You are on page 1of 24

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM CÓ LỜI GIẢI

Câu 1: Văn hóa là gì? Phân biệt văn hóa với văn minh, văn hiến và văn vật. 
* Khái niệm: Theo Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.   Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa.  Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”
* Phân biệt:

Câu 2: Những thành tựu của Văn minh Văn Lang – Âu Lạc. 
Nền văn minh sông Hồng được hình thành cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc và
sự phát triển của đời sống vật chất và tinh thần của người Việt cổ.  Trên cơ sở một nền kinh tế phát
triển mạnh và phạm vi lãnh thổ được mở rộng từ vùng đồi núi, trung du đến vùng đồng bằng rộng
lớn của sông Hồng, sông Mã, sông Cả,  ...đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao rõ rệt; tổ chức
xã hội đạt đến một trình độ cao hơn, vượt khỏi thời nguyên thuỷ, bước sang thời đại văn minh đầu
tiên của người Việt cổ - nền văn minh sông Hồng. 
* Về đời sống vật chất
Sản xuất: Thóc gạo là nguồn lương thực chính của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp.  
Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, xôi, làm bánh chưng, bánh giầy.  Sách Lĩnh nam chích
quái ghi rằng ở thời Hùng Vương trồng được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm.  Nhiều chiếc
chõ gốm dùng để thổi xôi đã được tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hoá Đông Sơn.  Ngoài thóc
gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn sử dụng các loại hoa màu, rau quả,
nhất là các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ.   Lúc thiếu
thốn, người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng. 
Thức ăn cũng khá phong phú, gồm các loại cá, tôm, cua, ốc hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà,
đậu  ...).  Thức ăn được chế biến theo nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình
(đun nấu, nướng, muối, ăn sống  ...) Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn
thức ăn cho mỗi gia đình.  Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm (trâu, bò,
lợn, gà, chó ...).  Trong thức ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả
vùng nhiệt đới như: vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt, ...Người ta cũng đã biết sử dụng
nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ, ...Nguồn lương thực và thực phẩm của người
Việt cổ rất phong phú, đa dạng và rất giàu chất bột, chất đạm và các chất bổ khác.  Đây là một biểu
hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư
dân bấy giờ. 
Tập quán ăn uống: Người Việt cổ bấy giờ có tục uống rượu gạo và ăn trầu.  Rượu được nhắc đến
nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian.  Người Đông Sơn có thói quen ăn trầu, nhuộm răng
đen.  Dấu tích hạt cau, quả cau đã được tìm thấy ở Đông Sơn. 
Trang phục của cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, óc thẩm mỹ và
bản sắc văn hoá của người Việt cổ.  Do nghề dệt phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều
loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông, ...nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân
dân.  Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy.  Khố của nam giới có loại
quấn đơn và loại quần kép.  Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui, được làm từ một
mảnh vải dài, rộng.  Tượng người đàn ông thổi kèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng mặc
váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó.  Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che
kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu.  Vào các ngày lễ hội, trang phục
của nam nữ đẹp đẽ hơn: có mũ lông chim, váy xòe kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều
đồ trang sức đẹp (khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng cổ chân bằng đá, đồng). 
Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều
kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức.  Điều đó cũng chứng tỏ đời sống vật chất của cư dân
Văn Lang - Âu Lạc được nâng cao rõ rệt. 
Về đầu tóc, người bấy giờ có bốn kiểu: kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và tóc quấn ngược lên đỉnh
đầu.  Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã.   Ở trống
đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự.  Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng, để xoã khá phổ biến ở
nam giới thời bấy giờ.  Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới.  Nhiều người còn có kiểu
chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau.  Có thể nói, kiểu tóc
cắt ngắn buông xoã sau lưng và búi tóc cao sau đầu là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người Đông
Sơn.  Người Việt cổ bấy giờ còn có tục xăm mình. 
Nhà ở có nhiều kiểu như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa.  Trên trống đồng Đông Sơn
ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rủ
xuống như mái tranh đến gần sàn, có cầu thang lên xuống.  Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số
nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó
thường gọi là kẻ, chiềng - tức là nơi chốn, chạ tức là tục kết đôi làng quê.   Các vật dụng trong sinh
hoạt gia đình rất phong phú như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng.  Ngoài
ra, có những đồ dùng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu, ...
Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè.  Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu
loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải.  Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu,
bò, ngựa. 
* Đời sống tinh thần
Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khá cao.  Những sản phẩm đẹp,
tiêu biểu như trống đồng, thạp đồng, trang sức bằng đồng nói lên kỹ thuật luyện đồng đã đạt đến
đỉnh cao (từ cách xây dựng các lò đúc, khuôn đúc, nguyên liệu pha chế hợp kim, làm hoa văn, ...). 
Người xưa tuỳ theo chức năng sử dụng của từng loại công cụ mà tạo nên một hợp kim hay tỷ lệ giữa
các hợp kim cho phù hợp với cách chế tạo đồ đồng của người Đông Sơn, thể hiện khá rõ nét trình độ
tư duy khá cao của người Việt cổ.  Điều này còn được thể hiện ở trình độ luyện sắt bấy giờ với
phương pháp hoàn nguyên trực tiếp thành loại sắt xốp. 
Trong quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một phạm vi đất đai đã hình thành lãnh thổ chung,
đã nổi lên xu hướng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp trước yêu cầu trị thủy, làm thuỷ lợi để phát triển
nông nghiệp và chống ngoại xâm. 
Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các thủ lĩnh. 
Cụ thể, trong ý thức tư tưởng của cư dân bấy giờ, là các cộng đồng cư dân của nước Văn Lang - Âu
Lạc đều có cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên.  Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới nảy
sinh, người đương thời còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như: tín
ngưỡng vật tổ, ma thuật, phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. 
Nhiều phong tục tập quán được định hình đã nói lên sự phong phú và phát triển của đời sống tinh
thần trong xã hội Hùng Vương như tục ăn đất, uống nước bằng mũi, tục giã cối (để làm hiệu lệnh,
truyền tin), tục cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết trong mộ đất, mộ có quan tài hình
thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn theo đồ tuỳ táng bằng hiện vật. 

Lễ hội bấy giờ rất phổ biến, thịnh hành, là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người
Văn Lang - Âu Lạc.  Lễ hội được tiến hành rải rác quanh năm, trong đó đặc sắc nhất là ngày hội
mùa với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bò và các hình thức diễn xướng dân gian (đoàn người hoá
trang, vừa đi vừa múa, tay cầm giáo, lao, nhạc cụ ...).  Bên cạnh đó, còn có những hội thi tài, thi sức
khoẻ, hội đâm trâu, hội cầu nước, hội mừng năm mới ...

Trong cuộc sống, cư dân thời Hùng Vương rất thích cái đẹp và hướng tới cái đẹp.   Đồ trang sức,
công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt cũng như vũ khí không những hết sức phong phú mà còn đạt
đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, có những thứ có thể xem như là những tác phẩm nghệ
thuật.  Nghệ thuật Đông Sơn trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương.  Nghệ
thuật đó vừa phản ánh cuộc sống thường nhật của cư dân Việt cổ, vừa thể hiện mối quan hệ giữa
con người với thế giới chung quanh, với những đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố cục
cân xứng, hài hoà. 

Nghệ thuật âm nhạc cũng phát triển.  Có nhiều nhạc cụ được chế tạo và sử dụng bộ gõ có trống
đồng, trống da, chuông nhạc, phách, bộ hơi (khèn).  Trong các nhạc cụ, tiêu biểu nhất là trống
đồng.  Kết cấu trống đồng gồm có phần tang phình ra, phần thân và chân trống loe ra giúp cho hình
dáng trống đẹp, có sức cộng hưởng làm cho âm thanh vang xa.  Cư dân bấy giờ biết sử dụng nhiều
nhạc cụ phối hợp trong các lễ hội.  Trên trống đồng Đông Sơn có cảnh sử dụng dàn trống đồng từ 2
đến 4 chiếc, dàn cồng từ 6 đến 8 chiếc và một tốp người vừa múa vừa sử dụng những nhạc khí khác
nhau như chuông, khèn, sênh.  Trên trống đồng có hình ảnh người nhảy múa hoá trang và múa vũ
trang.  Có tượng đồng Đông Sơn thể hiện hai người cõng nhau, vừa thổi khèn, vừa nhảy múa. 

Cùng với trống đồng – di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn và văn minh sông Hồng, công
trình kiến trúc thành Cổ Loa cũng biểu hiện trình độ phát triển cao của cư dân thời Văn Lang - Âu
Lạc. 

+ Tổ chức xã hội

 Đứng đầu nhà nước Văn Lang - Âu Lạc là nhà vua, cha truyền con nối.  Giúp việc cho nhà vua có
các Lạc hầu, Lạc tướng.  Nhà nước văn lang đã có một đội quan thường trực với vũ khí bằng đồng,
như: dìu chiến, giáo mác, dao găm.  Đăc biệt, họ biết sử dụng thành thạo các loại cung nỏ, có loại
bắn một lần được nhiều mũi tên.  Thời Âu Lạc, nhà vua đóng đô ở thành Cổ Loa. 

