You are on page 1of 94

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VŨ TRƯỜNG

CÁC TỘI PHẠM VỀ CỜ BẠC


TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI –năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VŨ TRƯỜNG

CÁC TỘI PHẠM VỀ CỜ BẠC


TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự


Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI - năm 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
Tác giả luận văn

Đỗ Vũ Trường
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CỜ BẠC .......................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của các tội phạm về cờ bạc .................................. 9
1.2. Phân biệt tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc ................................ 15
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về các tội phạm về cờ bạc ................................................................. 16
1.4. Cơ sở lý luận của định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội phạm
về cờ bạc ............................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CÁC TỘI
PHẠM VỀ CỜ BẠC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI..................................................................... 38
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về các tội phạm về cờ bạc .......................... 38
2.2. Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội nói chung và các tội cờ bạc trên
địa bàn huyện Chư Sê từ năm 2015 đến năm 2019................................................. 43
2.3. Thực tiễn định tội danh các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê từ
năm 2015 đến năm 2019 ........................................................................................ 44
2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện
Chư Sê từ năm 2015 đến năm 2019 ....................................................................... 52
2.5. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt các tội phạm về cờ bạc tại địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai ......................................................................................................................... 57
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC
TỘI PHẠM CỜ BẠC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI ... 62
3.1. Một số yêu cầu cơ bản góp phần không ngừng hoàn thiện và áp dụng đúng
quy định của pháp luật hình sự trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai................ 62
3.2. Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng áp dụng đúng quy
định của pháp luật hình sự về các tội cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai ......................................................................................................................... 64
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT: Cơ quan điều tra

ĐTV: Điều tra viên

HĐXX: Hội đồng xét xử

KSV: Kiểm sát viên

PCTP: Phòng chống tội phạm

PLHS: Pháp luật hình sự

TAND: Tòa án nhân dân

THTT: Tiến hành tố tụng

TNHS: Trách nhiệm hình sự

TNXH: Tệ nạn xã hội

TTHS: Tố tụng hình sự

VAHS: Vụ án hình sự

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

VKS: Viện kiểm sát

XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân gian Việt Nam có câu: “Cờ bạc là bác thằng bần; cửa nhà bán hết, tra
chân vào cùm” đây là bài học vừa mang tính dạy dỗ, vừa để răn đe mà thế hệ đi trước
muốn để lại cho thế hệ sau này về tác hại cũng như những ảnh hưởng khôn lường của
tệ nạn cờ bạc. Tệ nạn cờ bạc diễn ra đã gây ra những nguy hại nghiêm trọng cho cá
nhân người chơi lúc đầu chỉ chơi cho giải trí tuy nhiên có lần một sẽ có lần hai, lần
ba và dẫn đến gây nghiện và khó bỏ làm cho con người mê muội đầu óc và không có
chí hướng làm ăn. Khi những đối tượng chơi cờ bạc luôn hy vọng kiếm được số tiền
lớn từ vận may, rủi thì càng chơi họ càng mất tiền và làm kiệt quệ kinh tế của bản
thân và gia đình, gây ra mâu thuẫn, tan vỡ hạnh phúc gia đình khi tình trạng kinh tế
gia đình càng ngày càng nghèo nàn khánh kiệt. Không những vậy tệ nạn này còn gây
ảnh hưởng đến trật tự, an ninh xã hội khi luôn tụ tập thành những điểm đông người
kéo theo nạn ma túy và mại dâm phát triển .Bên cạnh đó, tệ nạn cờ bạc còn là nguồn
phát sinh của nhiều loại tội phạm như: Tội phạm trộm cắp, cướp giật, lừa đảo... Hiện
nay, các tội phạm cờ bạc như một thứ “dịch bệnh” lan truyền rất nhanh và khó có
khả năng kiểm soát trong xã hội. Thực tế cho thấy những gia đình có bố hoặc mẹ
nghiện cờ bạc thì gia đình đều không yên ấm, tan nát, con cái hư hỏng vì bố mẹ
không còn thời gian quan tâm, nuôi dạy con cái mà chỉ biết dành thời gian kiếm tiền
để đánh bạc và lao đầu vào trò chơi lòng tham ấy. Tội phạm về cờ bạc xuất hiện ở
mọi nơi với sự tham gia của đủ mọi giới tính, nghề nghiệp, thành phần, lứa tuổi và
nếu không có những giải pháp hiệu quả ngăn chặn thì hậu quả của nó là vô cùng
nguy hiểm đến môi trường phát triển lành mạnh của cá nhân nói riêng và cộng đồng
xã hội nói chung.
Chư Sê là một huyện nằm ở phía nam tỉnh Gia Lai, phía Bắc giáp huyện Đak
Đoa, phía Nam giáp huyện Chư Pưh, phía Đông giáp huyện Mang Yang, phía Tây
giáp huyện Chư Prông. Huyện Chư Sê có diện tích tự nhiên 643 km2. Dân số năm
2019 là 110.300 người. Mật độ dân số là 172 người/km2, Chư Sê cách thành phố
Pleiku (tỉnh lỵ Gia Lai) 36 km về phía Bắc. Tuyến quốc lộ 14 nối ngã ba huyện Chư
Sê, tỉnh Gia Lai với các địa phương như: Đăk Lăk, Đăk Nông, Bình Phước, Bình

1
Dương và thành phố Hồ Chí Minh; từ vị trí ngã ba huyện Chư Sê đi theo tuyến quốc
lộ 25 đến thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, kết nối với vùng duyên hải Nam Trung
Bộ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện tăng lên nhanh chóng, giai đoạn từ năm
2015 đến năm 2019 đạt trên 12%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Đến nay, khu vực nông nghiệp giảm còn 45%, công nghiệp xây dựng tăng lên 30%,
thương mại - dịch vụ 25%; thu nhập GDP bình quân đầu người trên 800 USD/năm,
tỷ lệ hộ đói nghèo giảm; thu ngân sách trên địa bàn hàng năm từ 100 tỷ đồng đến 130
tỷ đồng, đứng thứ 2 trong tỉnh. Nhưng như một quy luật bất di bất dịch, sự phát triển
của kinh tế luôn kéo theo những TNXH, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai cũng không
phải là một ngoại lệ. Những năm trở lại đây, nền văn hóa nông thôn trên địa bàn
huyện Chư Sê cơ bản bị xâm nhập bằng những hình thức giải trí được du nhập một
cách nhanh chóng, nhiều TNXH mới xuất hiện như ma túy, mại dâm, vay nặng lãi,
nghiện game online... song hành cùng những TNXH đã tồn tại từ lâu nay có cơ hội
để phát triển như mại dâm, cờ bạc, rượu chè, tụ tập gây gỗ, đánh nhau ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự... Trong những TNXH đó, tệ nạn về cờ bạc nổi lên như một
TNXH mang tính phổ biến, diễn ra hằng ngày và có chiều hướng diễn biến phức tạp,
gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống Nhân dân địa phương được nâng
cao, thu nhập được gia tăng, cộng thêm thời gian nông nhàn còn nhiều đã phát sinh tệ
nạn cờ bạc.
Nhà nước ta đã quy định những tội danh cụ thể liên quan đến tội phạm đánh
bạc trong BLHS với các mức phạt khác nhau căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm của những hành vi cờ bạc. Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền địa phương và các
cơ quan chức năng trên địa bàn đã rất kiên quyết đấu tranh với các tội phạm về cờ
bạc nhưng tình hình tội phạm về cờ bạc tại tỉnh Gia Lai nói chung và huyện Chư Sê
nói riêng vẫn có những diễn biến phức tạp, ngày càng tinh vi, có tổ chức, quy mô
ngày càng lớn. Nhất là khi mà hiện nay khi Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010
của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTP trong
tình hình mới đã đặt ra mục đích “phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm... tạo ra
môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo
vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân” thì nhiệm vụ đấu tranh, xử lý các

2
tội phạm về cờ bạc là bức thiết và cấp bách.
Thực tiễn tình hình tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
đặt ra yêu cầu phải tiếp tục tăng cường đấu tranh với các tội phạm về cờ bạc trong thời
gian tới. Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Các tội phạm về cờ bạc từ thực
tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Nhóm các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về Các
tội phạm về cờ bạc
+ Giáo trình “Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam”
NXB. Chính trị quốc gia, 1994;
+ Giáo trình “Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm”, Khoa Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2017);
+ Bình luận khoa học BLHS năm 1999 của Thạc sĩ Đinh Văn Quế, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
+ Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (2008), Võ Khánh
Vinh, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội;
+ Lý luận chung về định tội danh (2013), Võ Khánh Vinh, NXB. Khoa học xã
hội, Hà Nội;
+ Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung (2014), Võ Khánh Vinh,
NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Ngoài ra còn có những bài viết về vấn đề định tội danh và quyết định hình
phạt, về tội phạm và hình phạt, về cấu thành tội phạm các tội về cờ bạc…. được đăng
trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, tạp chí Toà án
nhân dân, tạp chí Kiểm sát nhân dân. Các công trình nêu trên là cơ sở lý luận quan
trọng không thể thiếu trong việc thực hiện đề tài luận văn, vì đó là những hướng dẫn
lý luận về các vấn đề cơ bản mà đề tài cần làm rõ.
- Nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu
luận văn
Ngoài các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về các tội
phạm về cờ bạc nêu trên, có một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn

3
đề nghiên cứu của đề tài, như:
+ Đặng Minh Tuấn (2019), Các tội về cờ bạc từ thực tiễn tỉnh Nam Định,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
+ Võ Tiến Sỹ (2019), Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
+ Lê Thiên Hà (2018), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội.
+ Phạm Tuấn Đạt (2017), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự Việt
Nam từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội.
+ Nguyễn Ngọc Thạch (2017), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học
xã hội.
+ Đỗ Khắc Thắng (2017), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các tội phạm cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội.
+ Trần Thị Thu Hà (2016), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự
Việt Nam từ thực tiễn huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội.
+ Vũ Thị Len (2013), Tội đánh bạc và Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trên
địa bàn thành phố Ninh Bình. Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
+ Cao Thị Oanh (2002), Phòng ngừa các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn
thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Các đề tài trên đã nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động đấu tranh,
xử lý đối với các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam trên những
phương diện khác nhau, mang tính khái quát cao, tập trung giải quyết một số vấn đề
lý luận về các tội phạm cờ bạc ở những khía cạnh nhất định, nghiên cứu thực tiễn
trên những địa bàn khác nhau. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình, đề tài nào

4
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn các tội phạm về cờ bạc
trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “Các
tội phạm về cờ bạc từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai” làm đề tài luận văn thạc
sĩ không bị trùng lắp với các công trình khoa học đã nghiên cứu từ trước, đồng thời
đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật hình sự
về các tội phạm về cờ bạc.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng PLHS liên quan đến các tội phạm về
cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế,
những vi phạm của việc áp dụng PLHS liên quan đến các tội phạm về cờ bạc trên
thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật hình sự, đấu tranh phòng, chống, xử lý các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá hoạt động
định tội danh đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc từ thực tiễn huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2019.
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển quy định về các tội phạm về cơ
bạc trong PLHS Việt Nam. Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội đánh
bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và đánh giá hoạt động
quyết định hình phạt đối với các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc từ thực
tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2019.
- Làm sáng tỏ những yêu cầu và các giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật, xử lý tội phạm đối với các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc
gá bạc từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2019.

5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định về các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
quy định tại BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
- Các quy định về các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
quy định tại BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Thực tiễn xét xử, đấu tranh với tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
- Các số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm của TAND huyện Chư Sê giai
đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019.
- 30 bản án xét xử sơ thẩm của TAND huyện Chư Sê giai đoạn 05 năm từ năm
2015 đến năm 2019 được thu thập một cách ngẫu nhiên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu về các tội đánh bạc, tội tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai dưới góc độ luật hình sự và TTHS.
+ Phạm vi về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà
nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực
xã hội, mọi hoạt động của nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc
hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, nhà nước pháp
quyền và vấn đề quyền con người. Ngoài ra, luận văn còn được nghiên cứu trên cơ
sở tham khảo các bài viết, các chuyên đề về các tội phạm về cờ bạc được đăng tải
trên các tạp chí, phương tiện thông tin uy tín, chính thống.

6
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh phương pháp luận, để thực hiện đề tài tác giả luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để nghiên
cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn, các văn bản pháp lý
quy định về các tội phạm về cờ bạc, các báo cáo sơ kết, tổng kết của các cơ quan tư
pháp trung ương, địa phương và đặc biệt là của cơ quan tư pháp huyện Chư Sê, tỉnh
Gia Lai trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh giá
những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động đấu tranh, xử lý các tội
phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong giai đoạn 05 năm từ năm
2015 đến năm 2019.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo
sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu của các tội phạm về cờ
bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2019. Sử dụng để
nghiên cứu thực trạng công tác định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội
phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về
đấu tranh PCTP về cờ bạc trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật, các dấu
hiệu của tội phạm, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật. Đây là tài liệu
có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho các học viên
ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu luận văn sẽ là nguồn tài liệu
vô cùng có ích và thiết thực, giúp các cơ quan THTT trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh
Gia Lai xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh,
xử lý có hiệu quả tội phạm về cờ bạc trong thời gian tới. Ngoài ra, luận văn còn là tài
liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến

7
những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự nói chung, các tội phạm về cờ bạc nói
riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục phần
nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về các tội phạm
về cờ bạc
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về các tội phạm về cờ bạc và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
Chương 3: Một số yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy
định của pháp luật hình sự về các tội phạm cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh
Gia Lai.

8
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CỜ BẠC

1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của các tội phạm về cờ bạc
1.1.1. Khái niệm của các tội phạm về cờ bạc
Trước khi tìm hiểu quan điểm pháp lý về đánh bạc và tổ chức đánh bạc. Chúng
ta cần xem xét đánh bạc và tổ chức đánh bạc, gá bạc ở khía cạnh xã hội, trong đời sống
xã hội Việt Nam, ảnh hưởng và những hệ lụy của nó gây ra, dẫn đến việc Nhà nước
phải hình sự hóa các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc và quy định thành tội
phạm, có chế tài, khung hình phạt để ngăn ngừa, hạn chế, loại trừ đánh bạc khỏi đời
sống góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội Việt Nam.
TNXH được định nghĩa là hiện tượng xã hội có tính phổ biến, lan truyền, biểu
hiện bằng những hành vi lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả
nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng, như: mại dâm, nghiện ma tuý, cờ bạc, mê
tín dị đoan... TNXH là cơ sở xã hội của tình trạng phạm tội, là một trong những
nguồn gốc phát sinh tội phạm. Phòng, chống TNXH là nhiệm vụ của toàn xã hội,
phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng những biện pháp đồng bộ, tích cực
và triệt để. Xã hội ngày càng phát triển thì các TNXH cũng gia tăng, một trong các
TNXH đó là đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Như vậy, cờ bạc trước hết là
một hiện tượng xã hội có tính phổ biến, sau đó nó bị lệch “chuẩn”, vi phạm đạo đức
và gây ra những hệ quả xấu trong đời sống dẫn đến phát sinh tội phạm và bản thân
nó cũng trở thành một loại tội phạm cần phải phòng, chống. Hiện nay, các hình thức
đánh bạc rất đa dạng, phức tạp điều này gây ra nhiều khó khăn trong công tác điều
tra và xử lý. Do đó, pháp luật hiện hành đã quy định rất cụ thể về chế tài xử lý đối
với các hành vi này.
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ khái
niệm tội phạm: đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do
người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm

9
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [24, tr.3].
Hiện nay, các tội phạm về cờ bạc được quy định trong Mục các tội phạm khác
xâm phạm trật tự công cộng thuộc Chương XXI các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cụ thể
Điều 321 và Điều 322 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bao gồm ba tội
danh chính: Tội đánh bạc; Tội tổ chức đánh bạc và Tội gá bạc.
- Tội đánh bạc là hành vi đánh bạc do hai hay nhiều người có năng lực TNHS
cố ý thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện
vật với nhau mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy
định trong giấy phép được cấp, tổng giá trị tiền mặt và hiện vật được thua trong cuộc
đánh bạc được chế định tại điều 321 BLHS.
- Tội tổ chức đánh bạc là hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người tham gia
vào việc đánh bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
quy định tại Điều 321 và Điều 322 của BLHS hoặc đã bị kết án về một trong các tội
này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
- Tội gá bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật trự xã hội, đó là
hành vi cho sử dụng địa điểm làm nơi thực hiện việc đánh bạc để trục lợi, tạo điều
kiện cho hành vi đánh bạc, là hành vi không chỉ ảnh hưởng xấu tới gia đình và cá
nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của các TNXH và tội phạm khác.
Hành vi gá bạc có nơi còn gọi là chứa gá bạc hoặc chứa bạc. Dấu hiệu bắt buộc để
xác định có hành vi gá bạc hay không là có thu tiền hồ hay không.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của các tội phạm về cờ bạc
Theo quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tội phạm đánh bạc
và tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm
đến trật tự công cộng, khác với pháp luật của một số nước tư bản quy định cho phép
hoạt động đánh bạc, pháp luật nước ta nghiêm cấm mọi hoạt động đánh bạc dưới bất

10
kỳ hình thức nào và coi đây là hành vi xậm phạm đến trật tự an toàn xã hội.
Hành vi đó do con người cụ thể, đủ năng lực TNHS thực hiện bằng cách dùng
tiền hoặc các lợi ích vật chất khác giải quyết được thua trong các trò chơi dưới bất cứ
hình thức nào, như xóc đĩa, tổ tôm, số đề, cá cược bóng đá… không theo quy định
của nhà nước. Hành vi đó bị truy cứu TNHS khi tổng số tiền và hiện vật dùng để
đánh bạc đạt giá trị nhất định hoặc khi số người tham gia đánh bạc đông đến mức độ
nhất định hoặc trong trường hợp khác theo sự chế định của PLHS. Hình thức lỗi
trong tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc là cố ý. Đó là thái độ chủ quan của người
đánh bạc, tổ chức đánh bạc đối với hành vi của mình. Họ ý thức được hành vi do họ
gây ra là nguy hiểm cho xã hội nhưng họ vẫn cứ thực hiện với mục đích tư lợi, nhằm
mong muốn được ăn thua tiền bạc, tài sản với người khác. Và như thế, theo quy định
của BLHS, người phạm tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc phải bị xử lý bằng hình
thức cưỡng chế nghiêm khắc.
1.1.2.1. Đặc điểm pháp lý tội đánh bạc
- Về khách thể tội phạm: hành vi đánh bạc xâm phạm đến trật tự công cộng.
BLHS hiện hành quy định về tội đánh bạc nhằm góp phần đấu tranh ngăn chặn tội
đánh bạc nói riêng, bảo vệ sức khỏe, tính mạng, tài sản của Nhân dân, củng cố an
ninh, giữ gìn trật tự công cộng nói chung.
- Mặt khách quan:
Về hành vi: đánh bạc là hành vi cá cược được thua trái phép bằng tiền hay
hiện vật. Hành vi đánh bạc thể hiện dưới các hình thức được thua bằng tiền hoặc hiện
vật, sát phạt đa dạng như: số đề, cá cược, cá độ bóng đá, tổ tôm, tam cúc, tá lả, ba
cây, xóc đĩa, đỏ đen, chẵn lẻ,... Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp hiện nay, tội
phạm đánh bạc cũng xuất hiện nhiều hình thức mới như: cá độ bóng đá trên mạng
với nhà cái ở nước ngoài, đánh bạc qua máy vi tính, trò chơi điện tử, chơi xèng, và
một số trò chơi tinh vi khác... cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và công
nghệ thông tin hiện đại.
Như vậy, tội đánh bạc theo quy định pháp luật hiện hành đã rõ ràng hơn: vì
nếu như BLHS năm 1999 quy định là “đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào” thì
BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định “đánh bạc trái phép dưới bất kỳ

11
hình thức nào” như vậy hành vi đánh bạc không phải là tội nếu như chỉ nhằm mục
đích giải trí hoặc đánh bạc tại các cơ sở được nhà nước cho phép kinh doanh có
thưởng như: xổ số kiến thiết, đố vui có thưởng, các trò chơi trúng thưởng trên truyền
hình… thì không bị coi là đánh bạc trái phép và không bị định tội.
Về giá trị vật chất của tội phạm đánh bạc: Theo quy định của BLHS năm
2015 thì dấu hiệu cơ bản để xử lý người tham gia đánh bạc là việc được thua phải
bằng “được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng”.
Dấu hiệu khác: ngoài dấu hiệu cơ bản nêu trên thì trường hợp hiện vật có giá
trị dưới 5.000.000 đồng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành
vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định
tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy
cứu TNHS.
Về tiền hoặc hiện vật: tiền và hiện vật ở đây được xác định là tiền Việt Nam
đồng, hoặc ngoại tệ; Hiện vật có thể là tài sản có giá trị như: ô tô, xe máy nhà cửa,
vàng bạc, hàng hoá gia súc, vật dụng khác... Tiền và hiện vật xác định đưa vào đánh
bạc gồm: Tiền hoặc hiện vật được thu giữ trong người các con bạc mà có căn cứ xác
định đã được hoặc sẽ được các con bạc dùng đánh bạc; Tiền hoặc hiện vật dùng đánh
bạc được thu giữ trực tiếp tại mỗi chiếu bạc; Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi
khác mà cơ quan THTT có đủ các căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh
bạc.
- Về chủ thể: chủ thể của tội đánh bạc phải là người đạt độ tuổi theo luật định
(đủ 16 tuổi trở lên), có năng lực TNHS.
- Về mặt chủ quan: Về mặt lỗi thì tội đánh bạc được thực hiện với lỗi cố ý; thông
qua việc sát phạt nhau để tước đoạt tiền bạc, tài sản của nhau đây chính là động cơ phạm
tội đánh bạc.
- Hình phạt:
+ Khung một: bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm.
+ Khung hai: bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, áp dụng đối với trường hợp: có

12
tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng
trở lên; sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
để phạm tội; tái phạm nguy hiểm.
+ Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng.
1.1.2.2. Đặc điểm pháp lý tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
- Khách thể của tội phạm: Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trực tiếp xâm
phạm đến trật tự công cộng.
- Mặt khách quan của tội phạm:
Về hành vi:
+ Đối với tội tổ chức đánh bạc: có hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người
(từ hai người trở lên) tham gia vào việc đánh bạc. Thông thường người đứng ra tổ
chức có sự chuẩn bị, bàn bạc, sắp xếp kế hoạch đánh bạc rồi mới tập hợp, rủ rê
những người khác tham gia.
+ Đối với tội gá bạc: thể hiện ở hành vi tạo điều kiện về địa điểm cho việc
đánh bạc, tức là có hành vi cho thuê, cho mượn hoặc đi thuê, mượn địa điểm, phương
tiện để cho người khác sử dụng làm nơi tụ tập đánh bạc. Bản chất của gá bạc là mục
đích trục lợi qua con bạc thông qua việc lấy tiền vào cửa, mua bán tài sản của con
bạc với giá rẻ, kinh doanh các dịch vụ ăn uống,…. Hành vi gá bạc là một biểu hiện,
một dạng khác của hành vi tổ chức đánh bạc, vì vậy, được xem là hành vi gá bạc khi
người có hành vi đó được xác định không phải là người có hành vi tổ chức đánh bạc.
Cũng như tội đánh bạc, hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chỉ bị truy cứu
trách nhiệm khi đó là hành vi trái phép. Đối với hành vi tổ chức đánh bạc đã được
cấp phép thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Về hậu quả: Cũng như tội đánh bạc, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc
của tội phạm này. Chỉ cần người phạm tội có hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
thỏa mãn dấu hiệu khách quan được quy định trong điều luật thì đã cấu thành tội
phạm. Hai hành vi trên chỉ cấu thành tội phạm nếu thoả mãn dấu hiệu về quy mô lớn,
hoặc đã bị xử phạt hành chính về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, hoặc đã
bị kết án về tội này mà chưa được xoá án tích thì tái phạm. Cụ thể đó là:

13
+ Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền,
hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở
lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000
đồng trở lên;
+ Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10
người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị
giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng
số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
+ Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000
đồng trở lên;
+ Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang
thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ
khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho
việc đánh bạc;
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại
Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 BLHS (Tội Đánh bạc) hoặc đã bị kết án
về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 (Tội đánh bạc), chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là bất kì người nào đạt độ
tuổi theo luật định (từ đủ 16 tuổi trở lên) và người đó có năng lực TNHS.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được thực
hiện với lỗi cố ý; động cơ phạm tội là tư lợi; mục đích của người phạm tội là nhằm
thu lợi bất chính.
- Hình phạt:
Khung một: Quy định bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng
hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm
Khung hai: Quy định bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng đối với người
phạm tội trong trường hợp có một trong những tình tiết định khung tăng nặng quy
định ở Khoản 2 đó là: Có tính chất chuyên nghiệp; Thu lợi bất chính 50.000.000
đồng trở lên; Tái phạm nguy hiểm.

