You are on page 1of 109

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT CỦA MÔN HỌC

1. Tên môn học: LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM


2. Số đơn vị tín chỉ: 3 tín chỉ: 15 ca lý thuyết (30 tiết), 15 ca thảo luận (30 tiết)
3. Mục tiêu môn học: giới thiệu những khái niệm cơ bản về Hiến pháp, Luật Hiến pháp;
lịch sử lập hiến Việt Nam và một số chế định của Luật Hiến pháp Việt Nam như chế độ
chính trị; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; chế độ bầu cử; vị trí pháp lý, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, hình thức hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Chính quyền địa phương.
4. Phương pháp giảng dạy: dạy lý thuyết kết hợp với thảo luận
5. Phương pháp đánh giá:
Điểm đánh giá bộ phận: được đánh giá thông qua hoạt động thuyết trình và
thảo luận tại lớp theo nhóm sinh viên và cá nhân;
Điểm thi kết thúc học phần: sinh viên làm bài thi tự luận, không được sử dụng
tài liệu, thời gian 90 phút.
Điểm học phần = (Điểm đánh giá bộ phận 30%) + (Điểm thi kết thúc học phần
70%).
6. Nội dung môn học:
Bài 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LỊCH SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM
I. Khái quát về Luật Hiến pháp Việt Nam
Luật Hiến pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
1. Đối tượng điều chỉnh: các quan hệ xã hội cùng loại:

 Chế độ nhà nước (chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học – công nghệ, quốc
phòng – an ninh, đối ngoại).

 Địa vị pháp lý cơ bản của công dân (quan hệ nhà nước – công dân).

 Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

1
2. Phương pháp điều chỉnh: mỗi loại quan hệ xã hội có đặc điểm riêng  Nhà nước có
cách tác động phù hợp. Cụ thể:

 Phương pháp bắt buộc: “Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội” (khoản 2 điều 87 Hiến pháp 2013).

 Phương pháp cấm đoán: “Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” (điều 5
Hiến pháp 2013).

 Phương pháp cho phép: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào” (điều 24 Hiến pháp 2013).

 Phương pháp định hướng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội” (điều 4 Hiến pháp 2013).
3. Quy phạm pháp luật Hiến pháp: bộ phận cấu thành nhỏ nhất trong hệ thống cấu trúc
luật Hiến pháp. Đặc điểm:

 Quy phạm luật Hiến pháp chứa đựng trong Hiến pháp (nguồn chủ yếu của luật Hiến
pháp) và các văn bản pháp luật về tổ chức quyền lực nhà nước.

 Quy phạm luật Hiến pháp thường không có đủ ba bộ phận (giả định, quy định, chế
tài) mà chủ yếu chỉ có phần quy định.
4. Quan hệ pháp luật Hiến pháp

 Chủ thể: nhân dân; Nhà nước, cơ quan nhà nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị – xã hội; cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch;
người mang chức vụ nhà nước).

 Khách thể: lãnh thổ quốc gia và địa giới hành chính; giá trị vật chất, tinh thần; hành
vi của nhà nước, tổ chức và cá nhân.

 Nội dung: tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, địa vị pháp lý cơ bản của công
dân.
5. Nguồn của Luật Hiến pháp Việt Nam

 Hình thức thể hiện: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

 Nội dung: tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; địa vị pháp lý cơ bản của công
dân.

2
6. Vị trí của Luật Hiến pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam: xác lập mô hình bộ
máy nhà nước và điều chỉnh các quan hệ xã hội nền tảng  ngành luật chủ đạo = tính
khởi đầu (nội dung của pháp luật thực định) + tính tối cao (tính thứ bậc trong hệ thống
pháp luật).
 Lưu ý: Sinh viên cần phân biệt hai khái niệm: “Hiến pháp” và “Luật Hiến pháp”.
II. Lý luận về Hiến pháp
1. Sự ra đời của Hiến pháp
Thuật ngữ “Hiến pháp” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Constitutio” với ý nghĩa
là "xác lập", "thiết lập". Trong nhà nước La Mã cổ đại, các quy định của hoàng đế ban
hành dưới hình thức “Constitutio”có tính chất là một loại nguồn của pháp luật.
Ở phương Đông, từ “Hiến” được sử dụng trong Kinh Thi (thế kỷ VIII TCN) với ý
nghĩa là khuôn phép, khuôn mẫu. Thuật ngữ “Hiến pháp” còn được sử dụng trong sách
Quốc Ngữ thời Xuân thu (thế kỷ VII-VI TCN) với ý nghĩa là pháp lệnh của nhà nước
(“thưởng thiện, phạt gian, quốc chí Hiến pháp dã”).
Nhưng Hiến pháp được hiểu như ngày nay là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia để
quy định tổ chức quyền lực nhà nước, quy định các quyền con người, các quyền và các
nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ cách mạng tư sản. Sự ra
đời của Hiến pháp gắn liền với việc khẳng định thắng lợi của cách mạng tư sản, đồng thời
đánh dấu sự chấm dứt của chế độ cai trị độc đoán, chuyên quyền, sử dụng bạo lực công
khai và trắng trợn đã từng tồn tại hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, chế độ chiếm
hữu nô lệ. Trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến không hề biết tới Hiến
pháp.
Dưới chế độ phong kiến, vua hay hoàng đế, - đại diện giai cấp thống trị phong
kiến, được coi là con trời ("thiên tử"), thâu tóm trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước:
quyền đặt ra pháp luật, quyền cắt cử quan lại để cai quản đất nước, quyền xét xử tối cao.
Đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân được gọi là "thần dân" chỉ là khách thể của quyền
lực nhà nước, bị tước đoạt cả các quyền tối thiểu nhất của con người, vua cho sống thì
được sống, vua bắt chết thì phải chết.
Để hạn chế quyền lực vô hạn định của giai cấp thống trị phong kiến mà đại diện
là nhà vua, tiến tới lật đổ chế độ cai trị hà khắc, độc đoán, chuyên quyền phong kiến, giai
cấp tư sản đã phát động cuộc cách mạng tư sản, đưa ra các khẩu hiệu về: chủ quyền nhân
3
dân; về các quyền tự do, bình đẳng, công bằng, bác ái ... nên được đông đảo các tầng lớp
nhân dân ủng hộ và tham gia vào cuộc cách mạng này.
Cách mạng tư sản thắng lợi, Hiến pháp ra đời là sự kiện chính trị - pháp lý quan
trọng, khẳng định sự thống trị của giai cấp tư sản tiến bộ, đang lên và là lực lượng đại diện
cho một phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất TBCN, một chế độ cai trị mới
- chế độ dân chủ tư sản, đồng thời đánh dấu sự rút lui khỏi vũ đài chính trị của giai cấp
phong kiến cùng với chế độ cai trị độc đoán, chuyên quyền của nó.
Ở đâu cách mạng tư sản giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để, thì ở đó toàn
bộ quyền lực nhà nước được chuyển giao cho giai cấp tư sản và quyền lực này được tổ
chức bằng hình thức chính thể cộng hòa mà Hiến pháp là văn bản pháp lý chính thức ghi
nhận. Còn ở đâu, giai cấp tư sản không giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để, thì ở
đó giai cấp tư sản phải nhượng bộ và thỏa hiệp với giai cấp quý tộc phong kiến, ở đó quyền
lực nhà nước được chia sẻ giữa hai giai cấp thống trị này và hình thức chính thể quân chủ
đại nghị được ghi nhận bởi một văn bản pháp lý cũng có tên gọi là Hiến pháp (cũng vì thế
chính thể này còn gọi là "quân chủ lập hiến").
Văn bản có tính chất Hiến pháp đầu tiên ra đời trong cách mạng tư sản ở nước
Anh (1640-1654) là đạo luật năm 1653 về "Hình thức cai quản Nhà nước Anh, Xcốtlen,
Ailen và những địa phận thuộc chúng" (một trong các bộ phận hợp thành Hiến pháp không
thành văn của nước Anh), trong đó quy định hình thức tổ chức quyền lực mới. Tiếp đến
là các bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 (Hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới), Hiến
pháp của Pháp và của Ba Lan năm 1791, Hiến pháp Na-uy năm 1814, Hiến pháp Bỉ năm
1831, Hiến pháp Ác-hen-ti-na năm 1853, Hiến pháp Luych-xăm-bua năm 1868, Hiến pháp
Thuỵ Sỹ năm 1874... Đến cuối thế kỷ thứ 19, ở nhiều nước châu Âu đã có Hiến pháp và
sự ra đời các bản Hiến pháp nói trên đánh dấu bước khởi đầu lịch sử lập hiến của nhân
loại.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ có Hiến pháp và
sự hiện diện của Hiến pháp được xem là dấu hiệu pháp lý không thể thiếu của một Nhà
nước dân chủ hiện đại, mặc dù Hiến pháp không phải là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức
độ dân chủ.
2. Các giai đoạn phát triển của Hiến pháp:

4
Sự phát triển Hiến pháp trên thế giới từ khi xuất hiện cho đến nay có thể chia thành
4 giai đoạn chủ yếu sau:
a. Giai đoạn thứ nhất: Từ khi xuất hiện những bản Hiến pháp đầu tiên của các nhà nước
tư sản trong thế kỷ thứ XVIII cho đến trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
và trước khi Nhà nước XHCN đầu tiên ra đời ở nước Nga (1917):
- Sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn này diễn ra chủ yếu ở châu Âu, Bắc Mỹ. Ở
Châu Á có Hiến pháp của Nhật Bản năm 1889 (năm Minh Trị thứ 22).
- Nội dung quy định của các bản Hiến pháp ở giai đoạn này chỉ giới hạn ở 2 lĩnh
vực: 1) Tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nước (các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp) và tổ chức chính quyền tự quản địa phương); 2) Các
quyền con người, quyền công dân về chính trị và dân sự (các quyền, tự do cá nhân).
b. Giai đoạn thứ hai: Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi kết thúc Chiến tranh
thế giới lần thứ hai (1945). Đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn
này là thắng lợi của cách mạng XHCN tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đường cho sự
ra đời một kiểu nhà nước mới là Nhà nước XHCN Xô viết ở các nước, như: Cộng hòa liên
bang Nga, Cộng hòa U-krai-na, Cộng hòa Be-la-ru-xi-a, Cộng hòa ngoại Cáp-ca-
dơ…cùng với sự ra đời của những bản Hiến pháp kiểu mới là Hiến pháp XHCN. Các bản
Hiến pháp XHCN này chỉ xác định một hình thức chính thể nhà nước duy nhất là chính
thể cộng hoà Xô viết, không chấp nhận nguyên tắc phân chia quyền lực mà theo nguyên
tắc tập quyền XHCN, xác định vị trí tối cao và nguyên tắc toàn quyền của các Xô viết so
với các cơ quan nhà nước khác cùng cấp với khẩu hiệu "Tất cả quyền lực (chính quyền)
về tay các Xô viết". Nội dung quy định của Hiến pháp ở giai đoạn này bắt đầu mở rộng
sang cả lĩnh vực kinh tế - xã hội, mở rộng các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về
kinh tế, văn hóa, xã hội.
c. Giai đoạn phát triển thứ ba: Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối những năm
80 - đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Với sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa
thực dân đế quốc, nhiều quốc gia đã tiến hành thắng lợi cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân giành được độc lập, phát triển theo con đường XHCN với hình thức chính thể cộng
hoà dân chủ nhân dân. Các quốc gia này đã lần lượt ban hành các bản Hiến pháp XHCN,
như: An-ba-ni (1946), Bun-ga-ri (1947), Ba Lan, Triều Tiên, Tiệp Khắc, Ru-ma-ni (1948),
Trung Quốc (1954)… Sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn này đã mang tính toàn cầu, vì
ở châu Á, châu Phi, châu Đại dương cùng với sự ra đời của hơn 100 quốc gia mới giành
5
được độc lập sau khi xóa bỏ chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã lần lượt
ban hành các bản Hiến pháp của mình. Các bản Hiến pháp của các nước XHCN được ban
hành vào những năm 70 - 80 của giai đoạn này đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiến
pháp sang các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, trong đó mở rộng cả các quyền cơ bản
của công dân và điều này đã có ảnh hưởng, tác động đến xu hướng phát triển chung của
Hiến pháp các nước trên thế giới.
d. Giai đoạn thứ tư: Từ cuối những năm 80 - đầu những năm 90 đến nay.
Đây là thời kỳ khủng hoảng của hệ thống XHCN với sự sụp đổ và tan rã của Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Thay thế cho các bản Hiến pháp XHCN trước đây,
Liên bang Nga và các nước XHCN cũ ở Đông Âu đã lần lượt ban hành mới các bản "Hiến
pháp chuyển đổi", như: Bungary và Rumany ban hành Hiến pháp mới năm 1991; Cộng
hòa Séc và Slovakia (Tiệp Khắc cũ) năm 1992; Liên bang Nga năm 1993; Belarusia,
Môlđavia năm 1994; Ukraina năm 1996; Ba Lan năm 1997; Anbany năm 1998; Hungary
năm 2011 v.v.
Các nước XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba… tiếp tục kiên định phát triển
đất nước theo định hướng XHCN, nhưng đã và đang tiến hành đổi mới, cải cách các lĩnh
vực của đời sống xã hội cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. Thể chế hóa đường
lối đổi mới do Đảng cộng sản đề xướng và lãnh đạo, các nước XHCN đã sửa đổi hoặc ban
hành các bản Hiến pháp mới, như: Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam thay thế Hiến pháp
1980 (Hiến pháp năm 1992 cũng đã được sửa đổi, bổ sung 23 điều năm 2001 và hiện nay
đang lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi, bổ sung cả nội dung, cả cơ cấu và cả cách
thể hiện nhiều chương, điều của Hiến pháp năm 1992 hiện hành); Hiến pháp năm 1976
của Cu Ba được sửa đổi 2 lần vào các năm 1992 và năm 2002; Hiến pháp năm 1982 của
Trung Quốc được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1988, 1993, 1999 và 2004…
Cũng từ cuối những năm 80 đến năm 1997 đã có hơn 100 bản Hiến pháp mới của
các nước được thông qua, với những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản cho phù hợp với
xu hướng xây dựng và phát triển của mỗi quốc gia trong điều kiện mới.
3. Khái niệm và các dấu hiệu đặc trưng của Hiến pháp
a. Khái niệm Hiến pháp
Có nhiều quan niệm khác nhau về Hiến pháp, nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin: Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước thể hiện chủ quyền của nhân

6
dân do cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân thông qua (hoặc nhân
dân trực tiếp thông qua bằng trưng cầu ý dân), trong đó quy định những vấn đề cơ bản
nhất, quan trọng nhất của: chế độ chính trị, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá - xã
hội; các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nguyên tắc, cơ cấu tổ
chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước then chốt ở trung ương và địa phương ...
thể hiện một cách tập trung nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của giai cấp (hoặc liên
minh giai cấp) cầm quyền.
b. Các dấu hiệu đặc trưng của Hiến pháp: khác với các đạo luật và các văn bản pháp
luật thông thường khác, Hiến pháp có các dấu hiệu đặc trưng chủ yếu sau đây:
Một là, Hiến pháp do chủ thể đặc biệt là nhân dân trực tiếp thông qua bằng trưng
cầu ý dân, hoặc cơ quan đại diện có thẩm quyền cao nhất của nhân dân thông qua theo
một trình tự, thủ tục đặc biệt.
Ví dụ, Hiến pháp của Pháp (1958), của Liên bang Nga (năm 1993), của Hàn
Quốc, Philippin (1987), Anbany (1998), Công-gô (2002), Thái Lan (2007), Bôlivia (2009)
v.v. được thông qua bằng trưng cầu ý dân; Hiến pháp Hoa kỳ năm 1787 do Hội nghị lập
hiến gồm đại biểu đại diện cho 13 bang của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ khi đó soạn thảo và
sau khi được 3/4 tổng số các bang (cơ quan lập pháp của các bang) tán thành bắt đầu có
hiệu lực năm 1789; Hiến pháp nước ta do Quốc hội - cơ quan đại diện quyền lực nhà nước
cao nhất của nhân dân thông qua khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết
tán thành (để thông qua bộ luật, đạo luật thường chỉ cần quá 1/2 tổng số đại biểu Quốc hội
biểu quyết tán thành).
Hai là, Hiến pháp là văn bản pháp luật duy nhất quy định tổ chức và thực hiện
toàn bộ quyền lực nhà nước, bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp
có tính chất khởi thuỷ ("quyền lập quyền") cho các cơ quan nhà nước then chốt ở trung
ương và địa phương.
Các đạo luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước chỉ quy định về tổ chức và thực hiện
một loại quyền lực nhà nước nhất định, như: Luật tổ chức Quốc hội chỉ quy định về tổ
chức và họat động của Quốc hội, cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Luật tổ chức Tòa án
chỉ quy định về tổ chức các cơ quan xét xử chuyên thực hiện quyền tư pháp… Các cơ
quan nhà nước được các luật quy định cho các quyền và thực hiện các quyền này trên thực
tế là bắt nguồn từ các quy định có tính chất "khởi thuỷ" (xác lập đầu tiên) của Hiến pháp.

7
Ba là, Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh rộng và mức độ điều chỉnh ở tầm khái quát
cao nhất so với các văn bản pháp luật khác.
Phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp rộng nhất so với tất cả các văn bản pháp luật
khác, bao gồm các quy định về các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh -
quốc phòng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước v.v., trong khi đó các văn bản pháp luật khác có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn,
chỉ giới hạn trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định.
Tuy Hiến pháp điều chỉnh phạm vi rộng như trên, nhưng mức độ điều chỉnh ở tầm
khái quát cao. Đối với mỗi lĩnh vực điều chỉnh, Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản
nhất, quan trọng nhất, có tính nguyên tắc.
Bốn là, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải
phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp.
Dấu hiệu đặc trưng này của Hiến pháp được quy định bởi các dấu hiệu đặc trưng
nói trên (do chủ thể ban hành, do tính chất quan trọng của nội dung quy định của Hiến
pháp) và được thể hiện ở chỗ:
- Hiến pháp là cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống pháp luật của quốc gia. Tất cả
các cơ quan nhà nước (kể cả cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất đã ban hành
Hiến pháp), khi ban hành các văn bản pháp luật khác theo thẩm quyền là trên cơ sở và
nhằm thi hành các quy định của Hiến pháp, nhưng phải phù hợp với Hiến pháp, không
được trái với Hiến pháp, nếu trái sẽ bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ (cho nên Hiến
pháp còn được gọi là "đạo luật gốc", hay "luật mẹ").
- Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất trong cả nước, đối với mọi địa phương,
đối với tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng
lượng vũ trang và mọi cá nhân có liên quan.
- Có một cơ chế giám sát đặc biệt để bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Ví dụ: một
số nước thành lập Toà án Hiến pháp (CHLB Đức, Liên bang Nga, Italia, Hunggari…),
hoặc Hội đồng bảo hiến (Pháp, Ka-dăc-xtan, Tuy-ni-di…), hay giao cho Toà án tối cao
(Hoa Kỳ, Nhật Bản…) để thực hiện sự giám sát Hiến pháp.
4. Phân loại Hiến pháp: Có nhiều cách phân loại Hiến pháp khác nhau.
+ Căn cứ vào hình thức thể hiện, có:

8
- Hiến pháp thành văn: Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp Việt Nam và hầu hết các
nước có Hiến pháp thuộc loại này. Hiến pháp thể hiện trong một văn bản duy nhất (ví dụ,
Hiến pháp của Việt Nam, Nhật Bản, Liên bang Nga v.v.) hoặc một bản Hiến pháp và kèm
theo là các văn bản phụ lục, giải thích Hiến pháp (Hiến pháp Ấn Độ năm 1950), hay kèm
theo các sửa đổi, bổ sung (Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 và 27 bổ sung, sửa đổi). Những
văn bản giải thích Hiến pháp, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là bộ phận không tách rời Hiến
pháp. Tóm lại, Hiến pháp thành văn, như cách nói của người Mỹ, là "Hiến pháp có thể bỏ
túi được".
- Hiến pháp không thành văn: Hiến pháp nước Anh, Niu-di-lân. Không có sự hiện
diện của một bản Hiến pháp, mà gồm một số văn bản luật có giá trị Hiến pháp; một số án
lệ hoặc tập tục cổ truyền mang tính hiến định. Ví dụ, Hiến pháp nước Anh gồm 3 nguồn:
khoảng 300 đạo luật mang tính Hiến pháp, một số phán quyết của Tòa án tối cao và một
số tập tục cổ truyền mang tính hiến định.
+ Căn cứ vào thủ tục sửa đổi, bổ sung, thông qua Hiến pháp, có:
- Hiến pháp nhu tính (Ví dụ, các đạo luật mang tính Hiến pháp của nước Anh
được thông qua, sửa đổi như thủ tục thông qua, sửa đổi các đạo luật thường khác).
- Hiến pháp cương tính (Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp Việt Nam và Hiến pháp
của nhiều nước khác đòi hỏi thủ tục đặc biệt để thông qua, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
khác với các đạo luật thường);
+ Căn cứ vào nội dung quy định, có Hiến pháp cổ điển (Hiến pháp Hoa Kỳ chỉ
quy định về tổ chức quyền lực nhà nước và các quyền con người, quyền tự do của công
dân về chính trị, dân sự) và Hiến pháp hiện đại (các Hiến pháp của nhiều nước được ban
hành từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh cả những chính
sách kinh tế, văn hóa, xã hội; quy định cả các quyền cơ bản của công dân về kinh tế, văn
hóa, xã hội).
+ Căn cứ vào chế độ chính trị, có: Hiến pháp tư sản và Hiến pháp XHCN.
III. Lịch sử lập hiến Việt Nam
1. Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong
kiến với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có Hiến pháp. Tuy nhiên, vào những

9
năm đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789),
ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa (1911) và chính sách duy tân mà Minh Trị thiên
hoàng đã áp dụng ở Nhật Bản…nên trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập
hiến. Có hai khuynh hướng chủ yếu về lập hiến là:
- Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới sự
bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong đó bảo
đảm: quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn
chế và quyền của "dân An Nam" về tự do, dân chủ được mở rộng. Đại diện cho xu hướng
này là Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến ở Nam Kỳ năm 1923) và Phạm
Quỳnh (Chủ bút tờ báo Nam Phong) tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề".
- Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc
và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập đó. Không
có độc lập dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại diện cho chủ trương
này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam và lịch sử lập hiến ở nước ta đã chứng minh chủ trương này là hoàn
toàn đúng đắn.
2. Hiến pháp 1946
a. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1946
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.
- Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), Hồ Chủ tịch đề ra sáu nhiệm
vụ cấp bách của Chính phủ, mà một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đó là tổ chức tổng tuyển
cử để bầu ra Quốc hội, Quốc hội có nhiệm vụ xây dựng và ban hành bản Hiến pháp. Vì
theo Người: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không
kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" (Hồ Chí Minh.Toàn tập,
T.4, tr.8).
- Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự
thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự
thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý kiến.