Đơn vị xã hội cơ sở của người Việt cổ là các làng bản, đứng đầu làng bản là các Bố chính (thường là
một người già làng), Bình dân làng xã gọi là Lạc dân.  Trong làng xã, tinh thần cộng đồng rất sâu
đậm.  Họ sống quây quần giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết cùng chống kẻ thù đến xâm lấn.  Tổ chức gia
đình: phụ quyền. 
Câu 3: Nội dung cơ bản của triết lí Âm - Dương.  Ảnh hưởng của triết lí Âm – Dương đến
nhận thức và tính cách người Việt. 
* Nội dung cơ bản của triết lí Âm – Dương
- Bản chất của triết lí Âm – Dương
Âm dương là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên toàn bộ vũ trụ.  Âm thể hiện
cho những gì yếu đuối nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính, mềm mại ...đối lập nó là dương thể hiện
sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn ...Triết lý giải thích vũ trụ dựa trên âm và
dương được gọi là triết lý âm dương mà bản chất của nó là sự kết hợp giữa các mặt đối lập. 
- Hai qui luật của triết lí Âm – Dương
+ Quy luật về bản chất của các thành tố
Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, và
Trong âm có dương, trong dương có âm. 
Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong sự so sánh với
một vật khác.  Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc âm nhưng càng đi sâu xuống lòng
đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng nóng thuộc dương, nhưng nắng nhiều sẽ có mưa
nhiều (hơi nước bay lên) làm nên mưa lạnh thuộc âm.  Chính vì thế mà việc xác định tính âm dương
của các cặp đối lập thường dễ dàng.  Nhưng đối với các vật đơn lẻ thì khó khăn hơn nên có hai hệ
quả để giúp cho việc xác định tính âm dương của một đối tượng:
Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì trước hết
phải xác định được đối tượng so sánh.  Màu trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so với màu đen
thì là dương.  Ta có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều hệ; ví dụ, về màu sắc thì đi từ âm
đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất "đen" sinh ra mầm lá "trắng", lớn lên thì chuyển thành
"xanh", lâu dần chuyển thành lá "vàng" và cuối cùng thành "đỏ")
Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì phải xác định được cơ sở so sánh. 
Ví dụ, nước so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là dương; nhưng về độ linh động thì nước
là dương, đất là âm. 
+ Quy luật về quan hệ giữa các thành tố

Âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau, và
Âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng cực thì chuyển
thành âm. 
Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh, ...luôn chuyển hóa cho nhau.  Cây màu xanh
từ đất "đen", sau khi lớn chín "vàng" rồi hóa "đỏ" và cuối cùng lại rụng xuống và thối rữa để trở lại
màu "đen" của đất.  Từ nước lạnh (âm) nếu được đun nóng đến cùng cực thì bốc hơi lên trời (thành
dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh đến cùng cực thì nó sẽ thành nước đá (thành âm). 
Tất cả các quy luật trên được thể hiện đầy đủ trong biểu tượng âm dương nói lên bản chất và sự
chuyển hóa của âm và dương. 
* Ảnh hưởng của Triết lí Âm – Dương đến nhận thức và tính cách người Việt
Trong khi Đông Bắc Á là trung gian giữa Đông Nam Á và phương Tây thì Việt Nam là trung gian
giữa phần còn lại của Đông Nam Á với Đông Bắc Á.  Việt Nam vừa nằm trong Đông Nam Á là cái
nôi sinh ra triết lý âm dương nguyên thủy, lại vừa nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Hoa là nơi
tạo nên triết lý âm dương hoàn thiện nên tính cách của người Việt thể hiện ảnh hưởng của tư duy âm
dương rất mạnh. 
+ Tính ưa hài hòa
Tính cách thứ nhất thuộc loại này là tính ưa hài hòa, còn có thể gọi là tư duy Lưỡng phân lưỡng
cực.  Nó thể hiện ở chỗ, người Việt Nam nắm rất vững quy luật “trong âm có dương, trong dương
có âm”. 
(a) Trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam, có các câu phản ánh nhận thức dân gian về quy luật
“trong âm có dương, trong dương có âm”, kiểu như: Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa
có phúc; Người có lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong, v. v.. 
(b) Do nắm vững quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm” nên ở Việt Nam, mọi thứ
thường thể hiện theo cặp đôi tạo nên âm dương hài hòa.  Tổ quốc là “đất - nước”, “non - nước”,
“non - sông”.  Người Êđê có sông đực và sông cái (krông nô và krông ana).  Trống đồng của người
Ê-đê, Lô Lô có trống đực và trống cái.  Câu hò trong dân gian có một vế trống và một vế mái (câu
hò mái hai, mái ba có nghĩa là một câu trống đi với hai hoặc ba câu mái).  Anh hùng dân tộc Trần
Hưng Đạo và nàng Liễu Hạnh vốn chẳng có liên quan gì với nhau và sống cách nhau tới ba thế kỷ,
nhưng khi được tôn lên làm thánh, nhân dân bèn ghép lại thành đôi Cha - Mẹ (Tháng Tám giỗ Cha,
tháng Ba giỗ Mẹ - tục ngữ). 
(c) Trong khi thủy tổ của người Hán là một ông Bàn Cổ, của người Hàn là một ông Dangun (Đàn
Quân) thì thủy tổ của người Việt là cặp đôi Lạc Long Quân và Âu Cơ biểu hiện cho Rồng và Tiên
(cá sấu và chim); thủy tổ của người Mường là chàng Hươu và nàng Cá, v. v.. 

Người Chăm có hai bộ tộc là tộc cau (đặc, dương) và tộc dừa (rỗng, nước, âm).  Người Chân Lạp
sống ở hai vùng là Thủy Chân Lạp (âm) và Lục Chân Lạp (dương).  Ở Tây Nguyên từng tồn tại
trong một thời gian dài hai nhà nước Thủy Xá (Pơtao Ia) và Hỏa Xá (Pơtao Pui).  
(d) Ngay cả những khái niệm đơn độc của dân tộc khác khi du nhập vào Việt Nam cũng được nhân
đôi thành cặp: Thần mai mối ở Trung Hoa chỉ là một ông Tơ Hồng thì vào Việt Nam được nhân đôi
thành ông Tơ và bà Nguyệt.  Người Hoa ở Chợ Lớn (Tp.  Hồ Chí Minh) dựng lên hai miếu thờ
Quan Công và Thiên Hậu riêng rẽ thì người Việt ở đây lập tức ghép hai nhân vật vốn không liên
quan gì với nhau ấy thành một cặp và gọi hai miếu đó là “chùa Ông - chùa Bà” (xem hình 4). 
+ Triết lý sống quân bình
Nếu việc nắm vững quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm” tạo nên tính ưa hài hòa thì
việc nắm vững quy luật “âm dương chuyển hóa” đã giúp người Việt có được triết lý sống quân
bình. 
(a) Trong kho tàng văn hóa dân gian người Việt, có các câu tục ngữ phản ánh nhận thức về quy luật
âm dương chuyển hóa, kiểu như: Sướng lắm khổ nhiều; quan cả vạ to; trèo cao ngã đau; ghét của
nào trời trao của nấy; v. v..  
(b) Từ đó dẫn đến triết lý sống quân bình, vừa phải: Trong việc ăn, không ăn nhanh quá, không ăn
chậm quá; không ăn hết sạch, không để thừa nhiều.  Trong ứng xử thì ở sao cho vừa lòng người, ở
rộng người cười, ở hẹp người chê.  Trong giao tiếp thì đề cao cách nói nước đôi: Làm trai nước hai
mà nói; người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo, v. v.. Ngay cả khi ước
vọng cũng không tham lam: Cầu sung vừa đủ xài. 
(c) Triết lý sống quân bình được thể hiện không chỉ nơi người sống mà cả nơi người chết: Trong mộ
cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa) vào thế kỷ III TCN., các đồ vật tùy táng bằng gỗ (dương) được đặt
ở phía Bắc (âm) và các đồ vật bằng gốm (âm) được đặt ở phía Nam (dương)
(d) Trong khi biểu tượng âm dương truyền thống của Trung Hoa là hai vạch ngắn “- -” với một vạch
dài “¾” của bát quái và hình tròn chia hai nửa bằng chữ S của Đạo giáo thì biểu tượng âm dương
truyền thống khá bền vững của Việt Nam là cặp hình vuông - tròn.  Ý niệm vuông - tròn với nghĩa
là sự hài hòa, quân bình, do vậy mà viên mãn, hoàn chỉnh được thể hiện khắp nơi: Từ ý niệm (ví dụ:
“cuộc vuông tròn” = hôn nhân), qua phong tục (bánh chưng bánh dày), đến các hiện vật. 

Cái cối giã gạo của người Kh’mer có hình trong tròn, ngoài vuông.  Trong tròn là để thuận tiện cho
việc giã gạo, còn ngoài vuông thì mang ý nghĩa biểu tượng âm dương thuần túy thể hiện sự hài hòa. 
Năm 1995 chúng tôi đã phát hiện ra rằng hình “tròn ngoài vuông trong” ở rìa ngoài mặt trống đồng
Thôn Mống (Nho Quan, Ninh Bình) của Việt Nam mà lâu nay được miêu tả là “trang trí bằng hình
đồng tiền” có liên quan mật thiết với hình “vuông ngoài tròn trong” trên rìa trống Yên Bồng (Lạc
Thủy, Hòa Bình) và chính là những hình biểu tượng âm dương “tròn vuông” và “vuông tròn” lồng
vào nhau.  Tiền đồng cổ với lỗ vuông của Tần Thủy Hoàng xuất hiện sau đó.  

Triết lý sống quân bình có nguồn gốc từ phương Nam được Khổng Tử và Lão Tử tiếp nhận thành tư
tưởng trung dung, trung đạo và được xem như một phẩm chất mà nho sĩ, đạo sĩ phải rèn luyện để
hướng đến.  Chính bởi chứa đựng những tư tưởng vay mượn khác thường này mà Nho gia và Đạo
gia nguyên thủy đều không được xã hội đương thời đề cao.  Về bản chất, văn hóa Trung Hoa
(phương Bắc) mang tính cực đoan hơn nhiều so với văn hóa phương Nam: Nho giáo coi trọng lễ
nghi một cách cực đoan; Đạo giáo vô vi một cách cực đoan; Phật giáo Thiền tông thì phá chấp một
cách cực đoan. 
+ Tính linh hoạt
Chính triết lý quân bình âm dương đã tạo ra ở người Việt một lối sống chừng mực và linh hoạt.  
Trong khi gốc văn hóa du mục lại tạo nên ở người Hán tính cực đoan với quyết tâm cải tạo hoàn
cảnh (vd: hình tượng Tinh Vệ lấp biển, Ngu Công dời núi) thì người Việt Nam có xu hướng thích
nghi với mọi hoàn cảnh (ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy - tục ngữ).  Nếu văn hóa Trung Hoa (phương Bắc) coi trọng cuộc sống thế tục thì văn hóa Việt
Nam coi trọng tương lai (tinh thần lạc quan): Khi nhỏ mà khổ thì tin rằng về già sẽ sướng, suốt đời
khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng: Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời; Nhất sĩ nhì nông,
hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ (tục ngữ). 
Tính cách người Việt với những biểu hiện mang tính dân gian nguyên thủy như trên cho thấy rõ
ràng ảnh hưởng sâu đậm của triết lý âm dương.  Chúng hoàn toàn khác xa với truyền thống văn hóa
dân gian Trung Hoa tương ứng.  Đó cũng chính là những bằng chứng bổ sung, củng cố thêm cho kết
luận của chúng tôi về nguồn gốc Đông Nam Á của triết lý âm dương.  
Câu 4: Các quy luật vận động của Ngũ hành.  Phân tích một số ứng dụng của Ngũ hành trong
văn hóa Việt Nam. 
* Các quy luật vận động của Ngũ hành