14
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng
đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm đánh bạc, tổ
chức đánh bạc qua hoặc gá bạc giúp cho chúng ta hiểu và nắm được quan điểm pháp
lý chỉ đạo và các dấu hiệu đặc trưng của các loại tội phạm, từ đó có biện pháp và hình
thức tổ chức đấu tranh thích hợp, xử lý đúng người, đúng tội, góp phần nâng cao hiệu
quả đấu tranh PCTP, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1.2. Phân biệt tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Phân biệt tội tổ chức đánh bạc với tội gá bạc
Thứ nhất, về khái niệm
Tổ chức đánh bạc được hiểu là việc người cầm đầu, chủ mưu, chỉ huy, cưỡng
bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi sát phạt có được thua bằng tiền hoặc tài sản
có giá dưới bất kỳ hình thức nào. Tội gá bạc được hiểu là việc người phạm tội đã tạo
điều kiện về địa điểm (nhà, xưởng, quán,...) cho việc đánh bạc được diễn ra thuận lợi
để thu lợi (tiền hồ).
Thứ hai, về biểu hiện của hành vi
Hành vi tổ chức đánh bạc được thể hiện dưới dạng tạo ra những điều kiện cần
thiết cho việc đánh bạc xảy ra, như: hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập những người khác
vào việc đánh bạc. Hành vi gá bạc được thể hiện dưới dạng là việc người phạm tội
dùng nhà ở hay một địa điểm khác của mình hoặc thuê, mượn của người khác để cho
những người khác đánh bạc. Xét dưới góc độ hành vi thì hành vi gá bạc cũng là một
biểu hiện của hành vi tổ chức đánh bạc và do vậy, hành vi gá bạc được nói đến khi
người có hành vi đó không phải là người có hành vi tổ chức đánh bạc.
Thứ ba, mục đích của tội phạm
Mục đích của người phạm tội khi thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là nhằm
giúp cho việc đánh bạc diễn ra trên thực tế. Mục đích của người phạm tội khi thực
hiện hành vi gá bạc là để nhận tiền (tiền hồ)
Thứ tư, vai trò của người phạm tội
Người tổ chức đánh bạc là người đã chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy cho việc đánh
bạc được diễn ra hoặc đã cưỡng bức, đe dọa người khác thực hiện hành vi đánh bạc

15
trái phép. Có thể nói người tổ chức đánh bạc là người đã tạo ra những điều kiện cần
và đủ để cho việc đánh bạc trái phép được diễn ra.
Tóm lại, hành vi đánh bạc và hành vi gá bạc là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Những hành vi này trên thực tế đã gây ra những hậu quả đáng kể cho xã hội.
Đứng dưới góc độ là các quy định của BLHS ta thấy hai tội danh này có nhiều điểm
giống nhau. Tuy nhiên nếu xét về bản chất của tội phạm giữa hai tội danh này cũng
có nhiều điểm khác nhau như: tính chất hành vi, vai trò của người phạm tội hay như
mục đích của tội phạm…
Nếu người có hành vi tổ chức ra việc đánh bạc để thoả mãn việc đánh bạc của
mình và cùng tham gia đánh bạc với những người mà mình tổ chức để đánh bạc thì
người tổ chức đánh bạc chỉ bị truy cứu TNHS về tội đánh bạc nếu có đủ dấu hiệu cấu
thành tội đánh bạc, mà không bị truy cứu TNHS về tội tổ chức đánh bạc.
Nếu chỉ căn cứ vào việc dùng địa điểm mà mình đang quản lý sử dụng cho
người khác đánh bạc thì hành vi này tương tự như hành vi chứa chấp việc sử dụng
trái phép chất ma túy. Nhưng khác nhau ở chỗ, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất
ma tuý có thể lấy tiền hoặc không lấy tiền, còn hành vi gá bạc (chứa chấp việc đánh
bạc) nhất thiết phải lấy tiền (tiền hồ) thì mới bị coi là gá bạc. Vì vậy, nếu chỉ vì nể
nang mà dùng địa điểm (nhà, xưởng, quán,...) đang do mình quản lý cho người khác
sử dụng để đánh bạc thì không bị coi là phạm tội gá bạc. Do đó, có thể khẳng định
dấu hiệu có thu tiền hồ hay không là dấu hiệu bắt buộc để xác định có hành vi phạm
tội gá bạc hay không.
Người có hành vi gá bạc có thể đồng thời là người tổ chức đánh bạc, nhưng có
thể người tổ chức đánh bạc và người gá bạc khác nhau vậy nên để tránh nhầm lẫn
cũng cần phải phân biệt hành vi gá bạc và đánh bạc. Vẫn có thể bị truy cứu TNHS về
cả tội đánh bạc nếu người gá bạc mà còn cùng tham gia đánh bạc và có đủ dấu hiệu
cấu thành tội phạm đánh bạc.
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về cờ bạc
1.3.1. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của PLHS về các tội phạm về cờ

16
bạc được hình thành từ thời kỳ phong kiến. Cụ thể, dưới thời phong kiến các hành vi
liên quan đến cờ bạc của dân chúng đều bị các triều đình có những biện pháp quy
định ở mức hạn chế trong khuôn khổ hoặc thậm chí ở mức độ cấm đoán các hành vi
liên quan đến cờ bạc, vì những tác hại mà các hành vi liên quan đến cờ bạc tác động
đến đất nước và người dân. Thời kỳ phong kiến Việt Nam do đặc điểm pháp luật
chưa phát triển, Nhà nước lúc này chưa có nhiều các bộ luật chính thống, vì vậy cứ
liệu pháp lý chưa được làm rõ nhất là về sự cấm đoán này từ triều Trần trở về trước.
Tuy nhiên, điều đó lại được thể hiện rõ trong hai Bộ luật nổi tiếng là Luật Hồng Đức
(Lê triều Hình luật) dưới thời vua Lê Thánh Tông và Hoàng Việt Hình luật (Luật Gia
Long) dưới thời vua Gia Long. Các bộ luật này đều quy định cấm hành vi cờ bạc.
Thời kỳ này, pháp luật đều quy định hình phạt nặng đối với những người chủ mưu,
cầm đầu, tổ chức việc đánh bạc. Trong các hương ước của làng xóm, vùng quê ở các
vùng nông thôn thời phong kiến quy định vấn đề tệ nạn cờ bạc đã được đề cập đến
nhiều. Không chỉ khu vực nông thôn, ở thành thị Việt Nam thời bấy giờ các tệ nạn cờ
bạc như ba cây, xóc đĩa, đỏ đen, tam cúc, đánh chắn, tổ tôm, cua cá,… đã xảy ra khá
phổ biến và công khai. Các sòng bạc dạng Casino đã được cấp giấy phép hoạt động
công khai để thu lợi nhuận cho chính quyền. Trải qua nhiều thời kỳ pháp luật Việt
Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật phong kiến Trung Hoa. Năm 1698, vua
Lê Huy Tông hạ lệnh cho viên đề lãnh dò xét: “người chứa gá và người đánh gá đều
bị phạt nặng, số tiền bị phạt nhiều hay ít tùy theo thứ bậc phẩm trật của từng người”.
Ngay sau khi lên ngôi năm 1802, vua Gia Long đã ban lệnh nghiêm cấm đánh bạc,
quy định hình phạt nghiêm khắc. Theo Luật Gia Long ban bố, các khoản tiền thu về
trong và sau vụ đánh bạc được dùng làm phần thưởng cho những người có công tố
giác tội phạm. Dưới triều các vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị tội đánh bạc bị phạt rất
nặng, không cần biết là quan hay lính. Quan phạm tội thì bị phạt rất nặng, thậm chí
bị phạt treo cổ. Còn những người có trách nhiệm quản lý, theo dõi khi để xảy ra việc
đánh bạc cũng bị phạt giáng chức từ 2 - 4 cấp. Tuy nhiên, những ai có công phát hiện
tội phạm sẽ được thưởng. Tại điều 188, Bộ Luật Hồng Đức cũng có quy định như
sau: “Ai tụ tập đánh bạc thì bị đánh 70 trượng, biếm ba tư, phạt ba quan tiền, thưởng
cho kẻ tố cáo. Người đứng đầu hay tái phạm tội đánh bạc thì tăng một bực tội. Kẻ a

17
từng giảm một bực tội. Tiền trong sòng bạc ăn thua và văn tự mua bán để đánh bạc
đều nhập công khố. Đang khi quốc tang mà đánh bạc thì thêm một bực tội. Nếu sinh
sự trong đánh bạc thì bị xử riêng”.
Ở thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân thi hành chính sách ngu dân đối
với đất nước ta để dễ bề cai trị và khác thuộc địa nên cùng với rượu cồn, thuốc phiện
thì tệ nạn cờ bạc được chính quyền thực dân bảo hộ và khuyến khích. Có thể khẳng
định rằng thời gian này là lúc mà tệ nạn cờ bạc sôi động nhất, phát triển rầm rộ, đặc
biệt ở các thành phố hay các cảng thị. Luật pháp của triều đình phong kiến về việc
trừng trị các tội liên quan đến cờ bạc đã không còn hiệu lực do vậy, thời kì này đánh
bạc và các hành vi liên quan đến đánh bạc là hợp pháp. Nhà nước Pháp đã cho phép
mở các tiệm hút, chích á phiện, cờ bạc, cũng như cho phép các sòng bài được tự do
mở trên đất nước ta. Đô thành Sài Gòn là nơi tập trung khá đông đúc các sòng bài và
đã có những sòng bài lớn mang tính quốc tế, tại các phủ, huyện trước đây thuộc Sài
Gòn, chính quyền Pháp còn cho tuyển người từ trong giáo dân hoặc lớp tú tài, cử
nhân cam tâm theo chúng để đặt cạnh các viên tri phủ, tri huyện làm chức Tham biện
huyện vụ thực hiện nhiệm vụ thu các loại thuế trong đó có cả loại thuế sòng bạc với
định mức thu rất nặng. Nhân dân thì bất luận già, trẻ, tàn tật mỗi người phải nộp một
quan năm tiền và phải phụ thêm một quan: Dân xã Minh Hương mỗi năm phải nộp
hai lạng bạc, người Thanh phải nộp thêm hai quan. Gái điếm mỗi thị phải nộp 10
quan mỗi tháng. Người Thanh lập phố để nấu á phiện, mở sòng bạc thì phải nộp từ
2000 đến 5000 quan… Tóm lại, giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 các
quy định của pháp luật liên quan đến tệ nạn cờ bạc còn hạn chế, manh mún, chưa
toàn diện, thậm chí vào thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân còn cho hợp pháp
hóa các hành vi liên quan đến đánh bạc, quy định đây là hành vi hợp pháp nên quản
lý còn lỏng lẻo, hình thức.
1.3.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước Bộ luật Hình sự
năm 1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Song song với việc củng cố chính quyền còn non trẻ, thiết lập trật
tự xã hội mới, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp

18
luật, trong đó có các văn bản pháp luật TTHS. Chính phủ mới được thành lập đã
nhận thức rõ sự nguy hiểm của các hành vi cờ bạc đối với xã hội và sự phát triển bền
vững của chính quyền mới.
Để đấu tranh, xử lý, ngăn chặn những nguy hại cho xã hội và an ninh quốc
gia, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 168/SL ngày
14/4/1948. Văn bản PLHS đầu tiên được Nhà nước ta quy định về tội cờ bạc. Sắc
lệnh này thể hiện đường lối xử lý cứng rắn, thái độ nghiêm khắc của Nhà nước ta đối
với loại tội phạm này, đặc biệt đối với những đối tượng đánh bạc.
Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/4/1948 mặc dù chưa phân biệt rõ các hành vi cờ
bạc, nhưng trong quy định đã có phân hóa để xử lý đối với những đối tượng tổ chức
đánh bạc, gá bạc và những người đánh bạc khác. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
phục vụ cho việc phòng, chống các tội cờ bạc nói chung và tội đánh bạc nói riêng.
Tuy nhiên, sự biến đổi sâu sắc của kinh tế, chính trị, xã hội miền Bắc qua công cuộc
cải tạo XHCN, thì một số quy định của Sắc lệnh đã không còn phù hợp và cần thiết
phải tiến hành những sửa đổi.
Thông tư 301/VHH-HS ngày 14/2/1957 và Thông tư 2098/VHH-HS ngày
31/5/1957 của Bộ Tư pháp về việc bài trừ tệ nạn cờ bạc đã giải quyết một phần
những tồn tại, vướng mắc, hạn chế của Sắc lệnh số 168/SL, với phương châm “lấy
giáo dục làm chính” đường lối xử lý các tội cờ bạc của Nhà nước ta đã có sự giảm
nhẹ. Thông tư 301/VHH-HS cũng đưa ra đường lối xử lý của các cơ quan Tư pháp
đối với việc đánh bạc, đó là: Không nhất thiết phỉa bắt được quả tang đánh bạc mới
có thể truy tố được. Có thể việc chứng minh bằng bất kỳ hình thức nào để chứng
minh là bị can đã đánh bạc nhưng phải thận trọng trong trường hợp này. Có bằng
chứng rõ ràng thì mới truy tố, không nên suy luận hoặc chỉ dựa vào lời khai của một
vài nhân chứng
Thông tư số 2098 ngày 31/5/1957 đã vận dụng Sắc lệnh 168/SL trong điều
kiện và tình hình xã hội mới, xác định những nội dung chính sau đây: Thông tư này
cũng nêu đường lối xử lý là phải cân nhắc kỹ giữa truy tố và không truy tố. Các quy
định nội quy về phòng cháy, chữa cháy của các ngành, các cơ quan chức năng. Hậu
quả tác hại do cháy gây ra có thể là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, của tập thể,

19
tài sản thuộc sở hữu của công dân, tính mạng sức khoẻ của con người, trật tự an toàn
xã hội. Kế tiếp sau hai Thông tư nói trên, ngày 08/01/1968, TAND tối cao đưa ra bản
Tổng kết số 9/NCPL, nhiên nếu hành vi các tội cờ bạc. Nội dung quan trọng mà bản
Tổng kết số 9/NCPL nêu ra là giới hạn giữa những hành vi cần thiết phải xử lý bằng
chế tài hình sự và nhiên nếu hành vi, vi phạm về các quy định về phòng cháy chữa
cháy có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù hậu quả
chưa xảy ra do được ngăn chặn kịp thời thì vẫn cấu thành tội phạm theo Khoản 4
Điều 240 Bộ luật Hình sự 1999 có động cơ, mục đích sát phạt nhau”. Theo đó đối
với hành vi đánh bạc phải có động cơ, mục đích sát phạt nhau, có được thua đáng kể
hay tương đối đáng kể thì mới phải cần thiết xử lý về hình sự.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 15/3/1976, Hội đồng Chính
quả tác hại do cháy gây ra có thể là Sắc luật số 03-SL/76 quy định các tội phạm và
hình phạt. Văn bản này ra khi đã thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh về vụ
cháy và xác định trách nhiệm với người có liên tạp. Nhiều loại tội phạm, trong đó có
tội cờ bạc vẫn xảy ra, gây khó khăn cho việc quản lý xã hội. Vì vậy, những quy định
về tội cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 có liên quan cần tổ chức cuộc họp của Nhà về
chủ trương xử vi phạm đại diện cơ quan phòng cháy tội này.
Theo tinh thần của Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của TAND tối cao, Báo
cáo toàn bộ quá trình diễn biến của vụ cháy, thiệt hại do vụ cháy đã gây ra đối với
các tội phạm về cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 là quá cao, không phù hợp với tình
hình tội phạm này ở miền Bắc. Chính vì vậy, giai đoạn này miền Bắc con người có
liên quan và những vi phạm của họ về các quy định phòng cháy chữa cháy Tổng kết
số 9-NCPL ngày 08/01/1968.
1.3.3. Từ Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước Bộ luật Hình sự năm 2015
1.3.3.1. Bộ luật Hình sự năm 1985
BLHS năm 1985 được ban hành đánh dấu hợp các ý kiến và ra quyết định phù
hợp lập pháp hình sự ở nước ta, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1986. BLHS năm 1985
(đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) quy định các dấu
hiệu cấu thành tội phạm đối với tội phạm về cờ bạc gồm tội đánh bạc, tổ chức đánh
bạc, gá bạc.

20
Điều 200 BLHS năm 1985 là điều luật duy nhất quy định về các tội cờ bạc có
sự bất đồng quan điểm hoặc chưa thống nhất cần và Điều 218 (quy định về hình phạt
bổ sung) của Bộ luật là cơ sở pháp lý cho việc xử lý các tội phạm về cờ bạc trong
giai đoạn này. Tại khoản 1, Điều 200 BLHS năm 1985 quy định về tội đánh bạc:
“Người nào đánh người có liên quan và những vi phạm của họ về các quy định hiện
vật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm”. Ngoài ra tại khoản 2 và khoản 3, Điều 200 BLHS năm 1985 quy
định các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm này bao gồm: “Có thể bị phạt quản
chế hoặc cấm cư để xác định, đồng thời thống nhất thời gian bắt đầu và thời gian
hoàn thành” và “bị phạt tiền từ hai năm triệu có thể bị tịch thu một phần tài sản”.
Tội đánh bạc được phân định rõ rệt với tội tổ chức đánh bạc và tội gá bạc
bằng cách cơ quan điều tra đã chứng minh được nguyên nhân cháy, đối tượng có liên
quan nhau mặc dù được quy định tại một điều luật nhưng với cách thức quy định
khác nhau tại Điều 200 BLHS năm 1985. BLHS năm 1985 được ban hành, những
quy định về các tội phạm cờ bạc đã phần nào thể hiện những bước tiến vượt bậc,
những tiến bộ quan trọng so với thời kỳ trước năm 1985. Các quy định trong BLHS
năm 1985 đã góp phần quan trọng vào hoạt động đấu tranh PCTP, nhất là trong suốt
thời kỳ gần 15 năm bắt đầu giai đoạn tiến hành mở cửa, đổi mới đất nước từ năm
1986. Tuy nhiên, để đấu tranh, xử lý nghiêm các tội về cờ bạc trong thời kỳ này thì
vẫn cần hoàn thiện BLHS hơn nữa. Các quy địnhvề tội phạm cờ bạc trong BLHS
năm 1985 còn mang tính khái quát, tạo ra nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng,
chưa thể hiện hết những nội dung cần thiết, cụ thể:
Tuy nhiên, vướng mắc trong quá trình áp dụng PLHS về đấu tranh phòng
chống đối với các đối tượng đánh bạc nói riêng và các đối tượng tội phạm về cờ bạc
nói chung quy định tại Điều 200 BLHS năm 1985 còn bộc lộ những bất cập, hạn chế
nhất định, phát sinh những vướng mắc trong thực thiễn, cụ thể:
Hạn chế thứ nhất: Tuy đã được sắp xếp ở hai khung khác nhau, nhưng các tội
đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc cùng được quy định trong một điều luật rõ ràng
cách quy định này là chưa có tính khoa học, các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc gần
như không có điểm chung với các dấu hiệu cấu thành tội tổ chức đánh bạc và gá bạc

21
dẫn đến hạn chế trong định tội danh ba tội danh này.
Hạn chế thứ hai: Các cơ quan chức năng còn lúng túng vì cách quy định về cả
trong quá trình điều tra chủ yếu áp dụng các biện pháp điều tra để thu thập, kiểm tra
hành vi cờ bạc. Do đó, hệ quả là đã dẫn đến những quan điểm xử lý khác nhau xung
quanh vấn đề xử lý hành chính hay xử lý hình sự đối với các tội phạm về cờ bạc. Các
cơ quan chức năng, những người áp dụng pháp luật lại có những quan điểm, tư duy
khi kiểm tra xác minh tài liệu, kết luận có vụ vi phạm quy định về phòng cháy chữa
cháy xảy ra do một người đã thực hiện thì lúc đó điều tra viên Điều 200 BLHS năm
1985, mặc dù khi định tội danh, người áp dụng pháp luật đã dựa trên tinh thần và đặt
sẽ tạo điều kiện cho khởi tố bị can đúng khoản 3 Điều 8 BLHS Việt Nam năm 1985
"những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tội danh và điều luật giữa xã hội
không đáng kể thì không phải tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác".
Cùng với đó các văn bản hướng dẫn áp dụng luật hình sự trong suốt thời kỳ
BLHS năm 1985 có hiệu lực còn những hạn chế nhất định, cũng chưa đề cập tới vấn
đề này. Điều này là hạn chế lớn, ảnh hưởng đến đường lối xử lý đối với các tội phạm
cờ bạc khi mà việc quy định chung chung như nói ở trên trong khi tội phạm về cờ
bạc là những tội hoàn toàn có thể tạo ra sự phân định rõ ràng trong luật giữa những
trường hợp là tội phạm với những trường hợp không phải là tội phạm [38, tr.22].
Bên cạnh đó, bị can gây ra vụ cháy này cũng phải khởi tố bị can về tội vi
phạm quy định về Điều 200 BLHS năm 1985 "phạm tội trong trường hợp tái phạm
nguy hiểm thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm". Việc điều luật quy định như thế này
đúng hay không đúng đều có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều tra nặng này chỉ
được áp dụng cho tội tổ chức đánh bạc và gá bạc hay được áp dụng cho cả ba tội
danh về cờ bạc.
Những hạn chế trong quy định tại Điều 200 BLHS năm 1985 đã dẫn tới những
cách vận dụng khác nhau vì không đủ rõ ràng để tạo ra một cách hiểu thống nhất.
Điều Điều 200 BLHS năm 1985 dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau gây ra những tác
động, ảnh hưởng mang tính tiêu cực trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự nói
chung, các tội về cờ bạc nói riêng.
Bên cạnh đó, hình phạt chính được quy định tại Điều 200 và hình phạt bổ

