You are on page 1of 490

BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI .

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 16:52 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư - Lời giới thiệu


Việt Hải

Cổ Tiên, Thành Hiền Tiền Triết, tập trung


Bát Quái, Cửu cung kiêm cụ thể
Chư kinh các quyết tổng toàn thư

------000------
Địa lý nghiệm như thần
Cao siêu triết thánh nhân
Ngọc- Thư tam quyển hội
Tạo phước vạn niên xuân.
------000------

Vài lời giới thiệu

Ở nước Việt Nam ta ít ai là không biết tới câu tục ngữ: “ Người ta sống về mồ về mã
chứ không ai sống vì cả bát cơm”. Câu tục ngữ trên đủ để minh chứng rằng ông cha
của chúng ta, từ rất nhiều đời đã tôn sùng và tin tưởng ở khoa Địa lý Phong Thủy
một cách rất đặc biệt. Trong lòng người Việt theo đạo Khổng, Mạnh luôn luôn mang
nặng hai hoài bão sau đây:

- Phải kiếm sau cho được một kiểu đất tốt để sau khi cha mẹ về già, lúc lâm chung
sẽ đặt táng cho cha mẹ, gọi là để báo hiếu.
- Phải làm sao cho dòng họ đuôc phồn thịnh, phú quí hơn đời.
Chính vì mang nặng trong lòng hai hoài bão trên, nên ta thấy có nhiều người, nhều
gia đình đã khổ công đi tìm thầy để đất, có khi phải nuôi thầy cả tháng cả năm ở
trong nhà, chiều chuộng hầu hạ tày hơn chính cả nhũng kẻ thân yêu nhất trong gia
đình. Thày Địa lý vì vậy rất được mọi người vì nể và kính trọng. Tuy nhiên, số thày
hay thì quá ít mà dở thì quá nhiều, đấy là không kể đến những người chẳng biết gì
về Địa lý cũng mạo danh thày để làm tiền thiên hạ. Trong số những người ham
chuộng về môn Địa lý, có lắm vị còn sang cả bên Tàu để đón các thày địa lý Tàu về
để đất cho nhà minh, vì các vị sẵn có thành kiến là thày Tàu giỏi hơn thày Việt Nam.
Nhưng thật ra thì thày Tầu cũng chẳng giỏi gì hơn thầy Việt Nam, phần nhiều các
thày Tầu cũng bịp bợm như ai, có điều là các thày bịp dễ hơn ngươi Việt Nam, vì các
thày là người ngoại quốc lại nói tiếng ngoại quốc.

Xem vậy thì đủ biết khoa địa lý quả đã có một tầm ảnh hưởng quan trọng, sâu xa
trong đời sống dân tộc Việt Nam. Không ai còn có thể chối cãi được giá trị thực tế
của nó.

Tôi hồi còn nhỏ đi học, trong những tháng nghỉ hè thường được theo các cụ bên nội
cũng như bên ngoại đi coi đất. Đây là những dịp tốt để các cụ ngao du sơn thủy,
trước là thăm bà con, bè bạn, sau là có dịp thực tập coi đất để chứng nghiệm những

1
gì các cụ đã học hỏi được ở trong các sách địa lý. Bất cứ kiểu đất to hay nhỏ nào, hễ
nghe nói kết phát là đều được các cụ tôi tới viếng cho bằng được. Trong những dịp
như thế ác cụ tôi lại chỉ cho biết những chi tiết về ngôi mộ.Tại sao kết? do những
chứng ứng gì mà phát văn hay võ? Đất có cái gì phản? v.v…

Hồi đó vì còn nhỏ tuổi nên tôi chỉ ham vui mà đi theo hầu hạ các cụ, để có dịp được
dong chơi đây đó và nhất là được nghe các cụ kể lại những truyền kỳ về môn địa lý,
chứ thật ra tôi chưa ý thức được gì về môn địa lý. Phải đợi đến khi lớn lên ra Hà Nội
học, tôi mới có dịp tìm hiểu nhiều về môn địa lý phong thủy này. Ở Hà Nội có một
thư viện rất lớn đấy đủ những sách vở cổ cũng như kim. Trong những lúc rãnh rỗi tôi
thường hay ra đây để đọc sách, tôi ưa thích tìm đọc những sách cổ nên một hôm tìm
ra được một cuốn sách nhan đề là Địa lý Tả Ao do Sơn Nhân hiệu đính và bình chú.
Sách phát hành vào năm 1919 viết bằng Hán tự và chữ nôm. Sách được phiên dịch
toàn bộ ra Việt ngữ do Nhật Nam Thư Quán Hà Nội xuất bản năm 1932. Cuốn sách
này đã làm cho tôi say mê không ít, mặc dù có nhiều chỗ quá khó làm cho tôi không
thể hiểu nổi, phần vì tôi hiểu biết về Hán tự cũng như căn bản về khoa địa lý còn quá
ấu trĩ. Tới ngày di cư vào Nam vì thời cuộc tôi phải lưu lạc một thời gian ở miền
Trung Việt. Trong thời gian này tôi mua được một bộ sách địa lý cổ viết bằng Hán tự
do một gia đình nông dân nghèo bán cho. Theo lời kể lại thì sách này do một người
Tầu mang sang Việt Nam từ đời vua Tự Đức, không mat thọ bệnh chết tại Việt Nam
và để lại toàn bộ sách cho gia đình ông. Biết là sách quý song vì không biết Hán tự
nên đành phải đợi đến khi về Sài Gòn, gia đình đã yên ấm, tôi mới bắt đầu học chữ
Hàn và phải khổ công suốt mấy năm trời mới nghiên cứu được sách. Khi đã xem
được rồi tôi mới thấy khoa địa lý thật là huyền diệu. Một chân trời mới như được mở
rộng ra, tôi sung sướng vô cùng. Tuy nhiên sách chỉ nói về sơn pháp tức là phép xem
đất ở miền núi chứ không có đoạn nào nói về phép xem đất ở miền bình dương. Hơn
nữa sách không sắp đặt thành hệ thống nên rất khó cho việc tra cứu. Ôi! Bể học thật
là mênh mông làm sao mà đi cho tới bờ tới bến được? Một lần nữa tôi lại phải tìm đọc
đến các loại sách Tầu như các bộ: Địa lý hợp bích, Địa lý chính tông, Thiên cơ hội
nguyên, Hám long kinh, Nghi long kinh, Ngọc Tủy chân kinh chính bản, Huyền long
kinh v.v…Càng đi sâu vào môn học này tôi càng cảm thấy mình ngu dốt và càng thận
trọng hơn vì môn học này không phải tầm thường, nếu không có tâm cơ và lực mục
thì khó có thể đạt tới đích được.

Tuy nhiên, hễ có tâm tốt và lòng thành thì cũng có ngày gặp được thày hay bạn tốt
để mà học hỏi. Đó là trường hợp tôi cũng như các bạn tôi hiện nay đã gặp được Việt
Hải tiên sinh và đã bái cụ làm thày. Cụ năm nay đã ngoài 70 tuổi, học địa lý từ năm
trên 20 tuổi. Cuộc đời cụ chìm nổi lênh đênh vào sinh ra tử không biết bao nhiêu lần,
song nhờ cụ là người có đạo tâm, có bản lãnh, có một ý chí cương quyết và nhất là
có một tấm lòng chí thành, nên tài học địa lý của cụ ngày nay đã đạt đến một trình
độ rất cao, nếu không muốn nói là quán triệt. Cụ lại được có rất nhiều sách địa lý rất
quý báu; suốt 30 năm trời cụ đã khổ công sưu tập tất cả các sách về địa lý của
Trung Hoa, rồi cộng thêm với những kinh nghiệm sống khi đi làm đất và phúc các
ngôi cổ mộ, cụ đã biên soạn được một bộ sách địa lý hoàn toàn bằng tiếng Việt Nam,
gồm ba cuốn dày cả ngàn trang. Đó là các bộ: Tầm long – Điểm huyệt và Lập hướng.

Có được cụ trực tiếp truyền thụ và có được đọc các tài liệu quý báu về địa lý này của
cụ, chúng ta mới thấy được cái công trình sưu khảo của cụ, không phải là câu chuyện
của một sớm một chiều; quan trọng nhất là những chỗ dụng tâm to lớn của cụ đã
làm cho chúng tôi càng thêm kính mến cụ.

1. – Cụ đã cố gắng đem hết tâm lực của cả một đời người để tập đại thành cả một
khoa cổ học của người Trung Hoa ( vẫn được coi là bí truyền), Việt hóa nó để dành

2
cho người Việt Nam dùng.

2. – Song song với việc soạn sách cụ còn mở các khóa học về địa lý để truyền thụ
cho môn sinh tất cả những bí quyết về địa đạo, với dụng ý nhờ các môn sinh tiếp nối
cái ý chí của cụ, là làm sao, qua sự ứng dụng của môn địa lý, sẽ tạo dựng một nước
Việt Nam hùng mạnh với những nhân tài lỗi lạc có thể làm rạng rỡ cho núi sông sau
này.
Cao quý thay cho tấm lòng cao cả của cụ và còn gì đáng phục cho bằng!
Nay tôi mạo muội viết ít hàng để giới thiệu cùng độc giả bốn phương sách Địa lý
Phong Thủy “ Bảo Ngọc Thư” của Việt Hải tiên sinh. Mong rằng khi sách tới tay quý vị
nó sẽ giúp quý vị được một số kiến thức xác thực về khoa địa lý. Nếu quí vị có đạo
tâm và có lòng thành thì sau khi đọc xong sách này quí vị có thể làm đất cho gia
đình một cách không mấy khó khăn, và xã hội cũng sẽ mất dần đi những hạng manh
sư, manh sĩ.

Saigon, ngày cuối thu năm Giáp-Dần, 1974

Giáo sư Hoàng-Văn-Hưởng

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Cáo Bạch


Việt Hải

Sách tạo phước, hay không kể xiết!


Quý muôn đời, đặc biệt chẳng hay.
Bởi làm sanh được nhân tài,
Vốn dòng ngu muội, nẩy nòi thông minh.
Chính khoa học “ địa linh nhân kiệt”!
Phép “ thần thông”, siêu việt xưa nay.
Phá ngu, mới biết là hay!
Nếu không đâu hiểu sách này mà tin!

 
CÁO BẠCH

Chân ngôn thành ý ngỏ lời


Khuyên ai đã biết, mách người chưa hay;
Thần tiên quý bái xưa nay
Chớ nên dấu diếm mới dầy phúc sanh
Đây là Địa lý tạo thành,
Âm phần, Dương trạch phát sinh ra người
Thông minh, trí, dũng, anh tài.
Biết thì làm được, tương lai thấy liền!
Chính là hài cốt Tổ tiên!
Khí thiêng hun dúc, kết, truyền tinh anh
Nẩy ra con cháu tốt lành

3
Trai tài, gái sắc, hiển vinh, sang, giầu!
Những người bần tiện, ưu sầu!
Cũng vì mồ mả, nên mau kiếm thày!
Hoặc là học sách càng hay!
Biết tìm đất táng, sau này vinh hoa!
Muốn cho cường thịnh Quốc gia
Xã hội tốt đẹp, mọi nhà tự lo;
Cho mình khỏe mạnh tài ba
Lương tri đạo lý, đó là Hiền nhân.
Nước nào tiến hóa tinh thần
Là do ý thức công dân có nhiều.
Muốn cho trình độ tiến đều
Vậy nên phổ biến những điều quý hay.
Biết là tạo hóa đã bày
Á, Âu, Phi, Mỹ giống loài khác nhau:
Âm dương, khí hậu, sắc mầu
Mỗi phương một tính, phải đâu cùng mà…!
Nhớ rằng: Học vấn tinh hoa
Đông phương sớm nhất, như là Thần tiên!
Đãn hiềm! Bí hiểm vô truyền!
Thứ dân bị cấm! Ưu tiên Chúa hoàng!
Cái hay không được mở mang!
Để giòng dõi nối ngai vàng được lâu
Vậy nay thua kém Mỹ, Âu!
Bởi nhân tài ít! Cả châu thiệt thòi!
Dám khuyên: Xưa đã lỡ rồi!
Thì nay cải tiến, tạo thời tương lai
Tương lai sản xuất nhân tài
Lần lần biến hết lớp người hèn ngu!
Hèn ngu cũng tại mả mồ!
Bởi vì sát khí hung vô, hủ hài ( xương nát)
Hủ hài u trọc xông hơi,
Hơi tìm hợp nhập những người đồng tông
Cùng chung máu mủ cha ông,
Truyền thai con cháu, nhiễm dòng trọc ô!
Được nơi sinh, vượng táng vô
Thi hài kết, phát, tức là tinh anh!
Tinh anh truyền nhiễm thai, sinh,
Con người trí thức thông minh, sắc tài.
Tự mình, đừng có chờ trời!
Đợi trời lâu lắm! Đất thời chóng thay!
Biết thì nên kíp làm ngay,
Gặp ngôi tốc phát, con hay xuất liền!
Vậy tin Địa lý: Thần tiên!
Chính tôi đã nghiệm, quả nhiên thấy rồi!
Thề rằng: Không dám nói sai!
Ngày đêm viết sách, mách đời cái hay
Ai khôn học lấy cái này,
Tạo cho dòng giống mai ngày vinh quang.

TỰ TỐ

4
Kính xin chư vị Cổ Tiên, Thánh Hiền Tiền Triết đại xá!
và các bạn Thức giả thứ cho.

Trước kia tôi cũng lầm lỗi, là không tin và chống đối môn Địa lý phong thủy,
vì khi ấy tôi mới 19,20 tuổi chua đọc sách Địa lý , chỉ được nghe người ta nói
những câu chuyện Cổ tích khẩu truyền: Những thày địa lý Tầu ngày xưa sang
Việt Nam ta, tìm đất táng hài cốt gia tiên họ; như là chuyện của Cao Biền
dậy non! Vì táng sống, chưa đủ bách nhật đã kêu gọi sống lại làm vua – lại
chuyện thày Tầu, thuê Đinh Bộ Lĩnh khi còn làm trẻ chăn trâu ( vì là dòng
giống Rái cá nên lặn giỏi) cầm gói xương người, lặn xuống đút vào mồm con
rồng đá ở dưới nước. Ông nhỏ tuổi mà đã có trí khôn, để gói xương ấy ở
ngoài rồi chạy về nhà hỏi mẹ: Mả bố chôn ở đâu? Người mẹ nói: Xương bố
mày gói ở cái mo cau, gác trong xó bếp ấy ( tức là xương con Rái cá). Liềm
lấy đem ra lặn xuống đút vào mồm con rồng đá, con rồng ấy liền ngậm lại.
Về sau, mả ấy kết, phát ngay vào ông làm tương dẹp loạn Thập nhị Sư quân
( tức là tướng Cờ lau); rồi lên làm vua v.v… - Lại chuyện ông thày Tầu khác,
tìm thấy đất biết trước là sau phát Trạng nguyên lưỡng quốc! Rồi hô thần để
hỏi, thần hiện lên bảo: Đất này cho nhà Vũ Hồn, chứ không cho nhà ngươi!
Vậy thày Tầu phải đi tìm Vũ Hồn, bảo: Đem xương bố lại thày táng giúp cho
v.v… - Còn chuyện cụ Tả Ao nước ta, khi thì thày trò đi du ngoạn tìm đất ,
một hôm qua đường gặp buổi trưa đói bụng; thấy trong đình làng người ta
có tiệc tế lễ sắp ăn uống, tìm ngay cái huyệt cứu bần tốc phát, cắm hướng
chỉ cho học trò ngồi vào, nhắm mắt lại im lặng! Rồi thày vào đình xin, đòi lấy
cả cái lễ vật quý nhất đã dâng tế thần, là cái thủ heo và cái mâm xôi của
làng người ta v.v… - Lại khi gặp năm anh khóa đi thi, cụ hỏi; Có thằng nào
muốn đậu không? Cả năm anh đều thưa: Có ạ!
- Muốn đậu cả thì vào làng kia mua con heo nái ra đây: Rồi bảo cả năm anh
nằm xuống bú! Xong, cụ cắm đất cho đào huyệt chôn con heo xuống. Sau
quả nhiên có bốn anh bú thì đậu cả, còn một anh ghê, chỉ ngậm vờ thôi,
không nuốt sữa thì bị trược v.v…

Tôi cho những câu chuyện ấy, toàn là câu chuyện hoang đường, huyền hoặc
như Thần thoại, không thể tin được! Mặc dầu, nhà tôi đã có ba đời biết làm
địa lý, mà tôi vẫn không tin. Cứ chế bác, riễu cợt các cụ Thày Địa hoài! Cười
mỉa: Giữa thế kỷ thứ 20, mà còn có người mơ mộng mê tín dị đoan! Âu, Mỹ
họ có Địa lý, Địa liền gì… mà họ văn minh, cường thịnh thế? Nước mình còn
lạc hậu quá! Cứ bị các nhà cổ nho Tầu đầu độc mãi!

Lúc ấy, trong ý nghĩ của tôi, cho là thâm tâm họ chủ mưu ngụy biện, viết ra
sách, để lừa dối những người đời có tính tham vọng phú quý, mà hâm mộ tìm
thầy kiếm đất thì có lợi cho dòng dõi nhà làm thày Địa lý của họ; tôi nhầm
tưởng cũng như nhà làm nghề giấy mầu ngũ sắc của Tầu ngày xưa, mưu
nghĩ ra kế làm đồ mã bằng nan tre, dán giấy, quần áo, voi, ngựa, trâu bò
v.v…đều bằng giấy để dâng cúng cho linh hồn, tiết rằm tháng bảy, để nghề
của họ được phát tài, mà ngay nay, vẫn còn có người tin! Nên tôi chống đối.
Vậy bị các cụ thày Địa, cự tôi và khinh thị, choto6i là ngu dốt, ngạo mạn, nói
càn! Nên về sau tôi mới đem sách Địa lý ra coi, rồi đi phúc khán những ngôi
cựu phần, đã có bằng chúng là kết phát, phúc, họa, đã ứng vào con cháu
thuộc dòng máu của ngôi mộ ấy, thử xem thực hay hư, thì mới có cớ để
chống đối!

Ngờ đâu, khi xem đến, thấy có nhũng địa hình kiểu hay cách dở chứng ứng ở
chung quanh những ngôi mộ ấy, đúng như trong sách thánh hiền đã dạy!

5
Càng xem, càng ham và nhận thấy là mình ngu! Quả như câu châm ngôn:
“Có đọc sách mới thấy mình dốt”.

Từ đó, tôi chú trọng về khoa Địa lý này như là một bảo vật tinh thần, chung
của cả thế gian. Tôi đọc hết mấy bộ sách của gia truyền rồi đi ngoại giao với
những nhà biết Địa lý, kiếm thêm những sách Địa lý khác để tìm hiểu rộng
hơn, học hỏi cho đến nơi đến chốn, cho thật tinh tường về địa đạo; mong
sớm được thành tài để giúp ích cho nhà, cho bạn. Nhưng khốn nỗi! “ Cần nhi
bất năng chuyên”! Vì hoàn cảnh gia đình, vì thời vận quốc gia, thế giới chiến
tranh v.v… Bao nhiêu cản trở không cho tôi có Phương tiện để đạt tới mục
đích như ý muốn, rất là hối hận.

Tôi cũng không ngại phí tổn công phu để tiếp xúc với các nhà Địa lý, như các
cụ Đồ, cụ Cử là bậc Tiền bối tìm thày, kén bạn.
Trong khi đàm luận với các cụ, về các lý thuyết chữ nghĩa thì thấy thông
thạo lắm!Có nhiều cụ đọc thuộc lòng, thao thao bất tuyệt, không cần mở
sách, giỏi hơn mình nhiều! Nhưng lúc đáo xứ thực hành như: Nhận xét thế,
cục để tầm long, điểm huyệt v.v… thì thấy đa số lờ mờ, không đủ nhỡn lực
nhìn xa trông rộng để mà nhận định được đại địa chân long, chỉ có thể xem
những cục địa thiển cận tiểu sảo ở nơi Bình dương khoáng dã thôi! Phần
nhiều là còn sai nhầm, mình phải chỉ dẫn giúp cho, mới nhận ra; thì còn
mong học hỏi gì nữa, uổng mất thì giờ; bao phen gặp gỡ thử thách, mà chưa
được một người khá hơn!

Vậy những khi nhân tiện có việc, được đi đến nơi nào có quí địa cao danh, là
chịu khó lần mò, để tìm thấy mộ ấy mà gián tiếp học phép của Cổ sư đã thực
hành đúng rồi, để mình tự thử sức mình xem có nhận được đúng , thì mình
mới dám tin mình là biết. Nhưng vẫn nuôi hy vọng là đời còn nhiều nhân tài
tinh tường địa đạo, thế nào cũng gặp người hiểu biết hơn, đầy kinh nghiệm
và thực hành nhiều hơn mình, để làm thày giám khảo, chứng nhận cho, thì
mới vững chắc.

Vậy, hễ nghe tin có thày địa lý giỏi, là tìm đến. Vào khoảng năm 1942 hoặc
1943 thấy có một đám táng của nhà phú quí ở Hà Nội thuê cả xa tang, cờ,
trống, long trọng rước linh cữu đến dẫy núi Châu Sơn thuộc làng Ngọc Động,
huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh, mà đường xá xa xăm cách trở, thấy cũng
phí tổn công lao khá nhiều. Nghe nói: Ông thày Tầu để đất này đã được
nhiều nhà Phú quí, quan liêu thời trước ở miền Bắc trọng dụng, phụng dưỡng
hàng tháng, hàng năm ở trong nhà để đi tìm đất táng cho. Được tin nói tôi
mừng quá vì ở trong vùng gần nhà. Giữa ngày hạ táng, chúng tôi đến tận nơi
để quan sát, thì thấy huyệt cũng chẳng lấy gì làm đích xác, lập hướng, phân
kim, cũng mập mờ không đúng, mà ngày giờ hạ táng cũng xấu không hợp
với long, sơn, hướng vị. Vậy tôi mời ông thày Tầu ra ngoài để chất vấn. Lúc
ấy có mấy người trong vùng tôi đi theo nghe chuyện địa lý, nên ông thày này
có vẻ mắc cỡ, nhưng cũng biết phục thiện cứ chố lỗi, nói là phải theo ý định
của nhà tang chủ v.v… Tôi liền cự thày cho đến mức, sau cứ xin lỗi, yêu cầu
tôi đừng cho nhà chủ và người khác biết nữa, như thế có buồn cười không?

Năm sau (1944) lại gặp ông thày Tầu khác nữa, do một ông quan hành
chính, giới thiệu đến tìm đất cho nhà ông bạn tôi ở huyện An Dũng, Bắc
Giang, vì ông bạn chưa dám tin nên mới đón tôi qua nhà để thử xem ông
thày Tầu này có phải là minh sư không, và giới thiệu với ông thày tôi là anh
của ông bạn để tiện việc giao tiếp v.v…tôi trông diện mạo ông thày này có

6
vẻ thư sinh quí phái, cũng như hạng ông thày Tầu trước, tôi kính trọng và
khiêm tốn giữ lễ tiếp tân. Trong khi vui vẻ đàm thoại, tôi đã vờ là không biết
địa lý, lấy quyển lịch Tầu ra hỏi mấy cái thông thường, cần thiết của phép
làm địa lý, thày ngập ngừng… rồi trả lời: cái này không dùng làm về địa lý,
tôi lại hỏi thêm cái khác, thày cũng trả lời như trước, tôi ngứa tai quá! Hỏi:
thày dùng những phép gì? Theo bộ sách nào? Cho tôi coi một chút. Thày
lúng túng trả lời: “ Không đem sách đi. Thế thày thuộc lòng cả ả? Thày có
thể đọc vài chữ đầu của bộ sách ấy cho tôi nghe xem? Có phải là sách quí
như của các thày không? Cứ ấp úng không nói, cả ông chủ nhà cũng ghét!
Tôi liền cự: “ Ông không biết gì về địa lý, mà dám giả dối đi làm thày, lừa bịp
người ta! Thưa ông; làm thày thuốc bậy thì giết một mạng người thôi, chứ
làm thày địa lý láo! Thì giết hại cả giòng họ người ta. Nếu ông không bỏ ngay
nghề làm thày của ông, tôi sẽ đưa ông đến tòa pháp luật. Rồi thày xin lỗi tôi.
Cả đêm hôm ấy tôi thấy thày cú quằn quại không ngủ được, sáng hôm sau đi
luôn. Than ôi! Đời này vẫn có hạng thày như thế! Thật mỉa mai thay!

Đến năm 1945 thì Nhật đảo chính PHÁP. Rồi Mỹ lại trừ Nhật, nước ta thì nội
loạn, lại ngoại xâm, rồi đến Quốc, Cộng chiến tranh, hết Pháp đến Mỹ kéo
dài đeến nay vẫn chưa dứt. Lúc nào cũng lo bảo vệ tính mạng, Quốc gia, thì
còn làm gì được nữa! Thế là rốt cuộc, tôi không được trực tiếp thụ giáo một
ông thày nào cả, chỉ có gián tiếp học các vị tổ sư di giáo cho, ở trong các bộ
sách về khoa học địa lý in và viết bằng chữ Hán, và đã chỉ dẫn sẵn cho
những sự thực hành ở các ngôi mộ cổ nhân, đã hữu danh là kết phát, mà tôi
đã chịu lao tâm mệt trí, ráng sức theo đuổi và đã được những sự kinh
nghiệm, tuy gián tiếp, nhưng tự xét là tôi có thể làm được địa đạo, là những
bằng chứng thuật lại dưới đây, mà thuật lại, viết ra thì cũng biết là lan man,
dài dòng và đời cho là phô trương. Nhưng nếu không viết ra thì lấy gì làm
bằng cớ để người ta tin rằng có địa lý? Vậy phải viết sơ qua mấy cái điển
hình, để bạn đọc rõ, sau này ai có phương tiện thì đến mà xem, sẽ rõ mục
đích:

1. – Hồi trước, vào khoảng năm 1927, 1928, nhân tôi đi đạc điền địa, ở miền
thượng du Bắc việt, thấy một cái kiểu đất: ngũ nhạc quán châu tác án; quy,
xà trấn thủy khẩu; đại giang hoành ngoại cục; hậu đầu trùng, điệp cao sơn
hồi bão, kim tinh thụ huyệt v.v… tọa lạc tại làng Bạch Lưu Thượng, huyện
Lập thạch, tỉnh Vĩnh Yên. Khi ấy tôi ở trọ nhà ông Chánh Hương Hội của làng
ấy, ông ta biết tôi xem đất, rồi nói xin tôi để cho; tôi ưng cho rồi, nhưng
chưa kịp hạ táng. Sau khi tôi về thăm nhà quê, vắng hai tuần lễ, lúc trở lại
thấy ông ta ( chủ nhà) nói:
- Ngôi đất thày cho, tôi đã để rồi, xin thày thứ lỗi, vì có ông thày Tầu, nghe
nói là nhà địa lý chính tông, có người mời sang tìm đất cho nhà Hoàng Trọng
Phu ( một nhà quyền quý được thực dân Pháp tin cậy nhất Việt Nam thời
đó). Nhưng ông thày nói rằng, thấy nhà họ Hoàng này, hết phúc rồi, nên
không tìm cho, trở về Vân Nam nước Tầu. May quá! Khi thuyền nghỉ đậu lại
bến đây, tôi gặp thày Tầu đang cầm la tinh chiếu, tôi mới yêu cầu thày ấy
xem lại giúp cho, vậy đưa đến chỗ đất ấy. Thày này bảo đất này quý lắm!
Sau điểm huyệt cũng đúng chỗ, thày cắm dấu cho ngày trước, và đưa tờ bản
đồ, phác họa của thày Tầu, vẽ kiểu đất cho tôi xem, có ghi ngày giờ, tháng,
năm để mả và đặt tên kiểu là “ Kim Kê Bão Noãn”. Và thày không nhận lấy
một đồng tiền tạ công ơn lúc bấy giờ, ông thày nói: Sau này kết phát, thày
sẽ đến, cho bao nhiêu thày cũng sẽ nhận v.v… Tiếc rằng, tự khi ấy đến bây
giờ tôi không được trở lại xem đất ấy ra sao? ( Ngôi mộ này ở sườn quả núi
tròn, hướng Nam tọa quý, hướng đinh ngoài án có con sông lớn, núi ấy gọi là

7
Gò đinh).

2. – Ngòi đất của nhà họ Mai, ở làng Đào viên, huyện Quế Dương, Bắc Ninh
( nơi gần quê hương tôi)
Đất này, thày để đất cho, xưa đã bảo; đất này két phát “ Cửu đại chu” nhưng
hiềm “ Bất ly phong nhân”! ( tức là, được 9 đời làm quan đại thần ở trong
triều đình, nhưng đều bị tội tử hình về đao kiếm). Quả nhiên, sau 8 đời nối
liền, làm quan thanh liêm, mà vẫn đều bị vu oan, mắc tội chém cả. Còm một
ông thứ 9 muốn tỵ nạn ấy, làm làm quan nữa chừng, xin thoái quan, từ chức
về nhà sớm, nhất định ở nhà vui thú điền viên không chịu đi giao du đâu cả;
đến ở trong làng gần nhà cũng vậy. Nhân một hôm ở đình làng có tiệc lễ ăn
uống và xẩy ra sự tranh giành nhau, quá gay go kịch liệt! Cả các kỳ lãi
hương chức không phân xử nổi, dân làng đồng ý phải mời quan lớn ra công
đình phân giải, quyết đoán cho dân, thì mới yên được; nhưng mấy lần vào
mời, ngài cũng không chịu đi, cú quyết tâm từ chối và nói gửi lời: xin làng
miễn cho, vì lý do… và làng quyết định thế nào, ngài cũng ưng theo, chỉ yêu
cầu là miễn cho việc ra công đình. Nhưng làng xử không được, mắng chửi
thằng mõ là không đi mời đến nơi! Và bắt nó phải đi mời bằng được ngài ra,
thì mới xong. Đến lần cuối cùng nó cầm con dao nhọn, dấu trong áo, mời
ngài không đi là nó đâm chết ngay tại nhà! Thế mới thật tin, là nét đất phản!

3. – Ngôi mộ, kiểu đất gọi là hoàng xà táng nhĩ ( ở làng Vĩnh Kiều, phủ Từ
Sơn, Bắc Ninh) nhưng đâu có hình con xà, chỉ thấy khu ruộng cấy lúa vụ mùa
và trồng khoai đậu, ở gần đường xe lửa giáp xóm làng ở; mộ kết vào cái gò
hình chũ nhật thấp nhỏ, ở gần phía ruộng trũng cấy lúa chiêm, gối đầu vào
khu ruộng cao hình thế bị đào xẻ, khuất lũy tre làng và đường xe lửa cao,
khó xem, nên phải đi vòng lâu mới nhận ra, huyệt ấy, là đất phát “ Kế thế
cao khoa, toàn gia thực lộc” về Lê triều v.v…

4. – Ngôi đất họ Nguyễn ở làng Kim Đôi, huyện Võ Giàng, Bắc Ninh: Có cách
Minh đường cửu khúc nghịch chiều; long sa bút tốn; hổ đới bảng tân; đại
giang cận hậu, mà phát 18 Tiến sĩ đồng triều đó Tân Long uyển chuyển chí
hợi nhập nhĩ, phát phúc trường viễn, nhưng vì phản nhau xẻ cống, nước chẩy
ra thẳng sông cái, đứt cuống mạch nên hỏng về thời Pháp.