10
- Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử
ngày 06/01/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946
Hiến pháp 1946 bao gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều.
Lời nói đầu của Hiến pháp 1946 xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn
này là: “Bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết Quốc gia trên nền tảng
dân chủ”. Lời nói đầu còn xác định 3 nguyên tắc cơ bản xây dựng Hiến pháp là: Đoàn
kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; Đảm bảo các quyền lợi
dân chủ; và Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Toàn bộ 7 chương
của Hiến pháp 1946 đều được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản nói trên.
Nguyên tắc "Đoàn kết toàn dân" được thể hiện ở Chương I "Chính thể", gồm 3
điều. Điều 1 xác định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền
bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 2 khẳng định: "Đất nước Việt Nam là một khối thống
nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia".
Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do dân chủ được thể hiện ở Chương II (gồm 18 điều
quy định về "Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân"). Chương này quy định các quyền rất
cơ bản của con người, của công dân, như: quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bầu cử,
ứng cử; quyền tư hữu về tài sản; các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân; quyền phúc
quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia… Công dân có các
nghĩa vụ: bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân được thể
hiện cụ thể trong các chương III, IV, V, VI quy định về Nghị viện nhân dân, về Chính
phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, về các cơ quan tư pháp. Điều này thể hiện
cụ thể như sau:
Chương III: gồm 21 điều (Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân.
Nghị viện nhân dân được xác định là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, do công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên bầu ra theo nguyên tắc phổ thông,
tự do, trực tiếp và kín, nhiệm kỳ 3 năm. Nghị viện có những nhiệm vụ quyền hạn quan
trọng như: giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân

11
sách, bầu ra Ban Thường vụ Nghị viện, bầu Chủ tịch nước, biểu quyết chức danh Thủ
tướng và danh sách các Bộ trưởng…
Chương IV: quy định về Chính phủ gồm 14 điều (từ Điều 43 đến Điều 56). Chính
Phủ được xác định "là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc", gồm: Chủ tịch nước
và Nội các. Nội các gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Chế định Chủ tịch
nước theo Hiến pháp 1946 có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước: vừa là
Nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu Chính phủ; là nghị viên của Nghị viện nhân
dân, được Nghị viện bầu nhưng nhiệm kỳ là 5 năm, Chủ tịch nước có quyền ban hành sắc
lệnh có giá trị gần như luật, có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận và biểu quyết lại dự
luật của Nghị viện đã thông qua. Chủ tịch nước còn là Tổng chỉ huy quân đội… Chủ tịch
nước có quyền hạn rất lớn nhưng không phải chịu trách nhiệm nào, trừ tội phản quốc (Điều
50 Hiến pháp 1946). Nội các do Thủ tướng đứng đầu phải chịu trách nhiệm chính trị trước
Nghị viện, có thể bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm và phải bị từ chức ...
Với những quy định về Chính phủ như trên, Hiến pháp năm 1946 đã tiếp thu những
đặc điểm chủ yếu của chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị để sáng tạo ra
một hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp (cộng hòa lưỡng tính) chưa từng có trên thế
giới lúc bấy giờ.
Chương V: gồm 6 điều quy định về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các
cấp. Hiến pháp qui định về 4 cấp chính quyền địa phương là cấp bộ, cấp tỉnh - thành phố,
cấp huyện - khu phố và cấp xã. Ở mỗi cấp chính quyền địa phương tổ chức hai loại cơ
quan là: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, trừ cấp bộ và cấp huyện, khu phố chỉ
có Uỷ ban hành chính (không có Hội đồng nhân dân).
Chương VI: Gồm 7 điều quy định về các cơ quan tư pháp, chỉ gồm: Toà án tối
cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và các Toà án sơ cấp. Theo Hiến pháp
1946, Tòa án không thiết lập theo đơn vị hành chính - lãnh thổ tương ứng với chính quyền
địa phương mà thiết lập theo thẩm quyền cấp xét xử, theo khu vực.
Chương VII: Qui định về sửa đổi Hiến pháp, trong đó Điều 70 quy định: những
điều sửa đổi Hiến pháp sau khi được ít nhất 2/3 tổng số nghị viên tán thành "phải được
đưa ra để nhân dân phúc quyết".
c. Ý nghĩa của Hiến pháp 1946

12
Mặc dù Hiến pháp 1946 không được đưa ra để nhân dân phúc quyết như Điều 21
Hiến pháp 1946 quy định và cũng không được ban bố thi hành do điều kiện chiến tranh,
nhưng Quốc hội lập hiến đã giao cho Chính phủ cùng với Ban thường vụ Quốc hội căn cứ
vào các nguyên tắc của Hiến pháp này và tình hình thực tế ban hành các văn bản pháp luật
để điều hành, quản lý đất nước.
Ý nghĩa và giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp năm 1946 thể hiện:
- Là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà và cũng là bản Hiến pháp của
một Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Hiến pháp đã
ghi nhận thành quả đấu tranh của nhân dân ta giành độc lập, tự do cho dân tộc, lật đổ chế
độ thực dân - phong kiến ở nước ta.
- Các quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp năm 1946 quy định mang
tính tiến bộ, tính nhân văn sâu sắc.
- Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động
của một "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt" của nhân dân với sự sáng tạo ra một hình
thức chính thể cộng hòa dân chủ độc đáo với chế định Chủ tịch nước phù hợp với điều
kiện chính trị - xã hội rất phức tạp ở nước ta giai đoạn này.
- Nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được Hiến pháp
1946 quy định đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
3. Hiến pháp 1959
a. Hoàn cảnh ra đời:
- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, thực dân Pháp đã ký với Việt
Nam Hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng đất
nước còn tạm chia làm hai miền. Hiến pháp năm 1946 "đã hoàn thành sứ mệnh của nó.
Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp
nữa. Vì vậy, chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy" (Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự thảo Hiến
pháp sửa đổi năm 1959).
- Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I đã ra nghị quyết về việc sửa
đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng
ban. Ngày 1/4/1959, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp
ý kiến.

13
- Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày 31/12/1959, Hiến pháp sửa đổi được
thông qua và ngày 01/01/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959:
Hiến pháp 1959 gồm: Lời nói đầu và 112 điều chia thành 10 chương.
Lời nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến
Cà Mau, khẳng định những truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu ghi
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam)
đồng thời xác định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền
tảng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Chương I: gồm 8 điều quy định về “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”: chính thể
của Nhà nước ta vẫn là Nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân, xác định tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Hiến pháp năm 1959 khẳng định “đất nước Việt Nam là một
khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt”, khẳng định nguyên tắc bình đẳng và đoàn
kết dân tộc…
Chương II: gồm 13 điều quy định về “Chế độ kinh tế và xã hội” bao gồm đường
lối, chính sách phát triển kinh tế, các hình thức sở hữu (nhà nước, tập thể, của người lao
động riêng lẻ và của nhà tư sản dân tộc), về chính sách kinh tế của Nhà nước đối với các
thành phần kinh tế … So với Hiến pháp 1946 thì chương này là chương hoàn toàn mới.
Chương này được xây dựng theo mô hình của Hiến pháp các nước XHCN. Vì vậy, ngoài
việc quy định kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, Hiến
pháp còn quy định Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất,
thực hiện cải tạo XHCN bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo
khác.
Chương III: gồm 21 điều quy định “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.
Hiến pháp1959 đã kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946 về các quyền
và nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định những quyền và nghĩa vụ mới, như: quyền
của người lao động được giúp đỡ vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động
(Điều 32); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật (Điều 34); quyền
khiếu nại, tố cáo (Điều 29); quy định nghĩa vụ mới của công dân: tôn trọng và bảo vệ tài
sản công cộng (Điều 46)…

14
Chương IV: gồm 18 điều quy định về "Quốc hội". Theo Hiến pháp 1959, Quốc
hội được xác định là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà". Nhiệm kỳ của Quốc hội là 04 năm. Hiến pháp 1959 quy định quyền hạn của
Quốc hội cụ thể hơn, nhiều quyền quan trọng hơn, trong đó quy định chỉ Quốc hội mới có
quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp (Điều 50, Điều 112). Quốc hội có cơ quan
thường trực là Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ngoài ra, Quốc hội còn thành lập các Uỷ ban
chuyên trách: Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban thẩm tra tư
cách của các đại biểu và các Uỷ ban khác mà Quốc hội thấy cần thiết.
Chương V: Chủ tịch nước, bao gồm 10 điều. Theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước
không còn là người đứng đầu Chính phủ, chỉ là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước
về đối nội và đối ngoại. Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước từ 35 tuổi trở lên, là công
dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.
Quyền hạn của Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1959 hạn chế hơn nhiều so với Hiến pháp
1946.
Chương IV:gồm 7 điều quy định về Hội đồng Chính phủ. Theo quy định của Điều
71, Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hội
đồng Chính phủ gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng các
cơ quan ngang Bộ. Tính chất pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ
v.v. theo quy định của Hiến pháp năm 1959 là theo chế độ "Hội đồng" gần với mô hình
Chính phủ của các nước XHCN lúc bấy giờ.
Chương VII: gồm 14 điều quy định về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
các cấp. So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 quy định 3 cấp chính quyền địa phương
là: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cấp tương đương, bỏ cấp bộ. Ở tất cả các đơn vị
hành chính đều tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, các cơ quan dân cử
được đề cao, được xác định không chỉ là cơ quan đại diện cho nhân dân dân địa phương
mà còn là "cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương". Uỷ ban hành chính cấp nào do
Hội đồng nhân dân cấp đó bầu ra, vừa là "cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân
cùng cấp", vừa là "cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương".
Chương VIII: gồm 15 điều quy định về Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân. Hiến pháp 1959 quy định thành lập hệ thống Toà án tương ứng với các cấp chính
quyền địa phương (từ cấp huyện trở lên), Tòa án địa phương do Hội đồng nhân dân cùng

15
cấp bầu. Đặc biệt, Hiến pháp 1959 quy định thành lập mới hệ thống Viện kiểm sát nhân
dân tương ứng với hệ thống Tòa án nhân dân. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
theo nguyên tắc tập trung, thống nhất toàn ngành, đứng đầu là Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao để thực hiện chức năng kiểm sát việc theo Hiến pháp, pháp luật và thực
hành quyền công tố, bảo đảm thống nhất pháp chế XHCN trong phạm vi toàn quốc.
Chương IX: gồm 3 điều quy định về Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô.
Chương X: Điều 112 quy định về sửa đổi Hiến pháp: "Chỉ có Quốc hội mới có
quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội
biểu quyết tán thành".
c. Ý nghĩa của Hiến pháp năm 1959
- Hiến pháp 1959 ghi nhận thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước
của nhân dân ta, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày nay) trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
- Hiến pháp năm 1959 là Hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta, đặt cơ sở pháp
lý nền tảng cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và là cương lĩnh đấu tranh để thực
hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.
4. Hiến pháp 1980
a. Hoàn cảnh ra đời:
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 đã mở ra một giai
đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập hiến Việt Nam
nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976, cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất.
Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976), Quốc hội đã thông qua những
Nghị quyết quan trọng, trong đó có Nghị quyết về lấy tên nước là "Cộng hòa XHCN Việt
Nam", Nghị quyết về thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp mới cho Nhà nước Việt nam
thống nhất gồm 36 vị do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm Chủ
tịch.

16
Sau hơn một năm chuẩn bị, dự thảo Hiến pháp đã được đưa ra lấy ý kiến trong
cán bộ và nhân dân. Ngày 18/12/1980, tại kỳ thứ 7 Quốc hội khoá VI đã chính thức thông
qua Hiến pháp mới. Hiến 1980 được xây dựng và thông qua trong không khí hào hùng và
tràn đầy niềm tự hào dân tộc sau Đại thắng mùa xuân năm 1975. Với tinh thần “lạc quan
cách mạng” và mong muốn nhanh chóng xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới CNCS ở
nước ta, nên bản Hiến pháp này không tránh khỏi các quy định mang tính chủ quan, duy
ý chí, giáo điều và quan niệm giản đơn về CNXH.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980
Hiến pháp 1980 bao gồm Lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu ghi nhận những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, chỉ rõ tên các nước
đã từng là kẻ thù xâm lược nước ta, xác định những nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong
điều kiện mới mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) của Đảng đề ra và
những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp 1980 cần thể chế hóa.
Chương I: Hiến pháp qui định về “Chế độ chính trị của Nhà nước CHXHCN Việt
Nam”, bao gồm 14 điều. Chương này xác định bản chất giai cấp của nhà nước ta là nhà
nước chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của nhà nước ta là thực hiện quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới CNCS (Điều 2). Hiến
pháp 1980 chính thức ghi nhận trong Điều 4 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời đòi hỏi mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động
trong khuôn khổ của Hiến pháp (Điều 4). Hiến pháp 1980 còn đề ra đường lối, chính sách
đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, xác định các nguyên tắc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội ở nước ta (nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc v.v.
Chương II: Chế độ kinh tế gồm 22 điều. Theo Hiến pháp năm 1992, Nhà nước
tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN, thiết
lập và củng cố chế độ sở hữu XHCN nhằm xây dựng một nền kinh tế quốc dân chủ yếu
có hai thành phần là: kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã thuộc
sở hữu tập thể (Điều 18). Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống
nhất (Điều 33)…
Chương III: Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật gồm 13 điều. Đây là một
chương hoàn toàn mới. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn

17
hoá (Điều 37), xác định chính sách về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công
tác thông tin báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình, …
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc XHCN bao gồm 3 điều. Đây cũng là chương mới
trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Chương này xác định đường lối quốc phòng toàn dân của
Nhà nước ta (Điều 50), xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51)
và việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự (Điều 52).
Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 32 điều. Kế thừa và
phát triển các quy định của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 về các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, Hiến pháp 1980 quy định thêm một số quyền mới của công dân, như:
quyền tham gia quản lý công việc của nhà nước và xã hội (Điều 56), quyền học không
phải trả tiền (Điều 60), khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có
nhà ở (Điều 62),… Về các nghĩa vụ của công dân, Hiến pháp 1980 qui định thêm: công
dân có nghĩa vụ tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân (Điều 77), nghĩa vụ tuân theo kỷ
luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội (Điều
78), nghĩa vụ lao động công ích (Điều 80)… Do giáo điều, quan niệm giản đơn về CNXH,
cũng như bệnh chủ quan, duy ý chí khi xây dựng và thông qua Hiến pháp 1980, nên nhiều
quyền của công dân đề ra quá cao, không phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước và vì thế các quyền này không mang tính khả thi, không có điều
kiện vật chất để đảm bảo thực hiện.
Chương VI: gồm 16 điều quy định về Quốc hội. Hiến pháp 1980 chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của Hiến pháp XHCN nói chung, Hiến pháp năm 1977 của Liên Xô (cũ) nói
riêng nên đã đề cao một cách quá mức các cơ quan dân cử, áp dụng triệt để nguyên tắc về
vị trí tối cao và toàn quyền của các cơ quan dân cử, nhất là Quốc hội. Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Quốc hội theo Điều 82 và 83 của Hiến pháp năm 1980 không những
được mở rộng và tăng cường hơn so với Hiến pháp năm 1959 mà còn có quyền "định cho
mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết" ngoài 15 nhóm nhiệm vụ,
quyền hạn đã được Điều 83 quy định! Theo Hiến pháp 1980, Quốc hội bầu ra Chủ tịch và
Phó chủ tịch Quốc hội để Chủ tọa các phiên họp của Quốc hội nhưng lại không không
đương nhiên là thành viên của cơ quan thường trực Quốc hội.
Chương VII: gồm 6 điều quy định về Hội đồng nhà nước. Khác với Hiến pháp
1959, do áp dụng mô hình nguyên thủ quốc gia tập thể của các nước XHCN nên Hiến
pháp năm 1980 bỏ chế định "Chủ tịch nước", thiết lập chế định mới là Hội đồng nhà nước.

18
Hội đồng nhà nước vừa là "cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội", vừa
là "Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam" (Điều 98). Vì vậy, Hội đồng
nhà nước có 21 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn rất rộng lớn, ngoài ra, "Quốc hội có thể giao
cho Hội đồng nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết" (Điều
100).
Chương VIII: Hội đồng Bộ trưởng (8 điều): Hội đồng Bộ trưởng được xác định
"là Chính phủ của nước CHXHCN Việt Nam", là “cơ quan chấp hành và hành chính nhà
nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” (Điều 104). Hội đồng Bộ trưởng
do Quốc hội bầu, gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng và
Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng có 26 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn,
trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn mới so với Hiến pháp 1959 như: tổ chức và lãnh đạo
công tác trọng tài nhà nước về kinh tế, tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà nước…
(Điều 107). Theo quy định của Hiến pháp năm 1980, Chính phủ không có tính độc lập cả
về tổ chức, cả về hoạt động và không có người đứng đầu Chính phủ theo đúng nghĩa, mặc
dù có chức danh "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng". Hiến pháp 1980 qui định trách nhiệm
tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng nhà nước.
Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (14 điều). Chương này quy
định về các đơn vị hành chính - lãnh thổ; xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn
của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp theo hướng áp dụng triệt để hơn mô
hình tổ chức chính quyền địa phương XHCN. Hiến pháp 1980 quy định ba cấp chính
quyền địa phương: 1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương (đặc
khu); 2. Huyện, quận, thành phố và thị xã trực thuộc tỉnh; và 3. Xã, phường, thị trấn. Ở tất
cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Chương X: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (15 điều). Các quy định
về chương này về cơ bản giống với quy định của Hiến pháp 1959.
Chương XI: quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và Thủ đô.
Chương XII: quy định hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
c. Ý nghĩa của Hiến pháp 1980: mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng Hiến
pháp 1980 vẫn có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta. Điều này thể hiện ở
chỗ:

19
- Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam thống nhất, Hiến
pháp của thời kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước.
- Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý tổng kết và khẳng định những thành quả đấu
tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỉ, thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân ta quyết tâm xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Hiến pháp 1980 thể chế hoá cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà
nước quản lí”.
5. Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
a. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Như trên đã trình bày, Hiến pháp 1980 được xây dựng và thông qua trong hoàn
cảnh đất nước chan hòa khí thế lạc quan, hào hùng của Đại thắng mùa xuân năm 1975,
đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN được
ban hành vào cuối những năm 60 - 70 đã khẳng định đây là thời kì xây dựng CNXH phát
triển, đang thịnh hành cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm
giáo điều, giản đơn về CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp
1980 và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất
nước.
Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và
phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới theo chủ trương:
trọng tâm và đẩy mạnh đổi mới kinh tế, đồng thời đổi mới từng bước và vững chắc cơ cấu
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Ngày 30/6/1989, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII đã thông qua Nghị quyết
thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980
nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Uỷ ban này gồm 28 người, do Chủ
tịch Hội đồng nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch.
Ngày 15/04/1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII, Quốc hội đã thông qua
Hiến pháp 1992.
Để đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước do đại hội
Đảng lần thứ IX đề ra, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X (ngày 29/06/2001), Quốc hội đã
thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992