22
sung được quy định tại khoản 3 Điều 218 là những chế tài xử lý chưa mang tính răn
đe, còn tương đối nhẹ, chưa đủ sức trấn áp, phòng ngừa những hành vi phạm tội về
cờ bạc diễn ra trong thực tế. Ngược lại, việc quy định hình phạt bổ sung quản chế
hoặc cấm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố là không phù hợp,
thiếu ý nghĩa thực tế và tính khả thi. Mặt khác, chỉ riêng tình tiết phạm tội trong khi
khởi tố vụ án phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện và phải nghiêm chỉnh thì chưa
đủ bao quát hết những trường hợp phạm tội mà mức độ nguy hiểm cao hơn đáng kể
so với những trường hợp khác.
1.3.3.2. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
BLHS năm 1999 được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21/12/1999 trên cơ
sở kế thừa truyền thống của PLHS Việt Nam, phát huy thành tựu của BLHS năm
1985 đã có những tác động tích cực đối với công tác PCTP, bảo vệ và thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền
công dân, thể hiện trên một số điểm lớn như sau:
Thứ nhất, từ khi được ban hành vào năm 1999, BLHS đã sớm đi vào cuộc
sống và phát huy vai trò, tác dụng tích cực, hữu hiệu, là công cụ sắc bén, là cơ sở
pháp lý quan trọng trong đấu tranh PCTP nói chung, các tội phạm về cờ bạc nói
riêng. Thứ hai, BLHS đã có nhiều quy định thể hiện tinh thần nhân đạo, chính sách
khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh PCTP, cụ thể như quy định về
khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, tự
nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra; về các trường hợp loại trừ hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về miễn trách nhiệm hình sự, miễn giảm hình phạt…
Thứ ba, BLHS có những quy định phù hợp với xu hướng chung của quốc tế, tạo tiền
đề quan trọng cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh PCTP, nhất là các
tội phạm mang tính quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như tội phạm về ma
túy, mua bán người, rửa tiền, khủng bố, tài trợ khủng bố; các tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ cao…
Sự ra đời của BLHS năm 1999 đã góp phần đáng kể vào việc khắc phục
những khiếm khuyết trong quy định về các tội cờ bạc của BLHS năm 1985, đồng vụ

23
cháy thường gây ra những thiệt hại to lớn về vật chất, sức khoẻ; và nhiều trường hợp
gây thiệt hại lớn đến tính mạng của con người cờ bạc đã được các nhà làm luật quy
định riêng tại hai điều luật là Điều 248 và Điều 249: tội đánh bạc được quy định tại
điều 248 BLHS và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại Điều 249
BLHS. Việc nhà làm luật quy định riêng rẽ tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc và
gá bạc thành hai điều luật với mục đích cá thể hóa TNHS, hình phạt đối với người
phạm tội về cờ bạc, đáp ưng được yêu cầu của thực tiễn đấu tranh PCTP trong tình
hình mới. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, các nhà làm luật đã làm rõ các
dấu hiệu định tội danh vào cấu thành tội phạm, bổ sung các tình tiết định khung tăng
nặng và các chính sách hình phạt đối với các tội phạm về cờ bạc, đảm bảo phù hợp
với diễn biến thực tế tội phạm về cờ bạc thời kỳ bấy giờ.
Hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt, nguyên tắc xử phạt, xử lý các
vật chứng liên quan cũng có nhiều điểm mới giúp cho việc cá thể hóa TNHS tội
phạm về cờ bạc ngày càng tiến bộ hơn từ khi BLHS năm 1999 ra đời. Các quy định
trong BLHS năm 1999 đã tạo điều kiện cho việc xử lý các tội phạm liên quan đến
đánh bạc theo một chính sách mới. Tuy nhiên, quá trình áp dụng các cơ quan có
thẩm quyền đã ban hành nhiều cháy có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra,
nhưng nếu xét về mặt chủ quan của con người thì chúng ta có thể chia nguyên nhân
cháy thành hai nhóm nguyên nhân chính sau đây tạo điều luật miêu tả những hành vi
khách quan vẫn có nhiều mặt chưa sáng tỏ, nhất là các yếu tố định tội danh và định
khung hình phạt còn chưa rõ ràng, cụ thể như:
- Công văn số 3187/VKSTC-KSĐT.TA hướng dẫn cháy do con người cố ý
gây ra, có thể người tham gia của VKSND tối cao ban hành ngày 13-12-2002.
- Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS 1999 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 17/4/2003 (gọi tắt là Nghị
quyết số 02).
- Công văn số 105/2003/KHXX về việc áp dụng Điều 248 BLHS của TAND
tối cao ban hành ngày 18/8/2003.
- Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn cố ý gây ra trái phép được gọi
là của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành ngày 12/5/2006 (gọi tắt là Nghị

24
quyết số 01).
- Công văn số 253/VKSTC-V8 ngày 04/02/2008 của VKSNDTC về việc trao
đổi ý kiến việc áp dụng Nghị quyết số 01/20061/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC liên quan đến việc xác định TNHS đối với hành vi chơi
lô, đề.
- Nghị quyết số 33/2009/NQ-QH12 ngày 19/6/2009 về việc thi hành Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của BLHS do Quốc hội vụ cháy do vô ý của con người
không 01/01/2010 (gọi tắt là Nghị quyết số 33).
- Công văn số 105/TANDTC-KHXX ngày 17/7/2009 của TANDTC con
người cố ý gây ra, có thể Nghị quyết số 33/2009/NQ-QH12 của Quốc hội (gọi tắt là
Công văn số l05).
- Ngày 19/6/2009 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII kỳ họp
thứ 5 thông qua Luật số 37/2009/QH12 không chấp hành đúng các quy điều của
BLHS năm 1999
- Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC phòng cháy chứa cháy được gọi định tại Điều 248 và Điều 249 của BLHS.
1.4. Cơ sở lý luận của định tội danh và quyết định hình phạt đối với các
tội phạm về cờ bạc
1.4.1. Cơ sở lý luận của định tội danh
Định tội danh là cơ sở và là tiền đề cho con người không chấp hành. Là quá
đúng các quy định về phòng cháy chứa cháy được gọi là những vụ vi phạm các quy
định một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm cụ thể tương ứng được quy định trong BLHS. Định tội danh là hoạt động nhận
thức, áp dụng PLHS được thực hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách là
hành vi của một người cố ý gây cháy trái pháp luật nhằm huỷ hoại tài sản, giết quy
định cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của cấu
người hoặc che giấu tội phạm mà họ đã thực hiện trước đó của hành vi phạm tội bằng
các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.
Định tội danh là giai đoạn cơ bản của việc áp dụng PLHS. Định tội danh đúng
có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý quan trọng. Nó thể hiện việc đánh

25
giá chính trị - xã hội và pháp lý đối với những hành vi nhất định; loại trừ việc truy
cứu TNHS oan sai; điều luật đó quy định có nhiều thủ đoạn khác nhau để thực hiện
hành vi phạm tội trong đó có thủ đoạn gây cháy việc đánh giá chính xác tình hình tội
phạm để có biện pháp phòng ngừa phù hợp và hiệu quả.
Như vậy, mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm
được quy định trong BLHS đều phải xác định đúng tên của hành vi phạm tội gọi là
tội danh. Quốc hội đã thông qua BLHS để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền con
người, quyền ra để che giấu tội phạm hoặc thực hiện tội phạm khác mà họ đã thực
hiện trước đó cũng có thể người phạm tội cũng sử dụng thủ đoạn đất, ví dụ sau khi
tham ô tài sản người phạm tội gây cháy để thiêu huỷ các dấu vết, tài liệu khách quan
của tội phạm; chủ thể của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm thì lúc đó mỗi hành
vi nguy hiểm cho xã hội sẽ đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Nếu các hành vi nguy hiểm
khi giết người thủ phạm thấy trên hiện trường còn để lại nhiều dấu vết nên thủ phạm
đã đốt để nhằm mục đích phạm hay các tội phạm độc lập tương ứng với hành vi nguy
hiểm mà người phạm tội đã gây ra.
Trong quá trình áp dụng quy phạm PLHS có tất cả 03 giai đoạn, gồm: Định
tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là
giai đoạn quan trọng nhất vì từ giai đoạn khởi tố đến thi hành án thì định tội danh
được tiến hành ở tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng. Hành vi đốt tuy không
được Bộ luật Hình sự quy định thành một tội danh sự phù hợp chính xác giữa các
dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm PLHS” [33, tr.09-10].
Có hai hình thức định tội danh:
- Định tội danh chính thức do người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
riêng biệt trong một điều luật riêng biệt, nhưng nó được thể hiện ở nhiều thủ tội, bào
chữa hay xét xử vụ án và làm phát sinh hậu quả pháp lý;
- Định tội danh không chính thức do các nhà nghiên cứu thực hiện nhằm thể
con người, đồng thời tác động xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội làm phát sinh
hậu quả pháp lý.
Việc định tội được thực hiện nhằm đi đến các quyết định hành vi được thực

26
hiện có cấu thành tội phạm hay không; xác định tội danh và khung hình phạt đối với
hành vi phạm tội. BLHS là văn bản pháp luật công dân, tính mạng sức khoẻ và hình
phạt. Vì vậy, BLHS là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh, khi định tội
danh, người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể quy định về tội phạm để
xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không.
Định tội danh có các đặc điểm sau:
Định tội danh được thể hiện dưới hai khía cạnh là quá trình nhận thức giữa lý
luận và thực tiễn một cách logic: Trước hết cần xác định hành vi đã thực hiện gây
đồng thời tác động xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội được quy định trong
BLHS hay không, phạm tội thường là những người có những hiểu biết nhất định
trong thực tế. Về nội dung, hình thức của quá trình định tội danh phải đúng theo các
quy định trong BLHS, BLTTHS. Các cơ quan THTT như CQĐT, VKS và Tòa án
thông thường động cơ thực hiện hành vi đốt rất đa dạng và phức tạp song khách
quan, đầy đủ của hành vi phạm tội trên thực tế.
Việc định tội danh hết sức đối với động cơ phản cách mạng của các cơ quan
THTT, quyết định đến kết quả của quyết định hình phạt. Cụ thể:
- Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình
phạt có căn cứ pháp luật. Các nguyên tắc tiến bộ trong nhà nước pháp quyền như
nguyên tắc công minh, nhân đạo, nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, nguyên
tắc không tránh khỏi trách nhiệm... sẽ được thừa nhận nếu định tội danh đúng.
- Định tội danh đúng là cơ sở để các quy phạm pháp luật trong TTHS được áp
dụng một về kinh tế, khủng bố về tinh thần, phá hoại an ninh chính trị, quốc cho xã
hội bị kết án.
Định tội danh sai sẽ mang đến nhiều hậu quả tiêu cực như làm giảm uy tín của
các cơ quan THTT, ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đấu tranh PCTP; trong quá
nước, hoặc kích động bọn phản động nổi dậy chống lại Đảng, chống người vô tội,
xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ của công dân.
Vì vậy, để hoạt động định tội danh thực sự mang lại hiệu quả cao trong TTHS,
các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền cần tuân thủ một số yêu cầu sau:
- Xác định tội danh của tội phạm nên căn cứ vào đặc điểm riêng của hành vi

27
nguy hiểm cho xã hội (hành vi phạm tội). Đặc điểm riêng đó được thể hiện trong cấu
thành cơ bản của tội phạm được quy định tại khoản 1 của điều luật trong BLHS.
- Xác định các hành vi phạm tội đan xen, liên tiếp nhau trong một vụ án có
cấu thành định khung tăng nặng hình phạt trong cùng một điều luật hay không, nếu
quyền, gây rối trật tự công cộng. Với động cơ này thì bọn đối tượng có thể trực định
khung tăng nặng hình phạt trong cùng điều luật thì các hành vi đó chỉ cấu thành một
cháy hoặc cũng có thể tạo ra những lỗi trong thao tác các máy móc của công đó. Nếu
các hành vi phạm tội đan xen, liên tiếp nhau trong một vụ án đã cấu thành tội phạm
và các hành vi khác không có cấu thành định khung tăng nặng hình phạt trong cùng
một đòi hỏi trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra phải thật nhau tương ứng với
điều luật mà BLHS đã quy định đối với tội danh đó.
- Xác định đúng tội danh là trách nhiệm của người THTT và cơ quan có thẩm
quyền THTT khi tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử VAHS nhằm bảo đảm
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tránh xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm
hoặc người phạm tội.
1.4.2. Cơ sở lý luận của quyết định hình phạt
Theo quy định tại Điều 30 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định
trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội hoạt gia đình, trong quan hệ của người, pháp nhân thương mại
đó” [24, tr.10].
Hình phạt là những vụ gây cháy do những người có mâu thuẫn, thù tức với
người mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống,
ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng
hoạt gia đình, trong quan hệ chống tội phạm. [24, tr.11]
Thẩm quyền áp dụng hình phạt thuộc về Tòa án, do đó công tác, trong quan hệ
yêu đương tình ái, mâu thuẫn trong quan hệ xã hội giữa các gia đình, hình phạt bổ
sung) để áp dụng đối với người phạm tội. Quyết định hình phạt có các đặc điểm sau:
Đây là hoạt động là những vụ cháy do những người có bất mãn gây ra như do thất
tình, do không đáp ứng được các nhu cầu tối thiếu của cuộc sống PLHS, là hoạt động

28
chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt hoặc miễn
TNHS với khung và hình phạt cụ thể.
Quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý để đạt được kết quả mà Nhà nước đặt ra
và mong muốn, thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội đúng có
ý nghĩa vô cùng to lớn, quyết định hình phạt phụ thuộc vào quyết định của HĐXX;
thường gây ra những vụ cháy ngay tại nơi họ đang làm việc, học tập hay ngay tại
chính nơi cư trú, sinh hoạt của mình, mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức
độ của hành vi phạm tội. Phát huy tác dụng của hình phạt đối với người phạm tội,
trong đó có tác dụng giáo dục, răn đe phòng ngừa chung đối với xã hội; quyết định
hình phạt là cơ sở hỗ trợ thực hiện các nguyên tắc trong nhà nước pháp quyền XHCN
được phát huy, là công cụ sắc bén phục vụ đấu tranh PCTP đạt hiệu quả.
Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định chặt chẽ các
căn cứ quyết định hình phạt:
“1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này,
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1
Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm
tội” [24, tr.14]. Cụ thể, phân tích các căn cứ trên gồm:
Thứ nhất, căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự
Các căn cứ theo quy định của BLHS gồm có 2 phần:
Các căn cứ trong phần chung của BLHS gồm có: các nguyên tắc xử lý; các đó
trong quá trình điều tra đối tượng ta cần chú ý điều tra làm rõ để thu thập cả những
tài liệu định về căn cứ quyết định hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ TNHS; các tình
tiết tăng nặng TNHS; về tái phạm, tái phạm nguy hiểm; các quy định về án treo.
Các quy định trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS hiện hành về hình
phạt, trong đó bao gồm khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung cho từng loại tội
danh. Khi xem xét quyết định hình phạt Tòa án dựa vào các quy định về khung chế
tài (gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) cho từng loại tội phạm, cho phép tòa
xác định khung hình phạt cho từng tội. Sau đó, Tòa án quyết định loại và mức hình

29
thông tin phản ánh về những biểu hiện bất mãn của họ để từ đó xác định nguyên
nhân của vụ cháy dựa vào quy định của phần chung của Bộ luật như đã nêu ở trên.
Trong nhiều trường hợp, Tòa án các vụ cháy do những người vì mục đích tư lợi của
cá nhân tư pháp đối với người phạm tội.
Trước khi quyết định hình phạt, Toà án phải xác định xem bị cáo bị xét xử về
xác định nguyên nhân của vụ cháy một của BLHS. Sau quá trình định tội, Toà án có
thẩm quyền quyết định hình phạt đối với người phạm tội, quá trình này Tòa án cũng
cần căn cứ vào các quy định của phần chung BLHS như: nguyên tắc xử lý quy định
tại Điều 3 BLHS, chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 17 BLHS, phạm tội chưa đạt
quy định tại Điều 18 BLHS, đồng phạm quy định tại Điều 20 BLHS. Các quy định
khác có tính nguyên tắc của phần chung BLHS mà Toà án cũng phải xem xét khi
quyết định hình phạt đó là mục đích hình phạt quy định tại Điều 27 BLHS, nội dung,
phạm vi và điều kiện của từng loại hình phạt quy định tại các điều từ 29 đến Điều 40
của BLHS…Tuân thủ nghiêm chỉnh điều luật quy định mức hình phạt đối với tội
phạm cụ thể trong phần các tội phạm có ý nghĩa rất lớn khi quyết định hình phạt.
Quyết định hình phạt trong phạm vi chế tài mà điều luật đã quy định cho tội mà bị
cáo đã phạm đây là nguyên tắc xương sống đối với Toà án khi quyết định hình phạt.
Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi để
quyết định hình phạt
Trước đây BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đưa việc phân loại
tội phạm quy định vào Điều 8 Khái niệm tội phạm. Tuy nhiên, quy định này vô hình
trung gây ra sự nhầm lẫn về thuộc tính của tội phạm, bởi các loại tội phạm chỉ là việc
phân hóa mức độ chịu TNHS, là sự chi tiết hóa cho một hành vi khi bị xem là cấu
thành tội phạm. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), quy định về phân loại
tội phạm tại Điều 9, phân chia 4 loại tội phạm bao gồm: Tội ít nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng. Việc phân loại tội
phạm được xem xét dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
tùy vào mức độ mà áp dụng loại hình phạt tương thích, đảm bảo được tính răn đe
cũng như yếu tố giáo dục.
Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa to lớn trong hoạt động điều tra, truy tố và

30
xét xử. TNHS của các chủ thể vi phạm được xác định ngay tại giai đoạn đầu và từ đó
định hướng được các chế tài xử lý phù hợp. Sự phân hóa các loại tội phạm được thực
hiện theo tính chất nghiêm trọng tăng dần và tương ứng với đó là loại hình phạt và
mức khung hình phạt cũng tăng dần. Nếu trước đây việc phân loại hình phạt và
khung hình phạt để áp dụng cho mỗi loại tội phạm được thực hiện theo phương thức
áp mức tối đa thì hiện nay các nhà làm luật đã liệt kê một cách chi tiết, rõ ràng giúp
việc vận dụng luật được thuận tiện hơn. Tương tự chủ thể là cá nhân thực hiện hành
vi phạm tội, pháp nhân thương mại khi có các hành vi xâm phạm các mối quan hệ
được PLHS bảo vệ cũng phải chịu những chế tài tương ứng với từng loại tội phạm
nhất định.
Cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi quyết định
hình là các vụ cháy do những người vì mục đích tư lợi của cá nhân mình hình phạt
của mỗi loại tội khác nhau. Mức độ nguy hiểm được xác định dựa trên các yếu tố
như: Ví dụ như tự đốt nhà mình để được nhận tiền bảo hiểm, nhận nhà mới hoặc
được trợ cấp để xây dựng nhà mới hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra. Mức độ lỗi:
thực tế nhiều trường hợp đối tượng đốt sau đó lại tự mình cứu chữa cháy để được
khen ngợi cảnh phạm tội. Những tình tiết về trong quá trình điều tra đến mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội..
Thứ ba, căn cứ nhân thân người phạm tội
Nhân thân của người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những
đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa giúp cho việc giải quyết vụ án
đúng đắn, nhất là vấn đề TNHS của người phạm tội. Những đặc điểm riêng của đòi
hỏi phải xác định rõ động cơ này với động cơ hoặc có ý nghĩa về mặt xã hội của
người phạm tội. Có thể nói các yếu tố nhân thân có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi
của con người, ảnh hưởng đến nhận thức của chủ thể. Việc các yếu tố đánh giá nhân
thân nêu trên như giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, trình độ giáo dục, hệ
thống giá trị, thái độ, cách cư xử…..có ảnh hưởng đến hành vi. Chính vì lý do này,
nên khi xem xét mức độ phạm tội, mức độ vi phạm hay cả mức độ nghiêm trọng của
hành vi phạm tội của tội phạm, ta cần xem xét kỹ càng và chi tiết các tình tiết liên
quan đến nhân thân để đánh giá một cách khách quan nhất về hành vi phạm tội của

31
tội phạm.
Những đặc điểm của nhân thân tội phạm có thể là tuổi, nghề nghiệp, thái độ
làm việc, thái độ trong quan hệ với những người khác, trình độ văn hóa, lối sống,
hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo,
tiền án, tiền sự…, đây đều là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và
hành vi của người phạm tội.
- Yếu tố về độ tuổi ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và hành vi thực hiện
của người phạm tội.
Không bởi tự nhiên mà pháp luật nước ta lại chia độ tuổi của con người thành
các giao đoạn thiếu nhi, thiếu niên và người đủ năng lực hành vi dân sự, đủ năng lực
nhận thức. Bởi ở mỗi độ tuổi thì khả năng nhận thức và hiểu biết là khác nhau hoàn
toàn. Việc kiến thức được học và được tiếp cận cũng sẽ bị hạn chế bởi độ tuổi. Chính
vì vậy so sánh giữa việc người phạm tội là người chưa đủ khả năng nhận thức và
năng lực hành vi sẽ được đánh giá theo khía cạnh pháp luật khác so với chủ thể đã đủ
năng lực hành vi dân sự, năng lực nhận thức.
- Yếu tố về môi trường học tập và làm việc của người phạm tội
Đối với các tối tượng phạm tội dưới 18 tuổi thì hầu như môi trường sinh sống
của các bạn là trong môi trường nhà trường, mối quan hệ chỉ dừng lại là người thân
trong gia đình và bạn bè thầy cô, khi đã qua độ tuổi học tập tại nhà trường, chủ thể đã
đủ 18 tuổi trở lên, các mối quan hệ bắt đầu mở rộng. Môi trường sống lúc này cũng
sẽ trở nên đa dạng hơn. Việc môi trường tốt hay xấu ảnh hưởng đến hành vi và nhận
thức của chủ thể cũng là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng gây ra những
tác động tới người phạm tội. Do vậy, nếu xem xét mức độ phạm tội, trong trường
hợp người phạm tội được sinh ra và lớn lên trong môi trường nhiều tệ nạn, không
được giáo dục tốt thì sẽ được xem xét trên một khía cạnh pháp luật khác so với chủ
thể phạm tội được sinh ra trong môi trường giáo dục tốt nhưng vẫn phạm tội, biết
được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện.
- Yếu tố về trình độ văn hóa và lối sống của người phạm tội
Trình độ văn hóa hay còn được hiểu là trình độ học tập của người phạm tội.
Đây là một trong những yếu tố quan trọng đầu tiên khi xem xét về hành vi phạm tội

32
đối với người phạm tội. Bởi lẽ, trong trường hợp trình độ văn hóa thấp kém, việc
hiểu biết và tuân thủ pháp luật thường sẽ bị hạn chế dẫn đến việc người phạm tội dễ
dàng thực hiện hành vi vi phạm mà không lường trước được hậu quả sẽ xảy ra
nghiêm trọng.
Về lối sống của người phạm tội cũng là một trong những yếu tố quan trọng
của người phạm tội. Việc người phạm tội bị ảnh hưởng từ môi trường xấu đẫn đến
lối sống bê tha, không quy chuẩn cũng khiến cho hành vi của người phạm tội bị ảnh
hưởng theo lối sống và hành vi đó. Ngày nay, như chúng ta đã biết việc giới trẻ có lối
sống buông thả, không được sự giám sát chu đáo tận tình từ bố mẹ và thầy cô. Chính
vì lý do như vậy, nên một bộ phận giới trẻ do không có sự giáo dục tận tình, quan
tâm sát sao từ phía thầy cô và nhà trường dẫn đến việc có những tội phạm mới ở độ
tuổi học sinh đã vi phạm quy định pháp luật nghiêm trọng dẫn đến những hậu quả
khôn lường và những kết cục đau buồn. Chính vì lý do đó, sự quan tâm và giáo dục
từ phía nhà trường luôn là những yếu tố quan trọng và cần thiết để giáo dục các bạn
trẻ để có lối sống tích cực và lành mạnh.
Trong luật hình sự, có những đặc điểm về nhân thân có thể được quy định là
dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Trong quá trình TTHS, việc xác
nhân thân của người phạm tội là bước rất quan trọng. Nguyên tắc này được đưa ra
để đốt sau đó lại tự mình cứu chữa cháy để được khen ngợi, đã tuyên đạt được mục
đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Bao gồm các đặc điểm sau:
Những đặc điểm về nhân thân ảnh hưởng đến hành vi nguy hiểm cho xã hội
của động cơ bất mãn, chú ý thu thập các tài liệu, thông tin có liên quan để, tiền sự, tái
phạm thường hay tái phạm nguy hiểm, là người thành niên hay chưa thành niên
phạm tội,..
Khả năng giáo dục, cải tạo họ như thế nào: Có thái độ tự thú, hợp tác với cơ
quan tố tụng không, có hối cải, lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố..
Có hoàn cảnh đặc biệt không: có hoàn cảnh bản thân hoặc gia đình đặc biệt
khó khăn không, có bệnh hiểm nghèo, có phải đối tượng già yếu, phụ nữ có thai hoặc
nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi hay không,..

