You are on page 1of 25

Chương III Phân loại đất

3.1 Mở đầu
Từ những khái niệm về kết cấu và cấp phối hạt của đất đã được đề cập ở chương 2, chúng ta sẽ đưa
ra các tiêu chuẩn để phân loại đất trong chương 3. Ở mục 2.4, cát và sỏi được xem như là những hạt thô
trong khi bụi và sét thì được coi như là những hạt mịn. Trong mục 2.5, chúng ta đã đưa ra bảng phân chia
cỡ hạt và nhóm hạt cho đất (hình 2.3) theo các tiêu chuẩn ASTM hay AASHTO, vv...Tuy nhiên, những
thuật ngữ chung chung như cát hay sét bao hàm sự thay đổi lớn của các đặc tính kỹ thuật của đất. Vì vậy,
cần thiết phải có những thuật ngữ chuyên sâu hơn để thuận tiện sử dụng trong thực tế. Những thuật ngữ này,
được tập hợp trong hệ thống phân loại đất, và thường được sử dụng vào những mục đích kỹ thuật cụ thể.
Hệ thống phân loại đất có vai trò như là một ngôn ngữ để trao đổi giữa những nhà khoa học. Nó
không những đưa ra phương pháp phân loại dựa theo các đặc trưng kỹ thuật của đất một cách có hệ thống
mà còn giúp cho các nhà khoa học có thể học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Nhưng nó cũng không làm giảm
bớt tầm quan trọng của việc xác định tính chất của đất bằng các thí nghiệm trong phòng hay ngoài hiện
trường. Tuy nhiên, giữa tính chất của đất và hệ thống phân loại lại có mối quan hệ mật thiết. Chính vì vậy,
khi biết cách phân loại đất, người kỹ sư đã hiểu được tương đối chính xác đặc trưng của đất trong trong quá
trình xây dựng, quá trình chịu tải hay trong từng hoàn cảnh kỹ thuật khác nhau. Hình 3.1 minh hoạ vai trò
của hệ thống phân loại đất trong thực tế địa kỹ thuật.

Phân loại và các tính chất


(w, e, ρ, S, GSD, LL, PI...)

Hệ thống phân loại đất


(“ngôn ngữ”)

Tính chất kỹ thuật của đất


(tính thấm, khả năng chịu nén, tính co ngót
và trương nở, sức kháng cắt,.. vv)

Mục đích kỹ thuật


(đường cao tốc, sân bay, nền
móng, đê đập,.. vv)

Hình 3.1: Vai trò của hệ thống phân loại đất trong địa kỹ thuật ứng dụng
Nhiều hệ thống phân loại đất đã được đề xuất trong thời gian qua. Casagrande (1948) đã nhấn mạnh
rằng: “ Hầu hết các hệ thống phân loại đang được sử dụng trong xây dựng có nguồn gốc từ khoa học đất

1
trong nông nghiệp”. Điều đó lý giải tại sao trong những hệ thống phân loại đầu tiên, các nhà khoa học phân
loại đất theo kết cấu và cấp phối hạt của đất. Atterberg (1905) dường như là người đầu tiên đề xuất việc
phân loại đất bằng cách dùng các chỉ tiêu khác. Cuối cùng, năm 1911, Atterberg đã nghiên cứu việc ứng
dụng các chỉ tiêu giới hạn để xác định các đặc trưng của đất hạt mịn (mục 2.7) mặc dù thời gian đó chỉ áp
dụng trong lĩnh vực nông nghiệp. Sau này, Cục Đường bộ Mỹ hầu như đã dựa vào chỉ tiêu gới hạn
Atterberg và các thí nghiệm đơn giản khác để phân loại đất hạt mịn. Casagrande (1948) cũng giới thiệu một
vài hệ thống phân loại mà đã được sử dụng trong một số lĩnh vực như giao thông, xây dựng đường băng,
nông nghiệp, địa chất và khoa học đất.
Ngày nay, chỉ có hệ thống phân loại đất thống nhất (USCS) và hệ thống phân loại của hiệp hội
Đường bộ liên bang và giao thông vận tải Mỹ (AASHTO) được sử dụng rộng rãi trong xây dựng công trình.
Hệ thống phân loại đất thống nhất (USCS) được dùng chủ yếu bởi các cơ quan trực thuộc Chính phủ (các
đơn vị quân đội, Cục nội vụ, Vụ khai hoá), các công ty tư vấn địa kỹ thuật và các phòng thí nghiệm. Với
một số thay đổi nhỏ, hệ thống này cũng được sử dụng tương đối rộng rãi ở Anh và một số nước khác. Trong
khi đó, tiêu chuẩn AASHTO dựa vào việc quan trắc các đặc trưng của đất trong xây dựng đường giao thông
thì được sử dụng bởi Cục giao thông và đường bộ Mỹ. Cơ quan quản lý hàng không liên bang của Cục giao
thông và đường bộ Mỹ cũng có những tiêu chuẩn riêng dùng trong thiết kế đường băng nhưng sau đó cũng
chuyển sang dùng hệ thống phân loại đất thống nhất (USCS).
Cả hai hệ thống phân loại đất USCS và AASHTO đều dễ dàng sử dụng trong thực tế khi mà chúng
ta đã làm quen với các tiêu chuẩn này.

