You are on page 1of 40

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP NHÓM


MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ BÀI:

Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về giải quyết

các vấn đề xã hội ở nước ta trong thời kỳ Đổi mới từ 1986 đến nay

Giảng viên hướng dẫn : Lê Thị Hồng Thuận


Nhóm thực hiện : Nhóm 5
Lớp học phần : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 30
Lớp chuyên ngành : Kinh doanh thương mại 62A

Hà Nội – 2022

1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT Họ và tên Mã sinh viên


1 Nguyễn Phương Quỳnh 11203381
2 Nguyễn Thị Quỳnh 11203387
3 Trương Ngọc Sáng 11206775
4 Phan Minh Tâm 11203486
5 Bùi Phương Thảo 11203602
6 Đào Thị Phương Thảo 11206902
7 Đồng Quỳnh Thơ 11207027
8 Lâm Hoài Thu 11207037
9 Lê Thị Thu 11203801
10 Trần Thanh Thuận 11203853

MỤC LỤC
2
Trang bìa Trang
Danh sách thành viên
Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG........................................5
1.1. Khái quát những lý luận về xã hội........................................................................5
1.1.1. Hình thái kinh tế - xã hội.................................................................................5
1.1.2. Xã hội thời kỳ quá độ........................................................................................5
1.2. Bối cảnh xã hội những năm 1975 – 1986..............................................................6
1.2.1. Bối cảnh quốc tế...............................................................................................6
1.2.2. Bối cảnh trong nước.........................................................................................8
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT
CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI.................................................................................................12
2.1. Diễn biến các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 - nay.........................12
2.1.1. Đại hội VI (15/12/1986 – 18/12/1986)............................................................12
2.1.2 Đại hội VII (24/6/1991 – 27/6/1991)...............................................................12
2.1.3. Đại hội VIII (28/6/1996 – 1/7/1996)...............................................................14
2.1.4. Đại hội IX (19/4/2001 – 22/4/2001)................................................................15
2.1.5. Đại hội X (18/4/2006 – 25/4/2006).................................................................15
2.1.6. Đại hội XI (12/1/2011 – 19/1/2011)................................................................17
2.1.7. Đại hội XII (20/1/2016 – 28/1/2016)..............................................................19
2.1.8. Đại hội XIII (25/1/2021 – 2/2/2021)...............................................................20
2.2. Những đổi mới trong quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội qua
từng thời kỳ................................................................................................................. 21
2.2.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội..........................22
2.2.2. Chính sách xã hội ngày càng gắn với việc đảm bảo các quyền cơ bản của
người dân..................................................................................................................23
2.2.3. Những nhận thức mới trong từng lĩnh vực Lao động, Người có công và Xã
hội............................................................................................................................. 24
2.2.3.1. Lĩnh vực việc làm..........................................................................................24
2.2.3.2. Lĩnh vực tiền lương.......................................................................................26
2.2.3.3. Lĩnh vực Quan hệ lao động...........................................................................27
2.2.3.4. Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp....................................................................28
2.2.3.5. Chăm sóc toàn diện người có công với cách mạng.......................................29
3
2.2.4. Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo; chăm sóc, bảo vệ tốt hơn các nhóm xã
hội yếu thế; thực hiện bình đẳng giới; kiểm soát tác hại của tệ nạn xã hội...........30
2.2.4.1. Lĩnh vực giảm nghèo....................................................................................30
2.2.4.2. Lĩnh vực trợ giúp xã hội...............................................................................30
2.2.4.3. Lĩnh vực bình đẳng giới................................................................................32
2.2.4.4. Lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội.............................................................32
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ..............................................................................................33
3.1. Bài học rút ra.......................................................................................................33
3.2. Vai trò của thế hệ trẻ...........................................................................................35
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................................36
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.....................................................................................37

LỜI MỞ ĐẦU

4
Trong những năm gần đây, xã hội Việt Nam đã phát triển vô cùng mạnh mẽ và đạt
được những thành tựu nhất định, mang ý nghĩa vô cùng lớn lao với đất nước ta. Để đạt
được những thành tựu ấy, chúng ta không thể quên những bước ngoặt lịch sử đã góp phần
thay đổi xã hội nước ta qua từng thời kỳ.
Thập niên 70 và 80 của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều sự kiện chính trị, kinh tế,
xã hội diễn ra trong nhịp điệu dồn dập với tính chất vô cùng phức tạp. Từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung với chế độ quan liêu, bao cấp đến nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xã hội Việt Nam vẫn luôn không ngừng đổi mới và phát triển, đi kèm với
đó là những chủ trương của Đảng nhằm đưa ra phương hướng giải quyết các vấn đề xã
hội còn tồn đọng ở đất nước ta mà khởi đầu chính là quyết định Đổi mới của Đảng ta vào
năm 1986.
Cũng chính vì lý do trên mà nhóm em thấy rằng đề tài: “Quá trình đổi mới quan
điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986
đến nay” là một đề tài hay với nội dung khá rộng. Do trình độ có hạn nên không thể tránh
có những khiếm khuyết, những câu từ hiểu sai trong việc nghiên cứu và viết nội dung.
Rất mong được nghe đóng góp của cô để nhóm chúng em có thể hoàn thiện bài phân tích
đề tài này hơn.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG

5
1.1. Khái quát những lý luận về xã hội
1.1.1. Hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: lịch sử
xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế xã hội
đã xuất hiện trong lịch sử, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về
chất, trong đó không có giai cấp đối kháng, con người từng bước trở thành người tự do.
Bởi vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải trải qua thời kì quá độ chính trị. Mác khẳng định: ‘Giữa xã hội tư bản và
xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội
kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nên chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Lênin
cũng đã khẳng định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kì quá độ nhất định”

1.1.2. Xã hội thời kỳ quá độ


Trên lĩnh vực xã hội, do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy định nên
trong thời kì quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hội vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kì quá độ còn
tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Bởi vậy, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội
là thời kì đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư
của xã hội cũ để lại, thiếp lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động là chủ đạo.

Về xã hội thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, C.Mác cũng đưa ra quan điểm của
mình rằng đó là xã hội vừa thoát thai khỏi xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội chưa phát triển
trên cơ sở của chính nó còn mang nhiều dấu vết của xã hội cũ để lại: “Cái xã hội mà
chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở
6
của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản
chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương diện – kinh tế. đạo đức, tinh thần – còn
mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra.

Ở Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản, đặc biệt là về
khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý để phát triển xã hội, đặc biệt là để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

1.2. Bối cảnh xã hội những năm 1975 – 1986


1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Những năm 70 của thế kỷ XX được nhớ đến là thời kỳ mà các phong trào đấu
tranh vì quyền của phụ nữ, quyền của người đồng tính và cuộc khủng hoảng năng lượng
diễn ra thu hút sự chú ý của cả thế giới.