20
gồm 22 thành viên do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An là chủ tịch. Ngày 25/12/2001,
Quốc hội thông qua Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH10 để sửa đổi, bổ sung lời nói đầu và
23 điều của Hiến pháp 1992 nhằm thể chế hoá Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Hiến pháp 1992 gồm lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam, xác định những
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới và xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp
cần quy định.
Chương I: Chế độ chính trị cũng bao gồm 14 điều như Hiến pháp năm 1980.
Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 không dùng thuật ngữ “nhà nước chuyên chính
vô sản” mà dùng thuật ngữ “nhà nước của của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Việc thay đổi này phù hợp với bản chất dân chủ của Nhà nước ta, thể hiện chính sách đoàn
kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới
và thời đại. Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành
viên của Mặt trận là “cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Hiến pháp 1992 quy
định đường lối đối ngoại rộng mở.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung
04 điều trong Chương Chế độ chính trị của Hiến pháp 1992 (Điều 02, Điều 3, Điều 8 và
Điều 9). Quan trọng nhất là Điều 2 với hai nội dung: một là, khẳng định Nhà nước Việt
Nam là nhà nước pháp quyền XHCN; hai là, khẳng định quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều 3: bổ sung một tư tưởng quan trọng, xác định
mục tiêu phát triển chế độ chính trị, mục tiêu của Nhà nước ta là nhằm thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều 8: được sửa đổi nhằm nhấn mạnh
thêm tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Điều 9: bổ sung để làm
rõ bản chất, cơ cấu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Chương II: Chế độ kinh tế gồm 15 điều. Chương này được đổi mới một cách cơ
bản và triệt để nhất nhất so với Hiến pháp năm 1980, khẳng định rõ quan điểm đổi mới

21
của Đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp 1992 đã đoạt tuyệt nền kinh tế kế hoạch hóa, tập
trung, thuần nhất chế độ sở hữu XHCN với hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể,
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp quy định: kinh tế cá thể, kinh tế
tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh
nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế
dân sinh (Điều 21). Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết
với các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật (Điều
22). Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch và chính sách; các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật... Tuy nhiên,
Hiến pháp năm 1992 vẫn khẳng định: "sở hữu toàn dân là nền tảng", "thành phần kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân" và coi đây là đặc điểm, điều
kiện bảo đảm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển theo định hướng XHCN.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 sửa đổi, bổ sung thêm 05 điều
trong Chương Chế độ kinh tế của Hiến pháp 1992 (gồm Điều 15, 16, 19, 21, 25), trong đó
quan trọng nhất là Điều 15 và Điều 16 nói về đường lối, chính sách và mục tiêu xây dựng,
phát triển nền kinh tế của nhà nước ta. Các sửa đổi, bổ sung có những điểm mới sau: xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tiếp tục khẳng định tính nhất
quán của nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN; bổ sung thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài, xác định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế nước ta; xác định rõ các thành phần kinh tế được tự do phát triển, không
bị phân biệt đối xử, được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm,khuyến khích, tạo điều kiện hơn nữa cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam…
Chương III: Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ gồm 14 điều xác định
đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam, xác định “phát triển giáo dục và
đào tạo", "phát triển khoa học và công nghệ" "là quốc sách hàng đầu”. Có thể nói rằng,
Hiến pháp 1992 đánh dấu bước phát triển mới trong chính sách của nhà nước và xã hội về
giáo dục và đào tạo, về phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta.
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN bao gồm 5 điều xác định đường lối
quốc phòng toàn dân. Hiến pháp 1992 còn quy định thêm về nhiệm vụ xây dựng lực lượng
Công an nhân dân…

22
Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bao gồm 34 điều. So với
Hiến pháp 1980 thì chương này trong Hiến pháp 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và
nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến
pháp 1992 có một điều chính thức quy định “Các quyền con người về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng” (Điều 50), quyền tự do kinh doanh của công
dân được xác lập (Điều 57), “công dân có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” (Điều 58). Công dân có “quyền
được thông tin”. Ngoài việc quy định các quyền mới kể trên, Hiến pháp còn sửa đổi một
số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước và không có tính khả thi.
Chương VI: gồm 18 điều quy định về Quốc hội. Hiến pháp 1992 có bổ sung thêm
so với Hiến pháp 1980 về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, như: quyết định xây dựng
chương trình luật, pháp lệnh; quyết định chính sách dân tộc của nhà nước; quyết định
trưng cầu dân ý (Điều 48). Về cơ cấu tổ chức Quốc hội, Hiến pháp 1992 có một số thay
đổi quan trọng: bỏ thiết chế Hội đồng nhà nước, khôi phục lại chế định Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và chế định Chủ tịch nước như Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1992 không trực tiếp
qui định Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, nhưng thực chất là như vậy, vì Điều 90 quy định: "Uỷ ban thường
vụ Quốc hội gồm có: Chủ tịch Quốc hội; Các Phó Chủ tịch Quốc hội; và Các ủy viên".
Hiến pháp năm 1992 còn quy định: Một số thành viên của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban
của Quốc hội làm việc chuyên trách (Điều 94, 95). Đặc biệt, Điều 84 Hiến pháp năm 1992
chỉ quy định 14 loại nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, bỏ quy định "Quốc hội tự định
cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết "như Hiến pháp năm
1980.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 quy định Quốc hội chỉ quyết
định phân bổ ngân sách trung ương chứ không phân bổ ngân sách nhà nước nói chung như
trước đây và bổ sung thêm quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn… Đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (theo sửa đổi,
bổ sung Điều 91): không còn quyền phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khi Quốc hội không họp như
Hiến pháp năm 1992 trước đây; chỉ trong trường hợp “Quốc hội không thể họp được”,

23
Uỷ ban Thường vụ mới có quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước
nhà bị xâm lược…
Chương VII: Chủ tịch nước bao gồm 8 điều. Với Hiến pháp 1992, chế định Chủ
tịch nước cá nhân được quy định thành một chế định riêng biệt như Hiến pháp 1959. Chủ
tịch nước theo Điều 103 Hiến pháp 1992 không có nhiều quyền hạn rộng lớn như Hiến
pháp 1946, nhưng so với Hiến pháp 1959 có nhiều quyền hơn, mặc dù một số quyền chỉ
mang tính thủ tục pháp lý.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 bổ sung quyền ban bố tình trạng
khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong tình trạng Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội không thể họp được; đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh (chứ
không phải cả Nghị quyết như khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 1992)…
Chương VIII: Chính phủ gồm 19 điều. Hiến pháp 1992 kế thừa Hiến pháp 1959
xây dựng chế định Chính phủ theo quan điểm tập quyền “mềm”, nghĩa là quyền lực nhà
nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân biệt chức năng giữa các cơ quan
nhà nướctrong việc thực hiện 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.Vì vậy, Hiến pháp
1992 quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội", nhưng Chính phủ còn là
"cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”. Hiến pháp 1992
đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ. Ngoài ra, Hiến
pháp 1992 còn tăng thêm nhiều quyền hạn khác cho Thủ tướng trong các khoản 2, 4, 5
Điều 114.
Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân gồm 8 điều. Chương này
của Hiến pháp năm 1992 không có sửa đổi gì nhiều so với Hiến pháp năm 1980. Hiến
pháp 1992 quy định các đơn vị hành về cơ bản như Hiến pháp năm 1980, nhưng việc tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính Hiến pháp năm
1992 dành cho luật quy định (Điều 118). Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dânđược quy định trong Hiến pháp năm 1992 không có thay đổi gì so với Hiến pháp
năm 1980.
Chương X: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân gồm 15 điều. Hiến pháp
1992 thực hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm. Đối với Hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa
chế độ cử và chế độ bầu. Theo Hiến pháp 1992, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thành lập Uỷ ban kiểm sát. Hiến pháp 1992 còn có quy định
mới về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước
24
Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành luật ở địa phương và trả lời chất vấn của Đại biểu
Hội đồng nhân dân (Điều 140).
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 sửa đổi, bổ sung Điều 137 Hiến
pháp 1992: bỏ quy định về chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
(tức là Viện kiểm sát không còn thực hiện kiểm sát vịêc tuân theo pháp luật đối với các
bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền
địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang như Điều 137 Hiến pháp 1992
quy định). Quy định Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp (bao gồm kiểm sát các hoạt động điều tra, hoạt động truy tố, hoạt động
xét xử, hoạt động thi hành án, hoạt động tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù đảm bảo pháp luật đuợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chương XI: quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh.
Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
c. Ý nghĩa của Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001): Hiến pháp này
đánh dấu giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam, có các ý nghĩa sau:
- Hiến pháp 1992 thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là
đổi mới về kinh tế bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) của Đảng đề ra, được khẳng
định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, tạo
cơ sở hiến định quan trọng và cần thiết cho bước chuyển biến mang tính cách mạng ở
nước ta từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, hành chính quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị
trường theo định hướng XHCN.
- Hiến pháp năm 1992 kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946,
1959 và 1980, từng bước tiệm cận với những thành tựu lập hiến thế giới về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Hiến pháp năm 1992 là cơ sở hiến định cho đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước then chốt ở trung ương.
6. Hiến pháp năm 2013
a. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã

25
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay
đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác
định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách
mạng mới. Vì vậy, cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về
kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
Vì vậy, ngày 06/8/2011, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gồm 30 vị do Chỉ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng là Chủ
tịch Ủy ban này. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố trên tất cả các
phương tiện thông tin đại chúng để tổ chức lấy ý kiến của nhân dân. Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 có nhiều sửa đổi, bổ sung mới về nội dung quy định, về cách thức thể hiện
từ Lời nói đầu đến tất cả các chương, điều của Hiến pháp. Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp
thứ 6 Quốc hội khóa 13 đã thông qua Hiến pháp 2013, đánh dấu bước phát triển mới về
chất lịch sử lập hiến Việt Nam.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 có cấu trúc gồm: Lời nói đầu, 11 chương với 120 điều.
Mặc dù số lượng chương, điều của Hiến pháp năm 2013 đều giảm so với Hiến pháp
năm 1992 do một số chương, điều được nhập lại. Nhưng nhìn chung phạm vi điều chỉnh
của Hiến pháp năm 2013 là không thay đổi so với Hiến pháp năm 1992.
Chương I: Chế độ chính trị bao gồm 13 điều. So với Hiến pháp 1992, những nội
dung quan trọng của chương Chế độ chính trị trong Hiến pháp năm 2013 về cơ bản vẫn
giữ nguyên nhưng thay đổi cách thể hiện một số nội dung ngắn gọn, súc tích và phù hợp
hơn:
Thứ nhất, Điều 2 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ” và tất cả các chữ “Nhân dân” đều được trình bày viết hoa một cách trang
trọng, thể hiện sự tôn trọng và đề cao vai trò của Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao
của quyền lực nhà nước.

26
Thứ hai, Điều 4 quy định rõ “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân
dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân
về những quyết định của mình”.
Thứ ba, Điều 6 nêu rõ hơn các hình thức dân chủ được thực hiện ở nước ta bao gồm:
dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện
Thứ tư, Điều 9 liệt kê đầy đủ các tổ chức chính trị - xã hội gồm: Công đoàn Việt
Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức này trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Thứ năm, Điều 13 Hiến pháp năm 2013 quy định về quốc kỳ, quốc huy, quốc ca,
quốc khánh và thủ đô. Trước đây, vấn đề này được quy định tại Chương XI của Hiến pháp
1992.
Chương II: Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bao
gồm 36 điều.
Trước đây, Chương V của Hiến pháp 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Việc bồ sung vào tên chương chữ “Quyền con người” và chuyển vị trí
chương quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân lên chương
II thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta về tầm quan trọng của quyền con người.
Ngoài việc thay đổi vị trí chương, và sửa đổi tên chương, so với nội dung Chương
V của Hiến pháp 1992, Chương II của Hiến pháp năm 2013 có một số điểm mới sau:
Thứ nhất, Điều 14 nêu rõ “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Thứ hai, quy định thêm về quyền sống (Điều 19), quyền hiến mô, bộ phận cơ thể
người và hiến xác theo quy định của luật (Điều 21), quyền được bảo đảm an sinh xã hội
(Điều 34),quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường
(Điều 43).
Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường bao gồm 14 điều.

27
Chương này có nội dung gộp lại từ Chương II và Chương III Hiến pháp 1992 thể
hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học,
công nghệ và môi trường.
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định chính sách phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế và khẳng định vai vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Đặc biệt,
Hiến pháp sửa đổi 2013 khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc “xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường;
thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh
tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân” (Điều 52) và lần đầu tiên
Hiến pháp quy định về vấn đề ngân sách nhà nước và “Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng
Việt Nam”.
Các vấn đề phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ đều được Hiến pháp quy định
là quốc sách hàng đầu được Nhà nước quan tâm khuyến khích phát triển.
Điểm mới của chương này bổ sung thêm nội dung môi trường (Điều 63), điều này
rất phù hợp với thực tế điều kiện phát triển của xã hội hiện nay
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc bao gồm 5 điều, Hiến pháp quy định chính sách quốc
phòng toàn dân, khẳng định Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của
toàn dân, quy định về vai trò của lực lượng quân đội nhân dân, Công an nhân dân…
Chương V: Quốc hội, bao gồm 17 điều.
Nhìn chung, chương Quốc hội không có thay đổi cơ bản so với Hiến pháp 1992
trong quy định về vị trí tính chất pháp lý và chức năng của Quốc hội.
Những nội dung mới được sửa đổi, bổ sung so với Hiến pháp 1992 gồm có:
Thứ nhất, bổ sung thẩm quyền quyền quyết định của Quốc hội đối với hai cơ quan
mới là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Thứ hai, xác định rõ “Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá
mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh”.
Thứ ba, quy định về việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự
án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định giúp Quốc hội.
Chương VI: Chủ tịch nước bao gồm 8 điều.

28
Theo Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước vẫn là một chế định độc lập và do cá nhân đảm
nhiệm, “là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về đối nội và đối ngoại”. Tiêu chuẩn, điều kiện và thẩm quyền của Chủ tịch nước về
cơ bản vẫn giữ như Hiến pháp 1992. Tuy nhiên có một nội dung được bổ sung mới quan
trọng là quy định tại Điều 90 đã tăng cường khả năng tham gia của Chủ tịch nước đối với
hoạt động của Chính phủ, theo đó “Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, phiên họp của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính
phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch nước”.
Chương VII: Chính phủ gồm có 8 điều.
Một số điểm mới trong quy định về Chính phủ của Hiến pháp sửa đổi 2013 so với
Hiến pháp 1992 là:
Thứ nhất, khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Điều này
thể hiện rõ hơn nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực nhà nước giữa các cơ quan
trong tổ chức bộ máy nhà nước ta.
Thứ hai, quy định cụ thể về vai trò của các thành viên của Chính phủ.
Thứ ba, quy định về trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện chế
độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn
đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Chương VIII: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân bao gồm 8 điều. So với
Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 có một số điểm mới chủ yếu tập trung vào cơ quan Tòa
án nhân dân, gồm có:
Thứ nhất, khẳng định rõ Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp;
Thứ hai, quy định nguyên tắc xét xử hai cấp gồm sơ thẩm và phúc thẩm;
Thứ ba, quy định cụ thể hơn về hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao: “Tòa án
nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, “giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”.
Những quy định liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân về cơ bản vẫn giữ như Hiến
pháp 1992.
Chương IX: Chính quyền địa phương bao gồm 9 điều.

29
Trước đây, Hiến pháp 1992 dành chương IX quy định về Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân và chương này được quy định trước chương Tòa án nhân dân và Việt kiểm
sát nhân dân.
Hiến pháp sửa đổi 2013 đã đổi tên chương thành “Chính quyền địa phương” và đặt
chương này sau chương “Tòa án nhân dân và Việt kiểm sát nhân dân”.
Các đơn vị hành chính lãnh thổ địa phương vẫn được phân thành ba cấp: Tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính
tương đương; phường và xã.
Ngoài ra, để tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa phương Hiến pháp
2013 đã bổ sung thêm đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Đặc
biệt, nếu Hiến pháp 1992 chưa thể hiện rõ sự phân biệt về tổ chức chính quyền địa phương
giữa loại đơn vị hành chính thì Hiến pháp 2013 tại Điều 11 đã xác định rõ “Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp
với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Chương X: Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước bao gồm 2 điều.
Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm toán nhà nước là hai cơ quan mới lần đầu tiên
được quy định trong Hiến pháp.
Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức
bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp. Việc thành lập Hội đồng bầu cử Quốc gia hoạt động mang tính chất thường
xuyên đã hoàn thiện một bước chế định bầu cử, tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp,
tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ hơn quyền làm chủ của mình, thể hiện rõ hơn chủ
quyền nhân dân.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Kiểm toán nhà nước mặc dù đã được thành lập và đang hoạt động, tuy nhiên đến Hiến
pháp 2013, cơ quan này chính thức được quy định trong Hiến pháp thể hiện sự đề cao một
bước vai trò của cơ quan này trong bộ máy nhà nước. Điều này cũng là phù hợp với xu
hướng chung của thể giới, góp phần hoàn thiện bộ máy kiểm soát việc quản lý và sử dụng
tài chính, tài sản công, ngăn ngừa nạn tham nhũng.

30
Chương XI: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp gồm 2 điều, trong
đó Điều 119 xác định “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất” và yêu cầu “Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan
khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”.
Về thủ tục sửa đổi Hiến pháp thì Điều 120 quy định: “Quốc hội quyết định việc làm
Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành”; “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết
định”.
c. Ý nghĩa của Hiến pháp 2013
- Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa đường lối chủ trương tiếp tục đổi mới của Đảng
và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN;
- Hiến pháp 2013 đề cao và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân;
- Hiến pháp 2013 hoàn thiện thêm một bước về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà
nước. Từng bước phân công cụ thể giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, và đặt cơ sở cho việc xây dựng bộ máy chính quyền địa
phương phù hợp về tổ chức và hiệu quả trong hoạt động.

Thảo luận lần 1 (4 tiết)


Lưu ý: Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến
lớp:
1. So sánh nội dung của 5 bản hiến pháp.
2. Bình luận về những điểm mới trong nội dung Hiến pháp năm 2013 so với
Hiến pháp 1992.

31
Bài 2: CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
I. Khái niệm chế độ chính trị
1. Chính trị là “toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai
cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền,
duy trì và sử dụng quyền lực, sự tham gia vào công việc nhà nước, sự xác định hình thức
tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”. (Trung tâm Từ điển quốc gia
(1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tập 1, tr. 478)
2. Chế độ chính trị là một chế định cơ bản của luật Hiến pháp, nó chi phối hầu hết các
chế định khác trong Hiến pháp. Đó là các quy định mang tính nguyên tắc, nền tảng cho
việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.
II. Một số nội dung cơ bản của chế độ chính trị theo Hiến pháp 2013
1. Quyền dân tộc cơ bản

 Cơ sở hiến định: điều 1 Hiến pháp 2013;

 Nội dung: khẳng định những giá trị thiêng liêng của quyền dân tộc cơ bản - độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; tuyên bố với mục đích phòng
ngừa, ngăn chặn mọi hành vi xâm phạm các quyền dân tộc cơ bản, xâm hại sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
2. Bản chất của Nhà nước

 Cơ sở hiến định: điều 2 Hiến pháp 2013;

 Nội dung: tuyên bố chủ quyền nhân dân; xác định tính nhân dân rộng rãi (Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân) kết hợp với bản chất chuyên chính
vô sản của Nhà nước (liên minh giai cấp công nông và đội ngũ trí thức); xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Mục đích của Nhà nước

 Cơ sở hiến định: điều 3 Hiến pháp 2013;

 Nội dung: thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; bảo vệ lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
4. Vị trí, vai trò của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị

32
 Cơ sở hiến định: điều 2, 4, 9, 10 Hiến pháp 2013;

 Nội dung: vị trí của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong hệ thống
chính trị.
5. Hình thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được thực hiện
bằng nhà nước. Quyền lực nhà nước có ba bộ phận cấu thành gồm quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
Theo quy định tại Điều 6 Hiến pháp 2013, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

 Dân chủ đại diện: là việc nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ
quan đại diện do nhân dân bầu ra gồm có: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và
thông qua các tổ chức chính trị – xã hội...(điều 6)

 Dân chủ trực tiếp: nhân dân có quyền bầu cử, bãi nhiệm đại biểu dân cử (điều 7,
27); quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân (điều 28, 29)...
6. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

 Nguyên tắc quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (điều 2);

 Nguyên tắc Đảng lãnh đạo (điều 4);

 Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết dân tộc (điều 5);

 Nguyên tắc tập trung dân chủ (điều 8);

 Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (điều 8).


7. Mối liên hệ giữa Nhà nước với nhân dân

 Cơ sở hiến định: điều 8 Hiến pháp 2013;


Nội dung: Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân
dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu

33
sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu
hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
8. Chính sách dân tộc

 Cơ sở hiến định: điều 5 Hiến pháp 2013;

 Nội dung: khẳng định vị thế bình đẳng giữa các dân tộc; Nhà nước thực hiện chính
sách ưu tiên phát triển về mọi mặt đối với đồng bào thiểu số.
9. Chính sách đối ngoại

 Cơ sở hiến định: điều 12 Hiến pháp 2013;

 Nội dung: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc
và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới.
10. Các biểu tượng của Nhà nước

 Cơ sở hiến định: điều 13 Hiến pháp 2013;

 Nội dung: Quy định


- Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng
bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
- Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa
có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe
răng và dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
- Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài “Tiến
quân ca”.
- Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn
độc lập 2 tháng 9 năm 1945.

34
- Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
III. Hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Định nghĩa hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là hệ thống các thiết chế tham gia vào việc tổ chức thực hiện
quyền lực chính trị. Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm:

 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

 Đảng Cộng sản Việt Nam;

 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên


và vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong hệ thống
chính trị – “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân” (điều 2 Hiến pháp).