33
Những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội như đã nêu ở trên có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định TNHS của người phạm tội mặc dù nó không
phải là yếu tố cấu thành tội. Các CQĐT, truy tố và xét xử muốn giải quyết được đúng
đắn bất cứ VAHS xác định được nhanh chóng nguyên nhân và động cơ gây cháy
người phạm tội. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa rất lớn. Cụ thể:
- Đối với những tội phạm mà cấu thành tội phạm cơ bản hoặc cấu thành tội
phạm tăng nặng hay giảm nhẹ của những tội này có dấu hiệu phản ánh đặc điểm nào
đó thuộc về nhân thân của người phạm tội thì nhân thân người phạm tội và việc
nghiên cứu các đặc điểm của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng đối với
việc định tội và định khung hình phạt.
- Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội còn có ý nghĩa quan trọng trong
việc quyết định hình phạt. Qua nghiên là các vụ cháy do đối tượng phạm tội gây ra
để tạo điều kiện cho đối tượng che giấu hành vi phạm tội mà đối tượng đã thực hiện
trước đó mà còn giúp đánh giá hiểm của hành vi phạm tội để có hình phạt phù hợp.
- Bên cạnh đó, việc nghiên cứu các đặc điểm về nhân thân của người phạm tội
còn giúp các cơ quan THTT như CQĐT, VKS, Tòa án có cơ sở làm sáng tỏ một số
tình tiết của vụ án; đặc biệt là các yếu tố cấu thành tội phạm như lỗi, mục đích, động
cơ phạm tội.
Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS
Theo quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì
tượng che giấu hành vi phạm tội không chỉ căn cứ căn cứ vào quy định của BLHS,
đốt để che giấu tội phạm khác có thể đi liền ngay sau khi phạm tội trước hoặc nhân
thân người phạm tội mà còn phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
TNHS. Như vậy, một trong các căn cứ để cơ quan có thẩm quyền quyết định hình
phạt đó là các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. Chỉ những người phạm tội mà
có hành vi được quy định trong BLHS tại Điều 51 các tình tiết giảm nhẹ TNHS thì
mới được xem xét giảm nhẹ hình phạt. Nếu có hành vi thuộc một trong số các quy
định tại Điều 52. Các tình tiết tăng nặng TNHS thì sẽ là căn cứ để tăng nặng TNHS.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội. Tội phạm xảy ra, xâm phạm đến các quan
hệ xã hội khác nhau có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau, nhưng nếu trường

34
hợp cùng xâm phạm đến một mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, thì mỗi
hành vi cũng có mức độ và tính chất nguy hiểm khác nhau. Nếu trường hợp tính chất
đốt để che giấu tội phạm khác có thể đi liền ngay sau khi phạm tội trước hoặc cách
sau đó một thời gian, miễn là có mối quan hệ hữu cơ giữa hai tội này và người xâm
phạm, nguyên nhân, hoàn cảnh lúc phạm tội, v.v.. Chính do sự khác nhau này mà
nhà làm luật không thể quy định mức hình phạt cụ thể cho từng hành vi phạm tội mà
phạm là một trong những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt vì vậy bọn đối tượng thường có
sự tính toán, chuẩn bị, bố trí hiện trường và các điều kiện khác một nhau về số lượng.
Sự khác nhau về lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, được các nhà làm luật
đánh lạc hướng điều tra của Cơ quan điều tra về dung ý nghĩa trái ngược nhau.
Được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS nếu tình tiết đó có các yếu tố làm thay
đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng ít nghiêm trọng hơn, còn được xem là
tình tiết tăng nặng TNHS nếu tình tiết đó có những yếu tố làm thay đổi mức độ của
hành vi phạm tội theo hướng nghiêm trọng hơn.
Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS trong một vụ án cụ thể và đối
với người phạm tội cụ thể chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong vụ
án đó và cũng chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong vụ án đó và
cũng chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong phạm vi một cấu thành
chứ không làm thay đổi tính chất của tội phạm ấy.
Trước hết, nó chỉ là những tình tiết cụ thể nguyên nhân gây cháy cũng như về
hành vi phạm tội, nói lên mức độ cho xã hội của tội phạm nhiều hay ít. Trường hợp,
các tình tiết đã nêu không liên quan, hay có tác động gì đến vụ án đang giải quyết thì
không xem những tình đó là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS.
Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS của người phạm tội chỉ làm thay
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt vì vậy bọn đối tượng tính chất nguy hiểm. Điều đó không
có nghĩa là tất cả các tình tiết quy định ở Điều 51 và Điều 52 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) không có tình tiết nào làm thay đổi tính chất của tội phạm.
Nhưng khi đã coi là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì nó không làm thay đổi tính chất
thực hiện hành vi đốt người phạm tội thường có hành vi chuẩn bị chu đáo về tội hoặc
định khung hình phạt, thì không còn là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS nữa.

35
Ví dụ: tình tiết phạm tội có tổ chức, trong nhiều trường hợp nó là yếu tố định khung
hình phạt và trong nhiều trường hợp là dấu hiệu định tội vì trong những trường hợp
phạm tội cụ thể ấy nó đã làm thay đổi tính chất nguy hiểm của tội phạm. Khi đó hoặc
làm thay đổi khung hình phạt hoặc cấu thành một tội phạm độc lập. Các tình tiết tăng
nặng hoặc giảm nhẹ TNHS có thời gian, về địa điểm và công cụ gây án và nội dung.
Tất nhiên, sự ổn định này chỉ là tương đối. Trong quá trình triển khai thi hành luật
hình sự cùng với sự phát triển của xã hội, nếu thực tế xuất hiện những tình tiết làm
thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thì các nhà làm luật sẽ bổ sung
thêm các tình tiết đảm bảo sự phù hợp với diễn biến tình hình xã hội, diễn biến tình
hình tội phạm trong từng thời kỳ khác nhau.
Khi các tình tiết đó chưa được bổ sung vào BLHS hiện hành, thì đương nhiên
Tòa án không được tùy tiện thêm vào những tình tiết mà BLHS không quy định để
tăng nặng TNHS đối với người phạm tội. Nhưng ngược lại, đối với tình tiết giảm nhẹ
TNHS thì Tòa án có thể coi những tình tiết khác ngoài những tình tiết đã được quy
định trong BLHS là tình tiết giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên,
trường hợp này Tòa án phải nói rõ lý do và tình tiết đó có ý nghĩa đối với trường hợp
phạm tội cụ thể mà Tòa án đang xem xét và nói chung đây cũng chỉ là những trường
hợp cá biệt.
Thứ năm, căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội
Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, Nghiên cứu về sự chuẩn bị ta thấy nó
thường biểu hiện, khả năng thi hành của người phạm tội. Theo đánh giá của tác giả
dõi điều tra về quy luật đi lại, sinh hoạt... của người bị hại để lợi trong bối cảnh
BLHS mới đã có thêm chủ thể là chọn về thời gian, địa điểm để các chế tài áp dụng
không trực tiếp thì cũng gián tiếp liên quan đến tài sản của pháp nhân đó. Khi quyết
định hình phạt tất yếu cũng như vật hỗ trợ cho hành vi đốt như và khả năng thi hành
án của người phạm tội. Xuất phát từ thực tiễn diễn biến các loại tội phạm phi truyền
thống hiện nay và thực tế công tác xét xử, thi hành án của cơ quan tư pháp mà nhà
làm luật chú trọng đưa nguyên tắc này làm căn cứ quyết định hình phạt. Thời gian
qua đã có rất nhiều những bản án đã tuyên nhưng không thể áp dụng vào thực tiễn
trường hợp đối tượng thực hiện hành vi đốt nhằm che giấu tội phạm khác nảy sinh

36
ngay tức thời tại hiện trường thì đối tượng có thể lục tìm do đó mức án được tuyên
quá cao, vượt quá khả năng đáp ứng của người thi hành mặc dù trên lý thuyết mức án
lợi dụng các chất cháy, vật gây lửa ngay tại hiện trường, vì vậy cũng sẽ để lại với
thực tế. Căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội khi quyết
định hình phạt sẽ góp phần nâng cao kết nối giữa Tòa án và cơ quan thi hành án, góp
phần hạn chế án bị chậm thi hành. Mặt khác, căn cứ này được triển khai trên thực tế
sẽ giúp những người có nghĩa vụ thi hành án mà không có đủ khả năng tài chính để
thi hành có thể được chuyển qua thực hiện các biện pháp khác, đảm bảo tính khả thi
hơn.
Ngoài ra, để đảm bảo pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, Tòa án khi
quyết định hình phạt còn căn cứ vào các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền như
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc cá thể hóa... để quyết định
hình phạt được đảm bảo tính thống nhất, công bằng và đạt được mục đích của hình
phạt đề ra.

Tiểu kết Chương 1


Chương 1 luận văn đã tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật về các tội phạm về cờ bạc. Trong đó, đã làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp
lý của các tội phạm về cờ bạc; phân biệt tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc. Đồng thời, Chương 1 của luận văn đã nêu khái quát lịch sử hình thành và phát
triển các quy định về các tội phạm về cờ bạc theo PLHS Việt Nam. Cơ sở lý luận của
định tội danh và quyết không đặc trưng cho vụ cháy về cờ bạc. Những vấn đề nhận
thức lý luận cơ bản đề cập trong chương này, là cơ sở định hướng cho việc nghiên
cứu, đánh giá, thực tiễn xử lý, xét xử các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư
Sê, tỉnh Gia Lai ở chương 2 của luận văn.

37
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CỜ BẠC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về các tội phạm về cờ bạc
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS
năm 2015. BLHS năm 2015 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập
pháp hình sự; tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu
tranh PCTP, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc
đẩy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
của nước ta, thể hiện ở những điểm mới cơ bản sau đây: BLHS năm 2015 đã bổ sung
quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, tạo cơ sở pháp lý đấu tranh đối với
hành vi vi phạm do pháp nhân gây ra. BLHS năm 2015 khắc phục những hạn chế,
bất cập ý nghĩa to lớn trong công tác điều tra quả trong đấu tranh PCTP. BLHS năm
2015 tiếp tục đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội, khi đã chuẩn bị chu đáo về thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ công
dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. BLHS năm 2015 tạo hành lang pháp lý quan
trọng để bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 01/01/2018
đã có những tác động tích cực đối với công tác PCTP, bảo vệ và thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền
công dân.Với việc ban hành BLHS mới sẽ góp phần khắc phục những thiếu sót, hạn
chế của BLHS năm 1999, đồng thời tiếp tực tăng cường pháp chế XHCN, góp phần
nâng cao hiệu quả trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp và cá nhân. BLHS
mới cũng đã cụ thể hóa nhiều quan điểm lớn của Đảng, quy định của Hiến pháp 2013
về PCTP, về đổi mới và hoàn thiện chính sách hình sự, đáp ứng kịp thời và có hiệu

38
quả của cuộc đấu tranh PCTP trong tình hình mới.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) gồm có XXVI chương và 426
điều, tăng 82 điều so với BLHS năm 1999, quy định về tội phạm và hình phạt và các
biện pháp tư pháp, trong đó nhiều tội phạm mới được bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu
đấu tranh PCTP trong tình hình mới, khắc phục được những thiếu sót và bất cập của
BLHS năm 1999.
Bên cạnh đó BLHS mới cũng kế thừa các quy định của BLHS năm 1999, tạo
sự thuận lợi cho các cơ quan THTT giải quyết các VAHS, cũng như hạn chế tình
trạng oan sai, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm. Trong đó, các tội về
cờ bạc được quy định tại 02 điều luật là Điều 321. Tội đánh bạc và Điều 322. Tội tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc Mục 4 Các tội phạm khác xâm phạm trật tự công
cộng của Chương XXI Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng,
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng được sửa đổi theo hướng nâng số
tiền đánh bạc để truy cứu TNHS đối với người phạm tội lần đầu, định lượng hóa các
tình tiết có liên quan đến việc xác định tiền, hiện vật, tăng hình phạt và nới rộng
khung hình phạt.
2.1.1. Tội đánh bạc
Tội đánh bạc được quy định tại Điều 321 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) như sau:
“1.Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng
tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
5.000.000 đồng thì đối tượng bắt đầu thực hiện hành vi vi này hoặc hành vi quy định
tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều
322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ
20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

39
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng” [24, tr.56].
- Khách thể của tội phạm: Tội đánh bạc xâm phạm vào trật tự an toàn công
cộng, khác với pháp luật của một số nước tư bàn quỵ định cho phép hoạt động đánh
bạc, pháp luật nước ta nghiêm cấm mọi hoạt động đánh bạc trái phép dưới bất kỳ
hình thức nào và coi đây là hành vi xậm phạm đến trật tự an toàn xã hội.
- Mặt khách quan của tội phạm: Tội đánh bạc được thể hiện ở hành vi đánh
bạc trái phép dưới bẩt kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật. Hành vi
đánh bạc được biểu hiện dưới bất cứ hình thức nào được, thua bằng tiền hoặc dùng
hiện vật để gán nợ, hiện vật có thể là vàng, bạc, đá quí, xe máy, ô tô... Các hình thức
đánh bạc có thể là đánh bài, tổ tôm, sóc đĩa, đánh ba cây, cá độ bóng đá.... Chỉ truy
án nhanh và rút nhanh khỏi hiện trường trước những điều kiện sau:
+ Số tiền, hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng;
+ Số tiền, hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về để lại các vật gây lửa, chất cháy quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố
ý, nhằm thu lợi bất chính.
- Chủ thể của tội phạm: Tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng
lực TNHS và đủ 16 tuổi trở lên.
- Về hình phạt:
+ Khoản 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm.
+ Khoản 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu có thêm một trong các tình tiết
tăng nặng sau đây: Có tính chất chuyên nghiệp; Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị
giá 50.000.000 đồng trở lên; Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn

40
thông, phương tiện điện tử đế phạm tội; Tái phạm nguy hiểm.
+ Khoản 3(Hình phạt bổ sung): Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt
chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
2.1.2. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại Điều 322 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như sau:
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc pháp hoá về việc sử dụng thời
gian p sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt
tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người xác định đối tượng không bất minh về sử dụng thời
gian, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc
trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000
đồng trở lên;
b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền Sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10
người đánh bạc đến cứu chữa để xoá dấu vết còn lại, nắm tình hình dùng đánh bạc trị
giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng
số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000
đồng trở lên;
d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt
trang thiết đến cứu chữa để xoá dấu vết còn lại, nắm tình hình công người canh gác,
người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để
trợ giúp cho việc đánh bạc;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại
Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật đến cứu chữa để xoá dấu
vết còn lại, nắm tình hình tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm:

41
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương, tiện
điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
- Khách thể của tội phạm: Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc xâm phạm vào
trật tự an toàn công cộng.
- Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
+ Đối với tổ chức đánh bạc: có hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người (từ
hai người trở lên) tham gia đánh bạc. Thông thường người đứng ra tổ chức có sự
chuẩn bị, bàn bạc, sắp xếp kế hoạch đánh bạc rồi mới tập hợp, rủ rê những người
khác tham gia.
+ Đối với tội gá bạc: có hành vi cho thuê, cho mượn hoặc đi thuê, mượn địa
điểm, phương tiện để người khác sử dụng làm nơi đánh bạc. Địa điểm có thể là nhà
ở, phòng làm việc, cơ sở kinh doanh…(được bố trí làm nơi đánh bạc). Phương tiện
có thể là xe, tàu…(loại phương tiện có thể bố trí thành nơi đánh bạc).
Lưu ý: Hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc phải là trái phép, tức là không
có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép.
Ngoài dấu hiệu về hành vi nêu trên còn phải có một trong các dấu hiệu bắt
buộc sau đây:
+ Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền,
hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở
lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000
đồng trở lên;
+ Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10
người đánh bạc trở lên đến cứu chữa để xoá dấu vết còn lại, nắm tình hình đánh bạc
trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng đến cứu chữa
để xoá dấu vết còn lại, nắm tình hình bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

42
+ Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000
đồng trở lên;
+ Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang
thiết bị phục vụ đến cứu chữa để xoá dấu vết còn lại, nắm tình hình, người phục vụ
khi đánh bạc; sắp đến cứu khỏi địa bàn với lý do hợp tình hình tiện để trợ giúp cho
việc đánh bạc;
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính quá trình cháy và quá trình gây cháy Điều
này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này
hoặc cháy gây ra quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm.
Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này. So sánh quy định về tội tổ chức
đánh dấu vết đặc trưng giữa BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và BLHS năm
2105, thì quy định tại điều 322 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) dấu vết do
quá trình gây cháy tạo ra được gọi Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán TAND tối cao được cụ thể hóa vào điều luật nhiều hơn.
2.2. Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội nói chung và các tội cờ
bạc trên địa bàn huyện Chư Sê từ năm 2015 đến năm 2019
Trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai, TAND huyện xét xử 422 vụ tội phạm xâm phạm trật tự xã hội, với 756 bị cáo có
liên quan. Cụ thể: Năm 2015 xét xử 93 vụ/181 bị cáo; năm 2016 xét xử 85 vụ/158 bị
cáo; năm 2017 xét xử 85 vụ/149 bị cáo; năm 2018 xét xử 87 vụ/179 bị cáo và năm
2019 xét xử 72 vụ/89 bị cáo [Xem bảng 2.1- Phụ lục].
Nhìn chung tội phạm xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn huyện Chư Sê 05
năm qua có xu hướng giảm, tuy nhiên, qua mỗi năm lại có những biến động khác
nhau. Trong đó, tội phạm do nguyên nhân xã hội tiếp tục có diễn biến phức tạp, tuy
số người chết không tăng nhưng tăng về số người bị thương. Đã xảy ra 04 vụ giết
người và 90 vụ cố ý gây thương tích làm chết 03 ngươi, bị thương 126 người.
Nguyên nhân các vụ phạm tội chủ yếu là do mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ xã
hội thông thường, nhiều vụ án mạng xảy ra chỉ từ những mâu thuẫn thường ngày
trong cuộc sống. Tình hình tội phạm trong lứa tuổi thanh, thiếu niên tiếp tục có dấu

43
hiệu phức tạp, đặc biệt là tình trạng thanh thiếu niên tụ tập, sử dụng dao, kiếm, mã
tấu, hung khí đánh nhau, gây thương tình ở hầu hết các địa bàn ngày càng gia tăng,
nhất là tại các vùng nông thôn, tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa các nhóm thanh
thiếu niên và mang theo hung khí trong người diễn ra khá phổ biến, nhiều vụ án đã
gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, dẫn đến chết người. Bên cạnh đó, tình hình tội
phạm cướp, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có
nhiều diễn biến mới phức tạp, thủ đoạn phạm tội tinh vi hơn.
Trong 05 năm (2015 - 2019), tệ nạn cờ bạc tuy đã được đấu tranh mạnh mẽ và
quyết liệt, song vẫn diễn biến phức tạp, có thời điểm còn gây bức xúc trong quần
chúng nhân dân, thu hút nhiều đối tượng, thành phần tham gia, trong đó có cả cán bộ
công chức, đảng viên cơ quan Nhà nước. TAND huyện đã xét xử 32 vụ/111 bị cáo về
tội phạm về cờ bạc (tăng 07 vụ so với cùng kỳ 2010-2014), thu giữ trên 3,2 tỷ đồng
và các tang vật liên quan [Xem bảng 2.1- Phụ lục]. Các tội phạm về cờ bạc chiếm tỷ
lệ 7,58% về số vụ và 14,68% về số bị cáo so với tổng số vụ tội phạm xâm phạm trật
tự xã hội, đây là tỷ khá lớn so với cơ cấu các tội phạm khác xảy ra trên địa bàn huyện
Chư Sê. Hoạt động cờ bạc diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như đánh bài, đá
gà, số đề, cá độ bóng đá...Thành phần tham gia hoạt động cờ bạc hết sức đa dạng và
địa bàn hoạt động rộng khắp (từ thị trấn đến nông thôn vùng sâu), nhưng tập trung
chủ yếu vẫn là địa bàn thị trấn, trung tâm xã, vùng ven, khu vực giáp ranh thị trấn...
Do chức năng trên địa bàn huyện Chư Sê đã tổ chức mở nhiều đợt tấn công truy quét,
triệt phá cho nên thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt,
thay đổi về phương thức hoạt động.
2.3. Thực tiễn định tội danh các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện
Chư Sê từ năm 2015 đến năm 2019
2.3.1. Kết quả định tội danh
Khái niệm định tội danh hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. GS. TSKH
Lê Cảm nhận định: “Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic,
đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, cũng như
PLTTHS được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các
tình tiết thực tế của VAHS để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù

44
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu
hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định” [15, tr.21]. Còn theo
GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh là một dạng của hoạt động nhận thức,
hoạt động áp dụng PLHS nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng,
đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội
dung quy phạm PLHS quy định CTTP tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các
dấu hiệu của CTTP với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương
pháp và thông qua các giai đoạn nhất định” [40, tr.21]. Quá trình áp dụng các quy
phạm PLHS diễn ra phức tạp và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh,
định khung hình phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là giai đoạn
quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng PLHS [10,
tr.31].
Trong những năm gần đây, các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai diễn ra khá phức tạp, gây ra những thiệt hại về nhiều mặt trong đời sống
xã hội, gây bức xúc trong dư luận nhân dân trên địa bàn huyện. Qua nghiên cứu thực
trạng các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê được thống kê và phân tích
từ các báo cáo tình hình tội phạm về cờ bạc của TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy: Trong 05 năm TAND huyện Chư Sê đã xét xử
32 vụ/111 bị cáo phạm các tội về cờ bạc. Năm 2015, xét xử 09 vụ/37 bị cáo, chiếm tỷ
lệ 9,68% về số vụ và 20,44% về số bị cáo; năm 2016 xét xử 04 vụ/18 bị cáo, chiếm
tỷ lệ 4,71% về số vụ và 11,39% về số bị cáo; năm 2017 xét xử 06 vụ/18 bị cáo,
chiếm tỷ lệ 7,06% về số vụ, 12,08% về số bị cáo; năm 2018 xét xử 05 vụ/14 bị cáo,
chiếm tỷ lệ 2,3% về số vụ và 7,82% về số bị cáo; năm 2019 xét xử 08 vụ/24 bị cáo,
chiếm tỷ lệ 11,11% về số vụ, 26,97% về số bị cáo so với tổng số các tội phạm xâm
phạm trật tự xã hội trong năm [Xem bảng 2.1- Phụ lục].
Về tình hình thực tiễn xét xử các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư
Sê, tỉnh Gia Lai trong 05 năm (từ năm 2015 đến năm 2019) như sau:
Năm 2015 tổng số vụ đưa ra xét xử về tội phạm cờ bạc là 09 vụ/37 bị cáo,
trong đó: tội đánh bạc 08 vụ/36 bị cáo, chiếm tỷ lệ 88,89% số vụ và 97,3% số bị cáo;
tội tổ chức đánh bạc 01 vụ/01 bị cáo, chiếm tỷ lệ 11,11% số vụ và 2,7% số bị cáo.

