Professional Documents
Culture Documents
Đề: Giải thích sự phát triển của triết học ngôn ngữ Wittgenstein tiền kỳ và hậu kỳ
Bài làm
I. Dẫn nhập
Ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm trung gian giữa tư tưởng và thế giới, hay nói
cách khác muốn hiểu biết thế giới chúng ta phải đi qua con đường ngôn ngữ. Một cách thông
thường, có ba cách nhận diện ngôn ngữ: ký hiệu (morpheme), cấu trúc (syntax) và ý nghĩa. Trong
đó, ý nghĩa là đối tượng chính mà triết học ngôn ngữ nhắm tới.
II. Sự phát triển của triết học ngôn ngữ Wittgenstein tiền kỳ
Sự phát triển của triết học phân tích được chia thành ba giai đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất là 10
năm đầu thế kỷ 20, bao gồm thời kỳ hình thành của triết học phân tích, với tư tưởng logic của
Frege, việc Moore và Russell chống chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối và đề xướng phương pháp phân
tích triết học. Giai đoạn thứ hai từ thập niên 20 – thập niên 40, là thời kỳ phát triển toàn diện cực
thịnh của triết học phân tích, với “thuyết triết học logic” của Wittgenstein và sự hình thành trường
phái Vienna. Giai đoạn thứ ba từ sau thập niên 50,là giai đoạn phát triển của triết học phân tích sau
khi nó chuyển từ châu Âu sang Mỹ, cũng là giai đoạn triết học phân tích bắt đầu suy tàn, với chủ
nghĩa thực dụng logic của Quine1.
1. Frege
Để hiểu rõ hơn về sự hình thành và phát triển của triết học phân tích Wittgenstein tiền kỳ, chúng ta
cùng nhau tìm hiểu chi tiết hơn về nguồn gốc của triết học phân tích bắt đầu từ Gottob Frege (1848
– 1925) - một một nhà toán học, logic học và triết học nổi tiếng người Đức. Frege đã khám phá
rằng, ngôn ngữ không phải là tư tưởng về thế giới theo cách hiểu của truyền thống Tây phương, mà
là cái gì khách quan bên ngoài độc lập với tư tưởng. Nghĩa là, ngôn ngữ là ký hiệu về thực tại của
thế giới. Ký hiệu sẽ có những quy luật xác định rõ ràng của nó.
Frege đã khám phá ra giữa ngôn ngữ và toán học có một điểm chung là logic. Toán học theo Frege
là cái khách quan, cái sẵn có ở bên ngoài con người. Từ đó, Frege đã đơn giản toán học xuống thành
logic với mục đích khẳng định tính đúng sai của một mệnh đề. Và sau đó, ông đã thiết lập một hệ
thống khoa học logic cho ngôn ngữ. Ông đã tìm ra một nguyên tắc đứng sau ngôn ngữ mà theo ông
nó mang tính phổ quát nhất mà tất cả mọi người đều có thể chấp nhận. Nguyên tắc đó là Logic ngôn
ngữ. Và rồi, ông đã giản lược ngôn ngữ về logic toán học.
Hệ thống logic ngôn ngữ của Frege lấy phán đoán làm khởi điểm suy luận logic dựa trên “nguyên
tắc ngữ cảnh” đó là, ý nghĩa của từ ngữ nằm trong ngữ cảnh của câu nói chứ không phải trong từ
ngữ cô lập. Ông đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc này khi cho rằng: “Thực tế, chỉ có
trong một câu hoàn chỉnh, từ ngữ mới có ý nghĩa…”. Hay nói cách khác, trong hoạt động xác định
1
TÂN NGUYỄN, Triết Học Ngôn Ngữ, tr. 15 – tr. 16
ý nghĩa, hạt nhân là câu chứ không phải từ ngữ. Bên cạnh đó, hệ thống Logic ngôn ngữ của Frege
lần đầu tiên đưa ra các khái niệm như lượng từ, phủ định, đồng nhất,… vào logic, tiến hành các
phương pháp logic đối với phép quy nạp số học, đề xướng các khái niệm mệnh đề hàm hạng và
mệnh đề diễn toán, đó là tiêu chí đầu cho logic số lượng.