5. – Ngôi mộ họ Nguyễn ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh: Có
kiểu hình nhân chú sáo, do “ hổ xuất trường can”. Huyệt ất thổ tinh, hốt
kính tác án, tọa ất hướng tân. Xuất thân khoa bảng, chi kiêm văn, võ, khai
quốc công thần. Các ngôi kể trên, tự tôi tìm thấy.

6. – Ngôi mộ nhà Trạng Me ở làng Hương Mặc, huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh.
Ngôi này cụ Tả Ao để cho; vì có sự tích là “ Trạng Me đè Trang Ngọt”! Nên
xưa nay, các thày địa lý thường hay đến xem.
Nhân có ông thày ở gần tôi, đã nổi tiếng là giỏi Địa lý, ông này được người
quen biết dẫn đến xem mộ rồi, nên vẫn hứa hẹn sẽ đố tôi để thử thách v.v…
Nhưng ít khi có thì giờ để cùng đi, vì ở xa không tiện lộ.

Nhân tiện dịp đầu Xuân, vào ngày 6 tháng giêng, năm Nhâm Thân ( tức năm
1932) có cả bọn hơn chục người anh, chị em cùng đi có việc khác, qua làng
Me. Ông ấy dẫn lại gần nơi khu mộ đó, bảo: Ở trong khu này đấy để khỏi đi
xa mất thì giờ; tôi dừng lại chưa đây năm phút đã đến nhận thấy ngay ngôi
mộ ở trên cái gò nhỏ, rộng hơn hai thước, dài độ bốn thước, cao độ 1 thước
tây, đột lên ở giữa bờ ruộng cao, ruộng thấp giáp nhau. Ông ấy cười và nói

8
to: Không phải, kết lâu ở mộ đó! Ở kia kìa! Chỉ vào ngôi mộ đắp vuông ở dưới
ruộng liền, cái gò ấy cách xa ước khoảng gần 20 thước, cũng trông vào cái
ruộng vuông, cao hơn bốn bề, độ 10 phân tây gọi là cái mảng tác án v.v…
Lúc ấy, cả bọn cùng cười: Thôi, thày trẻ thua thày già rồi! Tôi tức quá cự lại:
Các người biết gì đâu! Mà vội cười! Nếu thực ngôi kia là cụ Tả Ao để, thì khỏi
nói, không cần xem cũng biết là đúng, nhưng ngôi mộ ở cái gò này, tôi dám
quyết là cũng kết to; vào làng hỏi xem đã! Nếu không phải, thì tôi sẽ đập tan
la kinh ngay tại đây và về đốt sách luôn! Không làm địa lý nữa, là vì sách dạy
sau v.v…Rồi cả bọn cùng đi, thất trong đình làng ấy có những kỳ lão, nhân
viên sang trọng, có vẻ là các chức tước hội hợp… Liền cùng vào xem phong
cảnh, chủ ý để hỏi chuyện đó. Thấy các cụ chào mời có vẻ lịch sự, mời ngồi,
chưa kịp uống nước tôi liền hỏi: Thưa các vị; chúng tôi muốn biết rõ ngôi mộ
cụ Tả Ao để cho nhà cụ Trạng? – Trả lời: Chính ngôi mộ đắp vuông ở cái
ruộng cỏ ấy, Toan dẫn đi xem. Tôi nói: Đã xem rồi. Thế là tôi thua! Cả bọn
nhìn tôi mỉm cười! – Tôi hỏi tiếp: Thưa quý vị, còn ngôi mộ để trên cái gò
nhỏ ở sau cái mộ đắp vuông ấy, của nhà ai? Lúc ấy, thấy các vị đều ngước
nhìn tôi, như có vẻ… Và nói: Các ông ở đâu? Ông còn ít tuổi mà địa lý tin
tường như thế! V.v… Xong rồi, một ông đã đứng tuổi nhã nhặn thuật lại sự
tích cho biết; chính ngôi đó ( ở gò) lúc đầu cụ Tả đã cho nhà họ cụ Trạng,
cắm chỗ đào huyệt, từ chiều hôm trước, và hẹn giờ… Sáng mai đem cốt lại
hạ táng v.v…Lúc ấy, có một người làng là họ Đàm đứng ở đấy nghe biết rõ sự
thể, đêm về bảo nhau đem hài cốt của nhà đến trước trực sẵn, chờ cụ Tả ra
gần đến nơi là hạ ngay cốt xương trước, đặt về một nửa huyệt và van lạy, xin
thày cho cả hai ngôi cùng táng chung một huyệt. Cụ Tả thấy lễ độ, bảo bên
kia: Thôi, cho nó chỗ này, ra để chỗ kia lấy Trạng nguyên! Cụ liền chỉ cho
đào huyệt khác ở dưới ruộng, là cái mộ đắp vuông đó rồi phân kim cho cả hai
nhà. Khi ấy, cụ tính đốt ngón tay, bảo: Đến khoa… đỗ Trạng nguyên. Học trò
cụ nói: Thưa! Thầy lẫn rồi! Hôm nọ thày bảo cái mộ bên làng Ngọt, đến khoa
ấy, thì chiếm Trạng nguyên, ngày nay thày lại bảo đến khoa ấy đỗ Trạng
nguyên, người ta cười cho! Làm gì có hai Trạng nguyên một khoa? Cụ Tả liền
bảo: Rồi Trạng Me đè Trạng Ngọt! Về sau, đến khoa ấy ông ở làng Ngọt
( làng Như Nguyệt) đậu Trạng nguyên, ông ở làng Me ( làng Hương Mặc)
kém vài phân điểm, đứng dưới! Nhưng ông Me đẹp trai, khôi ngô hơn ông
Ngọt. Vì vua kén rễ Trạng Nguyên mà con gái vua ưng ý ông Me; vua biết ý
chiều lòng con gái, khi ra sân rồng khảo sát lập kế đểbác ông Ngọt cho ông
Me Trạng Nguyên. Vua hỏi: “ Hà giả vi Trạng Nguyên?” Chánh chủ khảo kính
tâu và chỉ vào ông Trạng Ngọt, vua liền chỉ vào ông Me: “ Thử nhân, khởi bất
khả Trạng nguyên hồ?” ( người này mà không đỗ Trạng nguyên à?) Chủ
khảo tâu: Cũng sóng sánh ngang tài nhau ạ! Vua bảo: Thế thì ra cho câu để
đối, ai đối trước thì lấy Trạng nguyên! Vua liền ra câu: “ Mũ áo đưa ông
mặc”. Ông Me ứng khẩu luôn: “ Tàn tán rước bố về”!

Ông Ngọt tưởng racho mỗi người một câu, nên không đối, thế là lấy cớ “ văn
hay không tầy ứng khẩu”! Thế là Trạng Me đè Trạng Ngọt thực, sự tích còn
ghi rõ.

7. – Còn một ngôi mộ thiên táng ở đồng Bờ vàng thuộc làng Tư Mại ( Thạch
Thôn), huyện Yên Dũng, Bắc Giang, truyền lại sự tích: Có người đàn bà cùng
trong bọn đi cấy mướn ( quê ở phương xa, vùng Sơn Tây), khi cùng bọn
đương cấy chiêm, mùa đông giá rét lạnh bị cơn đau bụng, lên ngồi dựa lưng
vào cái gò để khuất gió. Đến gần tối, người đồng bọn tới gọi đi về, thì thấy
chết rồi! Đành bỏ lại, sáng mai đem hòm ra để chôn cất thì mối đã đùn đất
kín cả người, chỉ còn hở cái đầu thôi. Vậy bảo nhau: Thiên táng rồi! Cứ để

9
yên, rồi bồi đắp thêm cho kín thành nấm mồ vô chủ!... Mãi đến đời cháu nội
đậu Tiến sĩ mới tìm nhận mộ! Sau đó, nhiều thày Địa đến xem mà không ai
rõ kết phát về cách gì, vì đồng ruộng bình thản, coi bạc nhược, lại không có
tinh phong đột khởi, như bút, bảng, và long mạch cũng không phải là
phương Tam cát, Lục tú v.v… Thế mà, đời xưa chưa có ngôi mộ thiên táng
này cũng đã có thày nói là: có kiểu: “ Bờ vàng Tiến sĩ”; thế mà bao nhiêu đời
nay, thời sư không biết, đều cho là không phải đỗ Tiến sĩ về đất này v.v…
Năm 1944, có ông bạn tôi ở trong vùng này, gần ngôi mộ đó, mời tôi và một
ông Địa già nữa; đưa cả đến tận nơi: Thưa, hai thày xem ngòi này kết phát
về cách gì? Để chúng tôi xin học…

Tôi nhìn bao quát cục thế thì sơ soàng thực chỉ thấy có một cái gò hình tròn
bầu dục, cao độ hơn 3m ở phương Cấn dần, cách mộ độ 300 thước Tây,
nghịch chuyển qua phương Quý Sửu đến phương Tý, độ hơn 200 thước xa;
rồi từ phương Tý đi qua một giải ruộng cao hơn hai bên độ 3,4, tấc tây,
thẳng đến phương Ngọ dài xa độ hơn 100 thước, bề ngang chừng 9,10 thước
đột lên một cái gò dài bằng khổ ruộng, chiều nằm ngang, hình Mộc tinh,
ngang độ 2 thước tây, cao gần 1 thước, phía trước là thửa ruộng thấp hơn
phía sau, cách xa độ 15 thước thì đến khu đồng ruộng trũng, không khoáng
v.v… Sau đó, lâu chừng 10 phút ông bạn ( chủ ) hỏi: Thưa hai vị: cho hay kết
về cách gì? Ông thày già nói: Xin chịu! Tôi trả lời rằng: Cách “ Tý long, Mộc
tinh thụ huyệt”; “ Bạch ốc xuất công khanh”! Cả hai người đều ngạc nhiên!
Xem ý ông bạn còn nghi hoặc, cho là tôi ngụy biện chăng? Và ông nói: Xin
cho xem chữ ở bộ sách nào để xin thụ nghiệp! Tôi nhận lời, liền hôm sau đi
theo về nhà tôi và tôi giở xách cho xem ngay. Bấy giờ, cứ nhún vai lè lưỡi,
vừa cười vừa lạy liền liền! Quá ư khâm phục: Thánh hiền dạy đúng lắm!

8. – Một cái bằng chứng nữa: Khi tôi ở bên Trung Hoa, vào năm 1948. Nhân
một hôm, có người là họ Hà, người huyện Minh Giang, tỉnh Quảng Tây đến
thăm người anh em trong trụ sở của chúng tôi, ( Đoàn thể các mạng tập
trung) với một người là thày Địa lý đi cùng, là họ Bành. Sau tôi mới cầm cái
la kinh của y, rồi hỏi thử mấy phép về môn Địa lý, nhưng y không hiểu và
thú thực là: y không được học thày Địa lý chính tông, nên còn thiếu xót
nhiều! Rồi xin tôi giảng cho nghe qua, sau nói: xin làm đệ tử. Tôi trả lời là
không dám, xin từ chối; xong cả hai người thành thực yêu cầu tôi, làm ơn đi
xem giúp cái đất, y mới tìm cho họ Hà, ở gần vùng chúng tôi trú thuộc huyện
Minh Minh. Mấy hôm sau, hai người dẫn tôi đến nơi xem, tôi thấy đất ấy cũng
không phải là quý địa, mà điểm huyệt lại không phải là nơi chính kết. Tôi
dẫn giải cho biết, rồi điểm cho huyệt chính, chỗ cách xa chỗ huyệt tùy của y
điểm trước, dộ hơn 100 m. Y phục lắm! Hân hạnh là được học thực hành
v.v…

Từ đấy, họ Hà mời tôi về nhà rồi đưa đi xem đất nhiều nơi, những chỗ đã
tương truyền là có kiểu hay mà chưa ai để được đúng.
Tôi đi du ngoạn mấy tháng, cũng xem được vài cái có quý cách và là đại địa,
mới chỉ điểm cho biết để đánh dấu; rồi họa kiểu ghi hướng, tọa, phương vị
lưu lại thôi, vì gần làng người khác, còn phải chờ cơ hội thuận tiện để xin
làng người ta cho, mới để được.
Và 8,9 ngôi nữa, vừa trung địa, vừa tiểu địa cũng tạm khá được, nhưng chưa
tiện hạ táng.

Có một ngôi tìm cho nhà họ Hà này, cũng ở về huyện Minh Giang, tỉnh Quảng
Tây. Phải lên đỉnh quả núi cao, mới nhìn được nơi có huyệt, rồi tìm đường đi

10
tới nơi kết huyệt đó; thấy là một quả đồi, cây cỏ rậm rạp, khu rừng không
vào được, phải đốt hết cây cỏ cho quanh đãng mới điểm được huyệt, rồi đắp
chiếm, cũng như ngôi mộ mới để. Chỉ có một người bạn nhà họ Hà, ở làng có
ngôi đất này biết thôi. Mấy tháng sau, người bạn này đến bảo họ Hà nhường
lại cho y ngôi đất này, muốn lấy ruộng nương, trâu bò hay tiền bạc thế nào y
cũng chịu: nhưng Hà từ chối: sợ phải tội với gia tiên, và nói sẽ nhờ thày tìm
cho một ngôi khác, không lấy tiền công.

Sau, người bạn nói chuyện cho Hà hay rằng: y đón được ông thày Địa chính
tông, đi tìm đất, thày chính tông cũng tìm đến chỗ đồi ấy, thấy ngôi của Hà
đắp chiếm thày nói: Người ta để đúng huyệt rồi, cả khu chỉ có một chỗ này
thôi, ngoài ra đều không phải hết! Y nói cho ông thày hay: Đây là ông thày
Việt Nam, xem cho người bạn y; mới đắp chiếm giữ sẵn, chứ chưa táng cốt
v.v… Thấy liền cự y: Cả tỉnh Quảng Tây nhà ngươi, cũng không có thày Địa lý
này, nữa là Việt Nam, làm gì có thấy như thế. Nếu có, đâu hộ phải kiếm thày
Địa Trung Quốc. Đây là thày Địa chính tông, người ta ẩn danh đấy! Nếu thực
chưa táng thì đi nói mua lại được, thì thày sẽ làm giúp cho không lấy tiền
công… Vì vậy mà y dám nói xin họ Hà nhường lại cho v.v…

Từ lúc ấy, tôi lại có tín nhiệm thêm, những người biết tiếng cứ dến nhà họ Hà
mời tôi đi tìm đất cho. Bên Tầu họ tín mộ địa lý lắm! Chỉ vì chiến tranh cản
trở, nên không tìm được thày đi xem đất thôi.

Năm sau (1949), Trung Cộng chiếm hết Lục địa Trung Hoa, chúng tôi phải
vượt đường máu mới về Việt Nam được. Cả quân, dân Trung Hoa cũng phải
chạy qua Việt Nam tỵ nạn; khi về Hà Nội, có mấy người Tầu cũng tìm đến
thăm tôi, và họ Hà cũng theo di cư vào Nam, hiện nay cũng ở Sài Gòn. Họ
cũng vẫn hy vọng khi nào thế giới hòa bình, sẽ mời đón tôi trở lại Trung Hoa
để làm cho họ những ngôi đất, tôi đã tìm được hồi ấy. Ôi, “ Thời hồ, bất tái
lai”! Phải chăng? Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”? Nghĩ lại đáng buồn
thay! Nếu thời thế không biến cải, xoay vần, có lẽ chúng tôi vẫn còn phải
làm thầy Địa lý ly tông, lang thang nơi đất khách quê người! đâu được thấy
gia đình, chủng tộc, giang sơn Tổ quốc ngày nay. Nghĩ đời mà chán cho đời!
Đã có câu: “ Vạn sự giai tiền định”, lại còn câu: “ Nhân định thắng thiên”,
thật là mâu thuẫn! Thôi, việc trời, trời làm; việc ta, ta làm.

"Mặc cho cơ tạo xoay vần,


Có thân, cũng phải đem thân góp đời
Dầu thành, dầu bại! cũng vui,
Vui vì không phải là người ăn không!"

NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 2

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 16:58 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Địa lý phong thủy


 Việt Hải

11
Về môn Địa lý phong thủy này, còn lấy tên những loài vật như: Cầm, Thú, Côn trùng, Thảo mộc
và vật liệu quý báu, để đặt tên cho những địa hình, địa vật, kiểu cách và phương vị cát, hung
v.v… Ngụ ý đặt tên như thế là để cho có văn chương hoa mỹ, làm cho kỳ dị bí hiểm và cao quý
thêm lên thôi, chứ không phải là thực có những loại vật ấy ở chỗ ấy.

Giải Thích Danh Tự


Hai chữ “ Địa lý” là danh tứ áp dụng chung cho cả hai môn:
1. - Về Địa mạch: Là môn Địa lý phong thủy, thuộc về địa linh, dùng về việc đặt mồ
mả và nhà cửa, tức là về vấn đề tinh thần. Xưa nay, danh từ vẫn cố định không thay
đổi.
2. – Về Địa dư: Là môn Địa lý điền thổ, thuộc về địa lợi, tức là về vấn đề để vật chất.
Xưa gọi là Địa dư, nay gọi là Địa lý.
Vậy chữ Hán có câu: “ Địa linh nhân kiệt”, “ Địa lợi dân trù”. ( Nghĩa là: Đất thiêng
liêng thì sinh ra người tài giỏi; đất thuận lợi, làm cho dân giầu có. Chữ Kiệt tức là “
anh kiệt”, chữ Trù tức là “ trù phú” ).

Cũng như hai chữ “ Thiên văn”, xưa nay vẫn áp dụng chung cho cả hai môn:
1. – Về Thiên linh: Là môn Thiên văn thuộc về tinh tú, như Thái âm ( nguyệt cầu),
Thái dương ( nhật cầu), Đẩu tinh ( các ngôi sao) v.v…
2. – Về Thiên khí: Là môn Thiên văn thuộc về khí tượng, như: Vân nghê ( mây
giáng), Phong vũ, Tứ thời, Bát tiết, Niên lịch, Thông như… để xem ngày, giờ; tốt, xấu
mọi việc và cần dùng cho Nông, Ngư, Ngiệp sản súc, Hàng không, Thông thương
v.v…cũng đều gọi là Thiên văn cả.
- Hoặc hỏi: Tại sao lại gọi là Địa lý phong thủy?
- Đáp: Phong là gió, Thủy là nước. Về việc tìm đất táng thì cần nhất là phải nhớ đến
cái phong và cái thủy trước hết; vì chỗ huyệt mà bị gió lùa vào thì khí tán, không
kết, nếu có nước hãn lại, thì khí tụ và mới kết huyệt. Ở sơn cốc thì cần phải tàng
phong ( kín gió) ở bình dương thì cần phải tụ thủy ( nước tụ). Tóm lại, là phải tránh
chỗ lộ gió, tìm chỗ gần nước thì mới có khí mạch, mới đặt được; không có khí mạch
mà đặt vào thì hỏng, tức là “ tuyệt tự chi địa” bị diệt vong! Kể ra, thì còn nhiều cái
liên hệ dài dòng lắm. Vậy lấy hai chữ “ Phong Thủy” làm danh tự vắn tắt, để phân
biệt về âm phần, Dương Trạch, là môn Địa lý phong thủy.

Về môn Địa lý phong thủy này, còn lấy tên những loài vật như: Cầm, Thú, Côn trùng,
Thảo mộc và vật liệu quý báu, để đặt tên cho những địa hình, địa vật, kiểu cách và
phương vị cát, hung v.v… Ngụ ý đặt tên như thế là để cho có văn chương hoa mỹ,
làm cho kỳ dị bí hiểm và cao quý thêm lên thôi, chứ không phải là thực có những loại
vật ấy ở chỗ ấy.

Ví dụ: Địa mạch, thì gọi là long mạch; mạch dẫn đi, thì gọi là hành lng v.v…
Có lẽ là thấy mạch dẫn đi ở trong đất, xuất đột lên những dẫy núi cao, dẫy đồi, hoặc
giải đất chạy dài, gồ lên, lún xuống, cong ra, uốn vào, quay đi, vòng lại, ngoằn
nghèo, tựa như hình dạng con rồng hoạt động, nên mới gọi là long mạch.
Ở phía trước huyệt gọi là Chu tước ( chim sẻ đỏ)
-------- sau----------------- Huyền vũ ( chim vũ đen)
-------- tả ----------------- Thanh long ( con rồng xanh)
-------- hữu --------------- Bạch hổ ( con hổ trắng)

Ý là lấy phương Nam làm chính diện, thuộc hỏa: lửa đỏ


-------------------- Bắc ----- bối hậu ---------- thủy: nước, màu đen

12
-------------------- Đông --- tay tả ------------- mộc: màu xanh
-------------------- Tây ----- tay hữu ---------- kim: màu bạch

Cũng như thập nhị chi: mười hai ( 12) chữ hàng chi:
- Tý: con chuột - Sửu: con trâu - Dần: con hổ
- Mão: con mèo - Thìn: con rồng - Tỵ: con rắn
- Ngọ: con ngựa - Mùi: con dê - Thân: con khỉ
- Dậu: con gà - Tuất: con chó - Hợi: con heo.

Lược Giải Đại Cương


Về căn bản của môn Địa lý này đại khái có bốn cái chính yếu là: Long, Huyệt, Sa,
Thủy. Nhưng ở trong mỗi cái chính yếu này còn có những cái phụ thuộc của nó nữa
và còn nhiều vấn đề khác phải liên hệ đến tất cả cái chính yếu và cái phụ thuộc,
không thể thiếu xót, rời tách ra được; những vấn đề ấy là: phân tích Âm Dương,
Thuận, Nghịch. – Ngũ hành sinh, khắc. – Bát quái hợp, xung. – Cửu tinh phi biến. –
Phương vị cát, hung. – Vận độ suy, vượng.v.v…

Tóm lại là địa lý, Thiên văn đều phải kiêm dụng cả, vậy cần phải dùng địa bàn ( là
cái la kinh) để chiếu, phân biệt phương vị.
Kể ra thì còn nhiều chi tiết lắm, nên phải phân ra từng bộ mục lần lượt biên sau.
Hết thẩy phương pháp địa đạo, về môn địa lý này chia ra làm ba bộ phận, tuần tự
trước sau cho dễ hiểu. Ba bộ phận là:
1. – Tầm long 2. – Điểm huyệt 3. – Lập hướng.
Tất cả các phương pháp, hình thể, kiểu cách, chi tiết thuộc về bộ phận nào, ghi vào
bộ ấy, lần lượt thứ tự, và dẫn giải liên tiếp ngay, để tiện đọc cho nhanh chóng dễ
hiểu.

Tầm long bộ

Nhận xét
Long mạch ở dưới đất. Ví dụ: Cũng như huyết tủy trong thân thể người.
Người nào khí huyết tốt thì thân thể mập mạp, da, sắc hồng hào, mạnh khỏe v.v…
Trái lại: Người nào khí huyết xấu, thì thân hình ốm yếu, da dẻ xanh xao, vàng bủng
v.v…
Đất cũng vậy, nơi nào long mạch hùng hậu thì cây, cỏ tốt tươi, lắm cành, nhiều
nhánh, bông lớn, trái to v.v…
Trái lại: Chỗ nào khí mạch bạc nhược, tì cây cỏ cằn cỗi, khô khằng, ít lá, thưa cành,
nhỏ bông kém trái v.v…
- Làm sao mà biết được có mạch đi?
- Hễ thấy chỗ nào đất gồ lên, cao hơn hai bên, tức là có mạch dẫn đi ở bên trong.
Nói chữ: “ Thủy phân bát tự, tất hữu long lai”. Nghĩa là: “ Thấy nước chẩy rẽ ra hai
bên, như hình chữ bát là có mạch lại”.
- Long mạch ở đâu lại?
- Long mạch phát nguyên từ núi cao nhất cả chạy lại.
- Thí dụ: Cũng như dàn nho, ruộng dưa, vườn bí, hoặc cây cổ thụ chẳng hạn, từ gốc
đến thân cây, cành lớn, nhánh nhỏ, nẩy nở rùm ròa vút lên tới ngọn.
Nên sách mới đặt tên thứ tự: Thái tổ sơn – Thiếu tổ sơn – Tổ tông sơn – Phụ mẫu
sơn – Cán long sơn – Chi long sơn – Chủ long sơn – Tùy long sơn.
Thủy tổ sơn ở địa cầu này, có lẽ là núi Côn Lôn, chứ không phải là núi Tu Di ( do
những sách địa lý cổ truyền, thì ở núi Tu Di phát nguyên).
Núi Côn Lôn cao hơn tất cả, ở về miền Bắc cực, rồi mới phân phối ra Đông, Tây,
Nam, Bắc bốn phương. Thái tổ sơn của đại lục địa Á Châu, cũng phát nguyên từ núi

13
Côn Lôn đi xa, qua bao nhiêu rừng núi rộng xa thiên trùng, vạn điệp, rồi chìm lặn
qua vùng sa mạc, đi về phía Đông là nước Tam Hàn, Liêu Đông; Triều Tiên tức là Đại
Hàn ngày nay, rồi phân phái vào Trung Hoa, đến tỉnh Sơn Tây chỉ đi về phương Nam,
vào tỉnh Tứ Xuyên; về phía bên tả, là Quan Trung, giữa thì đi về tỉnh Hà Nam, qua
đến tỉnh Sơn Đông. Đại Long mạch, về phía Bắc thì bên tả là giới hạn sông Hồng Hà.
Bên hữu là giới hạn của sông Trường Giang tức Trung Cán là giải giữa Trung Hoa rồi
phân đi các ngả, là các tỉnh thuộc nước Trung Hoa và đi về phương Nam là nước Việt
Nam, Ai Lao, Cao Miên, Miến Điện, Thái Lan…

Còn tiếp 

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Long mạch của Việt Nam


 Việt Hải

  Dãy núi Ba Vì ( Tản Viên sơn) cũng nối liền từ miền núi tỉnh
Vân Nam nước Tầu, qua vùng Phong thổ, Lai Châu, Lào Cai,
Yên Bái, Hưng Hóa, Sơn Tây; dẫy núi này một bên là sông Nhị
Hà là giới mạch bên tả ngạn, bên hữu là sông Đà và sông Mã ở
về miền Bắc Việt Nam, qua vùng Hà Đông, Hòa Bình, Hà Nam,
Nam Định v.v…

Một phần vườn Quốc gia Ba Vì  


Long mạch của Việt Nam

Xem Địa mạch thuộc về nước Việt Nam thì có mấy cái đại long sơn như sau:

A. Đại cán long là dãy Trường Sơn hay Hoành Sơn vẫn là một phát nguyên từ vùng
núi nước Trung Hoa qua tỉnh Vân Nam chạy dài về phía hữu ngạn sông Đà, qua miền
Bắc Việt vùng Thượng Lào vào miền Trung Việt và Ai Lao giáp nhau, suốt đến miền
Nam Việt Nam mới đình chỉ. Phía Đông và Nam là biển Nam Hải, phía Tây Nam thì
sông Cửu Long là giới hạn long mạch.

B. Dẫy núi Ba Vì ( Tản Viên sơn) cũng nối liền từ miền núi tỉnh Vân Nam nước Tầu,
qua vùng Phong thổ, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hưng Hóa, Sơn Tây; dẫy núi này
một bên là sông Nhị Hà là giới mạch bên tả ngạn, bên hữu là sông Đà và sông Mã ở
về miền Bắc Việt Nam, qua vùng Hà Đông, Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định v.v…

C. Dẫy núi Tam Đảo, cũng phát nguyên từ tỉnh Vân Nam nước Tầu, qua vùng Bảo
Lạc, Nguyên Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Yên v.v… là đại cán long, qua tỉnh Phúc Yên,
Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định là vùng bình dương Bắc Việt.
D. Dẫu núi Huyền Đinh cũng phát nguyên từ dẫy núi Thập Vạn đại sơn về nước Tầu,
qua vùng Đông Hưng, Móng Cái, Yên Châu, Tiên Yên, Quảng Yên, Hải Phòng. Một
chút đi qua vùng Lục Nam, Đông triều, Sùng Nghiêm đến Phả Lại giáp Lục đầu giang,

14
băng qua vào miền bình dương ( đồng bằng) tỉnh Hải Dương v.v…
Những dẫy núi kể trên đều là những đại cán long, tức là Thái tổ sơn của các Thiếu tổ
sơn ở trong những vùng ấy, đã nẩy ra bao nhiêu chi, phái, tức là Tổ tông sơn, khắp
nước Việt Nam. Có nhiều chỗ đã chạy lìa thoát sa cả ra ngoài biển là các cồn đảo ở
ven biển Việt Nam, những chỗ đó là Băng hồng long mạch, thường có những đất quý
lắm đấy!

Có hai phép tầm long:

1. – Sơn pháp
2. – Bình dương pháp.