Về phong trào đấu tranh giành quyền của phụ nữ, trong suốt những năm thập niên
70, nhiều nhóm người Mỹ tiếp tục đấu tranh cho các quyền chính trị và xã hội. Từ năm
1972 đến năm 1977, sau nhiều năm vận động của các nhà nữ quyền, Quốc hội đã thông
qua Bản sửa đổi về Quyền bình đẳng (ERA) đối với Hiến pháp.

Liên quan đến vấn đề đấu tranh về quyền dành cho người đồng tính, vào năm
1976, đài truyền hình công cộng của New York, WNET (ngày nay được gọi là Kênh 13)
đã chiếu một chương trình trò chuyện trực tiếp với cộng đồng người đồng tính. Chương
trình này của đài WNET và một số chương trình khác là những tín hiệu ban đầu về một
quốc gia và một nền văn hóa đang trong quá trình chuyển đổi — một sự chuyển đổi vẫn
đang được tiến hành cho đến ngày nay.

Thập niên 70 chứng kiến hai cuộc khủng hoảng năng lượng dầu mỏ diễn ra lần
lượt vào 1973 và 1979. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, hay còn gọi là cuộc khủng
hoảng dầu mỏ đầu tiên, bắt đầu vào tháng 10/1973 khi những thành viên của Tổ chức Các
nước Xuất khẩu Dầu mỏ Ả Rập (OAPEC) do Ả Rập Xê Út dẫn đầu tuyên bố cấm vận
dầu mỏ với một số nước. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ 2 bắt đầu vào năm 1979, với
nguyên nhân là sự sụt giảm sản lượng dầu sau cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran. Vào năm

7
1980, sau khi Chiến tranh Iran-Iraq bắt đầu, sản lượng dầu ở Iran giảm mạnh và sản
lượng dầu của Iraq cũng giảm đáng kể. Điều này gây ra suy thoái kinh tế trên toàn thế
giới, khi giá dầu tăng cao và không trở lại mức trước khủng hoảng cho đến giữa những
năm 1980.

Những vấn đề xã hội được quan tâm trong những năm của thập niên 80 là HIV
AIDS, luật phá thai, vấn nạn lạm dụng ma túy, khủng hoảng đô thị hóa và quyền bình
đẳng cho tất cả mọi người.

Mặc dù HIV xuất hiện ở Hoa Kỳ vào khoảng năm 1970, nhưng công chúng đã
không chú ý tới căn bệnh này cho đến đầu những năm 1980. Vào tháng 9 năm 1982,
CDC lần đầu tiên đã sử dụng thuật ngữ “AIDS” để mô tả căn bệnh này. Vào cuối năm đó,
các trường hợp mắc AIDS cũng đã được báo cáo ở nhiều nước Châu Âu.

Về luật phá thai, tại Mỹ, các phán quyết của Tòa án Tối cao năm 1973 công nhận
rằng phụ nữ có quyền theo hiến pháp để quyết định phá thai hay tiếp tục mang thai trong
khi phán quyết của Tòa án Tối cao năm 1980 tuyên bố rằng hiến pháp không bắt buộc
các chính phủ liên bang và tiểu bang phải tài trợ bằng ngân quỹ để đảm bảo rằng phụ nữ
có thể thực hiện quyền được phá thai của mình. Vì công chúng có nhiều quan điểm khác
nhau về chủ đề này, nên các cuộc tranh luận về luật phá thai trong các cơ quan lập pháp
khắp cả nước đã diễn ra vô cùng căng thẳng.

Liên quan đến vấn đề lạm dụng ma túy, vào năm 1985, một phần ba người Mỹ cho
biết họ đã từng thử sử dụng cần sa trong cuộc sống thường ngày. Vào giữa những năm
80, sự ra đời của ma túy đá đã biến việc sử dụng ma túy ở thanh thiếu niên trở thành một
vấn đề thực sự đáng sợ.

Những thập niên 70 và 80 đã chứng kiến 18 trong số 25 thành phố lớn nhất của
Mỹ mất dần dân số. Ngược lại, trong cùng những năm đó, dân số của các vùng ngoại ô
độc lập lại ghi nhận được hơn sáu mươi triệu người dân sinh sống. Với mức thuế quá cao
thì không một doanh nghiệp nào muốn tìm cơ hội kinh doanh ở các khu đô thị và điều
này khuyến khích tầng lớp trung lưu di chuyển sang những khu ngoại ô. Kết quả của xu
hướng này là những cư dân nghèo ở nhiều thành phố có xu hướng tăng.

8
Phụ nữ, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ bản địa (còn được gọi là người Anh
điêng/người Mỹ da đỏ) và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội khác tiếp tục đấu tranh
cho quyền bình đẳng của mình.

Vào cuối những năm 1970 và đặc biệt là trong những năm 1980, phân phối tiền
lương của Hoa Kỳ ngày càng bất bình đẳng hơn. Những người có trình độ học vấn thấp,
đặc biệt là những người không có bằng đại học thấy rằng mức lương của họ bị giảm so
với những người có trình độ học vấn tốt hơn. Công nhân sản xuất trong các nhà xưởng bị
ảnh hưởng nặng nề đặc biệt là những công nhân da màu – những người không được tiếp
cận với nền tảng giáo dục tốt. Thập niên 70 và 80 cũng chứng kiến người Mỹ bản địa lấy
lại quyền lợi của mình. Họ tổ chức những lớp học để dạy thế hệ trẻ về quá khứ của tổ tiên
cũng như đứng lên đấu tranh giành lại mảnh đất quê hương bị cướp mất.

Từ cuối năm 1988, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông u ngày càng chao đảo, việc thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập đã
dẫn đến sự phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng, chĩa mũi nhọn công kích vào Đảng
Cộng sản và chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo rắc những tư tưởng hoài nghi, bi quan, dao
động với chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, cuộc Cách mạng khoa học-kĩ thuật đã mang đến tác
động vô cùng mạnh mẽ và trở thành xu thế trên toàn thế giới.

1.2.2. Bối cảnh trong nước


Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (từ cuối những năm 70 - giữa những năm 80 của thế
kỷ trước). Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976 – 1980 và 1981 – 1985),
Việt Nam đạt được những kết quả nhất định song cũng gặp nhiều khó khăn, do nhiều
nguyên nhân, chủ yếu là do những sai lầm chủ quan như đặt quá nhiều kỳ vọng vào phát
triển kinh tế nhờ vào những ưu thế hiện có và sẵn có của đất nước về điều kiện tự nhiên,
điều kiện kinh tế của hai miền Nam - Bắc và chiến lược phát triển kinh tế đi theo con
đường kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Ngoài ra vào thời điểm đó, hoàn cảnh
quốc tế cũng không thuận lợi khi cơ chế kế hoạch hóa tập trung khiến kinh tế Liên Xô bắt
đầu có dấu hiệu khủng hoảng. Trong quan hệ quốc tế, Mỹ và nhiều quốc gia châu Âu
thực hiện cấm vận kinh tế với Việt Nam.

