You are on page 1of 91

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LAN

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ
NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LAN

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ
NỘI

Ngành : Luật kinh tế


Mã số : 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS.TS. Lê Mai Thanh

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Lan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ............. 7
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ .................................................... 7
1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ .......................................................................... 17
1.3. Vị trí, vai trò của cơ quan quản lý thị trường trong hệ thống
các cơ quan bảo về quyền sở hữu trí tuệ ............................................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 30
2.1. Thực trạng xác định hành vi xâm phạm và các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ .......................................................................... 30
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
bởi cơ quan quản lý thị trường .............................................................. 42
2.3 Thực tiễn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua hoạt động của
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội ............................................ 49
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ CỦA CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........... 66
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động hệ thống cơ quan Quản lý thị trường trong việc bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ ......................................................................................... 66
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ của Cục quản lý thị trường thành phố Hà
Nội ......................................................................................................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QLTT: Quản lý thị trường
SHTT: Sở hữu trí tuệ
SHCN Sở hữu công nghiệp
TRIPS: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế phát triển hiện nay, nhiều công ty, doanh nghiệp đã rất
thành công nhờ khai thác có hiệu quả quyền SHTT. Xu thế này đã khẳng định
tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Thực tế
này đã đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm đến vấn đề SHTT trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn.
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả không chỉ bảo vệ lợi ích chính
đáng của chủ sở hữu nhằm thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu sáng tạo, sản
xuất, kinh doanh mà còn góp phần nâng cao đời sống đời sống vật chất và
tinh thần cho toàn xã hội. Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) nên vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống sản xuất, buôn
bán hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn phải xác lập theo các cam
kết chung trong khuôn khổ tổ chức này. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy,
tình trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ ở nước ta hiện nay vẫn khá phổ biến và
ngày càng phức tạp, trong khi đó các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý
các hành vi xâm phạm này chưa thực sự phát huy hiệu quả. Vậy nên, bảo vệ
quyền SHTT là một trong những mục tiêu trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội. Cục QLTT thành phố Hà Nội là một trong những cơ quan chuyên trách
của Nhà nước thực hiện chức năng phòng, chống, xử lý các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ; gian lận thương mại; hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa bàn thành phố Hà Nội. Bảo vệ quyền
SHTT là một trong những chức năng nhiệm vụ của Cục QLTT thành phố Hà
Nội. Qua thực tiễn, hoạt động này của Cục QLTT thành phố Hà Nội đã đạt
được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, thực
tiễn áp dụng pháp luật còn nhiều vướng mắc chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra. Do vậy, cần phải nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể thực trạng bảo vệ
quyền SHTT thông qua hoạt động mang tính chức năng của Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội để có giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng
cao hiệu quả công tác này trên thực tế.

1
Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập này, tác giả đã chọn đề tài “Bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, SHTT
ngày càng trở thành một trong những công cụ được sử dụng để nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế các quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Do vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở
nước ta hiện nay để giải quyết được những thách thức trong quá trình phát
triển và hội nhập quốc tế có ý nghiaxm vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Liên quan đến việc nghiên cứu pháp luật, đánh giá thực tiễn hoạt động bảo vệ
quyền SHTT thực tế đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu, các bài viết
trên báo và các tạp chí chuyên ngành,… nổi bật là các công trình đã được
công bố sau: Bùi Thị Dung Huyền (2006), “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng
biện pháp dân sự tại toà án nhân dân”, Tạp chí Toà án nhân dân, Số16/2006;
Tào Thị Huệ (2014), “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp kiểm soát
biên giới”, Tạp chí Luật học, Số 3/2014; Nguyễn Thanh Tú (2010), “Bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ: chế độ tài sản và chế độ trách nhiệm dưới góc độ pháp
luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 2/2010; Nguyễn Ngọc
Sơn (2005), “Bảo vệ và thực thi có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ của ngành
hải quan - điều kiện quan trọng để Việt Nam gia nhập WTO”, Tạp chí Luật
học, Số 2/2005; Trần Văn Hải (2016), “Một số vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, Số 4/2001; Đặng Vũ Huân (2005),
“Nâng cao vai trò nhận thức xã hội trong hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 5/2005; Hoàng Anh Công (2006),
“Pháp luật hải quan với việc thực thi bảo vệ quyền SHTT”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, Số 12/2006; Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), “Thực thi bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ của hải quan Việt Nam đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 5/2008. Cùng một số luận án,
luận văn: Vũ Thị Hải Yến (2008), “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sỹ, Đại học Luật Hà Nội;

2
Nguyễn Thị Ly Na (2012), “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội;
Trần Văn Khanh (2012), “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự -
Quy định của pháp luật Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ,
Đại học Luật Hà Nội; Ngô Thị Hoà (2012), “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với
tên thương mại bằng biện pháp hành chính - Pháp luật Việt Nam, thực trạng và
giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ Đại học Luật Hà Nội…
Các công trình nghiên cứu trên đây đã luận giải một số vấn đề lý luận
của việc bảo vệ quyền SHTT nói chung, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo
vệ quyền SHTT và thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền SHTT trên một số lĩnh
vực và bằng phương thức, biện pháp cụ thể. Tuy nhiên, nghiên cứu về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tác nghiệp của
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội, cơ quan quản lý thị trường lớn thứ
hai trong cả nước, chưa được nghiên cứu tổng thể. Trên cơ sở tham khảo và
kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề
tài đã công bố, luận văn đi sâu nghiên cứu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích cứu luận văn:
Luận văn đánh giá pháp luật bảo vệ quyền SHTT và các biện pháp bảo
vệ trong đó đặc biệt bảo vệ thông qua thiết chế bảo vệ là cơ quan quản lý thị
trường tại đại bàn cụ thể - Hà Nội để có thể đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật bảo vệ quyền SHTT và tăng cường hiệu quả hoạt động bảo vệ
quyền SHTT tại Cục QLTT thành phố Hà Nội.
- Nhiệm vụ nghiên cứu luận văn:
+ Luận văn sẽ phân tích lý luận chung về bảo vệ quyền SHTT; chỉ ra
những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ quyền SHTT như: Căn cứ, các
biện pháp bảo vệ, thẩm quyền bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; vai trò của cơ quan
QLTT và chức năng nhiệm vụ trong bảo vệ quyền SHTT..
+ Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền
SHTT qua thực tiễn tại Cục QLTT thành phố Hà Nội.

3
+ Trên cơ sở đánh giá đó, luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền SHTT tại Cục QLTT
thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả
giới hạn nghiên cứu đề tài vào một số nội dung cụ thể sau đây:
- Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn bảo vệ quyền
SHTT qua thực tiễn Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;
- Về thời gian: Từ năm 2005 (thời điểm Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
được ban hành) đến nay;
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung vào vấn đề bảo vệ khi
quyền SHTT bị xâm hại mà không mở rộng đến vấn đề xác lập và thực hiện
quyền của các chủ thể khác. Ngoài ra, luận văn cũng không mở rộng đến hoạt
động bảo vệ quyền SHTT của các cơ quan/tổ chức liên quan khác mà chỉ dựa
trên hoạt động QLTT thực hiện bởi Cục Quản lý thị trường Hà nội.
Dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu là cơ sở pháp luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thực tiễn
bảo vệ quyền SHTT tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, luận văn
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lenin. Đây là phương pháp luận khoa học
được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, logic, phương pháp hệ
thống, nghiên cứu liên ngành v.v được sử dụng khi nghiên cứu Chương 1- lý
luận về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ;

4
Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh,
thống kê… được sử dụng khi đánh giá thực tiễn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
theo pháp luật Việt Nam tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;
Phương pháp tổng hợp, quy nạp… được sử dụng khi đề cập phương
hướng và giải pháp nâng cao hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Cục
Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;
Phương pháp lập luận logic được sử dụng khi nghiên cứu đề xuất các
phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ theo pháp luật Việt Nam tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn có một số đóng góp nhất định khu trú vào một số vấn đề cụ
thể sau:
- Luận văn hệ thống hóa và góp phần bổ sung cơ sở lý luận về bảo vệ
quyền SHTT.
- Luận văn phân tích, bình luận, đánh giá tổng thể hoạt động bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội trong những
năm qua.
- Luận văn đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam tại Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm tìm hiểu
về lĩnh vực pháp luật này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ qua hoạt động Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trí tuệ tại Cục Quản lý thị trường thành
phố Hà Nội

5
6
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Trí tuệ là khả năng nhận thức lí tính đạt đến một trình độ nhất định. Thuật
ngữ “sở hữu trí tuệ” được dùng để chỉ các loại quyền tài sản bắt nguồn từ những
thành quả sáng tạo trí tuệ của con người. Thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” trong Công
ước Thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới chưa có được một định nghĩa
chính thức. Các quốc gia thành viên soạn thảo Công ước Công ước Thành lập Tổ
chức sở hữu trí tuệ thế giới được ký tại Stockholm vào ngày 14 tháng 7 năm
1967 lựa chọn cách đưa ra một danh mục mang tính liệt kê các quyền liên quan
quy định tại Khoản viii, Điều 2: “Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa
học; chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và các
chương trình phát thanh truyền hình; các sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động của con người, các phát minh khoa học; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu
hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại; bảo hộ chống cạnh
tranh không lành mạnh; và “tất cả các quyền khác bắt nguồn từ hoạt động trí
tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học và văn học hoặc nghệ thuật” (Khoản
viii, Điều 2). Theo Từ điển Tiếng việt, khái niệm quyền sở hữu trí tuệ là “quyền
của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ” [45] .
Hiện nay, pháp luật các nước không định nghĩa thế nào là quyền SHTT
mà chỉ liệt kê các đối tượng của quyền SHTT. Ví dụ như pháp luật của Hoa
Kỳ không định nghĩa quyền SHTT mà chỉ quy định cụ thể về từng đối tượng
của quyền SHTT. Bộ luật Hoa Kỳ năm 1996 (United States Code 1996) dành
hẳn Quyển 7, Chương 58 để đưa ra quy định về bảo hộ giống cây trồng;
Quyển 15, chương 22 về nhãn hiệu; toàn bộ Quyển 17 về quyền tác giả;
Quyển 35 về văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp [27].
Hiệp định TRIPS dành toàn bộ phần II để nêu ra các đối tượng của
quyền SHTT, gồm quyền tác giả, quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn
địa lý, kiểu dáng công nghiệp, patent (văn bằng bảo hộ sáng chế), giống cây

7
trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bảo hộ thông tin bị mất và giúp chống các
hoạt động cạnh tranh không lành mạnh [20].
Sở dĩ các quốc gia không đưa ra định nghĩa quyền SHTT vì các đối
tượng của SHTT luôn thay đổi. Trong môi trường kinh doanh toàn cầu hóa,
thị trường ngày càng đông đúc, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng
con người đã tạo ra nhiều sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện đại
nên đưa ra định nghĩa về SHTT thì định nghĩa sẽ nhanh chóng lỗi thời. Do đó,
pháp luật về quyền SHTT của nhiều nước quy định định nghĩa bằng cách liệt
kê các đối tượng của tài sản trí tuệ.
Theo pháp luật Việt Nam, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi
bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2019 Luật SHTT quy định: “Quyền
sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm
quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. Như vậy, quyền SHTT bao gồm
các quyền sở hữu đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, tác phẩm khoa học,
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn
hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng.
1.1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ
Theo quy định cuả pháp luật, quyền SHTT là một loại quyền tài sản.
Quyền SHTT có những đặc điểm sau:
- Quyền sở hữu trí tuệ mang tính chất vô hình
SHTT là loại tài sản vô hình, phi vật chất không thể nhìn thấy bằng mắt
thường nên chủ sở hữu của loại tài sản này sẽ giữ quyên, không nắm giữ vật
như những loại tài sản hữu hình khác. Khác với các loại tài sản hữu hình, chủ
sở hữu có đủ ba quyền gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định
đoạt, pháp luật về quyền SHTT không quy định gì về quyền chiếm hữu. Điều
này xuất phát từ đặc tính vô hình của các đối tượng SHTT. Chúng ta không thể
nắm bắt, chiếm hữu được các kiến thức về một giải pháp kỹ thuật hay một kinh
doanh công nghệ. Chỉ có một cách duy nhất để chiếm hữu chúng là giữ bí mật
kiến thức đó. Một khi kiến thức được công bố, phổ biến thì bất cứ ai cũng có khả
năng sử dụng và bắt chước theo. Chính vì điểm đặc thù này nên nếu các kiến

8
thức đó không được pháp luật bảo hộ, thì sẽ dẫn đến hậu quả là không ai chịu
phổ biến các bí quyết mà mình biết, mà hậu quả là trình độ khoa học kỹ thuật
không phát triển được. Ngoài ra, mặc dù quyền SHTT là tài sản vô hình nhưng
nó thường có vai trò quan trọng và có giá trị kinh tế lớn, thậm chí loại tài sản này
có khả năng làm thay đổi vị thế của chủ sở hữu trên thương trường, hoặc quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp [19].
- Quyền SHTT bị giới hạn về thời hạn bảo hộ
Sự bảo hộ độc quyền của loại tài sản này bị khống chế bảo hộ trong
một khoảng thời gian nhất định. Theo Luật SHTT của Việt Nam, quyền tài
sản của các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm
khuyết danh có thời gian bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm
được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật
ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác
phẩm được định hình thì thời gian bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm
được định hình. Quyền sở hữu công nghiệp, ngoại trừ các đối tượng như tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh sẽ được pháp luật SHTT bảo hộ
vô thời hạn khi những đối tượng này thỏa mãn các điều kiện theo như quy
định của Luật SHTT; các đối tượng sở hữu công nghiệp khác chỉ được pháp
luật bảo hộ trong một khoảng thời gian nhất định. Một trong những lý do
quyền SHTT bị khống chế như vậy là để đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích
của chủ sở hữu tài sản SHTT và lợi ích xã hội bởi tài sản SHTT được con
người sáng tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của nhân loại được tốt hơn, do
đó chủ sở hữu, sau một khoảng thời gian được độc quyền sử dụng như khai
thác giá trị thương mại của tài sản trí tuệ do mình tạo ra, thì sản phẩm trí tuệ
ấy phải được nhân loại sử dụng thì mới có ý nghĩa [19].
- Quyền SHTT có tính lãnh thổ triệt để và bị giới hạn về không gian bảo hộ
Sự giới hạn bảo hộ và thực thi quyền trong phạm vi lãnh thổ mỗi quốc
gia cũng là một đặc điểm của loại tài sản này. Xuất phát từ điểm đặc thù này
nên tất cả các đối tượng SHTT ở lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan và
các đối tượng SHTT ở lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp sau khi được pháp

9
luật của một số quốc gia nhất định ghi nhận hoặc công nhận bảo hộ, thì các
quyền SHTT chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó [27].
1.1.1.3. Nội dung quyền sở hữu trí tuệ
Quyền SHTT là một loại quyền dân sự, các tác giả đồng thời là chủ sở
hữu của các loại tài sản này được pháp luật bảo hộ quyền nhân thân và quyền
tài sản. Trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu hai quyền
này sẽ tách bạch giữa tác giả và chủ sở hữu. Quyền nhân thân được pháp luật
trao cho các tác giả sáng tạo ra những đối tượng SHTT được bảo hộ trong các
lĩnh vực văn học, nghệ thuật hay kỹ thuật. Quyền nhân thân được pháp luật
bảo hộ vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm) như quyền đặt tên cho tác
phẩm, quyền được đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, quyền được
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, quyền được ghi tên là tác giả trong Bằng
độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng độc quyền sở
hữu công nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn. Quyền tài sản là những quyền được pháp luật trao cho chủ sở hữu
hoặc người sử dụng hợp pháp các đối tượng SHTT của mình. Hiện nay pháp
luật của Việt Nam chỉ bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các
đối tượng quyền ở lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan, quyền đối với
giống cây trồng và một số đối tượng thuộc lĩnh vực sở hữu công nghiệp như
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn. Các đối tượng sở hữu công nghiệp khác như nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh, pháp luật chỉ bảo hộ quyền tài sản,
không bảo hộ quyền nhân thân
- Chủ sở hữu quyền SHTT có quyền độc quyền sử dụng đối tượng
SHTT dưới những hình thức do pháp luật quy định
Sử dụng đối tượng SHTT có thể được hiểu một cách đơn giản nhất là
việc chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp quyền SHTT ứng dụng các đối
tượng SHTT được pháp luật bảo hộ của mình vào cuộc sống, vào việc sản
xuất, kinh doanh. Khai thác quyền SHTT là việc chủ sở hữu hoặc người sử
dụng hợp pháp quyền SHTT tiến hành khai thác các giá trị thương mại của
các đối tượng quyền SHTT thông qua các hoạt động như việc sử dụng các đối

10
tượng SHTT trong sản xuất, kinh doanh, chuyển giao quyền SHTT; chuyển
giao quyền sử dụng, quyền sở hữu, nhượng quyền thương mại, chuyển giao
công nghệ, góp vốn, hợp tác kinh doanh bằng quyền SHTT…Sau khi sản
phẩm trí tuệ được pháp luật bảo hộ, chỉ có chủ thể quyền SHTT mới có quyền
khai thác thương mại các đối tượng của mình vào cuộc sống, chỉ có họ mới có
quyền chuyển giao, chuyển nhượng quyền của mình. Nếu thiếu từ độc quyền
thì toàn bộ chế định về SHTT sẽ mất hết ý nghĩa bởi bất cứ ai cũng có thể ăn
cắp một sản phẩm sáng tạo, sáng kiến của các chủ thể quyền và làm giàu trên
công sức của những người lao động sáng tạo. Tuy nhiên, mặc dù quyền SHTT
là một dạng độc quyền song đây không phải là sự độc quyền mang tính tuyết
đối, trong một số trường hợp chủ sở hữu quyền SHTT sẽ không có quyền
ngăn cấm người khác sử dụng sản phẩm trí tuệ của mình nếu nó thuộc vào
những trường hợp pháp luật cho phép chủ thể khác sử dụng mà không cần xin
phép chủ sở hữu, những trường hợp này được gọi là giới hạn quyền SHTT.
1.1.1.4. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ
Quyền SHTT bao gồm các lĩnh vực truyền thống đó là quyền tác giả,
quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Pháp luật về SHTT của Việt Nam quy định, quyền SHTT là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên
quan; quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
- Quyền tác giả và quyền liên quan
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình
sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là
quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình
được mã hóa. Các tài sản quyền SHTT ở lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên
quan luôn được pháp luật bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản. Chủ sở
hữu quyền tác giả và quyền liên quan được độc quyền sử dụng và khai thác
tác phẩm của mình. Ngoại trừ những trường hợp được pháp luật cho phép sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận
bút, thù lao thì mọi hành vi sao chép, dịch, công bố, phổ biến…nhằm mục

11
đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả và
quyền liên quan đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.
Quyền tác giả và quyền liên quan được xác lập tự động.
Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa
đổi, bổ sung năm 2019 đã quy định các loại hình tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học cụ thể sẽ được bảo hộ quyền tác giả, bao gồm các loại hình
tác phẩm sau: a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và
tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; bài giảng,
bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; tác phẩm
sân khấu; tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương
tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh); tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng
dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản
vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học; tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu. Đối với quyền
liên quan, phát sinh trong các trường hợp như: người biểu diễn đồng thời là
chủ đầu tư có các tài sản đối với cuộc biển diễn như định hình cuộc biểu diễn
trực tiếp của mình; phát sóng hoặc truyền theo các khác đến công chúng cuộc
biểu diễn của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được;
phân phối bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn dưới hình thức bán, cho
thuê…Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, bao gồm: sao chép trực
tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình của mình; phân phối bản gốc và bản
sao cuộc biểu diễn dưới hình thức bán, cho thuê…Quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình, bao gồm: sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm,
ghi hình của mình; phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm,
ghi hình của mình và được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình
của mình và được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình đó được
phân phối đến công chúng. Quyền của tổ chức phát sóng như phát sóng, tái
phát sóng chương trình phát sóng của mình; phân phối đến công chúng
chương trình phát sóng của mình; định hình chương trình phát sóng của mình;
được hưởng các quyền lợi vật chất khi chương trình phát sóng của mình được

12
ghi âm, ghi hình, phân phối đến công chúng (Điều 29, 30, 31 Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019).
- Quyền sở hữu công nghiệp
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được hầu hết các nước trên thế
giới thừa nhận, bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch
tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa
lý. Có nhiều tiêu chí để phân nhóm các đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp, căn cứ vào tính sáng tạo của sản phẩm thì quyền sở hữu công nghiệp
có thể phân chia thành hai nhóm: quyền sở hữu công nghiệp đối với thành tựu
sáng tạo trí tuệ (sáng chế, kiểu sáng công nghiệp, bí mật kinh doanh và thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn) và quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
thương mại (nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và tên gọi
xuất xứ hàng hóa).
Nhóm quyền sở hữu trí tuệ là các thành tựu sáng tạo công nghệ là các
sản phẩm mang hàm lượng trí tuệ cao, có tính ứng dụng trong đời sống khoa
học, sản xuất để tạo ra các sản phẩm mới có giá trị sử dụng và kinh tế. Sáng
chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết
một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Kiểu dáng
công nghiệp là giải pháp mang tính mỹ thuật, dùng làm mẫu để chế tạo sản
phẩm công nghiệp, thủ công nghiệp. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là
cấu trúc không gian của các phần tử mạch và các mối liên kết các phần tử đó
trong mạch tích hợp bán dẫn, được bảo hộ nếu có tính nguyên gốc và tính mới
về thương mại. Bí mật kinh doanh là những thông tin thu được từ hoạt động
đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh
doanh. Nhóm thứ hai là các đối tượng liên quan đến chỉ dẫn thương mại được
sử dụng phổ biến trong các hoạt động kinh doanh thương mại, là dấu hiệu để
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân, tên gọi của các tổ chức,
cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh (tên thương mại), những chỉ dẫn về
hàng hóa bắt nguồn về lãnh thổ của một nước thành viên hoặc từ khu vực hay
địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng uy tín hoặc đặc tính khác của
hàng hóa chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định (chỉ dẫn địa lý).