- Sơn pháp là phép xem mạch ở miền núi, như miền Thượng du tức gọi là Sơn cốc
hay Sơn khê cũng vậy, Xưa gọi là Lũng long ( thung lũng). Ở vùng sơn khê, tuy rừng
núi hiểm trở khó đi, nhưng dễ nhận được long hành, vì long mạch đột khởi cao thành
núi đồi, ở xa cũng trông thấy, nên rõ được tông tích và dễ định được cục to hay nhỏ
v.v…
- Bình dương pháp, là phép xem mạch ở miền đồng bằng, hay là bình nguyên, vì
long mạch phần nhiều là đi chìm lặn xuống đất, ít khi nổi cao lên; xa trông thì bằng
phẳng, rộng lớn, ruộng đất bao la một tầm; đến gần mới biết cao, thấp, hơn nhau,
thường không nhìn thấy chỗ cuống mạch dẫn đi, nên không rõ tông tích long, vậy
phải căn cứ vào giới thủy, là những lạch nước ( ruộng trũng) lấy nước làm giới hạn
long mạch mà định cục v.v… Sẽ có họa đồ riêng về mục Bình dương pháp.
Tầm long ( là tìm mạch và tìm đất hay tìm huyệt cũng vậy). Phải lấy sơn, thủy làm
căn bản ( gốc); có đủ sơn thủy thì sẽ tìm. Nếu những chỗ có sơn mà không có thủy,
hoặc có thủy mà không có sơn thì không nên tìm huyệt ở chỗ ấy, vì không phải là
chỗ có huyệt; mà dầu có thấy hình như kết huyệt, cũng không phải là quý huyệt vì
không đủ khí mạch.
- Hỏi: Thế nào là sơn, thủy?
- Đáp: Sơn, nghĩa chính là núi. Thủy, nghĩa chính là nước. Nói chung, gọi là non nước
hay là núi sông, nhưng về khoa Địa lý thì hai chữ sơn thủy lại áp dụng khác. Nghĩa
là, tất cả chỗ núi non, đồi bãi ruộng nương, gò đống, hễ cao hơn chỗ thấp một chút
cũng mới gọi là thủy!
Tất cả những chỗ có nước như: Biển, hồ, sông, ngòi, khe, lạch, ao, chuôm, ruộng
trũng hơn một chút cũng đều gọi gồm một tiếng là thủy. Chứ không phải riêng núi
mới gọi là sơn! Riêng sông mới gọi là thủy!
Bởi vậy, trong sách địa lý có câu: “ Cao nhất thốn vi sơn, đê nhất thốn vi thủy”.
Nghĩa là: Cao hơn một tấc gọi là sơn, thấp hơn một tấc, gọi là thủy. Vậy ghi lấy hai
câu này để áp dụng và xưng hô ( gọi tên) về khoa địa lý, cho khỏi nghi hoặc, lầm
tưởng.
Trong phép, địa lý, thì sơn là Âm, thủy là Dương. Sơn ví như phụ (vợ); thủy ví như
phu ( chồng). Nếu có sơn mà không có thủy, là có âm mà không có dương, tức như
đàn bà không chồng! Có thủy mà không có sơn, là có dương mà không có âm, tức
như đàn ông không vợ! Thiếu một thì làm sao mà sinh con đẻ cái? Vậy câu: “ Cô âm
bất sinh độc dương bất phát” hoặc câu: “ Thuần âm bất sinh, thuần dương bất phát”
cũng đều chỉ vào nghĩa đó.
Nếu sơn đa, thủy thiểu; hoặc thủy cường, sơn nhược; nghĩa là Núi nhiều, nước ít hay
là nước mạnh, núi yếu, là “ sơn bất xứng thủy, thủy bất xứng sơn”, là không phải đất
hay vẹn toàn!
Trái lại, sơn thủy tương xứng, tức như vợ chồng đều khỏe mạnh thì mới là tốt! Vậy
có câu: “ Âm dương điều hòa, vạn vật phát sinh” chính là cùng nghĩa đó.
Tuy tổng quát gọi có hai cái là sơn với thủy, nhưng biến hóa ra thiên hình vạn tướng,
không chỗ nào giống chỗ nào, cũng tựa hồ như thân hình, mặt người, mỗi người mỗi

15
vẻ, không ai giống ai. Kẻ thì được người hỏng nết, người thì được nết hỏng người;
cũng có người được cả tài lẫn đức, nhưng lại kém cái khác v.v… Vậy có câu: “ Nhân
vô thập toàn”, “ Địa an năng thập toàn tai”! chính là nghĩa đó! Về phần tầm long chia
ra làm hai mục như sau:

MỤC I
Sơn pháp tầm long
Tinh thần

Trước khi nhập sơn tầm long, phải am hiểu tinh thần của sơn xuất hiện ( tức tinh
phong). Tinh phong không chỉ có một thể, còn biến thể ra nhiều thứ khác như là:

A. - Ngũ tinh
B. - Lão cửu tinh
C. – Thiên cơ cửu tinh
D. – Lục phủ tinh.

A. Ngũ tinh là Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là năm (5) tinh phong chính
thể kết hình.
Kim tinh thì đầu tròn, chân rộng, hình như cái nồi, chõ úp hoặc như hình bàn nguyệt
đột cao, hay thấp phẳng ở bình địa.
Mộc tinh đầu cũng tròn, nhưng thân thẳng cao, hoặc nằm dài, hình như cái hốt.
Thủy tinh thì đầu bình và cong queo, lan man ra như vằn sóng hoặc như con rắn bơi
nước, hoặc như cái đai lưng v.v…
Hỏa tinh thì đầu nhọn, chân rộng, như hình tam giác hoặc như mũi dao, mũi dáo
nhọc v.v…
Thổ tinh thì đầu bình, hình vuông 4 góc.
Ngũ tinh cao đại còn có tên gọi là:
Hiến thiên kim – Xưng thiên mộc – Trướng thiên thùy – Diệm thiên hỏa – Tấu thiên
thổ.
Ngũ tinh ty tiểu ( thấp bé ) còn gọi là:
Toan tử kim – Nga mi kim – Châu ngọc kim – Đào địa mộc – Giao cho mộc – Triết
khúc mộc.
Chẳng qua nhận thấy tựa hình gì, thì đạt tên cái ấy; nghĩa là cốt nhận được đúng
tinh thể thôi.

B. Lão cửu tinh là: Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc,
Phá quân, Tả phụ, Hữu bật.
Tham lang là chính Thổ tinh.
Lộc tồn là Thổ tinh, Kim tinh kiêm thể, hình như cái trống để đứng, chân soạc ra như
hình trái dưa v.v..
Văn khúc là Thủy tinh, hình như con rắn uốn cong.
Liêm trinh là mấy cái hỏa tinh dính liền nhau, đầu nhọn, hình như ngọn lửa bùng lên,
hoặc là đá liền tầng cao vót lên, xa trông như răng cưa, răng lược.

Vũ khúc là Kim tinh.


Phá quân hình như lá cờ đuôi nhọn gió bay, đầu tròn, chân nhọn như mũi kiếm, mũi
dáo. Hoặc như cái lọng rách, mảnh ván xẻ kẻ ra, đầu cao đuôi thấp.
Tả phụ hình như cái khăn phủ đầu, hoặc cái mũ, bên cao, bên thấp, là Hộ vệ tinh.
Hữu bật là “ Ẩn diệu vô hình” ( là ẩn náu hình bóng, không thấy rõ) như chỗ long
mạch quá giáp, quản điền ( qua chỗ giáp thấp xuống, đi suốt ruộng, đất bằng
phẳng) không thấy xống tích gồ lên.

16
C. Thiên cơ cửu tinh là: Thái âm, Thái dương, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Thiên
cương, Cô diệu, Táo hỏa, Tảo đãng.
Thái âm là Kim tinh mỏng, thấp.
Thái dương là Kim tinh cao.
Kim thủy là Kim tinh, Thủy tinh kiêm thể, hai tinh hợp hình có một đầu.

Tử khí là Mộc tinh.


Thiên tài là Thổ tinh, có ba thể là Bình não thiên tài, Song não thiên tài, Thốt não
thiên tài.
Thiên cương thì đầu là Kim tinh, chân là Hỏa tinh, là Kim tinh, cao đại, thô mạnh,
ngoan ác tinh.
Cô diệu là Thổ, Kim kiêm thể, không tròn, không vuông, phi độn, thô xuẩn.

Táo hỏa là Hỏa tinh.


Táo đãng là Thủy tinh rộng lớn, nhiều khúc, nhiều văn, như làn sóng uốn lên, uốn
xuống. Hình như lá sen, lá súng v.v..

D. Lục phủ tinh là Thái dương, Thái âm, Tử khí, Nguyệt bột, Kế, La. Còn gọi là Lục
diệu, Tam thai cũng thế.
Những tinh này không phải là tầm thường, mà ít có lắm! Đó là “ Quý khí sở sinh”
(Khí mạch thanh cao nẩy ra). Trên đỉnh núi cao đại, lại đột khởi lên tinh phong nhỏ
nữa, hoặc ở nơi bình địa có tinh phong lớn. Rồi trên tinh phong lớn, lại đột lên tinh
phong nhỏ; nói chữ là: “Phong thượng khởi tinh phong”.

Kim tinh nhỏ mà cao là Thái dương.


Kim tinh nhỏ, mỏng, thấp là Thái âm.
Mộc tinh nhỏ, gọi là Tử khí.
Thủy tinh nhỏ gọi là Nguyệt bột.
Hỏa tinh - - - La.
Thổ tinh - - - Kế.

Những tinh nhỏ này, có một cái đã là quý! Có hai, ba cái càng quý thêm. Nếu đứng
xa mà trông thấy những tinh này thì quyết đoán là vùng đó có quý huyệt đại địa,
không sai!
Đấy là những quý cách, thế mà xưa nay không mấy người biết, vì ít sách có. Duy có
vài vị hiền triết bàn đến là: Dương Công ( Dương Quân Tùng), nói ở bộ Hám long
kinh: Ngô Công ( Ngô Cảnh Loan) bàn ở bộ Vọng long kinh, và ở bộ Lý gia hoạt sáo
có câu: “Trùng quý trùng âm vi tể phụ) chính là những tinh đó. Nghĩa là : Có cách “
trùng quý, trùng âm” thì làm đến chức Tể phụ ( tức Tể tướng hay Thủ tướng). Ngoài
ra không thấy sách nào bàn đến nữa.

Ngũ hành thuộc âm dương


Trong ngũ hành, thì ba (3) hành: Kim, Mộc, Hỏa thuộc dương. Hai (2) hành: Thổ,
Thủy thuộc âm.

Ngũ hành thương sinh


Thổ sinh Kim – Kim sinh Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa sinh Thổ.
Thí dụ: Hành long, thấy đột khởi Thổ tinh, rồi liên tiếp đến Kim tinh, là Thổ sinh Kim;
lại ở vào phương thuộc Thổ ( là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Khôn, Cấn) là Thổ vượng; biết
một hành thì suy ra năm hành cũng như thế. Tức là: Mộc cư Đông, Hỏa cư Nam,
Thủy cư bắc, Kim cư Tây, Thổ cư Trung ( ở giữa) vừa kể trên, là vượng địa thì tốt

17
lắm!
Mộc cư Bắc, Hỏa cư Đông, Thổ cư Nam, Thủy cư Tây, Kim cư Tứ mộ ( Thìn, Tuất,
Sửu, Mùi) và Khôn, Cấn thuộc Thổ, là được sinh địa thì tốt.

Ngũ hành tương khắc


Thổ khắc Thủy – Thủy khắc Hỏa – Hỏa khắc Kim – Kim khắc Mộc – Mộc khắc Thổ.
Thí dụ: Thổ ở phương Đông, là phương thuộc Mộc khí, tức là Mộc khắc Thổ, là Thổ bị
sát khí, thì Thổ chết, là xấu. Lấy một mà suy ra năm, đều cũng như thế cả.

Còn tiếp

18
Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 3

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:01 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Viên cục


Việt Hải

Viên cục

Bắc thần nhất tinh thiên trung tôn


Thượng tướng, thượng tướng cư tứ viên
Thiên ất, Thái ất mình đường chiếu
Hoa cái, tam thai tương hậu, tiên
Thử tinh vạn lý, bất đắc nhất
Thử long bất hứa thời nhân thức
Thức đắc chi thời, bất dụng tang
Lưu giữ tinh triều, trấn gia, quốc.

Giải nghĩa
- Một cái tinh phong tôn nghiêm đứng giữa trời, như ngôi sao Bắc cực.
- Bốn cái tinh phong cao lớn ở bốn bên viên cục ví như bốn vị thượng tướng.
- Hai cái tinh phong ở hai đầu tả, hữu chầu soi vào Minh Đường, được gọi là Thiên Ất
và Thái Ất.
- Những tinh này, muôn dặm chẳng có được một.
- Long cục đất này, chẳng được cho người đời biết đến.
- Nếu đã biết rồi, không được giấu diếm dùng làm của riêng.
- Phải để cho Quốc gia lập kinh đô, triều chấn, cung điện.
- Đấy là nơi ví như ngôi Tử vi, là Đế tinh ở giữa vòng Viên tinh. Hết thẩy chúng tinh
đều chấu vào, rất là tôn nghiêm. Ví như văn võ, bá quan, thần dân hộ vệ ở ngoài
ngôi Hoàng đế ngự.
Cục đất này là huyệt đế Vương, ít chỗ có. Nên mới nói là: “Vạn lý bất đắc nhất”.
Nếu ở vùng Bình Dương rộng rãi thì phải nhường để làm Kinh đô, cung điện. Nếu ở
vùng sơn khê chật hẹp thì là nơi cấm địa; thời xưa nước Trung hoa, triều đình
nghiêm cấm.
Vậy, các sách Địa lý không dám bình luận đến, chỉ có kinh Triết thiên cơ nói rõ thôi.
Đặc biệt có Tam viên: Tử vi viên, là đệ nhất (1), Thái vi viên là thứ hai (2) và Thiên
vị viên là thứ ba (3); đại khái cũng tương tự gần như Tử vi viên đều là hạng Đế
vương địa cực cả. Ba viên cực này, chỉ có Hoàng triều được dùng thôi; còn tất cả các
thần dân đều không được ngó đến! Các triều đại ở Trung quốc đều độc tài ngiêm

19
cấm, nên không có kinh nào dám bàn đến, tam viên kể trên, đến cả những sách có
nói đến nhiều kiểu cách quý, như bộ Bích ngọc cấm thư, Hồng vũ cấm thư, mà các
danh sư gọi là Cẩm nang, cũng giấu diếm lẫn nhau, không cho phổ biến. Mãi về sau,
mới có số ít người tò mò tìm kiếm ra.

Cửu tinh
Cửu tinh là Bắc đầu thất tinh, với Phụ Bật nhị tinh, cộng là Cửu tinh ( 9 ngôi sao).
Thứ tự như sau:
1. – Tham lang 2. – Cự Môn 3. – Lộc tồn
4. – Văn khúc 5. – Liêm trinh 6. – Vũ khúc
7. – Phá quân 8. – Tả phụ 9. – Hữu bật.
( Tả phụ ở liền Vũ khúc tinh; Hữu bật thì hữu danh, vô hình, như là ẩn náu không
thấy rõ).
Cửu tinh thì có: Tham, Cự, Vũ là Tam cát (3 tinh lành) và Phụ bật là Thứ cát.
Phá, Lộc, Văn, Liêm là Tứ hung ( 4 ác tinh). Xem hình cũng nhận thấy là cát, là hung
! Nhưng vẫn một tinh biến ra, mà có cát có hung. ( Coi hình đồ ở dưới sẽ rõ).

1. Tham lang tinh


Tham lang tinh thuộc thủy, thân hình cao như cái măng mới mọc, ngắn thấp vừa
đâm lên khỏi mặt đất, đầu tròn; đó là chính hình thể. Nếu sinh chi như nhú nẩy cành
mà lệch lạc, cong hoặc khởi đính ( đột chỏm) mà nghiêng mặt là Tham lang phá
diện, thì hung ( xấu); thân thẳng mà hơi nhọn đầu, dưới chân hai bên thò ra gọi là
Thừa long. Nếu dưới chân đâm ngang ra, mà nhọn, gọi là Tham lang đới kiếm, là
cách tài kiêm văn võ, nắm cả binh quyền.
Nếu 2,3,4, cái liền nhau, trông ngang là ngọn núi, mà trông sang bên là dãy núi
nhọn, mở mặt về một phía chạy thẳng đi gọi là Xuất trận long, đó là cách đại địa.
Nếu là triều sơn tử khí ( ở ngoài chầu về huyệt) thì không phải là Tham lang chính
long.

Tham lang tính có 12 hình dạng:


1. – Tiêm 2. – Viên 3. – Bình 4. – Trực
5. – Tiểu 6. – Kha 7. – Tà 8. – Trắc
9. – Nhai 10. – Đảo 11. – Phá 12. – Không

Giải thích

- Tiêm là ở chỗ đất bằng đột cao lên như cái măng mới mọc.
- Viên là ngay ngắn, không lệch vẹo.
- Bình là nằm ngang ở trên đỉnh núi như cây gỗ, thường gọi là ngọa tàm ( con tằm
nằm).
- Trực là từ trong đâm thẳng đi.

20
- Tiểu là một cái tinh phong mà nhọn, ở trên đỉnh núi.
Năm (5) cái tinh hình trên này là cát long ( tốt)
- Kha là núi có đá chơm chởm, bên cao bên thấp, bốn bề thì không, đều nhau.
- Tà là bên có, bên không và lệch thiên.
- Trắc là nghiêng mặt về một bên, chỗ xuất mạch lại nhọn đầu, và nhỏ hẹp.
- Nhai là sườn núi đá mọc thò ra chơm chởm.
- Đảo là một ngọn núi queo lệch như sắp nghiêng đổ.
- Phá là đường nước chảy ra, vở lỡ như xẻ kẻ tua ra.
- Không là núi đá có nhiều hang rỗng không.
Bảy (7) cái vừa kể là hung tinh ( rất xấu):
* Kha, Tà, Trắc, Đảo thì sinh ra kẻ gian tà, bạo ác.
* Nhai, Phá thì sinh ra tai họa.
* Không thì sinh người cô độc, xuất gia làm tăng đạo, tu sĩ.
Lược kể để độc giả tế nhận định đoán hung, cát; tinh nào cũng có tốt, xấu, chứ
không toàn mỹ.

2. Cự môn tinh
Cự môn thuộc thổ, đầu bằng, thân hình vuông, là chính thể, tinh này tính đoan
chính, hình cao, ngang thổ, hai bên không sinh chi cước; phần nhiều là đồi vuông
như bốn góc.
Tinh này chỉ bình chính ( vuông vắn) thì mới tốt, hay kết huyệt ở chỗ thấp bình, và
gần nơi Thủy tụ.
Cũng có chỗ kết huyệt ở cao, nhưng phần nhiều là ở hình nhân ( hình người ở trên
núi) nhưng bốn bề trước, sau, tả, hữu đều là núi đồi cao, thì mới phải là đích huyệt.

3. Lộc tồn tinh


Lộc tồn thuộc thổ, hình tròn, đầu bình như cái trống để đứng, dưới sinh chi cước
( chân ) khúc khuỷu, thất ngẫng, thò ra như đuôi quả dưa, quả bầu nhọn; đây là
chính thể, rồi biến ra nhiều thể, kiêm cả 3 thể khí là thổ, kim, thủy, vậy là phức tạp,
lẫn lộn, cho nên làm gián tinh cho tam cát tinh thì là đại địa, phát võ có uy quyến
danh tiếng. Nếu kết huyệt ở Lộc tồn tinh thể thì sinh ra người hung bạo, làm giặc
cướp sát hại lương dân thôi! Và sao cũng bị tiễu trừ, tiêu diệt dòng giống v.v..

21
4.Văn khúc tinh
Văn khúc tinh thuộc thủy, hình thể như con rắn, con lươn, cổ cò v.v…Tinh này phần
nhiều là làm gián tinh, biến thể thành tinh khác, đột khởi để kết huyệt. Nếu không có
Văn khúc tinh thì long không bác hoán thoát tá, nên hành long đa số là Thủy tinh.
Cát tinh nhờ ở hung tinh làm uy quyền vũ dũng. Vậy hành long có đoạn cao, đoạn
thấp, đoạn to, đoạn nhỏ, đoạn dài, đoạn ngắn, mỗi tiết đoạn là một đời; theo long
hành mà đoán phát văn hay phát võ, phát hung hay cát v.v.. Nếu chỉ một phiến đê
bình ( bằng phẳng) không đột khởi được là nhược long thì không kết huyệt, nếu có
kết huyệt cũng chỉ là ty tiểu, bần tiện và không thịnh vượng lâu bền.

5. Liêm trinh tinh


Liêm trinh thuộc hỏa, hình thể rất cao lớn và nhọn đầu, thường thường là núi đá tầng
đồ sộ, thô ngạnh trong ghê sợ, ít khi có ở núi đất.
Có một ngọn cao nhọn ở giữa, thì gọi là long lâu; nhiều ngọn nhọn, ngang hàng bằng
nhau gọi là bảo điện. Tinh này rất có uy quyền mãnh lực, cho nên không phải là Liêm
trinh thì không phải là đại cán long. Vì Liêm trinh khi đã khởi lên, thì mạnh lắm! Hay
có nhiều chi phái hùng cường, và hay biến hóa ra Cửu tinh hành long, của những nơi
hay có đại quý địa.

22
6. Vũ khúc tinh
Vũ khúc tinh thể thuộc kim, hình thể thì đầu tròn, chân rộng trông như cái chõ úp,
hoặc như cái chuông úp xuống; cao mà đoan nghiêm là Vũ khúc, thấp là Tả phụ, hai
tinh này cùng một thể và đều là cát tinh nhưng Vũ khúc thì hay làm Chủ tinh tôn
quý, Tả phụ thì phần nhiều làm Hộ vệ tinh. Những núi cao hành long, khi sắp kết
huyệt, trong Cửu tinh biến đổi ra Tả phụ tinh, thì mới hay kết huyệt; nếu không biến
hóa thì cao quá, khó mà tụ khí kết huyệt. Các long đều biến ra Tả phụ tinh kết
huyệt, mà tác huyệt thì theo chủ tinh, như Tam lang hành long mà biến ra Tả phụ
tinh, thì huyệt xuất nhũ; Cự môn hành long mà biến ra Tả phụ thì huyệt khai oa,
nhưng theo ở long tinh, chẳng phải theo ở phụ tinh v.v..

7. Phá quân tinh thể


Phá quân tinh thuộc Kim, hình thể, thì đầu tròn, thân cao, đuôi duỗi ra thấp dần dần
xuống, trông thiên nghiêng như đuôi lá cờ nhọn bay chạy. Ở dưới cuối cùng chân,
sắc nhọn như mũi gươm, mũi dáo; tinh này hình thái hung ác, trông thấy thì chán
ghét! Nhưng có biết đâu, tinh này lại là một tinh có uy quyền võ dũng! Nếu cùng với
tinh Lộc tồn là hai tinh dương nha, bá trảo, phát ra người có uy thế cao quyến lẫm
liệt! Tinh này là “ Tôn quý chi khí sở sinh”, chớ coi là khinh thường! Long này mà trên
đằng đầu có Tam thai, Lục phủ quý tinh. Ở đằng trước mặt cũng có Vũ khúc, Tam
thai, Lục tinh, hai bên đăng đối với nhau, thì ở trên đỉnh núi bình, sẽ hay có tinh
phong nhỏ khởi đột, đó là Lục phủ tinh. Cái Lục phủ tinh là do bẩm sinh ở cái quý khí
của Tam thai sinh mà thành, tức thuộc về quý khí của Văn xương tinh. Nhưng cũng
phân từng loại của Ngũ hành. Như là tròn thì thuộc Kim, gọi là Thái dương tinh. Tròn
mà thấp và mỏng dẹt, gọi là Thái âm tinh. Đầu tròn, thân cao thuộc mộc, thì gọi là
Tử khí. Khuất khúc như sinh động, thuộc thủy, thì gọi là Nguyệt bột. Vuông thuộc
thổ, thì gọi là Kế; Nhọn thuộc hỏa, thì goi là La. Những tinh này là đại quý long mới
có, chứ những long tầm thường, thì không hay có.
Tuy gọi là Lục tinh ( 6 tinh phong) nhưng cũng bất chấp hẳn thế, hoặc nhiều, hoặc ít
không chừng. Có một cái cũng là quý. Có hai cái như mắt cá, thì thành nhị thai đã là
quý đến nhất nhị phẩm cao quan. Hễ thấy trên đỉnh núi mà có những tinh nhỏ như

23
thế thì phi tiểu quý! Tức là đại quý. Tinh này xưa nay cũng ít có người biết, vì những
sách địa lý thường không bàn đến.

8.Tả phụ tinh


Tả phụ tinh thuộc kim, hình thể thì khởi lên như hai ngọn núi tròn, một cái cao, một
cái thấp, hình như cái đầu bịt khăn. Cao thì gọi là Thiên mã; biến thể thì hai cái ngọc
đi ra xa nhau một chút, khoảng lưng nó dài như cái trượng cổ ( cái trống hai đầu to
giữa thắt nhỏ, tựa như cái eo lưng dài). Tinh này gần giống như Vũ khúc tinh, cũng
có thể là kim cả, cao lớn là Vũ khúc, thấp nhỏ là Tả phụ.
Nhưng Tả phụ tự có hình thể của Tả phụ : Ở dưới cái kim tinh cao, có cái kim tinh
thấp như cái nguyệt phủ ( cái búa hình bán nguyệt).
Nếu Tả phụ tinh không gần Vũ khúc tinh tức là Tả phụ chân thể, là tự kỷ hành long,
gọi là Tả phụ hành long: Ở giữa cao như cái đầu bịt khăn, hai bên phân cước ( chân)
ra, cái cao cái thấp chạy đi như một dẫy gò đống nhỏ nổi lên trên đỉnh núi cao, 2,3,4
cái chẳng hạn, lún xuống, nhô lên, đó là Tả phụ hành long.

9. Hữu bật tinh


Hữu bật tinh thuộc thủy, hình thể thì bình thản ( đồng bằng rộng rãi) đều là chỗ tinh
phong đứt khúc, ở chỗ hết đồi núi, mà là đất bằng. Những đại địa ở bình dương đều
là Hữu bật tinh làm chủ, tức là không khởi đột cao, nên mới gọi là ẩn diệu, hoặc có
hình bé nhỏ vào những cuống mạch nhỏ thấp tựa như con cá lên bến ghềnh, hay là
con rắn đi vào trong bãi cỏ thấp, hoặc như vết chân ngựa (mã tích) hoặc như con
nhện nhả tơ ( chi thù ty)v.v…ẩn ẩn vi vi ( hình như ẩn giấu, nho nhỏ không nhận

24
thấy rõ lắm, rất là khó hiểu, như có như không). Tinh này đã thoát hết cái cương sát
rồi, nếu kết huyệt thì tốt lành, không sợ còn ác khí xung nữa.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Ứng tinh, Biến tinh, Gián tinh
Việt Hải

Tinh thể tổ sơn thì đại để là Liêm trinh ( Diệm thiên hỏa) hoặc là Trướng thiên thủy. Nếu
không phải là Thủy, Hỏa hai tinh thì không hay làm tổ sơn được. Hai tinh này trông ở xa
thì cao tủng tú lệ, nhưng đến gần thường thấy những tầng đá to lớn, đồ sộ lam nham ghê
sợ....

 
Ứng tinh, Biến tinh, Gián tinh

- Ứng tinh là tinh phong do tổ sơn phân ra đột lên, dẫn mạch vào huyệt tinh
ở phía trước, vì đối diện với huyệt tinh tương ứng, nên gọi là Ứng tinh; tức là
chủ sơn hành long.
Thí dụ: Ứng tinh là Tham lang, thì gọi là Tham lang hành long. Kết huyệt ở
trước mặt hẳn là sinh nhũ đầu ( như đầu vú đàn bà).
Nếu trong khoảng giữa Ứng tinh và Huyệt tinh, lại biến nảy ra Tham lang
tinh nhỏ bé khác nữa, mà Huyệt tinh không theo Ứng tinh lại theo biến tinh
ra, cũng vẫn gọi là “Tham lang bất biến sinh nhũ đầu” v.v…
- Biến tinh là tinh phong ở vào khoảng giữa của Ứng tinh và Huyệt tinh, do
Ứng tinh bác hoán ( thay đổi hình dạng) biến ra, nên gọi là Biến tinh. Tất thị
Huyệt tinh theo Biến tinh ra, thì gọi là “ Chân biến tinh”.
Thí dụ: Tham lang hành long, trong khoảng ấy biến ta Tả phụ tinh (phần
nhiều là Yến oa ( tức tổ én) nên gọi là Biến tác phụ tinh. Huyệt ngửa lên như
hình tổ én, dính liền với sườn núi cao, thường gọi là “ Quải đăng chi huyệt”
(huyệt hình như cái đèn treo).
Gián tinh là những tinh phong gián tiếp ( cách nhau) ở khoảng giữa hành
long ( dẫn mạch), gọi là Gián tinh. Vì hành long không hản là có một loại
tinh mà đáo đầu, tất nhiên có tinh thể khác xen vào, nên gọi là Gián.
Thí dụ: Tham lang hành long, khoảng giữa cách một tòa Lộc tồn, rồi mới đến
tinh phong gì khác v.v…
Vậy Tam cát hành long cần gián ( cách) Tứ hung, thì mới “ phân nha, bá
trảo” (chia nanh, nẩy vuốt). Tứ hung hành long, cần phải gián Tam cát thì
mới hay thành thai kết huyệt.
Tam cát mà không gián TỨ hung , thì đất phát phúc không có uy quyền hiển
quý.
Tứ hung hành long mà không gián Tam cát, thì không hóa khi tác huyệt,
quyết phạm hình hung v.v…

25
( Tam cát là ba (3) tinh phong lành: Tham lang, Cự môn, Vũ khúc; Tứ hung
là bốn tinh thể ác: Phá quân, Lộc tồn, Liêm trinh, Văn khúc).
Còn như những long sơn đê bình (thấp bằng) phần nhiều là Lộc tồn, Văn
khúc, Tả phụ; ba tinh phong này hay gián tạp (liên, cách lẫn nhau) nhưng
bình, thấp. Nếu thấy dắt dây ra lan man là Văn khúc; dột lên trên đỉnh, tròn
trông thanh tú (xinh đẹp) là Tả phụ; nếu ở trên đỉnh, trông to lớn, thô xuẩn,
cương ngạnh là Lộc tồn, hoặc một chi vươn dài ra, như giây dưa rồi khởi lên,
trông thô ngạnh, quá độ hình như cổ hạc, đó là “ Lộc tồn tán bá”. Lộc tồn
không biến ra Cát tinh gì khác, thì không kết huyệt; nều biến ra Tả phụ thì
phần nhiều là kết huyệt hay, mà huyệt tất nhiên khai khẩu, hoặc khai oa rõ
rệt.
Tướng địa gia ( người xem đất) cần phải am hiểu, nếu lờ mờ thì không phân
biệt được là Lộc tồn hay Tả phụ. Hoặc có người nghi vấn, thì không giải đáp
nổi, hẳn ấp úng nói là, “Kim thủy hành long”thì buồn cười!

Chính thế - Biến thế - Kiêm thế - Niêm thế - Thân thế

- Chính thể là Ngũ tinh.


- Biến thể là Cửu tinh.
- Kiêm thể là một tinh thể gồm hai tinh, trông không phải là Thổ mà cũng
không phải là Kim, tức là Thổ Kim kiêm thể. Đông trông hình như Kim,
nhưng bên Tây trông lại như Mộc, tức là Kim Mộc kiêm thể; đầu tròn chân
nhọn, tức là Kim Hỏa kiêm thể.
Trong Cửu tinh, thì Lộc tồn là Thổ Kim kiêm thể, Phá quân là Kim Hỏa kiêm
thể.
Trong thiên cơ cửu tinh, thì Thái âm, Thiên tài, Kim thủy, Thiên cương, Cô
diệu, đều là những tinh thần (tinh phong) kiêm thể cả. Xem kiêm thể mà
tâm mục thông minh thì nhận xét được mau chóng.
- Niêm thể là ở trên Huyệt tinh lại gợn khởi lên một tinh bé nhỏ, cao hơn
chút xíu chẳng hạn; nhưng không phải là tình hình khắc, với chủ tinh ( huyệt
tinh) thì mới tốt.
- Thân thể là sau huyệt tinh lại liền dính nảy ra một tinh nhỏ bé, mà cũng
không hình khắc với chủ tinh thì mới hay.
Hai tinh Niêm thể và Thân thể này, chỉ cần xem ở huyệt thôi. Vì sự sinh, khắc
đối với huyệt tinh là tối khẩn, nên nhận xét cho kỹ.
Tất cả Ngũ thể tinh vừa kể trên đây, cần phải hiểu từ trong tâm, trong nhỡn,
trước khi đi tìm đất đã, thì khi gặp thấy mới phân biệt được ngay là loại tinh
gì; nếu không thì sẽ bị loạn mục, và hoang mang tâm trí.