3.2 Hệ thống phân loại đất thống nhất (USCS)


Hệ thống phân loại này được phát triển đầu tiên bởi Casagrande (1948) để ứng dụng trong việc xây
dựng đường băng trong chiến tranh thế giới thứ 2. Đến năm 1952, Casagrande đã sửa đổi hệ thống phân loại
và nó được Vụ khai hoá và các đơn vị quân đội áp dụng trong việc xây dựng đập, nền móng và các công
trình xây dựng khác. Trong USCS, cơ sở để phân loại đất hạt thô được dựa vào cấp phối hạt trong khi các
tính chất kỹ thuật của đất hạt mịn thì phụ thuộc vào tính dẻo. Nói cách khác, đối với đất mà những hạt mịn
(hạt bụi và sét) không làm ảnh hưởng tới tính chất kỹ thuật thì được phân loại theo cấp phối hạt, còn nếu
chúng ảnh hưởng tới tính chất kỹ thuật thì được phân loại theo tính dẻo. Vì vậy, chỉ có phương pháp phân
tích sàng và các chỉ tiêu giới hạn Atterberg là cần thiết trong hệ thống phân loại này.
Bảng 3.1 đưa ra bốn nhóm đất chính gồm: hạt thô, hạt mịn, đất hữu cơ và bùn. Việc phân loại được
thực hiện bằng cách cho mẫu đất qua sàng 75mm, kết quả thí nghiệm được biểu diễn trên hệ toạ độ log hoặc
dùng bảng biểu. Những hạt có đường kính tương đương lớn hơn 300 mm được gọi là đá tảng, còn những
hạt nằm trong phạm vi từ 75mm đến 300 mm được gọi là cuội sỏi. Đất được phân loại là hạt thô, cát hay sỏi
nếu chúng chứa > 50% trọng lượng hạt trên sàng No.200 (0.075 mm) và được phân loại là đất hạt mịn nếu
chúng chứa > 50% trọng lượng hạt dưới sàng No.200. Đất hữu cơ hoặc bùn thì có thể phân biệt dễ dàng
bằng mắt thường. Việc phân chia chi tiết hơn được minh họa trong bảng 3.1.
Những ký hiệu trong bảng 3.1 được kết hợp lại với nhau để tạo thành tên gọi của loại đất tương ứng
trong bảng 3.2.

2
Bảng 3-1: Tên đất, ký hiệu và phạm vi kích thước hạt theo USCS
Hạt và nhóm hạt Ký hiệu Kích cỡ hạt
Đá tảng Không > 300 mm
Đá cuội Không Từ 75 mm đến 300 mm
(1) Đất hạt thô
Cuội sỏi G Từ 75 mm đến sàng No.4
(4.75 mm)
Hạt thô Từ 75 mm đến 19 mm
Hạt mịn Từ 19 mm đến sàng No.4
(4.75 mm)
Cát S Từ sàng No.4 (4.75 mm)
tới sàng No.200 (0.075 mm)
Hạt thô Từ sàng No.4 (4.75 mm)
tới sàng No.10 (2.0 mm)
Hạt trung bình Từ sàng No.10 (2.0 mm)
tới sàng No. 40 (0.425 mm)
Hạt mịn Từ sàng No.40 (4.25 mm)
tới sàng No.200 (0.075 mm)
(2) Đất hạt mịn
Hạt mịn Kích thước hạt nhỏ hơn kích thước mắt
sàng No.200 (0.075 mm)
Hạt bột, phù sa M (Không có kích thước hạt cụ thể - sử dụng
giới hạn Atterberg)
Hạt sét C (Không có kích thước hạt cụ thể - sử dụng
giới hạn Atterberg)
(3)Đất hữu cơ O (Không có kích thước hạt cụ thể)
(4) Than bùn Pt (Không có kích thước hạt cụ thể)
Ký kiệu phân loại cấp phối Ký hiệu giới hạn chảy
Phân cấp đều, W Cao LL, H
Phân cấp không đều, P Thấp LL, L

Đất hạt thô được phân chia thành sỏi, sỏi pha, cát và cát pha. Chúng được phân loại là sỏi nếu chứa
> 50% trọng lượng hạt trên sàng No.4 (4.75 mm) và được phân loại là cát nếu chứa > 50% trọng lượng hạt
dưới sàng No.4. Sỏi (G) và cát (S) tiếp tục được phân chia thành những nhóm nhỏ hơn, GW and SW, GP
and SP, GM and SM, GC and SC, phụ thuộc vào cấp phối và bản chất các hạt. Đất có chất lượng cấp phối
hạt tốt nếu kích thước hạt thay đổi trong phạm vi rộng, ngược lại đất có chất lượng cấp phối không tốt nếu
kích thước hạt đều nhau hoặc thay đổi trong phạm vi hẹp. Để đánh giá chất lượng cấp phối của sỏi và đất
cát, ta xác định hệ số hạt không đều Cu và hệ số cong Cc từ đường cong cấp phối. Các hệ số này đã được
định nghĩa ở chương 2:
D60
Hệ số không đều hạt: Cu = (2-19)
D10