13
Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộ quyền sử dụng độc quyền vì mục
đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công
nghiệp. Luật về sở hữu công nghiệp bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo và uy
tín kinh doanh. Sở hữu công nghiệp là sở hữu quyền dưới dạng tài sản vô
hình. Quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ trên cơ sở văn bằng hoặc khi
đối tượng được bảo hộ vẫn đáp ứng điều kiện bảo hộ.
- Quyền đối với giống cây trồng
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại
thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống,
có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự
phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây
trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di
truyền được. Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc
được hưởng quyền sở hữu. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống
cây trồng và vật liệu nhân giống. Quyền đối với giống cây trồng được xác lập
trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền sở hữu trí tuệ và nhu cầu bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ
1.1.2.1. Ý nghĩa của quyền sở hữu trí tuệ
Thứ nhất, SHTT là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục
cho chủ thể sở hữu và xã hội
Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công
nghiệp phát triển, SHTT được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng
nhất đối với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế ra đời
và được bảo hộ, chủ thể sở hữu sản phẩm trí tuệ đó không những có được tỷ
lệ tiền bản quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các
tài sản vô hình khác, mà chính người mua quyền SHTT đó và người xin cấp
giấy phép sử dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo hộ. Việc bảo
hộ này nhằm giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền SHTT,

14
nhưng đồng thời cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp
các hiệp định bảo hộ và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí
tuệ đã được bảo hộ đó bằng việc thương mại hoá chúng, chính việc thương
mại hoá các tài sản trí tuệ đã đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những
người mua quyền sử dụng tài sản trí tuệ đó những lợi ích kinh tế.
Thứ hai, SHTT là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng
như nền kinh tế quốc gia trong hội nhập
Hiện nay, năng lực SHTT là một trong những năng lực nội sinh quan
trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc gia, doanh nghiệp nào có được
càng nhiều quyền SHTT thì năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp
đó càng cao. Với các nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh thường thấp,
khả năng tiếp cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát triển bền vững và
hội nhập hiệu quả, cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan trọng của SHTT.
Cách hiệu quả nhất là phải tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về SHTT nhằm
xây dựng hệ thống SHTT có hiệu quả. Điều đó làm cho hoạt động SHTT xét
trên phạm vi quốc gia ngày càng có khuynh hướng tiến gần hơn tới chuẩn
mực chung của thế giới.
Thứ ba, SHTT là phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia cũng như từng doanh nghiệp
Sở hữu các tài sản hữu hình là sở hữu cái có giới hạn, còn sở hữu tri
thức, trí tuệ của nhân loại là sở hữu cái vô hạn, vì vậy sẽ là vô cùng bền vững
nếu biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả. SHTT là sở hữu một thứ tài
sản đặc biệt, khi sử dụng không những không mất đi mà còn có khả năng kiến
tạo những sản phẩm trí tuệ cao hơn, là những tiền đề cho sự phát triển mạnh
mẽ và bền vững đối với những chủ thể sở hữu và xã hội.
Thứ tư, tuân thủ hệ thống quản lý SHTT là cách thức để các nước đang
phát triển tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công
nghệ và hội nhập hiệu quả.
Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ bao gồm sao chép, mô phỏng,
thậm chí đánh cắp nguyên vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật – kinh doanh
là nguy cơ thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế

15
công nghiệp hoá. Bởi vậy, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ chấp nhận chuyển
giao công nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư nếu nhận thấy đủ cơ hội
khai thác an toàn, hiệu quả công nghệ đó ở quốc gia dự định đầu tư.Vì vậy,
xác lập được một hệ thống bảo hộ SHTT hiệu quả và việc tuân thủ hệ thống
quản lý bảo hộ SHTT một cách nghiêm túc sẽ là một điều kiện tiên quyết tác
động đến quyết định đầu tư và chuyển giao của các công ty nước ngoài.
Thứ năm, một hệ thống bảo hộ quyền SHTT hiệu quả là một yếu tố để
chống lại nguy cơ tụt hậu và phát triển đất nước
Một khi cơ sở hạ tầng và khả năng kỹ thuật cho việc cải tiến công nghệ
đã được thiết lập ở một nước, nhất là ở các nước đang phát triển, hệ thống bảo
hộ SHTT sẽ thành một yếu tố thúc đẩy sự nghiệp cải tiến kỹ thuật. Bởi vậy,
câu hỏi đặt ra cho các nước đang phát triển không phải là có thiết lập hệ thống
bảo hộ SHTT hay không, mà phải là thiết lập như thế nào và vào lúc nào
trong quá trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của đất nước sẽ là phù hợp cho việc
áp dụng một hệ thống bảo hộ toàn diện và hiệu quả [24].
1.1.2.2. Nhu cầu của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Quyền SHTT là một tài sản có tính đặc thù, được hình thành từ hoạt động
sáng tạo của con người và có tác dụng đem lại cuộc sống văn minh hơn cho con
người về cả mặt tinh thần và vật chất. Quyền SHTT không chỉ khuyến khích
người sáng tạo, nhà sáng chế mà những người khác có thể đưa ra những sáng
chế kế tiếp dựa vào những thông tin này. Tại thị trường sản phẩm và dịch vụ với
các chỉ dẫn thương mại của nhà kinh doanh cần được bảo hộ để thúc đẩy sản
xuất. Do đó, xã hội cần những biện pháp cụ thể để khuyến khích sáng tạo cũng
như bảo đảm thành quả đầu tư của doanh nghiệp, mặt khác nếu bảo hộ quá chặt
chẽ thì sản phẩm trí tuệ sẽ không được xã hội khai thác triệt để.
Lợi ích xã hội sẽ tăng lên khi càng có nhiều người tiếp cận và sử dụng
tài sản trí tuệ ấy. Việc cung cấp miễn phí là đi ngược với các nguyên tắc thị
trường. Việc cung cấp miễn phí sẽ làm nảy sinh tình trạng hạn chế đầu tư
hoặc sáng tạo. Tình trạng này làm nản lòng các nhà đầu tư đồng thời nếu sử
dụng miễn phí sẽ làm mất đi động lực phát triển, cạnh tranh. Do đó, cần một
cơ chế quản lý nhà nước đứng ra bảo hộ quyền SHTT là một giải pháp tránh

16
hiện tượng kẻ ăn không sử dụng tài sản trí tuệ. Đề đảm bảo cân bằng lợi ích
giữa người chủ sở hữu và xã hội, Nhà nước phải duy trì việc bảo hộ quyền
SHTT trong một thời gian thích hợp.
Vấn đề bảo vệ quyền SHTT có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
quốc gia mà trước hết là quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền SHTT,
chủ thể sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện
nay, sở hữu trí tuệ là một công cụ đắc lực đối với việc phát triển kinh tế- xã
hội của các quốc gia. Nhiều công ty, doanh nghiệp trên thế giới cũng như ở
Việt Nam đã rất thành công và trở nên nổi tiếng nhờ khai thác có hiệu quả
quyền sở hữu trí tuệ. Sở hữu trí tuệ trở thành một tài sản có giá trị của doanh
nghiệp, có thể được khai thác để tăng doanh thu và lợi nhuận, tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, cũng vì lợi nhuận
kinh tế mà có hiện tượng một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xâm phạm
quyền SHTT của người khác khi khai thác mà không được phép. Toàn cầu hóa,
khu vực hóa kinh tế sâu rộng trên khắp thế giới đã khiến các hành vi này ngày
càng thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức với thủ đoạn tinh vi, khó lường mà
hệ thống pháp luật về SHTT quốc gia chưa kịp thời điều chỉnh được. Vậy nên xu
hướng coi trọng sự bảo vệ SHTT từ chính chủ thể quyền bởi lẽ, nếu như quyền
sở hữu một tài sản hữu hình cho phép chủ sở hữu có quyền năng như chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt đối với tài sản và thực tế, chủ sở hữu có thể kiểm soát tài sản
một cách trực tiếp thì đối với tài sản hữu hình như SHTT thì khả năng xâm phạm
quyền từ chủ thể khác sẽ dễ dàng khi được công bố. Đồng thời, chủ thể quyền
SHTT gặp khó khăn khi tự bảo vệ quyền SHTT của chính họ sẽ đạt được hiệu
quả tối ưu hơn. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước có thiết chế và cơ chế phù hợp để
những đối tượng này phát huy khả năng, vai trò.
1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, trong đó
các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy định, có những
quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Quan hệ pháp luật được

17
các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Do đó, bảo vệ quan hệ pháp luật sẽ căn cứ vào
pháp luật; cụ thể là các văn bản pháp luật đảm bảo điều kiện cho việc thực thi
quyền và quy định các hình thức chế tài khi quyền đó bị xâm hại.
Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, những tranh chấp liên
quan đến việc xác lập quvền, sử dụng và chuyển giao các đối tượng thuộc
quyền SHTT thường phát sinh trong xã hội. Việc bảo vệ quyền SHTT là bảo
vệ quyền tài sản của các chủ thể và được hiểu dưới hai phương diện sau đây:
- Theo phương diện khách quan: Bảo vệ quyền SHTT là tổng hợp các
quy định của pháp luật được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp các chủ thể
quyền SHTT và các biện pháp xử lí hành vi xâm phạm quyền SHTT.
- Theo phương diện chủ quan: Bảo vệ quyền SHTT là những biện pháp
cụ thể được áp dụng để xử lí hành vi xâm phạm quyển sở hữu trí tuê tuỳ theo
tính chất, mức độ xâm phạm [19].
Theo từ điển Tiếng Việt, “Bảo vệ có nghĩa là giữ gìn cho khỏi hư
hỏng”, hay “Bảo vệ là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm để giữ cho được
nguyên vẹn…”. Tựu chung lại, đa phần các từ điển, tài liệu đều thừa nhận bảo
vệ là chống lại sự xâm phạm, hủy hoại tài sản hay các lợi ích hợp pháp khác
nhằm giữ gìn, bảo đảm sự nguyên vẹn của các giá trị.
Bảo vệ quyền sở hữu hiểu theo cách thức thông thường là sự chống lại
mọi sự xâm phạm đến tài sản, qua đó, bảo vệ chủ sở hữu được thực hiện đầy
đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của
mình. Dưới góc độ pháp lý, bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện
pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người,
nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu,
khắc phục thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu.
Tóm lại, bảo vệ quyền SHTT là tổng thể các nguyên tắc, quy định pháp
luật và các biện pháp tương ứng được ghi nhận trong pháp luật nhằm xử lý
hành vi xâm phạm quyền SHTT và khắc phục hậu quả của hành vi đó.
Cho dù được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, bảo vệ quyền SHTT
đều có một số đặc điểm sau đây:

18
- Đối tượng được bảo vệ là quyền SHTT. Chủ thể quyền SHTT là tác
giả của tác phẩm, tác giả của sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
kiểu dáng công nghiệp; chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan, chủ sở hữu
quyền sở hữu công nghiệp và một số chủ thể khác được chủ sở hữu quyền cho
phép sử dụng các đối tượng SHTT theo quy định của pháp luật.
- Cách thức bảo vệ quyền SHTT là áp dụng các biện pháp khác nhau để
xử lí hành vi xâm phạm tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm.
Khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, chủ thể của quyền bị xâm phạm
có quyền tự bảo vệ bằng các biện pháp mà pháp luật cho phép nhằm ngăn
ngừa hành vi xâm phạm. Chủ thể có quyền bị xâm phạm có quyền yêu cầu tổ
chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành
vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại. Ngoài ra chủ
thể có quyền bị xâm phạm có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình hoặc khởi kiện ra tòa
án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Chủ thể áp dụng biện pháp bảo vệ có thể là chủ thể quyền SHTT hoặc
các cơ quan nhà nước khác. Các công ước quốc tế về SHTT cũng như pháp
luật Việt Nam đều cho phép chủ thể quyền SHTT tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền SHTT của mình. Chủ sở hữu là
chủ thể đương nhiên có quyền bảo vệ quyền sở hữu của chính mình. Đây là
chủ thể phải có tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong việc sử dụng các phương
thức để tự bảo vệ quyền sở hữu nhằm đảm bảo quyền lợi cho chính bản thân
mình. Trong trường hợp tài sản của chủ sở hữu bị xâm phạm thì tự chủ sở hữu
được quyền yêu cầu các bên có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm
phạm, đòi lại tài sản hoặc yêu cầu bồi thường. Bên cạnh các phương thức tự
bảo vệ, theo quy định của pháp luật nước ta, thẩm quyền xử lý hành vi xâm
phạm quyền SHTT thuộc về: Toà án, thanh tra, quản lí thị trường, hải quan,
công an, uỷ ban nhân dân các cấp (Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005,
sửa đổi bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2019).

19
- Mục đích của bảo vệ quyền SHTT là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể quyền SHTT; ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm
phạm quyền SHTT.
Quyền sở hữu trí tuệ của các chủ thể được bảo vệ, tạo ra những điều
kiện để chủ sở hữu quyền SHTT có cơ hội khai thác có hiệu quả những thành
quả sáng tạo trí tuệ của con người trong sản xuất, kinh doanh. Pháp luật bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam tạo ra sự cân bằng lợi ích của các chủ thể
sáng tạo, các chủ thể khai thác, sử dụng sản phẩm sáng tạo nhằm đảo bảo các
lợi ích của các chủ thể có liên quan đến việc tạo ra và sử dụng các đối tượng
của quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện hữu hiệu, đồng thời ngăn chặn, chấm
dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT. Đối với mỗi phương thức bảo vệ quyền
sở hữu khác nhau thì mục tiêu hướng tới cũng không giống nhau. Tùy từng
trường hợp trên thực tế và theo quy định của pháp luật, mỗi một trường hợp
bảo vệ quyền sở hữu có thể áp dụng các trường hợp khác nhau sao cho phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh.
1.2.2. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền
SHTT
Một trong những nội dung hết sức quan trọng mà chủ thể quyền SHTT
và các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần quan tâm, đó là
xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT và nhận biết rõ ai là người xâm
phạm quyền SHTT. Việc xác định đúng hành vi xâm phạm quyền SHTT sẽ
giúp cho chủ thể quyền chủ động trong việc bảo vệ quyền cũng như yêu cầu
các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền SHTT của mình một cách chính xác
và có hiệu quả, hạn chế được những rủi ro hoặc bất lợi, thậm chí là bị kiện
ngược lại. Còn đối với các cơ quan có thẩm quyền sẽ bảo đảm việc xử lý
chính xác, đúng người, đúng hành vi và mức độ xâm phạm, tránh được những
sai sót. Đồng thời việc đó góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức
tôn trọng quyền SHTT cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ
thể quyền, người tiêu dùng và xã hội, trên cơ sở đó khuyến khích các tổ chức
cá nhân tích cực tạo dựng và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ làm cho sở hữu trí

20
tuệ của Việt Nam ngày càng phát triển đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát
triển đất nước và hội nhập quốc tế.
(i) Hành vi xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan
Các hành vi xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan được hiểu là
những hành vi cố ý hoặc vô ý của các cá nhân, tổ chức vi phạm bất kỳ một
quyền nào thuộc quyền tác giả và quyền liên quan đang được pháp luật bảo hộ
và phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi. Hành vi xâm phạm quyền tác giả và
quyền liên quan phải là xử sự thực tế của các cá nhân, tổ chức xâm phạm các
đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả. Hành vi xâm phạm quyền tác
giả và quyền liên quan không chỉ gây thiệt hại cho chủ thể quyền đối với đối
tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, mà còn có thể gây tổn hại cho lợi ích của
toàn xã hội. Hành vi này tác động tiêu cực đối với quyền tác giả và quyền liên
quan, làm suy giảm một phần hoặc hoàn toàn cơ hội của tác giả để khai thác
tác phẩm nhằm mục đích kinh tế. Hơn nữa các hành vi xâm phạm xảy ra nằm
trong sự kiểm soát của tác giả, dẫn đến triệt tiêu mục đích khuyến khích sáng
tạo mà pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan đặt ra.
(ii) Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi sử dụng sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu,
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh trong phạm vi và thời hạn bảo
hộ mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu công nghiệp trừ các trường hợp
được pháp luật cho phép. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được
xác định theo các văn bản pháp luật hiện hành về sở hữu công nghiệp là các dấu
hiệu, đặc điểm, quy trình, sản phẩm, thiết kế của các đối tượng sở hữu công
nghiệp bị nghi ngờ xâm phạm được sử dụng để so sánh với các yếu tố tương
đương của các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ. Hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội,
từ các doanh nghiệp đến cá nhân công dân, từ môi trường đầu tư, kinh doanh,
đến môi trường cạnh tranh lành mạnh cho đến việc ảnh hưởng đến ý thức tôn
trọng pháp luật của người dân, khuyến khích các hoạt động sáng tạo…
(iii) Hành vi xâm phạm quyền đối với giống cây trồng

21
Khoản 5 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “Quyền đối với
giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do
mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu”.
Hành vi xâm phạm quyền đối với giống cây trồng là hành vi sử dụng giống
cây trồng trong phạm vi và thời hạn bảo hộ mà không được sự đồng ý của chủ
sở hữu công nghiệp trừ các trường hợp được pháp luật cho phép.
1.2.3. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Các Điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam đều xác định các biện
pháp bảo vệ quyền SHTT sau:
(1) Biện pháp tự bảo vệ của chủ thể quyền SHTT
Điều 11 Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận rằng khi quyền dân sự của
cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ và được
cụ thể hóa tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm
2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019. Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ thể bị
xâm phạm quyền SHTT được áp dụng những biện pháp nhất định để bảo vệ
quyền của minh. Các biện pháp mà chủ thể bị xâm phạm quyền SHTT có thể
lựa chọn để áp dụng là: ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền SHTT; yêu cầu
tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm phải chấm dút hành vi xâm phạm;
buộc người có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải chính công khai; yêu cầu
người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại; yêu cầu các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, trong đó có tòa án và trọng tài bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Chủ thể bị xâm phạm quyền SHTT có thể sử dụng các
biện pháp này bằng cách trực tiếp gặp chủ thể vi phạm hoặc sử dụng các
phương thức khác như: gọi điện thoại, gửi thư qua bưu điện, gửi thư điện tử,
fax hoặc tiến hành những hành vi cụ thể để bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Người bị xâm phạm quyền sở hữu có thể lựa chọn áp dụng một hoặc nhiều
biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền SHTT của mình. Tuy nhiên, việc chủ
thể áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng của mình không được trái với quy
định của pháp luật và đạo đức xã hội.