Thái tổ - Thiếu tổ - Tổ tông - Phụ mẫu

- Thái tổ là chỗ đột lên quả núi rất cao đại, làm tổ sơn, phát nguyên của
những long mạch một phương rộng lớn. Hoặc một quận hay mấy quận, hoặc
một tỉnh hay hơn không chừng; hai bên tất thị có hai giải đại thủy như sông
hay khê chẳng hạn, giáp giới bên tả, bên hữu tổ sơn, tất cả các long mạch to,
nhỏ trong vùng thuộc khu vực ấy đều do hai giải sông to đó chứa đựng rồi
phân tán ra.

Tinh thể tổ sơn thì đại để là Liêm trinh ( Diệm thiên hỏa) hoặc là Trướng
thiên thủy. Nếu không phải là Thủy, Hỏa hai tinh thì không hay làm tổ sơn
được. Hai tinh này trông ở xa thì cao tủng tú lệ, nhưng đến gần thường thấy
những tầng đá to lớn, đồ sộ lam nham ghê sợ. Chắc là một khối ác khí kết

26
thành, nếu không phải là cương sát khí thì sao đứng lừng lững giữa trời!
Chịu nổi tám phương gió bão mưa quăng từ khi khai thiên lập địa cho đến
nay?

Những long sơn tuy cũng phát nguyên, từ một Thái tổ ra, nhưng cũng có
long hậu, long bạc, long quý, long tiện. Muốn biết hậu bạc, quý hay tiện, thì
phải xem từ chỗ Thái tổ phát ra, long sơn nào thoát đại trường viễn (rộng
lớn dài xa) là khí mạch hậu, nếu tiểu đoản xúc hiệp ( bé thấp ngắn hẹp) là
khí mạch bạc.

Muốn biết quý hay tiện thì phải xem ở cục thể; nếu hai bên tả, hữu và xung
quanh tổ sơn, có nhiều tinh phong tủng bạt ( cao đại) ủng hộ bao bọc thành
cách, thành cục là quý. Trái lại, là tổ sơn đơn cô độc lập, ít hay không có
quần sơn hộ vệ là Tiện.
Thái tổ sơn mà tinh thể phương chính, đoan nghiêm ( vuông vắn ngay
thẳng) thì hay sinh ra người giỏi, chính trực, hiền nhân, quân tử. Trái lại,
nếu thiên, tà, oa, trắc ( méo, vẹo, lệch lạc, nghiêng ngả) thì địa phương ấy
sinh ra nhiều kẻ gian tà, xảo trá, tiểu nhân v.v…

- Thiếu tổ sơn là sau Thái tổ phân ra, lại khởi lên Đại sơn nữa, làm tổ sơn của
các cán long, chi long vùng đó. Tinh thể thường không giống như Thái tổ
nhưng cốt đoan chính tú lệ, trông có vẻ non bồng ngoạn mục, thì hay kết
huyệt to. Nếu được tinh phong tủng tú cao thanh thì phát quý, phi hậu ( to
mập) thì phát phú quý vượng đinh tài thôi.
- Tổ tông là cái sơn cũng do Thiếu tổ phân lạc ra sau, nhưng tự biệt lập một
mình một khu vực.
Tinh thể Tông sơn này cốt là cát tinh, mà có khai bình, liệt trướng sơn sa
triều bão, thành cách cục thì thường thường là có là có quý huyệt; trái lại
nếu không phân khai ra được, là vô lực, không có đất hay.
- Phụ mẫu sơn là cái sơn ở đằng sau huyệt tinh dẫn mạch vào huyệt. Tinh
này cốt là cát tinh và, mở được hai cánh dương ra thì mới kết tác ( có huyệt),
bằng không khai được là vô huyệt.
Trên đây kể về Thái tổ, Thiếu tổ, Tổ tông, Phụ mẫu là để cho rõ căn nguyên,
thứ tự từng tiết, từng đoạn thôi, chứ thực ra thì tìm đất tự hạng trung địa trở
xuống không cần hỏi đến Thái tổ, Thiếu tổ mà chỉ Tổ tông và Phụ mẫu là đủ.
Vì phần nhiều chỗ sơn xuyên biến hóa ( núi sông thay hình đổi dạng), không
thể cứ phải nhất định câu nệ được; có nhiều chỗ thuần dương hành long
( long mạch đi thấp) thường chỉ một phiến bình thản dài thẳng đến đầu, khởi
đột lên một cái tinh phong, thì huyệt kết ở trên tinh phong ấy. Như vậy, thì
chẳng những đã không có Tổ tông mà lại còn không có cả Phụ mẫu sơn nữa,
như những chỗ ấy thì chỉ cô lập có một thân mình ( tức huyệt tinh), không
thể bàn nói đến Tổ tông làm gì nữa!

Cán long – Chi long – Chủ long - Tùy long

- Cán long là cái long sơn chính tự Tổ sơn đi thẳng ra, tức như bản thân
người ta. Cán long thì lực lượng hùng cường, vì thân long quảng đại trường
viễn, hẳn là phân chi ra hai bên tả, hữu làm hộ vệ, tiền nghinh hậu tống, cả
hai giải nước giáp với cán long. Thế nhưng cũng có chỗ cán long, chỉ theo
một bên là đi ra, mà chỉ long đều ở một bên phân phối ra. Bên cán long càng
đi ra, lại càng mạnh, nhưng chỉ thu được có một bên nước thôi, còn một bên

27
là các chi, thì ngắn hẹp, không hay đi dài xa được.

- Chi long là long sơn, do cán long phân ra, tuy là chi long, nhưng cũng có
nhiều chỗ lực đại khí cường, không kém cán long mấy chút, nên ở trong chi
lớn, chính trung xuất cũng có thể là cán long nữa, gọi là “ Chi trung cán kết”
và còn nhiều chi long, lại phân ra các chi nữa, gọi là “ Chi trung chi kết”. Chi
long phần nhiều là lực bạc ( mỏng).

- Chủ long là long sơn cường đại, chính cán xuất ( to, lớn chính cán ở tổ sơn
ra), thường đi dài xa, thẳng tiến, tôn nghiêm, không chiều hướng sang hai
bên, hẳn là bên tả, bên hữu có những sơn sa tùy tòng hộ vệ triều bão, lưỡng
thủy giáp lai ( hai bên nước giáp lại) tức là cán long.

- Tùy long là long sơn phụ thuộc vào chủ long, nhưng nhỏ hẹp hơn, tức là
những chi long, và thường là chầu hướng vào chủ long, làm hộ vệ sơn, nên
gọi là Tùy long, nhưng cũng có quý huyệt và tùy ở cách cục chứ không nhất
định.

28
Chỉ dẫn hình đại liên Long Sơn trên
1/ Thái tổ sơn, tinh thể là Diệm thiên hỏa tức Liêm trinh khởi tổ.
2/ Thiếu tổ sơn, kế liền với long mạch ở Thái tổ ra, khởi đột cao đại, tinh thể
là Thủy tinh, tức: Trướng thiên thủy.
3/ Tổ tông sơn, do Thiếu tổ sơn phân ra đại chi. Hình trên này Thiếu tổ phân
ra ba chi là ba (3) Tổ tông sơn:
A. – Chi giữa Thiếu tổ thẳng ra là chính đại cán long, khởi lên một đại sơn,
tinh thể là Kim Thủy tức là Tổ tông sơn; sau Tổ tông sơn lại khởi lên một
Tham lang tinh, tức là Phụ mẫu sơn, và gọi là Ứng tinh. Ứng tinh này biến ra
một Tả phụ tinh, tức là Biến tinh, rồi mới đến Huyệt tinh, như thế gọi là Chân
biến tinh, rất quý, thế là thoát, tá, bác hoán đúng với câu chữ “Thô giả dĩ
biến tinh, lão giả dĩ phục nộn”. Nghĩa là: Thoát khỏi cái lớn đã biến ra cái
nhỏ, cái già cũng đã lột thành cái non mềm v.v… Huyệt này là “ Cán long cán
kết” và là chủ long, còn hai huyệt ở bên tả, bên hữu cán long là tùy long cả
và gọi là “ chi trung chi kết”. Bên tả thì gọi là “ hồi long nghịch kết” (hồi
long có tổ), bên hữu thì gọi là “thuận long hoành kết” (quay mặt ra ngang)
cùng chung một án sơn với huyệt chính. Hai huyệt hai bên, đều là huyệt tùy
hay huyệt bàng cũng thế. Riêng có bên tay hổ ( bên hữu của chính cán long,
nẩy ra một chi, biệt lập một môn hộ, khai trướng lưỡng dực ( mở màn ra như
hai cánh) làm long hổ không hướng chiều về cán long và đại chi, huyệt này
gọi là “chi trung cán kết”.

Chi A này là chính cán của Thiếu tổ nên lực lượng trường viễn, cục thế quảng
đại, mới kết thành huyệt chính và ba huyệt bàng như thế là đại địa mới có
chính, tùy. Nếu càng nhiều trung địa và tiểu địa thì là Đế vương địa, vì có
nhiều chư hầu; nếu có một đại địa mà không có bàng huyệt, dầu có quý cách
cũng chỉ là: “vi vương nhất quốc” ( làm vua một nước hay một xứ, miền).

B. – Chi bên tả cán long, cũng do Thiếu tổ phân ra, khởi lên một đại sơn cũng
là Tổ tông sơn, Tổ tông sơn này tinh thể là Tham lang. Sau tinh nàu lại khởi
lên một tinh Tham lang nữa gọi là Phụ mẫu sơn, và là Ứng tinh, sau Ứng tinh
này, lại đột lên một Tham lang tinh nhỏ nữa, tức là Huyệt tinh. Ở bên sườn

29
Huyệt tinh lòi ra một cái núm đính vào núi, trông như tổ én bám vào tường
mà huyệt ở trong tổ én ấy nên gọi là Yến oa huyệt hay là “Quải đăng chi
huyệt” ( hình như cái đèn treo). Đấy là cán long cán kết, như thế gọi là: “
Tham lang bất biến sinh nhũ đầu” v.v…Ở bên Tả cán long này tức là tay long
còn có một huyệt nữa, theo trong chi chạy dài ra kết huyệt, tức là thuận
long. Gọi là “ Cai trung chi kết” và là tùy long, tùy huyệt. Chi này không
mạnh bằng chi cán long ở giữa, nên chỉ có một chính một tùy thôi.

- Chi bên hữu cán long, cũng do Thiếu tổ phân ra, khởi lên một đại sơn. Cũng
là Tổ tông sơn sau cũng lại khởi lên tiểu sơn, làm phụ mẫu sơn, rồi đến
huyệt sơn là Thổ tinh. Nhưng chi này bé nhỏ hơn cả hai chi A và B, nên chỉ
kết có một huyệt chính, không có huyệt bàng.

Tóm lại, Cùng Tổ sơn phân ra, nhưng chi nào to lớn rộng hơn, thu được cả
đại thủy ở hai bên, tức là cán long hay là chủ long, thì mới là đại địa. Nếu
nhỏ hơn không tu được đại thủy cả hai bên, hoặc chỉ thu được một bên đại
thủy, hay chỉ thu được nước nhỏ của hai bên long hổ, tức là Trung địa, là tùy
huyệt, hay bàng huyệt thôi.
Muốn biết rõ đại cán, đại chi thì phải xem tự Thái tổ phát nguyên ra.
Muốn nhận rõ cán long, chi long và chi trung cán, chi trung chi, thì phải xem
tứ Thiếu tổ phân ra, hay Tổ tông sơn cũng thế.
Ví dụ: Cán long như tân người; Chi long như chân tay; Chi trung cán như
ngón tay giữa; Chi trung chi như mấy ngón cái, ngón út, ở hai bên ngón giữa.
Xem bản đồ lược họa Đại liên long sơn trên thì rõ.

Cán long phần nhiều là ở khoảng giữa Tổ sơn đi thẳng ra, nên lực lượng, khí
mạch hùng cường, phát phúc dầy, lớn hơn chi long.
Nhưng bất luận là cán long, hay chi long, đều cần phải Thoát, Tá, Bác, Hoán
( nghĩa chữ Thoát là: rút khỏi, Tá là: trút lui, Bác là:lột bóc, Hoán là: thay đổi
). Tóm lại là lớn rút lại nhỏ, già đổi thành non thì kết Huyệt mới hay, lành. Vì
long sơn khi phát nguyên ở tổ sơn ra, phần nhiều là thô ngạnh, ngoan ác.
Vậy cần phải biến hóa đổi thay sát khí đi, thành sinh khí thì mới tốt. Vậy
càng khởi phục bác hoán nhiều thì càng tốt, càng quý. Có nhiều chỗ già biến
thành non, rồi lại đổi trở lại già, lại thúc khí lại, hóa non, chứ không nhất
định. Vậy nên tìm huyệt ở chỗ uyển diệu ( mềm dẻo) tức là chỗ non, thì mới
lành. Còn chỗ thô ngạnh, chỉ nên làm Tổ sơn hay chỗ trấn thủy khẩu thì hay.

Long hành không thấy bác hoán một đoạn nào, chỉ vẫn thô ngạnh, kéo dài
thẳng một mạch đến huyệt. Thì đâu có sơn sa hộ vệ, bai vi, thành quách chu
mật. Thường nhân không hiểu địa lý, cho là mãn mục giang sơn, thích thú
lắm!Như thế, gọi là địa ý, có biết đâu là: không bác hoán thì sát khí vị trừ
(chưa diệt được khí độc) những chỗ ấy là rất hung, gọi là “ thảo khấu diệt
tộc chi địa” (là đất làm giặc!bị chu diệt cả giòng họ).

Trên đây là bàn về hành long, phải có bác hoán, thoát, tá, thì mới dùng, chứ
chưa phải là thật quý. Quý hay không là ở cách cục, (cách cục là những cách
quý, hay tiện, ở trong cái cục đất ấy).

Vậy muốn rõ quý, hay là tiện, sau khi xem thấy long bác hoán rồi, thì phải
xem có cách gì quý không? Có cách quý thì mới quý long, và mới phát phúc,
hiền quý ( sinh ra người tài giỏi, làm nên chức vị cao quý). Nếu không có
cách gì quý, thì dầu là thế cục đại địa, hùng cường, chẳng qua là chỉ phát đại
phú, đa vinh, vượng tài thôi, chứ không phát quý.

30
Vì vậy thấy có đất kết, thực là cán long mà không thấy phát quý. Có nơi
huyệt kết, chỉ là chi long, mà lại phát phúc, hiền quý. Chính là bởi có cách và
không có cách v.v..
Nói về cách cục thì có rất nhiều. Nhưng tìm đất cũng ít gặp thấy những cách
kỳ dị quá! Nếu biết thêm ra thì cũng hay, không thì thôi, chẳng cần lắm. Cứ
xem xét những quý cách thông thường có lược họa dưới đây cũng tạm đủ.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 4

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:03 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Thai phụ


 Việt Hải

Thai phục

31
Thai phục là hai tinh phong Thư, Hùng ở trên long
tích, hướng diện vào nhau. Thư, Hùng ( đực, cái) giao cấu thành thai. Một tinh phong
hướng về đằng trước, một tinh phong hướng về đằng sau, là cả hai tinh ngoảnh mặt vào
nhau.

Tinh phong sau là Hùng, gọi là Phục.


Tinh phong trước là Thư, gọi là Thai.
Long mạch thì theo đằng sau lưng Thai tinh chạy đi, có hình như thế thì hay
kết huyệt.
Tinh này trông tương tự như hình Kim ngưu chuyển xa. Kể ra có nhiều hình
thể, nhưng phác họa một hình đại khái dưới đây để suy xét tế nhị.

Những thời sư xưa nay, phần nhiều chỉ thấy long sơn khởi phục nhiều thì cho
tốt. Có biết đâu khởi phục nhiều , cũng chưa phải là long thật tốt, vì khởi
phục nhiều là thể độ của chi long, chứ như đại cán long, thì bất luận cao hơn,
hay bình cương, thường hay ngang nhiên, đi thẳng lưng, không hay khởi
phục và cũng không đột tinh phong nữa, nên có câu: “ Chính long đầu
thượng bất sinh phong” là chỉ vào nghĩa thế! Nếu long mạch đi thẳng băng
được vài ba dặm thì “ quý bất khả ngôn”, ( hay không thể nói xiết), hoặc
một dặm hay nửa dặm, mà kết huyệt, đều là quý huyệt, thượng hạng cả.
Phần nhiều người chỉ biết lấy khởi phục là hay, mà không biết hay ở chỗ nào,
chính là hay ở cho đoạn long bình trực ấy ( đi thẳng và băng).
Và chỉ thấy nói long sơn trường trực là quý, thích ý cho rằng hay có biết đâu
trường trực, lại không phải là quý long, mà là cái thể độ của tiện long. Chứ
như quí long thì bất luận là núi cao, hay đồi bằng đều phải mở dương hai
cánh, rộng ngang ra hai bên, ( tức là khai trướng). vì có mở rộng ngang ra,
thì mới là đại nghinh, đại tống ( đưa đón nhiều) thì mới có nhiều kiểu quý,
cách hay.
Vậy chỉ có “ hoành khoát chi long” ( long sơn mở rộng ngang) mới là cục
quý, bất luận cán long hay chi long đều là đại quý cả. Chính là cái hay ở chỗ
hoành khát đó, chứ không phải long sơn trường viễn ( dài xa) mà cho là cực
hay, thì chưa thực là danh sư.
Chính trong sách địa lý của các Lý gia cổ truyền, cũng đã có mâu thuẫn,
tương phản ( trái nhau) về những cái chưa xác, hay là chưa thấu đáo, hoặc
không đúng với “ Thiên địa chi chính khí”. Nhưng mỗi cái tương phản, lại là
một cái hay, vì đã công khai triết lý, phân tách rõ rệt, chứng kiến kinh

32
nghiệm, không còn chối cãi được nữa, thì mới công nhận là phải, đúng là chí
lý.

Ghi thêm về Cán Long và Chi Long

A. – Cán Long thì phần nhiều là những núi cao lớn, hùng cường, cương trực.
Đi thăng bằng, không hay khởi phục và không hay đột khởi tinh phong ở trên
long tích, trong rất là nguy nga, đồ sộ, tôn nghiêm, thẳng thắn, không chầu
hướng vào chi long. Hoặc đi dài mấy trăm dặm, mấy ngàn dặm không chừng.
Phân ra nhiều đại chi, tiểu chi hai bên tả, hữu, làm sơn sa hộ vệ tiền nghinh,
hậu tống. Khởi phục bác hoán, biến hóa tinh phong, thành muôn ngàn kiểu
quý, cách hay. Trùng trùng, điệp điệp, phô trướng, cao ngất giáp chân mây!
Dưới thì hai bên khe to, suối lớn, là nội thủy chẩy theo. Ngoài xa thì trường
giang, đại hà, thủy lai triều tụ. Kết huyệt phần nhiều ở trên đỉnh núi, lấy
những núi cao làm long, hổ bao vi kết cục. Lấy sông to, hồ rộng, hoặc vịnh
biển, làm minh đường tụ thủy v.v… Thật là bao la, quảng đại như vạn lý
trường thành. Những chỗ có đại thể như vậy, tức là đại địa cao quý, tất
nhiên phát phúc, sinh ra những người thông minh, tuấn kiệt, cực phẩm nhân
gian, như hạng Hoàng vương, Đế Bá, Hùng Tướng phi thường, vi nhân thiên
hạ! Ít nhất cũng công hầu, khanh tướng, xưa kia ( tức là cấp Tổng thống,
Thủ tướng, Quốc trưởng thời nay).

Những đại địa này, thường hay ở nơi sơn lâm hiểm trở, khi đi xem phải kiếm
lối đi lên đỉnh núi cao mà chiếu, thì may ra mới nhận được long mạch từ đâu
phát nguyên. Chỗ nào khởi đính, chỗ nào quá giáp, chỗ nào phân tán, chỗ
nào đoàn tụ v.v.. Chỗ phân tán long mạch còn đang đi. Cần nhận biết chỗ Sơ
lạc ( mới đầu xuống), trung lạc ( quãng giữa), mạt lạc ( đoạn cuối); xem ba
đoạn này âm dương thế nào, mà tế nhận kết huyệt hoặc huyệt ở chỗ khởi
phục, hoặc ở chỗ bình cương, hoặc ở chỗ bình dương chẳng hạn. Thấy chỗ
nào sơn xuyên tụ hội là sơn chỉ thủy giao, tức là kết cục, huyệt trường ở
trong vòng nơi ấy. Nếu huyệt trường ở vào sơn lâm hiểm trở thì khó mà chân
đơn bước tới được.

Ngày xưa, Cao vương ( Cao Biền) sang đô hộ nước ta, y là người am hiểu địa
lý. Y làm cái diều to, rồi ngồi lên trên mới trông được chỗ có đại địa; vì vậy y
đã biết, mà triệt mất mấy cái đại long mạch có đại địa của nước Nam ta.

Hiện tôi đã được mục đích thấy ở khu làng Triệu, Cung Bái và vùng Vàng
Gián thuộc tỉnh Hải Dương giáp Bắc Giang, do giải núi Huyền Đinh, phát
nguyên tự dẫy núi tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây Trung Hoa ( Thập vạn đại
sơn) qua vùng Móng Cái, Quảng Yên phân ra một giải Đông triều về mé biển,
một giải qua xuống Lục Nam đi đến Sùng Nghiêm, Kiếp Bạc giáp Lục đầu
giang.

Khi tôi mới xem ở khu đầu ngoài, thấy có chỗ kết đại huyệt và nhiều kiểu
quý huyệt lấy làm mừng; sau đi sâu vào bên trong, để xem nguyên lai, thì
mới biết là đã bị cắt đứt mất cuống mạch rồi! Có chỗ đào xẻ sâu xuống,
chứng bốn, năm mươi thước, chiều ngang chừng hai, ba mươi thước, chiều
dài có chỗ ba, bốn năm trăm thước; công trình tổn phí có thể hơn người Pháp
xẻ núi làm đường xe lửa, ở các đèo núi cao! Ai trông thấy cũng phải tiếc và
không khỏi thán hận! đáng trách con người thâm độc của nước Trung Hoa!

Ngày nay, muốn đi xem, nếu lên núi không thể được, thì có cách hay hơn

33
Cao Biền ngày xưa, là dùng phi cơ trực thăng thì tiện nhất!

B. – Chi Long thì phần nhiều là đê tiểu bạc nhược, không hùng cường như
cán long, thể độ thì đa số là khởi phục bác hoán, đa sinh phong loan ( biến
hóa ra nhiều tinh phong vòng cong), phân ra chi nhánh sơn sa hai bên tả,
hữu và hay thiên thẹo lệch lạc. Hình thế thì phần nhiều là ngắn hẹp và triều
bão vào cán long làm tùy tòng. Chỗ xuất mạch ( mạch đi ra) thì không lộ rõ,
hình như là lén lút ẩn tích; những tinh phong thì thấp nhỏ, đa số là tiểu đôi
và tiểu phụ ( gò đống thấp nhỏ) hành độ thì giắt díu, dây dưa, cong queo,
kết cục thì nhỏ hẹp, hay thiên về một bên, ít cân đối. Đại khái Chi long là
thế.

Nếu như chi trung cán, hay cán trung chi, thì tự lập riêng một thế cục, dầu
nhỏ, dầu lớn cũng không dựa thế nào cán long, tức là “ tự kỷ thành gia”, “
biết lập tiểu giang sơn” ( ví như người: riêng mình tự một khu vực, không ỷ
lại khuất phục người nào). Các tinh phong sơn sa hai bên long hổ triều bão,
cũng như cán long không khác, chỉ phân biệt nhau là đại cục thế với tiểu cục
thế. Tức là đại cán thì đại tụ, tiểu cán thì tiểu tụ; đại chí thì cũng tiểu tụ, tiểu
chi cũng có tụ nhưng tụ chút ít. Tuy tụ nhiều, tụ ít khác nhau, nhưng tình ý
cũng đều như nhau cả.

Cũng có chỗ “ Thư Hùng lưỡng chi tịnh xuất” ( hai chi cùng đi song song ra)
thì chi Hùng ( đực, mạnh) là chủ, chi Thư ( cái, yếu) là tùy, thì kết huyệt ở
chi chủ (Hùng) thường thường là quý hơn.
Nếu hai chi tương đương, không phân biệt Thư, Hùng thì cả hai đều cùng kết
huyệt. Chỉ phân biệt quý, tiện; ở chỗ có cách và không có cách thôi.
Kết huyệt thì rất nhiều dạng vẻ khác nhau, không thể kể xiết, chỉ kể đại khái
như là “ Lão cán sinh nộn chi” ( cành già biến ra nhánh non) thì huyệt kết ở
nộn chi ( cành non); hoặc trước thấp sau thấp, tiết giữa cao lên, xét xem
tinh diện ( mở mặt) hướng về bên tả thì huyệt ở bên tả, mặt hướng về bên
hữu thì tìm ở bên hữu. Nếu khoảng giữa không phân khai, cón đương đi, thì
huyệt ở đoạn sau, hay đoạn cuối; nếu cuối cùng ( tận đầu) mà sơn phi, thủy
tẩu thì tức là không tụ, không có huyệt và huyệt kết ở đoạn giữa; nếu thấy
chỗ nào sơn thủy tụ hội, loan hoàn cung bão ( vòng cong ôm vào), hình thế
kín đáo tôn nghiêm, là chỗ ấy có huyệt quý, hoặc âm thịnh dương suy, thì
huyệt ở chỗ âm, dương thịnh âm suy, khi huyệt ở chỗ dương v.v…

Còn như long mạch ở miền bình dương ( đồng bằng) thì phần nhiều là di
tông thất tích ( mất dấu tích cuống mạch) không biết ở đâu ra. Những chỗ
ấy thì phải xem nước ở hai bên giáp long, chảy về phương nào, thì mới định
được long lai, nếu không thì là đứt ngang đâu mất rồi khó mà suy lượng ra.
Ở vùng bình dương có chỗ mạch đi chỉ hơi gợn lên một chút ít, đến tận nơi
mới tấy, chứ ở xa mấy trăm thước thì không biết có mạch, nên gọi là “ Thảo
xà, hôi tuyến chi mạch” ( con rắn luồn trong bãi cỏ, sợi dây tro tàn). Những
tinh thể chỉ đột lên thấp nhỏ như là hình Lư tiên, Ngọc xích v.v… ( xem đồ
hình sẽ rõ) như có, như không,khiến phải nghi hoặc? Vậy phải tế nhận ở chỗ
chuyển mạch xuyên điền, truyền giác, hình như giây nọ dắt dây kia, như là
bóng dáng nối đuôi, theo hút thôi. Hễ thấy có đột khởi tinh phong ( gò đống)
là có mạch, bất luận lớn nhỏ, dài ngắn hễ đường bình thản ( bằng phẳng) mà
có chỗ đột cao lên, là chỗ ấy hay có huyệt, nên có câu: “ bình trung nhất đột,
tối vi kỳ” là nghĩa đó.

Hoặc ở giữa hồ ao, đầm vũng mà có gò đống nổi lên, và thể chất kiên cố

34
( bền nguyên thổ) là khí mạch rất tốt. Hoặc bên cạnh chỗ nước mà có huyệt
đá ( bãi đá liền với đất) cũng có huyệt hay, nhưng ít người biết, nên có câu:
“Thạch huyệt bàng tủy nhân mạc thức, cánh hữu chản nội phù du lạc”. Nghĩa
là: “ Huyệt đá ở bên cạnh nước, người không biết, nhưng có báo hiệu là như
có cái màng váng nổi trong cái chén nước”.

Trên đây là kể đại khái thể thức Chi long, cán long hành độ; còn về hình thể
tinh phong, như là Ngũ tinh, Cửu tinh, phải thuộc hiểu để biết sinh, khắc mà
tác dụng mới được.

Trong bộ kinh Tiết thiên cơ, chỉ lấy tám (8) cái là: Sinh, Tử, Cường,
Nhược,Thuận, Nghịch, Tiến, Thoái, để phân tách long hay, long dở. Nghĩa là:
Sinh thì long sơn nghểnh đầu, nhiều đốt đoạn, nhiều bác hoán; Tử thì long
không khởi phục, nằm đườn ra; Cường là đi mạnh mẽ dài rộng; Nhược là
trông long gầy guộc, khô khan, yếu ớt; Thuận là long đi thẳng về phía trước
mặt; Nghịch là đương đi, quay mặt trở lại phía sau lưng; Tiến là long mỗi tiết
lại cao lên, Thoái là long lui dần rồi tan ( hết) huyệt.

Có hai câu phú: “ Sinh, Cường, Thuận, Tiến giai vi hảo; phú quý kiêm thọ
khảo”, “Tử, Nhược, Nghịch, Thoái tối vi hung, yểu triết thụ bần cùng”. Nghĩa
là: bốn cái Sinh, Cường, Thuận, Tiến là long tốt, sinh ra người giàu sang và
sống lâu. Bốn cái Tử, Nhược, Nghịch, Thoái là long rất xấu, sinh ra người
nghèo hèn và chết non.
Như vậy thì kinh Tiết thiên cơ luận long, còn nông cạn, chưa đủ. Theo đúng
long pháp, thì phải xem xét cán long, chi long, để phân biệt đại địa, tiểu địa;
lấy tinh thần ( tinh thể) mà định cát, hung.
Vậy chỉ có Nghi long, Hám long, Vọng long, bà (3) kinh này mới hiểu thấu
tính tình sơn thủy, thực đúng phép kết tác của Thiên địa tạo thiết là chí
chân, chí lý! Thời sư phải theo đủ các phép kể trên mà định long hay, dở, chứ
không thể đơn giản được.

Quá giáp, xuyên điền


Quá giáp, Xuyên điền là cái thể độ bác hoán của hành long, tức là chỗ eo
long sơn nọ, nối với long sơn kia, như chỗ phong yêu ( lưng ong).

Long mạch to hay nhỏ, quý tiện; huyệt kết chính hay trắc, thuận hay nghịch,
cao hay thấp, đều hiện hình ra ở chỗ Quá giáp; nên phải theo Địa lý phép,
mà phân biệt rõ. Hai cái Quá giáp, Xuyên điền đều là chỗ hành long bác
hoán, nhưng Quán điền ( Xuyên điền) thuộc Dương khí, Quá giáp thuộc âm
khí, mà Dương khí thì cần khoan thư, vậy Quán điền nên bình thản, dài rộng,
khoan thư, mà Quán điền thường chỉ một bên có hộ sa, một bên không
khuyết nhưng không ngại phong suy ( gió thổi). Chỉ có đại cán long hoặc
chân quý long mới hay có như thế; có lẽ sơn là Âm thế, mà kiêm Dương khí
hành long nên tốt. Còn Âm khí cần phải thu tụ, vậy Quá giáp nên ngắn và
gần; cả hai bên cần phải có hộ sa giáp khẩn, để khỏi bị phong suy, bất luận
cán long hay chi long, đều phải có như thế mới tốt.