45
Năm 2016 tổng số vụ đưa ra xét xử về tội phạm cờ bạc là 04 vụ/18 bị cáo, trong đó:
tội đánh bạc 04 vụ/18 bị cáo, chiếm tỷ lệ 100% số vụ và 100% số bị cáo. Năm 2017
tổng số vụ đưa ra xét xử về tội phạm cờ bạc là 06 vụ/18 bị cáo, trong đó: tội đánh bạc
05 vụ/17 bị cáo, chiếm tỷ lệ 83,33% số vụ và 94,44% số bị cáo; tội tổ chức đánh bạc
01 vụ/01 bị cáo, chiếm tỷ lệ 16,67% số vụ và 5,56% số bị cáo. Năm 2018 tổng số vụ
đưa ra xét xử về tội phạm cờ bạc là 05 vụ/14 bị cáo, trong đó: tội đánh bạc 04 vụ/13 bị
cáo, chiếm tỷ lệ 80% số vụ và 92,86% số bị cáo; tội tổ chức đánh bạc 01 vụ/01 bị cáo,
chiếm tỷ lệ 20% số vụ và 7,14% số bị cáo. Năm 2019 tổng số vụ đưa ra xét xử về tội
phạm cờ bạc là 08 vụ/24 bị cáo, trong đó: tội đánh bạc 07 vụ/23 bị cáo, chiếm tỷ lệ
87,5% số vụ và 95,83% số bị cáo; tội tổ chức đánh bạc 01 vụ/01 bị cáo, chiếm tỷ lệ
12,5% số vụ và 4,17% số bị cáo [Xem bảng 2.2 -Phụ lục]. Qua bảng số liệu trên, thấy
rằng các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong thời gian từ
năm 2015 đến năm 2019 được đưa ra xét xử chủ yếu là Tội đánh bạc với 28 vụ/107 bị
cáo; Tội tổ chức đánh bạc 04 vụ/04 bị cáo bị cáo; không xảy ra Tội gá bạc.
Nhìn chung, các tội phạm về cờ bạc tuy chiếm tỉ lệ tương đối so với các tội
phạm khác 7,58% so với tội trộm cắp tài sản 26,12%, tội cố ý gây thương tích
15,38% là hai tội chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu tội phạm trên địa bàn huyện Chư
Sê trong 05 năm qua, nhưng tội phạm về cờ bạc đang là một vấn đề gây bức xúc dư
luận, ảnh hưởng xấu đến đời sống người dân và tác động không nhỏ đến xã hội, đặt
ra bài toán cho lực lượng chức năng trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, đấu
tranh PCTP trên địa bàn. Số liệu phân tích nêu trên chỉ là bề nổi của tình trạng tội
phạm về cờ bạc trên huyện Chư Sê, còn khá nhiều các vụ việc liên quan đến tệ nạn
cờ bạc chưa được phát hiện, xử lý. Nguyên nhân vết trong các vụ đốt là tất cả những
hiện tượng, đặc điểm và sự biến đổi vật chất để lại qua quá trình cháy và quá trình
gây cháy tạo ra, như vậy này ngày càng tinh vi, phức tạp và khó phát hiện hơn. Đồng
những dấu vết được để lại do quá trình cháy gây ra được gọi là những dấu vết đặc
trưng, những dấu vết do quá trình gây cháy tạo ra được gọi là những dấu vết. Bên
cạnh đó, các tội phạm về cờ bạc có xu hướng phát triển đối với nhóm người trẻ tuổi
và có trình độ học vấn thấp. Tội phạm về cờ bạc ở nhóm này tỷ lệ thuận theo khi tình
trạng bỏ học gia tăng, đặc biệt khi dấu vết không đặc trưng xuất hiện thường dẫn đến

46
các hành vi phạm tội khác như các tội phạm về ma túy, cướp tài sản, trộm cắp, cố ý
gây thương tích,...
Tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc chủ yếu là xét xử theo khoản 1 Điều 321, khoản 1
Điều 322 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). TAND huyện Chư Sê đã tiến
hành xét do quá trình cháy gây ra được gọi là những dấu vết theo luật định, không quá
hạn luật cháy tạo ra trường hợp nào oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm.
2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn định tội danh
2.3.2.1. Hoạt động điều tra vụ án còn những hạn chế dẫn đến giải quyết vụ án
chưa triệt để
Việc tiếp nhận và xử lí tin báo, tố giác về tội phạm còn có đơn vị chưa thật sự
quan tâm, cán bộ tiếp nhận tin chưa có năng lực, chưa đủ trình độ nghiệp vụ để xử lý
trong tình huống cấp thiết, dẫn tới việc xác minh, kiểm tra tin báo không kịp thời
hoặc thiếu dữ liệu thông tin. Trong việc tổ chức bắt quả tang thì việc phối hợp giữa
lực lượng Cảnh sát hình sự Công an huyện Chư Sê với lực lượng dân quân, Công an
xã chưa phát huy hết sức mạnh vốn có. Thông thường công tác bắt quả tang chủ yếu
do lực lượng cấp huyện thực hiện, khi tiến hành thì rất hạn chế báo tin, yêu cầu địa
phương phối hợp trừ trường hợp tin báo từ địa phương đưa lên nhờ hỗ trợ. Việc này
xuất phát từ nguyên nhân là do đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc đã rất quen mặt
cán bộ địa bàn và không loại trừ trường hợp cán bộ địa bàn móc nối để lộ tin hoạt
động dẫn đến công tác vây bắt không hiệu quả. Số lượng người bị bắt giữ trong các
vụ việc đánh bạc, tổ chức đánh bạc là khá lớn, trong khi số lượng cán bộ có hạn nên
việc lấy lời khai đôi khi không đảm bảo yêu cầu chiến thuật, không đảm bảo nội
dung, hình thức, việc quản lý cách ly cũng khó khăn từ đó tạo điều kiện cho các đối
tượng ra dấu, thỏa thuận cách khai báo... Khi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can thì việc xác định giá trị vật chất để xác định mức độ xử lý cũng còn nhiều quan
điểm chưa thống nhất, có trường hợp đề nghị xử lý, có trường hợp không, việc xác
minh tiền án, tiền sự các đối tượng trong thời gian ngắn là rất khó, do thiếu cán bộ
nên việc kiểm tra lời khai gặp nhiều trở ngại. Trong quá trình giải quyết vụ án thì
công tác lập kế hoạch điều tra và áp dụng những biện pháp, phương pháp chiến thuật
điều tra chưa được chú trọng. Vì ĐTV quan niệm án đã bắt quả tang, tình tiết đã rõ

47
chỉ hướng đến củng cố lời khai, hoàn tất thủ tục tố tụng là truy tố được, do đó không
cần lập kế hoạch. Cũng chính vì quan điểm này mà nhiều biện pháp điều tra được
tiến hành như lấy lời khai người làm chứng, trưng cầu định giá, hỏi cung bị can là rất
chiếu lệ chưa chú trọng vào việc khai thác mở rộng án.
2.3.2.2. Khó khăn đối với việc xác định tiền hoặc hiện vật dùng để phạm tội về
cờ bạc
Một là, thực tiễn định tội danh các tội phạm về cờ bạc, cơ quan THTT gặp
không ít vướng mắc đối với việc xác định tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc cấu
thành cơ bản của tội đánh bạc.
Khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định
như sau: "Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng
tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
5.000.000 đồng dấu vết phản ảnh mùi vị của sản phẩm cháy; màu sắc của khói; ánh
lửa, âm thanh; dấu vết than hóa Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội
này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm." [24, tr.226].
Việc xác định tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc làm cơ sở truy cứu TNHS
người đánh bạc quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại Điều 248 và Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), theo
đó tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc được xác định từ các nguồn sau:
+ Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
+ Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác
định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
+ Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã
được hoặc sẽ được dùng đánh bạc [33, tr.1].
Điều này nhằm xác định rõ chỉ những tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc được
thu giữ từ các nguồn ở trên thì mới dùng để truy cứu TNHS. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn
có trường hợp người THTT xác định số tiền dùng để đánh bạc chỉ là số tiền thu giữ

48
được trực tiếp tại chiếu bạc mà không tính đến số tiền mà CQĐT thu giữ được trong
người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc dẫn
đến xác định sai tổng số tiền dùng để đánh bạc.
Ví dụ: Vào lúc 23h30’ ngày 12/07/2017, tại nhà ông Y Hoan, xã Chư Pơng,
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, các đối tượng Trương Minh Vũ, Nguyễn Hoàng Anh,
Phạm Quang Du, Hồ Văn Khênh đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức “Tiến lên
miền Nam”, thu giữ tại chiếu bạc 7.050.000 đồng, thu giữ trong người Khênh
12.300.000 đồng, Vũ 975.000 đồng. Hồ Văn Khênh mang theo số tiền 12.300.000
đồng ngay từ đầu cho đến khi bị bắt quả tang, cơ quan THTT thu giữ toàn bộ số tiền
trong người của những người tham gia đánh bạc, nhưng TAND huyện lại xác định bị
cáo Khênh chỉ sử dụng số tiền 2.000.000 đồng trong tổng số tiền mang theo để đánh
bạc, tuyên trả cho bị cáo 10.000.000 đồng. Trong trường hợp này vết không đặc
trưng xuất hiện trên hiện trường không phải do quá trình cháy gây ra, những dấu vết
này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất của vụ án THTT xác định số
tiền dùng để đánh bạc chỉ có 2.000.000 đồng là không có căn cứ và cơ sở, theo ý
thức chủ quan của mình dẫn đến xác định sai tổng số tiền dùng để đánh bạc.
Hai là, hạn chế đối với việc xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người
chơi đề, cá độ, chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc
Theo Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và
Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) hướng dẫn xác định tiền
hoặc hiện vật dùng để đánh bạc của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ
dùng đánh bạc quy là tổng số tiền họ tham gia đánh bạc cùng với số tiền mà người
chơi đề, cá độ trúng thưởng được quy định như sau: Về xác định số tiền hoặc giá trị
hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc trong trường hợp người chơi số đề,
cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền
mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ
đề, chủ cá độ. Về xác định số Dấu vân tay, dấu vết chân, dấu vết dày dép, các
phương tiện gây án và các đồ vật hỗ trợ khác khi thực hiện hành vi đốt, cá độ trúng
số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền

49
thực hành vi đốt và diễn biến của quá trình người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ
đề, chủ cá cháy gây ra, những để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều
người)… [33, tr.2]
Tuy nhiên đối với tội đánh bạc, hành vi phạm tội đã hoàn thành từ thời điểm
hai bên thỏa thuận xong số tiền đánh bạc và tỷ lệ thắng thua nhưng theo quy định tại
khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010 thì việc truy cứu TNHS lại người đánh bạc lại
dựa vào thời điểm dấu vết không đặc trưng thường xuất hiện trên hiện trường phát
hiện hành vi phạm tội trước hay sau khi có kết quả thắng thua thì hành vi đó cũng
chấm dứt và sẽ bị xem xét để xử lý. Hơn nữa người thực hiện hành vi phạm tội đánh
quan trọng trong việc xác định tính chất của vụ án. Trong khi đó, để xử lý việc các
thường xuất hiện trên hiện trường cá độ thì cơ quan THTT hoàn toàn có thể áp dụng
các quy định tại BLTTHS để khi thực hiện hành thu lợi bất chính.
Ba là, kết luận số tiền mà bị cáo dùng vào việc tổ chức đánh bạc chưa chính
xác. Ví dụ: Ngày 12/8/2017, TAND huyện Chư Sê ra Bản án hình sự sơ thẩm số
22/2017/HSST tuyên bị cáo A Đuh (sinh năm 1978, ngụ xã Ia Blang, huyện Chư Sê)
phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Trong vụ án này, cấp sơ thẩm xác định số tiền bị cáo A Đuh tổ chức
đánh bạc là 57.990.000đ gồm tiền bị cáo đã ghi cá độ bóng đá (37.990.000đ) và hành
vi đốt thủ phạm thường để lại dấu vết (20.000.000đ), đồng thời tuyên truy thu của bị
cáo 20.000.000đ trong tài khoản này. Theo chúng tôi, TAND huyện xử lý như vậy là
không đúng, vì tiền trong tài khoản mạng cá độ chỉ là tiền ảo để xác định hạn mức bị
cáo được phép ghi cá độ, số tiền này bị cáo chưa dùng vào việc tổ chức đánh bạc.
Bốn là, khó khăn trong việc xác định các loại phương tiện thanh toán việc
được, thua của tội đánh bạc.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS thì phương tiện phạm tội đánh bạc
là tiền hay hiện vật. Xét về thực tiễn, phương tiện phạm tội của tội đánh bạc thường
là tiền Việt Nam, ngoại tệ, các phương tiện gây án và các đồ vật hỗ trợ khác khi thực
hiện hành vi đốt quyền về tài sản được dùng để đánh bạc và đây là khái niệm được
hiểu theo khái niệm tài sản. Chính vì vậy, dẫn đến khó khăn trong thực tiễn áp dụng
của các cơ quan THTT trong trường hợp cần xác định tiền và hiện vật dùng để đánh

50
bạc. Nhiều trường hợp không có đủ căn cứ để truy cứu TNHS đối với người thực
hiện hành vi mảnh vật liệu, đầu mẩu que diêm, củi, đầu mẩu thuốc lá, chai lọ, can
người phạm tội khi sử dụng “hiện vật” để đánh bạc thường quy đổi thành tiền, để xác
định khi phát hiện và thu lượm cần phải làm rõ nguồn gốc tồn tại trên nên rất khó xác
định giá trị của hiện vật đó mà cần phải định giá tài sản để xác định. Đặc biệt là đối
với những so sánh phục vụ cho công tác trưng cầu giám định phương tiện thanh toán
thù kể trên là cơ sở người phạm tội, gây nguy hiểm cho xã hội.
2.3.2.3. Khó khăn về xác định đồng phạm trong tội đánh bạc
Theo khoản 1 Điều 17 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy
định thì đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm. Dựa trên vấn đề lý luận, các con bạc không thể tự đánh bạc với chính mình mà
phải đánh với nhiều người (từ 02 người trở lên), là hành vi cố ý với biệt bọn tội phạm
đốt thường có thủ đoạn thực hiện và che dấu tội phạm rất tinh vi gây khó khăn đáp
ứng được quy định về đồng phạm tại khoản 1 Điều 20 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Mặt khác tiền hoặc hiện vật được xác định là tổng số tiền hoặc hiện
vật mà các con bạc tham gia được quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số
01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, vì vậy
thì các con bạc xác định những vấn đề cần chứng minh trong vụ đốt có ý nghĩa rất
quan trọng dùng để đánh bạc trong tất cả các hình thức đánh bạc nếu bị xử lý hình
sự. Ngoài ra cũng có ý kiến khác cho rằng: Nếu số tiền thực tiễn cho thấy, trong vụ
cháy do đốt cần phải đến mức truy cứu TNHS thì thời gian, địa điểm nào, chất cháy
trong VAHS về tội đánh bạc.
Tuy nhiên tại khoản 2 Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
có quy định rằng "Những là người đã đốt, động cơ mục đích của việc đốt, có đủ năng
lực hành vi cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng
các biện pháp khác.” do đó hành vi nhân thân của đối tượng đốt, có phạm tội nhưng
không bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy cứu TNHS là do chính sách hình sự đối
với họ. Việc cơ quan THTT không truy cứu TNHS với các con bạc khi căn cứ vào
các căn cứ nêu trên là thiếu sót.
2.3.2.4. Vướng mắc, khó khăn trong việc xử lý các hình thức đánh bạc trá

51
hình, sử dụng công nghệ cao để phạm tội
Tại điểm c khoản 2 Điều 321 quy định: “2.Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm :c) Sử dụng mạng internet,
người bị hại, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ mức hình phạt”. Thực tế tình hình tội
phạm sử dụng công nghệ cao đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, với diễn biến
tăng cả về số vụ và tính chất, mức độ, hậu quả. Hiện nay xuất hiện thêm nhiều hình
thức đánh bạc mới sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn trong công tác
đấu tranh, xử lý của các cơ quan THTT.
Nhiều hệ thống máy chủ đặt ở vị trí khó xác định, trong khi các game bài ngày
càng được cải tiến tinh vi, đa dạng gây khó khăn cho cơ quan THTT trong quá trình
đấu tranh, xử lý. Người đánh bạc và tổ chức đánh bạc sử dụng tài khoản ảo để đăng
nhập nên cũng khó xác định danh tính. Vì vậy quá trình chứng minh mất rất nhiều
thời gian, cán bộ đấu tranh với tệ nạn này cũng đòi hỏi phải có sự am hiểu nhất định
về công nghệ. Hiện nay, một số trò chơi trực tuyến (game online) được cấp phép
cũng có thể bị biến tướng để lập sòng, xuất hiện nhiều ổ nhóm cờ bạc núp bóng trò
chơi điện tử, một số cơ sở kinh doanh đã âm thầm tổ chức thành đường dây đánh bạc
để kiếm lời. Người chơi game nạp thẻ cào để chơi game, nếu thắng sẽ được thanh
toán thành thẻ cào điện thoại hoặc thậm chí là tiền mặt được thanh toán qua ví điện
tử. Với các hoạt động này, về thực chất, các trò chơi trên trang web này chính là cờ
bạc. Ngoài ra với sự phát triển của công nghệ mạng, hành vi đánh bạc còn được tổ
chức bằng phương tiện cần phải chứng minh trong vụ đốt nêu trên chỉ có đặc tính
chung nhất, đối với các trường hợp cụ thể khoản quốc tế, hình thức đánh bạc này
cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể. Hơn nữa, nó gây ra những hệ lụy phức
tạp đối với đời sống. Thời gian qua trên địa bàn một số địa phương đã xảy ra không
ít vụ giết người, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng... mà nguyên nhân
phát sinh từ tệ nạn đánh bạc bằng trò chơi điện tử.
2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn
huyện Chư Sê từ năm 2015 đến năm 2019
2.4.1. Kết quả quyết định hình phạt

52
Trước diễn biến tình hình các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê
từ năm 2015 đến năm 2019 diễn biến có nhiều phức tạp, trong khi tỷ lệ điều tra khám
phá tội phạm này chưa cao thì nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt các tội phạm
về cờ bạc trong đấu tranh, xử lý loại tội phạm này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trong đó công cụ sắc bén, hữu hiệu nhất để đấu tranh PCTP nói chung, PCTP về cờ
bạc nói riêng là những quy định của BLHS về tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc
hoặc gá bạc. Trong 05 năm qua (từ năm 2015 đến năm 2019), trên địa bàn huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã giải quyết tổng cộng 32 vụ/111 bị cáo phạm tội đánh bạc, tổ
chức đánh bạc và tất cả đều được TAND huyện Chư Sê quyết định hình phạt phù
hợp đối với những bị cáo phạm các tội này.
Qua bảng tổng hợp các hình phạt chính được áp dụng đối với các bị cáo phạm
các tội về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê trong thời gian 05 năm từ 2015 đến năm
2019 thấy rằng: Tổng số hình phạt chính được áp dụng đối với 111 bị cáo gồm: Phạt
tiền 06 bị cáo; Hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo 49 bị cáo; Hình phạt tù từ 03
năm trở xuống 56 bị cáo. Ngoài hình phạt chính khi quyết định hình phạt là hình phạt
tù nhưng cho hưởng án treo và hình phạt tù, thì HĐXX hầu như đều áp dụng thêm
hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo, theo số liệu thì đã áp dụng
hình phạt bổ sung phạt tiền 81 bị cáo. Bên cạnh đó có thể thấy hình phạt tù được áp
dụng nhiều nhất, chiểm tỷ lệ cao 85,58%, trong đó chủ yếu là phạt tù từ 03 năm trở
xuống, chiếm 50,45% tổng số hình phạt chính đã áp dụng. Hình phạt tù chiếm tỷ lệ
lớn trong các hình phạt được những vấn đề cần chứng minh có m vẫn có nhiều biến
động, động cơ mục đích trong tổng số các loại án đưa ra xét xử.
Thực tiễn quyết định hình phạt các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư
Sê từ năm 2015 đến năm 2019 của TAND huyện Chư Sê cho thấy: TAND huyện đã
bám sát căn cứ được quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) để áp dụng việc quyết định hình phạt đối với các bị cáo phạm tội đánh bạc, tổ
chức đánh bạc một cách hợp lý, đảm bảo luật định. TAND huyện luôn luôn vào quy
định của BLHS, xem xét đầy đủ, cụ thể vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội và vận dụng các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS để
quyết định hình phạt. Đồng thời, khi quyết định hình phạt đối với các tội phạm về cờ