22
Trong thực tế, khi quyền SHTT bị xâm phạm, biện pháp bảo vệ quyền
đầu tiên được áp dụng là tự bảo vệ. Trước hết, biện pháp này tôn trọng quyền
tự định đoạt của chủ thể. Hơn nữa, mặc dù không có sự can thiệp của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trong chừng mực nhất định, biện pháp
này cũng giúp nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm.
(2) Biện pháp bảo vệ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện
Các biện pháp này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi
có (hoặc nghi ngờ có) hành vi xâm phạm quyền SHTT xảy ra trên thực tế.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Tòa án, Thanh tra,
Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Tòa án, Ủy ban nhân dân các cấp có
thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT. Cụ thể:
Một là, biện pháp dân sự
Biện pháp dân sự là biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT
theo thủ tục tố tụng dân sự. Khi có hành vi xâm phạm, chủ thể có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, xâm phạm quyền [21].
Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lí hành vi xâm phạm theo yêu
cầu của chủ thể quyền SHTT hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi
xâm phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lí bằng biện pháp
hành chính hoặc biện pháp hình sự. Khi áp dụng biện pháp dân sự, thẩm
quyền, trình tự tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền tài sản, do vậy những tranh chấp liên quan
đến quyền sở hữu trí tuệ là tranh chấp về quyền tài sản cũng thuộc thẩm quyền
giải quyết của tòa án nhân dân. Bởi vậy về nguyên tắc tranh chấp SHTT được
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Khi bị xâm phạm quyền SHTT, tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học và tác giả, chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công
nghiệp cũng như các chủ thể có quyền liên quan khác có quyền yêu cầu toà án
bảo vệ quyền của mình.
Thủ tục tố tụng dân sự cho phép tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ
sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp và chủ văn bằng bảo hộ quyền đối

23
với giống cây trồng cũng như các chủ thể có quyền liên quan khác được
quyền khởi kiện yêu cầu toà án công nhận quyền của mình; buộc người có
hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm
phạm phải bổi thường thiệt hại, phải thực hiện nghĩa vụ, phải xin lỗi, cải
chính công khai; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng
không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và
phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm
phạm quyền SHTT với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai
thác quyền của chủ thể quyền SHTT.
Theo biện pháp dân sự, tòa án buộc cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền
SHTT phải bồi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần cho các
chủ thể quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng. Tuy nhiên, khoản bù đắp tổn thất tinh - thần chỉ dành cho tác giả các
tác phẩm vãn học, nghệ thuật, khoa học, người biểu diễn; tác giả của sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng mà không dành
cho chủ sở hữu các đối tượng này. Mức bồi thường thiệt hại được xác định
theo quy định tại Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung
năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019.
Hai là, biện pháp hình sự
Biện pháp hình sự là biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền
SHTT được buy định là tội phạm theo thủ tục tố tụng hình sự [19]. Theo đó,
nếu phát sinh các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đối với
cuốn sách của bạn, cơ quan nhà nước sẽ tiến hành xử lý nếu có đủ yếu tố cầu
thành tội danh theo quy định tại điều 225 về xâm phạm quyền tác giả, quyền
liên quan thuộc Bộ luật hình sự .
Khi hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
quyền đối với giống cây trồng của cá nhân, tổ chức là hành vi nguy hiểm cho
xã hội cấu thành tội phạm thì cá nhân, tổ chức đó bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Việc áp dụng biện pháp hình sự thuộc thẩm quyền của toà án.
Ba là, biện pháp hành chính

24
Biện pháp hành chính là việc cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính
các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT. Nếu cá nhân, tổ chức bị
thiệt hại do hành vi xâm phạm hoặc phát hiện hành vi xâm phạm có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với
hành vi xâm phạm[18].
Xử lí vi phạm hành chính đối với quyền SHTT là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp nhất định xử lí các hành vi xâm
phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng của cá nhân, tổ chức mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bản chất biện pháp hành chính là sử dụng sức mạnh quyền lực của các cơ
quan hành chính thông qua quyết định hành chính và tổ chức thực hiện các
quyết định hành chính và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính đó để
xử lý các vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật,
có lỗi, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước, nhưng mức độ nguy hiểm
thấp hơn tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Hiện nay so với biện pháp dân sự và hình sự thì biện pháp hành chính đang tỏ
ra chiếm ưu thế hơn. Bởi vì, để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp
dân sự, hình sự phải thông qua các thủ tục tố tụng với nhiều giai đoạn, trong
khi đó giải quyết hành chính với ưu điểm đơn giản, hình thức xử phạt chính là
cảnh cáo, phạt tiền đánh vào kinh tế của bên vi phạm.
Xử lí hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính được
quy định tại Mục 1 Chương XVIII Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019; Chương IV Nghị định số
119/2010/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Nghị định
99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp và Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN ngày
26/6/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định

25
số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
Đối với biện pháp hành chính, cách thức bảo vệ quyền của chủ thể bị
xâm phạm quyền SHTT rất phong phú. Cụ thể, bao gồm các hình thức xử
phạt hành chính (trong đó có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ
sung) và các biện pháp khắc phục hậu quả. Cảnh cáo và phạt tiền là hai hình
thức xử phạt chính. Bên cạnh đó, tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, người
xâm phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung
như sau: tịch thu hàng hoá giả mạo về SHTT, nguyên liệu, vật liệu, phương
tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về
SHTT; đình chỉ hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm trong
một thời hạn nhất định. Tuỳ từng trường hợp, tổ chức, cá nhân xâm phạm
quyền SHTT còn phải chịu áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu
quả như sau: buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm
mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về SHTT; buộc đưa ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền SHTT hoặc
buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về SHTT, phương tiện, nguyên liệu,
vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá
giả mạo về SHTT sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá
Để bảo đảm việc xử lí các hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng các biện
pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung
năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019 cho phép cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Các
biện pháp cụ thể là: tạm giữ người, tạm giữ hàng hoá, tang vật, phương tiện vi
phạm; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật, khám nơi cất giấu hàng
hoá, tang vật, phương tiện vi phạm về SHTT; một số biện pháp khác theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp
dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những
trường hợp nhất định theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 215 Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019.

26
Theo Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009,
sửa đổi, bổ sung năm 2019, biện pháp hành chính áp dụng để xử lí những hành
vi xâm phạm quyền SHTT đến mức gây thiệt hại cho người tiêu dùng, cho xã
hội. Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền SHTT yêu cầu cơ quan
nào xử lí hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục hành chính cũng là
một vấn đề lớn cần phải xem xét để hoàn thiện. Hiện nay, pháp luật quy định
thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính cho rất nhiều cơ quan. Trong thực tế, các
cơ quan này đôi khi hoạt động chồng chéo, đôi khi lại không cơ quan nào xử lí
hành vi vi phạm. Chính vì vậy, để việc xử lí các hành vi xâm phạm quyền SHTT
đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các cơ quan này phải độc lập với nhau nhưng đồng thời
phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt động.
Biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến
SHTT
Biện pháp này là một trong các biện pháp hành chính nhưng đóng vai
trò vô cùng quan trọng. Cơ quan hải quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Cụ thể, cơ quan hải quan áp dụng hai loại biện pháp sau: tạm dừng làm thủ
tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ [25]. Theo quy định của Điều 73, Điều 74 Luật hải quan năm 2014, cơ
quan hải quan được kiểm tra, giám sát, tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với
các hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT.
1.3. Vị trí, vai trò của cơ quan quản lý thị trường trong hệ thống các cơ
quan bảo về quyền sở hữu trí tuệ
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ
sung năm 2019 với các quy định về bảo vệ quyền SHTT đã đề cao trách
nhiệm của chủ thể quyền, tăng cường các biện pháp đảm bảo việc thực thi
được thực hiện, giảm sự can thiệp trực tiếp của cơ quan hành chính, mức hình
phạt đối với các hành vi vi phạm quyền SHTT mang tính răn đe hơn. Bên
cạnh nỗ lực thực thi quyền của các chủ thể quyền, việc thực thi quyền là một
hoạt động thực thi pháp luật và được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm

27
quyền gồm: Tòa án nhân dân, Viện kiểm soát nhân dân, Công an kinh tế,
Quản lý thị trường, Hải quan, Thanh tra khoa học công nghệ. Theo quy định
luật SHTT, việc áp dụng hình phạt hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan
Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp.
Trong trường hợp cần thiết, các cơ quan này có thể áp dụng biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
Cơ quan quản lý thị trường là bộ phận cấu thành trong hệ thống tổ chức
nhà nước, là công cụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong việc xây
dựng và bảo vệ nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo
quy định của pháp luật, quản lý thị trường là lực lượng chuyên trách của Nhà
nước thực hiện chức năng phòng, chống, xử lý các hành vi kinh doanh hàng
hóa nhập lậu; sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng hóa không rõ
nguồn gốc xuất xứ; hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; hành vi vi phạm
pháp luật về chất lượng, đo lường, giá, an toàn thực phẩm và gian lận thương
mại; hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vai trò,
nhiệm vụ của cơ quan quản lý thị trường trong công tác bảo vệ quyền SHTT
được cụ thể trong các văn bản pháp luật. Với nhiệm vụ xây dựng và hướng
dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trong các hoạt động
quản lý thị trường trong nước; tổ chức thực hiện và chỉ đạo công tác kiểm tra
kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động
thương mại, trong đó có hoạt động xâm phạm quyền SHTT và xử lý vi phạm
pháp luật hành chính theo quy định của pháp luật; tổ chức và xây dựng lực
lượng quản lý thị trường. Cơ quan thường trực của lực lượng quản lý thị
trường là Ban chỉ đạo 389, Ban chỉ đạo này gồm các ngành Công thương,
Công an, Tài chính, Khoa học công nghệ, Tư pháp, Y tế, Nông nghiệp, Văn
phòng chính phủ. Với vị trí, chức năng và quyền hạn như vậy, lực lượng quản
lý thị trường góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo thực thi quyền SHTT,
ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trong phạm vi cả nước.

28
Tiểu kết chương 1
Qua quá trình nghiên cứu và phân tích, chương 1 của luận văn với tên
gọi “Lý luận về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” được hoàn thiện với những kết
quả đạt được như sau:
1. Làm rõ được khái niệm, nội hàm và bản chất của quyền sở hữu trí tuệ
cũng như ý nghĩa của quyền SHTT và nhu cầu của việc bảo vệ quyền SHTT
2. Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền SHTT
như khái niệm, xác định các hành vi xâm phạm quyền SHTT và các biện
pháp, hình thức bảo vệ quyền SHTT. Từ đó, có thể khẳng định bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động
sản xuất - kinh doanh, góp phần khuyến khích hoạt động sáng tạo, đẩy
mạnh chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Phân tích và chỉ ra cơ sở pháp luật cùng vị trí, vai trò của cơ quan
quản lý thị trường trong hệ thống các cơ quan bảo về quyền sở hữu trí tuệ
Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền SHTT cung
cấp cơ sở khoa học để có cái nhìn tổng thể đánh giá thực trạng pháp luật và
thực tiễn bảo vệ quyền SHTT của cơ quan QLTT tại Chương 2.

29
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Thực trạng xác định hành vi xâm phạm và các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ
2.1.1. Thực trạng pháp luật và thực tế xác định hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ
Theo Luật SHTT đối tượng của SHTT gồm 3 nhóm chính (i) Sở hữu công
nghiệp (ii) quyền tác giả (iii) giống cây trồng. Do đó, bất kỳ hành vi xâm phạm
nào đối với 03 đối tượng nêu trên đều được coi là hành vi xâm phạm quyền
SHTT đã được pháp luật bảo vệ. Cụ thể, hành vi vi phạm quyền SHTT bao gồm:
(i) Hành vi xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan
Hành vi xâm phạm quyền tác giả là hành vi xảy ra thường xuyên và gây
thiệt hại rất lớn tới chủ sở hữu. Chủ thể có quyền và lợi ích liên quan, cũng
như tổn hại tới danh tiếng và uy tín của chính tác giả. Điều 28 Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019 có quy
định về các hành vi xâm phạm tới quyền tác giả.
Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu
vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Các hành vi được xác định là
hành vi xâm phạm quyền liên quan khi rơi vào các trường hợp được quy
định tại Điều 35 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009,
sửa đổi, bổ sung năm 2019.
(ii) Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Một là, hành vi xâm phạm quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí
Xuất phát từ cơ sở một số đối tượng sở hữu công nghiệp có những đặc
điểm chung, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 không quy định hành vi xâm phạm
quyền đối với từng đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể mà quy định ba

30
nhóm hành vi xâm phạm. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được bảo
hộ hoặc kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó;
thiết kế bố trí được bảo hộ hoặc bất kì phần nào có tính nguyên gốc của thiết
kế bố trí đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép
của chủ sở hữu. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mà
không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí tại Điều 131 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
- Yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế quy định tại Điều 8 Nghị
định số 105/2006/NĐ-CP
- Yếu tố xâm phạm quyền đối với thiết kế bộ trí mạch tích hợp bán dẫn
quy định tại Điều 9 Nghị định số 105/2010/NĐ-CP
- Yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp là sản phẩm
hoặc phần của sản phẩm mà hình dáng bên ngoài không khác biệt đáng kể với
kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Sản phẩm, phần sản phẩm bị coi là yếu
tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp quy định tại (Điều 10 Nghị
định số 105/2010/NĐ-CP)
Hai là, hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và
chỉ dẫn địa lý
- Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Hiện nay, các hành vi xâm phạm SHTT rất tinh vi và khó nhận biết, nó
thường núp dưới hình thức khác nhau. Tại khoản 1 điều 129 Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019, đã định
hướng các hành vi được coi là xâm phạm đối với quyền nhãn hiệu.
- Hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại
Khoản 2, điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm
2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định hành vi bị coi là hành vi xâm
phạm đối với tên thương mại như sau: “Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương
mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng
trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự,
gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh
dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương

31
mại.” So với các quy định của hành vi xâm phạm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
chưa được rõ ràng bằng, tuy nhiên với mức độ khái quát nhất ta có cái nhìn cụ
thể về hành vi này, để không vi phạm bảo vệ chính lợi ích của mình cũng như
không xâm phạm đến lợi ích của các chủ thể khác.
- Hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý
Khoản 3, điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm
2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019 đưa ra quy định về hành vi xâm phạm quyền
đối với chỉ dẫn địa lý.
Khi phát hiện những hành vi xâm phạm thì chủ thể có quyền và lợi ích
liên quan có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham gia để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình trước những hành vi xâm phạm đến quyền đối với
nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
- Hành vi xâm phạm đối với bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh được hiểu là một dạng thông tin hay tri thức liên
quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, được giữ bí mật và tạo ra các giá trị
kinh tế nhất định cho người nắm giữ thông tin đó.Khái niệm bí mật kinh
doanh được quy định tại khoản 23 Điều 4 Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ
sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2019: “Bí mật kinh doanh là thông tin
thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả
năng sử dụng trong kinh doanh”. Theo khái niệm này, một bí mật kinh doanh
có 3 dấu hiệu cơ bản sau:
(1) Là kết quả của quá trình đầu tư, nghiên cứu, sáng tạo thể hiện qua
các tri thức, thông tin;
(2) Chưa được bộc lộ đến mức người khác có thể dễ dàng có được;
(3) Có khả năng tạo ra những giá trị kinh tế khi được sử dụng trong
kinh doanh.
Bí mật kinh doanh thường liên quan tới các loại thông tin khác nhau
như: bí quyết kĩ thuật và khoa học, thông tin thương mại, thông tin về tài
chính…Người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh bao gồm chủ sở hữu bí
mật kinh doanh, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng bí mật kinh
doanh, người quản lý bí mật kinh doanh. Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ năm

32
2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định các
hành vi bị coi là xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh.
(iii) Hành vi xâm phạm quyền đối với giống cây trồng
Điều 188 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa
đổi, bổ sung năm 2019 đưa ra quy định về hành vi xâm phạm quyền đối với
giống cây trồng.
Luật SHTT đã quy định về các hành vi xâm phạm quyền SHTT mang
tính trực tiếp mà chưa quy định hành vi gián tiếp gây thiệt hại cho chủ sở hữu
quyền là hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay đã và đang
tồn tại nhiều hành vi gián tiếp xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại cho chủ
sở hữu như hành vi xúi giục vi phạm, gián tiếp tham gia vào các hành vi vi
phạm. Pháp luật SHTT ở một số quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Hoa Kỳ…quy
định hành vi xâm phạm quyền SHTT bao gồm cả hành vi trực tiếp và gián
tiếp xâm phạm quyền SHTT. Thậm chí, còn quy định rõ ràng các biện pháp
xử lý tương xứng với hành các hành vi xâm phạm này. Đây là kinh nghiệm
cho Việt Nam để hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi gián
tiếp xâm phạm quyền SHTT trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT
Điều 5 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí
tuệ đã khái quát các căn cứ để xác định một hành vi xâm phạm quyền SHTT.
Việc xác định như vậy tạo thuận lợi cho việc bảo vệ hiệu quả quyền SHTT, là
cơ sở để các chủ thể quyền SHTT cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền SHTT bởi vì trên thực tế hành vi
xâm phạm quyền SHTT rất đa dạng, trong nhiều trường hợp các văn bản pháp
không thể hoặc chưa dự liệu được những hành vi xâm phạm trong tương lai.
Đây cũng là bước tiến quan trọng so với những quy định trước, góp phần
quan trọng trong việc xác định một hành vi xâm phạm quyền SHTT.
Về đối tượng bị xâm phạm: Nhìn chung, các quy định về đối tượng bị xâm
phạm và đối tượng bảo hộ quy định trong hệ thống pháp luật SHTT Việt Nam phù

33
hợp với pháp luật quốc tế và tương đối dễ xác định, bước đầu đã tạo cơ sở thuận
lợi cho việc xác định các hành vi vi phạm quyền SHTT nhanh chóng, chính xác.
Về địa điểm bị xâm phạm: Quyền STT mang tính lãnh thổ, bằng độc
quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp…do Cục SHTT cấp chỉ có hiệu lực
trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, một hành vi chỉ bị coi là xâm phạm quyền
SHTT nếu xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Một hành vi cũng có thể bị coi là
xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng Internet nhưng nhằm vào
người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam. Khái niệm xảy ra ở Việt
Nam rất rộng, là lãnh thổ đường biên giới và lãnh thổ trên Internet nhằm vào
người tiêu dùng hoặc người tin dùng ở Việt Nam. Đây là quy định phù hợp
với xu thế công nghệ thông tin, thời đại toàn cầu hóa, xóa bỏ ranh giới lãnh
thổ truyền thống. Tuy nhiên, việc xác định địa điểm thực hiện hành vi theo
tiêu chí lãnh thổ rất phức tạp, khó khăn vì phải xác định dựa trên cơ sở mục
đích của hành vi đòi hỏi phải có phương tiện kỹ thuật cao, hiện đại để xác
định và hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cách xác định địa
điểm thực hiện hành vi xâm phạm trong trường hợp này.
Bên cạnh đó, việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT hết sức
phức tạp và khó khăn. Trong nhiều trường hợp có sự đan xen giữa các hành vi
xâm phạm cũng như sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các cơ quan chức năng
dẫn đến việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT hết sức khó và phức
tạp. Việc xác định đúng hành vi xâm phạm quyền SHTT có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định các biện pháp xử lý kịp thời, hợp pháp và hiệu quả.
Tuy nhiên, việc xác định hành vi xâm phạm không dễ và nếu xác định không
đúng hành vi xâm phạm sẽ dẫn đến tình trạng xử lý sai, không đúng, gây ra
những hậu quả đáng tiếc làm thiệt hại đến doanh nghiệm làm ăn chân chính,
làm mất niềm tin vào hệ thống thực thi quyền SHTT trong bối cảnh hội nhập
kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng như hiện nay.
2.1.2. Thực trạng pháp luật và thực tế tự bảo vệ quyền của các chủ
thể quyền
Điểm a,b Khoản 1 Điều 198, Luật Sở hữu trí tuệ quy định Chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền

34
sở hữu trí tuệ của mình: “a) Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ: b) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi,
cải chính công khai, bồi thường thiệt hại”. Bản chất của quyền sở hữu trí tuệ
là quyền dân sự. Vì vậy, cũng giống như tài sản vật chất, việc bảo vệ các tài
sản trí tuệ trước tiên thuộc về trách nhiệm của chủ thể quyền mà không nên
chỉ trông chờ vào việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền. Tự bảo vệ là
biện pháp bảo vệ quyền sở hữu được sử dụng thường xuyên với cách thức thể
hiện đa dạng nhất trong các biện pháp bảo vệ được pháp luật dân sự ghi nhận.
Không cần trải qua bất kỳ trình tự, thủ tục nào, chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản khác trực tiếp thực hiện các biện pháp đối kháng đối với
hàn vi và các chủ thể thực hiện hành vi có nguy cơ, đã hoặc đang xâm phạm
trực tiếp lên quyền sở hữu, các quyền hợp pháp của mình.
Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành đề cao nguyên
tắc tự bảo vệ quyền của chủ thể quyền. Chủ thể quyền có thể áp dụng các biện
pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm và các biện pháp khác
chống lại hành vi xâm phạm (Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi,
bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019). Cụ thể thực hiện thông qua
việc: áp dụng các biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi vi phạm
quyền; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền phải chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm; khởi kiện ra tòa án
hoặc trọng tài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trước khi thực
hiện quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay tòa án xử lý hành vi
xâm phạm quyền SHTT, chủ thể quyền cần chủ động thực hiện các biện pháp
ngăn ngừa các hành vi xâm phạm hay thực hiện quyền tự bảo vệ. Từ bài học
của các doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực SHTT trên thế
giới, thì ngay từ khi nghiên cứu, thiết kế và tạo dựng các đối tượng SHTT,
doanh nghiệp đã phải tính đến các biện pháp công nghệ nhằm bảo vệ các đối
tượng đó trước khi đăng ký. Vì khi đã đăng ký thì theo nguyên tắc là phải
công bố công khai đối tượng đó cho công chúng biết, khi ấy việc sao chép,