Nếu long không Quá giáp, thì không bác hoán. Mà đại long Quá giáp thì tất
nhiên khai trương đại trướng, đại nghinh, đại tống. Hai bên chỗ Quá giáp, có
những tinh phong tủng tú ( cao đẹp) che kín gió thổi. Dầu ở trước hay sau,
đều là quý địa. Nếu đằng trước còn đi dài nữa, kết huyệt tất nhiên là đại quý
địa không sai!

35
Nếu trông thì đại thế, mà long sơn chỉ dài và hẹp, không khai trướng, sơn sa,
hộ tống đơn bạc, cho Quá giáp khoáng khuyết ( không có núi đồi che gió) thì
bị sát khí, dần dần tiêu tan, thì không có quý địa.
Xét xem chỗ Quá giáp thấy lai sơn đại (núi dẫn mạch lại to), khứ sơn tiểu
(cái núi dần đi nhỏ) thì kết huyệt ở gần. Cái lại nhỏ, cái đi lớn, thì huyệt kết
còn ở xa.
Nhận xem Quá giáp, nếu là dương tức là Quán điền ( qua đồng, ruộng, thấp
hơn) mà trong chỗ bình thản ( bằng phẳng), có những gò đống, hình như
thù ty, ma tích. Nếu là âm, tức là cao hơn và khân tế ( nhỏ gần). Mà ở chỗ
nhỏ ấy có hình như phong yêu, hạc tất. Chính là những “ thanh tú chi khí”
phát hiện, tất nhiên có quý huyệt! Nếu không có gì khác hiện, thì chỉ là làm
thương chi khí thôi!
Xem chỗ Quá giáp cao, thì huyệt kết ở thấp. Quá giáp thấp thì huyệt ở cao.
Quá giáp chính thì huyệt tất chính. Quá giáp trắc ( cạnh nghiêng) thì huyệt
tất thị trắc.
Nếu một bên Quá mà quay đầu trở lại, tức là “ hồi long có tổ chi huyệt”. Xem
mấy minh họa đại lược dưới đây:

Cục pháp
Cục là sơn thủy tụ hội lại một khu, cấu kết thành cục diện gọi là cục. Tức là
Thư, Hùng giao hợp ( sơn, thủy là thư, hùng). Từ chỗ Long sơn phát nguyên
lìa tổ sơn ra đi, là ở hai bên sát cạnh phải có hai rạch nước đi theo. Sơn đi
đến đâu, thì thủy đi đến đấy. Chữ là: “ Sơn hành tắc thủy tòng”, dầu đi xa
hay gần rồi sơn, thủy vẫn phải tụ lại, hợp lại làm bạn với nhau, như “thư
hùng giao cấu”thành thai ( kết huyệt).
Tất nhiên là Long tả toàn, thì thủy hữu toàn. Long hữu toàn thì thủy tả toàn.
Nghĩa là: Long ở bên tả lại, thì Thủy ở bên hữu đến Long ở bên hữu đến thì
Thủy ở bên tả lại, hai bên Sơn, Thủy gặp nhau thì mới kết huyệt. Nếu hai cái
sơn, thủy đều quay đi tức là Sơn phi, Thủy tẩu thì không kết huyệt.
Cục pháp có bốn cách là: Thuận cục, Tà cục, Hoành cục và Hồi cục.
- Thuận cục là long đi thẳng lại huyệt.
- Tả cục là long ghé chếch sang một bên.
- Hoành cục là long quay ngang hẳn về một bên.
- Hồi cục là long quay ngang rồi chuyển hướng, nghịch trở lại về tổ sơn, tức
là “ hồi long có tổ”.
a. – Thuận cục thì hướng trông khoảng giữa hai bên long hổ, thủy tụ hợp, rồi
theo thuận hướng chi huyền chảy đi ( nước đi ngoắt ngoéo như hình chữ chi,
chữ huyền gọi là thủy chi huyền).
b. – Tả cục thì không hướng vào giữa như Thuận cục, hoặc ghé gác sang tả
sa, hoặc ghé gác bên hữu sa, chỉ có một rạch nước qua minh đường rồi hợp
với rạch nước bên kia, ở phía cạnh chảy đi.
c. – Hoành cục thì hướng ngang hẳn về một bên hoặc long sa, hoặc hổ sa,
cũng chỉ có một rạch nước qua minh đường thôi, hai rạch nước hợp nhau ở
phía dưới bên cạnh chảy đi.

36
d. – Hồi cục thì long thân quay ngược trở lên đối diện với tổ sơn, cũng chỉ
thu có một bên nước theo long thân chảy lại, tức là “nghịch thủy triều
đường”, rồi hoàn bão về sau lưng huyệt hợp với rạch nước bên kia chảy đi.
Vậy thì, chỉ có đại cán long mới hay thu được cả hai rạch nước và kết được
Thuận cục thôi, còn đại chi long, chi trung cán, chi trung chi long, thì thường
thường là thu được có một bên nước và không kết được Thuận cục, chỉ là kết
Tả, Hoành, Hồi ba (3) cục thôi. Tất nhiên là không bằng Thuận cục thu hợp
được cả hai bên nước, tức là đại địa.
- Hành độ của đại cán long, thì thể ngạnh ( ngạnh là không khởi phục, không
đột khởi tinh phong) đi thì cũng có chỗ hay triết (triết là gãy khúc) như là
long mạch ở đằng bắc đi về đằng Nam, nhưng một đưa về Tây, rồi một đoạn
đưa về Đông, như cái thước thấp, không kéo thẳng, chữ gọi là: chi Huyền.
Sa, thì hay tề ( tề là hai bên tả, hữu sa đều đi đến, như bày đặt đăng đối).
Thủy thì xuất ( xuất là cả hai bên nước cùng chảy ra trước mặt hợp lưu rồi
chày đi). Cục thì ( thuận là thu cả hai giải nước theo long, cũng đi thuận một
chiều ra rồi hợp ở trước mặt.)
- Hành độ của đại chi long, thì thể cường ( cường là đại khởi, đại phúc, hay
khởi hục mạnh), đi thì trắc ( trắc là mặt hướng nghiêng về một bên, Sa thì
hay cái (cái là che, ngăn nước theo chảy thuận xuống, khỏi chảy tán mạn),
Thủy thì triều ( triều là chi huyền, chảy ngoắt ngoéo như hình chữ chi, chữ
huyền), cục thì hay nghịch (nghịch là quay ngược trở lại, thu được một bên
đại thủy.)
- Chi trung cán là cái cán của các chi nhỏ, thuộc trong chi lớn, long này hành
độ thì thể động ( động là khởi phục nhiều) và hay chính ( chính là ngay
thẳng mặt về đằng trước), Sa thì hoặc cái hoặc thu ( cái là sa ở trên đằng
sau, che qua huyệt; thu là sa ở dưới, đằng trước huyệt, quay ngược lại hạn
thu nước ở trên chảy xuống), Thủy thì hay bão ( bão là vòng trước huyệt,
như cái đai thắt vào mình) Cục thì hay hoành ( hoành là quay ngang mặt,
thu một bên nước qua minh đường).
- Chi trung chi, hành độ thì thể nhược ( nhược là không đột khởi tinh phong,
họa là mới khởi phục ít thôi), đi thì tà ( tà là chếch nghiêng về một bên), Sa
thì cũng hay phối ( phối là được một bên sa đối diện), Thủy thì đoản ( đoản
là chỉ thu được một đoạn ngắn tiểu thủy thôi), Cục thì hay tạp ( tạp là hoặc
hoành, hoặc hồi, hoặc thuận).
Trên đây là kể đại khái những tính tinh kết tác của sơn thủy là như thế. Nên
có câu: “ Hữu thị long tắc hữu thị cục; hữu thị cục tắc hữu thị long”. Tuy sơn
xuyên biến hóa cũng như mặt người, không ai giống ai, nhưng cách cấu tạo
cũng vẫn thế, không thể vượt qua được. Vậy tướng địa sư tự suy xét, thấy
long là biết cục, thấy cục là hiểu long, không khó gì cả. (Xem đồ họa cục thế
sẽ rõ).

Thượng sa, hạ sa
Sa là để ủng hộ long thân và bảo vệ khu huyệt, bố trí cục thế.
Long mà không có sa hộ, thì cô đơn; huyệt mà không có sa hộ thì không
khoáng; cục mà không có sa hộ thì phiêu tán, lấy gì làm bố trí v.v…Tiếng sa
là gọi chung, kể phân tách ra thì có nhiều thứ như là: thượng sa, hạ sa, tả sa,
hữu sa, hậu sa, tiền sa, nội sa, ngoại sa v.v…Nhưng có hai cái thượng sa và
hạ sa, là tối khẩn hơn.

A. – Thượng sa là cái sa đi theo hộ vệ chính long, từ chỗ mới phân xuất để


hãm thủy ( ve nước) hai bên từ trên chảy thuận ( xuôi xuống, bố trí cục thế,
ủng hộ huyệt trường). Sa này cần nhất là mở được rộng, buông được dài và
triều bão làm thành quách bao vây đại thể bên ngoài, yểm hộ sinh khí bên

37
trong.

B. – Hạ sa là cái sa ở phía dưới, về trước mặt để thu nạp được bản thân chi
thủy ( nước tự gốc,theo long thân đi ra) và ngăn cản ngoại thủy ( khách
thủy khỏi nhập nội đường). Nghĩa là, ngăn cái nghịch thủy ở ngoài xa, không
cho chảy xung vào mình đường bên trong, trước huyệt. Sa này cũng cần hồi
hoàn loan bão ( cong ôm về huyệt) và hãn thủy đình tụ lại, khỏi tán mạn
( chảy buột đi).

Trong hai sa này thì Thượng sa cần thiết hơn, xem thượng sa có thể suy xét,
quyết đoán được huyệt khí quý hay tiện. Thượng sa mà trùng trùng điệp điệp
( nhiều lần bão lại) là huyệt khí quý; nếu đơn bạc (ít lần ôm lại) là huyệt khí
tiện.

Sơn với Thủy cũng như phu phụ ( vợ chồng), hễ sơn thấy thủy đều là phải
thu hút, không kể gì quý hay tiện, chỉ cốt sao có thủy dễ dưỡng long hộ khí
thôi. Còn như khí quý thì ở cục thế khai trương tức là thượng sa dài rộng,
nhiều lần vây bọc, cục thế rộng lớn bao la trái lại thượng sa đơn bạc ( có một
lần mỏng manh) thì thủy bức thành cước, là thủy xung long, cắt chân huyệt
sơn, gọi là “ Cát cước chi thủy” hay là “ Cát cước chi long” cũng vậy. Như thế
thì không tốt lắm, bởi vì giảm mất khí quý là tiện.

Vậy thượng sa cần được dài rộng, ôm qua trước huyệt ngăn cản khách thủy
(nước ở ngoài xa nghịch lại) không chảy xung vào minh đường, thì nội khí
hoàn cốt (trong cục, khí tụ được nguyên vẹn, bền tĩnh không bị phiêu tán).
Vậy những quý long thường không thu khách thủy, chỉ thu “ tự kỷ thủy”,
nước ở bản thân long thân.
Còn cái khách thủy là nước của long sơn khác đã xài thừa rồi chảy qua,
không nên cho nhập nội đường ( vào trước huyệt). Triết gia nói: như: “ Quý
nhân bất thực, tha nhân chi tàn thực”; nghĩa là: Những khách sang không
chịu ăn đồ thừa của người khác!

Nên, hạ sa chỉ cần một phiến nghịch chuyển là được, bất luận to hay nhỏ; dài
hay ngắn, cũng thành quý huyệt. Các triết gia đều công nhận rằng: những
đại địa phần nhiều là “ thượng sa tác án”; hạ sa chỉ cần một phiến nghịch
chuyển thôi, nếu có nhiều cũng cho là dư sa ( coi như thừa).
Phần nhiều những thời sư thấy hạ sa phi tẩu, thuận thủy phiêu lưu cho là
xấu; có biết đâu như thế là quý cách của quý địa chứ phú địa không hay có
cách như thế.
Nhà tiền triết Dương Quân Tùng: “ Hạ sa hoặn như kiếm; thuận thủy tà lưu
phi nhiễm nhiễm , thời sư đáo thử, đoán ly hương; bất tri nội hữu chân long
chiếm; tuy nhiên hữu thử huyệt bất kiến”.
Bộ sách Lý gia hoạt sáo: “ Sa bất phi dương, quan bất bái tướng”.
Nghĩa là: Ở tận cuối cùng hạ sa hình như mũi dao, mũi gươm buông theo
chiều nước chảy xuôi đi, trông như giáng bay tuồn tuột, các thày đến, thấy
vậy, bảo là kiểu đất có người phải bỏ làng ! Chứ có biết đâu là ở trong đó đã
có chân long chiếm giữ rồi, tuy phóng đi nhưng mà ở huyệt không trông
thấy.
Nghĩa của câu Lý gia hoạt sáo: Sơn sa mà không dương ra như buông bay đi,
thì làm quan không lên đến chức vị Tể tướng, ( tức Thủ tướng).
Hai câu chữ tuy khác, nhưng ý nghĩa vẫn như nhau, nhận xét ra thì cũng
đúng. Không ra ngoài thì làm quan thế nào được, càng làm to thì càng phải
ly hương xa, chứ đâu phải bỏ làng như kẻ bần cùng?

38
Ngẫm ra thì hết cả các long, bất luận chấn long hay chi long, đã kết huyệt
thì không chịu thu khách thủy, vì mỗi giải sơn di đến đâu thì đã có hai, hay
một giải nước đi cùng, nước ấy triều phối với long mạch ấy, tức là thấm
nhuần với nhau rồi, không cần khách thủy nữa, tất nhiên “ Thư, Hùng tương
thực, tẫn mẫu tương giao” không hợp với khách thủy nũa cũng đủ.
Như đại long kết huyệt, tự hữu đại sa ngăn cách khách thủy không xung
nhập nội cục, chỉ triều tụ triền nhiễu ở ngoài thành thôi, còn như chi long,
thường không buông dài ra được, đến chỗ kết huyệt thường hay quay ngang,
hay là quay ngược trở lại, kết tác với nội thủy, tất thị không hướng vào
khách thủy. Chỉ có nô sa kết huyệt; thì phần đa số là không có tùy thủy, chỉ
hướng vào khách thủy, thì cũng như người gác kho cho nhà giàu, vậy đó là
tiểu địa.

Tả sa, hữu sa
Tả sa là những sa ở bên trái của huyệt tinh, gọi là Thanh long sa.
Hữu sa là những giải sa ở bên tay phải ( mặt) của huyệt tinh gọi là Bạch hổ
sa.
Hai sa này là hai sa hộ vệ huyệt trường, bố trí cục địa, cần phải loan hoàn
củng bão ( vòng ôm, về phí huyệt) mềm , dẻo thì tốt, nếu thô ngạnh thì xấu,
không nên triết yêu ( gẫy lưng) không nên khuy khuyết không khoáng, nếu
thiếu hoặc đứt, cách quãng thì phong suy xạ huyệt ( gió thổi bắn vào huyệt)
thì khí tán, kỵ ngang đầu ( là đầu sa ngóc lên, tức là khinh khi chủ huyệt) tối
kỵ phản bội ( là đầu, lưng quay đi, tức bất phục chủ) thì không phải là huyệt.

Hai sa này thường không đều nhau, bên ngắn bên dài, nhưng long trường
( dài), hổ đoản ( ngắn) thì hợp phép của địa lý, tức là tốt. Chỗ thì bên có,
bên không; chỗ thì cả hai bên giao nhau, ôm qua trước huyệt gọi là duy hội (
ràng rịt). Có chỗ thì chủ tinh không có sa, mà phụ mẫu sơn phân sa ra ôm
huyệt tinh, làm tay long, tay hổ; có chỗ thì bản thân long, không có tay long,
tay hổ mà mượn khách sơn ( sơn sa ở ngoài) chầu lại làm long, hổ; có chỗ
một bên là bản thân sa, một bên phải mượn khách sa ( ở ngoài) lại thấu hợp,
mỗi chỗ một khác chứ không mấy chỗ giống nhau. Vậy chớ nên câu nệ, chỉ
cốt lai triều hoàn bão, kết thành cục chu mật là khí tụ, tự nhiên kết huyệt
được, bất tất phải có đủ mới có huyệt.

Giáp sa
Giáp sa là cái sơn sa ở ngoài tay long, tay hổ của huyệt tinh, “đĩnh khởi đặc
tú chi sơn” ( núi cao đẹp, ngoạn mục), bão củng giáp chủ tinh ( huyệt) gọi là
“ giáp nhĩ sơn” ( núi giáp tai). Nếu đột khởi trên long thân ở hai bên thì gọi
là Thái ất, Thiên ất, là “ đặc quý chi sa” ( quý đặc biệt phi quý long, quý
huyệt, thì không có như vậy).

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Quan, Quỷ, Cầm, Diệu


 Việt Hải

39
Nếu những hành độ hoặc cách cục nghiêng bên tả, lệch bên hữu, vừa phản vừa phục;
hoặc như là gầy gò trông như lột da, róc thịt là thế lực bình thường, cũng có thể yên định
phần mộ hoặc dương cơ kết phát phú quý, nhưng không phồn thịnh lâu bền, là vì tổ sơn,
tông sơn, lực bạc, cớ vậy!

 
Quan, Quỷ, Cầm, Diệu

- Quan là cái sa ở ngoài án sơn, nẩy buông ra: có hai cách: Minh và Ám.
* Minh là lại khởi lên một tinh phong nhọn, ở huyệt trông ra thấy gọi là
“Hiện dện quan tinh”
* Ám là chỉ thấp mà buông dài ra thôi, ở huyệt trông không thấy, gọi là “ Ám
tinh”
- Quỷ là cái sa thừa, nẩy ra ở phía sau huyệt, và ủng hộ huyệt đó.
- Diệu là cái sa nẩy ra ở bên tay long hoặc tay hổ, có hai cách: Minh và Ám.
* Minh là nó ở đầu mỏ long sa hay hổ sa, nẩy ra đâm ngang qua đằng trước
huyệt, gọi là Minh Diệu.
* Ám là nó ở đằng sau lưng long sa hoặc hổ sa nẩy ra, gọi là Ám Diệu.
Ba (3) loại này là cái tú khí của quý long hiện ra, phi Tam tai. Bát tọa, Khôi
nguyên, Đỉnh giáp chi kết, thời không hay có. Long hay cục đều tốt cả, mà
không tấy ba loại tú khí này thì khoa đệ đậu thấp thôi; nếu là tiểu hay trung
địa cục, thì chỉ phát đinh tài thôi!
- Cầm tinh là cái gò tròn nhỏ ở về mé tay dưới ( tay long, tay hổ ), thấp;
hoặc ở bên mé cạnh nước đều gọi là cầm tinh.
Nếu ở ngoài tủy khẩu ( cửa nước tháo đi) gọi là La tinh, ở trong minh đường
trước mặt gọi là Hoạn nhỡn sơn ( gò tận mắt), ở gần huyệt tinh phía trước là
Đọa thai sơn ( gò rớt thai), ở bên tong tay long, tay hổ là Bảo dưỡng sơn ( gò
con nuôi).
- La tinh là cái gò đá nhỏ ở ngoài La thành thì tốt, ở trong cửa thành thì xấu
( chỉ là để lấp thủy khẩu). Đây nói về La tinh đã kinh nghiệm, không sai.
Bốn loại Quan tinh nên tú lệ ( tốt đẹp) cũng kỵ chạy thẳng dài quá Quỷ thì
cần bão lại long thân, nếu thẳng đi không chuyển lại thì rất xấu. Duy có Diệu
tinh thì càng dài càng quý, càng đi càng hay, ít người biết lắm! Bốn tinh,
hình cách rất nhiều, đều do ở Ngọc tủy chân kinh dậy mới rõ.
- Diệu tinh, ở Ngọc tủy kinh có bốn mươi loại nói rộng lắm! Nhưng ít có ai rõ
hết cách Diệu tinh. Như Mộc, hỏa là Diệu thì ai cũng rõ; như Diệu là Thổ tinh,
lại thành ra tinh thể rất lớn, không mấy người biết nó là cái gì nữa. Còn cái
Diệu là Thủy tinh, coi như là một chi mạch đi, thường cũng khai trướng xuất
mạch, khởi phục như long hành không khác gì, cũng hoạt động uyển chuyển
và rất là khó nhận được là Diệu, nhưng long thì có âm có dương, Diệu thời
thuần âm, long thì càng đi càng dương lên, mà Diệu thì càng đi càng thu hẹp
xuống, đến đầu cuối cùng thì phiêu tán không kết cục, không thấy vựng
huyệt ( thu gọn lại và đột lên). Các thầy địa đến đây, họ thường băn khoăn
là long đi đẹp, mà khó điểm huyệt, nhưng có biết đâu là Diệu xuất thì làm gì
có huyệt.

40
- Long thể càng đi càng rộng lớn ra, đến đầu thì thành tinh thể kết huyệt.
- Diệu thể càng đi càng nhỏ hẹp lại, đến đầu không thành huyệt tinh.

Bút sơn
Bút sơn là cái sơn nhọn đầu, có hai thể: Thể sơn đứng và Thể sơn nằm.
* Đứng cao là sơn đứng nhọn như cái đầu măng mới mọc; là bút Trạng
nguyên, Tể tướng.
* Nằm thấp là tiến điền bút, thoái điền bút; hoặc Hỏa tinh ( nhọn đầu và
nằm thẳng).
Trong các bút sa, thì cái thoái điền bút rất là khó nhận, phần nhiều cho là
sơn sa che huyệt, ngăn nước chảy thuận đi.

Minh diệu là thoái điền bút ở phía trước mặt. Quý địa, mà hồ nghi không biết
là bút, vậy xem họa hình trên đây để nhận rõ:

Phụ đoán bút sơn

- Tiến điền bút là nghịch thủy chảy ra


- Thoái điền bút thì thuận thủy chảy ra
- Đoạn đầu bút là ở đằng sau tay ra
- Vi quan bút ở trên án nẩy ra
- Học sĩ bút là ngọn cao giáp mây
- Trạng nguyên bút là đâm xiên lên cao và ở Cấn vị
- Tú tài, Cử nhân bút là ở tên giá bút ra

41
- Họa sĩ bút là loạn bút tầm thường, chẻ 2,3 ngọn
- Thái sư bút là thường ở phương Kiền, Khôn, Cấn, Tốn
- Bút đầu đới thạch ( đá) là giao dịch bút, ngoại sứ, ngoại giao bút.
“ Ẩn tiền nhược kiến bút đấu khai; thập tao phó cử cửu không hồi”! Nghĩa là:
Phía trước án, thấy đầu bút mở ra, là “ ma thiên bút”… thì mười (10) khoa đi
thi, chín (9) khoa trượt về không!
“ Bút giá hậu đầu, tài cao bất đệ”! Nghĩa là: “ Bút gác ở đằng sau mộ, thì học
giỏi, nhưng thi không đậu!

Dư khí
Dư khí có hai loại: Đại dư khí và Tiểu dư khí.
Đại dư khí: Đại long mạch kết đại địa rồi sau lại thừa khí, đi ra lại kết tiểu địa
nữa.
Tiểu dư khí: Cái huyệt tinh thè lè ra ở dưới, trước mặt, như lưỡi con trai, con
sò hoặc môi con cá chiên, bằng phẳng, gọi là “ nhân lậu” ( cái mền, cái
đệm).
Đại dư khí thì đại long mạch mới có; hoặc cực vượng chi long mới có, mà
không có cũng được. Còn tiểu dư khí thì không nên thiếu, thiếu dư khí là
long bạc nhược, thiểu nhân dinh ( ít con cháu) câu chữ: “Bạn vô dư thiệt,
hãn sinh nhi” là nghĩa đó.

Luận hình
- Tại sao cứ phải nói đến hình nọ, hình kia.
- Bởi vì, xưa cho những diệu lý ( lẽ hay) khó nói cho thường nhân cùng
thông hiểu, nên mượn lấy cái hình tượng để ví vào thì dễ hiểu biết hơn, vì
những sơn đầu cũng có thành hình thực. Cho nên kinh Ngọc tủy bàn luận về
hình thể, nhưng vô hình thì có nhiều mà hữu hình thì ít.

Mỹ địa ( đất tốt, hay) không hẳn là phải thành hình thể gì cả, mà đời cứ
muốn bàn nói đến hình thể, là vì tinh thần ( tinh phong, gò đống) không biết
gọi nó là gì để phân tách ra được; chi, cán cũng không phân biệt được, sinh
khí cũng chẳng rõ là thế nào, huyệt pháp cũng chẳng am tường, thiên tinh lý
khí cũng chẳng hiểu ra sao, như thế thì không thể nói ra được một câu. Mà
đạo lý thì không thể không nói, không làm sao được. Cho nên chỉ luận hình
nọ, hình kia, cho người ta nghe, thì mới vui thích. Chứ thực ra không cần
hình tượng gì cả, cũng vẫn hay, vẫn quý. Là vì hay dở, quý tiện, đều do địa
khí sinh ra, chứ không phải là ở hình tượng. Vậy những người hiểu hình thì
không phải là hạng Minh sư.

La thành
La thành là cái sơn sa bao bọc chu vi cả phía trước, phía sau, bên tả, bên hữu
của huyệt, như cái thành lũy rộng lớn. Đất nào là cực đại cán long, thì mới có
những tùy sa của bản thân đi ra, quanh làm La thành. Còn các đất khác thì
mượn khách sa họp lại mới có La thành. Được một lần bao là kín, không có
chỗ khoáng khuyết là tốt rồi. Nếu nhiều lần thì là đại quý địa.

La tinh, Cầm tinh, Thú tinh


Hoa biểu, Hấn môn, Bắc thần

* La tinh là cái gò đống hoặc đống đá nhỏ ở thủy khẩu, hoặc 1,2,3 đống nổi
lên ngăn chặn nước chẩy, để đóng cửa giữ nội khí khỏi tán. Cái tinh phong
này với tổ long mà ứng liền ra, hẳn là Đại tinh khởi tổ thì thủy khẩu mới có

42
những tinh ấy, đó là Hỏa tinh dư khí nên gọi là La. Những long sơn thấy Hỏa
tinh khởi tổ thì mới phát đại quý! Vậy thấy La tinh, tức là biết quý long, quý
huyệt rồi.
* Tinh phong cũng có cái Ngũ tinh hoặc Cửu tinh biến ra, hoặc thành Quy
(rùa), Xà ( rắn) hình, thì gọi là Cầm tinh.
* Thú tinh cũng là những tinh phong ở thủy khẩu, nhưng Thú tinh thì cao lớn
, Cầm tinh thì thấp bé. Những tinh này tương phối thì hay.
Nếu một bên như hình Sư tử, một bên như hình con voi, thì gọi là Sư tượng
bả thủy khẩu. Thú tinh thì hình biến hóa nhiều hoặc như Hổ, hoặc như Lân,
như Sư, như Tượng v.v…
* Hãn môn là hai cái sơn đứng cao lên như canh gác thủy khẩu, nghĩa là
ngăn thủy khẩu, nên gọi là Hãn môn. Hãn môn thì phần nhiều là thuộc về
Cửu tinh. Chỉ có Thái âm, Thái dương thì gọi là Nhật Nguyệt hãn môn, là đất
cực quý.
* Hoa biểu, nếu hai cái sơn hình mộc tinh, thì gọi là hoa biểu hãn môn, một
cái cũng là Hoa biểu.
* Bắc thần là cái đại sơn ở thủy khẩu, thường là ba tinh: Liêm trinh, Phá
quân, Lộc tồn. Ở xa trông như Thái tổ sơn một phương, nhưng ở gần mà xét
thì là cái chi cước gần thủy khẩu, không hay xa ra, nên gọi là Bác thần. Tinh
này tốt quý, phi Đế vương địa thì không hay có!

Đi tìm long ( mạch ) , thì trước hết phải biết Sơn từ phương nào lại, đột khởi
lên? Thủy từ phương nào chẩy lại giao hợp? Phía nào là trước mặt? Phía nào
là sau lưng? Đâu là cán long? đâu là chi long? Chỗ nào là chuyển thân? Chỗ
nào là giao hội, tụ hợp? Đại lược cả một vùng đó, nhập trong tâm mình rồi.
Theo như chỗ đó thì đâu là chủ kết? Đâu là tùy kết? Có tể suy tìm được. Nếu
không nhìn thấy thì phải lên đỉnh núi cao mà trông mới thấy long tích và rõ
được tổ tông, cũng không phải là khó! Chỉ khó là theo long tích ( xương sống
mạch), đi thẳng đến chỗ tận xứ ( chỗ hết sơn), mà lại không phải tận xứ, vì
không thấy khai trướng, không thấy biến đổi phục khởi. Tức là long mạch
còn đang đi, chưa phải chỗ kết huyệt. Còn tiềm ẩn, sẽ tiếp khởi tông sơn
khác, thì phải theo long mà tìm. Hễ thấy khai trướng, bất luận dài, ngắn,
rộng, hẹp hễ thấy trung xuất (xuyên tâm) vi động là kết huyệt đấy.

Vậy thì Tổ long cũng có cách của Tổ long, Tông long cũng có cách của Tông
long. Khai trướng cũng có cách của Khai trướng, Xuất mạch cũng có cách của
Xuất mạch, Cán có cách của Cán, Chi có cách của Chi. Mà Chi Cán chuyển
thân, hành độ, khúc triết, đốn khởi mọi cách là do long sơn biến chuyển ở
khoảng quá quan, độ giáp, chẳng chỗ nào là không có cách. Nhưng mà chỗ
giáp là tối khẩn, cần ở hai bên nghinh, tống, bài bố thị vệ, ủng hộ để cung
cấp chỗ không khoáng, bồi bổ chỗ khuy khuyết ( thiếu thốn); hết thẩy cũng
có cách tác dụng thần điệu cả, đều đặt ở chỗ hành độ.

