm buông xả, tâm từ bỏ những nguyên
nhân của khổ đau.

Nếu chúng ta sợ bị ô nhiễm bởi tham sân si như sợ bị lửa thiêu đốt thì chúng ta mới có
thể bảo vệ chúng ta khỏi hiểm nguy. Trong những cao ốc người ta gắn những bình chữa
lửa, tại sao người ta lại gắn những bình chữa lửa ở đó? Chỉ vì họ sợ sự tàn phá của lửa,
chỉ vì họ hiểu lửa nguy hiểm như thế nào. Chính vì sự hiểu biết này mà chúng ta tránh
được nguy hiểm, chính vì sự hiểu biết này mà chúng ta biết cách bảo vệ đời sống hàng
ngày của chúng ta. Cũng giống như vậy, vì sợ khổ đau và từ bỏ những nguyên nhân tạo ra
khổ đau nên chúng ta mới biết sử dụng thân người quý báu này một cách tốt nhất. 

Hãy tưởng tượng có hai người đang ăn kem. Một người, tâm chưa được huấn luyện, họ ăn
ngấu nghiến, ăn vội vàng và thèm khát. Hầu như mỗi một lần cắn một miếng kem, mỗi một
lần nuốt kem vào cổ họng họ đều để lại dấu ấn của nghiệp. Vì tâm đầy ắp những thèm
muốn, ao ước, chán, khen chê, bất mãn... nên người này đã không còn biết thưởng
thức những mùi vị thơm ngon của chất kem. Ngược lại, người bạn của anh ta đã có một
chút kinh nghiệm thiền định về bản tính của khổ trong những thú vui của luân hồi nên anh
ta ăn một cách từ tốn, thoải mái. Anh ta không để cho sự thèm khát, tham ăn khởi lên trong
sự thưởng thức ly kem của anh ta. Do đó tâm anh không bị ràng buộc bởi những vọng
tưởng, ô nhiễm, anh còn có thể chuyển hóa những sinh hoạt đơn giản này vào sự thực
hành Đạo Pháp. Vì thế anh ta có thể kinh nghiệm được cái gì là những thú vui nhất thời và
cái gì là những niềm hạnh phúc trường cửu mà anh bạn của anh ta thường khen chê
và bất mãn. Thí dụ này cho chúng ta biết, tâm buông xả mang lại cho chúng ta sự thưởng
thức thật sự, ngay cả trong đời sống thường ngày của luân hồi chứ không cần phải thoát
khỏi luân hồi.
 

Chúng ta tạo ra luân hồi như thế nào


 

Chúng ta đã biết chúng ta bị trôi lăn vào những nẻo luân hồi là do nghiệp lực và do
những vọng tưởng của chúng ta. Và chúng ta cũng đã được chỉ dạy khi chúng ta tiếp
xúc với những loại ô nhiễm khác nhau, khi bị ảnh hưởng bởi những loại ô nhiễm khác nhau
thì nghiệp được cấu tạo do những nguyên nhân nào? Tới đây chúng ta có thể chia sẻ với
nhau một chút về con đường chuyển tiếp chúng ta từ kiếp này qua kiếp khác như thế nào.

Đây là một chuỗi duyên khởi của 12 nhân duyên : (1) vô minh, ignorance, (2) hành, karmic
formations, compositional action (3) thức, consciousness, (4) danh sắc, name and form,
(5) lục nhập, the six sense faculties, the six sense spheres (6) xúc, contact, impression (7)
thọ, feeling, (8) ái, craving, attachment (9) thủ, grasping, (10) hữu, becoming, existence (11)
sinh, birth, (12) lão và tử, aging and death. Ngài Long Thọ, một đại giảng sư về những lời
dậy bảo của Đức Phật Thích Ca, nói rằng:
 Trong 12 nguyên nhân
 Có 3 nguyên nhân là vọng tưởng
 Có 2 nguyên nhân là hành động
 Còn lại 7 là những kết quả.

Ba nhân vọng tưởng là (1) vô minh, (8) ái và (9) thủ. Hai nhân hành động là (2) hành và
(10) hữu. Còn lại 7 nhân là những kết quả đã kinh nghiệm được để mang sang những kiếp
sau.

Chuỗi duyên khởi cho chúng ta biết tiến trình phát sinh từ một tình trạng đau khổ này qua
một tình trạng đau khổ khác, như vậy nó không thể hoàn tất được trong một đời mà phải
cần đến hai hay ba đời. Thí dụ, trong đời hiện tại chúng ta là một người, chúng ta có
thể giải thích tiến trình này như sau: trong đời quá khứ, dưới sự ảnh hưởng của (1) vô
minh, vì không biết chân tính của thực tại, vì không hiểu thực tính của sự vật nên chúng
ta đã thực hiện rất nhiều hành động qua thân khẩu và ý, những hành động này (2) tạo
thành nghiệp - gieo hạt giống - trong (3) tâm thức của chúng ta. Trong những hành động
này có những hành động tốt tạo ra nghiệp tốt để chúng ta được sinh ra làm người. Do đó,
có những lúc trong đời đầu tiên này (qúa khứ) chúng ta đã hoàn tất một vọng tưởng, một
hành động và một phần nào kết quả. Chúng ta nói “một phần nào” bởi vì tâm
thức của chúng ta liên kết cả hai phần: nguyên nhân và hậu qủa. Trong thí dụ này, phần
đầu là tâm của chúng ta trong đời qúa khứ nhận dấu ấn của nghiệp lực trong khi phần sau
là tâm của chúng ta bị liệng vào sự tái sinh, vào sự đầu thai mới.
Khi kiếp trước đi đến chỗ kết thúc thì chúng ta đã kinh nghiệm, đã kinh qua, đã mang trong
tâm nhiều sự bất toàn và rất sợ chết. Vì (8) luyến ái và (9) chấp thủ cả thân xác lẫn những
vật sở hữu nên chúng ta muốn mang chúng qua thân xác mới để thay thế cái thân đang
bị tiêu hủy (chết), như vậy là chúng ta đang có (10) hữu một hành động tạo tác để trở
thành, lực này hướng dẫn chúng ta đầu thai vào cuộc đời mới. Do đó trong lúc chết, chúng
ta đã hoàn thành hai điều vọng tưởng (luyến ái và chấp thủ) và một hành động (hữu), sự
kiện này đánh thức những nhân nghiệp lực để đầu thai vào cõi loài người.

Còn lại 7 chuỗi nhân duyên kia sẽ xẩy ra trong đời hiện tại. (3) Thức quả (resulting
consciousness) của chúng ta được nhận định ra trong tử cung của người mẹ, nơi mà
nó kết hợp với tinh cha (sperm) và huyết mẹ (egg). Sự liên kết phôi thai này là thời kỳ của
(4) danh sắc – “danh” là những khả năng khác nhau của thức còn “sắc” là trứng của người
mẹ đã nhiễm sắc thể của tinh cha – ở đây (5) lục nhập được phát triển khi nó (6) tiếp
xúc với những đối tượng tương ứng như (7) thọ, cảm thấy dễ chịu, khó chịu hay cảm
thấy khác nhau giữa những đối tượng. Tất cả mọi sự kiện đều xảy ra ở đây ngay lúc mà ý
niệm (11) sinh được liên kết với kiếp này. Từ đây trở đi, chúng ta bắt đầu lớn lên, già đi
theo những sự thay đổi và khổ đau như đã trình bày ở trên. Vậy, chuỗi nhân duyên (12) lão
và chết đã được hoàn tất, tất cả còn lại chỉ là đợi ngày ra đi (chết).

Tiến trình này có thể phải cần tới ba kiếp mới hoàn tất được, phải cần nhiều năm mới nhận
ra được sự can thiệp giữa hai nhân duyên đầu. Nên hiểu rằng chúng ta đang tạo nghiệp
ngay trong lúc này. Nó có thể là một nhân đức nhưng được hoàn thành trong (1) vô
minh của chính sự kiện, thí dụ như ý-thức-tôi qúa mạnh hay chấp tôi qúa mạnh. Sự vô
minh này đang cấy (2) nghiệp hành vào (3) tâm thức của chúng ta để chúng ta đầu thai vào
cõi thần.

Có khi trong lúc chết nghiệp đầu thai vào cõi thần không đủ mạnh nên lại phải đầu thai làm
con chó vì nghiệp phải sinh làm chó ở một lúc nào đó mạnh hơn. Do đó (8) nhân luyến ái ,
(9) chấp thủ và (10) trở thành đáng lẽ sẽ hợp tác làm việc trong lúc chết thì lại phải nhường
cho một nhân duyên mạnh khác. Tuy nhiên, nghiệp để đầu thai vào cõi thần vẫn còn đó,
không mất đi. Nó vẫn còn nằm trong tâm thức của chúng ta nhưng đã không được kích
động mà phải đợi đến một lần đầu thai khác. Ở ngay kiếp làm chó, bảy chuỗi nhân
duyên còn lại sẽ lại nhập vào con chó. Tuy nhiên, nghiệp đầu thai vào cõi thần sẽ đến, ba
nhân cùng làm việc trong lúc chết và bảy nhân lại nhập vào trong kiếp kế tiếp, lại diễn
tiến như đã nói ở trên.

Đây chỉ là sự giảng giải vắn tắt về diễn tiến của sự đầu thai mà thôi, nhưng cũng khá đủ
để chúng ta có thể hiểu được những chuỗi nhân duyên đã tác động và liên tục tác
động trong sự vô minh của chúng ta như thế nào. Khi chúng ta gieo hạt giống trong một
cánh đồng, có những cây đã lớn mạnh hơn chúng ta nghĩ. Tương tự như vậy, có những
hạt “nghiệp” rất nhỏ mà chúng ta đã gieo trong tâm của chúng ta lại sản xuất ra những khổ
đau to lớn hơn cả nhân của nó. Trong từng giây phút của cuộc đời từ muôn
vàn kiếp, chúng ta đã bị ảnh hưởng, đã bị điều động bởi rất nhiều vọng tưởng lớn và nhỏ.
Vì thế chúng ta đã huân tập, đã tạo ra biết bao nhiêu nghiệp để phải đầu thai vào hết
cõi đau khổ này đến cõi đau khổ khác. Chúng ta đã tạo ra ba nhân duyên đầu (vô minh,
hành, thức) của vô tận chuỗi nhân duyên, trừ khi chúng ta biết rèn luyện (ý chí) tâm chúng
ta, ý thức trong từng hành vi của chúng ta và giải trừ vô minh, nếu không chúng ta cứ bị
chúng kéo vào luân hồi hết kiếp này qua kiếp khác. Tâm chúng ta như một toa xe lửa chứa
hàng hóa, cứ bị lôi đi từ chỗ này đến chỗ khác, từ đời này qua đời khác để chất chứa thêm
những kiện “nghiệp” mà một ngày nào đó hàng được giao và được trả.

Luân hồi là một nhà tù mà chính chúng ta đã tạo ra, chúng ta bị nhốt trong những bức
tường kiên cố là do chính sự vô minh và u tối của chúng ta. Chúng ta phá được một mắt
xích trong 12 nhân duyên, trèo qua được một cửa ải thì cũng vẫn còn bị bao vây bởi rất
nhiều bức tường khác. Luân hồi không thể tự chấm dứt. Chúng ta không có một chút hy
vọng nào vượt thoát khỏi luân hồi trong khi cứ tạo thêm nghiệp. Chúng ta chỉ có thể chiến
thắng và được giải thoát nếu chúng ta quyết tâm phá tan tận gốc nguyên nhân của duyên
khởi là sự vô minh của chúng ta về bản tính của sự thật.

Như chúng ta đã đề cập trước kia, việc phát triển một tâm hoàn toàn buông xả tùy
thuộc vào sự nhận định của chúng ta về sự thấm nhập toàn diện của đau khổ. Khổ đau vì
có một thân xác thiếu kiểm soát và đầy ô nhiễm, có một thân xác là có đau khổ. Chúng
ta không nên nghĩ rằng vì chúng ta đã sinh ra và vì chúng ta có một đời sống không tiện
nghi. Như đã trình bày ở trên về 12 duyên khởi, thì đây chính là tiến trình đầu thai cùng
với đau khổ. Tâm thức của chúng ta nhận dấu ấn của nghiệp lực rồi chính nghiệp lực này
đẩy tâm thức đi đầu thai vào tương lai trong một tình trạng đầy bất mãn và khó
khăn. Chúng ta nói chúng sinh trong luân hồi có một thân xác đầy ô nhiễm và dối trá bởi
vì tâm thức bị đẩy vào thân xác một cách miễn cưỡng, chính nghiệp lực và vọng
tưởng đã lôi thần thức vào đó.

Càng sớm đi vào đời thì càng mau bắt đầu đi đến cái chết. Có những chúng sinh đã chết
ngay trong bụng mẹ chỉ một thời gian rất ngắn. Cũng có những người trong chúng ta đã
sống lâu hơn, tạo thêm được một số giây phút. Nhưng thực ra thêm được giây phút nào thì
cũng chính là gần sự chết giây phút đó. Chúng ta giống hệt như những con cừu bị dẫn vào
lò sát sinh. Bước thêm một bước là gần sự chết thêm một bước.

Nếu chúng ta học để nhìn thấy đau khổ của tất cả các cảnh giới thì chúng ta sẽ chẳng còn
dám bám víu, luyến tiếc vào những lợi lạc của trần gian. Đấy là điều vô cùng quan trọng, vì
nó sẽ mở đường cho chúng ta phát triển những quan điểm thật đúng đắn về tính không, để
cắt đứt tận gốc rễ của luân hồi và tìm đường giải thoát. Cho dù chúng ta không tiến được
xa trên con đường này nhưng với tâm buông xả toàn triệt như vậy cũng vô cùng hữu ích
cho giây phút đối diện với sự chết. Bởi vì chúng ta đã thiền định nhiều về sự chết
nên chúng ta đã có rất nhiều tư tưởng tốt, nhiều kinh nghiệm mà sẽ không còn lầm
lẫn và sợ hãi. Chúng ta cũng không còn bám víu vào luân hồi nên chúng ta cũng không
còn luyến ái, chấp thủ một cuộc đầu thai mới. Vì thế, chúng ta sẽ không còn phải đầu
thai vào ba cõi thấp hoặc bất kỳ cõi nào trong luân hồi. Nếu chúng ta biết kiểm soát tâm và
tránh khơi dậy bất cứ một sự bám víu nào hoặc bất cứ một sự ganh ghét sân hận nào
thì chúng ta sẽ được sinh vào cõi tịnh độ mà không phải đầu thai vào bất kỳ một thân xác ô
nhiễm nào. Ở đó chúng ta sẽ không còn một trở ngại nào cho mục đích tu tập tiến đến giác
ngộ, giải thoát (vào cõi tịnh độ cũng vẫn còn phải tu tập tiếp thì mới giải thoát được – Dg)

Vậy có dấu hiệu nào cho chúng ta biết là chúng ta đã phát triển được sự buông
xả thật? Đạo sư Je Tsongkhapa nói:
 
Nơi nào không còn thích thú và bám víu
 Cho dù chỉ là một giây bám vào lạc thú của luân hồi,
 Và hằng khởi tâm mong cầu giải thoát
 Trong cả ngày lẫn đêm ----
 Kẻ nào đã phát triển tâm thức này
 Kẻ đó đã tinh tiến trên con đường buông xả hoàn toàn.
 
 

Sự lợi ích của động năng giác ngộ

Để nói lên sự tương quan giữa phần đã trình bày ở trên và những điều sẽ trình bày ở dưới
này, đạo sư Je Tsongkhapa nói:

 Tâm hoàn toàn buông xả
 Mà không có động năng giác ngộ của tâm bồ đề
 Thì không thể trở thành nhân (nguyên)
 Cho con đường hạnh phúc toàn diện, toàn giác.

Như ngài nói, nếu chúng ta muốn đạt tới tối thượng quả vị phật thì tâm buông xả toàn triệt
của chúng ta phải đi qua con đường của tâm bồ đề, đây chính là động năng thúc
đẩy tới giác ngộ là để lợi lạc cho tất cả muôn loài chúng sinh. Có những người lại tin một
cách mù quáng là họ có thể thực hành tâm bồ đề mà không cần buông xả. Đây là một
sự lầm lẫn to lớn, điều này không thể có được. Có thể họ đã nghĩ rằng tâm bồ đề là một
cách thực hành an lạc mà không cần phải từ bỏ cái gì, trong khi đó buông xả nghe như quá
khó khăn, nghiêm khắc và gian khổ. Ngược lại, nó không hoàn toàn như vậy. Phát triển
tâm bồ đề sẽ giúp rất nhiều trong việc chuyển hóa, thăng tiến và tinh tấn của thiền
định. Thực ra vấn đề này không đơn giản nếu chỉ nghĩ mà thôi.

Lợi ích của tâm bồ đề thật là vĩ đại, nó có thể hóa giải bất cứ trở ngại nào. Đây chính là
cánh cửa dẫn vào Đại thừa mà bất cứ một người nào muốn phát triển và thực hành nó đều
xứng đáng được gọi là con của Phật. Nếu chúng ta có tâm bồ đề thúc đẩy, chúng
ta sẽ vượt qua trong chiến thắng, vượt qua cả các vị A La Hán, đây là những vị đã tu
tập giải thoát khỏi luân hồi nhưng chưa hoàn toàn đạt giác ngộ. Những vị A La Hán này có
thể đã có những quyền lực tâm linh mãnh liệt hoặc đã đạt những thành quả vĩ đại nhưng kẻ
nào có tâm bồ đề – TÂM BỒ ĐỀ – sẽ vượt xa họ trong tấm lòng phụng sự và từ bi.

Ơn phước to lớn của bồ đề tâm sẽ xuất hiện khi chúng ta thật tâm thực hành Đạo Pháp.


Mỗi một hành động tâm linh mà chúng ta thực hiện đều mang lại hiệu quả và sức
mạnh nếu chúng ta hoàn thành với sự thúc đẩy của giác ngộ, của động lực giác ngộ. Thí
dụ, đưa thức ăn cho một con chó, nếu đưa cho nó với một tấm lòng yêu thương (tâm bồ
đề) chúng ta sẽ nhận được sự an lành còn hơn là tặng bảo vật cho một người mà không có
một chút thành thật yêu thương nào. Như vậy, vật cho tự nó không quan trọng, cách cho
quan trọng hơn, cách chúng ta thực hành đạo nói lên sự tinh tấn của chúng ta trên con
đường tu tập. Nói cách khác, thái độ của chúng ta, tâm trạng của chúng ta quan trọng hơn
bất cứ sự vật nào khác. Do đó, tâm bồ đề là một sự thúc đẩy vĩ đại nhất, nó thánh hóa tất
cả những hành động của chúng ta, nó mở tâm chúng ta bao la hơn là lòng ích
kỷ của chúng ta.