35
bắt chước rất dễ xảy ra một khi doanh nghiệp chưa thực hiện các biện pháp
công nghệ chống sao chép. Khi chủ thể quyền thực hiện các biện pháp ngăn
ngừa và chống xâm phạm mà không có hiệu quả hoặc hiệu quả không như
mong muốn, thì khi ấy sẽ yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay tòa án
xử lý hành vi xâm phạm quyền bằng biện pháp dân sự, hành chính hay hình
sự. Cùng với trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như
quyền tự bảo vệ của chủ thể quyền trong việc bảo vệ quyền SHTT, thì các tổ
chức, cá nhân có liên quan cũng tích cực, chủ động phát hiện và phối hợp với
các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý hành vi xâm phạm quyền nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội.
Biện pháp này mang tính kinh tế cao nhất do tiết kiệm được thời gian,
ít tốn kém chi phí cho việc giải quyết tranh chấp. Khả năng phát hiện và thực
hiện sớm biện pháp này giúp chủ thể quyền SHTT có thể ngăn chặn ngay từ
khi hành vi xâm phạm có nguy cơ diễn ra đồng thời hạn chế một cách nhanh
nhất và tối đa nhất các thiệt hại có thể xuất hiện do tác động của hành vi này.
Biện pháp này cũng thể hiện rõ nhất nguyên tắc tự định đoạt và nguyên tắc
thỏa thuận của chủ thể sở hữu quyền SHTT trong việc theo dõi, tìm hiểu, phát
hiện hành vi xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình cũng như lựa
chọn cách thức bảo vệ phù hợp. Đặc biệt, chủ sở hữu quyền SHTT có thể chủ
động thương lượng, thỏa thuận với bên vi phạm bất kỳ khi nào suốt quá trình
giải quyết tranh chấp.
2.1.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Điểm c,d Khoản 1 Điều 198, Luật Sở hữu trí tuệ quy định Chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ của mình: “c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; d)Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Trong số các biện pháp được
pháp luật cho phép chủ sở hữu áp dụng đề được điều chỉnh cụ thể trong các
điều khoản khác nhau. Tùy theo tính chất và mức độ xâm phạm quyền SHTT,
chủ sở hữu có thể lựa chọn những biện pháp phù hợp. Nghiên cứu thực trạng

36
pháp luật về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu giúp chủ sở hữu quyền SHTT
có cái nhìn tổng quát về các biện pháp này.
2.1.3.1. Thực trạng pháp luật về biện pháp dân sự bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ
Khoản 2 Điều 200, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm
2009, sửa đổi bổ sung năm 2019 quy định về thẩm quyền xử lý xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ: “Việc áp dụng biện pháp dân sự, hình sự thuộc thẩm
quyền của Toà án. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật”.
Quyền SHTT là một loại quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật
dân sự. Đặc trưng của quan hệ pháp luật dân sự là bình đẳng và tự do ý chí.
Do đó, biện pháp dân sự được coi là biện pháp chủ đạo và phù hợp nhất để
bảo vệ quyền SHTT. Quy định về xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng biện
pháp dân sự trong Luật SHTT cùng với Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật dân
sự liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền SHTT bằng biện pháp dân sự.
Xuất phát từ nhiều đặc thù của vi phạm, tranh chấp SHTT, Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định
nhiều nội dung cụ thể hơn so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 với mục đích
giải quyết tốt loại vi phạm, tranh chấp này. Ví dụ, quy định về quyền và nghĩa vụ
chứng minh của đương sự (Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019), nguyên tắc xác định thiệt hại do
xâm phạm quyền SHTT (Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019), căn cứ xác định mức bồi thường do
xâm phạm quyền SHTT (Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019), nghĩa vụ của người yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 208 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa
đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019).
Để tránh sự chồng chéo với Bộ luật tố tụng dân sự, luật SHTT chỉ quy
định những vấn đề đặc thù trong lĩnh vực SHTT, đặc biệt là các quy định liên
quan đến quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự, áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời và căn cứ xác định thiệt hại. Cụ thể: Ngoài các biện pháp

37
dân sự có thể được Tòa án áp dụng theo quy định Điều 11 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, luật SHTT bổ sung thêm biện pháp buộc người có hành vi xâm
phạm quyền SHTT phải tiến hành phân phối hoặc sử dụng không nhằm mục
đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên vật liệu và phương tiện chủ yếu để
sản xuất hàng hóa xâm phạm quyền SHTT với điều kiện không làm ảnh
hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể nắm giữ quyền SHTT. Đây
cũng là biện pháp chế tài về dân sự theo quy định của TRIPS nhằm ngăn chặn
hữu hiệu các hành vi xâm phạm quyền SHTT.
Tại kỳ họp thứ bảy vừa qua, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 42/2019.QH14).
Đây là văn bản luật được Quốc hội thông qua theo trình tự, thủ tục rút gọn
nhằm kịp thời luật hóa các nghĩa vụ phải thi hành ngay theo Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực đối với
Việt Nam. Một trong năm nội dung lớn liên quan SHTT trong Luật số
42/2019/QH14 tập trung điều chỉnh bổ sung về bảo vệ quyền SHTT. Để bảo
vệ chủ thể quyền SHTT khi có hành vi xâm phạm quyền, Luật số
42/2019/QH14 bổ sung một số nội dung: quyền yêu cầu tòa án buộc nguyên
đơn thanh toán chi phí thuê luật sư hoặc các chi phí khác trong vụ kiện xâm
phạm quyền SHTT nếu bị đơn được Tòa án kết luận là không thực hiện hành
vi xâm phạm quyền; quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại do việc lạm
dụng thủ tục bảo vệ quyền SHTT của tổ chức, cá nhân khác; căn cứ xác định
theo các cách tính khác do chủ thể quyền SHTT đưa ra trong việc xác định
mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHTT. Các quy định này góp
phần xây dựng hệ thống thực thi quyền SHTT hiệu quả, khuyến khích hoạt
động sáng tạo đổi mới. Đồng thời, tạo điều kiện, hành lang pháp lý để chủ thể
quyền tự bảo vệ và yêu cầu các cơ quan chức năng bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng này.
Như vậy, vệc điều chỉnh cũng như quy định mới liên quan đến việc xử
lý xâm phạm quyền bằng biện pháp dân sự vừa đúng với bản chất quan hệ
pháp luật dân sự vừa có những sự điều chỉnh đáp ứng yêu cầu đặt ra của luật
SHTT. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng vụ việc giải quyết tại Tòa án không

38
thay đổi nhiều mà các bên vẫn ưu tiên sử dụng biện pháp hành chính để giải
quyết. Nguyên nhân là do tâm lý e ngại theo đuổi vụ án tranh chấp tại Tòa và
việc giải quyết ở Tòa thường kéo dài, nhiều cấp xét xử; thẩm phán còn thiếu
kiến thức chuyên sâu về SHTT.
Tại các quốc gia khác giải quyết tranh chấp về quyền SHTT tại tòa án
là cơ chế bảo vệ quyền SHTT được đánh giá là hữu hiệu nhất bởi tính dân
chủ, khả năng duy trì và bảo đảm công bằng cho các chủ thể dân sự so với các
thủ tục khác. Khi soạn thảo Luật SHTT năm 2005, Nhà nước ta đã có chủ
trương hướng tới thiết chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng tòa án khi các nhà
làm luật đã dành riêng chương XVII để quy định về biện pháp xử lý hành vi
xâm phạm quyền SHTT. Các biện pháp xử lý khác được quy định chung
trong chương XVIII của Luật SHTT. Ngoài ra, pháp luật tố tụng Việt Nam đã
có các quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về SHTT tại TAND
phù hợp với yêu cầu của TRIPS.
Tuy nhiên, việc pháp luật Việt Nam chưa quy định tòa án chuyên trách
về SHTT và việc đùn đẩy trách nhiệm thẩm quyền giữa tòa án nhân dân cấp
huyện và tòa án án nhân dân cấp tỉnh gây khó khăn cho người khởi kiện.
Nguyên nhân là do chưa có cách hiểu thống nhất thế nào là hành vi xâm phạm
quyền SHTT vì mục đích lợi nhuận và mục đích phi lợi nhuận dẫn đến khi
nguyên đơn nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp
quyền SHTT, có Tòa án xác định vụ án kinh doanh, thương mại; có Tòa xác
định vụ án dân sự.
2.1.3.2. Thực trạng pháp luật về biện pháp hành chính bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ
Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm thuộc
một trong các trường hợp được quy định tại Điều 211 của Luật SHTT năm
2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2019 theo yêu cầu của
chủ thể quyền SHTT, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây
ra, tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm
quyền chủ động phát hiện. Hình thức, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt
hành vi xâm phạm và các biện pháp khắc phục hậu quả phải tuân theo quy

39
định của Luật SHTT và Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nói chung,
các nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính theo từng
lĩnh vực cụ thể nói riêng.
Về bản chất, biện pháp hành chính áp dụng nhằm đảm bảo cho công tác
quản lý hành chính nhà nước được ổn định, thể hiện mức độ trừng phạt của
nhà nước đối với hành vi xâm phạm ở mức nhẹ. Khác với biện pháp dân sự
luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của cá chủ thể tham gia một cách cao nhất
thì biện pháp hành chính lại thể hiện ý chí của Nhà nước. Mục đích của biện
pháp này là nhằm trừng phạt, răn đe những hành vi xâm phạm quyền gây ảnh
hưởng đến trật tự quản lý nhà nước bằng các biện pháp chế tài như cảnh cáo,
phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, tích thu hàng hóa giả mạo
nhãn hiệu…không tính đến những thiệt hại của bên vi phạm quyền. Nếu
muốn được bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền gây ra thì chủ
thể có quyền phải thực hiện biện pháp dân sự. Các biện pháp xử lý hành chính
quy định tại Điều 214 Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, sửa
đổi bổ sung năm 2019. Theo đó hai biện pháp đều phù hợp với chế tài áp
dụng trong dân sự và quy định tại Điều 49 TRIPS.
Trước đây, biện pháp xử lý hành chính được quy định đối với mọi hành
vi xâm phạm quyền SHTT. Điều này không đúng với bản chất và mục tiêu
của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính là đảm bảo lợi ích xã hội, đảm
bảo thực hiện quản lý nhà nước. Việc hành chính hóa các mối quan hệ này
dẫn đến sự quá tải về số lượng và chuyên môn cho các cơ quan thực thi hành
chính. Do đó, pháp luật SHTT đã giới hạn phạm vi xử phạt hành chính chỉ
trong những hành vi xâm phạm quyền SHTT nào gây tác hại lớn cho xã hội
bao gồm sản xuất, kinh doanh hàng giả và hàng sao lậu bản quyền.
Đối với biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan
đến SHTT đây là biện pháp hành chính. Tuy nhiên, do đặc thù biện pháp này
chỉ ở phạm vi biên giới đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu nên được quy định
thành biện pháp độc lập. Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế và điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như TRIPS, BTA.

40
Thực tế, thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hành chính đang chiếm
ưu thế do thời gian xử lý ngắn gọn, giúp ngăn chặn hành vi xâm phạm. Tuy
nhiên, việc quy định nhiều cơ quan có cùng thẩm quyền áp dụng biện pháp
này khiến hiệu lực, hiệu quả thực thi biện pháp này giảm đi đáng kể.
Cơ quan hải quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm dừng làm thủ
tục hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền STT và kiểm tra,
giám sát để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT. Ngoài ra,
cơ quan Hải quan có thể tạm dừng làm thủ tục hải quan khi có đơn đề nghị của
chủ sở hữu quyền SHTT và có quyền tạm dừng làm thủ tục nếu phát hiện có dấu
hiệu nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT. Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan,
cơ sở pháp lý và quy định trình tự, thủ tục về bảo vệ quyền SHTT tại biên giới
đã tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp hành chính: Hải quan,
Công an kinh tế, UBND, Quản lý thị trường.
2.1.3.3. Thực trạng pháp luật về áp dụng biện pháp hình sự bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ
Biện pháp hình sự thể hiện quyền lực công, áp đặt ý chí của Nhà nước đến
đối tượng vi phạm nhằm đảm bảo trật tự xã hội. Thực tế, việc áp dụng biện pháp
này không nhiều và không đảm bảo khả năng bồi thường thiệt hại cho chủ sở
hữu do bản chất của biện pháp này là cưỡng chế, trừng phạt của nhà nước đối
với đối tượng bị coi là tội phạm. Trong xu thế hội nhập quốc tế nói chung và
thực thi các cam kết quốc tế trong lĩnh vực SHTT nói riêng, cá nhân thực hiện
hành vi xâm phạm quyền SHTT có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự năm
1999 và Luật SHTT năm 2005 có sự chênh lệch tương đối lớn cả về khoảng
cách thời gian và điều kiện kinh tế xã hội. Để đồng bộ hóa những quy định về
nội dung này, Việt Nam đã ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành, pháp
luật hình sự liên quan đến quyền SHTT ngày càng được hoàn thiện.
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định các tội danh và hình phạt tương
ứng nhằm bảo hộ quyền SHTT. Bộ luật hình sự quy định hai tội: tội xâm

41
phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225) và tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp (Điều 226).
Tuy nhiên, pháp luật hình sự mới chỉ quy định các tội xâm phạm quyền
tác giả và quyền sở hữu công nghiệp mà chưa quy định các tội xâm phạm
quyền đối với giống cây trồng. Bởi vậy, khi xử lí hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp bằng biện pháp hình sự, các nguyên tắc chung của pháp luật
hình sự được áp dụng để giải quyết.
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
bởi cơ quan quản lý thị trường
2.2.1. Các chế tài xử phạt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Khoản 3 Điều 200, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm
2009, sửa đổi bổ sung năm 2019 quy định về thẩm quyền xử lý xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ: “Việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền
của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban
nhân dân các cấp. Trong trường hợp cần thiết, các cơ quan này có thể áp
dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của
pháp luật”. Để cụ thể hoá các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp để hướng dẫn
một cách cụ thể các hành vi vi phạm và hình thức xử phạt đối với vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; Theo đó, quy định cụ thể các hành vi
vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả,
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả đối với từng hành vi vi phạm, khung, mức tiền phạt khi phạt tiền đối với
từng hành vi vi phạm. Tuy nhiên, một số hành vi vi phạm chưa được điều chỉnh
kịp thời, chế tài xử lý còn nhẹ chưa đủ sức răn đe vì với mức lợi nhuận bất hợp
pháp thu được rất lớn mà các đối tượng vẫn thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định tại Điều
214 Luật SHTT và Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và
được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP các hình thức xử

42
phạt vi phạm hành chính gồm các hình thức xử phạt chính và các hình thức xử
phạt bổ sung, cụ thể như sau: hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ
sung và có thể được áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
Hình thức cảnh cáo
Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng
hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
Điểm bất cập của việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hiện nay là
hiệu quả không cao và mang tính hình thức. Theo quy định tại khoản 1 Điều
11 Nghị định 99/2013/NĐ-CP, hình thức cảnh cáo có thể áp dụng đối với các
hành vi vì mục đích kinh doanh trong trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ vi
phạm đến 3.000.000. Thực tế, nếu mức độ vi phạm với giá trị hàng hóa thấp
như vậy, việc yêu cầu các cơ quan nhà nước thực hiện việc bảo vệ quyền lợi
ích của chủ sở hữu nhãn hiệu trên thực tế là không khả thi. Với khối lượng
công việc quá lớn mà các cơ quan nhà nước phải đảm trách hiện nay, thì
những vụ việc được ưu tiên thực hiện là những vụ việc xâm phạm có số lượng
hàng hoá lớn, hoặc những vụ việc có tính chất nghiêm trọng. Đồng thời, việc
quản lý hình thức phạt cảnh cáo với đối tượng vi phạm cần phải được thực
hiện một cách có hệ thống hơn, tránh thực trạng như hiện nay, một cá nhân, tổ
chức thực hiện hành vi xâm phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính tại địa bàn
này lại chuyển sang địa bàn khác và tiếp tục hành vi vi phạm mang tính chất
tinh vi hơn nhằm trốn tránh việc bị xử lý. Kẽ hở này vô tình trở thành mảnh
đất màu mỡ cho những người cố tình thực hiện hành vi vi phạm nhãn hiệu. Để
khắc phục tình trạng này, các cơ quan chức năng cần xây dựng cơ sở dữ liệu
bao gồm các hành vi xâm phạm nhãn hiệu của các cá nhân tổ chức trên toàn
quốc để các cơ quan này có thể quản lý một cách thiết thực những trường hợp
nào đã vi phạm hành chính nhưng vẫn tái phạm để từ đó có thể đề xuất xử lý
hành vi xâm phạm bằng biện pháp hình sự.
Hình thức phạt tiền

43
Phạt tiền hiện nay là hình thức xử phạt chính áp dụng với hầu hết mọi
hành vi vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn
hiệu. Một trong những điểm mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
là sự phân định mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm. Quy định này
được cụ thể hóa tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày
29/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp, theo đó cùng 1 hành vi, mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 2 lần đối với
cá nhân, cụ thể mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân xâm phạm là 250 triệu, tổ
chức tối đa là 500 triệu. Mặc dù được lập luận rằng, quy định này đảm bảo mức
phạt phù hợp với tính chất vi phạm, tuy nhiên quy định này được cho là không
hợp lý và gây ra nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Chẳng hạn, sau khi
Nghị định số 99/2013/NĐ-CP có hiệu lực, các cơ quan thực thi quyền SHTT
không khỏi lúng túng khi xác định mức phạt tiền cho hộ gia đình, hộ kinh doanh
cá thể thực hiện hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả mạo nhãn hiệu. Vì theo
quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì hộ gia đình là tổ chức không có tư
cách pháp nhân, tuy nhiên chủ thể này lại đóng thuế thu nhập cá nhân theo. Do
quy định phân định mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, nếu không
xác định chính xác chủ thể vi phạm là tổ chức hay cá nhân dẫn đến xử lý hành vi
vi phạm không hợp lý, làm cho hiệu quả thực thi chưa cao.
Đơn cử, mức phạt quy định tại khoản 12 Điều 11 Nghị định
99/2013/NĐ-CP chưa đủ mạnh để có thể ngăn chặn người có hành vi xâm
phạm thực hiện các hành xâm phạm khi mức xử phạt tối đa chỉ ở mức
250.000.000 triệu đồng trong trường hợp hàng hoá vi phạm trên 500.000.000
đồng. Điều này là hết sức bất hợp lý khi đưa ra mức giá trị hàng hoá để làm
căn cứ tính mức phạt. Đặc biệt đối với quy định tại khoản 13 Điều 11 của
Nghị định số 99/2013/NĐ-CP, theo đó, đối với hành vi thiết kế, chế tạo, gia
công, lắp ráp, chế biến, đóng gói hàng hoá mang dấu hiệu xâm phạm quyền
đối với nhãn hiệu; hành vi in dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng hình thức
khác tem, nhãn, vật phẩm khác mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn
hiệu; hành vi nhập khẩu hàng hoá mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với
nhãn hiệu, hoặc hành vi đặt hàng, giao việc thuê người khác thực hiện hành vi