Đời xưa, Dương Công chỉ luận long tinh; Liêu Công chỉ luận huyệt tinh; Lại
Công chỉ luận phương vị. Cả ba nhà đều không tường hành độ, không biết
long biến hóa chính hay tùy.
Vậy thì thành tụ hoặc bại hoại, là bởi ở những hành độ kể trên. Nếu không
tường hành độ, thì dầu có thánh thần đến thế nào cũng vẫn còn là mơ hồ!
Vậy trung gian các nhà Triết lý đã công luận: Phải hiểu thấu hành độ của
long thì mới là tường tận.
Thái tổ mà nhiều Hỏa tinh là cách Long lâu, Phượng các, Xung tiêu phượng
( Phượng vượt mây), Cái thiên kỳ ( cờ che lưng trời) v.v… Lại còn những biến
hóa kỳ quái, không thể gọi tên được và còn đặc khởi nhiều cách, như là

43
Trướng thiên thủy, Thấu thiên thổ, Hiến thiên kim, Xung thiên mộc, Nhật
hoa vân lạn, Trùng vân phúc vụ, Bảo điện, Bảo tòa, Phi tiên, Phi long v.v…
những tinh thể ấy đều có thể là Tổ sơn, nhưng cũng có nhiều cách lạ kỳ:Ngũ
tinh tụ giảng, Ngũ tinh quy viên, Ngũ tinh thố chí; hoặc Thiên trì, Ngưỡng
thiên hồ ( là những cái hồ, cái ao ở trên đỉnh núi cao, hàng mấy chục, trăm
dặm), sức người không tể đi tới được, hoặc rộng dài hàng mấy trăm ngàn
dạm, trên đỉnh ngọn thường cao khuất mây mù như núi tuyết, có khi đóng
thành khối băng, muôn ngàn xưa không tiêu tan được, đấy là Cực đại Thái tổ
sơn, nhưng trong địa cầu này cũng ít có, thường thường Thái tổ sơn là đặc
khởi lên mấy ngọn núi cao ở trong xứ, miền, tỉnh, quận. Kế đó, lại phục khởi
ra mấy rặng núi dài rộng, trông thì thấy mà đi thì không thể tới cùng tận;
trong đó thường cũng có nhiều đại địa phú quý, thịnh vượng bền lâu.

Nếu những hành độ hoặc cách cục nghiêng bên tả, lệch bên hữu, vừa phản
vừa phục; hoặc như là gầy gò trông như lột da, róc thịt là thế lực bình
thường, cũng có thể yên định phần mộ hoặc dương cơ kết phát phú quý,
nhưng không phồn thịnh lâu bền, là vì tổ sơn, tông sơn, lực bạc, cớ vậy!

* Tông sơn đại khái cũng như tổ sơn, hành long trường viễn. Khoảng giữa
ngừng lại, phục xuống một tiết ( đoạn) rồi lại đột khởi lên tinh thần ( sơn
cao) để mở thêm tông phái ( chi nhánh). Nhưng tổ sơn phần nhiều là lão đại
( to lớn) thì tông sơn mới cường tráng. Tổ thì một, nhưng tông thì phân ra
2,3 hoặc 5,10 rặng núi không chừng, càng nhiều càng quý.
Tông cũng có đại tông, tiểu tông, cũng như thân cây nẩy cành, phân nhánh,
mầm, lá vô hạn.
Tổ sơn mà điệp điệp ( nhiều núi) Tông cũng trùng trùng (nhiều lần núi). Tức
là Tổ có dày công, Tông có đức lớn. Tông cũng gọi là Thiếu tổ, tiết nào khai
trướng là hay có kết huyệt. Khai trướng dài rộng là đất to, ngắn hẹp là đất
nhỏ.
Khai trướng là quý cách của hành long. Ví như quý nhân ra đi, hẳn là có
những cờ biển, trưng bày ra hai bên uy nghi rực rỡ!
* Hỏa tinh khai trướng gọi là Liên hoa trướng, cư sỉ ( răng cưa); Kiềm vân
(mây hình cái kiềm); Phượng quán ( mào phượng); Kê quán ( mào gà); Long
diễm ( vây rồng).
* Mộc tinh gọi là Lan hoa trướng; Nhất lâm xuân duẫn ( một rừng măng
non); Mãn sàng nha hốt ( dầy giường hốt ngà); Vạn hốt triều thiên ( nhiều
hốt chầu trời).
* Mộc hỏa tương liên gọi là tản thương ( dàn súng); Liệt kích ( hàng dáo);
Bút trận (nhiều ngọn bút) v.v…
* Thủy tinh khai trướng gọi là Vân mẫu trướng ( ý nói Vương mẫu trên mây);
Thủy tinh ( sao sáng trong nước); Phù dung trướng ( hoa phù dung).
* Thổ tinh khai trướng gọi là Bình ( cái bình phong) hay là Liệt bình ( một
dãy bình phong) trướng.
* Thủy, thổ tương bạn ( liền nhau) gọi là thủy thổ liên vân. Chi có Kim tinh
thì không khai trướng. Liên kim tức thành thủy, gọi là Vân Mẫu trướng hay là
Phù dung trướng ( khai trướng hình như hoa cây phù dung).

Khai trướng quý nhất là hoành phi, trường đại ( sơn sa buông ra ngang và
dài rộng, một, hai dặm hoặc 5,7 dặm không chừng; hoặc mấy trăm dặm càng
dài, rộng, lớn, cao, càng quý, tức là đại địa ở trong khu vực đó. Có chỗ khai
một lần, chỗ khai 2,3 lần hoặc 5,10 lần bao bọc không chừng, càng nhiều lần
bão nhiễu càng quý thêm bấy nhiêu, tức là đại quý, đại địa mới có trùng
trùng điệp điệp sơn sa loan bão như vậy.

44
Tóm tắt: Khai trướng là mở màn, tức là long sơn đương di lững lại rồi mở ra
hai bên tả, hữu, như con chim xòe ra hai cánh, hoặc ngắn , hoặc dài, lìa tổ,
tông đi xa ra, và khởi phục; thường biến hóa ra nhiều hình dạng như Long
lâu, Phượng các, Bút, Kiếm, Cờ, Trống. (Xem các cách họa đồ hình kiểu cách
kể trên).
Trướng khai ra hai bên, khoảng giữa trướng thò sơn hình gì ra chẳng hạn:
đấy gọi là xuyên trướng trung hành hay là khai trướng xuyên tâm cũng vậy.
Chính là nơi kết huyệt ở đó, và quý cách là ở đó.
Khai trướng trung xuất, mà có cái sơn hình Hỏa tinh buông rủ xuống, gọi là “
Trướng nội tướng quân”hay là “Trướng hạ quý nhân” tựa như quý nhân xuất
tướng, tức là quý cách đó.

Giải thích thêm

- Thế nào là khai trướng?


- Ở chỗ long thân đâm thò sơn khác ra hai bên. Ví dụ, như con chim xòe hai
cánh ra, hay là hai cánh cửa mở ra vậy.
- Thế nào là Trung xuất? là xuyên tâm?
- Ở chính giữa chỗ khai trướng mà có long sơn thò ra là trung xuất hay là
xuyên tâm cũng thế. Ví như người trong cửa nhô ra vậy.
Ở dưới Tổ sơn hay Tông sơn và dưới long tiết đều có chỗ xuất mạch.

Chính diện trung xuất là cách quý nhất ( số 1, ở khoảng giữa phía trước),
nhưng trời đất cũng có nhiều cái kỳ dị, núi sông cũng có nhiều cái kỳ, nên
địa lý cũng phải quý những cái kỳ, chứ không thể nhất định. Vì có những cái
tinh phong không tác chính diện, và cũng có cái trung xuất là giả ( dối) mà
kỳ xuất lại là chân ( thực).

Đạo trời đất thì cái trung chính là nhất, nhưng ở chỗ trung chính không định
thể thì phải tùy ở cái tinh thần mà lấy làm trung chính. Cho nên tinh phong
có cái chính diện mà còn sợ không phải là chính diện và cũng có cái trung
xuất mà còn sợ không phải là cái trung xuất; Bởi vì, mạch có cái trung xuất,
có cái kỳ xuất là thiên địa an bài, chứ không phải là người tự hiếu kỳ.

Vậy tự thuật: Thấy rõ một chỗ Tổ, Tông bạt khởi như Long lâu, Phượng các,
Triển khai trướng dực, chính giữa rủ xuống một cái long mạch, ai trông thấy
mà không bảo là chân! Thế mà giả! Vì nó chuyển đi chưa được một, hai tiết
hốt nhiên đoạn tuyệt, ngoảnh về bên tả, nhìn về bên hữu, đều thấy bức
bách, ( chật hẹp) nghiêng lệch, thô ngạnh không biến hóa; hoặc bên sinh,
bên tử v.v…Nếu nhầm mà cứ cho là đúng và cưỡng làm thì tất nhiên bại
tuyệt!

Nhưng Minh sư thì không lầm, liền theo tìm ở Kiên ( vai); hoặc ở Giác ( góc),
hễ thấy được một cái long mạch xuất tinh xảo, uyển diệu ( dịu dàng, mầm
dẻo) rồi nhìn xem phía trước, phía sau, ben tả, bên hữu thấy sơn thủy hồi
hoàn loan bão, đường tụ, án triều, khoan dung ( rộng rãi) tương xứng mới là
chân xuất. Nhưng còn phải xem cả sa thổ có nhuận sắc, có sinh khí, tức là
cây cỏ tốt tươi; nếu thạch cốt thô lộ hoặc cát rời, sỏi vụn, khô khan, cây cằn
cỏ héo, tức là tử khí vô mạch, thì đều là giả xuất. Nếu hạ táng tức là tài tán,
gia vong! Nhân đinh tuyệt tự!

45
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 5

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:09 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Đại khái hình đồ


Việt Hải

Đây là cái tổ long khoảng chừng một quận: Hỏa sơn khai lưỡng kiên, trung thùy viên nhũ,
chỉ nhi bất hành, mạch tòng hữu kiên xuất bách lý, kết quận thành. Kỳ trung xuất giả. Dã
sư, đại phú nhân đồ táng. Vạn kim hôi bại! Tử tôn tẩu tha hương, cánh tuyệt vô hao!

Đại khái hình đồ

Đây là cái tổ long khoảng chừng một quận: Hỏa sơn khai lưỡng kiên, trung
thùy viên nhũ, chỉ nhi bất hành, mạch tòng hữu kiên xuất bách lý, kết quận
thành. Kỳ trung xuất giả. Dã sư, đại phú nhân đồ táng. Vạn kim hôi bại! Tử
tôn tẩu tha hương, cánh tuyệt vô hao!
Xét đây là cách trung mạch “ Hỏa hạ xuất kim”, “ Mẫu khắc tử” không thể
dùng được, khí tượng cũng ác! Thời sư cho là Phi phượng hình, cưỡng táng,
cho nên bại tuyệt.
Chính mạch nó xuất ở bên vai hữu sa, bên tả sa cũng có sơn phối hợp. Vậy
biết là trung xuất mà không phải là trung, mà là giả xuất ( giả đối). Bên kiên
xuất mới phải là chân xuất ( thực).

Luận cục

46
Tìm long nếu đã nhận rõ được long cách hành độ dẫn
chuyền đến chỗ sáp thành, tức nơi sơn hoàn thủy bão thu vào, hội hợp lại
thành một vùng, chung quanh bao bọc như hình cái vòng. Trong vòng đó dọi
là Cục.
Cục thì có: Đại cục, Trung cục, Tiểu cục.
- Đại cục là cái bản sơn tự Thủy tổ xuất ( ở Thái tổ sơn ra) với các triều sơn
cũng tự Thái tổ xuất, đều cùng triền hộ ( ràng quấn, hộ vệ) với nhau hợp
thành một vòng tròn, rộng lớn là Đại cục.
- Trung cục là cái bản sơn ( cái sơn chính gốc) và những triều sơn đều ở
Thiếu tổ ra, và cùng triền hộ với nhau, hợp thành một vòng gọi là Trung cục.
( Nếu thế cục, thật rộng to cũng là đại cục).
- Tiểu cục là cái bản sơn tự Phụ mẫu sơn ra với những triều sơn, đều ở đầu
cuối cùng có tay, chân của trướng mịch sơn ( tức là tiểu chi sơn hợp lại), hợp
lại một vòng nhỏ hẹp, gọi là Tiểu cục.

Đồ cục

Tất cả long mạch không có lý nào trực hành trực kết, nên phải mỗi đoạn, mỗi
tiết, biến hóa ra mới thành kết cục. Xem đồ hình đại lược dưới đây:
Đại cục là Thành; Trung cục là Viên; Tiểu cục là Đường.
Nội cục thì là tay và miệng.

47
Nhận cục

Đi tìm long, dầu thấy long hàn ngoạn mục ( đẹp mắt) nhưng không thấy hội
cục, thì không phải là nơi kết huyệt.
Nhận cục phải tinh tường. Chớ có lầm tưởng! Tuy ba (3) đường ( minh
đường) cùng trong một cục, nhưng Đường môn ( thủy khẩu của tiểu cục)
không hẳn đối với Thành môn ( thủy khẩu của Trung cục). Viên môn không
hẳn đối với Thành môn (Thủy khẩu của Đại cục) tức là không chẩy ra cùng
một phía, đó là Thiên nhiên bố trí ( bầy đặt sẵn) do Tạo hóa an bài. Xem họa
đồ giả thiết đại lược dưới đây:

Kết tác xứ

48
Có cục đất ở một địa phương. Tổ sơn khai trư
ớng, Chủ sơn long trường đại, loan hoàn có thể gọi là đại cục, trong cục tinh
phong la liệt, cao đại, đê tiểu, đủ Ngũ hành tinh thể, hình như Tiên đới,
Thiên hoa, Ngô đồng, Nga mi, Bán nguyệt v.v… Sư, Tượng, Bả môn (sư tử,
voi trấn giữ cửa thành) nhưng cửa thành không phải là chủ long, và lại thô
ngạnh phản diện, không phải là chỗ khí mạch chung tụ, thế mà thời sư đặt
táng ở thành môn cho là phải huyệt, đáng tiếc thay!
Trong vòng đại cục này tuy có nhiều nhà hạ táng, nhưng chỉ có hai (2) ngôi
kết huyệt đúng, còn phần nhiều là sai lầm, sinh tai họa. Và số ít tuy không
kết phát, nhưng cũng tạm yên được, không bị phản hại lắm!
Độc giả nhận xét: những khuyên nhỏ là nơi đặt mộ, xem trong đồ cục bên
đây, rồi khi đi đến những nơi địa hình địa vật rộng lớn trong vòng 5,7 cây số
hoặc hai, ba chục cây số chẳng hạn, mà tìm thấy nơi kết tác huyệt trường, là
thành công, thành tài, danh sư địa lý rồi.

Cục thường cũng gọi là Đường hoặc là Dương.


Những Đại địa phần nhiều là có tam Đường hoặc tứ Đường: Tiểu Đường, Nội
Đường, Trung Đường, Ngoại Đường, nhưng tứ Đường không phải cục nào
cũng đều hiện thấy ở cả trước mặt. Có cục, Đường ở bên tả, hoặc ở bên hữu
có một đường. Ở phía sau lưng, có nước tụ, lại thành một đường thuận thủy
có một đường, lại có chỗ hoành thủy ( chảy ngang) khai một đường và
nghịch thủy cũng có tụ một đường, nhưng ba, bốn minh đường cũng vẫn là
một huyệt chứ không được mỗi đường, lại tìm một chủ huyệt khác nữa dầu
có huyệt nữa, cũng chỉ là tùy huyệt thôi, ít khi có 2 chủ huyệt.

Đi tìm long mạch, nếu thấy phía trên ( đầu) có mấy chi rủ xuống, ở phía dưới
(trước mặt) cũng có mấy chi chầu lên; hoặc hậu sơn có mấy tầng lại, tiền
sơn mấy lần hồi cố, tức là thành cục ở khoảng giữa những sơn khứ lai hồi cố
ấy.

Những vòng cục, vuông hay tròn, đều là quý cục; nếu hình cục dài cũng quý,
nhưng phải là hoành cục ( quay ngang), chứ trực ( đi thẳng) thì xấu. Nếu
trực thì nên đới khúc ( gẫy cong) ôm hướng vào trong cục; nếu hướng ra
ngoài là phản bội, không phải cục.

Nếu thấy quần sơn tế tế, mật mật ( là có nhiều núi non san sát, không thể
lọt chân vào được) mà thấy một khu bình điền quang đãng là thành cục ở

49
trong vùng bình điền ấy. Hoặc thấy quần sơn tán loạn, “ đông tẩu, tây bôn”,
là núi đồi tản mác, cái thì đi sang đông, cái thì chạy về phía tây; mà thấy
một chỗ nào đoàn tụ là cục thành ở khu đoàn tụ đó, hoặc đều là sơn hình thô
ngạnh ( già cứng) chợt thấy nẩy ra một chỗ tú nộn ( non, mềm, dẻo, dẹp),
tức là kết cục ở chỗ tú nộn ấy. Hoặc thấy đều là nơi hoang thôn, khoáng đã,
thủy bình, là noi làng mạc, đồng bằng nước phẳng, bỗng có một chỗ đột khởi
( nổi cao), bốn mặt hồi chuyển ( quay hướng mặt vào nhau) tức là kết cục ở
trong vòng đó.

Tóm lại, tất cả sơn thủy phải là đằng sau quay mặt lại phía trước, phía trước
ngoảnh mặt lại phía sau; bên hữu hướng về bên tả, bên tả chầu về bên hữu
tất nhiên thành cục, tức thị huyệt ngồi ở giữa.độc giả nên ghi nhận những
đại ý kế trên. Khi đến những nơi có hình thể đại cục, rộng lớn, phải quan sát
tinh tường thì mới biết rõ được mấy lần sơn thủy bao bọc hay phản bội, để
mà định cục thực, hư ( chân, giả).

Khai diện
Khai diện ( mở mặt) là điều cần nhất, đứng đầu trước nhất của long mạch hạ
lạc ( dẫn xuống) huyệt tinh.
Hậu sơn không khai diện thì không phải là mạch lai; Tiền sơn không khai
diện thì không phải là sa triều; Tả sơn không khai diện là tả bão vô tình; Hữu
sơn không khai diện là hữu phản giả bão.
Thấy một cục, có các sơn thủy đoàn tụ mà thấy một chi phản bối quay đi, tức
là Giả cục.

Hễ thấy La thành, tứ sơn khai diện, mà nội cục có sa phản bối ( lưng quay
vào, tức là ngoại cục chân ( thực) nội cục giả ( hư). Hễ thấy nội cục tứ sa
khai diện, mà Viên thành hoặc ngoại thành có sơn sa phản bối bay đi, thế là
nội cục chân, ngoại cục giả.
Nội cục giả, thì đoán là vô địa ( không có huyệt). Ngoại cục mà giả thì chỉ là
tiểu địa ( đất nhỏ) thôi. Ngoài thành, mà sa thủy như chạy buông đi, tức là ly
hương sa; nếu long chân huyệt đích thì không hại gì chỉ là quý nhân ly
hương thôi. ( Đã kể ở chương, luận về Hạ sa).

Cần nhận biết đâu là diện, đâu là bối?


Bối như là sau lưng người, và như mu bàn tay. Diện như là phía trước mặt,
bụng người, và như long bàn tay.
Diện thì hẳn phải hướng vào trong. Bối hẳn là hướng ra ngoài.
Có chỗ xem thấy bên tả là Bối, bên hữu cũng là Bối, gọi là phú thể ( úp
mình), lưng gù lên, đấy là long hành, không thể dùng được. Có chỗ thấy bên
tả là Diện, bên hữu cũng là Diện; đó là nơi long cục đại thành, chi chi kết
quả, tiết tiết khai hoa ( như câu nhiều nhánh nở hoa, nhiều cành kết quả);
tất nhiên trong cục ấy, có một chỗ là chủ kết ( kết huyệt chính).

Ví sơn cũng như người:Tứ chi, bách hài, tam bách lục thập cốt, xứ xứ giai
huyệt, nhi chủ kết, duy tại nam, nữ chi căn, nhược dĩ cục luận tất lưỡng khóa
sở khai, nãi chi nhân cục.

Nghĩa là: Ví như thân Người, bốn chi, bộ phận là tay chân, có một trăm cái
xương nhỏ; tất cả lớn nhỏ trong toàn bộ có ba trăm sáu mươi (360) cái
xương, chỗ nào cũng đều có huyệt cả, nhưng cái huyệt chính chủ là ở chỗ cái
gốc, của người trai, hay gái ( tức là chỗ hiểm yếu). Nếu lấy cục mà luận, thì
huyệt chính là ở chỗ giữa hai háng mở ra, là đích giữa hai chân đại huyệt đó.

50
Tóm lại, tầm long mạch phải theo sơn, thủy tình thế mà nhận cục, định
huyệt, trước hết phải xét đâu là khai diện ( hướng về trước), đâu là bối
( chổng lưng về sau). Nếu chưa rõ thì phải lên đỉnh núi cao, xem cả bốn phía
tường vách, sơn sa, thủy nhiễu, Đường, Viên, Thành, đều quay vòng ôm lại
huyệt, mới là chân cục.

Thí dụ: như mình đứng ở chỗ huyệt, thì sơn sa, thủy thế, tứ phía chung
quanh đều loan bão chầu vào mình, là hướng diện đấy. Cũng như cái tuy
loan hoàn ( vòng cong) nhưng nó không chầu vào mình nó lại hướng ra
ngoài, chổng quay lưng vào mình, là phản bối đấy!

Khán cục: là xem đại lược, cả Viên tường La thành. Thấy một bên khai chi,
mở ra những dẫy sơn nhỏ chầu hướng vào trong, đó là phía diện. Thấy một
bên cao vọt chầu hướng ra ngoài, lưng nó chổng cong vào, tức bên ấy là
phản bối.
Cũng có chỗ không có chi, cước ( chân sơn thè ra) thì lấy cái bình viên
( tròn, bằng phẳng) hướng vào trong là diện. Có nhiều chi, cước mà nó đạp
duỗi ra ngoài, hướng triều chỗ khác tức là bối.

Có chỗ nước tụ ở trong là diện, sơn sa quanh ở ngoài là bối. Có sơn vòng ở
trong là diện, mà thủy quanh ở ngoài là bối. nhưng cốt là những chi, cước ở
sát gần huyệt, mà vòng ôm vào huyệt là diện thì tốt là thực huyệt. Nếu nó so
le, lệch lạc, hướng ra ngoài là phản bối đó! Tức là xấu.

Nhưng nếu thấy có năm, bẩy chi sơn sa nho nhỏ ở ngoài sơn sa lớn, mà chia
ly như phới phới bay đi, thì không hại gì, mà lại là quý cách; đấy là diệu khí
phát sinh.
Thấy những Đường, Viên cục ( nội cục là Đường, trung cục là Viên) nhỏ hẹp,
mà bên trong và chung quanh như hoàn ( vòng vào), bên ngoài tứ phía cũng
như hoàn, thì cái nơi ấy là hoàn trung ( ôm bọc chính giữa); tức là nội hảo.
- Thế nào là Viên chân, Thành chân?
- Tựa như bức tường đất, đắp đều đều không có chỗ bỏ khoáng là Viên chân,
- Tựa hồ cái thành lũy đắp đất cũng đều đều, chỗ nào cũng liền nhau, vây
quanh kín là Thành chân.

Trái lại, chỗ khởi, chỗ phục; tức là chỗ có, chỗ không, cách quãng là giả Viên,
giả Thành. Nếu ở chỗ gần huyệt trường mà lõm khuyết ( không khoáng); tức
là Viên phá tường ( tường bể vỡ) thì huyệt không tốt, hoặc là giả huyệt, giả
cục.

Có chỗ long hành là núi, mà thành cục cũng là núi; có chỗ long hành là núi
lớn, mà thành cục ở chỗ núi nhỏ; có chỗ long hành là núi mà thành cục ở chỗ
dồi: có chỗ long hành là đồi, mà thành cục ở chỗ bình dương ( đồng bằng).

Có chỗ long hành là núi, là đồi, là đồng bằng mà cục lại độ hà ( qua sông)
quá thủy ( chìm lặn qua sông, vũng nước lớn như đầm hồ), biết thành một
cục, lấy thủy loan hoàn ( ôm vòng quanh). Có cục thành ở chỗ thoát thể ( rút
lìa hẳn ra) mà cũng có sơn tủy loan hoàn.

Có chỗ thoát thân đi, rồi lại thoát nữa, hay là buông lìa đi, rồi lại lìa buông đi
lần nữa, một lần thủy nhiễu ( nước vòng quanh), hai ba lần; hoặc năm, bẩy
lần thủy nhiễu không chừng.

51
Có cái bình cục mà lại là đại cục, sơn hoàn thủy nhiễu v.v.. khả dĩ ý hội, bất
khả mục đổ ( là lấy ý mà biết, chứ cũng chẳng có thể mắt thấy cả được).

Có cái long hành lâm thủy ( tới nước) cái bản sơn ra nửa cục, còn nửa cục là
cái ngoại sơn ( sơn ở ngoài đến) ở ngoài cái thủy, thấu hợp thành chủ cục;
có cái long ra nửa cục, thủy thấu nửa cục: có cục nửa là núi, nửa là đồi, nửa
là đồng bằng; có chỗ phân ra ba, bẩy cái rồi thấu hợp với nhau thành cục,
nhưng hết thẩy các cục mà không phải là phá cục thì mới dùng được.

Những cục tứ vi đều cao là tốt, tứ vi đều bình là tốt; hoặc khởi phục cũng là
tốt. Nhưng, cần nhất là ở chỗ gần huyệt thì nó phải hộ vệ thì chủ mới vững
bền, không phá thành, đương ngay ở chỗ huyệt cũng là tốt cả. Rất sợ là phá
thành ngay ở sát nách mình ( gần huyệt), nếu phá khuyết thì “viễn phong xạ
huyệt” ( gió thổi bắn vào chỗ huyệt) là hư hỏng thì không dùng được.

Muốn xét cục chân hay giả, thì phải lên đỉnh núi cao nhìn xem sơn, thủy nó
bố trí rõ ràng như trong bản họa đồ, thì mới hiểu tình thế của cục ấy. Nếu
sơn ở một bên, cục lại ở một bên như vậy là thế thiên, hình biến; vậy thì phải
tinh ý mới biết được. Nếu không thể lên núi cao được, thì phải đi chung
quanh khắp cả chu vi. Nếu nhiều ngòi lạch không thể bộ hành được, thì phải
dùng thuyền bè mà đi xem tứ vi sơn, sa, thủy, nó khởi, chỉ nhiễu bão như thế
nào, chớ nên hồ đồ thì uổng phí công phu, vì phần nhiều là sơn xuyên dời đi
một đoạn là thay hình đổi dạng, không thể đứng một chỗ mà biết được toàn
hay khuyết.

Xem cục thì phải biết chỗ nó đại giao hội, đại bao khỏa, đại thành quách
( nghĩa là sơn thủy gặp nhau rộng lớn, bao bọc rộng lớn, thành quách rộng
lớn) có đến 9,10 lần bao vây và ngoài hơn nữa không chừng. Bao vây từ
ngoài xa, lần lần vào đến trong, giữa hẹp nhỏ khoảng độ giải lọt chiếc chiếu
không chừng, tức là trung tâm điểm, nên phải có nhỡn lực nhìn xa, trông
rộng và tinh tường, hiểu biết đến tận long, cùng cục, thì điểm huyệt mới
không sai.

Xem đất, trước hết phải thuộc Ngũ hành chính thể và biến thể ( Xem ở họa
đồ đã có đủ hình tượng) và nhận đó mà tìm long thì rõ được chính cách và
biến cách. Đến lúc long pháp sắp thành, thì cái thế của nó thường hay tán
( phân tản ra), đấy không phải là Tạo hóa hiếu kỳ; tức là từ chỗ ấy mà phát
huy, mới là “tận sinh thành chi diệu”! Đến cái địa vị ấy mới càng khó, lại
thêm rất nhiều công phu hơn, mới nhận định được ! Vì chỗ hội lại thành cục,
đó là nơi long mạch chỉ túc ( ở lại không đi nữa), gọi là long tận. Nhưng, long
tận không phải là tận ở chỗ vô sơn, mà bảo là tận, chính là tận ở chỗ “ long
khẩu thổ khí” ( cửa miệng nhả khí hơi ra); đấy mới là tận long; và đó là long
khẩu; hoặc hiện ở đỉnh núi, gọi là long phi! Hoặc vào chỗ nước tụ, gọi là tiềm
long ( mạch chìm); hoặc ở chỗ quần sơn ( nhiều dãy núi) gọi là bàn long.
Cho nên chỉ có Hoành thủy cục, Hồi long cục thôi; chứ không có trực thủy
hay trực sơn cục. Nếu thấy một cái trực sơn lại, hoặc một cái trực thủy lại,
đương trước mặt thẳng đi, tức là tử sơn ( sơn chết), không có long mạch,
hay tử thủy ( thủy chết) không có khí tụ.

Hỏi: - Có cái đại long lâm thủy ( tới chỗ nước ) nội đường đi thẳng và dài gần
một dặm hoặc hơn một dặm, cái ấy không được bảo là trực thủy là thế nào?
- Cái lâm thủy ấy tức có hoành cục để ngăn chặn, ngoài tất có cái hoành sa
che đậy. Ngoài cái sa ấy, thường đã có cái đại thủy chuyển qua ngang, hoặc

52
chầu lại, thì gọi là “ trực thủy chi cục” , “ long khẩu sở thổ chi tân” ( cái bến)
chứ không phải là trực thủy phóng đi; sẽ phải lên cao mà xem cục, cái trực
hẳn biến ra tròn, hoặc lại biến ra vuông, không thành trực nữa, vì 2 hoặc 3,4
cái thủy liên giao, hội thành đại cục chẳng hạn.

Đã nói là: không có trực thủy cục, nếu thực là trực thủy cục, mà tác cục ở
ngay chỗ thủy khứ, tất thị “ phi chân long, chỉ túc chi địa”, tất bại nhân gia!

Nên, độc giả muốn thành tài thành danh Địa lý Sư, trước hết phải biết Tinh
thần (là tinh thể ngũ hành). Biết tinh thể rồi sẽ nói đến cách cục ( là hành
long cách cục), hiểu cách cục rồi thì đến huyệt. Huyệt thì lại càng khó hơn, vì
tường được huyệt rồi còn phải biết lập hướng, và lập hướng thì lại khó hơn
nữa! Thực là công phu không thể nói xiết, nên có câu: “ Cùng thần nhập
hóa”, Nan ngôn! Chính là nghĩa đó.

Tuy nói là khó, nhưng cũng chẳng phải là khó; nếu khó sao có nhiều người
biết? Nên không có gì khó cả, chỉ khó là ở chỗ không chịu khó học hỏi, và
không chịu suy xét; nên có chữ là: “ Dị chi dị, nan chi nan”!( nghĩa là: Dễ với
người cho là dễ, khó với người cho là khó thôi).

Vọng khí

Vọng khí là trông cái khí ( hơi đất, nước) của sơn xuyên bốc lên, để xem xét
súc kết tác của long mạch thế nào.
Cứ vào khoảng cuối mùa Hạ, sang đầu mùa Thu, sau kỳ mưa tạnh mây tỏa,
thì về lúc giờ Sửu, giờ Dần tức là nửa đêm về sáng; ra trông lên đỉnh ngọn
Thái tổ sơn, hễ thấy khí xung thẳng lên dưới bé trên to xòe ra như hình cái
tán, cái lọng, đó là chân khí. Nếu ở ngang lưng sườn núi, là mây hoặc sa mù
ám; chứ không phải là khí của núi ấy phát xuất. Thấy khí thanh kỳ ( trong
sáng) là Phát quý; thấy khí Phì trọc ( đặc đục) là Phát phú, vượng nhân đinh.
Khí lên đoan chính thì xuất văn quý, khí lên thiên tà thì xuất võ dũng.
Đấy là ở trong kinh Tiết thiên cơ, minh bạch xác định như vậy.