Nếu chúng ta có một tấm lòng vị tha, luôn luôn nghĩ đến người khác, mặc dù chưa phát
triển được tâm bồ đề, thì đây cũng là động năng rất tốt hướng dẫn chúng ta trên con
đường thực hành Đạo Pháp. Do đó, bất cứ chúng ta làm việc gì như giúp người, tụng
kinh, thắp hương, ăn, nói chuyện, buôn bán...—bất cứ việc gì cũng có thể trở thành tinh
túy trong việc thực hành Đạo, nếu chúng ta hướng đến giác ngộ là vì lợi ích cho tất cả
muôn loài chúng sinh.

Nghiệp lực xấu cứ đẩy chúng ta vào sáu nẻo luân hồi không ngừng nghỉ. Đó là kẻ
thù của chúng ta, chúng liên tục dẫn chúng ta vào đau khổ. Bồ đề tâm là thần lực thanh tẩy
tất cả những nghiệp xấu này, nó giải thoát chúng ta khỏi những kinh nghiệm của những
hành động ác. Đại bồ tát Shantideva nói:

 Nghiệp xấu của năm loại hung ác


 Dẫn chúng ta vào chốn vô tận của khổ đau trong A-tỳ địa ngục
 Nhưng tâm bồ đề
 Có khả năng thanh tẩy nghiệp xấu này trong một thời gian rất ngắn.

Sức mạnh của tâm bồ đề cũng có thể điều trị được tất cả những chướng ngại trên con


đường thực hành đạo của chúng ta. Đại bồ tát Shantideva cũng nói:

 Nếu chúng ta điều phục được tâm,


 Chúng ta sẽ điều phục được
 Voi, rắn, cả cọp beo
 Và sự hung dữ của quỷ.

Đây không phải là những lời thơ vô nghĩa mà là sự thật. Đã có biết bao chuyện kể và bằng
chứng nói về sức mạnh của bồ đề tâm, sức mạnh của lòng từ bi bảo vệ con người khỏi
hiểm nguy. Có rất nhiều vị bồ tát của Ấn độ và Tây tạng đã đi qua những khu rừng đầy thú
dữ mà không hề hấn gì. Ngược lại chúng lại rất thân thiện với các ngài và tỏ lòng kính
trọng các vị thầy tâm linh. Ngay cả những con thú nhỏ bé như chim, thỏ, nai cũng đến quây
quần chung quanh các ngài. Những chuyện tương tự như vậy cũng vẫn còn xảy ra với các
vị thiền giả ngày nay.

Tóm lại, phát triển tâm bồ đề là ánh sáng dẫn đưa chúng ta vào con đường tu tập mật tông,
một con đường nhanh nhất để đạt giác ngộ. Chúng ta cần phát triển tâm buông xả, cần làm
quen với quan niệm về tính không trước khi chúng ta thực sự bước vào mật thừa. Nhưng
điều quan trọng nhất vẫn là sự thúc đẩy của bồ đề tâm, chúng ta cần phải có một động
năng mãnh liệt của lòng từ bi. Không thể nào ngồi nhìn người khác đau khổ mà chúng
ta không khởi phát lòng từ bi, chúng ta cần khởi phát tâm bồ đề ngay để đạt quả vị phật
càng nhanh càng tốt vì lợi ích cho chúng sinh. Nếu chúng ta bước vào sự thực
hành của con đường mật thừa với tâm trạng đó thì chúng ta sẽ đạt được mục đích chỉ
trong một thời gian rất ngắn. Nếu không như vậy thì sự thành đạt của con đường mật thừa
giống như mong đợi mặt trăng rơi khỏi bầu trời.

Nếu chúng ta nghiên cứu về sự ích lợi và ơn phước của bồ đề tâm cùng hiểu rõ đường


hướng mà nó sẽ hướng dẫn chúng ta thì chúng ta sẽ thấu suốt được sự thúc đẩy của con
đường giác ngộ chính là môi trường mà tất cả chúng sinh sẽ gặt hái được hạnh phúc. Khi
một người biết phát triển lòng từ bi thì họ sẽ trở thành nguồn hạnh phúc chân thật cho kẻ
khác. Nguồn phúc lạc này vô tận, nó không có giới hạn với bất cứ ai, không thể nào đo
được sự ảnh hưởng của nó trên chúng sinh. Vì thế, không một hạnh phúc nào, không
một giá trị nào vĩ đại hơn sự cố gắng thực hành thiền định theo động năng giác ngộ này.
 
 

Sự tinh tấn đều đặn tự nhiên


 

Động năng thúc đẩy đến giác ngộ mà từ đó có thể hướng dẫn người khác thoát khỏi đau
khổ được phát khởi khi chúng ta biết trách nhiệm của chúng ta là phải giúp đỡ người khác
càng nhiều càng tốt. Chúng ta chỉ có thể nhận ra được điều này khi chúng ta đã phát
triển lòng từ bi, là mong muốn cho người khác được thoát khỏi đau khổ. Điều này lại tùy
theo tình yêu của chúng ta có trong sáng và lớn mạnh hay không, chúng ta có mong muốn
nhìn thấy người khác hạnh phúc hay không. Tình yêu này chỉ được khởi phát khi chúng
ta tưởng nhớ đến chúng sinh như là cha mẹ của chúng ta và bây giờ chúng ta mong
được đền ơn họ. Còn nữa, chúng ta không thể nhận ra được ân nhân của chúng
ta nếu chúng ta còn đối xử đặc biệt với người này mà hiềm khích, ghen ghét người khác.
Do đó chúng ta cần có thái độ công bằng, đồng đều với tất cả mọi người và trước
tiên là chúng ta nên thực tập từ từ, bình thản, đều đặn tự nhiên cùng với thiền định. 

Có ba đối tượng cho kiểu thiền này: bạn, kẻ thù và người xa lạ. Tại sao lại thiền như
vậy? Tại vì chúng ta quá bận rộn với chính mình, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chính mình, đến
“cái tôi” của chúng ta; hầu như lúc nào cũng chỉ để ý đến thân xác của tôi, tài sản của tôi,
sự tiện nghi của tôi, “CỦA TÔI...CỦA TÔI... TÔI !” Bất cứ người nào xâm phạm vào
hoặc xoi bói đến hạnh phúc của tôi là ngay lập tức tôi gán cho người đó là kẻ thù của tôi.
Cũng giống như vậy, người nào làm tăng niềm hạnh phúc của chúng ta là ngay lập
tức chúng ta coi họ như bạn, bạn thân. Còn những người xa lạ, họ là những kẻ chẳng đem
đến cho chúng ta cái gì, chẳng vui cũng chẳng buồn, chúng ta sẽ mau chóng quên họ.

Nền tảng của thiền định một cách thản nhiên, thiền tự nhiên là để nhìn ra được tính vô tri,
vô cảm và ích kỷ đã tạo nên trí nghi kỵ, kỳ thị của chúng ta như thế nào. Những thái
độ ganh ghét, hờn giận, bám viú, dính mắc, vô minh, tâm đóng kín khởi lên trong tâm
của chúng ta khi chúng ta nhìn người khác theo một chiều hướng nhất định “nó phải như
vậy.” Chúng ta gán cho nó một nhãn hiệu cứng ngắc, chính thái độ này đã làm hại chúng
ta và những người khác. Chính sự ước muốn tiêu diệt kẻ thù và bảo vệ bạn là mầm mống
tạo ra tất cả những xung đột trên thế giới này; từ sự gây lộn, bất bình giữa hai cá nhân dẫn
đến chiến tranh toàn cầu. Tất cả những nghiệp xấu và tất cả những đau khổ sẽ chấm
dứt nếu tất cả mọi người nhìn ra được những thành kiến này đều không có gốc rễ, không
có căn bản.

Trước nhất, chúng ta phải nhận định rằng sự bám viú, sự ràng buộc và những định kiến là
gốc rễ cho tất cả những phán đoán của chúng ta về kẻ thù, về bạn bè và về những
người xa lạ. Chúng ta bị dính mắc vào ý tưởng sợ mất tài sản, vào những người đã giúp
đỡ chúng ta hay vào chính những định kiến sai lầm của chúng ta về những nhân vật quan
trọng sẽ đem đến cho chúng ta một đời sống tốt đẹp. Những điều tệ hại của thái độ dính
mắc, thái độ lệ thuộc này đã được trình bày rất chi tiết ở trên rồi. Nhắc lại ở đây là chỉ
để nhấn mạnh đến việc bám viú, đến sự đeo dính vào “cái tôi”, chính sự kiện này đã bóp
méo tất cả những ý niệm của một cái tâm vô minh.

Thứ hai, không có một cái gì chắc chắn, nhất định phải như vậy trong chốn luân hồi, kể cả
ba loại người vừa nói. Không có một cái gì chắc thật để xác định đó là kẻ thù, người mà lúc
nào cũng gây phiền nhiễu cho chúng ta và họ luôn luôn tiếp tục làm như vậy. Hãy nghĩ
đến muôn vàn kiếp trước và những liên hệ thay đổi không ngừng trong luân hồi thì kẻ
thù hiện tại của chúng ta cũng chính là những người bạn thân thiết của chúng ta hoặc
ngược lại. Cũng chẳng cần phải tin kiểu suy luận này về những sự kiện trong qúa khứ để
xác định những thay đổi bạn, thù hay người xa lạ. Người bạn thân thời niên thiếu
của chúng ta nay đâu rồi? Cái gì chúng ta đã có cảm tình trước kia bây giờ ra sao? Thật là
ơn ích biết bao khi thiền định theo kiểu khảo sát này, hãy tập trung vào những cá nhân đặc
biệt mà chúng ta vừa nhấn mạnh trong ba trường hợp trên rồi cố gắng nhận định xem tâm
trạng, thái độ của chúng ta đã như thế nào. Khi chúng ta đã quen với kiểu thiền này, chúng
ta nên mở rộng đề tài, nên mở rộng cách suy luận, bao gồm rất nhiều loại chúng sinh và
trải dài ra theo thời gian. Với cách này, chúng ta sẽ giải toả được rất nhiều quan điểm chật
hẹp, sai lầm của chúng ta trước kia.

Càng lặp đi lặp lại phương pháp thiền định tự nhiên này càng giúp chúng ta biết thận
trọng hơn trong việc chấp nhận những giá trị mà chúng ta đã phán đoán những người khác
chỉ vì chúng ta đã quen suy nghĩ theo kiểu này. Kết qủa là chúng ta sẽ tiến xa hơn trên
đường ngăn chặn những tư tưởng xấu, những lời nói xấu và những hành động xấu cho
người khác trước khi nó tác hại họ. Càng thiền định theo phương pháp này, càng giảm
được sự xung khắc, đánh nhau, ích kỷ và những thái độ thiếu suy nghĩ đến người khác. Thí
dụ, nếu biết được chúng ta sắp bực mình với người nào, chúng ta có thể giải tỏa được sự
giận ghét, căm hờn của chúng ta ngay lập tức khi chúng ta nghĩ đến kiểu thiền định này.
Cũng theo phương pháp này, chúng ta có thể tự xác định với chính mình không có một cái
gì có gía trị thường hằng, vĩnh cửu về những thái độ, định kiến của chúng ta. Chúng chỉ là
những sản phẩm của một tâm vô minh, đóng kín, nhưng với sự thực hành tâm linh chúng
ta có thể giải tỏa chúng, đối trị chúng, chuyển hóa chúng để đem lại hoà bình, an lạc.
 

Hãy nhớ đến công ơn của những bà mẹ chúng ta


 

Có kinh nghiệm về sự an lạc nội tại, đó là dấu hiệu của sự tinh tấn tự nhiên, nhưng đó
không phải là ơn phước và mục đích chính của sự thiền định tự nhiên, bình thản. Vì học và
tập nhìn tất cả mọi chúng sinh một cách bình đẳng, không thiên vị nên chúng ta luôn
đặt chúng ta trong tình trạng biết ơn lòng tốt của tất cả mọi người mà họ đã dành
cho chúng ta. Nhờ sự nhận biết này mà chúng ta vượt thắng được tính ích kỷ của chúng ta,
ngay cả trong việc giải thoát cá nhân chúng ta khỏi luân hồi.

Bất cứ lúc nào chúng ta gặp hay nghĩ về mẹ của chúng ta – hoặc bất cứ người nào đã săn
sóc chúng ta – là ngay lập tức chúng ta xác định được người ấy là ai và chúng ta liền cảm
thấy có một tình cảm đặc biệt khơi dậy trong ta. Mỗi khi chúng ta thực tập phương
pháp thiền tự nhiên và nảy sinh lòng biết ơn về sự liên tục của đời sống thì chúng ta cũng
học được cách đối xử với mọi người như vậy. Họ là cha mẹ của chúng ta trong quá
khứ và lòng tốt của họ không thể đo lường được.

Trước tiên, nghĩ đến người mẹ của chúng ta trong hiện tại là cách tốt nhất để phát triển
tâm bồ đề. Lòng tốt của mẹ cho ta ngay khi chúng ta còn ở trong bụng mẹ. Với tình
yêu bao la, người đã chịu đựng biết bao khổ cực, thiếu thốn, tự hy sinh để bảo vệ chúng
ta khỏi nguy hiểm và mất tiện nghi. Người đã phải thận trọng trong miếng ăn, thức
uống, cách đi đứng, cách phục sức vì chúng ta.

Khổ cực nhất là trong lúc sinh chúng ta, dù khổ cực đến thế nào mẹ chúng ta cũng không
giảm lòng yêu thương mà chăm sóc chúng ta. Khi còn thơ dại, người đã chăm sóc, nuôi
dưỡng chúng ta 24 giờ một ngày và làm bất cứ gì để bảo vệ chúng ta khỏi nguy hiểm.
Nuôi chúng ta không phải dễ, chúng ta luôn luôn khóc và làm dơ quần áo, nhưng mẹ không
bao giờ than mỗi khi đi thu quần áo giặt. Ngay cả khi mẹ đang ăn, mẹ cũng phải để
ý đến chúng ta. Nếu mẹ kiếm được miếng nào ngon trong đĩa thức ăn của mẹ, mẹ cũng đút
cho chúng ta. Ngay đến bây giờ, chúng ta cũng không tự săn sóc chúng ta được như mẹ
đã làm.

Khi mẹ nhìn chúng ta khôn lớn, mẹ luôn nghĩ đến tương lai của chúng ta. Trong tận
đáy tâm hồn mẹ, mẹ luôn muốn chúng ta được hạnh phúc và thành công. Mẹ lo lắng về
sự học hành, mẹ cầm tay chỉ cho chúng ta viết và đọc. Thành thật mà nói tất cả những khả
năng chúng ta có thể làm bây giờ cũng không bù đắp được hết những công ơn của mẹ đã
dành cho chúng ta. Trong cách nhìn thiển cận của chúng ta, chúng ta nghĩ rằng tất cả
sự thành công của chúng ta đều do chúng ta tạo ra : “Tất cả những gì tôi có đều do tôi tạo
ra.” Còn nữa, mẹ chúng ta đã không thiếu sót một ngày nào dành cho chúng ta khi chúng
ta còn trẻ, chúng ta không nên tự dối mình, chúng ta không thể so sánh với công ơn của
mẹ, chúng ta không xứng đáng. Ngay bây giờ, khi chúng ta có vấn đề, khi chúng ta gặp khó
khăn, không có một người nào giúp chúng ta như mẹ chúng ta đã thường làm cho chúng
ta.
Mẹ của chúng ta cũng là người ngưỡng mộ, hãnh diện về chúng ta nhiều nhất, trước nhất.
Khi chúng ta làm điều gì tốt, mẹ cảm thấy vui và hài lòng về sự thành công đó. Người luôn
muốn chúng ta được nổi tiếng và đôi khi còn nói dối người khác để chúng ta được lợi. Tóm
lại, mẹ chúng ta đã làm rất nhiều việc cho chúng ta trong cuộc đời của người và hầu như
tất cả những công việc đó đều vì chúng ta, không có một chút gì dành cho người. Ngoài mẹ
ra còn có ai hy sinh cho chúng ta như thế?

Nếu chúng ta trải rộng cách nhìn của chúng ta về những kiếp trước thì chúng ta sẽ biết
được đây không phải là lần đầu tiên người là mẹ của chúng ta. Người đã từng là mẹ
của chúng ta trong nhiều cõi luân hồi, trong nhiều kiếp, người đã chăm sóc chúng ta với tất
cả nghị lực, sức mạnh của người. Thí dụ, không thể nghi ngờ được nếu người là con gà
mẹ thì chúng ta là con gà con. Gà mẹ đã ấp ủ đàn con trong ổ ấm bằng đôi cánh của nó, đã
đào bới khổ cực để kiếm đồ ăn cho các con. Gà là con vật nhút nhát nhưng nếu nó cảm
thấy con nó bị nguy hiểm, nó sẵn sàng hy sinh mạng sống để che chở cho đàn con. Sự
thiền định của chúng ta về lòng tốt của mẹ có thể nghĩ rộng ra như thí dụ ở trên đến tất cả
các loài vật. Rồi càng trải rộng ra chúng ta càng hiểu được trong muôn vàn kiếp tất cả
các chúng sinh đều là cha mẹ của chúng ta, họ đã chăm sóc chúng ta cũng như mẹ
của chúng ta bây giờ.

Lòng tốt của tất cả các loài không phải chỉ khi họ là mẹ của chúng ta, nhưng nó trải dài ra
trong mọi nơi, mọi thời. Hãy ôn lại những sinh hoạt trong một ngày chúng ta sẽ thấy rằng
không một phút giây thoải mái nào mà không có liên hệ đến những vật khác, người khác
hoặc đến một con thú nào đó. Mỗi một bát cơm mà chúng ta ăn đều có liên quan đến sự
khổ cực của những bác nông dân, bác tài xế, người đóng bao và ngay cả kẻ giữ
nhà kho...vv...Chúng ta cũng không thể quên được tất cả những sinh vật nhỏ li ti đã phải
chết trong lúc trồng tiả hoặc khi gặt hái để có được bát cơm này. Nếu chúng ta có thời
giờ suy nghĩ thấu đáo về những sự kiện xẩy ra trong đời sống, chúng ta sẽ hiểu được
sự liên hệ, mối tương quan mật thiết của tất cả mọi sự mọi vật trong vũ trụ này.