D302
Hệ số cong: Cc = (2-20)
D10 * D60

3
Trong đó:
D60: đường kính cỡ hạt mà trọng lượng tất cả các hạt nhỏ hơn và bằng đường kính đó chiếm 60%
trọng lượng mẫu đất khô.
D30: đường kính cỡ hạt mà trọng lượng tất cả các hạt nhỏ hơn và bằng đường kính đó chiếm 30%
trọng lượng mẫu đất khô.
D10: đường kính cỡ hạt mà trọng lượng tất cả các hạt nhỏ hơn và bằng đường kính đó chiếm 10%
trọng lượng mẫu đất khô.
Bảng 3-2 (cột 6) đưa ra tiêu chuẩn phân loại cho sỏi và đất cát. Đối với sỏi và đất cát, GW and SW
được phân vào nhóm đất có chất lượng cấp phối tốt nếu chứa <5% trọng lượng hạt dưới sàng No.200 trong
khi GP và SP được phân vào nhóm đất có chất lượng cấp phối không tốt nếu chứa rất ít hoặc không chứa
các hạt mịn.
Đất hạt mịn chứa > 50% trọng lượng hạt dưới sàng No.200 được phân thành hạt bụi (M) hoặc sét
(C) dựa vào giới hạn dẻo và chỉ số dẻo của chúng. Đất hữu cơ (O) và than bùn (Pt) cũng thuộc nhóm này
nhưng không xác định cỡ hạt cụ thể ( Bảng 3-1). Trên hình 3.2, Casagrande (1948) dùng đường thẳng A để
phân loại đất hạt mịn. Nhóm hạt bụi có giới hạn chảy (LL) và chỉ số dẻo (PI) nằm phía dưới đường thẳng A,
còn nhóm đất sét có giới hạn chảy (LL) và chỉ số dẻo (PI) nằm phía trên đường thẳng A. Đất sét hữu cơ (OL
và OH) cũng nằm phía dưới đường thẳng A vì chúng có tính chất tương tự như các loại đất có tính dẻo thấp.
Ngoài ra, dựa vào giới hạn chảy, hạt bụi, sét và sét hữu cơ được phân thành giới hạn chảy cao ( nếu LL >
50%) và giới hạn chảy thấp (nếu LL < 50%). Các loại đất đại diện cho đất hạt mịn được miêu tả trên hình
3.2. Bảng 3-2 ( cột 4 và 5) và bảng 3-3 giúp ta có cách nhìn trực quan trong việc nhận biết và phân loại đất
hạt mịn. Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng, một số tên đất khác nhau gần như có cùng vị trí biểu diễn
trên hình 3.2 vì chúng có tính chất tương tự nhau. Dưới đây là kết quả nghiên cứu của Casagrande (1948) về
các đặc trưng của đất cùng giới hạn chảy nhưng khác nhau chỉ số dẻo hoặc cùng chỉ số dẻo nhưng khác
nhau giới hạn chảy.

Đất có cùng giới hạn chảy Đất có cùng chỉ số dẻo


Tính chất nhưng tăng chỉ số dẻo nhưng tăng giới hạn chảy
Cường độ khi khô Giảm xuống
Độ bền gần PL Tăng lên Giảm xuống
Tính thấm Tăng lên Tăng lên
Tính nén lún Giảm xuống Tăng lên
Tốc độ thay đổi thể tích Không đổi ---
Giảm xuống

4
Bảng 3-2: Hệ thống phân loại đất USCS

5
Bảng 3-2 (tiếp)

6
Hình 3-2 Biểu đồ độ dẻo Casagrande, thể hiện một vài dạng mẫu đất (theo Casagrande, 1948 và Howard,
1977 )
Độ bền và cường độ khô là những tính chất quan trọng để phân loại đất và được nêu ra trong bảng
3-3. Các tính chất còn lại, sẽ được đề cập chi tiết ở các chương tiếp theo.
Các giá trị của chỉ số dẻo PI và giới hạn chảy LL nằm trong phạm vi giới hạn trên của đường thẳng
U cần được kiểm chứng lại một cách cẩn thận. Một số loại đất sét hoạt tính cao như ben-tô-nít nằm ở vị trí
phía trên đường thẳng A và gần kề với đường thẳng U. Các khoáng vật sét chủ yếu trong đất có thể nhận ra
một cách định tính bằng cách sử dụng biểu đồ dẻo của Casagrande ở trong chương 4.
Bảng 3-3: Phương pháp nhận dạng đất hạt mịn hoặc nhóm hạt ngoài hiện trường

Sau khi loại bỏ những hạt trên sàng No.40 và chuẩn bị 1 mẫu đất ẩm có thể tích
khoảng 5 cm3. Cho thêm nước để làm mềm mẫu đất nhưng không nhão quá. Đặt
mẫu đất lên lòng bàn tay, và dùng hai tay rung lắc vài lần. Khi đó, lớp nước sẽ
xuất hiên trên bề mặt của mẫu đất. Tuy nhiên, nếu dùng các ngón tay bóp chặt
Tính trương nở mẫu đất thì lớp nước bề mặt sẽ biến mất, mẫu đất sẽ cứng hơn. Cuối cùng dẫn
đến sự xuất hiện các vết nứt hoặc vỡ vụn. Tốc độ xuất hiện lớp nước bề mặt
(phản ứng khi
trong quá trình rung lắc và biến mất trong quá trình nén chặt giúp ta nhận ra đặc
rung)
tính của hạt min trong mẫu đất.
Đất cát hạt nhỏ sạch cho phản ứng nhanh nhất với tính trương nở trong khi sét
dẻo không có hiện tượng trên. Các đất không chứa hữu cơ có phản ứng ở mức
độ trung bình.

7
Sau khi loại bỏ những hạt trên sàng No.40, cho thêm nước (nếu cần thiết) để chế
bị mẫu đất có trạng thái dẻo. Làm khô mẫu đất bằng lò sấy, ánh nắng mặt trời
hoặc để ngoài không khí tự nhiên rồi kiểm tra cường độ bằng cách dùng các
Cường độ khô ngón tay bẻ hoặc bóp vỡ mẫu. Cường độ này nói lên tính chất và số lượng nhóm
(đặc tính hạt sét trong mẫu đất. Cường độ khô tỷ lệ thuận với tính dẻo của đất.

biến dạng) Đất sét ở nhóm CH cho giá trị cường độ khô cao trong khi đất bụi không chứa
hữu cơ có giá trị rất nhỏ. Cát bụi và bụi gần như có giá trị cường độ khô như
nhau nhưng ta có thể phân biệt bằng cảm giác khi bóp vụn mẫu đất khô. Cát bụi
sẽ cho ta cảm giác sàn sạn còn bụi thì cho cảm giác mịn như bột.