Thường thủy

Thường thủy, là nếm nước, thử mùi nước có thể biết đất mỹ hoặc ác; nên có
phép nếm nước. Ở vùng bình cương, bình dương nước chẩy ra khe lạch, thì
nếm nước ở giếng, suối.
Ở miền núi cao, thì nếm nước suối khe núi. Ở giữa vùng núi rừng cao sâu,
không lên tới thì theo dòng nước khe suối chẩy xuống nếm xem, thấy nước
ngon ngọt và có thoang thoảng mùi thơm thì Phát đại quý; ngọt thì có đất
phát phú, vượng tài, đa đinh, nếu ngọt mà có chất cay thì phát võ quý; nếu
nước có chất chua, chát thì không phải là cát địa! Nước trong là quý, nước
đục là thường kỵ dụng, ( không kể nước đục bởi đồng ruộng cày cấy).

Mùa Đông thì nước ấm ấm, mùa Hạ thì nước lạnh mát mới là tốt.
Đời xưa, Ngô Công nếm nước ở vùng đất tổ mộ nhà Chu Phu Tử có mùi thơm,
cho là có Hàn mac hương. Đoán trước là đất ấy sẽ xuất một người hiền,
thông minh như Khổng Tử.

Còn tiếp

53
Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Biện hổ thạch


 Việt Hải

Biện hổ thạch

Trong thiên cơ tố thư nói rằng: Những huyệt táng thừa khí, ở yêu, nhĩ, não có khác; mà
táng ở nơi Thủy, Thổ, Thạch kết huyệt cũng có khác.
Huyệt ở giữa chỗ nước, lấy đất đắp thành huyệt mà táng thì xưa chỉ có đất tổ nhà họ Hoa,
ở Vô tích ( Trung Hoa), gọi là đất Nga chuân đãng ( mề con ngan). Ngoài đất này ra, không
nghe thấy; vậy thì cũng chẳng dám nói là trong chỗ nước không có huyệt.

 
Còn về Thạch huyệt thì rất nhiều, chẳng mấy nơi là không có ( Thạch huyệt
là nơi huyệt kết ở chỗ có đá, chứ không phải huyệt bằng khối đá liền). Tại
sao nay lại bảo là đá thì không phải là có huyệt?
- Thổ, Thạch, Sa, cả ba cái mà có khí xung tới thì đều là có huyệt. Thạch
huyệt thì rất thanh quý và có lực lượng là thượng hạng. Thổ huyệt là hạng
thứ. Thổ sa là đất và cát sốp, rời, nên kém không tốt.
Thạch thì cốt là tế nhị ( nhỏ và ẩm, mềm đào được), Thổ thì cốt kiên thực
( chắc đặc), khó bừa vụn nhỏ được. Nếu đá cứng và khô, đất lại rời vụn thì
đều là xấu, không phải huyệt kết.
Về phần sắc màu, thì hồng, hoàng, bạch là thượng hạng; thanh ( xanh) là
thứ hạng; hắc ( đen) thì là hạ hạng. Nhưng lấy chất làm chủ, sắc làm thứ,
nếu thấy chất tế nhị, mềm dẻo, tươi sáng thì dầu sắc xanh cũng là tốt. Nếu
thấy đất sốp, khô, rời vụn thì sắc màu là hồng, hoàng cũng không tốt vì cái
sốp, nổi lên, khô là vô khí mạch thì không kết huyệt.
Cổ nhân điểm huyệt, bất luận Thổ Thạch; đời nay thì lại kỵ thạch, hễ thấy
thạch huyệt thì không biết phân biệt tốt hay xấu, chỉ chê bai là thạch thì bỏ!
Có biết đâu là Thổ và Thạch cũng đều có tốt, có xấu. Vậy thì thạch huyệt là
tốt lành, tự người cầu địa nói: thạch huyệt xét ra được ba cái tốt: 1. Được mỹ
địa, 2. May mắn về tài vật, 3. Có thể dễ mưu đồ. Thạch huyệt là cái phước
hay của người nghèo!

Khí mạch lưu hành thì bất luận Thủy, Hỏa, Kim, Thổ, Thạch; nếu có sinh khí
xung nhập đúc kết, thì sao lại không táng được? Những người thấy thạch
huyệt mà bỏ, là vì cớ, không hiểu sinh khí lưu hành. Về vấn đề thạch huyệt,
ở Vát Sa Kinh của Liêu công luận thuyết rất kỹ lưỡng, rõ ràng, nay trích lục
thuật dịch vài đoạn dưới đây;
Nhà hiền triết Lưu Kim Tinh nói: Táng Kinh bảo: đá không nên táng, ấy là
bảo; chỗ có đá mà cương táo ( tức là khô xác và tan vỡ ra từng hòn, tứng
phiến) thì là thứ đá chết, không có sinh khí nên không táng được! Và, những
núi đá cao nguy nga có nhiều mũi nhọn, cạnh sắc đâm ra chơm chởm thì là
hung ác, vì hiềm viêm táo vô khí, không nên táng. Nếu là đá đông đặc,
nguyên vẹn thành thể chất biến ra hình tượng Ngũ hành thì thực là tốt, sao

54
lại không táng?

Thạch là cốt của thổ, có cốt mà không có tủy hay sao?


-Lại nói : Cả một vùng sơn cương; đa số là thạch, mà một chi trong đó, ở chỗ
kết huyệt toàn là thổ, thì rất là thanh quý. Hoặc cả một vùng đều là núi đất,
mà trong đó có một chi lại vừa đá, vừa đất tham bán thành huyệt tinh kết
tác, cũng là quý và phú nữa! Vì lẽ, thạch là gân cốt của thổ, mà thổ là huyết
nhục của thạch để dung dưỡng. Gân cốt là loại tính tình thanh dật, huyết
nhục là loại tính chất trọng trọc.

- Lại nói: Bản chất của sơn chỉ có hai loại là: Thạch và Thổ. Vậy: “ Phi thạch
bất lập, phi thổ bất cụ”: nhưng xuất hình hiện thể, mỗi chỗ mỗi khác, tinh
thể đã tốt lành khí tiềm tàng ở trong, là do Tạo hóa an bài, thì táng đều là
được tốt.

- Lại nói: Thổ sơn, Thạch huyệt, thì long ở phía sau huyệt tinh đều là Thổ sơn
mà chỗ kết huyệt thuần là thạch, nên gọi là thạch huyệt. Hoặc huyệt tinh
vừa thổ, vừa thạch tham bán thì huyệt đào ở chỗ thạch, lấy thạch thành
vựng, “ thạch cụ, khí diệc cụ” thì cũng là thổ sơn thạch huyệt.

Ông Ngọc-Đàn-Tử nói: Cũng có huyệt kết ở giữa chỗ đá, đào ra không có đất
thì lấy đất ở phương vượng đắp vào, gọi là Tính táng ( gồm lẫn cả đất đá).
Thầy truyền khẩu phép:Những chỗ đá hòn, đá phiến, đá nhọn, đá sắc, khô
cứng và có mầu xanh, đen không đào, cuốc được, thì đừng nên táng vì là
thạch tử, vô khí.
Nếu thấy thạch chất tế nhị, mềm, ẩm đào cuốc được và mầu sắc hồng, hoàng
tươi sáng thì đấy là đất cứng, không được bảo là đá mà bỏ.

Các Tiên hiền nói: Đá có thể táng được, là như thế. Người nay thường cố
chấp nhất khái, thấy đá thì bỏ hoặc có người điểm huyệt ở chỗ đá vô sinh
khí, tận long mạch thì là đất bại tuyệt! Mong độc giả nhận kỹ, chớ có thị
thường.
- Trong sách Luận Thổ Sắc Táng: Cốt là có chất tế nhị mà bền chắc, mịn mặt,
ẩm mát mà không nát, ướt. Ngũ sắc thì cốt lấy 4 màu hồng, hoàng, thanh,
bạch; nếu hắc thì xấu, nên bỏ.
- Địa lý thì lấy hình làm chủ, hình cát, thổ mỹ là thượng cát. Nếu hình bất
cát, thì bất luận thổ, là bỏ không nói nữa!
- Hình cát mà thổ bất mỹ cũng được, không hại đến sự phú quý.
Muốn biết sắc mầu của thổ ở chỗ kết huyệt, thì xem ở giữa chỗ Giáp ( là
quãng long long sơn phục xuống rồi lại khởi đột lên huyệt tinh) thấy thổ sắc
gì thì chỗ huyệt cũng là sắc ấy. Nói chữ: “ Sở vị: Lai long bất thoát lai long
khí”, chính là nghĩa đó.

Kết luận long pháp

Hiểu biết được Tinh thần, Cán, Chi, Cách, Cục là đã tạm đủ rồi. Vậy, khi tìm
đất phải đi khắp cả chu vi một vùng để xem sơn, thủy cho biết rõ Tổ, Tông
phân phách Cán, Chi, Khai trướng, hội hợp thì mới biết được cục diện; biết
được cục diện rồi thì mới tìm được huyệt trướng, tức là huyệt sơn hay huyệt
tinh cũng thế, biết được huyệt tinh rồi, lại phải đi xem phía sau huyệt sơn,
nhận xét long hành, xem long cách biến chuyển, âm dương hóa khí thế nào?
Tinh thần chứng ứng, triều bão huyệt trường làm sao? Để biết long chân hay
giả, cách cục của long mạch ấy quý hay tiện, hậu hay bạc v.v…Cũng đã là

55
công phu, khó nhọc! Nhưng nếu có trí óc, nhỡn lực thông minh thì chỉ lên
một quả núi cao, đứng nhìn bao quát, cũng đã nhận biết rõ được cục đất ấy
kết hay không kết. Kết thì tìm, không kết thì bỏ khỏi phải uổng phí công
phu!

- Hoặc hỏi: Thế nào là Âm dương hóa khí?


- Âm long biến dương, dương long biến âm, là Âm dương hóa khí.
- Thế nào là Âm long biến dương? Dương long biến âm?
- Câu này không thể trả lời một hay hai câu vắn tắt mà hết được, phải diễn
giải ra dưới đây:

Muốn tường tận căn nguyên, thì trước hết phải xem từ Đại tổ, tông sơn. Nếu
như có cách Long lâu, Bảo điện, Thiên dác, Thiên hồ, Tụ giảng tinh thần, hợp
Ngũ tinh hoặc Cửu tinh, từ Lâu hạ điện phát thành long, thì là quý thượng
cách. Nghĩa là: những long cách kể trên từ Tổ sơn hoặc tông sơn uyển
chuyển từ trên đi xuống khởi phục, biến hóa ra Ngũ tinh: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ, hay là lại biến hình thể ra như Cửu tinh v.v…( Xem hình đồ đã họa:
Dẫn đi gồ lên, lún xuống, xa trông như hình con rồng, con rắn uốn lưng bò đi
trên cao lửng trời; đấy là Tinh thần phối hóa, mới là thượng cách quý long).

Vậy thì, long hành mà không có Thủy tinh thì không hay sinh khí, nếu không
có Thổ tinh thì không phải là thượng quý long!
Vì vậy, thường có 2,3 chi long, cùng một tổ, tông sơn ra, mà có chi là chân
long, có chi là giả long. Chỉ bởi âm dương hóa khí và bất hóa khí, do ở Ngũ
tinh hành độ.
Ngũ tinh thì Kim, Mộc, Hỏa là ba (3) tinh thuộc dương. Thủy, Thổ là hai (2)
tinh thuộc âm.
Hễ thấy long hành là Kim hoặc Mộc hay Hỏa, tinh hình là dương long, mà
biến chuyển ra đoạn kế sau là Thủy hoặc Thổ tinh là dương hóa âm.
Thấy Thủy hoặc Thổ tinh hành long mà biến ra Kim, Mộc, hoặc Hỏa tinh, ở
đoạn tiếp sau, là âm hóa dương. Đó là Âm dương hóa khí.
Nếu âm dương bất biến, thì khí mạch không đút kết tức là thuần âm, thuần
dương, quyết định là đất ấy tuyệt diệt! Câu chữ: “ Thuần dương bất sinh,
thuần âm bất phát”; chính là nghĩa đó.
Lại còn xét cả Cửu tinh nữa; Cửu tinh thì Cự môn, Thiên tài là Thổ, thuộc âm;
Tham lang, Tử khí là Mộc, thuộc dương; Kim thủy, Văn khúc, Tảo đãng là âm
thủy; Táo hỏa, Liêm trinh là dương hỏa; Thiên cương, Cô diệu, Vũ khúc, Thái
dương là dương kim. Tam tinh, Ngũ tinh cộng hợp là Thái cực âm dương. Câu
chữ: “ Thủy thổ gián Kim Mộc Hỏa cao sơn”, đấy là chân long quý thượng
cách. Nếu đất nào có đúng long cách biến hóa như đã kể trên, tất nhiên phát
anh hùng dũng tướng, văn võ kiêm toàn, Công hầu cực phẩm; hoặc là đại cục
đại địa thì phát Tể tướng, Đế vương không chừng!

Còn những sơn dẫn xuống bình dương tới hồ, hải, giang, điền thì là tận sơn,
phần nhiều là thủy tinh, chỉ họa là mới có một khoảng gián tinh, là Kim hoặc
Mộc, hoặc Hỏa, thoát tá thì là phải huyệt, ví có hóa khí thì mới kết huyệt;
nếu cứ bình thản, bằng phẳng một thể, không khởi đột chút nào, thì vô
huyệt. Nên có câu: “ Hình như chỉ phiến, thản nhược bì ngưu, hà hữu kết
huyệt” chính là nghĩa đó ( phẳng như tờ giấy như tấm da trâu thì đâu có
huyệt).

Lại còn Lục phủ tinh cũng phân biệt âm, dương. Lục phủ tinh thì Thái âm,
Nguyệt bột, Kế thuộc âm.

56
Thái dương, Tử khí, La thuộc dương.
Phần nhiều người ta thấy Mộc tinh, Hỏa tinh cao vót lên, cho đó là hành long
quý thượng cách! Nhưng thế là cô dương, nếu không có Thủy tinh, Thổ tinh,
thì là Cương Mộc, Táo hỏa quyết định là bất kết.
Có chỗ một dẫy Kim tinh đùn đùn chạy xuống, nhưng không có Thủy tinh,
gián tiếp là không khai dương. Thời sư cho là đại kim truyền tiểu kim, là quý
lắm! Có biết đâu! Thế là thuần dương bất kết! Vậy có câu chữ: “ Ná hiểu
hoàng kim bất kết tác” là nghĩa đó!
Lại có câu: “ Mạc đạo hung long bất khả tài”, “ Dã hữu hung long khởi gia
quốc”. Nghĩa là: Đừng bảo hung long không nên dùng. Vậy có cái hung long
mà phát nhân tài, khởi được nghiệp nhà, lập được công nước!

Hung long là Liêm trinh, Phá quân, Lộc tồn, Văn khúc. Bốn (4) hung tinh
này, hành long mà có cát tinh tương gián, thì lại quý lắm! Phát sinh văn võ
kiêm tài, uy danh quyền quý! Thí dụ:Trong chỗ Tham lang tinh lại có Liêm
trinh tinh. Văn khúc có Phụ bật, Vũ khúc có Phá quân, hoặc Lộc tồn có Cự
môn, gián đoạn, lại khởi phục tiếp nối nhau v.v…

Đây là “ Long gia gián tinh pháp” nên hai chữ “ hóa khí” không thể thị
thường được! Vậy xem bài thi ca đây:
Mộc, Hỏa tuy sinh, vô hóa khí, Vi quan vô lộc, nhân dinh thế.
Mộc, Thổ tuy khắc, phối âm dương.
Nhân, đinh đại vượng, phú quý địa.

- Nhược kiến Kim biến Mộc: Nhất phát tuyệt tông tộc!
- Mộc tinh biến Hỏa tinh: Bái tướng tổng hư danh!
- Thủy tinh biến Kim tinh: thanh quý, vượng nhân đinh!
- Thổ tinh biến Thủy tinh: Đào vong, thiểu dư đinh!
- Thổ tinh biến Kim tinh: Cự phú xuất hiền anh!
- Thủy tinh biến mộc tinh: Hàn uyển đa văn danh!
- Thổ tinh biến Mộc tinh:Nhất giáp phụ Triều đình!
- Hỏa tinh biến Kim tinh: Cô, Hàn, Cố, Tật, Manh!
- Hỏa tinh biến Thổ tinh: Tướng tướng trấn biên thành!
- Thử quyết bất luận sinh hòa khắc.

"Chỉ cố hóa khí tiết thiên chân.


Ngũ tinh chi trung, Thủy cực tú.
Chỉ nghi hóa động Mộc, Hỏa, Kim.
Thổ tinh nghi hóa Kim, Mộc, Hỏa.
Thủy thổ bất hóa khước thuần âm."

- Mộc tinh phi nhất dạng, chướng thiên, bình địa hình.
- Văn khúc nhược Tảo đãng, quá giáp khúc động chân, Động lãng vu tam
cấp, Hoành khoát bãi, tập, tranh. Kỷ ban Thủy tinh thể. Tế ngoạn yếu phân
minh. Long ký hữu hóa khí, Huyệt định hữu âm dương.

"Âm long hành độ, dương long kết,


Dương long hành độ, âm long tàng,
Tiên hiền rĩ sơn, danh vi long,
Rĩ long biến hóa, thử tương đương,
Long thần đắc thủy, phương thăng biến,
Kiền, Khôn biến hóa tại âm dương,
Hựu, hữu Thái, Thiếu xuất mạch hình,

57
Chỉ hỷ Dương sinh, bất hỷ âm!
Âm mạch long tiết, hành đáo thử
Tử, Tôn thoái bại, kiến linh đinh!
Hựu hữu Thai tức, tính dựng dục,
Như đồng phụ mẫu chi huyết tinh,
Thiên nhất sinh thủy, Địa lục thành
Nhị, Ngũ tinh hoa tái thử tục:
Hoành, Khoát tam bãi, tính lưỡng bãi
Thủy châu, Hạc tất, Phong yêu thuộc
Tẩu mã, thao tiên, tính quán châu
Chi, huyền, nhân tự kiến động khúc
Tam tiết trung gian, nhất điềm thủy
Thử thị chân long thành thai tức
Thai thành, kết huyệt tự phân mình
Huyền lăng tính quật, đột chứng tá tường tả, hữu
Thiên cơ bất hư sinh! Âm dương, thần, tề phân táng khẩu
Huyệt thượng tinh thần, long thượng tầm
Nhược năng cùng đắc Vọng long lý
Tiên sư diệu dụng tâm pháp truyền."

Giải nghị phát huy

A. – Long vô Thủy tinh, bất thành biến hóa


Long vô Thổ tinh, bất thành thượng cách.
( Nghĩa là: Hành long mà không có Thủy tinh thì không biến hóa; hành long
mà không có Thổ tinh thì không phải là long quý thượng cách).
Trong Ngũ hành, mà lực phát động tối đại là Thủy; yên tĩnh mà tối trọng hậu
là Thổ. Những chỗ sơn loan, lưu động, hầu hết đều là Thủy tinh cả, và nếu
hành long không có Thủy tinh, thì long cương trực, ngoan ngạnh, tức là một
phiến sơn sát triệt, thì đúc kết làm sao được!

Cho nên, cùng long hành mà cùng có Thủy tinh; hoặc không cùng long hành
mà đều không có Thủy tinh; vậy Thủy tinh đều ở chỗ đại thể, chứ không ở
chỗ xuất mạch đoạn phục. Nếu cùng ở chỗ ấy mà thấy có gẫy khúc hoặc uốn
cong như hình sóng nước động cồn lên tức là có Thủy dẫn đi trước, hẳn là
kết chân huyệt; nếu không có Thủy thì không kết huyệt. Lấy lý là: “ Thiên
nhất chi sinh khí” chính là Thủy ( ở trong Bát quái biện pháp).
Trong khoảng giữa long thân mà khởi lên một hình Thổ bình ( Thổ tinh như
cái bình phong) thì là lực lượng long rộng lớn, quyết là kết đại quý.

Nếu không có Thổ bình thì không phải là long hậu trọng, quyết nhiên không
hay kết đại địa; dầu có Hỏa tinh, Mộc tinh đứng giữa trời, thì cũng phát đến
chức vị Tam công, nhưng khó mà tránh khỏi cái họa “ thân vong, gia phá”!

Vậy, không biết Thủy thì không phân biệt được là có đất kết, hay không.
Không biết Thổ thì không biết rõ đấy là đại địa hay tiểu địa; vậy Thủy và Thổ
là “ long gia chi mệnh mạch”, tức là ở trong cái đại viên cục thì Thủy, Thổ là
hai vật rất lớn vì vạn vật sinh ra ở Thổ , khi trở về cũng ở Thổ; mà Thổ lại
phải nhờ Thủy thì mới nuôi sống được muôn vật. Chỉ có Thủy mới sinh sinh
bất diệt, chỉ có Thổ mới gánh đội được nổi hết thẩy! Long có đủ Thủy thì mới
đủ sinh khí, có đủ Thổ thì mới tải nổi muôn vật. Nên có câu: “ Vô thủy bất
sinh, vô thổ bất thành” chính là nghĩa thế. Nếu chỉ thấy Mộc, Hỏa, Kim mà
mừng khoái, cho là quý thì không thể cùng bàn nói chuyện về địa đạo được.

58
B. – Thủy khẩu tứ hung, quan tỏa, tịnh vô chi cước lạc hà, thử thị đại quan
cục; hữu chi cước lạc hà giao nha, thử thị tiểu quan cục.
( Nghĩa là: Ở ngoài thủy khẩu có sơn hình thuộc về bốn hung tinh trấn cửa
và không có chân sơn thò ra xuống sông; đấy là đại quan cục. Có chân sơn
thò xuống sông, thì chỗ ấy là tiều quan cục, ý nói là đại địa, tiểu địa phân
biệt).

Long son không để ý đến Thủy, mà Thủy tự theo chầu lại, ấy là đại cục. Có
để ý đến thủy mà sau thu được thủy, ấy là tiểu cục, ý nói là sơn sa chầu ôm
lại, ngăn hãn thu nước thì chỉ là một khu nhỏ hẹp thôi. Vì thủy là tài lộc, ví
như những người cứ hau háu chú ý đến tiền tài thì nhân phẩm quyết là
không cao, thì chức vị quyết là không được lớn. Thử xem bậc Thánh hiền Hào
kiệt, Vương, Tướng, Công, Hầu hưởng đại danh, đại vị, đại phúc, có ai thèm
nhằm đến tiền tài như hạng tiểu nhân đâu!

Thủy khẩu mà có 4 loại hung tinh đứng cao ngất, mà không có chi cước lạc
hạ , ý ấy là ở cái thu cục, không có ý ở thu thủy; tức là “ khí khái đại
phương”. Cho nên ở trong là đại địa, có chi cước lạc hà thí ý toàn ở chỗ thu
thủy, là thu tỏa, cục diện nhỏ hẹp; nên chỉ là tiểu địa ở trong vòng ấy thôi
( lạc hà là chân tay sơn sa thò xuống sông).

Mấy câu vừa kể trên, là ở Vọng long kinh của lý gia Ngô -Cảnh –Loan trước
tác, lấy địa lý vi nhân tình, mặc dầu đúng hay không. Cũng chẳng lợi hại chi,
nhưng có điều là thấy ý vị văn chương của cổ nhân thực là cổ điển thanh
cao; thỉnh thoảng cũng có chỗ tương tự ý tứ như đây. Cứ theo như lời văn mà
lục thuật, muốn để độc giả “ lịch lãm cổ kim chi tính tình phẩm giá”!

C. – Cán long trùng trùng bác hoán, diên mạn bất sinh phong.
Chi long hành độ, đa khởi phong truyền biến.
( Nghĩa là: Cán long độ trình đi thì lần lần, biến đổi thì dài rộng, không hay
đột khởi tinh phong; Chi long độ trình đi thì phần nhiều khởi tinh phong
truyền biến).
Vậy thì, Cán và Chi lực lượng không như nhau, nên hành độ cũng khác nhau.
Cán long thì lực lượng mạnh hơn, khởi phục cũng mạnh hơn. Khi khởi lên
thường đi dài mấy mươi dặm, hoặc mấy trăm dặm không chừng; mà khởi
phục cũng đều bình bình, đi không hay đứt đoạn, nên thấy chạy dài mạnh đi,
mà không đột khởi tinh phong ( ngọn núi cao).
Chi long thì lực lượng yếu nhỏ, khởi phục cũng nhỏ và đơn cô, ngắn hẹp;
thường khởi đột rồi lại phục xuống liền, phục lại khởi luôn, vậy thấy nhiều
khởi tinh phong.
D. – Thủy tổ, Thái tổ xuyên trướng, ở sau thì gần như một cái chuỗi, xâu
suốt tự đỉnh núi nọ đến đỉnh núi kia, thẳng giữa phía trước xuất trướng và
cần hai bên tả, hữu tự hồ như ẩn náu, lén lút, xuất dương mạch phân ra
buông rủ xuống.
Thiếu tổ khai trướng gần huyệt, thì cần trung tâm xuất mạch tức là ở khoảng
giữa sườn núi xuyên ra thì mới hợp pháp.
Sơn thì phần nhiều là vật âm sát, nên hành độ rất cần là phải thoát sát khí.

Long là cái vật tôn quý, nên hành độ càng phải cần được có thể đoạn ( có
từng tiết) ( hình dạng). Thủy tổ, Thiếu tổ ở đằng sau đầu mạch lại, đều cần
xuyên suốt tự giữa đỉnh núi nầy xuyên suốt đến giữa chỏm quả núi kia, thì
thể đoạn mới là tôn quý. Ở phía trước Thủy tổ, Thái tổ mạch buông xuống,

59
cần ở hai bên lén xuất dương mạch thì sau mới không thành sát khí. Đến
Thiếu tổ khai trướng, chỉ cần trung tâm khai xuất mạch; vì đã gần huyệt, cốt
thành thể đoạn tôn quý, tức là âm sát đã thoát hết trước rồi, là vì cớ ấy.

E. – Kim, Mộc, Hỏa là ba tinh thuộc dương, Thủy, Thổ là hai tinh thuộc âm.
Vậy dương tinh hành long, thì cần biến ra âm tinh; âm tinh hành long thì
biến ra dương tinh. Nếu dương mà không biến hóa ra âm, thì không thành
long; âm mà không biến hóa ra dương thì không thành huyệt.
Vậy nên Âm, Dương biến hóa mới có sinh khí; nếu không thì Cô âm, Độc
dương và không hay sinh dục, tức là không thành thai sinh sản.
Thí dụ: Kim, Mộc, Hỏa, ba tinh mà không có Thủy, Thổ hai tinh gián tiếp, tức
là dương long bất biến âm, thì bất thành long kết huyệt vì cương ngạnh, sát
khí, không thể đúc kết được.
Thủy, Thổ hai tinh mà không có Kim, Mộc, Hỏa gián tiếp với nhau, tức là Âm
long bất biến dương, thì cũng bất thành long kết huyệt, tức là hoãn nhược,
không thể đút kết được; thế gọi là Cô âm, Độc dương hay gọi là Thuần Âm,
Thuần dương cũng vậy. Câu : “ Thuần dương bất sinh, thuần âm bất phát”
chính là nghĩa đó.

G. – Nguyên thủy âm dương, là chỗ xuất mạch buông xuống, thấy gồ lên như
mu bàn tay úp, hoặc như sống lưng thanh kiếm, hoặc gồ như mai mực v.v…
là hình thể long thuộc âm, sau biến ra bình điền ( bằng phẳng) hoặc như bàn
tay ngửa lên, là hình thể long thuộc dương.

Hễ âm thể biến ra dương thể, thì mới kết huyệt; nếu âm dương bất biến, cứ
một thể kéo dài đi thì không kết huyệt. Chữ “ âm tử, dương sinh” là nghĩa lý
như thế; vì âm là sát khí, dương là sinh khí. Phải nhận xét rõ giải thích ở
trên.

H. – Mạch ở sơn cương, gặp dương thì hóa khí, thì kết. Long mạch ở bình
dương gặp âm thì hóa khí, thì kết. Nếu sơn long mà thuần âm thì nhất định
là vô huyệt; ở bình dương mà tuần dương thì quyết nhiên bất kết.

Sơn tích là âm khí, nên cần phải khai diện, khai oa là “ phát xuất dương thư
chi khí”, thì mới kết huyệt, khác hẳn với bình dương, vì ở bình dương thì tán
mạn, đều là dương khí, nên cần khởi tính ( sống lưng gồ lên) đột, là: “ đốn
khởi âm liễm chi hình” thì mới kết huyệt.

Trên đây đều giải thích về âm, dương biến hóa, trong chỗ âm thì dùng
dương; trong chỗ dương thì dùng âm, chính là lý khí rất đúng.
I. – Xem nơi hành long, tinh phong nào nhiều ( số nhiều là tôn trọng) tức là
phân ra hơn kém đi xuống kết huyệt; huyệt hẳn là không lìa cái đa số ấy.
Như là Tham lang tinh thì biến ra nhũ, Cự môn tinh thì biến ra oa. Long
huyệt pháp là như vậy, hễ tinh nào nhiều thời thì tinh ấy làm chủ, huyệt hình
thì theo tinh phong ấy xuất hiện, như Tham lang thì phần nhiều là kết nhũ,
Cự môn thì phần đa là kết oa, Vũ khúc thì thoa, kiềm, Lộc tồn thì sơ sỉ ( răng
lược), Liêm trinh thì lê bích, Văn khúc thì ngưỡng chưởng, Phá quân thì qua
mâu, Phụ bật thì yến sào, khê khòa. Thế là huyệt tòng long xuất, gọi là bất
biến nên nói: Tham lang bất biến, sinh nhũ đầu ( như đầu vú đàn bà)v.v…

K. – Cận huyệt, đoạn nhi phục khởi, thị dục biến tinh dã, biến dữ bất nghi
tinh cầu ( nghĩa là: long sơn đến chỗ gần sắp kết huyệt, dứt hẳn rồi lại khởi
lên là muốn biến ra tinh phong khác, biến hoặc không biến thì nên tinh mắt

60
tìm kỹ).

Huyệt theo long sơn ra, gọi là “ biến huyệt”, “ bất biến tinh”, như là Tham
lang hành long biến ra cái nhũ tác huyệt; Cự môn hành long biến ra cái oa,
v.v… như thế là chính phép, là bất biến.