Sự thực hành đạo của chúng ta là để hiểu được sự thật trong vũ trụ, đó chính là lòng
tốt của chúng ta gửi đến những chúng sinh khác. Tất cả mọi sự kiện đều tùy thuộc lẫn
nhau, đều có liên hệ với nhau, từ việc được đầu thai mang thân người và việc sử dụng nó
một cách khôn ngoan, đến việc khởi phát một tâm buông xả, tâm bồ đề và quan niệm đúng
về tính không. Tại sao lại như vậy? Vì mỗi một thành quả đều do nghiệp tốt mà chúng ta đã
tạo được và do các vị giác ngộ đã giảng dậy Đạo pháp cho chúng ta. Cả hai nghiệp
quả này đều được tạo ra do duyên (yếu tố liên hệ, tùy thuộc – Dg) của cả hai phía. Thí dụ,
sự tinh tấn trong việc giác ngộ của một vị phật chính là sự tích tụ từ tâm bồ đề của các
ngài. Đây chính là yếu tố tùy thuộc của lòng từ bi, của tình yêu, ...vv...đến muôn vàn chúng
sinh, được phát triển và lớn mạnh từ sự thiền định tự nhiên, an nhiên. Vì thế, trong từng sự
phát triển và tinh tấn của các ngài, vị phật tương lai, đều tùy thuộc vào chúng sinh. Họ cung
cấp cho các ngài mọi cơ hội để các ngài thực hành lòng từ bi, sự kiên nhẫn,...vv...và vì thế
nó trực tiếp có liên hệ, có trách nhiệm đến từng sự tiến bộ, sự tinh tấn của các ngài.

Mỗi khi chúng ta nhớ đến lòng tốt của các bậc đã giác ngộ -- các ngài đã chỉ cho chúng
ta con đường chân thật để chấm dứt khổ đau và nhìn ra khả năng của các ngài khi các
ngài thực hiện những việc đó vì lòng tốt cho tất cả chúng sinh -- thì những lý do làm chúng
ta giận dữ tức bực với người khác sẽ mất đi, sẽ tan biến đi. Làm sao chúng ta có thể giận
ghét được kẻ thù của chúng ta, ngay cả kẻ thù nguy hiểm nhất nếu họ thực hiện việc đó để
mang lại cho chúng ta cả hai loại hạnh phúc: thế tục và tối hậu? Tương đối và tuyệt đối?
Tất cả những kinh nghiệm về khoái lạc trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều có thể qui
về họ. Vì thế, mặc dù họ đã có những cử chỉ hành động xấu đối với chúng ta, chúng
ta cũng nên dành cho họ lòng từ bi yêu thương. Không có chúng ta, mẹ chúng ta cũng đã
có quá nhiều khổ đau trong cõi đời này rồi, tại sao chúng ta còn đem thêm oán hận lại cho
người. Lòng từ bi chỉ có thể là nhân đức tuyệt hảo của Đại thừa nếu nó bao bọc, nếu nó
được trải rộng ra cho tất cả muôn loài một cách đồng đều, bình đẳng. Chúng ta không
thể tinh tấn trên con đường phát triển tâm bồ đề khi chúng ta chỉ mong muốn cho một thành
phần nào, một số người nào đó thoát khỏi đau khổ.

Nếu chúng ta phát triển một cách kiên trì và hiểu biết ngay cả với kẻ thù nguy hiểm nhất
của chúng ta như là những kho tàng đầy quý báu thì tất cả những điều lầm lẫn sai lạc nhất
ở trong tâm của chúng ta cũng sẽ bị tan rã. Giận dữ và ganh ghét, chuyên phá
hủy những chủng tử tốt của chúng ta trong từng giây phút, chúng có thể tạo ra những dấu
ấn sâu đậm trong tâm để xóa bỏ đi những thiện cảm của chúng ta với chúng sinh đã từng
là cha mẹ của chúng ta. Chỉ có một con đường duy nhất để biết được sự thật của lời dậy
bảo này là chúng ta hãy tự thanh tịnh chúng. Có thể phải thực hành lâu lắm chúng ta mới
có thể hiểu được mỗi một chúng sinh là mẹ của chúng ta, nhưng trước khi đạt đến tình
trạng đó, nhờ thực hành chúng ta sẽ kinh nghiệm được một cách rất sâu thẳm ở bên trong
về sự an lạc và mãn nguyện của tâm. Nếu tình trạng này xẩy ra, đó chính là sự thực
hành tâm linh một cách đúng đắn.
 

Lợi ích cho người khác

Khi chúng ta cảm nhận và giữ trong tâm chúng ta những thiện cảm của người khác
thì chúng ta phải tìm cách tốt nhất để trả lại họ. Tặng lại họ quần áo và thực phẩm là
điều quý báu nhưng phải thực hiện bằng cả tâm hồn, bằng cả tấm lòng yêu thương. Chúng
ta không nên thiếu sót trong vấn đề mang lại lợi ích cho người khác. Tuy nhiên, điều vô
cùng quan trọng phải hiểu là tặng phẩm vật chất không đủ sức mạnh để cắt đứt tận gốc rễ
của khổ đau. Chúng chỉ có giá trị nhất thời. Nếu chúng ta thực sự muốn trả ơn tấm
lòng bao la của họ, chúng ta phải thực hiện ở bên trong bằng con đường tâm linh. Chỉ có
cách đó mới có thể mang lại cho họ kết quả an lạc và hạnh phúc thường hằng.

Chúng ta cũng không thể giúp người khác nếu chúng ta không thanh tẩy tâm bất toàn
của chúng ta. Trở ngại lớn nhất khi làm việc lợi ích cho người khác là thái độ ích kỷ đang
nằm rất sâu trong tâm của chúng ta. Nếu thực sự ước muốn đem lợi ích đến cho người
khác, chúng ta phải cố gắng đào đi cho hết tâm ích kỷ này.

Không có một lý do nào để hỏi tại sao chúng ta phải đặt sự ích lợi cho người khác trên ích
lợi của chúng ta. Trong ý nghĩa sâu thẳm của kinh điển mật tông về Cúng Dường Vị Thầy
có viết:

 Kính lạy thầy,


Kính xin thầy độ trì con và mỗi một chúng sinh,
Vì từ đó con mới có thể tiếp tục suy nghĩ
Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc
Vì họ không có một chút gì khác biệt với con
Và cho tất cả muôn loài khác nữa
Từ kẻ không được thỏa mãn
Đến kẻ không đạt điều mong muốn,
Và cho cả người chỉ có một chút khổ đau.

Sự thật là không ai muốn khổ đau, mọi người đều mong muốn được hạnh phúc. Chúng
ta luôn nghĩ rằng chúng ta là người duy nhất trên thế giới này đau khổ. Từ nguyên
thủy chúng ta đã chỉ nghĩ đến chúng ta, nhưng sự kiện này đã mang lại cho chúng
ta những gì? Chắc chắn là không được một cái gì trên con đường tinh tấn của tâm linh. Chỉ
có một điều duy nhất mà chúng ta được là những hành động không đạo đức, hung hăng
và ích kỷ, và rồi chúng ta vẫn tiếp tục kinh nghiệm thêm nghiệp quả xấu. Vì thế chúng
ta nên khôn ngoan lợi dụng cơ hội vô cùng quý báu là được làm người trong kiếp này cộng
với những lời dạy bảo này mà bắt đầu làm lợi ích cho kẻ khác.

Trong bài Cúng Dường Vị Thầy cũng còn diễn tả thêm về sự quan trọng của thái độ chúng
ta khi an ủi người khác:

 Kính xin thầy độ trì con


Để con có thể hoán đổi con với người khác
Để con có thể đối xử công bằng với họ
Khi nghĩ về ơn ích và làm tròn bổn phận
Trong sự thực hành:
Phật chỉ làm cho người khác
Còn kẻ ích kỷ chỉ làm cho mình.

Ích kỷ chỉ mang đến diệt vong,


Còn tình thương gửi đến các bà mẹ của chúng ta
Là điều căn bản của mọi đức hạnh.
Do đó, nhờ sự thực hành hoán đổi con với người khác,
Kính xin thầy độ trì con để con có thể hoàn thành công việc này.

Vì hoán đổi mình với người khác mà chúng ta phát giác ra được những sự khó khăn của
họ một cách nhanh hơn. Chúng ta nhớ tất cả những gì họ đã thực hiện cho chúng ta trong
qúa khứ nên chúng ta có thể làm dịu bớt được ngay những đau khổ của họ. Lòng từ bi và
tình yêu của chúng ta cũng lớn mạnh hơn, không có gì sung sướng hơn khi nhìn người
khác hạnh phúc và không gì buồn hơn khi biết người khác đang đau khổ. Mỗi khi chúng
ta có một niềm vui là ngay lập tức chúng ta mang ra chia sẻ với những người kém may
mắn. Cũng giống như vậy, mỗi khi nhìn thấy ai đau khổ là chúng ta mong muốn gánh giùm
cho họ. Nếu chúng ta có thể san sẻ hạnh phúc và gánh lấy khổ đau cho người khác là một
điều tuyệt hảo. Tuy nhiên, nếu chúng ta không thể làm được thì sự ước muốn này cũng là
một hạt giống chúng ta đã trồng để rồi một ngày nào đó nó sẽ chín trong khả năng
của chúng ta để đem lại hạnh phúc và an lạc cho họ. Ngài Shantideva nói:

 Một người tốt luôn nghĩ cách chữa


 Bệnh nhức đầu cho tất cả chúng sinh
 Lòng tốt này tạo ra muôn vàn công đức.
 Còn có ai quan tâm đến muôn loài
 Mong ôm trọn nhức đầu của chúng
 Chúc họ tạo được vô vàn nhân đức!

Khi chúng ta so sánh chúng ta với người khác, điều khác biệt chính mà chúng ta cần nêu ra
ở đây là chúng ta may mắn được nghe những lời dậy bảo để cải hoá tâm ta. Sau một thời
thực tập nhỏ về thiền định chúng ta đã kinh nghiệm được thế nào là giải thoát khỏi những
điều xấu mà trước đây chúng ta đã vướng vào. Trong khi những người khác không có
được những may mắn này. Họ vẫn bị ngụp lặn trong vọng tưởng mà không có được một
sự chỉ dẫn nào để thoát ra khỏi những chuỗi khổ đau cứ dồn dập kéo tới. Mặc dầu họ
cũng ước mong được hạnh phúc, nhưng mỗi một hành động lại mang thêm khổ đau.
Nhờ tri giác lớn mạnh, trong sáng và rực rỡ, chúng ta phát triển được những tâm
nguyện thanh tịnh để có thể hướng dẫn những người đau khổ đi vào con đường giải
thoát. Chúng ta sám hối vì những lỗi lầm trong quá khứ đã làm người khác đau khổ mà cố
gắng thực hiện những con đường đem lại hạnh phúc cho muôn loài.

Chúng ta hãy bắt chước những đứa trẻ có trách nhiệm giúp đỡ mẹ nó vượt qua những thời
khó khăn. Chúng ta phải từ bỏ ngay những tư tưởng là người khác phải đối diện với khổ
đau của họ. Chúng ta phải hoàn thành một cái gì và chỉ chúng ta là người có khả năng làm
điều đó. Còn nữa, khi chúng ta nhìn vào bên trong tâm của mình, chúng ta sẽ nhận ra một
điều là chính chúng ta phải tự giúp mình, chứ không phải ai khác. Vì thế, chúng ta phải
kiếm cho ra người nào có thể làm được công việc này, hãy nghĩ cách vượt thắng họ.
Rồi chúng ta sẽ thấy rằng đó chính là người hoàn toàn giác ngộ -- người theo đuổi con
đường tâm linh tới toàn thiện và đạt được qủa vị phật, tới trạng thái hoàn toàn tỉnh
thức -- mới có đủ năng lực để hướng dẫn những người khác thoát khỏi khổ đau. Khi tất cả
những nhận thức này cùng đến với nhau và khi chúng ta quyết tâm chiến thắng chính mình
để đạt giác ngộ vì lợi ích người khác và cho những người mẹ, thì đó chính là phát triển bồ
đề tâm một cách chân thật, đó chính là động năng giác ngộ.

Tôi xin kết thúc đề tài phát triển tâm bồ đề ở đây, lãnh vực thứ hai của ba lãnh vực chính
trên con đường dẫn đến giác ngộ. Có tạo được ơn phước hay không trong bài giảng
này hoàn toàn có tính cách cá nhân, tùy thuộc vào thái độ đón nhận của từng người ở đây.
Nếu có được một chút ơn phước nào, chúng ta nên hồi hướng ngay cho chính chúng ta và
cho tất cả mọi người để cùng đạt giác ngộ. Bằng cách này, bất cứ một nghiệp tốt nào
mà chúng ta đã tạo được cũng không bị phá hủy hay bị dẫn dắt sai lầm bởi nghiệp xấu.

Hãy nghĩ đến tất cả những nhân đức của chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cả
đến thân xác hiện tại cùng của cải, sức khoẻ của chúng ta đều được dâng hiến cho những
vị đã giác ngộ, để mang đến cho họ niềm an lạc miên viễn. Rồi tất cả những ơn phước tích
lũy này nên hồi hướng đến muôn loài chúng sinh mà không dành lại một chút gì cho
riêng chúng ta. Nên biết rằng tất cả những hồi hướng này là nguồn nhận thức mà từ
đó muôn vàn chúng sinh có thể tinh tấn trên con đường thực hành tâm linh về Đạo pháp để
tiến đến mục tiêu tối thượng. Rồi tưởng tượng tất cả chúng sinh đều được giác ngộ, đều
được thanh tẩy mọi vọng tưởng. Cuối cùng, hãy cầu nguyện tất cả những ơn phước
mà chúng ta có được hôm nay đều nhanh chóng giúp chúng ta tinh tấn trong ba lãnh
vực dẫn đến giác ngộ này.

Nhận thức Bản tính của Sự thật


 

Dù chúng ta đã nghe những lời dạy bảo thực hành Đạo pháp một lần hay rất nhiều lần
cũng chỉ đưa đến một mục đích: hướng dẫn chúng sinh có một quan niệm đúng (chính
kiến) về chân tính – tất cả các hiện tượng, các sự vật đều trống rỗng và vô ngã, không
có tự tính. Nếu chúng ta phát triển được một sự hiểu biết không thể sai lầm, một sự hiểu
biết vững chắc về cách sự vật xuất hiện, về cách các hiện tượng sinh khởi thì chúng
ta sẽ giải thoát chúng ta khỏi tất cả những đau khổ của bánh xe luân hồi. Vô minh là nguồn
gốc của tất cả mọi khổ đau, vô minh là nguyên nhân số một của vòng 12 duyên khởi, nó
đưa chúng ta vào luân hồi hết kiếp này qua kiếp khác: sinh ra, chết đi rồi lại đầu thai, mặc
dù chúng ta không muốn, nó vẫn xẩy ra một cách tự động, một cách rất tự nhiên. Với trí
tuệ, chỉ có trí tuệ, chúng ta mới có thể cắt đứt được vô minh, từ đó chúng ta mới giải thoát
chúng ta khỏi tất cả những mắc xích của luật nhân qủa, của nghiệp chúng ta. Còn nữa,
nếu chúng ta đạt được trí tuệ như vậy cùng với năng lực bồ đề tâm, chẳng những chúng
ta giải thoát được chính chúng ta mà còn đạt đến sự tỉnh thức tối thượng nữa (Diệu Quan
Sát Trí, trí tuệ nhận biết nhiều khía cạnh, nhận biết toàn diện pháp giới. - Dg) Từ đó chúng
ta có đầy đủ khả năng để hướng dẫn tất cả chúng sinh trên con đường chấm dứt mọi khổ
đau.

Để hiểu được tánh không (tính không, không tính, shunyata) chúng ta phải làm quen với đề
tài này một cách không lầm lẫn, một cách vững chắc. Đề tài này đã được giảng dậy bởi
chính Đức Phật Thích Ca và nó được truyền dạy cho đến ngày hôm nay một cách liên
tục không gián đoạn qua các dòng truyền thừa, các thiền giả và các học giả lỗi lạc như
Ngài Long Thọ, Chandrakirti, Je Tsong Khapa...Nếu chúng ta chạy theo những lời giảng
dạy cao siêu mà nó không giải thích được bản tính của sự vật thì chúng ta sẽ không bao
giờ hiểu được bản tính của sự thật, của chân tính, không cần biết chúng ta đã thiền
định đến cỡ nào, bao lâu. Vì thế, điều vô cùng quan trọng là chúng ta phải tìm những
lời giải thích đúng, rồi nghiên cứu, tìm hiểu sâu xa và thiền định về chúng một cách vô
cùng thâm sâu (Tiến trình hòa nhập trong tánh không gồm ba giai đoạn: tìm hiểu, kinh
nghiệm và chứng ngộ tánh không. –Dg) Hãy theo dõi những lời dạy bảo của các bậc
thầy Ấn độ và Tây tạng. Ngài Je Tsong Khapa viết:
 
 Kẻ nào nhìn được nguyên nhân và kết quả
 Của mọi sinh khởi trong luân hồi và giải thoát
 Không còn vướng bận và tà kiến đã bị tiêu diệt
 Kẻ đó đã bước vào con đường của các vị phật.

Trí tuệ tánh không chính là phương thuốc trực tiếp đối trị vô minh của chúng ta về bản
tính của sự thật. Nếu trí tuệ này không hoàn toàn phá bỏ được lối nhìn thông thường về sự
vật thì đó không phải là trí tuệ thật. Bởi vì vô minh chỉ nhận thức đối tượng một cách hoàn
toàn sai lạc, nhưng trí tuệ thì ngược hẳn lại. Vì thế, trước nhất chúng ta cần phải có trực
giác về các nhận thức của chúng ta xem chúng làm việc như thế nào để từ đó chúng
ta biết chúng ta phải làm gì, hành sử ra sao. 

Tâm của chúng ta đã quen nhìn sự kiện, sự vật theo một chiều hướng sai lầm nên rất khó
mà có được một hình ảnh trong sáng về sự thật. Bởi vì trí tuệ của chúng ta quá hạn hẹp,
nó không đủ sức mạnh để nhận những điều đã tin tưởng là sai lầm, nó hầu như không biết
thực trạng của sự vật là gì. Thí dụ, nếu chúng ta tự hỏi mình: “Thực sự ‘cái tôi’ mà chúng
ta thường nói đến là gì?” chúng ta sẽ không trả lời nổi hoặc rất khó tìm được câu trả lời. Đó
là một sự thật phũ phàng, chúng ta đã nghĩ về “cái tôi” quá nhiều, ngay cả trong giấc
mơ. Vọng tưởng của chúng ta quá dầy đến nỗi không giải thích nổi những cái mà chúng
ta thường gặp.