Tương sinh: Giữa Ngũ Hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy nhau, đó là quan hệ
Tương sinh.  Còn bao hàm ý là hành nào cũng có quan hệ trên hai phương diện: cái sinh ra nó (sinh
nhập) và cái nó sinh ra (sinh xuất). 
– Mộc sinh Hỏa

– Hỏa sinh Thổ

– Thổ sinh Kim


– Kim sinh Thủy

– Thủy sinh Mộc

Tương khắc: Giữa Ngũ Hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế quân bình, đó là quan hệ
Tương khắc.  Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai mối quan hệ: cái khắc nó (khắc nhập) và
cái nó khắc (khắc xuất). 
– Mộc khắc Thổ

– Thổ khắc Thủy

– Thủy khắc Hỏa

– Hỏa khắc Kim

– Kim khắc Mộc

Tương thừa (Thừa: thừa thế lấn áp): Trong điều kiện bất thường, Hành này khắc hành kia quá mạnh,
khi đó mối quan hệ Tương khắc biến thành quan hệ Tương thừa.  Chẳng hạn: bình thường Mộc khắc
Thổ, nếu có một lý do nào đó mà Mộc tăng khắc Thổ, lúc đó gọi là Mộc thừa Thổ. 
Tương vũ (Vũ: hàm ý khinh hờn): Nếu Hành này không khắc được Hành kia thì quan hệ Tương
khắc trở thành quan hệ Tương vũ.  Chẳng hạn: bình thường Thủy khắc Hỏa, nếu vì một lý do nào đó
làm Thủy giảm khắc Hoả (nói cách khác: Hỏa “khinh hờn” Thủy) thì lúc đó gọi là Hỏa vũ Thủy. 
Quy luật chế hóa Ngũ Hành:
– Mộc khắc Thổ – Thổ sinh Kim – Kim khắc Mộc

– Hỏa khắc Kim – Kim sinh Thủy – Thủy khắc Hỏa

– Thổ khắc Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc khắc Thổ

– Kim khắc Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa khắc Kim

– Thủy khắc Hỏa – Hỏa sinh Thổ – Thổ khắc Kim

* Một số ứng dụng của Ngũ hành trong văn hóa Việt Nam

Ngũ hành có ứng dụng rất rộng rãi.  Sở dĩ như vậy là vì các hành trong Ngũ hành là những khái
niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng, chúng rất đa nghĩa. 

Về mặt văn hóa, đáng chú ý là hệ thống các màu biểu và vật biểu theo Ngũ hành:

Về màu biểu
Hai màu đen, đỏ mang tính đối lập âm/dương rõ rệt nhất nên ứng với 2 hành Thủy – Hỏa (2 phương
Nam – Bắc).  Hai màu xanh, trắng cũng đối lập âm dương nhưng kém rõ rệt hơn, ứng với 2 hành
Mộc – Kim.  Màu vàng ứng với hành thổ ở trung ương. 

Về vật biểu

 Rùa – chim – rồng – hổ - người.  Đáng chú ý là trong số vật biểu cho 5 phương thì đã có 3 là những
động vật tiêu biểu của vùng Nam sông nước – chim, rồng, rùa; thành ngữ VN có câu: nhất điểu, nhì
xà, tam ngư, tứ tượng. 

         Phương Nam: Chim: loài vật luôn quy tụ về phương nam nắng ấm.  Không phải ngẫu nhiên
mà người Lạc Việt xưng là dòng dõi họ Hồng Bàng (1 loài sếu lớn) và trên các trống đồng là cả một
thế giới các loài chim, con người cũng dùng lông chim để hóa trang. 

         Phương Đông: Rồng.: con vật do người Bách Việt tưởng tượng ra trên cơ sở nguyên mẫu là cá
sấu và rắn.  Tính cách trọng tình cảm, hiếu hòa của người nông nghiệp đã biến con cá sấu nguyên
mẫu ác độc thành con rồng tưởng tượng cao quý, hiền lành.  Rồng còn là con vật mang đủ tính tổng
hợp và linh hoạt của văn hóa nông nghiệp với các đối lập nước/lửa, nước/trời (sinh ra từ nước rồi
bay lên trời và phun lửa) linh hoạt tới mức không cần cánh mà vẫn có thể bay lên trời được. 

         Phương Tây: Hổ: con vật đại diện rất phù hợp cho văn hóa gốc du mục trọng động, trọng sức
mạnh. 

         Phương Bắc: Rùa: là phương của hành Thủy: nước là cái có tầm quan trọng số một (sau đất)
đối với nghề nông lúa nước mà con rùa thì gắn liền với nước. 

         Trung ương: người: cai quản bốn phương, muôn loài. 

Vật biểu của hành/phương nào thì mang theo màu biểu của hành/phương ấy.  Cho nên khi xã hội có
vua, mà vua thì cai quản con người, con người cai quản muôn loài, thành ra Vua mới giành lấy màu
vàng (màu của hành thổ, của Trung ương, của con người) làm của riêng cho mình.  Vua mặc áo màu
vàng là vì vậy. 

Trong truyền thống dân gian, ta thường bắt gặp nhiều ứng dụng của ngũ hành.  Chẳng hạn, người
Việt trị tà ma bằng bùa Ngũ sắc, bằng bức tranh dân gian Ngũ hổ vẽ 5 con hổ ở 5 phương với 5 màu
theo ngũ hành với ý nghĩa: Hổ tượng trưng cho sức mạnh, trấn trị ở khắp phương, tà ma không còn
lối thoát.  Ở các lễ hội sử dụng những cờ hình vuông mau bằng vải 5 màu theo ngũ hành.  Không
gian vũ trụ đối với Việt Nam không phải bốn phương mà là 5 phương theo Ngũ hành, không phải 8
hướng mà là 9 hướng.  Cũng không phải ngẫu nhiên mà 6 ngọn núi ở Non nước (Quảng Nam) được
quy về 5 để gọi là Ngũ Hành Sơn.  Ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình) có đặt tượng hổ đá phía tây,
rồng ở phía đông, phượng (chim) ở phía nam, rù ở phía bắc, mộ Trần Thủ Độ ở giữa theo đúng quy
định vật biểu trong Ngũ hành. 

Một điều rất đáng chú ý là trong các ứng dụng dân gian của Ngũ hành ngoài trung ương là vị trí
trung tâm thì phương nam và phương đông (phương của văn hóa gốc nông nghiệp) thường được coi
trọng hơn bắc và tây (phương của văn hóa gốc du mục).  Chẳng hạn trong truyền thuyết Nam Tào –
Bắc Đẩu, trong khi thần Nam Tào giữ sổ sinh ở phương Nam thì Bắc đẩu giữ sổ tử lại ở phương
bắc(bên phải Ngọc Hoàng).  Trong khi màu đỏ là màu của niềm vui và sự tốt lành, màu xanh là màu
của sự sống, thì màu trắng là màu của chết chóc, màu đen là màu tang thứ 2. 

Một hướng khác đi theo con đường phân đôi cặp lưỡng nghi Âm – dương  thành Tứ tượng, rồi từ tứ
tượng phân đôi tiếp thành Bát quái.  Để trừ tà ma, trong dân gian phương Nam sử dụng Ngũ hành
làm bùa thì người phương bắc dùng bát quái làm bùa. 

Câu 5.  Cơ cấu bữa ăn và đặc trưng cơ bản trong bữa ăn của người Việt. 
Người Việt rất quan trọng việc ăn “Có thực mới vực được đạo – Trời đánh tránh miếng ăn”, “Ăn”
quan trọng đến mức xuất hiện trong nhiều câu nói, đứng trc nhiều hành động thường ngày: ăn uống,
ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học, ăn ngủ, ăn nằm, ăn cắp, ăn trộm…

* Cơ cấu bữa ăn

Thể hiện đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước của ng Việt, trong cơ cấu của bữa ăn: Cơm – rau
– cá – thịt. Thành phần đầu tiên và quan trọng nhất là cơm

+ Cơm được làm từ gạo, gạo đứng vị trí đầu tiên trong cơ cấu bữa ăn: “Người sống về gạo, cá bạo
về nước”, bữa ăn của người Việt gọi là bữa cơm.  Người Việt trồng cả hai loại lúa: nếp và tẻ.  Cây
lúa tẻ là loại cây trồng chính nên gạo tẻ được dùng trong bữa ăn hàng ngày: “Cơm tẻ là mẹ ruột”,
“Đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường”.  Người Việt còn coi cây lúa là tiêu
chuẩn của cái đẹp: “Em xinh là xinh như cây lúa”.  Người Việt không chỉ tận dụng cây lúa thành
gạo để nấu cơm mà còn biết tận dụng từ gạo để làm bún và làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh
tráng… Gạo nếp được dùng làm xôi, làm bánh mặn, bánh ngọt…

+ Rau: Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp lại là ngành kinh tế chủ
yếu nên rau quả vô cùng phong phú.  Việc dùng rau trong cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dụng
môi trường tự nhiên của người Việt.  Người Việt thường hay nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”.
Ngoài ra còn có những loại rau dùng làm gia vị như: hành, rau răm, rau diếp cá…Gia vị cũng là
thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt. 