Sau khi loại bỏ những hạt trên sàng No.40 và chế bị 1 mẫu đất ẩm có thể tích
khoảng 0.5 in3. Nếu đất khô, ta cho thêm nước để làm mềm mẫu đất nhưng
không nhão quá.. Sau đó trải mỏng mẫu đất để nước có thể bay hơi rồi dùng
lòng bàn tay lăn thành những dây đất có đường kính 3 mm. Dây đất được gấp đi
gấp lại vài lần làm cho độ ẩm của dây đất giảm dần và tăng dần độ cứng dây đất.
Cuối cùng, dây đất bị đứt gẫy khi đạt tới giới hạn dẻo.
Độ bền Sau khi dây đất bị vỡ vụn, các mẩu đất được vo viên lại và quá trình nhào trộn
(độ sệt gần với được tiếp tục đến khi dây đất bị vỡ vụn.

giới hạn dẻo) Thành phần nhóm hạt sét càng lớn thì độ bền của dây đất gần giới hạn dẻo và độ
cứng của viên đất khi được vo viên lại càng tăng lên. Độ bền yếu của dây đất
gần giới hạn dẻo và sự suy giảm nhanh tính kết dính của viên đất dưới giới hạn
dẻo chỉ ra sự có mặt của các hạt sét vô cơ, độ dẻo thấp hoặc sét hữu cơ và sét
loại kaolin. Các loại đất này có vị trí nằm dưới đường thẳng A.
Đất chứa hàm lượng hữu cơ cao thì có độ bền rất kém và xốp khi gần với giới
hạn dẻo.

Đối với đất hạt thô có chứa hàm lượng hạt mịn hơn 12%, được gọi là GM hoặc SM nếu các hạt nhỏ
thuộc nhóm hạt bụi (các giá trị giới hạn nằm phía dưới đường thẳng A trong biểu đồ dẻo) và được gọi là GC
hoặc SC nếu các hạt mịn thuộc nhóm hạt sét (các giá trị giới hạn nằm phía trên đường thẳng A trong biểu
đồ dẻo). Cả hai loại đất có cấp phối hạt tốt và không tốt đều thuộc những nhóm này.
Loại đất chứa 5% đến 12% trọng lượng hạt dưới sàng No.200 thì được coi như là ở gianh giới giữa
2 nhóm và có ký hiệu ghép đôi. Phần trước của ký hiệu nói lên phần hạt thô có cấp phối tốt hoặc cấp phối
kém, phần thứ 2 mô tả thành phần hạt mịn. Chẳng hạn, nếu một loại đất được phân loại SP-SM có nghĩa
đây là đất cát có cấp phối hạt không tốt và chứa từ 5% đến 12% các hạt bụi. Tương tự như vậy, GW-GC có
nghĩa đây là đất sỏi có cấp phối hạt tốt và chứa các hạt sét, loại đất này được biểu thị ở phía trên đường
thẳng A.
Đất hạt mịn cũng có những ký hiệu ghép đôi. Đương nhiên nếu các giá trị giới hạn của đất nằm
trong vùng gạch chéo ở hình 3.2 (4 < PI < 7 và 12 < LL < 25) thì đất được phân loại CL-ML. Howard
(1977) đề xuất mang tính thực nghiệm rằng nếu các giá trị của LL và PI nằm gần đường thẳng A hoặc gần
với đường LL = 50 thì nên dùng ký hiệu ghép đôi. Do đó, các ký hiệu ghép đôi có thể như sau:
ML-MH
CL-CH
8
OL-OH
CL-ML
CL-OL
CH-MH
CH-OH
Ngoài ra, các ký hiệu ghép đôi cũng có thể dùng cho các loại đất chứa 50% hạt mịn hoặc các loại
đất hạt thô. Trong trường hợp này, các ký hiệu ghép đôi có thể như sau:
GM-ML
GM-MH
GC-CL
GC-CH
SM-ML
SM-MH
SC-CL
SC-CH

Hình 3.3 Chỉ dẫn phân giới các loại đất (theo Howard, 1977)

9
Trình tự các bước phân loại đất theo hệ thống USCS được chỉ dẫn một cách chi tiết trên hình 3.4,
theo phương pháp này loại đất được xác định bằng cách loại các trường hợp chưa phù hợp và đến khi
trường hợp duy nhất còn lại. Việc phân loại đất nên kết hợp với bảng 3-2 và hình 3.4, các bước chi tiết được
thực hiện như sau:

Hình 3.4 Chỉ dẫn phân giới các loại đất (theo Howard, 1977)

10
Hình 3.4 (tiếp)

1. Xác định đất thuộc nhóm hạt thô, hạt mịn hay đất hữu cơ bằng mắt thường hay dựa vào kết quả
phân tích hạt qua sàng No.200.
2. Nếu là đất hạt thô:
a. Thực hiện thí nghiệm phân tích hạt và vẽ đường cong cấp phối. Xác định lượng chứa các hạt dưới
sàng No.4, đất được phân loại là sỏi nếu lượng chứa các hạt trên sàng No.4 lớn hơn và được phân loại là cát
nếu lượng chứa các hạt dưới sàng No.4 lớn hơn.
b. Xác định lượng chứa các hạt dưới sàng No.200, nếu có giá trị < 5% thì ta dựa vào hình dạng của
đường cong để phân loại đất thành GW hay SW (đất có cấp phối tốt) và GP hay SP (đất có cấp phối không
tốt).
c. Nếu lượng chứa các hạt dưới sàng No.200 có giá trị trong khoảng 5% đến 12% thì đất được coi là
ở giữa ranh giới 2 nhóm và sẽ có các ký hiệu ghép đôi tuỳ thuộc vào chất lượng cấp phối hay tính dẻo của
đất (GW-GM, SW-SM...)
d. Nếu lượng chứa các hạt dưới sàng No.200 có giá trị > 12% thì ta xác định các giá trị giới hạn
Atterberg của các hạt dưới sàng No.40 và dùng biểu đồ dẻo để phân loại đất (GM, SM, GC, SC, GM-GC
hoặc SM-SC)
3. Nếu là đất hạt mịn:
a. Xác định các giá trị giới hạn Artterberg của các hạt dưới sàng No.40, nếu giới hạn chảy LL nhỏ
hơn 50% thì đất được phân loại thấp (L) và nếu giới hạn chảy LL lớn hơn 50% thì đất được phân loại cao
(H).