Tất cả những điều trên đã làm cho sản xuất nông - công nghiệp đình đốn. Lưu
thông, phân phối ách tắc. Lạm phát ở mức ba con số, tem phiếu phân phối thiếu thốn,

9
nhân dân sống trong cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm. Đời sống của các tầng lớp
nhân dân sa sút chưa từng thấy.

Tình hình diễn biến xấu đến mức, vào khoảng từ cuối năm 1985 đến cuối năm
1986, nghĩa là sau thất bại của cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền (9-1985), đại đa số
quần chúng nhân dân cảm thấy không thể tiếp tục sống như cũ được nữa; đồng thời các
cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước cũng thấy rõ không thể tiếp tục duy trì
những chủ trương, chính sách đã lỗi thời. Từ đó, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đồng ý
với quan điểm phải bãi bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và Đại hội VI của Đảng đã được tổ chức vào tháng 12
năm 1986 với tinh thần đổi mới kinh tế - xã hội.

Sự thiếu thốn thời bao cấp còn góp phần khiến cho nạn ăn cắp vặt nảy sinh. Nạn
ăn cắp vặt trở nên phổ biến toàn dân, nên các cửa hàng mậu dịch luôn đối mặt với nỗi sợ
mất mát đồ đạc.

Ăn cắp thời đó đã trở nên rất tinh vi, tới nỗi hình thành nên một khái niệm là
“nghệ thuật móc túi siêu đẳng”… Rất nhiều kẻ cắp lão luyện thường xuyên trà trộn vào
các dãy xếp hàng rồng rắn lên mây, vờ như xô đẩy người khác hay bị xô đẩy, để rồi lợi
dụng lúc xô đẩy đó mà áp sát đối tượng để “móc túi” một cách “nghệ thuật”. Không
những thế, căn bệnh ganh tỵ và kèn cựa cũng trở nên trầm kha hơn ở các cơ quan đoàn
thể vì sống theo chế độ tập thể khiến ai cũng coi sự công bằng tuyệt đối là một chân lý,
họ bị méo mó tính cách vì tin vào điều đó. Tình cảnh éo le trên càng củng cố cho lập
trường đổi mới nhằm loại bỏ chế độ quan liêu, bao cấp, chuyển sang chế độ kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần của Tổng Bí thư Trường Chinh.

Sau giải phóng, nổi lên còn là sự kiện bọn phản động Khơ Me đỏ do Pôn Pốt cầm
đầu ở Campuchia gây chiến tranh biên giới Tây Nam. Từ ngày 3/5/1975 chúng đã đưa
quân ra đánh đảo Phú Quốc và từ năm 1976, Pôn Pốt tác động trực tiếp vào Tây Nguyên.
Trong khi đó, ở phía Bắc, từ năm 1978, Trung Quốc với tâm thế ủng hộ Pôn Pốt đã tổ
chức khiêu khích dọc biên giới phía Bắc và tiến hành chiến dịch “nạn kiều” đẩy mạnh
việc tuyên truyền chống Việt Nam.

Ngoài ra, Trung Quốc còn tìm cách móc nối, giúp đỡ tổ chức FULRO hoạt động
chống phá ta. FULRO là tên viết tắt của tổ chức Front Unifié de Lutte des Races

10
Ompprinés - Mặt trận thống nhất tranh đấu của các dân tộc bị áp bức ra đời do âm mưu
của Pháp muốn thông qua bọn tay sai ở vùng dân tộc để nắm Tây Nguyên.

Năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, FULRO - dưới sự giật dây, hỗ trợ
của các ông chủ từ xa, tiếp tục tổ chức quấy phá chống lại nước ta. Trong thời gian từ
năm 1979-1985, hoạt động FULRO đã phá hoại cuộc sống bình yên của các thôn ấp,
buôn làng, giết hại nhiều cán bộ, công an, dân quân và quần chúng tốt. Nhưng lực lượng
công an, quân đội ta được nhân dân các đồng bào dân tộc ủng hộ đã đẩy mạnh công tác
nghiệp vụ, đấu tranh thắng lợi trong hàng chục chuyên án, làm tan rã nhiều nhóm
FULRO và đưa họ trở về với cộng đồng.

Mặt khác, tổ chức FULRO có liên quan một số chức sắc, truyền đạo Tin lành, nên
sau giải phóng, trên toàn địa bàn Tây Nguyên ta đã đóng cửa 117/124 nhà thờ Tin lành và
cho 25 Mục sư và 13 Truyền đạo sinh cải tạo.

Ngoài ra thời kỳ này cũng chứng kiến nhiều chủ trương mới về văn hóa, giáo dục
và y tế. Thời bao cấp tại Việt Nam là thời kỳ khép kín và nghi kị về mặt xã hội và chính
trị đối với người nước ngoài. Người dân ít được tiếp xúc văn hóa phương Tây, văn học,
phim, nhạc... đều được Nhà nước kiểm soát. Văn chương chủ yếu tuyên truyền cho chủ
nghĩa xã hội - cộng sản, tinh thần yêu nước, tinh thần tập thể, yêu lao động, tinh thần
quốc tế. Các phim Việt Nam chủ yếu tuyên truyền chiến đấu, sản xuất, một số tác phẩm
văn học hiện thực phê phán trước 1945 được chuyển thể. Nhà nước ta còn đặc biệt chú
trọng chống mê tín dị đoan, phổ biến khoa học.

Ngoài ra, Nhà nước cũng khá thận trọng với người phương Tây, người nước ngoài
vì khác biệt tư tưởng và các vấn đề an ninh. Giáo dục, y tế được bao cấp dù khá nghèo
nàn về trang thiết bị. Người dân đi khám chữa bệnh hay mua thuốc rồi mang hóa đơn về
cơ quan hay bệnh viện thanh toán mà không mất tiền, song điều kiện chữa trị vô cùng
thiếu thốn. Về giáo dục, học sinh được đi học miễn phí, sinh viên ra trường đều có việc
làm nhưng chịu sự phân công của nhà nước, không được tự lựa chọn công việc, không bị
thất nghiệp. Tuy nhiên thi đại học rất khó, đòi hỏi tiêu chuẩn học lực cao.

Cuối cùng, Nhà nước đã có chính sách đúng đắn đối với những người đã từng
tham gia trong bộ máy chính quyền, quân đội của chế độ cũ để họ yên tâm tham gia xây
dựng cuộc sống mới. Các công chức cấp thấp và trung cấp trong chính quyền miền Nam

11
Việt Nam cũ được yêu cầu dành vài ngày hoặc vài tuần trong các “lớp học tập cải tạo”. Ở
đó, các cán bộ cộng sản sẽ giải thích cẩn thận cho người nghe về những sai sót của họ và
cung cấp cho họ những nguyên tắc cơ bản của một xã hội cộng sản mới, những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhìn một cách tổng thể, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn 1975 – 1986 bao gồm những nội dung chính và đã đạt được những thành tựu sau:

- Một là, đưa ra quyết định bãi bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chuyển
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Chủ yếu nguyên nhân đưa ra chủ trương này là do tình hình kinh tế - xã hội không
khả quan. Bản thân đất nước ta đang lâm vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, trong
khi đó hoàn cảnh quốc tế cũng không thuận lợi khi cơ chế kế hoạch hóa tập trung khiến
kinh tế Liên Xô bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng. Trong quan hệ quốc tế, Mỹ và nhiều
quốc gia châu Âu thực hiện cấm vận kinh tế với Việt Nam. Ngoài ra, đời sống nhân dân
cũng gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn từ đó các tệ nạn xã hội đã ra đời như nạn trộm cắp
vặt... Tuy trong thời kỳ bao cấp thì Nhà nước sẽ chu cấp toàn bộ cho người dân nhưng
tình hình kinh tế Việt Nam lúc đó hết sức khó khăn do bị Mỹ cấm vận. Việt Nam vẫn
nhận được nguồn viện trợ từ Liên Xô, nhưng đã hạn chế rất nhiều. Tình hình đó buộc
Việt Nam phải cải cách, đổi mới.