Từ vô thủy muôn vàn kiếp trước trong luân hồi đến bây giờ chúng ta đã thường nghĩ đến
“cái tôi” của chúng ta như là một cái gì rất vững chắc, tự có, tự hiện diện một cách độc lập.
Nó xuất hiện mà không có một chút gì liên hệ đến thân xác, đến tâm thức hoặc đến bất cứ
gì khác của chúng ta. Hơn nữa, hầu như nó hoàn toàn tự lập. Chúng ta đã không học
hỏi sự tin tưởng sai lầm này; chúng ta sinh ra, chết rồi lại đầu thai hoàn toàn theo bản
năng. Đây là sự thật, lý do mà chúng ta sinh ra trong một thân xác bất toàn vì tâm
của chúng ta đã quá bận rộn, đã có một ý niệm tự hữu về “cái tôi,” rồi từ đó chúng ta mong
muốn, vồ chụp, chấp nắm, bám víu cho sự an toàn của nó.

Đó là một lối nhìn quá sức sai lầm. Thí dụ, khi chúng ta sợ hãi hay nóng giận, chúng ta cảm
thấy mãnh liệt là “Tôi không muốn, tôi không thích nó một chút nào cả!” khởi phát ra ở trong
ta, còn tất cả những cái khác thì không quan trọng. Chỉ có một điều là chúng ta phải tìm
cách bảo vệ “cái tôi” đang ở trong tim của chúng ta. Nhưng, sự thật là không có một “cái
tôi” nào đang hiện diện. Đó hoàn toàn chỉ là sản phẩm của một ý niệm mù quáng, vô minh.

Thực sự chúng ta có một “cái tôi” theo qui ước, theo tập tục, nhưng nó chỉ xuất hiện một
chiều, trong khi chúng ta lại tin rằng nó thật sự hiện hữu trong tất cả mọi đau khổ của chúng
ta. Chúng ta tự lao vào những vấn đề do chính chúng ta tạo ra bởi vì căn bản nhận
thức của chúng ta đặt trên một quan niệm sai lầm chúng ta là ai. Tất cả những phán
đoán của chúng ta đều sai và chúng ta không có khả năng để đối diện hay tác động trên
những tình trạng mà chúng ta đang phải đối phó. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên chúng
ta luôn luôn gặp những chuyện bực mình khi sự kiện xảy ra để rồi kinh nghiệm toàn là bất
mãn và khó chịu trong kết quả.

Tại sao cảm thấy “cái tôi” xuất hiện một cách độc lập, tự hiện hữu, lại là một sai lầm?
Nếu chúng ta đối diện với câu hỏi này một cách thận trọng, nghiêm túc và thành thật thì
câu trả lời sẽ đến một cách rất trong sáng. Không thể nghĩ về một “cái tôi” bên ngoài –cũng
là nghĩ về-- thân xác hoặc tâm của chúng ta. Vì thế, nếu “cái tôi” thực sự độc lập và tự có
thì nó phải giống như thân xác và tâm, hiện diện như vậy, hoặc là một cái gì đó riêng biệt
với chúng. Nếu chúng ta thiền định sâu xa về điều này, chúng ta sẽ thấy rằng chỉ có thể có
hai sự kiện này mà thôi.

Tuy nhiên, thật rõ ràng là “cái tôi” không thể xuất hiện tách biệt khỏi thân hoặc tâm bởi vì
không có ”cái tôi” nào để chúng ta có thể chỉ vào như chúng ta chỉ vào một sự kiện tinh
thần hoặc vật chất. Thí dụ, khi thân xác ngủ, chúng ta nói, “tôi đang ngủ.” Khi nó đang
chăm chú vào thức ăn, chúng ta nói, “tôi đang ăn.” Khi nó đang ở trên ghế, chúng ta nói,
“tôi đang ngồi.” Nếu “cái tôi” thực sự hiện diện mà chúng ta có thể cảm nhận được –
như chúng ta thường cảm nhận một cái gì đó ở thân và tâm của chúng ta – thì có thể nó
chẳng có liên quan gì, ý nghĩa gì đến những hoạt động của chúng ta. Nếu “cái tôi” là một
cái gì đó xuất hiện riêng biệt khỏi thân, thì tại sao chúng ta lại nghĩ, “tôi đang ngồi” khi
thân chúng ta đang ở trong ghế?

Cùng một cách đó khi nói về tâm. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi nào đó tâm chúng
ta có liên hệ với rất nhiều hoạt động khác nhau, thường là trái ngược nhau. Khi tâm đang
nghĩ, đang ngủ, đang thiền, đang tức giận hay đang mơ, chúng ta nói, “tôi đang nghĩ,” “tôi
đang thiền,” “tôi đang tức,” ...vv... Nếu có một “cái tôi” hiện diện một cách nào đó ngoài cái
tâm, thì nó cũng chẳng có ý nghĩa gì liên quan đến những hoạt động tinh thần trong danh
nghĩa của một “cái tôi” độc lập và tự có.

Tuy nhiên, hãy cho quan niệm sai lầm này một chút công bằng, giả thử có một “cái tôi” độc
lập như thân xác, như tâm hay như một hình dáng nào đó của nó; dù cho “cái tôi” có được
coi như thân xác hay tâm thì nó cũng không thể nào là một thành phần vật chất hay tinh
thần của chúng ta mà chúng ta có thể chỉ tay vào nó mà xác định rằng “Đây là ‘Tôi.’” Nó
không phải là tay của chúng ta, không phải là tim của chúng ta hay là bất cứ một thành
phần nào đó của thân xác mà chúng ta có thể gọi là “Tôi”. Chúng ta cũng không thể nói cái
gì chúng ta đang nghĩ đang cảm là “cái tôi” của chúng ta. Cho tới khi nào chúng ta còn xác
nhận chúng ta với thân xác của chúng ta, với tâm của chúng ta hoặc cứ tiếp tục nghĩ “Đây
là thân của tôi” hay “Đây là tâm của tôi” là còn tiếp tục nhầm lẫn về tất cả mọi sự việc.
Những tư tưởng này có thể hiểu ngầm là “Đây là thân của thân xác” và “Đây là tâm của
tâm,” cả hai đều là tình trạng vô nghĩa lý. Hơn nữa, có rất nhiều, rất nhiều nguyên tử, vật
nhỏ li ti, những vi thể trong thân xác của chúng ta và cũng có rất nhiều tư tưởng đi qua tâm
của chúng ta mà nếu chúng ta gọi từng cái là “Tôi” thì chúng ta phải đi đến một kết
luận là chúng ta đã là một triệu người khác nhau. Cũng hoàn toàn vô nghĩa lý khi xác
nhận “cái tôi” với một vi thể nào đó hay với một tư tưởng nào đó, còn những cái khác thì
sao? Chúng thuộc về ai đây?

Nếu chúng ta nghĩ những điểm này một cách có hệ thống và dùng chúng để kiểm chứng lại
tất cả những đường lối mà chúng ta đã nhìn về chúng ta thì chúng ta sẽ thấy rằng không
thể có một “cái tôi” xuất hiện một cách độc lập. Một “cái tôi” như vậy không thể hiện diện
được, không thể xuất hiện được nên có nghĩa là không có tự tính, trống rỗng. Bởi vì tâm vô
minh bảo rằng chúng ta hiện diện một cách nào đó như một “cái tôi” hoàn toàn độc lập,
còn trí tuệ tánh không nhìn rất rõ ràng rằng “cái tôi” không bao giờ có dù chỉ một chút xíu,
nên hai quan điểm này hoàn toàn trái ngược nhau. Dù chúng ta có tin một “cái tôi” sai
lầm của chúng ta hay một “cái tôi” theo qui ước của chúng ta thì cũng không thể nào tách
chúng ra khỏi thân và tâm của chúng ta hay bất cứ một phần nào của chúng. Đúng ra,
chúng xuất hiện, chúng hiện diện tùy thuộc lẫn nhau (duyên khởi).

Sự thật có nhiều cấp bậc, mặc dù trong tương đối hay tuyệt đối, trong căn bản hay qui ước.
“Cái tôi” qui ước xuất hiện ra trong tâm, chúng ta đã đề cập đến là một “cái tôi” sai lầm – vì
nó cho đó là “cái tôi” độc lập và tự có – nên nó là một sự thật tương đối. Sự thật của “cái
tôi” qui ước (tập tục) xuất hiện đúng như cách thế của nó, nhưng điều này không thể
được nhận ra bởi cái tâm vô minh. Chỉ có cái tâm hiểu được tánh không và nhận thức trực
tiếp được tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng đều không có tự tính mới có thể hiểu được bản
tính tuyệt đối, nhận thức được chân tính. Tâm siêu việt đó không hề bị một chút ô
nhiễm nào của những quan niệm sai lầm, của những ý niệm sai lầm về sự thật tương
đối nên nó có thể nhìn sự vật, nhìn hiện tượng như chính nó là, như chính nó xuất hiện trên
cả hai cấp bậc (nhị đế: tục đế hay thế đế là chân lý của thế tục và chân đế hay thắng nghĩa
đế là chân lý của Phật. – Dg)

Khi chúng ta phát triển tâm linh trong tánh không, chúng ta sẽ nhìn sự vật hoàn toàn khác


với lối nhìn thông thường của chúng ta bây giờ. Mọi vật sẽ như một bóng ma hay một ảo
ảnh. Nhưng không phải là không có gì xuất hiện. Cần phải nhấn mạnh rằng “cái tôi” dù
không tách biệt với hay không hoàn toàn giống thân và tâm thì không có nghĩa là nó hoàn
toàn không có. Đây là điều vô cùng sai lầm và rất nguy hiểm nếu chúng ta kết luận như
vậy. Một người đang đau khổ vì những ảo tưởng về một tâm-thức-tôi có thể bắt đầu kiểm
chứng những phiền não “tôi” của họ. Thất vọng khi đi tìm một “cái tôi” độc lập, họ có thể kết
luận rằng “cái tôi” của họ hoàn toàn không có, không hiện diện. Một khi họ đã tin với
lối nhận thức này, họ dễ dàng đi đến việc chối bỏ mọi sự. Họ không chỉ nghĩ rằng họ
không hiện diện mà họ còn có cảm tưởng rằng người khác và vật khác cũng như vậy.

Đây là một quan điểm quá cực đoan về sự chối bỏ, gọi là chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa này
có thể dẫn đến những tình trạng tâm thần nguy hiểm, rất nguy hiểm và cực kỳ khổ đau
(bệnh tâm thần). Do đó, khi kiểm chứng về “cái tôi” chúng ta phải vô cùng thận
trọng. Chúng ta phải có khả năng phân biệt thật rõ ràng về sự khác biệt của hai ý niệm về
“cái tôi.” Thông thường, quan niệm sai lầm nhìn nó như là một cái gì xuất hiện độc lập,
riêng biệt. Một khi quan niệm sai lầm về “cái tôi” đã được nhận thức, đã bị bác bỏ, cái gì
còn lại chính là sự thật, lúc đó “cái tôi ” sẽ xuất hiện một cách bình thường. “Cái tôi”
này xuất hiện trong một tương quan với (tùy thuộc) thân và tâm của chúng ta. Nó có
những hoạt động, tạo nghiệp, rồi kinh nghiệm được những kết quả theo luật nhân quả như
đã trình bày về 12 duyên khởi ở trên. Một “cái tôi” như vậy thì chẳng có gì là độc lập, tự có,
nó chỉ là một phần của chuỗi dài liên tục vô tận của những hành động và phản ứng, năng
lực và phản năng lực. Khi chúng ta có sự hiểu biết này, chúng ta sẽ thấy rằng tại sao chúng
ta lại kinh nghiệm được những gì chúng ta đã làm. Chúng ta cũng nhận thức được chúng
ta có khả năng làm cách nào để uốn nắn những kinh nghiệm của chúng ta trong tương lai
do những gì chúng ta nghĩ, chúng ta nói và làm ngay bây giờ. Vì thế, khi trí tuệ của chúng
ta phát triển, lớn mạnh, chúng ta sẽ kiểm soát được định mệnh của chúng ta.
Nếu chúng ta phân biệt được một cách thật rõ ràng về sự sai lầm, giữa một “cái tôi” độc
lập và một cái thực sự hiện diện thì chúng ta sẽ không còn bị nguy hiểm rơi vào cực
đoan của hư vô. Nếu không như vậy thì khi thiền định về tánh không chúng ta chỉ làm
cho vô minh càng thêm vô minh hơn.

Khi chúng ta thiền định về tánh không chúng ta sẽ trải qua rất nhiều trạng thái của tâm


linh. Trước tiên chúng ta sẽ đạt được một cái nhìn trong sáng, rõ ràng rằng chúng
ta đã nhận thức sai lầm về “cái tôi,” – cái xuất hiện một cách độc lập -- như thế nào. Rồi,
khi chúng ta đánh phá “cái tôi” sai lầm này bằng cách phân tích cái nào tách biệt, cái nào là
một với thân và tâm của chúng ta, lúc đó “cái quan niệm sai lầm sẽ tan biến,” như Je
Tsongkhapa đã nói. “Cái tôi” này sẽ bắt đầu tan rã rồi biến mất, tan biến trong bản
tính chân thật của chính nó ( không có tự tính, trống rỗng.)

Khi không tìm kiếm được “cái tôi” này, chúng ta sẽ kinh nghiệm được một sự trống rỗng
rất sâu xa ở nội tâm của chúng ta. Nó giống như chúng ta đã mất một cái gì qúi gía. Tại lúc
này, sự sợ hãi có thể khởi lên bởi vì chúng ta không còn “cái tôi” nào để bám vào. Nếu và
khi nó xẩy ra, chúng ta đừng để bị rơi vào tình trạng cực đoan của hư vô là chối bỏ mọi sự.
Đây là một sai lầm vô cùng tai hại. Tốt hơn, chúng ta nên kiên trì thiền định rồi tự
nhiên sẽ chứng nghiệm được tánh không. Chúng ta sẽ có khả năng nhận thức được bản
tính chân thật của “cái tôi” – thiếu vắng sự tự hữu – và hoàn toàn cảm nhận rằng đó chỉ là
những bóng ma, huyễn ảo trên bình diện rất tương đối của sự thật. Như đã được nói đến
trong bài Cúng Dường Vị Thầy: 

 Cũng không phải một vi trần trong luân hồi hay niết bàn


 Chẳng có gì như vậy hiện hữu,
 Cũng chẳng có gì sai lầm khi nói rằng những vi trần này
 Là duyên khởi của nhân và qủa.
Kinh xin thầy độ trì con
Để con có thể chứng nghiệm được đại chính kiến của Ngài Long Thọ
Về sự không mâu thuẫn, ơn phước tương hợp của nhị đế.

Khi chúng ta đạt tới hai nhận thức này, chúng ta mới thực sự bước trên “đường làm vui
lòng chư phật.”

Quan niệm sai lầm mà chúng ta nhìn “cái tôi” như là một cái gì độc lập và tự có cũng sai
lầm y như chúng ta nhìn các hiện tượng. Thí dụ, khi chúng ta nhìn cái bàn, chúng
ta không để ý tới khía cạnh nó xuất hiện trước chúng ta chỉ như là một cái tên mà chúng
ta đã đặt cho nó và chính cái tên này, cái nhãn hiệu này là một tập hợp tuỳ thuộc vào nhiều
thứ, nhiều nguyên nhân và nhiều hoàn cảnh. Thay vì nhìn cái bàn theo chiều hướng tùy
thuộc vào rất nhiều yếu tố (duyên khởi) chúng ta lại nhìn nó theo một chiều hướng quá đơn
giản mộc mạc và sai lầm. Vì cái quan niệm sai lầm ràng buộc qúa sâu xa này mà chúng
ta cảm thấy đối tượng này qúa thật và độc lập, nó tiến đến chúng ta từ ngoài kia. Chúng
ta đã quên mất nó là một cái gì mà chúng ta đã đặt tên cho nó, cho nó một giá trị, thực sự
là nó đã được chế tạo ra.
Một thí dụ khác, một đôi vợ chồng có con và đặt tên cho nó là Gerald. Dù thật sự họ đã tạo
ra cái tên này cho em bé, nhưng chẳng bao lâu sau họ cứ nghĩ con của họ thật sự là
“Gerald.” Họ nhìn Gerald như là một cái gì hiện diện cùng với đứa trẻ, độc lập và tự
có, xuất hiện ra với họ như không có nguyên nhân. Thay vì nhìn đứa bé như là một
người tùy thuộc vào thân xác, tâm hồn, tên tuổi và nhiều thứ khác, họ lại nhìn nó như một
cái gì thật có, Gerald rất độc lập, mà chẳng có một chút gì tùy thuộc vào những cái khác để
cho nó được hiện diện.

Có rất nhiều sách giải thích làm sao để thiền về sự thiếu vắng của tính tự hữu độc lập của
“cái tôi” và của các hiện tượng khác. Nhờ đọc những cuốn sách đó về tánh
không mà chúng ta có thể tích tụ được nhiều kiến thức sâu xa. Nhưng điều vô cùng quan
trọng là phải thật sự tự thanh tẩy chúng ta khỏi những tà kiến, vọng tưởng và những ý
niệm sai lầm. Cho tới khi nào chúng ta còn vô minh về cái gì là đúng, riêng biệt và cái gì là
không đúng, không hợp cách là chúng ta còn rơi vào tình trạng nhận thức lệch lạc về hình
ảnh thật của chân lý, của bản tính, tất cả sự hiểu biết của chúng ta sẽ thiếu vắng chân
nghĩa và chân giá trị. Vì thế, chúng ta cần phải thanh tẩy tâm của chúng ta. Chúng
ta phải cố gắng loại bỏ cả hai thứ vọng tưởng dầy đặc như ganh ghét và bám víu, cái này
làm chúng ta khó tập trung và khó thâm nhập vào ý nghĩa của tánh không. Vì chúng qúa vi
tế và vì vọng tưởng quá thâm sâu của vô minh nên từ đó mọi vọng tưởng dầy đặc khác
lại phát khởi liên tục. Còn nữa, chúng ta không bao giờ được thiếu sót trong việc quan
sát nghiệp của chúng ta, con đường thẳng tắp của tất cả mọi hành động là kiên trì thực
hành Đạo Pháp.