+ Cá đại diện cho thủy sản: Việt Nam có phía Đông giáp với biển Đông lại có hệ thống sông ngòi,
ao hồ chằng chịt nên dùng cá trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả năng tận dụng môi trường tự nhiên
của người Việt. “Cơm với cá như má với con” tận dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ
chấm đặc biệt là nước mắm, các loại nước mắm nổi tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú quốc Thực
phẩm được chế biến từ thủy sản cũng rất đa dạng: nấu chín, ướp mắm, phơi khô.  Chế biến cũng có
nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc, nướng, gỏi…

+ Thịt cũng là một thành phần quan trọng trong cơ cấu bữa ăn.  Thịt có thể dùng kết hợp với cơ cấu
nói trên, có thể thay thế cho cá trong các bữa cơm của người Việt.  Người Việt thường ăn các loại
thịt như: thịt lợn, thịt vịt, thịt gà, thịt bò, thịt trâu, thịt cầy…“Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó, chết
xuống âm phủ biết có hay không?”. 

+ Đồ uống hút

Truyền thống của người Việt có trầu, cau, thuốc lào, nước vối.  rượu gạo, chúng đều là những sản
phẩm cổ truyền của nghề trồng trọt đông nam á:
         Ăn Trầu Cau

         Rượu

         Cây chè và tục uống chè

* Đặc điểm trong văn hóa ăn của người Việt

+ Tính tổng hợp

Tất cả các món ăn đều có sự pha trộn, kết hợp hài hòa của nhiều nguồn nguyên vật liệu.  Trong chế
biến thức ăn, tổng hợp nhiều loại thức ăn, gia vị… Chế biến đảm bảo cơ cấu đủ ngũ chất: bột – nước
– khoáng – đạm – béo, đủ ngũ vị: chua – cay – ngọt – mặn – đắng; đủ ngũ sắc: trắng – xanh – vàng
– đỏ – đen.  Nước chấm cũng mang tính tổng hợp rất đặc biệt nước mắm với vị mặn đậm đà được
kết hợp với vị cay của gừng, ớt, tiêu, vị chua của chanh, giấm, vị ngọt của đường… Trong cách ăn,
tính tổng hợp được biểu hiện qua việc ăn nhiều món trong bữa ăn.  Cách ăn tổng hợp, tác động vào
đủ mọi giác quan: mũi ngửi mùi thơm, mắt nhìn màu sắc hài hòa của bàn ăn, lưỡi nếm vị ngon của
thức ăn, tai nghe tiếng kêu ròn tan của thức ăn.  Người Việt ăn uống nhiều món cùng một lúc.  Cách
ăn của người Việt còn tổng hợp cái ngon của nhiều yếu tố: thời tiết, chỗ ăn, bè bạn, người thân,
không khí bữa ăn…

+ Tính linh hoạt

 Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn và còn thể hiện trong dụng cụ ăn:
truyền thống sử dụng dụng cụ là đôi đũa, đó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim
nhặt hạt xuất phát từ những thứ ăn những thứ ko thể dùng tay bốc hoặc mó tay vào được ( cơm, cá,
nước mắm.. )thể hiện trong cách ăn, trong dụng cụ đựng thức ăn: đôi đũalấy vật liệu từ tre, gỗ

Ứng xử khi ăn: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”

+ Tính cộng đồng

Thể hiện trong văn hóa ăn tập thể của ng Việt, biểu hiện của tính cộng dồng là việc ăn chung, uống
chung, “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”.  Trong khi ăn thích trò chuyện cùng nhau…
và thú uống rượu cần của người vùng cao là biểu hiện triết lý thâm thúy về tính cộng đồng sống chết
có nhau. 

Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người 1 thứ văn hóa cao trong ăn uống " Ăn trong nồi ngồi trong
hướng".  Vì nét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước, tính mực thước là biểu hiện
của khuynh hướng quân bình trong âm dương nó đòi hỏi " ăn chậm nhai kĩ”

Khi ăn cơm khách 1 mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, mặt khác
phải chừa ra 1 ít trong các đĩa đồ ăn để tỏ rằng mình không chết đói, không tham ăn.  Tục ngữ có
câu: Ăn hết bị đòn.  ăn còn mất vợ.  Nồi cơm và chén nước mắm là hai biểu tượng của tính cộng
đồng trong bữa ăn (cũng giống như sân đình, bến nước là biểu tượng cho tính cộng đồng nơi làng
xã).  Người Việt ăn cơm chung cùng một nòi cơm, chấm chung chén nước mắm.  Biểu hiện của tính
mực thước ở chỗ tôn trọng khách “tiên khách hậu chủ”

+ Tính biện chứng

 Người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chúng Âm- Dương bao gồm 3 mặt liên quan
mật thiết với nhau là: âm dương của thức ăn, sự quân bình âm dương trong cơ thể và sự cân bằng
âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên. 

Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức âm
dương ứng với ngũ hành: hàn ( lạnh ), nhiệt ( nóng ), ôn ( ẩm ), lương ( mát ), bình ( trung tính ). 

Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món chế biến có tính đến sự quân
bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn như những vị thuốc để điểu chỉnh sự mất quân
bình âm dương trong cơ thể.  Mọi bệnh tật đều do mất quân bình âm dương vì vậy mọi người bị ốm
do quá ân cần ăn đồ dương và ngược lại ốm do quá dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự thăng
bằng đã mất. 

         Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường thì người Việt có tập quán ăn
uống theo vùng khí hậu, theo mùa.  Ăn theo mùa tức là tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để phục
vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân bằng biện chứng giữa con người với môi
trường.  Thức ăn theo mùa hay mùa nào thức ấy " Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim ngói mùa
thu, chim cu mùa hè ...

 Tính biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời tiết , phải đúng mùa,
và người Việt Nam sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị ( chuối sau, cau trước, đầu
chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm.. ).  Thời điểm có giá trị còn là lúc thức ăn đang trong quá trình
âm dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu chất dinh
dưỡng ( trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ong non.. ). 

Câu 6: Các đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam. 
Hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị, là hai đặc trưng bao
trùm nhất, quan trọng nhất của làng xã, chúng tồn tại song song như 2 mặt của một vấn đề
* Tính cộng đồng
Định nghĩa
Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã. 
Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới
những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại
Biểu tượng
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa

CÁI ĐÌNH: Làng nào cũng có một cái đình.  Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi
phương diện.  Trước hết, nó là một trung tâm hành chính, nơi duễn ra mọi công việc quan trọng, nơi
hội họp, thu sưu thuế.  Thứ đến, đình là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các cuộc hội hè, ăn uống
( do vậy mà có từ đình đám ), nơi biểu diễn chèo tuống.  Đình còn là một trung tâm về mặt tôn giáo:
thế đất, hướng đình được xem là quyết định vận mệnh cả làng, đình cũng là nơi thờ thần Thành
Hoàng bảo vệ cho làng.  Cuối cùng, đình là một trung tâm vế mặt tình cảm: nói đến làng, người ta
nghĩ ngay tới cái đình với tất cả những tình cảm gắn bó thân thương nhất “Qua đình ngã nón trông
đình, Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu. ”

BẾN NƯỚC: Do ảnh hưởng của Trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi người dần
dần chỉ còn là chốn lui tới của đàn ông.  Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ quần tụ lại nơi BẾN NƯỚC (ở
những làng ko có sông chảy qua thì có giếng nước ) - chỗ hàng ngày chị e gặp nhau cùng rửa rau,
giặt giũ, chuyện trò ...

CÂY ĐA cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói hương nghi ngút ;
đó là nơi hội tụ của thánh thần: thần cây da, ma cây gạo, cú cáo cây đề; sợ thần sợ cả cây đa.   Cây
đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân gặp gỡ của những người đi làm đồng, những khách
qua đường…nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên kết làng với thế giới bên
ngoài. 

- Biểu hiện tích cực của tính cộng đồng trong nông thôn Việt Nam

 + Tinh thần đoàn kết, tương trợ: Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất.  do đồng nhất( cùng
hội cùng thuyền, đồng cảnh ngộ ) cho nên người Việt Nam luôn sẵng sàng đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh chị e trong nhà: tay đứt ruột xót; chị ngã e nâng ...

+ Tính tập thể hòa đồng: Do đồng nhất (giống nhau) nên người Việt Nam luôn có tính tập thể rất
cao, hòa đồng vào cuộc sống chung

+ Nếp sống dân chủ, bình đẳng: Sự đồng nhất cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ -
bình đẳng bookc look trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp,
theo giáp. 

- Biểu hiện tiêu cực

+ Sự thủ tiêu vai trò cá nhân: Chính do đồng nhất mà ở người Việt Nam, ý thức về con người cá
nhân bị thủ tiêu: người Việt Nam luôn hòa tan vào các mối quan hệ xã hội ( với người này là em,
người kia là cháu, với người khác nữa là anh/ chị…), giải quyết xung đột theo lối hòa cả làng.  Điều
này khác hắn với truyền thống phương Tây, nơi con người được rèn luyện ý thức cá nhân ngay từ
nhỏ. 

+ Thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: Sự đồng nhất còn dẫn đến chỗ người Việt Nam hay dựa dẫm, ỷ
lại vào tập thể: Nước trôi thì bèo trôi, Nước nổi thì bèo nổi.  Tệ hơn nữa là tình trạng “Cha chung
không ai khóc; Lắm sãi ko ai đóng cửa chùa ...” Cùng với thỏi dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng cầu an ( an
phận thủ thường) và cả nể, làm gì cũng sợ rút dây động rừng nên có việc gì thường chỉ trương đóng
cửa bảo nhau…

+Thói cào bằng, đố kị: Một nhược điểm trầm trọng thứ 3 là thói cào bằng, đố kị, không muốn cho ai
hơn mình ( để cho tất cả đều giông nhau, đồng nhất ) “Xấu đều hơn tốt lòi, Khôn độc không bằng
ngốc đàn…”
Những thói xấu có nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở Việt Nam, khái niệm “ giá trị” trở
nên hết sức tương đối (nó khẳng định đặc điểm tính chủ quan của lối tư duy nông nghiệp), cái tốt
nhưng tốt riêng rẽ thì trở thành cái xấu, ngược lại; cái xấu, nhưng là xấu tập thể thì trở nên bình
thường: “Toét mắt là tại hướng đình, Cả làng cùng toét phải mình e đâu”

* Tính tự trị

Định nghĩa

Sản phẩm của tính cộng đồng là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào biết làng nấy, các
làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình phong kiến.  Mỗi làng là một
“vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng ( hương ước ) và “tiểu triều đình” riêng ( trong đó
hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch là cơ quan hành pháp, nhiều làng tôn xưng bốn cụ cao
tuổi nhất làng là tứ trụ ).  Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống phép vua thua lệ làng.  Đây là đặc
trưng âm tính – hướng nội. 