- Hai là, kết hợp phát triển kinh tế với xã hội, văn hóa, giáo dục và y tế.

Thời kỳ này nước ta vẫn khá nghi kị với nước ngoài. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn cố gắng mang lại cho nhân dân một cuộc sống ấm no, vui vẻ với nhiều
chủ trương cải cách nền giáo dục, y tế. Hầu như xã nào cũng đều được xây dựng trường
học hoặc các lớp học xóa mù chữ, mọi người dân đều được tiếp cận với cơ sở y tế do Nhà
nước bao cấp. Nhà nước cũng cố gắng xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
khi lưu giữ, phát triển và truyền bá những loại hình nghệ thuật dân gian của dân tộc.

- Ba là, kiên quyết trừng trị những phần tử chống đối Đảng và Nhà nước Việt Nam
và các chủ tư sản đầu cơ tích trữ làm lũng đoạn thị trường. Tạo điều kiện cho những đồng
bào bị gom trong các ấp chiến lược hay phải di tản vào thành phố trong thời kỳ chiến
tranh được trở về quê cũ làm ăn, sản xuất.

12
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ
GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

2.1. Diễn biến các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 - nay
2.1.1. Đại hội VI (15/12/1986 – 18/12/1986)
Đại hội VI của Đảng (12/1986) lần đầu tiên nêu lên khái niệm “ Chính sách xã
hội” thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng: giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong
tổng thể đường lối phát triển của đất nước. Nội hàm của chính sách xã hội được xác định
là: Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và
sinh hoạt, giáo dục và văn hoá,quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc…

Đây là sự đổi mới về tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng
thể đường lối phát triển của Đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách
kinh tế và chính sách xã hội. Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính
sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế.

Chủ trương của Đại hội VI về lĩnh vực xã hội, tập trung vào các vấn đề: lao động
và việc làm; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; thực hiện kế hoạch hoá gia đình,
chăm lo người có công với cách mạng, phòng chống các tệ nạn xã hội... Trong đó, tư duy
mới của Đảng thể hiện thông qua các chủ trương: giải quyết chính sách xã hội là nhiệm
vụ gắn bó hữu cơ với đổi mới kinh tế; vấn đề lao động, việc làm được giải quyết gắn với
phát triển nhiều thành phần kinh tế; nâng cao đời sống của nhân dân gắn với thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn.

2.1.2 Đại hội VII (24/6/1991 – 27/6/1991)


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đã tổng kết, đánh giá
việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ
nhằm thừa kế, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó
khăn, yếu kém mắc phải trong bước đầu đổi mới; điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường
lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên.

Xuất phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII của Đảng đề ra nhiệm vụ, mục tiêu kinh
tế- xã hội của kế hoạch 5 năm 1991-1995 là :
13
- Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát

- Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.

- Ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân

- Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.

Để thực hiện mục tiêu trên, cần phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, đẩy
mạnh Ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng
cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa.

Như vậy, đại hội VII của Đảng khẳng định một số quan điểm chỉ đạo việc kết hợp
hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội. Thống nhất với mục tiêu
phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của yếu tố con người và vì con người.

Nhìn một cách tổng thể, Đảng và Nhà nước ta đã rút ra một số quan điểm như sau
nhằm giải quyết các vấn đề xã hội:

- Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.

- Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.

- Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu
cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.

- Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển
con người HDI và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.

Từ những quan điểm trên thì Nhà nước cũng đã đề xuất triển khai một số chủ
trương như sau:

- Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu
quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

- Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân,
tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

- Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả.

14
- Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ và cải thiện giống
nòi.

- Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.

- Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.

- Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.

Qua hơn 20 năm đổi mới, lĩnh vực phát triển xã hội đã đạt nhiều thành tựu. Một xã
hội mở đang dần dần hình thành với những con người, dám nghĩ dám chịu trách nhiệm,
không chấp nhận đói nghèo, lạc hậu, biết làm giàu, biết cạnh tranh và hành động vì cộng
đồng, vì Tổ quốc. Cách thức quản lý xã hội dân chủ, cởi mở hơn, đề cao pháp luật hơn.

2.1.3. Đại hội VIII (28/6/1996 – 1/7/1996)


Đại hội xác định nhiệm vụ là thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, quá độ lên CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN. Đại hội đã đánh dấu cột mốc phát
triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Đồng thời, Đảng đã đề ra
những quan điểm chỉ đạo việc hoạch định hệ thống chính sách xã hội, đó là:

- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và suốt quá trình phát triển.

- Thứ hai, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực
khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với
chính sách điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động.

- Thứ ba, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm
nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các
dân tộc, các tầng lớp dân cư.

- Thứ tư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền
ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu, thủy chung”...

- Thứ năm, các vấn đề chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần xã hội.

2.1.4. Đại hội IX (19/4/2001 – 22/4/2001)

15
Đại hội IX đã mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến
vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đảng không nhắc lại các quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, nhưng nhấn mạnh
“Thực hiện các chính sách xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực
hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng
suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân
dân làm giàu hợp pháp” và “Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội
hoá, đề cao tinh thần trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong
nhân dân, các tổ chức xã hội”.

Đồng thời Đại hội IX cũng chỉ ra những nhiệm vụ, mục tiêu của từng lĩnh vực cụ
thể cần tập trung giải quyết trong những năm tới là: giải quyết việc làm là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của chính sách xã hội; tiền lương và thu nhập; xoá đói, giảm nghèo; đền
ơn đáp nghĩa; uống nước nhớ nguồn; xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội; chính sách dân số;
chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chính sách chăm sóc và bảo vệ trẻ em;
phong trào toàn dân tập luyện thể dục, thể thao; phong trào toàn dân đấu tranh phòng
chống tội phạm...

2.1.5. Đại hội X (18/4/2006 – 25/4/2006)


Đại hội lần thứ X của Đảng (2006-2010) : Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn
lực, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Đại hội X (2006) đã đưa ra được mục tiêu tổng quát 5 năm tới (giai đoạn 2006 –
2010) là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đặc biệt trong đó là phát triển văn hóa; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Cụ thể:

Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở
từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển
kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Tập trung giải quyết những
vấn đề xã hội bức xúc.