Sau cùng, chúng ta thử hỏi sự tin tưởng vững chắc ở tính độc lập tự có này ảnh
hưởng đến tâm của chúng ta như thế nào? Có những lễ hội, có những buổi trình diễn ở
những nơi công cộng hay ở bất cứ đâu, chúng được coi như là những trò chơi vô lý, những
màn kịch vô duyên, nhưng ở đó mọi người cùng chia sẻ với nhau một trò huyễn ảo. Mặc
dầu nó là kịch, bi kịch nhưng nó vẫn làm chúng ta cười. Tiến trình thanh tẩy tâm ô
nhiễm huyễn ảo này có thể phải mất rất nhiều thời gian mới hoàn thành được, nhưng nó
rất cần thiết nếu chúng ta quyết tâm muốn trốn thoát khỏi khổ đau để chỉ cho người
khác con đường đi đến tự do, giải thoát. Do đó, chúng ta phải cố gắng thật nhiều, phải liên
tục kiên trì, luôn luôn giữ động năng này càng thanh tịnh càng hay.
Kết Luận
 

Chúng ta không có đủ thời giờ để thảo luận xa hơn nữa về ba lãnh vực chính của con


đường dẫn đến giác ngộ. Nhưng những gì đã được trình bày ở trên cũng tạm đủ để chúng
ta ý thức được sự quan trọng của việc phát triển tâm hoàn toàn buông xả, một động
năng giác ngộ của bồ đề tâm, một cái nhìn đúng về tánh không, chúng ta cần cố gắng thật
nhiều để lãnh hội những lời giảng dậy này. Chúng ta nên tìm kiếm một vị thầy tâm
linh hướng dẫn chúng ta đi đúng trên con đường tìm hiểu Đạo Pháp. Còn nữa, chúng
ta nên đọc và nghiên cứu những tài liệu, những lời giảng về Đạo Pháp có giá trị, nhất là
những điểm cốt tủy này. Nhưng điều vô cùng quan trọng vẫn là thực hành, thật tâm
chân thành thực hành qua thiền định về tất cả những gì mà chúng ta đã học, đã đọc được.
Hãy thực sự áp dụng những gì chúng ta đã học vào đời sống hàng ngày. Có như vậy,
sự thực hành của chúng ta mới thực sự làm vui lòng các bậc đã giác ngộ và sau cùng mới
mang lại ơn ích cho muôn vàn chúng sinh khác.

Mỗi khi chúng ta bắt đầu một buổi thiền về bất cứ khía cạnh nào trên những lời dậy bảo
này – dĩ nhiên, bất cứ lúc nào chúng ta thực hiện những công việc đạo đức – chúng
ta cũng phải nhớ thanh tẩy những động năng thúc đẩy của chúng ta. Sự kiện này bảo
đảm tất cả những ơn phước mà chúng ta có thể có được sẽ hữu ích cho tất cả những công
việc chúng ta làm. Vì thế, hãy vun trồng những ý tưởng đó như sau:

Con và muôn loài chúng sinh đã bị khổ đau trong luân hồi từ muôn ngàn kiếp đến bây giờ.
Bây giờ con vẫn đau khổ, con đã mù quáng chấp nhận ý niệm sai lầm con là ai. Con đã
lầm tin tưởng “cái tôi” là tự có và độc lập nên con đã nhìn những bất tịnh trong luân
hồi là thanh tịnh và đáng mong ước.

Con không muốn làm nô lệ cho những vọng tưởng này nữa. Trước khi Phật Thích
Ca đạt giác ngộ, Ngài cũng vô minh như con, cuối cùng Ngài đã giác ngộ và đạt qủa vị
Phật, không có một lý do nào có thể ngăn cản con làm điều đó.

Tuy nhiên, con không hoà nhập trong tánh bản nhiên và giải thoát cho riêng con. Con
không phải là người duy nhất ước muốn hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau. Nếu chỉ giải
thoát một mình con mà không nghĩ đến người khác là không đúng. Qủa nhiên, thái độ ích
kỷ của con là nguyên nhân cho tất cả mọi khổ đau của con và của muôn loài, vì thế ngay
bây giờ con phải chấm dứt. Tất cả chúng sinh, những người mẹ cao qúi cuả con, đã cho
con nhiều hạnh phúc mà con chưa từng có như vậy. Mặc dầu không có một ân nhân nào
mong muốn đau khổ nhưng họ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội để có hạnh phúc. Làm sao con có thể
quên họ được khi họ thật sự cần sự hướng dẫn?

Những người bạn của con không phải là những người duy nhất bị ray rứt liên tục trong khổ
đau. Ngay cả những con thú, những sinh vật nhìn thấy hay không nhìn thấy trong vũ trụ này
cũng đang ngụp lặn trong mê vọng. Chúng đã chịu khổ đau từ muôn vàn kiếp và còn tiếp
tục khổ đau cho đến khi nào chúng chưa thoát khỏi vô minh. Con không thể quên những
sinh vật bất hạnh này, vì chúng đã chỉ cho con biết thế nào là lòng từ ái.

Do đó, khi con nhận thức được bổn phận của con về sự lợi ích cho muôn loài, con sẽ thiền
định sâu xa trên con đường dẫn đến giác ngộ. Nguyện xin tất cả những ơn ích phước
đức nào mà con có được trong sự thực hành này sẽ thuần nhuyễn tâm con. Nguyện cho
con được tinh tiến trên con đường phát triển tâm linh càng nhanh càng tốt hầu sớm
đạt giác ngộ để mang lại hữu ích cho tất cả những bà mẹ của con. Nguyện xin những lời
dậy bảo của các bậc đã giác ngộ tiếp tục vun tưới và cung cấp ơn lành cho tất cả.

2. ÁP DỤNG ĐẠO PHÁP VÀO ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


Tôi nghĩ các bạn đã nghe đầy đủ về Đạo pháp. Lạt ma Zopa đã thâu tóm lại và giải
thích làm thế nào để hiện thực hoá sự hiểu biết này, tôi thiết nghĩ các bạn cũng biết sự lợi
ích của nó như thế nào. Từ đó các bạn đã có kiến thức làm sao giải quyết những khó khăn
xẩy ra trong cuộc sống của các bạn theo Đạo pháp, tôi không muốn nhắc lại những điểm
này nữa.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nhìn sâu hơn một chút những gì Lạt ma Zopa đã nhấn
mạnh. Thí dụ, khi Lạt ma và những người khác đề cập đến Phật, Pháp và Tăng, chúng
ta không nên nghĩ đây là những gì đã qua đi, đã chết. Họ không thuần túy là những nhân
vật lịch sử, cũng không phải những gì Lạt ma nói về tương lai, như nói: “Nếu các bạn thực
hành Đạo pháp như thế, như thế, các bạn sẽ đạt giác ngộ trong tương lai, điều này làm các
bạn vui.” Thực ra Lạt ma đang nói về hiện tại – cái gì đang xẩy ra trong tâm của các bạn
ngay bây giờ.

Ngay khi chúng tôi nói về nghiệp, sự làm việc của nhân và quả, không phải chúng tôi phát
biểu một cái gì đã hoàn thành trong quá khứ để có ảnh hưởng đến những kinh nghiệm hôm
nay. Thực ra, chúng tôi muốn chỉ cho các bạn biết cái gì các bạn làm buổi sáng với ý
hướng xấu, thì ngay buổi chiều cùng ngày hậu quả xấu có thể xẩy ra. Tốt nhất hãy học
những gì có liên quan đến những sự thay đổi ngay bây giờ còn hơn là sưu tầm, tích trữ
những tài liệu lịch sử hoặc những kiến thức triết học về các sự kiện.

Thí dụ, khi Lạt ma Zopa nói về ba lãnh vực chính của con đường dẫn đến giác ngộ. Cái gì
mà các bạn lãnh hội được trong bài học này không tùy thuộc vào sự giải thích của ngài mà
là những gì đang xẩy ra trong tâm của các bạn khi các bạn nghe nó. Nếu các bạn quá chú
ý vào kiểu cách diễn tả thông minh của ngài, thì có thể các bạn sẽ chỉ lãnh hội được những
lời giảng giải như vậy, nhưng đây chỉ là những gì các bạn đã thấy. Người Tây
phương thường có những thái độ, “ Ôi chao, ngài giảng quá hay, thật là tuyệt!” Nhưng nếu
các bạn nhận xét cái gì đang xẩy ra thì các bạn sẽ thấy rằng ngài đã không giảng về trí tuệ.
Ngài chỉ diễn tả những gì đang xẩy ra trong tâm của các bạn, trong nội tâm của các bạn.
Ngài chỉ muốn nhấn mạnh rằng các bạn hãy nhìn vào chính các bạn gần hơn nữa, sâu hơn
nữa. Ngài nói rất đơn giản, rất thẳng; cái gì chính các bạn nhận thức được, cái đó làm cho
nó trở nên tuyệt vời.

Vì thế, tất cả đều tùy thuộc vào các bạn nghe như thế nào, nghe bằng cách nào. Nó giống
như đang coi một phim hấp dẫn trên truyền hình. Các bạn chăm chú, nóng ruột muốn biết
cái gì sắp xẩy ra. Cũng giống như vậy, khi Lạt ma nói, các bạn hãy để ý xem ngài đang
khuấy cái gì lên trong bạn. Những lời nói của ngài và những sự hiểu biết, thực hành của
các bạn phải hợp nhất cùng lúc với nhau. Thực ra, Đạo pháp không đề cập đến những gì ở
bên ngoài như dẫy Hy Mã Lạp Sơn; nó đề cập đến chính các bạn, trong các bạn. Và dĩ
nhiên, không nói đến thân thể các bạn, mũi, tóc hoặc tai của các bạn mà chỉ nói về
những trạng thái tâm của các bạn. Nó chỉ thuần túy đề cập đến sự tác tạo tâm lý, thái
độ của chính các bạn.

Có thể người ta nghĩ rằng Đạo pháp chỉ là những hiện tượng văn hoá của người Đông
phương, thực ra nó không phải như vậy. Cái gì chúng ta thường nghĩ khi chúng ta nói về
“văn hoá”? Đó chỉ là tâm tương đối, những huyễn ảo được chia sẻ của một xứ sở hay của
một loại người nào đó, vì thế nó chẳng có một chút liên hệ gì với Đạo pháp. Nếu chúng
ta diễn tả ý nghĩa này ra thêm một chút thì chúng ta có thể nói rằng Đạo pháp là “văn hoá”
của sự phát triển tâm linh của riêng chúng ta. Nhưng điều này đã không được hiểu theo ý
nghĩa thông thường của chính nó.
Khi người ta nói Đạo pháp bị giới hạn bởi văn hóa thì đó chỉ là những lời thoái thác, một lý
do để bào chữa. Họ nói: “Lạt ma đang giảng về văn hóa riêng của ngài. Cái đó khác với
của tôi, tôi là người Hoa kỳ, không thể thực hành được.” Tâm thường viện cớ như vậy
để thoái thác. Có những ngày hầu như bạn không nhìn thấy, không suy nghĩ được một điều
gì rõ ràng, hãy quan sát xem cái gì đã xẩy ra trong những ngày đó. Thay vì tìm hiểu nguồn
gốc những sai lầm thì bạn lại nghĩ: “Tôi không thể thực hành Đạo hôm nay.” Phản ứng này
thường xẩy ra phải không? Nhưng nó cho chúng ta biết chúng ta chẳng hiểu thực sự Đạo
pháp là gì. Cũng giống như vậy, khi chúng ta nói chúng ta không thể theo Đạo vì chúng
ta là người Hoa Kỳ, vì chúng ta đang ở nước Hoa Kỳ.

Đạo pháp không phải là văn hóa của bất cứ người nào. Nó không phải của Hoa Kỳ, cũng
chẳng bao giờ trở thành như vậy. Cũng chẳng phải là văn hóa phàm tục của người Tây
Tạng. Đây không phải là cái mà chúng tôi muốn giảng dậy. Cả văn hóa của Tây tạng cũng
như của Hoa Kỳ đều là phàm tục, đều thuộc về luân hồi, nên chắc chắn chúng tôi không
muốn chỉ cho các bạn cách trao đổi cho nhau. Đạo pháp chỉ dậy con đường tìm hiểu nội
tâm đang nằm sâu trong những lãnh vực tầm thường, mê tín, huyễn ảo của bất cứ một
người nào, một quốc gia nào.

Văn hóa của Hoa Kỳ là gì? Mỗi buổi sáng vừa thức dậy, lập tức tâm của bạn đi vào bếp, ý
nghĩ đầu tiên của bạn là, “Cà phê của tôi đâu?” Rồi đến buổi trưa bạn muốn một cái
hamburger. Đó là những cái tạo nên văn hóa của Hoa Kỳ, phải vậy không? Văn hóa phàm
tục đó chẳng có liên hệ gì với Đạo pháp. Đạo pháp không có liên hệ gì với những tập
tục, thói quen bên ngoài của xã hội.

Làm thế nào bắt đầu một ngày với Đạo pháp? Thay vì để cho bản ngã đi tìm cà phê,
hãy thức dậy một cách có ý thức, chú ý vào những cảm nhận ở bên trong và những hiện
trạng của tâm. Rồi, thiết lập những gì hứng khởi cần phải làm trong một ngày. Như “Mục
đích sống trong ngày hôm nay là gì? Nó phải là cái gì quan trọng hơn uống cà phê. Sống
chỉ vì ly cà phê thì chẳng có gía trị gì. Hãy hướng ngày hôm nay cho việc phát triển tâm bồ
đề là điều rất tốt đẹp, hãy hướng về sự bình an của con đường giải thoát và giác ngộ để ơn
ích cho tất cả mọi người.” Rồi quyết định, “Từ lúc này đến khi đi ngủ, tôi sẽ ý thức trong tất
cả mọi hành động của tôi qua thân, khẩu và ý. Bằng cách này, tôi sẽ giữ được sự kiểm
soát, tạo được sự an lành cho nội tâm của tôi.”

Nếu chúng ta tạo được một tâm trạng hứng khởi như vậy mỗi buổi sáng, chúng ta sẽ không
phải nhắc đi nhắc lại cái gì phải làm trong ngày hôm nay? Cũng chẳng cần phải nghĩ, “Tôi
phải cố gắng làm một người có đạo, tôi phải sống tốt lành.” Với một động lực thúc đẩy và
một sự quyết tâm như vậy thì một ngày an lành sẽ đến. Nếu có người nào tức giận, la
mắng bạn, bạn cũng sẽ giữ được sự kiểm soát và bình tĩnh. Đây không phải là chúng ta tự
hành hạ chúng ta, đè nén sự giận dữ của chúng ta. Sự tự kiểm soát sẽ đến một cách tự
nhiên và êm diụ, nó đến từ sự nhận thức sâu xa về nguồn gốc của những sai lầm và
những bất lợi của tính xấu.

Nhưng bạn không được tin những điều này chỉ vì tôi nói hoặc người nào khác nói. Hãy
tự thẩm định những điều này và tự tìm hiểu xem nó thấm vào trái tim bạn như thế nào. Nếu
bạn thực hiện như vậy mỗi ngày, tôi chắc chắn rằng bạn sẽ tìm ra phương pháp mà Đạo
pháp đang kiểm soát, nó rất thực tế.
Một phương pháp rất hữu hiệu trong việc kiểm soát cả nội tâm lẫn ngoại cảnh là niệm mật
chú. Một trong những câu mà chúng tôi thường lặp đi lặp lại của Phật Thích Ca là Om muni
muni maha muniye svaha. Niệm mật chú có hiệu qủa vì nó giúp tâm chúng ta yên
tịnh và an bình, nó tự động hướng về một điểm. Nó làm cho tâm chúng ta tiếp nhận được
những rung động vô cùng vi tế, do đó nó thăng tiến sự cảm nhận của chúng ta. Âm
vang, chấn động của chúng có tác dụng tẩy trừ tận gốc rễ những năng lực xấu để cho bản
tính chân thực tự nhiên của sự vật được hiển lộ ở tâm trong sáng của chúng ta. Nhờ tụng
niệm những câu mật chú siêu việt, chúng ta có thể thanh tẩy tất cả những nguồn năng
lực ô nhiễm đang ở trong thân, khẩu và ý của chúng ta.

Tụng niệm mật chú có phải là một phương pháp thiền định siêu tuyệt hay không, nó tùy
thuộc vào bạn và trí tuệ của bạn. Sức mạnh của mật chú không phải tự chính nó. Nó hoàn
toàn không tự động mang đến cho tâm linh bạn những đại ơn đại phước, dù là một chủng
tử thánh thiện rất cổ kính nào đó khi bạn tụng lên cũng cần phải trầm tư suy tưởng. Nghĩ
rằng mật chú tự nó có sức mạnh là một ý niệm vô cùng sai lầm.Thí dụ, nếu bạn đang say
sưa chìm đắm trong tham dục mà tụng niệm những câu mật chú có giá trị cứu độ thâm
sâu thì cũng chẳng có ơn ích gì. Đó cũng chỉ là một sinh hoạt khác của luân hồi, của phàm
tục mà thôi.

Giả sử bạn đang ngồi niệm mật chú mà cứ nghĩ đến miếng sô cô la, “ Trời, sô cô la, sô cô
la, sô cô la thật tuyệt!” Nếu bạn qúa bận tâm vì những ý tưởng này hoặc bị quyến rũ bởi
những thức ăn ngon trong chợ thì làm sao bạn có thể thực hành thiền đúng đắn được?
Làm sao nó có thể đem lại an lạc cho bạn? Để cho mật chú có hiệu qủa, bạn cần phải giữ
cho tâm bạn an tịnh và ít nhất bạn cũng phải tập trung được một khoảng thời gian.

Thêm vào đó, bạn cần phải có lòng hứng khởi, hăng say thanh khiết. Không cầu mong một
ơn phước nào cho riêng bạn. Mục đích chân thật của mật chú, cũng như những sự thực
hành khác của Đạo pháp, là đem lại ơn phước cho người khác, cho muôn loài chúng sinh,
chứ không phải cho riêng bạn. Thay vì cứ nghĩ, “Tôi muốn, tôi muốn, tôi muốn,” hãy cố
gắng phát triển lòng ao ước thanh khiết là vì lợi ích cho người khác. Bạn không nên
qúa thông minh, qúa xúc động, qúa vội vã mong cầu trong vấn đề này. Chỉ nên hồi
hướng ơn phước của mật chú cho muôn loài rồi nguồn năng lượng này sẽ tự nhiên tuôn
trào.