44
xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thì mức phạt tiền bằng 1,2 lần mức tiền
phạt tương ứng quy định tại khoản 1 đến khoản 12, nhưng không vượt quá
250.000.000 đồng. Thoạt nhìn quy định tại khoản 13 Điều 11 có mức phạt cao
hơn so với mức phạt quy định từ khoản 1 đến khoản 12. Tuy nhiên, mức phạt
này ở mức tối đa cũng bị khống chế ở mức 250.000.000 khi giá trị hàng hoá
vi phạm trên 500.000.000 đồng. Như vậy quy định mức 1,2 lần theo khoản 13
Điều 11 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP chẳng thể phát huy được tác dụng như
mong muốn của các nhà làm luật. Mức phạt này không tương xứng với hành
vi vi phạm, do đó khiến cho tác dụng của mức phạt này không thực sự giúp
cho việc bảo hộ nhãn hiệu trên thực tế có tác dụng.
Đối với hành vi sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ để
bán tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu giả mạo thì sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc
phạt tiền ở mức thấp nhất là 500.000 đồng và tối đa là 25.000.000 đồng. Đối
với hành vi này, đối tượng giả mạo là tem, nhãn do đó, cần phải có số lượng
hàng hoá vi phạm để căn cứ vào đó định ra mức xử phạt cụ thể. Điều 13 Nghị
định số 99/2013/NĐ-CP quy định về vấn đề này không rõ ràng. Ví dụ, tại
khoản 1 Điều 13 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thì hình thức phạt cảnh cáo
hoặc phạt tiền áp dụng trong trường hợp tem nhãn đến 500 đơn vị. Nghĩa là
500 đơn vị là số nhỏ nhất để từ đó xác định hành vi xâm phạm, cho nên, nếu
hành vi xâm phạm chưa đến con số này thì chưa áp dụng chế tài. Trong khi
đó, Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN lại không có quy định về số đơn vị tối
thiểu về đối tượng này để có thể xử lý. Điều này dễ dàng tạo ra sự bất nhất
trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền [28].
Biện pháp khắc phục hậu quả
Biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng là buộc tiêu huỷ hoặc phân
phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng
hoá giả mạo nhãn hiệu; nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng
chủ yếu để sản xuất kinh doanh hàng hoá giả mạo nhãn hiệu với điều kiện
không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ sở hữu nhãn
hiệu. Trong trường hợp nếu hàng hoá giả mạo nhãn hiệu được nhập khẩu thì
buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo nhãn hiệu đó, phương tiện, nguyên

45
liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả
mạo nhãn hiệu sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá. Cùng với đó
là buộc tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm phải nộp lại số lợi bất hợp pháp
có được do thực hiện hành vi vi phạm nói trên.
Biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi sản xuất nhập khẩu, buôn
bán, vận chuyển, tàng trữ để bán tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu giả
mạo là buộc tiêu huỷ tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu giả mạo và buộc
nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
2.2.2. Trình tự, thủ tục xử phạt hành chính
Nghị định 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị định 28/2017/NĐ-CP ngày 20/03/2017 và Nghị định
31/2016/NĐ-CP ngày 6/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật được sửa
đổi, bổ sung theo Nghị định 04/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 không quy định
cụ thể quy trình xử lý hành vi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan và quyền
đối với giống cây trồng như quy trình xử lý hành vi vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp ở Nghị định 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013. Theo Nghị định
99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013, hầu hết các trường hợp xử lý vi phạm hành
chính đối với quyền sở hữu công nghiệp chỉ được xử lý trên cơ sở có yêu cầu
của chủ thể quyền SHTT, theo đó quy trình xử lý một vụ việc xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp nhìn chung có thể được mô tả bằng các bước sau:
Bước 1: chuẩn bị và nộp đơn yêu cầu xử lý vi phạm. Đơn yêu cầu phải
nêu rõ tên cơ quan thực thi, đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ có
liên quan, hàng hóa/dịch vụ có nghi ngờ xâm phạm, tên và địa chỉ của tổ
chức, cá nhân vi phạm, chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm và tài liệu
chứng minh tư cách nộp đơn bởi chủ thể quyền.
Bước 2: thụ lý đơn yêu cầu trong vòng 10 ngày làm việc. Khi nhận
được đơn yêu cầu xử lý vi phạm, cơ quan nhận đơn có trách nhiệm xác định
thẩm quyền xử lý vi phạm và kiểm tra tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn. Trong
vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận đơn yêu cầu xử lý vi phạm, cơ

46
quan có thẩm quyền xử lý vi phạm tiếp nhận đơn yêu cầu xử vi phạm, xem xét
tính hợp lệ của đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu thấy chưa đầy đủ
thì yêu cầu người nộp đơn bổ sung trong thời hạn tối đa 30 ngày kể từ ngày yêu
cầu. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đáp ứng yêu cầu, người
có thẩm quyền thông báo cho tổ chức, cá nhân yêu cầu xử lý vi phạm về dự
định thời gian, thủ tục, biện pháp xử lý và yêu cầu hợp tác, hỗ trợ của chủ thể
quyền SHTT trong thanh tra, kiểm tra, xác minh và xử lý vi phạm.
Cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm có thể tự mình tiến hành kiểm
tra, xác minh, thu thập chứng cứ, xác định hành vi vi phạm theo quy định của
pháp luật về SHTT hoặc yêu cầu bên bị yêu cầu xử lý vi phạm và các bên có
quyền, lợi ích liên quan trong vụ vi phạm cung cấp thông tin để làm căn cứ
phục vụ cho việc giải quyết vụ việc. Trong trường hợp cần thiết có thể đề
nghị cơ quan chức năng tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ vi phạm, yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp kiến thức chuyên môn hoặc
chưng cầu giám định để xác định yếu tố vi phạm.
Bước 3: yêu cầu giải trình. Cơ quan thực thi có thể yêu cầu bên bị đề
nghị xử lý hành chính cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ hoặc giải trình
trong vòng 10 ngày kể từ ngày cơ quan thực thi ban hành thông báo gửi bên
bị đề nghị xử lý hành chính hoặc kể từ ngày lập biên bản thanh tra, biên bản
vi phạm hành chính. Bên bị đề nghị xử lý hành chính có thể yêu cầu gia hạn
thời hạn giải trình nêu trên nhưng không được quá 30 ngày kể từ ngày lập
biên bản thanh tra, biên bản vi phạm hành chính. Mục đích của bước giải trình
là để trao cơ hội cho bên bị nghi ngờ vi phạm giải trình, cung cấp chứng cứ,
tài liệu hoặc lập luận chứng minh rằng mình không vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ của chủ thể quyền, chẳng hạn nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm phạm không gây
nhầm lẫn với quyền độc quyền nhãn hiệu của chủ thể quyền, tác phẩm bị nghi
ngờ xâm phạm quyền tác giả do bên bị nghi ngờ xâm phạm độc lập sáng tạo
hoặc trường hợp của bên bị nghi ngờ xâm phạm rơi vào trường hợp ngoại lệ
luật pháp quy định không phải là hành vi xâm phạm ví dụ như sử dụng sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân
hoặc mục đích phi thương mại, hoặc lưu thông, nhập khẩu, khai thác công

47
dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một
cách hợp pháp (nhập khẩu song song),…
Bước 4: chuẩn bị xử lý vi phạm hành chính. Trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày nhận đủ hồ sơ đáp ứng yêu cầu, người có thẩm quyền thông báo cho
chủ thể quyền đã nộp yêu cầu xử lý vi phạm về dự định thời gian, thủ tục,
biện pháp xử lý và yêu cầu hợp tác, hỗ trợ của chủ thể quyền sở hữu công
nghiệp trong thanh tra, kiểm tra, xác minh và xử lý vi phạm.
Bước 5: ra quyết định. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính kèm
theo hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả được ban hành
bởi Cơ quan thực thi. Việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản phải
được người có thẩm quyền xử phạt lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính.
Ngoại trừ các trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo
quy định tại Khoản 1, Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, người
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định trong vòng 07
ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính hoặc tối đa không quá 30 ngày
kể từ ngày lập biên bản đối với vụ việc có nhiều tình huống phức tạp.
2.2.3. Thẩm quyền bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành
chính và chức năng của Cục Quản lý thị trường Hà Nội
Pháp luật quy định các cơ quan công an, thanh tra chuyên ngành về
SHTT, quản lý thị trường, hải quan có thẩm quyền phát hiện, năng chặn và xử
lý các trường hợp xâm phạm quyền SHTT. Khi nhận được đơn yêu cầu xử lý
vi phạm, các cơ quan này có trách nhiệm xác định thẩm quyền xử lý vi phạm
và kiểm tra tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn. Cơ quan có thẩm quyền xử lý vi
phạm có thể tự mình tiến hành kiểm tra, xác minh, thu nhập chứng cứ, xác
định hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ hoặc yêu
cầu bên bị yêu cầu xử lý vi phạm và các bên có quyền, lợi ích liên quan trong
vụ vi phạm cung cấp thông tin để làm căn cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ
việc. Trong trường hợp cần thiết có thể đề nghị cơ quan chức năng có thẩm
quyền tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ vi phạm, yêu cầu cơ quan nhà
nước cung cấp ý kiến chuyên môn hoặc trưng cầu giám định để xac minh yếu
tố vi phạm. Theo đó, trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của

48
mình các cơ quan hành chính hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan
hành chính có quyền ra các quyết định hành chính theo yêu cầu của người yêu
cầu hoặc tự mình đưa ra quyết định trên cơ sở dư luận xã hội hoặc sự phát
hiện của người thi hành công vụ. Việc trao quyền cho các cơ quan hành chính
và người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhằm đảm bảo các
hành vi xâm phạm quyền SHTT được thực hiện nghiêm túc không chỉ trong
nội địa mà ngay từ lúc hàng hóa có dấu hiệu vi phạm được ngăn chặn khi
chúng chưa được đưa vào lưu thông trên thị trường. Căn cứ vào tính chất,
mức độ hành vi mà các cơ quan áp dụng các biện pháp xử phạt như cảnh cáo,
phạt tiền, buộc tiêu hủy, tịch thu tang vật, phương tiện, nguyên liệu dùng để
thực hiện hành vi vi phạm…sản phẩm xâm phạm quyền SHTT.
Đối với cơ quan quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt các hành vi: i)
sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ tem, nhãn hiệu tại thị trường trong
nước; ii) sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ tem, nhãn, vật phẩm mang
nhãn hiệu giả mạo tại thị trường trong nước; iii) xâm phạm quyền đối với nhãn
hiệu; cạnh tranh không lành mạnh đối với nhãn hiệu trong hoạt động buôn bán,
vận chuyển hàng hóa tại thị trường trong nước. Trong trường hợp này nếu xác
định được cơ sở sản xuất loại hàng hóa đó thì cơ quan Quản lý thị trường có
thầm quyền tiếp tục xử lý hành vi vi phạm tại cơ sở sản xuất. Như vây, Nghị
định số 99/2013/NĐ-CP đã mở rộng thẩm quyền xử lý vi phạm của Cục quản lý
thị trường so với Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/09/2010 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Cụ thể
bổ sung thêm thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm tại cơ sở sản xuất và hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đối với nhãn hiệu. Việc quy định như hiện nay bảo
đảm phù hợp với thực tiễn và quy định mới về việc không quy định thẩm quyền
xử lý vi phạm của Cục quản lý như tại Nghị định 97/2010/NĐ-CP.
2.3 Thực tiễn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua hoạt động của
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội là đơn vị trực thuộc Tổng cục
Quản lý thị trường, được tổ chức, sắp xếp lại trên cơ sở Chi cục Quản lý thị
trường Hà Nội theo mục tiêu, lộ trình thực hiện tại Đề án thành lập Tổng cục

49
Quản lý thị trường đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hoạt động theo
Quyết định số 3668/QĐ-BCT ngày 11/10/2018 của Bộ Công thương Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội trực thuộc Tổng cục Quản lý thị trường
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội có chức năng giúp Tổng cục
trưởng Tổng cục Quản lý thị trường quản lý nhà nước và tổ chức thực thi
pháp luật về phòng, chống, xử lý các hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu;
sản xuất buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ;
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; hành vi vi phạm pháp luật về chất
lượng, đo lường, giá, an toàn thực phẩm; hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và các hành vi gian lận thương mại theo quy định
của pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội; thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành theo quy định của pháp luật.
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội có tư cách pháp nhân, con dấu,
tài khoản riêng và là đơn vị dự toán ngân sách theo quy định của pháp luật; được
mở tài khoản giao dịch, tài khoản tạm giữ tại Kho bạc nhà nước, được trích lập
các quỹ theo quy định của pháp luật.
Cục có trụ sở tại số 80, phố Quang Trung, phường Quang Trung, quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội, cụ thể
Lãnh đạo Cục
- Cục trưởng
- Các Phó Cục trưởng

30 Đội QLTT 04 Phòng chuyên môn

03 Đội 12 Đội 14 Đội 01 Đội Tổ chức Nghiệp Kiểm tra Thanh tra
QLTT QLTT QLTT QLTT - vụ - - Phối - Pháp
Cơ Quận Huyện Thị xã Hành Tổng hợp liên chế
động chính hợp ngành
- 04 Phó Chi cục trưởng

50
- Trong thời gian qua, tình trạng vi phạm về buôn lậu, gian lận thương
mại, hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn tiếp tục là vấn đề nóng,
tác động tiêu cực tới đời sống người dân, hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp, nhiều vụ việc mang yếu tố nước ngoài với các phương thức
thủ đoạn tinh vi, có sự cấu kết chặt chẽ giữa các chủ đầu lậu tại khu vực biên
giới và trong nội địa. Ngày 10/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 34/2018/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Tổng cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công Thương,
theo đó Tổng cục Quản lý thị trường được tổ chức theo mô hình ngành dọc,
tập trung, thống nhất. Sự thay đổi mô hình tổ chức của lực lượng Quản lý thị
trường dẫn tới thay đổi về mô hình quản lý, công tác chỉ đạo điều hành, tên
gọi và địa vị pháp lý của cơ quan Quản lý thị trường các cấp. Những sự thay
đổi tích cực nhằm thúc đẩy hoạt động thực thi công vụ bảo vệ quyền SHTT.
- Lực lượng quản lý thị trường là cơ quan vất vả nhất trong cuộc chiến
chống hàng giả (trong đó có hàng giả về sở hữu trí tuệ) nhưng việc phân cấp
quản lý theo chiều ngang giữa các cơ quan quản lý thị trường, thanh tra văn
hóa, thanh tra khoa học và công nghệ không cụ thể đã dẫn đến hiện quả thực
thi quyền SHTT không cao. Thanh tra khoa học và công nghệ là lực lượng có
nghiệp vụ cao trong việc chống hàng giả về sở hữu trí tuệ thì không được
phân công trực tiếp phụ trách thị trường mà chỉ xử lý các khiếu nại có liên
quan đến sở hữu công nghiệp. Vậy nên, đòi hỏi pháp luật cần có sự điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan
có thẩm quyền để phục vụ hoạt động bảo vệ quyền SHTT.
- Hiện nay, tuy đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về ngăn
ngừa, hạn chế, truy cứu trách nhiệm sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng vi
phạm SHTT song hiệu lực thực thi của một số văn bản còn thấp do chưa được

51
cụ thể hóa hoặc chưa theo kịp với những diễn biến phức tạp nảy sinh trong
cuộc sống. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan lại chủ yếu tập trung
vào chống, nhất là chống trong khâu tiêu thụ hàng giả, hàng vi phạm SHTT mà
chưa chú trọng đúng mức đến phòng ngừa ngăn chặn sản xuất hàng giả, hàng vi
phạm SHTT. Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm
thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 211 của Luật SHTT năm
2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2019, theo yêu cầu của
chủ thể quyền SHTT, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra,
tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm quyền
chủ động phát hiện. Hình thức, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt hành vi
xâm phạm và các biện pháp khắc phục hậu quả phải tuân theo quy định của Luật
SHTT và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung, pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT nói riêng.
Xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính là
một trong nét đặc thù của hệ thống thực thi quyền SHTT tại Việt Nam vì tại
nhiều nước trên thế giới, pháp luật không quy định áp dụng biện pháp hành
chính nhằm xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT, ngoại trừ một biện pháp
hành chính cũng hết sức đặc thù là biện pháp kiểm soát tại biên giới đối với
hàng hóa xâm phạm quyền SHTT.
Cơ quan Quản lý thị trường là một trong các cơ quan có thẩm quyền xử
lý hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính theo quy định
pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh các ưu điểm của biện pháp, trong quá trình
thực thi đã bộc lộ các hạn chế cần khắc phục. Cụ thể là mức xử phạt còn nhẹ,
chưa đủ mạnh và chưa đủ tính răn đe; chưa có sự phối hợp của chủ thể quyền
sở hữu với cơ quan chức năng.
- Các lực lượng chức năng, chính quyền địa phương các cấp đã vào
cuộc đối với công tác chống hàng giả, hàng vi phạm SHTT tuy nhiên chưa
thực sự mang lại hiệu quả; nhiều cuộc chiến vẫn còn đơn thương độc mã lực
lượng QLTT; chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng, thường xuyên, cung cấp thông
tin kịp thời, chính xác nên hiệu quả còn nhiều hạn chế. Đòi hỏi cần có hệ
thống pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật phối kết hợp giữa các cơ quan.

52
2.3.1. Những kết quả đạt được
(1) Những kết quả đạt được trong hoạt động kiểm tra, xử lý
Toàn Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội đã thực hiện theo quy
định của pháp luật, nội quy, quy chế của ngành, trong các năm 2016-2019 đã
đạt được các kết quả:
Bảng tổng hợp kết quả kiểm tra, xử lý từ năm 2016- 2019
(Đơn vị tính: vụ)
S Nội dung Năm
TT 2016 2017 2018 2019
1 Giao theo chỉ tiêu 6.000 6.800 7.050 7.400
2 Đạt được 8.437 8.596 9.245 8.524
2Trong đó: Hàng giả, hàng vi phạm sở 1.138 1.302 1.535 1.439
hữu trí tuệ…
(Báo cáo tổng kết các năm 2016- 2019 của Cục Quản lý thị trường
thành phố Hà Nội)
- Qua bảng số liệu cho thấy, sau khi Cục Quản lý thị trường thành phố
Hà Nội chỉ đạo các Đội Quản lý thị trường tăng cường kiểm tra, kiểm soát,
phát hiện và xử lý kịp thời, triệt để đối với các hành vi buôn bán, tàng trữ, vận
chuyển, mua bán hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và các hành vi gian lận
thương mại khác trên toàn địa bàn thành phố thì số lượng vụ việc và số tiền
phạt thu được sau khi được kiểm tra, xử lý đều vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Những số liệu này minh chứng cho sự cố gắng, nỗ lực không ngừng nghỉ của
lực lượng quản lý thị trường của Cục trong công tác đấu tranh phòng chống
các hành vi buôn bán, tàng trữ, vận chuyển, mua bán hàng vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ và các hành vi gian lận thương mại khác.
Trong thời gian qua, trên địa bàn thành phố, tình trạng sản xuất, kinh
doanh, buôn bán hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn tồn tại ở
quy mô, mức độ khác nhau. Thực tế làm giả tập trung chủ yếu ở một số chủng
loại, mẫu mã, sử dụng nhãn mác, bao bì của các doanh nghiệp có uy tín; giả
mạo các nhãn hiệu nổi tiếng, phổ biến để đưa ra thị trường tiêu thụ. Hàng hóa

53
vi phạm đa số được sản xuất ở nước ngoài, sau đó thẩm lậu bằng nhiều đường
khác nhau chủ yếu qua đường tiểu ngạch, đưa vào trong nước rồi vận chuyển,
tập kết về Hà Nội để tiêu thụ và chuyển đi các tỉnh. Các đối tượng vi phạm
thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn và có sự tham gia của các đối
tượng trong và ngoài nước, được tổ chức ngày càng tinh vi, có sự câu kết từ
khâu sản xuất đến khâu phân phối, sử dụng phương tiện kỹ thuật cao để đối
phó với các cơ quan chức năng.
Thực tế tại Hà Nội cho thấy, trong số ba biện pháp đảm bảo thực thi
quyền đối với nhãn hiệu đang được áp dụng tại Việt Nam hiện nay (biện pháp
dân sự, biện pháp hành chính và biện pháp hình sự) thì Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội áp dụng biện pháp xử lý bằng hành chính chiếm
phần lớn các vụ việc. Bởi lẽ, ưu thế của biện pháp hành chính là thủ tục đơn
giản, xử lý nhanh chóng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của chủ thể sở hữu, đảm
bảo không chỉ có tác dụng ngăn chặn mà còn có tác dụng phòng ngừa, răn đe
thông qua việc trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền.
Đặc biệt trong thời gian qua, trên địa bàn thành phố phát hiện nhiều vụ
việc kinh doanh hàng giả với số lượng lớn, kết hợp yếu tố thương mại điện tử,
tập trung chủ yếu ở mặt hàng gia dụng, thời trang, vật liệu xây dựng... Ngoài
hàng hoá vi phạm SHTT, qua công tác kiểm tra đã phát hiện và cho thấy nổi
lên hiện trạng sản xuất, kinh doanh hàng giả; đăng ký tên doanh nghiệp trùng
với nhãn hiệu đã được bảo hộ để lừa dối người tiêu dùng.
Hàng giả, hàng xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ đối với các mặt hàng
này đã xuất hiện từ các shop, siêu thị trung tâm thành phố... tới các vùng
quận, huyện ven đô ngày càng nhiều với các quy mô từ những cửa hàng kinh
doanh nhỏ lẻ tới những nhà phân phối và nhập khẩu lớn trên địa bàn. Các lực
lượng chức năng Thành phố trong đó lực lượng Quản lý thị trường đã phát
hiện và xử lý nhiều vụ việc vi phạm có tính chất, mức độ nghiêm trọng,
không chỉ trên khâu lưu thông mà còn xảy ra tại các doanh nghiệp sản xuất
[13,14,15,17]. Ngoài ra môi trường internet đang là nơi diễn ra việc quảng
cáo, mua bán rất nhiều sản phẩm gian lận thương mại; các sàn thương mại