16
Khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện có hiệu quả các chính
sách xoá đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát
triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững chắc ở các
vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo.

Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng
thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc
sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao...

Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hoá các loại hình cứu trợ xã
hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ
cao... Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.

Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân được
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Phát triển mạnh thể dục thể thao, kết hợp tốt thể thao
phong trào và thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại.

Làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản. Thúc đẩy phong trào toàn xã hội
chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường
an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Giảm tốc độ tăng
dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh thay thế, bảo đảm quy mô và
cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số. Phát huy những giá trị truyền thống tốt
đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.

Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động
đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người
có công với nước, người hưởng chính sách xã hội.

Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cho các chương trình mục tiêu
quốc gia về giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, dân số, gia đình, trẻ em...; quan tâm
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời phát huy tiềm năng trí tuệ
và các nguồn lực vật chất trong nhân dân, của toàn xã hội để cùng Nhà nước giải quyết
các vấn đề xã hội và chăm lo phát triển các dịch vụ công cộng.
17
Công khai mức phí tại các cơ sở dịch vụ công lập và ngoài công lập, chấm dứt các
khoản thu, chi không minh bạch và sai quy định, bảo đảm người làm dịch vụ có chế độ
thu nhập hợp lý, có lương tâm nghề nghiệp. Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công
lập về dịch vụ công cộng phát triển cả về quy mô và chất lượng, xây dựng một số cơ sở
dịch vụ đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

2.1.6. Đại hội XI (12/1/2011 – 19/1/2011)


Đại hội lần thứ XI (2011-2015) của Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước

Mục tiêu tổng quát mà Đại hội đưa ra: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát
triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ
vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Về mặt xã hội, cụ thể là:

- Một là, tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập.

Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan tâm tới yêu cầu chuyển dịch
cơ cấu lao động, giải quyết việc làm cho người lao động; tạo điều kiện giải quyết ngày
càng nhiều việc làm, đặc biệt là cho nông dân. Đổi mới phương thức, nâng cao chất
lượng dạy và học, gắn dạy nghề với nhu cầu thực tế.

Kiên quyết khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội
phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương với sắp xếp,
kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị. Gắn tiền
lương của người lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

- Hai là, bảo đảm an sinh xã hội

Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ
mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó

18
khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc
sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch
vụ công thiết yếu.

Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức xoá đói,
giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và
giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền vững.

Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống
vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn
đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng
vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến.

- Ba là, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân và công tác dân số, kế
hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.

Chú ý nhiều hơn công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Củng cố
và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao năng lực của bệnh viện tuyến huyện và
tuyến tỉnh, hiện đại hoá một số bệnh viện đầu ngành.

Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, quy
mô gia đình ít con. Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia
của toàn xã hội vào công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình.

Phát triển mạnh phong trào thể dục, thể thao đại chúng, tập trung đầu tư nâng cao
chất lượng một số môn thể thao thành tích cao nước ta có ưu thế. Kiên quyết khắc phục
những hiện tượng tiêu cực trong thể thao.

- Bốn là, đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông

Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, giáo dục cộng đồng, đề cao vai trò giáo
dục của gia đình đối với thanh, thiếu niên về tác hại của ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã
hội khác. Đấu tranh quyết liệt với việc buôn bán, sử dụng ma tuý. Đề cao trách nhiệm của
gia đình, đoàn thể và chính quyền cơ sở trong quản lý, tạo việc làm, tái hoà nhập cộng
đồng cho các đối tượng sau cai nghiện.

19
Huy động cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành triển khai tích cực, đồng bộ
các giải pháp giảm thiểu tai nạn giao thông. Nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp
luật, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật giao thông.

2.1.7. Đại hội XII (20/1/2016 – 28/1/2016)


Năm năm sau Đại hội XI, chúng ta đã có nhiều thành công, tuy nhiên đổi mới
chưa đồng bộ và toàn diện, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xã hội. Đời
sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi.

Trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm.
Đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước
nhanh, bền vững. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra chỉ tiêu quan trọng: Phát huy sức mạnh
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
Nhân dân. Cùng với đó là những nhiệm vụ giải quyết vấn đề xã hội cụ thể như sau:

- Một là, thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của Nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng
cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an
sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững.

- Hai là, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các
quan điểm. Đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát
triển đất nước nhanh, bền vững.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách
thức, nhất là tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu do đại
dịch COVID-19; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đoàn kết, chung sức, đồng lòng nỗ
lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, đạt được nhiều thành tựu rất
quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật có thể kể đến như sau:

- Các lĩnh vực xã hội, môi trường có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân được cải
thiện đáng kể.

20
- Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và
"chống", có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường,
mối quan hệ phối hợp ngày càng chặt chẽ, đồng bộ. Chính trị - xã hội ổn định.

Đặc biệt, trong năm 2020, đại dịch COVID-19 gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế -
xã hội, song nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, đất nước ta đã từng
bước kiểm soát có hiệu quả đại dịch COVID-19; từng bước phục hồi sản xuất, kinh
doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội; ổn định đời sống nhân dân; góp phần củng cố,
tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa;
khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta.

2.1.8. Đại hội XIII (25/1/2021 – 2/2/2021)


So với Đại hội XII, số lượng các văn kiện được Đại hội XIII của Đảng thảo luận
và thông qua nhiều hơn, phạm vi rộng hơn, nội dung phong phú, toàn diện, sâu sắc hơn.

Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện và sâu sắc về công tác xây dựng Đảng
trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đại hội XIII khẳng định: “Công tác xây dựng Đảng trong
nhiệm kỳ này đã đạt được kết quả toàn diện, trong đó nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh
giản biên chế của hệ thống chính trị; đổi mới công tác cán bộ và ngăn chặn tình trạng
chạy chức, chạy quyền; tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Kết
quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII
đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như
ngày nay; Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân
dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước
phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới”

21
Về tầm nhìn và định hướng phát triển dài hạn trong tương lai, Đại hội XIII đã đưa
ra được những quan điểm sau:

- Một là, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi.

- Hai là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền
văn hóa, con người Việt Nam.

- Ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự
chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là
quan trọng nhất.

- Bốn là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công
nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Trong đó, tập trung vào phát triển xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội giai đoạn
2021 - 2030, Đại hội XIII cũng đã đưa ra được những định hướng nhất định:

- Một là, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài.

- Hai là, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và
bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu
hàng đầu.

- Ba là, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
tội phạm và tệ nạn xã hội.

- Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ
cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm

22
vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị
nội bộ.

2.2. Những đổi mới trong quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội qua
từng thời kỳ
Trước thời kỳ Đổi mới, các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình dân chủ
nhân dân. Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và
tự tổ chức, giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình. Các vấn đề xã hội được giải
quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân
phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu
xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện trợ. Sau sự kiện Giải phóng
miền Nam, Thống nhất Đất nước, các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu, bao cấp trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế -
xã hội nghêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, bị cấm vận.