Mật chú cũng có sức mạnh giải trừ bệnh tật. Thí dụ, đôi khi người ta bị mất trí, bị điên vì
những năng lượng xấu quấy phá tâm ô nhiễm của họ. Những chấn động thanh
khiết của mật chú có thể mang tâm của họ trở lại tình trạng an bình, êm dịu, nó có khả
năng trị bệnh tâm thần. Vì một thân xác bệnh tật cũng ảnh hưởng đến những tình trạng tâm
sẵn có ô nhiễm nên mật chú cũng có khả năng chữa trị và điều dưỡng nó. Chẳng có gì gọi
là ma thuật trong vấn đề này. Khoa học đã chứng minh và đang áp dụng lối trị bệnh này.

Ý nghĩa câu mật chú của Đức Phật Om muni muni maha muniye svaha là “Hãy kiểm soát,
hãy kiểm soát, hãy kiểm soát thật nhiều.” hoặc “Hãy tỉnh thức, hãy tỉnh thức, hãy tỉnh
thức thật nhiều.” Các bạn có thể cho rằng Phật giáo quá chú trọng đến sự kiểm soát,
sự tỉnh thức và cảm thấy tất cả các lạt ma đều nói, ”Tâm huyễn ảo của các bạn đầy ắp
những tật xấu nên các bạn phải hạn chế nó tối đa.” Chúng tôi không có ý nói như vậy. Hơn
nữa, nếu buổi sáng chúng ta có quyết tâm như vậy thì nguyên một ngày chúng ta mới tự
động để ý đến những hành động của chúng ta hơn. Một khi đã có quyết tâm thì cái đồng
hồ nội tâm sẽ tự chạy một mình. Vì đã hướng dẫn nguồn năng lượng chủ yếu đi theo một
chiều nên chắc chắn những năng lượng phụ sẽ phải tuôn chạy theo cùng một đường.

Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói hướng dẫn tâm cũng như “cầm cương hướng dẫn ngựa
chạy.” Ngựa là con vật có sức mạnh, nếu bạn không có cách kiểm soát nó, nó sẽ chạy lung
tung, có khi còn hại cho chính nó và những con vật khác nữa. Nhưng nếu chúng ta biết
cách điều khiển năng lượng và sức mạnh của con ngựa thì nó có thể hoàn thành được rất
nhiều công việc khó khăn. Chúng ta cũng áp dụng như vậy cho chính chúng ta. Nhìn một
cách khoa học, thân, khẩu và ý của chúng ta chẳng có gì khác hơn là để chuyên
chở, chuyển đạt những hình thái năng lượng khác nhau. Vì thế, nếu buổi sáng chúng
ta hướng dẫn nguồn năng lượng này bởi sự quyết tâm của chúng ta thì những năng
lượng của thân, khẩu và ý sẽ đi theo cùng một đường. Do đó sự kiểm soát mà chúng ta đề
cập đến ở đây giống như người phi công không hạn chế mà là hướng dẫn chiếc máy bay
của anh ta. Sự phức tạp, sự khó khăn của ngôn từ không diễn tả được những gì của nội
tâm. Nhưng nếu chúng ta thực hành thiền định và đạt được những nhận thức từ nó thì chữ
“kiểm soát”, “tỉnh thức” sẽ không còn là một trở ngại cho chúng ta nữa.

Phần quan trọng nhất của một ngày chính là buổi sáng. Giả sử bạn thức dậy với một cơn
nhức đầu hay với một cái chân đau, thay vì để ý đến những đau đớn này, điều đầu tiên bạn
nên làm là hãy có một quyết tâm vững mạnh giữ thái độ hứng khởi về tâm bồ đề cho suốt
cả một ngày. Ngày đầu tiên chắc chắn là khó khăn. Nhưng từ những ngày sau nó sẽ dễ
hơn, dễ hơn với niềm hứng khởi thanh khiết này. Đây là kết quả của sự trau dồi, phát triển
và điều kiện hóa tâm của chúng ta theo một chiều hướng thánh thiện.

Không cần biết chúng ta đã đọc bao nhiêu về Đạo pháp, nhưng hầu như chúng ta đã không
dành ra được một ngày để kinh nghiệm những sự thực tập như vậy. Nhưng nếu chúng
ta cố gắng thì ngay lập tức tâm của chúng ta sẽ cảm nhận được niềm an lạc này. Khi quý vị
bắt đầu thực hành tâm linh, dĩ nhiên, quý vị sẽ làm theo những gì quý vị đã nghe, đây là
những điều nên làm khi bắt đầu bước vào bất cứ một con đường thực hành tâm linh nào.
Nếu chúng ta không chấp nhận điều kiện này, chúng ta sẽ mất kiên nhẫn trong việc thực
hành và chúng ta sẽ nghĩ chúng ta bị bắt buộc rồi sẽ mất hết sự tự nhiên. Có thể quý vị sẽ
cầu phép lạ khi quý vị ngồi thiền, rồi không thấy phép lạ xẩy ra, quý vị sẽ tự hỏi, “Tại sao tôi
lại chạy theo phong tục kỳ lạ này của người Phương đông?” Thế rồi tâm tiêu cực của quý vị
sẽ trả lời, “Anh đang bắt chước kiểu ngồi của một lạt ma ngoại quốc đấy. Chẳng có gì hay
khi làm như vậy. Tại sao anh không ngồi thoải mái trên ghế như những người Mỹ khác?”

Do đó chúng ta nên thận trọng với tâm của chúng ta. Nó biết rõ phải làm thế nào để hợp
lý hóa tại sao không nên theo những phương pháp với mục đích thuần hóa nó. Chúng
ta cần phải hiểu rõ tính hoài nghi của cái tâm nghi ngờ này mà tiếp tục thực hành một
cách kiên nhẫn bền bỉ và vững chắc.

Một điều khác cũng cần phải nhận định là trong cùng một lúc có hai cái tâm cùng làm việc
trong chúng ta. Thí dụ, trong lúc quét nhà, một cái tâm chú ý đến việc quét nhà còn một cái
tập trung vào việc tụng kinh. Điều này không có nghĩa là hai tâm mâu thuẫn nhau hoặc
việc tụng kinh của bạn là không chân thành. Ngay trong lúc thực hành Đạo, chúng ta cũng
vẫn đang sống trong trần gian và đang có những sinh hoạt liên hệ. Có nhiều điều chúng
ta cần làm để sống, như kiếm tiền, pha trà, uống cà phê, nấu ăn, ...vân vân... Chúng
ta không nên bỏ những sinh hoạt này. Hãy nhận định một cách đơn giản rằng chúng chỉ có
những giá trị tương đối trong dòng hiện hữu, trong đời sống thường ngày. Do đó, trong lúc
làm công việc quét nhà tâm của chúng ta cũng vẫn thực hành tâm linh được.

Có những phương pháp hướng dẫn việc thực hành tâm linh này. Mật chú là năng lượng,


nhưng không phải là năng lượng tầm thường. Nó thuần túy thanh tịnh, xuất phát từ
trí tuệ đơn thuần. Vì thế, nếu tâm của chúng ta cũng khởi phát ra từ nguồn năng
lượng thanh tịnh này thì chúng ta vẫn an lạc mặc dầu chúng ta đang làm những công việc
trần gian của kiếp luân hồi. Theo chiều hướng này thì tâm như một đại dương, tự tính của
nó trầm lặng mặc dù vẫn có những làn sóng nhấp nhô ở trên mặt.

Nếu chúng ta có trí tuệ, chúng ta có thể chuyển hóa năng lượng của những dòng sinh


hoạt thường ngày của chúng ta – như mầu sắc, tình cảm, ...vân vân...—thành an lạc. Như
vậy những năng lượng ở bên ngoài của một cái gì mà chúng ta nhận thức được sẽ không
có khả năng bắt tâm của chúng ta khởi lên lòng ham muốn, hấp dẫn, gợi cảm hoặc
những sinh hoạt tiêu cực khác. Hơn thế nữa, tâm của chúng ta còn có thể kiểm
soát và chuyển hóa những hoàn cảnh này, những sinh hoạt này thành thánh thiện, đạo
đức. Với sự hướng dẫn, tỉnh thức và kiểm soát này, chúng ta sẽ không còn diễn dịch, biện
minh cho những hiện tượng khác nhau trong sự bám víu và cố chấp nên không còn cơ hội
để những vọng tưởng xuất hiện nữa. Chúng ta sẽ không còn bị cảnh thổi lên dìm xuống
khi đối diện với những cái tốt xấu, với những cái ưa thích hoặc ghét bỏ.

Ở điểm này có thể có những câu hỏi như “ Nếu bạn thánh thiện hóa những sinh hoạt,
những đối tượng như vậy hoặc chuyển hóa chúng thành một cái gì khác, bạn có chắc rằng
bạn sẽ không tạo ra một huyễn tượng tâm thần khác không? Làm sao một phương
pháp (phương pháp cũng là huyễn ảo, Dg) lại có thể xóa bỏ được sự thật?” Người Tây
phương thật là thông minh, nên những câu hỏi như vậy rất thường xẩy ra. Để trả lời, tôi xin
đặt một câu hỏi khác,” Phải chăng những cái mà bạn nhìn thấy, thật sự nó ‘tốt’ hoặc
‘xấu’?” Quý vị nghĩ rằng những cái mà chúng ta nhìn thấy tốt hoặc xấu thực sự nó như vậy,
làm sao chúng ta biết nó như vậy? Tôi không nghĩ rằng quý vị sẽ hài lòng khi trả lời câu hỏi
này. Quý vị có thể nói, “Bởi vì tôi cảm thấy đúng.” Nhưng tại sao quý vị cảm thấy như vậy?
“Bởi vì tôi nhìn nó bằng con mắt của tôi.” Tôi lại hỏi, “Vậy cái gì làm cho con mắt của quý vị
nhìn là luôn luôn đúng? Quý vị có luôn luôn nhìn được sự thật bên ngoài sự phóng tưởng,
sự vọng tưởng của tâm thần không?” “Không, dĩ nhiên là không,” rồi quý vị trả lời tiếp,
“nhưng lần này chính mắt tôi nhìn thấy là đúng.” Làm sao quý vị biết được? Tôi bảo
đảm với quý vị là sẽ không có một câu trả lời nào tuyệt đối đúng cho câu hỏi này. Chúng
ta có thể suy nghĩ cả một đời, nhưng không thể nào có được một câu trả lời hoàn toàn thỏa
mãn.(1)
 

_____________________________________________________

(1) Chú thích của người dịch:

Để nói lên tính cách huyễn ảo của tất cả mọi hiện tượng, kể cả những phương pháp thiền


định và để phá chấp đến tuyệt cùng, Milarepa, một thánh tăng của Tây Tạng ở thế kỷ 11
nói:
 
 Kẻ nào vướng mắc trong huyễn ảo
 Kẻ đó lầm lẫn trong thiền định.
 Nếu ngươi biết chúng không là chướng ngại
 Mà chỉ là sự thị hiện
 Của tâm rỗng lặng
 Thì ngươi đã bị phỉnh lừa trong thiền định.
 Đó là căn nguyên của tất cả mọi lầm lạc
 Tất cả đều xuất hiện trong tâm.

 Lại nữa,
 Thiền định là một ảo nghĩ
 Không thiền định cũng là một ảo tưởng
 Chúng giống nhau cho dù người thiền hay không thiền.

 Trí phân biệt là mầm mống của mọi sai lầm


 Trong tất cả chẳng có gì là tất cả
 Trong quan điểm chẳng có gì là quan điểm
 Đó là tính thể của tâm.

 (Một trong hàng ngàn bài thơ đạo Milarepa để lại cho thế gian. Đọc toàn bài thơ ở
phần phụ lục.)
______________________________________
 
 

Đừng để mất một điểm nào trong vấn đề này. Câu hỏi này không khó vì nó chỉ là một điểm
u tối của triết lý, chúng huyễn ảo. Nó không hoàn toàn là một rắc rối, một khó khăn về lý
thuyết, nhưng nó đến từ kinh nghiệm của chúng ta. Vấn đề là chúng ta không thể nào nhìn
được bản tính tuyệt đối của mọi hiện tượng. Không chấp nhận điểm này thì rất khó mà nói
về sự thật. Khi tôi hỏi, “Làm sao quý vị biết được cái gì quý vị nhìn là thật hay giả?” thì
đừng nghĩ, “Lạt ma đang hỏi tôi một câu hỏi khó. Chỉ có ngài mới trả lời được.” Nó không
phải như vậy. Không có ai có thể giấu quý vị câu trả lời chân thật. Chỉ khi nào chính quý vị
kiểm chứng được những kinh nghiệm của quý vị về cái mà quý vị gọi là sự thật thì lúc đó
quý vị mới bắt đầu đồng ý về vấn đề này.

Chuyện gì đã thường xẩy ra ở nước Mỹ khi một người da đen và một người da trắng xung
đột với nhau. Thực sự họ đã không nhìn ra được toàn diện vấn đề. Thật ra, người da trắng
đã sơn phết một quan niệm lệch lạc về người da đen và ngược lại. Rồi, dựa trên lối nhìn
lệch lạc này, họ hành động một chiều, cứng nhắc cho nhau. Tại sao sự kỳ thị này lại có sức
mạnh ảnh hưởng đến tâm của họ? Thực ra, đây chỉ là những vọng tưởng bệnh hoạn,
những phóng tưởng tâm thần mà tất cả những vọng tưởng này, những phóng tưởng này
chẳng có liên hệ thực tại nào với cá tính của họ. Nó không phải là cái họ nhìn mà là cách
họ nhìn, điều này đã tạo ra sự khác biệt, điều này đã tạo ra sự kỳ thị. Hoàn toàn chỉ là
những điều tưởng tượng. Những điều tưởng tượng chứ không phải là những điều được
dậy bảo; đó là một phần văn hóa của họ. Vì thế khi tôi nói về sự chuyển hóa sự thật tương
đối của bất cứ một sự kiện nào bằng cách thành lập những quán tưởng (tưởng
tượng) thích ứng là tôi đã không nói về một điều gì mới lạ hay khác lạ mà đây chính là
những điều mà con người vẫn thường làm. Đã có những sự kiện ảnh hưởng sâu xa trong
tâm của chúng ta nên khi được thanh tẩy, khi được chuyển hóa bằng những động lực thích
ứng thì chắc chắn sẽ đạt được nhiều ơn ích, nhiều thành quả.

Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng khi ánh sáng mặt trời rọi vào căn phòng đen
tối thì ngay lập tức bóng tối sẽ biến mất. Không có một sự nghi ngờ gì cho sự kiện này phải
không? Khi chúng ta quán tưởng Đức Phật Thích Ca cũng vậy, ánh sáng trí tuệ, như ánh
sáng mặt trời của Ngài sẽ chiếu soi tâm ta. Chiếu soi một cách tự nhiên trong tâm
hồn chúng ta và sẽ trở thành một sự hướng dẫn. Khi sự quán tưởng của chúng ta về Ngài
trở nên mạnh và trong sáng – thân của Ngài không phải là thân xác thịt nhưng đó chính là
sự thị hiện của Pháp Thân Phật – trong khoảng 5, 10 phút thì thật là ơn ích, thật là hữu
hiệu. Không cần phải tụng niệm, chỉ quán tưởng cũng đủ rồi.

Hãy tưởng tượng chúng ta đang đi dạo phố tại New York với những cửa hàng đầy quần áo
đẹp đủ màu, thật là hấp dẫn trong những khung cửa sổ, nó đánh thức lòng ham
muốn của chúng ta làm tâm chúng ta bấn loạn. Ngay tại đó chúng ta cũng có thể chuyển
biến những năng lượng này vào ánh sáng trí tuệ của Phật hay nếu chúng ta biết
cách, chúng ta cũng có thể hóa giải nó vào trong tính không của chính nó. Qua phương
pháp này, mỗi khi chúng ta nhận thức được tính tham nổi lên qua những bộ quần áo,
chúng chỉ là những trò huyễn ảo của tâm bình thường, do đó nó chẳng có một giá trị nào
với tâm chân thật, vì thế bất cứ cái gì huyễn ảo xuất hiện thì cũng sẽ tự động tan biến. Sự
khó khăn, lòng tham, sẽ được hóa giải. Nếu không như vậy, tâm của chúng ta cứ bám chặt
vào vọng tưởng rồi nghĩ: “Ôi chao, đẹp quá, ước gì nó là của tôi,” chúng ta sẽ mang
cái hình ảnh này suốt cả ngày.

Nếu chúng ta dừng lại và suy nghĩ thâm sâu chúng ta sẽ nhận ra sự thật này đang diễn
ra. Chúng ta cũng có thể cho là “ Lạt ma này nói nhiều quá, những gì ông ta nói toàn là giả
tưởng, chẳng có căn bản gì cả.” Nhưng chúng ta cũng đừng chấp nhận hay từ chối một
cách mù quáng. Tốt hơn, hãy kinh nghiệm nó, đừng phê phán tốt hay xấu. Như chúng
tôi đã trình bày trước kia, Đạo pháp không quan tâm đến quá khứ hay tương lai mà chính
là ở ngay giây phút hiện tại. Vậy hãy tự kiểm chứng những lời dậy bảo này và cố gắng tìm
ra giá trị ở trong đó.

Có thể có những nghi ngờ ở điểm này. Quý vị có thể nghĩ: “Tôi dùng phương pháp này để
hóa giải những đối tượng đẹp và hấp dẫn một cách dễ dàng. Nhưng còn những vấn
đề quá rắc rối, cực kỳ khó khăn thì sao? Như có người tấn công tôi, gây sầu khổ cho tôi,
trong trường hợp này tôi phải làm gì?” Đúng là một quan tâm khá quan trọng. Được, nếu
quý vị thực sự tỉnh thức, thực sự biết kiểm soát thì ngay cả những sự kiện vô cùng khó
khăn cũng có thể hóa giải trong Đạo pháp.

Việc đầu tiên chúng ta phải làm khi có những liên hệ khổ đau với một người nào hay sự vật
nào thì hãy nhớ rằng một phản ứng xấu, tiêu cực sẽ không bao giờ mang lại kết quả, không
bao giờ giải quyết được vấn đề. Sự hối hận, sự tự vệ, lòng mong muốn trả thù... sẽ không
hóa giải được gì, không giúp ích gì. Chúng chỉ làm cho chúng ta tức giận hơn, bấn loạn
thêm. Hãy bình tĩnh nghĩ về những kinh nghiệm ở quá khứ sẽ giúp cho chúng ta biết đây
là sự thật. Những xúc cảm và những ý nghĩ tiêu cực chỉ dẫn đưa chúng ta đến đau
khổ trong tương lai, điều vô cùng quan trọng là hãy hướng về những phản ứng tích
cực, trong sáng.
Vì thế, thay vì để ý đến những phiền não, giận ghét, hãy nhìn thẳng vào tâm ta, hãy nhìn
sâu vào bên trong, bên ngoài xem cái gì, sự kiện gì đang xẩy ra. Hãy tự nhủ: “Khoan, đợi
một chút, bình tĩnh lại. Cái này rồi sẽ qua đi.” Nếu chúng ta có thể cầm giữ sự nóng giận lại
trong một vài giây, tâm của chúng ta sẽ trong sáng hơn. Ở trạng thái này chúng ta có thể
hiểu thấu được vấn đề một cách tinh tế hơn, đúng hơn.