Frege cũng đã phân biệt giữa ý nghĩa (hàm nghĩa, meaning) và ý vị (chỉ xưng, referent). Frege trước
tiên phân biệt hai mệnh đề “a=a” và “a=b”. Ông đã đưa ra lối giải thích mới cho sự khác nhau về
địa vị logic của hai mệnh đề “a=a” và “a=b” mà triết học truyền thống đã giải thích trước đó. Theo
Frege, Mệnh đề “a=b” cung cấp tri thức nhiều hơn mệnh đề “a=a” là vì, trong một mệnh đề, trừ
danh xưng (tên gọi) và đối tượng mà nó chỉ, còn có nhân tố thứ ba, đó là ý nghĩa của danh xưng. Ý
vị là đối tượng mà danh xưng chỉ (ví dụ: ý vị của “Sao Hôm” là hành tinh mà nó chỉ. Một danh
xưng sở dĩ có thể chỉ đối tượng của nó, là do nó có ý nghĩa đó. Do vậy, Frege phân biệt tách bạch ý
nghĩa của danh xưng với đối tượng mà nó chỉ xưng (ý vị).
Triết học số học của Frege dựa trên ba nguyên tắc có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của
triết học phân tích: a) Phân biệt rõ cái tâm lý học và cái logic, cái chủ quan và cái khách quan; b)
Nghiên cứu quan hệ trong câu, chứ không nghiên cứu ý nghĩa từ ngữ riêng lẻ; c) Chú ý phân biệt
khái niệm và đối tượng, mọi số học đều có thể quy về logic. Frege cho rằng, triết học trước hết phải
là một thức logic, một thứ triết học tư tưởng.
Tóm lại, trong triết học ngôn ngữ, Frege đóng góp 2 thuyết quan trọng: 1) Thuyết về ý nghĩa trong
câu (Theory of sentence meaning): phân biệt giữa ý nghĩa và ý vị. Ý nghĩa mơ hồ, ý vị chính xác. Ý
vị là cái xác định ý nghĩa. Và, 2) Thuyết hàm số: phân biệt từ với câu. Từ đứng một mình sẽ không
có ý nghĩa, nó chỉ có ý nghĩa khi nằm trong câu. Mệnh đề là hàm số, mệnh đề xác định ý nghĩa của
từ.
2. Russell
Bertreand Russell (1872 – 1970) là một triết gia, nhà lôgic học, nhà toán học người Anh của thế kỷ
20. Ông được xem là một trong những người đặt nền móng cho triết học phân tích. Tư tưởng
Russell bắt nguồn từ truyền thống chủ nghĩa kinh nghiệm Anh do Locke, Berkeley, Hume, Mill đại
diện; tư tưởng trực tiếp thì bắt nguồn từ tư tưởng logic của Frege.
Nhận ra thành công của Frege trong việc đặt nền tảng toán học dựa trên cơ sở logic, Russell muốn
tìm ra cơ sở cho ngôn ngữ dựa trên Logic. Ông đã tiến một bước xa hơn Frege về ngôn ngữ khi cho
rằng, không thể áp dụng hoàn toàn toán học vào trong ngôn ngữ. Theo Frege, nguyên tắc logic toán
của Frege không mô tả được trọn vẹn ngôn ngữ, bởi vì ngôn ngữ phức tạp hơn toán rất nhiều. Do đó
không thể đơn giản ngôn ngữ thành logic toán học.
Rusell đã đưa ra thuyết nguyên tử logic. Thuyết này đồng hóa logic ngôn ngữ với thế giới. Theo
Russell, ngôn ngữ có cấu trúc giống như trong đời sống. Cấu trúc logic của ngôn ngữ giống logic
ngôn ngữ ngoài đời. Cách dùng sự kiện ở ngoài đời cũng tương tự trong ngôn ngữ. Giữa ngôn ngữ,
hình ảnh, sự kiện có mối tương quan với nhau theo kiểu nguyên tử. Những điều xảy ra trong ngôn
ngữ đều xảy ra trong thế giới. Như vậy, phương pháp phân tích logic của Russell đó là phương pháp
trở về cái đơn giản nhất để giải thích cái phức tạp. Phương pháp này chịu ảnh hưởng của Dercates.
Russel đề nghị, muốn cho triết học phát triển thì phải đặt nền tảng ngôn ngữ trên logic nào đó mà tất
cả con người đều hiểu hết. Logic đó là logic của thuyết phân tử. Từ đó, triết học ngôn ngữ trở thành
triết học phân tích. Phân tích logic của ngôn ngữ với logic của sự kiện dựa trên mô hình của nguyên
tử. Trong ngôn ngữ cũng có những yếu tố gắn liền sự kiện.
Ngoài ra, Russell đã cố gắng loại bỏ những gì mà ông cho là các khẳng định vô nghĩa và không
mạch lạc trong triết học. Ông tìm kiếm sự trong sáng và tính chính xác trong luận cứ bằng ngôn ngữ
chính xác và bằng cách phân tách các mệnh đề triết học thành các thành phần đơn giản nhất.