Biểu tượng

Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là LŨY TRE.  Rặng tre bao kín làng, trở thành một thứ thành
lũy kiên cốbất khả xâm phạm: đốt ko cháy, trèo ko được, đào đường hầm thì vướng rễ ko qua
( chính vì vậy mà tiếng Việt mới gọi rặng tre là lũy, thành lũy).  Lũy tre là một đặc điểm quan trọng
làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng đất. 

- Biểu hiện tích cực của tính tự trị trong nông thôn Việt Nam

+ Tinh thần tự lập: Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác biệt.  Khởi đầu là sự khác biệt của
cộng đồng ( làng, họ ) này so với cộng đồng ( làng, họ ) khác.  Sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị -
tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi việc

+ Nếp sống tự cấp, tự túc, tính cần cù: Vì phải tự lo liệu, nên người Việt Nam có truyền thống cần
cù, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.  nó cũng tạo nên nếp sống tự cấp tự túc: mỗi
làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống của làng mình; mỗi nhà có vường rau, chồng gà, ao cá –
tự đảm bảo nhu cầu về ăn, có bụi tre, rặng xoan, gốc mít – tự đảm bảo nhu cầu về ở. 

- Biểu hiện tiêu cực của tính tự trị

+ Óc tư hữu, ích kỉ: Chính do nhấn mạnh vào sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị - mà người Việt
Nam có thói xấu là óc tư hữu, ích kỉ: bè ai người nấy lo; ruộng ai người nấy đắp bờ, ai có thân
người nấy lo; ai có bò người nấy giữ…Óc tư hữu, ích kỉ nảy sinh ra từ tính tự trị của làng xã Việt và
đã luôn bị chính người Việt phê phán: của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn; của
người bò tát, của mình buộc lạt…

+ Óc bè phái, địa phương cục bộ: Làng nào biết làng ấy, chỉ lo vun vén cho địa phương mình: trống
làng nào làng nấy đánh, thánh làng nào làng nấy thờ; trâu ta ăn cỏ đồng ta…

+ Óc gia trưởng – tôn ti: Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống,
tự thân nó không phải là xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia trưởng, tạo nên tâm lí “quyền huynh
thế phụ”, áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý: sống lâu lên lão
làng, áo mặc không qua khỏi đầu, thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội, nhất
là khi mà thói gia đình chủ nghĩa vẫn đang là một căn bệnh lan tràn. 

Đặc điểm môi trường sống quy định đặc tính tư duy.  Cả hai quy định tính cách của dân tộc.  Cuộc
sống nông nghiệp lúa nước và lối tư duy biện chứng, như ta đã biết, dẫn đến dự hình thành nguyên
lý âm dương và lối ứng xử nước đôi chính là một đặc điểm tính cách của dân tộc Việt.  Người Việt
đồng thời vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ lại vừa có óc tư hữu ích kỉ và thói cào bằng; vừa có
tính tập thể hòa đồng lại vừa có có bè phái, địa phương; vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng lại vừa
có óc gia trưởng tôn ti, vừa có tinh thần tự lập lại vừa xem nhẹ vai trò cá nhân; vừa có tính cần cù và
nếp sống tự cấp tự túc vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại.  Tất cả những cái tốt và cái xấu ấy đều đi thành
từng cặp và đều tồn tại ở người Việt Nam; bởi lẻ tất cả  đều bắt nguồn từ 2 đặc trưng gốc trái
ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị.  Tùy lúc tùy nơi mà mặt tốt hoặc mặt xấu sẽ được phát
huy: khi đứng trước những khó khăn lớn, những nguy cơ đe dọa sự sống còn của cộng đồng thì cái
nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết và tính tập thể; nhưng khi nguy cơ ấy đi qua rồi thì thói tư hữu và óc
bè phái địa phương có thể nối lên. 

Câu 7.  Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam. 


* Nguồn gốc

Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống là 1 nhu cầu thiết yếu nhất của con người, nhất là lối văn
hóa nông nghiệp.  Để duy trì sự sống cần mùa màng tươi tốt.  Để phát triển sự sống cần con người
sinh sôi.  Từ thực tiễn đó, tư duy cư dân nông nghiệp Nam – Á đã phát triển theo 2 hướng:

+ Những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật khách quan để lý giải hiện thực: triết lý âm dương. 

+ Còn những người có trình độ hạn chế thì nhìn thấy ở hiện thực 1 sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà
sung bái nó như thân thánh, kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn thực (Phồn=nhiều, thực=nảy nở)

* Biểu hiện

Ở VN, TNPT từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử với 2 dạng biểu hiện: thờ cơ quan sinh dục và thờ
hành vi giao phối

- Thờ cơ quan sinh dục


Việc thờ cơ quan sinh dục nam nữ được gọi là thờ sinh thực khí (sinh=đẻ, thực=nảy nở, khí=công
cụ).  Đây là hình thái đơn giản của TNPT, phổ biến ở các nên VH nông nghiệp. 

    - Tượng đá hình nam nữ với bộ phận sinh dục phóng to hàng nghìn năm TCN được tìm thấy ở
Văn Điển, Sa Pa.  Ở các nhà mồ Tây Nguyên thường có các tượng người với bộ phận sinh dục
phóng to. 

   - Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều nơi khác có tục thờ cúng nõ nường (nõ=cái nêm tượng trưng cho
sinh thực khí nam; nường=nang, mo nang tượng trưng cho sinh thực khí nữ). 
    - Ở hội làng Đồng Kị (Bắc Ninh) có tục rước sinh thực khí bằng gỗ rồi đem đốt thành tro chia cho
mọi người đem rắc ra ruộng

    - Ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây… thường có tục rước 18 bộ sinh thực khí vào hội làng.  Khi đám
rước kết thúc, mọi người tranh nhau cướp vì tin rằng sẽ đem lại may mắn. 

    - Việc thờ các loại cột đá và các loại hốc.  Ở chùa Dạm (Bắc Ninh) có 1 cột đá hình sinh thực khí
nam có chạm nổi hình rồng thời Lý.  Ngư phủ ở Sở đầm Hòn Đỏ thờ 1 kẽ nứt trên tảng đá gọi là Lỗ
Lường

- Thờ hành vi giao phối


Bên cạnh việc thờ sinh thực khí, cư dân trồng lúa nước với lối tư duy coi trọng quan hệ còn có tục
thờ hành vi giao phối, tạo nên 1 dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo, phổ biến ở kv ĐNA

- Trên nắp thạp đồng tìm được ở làng Đào Thịnh, xung quanh hình mặt trời là tượng 4 đôi nam nữ
đang giao phối.  Ở chân thạp đồng khắc hình những con thuyền nối đuôi nhau khiến cho 2 con cá
sấu – rồng chạm nhau trong tư thế giao hoan. 

- Ở các nhà mồ Tây Nguyên dựng những tượng nam nữ giao phối

- Hình chim, thú, cóc giao phối tìm thấy khắp nơi

- Vào Hội đền Hùng, thanh niên nam nữ múa từng đôi, tay cầm vật biểu trưng cho sinh thực khí. 

- Ở Sở đầm Hòn Đỏ, khi không đánh được cá, người cầm đầu tới cầu xin và cầm vật tượng trưng
cho sinh thực khí nam rồi đâm vào Lỗ Lường 3 lần

- Chày và cối là bộ công cụ tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo là tượng
trưng cho hành động giao phối

- Trên các trống đồng khắc rất nhiều hình nam nữ giã gạo từng đôi

- Tục giã cối đón dâu

* Ý nghĩa

    Vai trò của TNPT trong đời sống người Việt cổ lớn tới mức chiếc trống đồng-biểu tượng sức
mạnh và quyền lực của người xưa - đồng thời cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn
thực

- Hình dáng trống đồng phát triển từ chiếc cối giã gạo

- Cách đánh trống mô phỏng động tác giã gạo


- Tâm mặt trống là hình mặt trời với những tia sang biểu hiện cho sinh thực khí nam, ở giữa các tia
sang là 1 hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho stk nữ

- Xung quanh mặt trống thường gắn các tượng cóc, cũng là 1 dạng biểu trưng của TNPT

- Tiếng trống mô phỏng tiếng sấm, mang theo mùa mưa, mùa màng tốt tươi cũng mang ý nghĩa trên

Câu 8.  Tín ngưỡng sùng bái con người ở Việt Nam. 
 * Nguồn gốc chung
Con người có cái vật chất và tinh thần, cái tinh thần là cái khó nắm bắt và được trừu tượng hóa, thần
thánh hóa gọi là " linh hồn ", và linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Người Việt và một vài
dân tộc Đông Nam Á đã chia linh hồn thành hồn và vía. Có 3 hồn là tinh, khí, thần.  Đàn ông có 7
vía là 7 lỗ trên mặt: 2 tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi, 1 cái miệng.  Đàn bà có 9 vía: giống đàn ông và có thêm
chỗ sinh sản và chỗ cho con bú.  Hồn và vía giải thích các hiện tượng như trẻ con hay đau ốm, ngủ
mê, ngất, chết.  Vía phụ thuộc vào thể xác: có người lành vía, dữ vía, yếu vía, cứng vía, độc vía, vía
nặng, vía nhẹ.  Khi gặp phải độc vía nếu chạm vía phải đốt vía, trừ vía, giải vía.  Hồn độc lập với thể
xác (hồn người này có thể nhập vào xác của người khác). 

* Biểu hiện
Thờ cúng tổ tiên

Khi chết thì cả vía và hồn đều lìa khỏi xác mà đi.  Xác mất đi nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại và phù
hộ độ trì cho con cháu; có tục thờ cúng tổ tiên. 

Nghĩa hẹp: là sự thờ cúng cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên (những người đã chết) cùng huyết thống, những
người có công sinh thành và nuôi dưỡng con cháu. 

Nghĩa rộng: không chỉ trong phạm vi huyết thống từ gia đình đến họ tộc mà con người còn mở rộng
ra cả tổ tiên làng xã và đất nước. 

Nguồn gốc của thờ cúng tổ tiên:

    + Là đặc trưng của thời kì lịch sử ở chế độ thị tộc phụ quyền. 