Nên nhớ rằng mỗi một sự kiện đang xẩy ra bây giờ đều có nguyên nhân. Có thể đây là
những hậu quả mà chúng ta phải lãnh nhận vì những hành động xấu của chúng ta đối với
người khác trong quá khứ. Vì thế, chúng ta nên nghĩ rằng chúng ta đang trả dần những
món nợ cũ. Ngay cả những sự kiện gây đau khổ cho chúng ta, chúng ta cũng nên nghĩ
rằng đây là những ơn phước. “Cho dù người nào hay bất cứ gì đang làm tôi khổ, thì đây
cũng chỉ là sự thị hiện của Đạo pháp, giúp cho tôi thăng tiến trên đường tìm giác ngộ. Nếu
tôi có thể học được gì trong những đau khổ này thì sẽ giúp tôi phát triển thêm lòng từ bi
đến những người đang khổ đau và giúp tôi tránh được những hành động gây ra khổ đau
cho chính tôi, hơn nữa nó sẽ mang lại hạnh phúc cho những người đã cho tôi những giây
phút bực bội này. Nếu không có những người đối xử với tôi như là một đứa trẻ thì làm sao
tôi có thể trưởng thành trong tình cảm và trong tinh thần được.” Với những cảm nghĩ như
vậy, chúng ta có thể chuyển hóa những sự giận dữ, những sự bực bội của chúng
ta thành lòng từ mẫn chân thành, trong một chiều hướng hiểu biết thâm sâu.

Hình như phương pháp này không quen thuộc với quý vị chút nào, có vẻ còn đi ngược lại
với hoàn cảnh và đôi khi có người còn cho là điên khùng nữa. Nhưng đối với những
người chân thành thực hành Đạo pháp thì đây là một phương pháp vô cùng quý
báu để tinh tấn. Họ nhận thấy những phương pháp bình thường và thông thường đều
không có giá trị để đối trị những vấn đề rắc rối, chúng chỉ dẫn đến đau khổ hơn hoặc bất
mãn hơn mà thôi. Tuy nhiên chấp nhận tất cả mọi tình trạng khổ đau để tu tập, để hiểu
thấu bản tính của tâm là phương pháp tuyệt diệu nhất.

Chúng ta không thể sống nếu cắt đứt tất cả mọi liên hệ với người khác, đặc biệt trong một
thành phố lớn như thế này, mặc dầu có những liên hệ gây ra phiền toái. Nhưng nếu chúng
ta cứ tiếp tục chung sống, tiếp xúc với nhau, chúng ta sẽ học được rất nhiều bài học quí
báu. Nói đúng ra, chẳng có ai là hoàn toàn, còn rất nhiều điều chúng ta cần phải tinh tấn,
còn rất nhiều vấn đề chúng ta cần phải tìm hiểu.

Bài học này chỉ có giá trị cho những người đang sống gần nhau, còn liên hệ giao tiếp với
nhau. Nhiều khi có những va chạm nhưng họ đã phải cố gắng tìm hiểu nhau để trau dồi mối
tương quan. Mặc dù có những người cố tình gây ra chuyện xấu, nhưng chẳng sao cả nếu
còn có những người đang sống chân thành với Đạo pháp. Những điều xấu xa sẽ trở
thành ơn phước nếu họ biết cách chuyển hóa chúng.

Mặc dù lòng từ mẫn có giá trị cao quí, nhưng chúng ta cũng không thể luôn luôn mở
rộng tình thương mà nói: “ Tôi thương anh, lúc nào tôi cũng đối xử tốt với anh.” Rất có
thể chúng ta làm như vậy vì chúng ta muốn được bảo vệ, được mọi người để ý hoặc muốn
được an toàn. Nếu chúng ta cứ để chúng ta bị lệ thuộc vào người khác theo kiểu này
thì chúng ta không bao giờ khám phá ra được khả năng của chúng ta và cũng không bao
giờ có thể phát triển được năng khiếu nào. Đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta không có tài,
không được mạnh, thực sự tâm của con người có một sức mạnh phi thường. Chúng ta chỉ
cần thể hiện sức mạnh đó ra bằng hành động. Thay vì để mình trong tình trạng chán
nản, chúng ta hãy dùng nó vào việc thực hành tu tập. Như vậy, chúng ta có thể chuyển
hóa, buồn thành vui, chán nản thành hăng say, bất mãn thành an lạc giải thoát. Trong
những bài học thực hành tu tập của người Tây Tạng gọi là “chuyển hoàn cảnh thành con
đường giải thoát.”

Thường thường khi gặp phải những chuyện bất bình, chúng ta nói: “Chán quá!” Nhưng nếu
nhìn thật sâu vào vấn đề, hỏi đi hỏi lại cái gì làm chúng ta chán trong hoàn cảnh này, có lẽ
chẳng có câu trả lời nào làm chúng ta hoàn toàn vừa lòng. Không ai có thể chứng
minh được cái gì thật sự là “chán.” Vì thế, bất cứ gì mà tâm thường tình cho là bất mãn,
chán nản, khó chịu đều có thể chuyển hóa được bởi Đạo pháp trong con đường thực
hành tâm linh. Chắc chắn là được, ngay cả những gì khủng khiếp nhất.

Đối với những người Tây phương thì không có gì đáng nghi ngờ khi nghe bài giảng chuyển
xấu thành tốt này. Trong những nước thiếu văn minh, người ta khó có thể hiểu được con
người có thể chuyển biến cái này thành cái kia. Nhưng ở đây, truyền thống giáo dục của
quý vị thường chú trọïng đến vấn đề thay đổi những môi trường sinh sống ở bên ngoài. Do
đó, khi quý vị nghe nói về những phương pháp chuyển hóa tâm linh để ảnh hưởng đến
những tình cảm ở bên ngoài, quý vị sẽ hiểu ngay nó là gì và sự hiệu nghiệm của nó như
thế nào.

Phần nhiều những người ở Hoa Kỳ đi làm việc cho người khác. Họ có rất nhiều cơ hội
để học hỏi và tiến thân mà những người khác không có. Vào buổi sáng, trước khi đi làm,
quý vị nên xác định lại tính năng động, sự hăng hái của mình. Hãy nhớ đến đặc tính thâm
nhập tự nhiên của khổ đau mà phát triển lòng từ bi đến tất cả những người mà quý vị sẽ
gặp. Rồi nên dành sức lực của mình để mang lại lợi ích cho người khác. Chúng
ta nên quyết tâm làm việc và hoàn thành công việc một cách chăm chỉ, hăng say. Với
một căn bản vững chắc như vậy, chúng ta sẽ không còn lười biếng, buồn bực hoặc tức tối
mỗi khi lái xe đến sở làm. Không mong muốn chiếm phần lợi ích trong bất cứ lãnh vực nào,
không lừa dối chủ, chúng ta làm việc trong tinh thần tương thân tương trợ lẫn nhau.
Với thái độ đó, một ngày làm việc của chúng ta sẽ vô cùng giá trị và hữu ích thay vì
mất thời giờ vô ích.

Thời nay có rất nhiều người muốn những hình thức luyện tập thân thể khác nhau.
Những hoạt động như tăng sự kiểm soát thân thể, cần phải đạt nhiều tiện ích... nhưng học
để kiểm soát tâm rồi từ đó đem lại lợi ích cho người khác là một sự thực hành vô cùng quí
giá. Có một kỷ luật tâm linh như vậy, chúng ta có thể tinh tấn rất nhanh và rất xa trong
mọi lãnh vực kể cả con đường dẫn đến giải thoát. Một trong những thành quả vĩ đại của
việc áp dụng kỷ luật này là để chuyển hóa tất cả những sinh hoạt bình thường hằng
ngày vào con đường tu tập tâm linh.

Trong thời Đức Phật Thích Ca, có một ông già rất muốn thực hành Đạo. Nhưng đáng tiếc
ông ta quá ngu muội, không thể hiểu được những lời dậy của Phật. Những đệ tử của
Ngài thất vọng nên không đủ kiên nhẫn để dậy ông ta. Vì thế, lần lượt hết thầy này đến
thầy khác từ giã ông; quá chán nản, ông muốn gieo mình xuống sông tự tử để chấm
dứt cuộc đời đau khổ này.

Nhìn thấy tình trạng đáng thương không thể vượt qua của ông già, Đức Phật liền gửi ngay
một đệ tử thân cận nhất của Ngài đến khuyên can và nói với ông rằng chính Phật sẽ chỉ
dậy cho ông cách thực hành tâm linh. Khi ông già được dẫn đến trước mặt Ngài, Đức
Phật nói rất nhỏ nhẹ với ông : ”Ông không cần phải học hỏi sâu xa, không cần phải cầu
nguyện cũng không cần phải tụng kinh. Ông chỉ cần quét chùa và cố gắng giữ nó càng
sạch càng tốt. Tuy nhiên, mỗi khi quét ông hãy tự nhủ, ‘ Hãy sạch ! Hãy hết mùi
hôi thối !’ Ông chỉ cần thực hành như vậy cũng mang lại rất nhiều ơn ích.”

Ông già rất cảm kích về sự thực hành đơn giản này và bắt đầu hăng say thực tập. Ông
quét chùa mỗi ngày, thực hành chăm chỉ theo đúng sự chỉ dẫn. Rồi đến một ngày, trong lúc
đang quét bụi và rác, ông ta nghĩ, « Bây giờ tôi cảm thấy tôi thực sự hiểu được ý nghĩa của
lời Phật dậy ‘ Hãy sạch ! Hãy vất rác đi’ Bụi bặm không phải ở bên ngoài ; nó ở bên
trong. Mùi hôi thối không phải ở đây, trong ngôi chùa này; nó ở ngay trong tôi, không phải
chỉ quét chùa mà thôi, tôi cũng phải làm sạch cả tâm của tôi nữa. » Bang ! Ánh sáng nội
tâm bắn thủng bức màn vô minh của ông già làm ông bừng tỉnh hiểu được tứ diệu đế, nền
tảng của toàn thể con đường. Vì thế, chỉ trong một tích tắc ông ta đã chuyển hóa từ một
ông già quét rác u mê thành một người có trí tuệ.

Qua câu chuyện này, quý vị chưa nhận thức được từng chi tiết của sự phát triển trí


tuệ trong Đạo pháp. Điều quan trọng là tất cả những gì chúng ta học và kinh nghiệm được
đều trực tiếp đi ngay vào tâm chúng ta rồi ngay lập tức nó chuyển thành hành động. Như
vậy, dù là chỉ nghe một lời dạy đơn giản cũng có thể mở toàn diện tâm ta. Cái gì chúng
ta nghe được không quan trọng bằng cách chúng ta nghe như thế nào. Oâng già nhận
được một lời chỉ dẫn vô cùng đơn giản nhưng ngay khi nhận thức được nó có liên
hệ đến cuộc đời của ông, ông đã thực tập và tinh tấn nhanh chóng.

Tương tự như vậy, chúng ta nên chuyển hóa tất cả những gì chúng ta nhận được – âm
thanh, mùi vị, mầu sắc... vân vân... – vào Đạo pháp. Làm thế còn tốt hơn là vồ chụp
hoặc xua đuổi chúng. Nếu chúng ta nhìn sự vật từ bên trong lẫn bên ngoài với một cái
nhìn toàn diện thì cuộc đời của chúng ta sẽ giá trị biết bao. Đừng nhìn thế giới bằng con
mắt tham sân si thì thế giới sẽ xuất hiện vô cùng trong sáng.

Thường thường những vọng tưởng của chúng ta mang lại nhiều trở ngại, nhiều rắc rối hơn
là chính sự vật, hơn là chính đối tượng. Thí dụ, khi đi dạo trên những đường phố ở New
York, chúng ta thường nghĩ thành phố này quá dơ bẩn. Thực sự không hoàn toàn đúng
như vậy. Chính vì những bất an ở trong tâm, sự vội vã tấp nập của xe trên đường phố và
những cảnh sinh hoạt nhộn nhịp đã làm chúng ta dễ dàng tức giận với những người chung
quanh. Nếu chúng ta dừng lại nói chuyện với một người nào, chúng ta sẽ nhận thấy tâm
của họ cũng y hệt như chúng ta. Đó chỉ là những xét đoán tầm thường, bề ngoài, dựa
trên những xúc cảm thoáng qua về thành phố New York và dân chúng của thành phố này.
Tâm của chúng ta đã đầy ắp những ý niệm sai lầm như vậy. Có người tin rằng những ý
niệm sai lầm này có trong thiên nhiên và họ đã học được từ người khác hoặc ở một nơi
nào đó. Điều này không hoàn toàn đúng như vậy. Những ý niệm sai lầm không truyền từ
tâm này qua tâm kia, cũng không nhất thiết đến từ một chuỗi sai lầm nào đó. Đúng ra, tâm
-- bị ảnh hưởng bởi nghiệp và vọng tưởng đi vào một thân xác đầy ô nhiễm -- đã sẵn mang
đầy vọng tưởng, như tin rằng “cái tôi ” là một thực thể độc lập và có thật. Những tin
tưởng sai lầm này không có dính dáng gì đến ngôn từ hay tư tưởng. Đúng ra, nó từ
những nguyên nhân khác. Nó chỉ liên hệ đến ngôn từ hay tư tưởng khi tâm ô nhiễm cố
gắng diễn tả chính nó ra trên bình diện ý thức, khi đó nó dùng ngôn từ để chuyên
chở, chuyển đạt những quan niệm sai lầm của chính nó. Do đó, không nên nghĩ rằng tâm
của chúng ta không có những ý niệm sai lầm bởi vì chúng ta đã không bao giờ học triết ở
trường học.

Nhìn vào tâm để khám phá và điều chỉnh những huyễn ảo của chính nó là một việc


làm đầy thích thú, phải vậy không quý vị? Nếu chúng ta khám nghiệm mọi sự qua lăng
kính Đạo pháp thì chẳng có gì làm chúng ta chán nản cả. Thật là thích thú khi thấy tâm
nhậy bén trong việc sáng tạo và thích ứng với những hoàn cảnh mới. Còn thích thú hơn
nữa khi kiểm soát được tiến trình này và nhìn ra được mọi sự đều có thể chuyển hóa vào
sự thực hành Đạo. Có rất nhiều người, dù có việc làm hay không có việc làm, cảm
thấy không có gì có giá trị để làm trong cuộc đời của họ. Nhưng sự hiểu biết của Đạo
pháp sẽ làm chúng ta rất bận rộn. Vì quán tâm nên chúng ta sẽ bận rộn trong việc học
hỏi những điều mới lạ và cũng biết được chúng rất thực tế (mà trước kia chúng ta không
hiểu được.) Không giống những học trò, họ nhận được sự hiểu biết qua sách vở, không
phải do những kinh nghiệm của đời sống. Thật tốt nếu chúng ta học được trên cả
hai phương diện, sách vở và kinh nghiệm, nhưng qua kinh nghiệm thì có gía trị hơn rất
nhiều.

Được sinh ra là người là một điều vô cùng may mắn. Vì thế, chúng ta có khả năng dùng
sự hiểu biết của chúng ta để phân tích. Sự khác biệt lớn lao giữa con chó và con
người là chúng ta biết khám nghiệm tư cách của chúng ta, con chó không có khả năng này.
Bởi vì chúng ta có thể thẩm định được tất cả những hành động của chúng ta từ tinh
thần đến thể xác là tốt hay không tốt, chúng ta có nhiều cơ hội và trách nhiệm để tự khám
nghiệm những đặc tính của những lỗi lầm và những điều chợt đến của chúng ta. Có khi
những vấn đề này rất khó chia sẻ với những người khác, sẽ có rất nhiều ơn ích nếu chúng
ta khám phá ra được căn nguyên, gốc rễ thâm sâu của những yếu kém của chúng ta. Thật
đáng xấu hổ nếu không biết sử dụng khả năng hiếm có này, mà cứ nhìn đời với một con
mắt mù quáng và không biết phân tích! Vì thế, cho dù sự việc xẩy ra tốt hay xấu, chúng
ta nên kinh nghiệm chúng bằng trí tuệ trong sáng của Đạo pháp, hãy chuyển hóa chúng
vào sự thanh tịnh vô biên của con đường dẫn đến giác ngộ.

Như chúng tôi đã đề cập trước kia, có một số vấn đề đã xẩy ra sau khi một số người Tây
phương qua Đông phương học đạo với Lạt ma hay đạo sư. Có thể họ đã thiếu một số nghi
lễ để hoàn tất sự học hỏi rồi cảm thấy rằng họ không thể thực hành đạo với các vị đó
nữa. Thí dụ, ở Đông phương có những mùa đã được ấn định để tổ chức các nghi lễ cúng
dường. Trong những nghi lễ, trước ảnh tượng các vị đã giác ngộ, chiêng, trống, chuông, tù
và… thường được dùng cùng với những bài tụng niệm, rồi nến, bát nhang, chén nước,
mâm hoa quả, thức ăn cũng được bày ra. Những nghi thức cúng dường như vậy có thể rất
dài và thực sự cần thiết cho những buổi thực hành Đạo của chúng ta.

“Cúng dường” danh từ tiếng Phạn là “Puja”. Tại sao người ta lại cúng một người khác?
Thông thường là để làm vừa lòng người đó. Đó là ý nghĩa thấp, tương đối. Trong Đạo
pháp, cúng dường có một ý nghĩa thâm sâu hơn. Khi chúng ta chuyển hóa tất cả vào
những hình ảnh, âm thanh, mùi vị tốt đẹp.... rồi dâng cúng chúng theo những nghi
thức tượng trưng của tâm giác ngộ thì đó chính là ơn phước cho người cúng dường. Nhờ
tập trung tất cả những năng lượng của chúng ta vào lễ nghi để hướng về tâm giác ngộ
là chúng ta đã đem chúng ta đến gần sự bình an vĩnh cửu và hạnh phúc thường hằng.