 Nhà nước là đại diện chính thức cho các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội;

 Nhà nước là thiết chế chính trị thể hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân;

 Nhà nước ban hành và sử dụng pháp luật để quản lý xã hội;

 Nhà nước có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện sự quản lý của
mình;

 Nhà nước là thiết chế chính trị duy nhất có chủ quyền quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4 Hiến
pháp).

 Nội dung lãnh đạo: Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối chính trị; bằng công
tác tổ chức – cán bộ; bằng công tác kiểm tra Đảng;
Hiến pháp sửa đổi 2013 đã có một điểm mới trong quy định về mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân được quy định tại khoản 2 Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó
mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân về những quyết định của mình”.

35
 Phương pháp lãnh đạo: phương pháp giáo dục, vận động, thuyết phục; phương
pháp nêu gương.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là “cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân” (điều 9 Hiến pháp) – thể hiện tính xã hội rộng rãi của hệ thống chính trị
và là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực của mình.

 Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.

 Thực hiện phản biện xã hội;

 Tham gia thành lập và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước;

 Tham gia xây dựng pháp luật;

 Tham gia quản lý nhà nước;

 Vận động nhân dân chấp hành chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

THẢO LUẬN LẦN 2 (2 tiết)


Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến lớp:
1. Bản chất và mục đích của nhà nước ta.
2. Quyền lực nhà nước và các hình thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.

Bài 3: QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG


DÂN
I. Khái quát về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do vậy, có rất nhiều định nghĩa về quyền
con người. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ khác nhau, khó có thể bao quát
đầy đủ các thuộc tính của nó. Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người:
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép và tự do cơ bản của con người.

36
2. Khái niệm công dân
Mỗi người sống trong lãnh thổ của một quốc gia đều có mối liên hệ nhất định với nhà
nước, có những quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau phụ thuộc vào mức độ gắn kết về
mặt pháp lý giữa họ và nhà nước sở tại. Điều này là do họ có thể là công dân của nước đó,
người nước ngoài (là công dân của nước khác) hay là người không có quốc tịch (không là
công dân của nước nào).
Khái niệm “công dân” hẹp hơn khái niệm “cá nhân” (bao gồm cả công dân, người
nước ngoài và người không quốc tịch). Việc dùng hai thuật ngữ này cần được đặt trong
những mối quan hệ với Nhà nước nhất định. Mỗi con người cụ thể trong mối quan hệ xã
hội nói chung là các “cá nhân”, song nếu đặt họ trong mối quan hệ với Nhà nước mà họ
mang quốc tịch thì những người này là “công dân”. Công dân là một khái niệm pháp lý
vì nó chỉ mối liên hệ pháp luật đặc biệt giữa Nhà nước với các cá nhân nhất định.
Tư cách công dân không thể tách rời tiêu chí quốc tịch. Khoản 1 điều 17 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có
quốc tịch Việt Nam”. Điều 1 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 chỉ rõ: “Quốc tịch Việt
Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và
quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân
Việt Nam”. Như vậy, quốc tịch Việt Nam là tiêu chuẩn duy nhất để xác định công dân
Việt Nam.
Tóm lại, Công dân là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ một con người thuộc về một
nhà nước nhất định mà người đó mang quốc tịch, biểu hiện mối liên hệ pháp lý đặc biệt
giữa người đó với nhà nước.
3. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của công dân
Quyền của công dân là khả năng của công dân được thực hiện những hành vi nhất
định mà pháp luật không cấm theo ý chí, nhận thức và sự lựa chọn của mình. Hệ quả là:
đối với quyền, công dân có tự do ý chí và Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện cho việc
thụ hưởng quyền.
Nghĩa vụ của công dân là yêu cầu bắt buộc của nhà nước về việc công dân phải thực
hiện những hành vi (hành động hoặc không hành động) nhất định, nhằm đáp ứng lợi ích
của nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật. Hệ quả là: đối với nghĩa vụ, công dân

37
không có tự do ý chí và Nhà nước có quyền áp đặt các biện cưỡng chế thích hợp nếu công
dân không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ.
4. Khái niệm, đặc điểm của quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những quyền và nghĩa vụ được quy
định trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nhà nước, xác định địa vị pháp lý cơ bản của
công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một
chế định của Luật Hiến pháp.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có những đặc điểm sau đây:
- Về nguồn gốc: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trên cơ sở
tôn trọng quyền con người đã được cộng đồng quốc tế và các quốc gia dân chủ hiện đại
trên thế giới thừa nhận.
- Về hình thức pháp lý: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong
Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nhà nước, văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất
trong mỗi quốc gia. Hiến pháp là cơ sở đầu tiên và chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của
công dân.
- Về hệ quả: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở để quy định các quyền
và nghĩa vụ cụ thể khác, hay nói cách khác là các quyền, nghĩa vụ cụ thể xuất phát từ
quyền, nghĩa vụ cơ bản. Trên cơ sở Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật khác quy
định các quyền, nghĩa vụ cơ bản thành nội dung cụ thể: cách thực hiện quyền, nghĩa vụ;
cách bảo vệ quyền khi quyền bị xâm phạm, cũng như trách nhiệm pháp lý khi lợi dụng,
lạm dụng quyền hay trốn tránh nghĩa vụ.
- Về ý nghĩa: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không chỉ phản ánh chất lượng
sống của các cá nhân, cộng đồng xã hội mà còn thể hiện tính chất nhân đạo và tiến bộ của
một nhà nước. Một nhà nước không thể được coi là dân chủ nếu không quy định trong
Hiến pháp thành văn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó mối quan hệ
giữa nhà nước với công dân phải được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng.
II. Các nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân xác định mối quan hệ
pháp lý giữa cá nhân, công dân với nhà nước, là nội dung quan trọng của Hiến pháp của

38
các nước trên thế giới. Tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam đều giành một vị trí xứng đáng
cho việc ghi nhận về vấn đề này. Tuy nhiên, xây dựng chế định quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải tuân theo những tư tưởng chỉ đạo mang tính định
hướng, nền tảng nhất định được gọi là những nguyên tắc của chế định này. Theo Hiến
pháp năm 2013, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định
dựa trên các nguyên tắc hiến định sau đây:
1. Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa được tôn trọng
thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Đây là điều
mới của Hiến pháp năm 1992 mà các Hiến pháp trước của Việt Nam chưa thể hiện, mặc
dù trong mọi thời kỳ Nhà nước ta đều coi tôn trọng quyền con người là nguyên tắc quan
trọng trong hoạt động của mình. Sự biểu hiện chính thức rõ ràng và long trọng nội dung
này trong một điều khoản riêng của Hiến pháp mang ý nghĩa chính trị - pháp lý sâu sắc.
Đó là sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, thể hiện sự tôn trọng các
điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và phần nào thể hiện được
cách nhìn của chúng ta đối với các vấn đề của cộng đồng quốc tế, phù hợp xu thế xóa bỏ
đặc tính khép kín của pháp luật trong nước.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng”.
Quy định này đã khắc phục được hạn chế về cách quy định của điều 50 Hiến pháp
năm 1992 khi đồng nhất quyền con người với quyền công dân cũng như xác định rõ hệ
thống trách nhiệm của Nhà nước đối với giá trị quyền con người bao gồm: công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm. Đồng thời, để làm rõ sự khác biệt giữa quyền con người với
quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng từ “mọi người”, “không ai” khi thể hiện
quyền con người và dùng từ “công dân” khi ghi nhận về quyền công dân.
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có có mối quan hệ hữu cơ,
gắn bó mật thiết với nhau song không đồng nhất. Không có quyền công dân ngoài quyền
39
con người, không có quyền con người mà không bao hàm quyền công dân. Quyền công
dân được xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền con người và quyền con người (của cá nhân
là công dân) chỉ có thể được đảm bảo bằng những quy định về quyền công dân trong pháp
luật của mỗi quốc gia. Bất cứ quốc gia văn minh nào cũng đều phải dành nỗ lực tối đa
trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm nhân quyền cho mọi cá nhân không phân biết tư
cách công dân của người đó. Giá trị chung của quyền con người không có nghĩa là quyền
con người không mang những bản sắc cụ thể riêng theo pháp luật của từng quốc gia tùy
thuộc vào các điều kiện phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội, dân tộc, văn hóa, truyền
thống… cụ thể của từng nước. Và cũng chính sự khác biệt về điều kiện kinh tế - xã hội
mỗi nước mà chỉ số phát triển con người ở các quốc gia là khác nhau. Việc thực hiện
nguyên tắc này đòi hỏi nhà nước ký kết, tham gia, nội luật hóa và thực hiện một cách có
thiện chí các Điều ước quốc tế về quyền con người, mà điển hình là Bộ luật quốc tế về
Quyền con người (bao gồm Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948, Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá,
xã hội năm 1966 và những văn kiện khác).
Nhằm đảm bảo thực thì nguyên tắc này trong hoạt động lập pháp, Quốc hội nói
riêng, các cơ quan nhà nước khác nói chung cần lưu ý một quy định mới tại khoản 2 điều
14 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Nhà nước là chủ thể ban hành pháp luật, kể cả pháp luật điều chỉnh quan hệ nhà
nước - cá nhân. Vì thế, về nguyên tắc, pháp luật của nhà nước phải đủ khách quan để một
mặt bảo đảm lợi ích của công dân, một mặt duy trì bình thường việc thực hiện các chức
năng nhà nước. Tuy nhiên, trong xã hội chưa thực sự phát triển cao thì thông thường lợi
ích nhà nước lại hay được quan tâm nhiều hơn so với việc công dân thực hiện quyền.
Trong số các cơ quan nhà nước có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ nhà nước - công dân, Quốc hội chính là cơ quan dân cử tiêu biểu nhất (bởi Quốc
hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước lựa chọn thông qua chế độ phổ thông đầu
phiếu; Quốc hội có thành phần hết sức đa dạng với sự góp mặt của đại diện dân cư theo
vùng miền, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính...; Quốc hội nói chung,
đại biểu Quốc hội nói riêng có sự gắn mật thiết nhất với nhân dân, cử tri trong hoạt động
và chịu trách nhiệm cao nhất trước quốc dân đồng bào). Do vậy, Quốc hội được xem là

40
cơ quan có khả năng nhất trong việc thể chế hóa ý nguyện của nhân dân một cách trung
thực nhất, toàn diện nhất; đặc biệt trong việc xây dựng mối quan hệ cơ bản giữa nhà nước
với công dân hay địa vị pháp lý cơ bản của công dân thể hiện bằng hệ thống quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Nguyên tắc này xác định hình thức pháp lý của việc hạn chế quyền (bằng các đạo
luật do Quốc hội ban hành) cũng như điều kiện hạn chế quyền (với lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng). Đồng bộ
với nguyên tắc này và nhằm đảm bảo tính khả thi của quyền, Hiến pháp năm 2013 đã sử
dụng cụm từ “trái luật”, “theo quy định của luật” hoặc “do luật định” khi quy định về các
quyền cụ thể; bao gồm: quyền sống (điều 19); quyền không bị bắt, giam giữ trái luật; quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (Điều 20); quyền bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác (Điều 21); quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở (Điều 22); quyền bầu cử và ứng cử (Điều 27); quyền được suy đoán vô tội,
quyền được Tòa án xét xử trong thời hạn, được xét xử kín của người bị buộc tội (Điều
31); nghĩa vụ nộp thuế (Điều 47).
Trước đó, Điều 51 Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên khẳng định một tư tưởng chỉ
đạo hay nguyên tắc nền tảng cho việc xác lập địa vị pháp lý của công dân: “Quyền và
nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Điều này thể hiện thái độ trân
trọng rất đáng ghi nhận của Nhà nước đối với việc thể chế hóa địa vị pháp lý của công
dân, nhằm hạn chế tối đa sự tùy tiện từ phía Nhà nước.
2. Nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân
Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa
vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác”.
Trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, quyền của công dân là nghĩa vụ
của nhà nước, nghĩa vụ của công dân là quyền của nhà nước. Các nghĩa vụ của nhà nước
được xác định trong Hiến pháp và pháp luật thông qua quy định về nhiệm vụ của cơ quan
nhà nước, cán bộ công chức nhà nước cũng như toàn bộ cơ chế pháp lý phải tồn tại để bảo
đảm quyền, tự do cho công dân.

41
Xét về nội dung, quyền và nghĩa vụ công dân là hai khái niệm có tính thống nhất
cao và có mối liên hệ biện chứng cho dù những thành tố hình thức của chúng là khác nhau.
Trong xã hội dân chủ không thể có quyền công dân tách rời nghĩa vụ công dân và ngược
lại, công dân không thể chỉ có nghĩa vụ mà không được hưởng quyền.
Một mặt, nhu cầu được hưởng những quyền, tự do nhất định là nhu cầu chính đáng
mà loài người nói chung, nhân dân ta nói riêng luôn khao khát vươn tới, song nếu công
dân chỉ muốn hưởng quyền mà không gánh vác những nghĩa vụ thì đó là sự ích kỷ, và
quyền không có khả năng được bảo đảm thực hiện. Thực hiện nghĩa vụ là một trong các
tiền đề để công dân thực hiện quyền trước hết vì quyền của công dân chỉ có thể được đảm
bảo trên cơ sở công dân góp phần tạo ra tiền đề kinh tế, chính trị, tư tưởng nhất định của
xã hội. Ví dụ, thuế do công dân đóng góp là nguồn quan trọng hình thành ngân sách quốc
gia; thực hiện nghĩa vụ quân sự là góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an tòan xã
hội…Hơn nữa, trong xã hội có trật tự pháp luật, mỗi cá nhân đều phải tôn trọng quyền của
các thành viên khác trong cộng đồng, mọi trường hợp công dân vi phạm nghĩa vụ đều dẫn
đến khả năng công dân bị hạn chế quyền. Mặt khác, nếu như công dân thực hiện nghĩa vụ
mà không được hưởng quyền thì đó lại là sự bất công. Trong xã hội lạc hậu, tính chất đẳng
cấp trong quyền cá nhân là sự bất công xã hội: đa số thường dân không có quyền hay
quyền rất hạn chế, còn thiểu số cầm quyền lại có những đặc quyền, đặc lợi hơn những
người khác.
Nhìn chung, nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân là một
nguyên tắc pháp lý văn minh, thể hiện bản chất dân chủ của xã hội văn minh khác với xã
hội chuyên chế, nơi mà quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân phụ thuộc vào đẳng cấp của
họ trong xã hội. Việc bảo đảm quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân là hướng
tới một xã hội trong đó lợi ích của mỗi cá nhân đặt hài hòa trong lợi ích của các cá nhân
khác, của tập thể và cộng đồng xã hội.
3. Nguyên tắc việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm
phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
Khoản 4 Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác”.
Xét về phương diện lý luận, nội dung của điều khoản hiến định trên có thể được
xem là nội hàm của nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân hoặc
42
được hiểu như một nguyên tắc độc lập. Nguyên tắc này nhằm làm rõ hơn mối tương quan
giữa quyền của cá nhân với quyền của người khác cũng như quyền của cộng đồng.
Khi thừa nhận tính độc lập của nguyên tắc này, chúng ta muốn nhấn mạnh tinh thần
trách nhiệm cùng với sự chủ động của mỗi cá nhân trong việc thụ hưởng quyền, tự do.
Việc quá đề cao lợi ích cá nhân trong nhiều trường hợp không chỉ ảnh hưởng đến không
gian tự do của người khác mà còn xâm hại (thậm chí nghiêm trọng) những giá trị chung
của cộng đồng – nền tảng của sự tồn tại và phát triển lành mạnh của đời sống xã hội. Nhiều
quy phạm luật định đã thể chế nguyên tắc này như điều 122 Bộ luật Hình sự về tội vu
khống; điều 258 Bộ luật Hình sự về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân...
4. Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội”.
Trong khoa học pháp lý bình đẳng là nguyên tắc tiến bộ của mối quan hệ con người
- xã hội - nhà nước và giữa con người với nhau. Điều này càng có cơ sở để nhấn mạnh
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ngày nay. Nhà nước đáp ứng quyền, tự do
cho công dân không phải là nhà nước “ban phát”. Việc công dân yêu cầu cơ quan nhà
nước thực hiện các thủ tục nhất định để đáp ứng quyền của mình không phải là việc họ đi
“xin”. Khi nguyên tắc này càng được coi trọng, cơ chế “xin - cho” sẽ sớm được loại bỏ,
phù hợp với bản chất của sự tồn tại của “nhà nước phục vụ” trong xã hội dân chủ. Nguyên
tắc hiến định này liên quan mật thiết với nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa
vụ công dân. Nguyên tắc này được hiểu là mọi người trong những hoàn cảnh, điều kiện
như nhau phải được đối xử ngang bằng nhau về quyền và nghĩa vụ mà không dựa trên sự
phân biệt bất hợp pháp, bất hợp lý về giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội, tình trạng tài sản
hay các quan hệ cá nhân khác. Bình đẳng không phải là sự cào bằng tuyệt đối.
Nguyên tắc này có một số biểu hiện chính như sau:
Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ: Mọi người đều phải tuân theo, thực hiện pháp
luật nghĩa là pháp luật mang tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người, không có sự phân
biệt đối xử. Ví dụ, trong hoạt động thực hiện pháp luật của tòa án, mọi người được đối xử
như nhau và tòa án chỉ tuân theo pháp luật. Toà án không bị chi phối bởi sự “đặc biệt”

43
của cá nhân trong việc bảo vệ quyền hay truy cứu trách nhiệm cho cá nhân nào đó nếu
điều này luật không quy định. Trên cơ sở hiến định, các văn bản pháp luật khác trong lĩnh
vực dân sự và tố tụng dân sự, hình sự và tố tụng hình sự, hành chính và tố tụng hành
chính… thể hiện nguyên tắc này bằng những nội dung cụ thể.
Bình đẳng trong việc sử dụng quyền, tự do: Đối với những quyền, tự do được
công nhận cho tất cả mọi người, Nhà nước có trách nhiệm tạo ra cơ chế, biện pháp thực
hiện như nhau, không chấp nhận phân biệt trong việc sử dụng quyền phụ thuộc vào địa vị
xã hội hay đặc điểm cá nhân.
Bình đẳng giữa các dân tộc: Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia
là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát
huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện
chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực,
cùng phát triển với đất nước”.
Bình đẳng giữa các tôn giáo: Điều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Bình đẳng giới: Đây là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc bình
đẳng vì tiêu chí để đánh giá sự tiến bộ của một chế độ xã hội chính là mức độ giải phóng
phụ nữ, sự tạo điều kiện cho họ được phát triển toàn diện về mọi mặt, ngang bằng nam
giới. Luật pháp ghi nhận và bảo đảm cho quyền bình đẳng giới có nghĩa là Nhà nước và
xã hội tạo cơ hội ngang nhau để công dân thực hiện quyền, chứ không phải là bình đẳng
thực tế, vì khả năng thể chất cũng như năng lực tinh thần của con người cụ thể là khác
nhau. Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi
mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. 2. Nhà nước, xã
hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình
trong xã hội. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.