    + Gắn với sự tồn tại của linh hồn con người sau khi mất. 

    + Coi tổ tiên là động vật, thực vật, sự vật đến việc thừa nhận tổ tiên đích thực của con người. 

     + Là sản phẩm của sự kết hợp giữa 3 yếu tố cơ bản ý thức về linh hồn bất tử, tổ tiên Tôn Ten, tổ
tiên của con người và ý nghĩa là sự che chở cho gia đình. 

    Biểu hiện của thờ cúng tổ tiên :


    + Mang sắc thái riêng so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Hán, nó ăn sâu vào tâm linh
của người Việt. 

    + Có tính lịch sử, sức sống lâu bền, mang tính phổ quát. 

    + Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam thể hiện 3 cấp độ: gia đình, làng xã và quốc gia.   Thờ vua - thần
vừa mang tính huyết thống vừa mang tính xã hội. 

Ý nghĩa của thờ cúng tổ tiên

   + Vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh, vừa thể hiện đạo lí làm người. 

   + Ý nghĩa thế tục. 

   + Là một nét đẹp văn hóa, một đặc trưng vốn có của người Việt. 

cần phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. 

Thờ Thổ Công - một dạng mẹ đất:  Là vị thần coi gia cư, định đoạt phúc họa cho một gia đình. Sống
ở đâu thì Thổ Công ở đó: " đất có Thổ Công, sông có Hà Bá ". Mối quan hệ giữa Thổ Công và ông
bà tổ tiên trong gia đình rất thú vị: Thổ Công định đoạt phúc họa cho cả nhà nên là vị thần quan
trọng nhất, nhưng ông bà sinh thành ra gia đình nên được tôn kính nhất. Để không làm mất lòng ai,
người Việt xếp cho ông, bà tổ tiên  ngự tại bàn thờ tôn kính nhất - gian giữa. Còn Thổ Công
thì gian bên trái. 

- Tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam không chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình, ngoài các vị thần
tại gia thì còn có các thần linh chung của thôn xã và toàn dân tôc. Trong phạm vi thôn xã thì quan
trọng nhất là thờ Thành Hoàng, trong một ngôi làng thì Thành Hoàng là một vị thần cai quản, che
chở, định đoạt phúc họa cho dân làng đó. Không làng nào là không có Thành Hoàng. Cái lệ làng
quan trọng đến mức vua Lê Thánh Tông sai triều đình sưu tầm và biên soạn ra thần tích của Thành
Hoàng các làng để vua ban sắc phong trần.  Đó thể là thiên thần, nhiên thần hay nhân thần và cũng
có khi là người có công lập ra làng xã hoặc là những người chết bất đắc kì tử. 

Có ý nghĩa:

+ Là công cụ tinh thần biểu hiện quyền uy tối thượng của nhà vua. 

+ Là một loại tín ngưỡng đặc sắc nhất, phản ánh rõ đời sống hiện thực của cộng đồng làng, xã. 
+ Là bộ sưu tập văn hóa thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc

+ Cần khuyến khích những yếu tố tích cực, định hướng vào việc bồi dưỡng tình cảm trong sáng,
lành mạnh của con người. 
- Tín ngưỡng thờ quốc tổ và quốc mẫu
  Mảnh đất Phong Châu (Phú Thọ) ở đó có đền thờ các vua hùng trên núi Hy Cương và đền thờ Âu
Cơ. 
Trong nhà thờ gia tiên, trong làng thờ Thành Hoàng, thì trong nước người Việt Nam thờ vua tổ -
vua Hùng.  Người VN còn có một tín ngưỡng đặc biệt là thờ cúng Tứ bất tử: Thánh Gióng, Tản
Viên, Chữ Đồng Tử, Liễu Hạnh.  Như vậy, tục thờ Tứ bất tử là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp
của dân tộc ta, đó là đặc trưng được chắc lọc trong suốt chiều dài lịch sử biểu trưng cho sức mạnh
của cộng đồng, để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống vật chất phồn
vinh và tinh thần hạnh phúc. 

Câu 9.  Phong tục tang ma người Việt.  Những quan niệm và tục lệ
Quan niệm: 2 quan niệm
*Do cho rằng trong con người có phần xác và phần hồn, sau khi chết, linh hồn sẽ về nơi "thế giới
bên kia" và với thói quen sống bằng tương lai (sản phẩm của lối tư duy theo triết lí âm dương) cho
nên người Việt Nam rất bình tĩnh, yên tâm chờ đón cái chết.  Chết già vì vậy được xem là một sự
mừng: trẻ làm ma, già làm hội.  Nhiều nơi có người già chết còn đốt pháo; chắt chút để tang cụ kị
thì đội khăn đỏ, khăn vàng (là màu tốt theo Ngũ hành). 
Người Việt Nam chuẩn bị khá chu đáo, kĩ càng cho cái chết của chính mình hoặc của người thân.  
Các cụ già tự mình lo sắm cỗ hậu (chỉ việc về sau, còn gọi là cỗ thọ, quan tài, áo quan).   Quan tài
của ta làm hình vuông tượng trưng cho cõi âm theo triết lí âm dương. 
Người cẩn thận còn cho làm thêm chiếc quách bọc ngoài (thành ngữ trong quan ngoài quách.  Cỗ
thọ làm xong, kê ngay dưới bàn thờ như một việc hết sức bình thường.  Có cỗ thọ rồi.  các cụ còn lo
nhờ thầy địa lí đi tìm đất rồi xây sinh phần.  Các vua chúa bao giờ cũng lo tất cả những việc này rất
chu tất ngay từ khi mới tên ngôi; các lăng mộ vua còn giữ được ở Huế đồng thời cũng là những nơi
thắng cảnh là vì thế. 

Khi trong nhà có người nhà hấp hối, việc quan trọng là đặt lên hèm (tên thụy) cho người sắp chết. 
Đó là một tên mới (do người sắp chết tự đặt hoặc con cháu đặt cho) mà chỉ có người chết, con cháu
và thần Thổ công nhà đó biết mà thôi. 
Khi cúng giỗ, con trưởng sẽ khấn bằng tên hèm.  Thổ thần có trách nhiệm chỉ cho phép linh hồn có
"mật đanh" đúng như thế vào thôi (vì vậy, tên này còn gọi là tên cúng cơm).  Làm như vậy là đề
phòng ngừa những cô hồn lang thang vào ăn tranh cỗ cúng sau này. 
Trước khi khâm liệm, phải làm lễ mộc đục (tắm gội cho người chết) và lễ phạn hàm: bỏ một nhúm
gạo nếp và ba đồng tiền vào miệng (gạo để dùng thay bữa, tiền để đi đò - quan niệm của người vùng
sông nước).  Khi khâm liệm, phải có miếng vải đắp mặt người chết để khỏi trông thấy cháu con sinh
buồn. 
Trong áo quan, từ thời Hùng Vương đã có tục chia tài sản cho người chết mang theo.  Ngày nay,
người Việt vẫn để kèm trong áo quan các đồ vật tùy thân như quần áo, gương lược ...và hằng năm
khi giỗ thì "gửi thêm" vàng (giấy), quần áo (giấy). ...
Trước khi đưa quan tài đến nơi chôn cất, người ta cúng thần coi sóc các ngả đường để xin phép đưa
tang.  Trên đường đi có tục rắc các thỏi vàng giấy làm lộ phí cho ma quỷ để chúng khỏi quấy nhiễu. 
Đến nơi, làm lễ tế Thồ thần nơi đó để xin phép cho người chết được nhập cư". 

Chôn cất xong, trên nấm mộ đặt bát cơm, quả trứng, đôi đũa (cắm trên bát cơm), nhiều nơi còn đặt
thêm mớ bùi nhùi.  Tục này mang ý nghĩa chúc tụng: mớ bùi nhùi tượng trưng cho thế giới hỗn
mang, trong hỗn mang hình thành nên thái cực (tượng trưng bằng bát cơm), thái cực sinh ra lưỡng
nghi (tượng trưng bằng đôi đũa), có lưỡng nghi (âm dương) là có sự sống (tượng trưng bằng quả
trứng). 
Toàn bộ toát lên ý cầu chúc cho người chết sớm đầu thai trở lại.  Nhiều nơi có tục làm nhà mồ cho
người chết với đủ những tiện nghi.  vật dụng tối thiếu. 

Để cho linh hồn người chết được yên ổn và phù hộ cho con cháu khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt là tục
cải táng. 

* Trong việc tang ma, người Việt Nam bị giằng kéo giữa hai thái cực: Một bên là quan niệm coi
chết là bước vào cuộc sống mới ở thế giới khác nên việc tang ma được xem như việc đưa tiễn; bên
kia là quan niệm trần tục coi chết là hết nên việc tang ma là việc xót thương. 

Xót thương nên muốn níu kéo, giữ lại.  Tục khiêng người chết đặt xuống đất, tục gọi hồn là mong
người chết sống lại.  Vì xót thương nên có tục khóc than (nhà không có con thì thuê người khóc
mướn). 

Vì xót thương nên con cháu không lòng dạ nào mà dùng đồ tốt (nên có tục làm đỗ tang bằng các
loại vải thô, xấu như xô gai màu trắng - màu xấu nhất trong Ngũ hành); không tâm trí nào mà nghĩ
đến việc ăn mặc (nên trong thời gian tang có tục để gấu xổ, áo trái, đầu bù. ...); đau buồn quá nên
đứng không vững (khi đưa ma, con trai phải chống gậy, gái yếu hơn nên phải lăn đường); đau buồn
quá dễ sinh quẫn trí va đập thành trùng tang (nên khi đưa ma.  phải đội mũ làm bằng dây chuối, ...). 
Ngày nay, nhiều tục lệ trong số đó không còn tồn tại nữa, lẽ chính là vì chúng quá chi li, cầu kì, chứ
không phải vì chúng vô nghĩa. 

Ở lĩnh vực tang lễ này cũng thấy rõ tính cộng đồng: nhà có tang, việc thì nhiều mà người nhà lại
không còn đủ tỉnh táo minh mẫn nữa, nên bà con xóm làng bao giờ cũng chạy tới giúp rập, lo toan
chỉ bảo cho mọi việc. 