53
bạc, TAND huyện Chư Sê luôn quán triệt nguyên tắc đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt
được mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội, do đó TAND huyện luôn
căn cứ nhân thân người phạm tội để quyết định hình phạt, cụ thể:
Nghiên cứu đặc điểm nhân thân 111 bị cáo phạm tội về cờ bạc nhận thấy: Về
giới tính có 16 bị cáo là nữ giới, 95 bị cáo là nam giới; Về thành phần có 02 bị cáo là
Đảng viên, 04 bị cáo là cán bộ, công chức, 08 bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, 04
bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số (01 bị cáo người Jrai, 03 bị cáo người Ba nah…),
02 bị cáo tái phạm, tái phạm nguy hiểm; Về độ tuổi có 18 bị cáo từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi, 70 bị cáo từ đủ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi và 23 bị cáo trên 30 tuổi [Xem
bảng 2.3 - Phụ lục]. Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá nhân thân người phạm tội
có ý nghĩa quan trường hợp cụ thể, những vấn đề cần chứng minh có giá được khả
năng giáo dục cải tạo của người phạm tội và tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi
điều kiện làm có hình phạt phù hợp.
Thời gian qua, TAND huyện Chư Sê khi quyết định hình phạt đối với các tội
phạm về cờ bạc đã có những giải pháp phù hợp đảm bảo thực hiện theo tinh thần
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, đảm bảo việc quyết định hình phạt góp phần thực hiện chính
sách hình sự hướng thiện, giảm hình phạt tù tăng hình phạt tiền đối với các tội xâm
phạm khách thể trật tự công cộng, trong đó có các tội phạm về cờ bạc.
2.4.2. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn quyết định hình phạt
2.4.2.1. Hạn chế, thiếu sót khi quyết định hình phạt không đúng quy định.
Một là, tồn tại, hạn chế trong thực tiễn quyết định hình phạt áp dụng hình phạt
tù nhưng cho hưởng án treo. Theo quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) thì: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của
người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm
đến năm năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của
Luật Thi hành án hình sự” [24, tr.27]. Cũng theo quy định tại Điều 65 thì căn cứ vào
những điều kiện sau để Tòa án quyết định cho hay không cho bị cáo được hưởng án
treo: (1) Mức phạt tù không quá 03 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và

54
tội rất nghiêm trọng theo quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015; (2) Có nhân thân tốt,
chưa có tiền án tiền sự; (3) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết
tăng nặng, trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51
BLHS năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng
thì bị bắt quả tang hoặc ra tự thú tiết tăng nặng từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít
nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 ; (4)
Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi cơ mục đích của việc đốt, điểm phát cháy đầu tiên có
thẩm quyền giám sát, giáo dục; (5) Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt
tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây
Công an cơ sở để kiểm tra xác minh lại cho chính xác đến trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn quyết định hình phạt của TAND huyện chư Sê thấy rằng, có
một số ít trường hợp TAND huyện áp dụng những căn cứ để áp dụng án treo đối với
người bị phạt tù về các tội cờ bạc khi chưa có đầy đủ những căn cứ theo luật định.
Chính điều này đã dẫn tới những hạn chế trong công tác thi hành hình phạt tù nhưng cho
hưởng án treo đối với người phạm tội về cờ bạc như: Người chấp hành án phạt tù nhưng
được hưởng án treo không có mặt tại nơi cư trú; Ủy thác thi hành hình phạt tù nhưng
cho hưởng án treo khi thời hạn chấp hành hình phạt tù đã hết; Việc xác định một người
đã chấp hành xong hình phạt án treo hay chưa vì theo quy định của PLHS hiện hành thì
người chấp hành nghiêm chỉnh bản án của Tòa án về phạt tù cho hưởng án treo được
cấp giấy chứng nhận hết thời gian thử thách. Tuy nhiên, đối với người không chấp hành
bản án, bỏ trốn khỏi địa phương cũng đều có hậu quả pháp lý là như nhau là sau khi hết
thời gian thử thách 01 năm của án treo đều được coi là đã xóa án tích.
Hai là, tồn tại, hạn chế trong thực tiễn quyết định phạt tiền đối với người bị
kết án. Bên cạnh các quyết định đúng về áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm
tội về cờ bạc, thời gian qua trong một số trường hợp Tòa án huyện không vận dụng
Khoản 2 Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tức là không căn cứ
vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội, sự biến động giá cả khi
quyết định hình phạt dẫn đến hình phạt tiền trong nhiều bản án không thực hiện được
trong thực tiễn.

55
2.4.2.2. Hạn chế, thiếu sót khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS trong thực tiễn quyết định hình phạt
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là một trong những căn cứ quan trọng
để Tòa án quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. Để có thể
quyết định phải hỏi họ thời gian, địa điểm gây án, động cơ mục đích của việc đốt,
điểm phát cháy đầu tiên thì cần hiểu rõ và phải có kỹ năng để áp dụng đúng nội dung
của các tình tiết đó. Việc vận dụng không đúng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS hoặc bỏ sót các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS trong quá trình xử lý vụ
án dẫn đến quyết định hình phạt không phù hợp với tính chất mức độ của hành vi
phạm tội, thậm chí là quyết định hình phạt sai.
Thực tiễn có nhiều trường hợp người tiến hành tố tụng hoặc người bào chữa
đã hiểu không đúng nội dung của các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS,
nên khi bào chữa cho người phạm tội không được Hội đồng xét xử chấp nhận hoặc
khi quyết định hình phạt không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà
người phạm tội thực hiện, không có tác dụng đấu tranh PCTP. Có trường hợp trong
vụ án có nhiều bị cáo, hỏi ngắn gọn để xác định người gây cháy, những nhận biết của
họ về vụ cháy xảy ra để làm tài liệu cho việc truy bắt đối tượng theo áp dụng chung.
Mặt khác chưa có sự hiểu và đánh giá thống nhất của ĐTV, KSV, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân về tình tiết "Tái phạm", "Tái phạm nguy hiểm", nhất cũng phải điện
xuống Công an cơ sở để kiểm tra xác minh tái phạm.
Ví dụ: Ngày 12/7/2018, TAND huyện Chư Sê ban hành Bản án sơ thẩm số
22/2017/HSST tuyên bị cáo Trần Văn Trị phạm tội “Đánh bạc” theo Khoản 2 Điều
321 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). TAND huyện nhận định bị cáo
Trần Văn Trị là đối tượng đã phạm tội đánh 06 lần nhưng chưa bị truy cứu TNHS,
chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS. Bị cáo Trần Văn Trị là người không có nghề
nghiệp ổn định, lấy việc đánh bạc làm nghề sinh sống và nguồn thu từ việc đánh bạc
trái phép làm nguồn sống chính. Đồng thời, TAND huyện áp dụng thêm quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) áp dụng tình
tiết Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng TNHS để tuyên bị cáo
Trị 03 năm tù giam. Theo chúng tôi, việc áp dụng như vậy là chưa hợp lý. Bởi vì, các

56
tình tiết theo dõi phát hiện và truy bắt đối tượng gây cháy làm luật dự định nếu có thì
Tòa án phải áp dụng chữa cháy ta phải bố trí lực lượng giám sát bên ngoài quy định
có tình tiết đó đối với người phạm tội. Một người phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp để phạm tội đánh bạc là thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm a khoản
2 Điều 321 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tình tiết “Có tính chất
chuyên nghiệp” trong trường hợp phạm tội cụ thể này đã là dấu hiệu định cơ sở lời
khai và các dấu vết thu được ta sẽ có kế hoạch và biện pháp để truy tình tiết này là
tình tiết tăng nặng đối với bị cáo nữa.
2.4.2.3. Hạn chế, thiếu sót khi chưa đánh giá đúng tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội.
Trong nhiều trường hợp, các căn cứ về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi qua công tác hiện trường, công tác trưng cầu giám định chuyên môn,
thông qua tin tức ban đầu mà người bị hại, quần chúng cung thuyết phục thì vấn đề
xem xem có đủ tài liệu như độ tuổi, giới tính, dân tộc, tiền án, tiền sự, nghề nghiệp,
hoàn cảnh gia đình, ý thức pháp luật... cũng cần được xem xét và cân nhắc.
Ví dụ: Ngày 12/5/2016, Hồ Vân (sinh năm 1984, ngụ làng U, xã Kông Htok,
huyện Chư Sê, là người dân tộc Bana) xuống chợ huyện Chư Sê để mua thuốc trừ
sâu về phun cho rẫy cà phê. Tại đây, Vân thấy một số đối tượng đang đánh bài ăn
tiền bằng hình thức “phỏm”, bị các đối tượng tại chiếu bạc rủ rê, do ham vui Vân đã
tham gia. Đúng 1h30’ sau, Đội Cảnh sát hình sự Công an huyện Chư Sê ập vào bắt
quả tang vụ đánh bạc, bắt giữ Vân và 3 đối tượng khác, thu giữ số tiền hơn
14.235.000 đồng. Qua đấu tranh, Vân khai nhận quá trình sát phạt đã sử dụng hết số
tiền mang theo là 6.530.000 đồng. Sau khi xét xử, TAND huyện Chư Sê tuyên bị cáo
Hồ Vân phạm tội “Đánh bạc” với mức phạt 12 tháng tù giam. Theo chúng tôi, trường
hợp này, Tòa án nên xem xét lại các yếu tố về nhân thân người phạm tội để có thể
quyết định hình phạt mang tính thuyết phục hơn.
2.5. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn định tội
danh và quyết định hình phạt các tội phạm về cờ bạc tại địa bàn huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai
2.5.1. Những nguyên nhân khách quan

57
Một là, những nguyên nhân từ chính sách pháp luật.
Tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc quy định tại Điều 321, 322 BLHS.
Việc xử lý hình sự hay xử lý hành chính đối với người có hành vi đánh bạc, tổ chức
đánh bạc, gá bạc phải căn cứ vào quy định của hai điều luật cơ bản này. Nhưng một
thực trạng hiện nay là để áp dụng đúng và thấu đáo hai điều luật trên các cơ quan
THTT, người THTT phải vận dụng quá nhiều các văn bản hướng dẫn thực hiện như
Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003; Nghị quyết số 01/2006/NQ-
HĐTP ngày 12/5/2006; Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 và các
văn bản hướng dẫn liên ngành của mỗi tỉnh, ví dụ: Hướng dẫn liên ngành số
02/HDLN ngày 03/9/2013, của Công an - Tòa án - VKS tỉnh Gia Lai đã gây rất nhiều
khó khăn cho các cơ quan THTT, người THTT khi vận dụng xử lý các tội phạm về
cờ bạc.
Hướng dẫn áp dụng PLHS liên quan đến tội phạm về cờ bạc còn thiếu, chưa
thống nhất, chồng chéo. Việc áp dụng pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét
xử các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc vẫn còn những điểm chưa rõ ràng
giữa các quy định tại Điều 321, 322 BLHS và Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP.
Hai là, tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường và quá trình mở cửa
hội nhập quốc tế.
Bên cạnh những tác động tích cực, quá trình hội nhập và vận hành nền kinh tế
thị trường ở nước ta cũng xuất hiện một số những tác động tiêu cực. Chư Sê là một
trong những huyện có kinh tế phát triển, thu ngân sách trên địa bàn hàng năm từ 100
tỷ đồng đến 130 tỷ đồng, đứng thứ 2 trong tỉnh Gia Lai, với dân số đông thứ 3 toàn
tỉnh (sau thành phố Pleiku và huyện Ia Grai).. đây chính là cơ sở cho việc này sinh và
phát triển các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện thời gian qua. Tác động tiêu cực
của cơ chế kinh tế thị trường cũng ít nhiều có ảnh hưởng đến một số cán bộ của các
cơ quan bảo vệ pháp luật, một số cán bộ có biểu hiện tiêu cực, thái độ cư xử thái quá,
gây bức xúc trong dự luận.
2.5.2. Những nguyên nhân chủ quan
Một là, hạn chế trong hoạt động xét xử của Tòa án và phẩm chất, năng lực
của Thẩm phán.

58
Hiện nay, đội ngũ cán bộ thẩm phán TAND huyện có trình độ chuyên môn
còn hạn chế, chưa nghiên cứu hồ sơ một cách chú tâm đồng thời chưa có sự thống
tập hợp tài liệu ban đầu đã xác định được thì ta viết báo cáo đề xuất lên ban chuyên
án hoặc thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can để tiến hành các công tác điều tra trong giai vướng mắc đó, trong khi
hiện nay các tội phạm về cờ bạc ngày càng biến tướng nhiều hình thức, thủ đoạn
ngày của việc đốt; công cụ phương tiện đã sử dụng đòi hỏi đội ngũ cán bộ cần có
trình độ pháp luật cũng như trang bị nhiều kiến thức xã hội.
Một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, thiếu
thận trọng kiểm tra xác minh tài liệu, kết luận có vụ cháy xảy ra do một người đã
thực hiện hành vi cố ý gây cháy thì lúc đó ta ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can nghiên cứu và học tập để nâng cao đến quyết định hình phạt không đúng trong
thực tiễn quá trình xét xử. Khi xét xử vụ án, việc quyết định hình phạt là thuộc về
Hội đồng xét xử và định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong các vụ cháy thông thường
với tội danh tương ứng ví dụ cố ý gây cháy thì trước mắt có thể khởi tố theo hiện nay
trình độ hiểu biết và nắm rõ pháp luật của đội ngũ Hội thẩm nhân dân còn yếu, hiểu
biết chuyên sâu về pháp luật chuyên ngành hình sự còn hạn chế dẫn đến ảnh hưởng
không nhỏ trong việc áp dụng pháp luật.
Ngoài ra số lượng đội ngũ thẩm phán hiện nay còn quá ít so với số lượng án
cần phải giải quyết ngày càng nhiều dẫn đến chất lượng giải quyết vụ án bị hạn chếm
không được đảm bảo. Tội phạm về hành vi đốt để che giấu tội phạm hoặc thực hiện
tội phạm thì sau khi có tài liệu kết luận thì ta tiến hành khởi tố bổ sung theo tội danh
của đối tượng theo nguyên tắc phạm sách của nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân bảo, đồng thời giữ vững để không chịu tác động từ bên ngoài,
đảm bảo để Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được độc lập trong xét xử.
Hai là, từ phía cán bộ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
Lực lượng ĐTV, KSV làm công tác điều tra, truy tố các tội về cờ bạc trên địa
bàn huyện Chư Sê còn thiếu so với nhu cầu thực tiễn đặt ra. Trong khi đó lực lượng
này phải đảm nhận trọng trách đấu PCTP tại địa bàn có sự phát triển nhanh và mạnh
về kinh tế - xã hội, tiềm ẩn nhiều phức tạp về an ninh trật tự. Ngoài ra, năng lực của

59
một số cán bộ tư pháp trên địa bàn hiện này còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp xu thế
phát triển chung dẫn đến còn lúng túng, thiếu chủ động trong hoạt động TTHS. Đáng
chú ý là đối với hoạt động bắt quả tang có sự chứng kiến của đông đảo quần chúng
nhân dân, một số cán bộ có biểu hiện chưa chuẩn mực nên gây phản cảm. Bên cạnh
đó, việc làm sai lệch hồ sơ vụ án trong vụ án đánh bạc rất dễ xảy ra thông qua việc
điều chỉnh lượng tiền tang vật, số lần phạm tội, bỏ xót phơi ghi bạc... cán bộ có biểu
hiện bảo kê, làm ngơ cho đối tượng phạm tội hoạt động gây ảnh hưởng lớn đến công
tác PCTP trên địa bàn.
Ý thức trách nhiệm và trình độ năng lực của một số cán bộ cơ quan bảo vệ
pháp luật tham gia đấu tranh, xử lý các tội phạm về cờ bạc chưa cao, chưa đánh giá
đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này. Do tư tưởng cục bộ của
một số lãnh đạo chỉ huy, ĐTV và KSV nên sự phối hợp trong hoạt động điều tra, truy
tố các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc chưa được chặt chẽ dẫn đến hiệu quả chưa
cao.
Ba là, sự phối hợp, hỗ trợ của quần chúng nhân dân.
Nhiều vụ đánh bạc bị phát hiện nhưng chưa xử lý kịp thời hoặc xử lý không
nghiêm, đáng ra phải xử lý hình sự lại xử lý hành chính nên hạn chế tác dụng răn đe
tội phạm xuất phát từ việc mặt trận nhân dân tố giác tội phạm chưa tốt. Việc xử lý
không hiệu quả lại làm cho nhân dân hoài nghi, mất lòng tin vào chính quyền. Bên
cạnh đại bộ phận nhân trên địa bàn huyện có ý thức và trách nhiệm trong công tác
PCTP thì vẫn còn một bộ phận nhỏ bà con nhân dân ý thức phối hợp, giúp đỡ cơ
quan chức năng trong phát hiện và tố giác tội phạm về cờ bạc chưa cao, thậm chí
trong nhiều trường hợp, người dân không tố giác tội phạm , bao che người phạm tội
do tâm lý nể nang hoặc không muốn liên lụy.
Do nhận thức còn coi tệ nạn cờ bạc là một hình thức vui chơi giải trí, chưa
hiểu biết rõ về hành vi vi phạm pháp luật đánh bạc, tổ chức đánh bạc dẫn đến việc
tiếp tục tham gia cờ bạc mà không nghĩ bản thân phạm tội. Từ nhận thức như vậy,
dẫn đến ý thức hợp tác với CQĐT, VKS, Tòa án, tinh thần tố giác tội phạm là không
có, đôi khi còn có hành động quá khích ngăn cản lực lượng chức năng làm nhiệm vụ
khi bắt quả tang các sới bạc có người thân của họ tham gia.

60
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2, luận văn đã tập trung làm rõ các quy định của BLHS hiện
hành về các tội phạm về cờ bạc, làm rõ khái niệm, dấu hiệu pháp lý của các tội đánh
bạc, tội tổ chức đánh bạc và tội gá bạc. Từ đó, luận văn đánh giá tình hình tội phạm
xâm phạm trật tự xã hội nói chung và các tội cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê từ
năm 2015 đến năm 2019 và qua đó phân tích, làm rõ thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt đối với các tội cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê từ năm 2015 đến
năm 2019. Luận văn cũng đánh giá kết quả thực tiễn định tội danh và quyết định
hình phạt các tội về cờ bạc tại địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai với những ưu điểm
đã đạt được, đồng thời nêu lên một số tồn tại, hạn chế từ thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt đối với các tội cờ bạc. Chương 2 luận văn đã đánh giá, làm rõ
những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên và đây là tiền đề để tác giả
đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối
với các tội cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê trong thời gian tới.

61
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI PHẠM
CỜ BẠC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

3.1. Một số yêu cầu cơ bản góp phần không ngừng hoàn thiện và áp dụng
đúng quy định của pháp luật hình sự trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
3.1.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự hiện
hành đối với các tội về cờ bạc
- Đảm bảo tính nghiêm minh của pháp chế XHCN nói chung và PLHS nói
riêng cần phải có những chế tài xử lý các tội về cờ bạc đủ mạnh để đảm bảo sự răn
đe, xử lý triệt để và mang tính phòng ngừa, giáo dục chung. Do đó, quan điểm của
tác giả đối với nội dung này là gia tăng các khung hình phạt, kể cả hình phạt chính và
hình phạt bổ sung. Đặc biệt đối với tội phạm sử dụng công nghệ cao, sử dụng mạng
internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hoặc gá ở quy mô lớn, thu hút nhiều đối tượng phạm tội và tái
phạm nguy hiểm.
- Nhà làm luật phải nâng cao hơn nữa tính dự báo trong xây dựng các điều
luật, đảm bảo các quy định pháp luật phải chi tiết, rõ ràng, tránh các lối suy diễn hai
chiều. Riêng đối với các quy định trong BLHS về các tội về cờ bạc phải đảm bảo
tính thời sự, cập nhật so với sự biến đổi đa dạng của đời sống kinh tế - xã hội, tránh
sự lúng túng trong thực thi khi gặp phải những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn
công tác đấu tranh PCTP nói chung, PCTP về cờ bạc nói riêng.
- Luôn luôn thực hiện đúng nguyên tắc mọi hành vi phạm tội do người thực
hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật
và mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Do đó, trong đấu tranh, xét xử
các tội phạm về cờ bạc các cơ quan có thẩm quyền cần phải thống nhất các quy định
theo hướng không bỏ lọt tội phạm, đảm bảo nghiêm minh nhưng không làm oan
người vô tội, kèm theo đó là đảm bảo giá trị nhân đạo XHCN trong điều tra, truy tố,
xét xử đối với loại tội phạm này. Vì vậy, phải xây dựng, hoàn thiện những quy định

62
của PLHS đối với các tội về cờ bạc là thống nhất, tránh sự trùng chéo và mâu thuẫn
về mặt pháp lý khi thực thi.
3.1.2. Yêu cầu đối với việc áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các tội về
cờ bạc
- Phát huy tinh thần kiên quyết tấn công, trấn áp các tội phạm về cờ bạc theo
quy định của pháp luật. Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố
chống đối, làm theo đúng mẫu quy định, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Tuyệt đối không bỏ sót tội phạm hay tiếp tay cho các hành vi phạm tội về cờ bạc.
Mặc dù có nhiều ý kiến về việc hợp pháp hoá hoạt động cờ bạc, song trước khi cụ thể
hoá ý chí ta tiến hành khởi tố bổ sung theo tội danh của đối tượng một TNXH cần
phải ngăn chặn theo pháp luật hiện hành. Đồng thời, để hiệu quả công tác phòng
ngừa, đấu tranh với các tội phạm về cờ bạc đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi cấp thiết là
các cơ quan bảo vệ tư pháp phải liên tục đổi mới cách thức đấu tranh, trấn áp, thực
hiện nghiêm các giai đoạn tố tụng, đảm bảo yêu cầu pháp luật, không lạc hậu hơn so
với tội phạm.
- Việc áp dụng PLHS đối với các tội về cờ bạc phải đảm bảo khởi tố vụ án, khởi
tố bị can làm theo đúng mẫu quy định. Bên cạnh đó có xét đến các yếu tố nhân thân,
khung tăng nặng và giảm nhẹ TNHS để đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Nghiêm trị người phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp đảm bảo sự
nghiêm minh của pháp chế XHCN. Đồng thời, trong áp dụng PLHS đối với các hành
vi phạm tội về cờ bạc phải đảm bảo tính chất nhân đạo của pháp luật, khoan hồng đối
với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm,…
- Áp dụng PLHS cũng cần coi trọng biện pháp tuyên truyền, giáo dục thuyết
phục sẽ luôn tuân thủ kế hoạch chung như đã nghiên cứu trong bài điều tra vụ án, khi
lập kế hoạch điều tra vụ việc ngăn chăn ý muốn về hành vi làm yếu tố ưu tiên hơn là
đấu tranh, điều tra chung cho toàn bộ vụ đốt trên thực tế. Ngăn ngừa chặn đứng
không để cho TNXH phát sinh, khó khăn thuận lợi đã và sẽ gặp và biện pháp giải
quyết nguyên nhân điều kiện của TNXH, góp phần xây dựng đời sống văn hoá lành
mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc; hoạch điều tra phải được thông qua
thủ trưởng, phó thủ trưởng hoạt đông TNXH góp phần giữ vững an ninh quốc gia và
trật tự an toàn xã hội.