44
III. Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp
năm 2013
Chương II (Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) của Hiến
pháp năm 2013 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V (Quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân) của Hiến pháp năm 1992, chuyển các quy định liên quan
đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác về Chương này, làm rõ nội
dung của quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong
việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung
một số quyền mới; đồng thời sắp xếp lại các điều theo các nhóm quyền, nghĩa vụ để bảo
đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân. Trong số 36 điều của
chương này, Hiến pháp năm 2013 chỉ giữ nguyên năm điều của Hiến pháp năm 1992 gồm:
Điều 76 được chuyển thành Điều 44, Điều 77 được chuyển thành Điều 45, Điều 79 được
chuyển thành Điều 46, Điều 81 được chuyển thành Điều 48, Điều 82 được chuyển thành
Điều 49.
1. Nhóm quyền và nghĩa vụ cơ bản về chính trị
Các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực chính trị là sự tham gia của công dân vào
việc thực hiện quyền lực nhà nước và cũng là sự thể hiện trách nhiệm của công dân đối
với hoạt động này. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực chính trị, công dân thể
hiện vai trò là chủ thể của quyền lực nhà nước trong xã hội, thể hiện sự đóng góp của mình
vào công việc chung của cộng đồng. Nhóm này bao gồm các quyền và nghĩa vụ cụ thể sau
đây: quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều 27); quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về
các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (Điều 28); quyền biểu quyết khi Nhà nước
tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 30); nghĩa vụ trung thành
với Tổ quốc (Điều 44); nghĩa vụ và quyền bảo vệ Tổ quốc; nghĩa vụ quân sự và tham gia
xây dựng nền quốc phòng toàn dân (Điều 45); nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật,
tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp
hành những quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46).
2. Nhóm quyền cơ bản về dân sự
Các quyền về dân sự thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước và xã hội đối với tự do cá
nhân. Nhóm này bao gồm các quyền cụ thể sau: quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nhà
nước khác (Điều 17); quyền sống (Điều 19); quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
45
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền không bị tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (Điều
20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình;
quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình; quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các
hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác (Điều 21); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
(Điều 22); quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài
về nước (Điều 23); quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 24); quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); quyền bình đẳng giới
(Điều 26); quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự
(Điều 30); quyền được suy đoán vô tội, quyền được Tòa án xét xử trong thời hạn luật định,
được xét xử kín của người bị buộc tội; quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự trong
hoạt động tố tụng (Điều 31); quyền kết hôn, ly hôn (Điều 36); quyền xác định dân tộc của
mình (Điều 42)…
3. Nhóm quyền và nghĩa vụ cơ bản về kinh tế, văn hóa và xã hội
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về kinh tế, văn hóa và xã hội thể hiện sự
đảm bảo chất lượng cuộc sống của mỗi con người trong xã hội. Nhóm này bao gồm các
quyền và nghĩa vụ cụ thể sau: quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); quyền sở hữu tư nhân
và quyền thừa kế (Điều 32); quyền tự do kinh doanh (Điều 33); quyền được bảo đảm an
sinh xã hội (Điều 34); quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc;
quyền của người làm công ăn lương (Điều 35); quyền của người mẹ và trẻ em trong hôn
nhân và gia đình (Điều 36); quyền trẻ em, quyền thanh niên, quyền người cao tuổi (Điều
37); quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y
tế và nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 38);
quyền và nghĩa vụ học tập (Điều 39); quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo
văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40); quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa
(Điều 41); quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền
được sống trong môi trường trong lành và nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43); nghĩa
vụ nộp thuế (Điều 47)…

46
Thảo luận lần 3 (4 tiết)
Lưu ý: Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến
lớp:
1. Nhóm quyền dân sự theo Hiến pháp 2013.
2. Nhóm quyền chính trị theo Hiến pháp 2013.
3. Nhóm quyền kinh tế - văn hóa - xã hội theo Hiến pháp 2013.
Bài 4: CHẾ ĐỘ BẦU CỬ
I. Khái quát về chế độ bầu cử
1. Khái niệm
Chế độ bầu cử là tổng thể quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội được
hình thành trong quá trình tiến hành bầu cử.
2. Bản chất
- Bầu cử là hình thức nhân dân ủy quyền cho các cơ quan, cá nhân thay mặt mình thực
hiện quyền lực nhà nước. Đây là một hình thức dân chủ trực tiếp;
- Bầu cử ở nước ta là hoạt động thành lập ra các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp);
- Quyền bầu cử là quyền quan trọng của công dân trong lĩnh vực chính trị; bao gồm
quyền bầu cử chủ động (quyền bỏ phiếu chọn ra người đại diện cho mình) và quyền bầu
cử bị động (quyền ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước).
II. Các nguyên tắc bầu cử
Các nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được
qui định trong Điều 1 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 (Luật
bầu cử 2015): Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến
hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
1. Nguyên tắc phổ thông
- Cơ sở hiến định: Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi
mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các
quyền này do luật định ( Điều 27 Hiến pháp 2013)

47
- Bầu cử phổ thông nghĩa là bầu cử rộng rãi, mọi công dân đều có thể được tham gia
khi đạt được mức độ trưởng thành về mặt nhận thức theo quy định của pháp luật. Độ tuổi
là căn cứ chung mà Nhà nước sử dụng để xác định mức độ này.
Theo điều 29 Luật bầu cử 2015, “Mọi công dân có quyền bầu cử đều được ghi tên
vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
30 của Luật này”.
Điểm mới của Luật bầu cử hiện hành là mở rộng đối tượng được ghi tên vào danh
sách cử tri. Cụ thể: Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh
sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó
đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc. (Khoản 5 Điều 29 Luật bầu cử 2015).
-Những người không được tham gia bầu cử (Khoản 1 Điều 30 Luật bầu cử 2015):
Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp
hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự thì
không được ghi tên vào danh sách cử tri.
- Những người sau đây không được ứng cử (Điều 37 Luật bầu cử 2015):
Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, người đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành
vi dân sự; Người đang bị khởi tố bị can; Người đang chấp hành bản án, quyết định hình
sự của Tòa án; Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng
chưa được xóa án tích; Người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị
trấn.
2. Nguyên tắc bình đẳng
Bình đẳng trong bầu cử là một nguyên tắc nhằm bảo đảm tính khách quan, không
thiên vị để mọi công dân đều có khả năng như nhau tham gia bầu cử, có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong bầu cử và ứng cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình
thức nào.

48
Bầu cử bình đẳng thể hiện qua những nội dung cụ thể sau:
- Sự bình đẳng giữa các cử tri:
+ Điều kiện tham gia bầu cử như nhau. Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân
dân. (Điều 27 Hiến pháp 2013)
+ Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại
biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân dân. (Điều 69 Luật bầu cử
2015) và chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú
+ Lá phiếu của mỗi cử tri không ghi tên, có giá trị như nhau.
- Sự bình đẳng giữa các ứng cử viên:
+ Mọi công dân có điều kiện ứng cử như nhau như phải đạt được tiêu chuẩn của người
ứng cử do luật định, phải nộp hồ sơ theo qui trình...
+ Mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử.
+ Việc vận động bầu cử phải đảm bảo sự công bằng, không thiên tư, thiên vị, tạo điều
kiện như nhau cho các ứng cử viên. Cụ thể:
3. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
Bầu cử trực tiếp nghĩa là cử tri tự mình chọn người mà mình tín nhiệm để bầu làm đại
biểu mà không qua người hoặc cấp trung gian nào khác.
- Nguyên tắc này đòi hỏi (Điều 69 Luật bầu cử):
+ Cử tri phải tự mình, đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay. Nếu cử tri
không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu;
người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật
không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
+ Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu
được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri
để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm
giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ
chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ

49
bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
Thực hiện đúng nguyên tắc này, kết quả bầu cử sẽ phản ánh chính xác nhất ý chí,
nguyện vọng của nhân dân trong bầu cử.
4. Nguyên tắc bỏ phiếu kín
Bầu cử bằng bỏ phiếu kín nghĩa là cử tri tự mình viết phiếu bầu mà không ai được
chứng kiến và tự mình bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu. Nguyên tắc này đảm bảo cho cử tri
tự do biểu lộ ý chí, để có sự khách quan trong việc lựa chọn người mình tín nhiệm và tránh
mọi sự áp đặt trong việc lựa chọn đại biểu, loại trừ sự theo dõi và kiểm soát từ bên ngoài
sự thể hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của cử tri.
Nguyên tắc này được thể hiện như sau:
- Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử. Nếu viết
hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ
phiếu vào hòm phiếu.
- Phiếu bầu không có dấu hiệu đặc biệt hoặc in sẵn tên cử tri nhằm phân biệt phiếu
bầu của từng cử tri;
- Cử tri không được bầu bằng cách gửi thư, gọi điện thoại… Cử tri không thể tự viết
được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ
phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ
phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
III.Những nội dung cơ bản của pháp luật bầu cử hiện hành
1. Khu vực bầu cử
Khu vực bầu cử là nơi tiến hành hoạt động bầu cử và được chia thành các bộ phận
sau:
- Đơn vị bầu cử: là một vùng lãnh thổ gồm một hay nhiều đơn vị hành chính được
quy định để tổ chức bầu cử. Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu
theo đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội được bầu không quá ba đại biểu.
Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu không quá năm đại biểu. (Điều
10 Luật bầu cử 2015)

50
* Đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội:
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu
Quốc hội. Số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu Quốc hội
được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử được tính căn cứ theo số dân, do Hội đồng bầu cử quốc gia
ấn định theo đề nghị của Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và được
công bố chậm nhất là 80 ngày trước ngày bầu cử.
* Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân:
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp huyện. Xã, phường, thị trấn được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã. Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử
do Ủy ban bầu cử ở cấp đó ấn định theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cùng cấp và được
công bố chậm nhất là 80 ngày trước ngày bầu cử.
- Khu vực bỏ phiếu (Điều 11 Luật bầu cử 2015):
Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chia
thành các khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu
vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri. Ở miền núi, vùng cao, hải
đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa đủ ba trăm cử tri cũng được thành
lập một khu vực bỏ phiếu.
Các trường hợp có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng: Đơn vị vũ trang nhân dân;
Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc
người cao tuổi có từ năm mươi cử tri trở lên; Cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc, trại tạm giam.
Việc xác định khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định và được Ủy
ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn. Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn
thì việc xác định khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân huyện quyết định.
2. Các tổ chức phụ trách bầu cử

51
Gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương
a. Hội đồng bầu cử quốc gia
- Cơ cấu, tổ chức của Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 12 Luật bầu cử 2015):
+ Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập, có từ mười lăm đến hai mươi mốt
thành viên gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số cơ quan,
tổ chức hữu quan.
+Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm theo đề nghị của
Ủy ban thường vụ Quốc hội. Các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng bầu cử quốc gia
do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia.
+ Hội đồng bầu cử quốc gia thành lập các tiểu ban để giúp Hội đồng bầu cử quốc gia
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực.
-Nguyên tắc hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 13 Luật bầu cử 2015)
Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Các
cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Hội đồng bầu
cử quốc gia tham dự; các quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên
biểu quyết tán thành. Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo
cáo về hoạt động của mình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia gồm 3 nhóm:
+ Nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng bầu cử quốc gia: Tổ chức bầu cử đại biểu
Quốc hội; Chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; Chỉ
đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử; Chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh,
trật tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử; Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu
cử; Quy định mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu thẻ cử tri, mẫu phiếu bầu cử, nội quy phòng bỏ
phiếu, các mẫu văn bản khác sử dụng trong công tác bầu cử. (Điều 14 Luật bầu cử 2015)
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia trong việc tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội (Điều 15 Luật bầu cử 2015)
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia trong việc chỉ đạo, hướng dẫn
công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 16 Luật bầu cử 2015)

52
b. Các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương gồm (Điều 21 Luật bầu cử 2015):
- Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ủy ban bầu cử ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; Ủy
ban bầu cử ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban bầu cử) (Điều 22 Luật bầu
cử 2015).
- Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã (sau đây gọi chung là Ban bầu cử) ( Điều 24 Luật bầu cử 2015).
- Tổ bầu cử (Điều 25 Luật bầu cử 2015).
- Những trường hợp không được tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử:
Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không được làm thành
viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình ứng cử. Nếu đã là thành viên
của Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình ứng cử thì người ứng cử phải
xin rút khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử đó chậm nhất là vào ngày
công bố danh sách chính thức những người ứng cử. Trường hợp người ứng cử không có
đơn xin rút thì cơ quan đã quyết định thành lập Ban bầu cử, Tổ bầu cử đó ra quyết định
xóa tên người ứng cử khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử và bổ sung
thành viên khác để thay thế. (Điều 27 Luật bầu cử 2015)
3. Ấn định ngày bầu cử
Quốc hội quyết định ngày bầu cử toàn quốc đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội,
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; quyết định việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc
hội trong thời gian giữa nhiệm kỳ. (Điều 4 Luật bầu cử 2015)
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật và được công bố chậm nhất là 115 ngày trước
ngày bầu cử. (Điều 5 Luật bầu cử 2015)
4. Lập danh sách cử tri
- Danh sách cử tri là văn bản ghi nhận quyền bỏ phiếu của mỗi cử tri.
- Nguyên tắc lập danh sách cử tri (Điều 29 Luật bầu cử 2015)
- Những trường hợp không được ghi tên, xóa tên hoặc bổ sung tên vào danh sách cử
tri (Điều 30 Luật bầu cử 2015)

53
- Thẩm quyền lập danh sách cử tri (Điều 31 Luật bầu cử 2015)
5. Lập danh sách ứng cử viên
- Danh sách ứng cử viên là văn bản xác nhận những người được Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp thông qua Hội nghị hiệp thương giới thiệu ra ứng cử và được Hội
đồng bầu cử quốc gia hoặc Ủy ban bầu cử lập, công bố theo từng đơn vị bầu cử.
+ Danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội: Hội đồng bầu cử quốc gia lập và công
bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử
trong cả nước theo danh sách do Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và Ủy ban bầu cử ở tỉnh gửi đến chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử.(Điều
57 Luật bầu cử 2015)
+ Danh sách người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân: Chậm nhất là 25 ngày
trước ngày bầu cử, Ủy ban bầu cử phải lập và công bố danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo từng đơn vị bầu cử. (Điều 58 Luật bầu cử 2015)
Để đảm bảo dân chủ và lựa chọn được những người tiêu biểu ứng cử đại biểu Quốc
hội, Hội nghị hiệp thương được tiến hành ba lần: Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất (thỏa
thuận cơ cấu, thành phần và số lượng ứng cử viên; Đề cử và tự ứng cử: các cơ quan nhà
nước, đoàn thể nhân dân đề cử ứng cử viên đại diện cho đơn vị mình và công dân nộp đơn
tự ứng cử); Hội nghị hiệp thương lần thứ hai (lập danh sách sơ bộ ứng cử viên; Hội nghị
cử tri: lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú và nơi công tác (nếu có) đối
với các ứng cử viên); Hội nghị hiệp thương lần thứ ba (lập danh sách chính thức ứng cử
viên).
6. Vận động bầu cử ( Điều 63 – 68 Luật bầu cử)
- Nguyên tắc vận động bầu cử
+ Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp
luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
+ Người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu
cử nào thì thực hiện vận động bầu cử tại đơn vị bầu cử đó.
+ Các tổ chức phụ trách bầu cử và thành viên của các tổ chức này không được vận
động cho người ứng cử.

54
- Thời gian tiến hành vận động bầu cử: được bắt đầu từ ngày công bố danh sách chính
thức những người ứng cử và kết thúc trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ.
- Hình thức vận động bầu cử: Việc vận động bầu cử của người ứng cử được tiến hành
bằng các hình thức sau đây:
+ Gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình ứng
cử theo quy định tại Điều 66 của Luật này;
+ Thông qua phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 67 của Luật này.
- Những hành vi bị cấm trong vận động bầu cử:
+ Lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm
tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân
khác.
+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng trong
vận động bầu cử.
+ Lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và nước
ngoài cho tổ chức, cá nhân mình.
+ Sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo,
mua chuộc cử tri.
7. Hoạt động bỏ phiếu
Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối cùng ngày. Tùy tình hình địa
phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không
được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá chín giờ tối
cùng ngày. Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến
của cử tri.
Việc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục. Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm
gián đoạn việc bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên
quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử, đồng thời phải có những
biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định
thì Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.

55
Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu
được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri
để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm
giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ
chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ
bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
8. Xác định kết quả bầu cử
- Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu
kết thúc.Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải thống kê, lập biên bản, niêm phong số
phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người ứng cử chứng
kiến việc kiểm phiếu. Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người
ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về
việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu. (Điều 73 Luật
bầu cử 2015)
- Biên bản kết quả kiểm phiếu phải có các nội dung sau đây: Tổng số cử tri của khu
vực bỏ phiếu; Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu; Số phiếu phát ra; Số phiếu thu vào;
Số phiếu hợp lệ; Số phiếu không hợp lệ; Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử; Những khiếu
nại, tố cáo nhận được; những khiếu nại, tố cáo đã giải quyết và kết quả giải quyết; những
khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ban bầu cử. (Khoản 2 Điều 76 Luật bầu cử 2015)
- Phiếu bầu không hợp lệ (Điều 74 Luật bầu cử 2015): Phiếu không theo mẫu quy
định do Tổ bầu cử phát ra; Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử; Phiếu để số người được
bầu nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử; Phiếu gạch xóa
hết tên những người ứng cử; Phiếu ghi thêm tên người ngoài danh sách những người ứng
cử hoặc phiếu có ghi thêm nội dung khác.
-Nguyên tắc xác định người trúng cử (Điều 78 Luật bầu cử 2015): Kết quả bầu cử
được tính, trên số phiếu bầu hợp lệ và chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số
cử tri trong danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp quy định
tại khoản 4 Điều 80 của Luật này. Người trúng cử phải là người ứng cử đạt số phiếu bầu
quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.

56
Trường hợp số người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ
nhiều hơn số lượng đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu thì những người trúng cử là những
người có số phiếu bầu cao hơn.
Trường hợp cuối danh sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng nhau và
nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi
hơn là người trúng cử.
9. Bầu thêm, bầu lại, bầu bổ sung
a. Bầu cử thêm (Điều 79 Luật bầu cử 2015)
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử đại biểu Quốc hội chưa đủ số
lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên
bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử ở tỉnh để đề nghị Hội
đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định việc bầu cử thêm ở đơn vị bầu cử đó.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân chưa
đủ hai phần ba số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì Ban bầu cử
phải ghi rõ vào biên bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử chịu
trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp đó để quyết định ngày bầu
cử thêm ở đơn vị bầu cử đó.
Trong trường hợp bầu cử thêm thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày
sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách
những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên nhưng không trúng cử. Người trúng cử là
người được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ và có số phiếu bầu cao hơn. Nếu bầu
cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì
không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai.
b. Bầu cử lại
Có hai trường hợp:
-Trường hợp 1: Trường hợp đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một
nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên bản và
báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu ở cấp đó. (Điều
80 Luật bầu cử 2015)

57
Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban bầu cử ở tỉnh đề nghị Hội đồng bầu cử
quốc gia xem xét, quyết định việc bầu cử lại ở đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa
đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri.
Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ
chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quyết định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử có số
cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri sau khi
đã báo cáo và được sự đồng ý của Hội đồng bầu cử quốc gia.
Trong trường hợp bầu cử lại thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày
sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những
người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên. Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn chưa đạt
quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri thì kết quả bầu cử lại được công nhận
mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Trường hợp 2: Hủy bỏ kết quả bầu cử và quyết định bầu cử lại (Điều 81 Luật bầu
cử 2015)
Hội đồng bầu cử quốc gia tự mình hoặc theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban bầu cử ở tỉnh hủy
bỏ kết quả bầu cử ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
và quyết định ngày bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử đó.
Trong trường hợp bầu cử lại thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày
sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những
người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên.
Danh sách cử tri của cuộc bầu cử thêm, bầu cử lại được lập theo danh sách cử tri
trong cuộc bầu cử đầu tiên và theo quy định của Luật này.
c. Bầu cử bổ sung (Điều 89 Luật bầu cử 2015)
Việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội trong nhiệm kỳ chỉ được tiến hành khi thời
gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn 02 năm và thiếu trên mười phần trăm tổng số đại biểu
Quốc hội đã được bầu ở đầu nhiệm kỳ.
Việc bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân trong nhiệm kỳ chỉ được tiến hành
khi thời gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn 18 tháng và đáp ứng một trong các điều kiện
sau đây: 1. Hội đồng nhân dân thiếu trên một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân

58
đã được bầu ở đầu nhiệm kỳ; 2.Đơn vị hành chính mới được thành lập trên cơ sở nhập,
chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính hiện có có số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân không đủ hai phần ba tổng số đại biểu được bầu theo quy định của Luật tổ chức
chính quyền địa phương.
Quốc hội quyết định và công bố ngày bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội; Ủy ban
thường vụ Quốc hội quyết định và công bố ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định và công bố ngày bầu cử
bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã.
Ngày bầu cử bổ sung phải là ngày chủ nhật và được công bố chậm nhất là 30 ngày
trước ngày bầu cử.

THẢO LUẬN LẦN 5 (2 tiết)


Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến lớp:
1. Thực tế thực hiện những nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc bầu cử ở nước ta
hiện nay.
2. Tiến trình một cuộc bầu cử theo pháp luật hiện hành.
3. Điểm mới của Luật bầu cử 2015.