Vì thế, chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa đích thực của sự cúng dường là gì. Nó không phải là
những lời tụng niệm cũng chẳng phải là hoa quả mà chính là sự tôn kính, sự chân
thành của chúng ta đặt chúng lên bàn thờ, đây mới chính là tinh túy của sự cúng dường.
Bất cứ hành động nào, bất cứ hình thức thiền định nào mà chúng ta thực hiện đều đem tâm
thức của chúng ta đến gần sự an lạc thường hằng đồng thời phá tan đi những lầm
lẫn và loạn động -- đó mới thực sự là cúng dường. Vì thế, chúng ta không nên nghĩ rằng
không có những nghi lễ Tây Tạng hoặc Aán Độ ở nước Mỹ là chúng ta không thể thực
hành Đạo. Quý vị không cần những âm thanh “ting, ting, ting” của chuông cũng chẳng cần
mõ, tù và hay chiêng trống trong khi cúng dường. Tất cả những gì chúng ta làm –ngay cả
những việc đơn giản như ăn uống – cũng có thể chuyển thành cúng dường. Mục đích chỉ
là gìn giữ sự thanh tịnh.

Thí dụ, ở Mỹ người ta luôn luôn uống một cái gì. Từ khi đến New York tôi không ngừng
uống nước, nóng quá! Từ bây giờ, mỗi khi khát nước hoặc mỗi khi lấy một cái gì để uống,
hãy kiểm soát, hãy nhìn vào tâm chúng ta. Thay vì nuốt nước một cách vô ý thức, hãy lắng
đọng tâm tư một giây và dâng cúng ngụm nước đó cho sự giác ngộ của chúng ta.
Nếu chúng ta đã được dậy bảo về những lời chú, như OM AH HUM, hãy niệm chúng. Nếu
không biết, chúng ta cũng có thể chuyển hóa nước thành những giọt cam lồ thanh
tịnh bằng cách hãy nhìn vào tâm của chúng ta. Vì hướng năng lượng của những gì chúng
ta uống lên cấp độ cao hơn, như không vì mục đích ích kỷ, không vì sự khoan khoái thân
xác, mà chúng ta tự nhiên nhận được sự cứu độ. Cả một tiến trình chuyển hóa chỉ diễn ra
trong một phút mà hiệu quả của sự cúng dường tồn tại lâu dài trong tâm của chúng ta hơn
mức độ bình thường.

Vị đại bồ tát Long Thọ nói rằng chúng ta không nên dùng thân xác hiếm có này vào
những mục tiêu vô giá trị. Vì thế, mỗi khi nuôi dưỡng chăm sóc nó, đừng làm vì những lý
do hư vọng như làm đẹp để quyến rũ người khác. Thay vì như thế, hãy nghĩ rằng chúng
ta bảo trì và trau dồi sức khỏe để đem lại lợi ích cho người khác và cũng cho chính chúng
ta. Hãy dùng toàn thể năng lượng để phát triển con đường tâm linh và đạt mục tiêu tối hậu.
Vì thế, hãy chuyển hóa tất cả những năng lượng đi vào thân xác của chúng ta cho con
đường an lạc miên viễn dẫn đến giác ngộ.

Cách tốt nhất để dùng những nguồn năng lượng một cách toàn hảo là luôn luôn tỉnh
thức và ý thức bất cứ cái gì đang xảy ra cho chúng ta. Mỗi khi tỉnh thức và ý thức như vậy
thì dù một cử chỉ đơn giản nhỏ mọn cũng được chuyển hóa vào Đạo pháp. Thí dụ,
khi chúng ta ăn uống, hãy để ý đến những cảm giác đang xẩy ra trong hệ thần
kinh của chúng ta. Khi Đức Phật Thích Ca còn sống, không có việc cúng dường bên ngoài
như vậy. Chính thiền định cũng là cúng dường. Cũng như vậy, khi chúng ta ăn, uống trong
sự tỉnh thức thì cũng như chúng ta đang thiền định, tất cả mọi hành động đều là cúng
dường Đạo pháp.

Những rung cảm ở bên trong và những cảm giác ở bên ngoài đều dấy lên trong bất cứ
hành động nào, cử chỉ nào chúng ta làm. Khi chúng nổi lên, đừng nghĩ ngay, “cái này tốt,”
hoặc “cái này xấu.” Phản ứng ngay như vậy chỉ gây ra những bối rối và lầm lẫn, sự
thật thường bị che giấu như vậy. Thay vì thế, hãy ý thức, hãy tỉnh thức trên tất cả những
rung cảm ở bên trong cũng như bên ngoài rồi hãy kiểm chứng chúng bằng con mắt trí
tuệ. Thực hành đều đều như vậy sẽ phát triển trong tâm của chúng ta một thói quen tỉnh
thức, dần dần sẽ thanh tẩy tâm chúng ta mỗi ngày mỗi sạch hơn, sạch hơn.

Muốn ý thức tất cả những hành động một cách hoàn toàn, chúng ta cần phải tu sửa
những hành vi cử chỉ của chúng ta. Vì thế khi ăn, uống chúng ta nên ăn trong yên lặng,
đừng nói nhiều quá, đừng ồn ào quá. Có thể bàn luận những đề tài đơn giản còn những đề
tài phức tạp, khó khăn hãy để lúc khác. Nếu không làm như vậy tâm của chúng ta sẽ bị dồn
dập hết vấn đề này đến vấn đề khác, sẽ đi vòng quanh thế giới, mọi chuyện sẽ chằng
chịt với nhau đến nỗi không còn tập trung vào cảm giác ăn uống được nữa. Vì thế, muốn
có một bầu không khí yên tĩnh, hãy bớt nói chuyện càng nhiều càng tốt.

Tuy nhiên, khi đã ăn xong và tới giờ tranh luận, chúng ta hãy chuyển tâm của chúng


ta vào tranh luận, hãy chuyên chú vào đó. Đừng nghĩ về bữa ăn vừa qua cũng đừng nghĩ
đến bữa ăn sắp đến. Đừng nói chuyện lung tung cũng đừng chuyển đề tài quá nhanh, quá
nhiều. Điều này chỉ làm những thói quen bừa bãi trong tâm chúng ta tăng lên mà thôi, vì nó
đã nằm sâu trong đó. Chúng ta đã huân tập biết bao hành động vô ý thức qua muôn
vàn kiếp mà không hề chú tâm vào chân lý trong từng giây phút của thực tại. Vì thế không
thể nắm được trọn vẹn vấn đề, không nhìn được toàn diện mà chỉ là những chắp nối trộn
lẫn với nhau rồi đi vào một cái tâm lơ đãng, không biết tập trung. Do đóù chúng ta cần
phải huấn luyện tâm, phương pháp tốt nhất để bắt đầu là hãy tập trung vào cái gì chúng
ta đang làm, đừng để tâm bị phân tán, bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng không cần
thiết hoặc hão huyền.

Kinh nghiệm đã cho chúng ta biết tập trung vào tâm là một điều vô cùng quan trọng.
Nếu chúng ta học quá nhiều vấn đề trong một lúc thì rất khó mà hoàn tất được một cái nào.
Khả năng của chúng ta sẽ bị phân tán làm chúng ta không thể nào hiểu được điều chúng
ta đang học. Nhưng khi chúng ta tập trung vào một đề tài trong một thời gian thì tâm
của chúng ta sẽ trở nên trong sáng để dễ dàng hấp thụ vấn đề. Vì thế, thay vì để tâm lang
thang hết vấn đề này đến vấn đề khác, chúng ta nên tập trung vào một thì dễ kiểm soát tiến
trình tinh thần của chúng ta hơn.

Hãy phát triển sự kiểm soát này trên tất cả những sinh hoạt của chúng ta và đặc biệt chú ý
đến thân, khẩu và ý, đừng để chúng tự do dẫn chúng ta đi lòng vòng. Hãy cố gắng tập
trung vào một điểm, vào một hành động. Điều này rất tốt cho tâm của chúng ta, từ
đó chúng ta có thể giảm bớt được những xung khắc, những lầm lẫn ở nội tâm và dần
dần chúng ta có thể phá vỡ được những thói quen đã kết tụ trong quá khứ. Những thói
quen này chỉ dẫn chúng ta đến đau khổ, vì thế chỉ có thể chiến thắng chúng bằng cách hãy
phát triển tâm tỉnh thức.

Tất cả những điều chúng ta đang đề cập đến ở đây như làm việc, ăn, uống và tỉnh thức chỉ
để giúp chúng ta có một giấc ngủ ngon. Hầu như lúc nào chúng ta cũng đi ngủ với một tâm
trạng bất an hoặc không được kiểm soát. Đi ngủ trong một tâm trạng an bình, tỉnh
thức, thanh tịnh thì tốt hơn là một tâm trạng bất an, bất tịnh. Nếu chúng ta có thể thiền
được ở trên giường thì rất tốt, vì chúng ta có thể chuyển tất cả giấc ngủ vào Đạo pháp.
Trong những lời giáo huấn của Đại thừa có giải thích rất tỷ mỷ về làm cách nào để đạt
được ơn ích trong giấc ngủ và giấc mơ. Nhưng ở đây chúng ta có thể nói rằng nhờ biết tập
trung mà chúng ta có thể tin chắc giấc ngủ của chúng ta sẽ an lành.

Đã rất nhiều lần, sau một ngày đầy bực bội, có thể chúng ta đã tự hỏi: “Tôi không thể ngủ
được. Tôi phải làm gì đây?” Tâm bị phân tán ra rất nhiều hướng, vì bực bội vẫn còn vang
vọng trong đầu, làm sao mà ngủ được. Thiền định có thể giúp tâm chúng ta trở lại yên
tịnh và chúng ta có thể ngủ được. Rất nhiều người trong chúng ta đã làm công việc này và
họ đã có rất nhiều kinh nghiệm về sự thật này. Đã bao nhiêu lần quý vị đi vào giấc ngủ
khi thiền định, ngay cả thiền lúc ban ngày?

Hãy kiểm điểm xem những lần mất ngủ, những lần chờ đợi giấc ngủ đến, chúng ta như thế
nào? Có thể chúng ta đã chú ý đến những hành động của chúng ta đã làm trong ngày,
nhưng nếu chúng ta không kiểm điểm lại trước khi đi ngủ, chúng ta đã làm mất một dịp để
hiểu những gì chúng ta đã tạo ra. Có thể chúng sẽ trở lại trong giấc mơ và làm lu mờ đi
những gì chúng ta đã học được, những ý tưởng về sự tỉnh thức sẽ bị tràn ngập bởi
những năng lượng xấu.

Một trong những lý do cần thiết để có một giấc ngủ an lành là những giấc mơ phải có giá
trị và có hiệu lực hơn lúc thức. Quý vị có thể không tin điều này, quý vị nghĩ: “Ban ngày tôi
có thể ý thức vào những hành động của tôi. Tôi có thể biết và kinh nghiệm được mọi thứ,
từ thể xác đến tinh thần. Nhưng ban đêm tâm thức của tôi mơ mộng, nó tạo ra những
trò huyễn ảo.Vì thế tình trạng vô ý thức này có giá trị hơn thế nào được?”

Lý do mà tôi đề cập tới vấn đề này là mặc dầu chúng ta nghĩ trong lúc tỉnh chúng ta đã chú
ý vào những công việc của chúng ta nhưng những cảm quan khác của chúng ta vẫn hoạt
động, vẫn mở, vì thế chúng vẫn phản ứng với những gì chúng nhận được. Tuy nhiên trong
lúc mơ, năm giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi và xúc giác không hoạt động. Thí dụ,
khi chúng ta nhìn một vật trong lúc mơ thì chúng ta nhìn bằng con mắt của tâm chứ không
phải bằng con mắt thường. Khi thiếu vắng sự hoạt động của những giác quan bên ngoài thì
tâm của chúng ta được tập trung toàn diện một cách tự nhiên. Do đó, thí dụ, hiệu quả của
giấc mơ về lòng tham có thể mạnh hơn và ghi dấu ấn sâu hơn vào tâm của chúng ta hơn là
sự xúc động bình thường tới tim trong đời sống hàng ngày. Dĩ nhiên, sự kiện này cũng xẩy
ra y như vậy với những ấn tượng của tâm linh.

Quý vị hãy tự suy nghĩ và tự cảm nghiệm sự thật này, đừng tin những gì tôi vừa trình bày
bởi vì chúng là lời nói từ một lạt ma. Hãy kinh nghiệm và hãy nhìn những kết quả bằng
sự kiểm soát tâm của quý vị, ngày cũng như đêm. Nếu chúng ta thực hành một cách thành
thật, chúng ta sẽ kinh nghiệm được kết quả trong một thời gian rất ngắn, vậy hãy bắt đầu
ngay bây giờ.

Nếu chúng ta hiểu Đạo pháp một cách đúng đắn, chúng ta sẽ không còn lo lắng, hối


hả về con đường giác ngộ cuối cùng nữa. Không thể có chán nản trên con đường thực
hành của chúng ta, như nghĩ “ Tôi sẽ tự tử nếu tôi không giác ngộ ngay bây giờ.” Đừng bao
giờ hạ quyết tâm như vậy, việc này chỉ đem đến những điều bất lợi mà thôi. Hãy tỉnh
thức trên tất cả mọi hành động của chúng ta và giữ lòng hăng say của chúng ta càng thanh
tịnh càng tốt. Bằng cách này chúng ta sẽ đạt được mục đích một cách tự nhiên.

Tôi rất vui vì được đóng góp một chút hiểu biết vào biển trí tuệ của quý vị. Tôi hy vọng tất
cả quý vị sẽ thực hành Đạo Pháp trong đời sống hàng ngày của quý vị. Điều này thật là quý
báu, thật là giá trị.

PHỤ LỤC

THƠ MILAREPA
Trong ngày thiền định thứ hai ở Linba Draug; một bà thần cốc, Draug Srin Mo, hiện ra quấy
phá Milarepa. Sau một vài lời đe dọa và trao đổi ý kiến, bà thần cốc này đã tôn Milarepa
làm thầy và xin qui y, cảm hứng sự qui y của bà, Milarepa liền hát bài ca này.
 
 

 Đại chân thật
 

 Hỡi Phật tổ
 Hỡi thầy tôn kính Marpa
 Con kính lạy dưới chân Ngài.

 Ta không phải một ca sĩ


 Nhưng vì ngươi, hỡi loài yêu tinh
 Hôm nay ta hát cho ngươi
 Bài ca “Đại Chân Thật”.

 Sấm sét, tia sáng và những đám mây


 Đang diễn ra trong bầu trời
 Lóe lên rồi lịm tắt (trong bầu trời).

 Cầu vồng, sương mù và hơi nước


 Đang khởi lên trong bầu trời
 Rồi tan biến đi.

 Mật ngọt, cây trái và ngũ cốc


 Từ đất mà sinh ra
 Rồi lại trở về đất.

 Hoa lá và rừng rậm


 Mọc lên từ đất
 Cũng lại trở về đất.

 Những làn sóng biển và những ngọn thủy triều


 Nhấp nhô trong đại dương
 Rồi lại tĩnh lặng như nước.
 Những ý tưởng, những bám víu và những tham vọng
 Chúng khởi phát ra từ A Lại Da Thức
 Bùng lên rồi lại về đó.

 Tự tỉnh thức, lòng tự hào và sự giải thoát


 Chúng xuất hiện từ bản tính của tâm
 Khuấy động lên rồi lại trở về tâm.

 Cái gì không khởi phát ra


 không dập tắt đi
 Và không được diễn tả
 Cái đó được phát xuất từ Pháp Tính
 Tất cả lại trở về Pháp Tính.
 
 Những ảo tưởng, những ảo giác và những huyễn hoặc
 Tất cả đều là sản phẩm của Yoga
 Chúng xuất hiện rồi lại trở về đó.

 Kẻ nào vướng mắc trong huyễn ảo


 Kẻ đó lầm lẫn trong thiền định.

 Nếu ngươi biết chúng không là chướng ngại


 Mà chỉ là sự thị hiện
 Của tâm rỗng lặng
 Thì ngươi đã bị phỉnh lừa trong thiền định.
 Đó là căn nguyên của tất cả lầm lạc

 Tất cả đều xuất hiện trong tâm.

 Kẻ nào phát hiện được tông tích của tâm


 Sẽ thần cảm được điều không đến và không đi.

 Hãy quan sát tính thể của các sắc


 Ngươi sẽ hiểu được
 Chúng là huyễn ảo của tâm
 Lúc đó ngươi sẽ thấu triệt được cả Không và Sắc.
 Lại nữa,
 Thiền định là một ảo nghĩ
 Không thiền định cũng là một ảo tưởng
 Chúng giống nhau cho dù ngươi thiền hay không thiền.
 
 Trí phân biệt là mầm mống của mọi sai lầm
 Trong tất cả chẳng có gì là tất cả
 Trong quan điểm chẳng có gì là quan điểm
 Đó là tính thể của tâm.

 Lời dạy bảo về quán sát Pháp Tính


 Là nhìn thấu xuất vào không gian.
 Draug Srin Mo, ngươi hãy nhìn qua bờ bên kia của ý tưởng
 Mà đi vào cõi tịch liêu của thiền định
 Ngươi hãy hành động tự nhiên
 Hãy để tự khởi phát
 Như ý thức của nguyên lý.

 Bên ngoài ngôn ngữ là sự thành đạt


 Tự do bên ngoài hy vọng và sợ hãi
 Ta không có thì giờ để hát cho vui
 Và đùa nghịch lời vô nghĩa.
 Hãy trôi chảy theo Pháp
 Đừng hỏi và nêu nhiều ý kiến
 Hãy ngồi thoải mái
 Và tĩnh lặng an nhiên !!!

 Đây là những lời khùng điên


 Ta ca hát như lời ngươi cầu khẩn
 Nhưng nếu ngươi chân thành thực hành chúng
 Niềm Đại An Lạc sẽ đến với ngươi
 Khi khổ đau và đói khát.

 Hãy chia sẻ và giúp đỡ


 Những người đến với ngươi.

 Milarepa
 Vô Huệ Nguyên dịch

 
NĂNG LỰC TRÍ TUỆ
Nguyên tác Wisdom Energy của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche
Do Wisdom Publications xuất bản.
Vô Huệ Nguyên dịch theo ấn bản lần thứ 25.
Email: vohuenguyen@yahoo.com
 

XIN HỒI HƯỚNG TẤT CẢ CÔNG ĐỨC ĐẾN MUÔN VÀN CHÚNG SINH TRONG MƯỜI


PHƯƠNG PHẬT VÀ MƯỜI PHƯƠNG BỒ TÁT, CON KHÔNG GIỮ LẠI MỘT CHÚT GÌ
CHO RIÊNG CON.

You might also like