Tuy nhiên, từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhận thức mới về
các phương pháp giải quyết các vấn đề xã hội qua các văn kiện đại hội Đảng.

2.2.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội
Đại hội VI lần đầu tiên đưa ra quan điểm phải giải quyết các vấn đề xã hội được
đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước.

Văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Kết hợp hài hòa giữa phát
triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển
kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã
hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”

Tại Đại hội VIII (1996), Đảng ta đã bổ sung hai quan điểm quan trọng là “Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
trong suốt quá trình phát triển” và “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện
công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những
vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”.

Trong giai đoạn 2001-2005, việc tiếp tục thực hiện công bằng xã hội thể hiện qua
quan điểm chính là tạo chuyển biến mạnh về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ,

23
phát huy nhân tố con người, tạo việc làm và cơ bản xóa đói giảm nghèo. Văn kiện Đại
hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”

Đại hội lần thứ X, Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khi coi đây là một
trong những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội Đảng
nêu: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng
lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”

Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ chính sách
kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện
phát triển toàn diện”

Văn kiện Đại hội XIII cũng nêu rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã
hội. Điểm mới nổi bật chính là trong quan hệ này bổ sung nhân tố xã hội. Trong đó cũng
nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nhà nước
thực hiện chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ
chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Các tổ chức xã hội
có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các
thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể,
đối tác khác, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích
của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính
sách của Nhà nước, giám sát cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc
thực thi pháp luật.

2.2.2. Chính sách xã hội ngày càng gắn với việc đảm bảo các quyền cơ bản của người
dân

24
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991)
được thông qua trong Đại hội VII khẳng định mục tiêu “xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” đồng thời “xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Đảng ta khẳng định: “quyền con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội”.

Theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta xác định: 'Chăm lo
cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả mọi người; tôn trọng và thực
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết tham gia'

Đại hội X của Đảng tiếp tục vạch ra đường lối phát huy dân chủ, khẳng định “dân
chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”, đồng thời nhấn mạnh việc “xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân”

Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong Nghị quyết Đại hội XII, nhiệm vụ năm:
“Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý
phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội,
nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” càng thể hiện rõ quan điểm mới về xây
dựng, phát triển con người của Đảng ta.

Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý
chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc”. Cách thức triển khai đưa văn kiện Đại hội XIII (văn kiện)
vào cuộc sống là lồng ghép, tích hợp cách tiếp cận dựa trên quyền con người vào cách
tiếp cận chính trị - xã hội.

2.2.3. Những nhận thức mới trong từng lĩnh vực Lao động, Người có công và Xã hội
2.2.3.1. Lĩnh vực việc làm
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định: “Phương hướng quan
trọng nhất để giải quyết việc làm là thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, coi
trọng cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ với phân

25
bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới, hình thành các cụm
kinh tế-kỹ thuật-dịch vụ nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ, đồng thời mở rộng xuất
khẩu lao động. Đa dạng hoá việc làm và thu nhập để thu hút lao động của mọi thành phần
kinh tế. Giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc
mọi thành phần kinh tế, của từng gia đình, từng người, với sự đầu tư của Nhà nước, các
đơn vị kinh tế và nhân dân. Có chương trình đồng bộ giải quyết việc làm. Sớm ban hành
Luật Lao động và các quy chế cụ thể để đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của
người lao động và người sử dụng lao động"

Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Nhà nước tạo môi trường
thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển, tạo
ra nhiều chỗ việc làm mới; phát triển các cơ sở dạy nghề và dịch vụ về việc làm; mở rộng
quỹ quốc gia giải quyết việc làm và huy động các nguồn khác để trợ giúp ban đầu cho
người lao động tự tạo việc làm có thu nhập”, "… nhanh chóng triển khai Chương trình
quốc gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tự tìm việc
làm. Mỗi năm thu hút thêm 1,3 -1,4 triệu lao động làm việc. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị xuống dưới 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%".

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta xác định rõ các mục tiêu
về việc làm: “Tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận trực tiếp về đào tạo và việc làm cho mỗi
công dân, khuyến khích người lao động học tập, đào tạo và tự kiếm việc làm…”

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 trong định hướng phát triển về văn hóa, xã hội tiếp
tục khẳng định: “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông,
lâm, ngư nghiệp xuống dưới 50% vào năm 2010. Tăng tỷ trọng lao động công nghiệp,
xây dựng và đặc biệt là lao động ở khu vực dịch vụ trong tổng lao động xã hội. Ưu tiên
dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các
loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm
cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hóa và công
nghiệp hóa”

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển đất nước 5 năm (2011-2015) là: “Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tỉ trọng
26
lao động nông- lâm- thuỷ sản năm 2015 chiếm 40-41% lao động xã hội...”. Trong đó, văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định lao động, việc làm và thu
nhập cho người dân là trụ cột quan trọng của chính sách xã hội, từ đó xác định mục tiêu
“Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỉ lệ
lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Tỉ lệ
thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%”

Báo cáo chính trị Đại hội XIII bổ sung ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công
tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở chú trọng nâng cao, tạo bước
chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế
tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và
phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần
đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2.2.3.2. Lĩnh vực tiền lương


Tại Đại hội VII, Đảng đưa ra yêu cầu đối với chính sách tiền lương. Theo đó, lần
đầu tiên tiền lương được coi là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận
giữa người lao động và người sử dụng lao động phù hợp với quan hệ trong nền kinh tế thị
trường. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 và 8, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII và Hội
nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa IX tiếp tục quán triệt “phải quán triệt
quan điểm tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước”; “Coi việc trả
lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế
phát triển, trả lương đúng cho người lao động chính là thực hiện đầu tư cho phát triển”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; Nghị
quyết Trung ương 9 khoá IX và Nghị quyết Đại hội X của Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước khẳng định “Doanh
nghiệp được tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp”; “Nhà nước có cơ chế khuyến khích
thoả đáng về vật chất, tinh thần đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp căn cứ vào mức độ
đóng góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời có chế tài phù hợp để xử lý
những cán bộ quản lý doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả do nguyên nhân chủ quan”.

27
Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục khẳng định “Tiền lương, tiền công phải được coi là
giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Tầm quan trọng của chính sách tiền lương đã được thể hiện thành Nghị quyết số 27-
NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang và người lao động trong doanh nghiệp, trong đó khẳng định: “Chính sách tiền lương
là một chính sách đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế-xã hội. Tiền lương
phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống người lao động và gia đình người
hưởng lương; trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng
cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội; thúc đẩy, nâng
cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững”.