Bài 5: QUỐC HỘI


I. Vị trí, tính chất pháp lý
Theo quy định tại điều 69 Hiến pháp 2013 và điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội 2001:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Quốc hội có hai tính chất pháp lý sau:
1. Tính đại biểu cao nhất của nhân dân được thể hiện:

 Quốc hội do tập thể cử tri toàn quốc trực tiếp bầu ra cũng như bãi nhiệm;

 Quốc hội đại diện cho lợi ích quốc gia;

59
 Quốc hội, thông qua các đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự
giám sát của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri;
biến ý chí, nguyện vọng chính đáng của cử tri thành những quyết sách của Quốc
hội.
2. Tính quyền lực nhà nước cao nhất
Quốc hội là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước trực tiếp nhận và thực hiện
quyền lực nhà nước do nhân dân cả nước trao cho (thông qua chế độ bầu cử), biến ý chí
của nhân dân thành ý chí nhà nước dưới hình thức Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính bắt buộc thi hành đối với mọi cơ quan nhà nước,
tổ chức và cá nhân trên cả nước. Tính quyền lực nhà nước cao nhất được thể hiện thông
qua chức năng và thẩm quyền của Quốc hội
II. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
a. Lập hiến, lập pháp
+ QH là cơ quan có quyền thông qua, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và luật.
Để bảo đảm thực hiện chức năng này, các cơ quan sau quyền trình dự án luật trước
QH để QH xem xét:
- UBTVQH; - Các Ủy ban của QH;
- Chủ tịch nước; - TAND tối cao;
- Chính phủ; - VKSND tối cao;
- Hội đồng dân tộc; - MTTQVN và các tổ chức thành viên;
- Đại biểu QH (còn có quyền kiến nghị về luật và pháp lệnh).
- Kiểm toán nhà nước
+ QH có quyền quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
b. Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
+ Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
+ Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi
hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân

60
sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia,
nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
+ Quyết định chính sách dân tộc, tôn giáo.
+ Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình.
+ Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại.
+ Quyết định đại xá (tha, miễn hình phạt hoặc giảm nhẹ hình phạt cho một số loại
tội phạm hoặc một loạt người phạm pháp nhất định đã hoặc chưa bị truy tố, xét xử, thi
hành án). Quyết định đại xá thường được ban hành nhân dịp những sự kiện lớn của dân
tộc.
+ Quyết định việc trưng cầu ý dân.
+ Quyết định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao;
quy định các loại huân chương, huy chương và các danh hiệu cao quý của nhà nước.
* Xây dựng, củng cố và phát triển bộ máy nhà nước:
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân
tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia,
Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
+ Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
+ Phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu
cử quốc gia.
+ Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
+ Quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương cũng
như ở địa phương.
+ Thành lập, sáp nhập, bãi bỏ các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
+ Thành lập, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

61
c. Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước
* Đối tượng của giám sát tối cao:
- Trực tiếp và theo định kỳ: UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC, các chức danh khác do QH bầu hoặc phê chuẩn.
- Giám sát chung đối với các ngành, các địa phương.
* Hình thức của giám sát tối cao:
- QH thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua việc xem xét báo cáo công tác của
Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TANDTC và VKSNDTC.
- QH thành lập đoàn giám sát của UBTVQH, HĐDT hoặc của các Uỷ ban của QH
để giám sát ở các ngành, các địa phương.
- QH thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu
QH. Đại biểu QH có quyền chất vấn: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và các
thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC.
Chất vấn: là hình thức giám sát hiệu quả nhất của QH. Chất vấn là đòi hỏi của đại
biểu buộc người có trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp, PL phải trả lời trước QH về
sự yếu kém, trì trệ, vi phạm pháp luật trong hoạt động của cơ quan mà họ phụ trách; phải
giải thích rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan và các biện pháp khắc phục, cũng như
trách nhiệm của họ trước QH.
* Biện pháp pháp lý mà QH có quyền sử dụng khi thực hiện chức năng giám sát tối
cao:
- Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, cơ quan khác do Quốc hội thành lập nếu các văn bản đó trái với Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
- Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh được quy định Điều 12 Luật tổ
chức Quốc hội 2014.
- Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn (Điều 13 Luật tổ chức Quốc hội 2014).
- Quốc hội có quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm hoặc phê chuẩn miễn nhiệm, cách chức

62
đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
III. Cơ cấu tổ chức
1. Ủy ban thường vụ Quốc hội
- UBTVQH là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của QH, được lập ra
để tổ chức các hoạt động của QH và giải quyết các công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của mình trong thời gian QH không họp.
- Thành phần của UBTVQH gồm: Chủ tịch QH, Phó chủ tịch Quốc hội; Các ủy
viên: Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các chủ nhiệm UB của Quốc hội. Thành viên của
UBTVQH do QH bầu ra trong số các đại biểu QH. Thành viên của UBTVQH không thể
đồng thời là thành viên của CP.
- Thẩm quyền của UBTVQH:
+ Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu QH.
+ Chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp QH.
+ Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của HĐDT và các Uỷ ban của QH; hướng
dẫn và đảm bảo điều kiện hoạt động của các đại biểu QH.
+ Thực hiện quan hệ đối ngoại của QH.
+ Trong trường hợp QH không thể họp được, UBTVQH mới có quyền quyết định
tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược.
+ Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
+ Ban hành pháp lệnh, nghị quyết. Tuy nhiên, UBTVQH chỉ được ban hành những
pháp lệnh nằm trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của QH.
+ Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc
hội thành lập; giám sát và hướng dẫn hoạt động của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; bãi bỏ các nghị quyết trái pháp luật của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; giải tán HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
+ Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong
cả nước hoặc ở từng địa phương.

63
+ Tổ chức việc trưng cầu ý dân theo quyết định của QH.
+ Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc,
Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán
nhà nước; ...
2. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
* Hội đồng dân tộc:
- Thành phần của Hội đồng dân tộc: Chủ tịch HĐDT - Uỷ viên UBTVQH, Phó
chủ tịch HĐDT, Uỷ viên. Các thành viên của HĐDT do QH bầu ra trong số các đại biểu
QH (phải là người dân tộc thiểu số) theo sự giới thiệu của Chủ tịch QH. Một số thành viên
của HĐDT làm việc theo chế độ chuyên trách.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐDT:
+ Tham mưu, tư vấn cho QH trong việc ban hành những quyết định về chính sách
dân tộc.
+ Giúp QH thẩm tra các báo cáo, các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác liên
quan đến vấn đề dân tộc.
+ Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của QH; pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH.
+ Giúp QH giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc.
+ Có quyền đề nghị QH bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do QH bầu hoặc
phê chuẩn.
+ Kiến nghị với QH về những vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc.
+ Chủ tịch HĐDT có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn về những
vấn đề có liên quan đến chính sách dân tộc.
+ Chính phủ phải tham khảo ý kiến của HĐDT khi quyết định những vấn đề có liên
quan đến chính sách dân tộc.
* Các Uỷ ban của QH: QH lập ra 2 loại Uỷ ban, đó là:

64
* Uỷ ban lâm thời: là những ủy ban được lập ra khi xét thấy cần thiết để nghiên
cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. Sau khi hoàn thành xong
nhiệm vụ, ủy ban này sẽ tự động giải tán. Ví dụ: UB sửa đổi Hiến pháp, UB thẩm tra tư
cách đại biểu QH…
* Uỷ ban thường trực: là những ủy ban được QH thành lập theo quy định của Luật
tổ chức QH, là bộ phận cấu thành của cơ cấu tổ chức của QH trong suốt nhiệm kỳ. QH lập
ra 9 Uỷ ban, đó là: 1. Uỷ ban pháp luật ; 2. Uỷ ban tư pháp ; 3. Uỷ ban đối ngoại ; 4. Uỷ
ban kinh tế ; 5. Uỷ ban tài chính, ngân sách ; 6. Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi
trường ; 7. Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng ; 8. Uỷ ban quốc
phòng và an ninh, 9. Uỷ ban về các vấn đề xã hội.
- Thành phần của các Uỷ ban gồm có: Chủ nhiệm Uỷ ban - Uỷ viên UBTVQH,
Phó Chủ nhiệm, Uỷ viên. Các thành viên của các Uỷ ban do QH bầu ra trong số các đại
biểu QH có trình độ, có kiến thức chuyên môn về ngành, lĩnh vực mà UB mình phụ trách
theo sự giới thiệu của Chủ tịch QH.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các Uỷ ban:
+ Thẩm tra các báo cáo, dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác liên quan
đến lĩnh vực mà mình phụ trách.
+ Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của QH; pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH.
+ Giám sát hoạt động của Chính phủ (chủ yếu là giám sát hoạt động của các Bộ
tương ứng với lĩnh vực chuyên môn của các UB), TANDTC, VKSNDTC.
+ Đề nghị QH bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do QH bầu hoặc phê chuẩn.
+ Kiến nghị với QH về những vấn đề có liên quan đến lĩnh vực mà mình phụ trách.
- Các Uỷ ban của QH chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước QH, trong thời
gian QH không họp thì chịu trách nhiệm trước UBTVQH.
IV. Kỳ họp Quốc hội:
a. Là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của QH
- Kỳ họp là nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực nhà nước của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất.

65
- Mọi vấn đề quan trọng nhất của đất nước thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của QH,
được QH đưa ra thảo luận tập thể và quyết định theo đa số tại kỳ họp.
- Các hình thức hoạt động khác như: hoạt động của UBTVQH (dự kiến chương
trình làm việc của kỳ họp), hoạt động của HĐDT và các Uỷ ban của QH (thẩm tra các dự
án…), hoạt động của từng đại biểu QH… suy cho cùng chỉ là hình thức trợ giúp cho kỳ
họp QH.
- QH họp mỗi năm có 2 kỳ họp thường lệ, QH có thể họp bất thường theo đề nghị
của: UBTVQH, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu
QH.
b. Việc chuẩn bị và triệu tập kỳ họp: Việc chuẩn bị, triệu tập kỳ họp QH được giao cho
UBTVQH. UBTVQH sẽ dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp QH. UBTVQH phải
gửi bản dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp và thư triệu tập cho các đại biểu QH
chậm nhất là 30 ngày (đối với kỳ họp bất thường là 7 ngày) trước ngày khai mạc kỳ họp.
c. Luật và nghị quyết của QH
- Luật, nghị quyết của QH phải được Chủ tịch QH ký chứng thực và được Chủ tịch
nước công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được thông qua. Luật, nghị quyết của QH
phải được quá ½ tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành.
- Tuy nhiên, đối với các trường hợp sau đây, nghị quyết của QH phải được ít nhất
2/3 tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành: nghị quyết về việc thông qua, sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp; nghị quyết về việc kéo dài hay rút ngắn nhiệm kỳ của Quốc hội; nghị
quyết về việc bãi nhiệm đại biểu QH.
V. Quy chế pháp lý của Đại biểu Quốc hội
- Tính chất: Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân
dân (cử tri đã bầu ra mình và nhân dân cả nước); là người thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước trong Quốc hội.
- Phân loại: theo chế độ làm việc, có hai loại đại biểu gồm đại biểu hoạt động
chuyên trách và đại biểu hoạt động không chuyên trách (kiêm nhiệm).
- Vai trò (tư cách hoạt động): người đại diện cho cử tri và nhân dân; thành viên của
Quốc hội; thành viên của UBTVQH; thành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội; thành viên Đoàn đại biểu Quốc hội.

66
- Thẩm quyền: tiếp xúc cử tri, tiếp dân; trợ giúp nhân dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo; tham gia kỳ họp Quốc hội (tham gia hoạt động lập hiến, lập pháp; giám sát tối
cao; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước); tham gia hoạt động của các cơ
quan trực thuộc Quốc hội; tham gia hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội…
- Điều kiện đảm bảo hoạt động đại biểu: thời gian làm việc, cung cấp tài liệu, tiền
lương, phụ cấp, phương tiện làm việc, đi lại, chăm sóc sức khỏe…
- Quyền miễn trừ của đại biểu Quốc hội (đối với việc khám xét, bắt giam, truy tố
đại biểu).
- Trách nhiệm của đại biểu: đại biểu Quốc hội có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại
biểu, bị miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu (khi đại biểu không còn xứng đáng với sự tín
nhiệm của của nhân dân), bị đình chỉ công tác hay đương nhiên mất quyền đại biểu.
- Đoàn đại biểu Quốc hội: các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc
thành phố trực thuộc trung ương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc
hội có đại biểu hoạt động chuyên trách.
VI. Định hướng đổi mới

 Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng cường
hợp lý số đại biểu Quốc hội chuyên trách;

 Tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân, cử tri với Quốc hội, đại biểu Quốc hội;
hoàn thiện cơ chế chịu trách nhiệm giữa đại biểu Quốc hội với cử tri;

 Nâng cao vai trò và chất lượng hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc
hội trong việc thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao;

 Tổ chức lại một số Ủy ban của Quốc hội theo hướng chuyên sâu;

 Đổi mới quy trình xây dựng lập pháp nhằm đảm bảo tính dân chủ, pháp chế. thống
nhất, minh bạch, khả thi và có hiệu lực cao của hệ thống pháp luật. Trong đó, các
đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội.

 Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy
phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa phương, theo hướng Quốc

67
hội ban hành luật, giảm dần việc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh;
Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật. Xác lập cơ chế bảo
đảm luật được thi hành ngay khi có hiệu lực;

 Tiếp tục phát huy dân chủ, tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất
vấn tại nghị trường.
Thảo luận lần 6 (4 tiết)
Lưu ý: Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến
lớp:
1. Quy chế pháp lý của ĐBQH.
2. Vấn đề đổi mới Quốc hội (UBTVQH, các Ủy ban, Hội đồng dân tộc).
3. Điểm mới của Luật Tổ chức Quốc hội 2014.

Bài 6: CHỦ TỊCH NƯỚC


I. Chế định nguyên thủ quốc gia trong lịch sử lập hiến Việt Nam

 Hiến pháp 1946: Chủ tịch nước đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Chính phủ
bao gồm: Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước và Nội các;

 Hiến pháp 1959: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước;

 Hiến pháp 1980: Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên
cuả Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của Nhà nước;

 Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước.
II. Vị trí, tính chất pháp lý
“Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 86 Hiến pháp 2013)
* Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch nước có
thể được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ. Khi Chủ tịch nước không
làm việc được trong một thời gian dài, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch. Trong trường hợp
khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ
tịch nước mới.

68
* Hội đồng quốc phòng và an ninh
- Thành viên: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các ủy viên. Chủ tịch nước thống lĩnh các
lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.
Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc
hội phê chuẩn. Thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh không nhất thiết phải là đại
biểu Quốc hội.
- Nhiệm vụ, quyền hạn: Hội đồng quốc phòng và an ninh động viên mọi lực lượng
và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc. Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội
có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt.
Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.
III. Nhiệm vụ, quyền hạn
1. Trong lĩnh vực đối nội: Chủ tịch nước là người có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp thành
lập các chức vụ cao cấp trong bộ máy nhà nước cũng như đóng vai trò điều phối hoạt động
giữa các cơ quan nhà nước then chốt…
2. Trong lĩnh vực đối ngoại: Chủ tịch nước là đại diện cao nhất và chính thức của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các quan hệ quốc tế, chính thức hoá các quyết
định về đối ngoại của nhà nước và là biểu tượng cho chủ quyền quốc gia…
III. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với một số cơ quan nhà nước ở trung ương
a. Chủ tịch nước với Quốc hội
* Về mặt tổ chức: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội và có
nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ Quốc hội.
* Về hoạt động:
- Chủ tịch nước chịu trách nhiệm hợp pháp hóa các quyết định của QH. Ví dụ:
Công bố Hiến pháp, luật của Quốc hội; Căn cứ vào Nghị quyết của QH, Chủ tịch nước ra
quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ; Căn cứ vào nghị quyết của QH, Chủ tịch nước công bố tình trạng
chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược; Căn cứ vào Nghị quyết của QH, Chủ tịch nước
công bố quyết định đại xá.
- Trình dự án luật, kiến nghị về luật trước QH.

69
- Với tư cách là đại biểu QH, Chủ tịch nước có quyền tham dự các kỳ họp QH, có
quyền đề nghị QH họp kín.
* Mối quan hệ về kiểm tra, giám sát:
- Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước QH.
- Trả lời chất vấn của đại biểu QH.
- QH có quyền: bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của QH; bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch nước; bãi nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch
nước.
b. Chủ tịch nước với UBTVQH
* Về mặt tổ chức: UBTVQH giới thiệu để QH bầu Chủ tịch nước trong số các đại biểu
QH.
* Về hoạt động:
- Chủ tịch nước chịu trách nhiệm hợp pháp hóa các quyết định của UBTVQH. Ví
dụ: Công bố pháp lệnh của UBTVQH; Căn cứ vào nghị quyết của UBTVQH, Chủ tịch
nước công bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, ra lệnh tổng động viên
hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp…
- Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của UBTVQH.
- Chủ tịch nước có quyền đề nghị UBTVQH triệu tập QH họp bất thường.
* Mối quan hệ về kiểm tra, giám sát:
- Chủ tịch nước có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại pháp lệnh trong vòng 10
ngày kể từ ngày pháp lệnh đó được thông qua…
- UBTVQH có quyền đề nghị QH bãi nhiệm, miễn nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối
với Chủ tịch nước.
c. Chủ tịch nước với Chính phủ
* Về mặt tổ chức:
- Chủ tịch nước giới thiệu để QH bầu Thủ tướng CP trong số các đại biểu QH.
- Căn cứ vào Nghị quyết của QH, Chủ tịch nước ra quyết định bổ nhiệm Phó thủ
tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

70
* Về hoạt động: Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của của Chính phủ. Chủ tịch
nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết
để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
* Mối quan hệ về kiểm tra, giám sát:
- Trong thời gian QH không họp, Chính phủ, Thủ tướng CP phải báo cáo công tác
với Chủ tịch nước.
- Chủ tịch nước có quyền đề nghị QH bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính
phủ.
- Căn cứ vào Nghị quyết của QH, Chủ tịch nước quyết định miễn nhiệm, cách chức
Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của CP.
- Trong thời gian QH không họp, Chủ tịch nước có quyền tạm thời đình chỉ công
tác của Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của CP theo đề nghị của Thủ
tướng.
IV. Định hướng đổi mới
Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực
hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và
thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Bài 7: CHÍNH PHỦ


I. Vị trí, tính chất pháp lý
Điều 94 Hiến pháp hiện hành quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là
cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
Hiến pháp 2013 chính thức xác định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, thể hiện
rõ hơn nguyên tắc phân công trong thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Về tính chất pháp lý, Chính phủ có hai tính chất sau đây:
1. Cơ quan chấp hành của Quốc hội

71
a. Chính phủ được thành lập trên cơ sở của QH:
+ QH quyết định cơ cấu tổ chức của CP thông qua việc quy định số lượng và tên
gọi của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
+ QH quyết định số lượng Phó thủ tướng.
+ Thủ tướng CP do QH bầu ra trong số các đại biểu QH.
+ QH phê chuẩn viêc bổ nhiệm Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác
của CP theo đề nghị của Thủ tướng CP. Trừ Thủ tướng, các thành viên khác của CP không
nhất thiết phải là đại biểu QH.
b. Chính phủ phải chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH; pháp lệnh, nghị
quyết của UBTVQH:
+ Chính phủ không có quyền phủ quyết các dự luật của QH.
+ Chính phủ trực tiếp hoặc chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành các văn
bản QPPL để cụ thể hóa, chi tiết hóa và hướng dẫn việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị
quyết của QH. Các văn bản này không được trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH.
+ Chính phủ phân công, chỉ đạo các Bộ, ngành tiến hành những biện pháp cụ thể
để những quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH được triển khai, được thực
hiện trên thực tế.
c. Chính phủ chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước QH:
+ Chính phủ phải báo cáo công tác trước QH, trong thời gian QH không họp thì
báo cáo công tác với UBTVQH.
+ Đại biểu QH có quyền chất vấn Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của
CP.
+ Thông qua hoạt động giám sát, QH có quyền: Bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng
CP; phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ; Bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh của CP do QH bầu hoặc
phê chuẩn; Bãi bỏ các văn bản pháp luật của CP, của Thủ tướng CP… nếu các văn bản đó
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH.
2. Cơ quan hành chính cao nhất của đất nước

72
+ Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan đứng đầu hệ thống
các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
+ Trực tiếp tổ chức, chỉ đạo các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động
quản lý nhà nước đối với tất cả các ngành, các lĩnh vực (Hành chính – chính trị, KT, VH
- XH, AN - QP…) trên phạm vi cả nước.
+ Ban hành các văn bản pháp luật nhằm cụ thể hóa,chi tiết hóa, hướng dẫn việc
thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH; pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; có
tính bắt buộc thực hiện chung đối với các cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân trong phạm vi
cả nước.
+ Kiểm tra, giám sát họat động của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương
cũng như ở địa phương: các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc CP, UBND
cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND.
II. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
- Hoạt động quản lý nhà nước của Chính phủ là hoạt động chủ yếu, là chức năng
của Chính phủ. Chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ có hai đặc điểm:

 Chính phủ quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;

 Hoạt động quản lý của Chính phủ có hiệu lực trên phạm vi cả nước.
- Chức năng nói trên được cụ thể hóa bằng điều 96 của Hiến pháp hiện hành (quy
định Chính phủ có 11 loại nhiệm vụ, quyền hạn) và Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
III. Cơ cấu tổ chức
1. Thành viên Chính phủ
- Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của
Chủ tịch nước. Thủ tướng phải là đại biểu Quốc hội.
- Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn về việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức. Căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội, Chủ tịch nước ra
quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Các Phó Thủ tướng không nhất thiết phải
là đại biểu Quốc hội.
- Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê
chuẩn về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của

73
Quốc hội, Chủ tịch nước ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.
2. Bộ và cơ quan ngang Bộ
- Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan chuyên môn của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với ngành (kinh tế – kỹ thuật hoặc sự nghiệp) nhưng Bộ Công
Thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo…; hoặc lĩnh vực nhất định trên phạm vi cả nước như
Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…; quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công.
- Theo Nghị quyết số 03/2011/QH13 của Quốc hội, hiện nay có 22 Bộ, cơ quan
ngang Bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.
IV. Hình thức hoạt động
Chính phủ nước ta hoạt động thông qua 3 hình thức sau: hoạt động của tập thể Chính
phủ, của Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên của Chính phủ.
1. Hoạt động của tập thể Chính phủ trong các phiên họp Chính phủ:
- Phiên họp là hình thức hoạt động tập thể của Chính phủ. Chính phủ họp mỗi tháng
một phiên, đây là các phiên họp thường kỳ. Ngoài ra, Chính phủ có thể họp bất thường
theo đề nghị của: Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước hoặc ít nhất 1/3 tổng số thành viên
của Chính phủ.
- Một phiên họp của Chính phủ phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên của Chính phủ
tham dự. Thành viên nào vắng mặt và có được cử cấp Phó dự phiên họp Chính phủ hay
không thì phải được sự đồng ý của Thủ tướng.
-Trong các phiên họp, Chính phủ có thể mời:
+ Chủ tịch nước,
+ Chủ tịch Hội đồng dân tộc,
+ Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội,
+ Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Những người dự họp không phải là thành viên Chính phủ có quyền phát biểu ý kiến

74
nhưng không có quyền biểu quyết.
- Tại các phiên họp, Chính phủ thảo luận tập thể, biểu quyết theo đa số những vấn đề
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định tại Điều 96 Hiến pháp năm 2013 và
Điều 6 đến Điều 26 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
2. Hoạt động của Thủ tướng Chính phủ: Thủ tướng chính phủ có những nhiệm vụ,
quyền hạn quy định Điều Điều 98 Hiến pháp năm 2013 và Điều 28 Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2015.
3. Hoạt động của các thành viên khác:
* Phó Thủ tướng, có 2 tư cách:
- Là người giúp việc cho Thủ tướng, được Thủ tướng phân công chỉ đạo, quản lý một
số lĩnh vực nhất định.
- Là thành viên của Chính phủ, được quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ,
tham gia quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của tập thể Chính phủ.
* Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, có 2 tư cách:
- Với tư cách là thành viên của Chính phủ: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ
có quyền: tham dự các phiên họp của Chính phủ; xây dựng các dự án Luật, Pháp lệnh và
các dự án khác theo yêu cầu của Chính phủ; trình bày trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội các báo cáo công tác của cơ quan mình theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội; trả lời chất vấn trước Quốc hội; thực hiện nhiệm vụ do Thủ tướng
ủy nhiệm.
- Với tư cách là người đứng đầu Bộ, cơ quan ngang Bộ: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ lãnh đạo, quyết định, hướng dẫn và kiểm tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ
thực hiện các nhiệm vụ, công tác thuộc ngành, lĩnh vực mình phụ trách.
V. Định hướng đổi mới
- Xây dựng tổ chức bộ máy Chính phủ tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa cấp trên
với cấp dưới, giữa tập thể với cá nhân; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính trong tổ chức và hoạt động;
- Thành lập các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng quan lý nhà nước đa

75
ngành, đa lĩnh vực, cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm đầu mối, phủ hợp với
yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ;
- Chuyển một số nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có điều kiện dân sự hóa
cho các bộ dân sự quản lý nhằm tập trung xây dựng quân đội và công an chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại;
- Thực hiện phân cấp mạnh và phù hợp về nhiệm vụ từ Chính phủ và các Bộ cho chính
quyền địa phương;
- Đẩy mạnh việc xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm tập trung thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước cũng
như dịch vụ công.
THẢO LUẬN LẦN 7 (4 tiết)
Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến lớp:
1. Mối quan hệ pháp lý giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Vấn đề đổi mới Chủ tịch nước.
3. Điểm mới của Luật Tổ chức Chính phủ 2015.