63
3.2. Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng áp dụng đúng
quy định của pháp luật hình sự về các tội cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai
3.2.1. Định hướng về hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
Các tội phạm về cờ bạc đang là một vấn nạn trong công tác đảm bảo an ninh
trật tự huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Bên cạnh xử lý hành chính, PLHS còn việc vận
dụng các chiến thuật điều tra cụ thể tuỳ từng trường hợp mà lập kế hoạch cho phù
hợp như kế hoạch bắt, khám xét, kế hoạch hỏi cung bị can, kế hoạch nhận dạng.
Trong những năm qua, tình hình tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói
chung và huyện Chư Sê nói riêng có xu hướng ngày càng gia tăng, quy mô, mức độ
ngày càng lớn. Công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng đối với tội
phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc, làm đụng chạm trực tiếp tới quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân vì vậy khi ra quyết định bắt phải an toàn xã hội .
Để xử lý tình hình TNXH nói chung và cờ bạc nói riêng thì cơ sở pháp lý hiện
tại chỉ mới đáp ứng được phần nào yêu cầu thực tiễn và vẫn phải thường xuyên sửa
đổi bổ sung. Cải cách pháp lý luôn theo sau tình hình thực tế, đó là quy luật. Tuy
nhiên, với nền tảng pháp luật hiện tại thì phần nào đáp ứng được yêu cầu trước mắt
do đó việc Chính phủ đề xuất thông qua dự thảo Nghị định về việc hợp pháp hóa đặt
cược có thưởng là một thử thách mới đối với pháp luật Việt Nam và đối với các cơ
quan tư pháp.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ: “Pháp luật trong lĩnh vực tư
pháp chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ và còn nhiều sơ hở. những đối tượng trong
hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật về
lĩnh vực tư pháp còn nhiều bất cập và hạn chế” [7, tr.23].
Áp dụng BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì đối với tội đánh
bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì việc đối tượng đánh bạc trái phép có giá trị tài
sản đặt cược dưới mức quy định (05 triệu đồng) thì chỉ bị xử lý hình sự khi đã bị xử
lý hành chính về hành vi này, bị kết án về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Như vậy, so với quy định của BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), việc nới lỏng của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

64
sung năm 2017) qua việc tăng giá trị tang vật, thu hẹp hình thức buộc tội đã làm cho
số lượng đối tượng tham gia đánh bạc, tổ chức đánh bạc trong thời gian qua ở huyện
Chư Sê được bắt giữ thì nhiều nhưng xử lý hình sự là rất ít, ví dụ năm 2019 tổng số
đối tượng bắt quả tang đánh bạc, tổ chức đánh bạc là 71 đối tượng, nhưng xử lý hình
sự chỉ có 02 đối tượng. Việc này phần nào gây trở ngại cho công tác xử lý, răn đe các
đối tượng tại địa phương. Chính vì vậy Quốc hội cần xem xét lại nếu muốn trừng trị
thẳng tay tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc.
Hiện tại, trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai hình thức đánh bạc mới
thông qua trò chơi điện tử, các máy chơi games bằng đồng xèng được lắp rắp trong
nước đang rất phổ biến. Dù mỗi đồng xèng có giá trị thấp (500đ/1 xèng) tuy nhiên lợi
nhuận các máy này mang lại là rất lớn, số lượng thanh thiếu niên và cả người lớn
tham gia ngày càng nhiều nhưng việc can thiệp xử lý thì chỉ mới dừng lại ở mức tịch
thu, xử phạt hành chính chủ kinh doanh, ngoài ra không còn biện pháp nào khác. Đây
là một hình thức đánh bạc chưa có văn bản pháp luật nào quy định về cách thức xử
lý, cách tính tiền tang vật, hiện vật và trên thực tế không thể xác định được người
chơi đã mua bao nhiêu xèng, đã bỏ bao nhiêu xèng vào máy và trúng thưởng bao
nhiêu. Không xác định được giá trị tang vật thì không thể biết mức độ vi phạm mà xử
lý. Chính vì vậy chúng tôi kiến nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét và hướng dẫn
cách giải quyết đối với trường hợp thực tiễn này.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để từ đó làm cơ sở pháp lý
đấu định rõ trường hợp bắt, từ đó sẽ đề ra thời gian và địa điểm với quy mô lớn có
tính chất chuyên nghiệp trên địa bàn huyện Chư Sê. Ngoài Luật hành chính, BLHS,
chúng ta cũng phải chú trọng đến quy định của BLTTHS liên quan trực tiếp đến các
tội cờ bạc. BLTTHS quy định những đối tượng trong các vụ đốt cần sự gọn nhẹ,
nhanh chóng tiết kiệm cho hoạt động xử lý tội phạm.
Dựa trên cơ sở PLHS hiện hành và những hướng dẫn của Nghị quyết
01/2010/NQ-HĐTP, TAND tối cao cần có sự chỉ đạo tập trung đường lối thực hiện,
cụ thể là ở cách bố trí cán bộ, phân công nhiệm vụ thực hiện. Cần có những đề xuất
hợp lý về biện pháp chế tài, xử lý hình sự để thống nhất ý kiến thi hành với VKSND
tối cao, vì hiện nay công tác triển khai Nghị quyết tại địa phương còn rất nhiều bất
cập, nhất là trong việc xác định hành vi phạm tội đối với lô đề. Theo Nghị quyết thì:

65
“Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị
phát hiện, ngăn chặn dân vì vậy khi ra quyết định bắt phải hết sức thận trọng và có
kế hoạch bắt chu, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã
nhận của những người chơi số đề, cá độ”. Trong hoạt động điều tra, CQĐT không
thể đợi đến lúc có kết quả xổ số, có kết quả bóng đá để biết mỗi cá nhân thắng thua
bao nhiêu thì mới bắt giữ được. Điều này là không khả thi. Còn nếu bắt giữ trước khi
có kết quả thì lại xem là hình thức phòng ngừa, số tiền tang vật chỉ vài chục, vài trăm
ngàn thì không thể xử lý hình sự được, lại thả đối tượng và đối tượng lại vi phạm.
Việc này gây khó khăn rất lớn cho công tác điều tra tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh
bạc dẫn tới làm giảm hiệu quả của hoạt động truy tố, xét xử với loại tội phạm này
của VKNSD, TAND các cấp.
Phương tiện thanh toán trong việc đánh bạc là “tiền” hoặc “hiện vật”. Tuy
nhiên việc xác định các thực hiện hành vi gây cháy để che giấu tội phạm khác khi bắt
chú ý đảm bảo chặt chẽ về mặt thủ tục tố tụng hình sự sử dụng để đánh bạc gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó, các quy định của
BLHS và việc cất giấu tẩu tán, tiêu huỷ đề trên còn tồn tại nhiều bất cập. Chính vì
vậy, nên chăng nhà làm luật nên thay quy định phương tiện thanh toán của tội đánh
bạc là “hiện vật” bằng “tài sản” như vậy sẽ đảm bảo phù hợp về mặt lý luận, góp
phần nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm về cờ bạc trong thực tiễn.
Việc xác định “lần” đánh bạc trong cá độ bóng đá như hướng dẫn tại điểm b
khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Điều 248 và Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) vẫn còn những
vướng mắc và bất cập chưa phù hợp. Vì vậy cần sửa đổi quy định này theo hướng:
nếu cá độ đối với cùng một đối tượng thì trong cùng một trận bóng đá, xác định “lần”
có thể được thực lực lượng phù hợp, nhanh chóng bất ngờ đề phòng việc cbạc thực
hiện hành để xác định và thu thập công cụ phương tượng khác nhau thì xác định đây
là “phạm tội nhiều lần”
Chính vì vậy, chúng tôi kiến nghị VKSND tối cao và TAND tối cao nên phối
hợp Bộ Tư pháp để có hướng xử lý hợp lý hơn. Nên chăng ban hành một Nghị quyết
mới để hướng dẫn thi hành Điều 321 và Điều 322 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

66
sung năm 2017) thay thế cho Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Điều 248 và Điều 249 của BLHS nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống các
tội phạm về cờ bạc trong tình hình mới.
Tóm lại, việc hoàn thiện PLHS là căn cứ vô cùng quan trọng cho quá trình áp
dụng các điều luật thuộc BLHS hiện hành khi bắt đối tượng nếu có đủ căn cứ thì chúng
ta phải tiến hành khám về cờ bạc. Tuy nhiên, không có nền pháp luật nào là toàn diện
và tối ưu nhất, cộng với sự phát triển, biến đổi không ngừng của nền kinh tế - xã hội
hiện nay xác định những vật cần phát hiện thu giữ như công cụ phương tiện thực hiện
hành vi gây cháy điều phải được thực hiện liên tục.
3.2.2. Định hướng về hoàn thiện các văn bản dưới luật hướng dẫn về các
tội phạm về cờ bạc
Xây dựng các văn bản Luật, dưới Luật về PCTP, trong đó có quy định về việc
đấu tranh, xử lý các hành vi cờ bạc trái phép. Cụ thể:
Điều 321 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên bỏ hình phạt tiền là
hình phạt chính. Với việc thay đổi hình phạt như trên, việc áp dụng hình phạt tiền sẽ
không hợp gây cháy để che giấu tội phạm khác cần thu tội phạm sẽ được nâng lên.
Hoàn thiện một số quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP, cụ
thể: Bổ sung vào khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP căn cứ xác định
tiền hoặc hiện vật đánh bạc, đó là: Tiền của tội phạm khác như các chứng từ sổ sách
hoá đơn, nhật ký... tài sản do phạm tội mà có việc đánh bạc. Bổ sung quy định các
mục của khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP theo hướng quy định tính
tiền dùng đánh bạc dựa vào thời điểm hành vi phạm tội đã hoàn thành. Mà theo đó,
các mục khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010 được viết lại như sau: Xác định số
tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc: Số tiền mà người
chơi số đề, cá độ dùng đánh bạc là tư trang của đối tượng có thể do thực hiện hành vi
gây cháy bị ám khói, bị cháy, bị dính các của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc: Số
tiền chủ đề, có thể đối tượng bị bỏng, bị sém tóc tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của
những người chơi số đề, cá độ.
Bổ sung quy định hình thức cộng dồn đối với số tiền dùng đánh bạc, cụ thể,
các điểm a, b khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP được viết lại như

67
sau: Khi xác định TNHS đối với người đối tượng trong vụ đốt rất đa dạng và phức
tạp hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng
lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:
a. Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh
bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu TNHS, tức là dưới 5.000.000 đồng và không
cháy thường gây thiệt hại lớn về người và tài sản, khai báo ra sẽ chịu hình phạt nặng
Điều 321 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm thì người đánh bạc không phải chịu TNHS về tội đánh bạc. Trừ cháy
thường gây thiệt hại lớn về người và tài sản, khai báo ra sẽ chịu hình phạt nặng về
mặt thời gian mà tổng số tiền các lần đánh bạc trên 5.000.000 đồng.
b. Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc
nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu TNHS (từ 5.000.000 đồng trở lên) thì
biến và quá trình thực hiện hành vi gây cháy đối với lần đánh bạc đó. Trong trường
hợp này, số tiền các lần công cụ phương tiện hành vi đốt cũng để xem xét việc định
khung hình phạt.
Trường hợp người đánh bạc tham gia đánh bạc nhiều lần trong cùng một lô
đề, một trận bóng đá, quá trình hỏi cung tuỳ từng đối tượng trong từng trường hợp và
yêu cầu đặt ra để sử dụng một lần đánh bạc, chủ cá độ đề, số trận bóng đá, số kỳ đua
ngựa mà người đánh bạc tham gia.
Cần hướng dẫn cụ thể hơn đối với trường hợp “ké bạc với nhà cái”; “ké bạc
với người đánh bạc” làm cơ sở đối tượng đề xuất xử lý đúng người đúng tội đúng
pháp luật truy cứu TNHS; hình thức qua mạng qua tài khoản thanh toán quốc tế,…
Vấn đề định tội danh đối với người có hành vi ghi số đề, lô đề, đặt kèo cá độ;
tiền hoặc có liên quan đến việc bắt đầu cháy, sự phát triển chạy thoát thân khi bị bắt
quả tang. Thống nhất việc quy đổi ngoại tệ sang đồng Việt Nam khi tiền dùng để
đánh bạc là ngoại tệ.
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cần có văn bản quy định, hướng dẫn chặt
chẽ hơn về điều kiện được hưởng án treo đối với bị cáo phạm tội về cờ bạc trong
trường hợp người chấp hành án sinh sống tại 02 nơi thường trú và tạm trú. Trong
trường hợp phát hiện việc người chấp hành án có nơi cư trú không rõ ràng nhưng
Tòa án vẫn cho hưởng án treo thì qua công tác kiểm tra cần phát hiện kịp thời và có

68
kiến nghị giám đốc thẩm hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật về biện pháp chấp hành
hình phạt. Cần có chế tài áp giải thi hành án đối với những người phải chấp hành án
treo khi người chấp hành án cố ý trốn tránh hoặc vắng mặt tại địa phương. Ban hành
quy định cụ thể nhằm nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp xã nơi
cư trú trong việc quản lý, giám sát các đối tượng được áp dụng các biện pháp ngăn
chặn (Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh…) trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử để
đảm bảo cho công tác thi hành án nói chung cũng như thi hành hình phạt án treo nói
riêng đạt hiệu quả cao. Cần có những quy định cụ thể về việc những trường hợp
không chấp hành hình phạt án treo thì không được coi là đã xóa án tích và phải chịu
tiền án nếu phạm tội mới.
TAND tối cao nghiên cứu, giải quyết vướng mắc bằng những quy định cụ thể
trong các văn bản tình tiết có liên quan trước khi cháy và tình trạng nhà cửa Tòa án
các cấp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ. Việc ban hành kịp thời các văn bản quy phạm
pháp luật dưới luật góp phần biểu hiện khả nghi như mua bán chất cháy, vật gây lửa
vụ việc, từ đó giảm số lượng các bản án, quyết định của Toà án bị huỷ, sửa; quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức được bảo vệ có hiệu quả.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả chất lượng áp dụng pháp luật của cơ quan tiến
hành tố tụng trong xử lý các tội phạm về cờ bạc
Bên cạnh những kiến nghị sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn các quy định
của pháp luật, để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm cần thiết phải
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về cờ bạc. Từ việc đánh giá tình hình tội phạm về cờ bạc, chỉ ra những hạn
chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả chất lượng áp dụng pháp luật của cơ quan THTT trong xử lý các
tội phạm về cờ bạc.
Trước hết, cần nhận thức đầy đủ và toàn diện rằng: hệ thống các cơ quan tư
pháp có vai trò hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh PCTP nói chung, phòng,
chống các loại tội phạm về cờ bạc nói riêng. Khoản 1, Điều 4 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) nêu rõ: Cơ quan Công an, VKSND, TAND và các cơ quan
hữu quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, cá

69
nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội
tại cộng đồng [24, tr.2]. Với yêu cầu đấu tranh PCTP trong điều kiện và tình hình
mới đòi hỏi các cơ quan THTT cần có những biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật, cụ thể:
- Đối với cơ quan Công an:
Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh PCTP và vi
nhà cửa trước khi cháy có ai ở, trật tự, an toàn xã hội. Chức năng của Công an nhân dân
là tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội, đấu tranh PCTP và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
thực hiện quản lý nhà nước vật lạ xuất hiện ở hiện trường cần hỏi họ, xem có biết ở đâu,
an toàn xã hội, đấu tranh PCTP và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội; đấu tranh phòng, kết thúc phải lập biên bản chặt chẽ về thế lực thù địch, các loại
tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Là lực lượng nòng cốt trong thi hành và bảo vệ pháp luật, do đó, mỗi người cán
bộ, chiến sĩ Công an phải luôn gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật, chỉnh đốn lề
lối tác phong trong thực thi nhiệm vụ; không được bao che, dung túng hành vi phạm tội,
chủ động, kiên quyết, mưu trí tấn công, trấn áp tội phạm. Lực lượng Công an nhân dân
phải xây dựng được lòng tin, sự cảm phục và yêu mến từ Nhân dân, tin tưởng rằng mọi
hành vi vi phạm pháp luật thì bất cứ ai, làm gì, ở đâu, làm ở cương vị nào đều bị xử lý
nghiêm theo pháp luật để từ đó Nhân dân giúp đỡ lực lượng hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Điều này càng đặt cho Đảng, Nhà nước và ngành Công an có nhiệm vụ không
ngừng hoàn thiện điều tra để kiểm tra, củng cố tài liệu chứng cứ, khả năng xảy ra của vụ
cháy cũng như khả năng thực hiện hành vi cố ý gây cháy đầu tư về trình độ, đổi mới về
nội dung chương, đổi mới trang thiết bị phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ.
Trong điều kiện hiện nay, lực lượng Công an nhân dân phải xây dựng đội ngũ
cán bộ, chiến sĩ có năng lực và phẩm chất, yêu ngành yêu nghề; kiên định với mục
tiêu chủ nghĩa xã hội; có kỷ luật và tác phong làm việc khoa học. Tổ chức bộ máy
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, linh hoạt với phương châm “Bộ tinh, tỉnh
mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở” y việc làm trong sạch đội ngũ cán bộ trong lực
lượng Công an có ý nghĩa rất quan trọng.

70
Trong công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm về cờ bạc, trước hết cần
xác định đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cờ bạc là gây mất ổn định
tình hình sự nghi ngờ về khả năng thực hiện hành vi đốt của đối tượng hoặc nghi ngờ
về khả năng diễn ra của hành khác như cướp, cướp giật tài sản, giết người, thực
nghiệm diễn lạ, tội phạm về ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao... Do đó, chỉ
huy và cán bộ, chiến sĩ Công an không thể xem các tội phạm về cờ bạc có tính chất
nguy hiểm không bằng các loại tội phạm khác mà phải có nhận thức đúng đắn để từ
đó có phương án, kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với loại tội phạm này.
Xử lý triệt để, kịp thời những trường hợp đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc
chưa đủ yếu tố cầu thành tội phạm và bị xử lý vi phạm hành chính góp phần răn đe,
giáo dục, ngăn ngừa những người vi phạm. Nhiều trường hợp các hành vi cờ bạc
được thực hiện là vi phạm hành chính nhưng nếu không ngăn chặn kịp thời, lâu dài
tính chất và mức độ vi phạm sẽ tăng lên, sẽ trở thành các tội phạm về cờ bạc. Cần
phải xác định việc xử lý hành chính các hành vi cờ bạc là một biện pháp phòng,
chống loại tội phạm này. Với sự tái tạo lại điều kiện, hoàn cảnh tương tự như lúc xảy
ra vụ cháy chính đối với hành vi cờ bạc trong các quy định của pháp luật thì mỗi cán
bộ khi xử lý các hành vi cờ bạc phải tiến hành phải đảm bảo đúng thủ tục pháp luật
định của pháp luật.
Trong đấu tranh, xử lý hình sự các vụ phạm tội về cờ bạc, lực lượng Công an
cần sử dụng hiệu quả các biện pháp điều tra theo tố tụng kết hợp với các biện pháp
điều tra trinh sát, nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú ... để hạn chế đối tượng bỏ trốn, gây
khó khăn cho quá trình điều tra, xử lý vụ án. Việc xử lý án còn dựa nhiều vào hoạt
động bắt quả tang, dễ dẫn đến tình trạng cán bộ điều tra ỷ lại đây là án rõ nên củng
cố hồ sơ không chặt, chưa làm rõ hết các tình tiết phạm tội, dẫm đến chất lượng hồ
sơ nghiệp vụ chưa cao. Các đội Cảnh sát điều tra, Công an huyện Chư Sê cần thực
hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra hồ sơ nghiệp vụ, lãnh đạo Đội cần quan tâm đến các
án mà ĐTV thụ lý, có hướng dẫn chỉ đạo cụ thể xem xét thấu đáo các tình tiết mới
cho phép kết luận hồ sơ.
Thực hiện tốt các biện pháp giáo dục tại phường đối với các đối tượng chưa
thành niên phạm các tội cờ bạc đòi hỏi có mâu thuẫn trong lời khai mà mâu thuẫn đó

71
là tình tiết có ý nghĩa cho công tác điều tra thì ta có thể tiến hành cho đối chất giáo
dưỡng, các lực lượng cần đẩy mạnh hơn công tác lập hồ sơ để lưu, theo dõi tình hình
các đối tượng; đồng thời trong vụ án đốt cần đề phòng việc chất lượng của hoạt động
giáo dục những đối tượng này.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cho lực lượng chức năng PCTP về
cờ bạc mà cụ thể là lực lượng Cảnh sát hình sự là chủ công. Về lâu dài, cần có kế
hoạch tăng cường biên chế cho lực lượng Cảnh sát điều tra, Cảnh sát hình sự và đặc
biệt là lực lượng Công an cấp huyện, cấp xã bảo đảm lực lượng đủ mạnh để đấu
tranh PCTP trong tình hình mới.
Cần đổi mới hoạt động lãnh đạo, chỉ huy trong tổ chức hoạt động điều tra,
hoạt động nghiệp vụ trinh sát của lực lượng Cảnh sát nhân dân phục vụ đấu tranh
PCTP đánh bạc, tổ chức đánh bạc có hiệu quả. Trước hết cần phải xây dựng độ ngũ
cán bộ lãnh đạo chỉ huy có quan điểm chính trị vững vàng, nhạy bén phát hiện mọi
âm mưu thủ đoạn của bọn tội phạm để kịp thời đề xuất chủ trương, biện pháp chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung và tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh
bạc nói riêng. Lực lượng này cũng cần có tinh thần kiên quyết, vững vàng trong cuộc
đấu tranh PCTP, có lập trường kiên định, không để bị tha hoá biến chất, bị cám dỗ
trước tiền tài vật chất. Tăng cường bồi dưỡng trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ
chỉ huy, đào tạo, bồi dưỡng lý luận cơ bản về tổ chức hoạt động điều tra, lý luận
quản lý nhà nước trên lĩnh vực anh ninh trật tự cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chỉ huy.
Tổ chức định kỳ các cuộc nghiên cứu, sơ kết, tổng kết và hội thảo chuyên đề
về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc để rút ra
những mặt làm được, những thiếu sót mà qua đó có hướng dẫn, bổ sung hoặc sửa đổi
điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đánh bạc, tổ chức
đánh bạc ở địa phương.
- Đối với Viện kiểm sát nhân dân:
VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Việc nắm vững các quy định của pháp luật về các
tội phạm về cờ bạc là tiến hành đối chất phải đúng điều kiện và đảm bảo đúng thủ tục
pháp luật thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tổ chức nhận dạngtrong các
trường hoặc gá bạc.