11
b. Đối với đất thuộc phân loại L: nếu các giá trị giới hạn nằm phía dưới đường thẳng A và vùng
gạch chéo trong biểu đồ dẻo thì chúng được xác định bằng màu sắc, mùi vị hoặc bằng sự thay đổi của giới
hạn chảy và giới hạn dẻo khi mẫu đất được sấy khô. Trong trường hợp này đất được phân thành nhóm hữu
cơ (OL) hoặc nhóm vô cơ (ML). Nếu các giá trị giới hạn nằm trong vùng gạch chéo, đất sẽ được phân thành
nhóm CL-ML. Còn khi các giá trị giới hạn nằm phía trên đường thẳng A và vùng gạch chéo thì chúng được
phân thành nhóm CL.
c. Đối với đất thuộc phân loại H: nếu các giá trị giới hạn nằm phía dưới đường thẳng A thì chúng
được phân thành nhóm hữu cơ (OH) hoặc nhóm vô cơ (MH). Khi các giá trị giới hạn nằm phía trên đường
thẳng A thì chúng được phân thành nhóm CH.
d. Khi các giá trị giới hạn nằm trong vùng gạch chéo và gần với đường thẳng A hoặc gần với đường
thẳng LL = 50% thì ta sử dụng các ký hiệu ghép đôi như trên hình 3.3.
Mặc dù hệ thống USCS sử dụng các ký hiệu thuận tiện, nhưng nó không phản ánh đầy đủ tính chất
của đất. Chính vì vậy, các thuật ngữ miêu tả nên kết hợp với các ký hiệu để phân loại đất một cách chính
xác. Bảng 3-4 trình bày một số thông tin hữu ích cho việc mô tả đất.

Bảng 3-4 : Thông tin yêu cầu để mô tả đất

Đất hạt thô Đất hạt mịn

Đối với mẫu đất nguyên dạng, cần cung cấp thông Đưa ra tên gọi đặc trưng của đất. Chỉ ra mức độ
tin về cấu trúc địa tầng, độ chặt, độ ẩm và đặc tính và đặc điểm của tính dẻo, hàm lượng và kích
thoát nước. thước lớn nhất của các hạt thô, màu sắc ở trạng
thái ẩm, mùi vị nếu có thể, tên vị trí hoặc địa chất
Đưa ra tên gọi đặc trưng. Chỉ ra thành phần phần
và một số thông tin phù hợp khác. Cuối cùng đưa
trăm của các hạt cát và sỏi, kích thước hạt lớn
ra ký hiệu loại đất trong dấu ngoặc đơn.
nhất, hình dạng và độ cứng của hạt, tên địa chất
và một số thông tin phù hợp khác. Cuối cùng đưa Đối với mẫu đất nguyên dạng, cần cung cấp thêm
ra ký hiệu loại đất trong dấu ngoặc đơn. thông tin về cấu trúc địa tầng, độ sệt và điều kiện
thoát nước.
Ví dụ:
Ví dụ:
Cát bụi có chứa sỏi, khoảng 20% các hạt thô.
Đường kính hạt lớn nhất là sỏi có hình dạng góc Sét bụi, màu nâu, tính dẻo thấp, chứa lượng nhỏ
cạnh, các hạt cát thô và mịn có dạng cầu hoặc bán cát hạt mịn, nhiều lỗ rỗng thẳng đứng cứng, khô
góc cạnh. Mẫu đất chứa khoảng 15% các hạt mịn và có nguồn gốc hoàng thổ (ML)
không có tính dẻo với cường độ khô thấp, độ chặt
lớn, ẩm và có nguồn gốc cát bồi tích (SM)

Đối với tất cả các loại đất, các đặc trưng như màu sắc, mùi vị và tính đồng nhất cũng cần được quan
sát và mô tả mẫu.
Đối với đất hạt thô, các đặc trưng của đất như hình dạng hạt, hàm lượng khoáng vật, độ phong hóa,
trọng lương riêng hiện trường, độ chặt tự nhiên, mức độ đầm nén và sự có mặt của các hạt mịn cần được
đánh giá một cách cẩn thận. Các tính từ như tròn cạnh, góc cạnh, nửa góc cạnh thường được dùng để mô tả
hình dạng hạt (xem hình 2.5). Độ chặt tự nhiên và mức độ đầm nén của đất được xác định gián tiếp bằng

12
cách dựa vào sức kháng của đất khi đào hoặc thực hiện các thí nghiệm xuyên. Các thuật ngữ như: rất xốp,
xốp, chặt vừa, chặt và rất chặt thường được dùng để mô tả độ chặt tự nhiên của đất hạt thô.
Nếu một loại đất rời nào đó có thể dễ dàng đào xới bằng tay thì có thể coi đất đó ở trạng thái rất xốp
còn nếu phải dùng các thiết bị máy móc để đào xới thì có thể coi đất đó ở trạng thái rất chặt hoặc bột kết.
Với nhóm đất hạt mịn, độ ẩm và trạng thái độ sệt tự nhiên và độ sệt nhào nặn của đất cần được ghi
chép. Độ sệt của đất hạt mịn ở trạng thái tự nhiên thì tương ứng với mức độ đầm nén của đất hạt thô và
thường được xác định bằng cách dựa vào sức kháng khi đào hoặc xuyên. Các thuật ngữ như: rất mềm, mềm,
dẻo, cứng, rất cứng và rắn thường được dùng để mô tả độ sệt (đôi khi từ cũng được dùng đồng nghĩa vơi từ
rắn). Ngoài ra, ta cũng có thể dùng thêm một số chỉ tiêu trong bảng 3-3 như độ trương nở, độ bền và cường
độ khô để miêu tả đất hạt mịn. Môt số kỹ năng khác để phân loại đất bằng mắt thường cần được học và thực
hành trong phòng thí nghiệm. ASTM (1980) và USBR (1974) cũng đưa ra một số kỹ thuật để nhận dạng và
phân loại đất bằng mắt thường.
Ví dụ tham khảo 3.1
Cho kết quả phân tích hạt và các chỉ tiêu giới hạn của 3 mẫu đất như sau:

Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3


Cỡ
sàng
% các hạt nhỏ hơn cỡ sàng

No.4 99 97 100
No.10 92 90 100
No.40 86 40 100
No.100 78 8 99
No.200 60 5 97

LL 20 --- 124
PL 15 --- 47
PI 5 NP* 77

NP*: Không dẻo


Yêu cầu: Phân loại 3 mẫu đất theo hệ thống phân loại đất USCS.
Bài giải: Sử dụng bảng 3-2 và hình 3.4 để phân loại đất.
1. Vẽ đường cong cấp phối hạt của 3 mẫu đất , kết qủa được thể trên hình 3.1:
2. Đường cong cấp phối của mẫu 1 cho ta thấy trên 50% lượng hạt dưới sàng No.200 (60%). Như
vậy, mẫu 1 là đất hạt mịn và ta cần sử dụng các giới hạn Atterberg để phân loại đất. Với giá trị LL = 20 và
PI = 5, mẫu 1 ở vị trí vùng gạch chéo trên biểu đồ dẻo nên đất được phân loại là CL-ML.
3. Ta có thể nhận ra ngay mẫu 2 là đất hạt thô vì chỉ 5% lượng hạt dưới sàng No.200. Vì 97% lượng
hạt dưới sàng No.4 nên mẫu 2 được coi là cát thì chính xác hơn sỏi. Dựa vào bảng 3-2 và hình 3.4, do chỉ
5% lượng hạt dưới sàng No200 nên mẫu 2 nằm ở vùng ranh giới và có ký hiệu ghép đôi như SP-SM hoặc

13
SW-SM tuỳ thuộc vào giá trị của Cu và Cc. Từ đường cong cấp phối hạt, ta có kết quả D60 = 0.71 mm, D30 =
0.34 mm và D10 = 0.18 mm… Như vậy, hệ số không đều hạt Cu là:

D60 0.71
Cu = = = 3 .9 < 6
D10 0.18
và hệ số cong Cc là:

( D 30 ) 2 ( 0 . 34 ) 2
C c = = = 0 . 91 ≈ 1
D 10 xD 60 0 . 18 x 0 . 71

Vì mẫu 2 không thoả mãn các yêu cầu của chất lượng cấp phối tốt được nêu trong cột 6, bảng 3-2,
nên mẫu 2 được coi như có cấp phối không tốt và được phân loại SP-SM (vì các hạt nhỏ của mẫu là hạt
bụi).
4. Mẫu 3 là đất hạt mịn vì chứa 97% lượng hạt dưới sàng No.200. Do giới hạn chảy LL của mẫu đất
lớn hơn 100 nên không thể trực tiếp dùng biểu đồ dẻo (hình 3.2) mà phải sử dụng phương trình của đường
thẳng A trên hình 3.2 để phân loại đất là CH hoặc MH.
PI = 0.73 (LL - 20) = 0.73 (124 - 20) = 75.9
Vì chỉ số dẻo PI của mẫu 3 nằm phía trên đường thẳng A nên mẫu 3 được phân loại là CH.

Hình VD 3.1

14
3.3 Hệ thống phân loại AASHTO
Trong những năm 20 của thế kỷ trước, Cục đường bộ Mỹ đã chỉ đạo thực hiện nghiên cứu mở rộng
về ứng dụng của đất trong xây dựng đường giao thông. Từ những kết quả của nghiên cứu, Hogentogler và
Terzaghi (1929) đã phát triển hệ thống phân loại đường bộ này. Ban đầu, hệ thống phân loại dựa vào đặc
tính ổn định của đất khi sử dụng làm bề mặt đường giao thông hoặc kết hợp với việc rải thêm lớp asphalt
mỏng trên bề mặt. Sau đó, hệ thống đã được chỉnh sửa nhiều lần kể từ 1929 tới 1945 và cuối cùng trở thành
hệ thống phân loại AASHTO (1978). Khả năng ứng dụng của hệ thống phân loại đã được mở rộng xem xét
AASHTO chỉ ra rằng hệ thống phân loại hữu ích nhằm xác định chất lượng tương đối của đất cho một số
lĩnh vực liên quan như đê, nền đường, nền móng. Nhưng cần chú ý đến những mục đích cơ bản khi sử dụng
hệ thống phân loại này trong thực tế (năm 1948,Casagrande đã đưa ra một số nhận xét về vấn đề này).
Tên nhóm hạt phân loại theo hệ thống AASHTO được đưa ra trong bảng 3-5. Đá tảng cần được loại
trừ khỏi mẫu đất khi phân loại, nhưng theo hệ thống USCS thì phải kể đến lượng chứa đá tảng. Hạt mịn
được phân loại là hạt bụi nếu chỉ số dẻo PI nhỏ hơn 10 và là sét nếu PI lớn hơn 10.