Bài 8: TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN


I. Tòa án nhân dân các cấp
1. Vị trí pháp lý, chức năng của Tòa án nhân dân
Theo Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Hiến pháp 2013 đã chính thức khẳng định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp, thể hiện rõ nguyên tắc phân công trong thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta giai
đoạn hiện nay.
- Với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, trong bộ máy nhà nước, Tòa án
nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử. Tòa án nhân dân xét xử những vụ án

76
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những
việc khác theo quy định của pháp luật.
- Chức năng xét xử của Tòa án nhân dân được cụ thể hóa thành nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa án nhân dân các cấp và được quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2002.
2. Hệ thống tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân
a. Hệ thống Tòa án nhân dân
Hiến pháp năm 2013 không tiếp tục liệt kê tên các Tòa án cụ thể như Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) mà quy định: ‘‘Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân
tối cao và các Tòa án khác do luật định”. Điều này nhằm phù hợp với tinh thần cải cách
tư pháp về việc tổ chức Tòa án hạn chế sự phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định hệ thống Tòa án nhân
dân gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương; Tòa án quân sự.
b. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân
b1. Tòa án nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ và quyền hạn được quy định ở Điều 20 Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 .
* Cơ cấu thành viên:
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo
đề nghị của Chủ tịch nước. Sau khi được bầu, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải
tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp. Đây là quy định mới của Hiến
pháp năm 2013 nhằm nâng cao ý thức về danh dự và trọng trách của người giữ chức danh
này. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định ở Điều 27 Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014.

77
- Các Phó Chánh án do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức.
- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị quyết của
Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Thẩm tra viên do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm.
- Thư ký Tòa án do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm.
- Công chức khác, viên chức và người lao động.
* Cơ cấu tổ chức:
- Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Thành viên: Chánh án, các Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao là Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (tổng số thành viên
của Hội đồng Thẩm phán không dưới 13 người và không quá 17 người).
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được quy
định ở Điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Nguyên tắc hoạt động: Hội đồng Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể, quyết
định của Hội đồng Thẩm phán phải được quá ½ tổng số thành viên biểu quyết tán
thành.Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ tư pháp có có trách
nhiệm tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi thảo luận,
thông qua nghị quyết. Hội đồng Thẩm phán được quyền ban hành một loại văn bản quy
phạm pháp luật là Nghị quyết.
- Bộ máy giúp việc: gồm các vụ và các đơn vị tương đương.
- Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
b2. Toà án nhân dân cấp cao
* Cơ cấu thành viên:
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao là 5
năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền
hạn được quy định ở Điều 35 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

78
- Các Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao
là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
- Chánh toà, các Phó Chánh toà do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức.
- Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức.
- Thẩm tra viên do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức.
- Thư ký Tòa án do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức.
- Công chức khác và người lao động.
* Cơ cấu tổ chức:
- Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao
Thành viên: Chánh án, các Phó chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm
phán cao cấp do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân cấp cao (tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán không dưới 11 người
và không quá 13 người).
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao được quy
định ở Điều 31 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 .
Nguyên tắc hoạt động: Uỷ ban Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể, quyết định
của Uỷ ban Thẩm phán phải được quá ½ tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
- Các Toà chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao: Toà hình sự, Toà dân sự, Toà
hành chính, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà gia đình và người chưa thành niên.
Trong trường hợp cần thiết: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Toà
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
- Bộ máy giúp việc: gồm có Văn phòng và các đơn vị khác.
b3. Tòa án nhân dân cấp tỉnh

79
* Cơ cấu thành viên:
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh là 5
năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền
hạn được quy định ở Điều 42 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
- Các Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp
tỉnh là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
- Chánh toà, các Phó Chánh toà do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức.
- Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức.
- Thẩm tra viên do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức.
- Thư ký Tòa án do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức.
- Công chức khác và người lao động.
* Cơ cấu tổ chức:
- Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Thành viên: Chánh án, các Phó chánh án và một số Thẩm phán do Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh được quy
định ở Điều 39 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 .
- Các Toà chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Toà hình sự, Toà dân sự,
Toà hành chính, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà gia đình và người chưa thành niên.
Trong trường hợp cần thiết: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Toà
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
- Bộ máy giúp việc: gồm có Văn phòng, phòng và các đơn vị tương đương.

80
B4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương
* Cơ cấu thành viên:
- Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ
của Chánh án Tòa án nhân dân là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Chánh án Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm vụ, quyền
hạn được quy định ở Điều 47 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
- Các Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
- Chánh toà, các Phó Chánh toà do Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương đương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Thẩm tra viên về thi hành án do Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương đương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Thư ký Tòa án do Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Công chức khác và người lao động.
* Cơ cấu tổ chức:
- Các Toà chuyên trách Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương: có thể có Toà hình sự, Toà dân sự, Toà gia đình và người chưa
thành niên, Toà xử lý hành chính.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Toà chuyên trách căn
cứ vào yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương.
- Bộ máy giúp việc.

81
b5. Các Tòa án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét
xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của
pháp luật; bao gồm: Tòa án quân sự trung ương, các Tòa án quân sự quân khu và tương
đương, các Tòa án quân sự khu vực. Chánh án Tòa án quân sự trung ương đồng thời là
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
4. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động (Điều 103 Hiến pháp 2013)
a. Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án do Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện
Hội đồng xét xử gồm các thẩm phán và hội thẩm nhân dân (hội thẩm quân nhân)
do tòa án có thẩm quyền lập ra để nhân danh nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa và ra
bản án, quyết định đối với các vụ án. Sự tham gia của thẩm phán và hội thẩm trong hoạt
động xét xử nhằm bảo đảm cho các quyết định của tòa án không những đúng pháp luật
mà còn phản ánh được nguyện vọng của nhân dân. Đây chính là hình thức nhân dân giám
sát có hiệu quả và tham gia trực tiếp vào việc thực hiện quyền lực nhà nước tại Tòa án
nhân dân.
b. Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính khách quan và tính pháp chế của hoạt động xét
xử tại tòa án. Theo đó, khi tiến hành xét xử, mỗi thẩm phán và hội thẩm chỉ tuân theo pháp
luật mà không chịu bất cứ sự chi phối nào từ phía các thành viên khác trong hội đồng xét
xử, các thành viên khác của tòa án, các cấp tòa án khác, các cơ quan nhà nước khác, tổ
chức Đảng, các đoàn thể quần chúng cũng như dư luận xã hội. Có như vậy, sự thật khách
quan của vụ án mới có cơ hội được làm sáng tỏ, sự nghiêm minh của pháp luật mới được
giữ vững.
c. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định
Nguyên tắc này nhằm thu hút sự quan tâm đông đảo của nhân dân đối với hoạt
động xét xử của tòa án; từ đó, đảm bảo sự giám sát của nhân dân cũng như nâng cao giá
trị giáo dục pháp luật, phòng ngừa vi phạm pháp luật của hoạt động này trong xã hội. Theo
đó, tòa án phải công khai kế hoạch xét xử, mở phiên tòa công khai tại trụ sở tòa án cũng
như tiến hành xét xử lưu động tại trụ sở của cơ quan, tổ chức khác cũng như tại địa bàn
dân cư. Mọi công dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền tham dự phiên tòa. Đối với một số
vụ án có liên quan đến bí mật quốc gia, danh dự nhân phẩm của công dân hay có liên quan

82
đến trẻ em, tòa án có thể quyết định xét xử kín một phần hay toàn bộ vụ án. Tuy nhiên,
việc tuyên án phải được công khai.
d. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Nguyên tắc này là sự thể hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước áp dụng vào hoạt động của Tòa án nhân dân. Kết quả của
hoạt động xét xử có ảnh hưởng sâu sắc đến trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức cũng như uy tín của bộ máy nhà nước nói chung, tòa án nhân dân
nói riêng nên hoạt động này phải được tiến hành hết sức thận trọng, huy động được trí tuệ
tập thể của đội ngũ thẩm phán và hội thẩm. Tuy nhiên, vị thế bình đẳng giữa thẩm phán
với hội thẩm trong xét xử cũng như sự chênh lệch về trình độ pháp luật, kinh nghiệm xét
xử… giữa họ luôn đặt ra sự thách thức lớn khi áp dụng mô hình xét xử này.
e. Nguyên tắc tranh tụng
Trong quá trình tố tụng luôn có sự tham gia của các chủ thể có quyền, lợi ích đối
nghịch nhau. Việc tranh tụng cho phép các bên đưa ra các minh chứng, lập luận nhằm bảo
vệ quan điểm của mình. Điều này giúp cho Hội đồng xét xử có cái nhìn toàn diện hơn đối
với nội dung vụ việc và đưa ra phán quyết khách quan hơn. Đây là nguyên tắc mới được
quy định trong Hiến pháp 2013. Nguyên tắc tranh tụng nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa
các chủ thể tham gia tố tụng, từ đó tăng cường tính minh bạch, công khai, nâng cao chất
lượng hoạt động xét xử của Tòa án.
f. Nguyên tắc bảo đảm hai cấp xét xử
Chế độ xét xử hai cấp có ý nghĩa góp phần đảm bảo việc xét xử công minh, tránh
oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Đây tuy không phải là nguyên tắc mới được thực hiện ở Việt Nam nhưng mới chính
thức được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013.
g. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa
Quyền bào chữa được xem là quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự.
Quyền này được đặt ra nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo
cũng như góp phần tích cực vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Bị can, bị
cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Đối với những bị can,
bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thế chất, tâm thần, người bị truy

83
tố những tội danh có khung hình phạt đến tử hình, toà án phải chỉ định luật sư bào chữa
cho họ.
II. Viện kiểm sát nhân dân các cấp
1. Vị trí pháp lý, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân:
Điều 107
1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát
khác do luật định.
3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Hiến pháp 2013 vẫn quy định Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng gồm:
a. Chức năng thực hành quyền công tố: nhân danh quyền lực nhà nước để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với những người thực hiện hành vi phạm tội;
b. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp: kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp:
+ Kiểm sát hoạt động tạm giữ, tạm giam người.
+ Kiểm sát hoạt động điều tra;
+ Kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân;
+ Kiểm sát hoạt động thi hành án;
- Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được cụ thể hóa thành nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân các cấp và được quy định trong Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002.
2. Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
a. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm:

84
 Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

 Các Viện kiểm sát khác do luật định.


Điều 40 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương; Viện kiểm sát quân sự các cấp.
b. Cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
b1. Viện kiểm sát nhân dân tối cao
* Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn
phòng; Cơ quan điều tra; các cục, vụ, viện và tương đương; Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng,
cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác; Viện kiểm sát Quân sự trung ương.
* Cơ cấu thành viên: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; công chức khác, viên
chức và người lao động. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu,
miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo
đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
* Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Thành viên: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số Kiểm sát viên do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao được
quy định tại Điều 43 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
* Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ và quyền hạn được quy
định tại Điều 63 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
b2. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
* Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn
phòng; Các viện và tương đương.

85
* Cơ cấu thành viên: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên; công chức khác và người lao động. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao do
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao lả 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao lả 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
* Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
- Thành viên: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số Kiểm sát viên do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao được
quy định tại Điều 45 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
* Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có nhiệm vụ và quyền hạn được
quy định tại Điều 65 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

86
b3. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
* Tổ chức của Viện kiểm sát nhân cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát (Viện trưởng,
các Phó Viện trưởng, một số Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh), Văn phòng,
các phòng và tương đương.
* Cơ cấu thành viên: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên,
công chức và người lao động khác. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
b4. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
* Tổ chức của Viện kiểm sát nhân cấp huyện gồm có: Văn phòng và các phòng,
những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và bộ máy giúp
việc.
* Cơ cấu thành viên: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên,
công chức và người lao động khác. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
b4. Các Viện kiểm sát quân sự
* Tổ chức: Viện kiểm sát quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam
bao gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương
đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực. Viện kiểm sát quân sự Trung ương thuộc cơ cấu
Việm kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương đồng
thời là Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo hoạt động của Viện kiểm
sát quân sự các cấp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.
* Thẩm quyền: Các Viện kiểm sát quân sự có thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức của quân đội; quân nhân, công nhân, nhân
viên quốc phòng, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan; thực hành quyền công tố
theo quy định của pháp luật. Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát
nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát quân sự đều theo quy định chung của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2014.

87
4. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
a. Nguyên tắc độc lập
Để đảm bảo tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, tổ chức và hoạt động của
hệ thống viên kiểm sát nhân dân phải có sự độc lập nhất định, đặc biệt là đối với các cơ
quan nhà nước ở địa phương. Theo pháp luật hiện hành, toàn bộ hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân được đặt dưới sự giám sát toàn diện, chặt chẽ, thường xuyên của Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
b. Nguyên tắc tập trung thống nhất
Nguyên tắc này là sự biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước áp dụng vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Xuất
phát từ yêu cầu đảm bảo tính thống nhất của pháp chế trong việc thực hiện hai chức năng
của mình, Viện kiểm sát nhân dân cần được tổ chức và hoạt động theo ngành dọc một
cách thống nhất và mạnh mẽ. Viện kiểm sát nhân dân do viện trưởng lãnh đạo.
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện
trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo
pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
Viện trưởng VKSND tối cao chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của
ngành kiểm sát trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
III. Định hướng đổi mới các cơ quan tư pháp

 Chiến lược cải cách tư pháp: lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; nâng cao
chất lượng công tác xét xử của tòa án các cấp, bảo đảm toà án xét xử độc lập, đúng pháp
luật, kịp thời; xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý và tôn
trọng quyền con người; đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của các cơ
quan và chức danh tư pháp;

 Đối với TAND: Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử; xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm
bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh trụng tại các phiên

88
tòa, lấy kết quả tranh tụng tại phiên toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi
đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp. Tổ chức hệ thống tòa án
theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính: tòa án sơ thẩm khu vực
được tổ chức ở một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ
yếu là xét xử phúc thẩm và sơ thẩm một số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu
vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh
nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm. Mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với tất cả các loại khiếu
kiện hành chính;

 Đối với VKSND: trước mắt thực hiện tốt hai chức năng công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp; nghiên cứu thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra (mô
hình Viện Công tố); Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án;

 Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
THẢO LUẬN LẦN 8 (4 tiết)
Lưu ý: Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến
lớp:
1. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND
a. Nguyên tắc xét xử ở Tòa án do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện
b. Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật
c. Nguyên tắc Tòa án chỉ xét xử tập thể và quyết định theo đa số
d. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định
e. Nguyên tắc tranh tụng
f. Nguyên tắc xét xử 2 cấp.
g. Nguyên tắc Tòa án phải đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo
2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND
a. Nguyên tắc độc lập
b. Nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành

89
3. Định hướng đổi mới Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
4. Điểm mới của Luật Tổ chức TAND 2014 và Luật Tổ chức VKSND 2014.

Bài 9: CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG


I. Hội đồng nhân dân các cấp
1. Vị trí, tính chất pháp lý
Vị trí, tính chất pháp lý của Hội đồng nhân dân các cấp hiện nay được quy định tại
Khoản 1 Điều 113 Hiến pháp sửa đổi 2013: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân,
do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên”.
Căn cứ vào quy định tại Điều 113 Hiến pháp sửa đổi 2013, Hội đồng nhân dân có
hai tính chất sau:
a. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân địa phương:
- Hội đồng nhân dân là cơ quan duy nhất ở địa phương do cử tri ở địa phương trực
tiếp bầu ra.
- Hội đồng nhân dân là một tập thể bao gồm tất cả các đại biểu thuộc các thành phần
dân cư ở địa phương, đại diện tiêu biểu nhất cho tiếng nói và trí tuệ tập thể của nhân dân
địa phương. Hội đồng nhân dân được thay mặt nhân dân để quyết định những vấn đề
quan trọng nhất của địa phương Những quyết định của Hội đồng nhân dân là sự thể hiện
ý chí của nhân dân địa phương, phục vụ cho lợi ích của nhân dân ở địa phương.
- Hội đồng nhân dân phải liên hệ thường xuyên với nhân dân địa phương, chịu sự
giám sát của cử tri. Theo quy định của pháp luật thì các đại biểu Hội đồng nhân dân phải
tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân để nắm được ý kiến, mong
muốn của cử tri từ đó phản ánh tại kỳ họp. Chính điều này đã đảm bảo cho các nghị quyết
của Hội đồng nhân dân phản ánh được trung thực nhất nhu cầu nguyện vọng của đại đa
số nhân dân địa phương.
b. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương:

90
- Hội đồng nhân dân là cơ quan trực tiếp được nhân dân trực tiếp giao quyền để
thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương;
- Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương như quyết
định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh. Đặc biệt,
Hội đồng nhân dân có vai trò rất quan trọng việc xây dựng bộ máy chính quyền địa
phương.
- Hội đồng nhân dân thể chế hóa ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương thành
những chủ trương, biện pháp có tính bắt buộc thi hành ở địa phương.
- Hội đồng nhân dân giám sát việc chấp hành pháp luật đối với các cơ quan nhà
nước ở địa phương.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân được quy định cụ thể
trong các quy định tại Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015, bao gồm:
a. Quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương trong phạm vi thẩm
quyền và tổ chức thực hiện các quyết định đó
Phạm vi những vấn đề quan trọng của địa phương Hội đồng nhân dân được quyền
quyết định khá rộng, thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể như:
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội: Hội đồng nhân dân quyết định kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; phân bổ ngân sách nhà nước ở địa phương; phân cấp nguồn thu và nhiệm
vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương;
Trong lĩnh vực tổ chức các bộ máy các cơ quan nhà nước tại địa phương: Hội đồng
nhân dân bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh trong cơ cấu của chính quyền địa
phương;
Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp
luật; các biện pháp bảo đảm để thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế, giáo dục, đào tạo, tài
nguyên, môi trường, an ninh quốc phòng, chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội…
b. Giám sát việc chấp hành pháp luật đối với các cơ quan nhà nước ở địa
phương
91
* Đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân: Hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân bao trùm lên các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hoạt động tại địa phương.
- Đối tượng giám sát trực tiếp tại kỳ họp: Thường trực Hội đồng nhân dân; Ủy ban
nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp, Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp.
- Đối tượng giám sát chung (giám sát gián tiếp) đối với tất cả các cơ quan nhà nước,
các tổ chức và mọi cá nhân có liên quan ở địa phương trong việc chấp hành Hiến pháp,
luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
* Nội dung của giám sát
Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm:
- Giám sát hoạt động công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp và Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp.
- Giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước
cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức và
mọi cá nhân ở địa phương.
* Hình thức của giám sát
Theo Điều 87 Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015, Hội đồng nhân dân có
các hình thức giám sát sau đây:
Thứ nhất, xem xét báo cáo công tác của Ủy ban nhân dân cùng cấp về tình hình
thi hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp
Thứ hai, xem xét văn bản của Ủy ban nhân dân cùng cấp có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp
Thứ ba, thành lập đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét thấy cần thiết và
xem xét kết quả giám sát của Đoàn giám sát
Thứ tư, Hội đồng nhân dân còn thực hiện chức năng giám sát thông qua hoạt động
chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.