54
điện tử bị lợi dụng trở thành một kênh tiêu thụ hàng giả mạo nhãn hiệu mà
các lực lượng chức năng rất khó phát hiện và xử lý[18].
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội chỉ đạo các Đội Quản lý
thị trường chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, kiểm
soát trong hoạt động kinh doanh hàng hóa là mặt hàng mỹ phẩm, dược
phẩm, thực phẩm chức năng nhằm ngăn chặn hiệu quả và từng bước kiểm
soát hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên địa bàn Hà Nội; tập trung
kiểm tra, kiểm soát tại các tuyến phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng
Đường, Hàng Bông, Hàng Gai, Chợ Đồng Xuân, các hội chợ, làng nghề,
khu công nghiệp,... trên địa bàn Thành phố[17].
Trong các báo cáo tổng kết hàng năm, Cục Quản lý thị trường thành
phố Hà Nội luôn khẳng định toàn thể lực lượng quản lý thị trường đã có rất
nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh thương mại, qua đó đã
góp phần ổn định thị trường, bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng, thúc đẩy
phát triển sản xuất, tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh[13,14,15,17].
(2) Những kết quả đạt được trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục
pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ
Trong những năm qua, Ban chỉ đạo của Cục QLTT thành phố Hà Nội
đã chỉ đạo các lực lượng chức năng kịp thời, thực hiện đầy đủ các văn bản
pháp luật về hành vi buôn bán, vận chuyển hàng hàng vi phạm sở hữu trí tuệ
trái phép, làm tốt công tác tuyên tuyền trong đấu tranh phòng chống vi phạm
pháp luật trong buôn bán và vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả,
hàng vi phạm sở hữu trí tuệ với nhiều nội dung và hình thức phong phú, phổ
biến kịp thời đến các quần chúng nhân dân không buôn bán, vận chuyển, sử
dụng hay bất kỳ hành vi sử dụng hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng vi
phạm sở hữu trí tuệ từ đó tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hoạt
động của quần chúng nhân dân.
Ví dụ điển hình: Thực hiện Công văn số 1586/TQLTT-VPTC ngày 20
tháng 8 năm 2019 của Tổng cục QLTT v/v hưởng ứng “Ngày phòng, chống

55
hàng giả, hàng nhái” 29/11 và Kế hoạch số 2358 /KH-QLTT ngày 06 tháng 12
năm 2019 của Cục QLTT Thành phố Hà Nội về tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục pháp luật trong phòng, chống hàng giả, hàng nhái năm 2019, từ 08 giờ 00
đến 11 giờ 00 phút, ngày 29 tháng 12 năm 2019, Cục QLTT Thành phố Hà
Nội đã tổ chức thành công buổi tuyên truyền đợt 3 cho 400 người tiêu dùng là
nhân dân, học sinh, sinh viên trên địa bàn Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Nội dung tuyên truyền là các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác xử lý
vi phạm các hành vi vi phạm quyền SHTT; trao đổi của các sở hữu quyền về
bảo vệ, ủng hộ hàng thật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh
nghiệp về một số hàng hóa được bảo hộ và công nhận tại Việt Nam;..[17].
Tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 184/KH-QLTT ngày 19/3/2018 thực
hiện nội dung đột phá về văn minh thương mại giai đoạn 2018 – 2020, năm
2019, Cục QLTT Thành phố Hà Nội đã chủ động phối hợp với Trường Cao
đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Thương mại Hà Nội, UBND các quận trên địa bàn
thành phố tổ chức 7 hội nghị tuyên truyền về quy định văn minh thương mại
cho hơn 2.000 lượt người tham gia; cấp phát hơn 5.000 tờ rơi, khuyến cáo,
vận động ký cam kết chấp hành pháp luật đối với gần 3.000 tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa trên địa bàn thành phố. Để nâng cao hiệu quả
tuyên truyền về văn minh thương mại, các hội nghị tuyên truyền được cục
triển khai bằng nhiều hình thức trực quan, sinh động. Trong đó có các video,
clip hướng dẫn thực hiện quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đồng thời, cục đã phối hợp với ban quản lý các chợ tuyên truyền
trên hệ thống loa phát thanh, xe lưu động về những quy định trong thực hiện
văn minh thương mại. Bên cạnh đó, để nâng cao ý thức thực hiện văn minh
thương mại đến toàn thể dân cư, Cục Quản lý thị trường đã chỉ đạo các đội
phụ trách địa bàn duy trì trên 800 bảng thông báo hệ thống số điện thoại
đường dây nóng tại các điểm công cộng, điểm chợ, nhà hàng và các khu vực
kinh doanh nhộn nhịp để nhận thông tin phản ánh các hành vi vi phạm liên
quan đến thẩm quyền xử lý của cơ quan Quản lý thị trường.
Riêng trong năm 2019, các đội nghiệp vụ phụ trách địa bàn của Cục
Quản lý thị trường thành phố Hà Nội đã tổ chức kiểm tra, kiểm soát về thực

56
hiện văn minh thương mại đối với 7.865 lượt tổ chức, cá nhân hoạt động kinh
doanh, buôn bán trên địa bàn thành phố. Trong đó, tập trung kiểm tra, ngăn
chặn các hành vi buôn bán hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, gian
lận thương mại, niêm yết giá không rõ ràng và thái độ ứng xử không lịch sự
với khách hàng. Theo kết quả đánh giá của Cục Quản lý thị trường Thành phố
Hà Nội cuối năm 2019, sau hai năm quyết liệt triển khai thực hiện văn minh
thương mại trên địa bàn thành phố, hầu hết các tổ chức, cá nhân kinh doanh
đã được tuyên truyền, nâng cao nhận thức văn hóa kinh doanh. Đã có nhiều
tiểu thương điển hình trong việc chấp hành pháp luật, thực hiện văn minh
thương mại, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng kinh doanh trên thị
trường và đông đảo người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, thông qua các công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật các lực lượng chức năng đã tuyên truyền giáo dục,
phổ biển pháp luật từ đó hạn chế việc tái phạm, góp phần nâng cao kiến thức
và ý thức chấp hành pháp luật cho tổ chức và cá nhân trên địa bàn[17].
(3) Những kết quả đạt được trong nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho
đội ngũ kiểm soát viên
Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội thường xuyên tổ chức các
các lớp tập huấn,khoá đào tạo bồi dưỡng kiến thức về pháp luật sở hữu trí tuệ
và nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm theo các chương trình đào
tạo kiểm soát viên thị trường và bồi dưỡng kiến thức cho kiểm soát viên thị
trường. Cụ thể, các buổi tập huấn, đào tạo nâng cao kiến thức pháp luật về các
chuyên đề: Kết quả đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ bao gồm các cam kết trong các lĩnh vực
quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công
nghiệp, sáng chế, thông tin và dữ liệu bí mật, giống cây trồng, hoạt động bảo
hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định; Công tác giám định sở
hữu công nghiệp và sử dụng kết quả giám định trong xử lý vi phạm hành
chính; Thẩm quyền và quy trình xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
của cơ quan Quản lý thị trường. Nâng cao nhận thức chuyên môn về cách
phân biệt hàng thật, hàng giả đối với một số sản phẩm của Longchamp,

57
LVMH, Prada, Wacoal, Nike, Unilever, L’oreal, Akzo Nobel, Masan, Apple.
Giải đáp, hướng dẫn về kỹ năng giải quyết các vụ việc liên quan đến xâm
phạm quyền SHTT, việc sử dụng kết quả giám định trong xử lý vi phạm hành
chính, những vấn đề đáng lưu ý liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA)… Đến nay lực lượng
Quản lý thị trường thành phố Hà Nội có thể độc lập kiểm tra, xử lý vi phạm
một số ngành hàng, mặt hàng quan trọng.
(4) Những kết quả đạt được trong tổ chức phối hợp với các cơ quan
thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Trong những năm qua, Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội phối
hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, lực lượng chức năng như Cảnh sát kinh
tế, Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Bản quyền, Thanh tra văn hoá thông tin…trong
công tác thực thi quyền sở hưu trí tuệ bao gồm: kiểm tra đánh giá các cơ sở
sản xuất kinh doanh; xử lý hoạt động khai thác, vận chuyển và kinh doanh trái
phép; kiểm soát chặt chẽ 24/24 giờ các ngày trong tuần, kể cả thứ Bảy, Chủ
nhật và ngày lễ. Đồng thời, lực lượng Quản lý thị trường thành phố cùng với
lực lượng Thanh tra Khoa học - công nghệ, Cảnh sát kinh tế, Hải quan… xây
dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác đấu tranh chống hàng giả
liên quan đến sở hữu trí tuệ.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
- Theo đánh giá của các ngành chức năng, mặc dù công tác đấu tranh
chống hành vi xâm phạm quyền SHTT được thực hiện quyết liệt song hiệu quả
đạt được vẫn còn khá khiêm tốn. Tình trạng xâm phạm quyền SHTT trên địa bàn
thành phố vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi với các loại hình gian lận thương mại được
phát hiện phổ biến. Hàng ngày xâm phạm quyền SHTT vẫn còn xuất hiện và len
lỏi vào các ngõ ngách của thị trường gây tâm lý bức xúc trong dư luận.
- Báo cáo của Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội cho thấy từ
2016 đến 2019 số vụ vi phạm hàng hóa xâm phạm quyền SHTT bị xử phạt
đều tăng qua các năm. Với mức độ gia tăng trên, chứng tỏ thực tế tình trạng
xâm phạm quyền SHTT trên địa bàn thành phố vẫn tiếp tục có xu hướng gia
tăng. Đây là vấn đề khó khăn đặt ra không chỉ cho lực lượng Quản lý thị

58
trường mà của tất cả các ngành thành viên BCĐ 389 của thành phố cũng như
các cấp chính quyền trong thành phố.
- Kết quả đấu tranh chống hàng hóa xâm phạm quyền SHTT vẫn chưa
tương xứng với tình hình thực tế đang diễn ra hết sức phức tạp với thủ đoạn
tinh vi và quy mô ngày càng lớn, chưa đáp ứng mong muốn của Chính phủ và
kỳ vọng của người dân. Tình hình xâm phạm quyền SHTT vẫn diễn biến phức
tạp, đặc biệt tình trạng sản xuất, kinh doanh các mặt hàng hóa xâm phạm
quyền SHTT, có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân, tiềm ẩn nguy cơ
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
- Cục QLTT trong suốt quá trình hoạt động đã chủ động phối kết hợp
với các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong công tác phòng chống hàng xâm
phạm quyền SHTT như đã phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức hướng dẫn
cách nhận biết, phân biệt hàng thật (hàng chính hãng) với các loại hàng xâm
phạm quyền SHTT xuất hiện trên thị trường; phối hợp với doanh nghiệp trong
quá trình tổ chức kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm… Tuy nhiên, số lượng
doanh nghiệp có mối quan hệ hợp tác với lực lượng QLTT còn rất hạn chế; đa
số các Doanh nghiệp hợp tác khi trên thị trường xuất hiện nhiều sản phẩm
xâm phạm nhãn hiệu sản phẩm của họ mà không có sự phối hợp phòng ngừa
từ trước. Đặc biệt là vẫn còn nhiều Doanh nghiệp coi nhẹ việc đăng ký nhãn
hiệu và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm hàng hóa/dịch vụ của mình.
- Qua thực tế triển khai thực hiện cho thấy công tác phối hợp, trao đổi
cung cấp thông tin giữa các lực lượng chức năng trong thực thi quyền sở hữu
trí tuệ vẫn còn hạn chế. Đặc biệt là việc phối hợp giữa các cơ quan thực thi
với nhau, cơ quan Quản lý thị trường chỉ phối hợp ở mức trao đổi thông tin,
tài liệu với các cơ quan như Công an, Hải quan khi có các vụ việc vi phạm
cần phải điều tra, xác minh làm rõ để phục vụ cho công tác đấu tranh, xử lý vi
phạm mà chưa có một cơ chế trao đổi thông tin thường xuyên hai chiều lẫn
nhau để phục vụ công tác phòng ngừa và phát hiện vi phạm về nhãn hiệu.
- Năng lực thực thi của lực lượng Quản lý thị trường còn những vấn đề
tồn tại, hạn chế

59
Cho tới nay vẫn chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ về chống xâm
phạm quyền SHTT, những cán bộ người mà trực tiếp làm công tác thực thi
chưa sử dụng hệ thống thông tin một cách thường xuyên, trao đổi thông tin
qua các phương tiện điện tử, khai thác thông tin triệt để từ internet dẫn đến
một số tình huống việc tác nghiệp còn lúng túng. Bên cạnh đó, trình độ
chuyên môn, khả năng ngoại ngữ của cán bộ còn hạn chế nên trong một số
trường hợp cần hợp tác quốc tế còn gặp rào cản ngôn ngữ và khiến việc tiếp
cận, xử lý thông tin có yếu tố nước ngoài chưa hiệu quả. Trình độ, kinh
nghiệm chuyên môn về SHTT, đối tượng của quyền SHTT còn hạn chế, cán
bộ thiếu các kỹ năng, kinh nghiệm trong việc xác định hành vi vi phạm, thiếu
quyết đoán trong các tình huống cụ thể, thiếu các kỹ năng tư vấn cho cá nhân,
doanh nghiệm về quy định SHTT.
- Lực lượng Quản lý thị trường còn gặp nhiều khó khăn trong công tác
xử lý hàng hóa vi phạm bị tịch thu
Hiện nay, Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội do Bộ Công
Thương quản lý nên mọi hoạt động xử lý hàng hóa tịch thu phải chờ hướng
dẫn của Bộ. Trong khi đó, vấn đề kho bãi phục vụ việc bảo quản, lưu trữ hàng
hóa thu giữ chờ xử lý không đảm bảo yêu cầu khiến lực lượng gặp rất nhiều
khó khăn. Cơ sở vật chất của Cục còn nhiều thiếu thốn, đa số lực lượng Quản
lý thị trường đều phải đi thuê kho bãi lưu trữ hàng hóa thu giữ nên không đảm
bảo yêu cầu cả về diện tích và trang thiết bị. Tất cả hàng hóa thu giữ đều được
bảo quản trong kho nên không tránh khỏi việc ảnh hưởng đến chất lượng cũng
như việc chống côn trùng, chuột, gián xâm nhập. Thậm chí có khi số lượng
hàng hóa quá nhiều phải để tạm sang phòng làm việc của các cán bộ. Đặc biệt
đối với những mặt hàng có yêu cầu điều kiện bảo quản khắt khe đặc biệt như
thủy hải sản, thực phẩm đông lạnh, gia cầm, khí gas, thuốc bảo vệ thực vật,
mỹ phẩm, thực phẩm chức năng và sữa dành cho trẻ em thì đơn vị buộc phải
đi thuê kho bãi chuyên dụng để đảm bảo an toàn hàng hóa đến khi quyết định
xử lý vụ việc hoàn tất. Đối với hàng hóa phải tiêu hủy như thực phẩm đông
lạnh, gia súc, gia cầm, thuốc trừ sâu… tốn rất nhiều chi phí cho việc xử lý

60
theo đúng quy trình để đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường trong khi kinh phí
tiêu hủy rất hạn chế.
- Các hoạt động đào tạo, tập huấn cho nhân lực Quản lý thị trường còn
thiếu và yếu, chưa đa dạng, sâu sắc, bám sát tực tiễn.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
a. Nguyên nhân khách quan
Một là, hàng hóa trên thị trường ngày một đa dạng về mẫu mã, chủng
loại; phương thức, môi trường kinh doanh ngày một đổi mới, nhất là môi
trường internet. Do vậy thủ đoạn kinh doanh hàng giả, hàng vi phạm SHTT
cũng hết sức tinh vi, khó lường
Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay được thực
hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử
dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ
quan QLTT khó phát hiện thật /giả. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy
hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi
lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ có đặc điểm rất phức tạp vì chủ
thể của tội phạm hầu hết là những người có điều kiện kinh tế, trình độ chuyên
môn, kỹ thuật, tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình đang quản lý, một
số người còn có chức vụ, quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của
khoa học, công nghệ đã tạo nhiều thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội
ngày càng tinh vi nên rất khó phát hiện. Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ đã
gây ra hoặc đe dọa đến thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như từng lĩnh
vực, từng ngành, ảnh hưởng đến tài sản, sức khoẻ và tính mạng con người, tác
động đến với cả cộng đồng, triệt tiêu sức sáng tạo và khiến giới đầu tư e ngại.
Hàng hóa xâm phạm SHTT có nhiều nguồn như từ nước ngoài đưa vào,
các đối tượng thường đặt hàng hóa, nhãn hiệu riêng lẻ sau đó đưa vào Việt
Nam bằng nhiều con đường khác nhau, tập trung tại các làng nghề, khu công
nghiệp để gắn nhãn hiệu đưa đi tiêu thụ, các mặt hàng chủ yếu là quần áo,
giày dép, túi xách...Trong nước, các đối tượng thành lập các đơn vị có chức
năng sản xuất, kinh doanh hàng hóa, sau đó căn cứ nhu cầu thị trường đối với

61
từng loại hàng hóa tiến hành thu mua nguyên liệu, sản xuất ra các sản phẩm
có bao bì nhãn mác gần giống, chứa nhiều yếu tố gây nhầm lẫn với các sản
phẩm có nhãu hiệu, uy tín trên thị trường để bán kiếm lời, tập trung vào các
dòng sản phẩm đồ uống giải khát, đồ gia dụng, điện máy...những vi phạm chủ
yếu là “xâm phạm quyền” đối với nhãn hiệu (cách điệu chữ viết, hình ảnh) và
kiểu dáng (màu sắc, hình dáng) công nghiệp đã được bảo hộ.
Hai là, về phía doanh nghiệp bị làm giả thì lại không yêu cầu can thiệp
kịp thời và chưa có ý thức trong việc tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; ngại cung
cấp thông tin hoặc yêu cầu cơ quan chức năng xử lý vi phạm vì sợ người tiêu
dùng quay lưng với sản phẩm, sợ ảnh hưởng đến uy tín sản phẩm và doanh
thu bán hàng. Do vậy chính các doanh nghiệp vẫn còn khá thờ ơ, chưa chủ
động phát hiện những xâm phạm để từ đó có thể tập hợp dữ liệu và căn cứ
chống lại những hàng vi xâm phạm đó. Ngay cả khi đã phát hiện được xâm
phạm thì cũng vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp không làm bất cứ việc gì mà
“tự chịu đựng” và “đồng hành” cùng những xâm phạm đó. Chính những điều
đó ngày càng làm phức tạp hơn và gia tăng một cách nghiêm trọng hơn các
xâm phạm thương hiệu, dẫn đến làm xấu đi môi trường kinh doanh đối với
các doanh nghiệp Việt Nam.
b. Nguyên nhân chủ quan
Công tác phối hợp trao đổi thông tin giữa các cơ quan chức năng vẫn
chưa thực sự được chú trọng, việc kết nối thông tin giữa cơ quan Hải Quan
trong việc kiểm soát các Doanh nghiệp nhập khẩu nhất là các doanh nghiệp
nhập khẩu các mặt hàng thực phẩm, dược phẩm, thời trang, hàng tiêu dùng,
điện tử cao cấp.. thông tin giữa Cục thuế về công tác tra cứu hóa đơn điện tử
phục vụ công tác kiểm tra hàng hóa lưu thông theo quy định tại Nghị định
119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 về quy định hóa đơn điện tử khi bán hàng
cung cấp dịch vụ vẫn chưa có sự thống nhất do vậy công tác kiểm tra, xử lý
vẫn còn nhiệu hạn chế.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác đấu tranh,
xử lý hành vi sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu hàng xâm phạm sở hữu trí tuệ về
cơ bản đã đầy đủ, có chế tài xử phạt rõ ràng song vẫn còn một số quy định còn