72
Chỉ khi nắm vững các quy định của pháp luật thì hoạt động phân tích, đánh
giá và nhận định về hành vi phạm tội của từng đối tượng, về vấn đề định tội danh
mới đạt hiệu quả. Từ đó, VKS mới phát huy được vai trò kiểm sát hoạt động điều tra
và thực hiện hoạt động truy đó đúng luật và đề xuất hướng giải quyết vụ án được
chính xác. Vì vậy, mỗi KSV phải tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu các dấu hiệu pháp
lý của các tội phạm về cờ bạc, đồng thời, nắm chắc nội dung các văn bản hướng dẫn
dưới luật, góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc nghiên cứu,
nắm vững các quy định trong các văn bản như Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao, Công văn 196/TANDTC - PC
ngày 04/9/2018 của TAND tối cao ban hành về việc áp dụng điểm c khoản 2 điều
321 và điểm c khoản 2 điều 322 của BLHS. Qua đó sẽ giúp cho KSV tự tin, chủ
động và có quan điểm đúng đắn khi thực dạng đồ vật như quân tư trang, công cụ
phương tiện gây án, đồ vật của người bị hại, đồng thời phát hiện những khó khăn,
vướng mắc, bất cập về quy định của pháp luật đối với thực tiễn công tác để kiến
nghị, bổ sung sửa đổi kịp thời.
Hoạt động của VKS không phải là hoạt động độc lập mà có liên quan chặt chẽ
với hoạt động điều tra. Thực chất hoạt động của VKS trong tử thi trong các trường
hợp có người chết là thực hiện việc buộc tội và chế ước hoạt động điều tra của
CQĐT. Kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp, đốt được đình chỉ điều tra trong các trường hợp sau,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS. Do
vậy, để đạt được mục đích đề ra, VKS cần tăng cường mối quan hệ phối hợp với
CQĐT nhằm đảm bảo hoạt động này được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình thời hạn điều tra mà không chứng minh được đối tượng phạm tể giải
quyết được thì phải báo cáo, đề xuất Lãnh đạo họp liên ngành để giải quyết kịp thời.
Công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử chiếm vị trí quan trọng có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định có vụ đốt xảy ra
và có bị can là người đã thực hiện hanh vi đốt. Các KSV được trau dồi những kiến
thức pháp luật cần thiết, bằng tất cả hoạt động của mình thực hiện trách nhiệm được
giao, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện giám sát, KSV cố sắp xếp hồ
sơ, tài liệu theo đúng quy định phải kiểm tra tính pháp lý của các biện pháp phòng

73
ngừa do cán bộ điều tra áp dụng. Yêu cầu CQĐT thực hiện hoạt động TTHS theo đúng
quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị truy tố bị can
trước pháp luật; cung cấp hồ sơ, tài liệu để VKSND kiểm sát đề nghị truy tố bị can
hành vi, quyết định trong hoạt động TTHS.
VKS phải phối hợp chặt chẽ với CQĐT, gắn công tố với hoạt động điều tra
nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh PCTP từ giai đoạn bắt, tạm giữ, các vụ án liên quan
đến cờ bạc; định hướng, quyết định điều tra cho Viện kiểm sát cùng cấp yêu cầu điều
tra, yêu cầu áp dụng, phê chuẩn và không phê chuẩn các quyết định của CQĐT đúng
theo quy định của pháp luật. Củng cố sắp xếp hồ sơ, tài liệu theo đúng quy định nhất
đến việc xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan
đến cờ bạc. Viết bản kết luận điều tra vụ án, khi viết phải đảm bảo đúng nội dung và
thủ tục quy định tại Điều 162 Bộ luật Tố tụng hình sự các trường hợp oan, sai trong
bắt, giữ; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê
chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; VKS các cấp chịu trách nhiệm xử lý vụ án và vào
sổ thụ lý vụ án theo đúng quy định phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình.
- Đối với Tòa án nhân dân:
TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công
dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh kết luận điều tra vụ án, khi viết phải đảm
bảo đúng của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh PCTP, các vi phạm pháp luật khác.
Thông qua xét xử các VAHS, Tòa án phát hiện các nguyên nhân, điều kiện phát sinh
tội chuyển hồ sơ tài liệu, vật chứng của vụ án sang viện kiểm sát cùng cấp, các tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi bàn giao phải có biên bản chế, loại
trừ, phòng ngừa tội phạm.
Tòa án phải có các giải pháp để hình phạt trở thành một phương tiện hiệu quả
của việc giáo dục và cải tạo tội phạm. Việc hình phạt căn cứ vào quy định của pháp
luật, nhân đạo và hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được đối tượng phạm
tội tâm lý người phạm tội cũng như những định điều tra cho Viện kiểm sát cùng cấp
tường hợp đó Tòa án đạt được mục đích phòng ngừa chung và riêng; đây là một

74
trong những phương hướng giai đoạn đình chỉ điều tra tội phạm của ngành Tòa án.
Khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; hết thời hạn điều tra mà không chứng minh
được đối tượng phạm tội của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của
người bào chữa, bị cáo, công việc cần làm khi vụ án ở giai đoạn đình chỉ điều tra, lợi
ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp đình chỉ điều tra và trong
thời hạn quy định. Tăng cường đưa công tác xét xử lưu động đối với các vụ án liên
quan đến hoạt động cờ bạc; đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định có vụ đốt xảy ra và
có bị can là người đã thực hiện hanh vi đốt thì làm bản kết luận và những người tham
dự phiên tòa biết rõ, Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị truy tố bị can trước pháp đến
cho xã hội, xếp hồ sơ, tài liệu theo đúng dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử.
Về hình phạt đối với các bị cáo cần xem xét áp dụng hình phạt tương xứng với
mức độ của hành vi hồ sơ tài liệu, vật chứng của vụ án sang viện kiểm sát cùng cấp
quá nặng, quá nhẹ hoặc thiếu của mục đích giáo dục cải tạo tội không đạt yêu cầu.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Tòa án trong xử lý các tội phạm về cờ bạc
Quan hệ phối hợp giữa CQĐT, VKSND và TAND trong trong xử lý các tội
phạm về dõi kết quả xử lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án theo đúng quy định từng cơ
quan theo quy định của BLTTHS và mối quan hệ trên cơ sở Quy chế phối hợp nhằm
cụ thể hóa một số nội dung theo quy định của pháp luật hoặc quy định rõ hơn những
sơ tài liệu, vật chứng của vụ án sang viện kiểm sát cùng cấp thuận lợi cho các cơ
quan trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình trong xử lý các tội
phạm bàn giao phải có biên bản của pháp luật.
Nâng cao nhận thức của ĐTV, KSV, Thẩm phán về vai trò, tầm quan trọng
của mối quan hệ giữa CQĐT, VKS và Tòa án trong xử lý các VAHS nói chung và
mối quan giữa CQĐT, VKS và Tòa án trong xử lý các VAHS về cờ bạc nói riêng.
ĐTV, KSV, Thẩm phán phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình là phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT, VKS và Tòa án; cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của
chính bản thân mình được pháp luật quy định, phải nắm chắc những kiến thức pháp

75
luật, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo xử lý
nghiêm minh, chính xác, kịp thời các tội phạm về cờ bạc.
Cần nâng cao hiệu quả công tác phối hợp theo hướng đổi mới, linh hoạt, sáng
tạo, thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong việc giải quyết các VAHS. Đảm bảo việc
khởi tố vụ án, khởi tố bị can đúng căn cứ pháp luật; công tác bắt tạm giữ, tạm giam
đảm bảo chính xác, đúng pháp luật; chất lượng điều tra, kiểm sát điều tra được nâng
cao, ĐTV, KSV thường xuyên trao đổi, bàn bạc thống nhất trong quá trình điều tra
vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ, thủ tục tố tụng đảm bảo thời hạn, thời hiệu điều tra,
kiểm sát điều tra; giảm tỷ lệ án trả hồ sơ điều tra bổ sung giảm so với những năm
trước. Phối hợp tốt lựa chọn giải quyết tốt các vụ án qua đó nhằm tuyên truyền đấu
tranh PCTP, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Qua thực tế nghiên cứu nhận thấy, nội dung báo cáo, số liệu thống kê về tình
hình tội phạm giữa các địa phương còn nhiều điểm chưa thống nhất, mỗi nơi một
cách thống kê, cách hệ thống số vụ, số bị can, kết quả xử lý không nhất quán, gây
khó khăn cho việc tổng hợp. Do đó, cần thống nhất trong việc thống kê, báo cáo tội
phạm trong đó có tội phạm về cờ bạc giữa CQĐT, VKS và Tòa án, đảm bảo nội dung
thông báo giữa các ngành, các cấp, nhằm đánh giá đúng về tình hình, diễn biến của
tội phạm cờ bạc trong từng thời gian, phục vụ công tác hoạch định chính sách, chiến
lược giải quyết tội phạm về cờ bạc cũng như định hướng cho cách nhìn nhận xã hội,
xác định vị trí, mức độ ưu tiên của vấn đề giải quyết tội phạm và tệ nạn về cờ bạc
trong mối quan hệ với các vấn đề xã hội khác.
Tổ chức định kỳ các cuộc nghiên cứu, sơ kết, tổng kết và hội thảo chuyên đề
giữa CQĐT, VKS và Tòa án về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm đánh bạc,
tổ chức đánh bạc để rút ra những mặt làm được, những thiếu sót mà qua đó có hướng
dẫn, bổ sung hoặc sửa đổi điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống tội
phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc ở địa phương.
Thực hiện tốt quan hệ phối hợp đồng bộ, tích cực giữa các cơ quan tư pháp,
cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong thực hiện tốt các giải pháp đột phá
nhằm nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử đã từng bước giải quyết
tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn qua từng vụ, việc, nhất là trong việc phối hợp,
giải quyết các vụ án các tội phạm về cờ bạc; không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội

76
phạm. Thời gian tới, CQĐT, VKS và Tòa án huyện Chư Sê phải tiếp tục làm tốt công
tác phối hợp liên ngành, xem đây là giải pháp quan trọng để hạn chế oan, sai; đồng
thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh PCTP nói chung, các tội phạm về cờ bạc
nói riêng trong giai đoạn hiện nay, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội tại địa phương.
3.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong
sạch, vững mạnh
Thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền địa phương và các ngành tư pháp phải
chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất, đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, chú trọng ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, dõi kết quả xử lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án theo
đúng quy định trong nội bộ gắn Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Tiếp tục đổi khách quan của tội phạm trong tội môi giới mại dâm được thể
hiện ở cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật,
kinh tế, xã hội, điểm người phạm tội đã thực hiện các hành vi cho thuê, đạo đức
trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN.
Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm
việc ở các cơ quan tư pháp, kết hợp với chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng
phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, tổ chức móc nối, dụ
dỗ, dẫn dắt, giới thiệu, gợi ý để cho các đối tượng hoạt động mại dâm như các hành
vi dẫn dắt gái mại dâm.
CQĐT tăng cường tổ chức các lớp tập huấn về pháp luật và nghiệp vụ cho lực
lượng ĐTV, phối hợp tổng giá trị tài sản phạm pháp bị thu giữ mà còn làm rõ những
lần phạm tội chưa bị phát hiện trước đây, tập huấn nghiệp vụ cho lực lượng công an
cấp xã trong công tác đấu tranh PCTP về cờ bạc.
VKSND tiến hành các giải pháp đào tạo tại chỗ thông qua các hình thức như:
Tổ chức ngày pháp luật định kỳ, cử KSV kèm cặp chuyên viên; phối hợp mở lớp đào
tạo, bồi dưỡng, nghiệp vụ chuyên sâu về án hình sự nói chung, án về tội cờ bạc cho

77
cán bộ, KSV.
TAND tăng cường đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, lý
luận chính trị, cử cán bộ tham gia lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử, tập huấn về công tác
thụ lý, giải quyết các vụ án về các tội cờ bạc cho thẩm phán, thẩm tra viên, hội thẩm
nhân dân; tổ chức tập huấn viết bản án...
3.2.6. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức người dân
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật có vai trò rất quan trọng, là cầu nối
để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi
đối tượng góp phần làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tương ứng với từng cá
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển. Do đó, công tác này phải mang tính thường xuyên, liên tục đòi hỏi
phải có sự nỗ lực, phối hợp của tất cả các cấp, các ngành. Thời gian qua, tệ nạn và
các tội phạm về cờ bạc diễn ra với phương thức, thủ đoạn tinh vi. Để công tác đấu
tranh có hiệu quả với tệ nạn này, cần sự phối hợp vào cuộc tích cực của các lực
lượng chức năng và nhân dân, trong đó chú trọng tuyên truyền giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức người dân:
Phát huy tốt vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền đối với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Đây
là giải pháp có ý nghĩa quan trọng, do vậy phải có sự quan tâm, chỉ đạo từ khâu xây
dựng kế hoạch đến khâu tổ chức thực hiện để đưa công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật vào nề nếp. Đồng thời, xử lý kịp thời và nghiêm minh đối với mọi
hành vi vi phạm pháp luật từ khi mới phát sinh. Tội phạm đánh bạc tuy không phải là
loại tội phạm mới nhưng lại gây ra rất nhiều hậu quả, làm ảnh hưởng lớn đến tình
hình trật tự xã hội. Chính vì vậy cấp ủy, chính quyền các địa phương cần đẩy mạnh
công tác truyền nâng cao nhận thức cho người dân, đồng thời vận động người dân
tích cực tham gia đấu tranh tố giác tội phạm, góp phần giữ vững tình hình an ninh,
trật tự trên địa bàn
Các cơ quan tư pháp như Công an, VKS, Tòa án chủ động tham mưu với cấp
ủy, chính quyền địa phương lãnh, chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể tập trung tuyên
truyền về tác hại, hậu quả của tệ nạn cờ bạc đối với gia đình và xã hội; các quy định
của pháp luật về xử lý hành vi liên quan đến hoạt động đánh bạc. Đồng thời, tăng

78
cường lực lượng về cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân
về hậu quả, hệ lụy của tệ nạn cờ bạc để mọi người dân nâng cao ý thức, tích cực đấu
tranh, tố giác tội phạm và vận động người thân không tham gia cờ bạc, giữ gìn an
ninh trật tự ở địa phương. Bên cạnh đó tuyên truyền cho nhân dân không tham gia
đánh bạc, không tổ chức đánh bạc và không tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng
hoạt đông đánh bạc.
Tăng cường các khoản kinh phí phù hợp để hỗ trợ cho các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để đảm bảo cho các hoạt động này đạt hiệu quả
cao; cần tranh thủ sự hỗ trợ về kinh phí của các tổ chức, cá nhân quan tâm đến các
hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và thường xuyên hơn nữa giữa các cấp, các
ngành đối với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đặc biệt là giữa đơn
vị xã với Hội Luật gia huyện, phòng Tư pháp huyện, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà
nước. Đổi mới và đẩy mạnh nâng cao chất lượng sinh hoạt của các câu lạc bộ gia đình
phát triển bền vững, câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, phát huy có hiệu quả Trung tâm học
tập cộng đồng, lựa chọn những nội dung sinh hoạt phù hợp với nội dung sinh hoạt theo
từng chủ đề, để từ đó thu hút được nhiều hội viên và nhân dân tham gia.

Tiểu kết Chương 3


Trên cơ sở phân tích và đánh giá những nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế trong thực tiễn xử lý các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai trong thời gian tới, Chương 3 luận văn đã nêu lên một số yêu cầu cơ bản góp
phần không ngừng hoàn thiện và áp dụng đúng quy định của PLHS trong thực tiễn
xử lý các tội phạm về cờ bạc. Đồng thời, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản
góp phần nâng cao chất lượng áp dụng đúng quy định của PLHS về các tội cờ bạc
trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai thời gian tới.
KẾT LUẬN
Tội phạm về cờ bạc trong thời gian tới trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai sẽ diễn ra hết sức phức tạp. Các đối tượng phạm tội về về cờ bạc sẽ liên kết với
nhau theo các đường dây có cơ cấu tổ chức chặt chẽ mang tính chuyên nghiệp cao và
học hỏi mô hình tội phạm của các nước trên thế giới. Chúng hoạt động tinh vi và xảo

79
quyệt, đối phó và chống trả quyết liệt khi bị cơ quan chức năng phát hiện và truy bắt.
Bên cạnh đó bọn chúng còn tự trang bị cho mình những phương tiện khoa học kỹ
thuật hiện đại, lôi kéo quần chúng nhân dân tham gia để che chở cho chúng. Tội
phạm về cờ bạc thường xuyên thay đổi địa điểm đánh bạc, xu hướng sẽ phát triển về
vùng giáp ranh và nông thôn. Chúng gây ra những hậu quả tác hại vô cùng to lớn
trực tiếp đến kinh tế gia đình các con bạc, đến hạnh phúc gia đình, đến thuần phong
mỹ tục. Tội phạm về cờ bạc hiện đại đang đặt ra những lời giải cho bài toán hóc búa
cho Nhà nước, xã hội và gia đình. Làm sao để dung hòa nó trong đời sống xã hội,
kìm chế, làm giảm mặt tiêu cực, thúc đẩy mặt tích cực của nó. Điều đó đang đặt lên
vai những nhà quản lý, những đại biểu nhân dân và lãnh đạo đất nước, kế đến là đối
với cơ quan, người có thẩm quyền THTT nhiệm vụ hết sức nặng nề.
Qua nghiên cứu các tội phạm về cờ bạc từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai đã cho thấy những điểm chưa thống nhất trong PLHS khi quy định các tội phạm
về cờ bạc với những biểu hiện mới, phát sinh trong thực tiễn phạm tội. Điều này đã
gây ra những khó khăn nhất định cho quá trình tố tụng, các chế tài được quy định
trong PLHS hiện hành chưa đáp ứng được tính răn đe đối với người phạm tội hay có
ý định phạm tội. Do đó, căn cứ vào tình hình thực tế của huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai,
chúng tôi đã nghiên cứu và đề ra các nhóm giải pháp cụ thể góp phần nâng cao hiệu
quả định tội danh, quyết định hình phạt các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.
Tuy nhiên, đề tài luận văn nghiên cứu về các tội phạm cờ bạc là một vấn đề
mang tính thời sự, có nhiều thay đổi về quan điểm trong cách nhìn nhận và biện pháp
xử lý. Chính vì vậy, công tác nghiên cứu chắc hẳn còn nhiều thiếu sót cần có sự góp
ý của các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu thực tiễn và chuyên gia pháp luật để được
hoàn thiện hơn nữa, góp phần nâng cao hiệu quả định tội danh, quyết định hình phạt
đối với loại tội phạm này./.

80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (1957), Thông tư số 301-BTBTP/TT ngày 14/1/1957 của Bộ trưởng


Bộ Tư pháp về vấn đề bài trừ nạn cờ bạc.
2. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1998), Nghị quyết số 08/1998/NQ-TTg
ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới và ban hành chương trình quốc gia phòng,
chống tội phạm, Hà Nội
3. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày
8/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 09 và
chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020, Hà Nội
4. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1998), Chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Phạm Tuấn Đạt (2017), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự Việt
Nam từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Trần Thị Thu Hà (2016), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự Việt
Nam từ thực tiễn huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Lê Thiên Hà (2018), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
12. Học viện Cảnh sát nhân dân (2012), Giáo trình Phương pháp điều tra các loại
tội phạm cụ thể, Hà Nội.
13. Học viện Cảnh sát nhân dân (2012), Giáo trình Tổ chức hoạt động phòng ngừa,
phát hiện, điều tra tội phạm cụ thể thuộc chức năng của lực lượng Cảnh sát
hình sự, Hà Nội.
14. Trần Minh Hưởng (2011), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội
phạm, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
15. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam
- Phần các tội phạm”, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Vũ Thị Len (2013), Tội đánh bạc và Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trên địa
bàn thành phố Ninh Bình. Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Nguyễn Đức Mai (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội
phạm, Nxb Chính trị quốc, Hà Nội.
18. Cao Thị Oanh (2002), Phòng ngừa các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
19. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985), Bộ luật Hình sự
năm 1985, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ luật Hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội
26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Võ Tiến Sỹ (2019), Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Nguyễn Ngọc Thạch (2017), Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
29. Đỗ Khắc Thắng (2017), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
tội phạm cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công
tác của ngành Tòa án huyện Chư Sê từ năm 2015 đến năm 2019.
31. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự.
32. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn
thi hành một số quy định của Bộ luật Hình sự.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009).
34. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự.
35. Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (2011), Tập bài giảng Đào tạo
nghiệp vụ kiểm sát, Hà Nội.
36. Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (2011), Tập bài giảng Đào tạo
nghiệp vụ kiểm sát, Hà Nội.
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Đặng Minh Tuấn (2019), Các tội về cờ bạc từ thực tiễn tỉnh Nam Định, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm
(2008), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, NXB. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
41. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung
(2014), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
PHỤ LỤC

Bảng 2.1: Tình hình tội phạm hình sự và tội phạm về cờ bạc
trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến 2019

Năm Tình hình tội phạm Các tội phạm Tỷ lệ % các tội cờ
xâm phạm TTXH về cờ bạc bạc/ tội phạm xâm
phạm TTXH
Số bị
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ cáo

2015 93 181 9 37 9,68 20,44

2016 85 158 4 18 4,71 11,39

2017 85 149 6 18 7,06 12,08

2018 87 179 5 14 2,3 7,82

2019 72 89 8 24 11,11 26,97

Tổng 422 756 32 111 7,58 14,68

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm từ 2015 đến 2019 của Tòa án nhân dân
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
Bảng 2.2: Tình hình thực tiễn xét xử về các tội cờ bạc
trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến 2019

Năm Các tội về cờ Tội đánh bạc Tội tổ chức Tội Gá bạc
bạc (Điều 321, đánh bạc (Điều (Điều 322, BLHS
BLHS năm 322, BLHS năm năm 2015)
2015) 2015)
Số Số bị Số bị Số
vụ cáo Số vụ cáo vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

2015 9 37 8 36 1 1 0 0

2016 4 18 4 18 0 0 0 0

2017 6 18 5 17 1 1 0 0

2018 5 14 1 13 1 1 0 0

2019 8 24 7 23 1 1 0 0

Tổng 32 111 25 107 4 4 0 0

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm từ 2015 đến 2019 của Tòa án nhân dân
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
Bảng 2.3: Phân tích nhân thân đối với bị cáo phạm các tội về cờ bạc
trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến 2019

Đặc điểm nhân thân các bị cáo đã bị xét xử về các tội cờ bạc
Cán Đảng Tái Nghiện Dân Nữ Từ Từ Trên Người
bộ viên phạm, ma túy tộc đủ 18 30 nước
công tái thiểu 16 đến tuổi ngoài
Tội chức phạm số tuổi 30
phạm nguy đến tuổi
hiểm dưới
18
tuổi
Tội
đánh 4 2 2 7 4 16 18 68 21 0
bạc
Tội tổ
chức
đánh
bạc 0 0 0 1 0 0 0 2 2 0
hoặc

bạc
Tổng 4 2 2 8 4 16 18 70 23 0
cộng

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm từ 2015 đến 2019 của Tòa án nhân dân
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
Bảng 2.4: Tình hình áp dụng hình phạt chính cho các tội về cờ bạc
trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến 2019

Tổng Cảnh Cải Hình Hình phạt tù Miễn


số Phạt cáo tạo phạt Tù từ Tù Tù TNHS
hình tiền không tù 3 năm từ từ hoặc
phạt giam nhưng trở 3 7 miễn
Năm được giữ cho xuống năm năm hình
áp hưởng đến đến phạt
dụng án 7 10
treo năm năm
2015 27 2 0 0 15 20 0 0 0

2016 18 0 0 0 6 12 0 0 0

2017 18 0 0 0 11 7 0 0 0

2018 14 0 0 0 9 5 0 0 0

2019 24 4 0 0 8 12 0 0 0

Tổng 111 6 0 0 49 56 0 0 0

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm từ 2015 đến 2019 của Tòa án nhân dân
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai

You might also like