92
Theo quy định tại Điều 96 Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015, Đại biểu
Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân
- Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân
- Uỷ viên Ủy ban nhân dân
- Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể lựa chọn một trong hai hình thức chất vấn: Chất
vấn tại kỳ họp và chất vấn ngoài kỳ họp.
* Các biện pháp pháp lý mà Hội đồng nhân dân áp dụng trong quá trình giám
sát
Theo Khoản 4 Điều 87 Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015, căn cứ vào kết
quả giám sát, Hội đồng nhân dân có thể áp dụng các biện pháp xử lý sau đây:
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp ban hành văn bản
để thi hành Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cùng cấp trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
- Ra nghị quyết về trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn khi xét
thấy cần thiết;
- Miễn nhiệm, bãi nhiệm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Ủy viên Ủy ban nhân dân.
- Lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ sau đây:
+ Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban của
Hội đồng nhân dân; Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân đối với Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh;

93
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên Ủy ban nhân
dân.
- Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội
đồng nhân dân bầu trong các trường hợp sau đây: Có kiến nghị của ít nhất một phần ba
tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân; Có kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp; Người được lấy phiếu tín nhiệm có từ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng
nhân dân trở lên đánh giá tín nhiệm thấp.
Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân
dân bỏ phiếu không tín nhiệm có thể xin từ chức. Trường hợp không từ chức thì cơ quan
hoặc người có thẩm quyền giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu chức vụ đó có trách nhiệm
trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định việc miễn nhiệm người không được Hội
đồng nhân dân tín nhiệm
- Giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân.
3. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân
Theo Điều 2 Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015, các đơn vị hành chính của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: 1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); 2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện); 3. Xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); 4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Điều 3 Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015 đã phân loại Chính quyền địa
phương nhằm hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng tổ chức bộ máy,
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của chính quyền địa phương phù hợp với
từng loại đơn vị hành chính. Đơn vị hành chính được phân loại như sau:
- Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính cấp tỉnh loại
đặc biệt; các đơn vị hành chính cấp tỉnh còn lại được phân thành ba loại: loại I, loại II và
loại III;
- Đơn vị hành chính cấp huyện được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III;
- Đơn vị hành chính cấp xã được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III.

94
Điều 4 Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015 quy định: 1. Cấp chính quyền địa
phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành
chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này. 2.
Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã. 3.
Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc
trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương, phường, thị trấn.
a. Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
* Ở nông thôn:
- Hội đồng nhân tỉnh có từ 50 đến 95 đại biểu
- Hội đồng nhân dân huyện có từ 30 đến 45 đại biểu.
- Hội đồng nhân dân xã có từ 15 đến 35 đại biểu.
* Ở đô thị:
- Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương có từ 50 đến 95 đại biểu
(riêng Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh được bầu 105 đại biểu)
- Hội đồng nhân dân quận có từ 30 đến 45 đại biểu
- Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương có từ 30 đến 40 đại biểu
- Hội đồng nhân dân phường có từ 25 đến 35 đại biểu
- Hội đồng nhân dân thị trấn có từ 15 đến 35 đại biểu
b. Thường trực Hội đồng nhân dân
* Ở nông thôn:
- Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, hai Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân và Chánh
Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh.
Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động
chuyên trách; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt
động chuyên trách

95
- Thường trực Hội đồng nhân dân huyện gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, hai
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân
huyện.
Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động
chuyên trách; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt
động chuyên trách
- Thường trực Hội đồng nhân dân xã gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, một Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã là đại biểu Hội đồng
nhân dân hoạt động chuyên trách.
* Ở đô thị
- Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương gồm: Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, hai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, các Ủy viên là Trưởng ban của
Hội đồng nhân dân và Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung
ương.
Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương có thể là đại biểu
Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố
trực thuộc trung ương là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
- Thường trực Hội đồng nhân dân quận gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, hai Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân và các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân quận.
Chủ tịch Hội đồng nhân dân quận có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động
chuyên trách; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân quận là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt
động chuyên trách.
- Thường trực Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, hai Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân và các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân.
Chủ tịch Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách;
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố
trực thuộc trung ương là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.

96
- Thường trực Hội đồng nhân dân phường gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân
phường, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
phường là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
- Thường trực Hội đồng nhân dân thị trấn gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, một
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thị trấn. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thị trấn là đại
biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
c. Các ban của Hội đồng nhân dân
* Ở nông thôn:
- Hội đồng nhân dân tỉnh thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - ngân sách, Ban văn
hóa - xã hội; nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban dân tộc.
Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh gồm có: Trưởng ban, không quá hai Phó Trưởng
ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh do Hội
đồng nhân dân tỉnh quyết định. Trưởng ban của Hội đồng nhân dân tỉnh có thể là đại biểu
Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân tỉnh
là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách
- Hội đồng nhân dân huyện thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội; nơi nào
có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban dân tộc.
Ban của Hội đồng nhân dân huyện gồm có: Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và
các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân huyện do Hội đồng
nhân dân huyện quyết định. Trưởng ban của Hội đồng nhân dân huyện có thể là đại biểu
Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân huyện
là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
- Hội đồng nhân dân xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội.
Ban của Hội đồng nhân dân xã gồm có: Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các
Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân xã do Hội đồng nhân dân
xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của Hội đồng
nhân dân xã hoạt động kiêm nhiệm.
* Ở đô thị:
- Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương thành lập Ban pháp chế, Ban
kinh tế - ngân sách, Ban văn hóa - xã hội, Ban đô thị.

97
Ban của Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương gồm có Trưởng ban,
không quá hai Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội
đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương quyết định. Trưởng
ban của Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương có thể là đại biểu Hội đồng
nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân thành phố trực
thuộc trung ương là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
- Hội đồng nhân dân quận thành lập Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội.
Ban của Hội đồng nhân dân quận gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các
Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân
quận quyết định. Trưởng ban của Hội đồng nhân dân quận có thể là đại biểu Hội đồng
nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân quận là đại
biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
- Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương thành lập Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội. Ở thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban dân tộc. Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định tiêu chuẩn, điều kiện thành lập Ban dân tộc quy định tại khoản này.
Ban của Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số
lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương quyết định. Trưởng Ban
của Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Trưởng ban
của Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
- Hội đồng nhân dân phường thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội. Ban
của Hội đồng nhân dân phường gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên.
Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân phường
quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân
dân phường hoạt động kiêm nhiệm.
- Hội đồng nhân dân thị trấn thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội. Ban của
Hội đồng nhân dân thị trấn gồm Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số

98
lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân thị trấn quyết
định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân
thị trấn hoạt động kiêm nhiệm.
4. Kỳ họp Hội đồng nhân dân
Kỳ họp được coi là hình thức hoạt động quan trọng nhất của Hội đồng nhân dân.
Tại kỳ họp, Hội đồng nhân dân bàn bạc, thảo luận tập thể và quyết định theo đa số những
vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Các vấn đề cơ bản liên quan đến kỳ họp Hội đồng nhân dân được quy định tại Mục
1 Chương VI Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015
Theo quy định tại Điều 78 Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015, Hội
đồng nhân dân họp mỗi năm 2 kỳ thường lệ. Ngoài ra, Hội đồng nhân dân có thể họp bất
thường theo yêu cầu của các chủ thể sau:
- Thường trực Hội đồng nhân dân
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp
- Ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân.
Việc chuẩn bị cho kỳ họp Hội đồng nhân dân do Thường trực Hội đồng nhân dân
cùng cấp chủ trì với sự tham gia của các Ban.
Trong nhiệm kỳ, Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định triệu tập kỳ họp
thường lệ chậm nhất là 20 ngày, kỳ họp bất thường chậm nhất là 07 ngày trước ngày khai
mạc kỳ họp. Trường hợp khuyết Thường trực Hội đồng nhân dân thì Thường trực Hội
đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên, đối với cấp tỉnh thì Ủy ban thường
vụ Quốc hội chỉ định triệu tập viên, để triệu tập và chủ tọa kỳ họp Hội đồng nhân dân.
Quyết định triệu tập kỳ họp và dự kiến chương trình kỳ họp Hội đồng nhân dân
được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương chậm nhất là 10
ngày trước ngày khai mạc kỳ họp thường lệ và chậm nhất là 03 ngày trước ngày khai mạc
kỳ họp bất thường.
* Hình thức họp:
- Hội đồng nhân dân họp công khai.

99
- Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu
Hội đồng nhân dân thì Hội đồng nhân dân quyết định họp kín.
* Thành phần tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân
- Thành phần bắt buộc: Tất cả các đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Thành phần khách mời: Đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân cấp trên trực tiếp, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp trên được bầu
tại địa phương được mời tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân; đại diện Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ được mời tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Đại diện cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính
trị - xã hội được mời tham dự các phiên họp công khai của Hội đồng nhân dân khi bàn về
các vấn đề có liên quan.
Đại diện đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, khách quốc
tế, cơ quan báo chí và công dân có thể được tham dự các phiên họp công khai của Hội
đồng nhân dân.
* Trình tự thông qua dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo tại kỳ họp Hội đồng
nhân dân:
- Cơ quan hoặc người trình dự án phải trình bày tóm tắt trước Hội đồng nhân dân
về dự án.
- Hội đồng nhân dân nghe báo cáo thẩm tra dự án của các Ban.
- Thảo luận về dự án.
- Biểu quyết thông qua dự án.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu
Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành; riêng nghị quyết về bãi nhiệm đại biểu Hội đồng
nhân dân được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân
biểu quyết tán thành.
5. Đại biểu Hội đồng nhân dân:

100
Đại biểu Hội đồng nhân dân là thành viên của Hội đồng nhân dân được bầu cử trực
tiếp bởi nhân dân địa phương, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở
địa phương.
Với tư cách là thành viên của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có
nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kỳ họp Hội đồng nhân dân, và thực hiện các công việc khác
theo sự phân công của Hội đồng nhân dân.
Để đảm bảo cho hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân Điều 100, Điều 101
Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định:
- Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Hội đồng nhân dân, khám xét nơi ở
và nơi làm việc của đại biểu Hội đồng nhân dân nếu không có sự đồng ý của Hội đồng
nhân dân hoặc trong thời gian Hội đồng nhân dân không họp, không có sự đồng ý của
Thường trực Hội đồng nhân dân.
- Trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ vì phạm tội quả tang thì cơ
quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân
dân xem xét, quyết định.
- Trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân bị khởi tố bị can thì Thường trực Hội
đồng nhân dân quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
Hội đồng nhân dân đó. Đại biểu Hội đồng nhân dân được trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn đại biểu và khôi phục các lợi ích hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án đối với đại biểu đó hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật tuyên đại biểu đó không có tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.
II. Ủy ban nhân dân các cấp
1. Vị trí, tính chất pháp lý của Ủy ban nhân dân:
Theo quy định tại điều 114 Hiến pháp 2013, “Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền
địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân
dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”.
Căn cứ vào quy định tại Điều 114 Hiến pháp hiện hành có thể thấy Ủy ban nhân
dân có hai tính chất sau:
a. Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân:

101
Tính chấp hành của Ủy ban nhân dân được thể hiện rõ trong mối quan hệ với Hội
đồng nhân dân về tổ chức và hoạt động.
* Về tổ chức: Ủy ban nhân dân được thành lập trên cơ sở của Hội đồng nhân dân
cùng cấp. Tất cả các thành viên của Ủy ban nhân dân đều do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu ra:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu. Chủ tịch Ủy ban
nhân dân nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Phó chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cũng do Hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu, nhưng không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.
* Về hoạt động: Ủy ban nhân dân có trách nhiệm chấp hành các nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cùng cấp: Ủy ban nhân dân tổ chức, chỉ đạo các cơ quan ban ngành thực
hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, để biến nghị quyết của Hội đồng nhân dân
thành hiện thực trong cuộc sống.
* Ủy ban nhân dân báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân
cùng cấp về các hoạt động của mình:
- Ủy ban nhân dân báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn: Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các
Phó chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân; cũng như Thủ trưởng các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp.
- Thông qua hoạt động giám sát, Hội đồng nhân dân có quyền:
+ Bãi nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy
ban nhân dân.
+ Lấy phiếu tín nhiệm, Bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của Ủy ban nhân.
+ Bãi bỏ các văn bản pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
nếu các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên,
trái với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
b. Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:

102
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính
phủ.
Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân thực hiện chức
năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất
trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở. Ủy ban nhân dân là cơ quan
trực tiếp tổ chức, chỉ đạo các cơ quan ban ngành thuộc quyền thực hiện hoạt động quản lý
nhà nước đối với tất cả các ngành, các lĩnh vực (kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc
phòng, giáo dục…) ở địa phương theo sự phân cấp, phân quyền và uỷ quyền quản lý của
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Trong quá trình quản lý nhà nước tại địa phương, Ủy ban nhân dân có quyền ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật có tính bắt buộc thực hiện đối với các cơ quan, tổ
chức và mọi cá nhân có liên quan ở địa phương, Ủy ban nhân dân có thể trực tiếp hoặc
thông qua các cơ quan chuyên môn ban hành các văn bản cá biệt nhằm giải quyết các
quyền, nghĩa vụ hoặc xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa
phương.
Tính chất hành chính của Ủy ban nhân dân đã tạo nên mối quan hệ chặt chẽ giữa
Ủy ban nhân dân với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên cả về tổ chức và hoạt
động.
* Về tổ chức:
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu nhưng kết quả bầu Ủy ban
nhân dân phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn, đối với Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thì phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
* Về hoạt động:
- Chịu sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra hoạt động công tác của UBND cấp trên trực
tiếp.
- Chủ tịch UBND cấp dưới được quyền tham dự phiên họp mở rộng của UBND
cấp trên trực tiếp để bàn và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch có liên quan.
* Về kiểm tra, giám sát:

103
- Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp.
- Thủ tướng Chính phủ quyết định điều động Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định
điều động Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.
- Thủ tướng Chính phủ quyết định cách chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định
cách chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp
khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân có hành vi vi phạm pháp
luật hoặc không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên có quyền phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp. Thủ tướng Chính phủ có quyền phê chuẩn
kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản trái pháp
luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên có quyền yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp dưới trực tiếp đình chỉ, bãi bỏ các văn bản trái pháp của các cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp dưới.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
- Hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân là hoạt động chủ yếu, là chức
năng của Ủy ban nhân dân. Chức năng quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân có hai đặc
điểm:
+ Ủy ban nhân dân quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
+ Hoạt động quản lý của Ủy ban nhân dân hiện nay được thực hiện theo sự phân
cấp, phân quyền và theo sự uỷ quyền của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
- Chức năng của Ủy ban nhân dân được cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, quyền
hạn của Ủy ban nhân dân và được quy định trong Luật Tổ chức Chính quyền địa phương
năm 2015.
3. Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân:

104
a. Thành viên của Ủy ban nhân dân:
* Ở nông thôn:
- Thành viên của Ủy ban nhân dân tỉnh: Ủy ban nhân dân tỉnh gồm Chủ tịch, Phó
Chủ tịch và các Ủy viên. Ủy ban nhân dân tỉnh loại I có không quá bốn Phó Chủ tịch; tỉnh
loại II và loại III có không quá ba Phó Chủ tịch. Ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh gồm các
Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy viên phụ
trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an.
- Thành viên của Ủy ban nhân dân huyện: Ủy ban nhân dân huyện gồm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Ủy ban nhân dân huyện loại I có không quá ba Phó Chủ
tịch; huyện loại II và loại III có không quá hai Phó Chủ tịch. Ủy viên Ủy ban nhân dân
huyện gồm các Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
huyện, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an.
- Thành viên của Ủy ban nhân dân xã: Ủy ban nhân dân xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an. Ủy ban nhân dân xã loại I có
không quá hai Phó Chủ tịch; xã loại II và loại III có một Phó Chủ tịch.
* Ở đô thị:
- Thành viên của Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương: Ủy ban nhân
dân thành phố trực thuộc trung ương gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.
Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có không quá năm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân; các thành phố khác trực thuộc trung ương có không quá bốn Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân. Ủy viên Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương gồm các Ủy viên là
người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung
ương, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an.
- Thành viên của Ủy ban nhân dân quận: Ủy ban nhân dân quận gồm Chủ tịch, Phó
Chủ tịch và các Ủy viên. Ủy ban nhân dân quận loại I có không quá ba Phó Chủ tịch; quận
loại II và loại III có không quá hai Phó Chủ tịch. Ủy viên Ủy ban nhân dân quận gồm các
Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân quận, Ủy viên
phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an.
- Thành viên của Ủy ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương: Ủy ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
thuộc thành phố trực thuộc trung ương gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Ủy
105
ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương loại I có không quá ba Phó Chủ tịch; thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương loại II và loại III có không quá hai Phó Chủ tịch. Ủy viên
Ủy ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương gồm các Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, Ủy viên phụ
trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an.
- Thành viên của Ủy ban nhân dân phường: Ủy ban nhân dân phường gồm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an. Ủy ban nhân dân
phường loại I có không quá hai Phó Chủ tịch; phường loại II và loại III có một Phó Chủ
tịch.
b. Cơ cấu tổ chức:
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân được tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện,
là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy
quyền của cơ quan nhà nước cấp trên.
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp
vụ của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực cấp trên.
Việc tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân phải bảo đảm phù hợp
với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và điều kiện, tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của từng địa phương; bảo đảm tinh gọn, hợp lý, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả trong quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở; không trùng lặp với nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước cấp trên đặt tại địa bàn. Chính phủ quy định cụ thể
tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
4. Hình thức hoạt động của Ủy ban nhân dân:
Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình thông qua các
hình thức hoạt động: tập thể Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên
khác của Ủy ban nhân dân.
a. Hoạt động của tập thể Ủy ban nhân dân thông qua các phiên họp:

106
- Ủy ban nhân dân họp thường kỳ mỗi tháng một lần.
- Ủy ban nhân dân họp bất thường trong các trường hợp sau đây: do Chủ tịch Ủy
ban nhân dân quyết định; theo yêu cầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp,
đối với phiên họp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ;
theo yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số thành viên Ủy ban nhân dân.
Tại phiên họp, Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số những
vấn đề thuộc thẩm quyền của tập thể Uỷ ban nhân dân theo sự phân cấp, phân quyền và
sự uỷ quyền của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Quyết định của Ủy ban nhân dân
phải được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban nhân dân biểu quyết tán thành. Trường hợp
số tán thành và số không tán thành ngang nhau thì quyết định theo ý kiến biểu quyết của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
b. Hoạt động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Là người đứng đầu Ủy ban nhân dân, lãnh đạo, điều
hành hoạt động của Ủy ban nhân dân. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
- Chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo
quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương; cùng các thành viên khác của Ủy ban
nhân dân chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân
dân cùng cấp, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, trước Nhân dân địa phương và trước
pháp luật.
- Trực tiếp chỉ đạo giải quyết hoặc giao Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân chủ trì, phối
hợp giải quyết những vấn đề liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực ở địa phương. Trường
hợp cần thiết, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể thành lập các tổ chức tư vấn để tham mưu,
giúp Chủ tịch giải quyết công việc. Ủy nhiệm một Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thay
mặt Chủ tịch điều hành công việc của Ủy ban nhân dân khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân
vắng mặt.
- Thay mặt Ủy ban nhân dân ký quyết định của Ủy ban nhân dân; ban hành quyết
định, chỉ thị và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó ở địa phương.
c. Hoạt động của Phó chủ tịch và các ủy viên của Ủy ban nhân dân:
* Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là chức danh giúp việc cho Chủ tịch Ủy ban
nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và

107
chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ được giao;
cùng các thành viên khác của Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của
Ủy ban nhân dân.
Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tham dự đầy đủ các phiên họp Ủy ban nhân dân;
thảo luận và biểu quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân.
Ký quyết định, chỉ thị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân khi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân
ủy nhiệm.
* Ủy viên Ủy ban nhân dân được Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công phụ trách
lĩnh vực cụ thể và chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân về
việc thực hiện nhiệm vụ được giao; cùng các thành viên khác của Ủy ban nhân dân chịu
trách nhiệm tập thể về hoạt động của Ủy ban nhân dân; báo cáo công tác trước Hội đồng
nhân dân khi được yêu cầu. Tham dự đầy đủ các phiên họp Ủy ban nhân dân; thảo luận
và biểu quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân. Ủy viên Ủy
ban nhân dân là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quản lý nhà nước cấp trên về ngành, lĩnh vực
được phân công phụ trách.

THẢO LUẬN LẦN 9 (4 tiết)


Sinh viên phải chuẩn bị những nội dung thảo luận sau đây trước khi đến lớp:
1. Mối quan hệ pháp lý giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ với chính
quyền địa phương.
2. Định hướng đổi mới Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (mô hình Hội đồng
nhân dân, vấn đề nhất thể hóa Chủ tịch Ủy ban nhân dân với Bí thư cấp ủy, vấn đề bầu
trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã).
3. Điểm mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.

108
109

You might also like