62
chồng chéo, sơ hở, tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng để hoạt động. Hiện
còn đang có sự chồng chéo trong xử lý hàng giả theo Nghị định 185/2013/NĐ-
CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 124/2015/NĐ-CP
ngày 19/11/2015 với quy định xử phạt vi phạm hàng hóa có nhãn hàng hóa giả
mạo nhãn hàng hóa theo Nghị định 119/2017/NĐ-CP ngày 01/11/2017 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo
lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Công tác phối hợp trao đổi thông tin giữa các lực lượng chức năng
trong và ngoài ngành; giữa các lực lượng chức năng Thành phố và tỉnh khác ở
một số nơi, một số thời điểm còn hạn chế, thiếu thường xuyên, chưa tin tưởng
lẫn nhau dẫn đến hiệu quả công tác bắt giữ, xử lý chưa cao. Thông tin và dự
báo chuyên sâu về các vấn đề hàng giả, hàng vi phạm SHTT còn yếu và thiếu
cả về đầu mối và chất lượng thông tin.
- Chế tài xử phạt chưa đủ mạnh, đối với nhiều vụ việc mặc dù có dấu
hiệu để chuyển cơ quan điều tra khởi tố theo pháp luật hình sự tuy nhiên rất
khó để xử lý hình sự mà lại chuyển trả để xử phạt hành chính. Số tiền xử
phạt hành chính ở mức cao nhất vẫn còn nhẹ so với lợi nhuận có thể thu
được từ hành vi vi phạm nên chưa đủ mức răn đe (vụ việc Menshop, Nhôm
Việt Pháp Đội 14, vụ Khải silk...).
- Trong khi đó, người tiêu dùng chưa trang bị nhiều kiến thức, thông tin
về phân biệt hàng xâm phạm quyền SHTT.
- Hàng hóa vi phạm về nhãn thường do ý chí chủ quan của các thương
nhân do một phần muốn tạo lợi thế cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường
(càng ít người biết đến nguồn gốc, nơi sản xuất sản phẩm hàng hóa để phục
vụ ý đồ độc quyền trong phân phối) hoặc che giấu thông tin xuất xứ, chất
lượng sản phẩm để tráo đổi hoặc che giấu khách hàng nhẹ dạ, cả tin, thiếu
thông tin về sản phẩm, hàng hóa…
Trong thực tế, không dễ gì xác định được hành vi xâm phạm quyền
SHTT do hành vi xâm phạm quyền ngày một tinh vi và bằng nhiều biện pháp

63
che dấu hành vi xâm phạm, nhất là các trường hợp xâm phạm quyền có tổ
chức và/hoặc xâm phạm quyền đối với sáng chế. Cũng chính vì vậy, các cơ
quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm gặp không ít khó khăn khi xác định
hành vi xâm phạm, nên nhiều trường hợp phải cần đến sự hỗ trợ của cơ quan
chuyên môn thông qua hình thức xin ý kiến chuyên môn hoặc giám định sở
hữu trí tuệ. Tuy nhiên, đôi lúc sự phối kết hợp giữa các cơ quan chuyên môn
và cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm chưa thực sự nhuần nhuyễn, kịp
thời nên hiệu quả chưa được như mong đợi.
Bên cạnh đó, các lực lượng chức năng, chính quyền địa phương các cấp
đã vào cuộc đối với công tác chống hàng giả, hàng vi phạm SHTT tuy nhiên
chưa thực sự mang lại hiệu quả; nhiều cuộc chiến vẫn còn đơn thương độc mã
lực lượng QLTT; chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng, thường xuyên, cung cấp
thông tin kịp thời.
Các nguyên nhân bao gồm chi phí giám định cao, thời gian kéo dài gây
ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý, vi phạm. Trang thiết bị,
phương tiện nghiệp vụ phục vụ cho công tác chống hàng giả, gian lận thương
mại và hàng vi phạm SHTT còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.
Tiểu kết chương 2
Nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật về thực trạng pháp luật xác
định hành vi xâm phạm và yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; các biện pháp
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các thiết chế bảo vệ tương ứng nhận thấy về
cơ bản quy định pháp luật về các vấn đề này phù hợp nhu cầu bảo vệ quyền
SHTT. Bên cạnh đó, còn một số tồn tại, hạn chế đòi hỏi cần điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền SHTT.
Thời gian qua, hoạt động bảo vệ quyền SHTT tại Cục QLTT thành
phố Hà Nội đã đạt được kết quả nhất định trên cả công tác kiểm tra, xử lý
hành vi xâm phạm và hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền
sở hữu trí tuệ, góp phần tích cực trong việc thực thi hiệu quả hoạt động bảo
vệ quyền SHTT.

64
Song, trong công tác thực thi nhiệm vụ và áp dụng pháp luật lại nảy
sinh một số khó khăn, vướng mắc cần được kịp thời khắc phục, tháo gỡ. Thực
tiễn bảo vệ quyền SHTT tại Cục QLTT thành phố Hà Nội cho thấy hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ rất phức tạp. Nguyên nhân của những tồn tại
này đến từ những điều kiện khách quan thực tế, đặc thù, tính chất của đối
tượng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng như những nguyên nhân chủ quan từ
hệ thống pháp luật, chủ thể thực thi, công tác thực thi…
Vì vậy, Chương 3 sẽ đề cập đến giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền SHTT tại Cục QLTT thành phố Hà Nội.

65
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ CỦA CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động hệ thống cơ quan Quản lý thị trường trong việc bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu
Trong khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sôi động,
mạnh mẽ, thì quá trình đổi mới, hoàn thiện thể chế, pháp luật trong nước chưa
được thực hiện một cách đồng bộ, kịp thời. Để thực hiện có hiệu quả hơn nữa
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một nhu cầu cấp thiết hiện nay là tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo tinh thần của Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII số 06-NQ/TW ngày
05/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới: “khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện luật pháp trực
tiếp liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với Hiến pháp, tuân thủ đầy
đủ, đúng đắn các quy luật của kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế; nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên, trước hết là luật pháp về thương mại, đầu tư, SHTT và chuyển
giao công nghệ, lao động - công đoàn… bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận
lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia và thực hiện các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới”.
Hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật SHTT nói riêng không chỉ
xuất phát từ nhu cầu đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mà còn xuất phát từ
nhu cầu phát triển tự thân của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Một hệ thống
bảo hộ quyền SHTT tốt cần tạo điều kiện cho quyền đó được hiện thực hóa ở
cả ba khâu: xác lập quyền, khai thác giá trị của quyền và bảo vệ quyền, chống

66
lại hành vi xâm phạm. Trong đó, để bảo vệ quyền SHTT, không những cần có
một hệ thống pháp luật SHTT đầy đủ, mà còn phải có một hệ thống tư pháp
dân sự, tư pháp hình sự và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có hiệu lực,
hiệu quả, và cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về bảo vệ quyền SHTT.
Nhà nước Việt Nam luôn có chính sách tăng cường bảo hộ cũng như
bảo vệ quyền SHTT. Chính sách này được thực hiện thông qua việc hoàn
thiện khung pháp lý cho công tác thực thi quyền SHTT, tăng cường năng lực
của cơ quan thực thi quyền SHTT và trao quyền chủ động cho chủ thể quyền
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều 9 Luật SHTT
khẳng định, tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật
cho phép để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình và có trách nhiệm tôn
trọng quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp
luật. Đặc biệt là gần đây, Việt Nam đã tham gia một số hiệp định thương mại
tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do
giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). Nước ta cũng đang trong
quá trình đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực giữa ASEAN
và 6 đối tác (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New
Zealand - RCEP). Để thực hiện có hiệu quả hơn nữa tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, cấp thiết hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đặc biệt là
pháp luật về bảo vệ quyền SHTT; nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm tranh thủ được thời cơ,
thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia và thực hiện các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đồng thời đảm bảo tối đa quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể quyền SHTT.
Hoàn thiện pháp luật - công cụ chủ yếu để nhà nước xã hội - là yêu cầu
khách quan của quá trình phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với đường lối đổi mới
toàn diện nền kinh tế đất nước, vấn đề tạo lập cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đã được Đảng ta quan tâm chỉ đạo ngay từ Đại hội lần thứ VI. Chủ trương
"thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ" tiếp tục được khẳng định tại Văn kiện

67
của Đại hội VIII, Văn kiện của Đại hội VIII, Văn kiện của Đại hội lần thứ IX
và Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá IX). Đến Đại hội lần
thứ IX và gần đây nhất là tại Hội nghị Trung ương lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa lần thứ XII vấn đề "Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí
tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy
cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả" lại được tiếp tục
nhắc lại là một trong những nội dung để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
bảo vệ quyền SHTT phải quán triệt quan điểm chỉ đạo xây dựng và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam trong Nghị quyết số 48NQ/TW của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, theo đó cần đảm bảo tính "đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch" đồng thời đảm bảo tính đầy đủ và hiệu quả
theo yêu cầu hội nhập quốc tế và theo đúng định hướng xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật pháp luật sở hữu trí tuệ, bổ trợ tư pháp, tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tính thống nhất đảm bảo không có hiện
tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau giữa của các quy phạm
pháp luật trong cùng ngành luật và giữa các ngành luật với nhau. Tính đồng
bộ thể hiện ở việc ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết các văn
bản, quy định pháp luật trong những trường hợp cần có sự quy định chi
tiết, để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện
để có thể thực hiện ngay trên thực tế.
Do đó, với vị trí là một bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia, pháp
luật về bảo vệ quyền SHTT phải đảm bảo được tính thống nhất, đồng bộ,
không có mâu thuẫn, chồng chéo về nội dung và hình thức. Pháp luật về bảo
vệ quyền SHTT cũng cần phải đảm bảo tính minh bạch, khả thi và rõ ràng, cụ
thể, đầy đủ, bao quát hết được vấn đề cần điều chỉnh khi xử lý hành vi xâm
phạm để áp dụng hiệu quả trên thực tế.
3.1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống cơ quan QLTT trong
việc bảo vệ quyền SHTT

68
Quán triệt, thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, chỉ đạo của Bộ Công Thương và cấp ủy,
chính quyền địa phương về công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường nói chung,
đặc biệt tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số
41/NQ-CP của Chính phủ về việc đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn
lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới, Kế hoạch đấu tranh
mà Tổng cục QLTT đã đề xuất trong năm 2020 xác định những giải pháp
công tác trọng tâm như: (1) Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, chỉ đạo của Bộ Công
Thương và cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác kiểm tra, kiểm soát
thị trường nói chung, đặc biệt tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu
quả Nghị quyết số 41/NQ-CP của Chính phủ về việc đẩy mạnh công tác đấu
tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới;
(2) Tăng cường các giải pháp giám sát thị trường, chủ động thu thập thông tin,
đánh giá thị trường để xây dựng phương án đấu tranh chuyên đề; (3) Thông
qua công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường tiếp tục rà soát, phát hiện những
bất cập trong cơ chế chính sách để kiến nghị với Chính phủ, các Bộ, ngành
xem xét, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn công tác chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả trong tình hình mới; (4) Nâng cao năng lực công tác
cho công chức lực lượng QLTT. Thực hiện đầu tư trang thiết bị cho lực
lượng, nhất là những thiết bị kiểm tra nhanh về thực phẩm, xăng dầu…; Tăng
cường đào tạo, tập huấn các kỹ năng về nhận diện hàng giả, hàng vi phạm sở
hữu trí tuệ, kỹ thuật chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả sử dụng
công nghệ cao,...; (5) Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các lực
lượng chức năng: Công an, Hải quan, Thuế, Bộ đội biên phòng, Thanh tra
chuyên ngành trong đấu tranh chống buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng
nhập lậu, hàng kém chất lượng, hàng vi phạm an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh
hoạt động trao đổi thông tin với các Doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng để
công tác kiểm tra, xử lý hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đạt
hiệu quả. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường
công tác hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống buôn lậu, gian lận

69
thương mại và hàng giả; (6) Tăng cường kiểm tra, thanh tra công vụ, xử lý
tiêu cực, luân chuyển công chức định kỳ, đột xuất ở các vị trí, lĩnh vực, địa
bàn phức tạp, nhiều điểm nóng,... Gắn trách nhiệm của người đứng đầu; xem
xét, xử lý trách nhiệm người đứng đầu và công chức trực tiếp quản lý địa bàn
nếu để xảy ra buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, vi phạm an toàn vệ
sinh thực phẩm phức tạp, nghiêm trọng kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân
mà không có giải pháp khắc phục kiên quyết, hiệu quả; (7) Đẩy mạnh hơn
nữa công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho tổ chức, cá nhân
kinh doanh; đa dạng về hình thức tuyên truyền, để nâng cao ý thức người dân
về tác hại của buôn bán hàng giả đối với xã hội và kêu gọi mọi người không
bao che, tiếp tay cho hành vi này; Tổ chức ký cam kết không kinh doanh hàng
giả và kiểm tra đối với những cơ sở kinh doanh đã ký cam kết và xử lý
nghiêm những trường hợp đã ký cam kết nhưng vẫn vi phạm.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ của Cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Một là, Luật Sở hữu trí tuệ đã nêu rõ trách nhiệm của từng cơ quan thực
thi quyền sở hữu trí tuệ, nhưng chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm phải
phối hợp công tác giữa các cơ quan này, chế tài đối với người đứng đầu các cơ
quan này nếu để xảy ra tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguyên nhân
từ việc không phối hợp công tác với nhau. Vậy nên, quy định rõ ràng trách
nhiệm phối hợp giữa các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan
trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền SHTT
Hiện nay, có nhiều cơ quan tham gia xử lý vi phạm quyền SHTT: Hải
quan, QLTT, công an, tòa án...Mặc dù, thẩm quyền của mỗi cơ quan đã được
quy định rõ nhưng vẫn có hiện tượng chồng chéo trong khâu xử lý vi phạm
SHTT. Điều này khiến doanh nghiệp lúng túng, ngần ngại khi liên hệ để bảo
vệ quyền SHTT. Vậy nên, cơ quan chức năng cần quy định rõ ràng thẩm
quyền của từng cơ quan và phạm vi cũng như cách thức phối hợp giữa những
cơ quan này khi xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT.

70
Hai là, trong công tác kiểm tra, xử lý hàng giả, xâm phạm SHTT, việc
trả lời kết luận giám định, ý kiến chuyên môn của cơ quan chức năng, hoặc
chủ sở hữu nhãn hiệu phục vụ cho công tác xử lý cần phải nhanh chóng, đáp
ứng thời gian theo quy định của Luật xử vi phạm hành chính và Pháp lệnh
QLTT (thời hạn xử lý vụ việc từ 25 ngày, hoặc 40 ngày phải có kết luận)
nhằm đảm bảo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan được vận hành hiệu quả nhất
Ba là, cần sửa đổi khoản 4 Điều 26 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày
29/8/2013 của Chính Phủ: “Người có quyền xử lý vi phạm có thể dựa trên văn
bản cam kết xác nhận hàng hóa, dịch vụ giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của
chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, văn bản ý kiến chuyên môn của cơ quan
Nhà nước về sở hữu công nghiệp, văn bản kết luận giám định để xác định
hành vi vi phạm nhưng phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với kết luận vi
phạm và quyết định xử lý vi phạm của mình” theo hướng quy định: “Văn bản
kết luận giám định hoặc văn bản của cơ quan chuyên môn SHTT, hoặc văn
bản xác nhận chủ thể quyền là tài liệu làm căn cứ kết luận vi phạm”.
Bốn là, sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 11 và điểm a khoản 1 điều 12
Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định hành
vi vận chuyển; tàng trữ để bán hàng hóa, dịch vụ xâm phạm quyền hoặc giả
mạo đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý do hành vi vi phạm này được quy định
không rõ ràng, cụ thể nên khó xử phạt đối với người vận chuyển thuê và chủ
kho tàng, bến bãi, nhà ở cho thuê, vì nếu muốn xử phạt phải chứng minh được
đối tượng vi phạm vận chuyển, tàng trữ hàng hóa, dịch vụ xâm phạm quyền
hoặc giả mạo đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý với mục đích là để bán. Hành
vi vi phạm này cần được quy định cụ thể lại là: Vận chuyển; tàng trữ hàng
hóa, dịch vụ xâm phạm quyền hoặc giả mạo đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
Năm là, hoàn thiện các quy định về thực thi quyền SHTT trong pháp
luật hành chính.
Căn cứ theo Nghị định 99/2013/NĐ-CP ngày 29/08/2013 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, các biện pháp xử
lý vi phạm về SHTT của cơ quan chức năng còn nhiều bất cập, bởi theo quy
định hiện hành, mức phạt cao nhất đối với vi phạm SHTT của doanh nghiệp

71
500 triệu đồng, cá nhân 250 triệu đồng. Do mức phạt được “khống chế” theo
mức trần, nên tác dụng ngăn ngừa vi phạm rất thấp. Vậy nên, cần sửa đổi quy
định về mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT theo hướng: tăng
mức phạt tối đa; mức phạt phải cao hơn lợi nhuận mà người vi phạm có thể
thu được từ hành vi vi phạm và tăng theo mức độ nghiêm trọng của hành vi vi
phạm như vi phạm có tổ chức, tái phạm, vi phạm liên quan đến các sản phẩm
có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức khoẻ của cộng đồng.
Sáu là, thực hiện cam kết quốc tế về thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Theo quy định của Hiệp định thành lập WTO, tất cả các thành viên gia
nhập WTO “đều có nghĩa vụ xây dựng và cải cách luật quốc gia phù hợp với
các Hiệp định thương mại đa phương của WTO, bao gồm Hiệp định TRIPs”.
Hiệp định TRIPs đã quy định những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu quyền SHTT,
mà những tiêu chuẩn này được xây dựng trên cơ sở những quốc gia phát triển
nhất. Hiệp định này không chỉ yêu cầu các thành viên bảo hộ các quyền
SHTT theo tiêu chuẩn đề ra mà còn tuyên bố các thành viên có quyền lựa
chọn tiêu chuẩn bảo hộ cao hơn cũng như có quyền tự do quyết định cách
thức phù hợp với hệ thống pháp luật và thực tiễn hoạt động của mình.
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội chúng ta cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT có
tính hợp lý, rõ ràng, phù hợp với các chuẩn mực chung của thế giới, khai thác
hợp lý các quy định linh hoạt dành cho các nước đang phát triển nhằm tạo cơ
sở vững chắc để thực hiện nguyên tắc cân bằng giữa lợi ích của các chủ thể
quyền và của xã hội.
Song song với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần thúc đẩy hoạt
động tuyên truyền nâng cao nhận thức của công chúng về việc thực thi pháp
luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích doanh nghiệp và người tiêu
dùng phối hợp chặt chẽ hơn với các cơ quan chức năng để thi hành có hiệu
quả quy định về quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích các tổ chức, các hiệp hội,
các ngành, đoàn thể, trường học… tham gia và việc thực thi quyền SHTT.
Việc thực thi nghiêm túc quy định pháp luật về SHTT là bằng chứng cho thấy
một đất nước Việt Nam năng động đang thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhằm

72
thu hút đầu tư, khuyến khích chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện đổi mới
thương mại và khoa học kỹ thuật, với việc coi thực thi quyền sở hữu trí tuệ
được là một phần chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ của Cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội
Thứ nhất, sắp xếp lại và tăng cường năng lực chuyên môn, quản lý của
Cục Quản lý thị trường Thành phố Hà Nội
Cục Quản lý thị trường Thành phố Hà Nội là lực lượng chủ công trong
quản lý, phòng, chống hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại và sở hữu trí
tuệ, Cục Quản lý thị trường Thành phố Hà Nội cần luôn nỗ lực nâng cao hiệu
quả công tác, tác phong, đạo đức của cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới. Cụ thể:
- Kiện toàn bộ máy, bố trí, sắp xếp nhân sự đúng người đúng việc, bổ
nhiệm cán bộ giỏi, có năng lực, phẩm chất, có kinh nghiệm cho các vị trí;
- Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, hàng năm rà soát, bổ sung hoặc
đưa ra khỏi quy hoạch những công chức không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện;
bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới đảm bảo nguồn cấp ủy và nguồn
công chức lãnh đạo cấp Phòng, cấp Đội và cấp lãnh đạo Cục mang tính liên
tục, kế thừa, phát triển, chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ, đảm bảo về số
lượng, đáp ứng về yêu cầu chất lượng.
- Xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và kế hoạch thực hiện
điều động, thay đổi địa bàn công tác của công chức giữ chức danh lãnh đạo
của các Phòng, Đội. Đồng thời cần có chương trình đào tạo chuyên nghiệp về
thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho công chức, kiểm soát viên QLTT chuyên
trách trong công tác thực thi quyền SHTT. Xây dựng chính sách quy hoạch và
phát triển đội ngũ công chức, kiểm soát viên thực thi quyền sở hữu trí tuệ lâu
dài và ổn định, đảm bảo lực lượng kế cận; chú trọng, tập trung đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm
sở hữu trí tuệ tại Cục, tránh tình trạng đào tạo dàn trải, không có kế hoạch,
không mang lại hiệu quả thiết thực.