Người Việt Nam quan niệm Bán anh em xa, mua láng giềng gần nên khi nhà có người mất, hàng
xóm láng giềng không những giúp đỡ mà còn để tang nhau: Họ dương 3 tháng, láng giềng 3 ngày;
Láng giềng còn để ba ngày- Chồng cô, vợ cậu một ngày cũng không. 

Người nông nghiệp sống gắn bó không chỉ với xóm làng mà còn cả với thiên nhiên, cho nên khi chủ
chết, cây cối trong vườn cũng đau buồn mà để tang: nhiều nơi có tục đeo băng trắng cho cả cây cối. 

* Phong tục tang lễ của ta thấm nhuần rất sâu sắc tinh thần triết lí âm dương Ngũ hành phương nam

Tang lễ truyền thống Việt Nam dùng màu trắng là màu của phương Tây theo Ngũ hành.   Mọi thứ
liên quan đến phương Tây đều được xem là xấu.  Nơi để mồ mả của người Việt và người dân tộc
thường là hướng Tây của làng; người dân tộc xem rừng phía Tây là rừng của ma quỷ.  Sau màu
trắng là màu đen (của phương Bắc theo Ngũ hành).  Nếu chắt, chút để tang cụ, kị (là tốt, vì các cụ
sống lâu) thì dùng các màu tốt như màu đỏ (phương Nam) và vàng (Trung ương). 

Về loại số, theo triết lí âm dương, âm ứng với số chẵn, dương ứng với số lẻ; vì vậy mọi thứ liên
quan đến người chết đều phải là số chẵn.  Lạy trước linh cữu thì phải lạy 2 hoặc 4 lạy; ở nhà mồ của
các dân tộc miền núi, cầu thang phải làm với số bậc chẵn; hoa cúng nười chết cũng phải dùng số
chẵn.  khác với người sống ở cõi dương, mọi thứ phải theo số lẻ: lạy người sống phải là 1 hoặc 3
lạy; cầu thang, bậc tam cấp nhà ở phải có số bậc lẻ (thế mới là tam cấp); hoa cho người sống cũng
phải có số bông lẻ.  Trừ trường hợp chết coi như sống - ví dụ cúng Phật thắp 3 nén nhang, hoặc
sống coi như chết - ví dụ con gái lạy cha mẹ trước lúc xuất giá đi lấy chồng 2 lạy). 

Cũng theo luật âm dương là việc phân biệt tang cha với tang mẹ: Khi con trai chống gậy để tang thì
cha gậy tre, mẹ gậy vông.  Đó là vì thân tre tròn.  biểu tượng dương; cành gỗ vông đẽo được thành
hình vuông, biểu tượng âm. 

Đưa tang và để tang còn có tục cha đưa mẹ đón (tang cha - đi sau quan tài, tang mẹ - đi giật lùi phía
đầu quan tài) và tục áo tang cha thì mặc trở đàng sống lưng ra, tang mẹ mặc trỏ đằng sông lưng vô -
hai tục sau cũng đều thể hiện triết lí âm dương qua cặp nghĩa hướng ngoại (dương, cha) - hướng nội
(âm, mẹ). 

Phong tục tang lễ phổ biến và chính thống của ta còn thừa kế được cả tinh thần dân chủ truyền
thống. Thọ Mai gia lễ của ta quy định cha mẹ phải để tang con, và không chỉ cha mẹ để tang con mà
cả ông bà và cụ kị cũng để tang hàng cháu, hàng chắt. 

Trong khi đó thì theo tục lệ Trung Hoa, "Phụ bất bái tử" (cha không lạy con).  Con chết trước cha
mẹ là nghịch cảnh, là con bất hiếu (một vài nơi ở vùng Bắc Bộ có truyền thống Nho học mạnh cũng
theo quan niệm này nên nếu con chết trước thì lúc khâm liệm quấn trên đầu tử thi mấy vòng khăn
trắng, ý là ở cõi âm cũng phải để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ!). 

Câu 10.  Đặc điểm Phật giáo Việt Nam


* Tính tổng hợp
Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng nổi bật nhất của Phật giáo Việt
Nam. 
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, và do
vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng.  Hệ thống chùa “Tứ pháp” thực ra vẫn chỉ là những
đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây-Mưa-Sấm-Chớp và thờ đá.  Lối kiến trúc phổ biến
của chùa Việt Nam là “tiền Phật, hậu Thần” với việc đưa các thần, thánh, các thành hoàng, thổ địa,
các anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa.  Có những chùa còn có cả bàn thờ cụ Hồ Chí Minh ở Hậu
tổ.  Hầu như không chùa nào là không để bia hậu, bát nhang ho các linh hồn, vong hồn đã khuất. 

Phật giáo Việt Nam là tổng hợp các tông phái lại với nhau.  Ở Việt Nam, không có tông phái Phật
giáo nào thuần khiết.  Tuy chủ trương của Thiền tông là bất lập ngôn, song ở Việt Nam chính các
thiền sư đã để lại nhiều trước tác có giá trị.  Dòng Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mẫu giáo,
nhiều thiền sư phái này, nhất là những vị sống vào thời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn
Minh Không, đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài biến hóa thần thông.  Phật giáo Việt Nam cũng
tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông. 

Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng mấy chục pho tượng Phật, bồ
tát, la hán của các tông phái khác nhau.  Ở phía Nam, Đại thừa và Tiểu thừa kết hợp mật thiết với
nhau: nhiều chùa mang hình thức tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo
lý Đại thừa, bên cạnh Phật Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh áo vàng vẫn có đồ nâu
lam. 
Phật giáo Việt Nam tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho, với Đạo, tạo thành quan
niệm Tam giáo đồng nguyên (3 tôn giáo cùng phát nguyên từ một gốc) và Tam giáo đồng quy (3 tôn
giáo cùng quy về một đích). 

Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ với việc đạo và việc đời.  Vốn là một tôn giáo xuất thế, nhưng
vào Việt Nam, Phật giáo trở nên rất nhập thế: Các cao tăng được nhà nước mời tham chính hoặc cố
vấn trong những việc hệ trọng.  Sự gắn bó đạo – đời không chỉ thể hiện ở việc các nhà sư tham gia
chính sự, mà ngược lại còn có khá nhiều vua quan quý tộc đi tu.  Trong 6 thế hệ đệ tử của phái Thảo
Đường thì đã có tới 9 người là vua quan đương nhiệm.  Không phải ngẫu nhiên mà ở sân chùa Phổ
Minh, quê hương nhà Trần, lại có chiếc vạc đồng lớn (1 trong “An Nam tứ đại khí”) tượng trưng
cho quyền lực. 

Vẫn với truyền thống gắn bó với đời, đầu thế kỷ XX, Phật tử Việt Nam hăng hái tham gia vào các
hoạt động xã hội (như cuộc vận động đòi ân xá Phan Bội Châu và đám tang Phan Châu Trinh). 
Thời Diệm – Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi hòa bình
và độc lập dân tộc, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống đường đấu tranh phản đối nền độc tài của gia
đình họ Ngô, đỉnh cao là sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963. 

* Khuynh hướng thiên về nữ tính

Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành Phật Ông – Phật Bà.  Bồ tát
Quán Thể Âm đã được biến thành Phật Bà Quan Âm với nghìn mắt nghìn tay – vị thần hộ mệnh của
cư dân khắp vùng sông nước Đông Nam Á (nên còn gọi là Quan Âm Nam Hải).  Ở một số vùng,
ngay cả Phật tổ Thích Ca cũng được coi là phụ nữ (người Tày Nùng gọi là “Mẹ Pựt Xích Ca”).  
Người Việt Nam còn tạo ra những “Phật bà” riêng của mình: Đứa con gái nàng Man, tương truyền
sinh vào ngày 8-4 được xem là Phật Tổ Việt Nam, bản thân bà Man trở thành Phật Mẫu.  Rồi còn
những vị Phật bà khác nữa như Quan Âm Thị Kính, Phật bà chùa Hương.  Lại còn rất nhiều các bà
bồ tát như Bà Trắng chùa Dâu, các thánh mẫu…

Việt Nam có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa Bà Đậu, chùa Bà Tướng,
chùa Bà Dàn, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh… Tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia là các bà: Trẻ vui nhà,
già vui chùa là nói cảnh các bà. 

Chùa hòa nhập với thiên nhiên, bao giờ cũng là nơi phong cảnh hữu tình; bởi vậy mới có cách nói ví
“vui như trảy hội chùa”.  Cảnh chùa hữu tình, hội chùa vui, cửa chùa rộng mở, cho nên cũng là nơi
chở che cho trai gái tình tự: “Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”. 

* Tính linh hoạt

Ngay từ đầu, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo cho riêng mình: nàng Man, cô gái làng
Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo, trở thành Phật tổ với ngày sinh là
ngày Phật đản 8-4. 

Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa:
Thứ nhất là tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù xây chín bậc phù đồ, Không bằng làm
phúc cứu cho một người; coi trọng truyền thống thờ cha mẹ, ông bà hơn là thờ Phật: Tu đâu cho
bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới là chân tu; đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật: Phật trong nhà
không thờ đi thờ Thích ca ngoài đường (Tục ngữ). 
Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng
cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa: Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời, Đương cơn hoạn nạn
độ người trầm luân; làm nên mây mưa sấm chớp để mùa màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ pháp);
ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự: Tay bưng quả nếp vô chùa, Thắp nhang lạy
Phật xin bùa em đeo); ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật
và hái lộc lúc giao thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu kinh
và làm lễ tiễn đưa người chết). 

Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt Nam có khi phá cả giới Phật giáo.  Có nơi, do muốn
buộc ông sư phải gắn bó với làng mình để giữ chùa, cúng lễ; dân làng đã tổ chức cưới vợ cho sư,
khiến ngôi chùa gần như trở thành một gia đình. 

Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất dân gian: ông Nhịn ăn mà mặc
(Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di-lặc to béo), ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc quăn)… Nhiều
pho tượng được tạc theo lối ngồi không phải trên tòa sen mà là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản
dị.  Trên đầu Phật Bà chùa Hương còn lấp ló lọn tóc đuôi gà truyền thống của phụ nữ Việt Nam. 