Bảng 3-5 Phân chia nhóm hạt sỏi, cát và sét bụi theo hệ thống AASHTO

Nhóm hạt Đường kính hạt

Đá lăn, đá tảng lớn hơn 75 mm


Sỏi từ 75 mm tới sàng No.10 (2.0 mm)
Cát thô từ sàng No.10 (2.0 mm) đến sàng No.40 (0.425mm)
Cát mịn từ sàng No.40 (0.425 mm) đến sàng No.200 (0.075mm)
Bụi-sét (bao gồm bụi và sét) nhỏ hơn 0.075 mm (No.200)

Hệ thống AASHTO phân loại đất thành 8 nhóm chính từ A-1 đến A-8, trong đó gồm có vài nhóm
tiểu nhóm. Các đất trong mỗi nhóm được đánh giá theo chỉ số nhóm mà nó tính toán bằng các công thức
thực nghiêm. Ở đây, ta chỉ cần sử dụng thí nghiệm phân tích hạt và xác định các giới hạn Atterberg. Bảng
3-6 minh hoạ hệ thống phân loại AASHTO sử dụng hiện nay (1978).

15
Bảng 3-6 Phân chia hạt và nhóm hạt theo hệ thống AASHTO

Đất hạt thô nằm trong phân nhóm từ A-1 đến A-3. Đất thuộc nhóm A-1 có hạt cấp phối tốt trong khi
thuộc nhóm A-3 thì ngược lại. Đất thuộc nhóm A-2 cũng là đất hạt thô (nhỏ hơn 35% lượng hạt dưới sàng
No.200), nhưng có chứa một lượng đáng kể hạt bụi hoặc hạt sét. Các nhóm từ A-4 đến A-7 là các đất hạt
mịn, chúng khác nhau cơ bản về giới hạn Atterberg. Hình 3.5 có thể được dùng để xác định phạm vi của
giới hạn chảy LL và chỉ số dẻo PI cho nhóm A-4 đến A-7 và nhóm A-2. Đất chứa hàm lượng hữu cơ cao và
bùn có thể đưa vào nhóm A-8 trong khi với hệ thống USCS chúng được phân loại bằng mắt thường.
Chỉ số nhóm được dùng để đánh giá các loại đất trong nhóm. Nó được rút ra từ thực tế với nhiều
loại đất khác nhau, đặc biệt là trong việc sử dụng đất làm nền đường. Ngoài ra, chỉ số nhóm cũng có thể xác
định từ công thức kinh nghiệm đưa ra trong phần đầu hình 3.6 hay dùng trực tiếp phương pháp toán đồ.

Hình 3.5: Phạm vi giới hạn chảy và chỉ số dẻo của nhóm A-4, A-5, A-6 và A-7

16
Việc phân loại đất theo hệ thống AASHTO không phức tạp. Khi đã có các số liệu cần thiết, ta chỉ
cần đi từ trái sang phải bảng 3-6 và tìm tên chính xác của nhóm bằng cách loại trừ. Theo AASHTO, tên
chính xác của đất là tên nhóm từ trái qua phải đầu tiên thoả mãn các số liệu thí nghiệm. Tên nhóm cũng bao
gồm cả chỉ số nhóm (trong dấu ngoặc đơn), như A-2-6(3), A-4(5), A-6(12), A-7-5(17),...vv.
Hình 3.7 giúp ta hiểu rõ hơn việc phân loại theo hệ thống AASHTO.

Ví dụ tham khảo 3.2


Kết quả phân tích hạt và các chỉ tiêu giới hạn của 2 mẫu đất như sau:
(các đường cong phân bố hạt xem hình 3.1)

Mẫu 4 Mẫu 5
Cỡ sàng
% các hạt nhỏ hơn cỡ sàng

No.4 99 23
No.10 96 18
No.40 89 9
No.100 79 5
No.200 70 4

LL 49 ---
PL 24 ---
PI 25 NP

Yêu cầu: Phân loại đất theo hệ thống AASHTO.


Bài giải:
1. Vì lượng hạt dưới sàng No.200 nhiều hơn 35% nên theo bảng 3-6, mẫu 4 thuộc nhóm A-4 hoặc
cao hơn. Do giới hạn chảy LL = 49 nên mẫu đất có thể là A-5 hoặc A-7, với chỉ số dẻo PI = 25 ta chọn A-7.
Căn cứ vào hình 3.5, mẫu 4 được phân loại là A-7-6.
2. Đối với mẫu 5, do lượng hạt dưới sàng No.200 nhỏ hơn 35% nên thuộc loại đất hạt thô. Tra bảng
3-6 từ trái sang phải, ta thấy mẫu 5 thoả mãn ngay nhóm đầu tiên nên được phân loại là A-1-a.

17
Hình 3.6 Biểu đồ nhóm chỉ số (theo AASHTO, 1978). Hiệp hội đường cao tốc liên bang và giao
thông chính thức, 1978 (Được phép sử dụng)

18
19
Hình 3.7 Sơ đồ phụ trợ quá trình phân loại trong phòng thí nghiệm đối với hệ thống phân loại đất AASHTO (theo Liu, 1970)
3.4 So sánh các hệ thống phân loại USCS và AASHTO
Có thể hiểu được một số điểm khác biệt lớn giữa 2 hệ thống phân loại USCS và AASHTO là do sự
khác nhau về lịch sử và mục đích phân loại. So sánh bảng 3-1 và bảng 3-5, ta thấy ngay sự phân loại khác
nhau cho đất hạt thô. Sự khác nhau cơ bản trong phân loại đất hạt mịn được chỉ ra trên hình 3.5 bằng cách
vẽ đường thẳng A và đường thẳng U lên cùng biểu đồ LL-PI. Hệ thống phân loại AASHTO (1978) cũng sử
dụng biểu đồ LL-PI, nhưng chúng ta phải quay biểu đồ đó 1 góc 90o để dễ dàng so sánh với biểu đồ dẻo của
Casagrande (hình 3.2). Sự khác nhau này là rất lớn. Ngoài ra, còn có sự khác biệt lớn đó là việc dùng chỉ số
dẻo PI = 10 như là một đường để phân chia đất bụi và đất sét. Điều này gần như mang tính ngẫu nhiên và
không phản ánh thực tiễn tính chất kỹ thuật của đất hạt mịn. Al-Hussaini (1977) cũng chỉ ra một số điểm
khác nhau cơ bản của 2 hệ thống phân loại này.
Bảng 3-7 đưa ra so sánh tương quan của các nhóm hạt theo 2 hệ thống USCS và AASHTO.