2.2.3.3. Lĩnh vực Quan hệ lao động


Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 được Đại hội toàn Quốc
lần thứ VII của Đảng thông qua đã chỉ rõ: "Dân chủ hoá đời sống xã hội; quyền công dân,
quyền con người và tự do cá nhân được bảo đảm bằng pháp luật, được thực hiện trong
khuôn khổ pháp luật và chỉ bị ràng buộc bởi pháp luật"..."Ban hành Luật lao động, bảo
đảm cho mọi người làm chủ sức lao động của mình. Trong khuôn khổ luật pháp, mọi
người được tự do học nghề và hành nghề, lựa chọn việc làm và nơi làm việc, thuê mướn
nhân công".

Báo cáo Chính trị tại đại hội lần thứ IX của Đảng 2001-2005: "Mở rộng thị trường
lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao
động và của người sử dụng lao động". Báo cáo Chính trị tại đại hội lần thứ X của Đảng
2006-2010: "Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức lao động nhằm
bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động; thực hiện rộng
rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của cả người lao động và người sử
dụng lao động".

Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011): " Chế độ hợp đồng lao
động được mở rộng, áp dụng phổ biến cho các đối tượng lao động."; "tăng cường thanh
tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật lao động, đưa việc thi hành pháp luật
lao động vào nền nếp; xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hoà, tiến bộ".
28
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về thực hiện có
hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối
cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới xác định một trong các
chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội là “Hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các
quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và những vấn đề mới phát sinh từ quá trình
thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng định hướng hoàn thiện quan hệ phân phối bảo
đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển, phù hợp với cơ chế thị trường. Đó là một
trong những yêu cầu để định hướng tới nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp nhằm đạt mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

2.2.3.4. Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp


Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã nêu định hướng cơ bản về GD-ĐT, trong đó
khẳng định vai trò then chốt của GD-ĐT, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có
tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo; đồng thời xác định
những định hướng lớn như mở rộng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân lành
nghề; sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề … Nghị quyết Trung ương 2 Đại hội Đảng lần thứ
VIII (1996) về Định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH-HĐH đã
nhấn mạnh thực sự coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu.

Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã nâng tầm nhận thức của Đảng về GD-ĐT, coi
GD-ĐT là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, thực
hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước
trở thành một xã hội học tập”. Tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006), nhận thức của Đảng về
GD-ĐT đã nâng lên tầm cao mới khi đề ra định hướng đổi mới toàn diện GD-ĐT với
những quan điểm, định hướng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ
chức, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Tư duy về GD-ĐT, trong đó có đào tạo nghề đã
có sự thay đổi hướng tới chất lượng và hội nhập với thế giới.

Tại Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), Đảng đã quyết định Đổi mới căn bản và toàn
diện GD-ĐT theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập
quốc tế. Văn kiện Đại hội XII (2016) của Đảng xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo
29
dục, đào tạo; lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan điểm GDNN phải gắn với chiến lược phát
triển nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực là đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh, phát triển khoa học và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng và tăng lợi thế cạnh tranh.

Các cấp uỷ Đảng, chính quyền phải quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về vai trò, vị trí của giáo dục nghề nghiệp trong
phát triển nguồn nhân lực và trong chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực của đất
nước thời kỳ 2021 - 2025 để chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực của Bộ,
ngành địa phương và tổ chức thực hiện.

2.2.3.5. Chăm sóc toàn diện người có công với cách mạng
Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh,
gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của
Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào
quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có
công với cách mạng”. Đến Đại hội VIII, Đảng chỉ rõ: “Tổ chức tốt việc thi hành Pháp
lệnh về người có công, bảo đảm cho những người có công với đất nước và cách mạng có
đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú;
bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự
nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc thương binh, gia
đình liệt sĩ...”. Tại Đại hội IX, Đảng đặt ra yêu cầu: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình
chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính
sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa
phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và cá nhân các đối tượng
chính sách tự vươn lên”.

Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) khẳng định “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng
với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia
đình có công….Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia
phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức
sống trung bình của dân cư tại địa bàn”. Đến Đại hội XII (2016), Đảng ta tiếp tục yêu
cầu: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công”.

30
Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng
định: “Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm cơ bản an sinh xã hội; quan tâm nâng cao
phúc lợi xã hội cho người dân; thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có
công... Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều
giảm còn dưới 3%...”. Đại hội XIII đã khẳng định trong những năm tới, tiếp tục: “Thực
hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo
chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân…”

2.2.4. Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo; chăm sóc, bảo vệ tốt hơn các nhóm xã hội
yếu thế; thực hiện bình đẳng giới; kiểm soát tác hại của tệ nạn xã hội
2.2.4.1. Lĩnh vực giảm nghèo
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), công tác giảm
nghèo được nhìn nhận và tiếp cận một cách khá toàn diện và khoa học: “Khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng
về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư”. Chủ trương Đại
hội VIII được cụ thể hoá thành các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, và tiếp tục được duy trì, phát triển trong những kỳ Đại
hội sau.

Báo cáo chính trị Đại hội IX đã xác định: “Tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng
lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng
cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng (năm 2011) đã xác định: “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo
phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm
nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) đã tiếp tục nhấn
mạnh: “Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận
phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản”. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội
XIII mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra là “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự

31
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn
hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội,
an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con
người Việt Nam”. Đảng và Nhà nước ta xác định công tác giảm nghèo bền vững là chủ
trương lớn, nhất quán, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng
và phát triển đất nước.

2.2.4.2. Lĩnh vực trợ giúp xã hội


Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII, năm 1991 chỉ rõ định hướng thực
hiện chính sách trợ giúp các đối tượng yếu thế: “Hình thành các tổ chức của người tàn tật
và vì người tàn tật, các hội từ thiện, tổ chức việc giúp đỡ người già cô đơn và trẻ em mồ
côi, những người cơ nhỡ, bất hạnh trong cuộc sống”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII, năm 1996 nhấn mạnh quan điểm tăng trưởng phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến
bộ và công bằng xã hội. "Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo từ thiện. Thực hiện các chính
sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh,
người tàn tật; xây dựng quỹ tình thương trích từ ngân sách một phần và động viên toàn xã
hội tham gia đóng góp; tiến tới xây dựng luật về bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi".
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Các chính sách xã hội được
tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy
động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể, các tổ chức xã hội".

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định “Tạo bước tiến
rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ
nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. ...Bảo vệ môi trường, chủ
động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu”. Nghị quyết số
15/NQ-TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, trong đó khẳng định: “Đến năm 2020 cơ bản hình
thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân,..., bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người
khuyết tật nặng, người nghèo…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã
hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng
bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân

32
dân”. Đồng thời cũng khẳng định:" trợ giúp xã hội là một trong bốn trụ cột của hệ thống
an sinh xã hội.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đặt ra mục tiêu trong giai đoạn
2016-2020 “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng
cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
khẳng định: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với
chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp
cho các nhóm đối tượng yếu thế” . Đây là yếu tố quan trọng góp phần phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

2.2.4.3. Lĩnh vực bình đẳng giới


Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam (1996): Đặc biệt coi trọng việc
đào tạo nghề nghiệp, giúp đỡ chị em có việc làm, phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời
sống, bảo vệ sức khỏe của phụ nữ và trẻ em.

Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) nhấn mạnh: “Tạo
điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người; Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp; Chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao
động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ; Kiên quyết đấu tranh chống
các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã coi quyền của phụ nữ là quyền con người cần được tôn trọng và
bảo đảm thực hiện trên thực tế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
Cộng sản Việt Nam (2016) khẳng định tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách bình đẳng
giới. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Phát huy truyền
thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp
phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương
trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính
33
sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp
luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”.

2.2.4.4. Lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội


Đại hội VII (1991) trên cơ sở nhận định rằng mặc dù có nhiều cố gắng và ngăn
chặn, song tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, Đảng ta đã xác định phương hướng,
nhiệm vụ chủ yếu 5 năm 1991-1995 là phải “đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội
nghiêm trọng”. Thời kỳ 1996-2000, Đảng ta chủ trương “tạo bước chuyển biến mạnh mẽ
trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn
xã hội”, nhất là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma tuý, mua bán dâm… Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng (2001-2005) đã xác định cần phải “ngăn chặn và bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là các tệ
nạn mại dâm, ma tuý và HIV/AIDS”. Đại hội X của Đảng nhấn mạnh phải “xây dựng và
hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, là hướng quan trọng và cơ bản nhất để đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ tệ nạn xã hội trong
đời sống xã hội.

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương: "Đa dạng hoá các hình thức
tuyên truyền, giáo dục cộng đồng, đề cao vai trò giáo dục của gia đình đối với thanh,
thiếu niên về tác hại của ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Đấu tranh quyết liệt
với việc buôn bán, sử dụng ma tuý. Huy động nhiều nguồn vốn, tăng cường đầu tư xây
dựng, quản lý các trung tâm cai nghiện có hiệu quả. Đề cao trách nhiệm của gia đình,
đoàn thể và chính quyền cơ sở trong quản lý, tạo việc làm, tái hoà nhập cộng đồng cho
các đối tượng sau cai nghiện...;”. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa XII đã tiếp
tục khẳng định “Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã
hội; giảm thiểu tai nạn giao thông”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiệm
vụ: “Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an
ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương…” trong đó, nội dung bảo
đảm an ninh con người là một nội dung mới được Đảng xác định trong nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.

An ninh con người là trạng thái người dân được sống ổn định, an toàn, không bị đe
dọa bởi các nguy cơ xâm hại. Để bảo đảm an ninh con người, Nhà nước phải tạo ra được
môi trường chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa... lành mạnh và phát triển. Môi trường đó
phải bảo vệ con người tránh khỏi sự xâm lăng từ bên ngoài và các tiêu cực bên trong như
34
đói nghèo, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, tội phạm, tệ nạn xã hội, sự mất an
toàn trong cuộc sống… Đây chính là mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đang
nỗ lực để đạt được.

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ


3.1. Bài học rút ra
(1) Quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Ðảng, là cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định,
hoàn thiện đường lối; đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

(2) Ðổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân
dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và
mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Xa rời, đi ngược
lại lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.

(3) Ðổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra.

(4) Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; kiên định độc lập, tự chủ, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Phải luôn coi lợi ích
quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định độc lập,
tự chủ, và đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

(5) Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
35
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác
xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

(6) Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ công bằng xã hội.

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định rõ:
“Chúng ta cần sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không
phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội” và cho rằng, phải chăng
những mong ước tốt đẹp đó chính là một trong những “giá trị đích thực của chủ nghĩa xã
hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân
dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”.

(7) Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu, mục tiêu của sự phát triển.

Tư duy về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và mục tiêu vì con người được cụ
thể hơn, hiện thực, rõ nét hơn khi gắn mối quan hệ đó trong chính sách xã hội. Theo đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để
thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục tiêu của hoạt động kinh tế.

3.2. Vai trò của thế hệ trẻ


Thứ nhất, thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập
đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu nước. Tuổi
trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong
việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng để thích
ứng với những bước phát triển mới trong khoa học và công nghệ.

Thứ hai, tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh,
tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực
dụng, xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc. Trong số các nhiệm
vụ đặt ra, . Đại hội XIII của Đảng cũng đặt ra 06 nhiệm vụ trọng tâm và 03 đột phá chiến
lược, trong đó văn hóa vẫn được xem là nền tảng tinh thần của xã hội. Đây sẽ là một
động lực quan trọng để phát huy giá trị, truyền thống của dân tộc, phát huy giá trị tốt đẹp

36
của con người Việt Nam nói chung và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng để đóng góp vào sự
phồn thịnh của đất nước.

Thứ ba, luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa
rời chính trị. Hiện nay, các thiết bị công nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội đang
ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn đến giới trẻ, bao gồm cả những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực, một trong số đó là khiến giới trẻ sống tách biệt với xã hội,
hình thành lối sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị, đi ngược với câu nói của cha ông
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam cũng phải có nhiệm vụ tự mình nâng
cao nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và Nhà nước trong việc loại bỏ các
thông tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng xã hội, tuyên truyền đến người thân,
bạn bè có cách tiếp nhận thông tin đúng đắn và phải báo cáo ngay các trường hợp phản
động, chống phá Nhà nước.

Thứ tư, biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển
của công nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội.Trong quá
trình xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ta không nên mù quáng phủ nhận tất cả
những sản phẩm chủ nghĩa tư bản đã tạo ra mà phải chắt lọc, kế thừa những thành tựu
phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Nhiệm vụ học tập khoa học, công nghệ và
hội nhập quốc tế đòi hỏi lớp thanh niên hiện nay phải nhanh chóng trang bị cho mình
năng lực hội nhập, như bản lĩnh, kiến thức, trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng, tác
phong công nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình, đồng thời phải hiểu biết
tình kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa thế giới.

37
PHẦN KẾT LUẬN
Sau khi thực hiện đề tài: “Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về giải quyết các
vấn đề xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay”, nhóm chúng em xin rút
ra một số kết luận sau:

Trải qua hơn 30 năm Đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đảng ta rút
ra là: “Trong quá trình Đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải
từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn
hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về chính sách xã hội và giải quyết các
vấn đề xã hội trong thời kỳ Đổi mới chính là quá trình phát triển nhận thức ngày càng sâu
sắc và rõ nét hơn về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội
mà trực tiếp là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và xây dựng chính sách xã hội dựa
trên cách tiếp cận về quyền con người. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ
nhận thức đúng đắn tính thống nhất và mâu thuẫn trong quá phát triển kinh tế và phát
triển xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương
đúng đắn để giải quyết các vấn đề xã hội và chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu có ý
nghĩa quan trọng góp phần xây dựng và phát triển đất nước thêm giàu mạnh và cường
thịnh hơn.

38
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Xã hội chủ nghĩa XHCN
GD - ĐT Giáo dục – Đào tạo
CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
GDNN Giáo dục nghề nghiệp

39
40

You might also like