Ngôi chùa Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền với hình thức mái cong có 3
gian 2 chái… Chùa Một Cột như một lễ vật dâng lên Phật Bà với hình bông sen thanh thoát ở trên
và trụ đá tròn trong hồ vuông ở dưới biểu hiện ước vọng phồn thực (no đủ và đông đúc). 

Cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành công trình công cộng quan trọng thứ hai ở mỗi làng.  Người
dân đi bất kỳ đâu có thế ghé chùa xin nghỉ tạm hoặc xin ăn. 

Phân tích đặc trưng của văn hóa?


- Tính nhân sinh là đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa. Nói đến văn hóa là nói đến con người.
Văn hóa là sẳn phẩm của trình độ phát triển bản chất người, là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân
cách con người. Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm và còn là đại biểu mang các giá trị văn
hóa. 
+ Văn hóa được tạo thành bởi các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Thuộc tính
này cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng xã hội với những sản vật tự nhiên chưa qua bàn
tay sáng tạo của con người. Theo đó, 1 đất nước có thể giàu khoáng sản, dầu mỏ, các nguồn lợi
thiên nhiên nhưng chưa hẳn già có về văn hóa. Văn hóa là thành quả lao động sáng tạo lao động của
nhân loại. Những thành quả ấy phải phục vụ sự phát triển toàn diện của con người. Phục vụ cuộc
sống hạnh phúc trong an toàn của toàn thể xã hội.
Tính nhân sinh là cơ sở làm nên giá trị nhân văn của văn hóa. Giá trị nhân văn là thực chất của văn
hóa, là cái tạo nên nội dung, bản chất của 1 nền văn hóa. 
- Tính hệ thống là 1 tổ hợp hữu cơ, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ khăng khít với nhau, tương
tác, tương thành, chi phối và chế ước lẫn nhau. Văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của con
người và xã hội, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội.. Văn hóa là sản phẩm mang tính xã hội cao
do mọi người cùng chung sức tạo ra. 

- Tính lịch sử là thuộc tính được xác định bởi bề dày và chiều sâu của văn hóa. Một nề văn hóa bao
giờ cũng cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên chiều dài lịch sử. Văn hóa là 1 quá trình vận
động liên tục, không giá đoạn. Là sản phẩm của 1 xã hội, 1 thời đại nhất định, là di sản của xã hội,
văn hóa đồng thời là 1 quá trình không ngừng tích lũy, đổi mới. Tính lịch sử của văn hóa được duy
trì bằng truyền thống văn hóa. Đặc trưng của truyền thống lại biểu hiện ở tính di tồn và tính cộng
đồng. 

- Tính giá trị là đặc trưng quan trọng của văn hóa. Giá trị là những chuẩn mực được cộng đồng chấp
nhận và theo đuổi. Giá trị văn hóa là “thành quả mà dân tộc hay 1 con người đạt được trong quan hệ
với thiên nhiên, với xã hội và trong sự phát triển của bản than mình. Nói tới giá trị vh là nói tới thái
độ, trách nhiệm và những quy tắc ứng xử của mọi người trong những quan hệ giữa bản thân mình
với gia đình, xã hội và thiên nhiên. Văn hóa chỉ bao gồm các giá trị, các vẻ đẹp. 

- Tính dân tộc của văn hóa là đặc trưng cho ta thấy cách thức tồn tại và biểu hiện của mọi cộng
đồng, mọi nền văn hóa. Một nền văn hóa cụ thể luôn chịu sự chi phối, chế ước của hoàn cảnh tự
nhiên và rất nhiều điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Ví như: Có cây chè thì mới có văn
hóa uống trà, có văn phòng tiếp khách và thời gian nhàn rỗi mới có cái gọi là”văn hóa salong” của
giới quý tộc châu Âu. 

Mỗi dân tộc sẽ có 1 ngôn ngữ chung, tuân thủ phong tục tập quán chung, cùng chia sẻ những điều
kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần, nuôi dưỡng thành tố chất tâm lí và tính cách chung. Đó là biểu
hiện tính dân tộc của văn hóa. 

- Các chức năng cơ bản của văn hóa:

* Chức năng tổ chức xã hội

Tính hệ thống là thuộc tính hàng đầu của văn hóa.  Khi nói đến đặc trung của văn hóa ta đã nêu lên
tính chất này để lưu ý rằng đây là một thuộc tính bản chất, thể hiện mối liên hệ khăng khít hữu cơ,
sự xâm nhập, tương tác, chi phooisvaf chế ước lẫn nhau giữa các thành tố văn hóa cùng tạo nên diện
mạo, sức sống và bản chất sâu xa của 1 nền văn hóa.  Văn hóa với tư cách là 1 hiện tượng xã hội,
thẩm thấu, hiện diện và bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhờ tính hệ thống mà thực hiện
được chức năng tổ chức xã hội.  Đây là một chức năng quan trọng, nó duy trì kết cấu xã hội, thực
hiện sự liên kết và tổ chức đời sống cộng đồng thông qua các thiết chế xã hội-văn hóa. Thiết chế xã
hội là 1 chức năng hoạt động xã hội được đặt ra để duy trì và phát triển các chức năng của xã hội,
còn được xem như là đại diện của hệ thống chuẩn mực xã hội, vận hành trong mọi sinh hoạt kinh tế,
chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn hóa-xã hội…
* Chức năng điều tiết xã hội

Đặc trưng quan trọng thứ 2 của văn hóa là tính giá trị.  Hiểu một cách ngắn gọn thì giá trị là những
chuẩn mực được cộng đồng thừa nhận và theo đuổi. Giá trị là nhân tố quan trọng của hành vi cá
nhân. Nó điều chỉnh các nguyện vọng và hành động của 1 con người, là cơ sở để đánh giá hành vi
và định đoạt lợi ích xã hội của các thành viên trong cộng đồng. Do đó giá trị xác định các tiêu chuẩn
của thang bậc xã hội, làm nền tảng cho cuộc sống chung. 
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có nhiều nhu cầu và họ phải thường
xuyên lựa chọn các phương thức ứng xử thích hợp nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Sự lự
chọn đó giống như 1 hành động giá trị có liên quan mật thiết với tiêu chuẩn của khung giá trị chung
của cộng đồng. Với mức ổn định lớn, khung giá trị này là cơ sở để các thành viên trong cộng đồng
lựa chọn các phương thức hoạt động, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu và
chuẩn mực của xã hội. Nền văn hó nào cũng có 1 bảng giá trị được coi như bộ chỉnh của xã hội.
Bảng giá trị xã hội làm nhiệm vụ định hướng cho mục tiêu phấn đấu của mỗi các nhân và cộng
đồng…Căn cứ vào đó mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng lọc điều chỉnh để duy trì sự ổn định
và không ngừng tự hoàn thiện, văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ 2 là điều tiết xã
hội. 
* Chức năng giáo dục

Đặc trưng quan trọng thứ 3 của văn hóa đó chính là tính lịch sử. Văn hóa là sản phẩm của hoạt động
con người, chứa đựng vốn kinh nghiệm xã hội. Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ
cũng hình thành trong 1 quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa
một bề daỳ, 1 chiều sâu. Nó tạo nên các trầm tích và truyền thống văn hóa. Nhờ đó, văn hóa thực
hiện được chức năng giáo dục. Nhân cách con người được tạo dựng và hun đúc, trước hết bởi các
giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng. Một đứa trẻ mới sinh chưa thực sự là con người bởi nó
chưa tiếp nhận được 1 phẩm chất xã hội nào của loài người truyền cho cả. Đúng như nhà xã hội học
người Mĩ R. E Pacco đã nói :” Người k đẻ ra người.  đưa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo
dục. Truyền thống văn hó luôn thực hiện chức năng giáo dục của mình đối với con người. Bằng con
đường giáo dục hữu thức và vô thức từ khi chào đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được
sự dạy bảo của truyền thống văn hóa. 
Trong các chức năng của văn hóa thì chức năng giáo dục là chức năng bao trùm nhất. Nó đóng vai
trò định hướng giá trị, chuẩn mực xã hội cho con người, quyết định việc hình thành và phát triển
nhân cách con người. Từ chức năng này mà văn hóa phát sinh thêm chức năng là đảm bảo tính kế
tục lịch sử. Các chức năng khác như nhận thức, thẩm mĩ, dự báo, giải trí có thể coi như là những
tiểu chức năng hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng giáo dục của văn hóa. 
*Chức năng giao tiếp

Đặc trưng thứ 3 của văn hóa là tính nhân bản (nhân sinh). Đây là thuộc tính cốt lõi của văn hóa. Nó
cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng xã hội với các giá trị tự nhiên. văn hóa là cái tự nhiên
được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính chất như
khai khoáng, đẽo gỗ hoặc tinh thần như đặt tên, tạo truyền thống cho các cảnh quan thiên nhiên. 
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, , văn hóa trở thành 1 công cụ
giao tiếp quan trọng. Thông qua ngôn ngữ, chữ viết, con người tiếp xúc với nhau, trao đổi với vói
nhau, thông báo cho nhau, yêu cầu hoặc tiếp nhận ở nhau các thông tin cần thiết về hoạt động của
cộng đồng.. Cùng với ngôn ngữ và vượt lên trên tính trực tiếp của ngôn ngữ, văn hóa bằng hệ thống
các giá trị chi phối cách ứng xử và giáo tiếp của cá nhân với bản thân, gia đình và cộng đồng.   Mọi
nền văn hóa đều hướng đến con người, vì cuộc sống của con người và cộng đồng. Nhờ đặc điểm
chung này, văn hóa còn đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa các thế hệ, các dân tộc, quốc gia, tạo nên
sự tiếp xúc, giao lưu giữa các nền văn hóa. Bằng tính vị nhân sinh, văn hóa thực hiện hiện được
chức năng thứ 4 của mình đó là chức năng giao tiếp. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì
văn hóa là nội dung của nó.  Văn hóa được coi là sợi dây nối liền nhân dân các nước và các dân
tộc…Sự hiểu biết lẫn nhau, sự học tập và tôn trọng lẫn nhau xưa nay đều thể hiện sâu sắc qua văn
hóa, nơi tập trung những biểu hiện rực rỡ nhất của tâm huyết và sức sáng tạo của con người. 

You might also like