73
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát đối với công chức trong việc
thực thi công vụ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái tư
tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống của công chức và kiên quyết xử
lý đối với công chức có vi phạm. Thực hiện nghiêm và tổ chức giám sát việc
thực hiện quy tắc, chuẩn mực ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa công sở,
kỷ luật của ngành và các quy định về trách nhiệm của công chức.
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ
Công tác chống hàng giả không thể đạt hiệu quả cao nếu không có sự
tham gia, phối hợp của doanh nghiệp và sự chung tay của toàn xã hội. Do vậy,
cần áp dụng các biện pháp tuyên truyền đến các doanh nghiệp cũng cần chủ
động, tích cực tham gia cuộc chiến chống hàng giả, hàng vi phạm SHTT thông
qua hoạt động quảng bá sản phẩm song song với việc hướng dẫn, chỉ rõ cho
người tiêu dùng nhận biết hàng bị xâm phạm quyền SHTT. Đặc biệt, các hoạt
động tuyên truyền nhằm doanh nghiệp cần tăng cường quản lý, giám sát tiêu
thụ hàng hoá và chủ động khiếu nại khi bị xâm phạm nhãn hiệu. Sự liên minh
giữa các nhà sản xuất trong đấu tranh chống hàng xâm phạm quyền SHTT cần
tích cực hơn nữa. Cùng với đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giúp người tiêu
dùng trang bị kiến thức “tiêu dùng thông minh”, tránh trở thành nạn nhân của
hàng vi phạm SHTT và phải nhận thức rõ nhiệm vụ của mình trong việc chống
hàng vi phạm SHTT vì quyền lợi của bản thân và xã hội.
Sự vào cuộc của các chuyên gia kinh tế, các phương tiện thông tin đại
chúng, báo và đài để thường xuyên cập nhật, đăng tải các phương thức, hình
thức, mô hình hoạt động kinh doanh mới trên các môi trường, nhất là môi trường
internet để các lực lượng chức năng nắm bắt, kiểm tra và người tiêu dùng tiếp
cận, phòng tránh các vi phạm là một biện pháp hữu hiệu cần xem xét nhằm phổ
biến tri thức về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đến mọi tầng lớp, đối tượng.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý
Các giải pháp khu trú vào: tăng cường cơ chế quản lý rủi ro, kiểm tra
hồ sơ và xác minh tại doanh nghiệp đối với những trường hợp nghi ngờ hoặc
đối với những mặt hàng trong diện nguy cơ cao. Tăng cường công tác trinh

74
sát, cài cắm cơ sở, nhân mối xây dựng tốt mạng lưới nhân sự đủ chất và lượng
nhằm phát hiện những vụ việc sai phạm có quy mô lớn.Thành lập các đoàn
kiểm tra liên ngành về hàng hóa gian lận, giả mạo nhãn hiệu. Thực hiện
nghiêm quy trình kiểm tra, kiểm soát thị trường theo quy định tại Thông tư
35/2018/TT-BCT trình tự xử lý vi phạm và các biện pháp nghiệp vụ của lực
lượng QLTT, kiên quyết xử lý các công chức có sai phạm trong quá trình
kiểm tra, kiểm soát thị trường. Đồng thời thực hiện nghiêm quy định về quản
lý địa bàn tránh chồng chéo trong công tác kiểm tra kiểm soát. Phối hợp tốt
giữa các ngành chức năng, chính quyền các địa phương cấp quận, huyện, thị
xã và thành phố trong công tác đấu tranh phòng, chống gian lận thương mại.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính
- Tăng cường công tác cải cách hành chính, xây dựng hòm thư tiếp
nhận góp ý và cung cấp đường dây điện thoại tiếp nhận thông tin phản ánh.
Tiếp nhận, xử lý đơn thư, phản ánh và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền, không để tình trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp. Tạo thuận lợi hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân và các tổ chức kinh doanh
thuộc chức năng quản lý của đơn vị.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết các thủ tục
hành chính thông qua hệ thống văn phòng điện tử DMS, Email…trong công
tác quản lý văn bản, chia sẻ thông tin. Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 trong công tác giám sát, chỉ đạo điều hành.
- Cần xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử để quản lý hồ sơ xâm phạm quyền
SHTT
Theo quy định hiện nay, hình thức cảnh cáo được áp dụng đối với
trường hợp hành vi vi phạm lần đầu với quy mô nhỏ với hàng hoá vi phạm có
tổng giá trị đến dưới 3.000.000 đồng. Nhưng trên thực tế chúng ta chưa có cơ
sở dữ liệu để quản lý hồ sơ xâm phạm, dẫn đến chủ thể vi phạm bị xử phạt vi
phạm hành chính tại địa bàn này lại chuyển sang địa bàn khác và tiếp tục hành
vi vi phạm mang tính chất tinh vi hơn nhằm trốn tránh việc bị xử lý. Việc
thiếu cơ sở dữ liệu quản lý cũng gây khó khăn cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với những hành vi đã bị xử phạt hành chính nhưng tiếp tục tái

75
phạm. Về vấn đề này, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm ở các quốc gia
phát triển trong cách thức xây dựng dữ liệu điện tử toàn quốc. Với dữ liệu
này, cho phép cơ quan có thẩm quyền truy cập được các thông tin của cá nhân
cũng như hồ sơ vi phạm trước đây của người đó. Từ đó, có thể áp dụng một
cách chính xác các chế tài đối với người vi phạm.
Thứ năm, hết sức quan tâm đầu tư, đổi mới, trang bị kiến thức, kỹ năng,
công cụ, phương tiện cho các lực lượng chức năng trực tiếp đấu tranh chống
hàng vi phạm SHTT để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đầu tư, ứng dụng nhanh, có hiệu
quả công nghệ trên các lĩnh vực công tác của lực lượng là hết sức cấp bách
đặt ra trước yêu cầu công tác quản lý tổ chức cán bộ, công tác chỉ đạo điều
hành, kiểm tra, kiểm soát thị trường và các yêu cầu về xây dựng lực lượng
trong thời kỳ mới; chúng ta đang có một hạ tầng công nghệ phục vụ công tác
quá hạn chế, cần có đề án cho công tác này trong thời gian tới. Đồng thời có
phương án đầu tư trước mắt, trung hạn, dài hạn về hạ tầng cơ sở vật chất,
trang thiết bị, phương tiện... đồng bộ nhằm đảm bảo nền tảng hạ tầng chung
cho phát triển lực lượng trong giai đoạn mới.
Thứ sáu, các biện pháp tăng cường phối hợp giữa lực lượng Quản lý thị
trường với các cơ quan chức năng trong công tác thực thi quyền sở hữu trí
tuệ:
Đánh giá lại kết quả thực hiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức
năng thực thi, trong đó chú trọng công tác hướng dẫn, tập huấn cung cấp kịp
thời các quy định về pháp luật SHTT. Tăng cường phối hợp tuyên truyền
pháp luật, những tác hại của việc sản xuất buôn bán hàng xâm phạm quyền,
nâng cao nhận thức của công chúng về sở hữu trí tuệ; chú trọng phối hợp tăng
cường công tác tuyên truyền về SHTT (bằng nhiều hình thức) cho các tổ
chức, cá nhân và người tiêu dùng, trong đó chú trọng tuyên truyền về kết quả
hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống xâm phạm quyền SHTT.
Tổ chức họp tổng kết, hội thảo đánh giá thường xuyên và định kỳ về
công tác thực thi quyền SHTT để rút kinh nghiệm và bàn các giải pháp trong
các giai đoạn tiếp theo. Ký kết quy chế phối hợp giữa các cơ quan để cụ thể

76
hóa các quy định phối hợp cho phù hợp với hoạt động thực tiễn.
Để đảm bảo cho các cơ quan thực thi có thể phối hợp và có sự kết nối
một cách thường xuyên với nhau, tránh tình trạng phối hợp mang tính vụ việc
như hiện nay, trong thời gian tới Chính phủ cần nghiên cứu để triển khai
thành công cơ chế một cửa quốc gia. Thông qua cơ chế này, tất cả các cơ sở
dữ liệu liên quan đến nhãn hiệu, sản phẩm,… được bảo hộ đều được đưa vào
cơ sở dữ liệu quốc gia. Thông qua cổng thông tin điện tử Chính phủ, cơ quan
liên quan có thể truy cập và tìm kiếm các thông tin về các đối tượng, mặt
hàng trọng điểm vi phạm quyền SHTT và các địa bàn trọng điểm hay diễn ra
các hành vi vi phạm tại các cơ quan khác. Chính phủ sẽ ban hành quy định để
thống nhất quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu này. Mỗi cơ quan khác nhau, Chính
phủ sẽ cấp user truy cập và phân cấp quyền sử dụng thông tin tương ứng đảm
bảo phù hợp với phạm vi nhiệm vụ quyền hạn và chức năng, nhiệm vụ được
giao.
Thứ bảy, nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền và năng lực sử dụng cơ chế
thực thi quyền của chủ sở hữu.
Cho dù các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của
các cơ quan có thẩm quyền đạt hiệu quả cao đến đâu thì cũng chỉ là những
biện pháp tạm thời, ngăn chặn hành vi vi phạm trong khoảng thời gian xác
định. Để giảm thiểu các vụ việc xâm phạm quyền mới sẽ phát sinh sau này và
không để các vụ việc đã bị xử lý nhưng vẫn tái phạm nhiều lần thì ý thức,
nhận thức của các doanh nghiệp về vấn đề này mới chính là chìa khoá giúp
tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp trên thị trường
hiện nay.
Do vậy, để làm được điều đó, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
hiện nay cần phải áp dụng các biện pháp cụ thể sau:
- Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cần thiết lập bộ phận chuyên
trách về sở hữu trí tuệ, coi sở hữu trí tuệ như là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển của mình. Phải nhận thức được rằng tài sản trí tuệ cũng
cần được quản lý chặt chẽ như các loại tài sản thông thường khác.

77
- Một biện pháp quan trọng nhằm ngăn chặn có hiệu quả các hành vi
xâm phạm quyền SHTT từ phía doanh nghiệp đó là đẩy mạnh hoạt động
nhượng quyền sản xuất các hàng hóa có gắn các nhãn hiệu có uy tín cao trên
thị trường. Khi đó, người tiêu dùng sẽ tránh được việc phải lựa chọn các loại
hàng hóa, dịch vụ cùng loại có chất lượng thấp hoặc hàng hóa, dịch vụ cùng
loại nhưng không rõ nguồn gốc.
- Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cũng cần đẩy mạnh hơn nữa
cải tiến công nghệ, đưa ra các mẫu mã ký hiệu có hàm lượng công nghệ cao,
bảo đảm tính an toàn cho các sản phẩm của doanh nghiệp mình, để tội phạm
khó có thể thực hiện các hành vi xâm phạm quyền SHTT. Đồng thời cần chú
trọng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
- Tăng cường việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng. Khi bị
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, các tổ chức, cá nhân phải chủ động cung cấp
thông tin về hàng hóa, sản phẩm…các chứng cứ về hành vi vi phạm cho các
cơ quan chức năng có thẩm quyền xử lý để các cơ quan chức năng có đủ cơ
sở xử lý, sớm ngăn chặn các hành vi này.
- Tăng cường mối quan hệ mật thiết với người tiêu dùng. Để có được
thông tin phản hồi từ phía người tiêu dùng đó là thành lập các đường dây
nóng về chống hàng xâm phạm SHTT. Thông tin về đường dây nóng phải
được thể hiện rõ trên bao bì sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể tổ
chức các buổi hội nghị khách hàng nhằm giải đáp các thắc mắc của người tiêu
dùng về các sản phẩm của mình, để họ có thể nhận biết được đâu là sản phẩm
thật của công ty, đâu là sản phẩm bị nhái do hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
- Để chống lại các hành vi xâm phạm quyền SHTT ngày càng tinh vi
hơn hiện nay, thì việc phối hợp với các cơ quan chức năng hay người tiêu
dùng là chưa đủ mà các doanh nghiệp cần hợp tác chặt chẽ với nhau thông
qua các diễn đàn doanh nghiệp, các hiệp hội các nhà sản xuất trong cùng
ngành..

78
Tiểu kết chương 3
Chương 3 đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trí tuệ tại Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội; luận văn rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động
hệ thống cơ quan Quản lý thị trường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tập trung tập
trung vào một số nội dung chủ yếu, bao gồm: i) hoàn thiện thể chế, pháp luật
trong nước đồng bộ, kịp thời, minh bạch, khả thi và rõ ràng, cụ thể, đầy đủ,
bao quát hết được vấn đề cần điều chỉnh; ii) Nâng cao hiệu quả hoạt động hệ
thống cơ quan QLTT trong việc bảo vệ quyền SHTT.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ tại Cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội, bao gồm:
- Bổ sung quy định ràng buộc trách nhiệm phải phối hợp công tác giữa
các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ;
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về thực thi quyền SHTT trong pháp
luật hành chính và các quy định khác;
- Tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục về bảo vệ quyền SHTT nhằm nâng cao ý thức, sự hiểu biết
pháp luật không chỉ cho nhân dân mà còn cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
nhiệm vụ thực thi pháp luật SHTT;
- Không ngừng nâng cao năng lực, kiến thức, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ; sự hiểu biết pháp luật; phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức và tinh
thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ
thực thi pháp luật SHTT v.v..

79
80
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận bảo vệ quyền SHTT cũng như đánh giá
thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền SHTT qua thực tế hoạt động tại
Cục QLTT thành phố Hà Nội tại Luận văn, tác giả rút ra một số kết luận sau:
1. Bảo vệ quyền SHTT là nhà nước và chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sử
dụng các phương thức pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu các đối tượng sở hữu
trí tuệ, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu các đối
tượng này và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, cũng như bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Pháp luật xác định hành vi xâm phạm và các biện pháp bảo vệ quyền
SHTT cũng như các thiết chế bảo vệ tương ứng tạo hành lang pháp lý quan
trọng để chủ thể quyền SHTT và các cơ quan có thẩm quyền trong đó có Cục
QLTT thành phố Hà Nội bảo vệ quyền SHTT hiệu quả.
3. Hoạt động bảo vệ quyền SHTT tại Cục QLTT thành phố Hà Nội
không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên mà còn góp phần duy
trì trật tự thị trường, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT, xử
lý hành chính cạnh tranh không lành mạnh trong thị trường tự do. Thực tế
thực thi quyền SHTT của Cục QLTT thành phố Hà Nội bên cạnh những kết
quả đạt được còn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp từ nguyên nhân chủ quan
và nguyên nhân khách quan.
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt
động bảo vệ quyền SHTT tại Cục QLTT thành phố Hà Nội, Luận văn đã đã
định ra phương hướng và đóng góp một số giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi quyền SHTT tại đây.

81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Quế Anh (2005), Một số ý kiến về các quy định liên quan
đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật tố tụng dân sự và dự thảo
Luật SHTT. Kỷ yếu Hội thảo: Cơ chế thực thi pháp luật về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Đề
tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Đại học quốc gia Hà Nội, mã số
QGTĐ.03-KLĐHQGHN
2. Nguyễn Bá Bình (2005), Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam -
Pháp luật và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội
3. Bộ Công Thương (2018), Thông tư 35/2018/TT-BCT ngày 12/10/2018
quy định về nội dung, trình tự thủ tục hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm
hành chính và các biện pháp nghiệp vụ của QLTT
4. Bộ Khoa học và công nghệ (2015), Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN
ngày 26/6/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013
5. Chính phủ (2006), Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ sửa đổi theo
Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006
6. Chính phủ (2006), Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật
SHTT về quyền tác giả và quyền liên quan sửa đổi theo Nghị định số
85/2011/NĐ-CP ngày 20/09/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006
7. Chính phủ (2010), Nghị định số 88/100/NĐ-CP ngày 16/8/2010 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ và quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ

82
8. Chính phủ (2013), Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp
9. Chính phủ (2013), Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 Quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
10. Hoàng Anh Công (2006), Pháp luật hải quan với việc thực thi bảo vệ
quyền SHTT, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 12/2006
11. Cục QLTT thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm
vụ năm 2016, Hà Nội
12. Cục QLTT thành phố Hà Nội (2017), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm
vụ năm 2017, Hà Nội
13. Cục QLTT thành phố Hà Nội (2018), “Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm
vụ năm 2018, Hà Nội
14. Cục QLTT thành phố Hà Nội (2019), “Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm
vụ năm 2019, Hà Nội
15. Cục QLTT thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo kết quả kết quả công tác
công tác phòng chống dịch nCoV, Hà Nội
16. Cục Quản lý thị trường (2014), Tài liệu hướng dẫn thực thi quyền Sở
hữu trí tuệ, Hà Nội.
17. Trần Minh Dũng (2010), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp
hành chính, http://thanhtra.most.gov.vn, truy cập ngày 8/3/2020
18. Lê Thị Thu Hà (2011), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội
19. Trần Văn Hải (2016), Một số vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Kiểm sát, Số 4/2016
20. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (Hiệp định TRIPs)(1994).
21. Ngô Thị Hoà (2012), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với tên thương mại
bằng biện pháp hành chính - Pháp luật Việt Nam, thực trạng và giải
pháp, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội

83
22. Đặng Vũ Huân (2005), Nâng cao vai trò nhận thức xã hội trong hoạt
động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số
5/2005
23. Tào Thị Huệ (2014), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp kiểm
soát biên giới, Tạp chí Luật học, Số 3/2014
24. Bùi Thị Dung Huyền (2006), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện
pháp dân sự tại toà án nhân dân, Tạp chí Toà án nhân dân, Số16/2006
25. Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), Thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
của hải quan Việt Nam đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Số 5/2008
26. Trần Văn Khanh (2012), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp
hình sự - Quy định của pháp luật Việt Nam, thực trạng và giải pháp,
Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội
27. Nguyễn Thị Ly Na (2012), Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Đại
học Luật Hà Nội
28. Lê Đình Nghị, Vũ Thị Hải Yến, Nguyễn Như Quỳnh, Nguyễn Thị Tuyết
(2016), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
29. Nguyễn Thị Ninh (2018), Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu từ thực tiễn tại Cục quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh, Luận
văn Thạc sỹ, Viện Đại học Mở Hà Nội
30. Nguyễn Xuân Quang, Thực trạng về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính và giải pháp hoàn thiện
pháp luật, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp
31. Quốc hội (2015), Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
32. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự 2015
33. Quốc hội (2015), Bộ Luật hình sự 2015
34. Quốc hội (2015), Bộ Luật tố tụng dân sự 2015
35. Quốc hội (2019), Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009
sửa đổi, bổ sung 2019

84
36. Nguyễn Ngọc Sơn (2005), Bảo vệ và thực thi có hiệu quả quyền sở hữu
trí tuệ của ngành hải quan - điều kiện quan trọng để Việt Nam gia nhập
WTO, Tạp chí Luật học, Số 2/2005
37. Phùng Trung Tập (2005), Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ, NXB Tư
pháp, Hà Nội
38. Kiều Thị Thanh (2013), Hội nhập quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam: sách chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
39. Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ,
NXB Tư pháp, Hà Nội
40. Thủ tướng (2018), Quyết định 34/2018/QĐ-TTg ngày 10/8/2018 của
Thủ tướng Chính phủ về Nhiệm vụ, quyền hạn Tổng cục QLTT
41. Phạm Vũ Khánh Toàn và Lê An (2013), Xử lý hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính, Hội thảo quốc tế Sở hữu trí
tuệ, cạnh tranh và thực thi quyền sở hữu trí tuệ: kinh nghiệm của Việt
Nam, Lào và Campuchia, Cục Sở hữu trí tuệ, Hà Nội
42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội
43. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013); Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội
44. Nguyễn Thanh Tú (2010), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: chế độ tài sản và
chế độ trách nhiệm dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, Số 2/2010
45. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Bách
Khoa, Hà Nội.
46. Vụ pháp Luật Quốc tế- Bộ Tư pháp (2005), Bình luận về quyền tác giả
theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội
47. Vũ Thị Hải Yến (2008), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sỹ, Đại học Luật Hà Nội
48. WIPO (1967), Công ước Thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới,
Stockholm

85
86

You might also like