Bảng 3-7: So sánh tương quan các nhóm hạt giữa hệ thống AASHTO và USCS *

Tên nhóm hạt Tên nhóm hạt tương ứng theo AASHTO
theo USCS Khả năng lớn nhất Có thể Có thể nhưng không chắc chắn
GW A-1-a -- A-2-4, A-2-5, A-2-6, A-2-7
GP A-1-a A-1-b A-3, A-2-4, A-2-5, A-2-6, A-2-7
GM A-1-b, A-2-4 A-2-6 A-4, A-5, A-6,
A-2-5, A-2-7 A-7-5, A-7-6, A-1-a
GC A-2-6, A-2-7 A-2-4, A-6 A-4, A-7-6, A-7-5
SW A-1-b A-1-a A-3, A-2-4, A-2-5, A-2-6, A-2-7
SP A-3, A-1-b A-1-a A-2-4, A-2-5, A-2-6, A-2-7
SM A-1-b, A-2-4 A-2-6, A-6,
A-2-5, A-2-7 A-4, A-5 A-7-5, A-7-6, A-1-a
SC A-2-6, A-2-7 A-2-4, A-6 A-7-5
A-4, A-7-6
ML A-4, A-5 A-6, A-7-5 --
CL A-6, A-7-6 A-4 --
OL A-4, A-5 A-6, A-7-5 --
A-7-6
MH A-7-5, A-5 -- A-7-6
CH A-7-6 A-7-5 --
OH A-7-5, A-5 -- A-7-6
Pt -- -- --
* Theo Liu (1970)

20
Bảng 3-7: (tiếp)

Tên nhóm hạt Tên nhóm hạt tương ứng theo USCS
theo AASHTO Khả nămg nhiều nhất Có thể Có thể nhưng không chắc chắn
A-1-a GW, GP SW, SP GM, SM
A-1-b SW, SP, GM, SM GP --
A-3 SP -- SW, GP
A-2-4 GM, SM GC, SC GW, GP, SW, SP
A-2-5 GM, SM -- GW, GP, SW, SP
A-2-6 GC, SC GM, SM GW, GP, SW, SP
A-2-7 GM, GC, SM, SC -- GW, GP, SW, SP
A-4 ML, OL CL, SM, SC GM, GC
A-5 OH, MH, ML, OL -- SM, GM
A-6 CL ML, OL, SC GC, GM, SM
A-7-5 OH, MH ML, OL, CH GM, SM, GC, SC
A-7-6 CH, CL ML, OL, SC OH, MH, GC, GM, SM

Bài tập:
3.1 Phân loại mẫu đất 4 và 5 trong ví dụ 3.2 theo hệ thống USCS. Giải thích các bước làm, so sánh
với bảng 3-7 và ví dụ 3.1.
3.2 Phân loại mẫu đất 1,2 và 3 trong ví dụ 3.1 theo hệ thống AASHTO. Giải thích các bước làm, so
sánh với bảng 3-7 và ví dụ 3.2.
3.3 Sử dụng các đường cong cấp phối hạt đã cho trong bài tập 2-12 và các giá trị giới hạn Atterberg
của bài tập 2-14. Phân loại mẫu đất từ A đến F, sử dụng 2 hệ thống USCS và AASHTO.
3.4 Phân loại theo USCS đối với các mẫu đất dưới đây:
a. 100% lượng hạt dưới sàng No.4 và 25% lượng hạt trên sàng No.200. Ngoài ra, mẫu còn có một
số đặc điểm sau:
Tính dẻo: từ trung bình đến thấp
Độ trương nở: từ không có đến rất thấp
Cường độ khô: từ trung bình đến cao
b. 65% lượng hạt trên sàng No.4 và 32% lượng hạt giữ trên sàng No.200. Cu = 3; Cc = 1.
c. 100% lượng hạt dưới sàng No.4 và 90% lượng hạt dưới sàng No.200. Ngoài ra, mẫu còn có một
số đặc điểm của sau:
Cường độ khô: từ thấp đến trung bình

21
Độ trương nở: tương đối nhanh
LL = 23; PL = 17.
d. 5% lượng hạt trên sàng No.4 và 70% lượng hạt giữ trên sàng No.200. Tính dẻo thấp, mức độ
trương nở cao.
e. 100% lượng hạt dưới sàng No.4 và 20% lượng hạt giữ trên sàng No.200. Tính dẻo cao, cường độ
khô lớn và không trương nở .
f. 90% lượng hạt dưới sàng No.4 và trên sàng No.200. 10% lượng hạt dưới sàng No.200. Mức độ
trương nở cao. Cu = 3; Cc = 1.
g. 5% lượng hạt trên sàng No.4; 70% lượng hạt dưới sàng No.4 và trên sàng No.200. Cường độ khô
trung bình, độ cứng trung bình, không trương nở. LL = 25; PI = 15
h. 70% lượng hạt trên sàng No.4, 27% lượng hạt giữ trên sàng No.200. Cu = 5; Cc = 1.5.
3.5 Đối với các mẫu đất trong bài tập 3-4, hãy dự báo tính ép co, tính thấm và độ cứng.
3.6 Sử dụng các đường cong cấp phối hạt và giới hạn Atterberg của 16 mẫu đất trong 6 đồ thị trên
hình 3.6. Hãy phân loại đất theo hệ thống USCS (a) và AASHTO (b).

22
Hình P3.6

23
Hình P3.6 (tiếp)

24
Hình P3.6 (tiếp)

25

You might also like