Cũng có huyệt không tòng long sơn, lại theo biến tinh, thời là biến.
Thấy những chỗ biến tinh tác huyệt , long sơn đi đến chỗ gần kết huyệt, thì
đoạn tuyệt, rồi lại khởi luôn một tinh khác thì huyệt tức là theo cái biến tinh
ấy. Như biến là Tham lang thì tác nhũ huyệt, biến là Cự môn thời, tác oa
huyệt. Chính phép thì tinh bất biến, nhưng tòng tinh biến xuất huyệt. Vậy
hình biến thì tinh huyệt đều biến. Cho nên bảo rằng: “ biến dữ bất biến nghi
tinh cầu”.

Những điều trên này là lục thuật ở giải nghị về âm dương hóa khí, ở Vọng
long kinh. Tuy lý luận tinh vi, nhưng cũng có Địa lý gia tiền đại thắc mắc,
chưa quyết ý là đúng phải hay không. Cũng là ở cái điều: Mộc với Hỏa là
tương sinh, mà bảo; tuần dương vô hóa khí, thì làm quan không có lộc, về
sau lại không vượng.

Mộc với Thổ tuy tương khắc, mà âm dương phối hợp là có hóa khí; nên thành
long kết huyệt thì lại phát phú quý và nhân đinh đại vượng.

Bất luận tương sinh tương khắc, chỉ luận âm dương hóa khí thôi. Nghị luận
này khác với các sách, đọc bộ Kham dư thư cũng không thấy kinh nào có
thuyết như vậy, nên cũng còn cho là bí thư. Nay xét như thế, thì địa lý cũng
khó thực! Thánh hiền cũng còn có chỗ cho là bí truyền, thì nay đâu dám tự
hào là hiểu hết. Đến cụ Tả Ao cũng chưa biết hoàn toàn. Chỉ biết đại khái
những cái cần thiết, không phạm sát, ở ngay đương diện, hậu đầu và gần
chung quanh tả, hữu huyệt, cũng là được rồi, còn những cái ở xa và đứng ở
huyệt không trông thấy, thì đất nào tránh khỏi! Vì do: “ Thiên địa an bài”, “
Nhân vô thập toàn”, “ Địa an năng thâp toàn tai”! Có hay thì cũng có dở là lẽ
thường. Vậy đất nào thấy cách tốt nhiều hơn cách xấu, là tốt rồi. Hoặc thấy
nửa tốt nửa xấu, cũng là khá phúc rồi. Hoặc 3,4 phần tốt; 6,7 phần xấu, cũng
còn hơn là mười phần hỏng cả, thì chẳng những đã không được hưởng
phước, mà còn bị họa lưu truyền!
Vậy dám khuyên rằng: về mô mả tiền nhân, độc giả chớ nên khinh thường.

61
1. Hình trên đây là:
A. Đại cán long ở giữa đi thẳng ra kết thuận cục, thu cả nước hai bên tả, hữu
đều đến tụ hội tại trước mặt, rồi mới tiêu đi ra ngoài, tức là thủy khẩu chẩy
đi.

B. Bên tả là đại chi long, phản bối không chầu hướng vào cán long, quay mặt
đi ra kết đại nghịch cục, tự thu được một bên đại thủy.
Một cái là trung-chi-cán long, cũng quay mặt đi ra kết hoành cục, chỉ thu
được hai bên tiểu thủy thôi.

C. Bên hữu là chi-trung-chi long, có hai cái đều không chầu vào cán long.
Một cái kết hoành cục, một cái kết nghịch cục đều là đại kết và quý. Còn mấy
cái sa kết, thì chầu vào cán long, nên chỉ là tiểu địa và không phát quý, chỉ
phát phú thôi.

2. Hình trên đây là:


Cán long hành chỉ có một cán long hùng cường một khu vực rộng lớn hơn
cục trên ( số 1). Cho nên chạy sang bên đông, quay về bên tây, lại quay về
phương đông. Rồi trở lại phương tây kết thuận cục, thu được cả hai bên thủy
chi huyền triền nhiễu, tụ hội diện tiền. Nghĩa là : nước quanh đi vòng lại
dàng dịt long thân, rồi tụ hội giao hợp với nhau ở trước mặt, là hợp cách đại
địa quý cách.

3. Tẩu, Thiểm, Quán độ hình  trên đây là:


A. Tẩu độ, không có Thiểm, Quán thì chưa thoát được hết sát khí, nên không
kết huyệt.

B. Thiểm Thiểm là thắt nhỏ hẹp lại, lún thấp xuống, rồi lại khởi đột lên cao
lớn, rồi lại đốn thấp quá giáp, rồi lại khởi đột lên, lại thiểm phục xuống lại
đột khởi cao, lại đốn thiểm xuống, lại đột cao lên, rồi quán điền ( là xuyên
qua ruộng, đồng bằng) rồi lại đột khởi kết cục. Đấy là đã mấy lần thoát hết
sát khí rồi, nên kết được huyệt tốt lành.

4. Chúng chi tinh xuất là đồ hình bên phải trên đây, ta thấy ba chi cùng một
Tổ sơn đi ra.
A. Chi giữa đáng lẽ chính cán thì hơn, nhưng vì ngắn và nhỏ hẹp, nên nhược
long, kém lực cả hai chi Tả và Hữu.

62
B. Chi bên Tả vừa dài vừa to, chiếm được dịa phương rộng lớn, vậy là hùng
cường hơn cả tức là đại long mạch.

C. Chi bên hữu cũng to rộng bằng bên tả, là đại long mạch tương đương với
chi Tả, tức là hai chi đều hùng cường hơn chi giữa. Nếu không hiểu được lực
lượng trọng, khinh, cứ cố chấp chi giữa là tôn quý, thì không phải là danh sư.

5. Huynh đệ long đồ hình trên đây, là hai chi cùng một Tổ-sơn đi ra, lực
lượng tương đương nhau, gọi là anh em. Nhưng hình thể cũng phản đối quay
đi, không chịu chầu hướng vào nhau.
A. Chi bên Tả quay mặt lại Tổ sơn kết nghịch cục, tức là hồi long cố tổ, thu
nghịch-thủy.
B. Chi bên Hữu thì thuận long, đi ngang ( gọi là hoành cục), thu hữu biên
thủy, tức là hoành thủy qua hợp với tiểu- thủy kết huyệt. Cả hai cục đều là
đại long mạch, quý cách.
6. Chi kết, sa kết đồ hình bên phải trên đây là “quý, tiện bất đồng” ( là sang,
hèn khác nhau).
A. Chi kết thì hay phát quý, vì chi kết phản bối, không chầu vào cán long, tự
kỷ biệt lập môn hộ ( riêng mình một giang sơn nhỏ, tự thu nước hai bên giới
hạn của nó).
B. Sa kết thì hẳn là phải chầu vào cán long, thu thủy cho cán long, mình chỉ
là nô sa của cán long, nên chỉ phát phú thôi, không có quý. Cũng ví như bọn
nô lệ tùy tòng, hộ vệ chủ nhân, thì chỉ hưởng của dư, nên giàu và làm gì còn
quý giá, dầu có thừa hưởng chức vị nhưng vẫn là gia nô, thuộc quyền ông
chủ chi phối!

Tổng luận long cục kiểu cách

Đất kết thúc to hay nhỏ dài hay ngắn, là do tự Tổ sơn, Cán long, Chi long và
thế cục. Thấy chỗ long sơn cao lớn, dài rộng trùng trùng điệp điệp là long
mạch hùng cường, thì đất phát phúc to và lâu bền nhiều đời kế tiếp. Nếu
long sơn thấp bé, ngắn hẹp và đơn thiểu là long mạch bạc nhược thì phát
phúc nhỏ và ít đời.
Còn như phát quý hay phát phúc, là do ở kiểu cách. Nếu là cán long hùng
hậu, mà không có kiểu cách hay, thì chỉ là phát đại phú, đa đinh thôi! Tuy là
chi long bạc nhược, nhung có kiểu cách hay cũng phát quý. Có sách nói: Sơn

63
chủ về phát quý, Thủy thì chủ về phát phú; nhưng đó là phân định nặng,
nhẹ, của Sơn, thủy thôi, chứ thực ra cả sơn và thủy đều là có phát phúc về
phú, quý cả. Tóm lại là: Thọ yểu, phú, quý, bần, tiện, đều là do ở sơn, thủy
địa mạch của cục đất ấy mà kết phát sinh ra, nên có câu: “ Giai do địa
mạch”.

Có nhiều cách hay lạ thì phát quý nhiều, có ít cách hay thí phát quý ít. Nếu
không có kiểu cách hay, thì chỉ phát đến “ phú gia địch quốc”, cũng không
phát công danh hiển hách, quyền quý cao quan; nếu có cũng chỉ là tước
phẩm thường thôi!

Về kiểu cách, thì tinh thần của sơn sa biến hóa vô cùng, không bút giấy nào
tả họa, hết được; đến cả kinh Ngọc – tủy của triết gia. Trương-tử-Vi chuyên
luận về hình kiểu, cụng không thể họa hết được.

Vậy nay cũng theo đúng kiểu của đồ hình đại khái, thuật lục ở dưới đây để
độc giả nhận xét và suy lượng, những cái chưa họa đủ, tư liệu, mà quán
thông linh định thêm, đại ý tựa như hình cái vật loại gì thì cho là cái ấy, để
có tên mà gọi cho cao quý thôi, chứ thực ra không phải tự có cái hình ấy mới
hay, cái hay là ở địa mạch trong cục đất, do Ngũ hành nhị khí Âm, Dương
hòa hợp thành quý khí ở trong mà phát đột thành hình tượng, hiện lộ những
cái kiểu hình kỳ mỹ ra ngoài.

Vậy, hễ thấy nhiều hình kỳ mỹ, thanh tú, nguy nga thì là đất phát quý nhiều.
Nhưng cũng không cần phải thuộc tên hình mới được, chỉ cần nhận xét là
long hành bác hoán, biến đổi nhiều lần trông mềm dẻo, đến chỗ kết cục loan
hoàn, triều bão vào huyệt sơn là chân long, chân huyệt, đích là quý địa và
bất cần phải nói đến hình , chỉ những thường nhân thì mới chú trọng đến
hình, chứ danh sư bất luận về hình như đã nói ở trên.
Dưới đây là bản đồ lược họa về long cục kiểu cách, xin trình bày để độc giả
tường lãm

64
65
 

66
67
68
69
 

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 6

70
Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 17:15 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Long Tổ


 Việt Hải

Long Tổ

Sinh khí trước hết là ở Long, Luận Long tiên yếu ở Tổ, vì Tổ là nguyên bản sinh khí, là nguồn
gốc biến hóa. Thấy tổ sơn cao nhọn như long lâu hoặc thăng bình như bảo điện, đều là đặc tôn,
xuất quan quý! Long sơn có tổ cũng như cây có gốc, gốc to thì cành lớn, tổ hậu thì thế mạnh; nếu
không thì thế phân phách, chỉ là long tùy tòng triển hộ.

Vậy thì, long quý hay tiện là tự ở tổ sơn; nên người xưa, về mùa xuân, mùa hạ, khi
tạnh mưa, ban đêm trông vận khí để xem long chính hay là tùy! Lại xem ở trên núi
cao, trong khoảng có cách quý như long lâu, bảo điện để phân biệt Thiên trì ( ao hay
vũng ở trên núi) để chứng tỏ long đại hay tiểu, vì chỗ khởi tổ sơn vượng khi phát
dương, xung lên trên là mây, hút xuống đúc lại là nước. Khí bốc lên hình như cái lọng
là chân khí, tản ra ngang núi là giả, không phải ở núi ấy phát xuất, mà là mây ở
ngoài.

Thiên trì, có hai cái ở hai bên khe long sơn là thượng cách, có một cái giáp một bên
là thứ cách. Nếu ao ấy vỡ lở, hoặc ngiêng dốc, khô cạn thì không tốt.
Tổ sơn của cán long thì mới hay có như thế. Tổ sơn của chi long thì chỉ lấy tinh
phong cao khởi thôi, không nên câu nệ là phải có như thế.

Tụ giảng – Tụ giảng là loạn thạch ( nhiều đá), lô nhô mọc cao ngất trên đỉnh núi,
hoặc nhọn đầu hoặc vuông, hoặc tròn quần tụ một chỗ, tựa như người tụ họp hội
nghị, đó là cái vượng khí ở chỗ khởi tổ chung đúc xuất hiện; nên ngũ hành tinh khí
đều thấy đủ cả, nhưng đại cán long tổ sơn thì mới có thế, tổ sơn của chi long thì
không hay có như thế.

Sau chỗ tụ giảng tản ra, phân phách giáng thế thì
sinh Ứng tinh.

71
Ứng tinh là chứng ứng của nhập thủ long. Ứng tinh là tinh phong gì, thì gọi tinh ấy
là hành long. Những tinh ấy hoặc nhọn như cái bút, cái măng mọc, hoặc tròn như cái
nồi, cái chõ úp, hoặc vuông như cái bình, cái kỷ v.v…Nhưng cái tinh ấy thì đều lấy
trung xuất ( ở giữa ra) làm thượng cách, bàng xuất ( ở bên ra) là thứ cách. Nhận kỹ
xem cái nào là lực trọng, cái nào lực khinh; cái trọng là chính, cái khinh là tùy tùng
triền hộ, nhưng lấy chỗ đỉnh, ngọn tổ sơn rủ xuống làm chính long, không nên câu
nệ là trung xuất.

Long, tuy lấy tả, hữu bình quân cân đối làm quý, nhưng cũng lại có chỗ như hình chữ
Đinh thiên xuống, mà cũng khai trướng trung xuất, không khác chỗ bình quân hạ lạc
( rủ xuống) nên phải nhận xét; nếu là đại long tinh đặc khởi, thì tuy là chi cước thiên
lệch nhưng cường thịnh cũng quý, như là cách Quyển liêm điện thức v.v…
Nếu long thể cô đơn, bạc nhược, thì tuy chi cước có bình quân cân đối cũng là tiện
( thường) như là cách Vân khí giả vậy.

Hình thể
Hình thể núi sông, long mạch ở trên trái đất, cũng tựa như hình cái cây lớn, từ gốc
đến thân cây. Phân ra cành lớn,cành nhỏ, nhánh to, nhánh bé, rườm rà muôn ngàn
chi phái, hình dạng khác nhau. Nên phải đặt tên để phân biệt, mà gọi là hình thì mới
dễ hiểu.
Đặt tên thì cũng phải dựa vào hình dạng loại vật mà định danh. Những danh từ thì lại
toàn là chữ nho, nên phải giải thích thì mới rõ ý nghĩa.
Vậy phải xem cả hình đồ họa đại khái, để nhận xét và suy lượng thêm, chứ không
thể diễn tả hết.

Long sơn Khiên liên

Thế nào là Khiên liên?


- Khiên liên là cái sơn thể liên tiếp, kế tục, không đứt ra cách quãng, hoặc hung
cường như ngựa chạy, hoặc đê bình hoặc như làn sóng lớn cuộn vươn đi. Lớn, thường
chạy từ tỉnh này qua quận khác; nhỏ thì nối tiếp làng nọ đến thôn kia. Nếu hình thô
ngạnh thì khí còn mạnh chưa rút thế, lui lực. Nếu đến chỗ đọan sơn tới giáp mà có
cát tinh, chi cước uyển chuyển là khí thuần, là khí trú, tất kết ở sau giáp. Nếu tới
giáp mà tinh thể thô ngoan, cước bãi ( chân ruỗi ra) là thế bôn, khí hành, thì tất là
kết ở chỗ trước giáp, long này là khí hung, thế tráng, dư khí rất nhiều, nên gọi là Yêu
lạc; câu: “ Đại địa đa tòng yêu lý lạc; hồi chuyển dư chi, tác quách thành” ( Nghĩa là:
Những cục đất to, phần nhiều là ở khỏang giữa rủ xuống, tức là như ở ngang lưng,
thắt eo lại rồi buông mạch xuống. Còn nhiều chi khác hồi chuyển, quay ra làm thành
quách cho địa cục). Lại nói: Nếu dư khí không đi dài được mấy chục dặm thì không
phải là đất Vương hầu. Ý nói là: tuy huyệt kết ở khỏang giữa long hành, nhưng long
sơn còn dài, đi mấy mươi dặm nữa, tức là long hùng cường còn dư khí nhiều, còn
nhiều huyệt tùy thì mới là đại địa, là chính huyệt Đế vương! Nếu ít huyệt tùy, thì
không phải là đại địa, chỉ “ Vi vương nhất quốc” thôi, không phải là đất “ Vi Đế vạn
bang”!

Cũng có chỗ khiên liên tán lạc, mà vô dư khí, đó là chi long tiểu kết, khí lực khinh
nhược. Câu chữ: “ Tiểu địa giai tùy đầu khí thu” ( Nghĩa là: long sơn đi cũng khiên
liên, nhưng đi đến chỗ cuối cùng rủ xuống kết huyệt, tức là tận long tthì khí thu lại,
không còn dư khí xuất ra làm long hổ, sơn sa hộ vệ, thành quách không có, tức là
tiểu địa).

72
Đoạn tục

Thế nào là đoạn tục?


- Đoạn tục là long thể thay hình đọan này, đổi thể nổi sang đoạn khác. Tức là đang
cao lớn rút bé lại, trầm xuống thấp, xuyên điền, độ thủy ( là xuyên xuống đồng
ruộng, hoặc luồn ngầm qua sông ngòi, lạch, vũng nước v.v…) mất tông tích, không
thấy. Phần nhiều là mạch dắt đi, trông như hình nhện nhả tơ, đứt quãng như vết
chân ngựa, hoặc như hình tượng dây tơ của cuống ngó sen đứt, kéo dài ra vẫn còn tơ
vướng, không đứt hẳn. Cái long hành này, tuy khác với cái khiên liên, nhưng đã bác
hoán, thuần thúy, thường chạy thẳng đến chỗ hết long mới kết, nên không còn có dư
khí. Vậy có câu: “ Thoái tá dũ đa, dũ hữu lực; giáp nhược đa thời, long dũng mãnh” !
( Nghĩa là biến đổi càng nhiều thì long càng khỏe, nhiều chỗ quá giáp thì long mạnh
lắm) ! Nhưng cần ở chỗ long nhập thủ, phải thành tinh thể và khai diện, có bão
huyệt, có thu khí, chứng ứng phân minh, mới là đích thực. Nếu đột khởi tinh thể mà
không khai diện, tản mà thu, thì không phải là long hành quá giáp ( mạch qua), tất
là Lộc tồn tinh đới Viên lộc thì là hộ tòng long, chứ không phải là viên vựng kết
huyệt.

Phấn thế

Thế nào là Phấn thế?


- Phấn thế là kết ở trước chỗ giáp, tức là long thế cứ dắt liền đi chưa thay đổi hình
thế, dứt quãng bác hoán khởi đột cát tinh, tức là kết chính huyệt.
Nếu chỗ ấy đột lên mà tựa như hình con ác điểu, chực đánh mổ gì, là trước thu lại,
sau phấn khởi như sắp nhẩy lên ( tức gọi là phấn thế), thì lấy một tiết quá giáp là
thực, dài thì là phân chi, chứ không phải là chính kết. Câu chữ: “ Giáp tiền nhất tiết,
trú chân long”! là nghĩa đó! Nhưng phải xem hai bên, sa thủy có quay đầu lại triều
bão làm hộ vệ, tụ hội kết cục thì mới là đích thực.
Nếu bên có, bên không, hoặc khứ, lai như quỷ kiếp ( là phản bối ngược ngạnh) thì là
phân phách ra để kết tiểu địa, chứ không phải là ngôi kết chính long.

Tụ khí

Thế nào là Tụ khí?


- Tụ khí là kết tụ ở sau chỗ giáp. Long thế Khiên liên, tới chỗ tụ khí, đốn khởi cát
tinh, là chân khí tụ trước, thì cái khí thô hùng chưa thoát hết. Quá giáp sơn thế
buông đi, làm hộ vệ triều hòan thành quách thì lấy chỗ dư khí hòan bão làm chân
đích, không triều bão là giả hình.
Câu chữ sách: “ Chỉ hữu chân long tọa giáp lý; loạn sơn tại ngoại khước vi triền”.
Nghĩa là : chỉ ở trong chỗ giáp mới là chân long, còn những sơn sa đi lung tung ở
ngòai chỗ giáp, đều là triền hội nghinh, tống long sơn. Nếu thấy đại thế hình như
chạy thẳng đi, minh đường không tụ hội, thì đâu có cát tinh, cũng chỉ là long tạm
ngưng thôi! Chứ không phải là chỗ kết huyệt, phải tinh ý nhận xét.

Phân chi

Thế nào là Phân chi?


- Phân chi là một cái cán long, phân ra nhiều chi long. Chi thì phân ra đằng trước, chi
thì về phía sau, hoặc về bên tả, bên hữu v.v…
Hễ thấy dài là phân chi, ngắn là phách mạch. Phân chi cũng như thân người, phân ra
hai tay hai chân, tức là tứ chi.
Từ hai, ba tiết đến mấy chục dặm, mấy trăm dặm không chừng, đều là phân chi cả.

73
Nhưng lấy ở chỗ trước giáp và sau giáp là thượng hạng, ở các chỗ khác là thứ hạng.
Chi nào dài, rộng là hung cường, quý. Chi nào ngắn, hẹp, nhỏ bé, yếu là tiện, hoặc
tù hãm thì hung!
Bất luận hình thế khiên kiên, hay đọan tục, đê bình hay cao khởi, cần phải đoan
chính đặc tôn, không tà thiên chầu hướng vào chi khác, thì mới là chủ long và có
nhiều tinh phong đặc tú chầu hướng hộ vệ, là kết đại địa. Phân chi có hai cách: Ở
phía trước hay phía sau thì gọi là Quyền vĩ, ở bên tả hay bên hữu thì gọi là Thư dực.

Thư dực

Thế nào là Thư dực?


- Thư dực là như con chim từ từ dương xòe cánh lượn, tức là phân chi để kết huyệt.
Thấy nghịch thế là thượng hạng, quý hơn thuận thế, cốt là được tinh thể tôn nghiêm,
long thể mềm dẻo hình như cành lá non trông ngoạn mục.
Sa, Thủy tụ tập riêng biệt một khu vực, tức là “ biệt lập môn hộ”, thấy phân trướng
giác như hình chữ Đinh ( T) là lực trọng, như hình chữ Cá (↑) là lực khinh. Phân chi
ngay ở trước hay sau, bên tả hay bên hữu chỗ giáp thì lực trọng; ở chỗ khác phân ra
là lực khinh. Long mạch phải được thế, được cục thì mới là tốt; nếu không thì dầu là
đinh tự cũng là giả hình, giả huyệt.

Quyển vỹ

Thế nào là Quyển vỹ?


- Quyển vỹ là hình thế long sơn đương thuận đi, bỗng trở mình quay nguợc lại; một
chi hoặc hai chi, như hình con thú vẫy quất đuôi, nên gọi là Quyển Vỹ; hoặc quất về
đằng sau, hoặc vắt về đằng trước để kết, cũng có cái quyển vỹ thu thuận thủy,
nhưng cần vựng thành tinh thể và khai diện; Sa, thủy phải tụ tập thì mới phải là kết
địa, đấy là cái vượng khí của long thân nghịch xuất, chớ bảo nó là tiện cách mà bỏ.
Sách có câu: “ Triều sơn nghịch chuyển, quan tinh thượng”, “ tiểu tắc tinh hình phân
biệt chi” là ý nghĩa đó; long này chỉ ngắn độ 2,3 tiết thôi, nếu ngắn quá thì là phách
mạch.

Phách mạch

Thế nào là Phách mạch?


- Phách mạch là bửa mạch ra, tựa hồ như thân người nẩy ra cái vú dài, ở trước hoặc
ở sau chỗ giáp, hoặc ở chính long thân khởi tinh phong phân tách ra, khai diện kết
huyệt. Chỉ lấy khoảng ngắn độ chừng nửa tiết hay một tiết là thực, nếu dài hơn thì là
phân chi. Cái phách mạch tuy ngắn, nhưng nó là cái vượng khí phụ cho cán long ở
chỗ đốn phục chuyển đi, triệt cái lực lượng vượng khí lại; nó khác với những chỗ
phân chi. Nhưng phải có cục, có thế thì mới là đại địa, cát huyệt; nếu không thì chỉ là
quải kết thôi.
Phách mạch có hai cách: Ở chỗ chuyển thân là Tập tránh, ở chỗ hồi long nghịch là
Chuyển thân.

Tập tránh

Thế nào là Tập tránh?


- Tập tránh là nói: Hình như ở chỗ cánh tay khùynh ra rồi gấp khuỷu quay lại, như là
long thế đương đi thẳng đến chỗ chuyển tập, biến thành tinh thể khai diện quải mạch
( là mạch đeo ở bên rìa, cạnh long sơn) để kết huyệt.
Cũng có ba cách: Hoành quải, Thuận quải và Nghịch quải. Nhưng cần ở đỉnh ngọn
tinh phong đoan chính rủ xuống, và có hạ sa thu khí mới là có kết huyệt.

74
Chuyển thân

Thế nào là Chuyển thân?


- Chuyển thân là ở chỗ long đương đi nó khuỳnh ra, chuyển mình quay ngược trở lại
để kết, chỉ ngắn độ khoảng nửa tiết hay một tiết thôi, cũng tương tự như Hộc khái
cách.
Tuy không phải là chính cách kết huyệt, nhưng nó nghịch chuyển, thì cũng khác hơn
với cái cách thuận lạc; nếu tinh thể khai diện rủ xuống kiêm được cả thế lẫn cục, thì
là thượng cách. Đấy chính là sơn hồi; sơn hồi thì có tùy sa nghinh tống quay về. Nếu
long thế không quay trở về, cứ thuận chuyển đi, thì là Tập tránh kết huyệt.

Quải kết
Quải kết thì lực lượng rất khinh nhược, tuy thân nó phụ thế cho cán long nhưng thực
không thu được cục, chỉ là nô sa tùy hành, phụ thuộc chỗ khác thôi. Vậy thì chỉ là
tiểu xảo địa.

Quá giáp

Thế nào là Quá giáp?


- Quá giáp là ở đoạn long sơn đương đi ngừng lại, phục xuống thấp, luồn qua sang
bên trước mặt, lại khởi lên tinh phong chuyển đi; ở khoảng phục thấp ấy gọi là Quá
giáp.

Có chỗ, ở hai bên tả, hữu giáp, đều có sơn sa nghinh tống, có chỗ thì một bên là
tống, một bên là nghinh; có chỗ thì xuyên xuống đồng ruộng, không trông thấy tông
tích ( tức là mất vết cuống long mạch) mà chỉ thấy long thể như là Thù ty, Mã tích;
có chỗ thì khiên liên bất đoạn, như hình Hạc tất, Phong yêu.
Nhưng lấy cái trung xuất quá mạch, là thượng hạng; những cái bàng xuất là thứ
hạng.

Ở chỗ cao sơn, đại giáp thì vượng khí, phân ra cả hai bên tả, hữu. Vậy cái thế chỗ
quá giáp phần nhiều là hùng cường, thuộc âm nên ít có kết tác, đến chỗ biến ra
dương là đã bác hoán thuần túy. Vậy ở chỗ quá giáp hay kết tác nhiều. Trong kinh có
câu: “ Cổ nhân tầm long, tầm đốn phục”! Vì chỗ đốn phục hay sinh ra nhiều hình thể,
hình thể tất sinh long; ở chỗ ấy hẳn là nơi tiểu quan cục, vì chỗ giáp là chỗ long nghỉ
lại, tức là thế ngừng; quá giáp là long bác hoán, nên ở chung quanh chỗ giáp hay có
nhiều kết tác. Gọi tên : Kỵ mã – Trảm quan – Bàn đảo v.v…

Thế vượng mà tác giáp, thì tinh thể đốn ở giáp tiền, gọi là Bàn đảo.
Khí tụ mà quá giáp, thì tinh phong khởi ở giáp hậu, gọi là Kỵ long.
Nếu ở chỗ giáp, mà tiền hậu đều khởi tinh phong, long tuy chưa đình ( ngừng) mà
khí tụ nhiều ở giữa chỗ giáp, thì gọi là Trảm quan.
Nhưng đều lấy những cái triều ứng hữu tình, ở gần ngay trước cửa huyệt và đường
khí tụ xúc ( tiểu minh đường liền với huyệt tinh) làm chứng tá, là có huyệt. Nếu giáp
mạch lãn hoãn vô lực ( tức là mạch yếu chậm) thì không tốt.
Giáp ở xế bên rìa long tích là dư khí.
Quá Giáp có nhiều sơn sa tùy hành, thì long nhập thủ có nhiều triền hộ, thì tốt; nếu
đơn độc, cô lộ thì xấu.

Giáp cao thì tụ khí ở trên, giáp thấp thì khí đúc kết ở dưới, giáp khoan ( rộng) thì
huyệt kết ở xa, giáp khẩn ( ngắn hẹp) thì huyệt kết ở gần. Quá giáp cần phải có sơn
sa già hộ ( ngăn che gió thổi); vậy có câu: “Sơn cốc yếu tàng phong”. Đấy là nói ở
miền sơn cương, chứ ở bình dương thì bất luận phong.

75
Kỵ long

Thế nào là Kỵ long?


- Kỵ long nghĩa là cưỡi long mạch; tức là kết huyệt ở giữa khoảng quá giáp, huyệt ở
trên long tích gọi là Kỵ long.
Kỵ long là cách quý lắm! Nhưng phải vựng thành tinh thể, đoan chính, tú nộn, có
khai diện; phải là hình chỉ, khí xúc, cũng như các chỗ khác thì mới phải là kết thực.
Có Thuận kỵ, Nghịch kỵ, Trực kỵ, Hoành kỵ, Đảo kỵ.
Thuận kỵ là long mạch thuận chuyển đi
Nghịch kỵ ------------- ngược trở lại tổ sơn
Trực kỵ -------------- đi thẳng
Hoành kỵ -------------- quay ngang ra hai bên
Đảo kỵ ------------- đảo ngược lại như là Nghịch kỵ, tức là Hồi long. Nhưng tất cả đều
là kết huyệt ở giữa, trên long tích mới gọi là Kỵ long, mà phải có lõm xuống ở trước
mặt, có tay long tay hổ, dầu ngắn, dài tùy theo hình lớn, nhỏ; nghĩa là phải có minh
đường và hai bên ôm vòng lại, tuy nước cạn nhưng khi mưa thì có nước đọng lại, mới
là kết huyệt; nếu trước mặt đột cao, thô ngạnh là giả hình, không có kết huyệt.
Ở chỗ tận sơn, cũng hay có kết Kỵ long như Ngưu hạng ( cổ trâu), Hạc đinh (đầu
hạc). Đại địa hay tiểu địa là do ở lực lượng khinh, trọng của thế cục.

Bàn đảo

Thế nào là Bàn đảo?


- Bàn đảo là cái biến thể của Kỵ long, kết ở giữa chỗ quá giáp. Tức là long hành quá
giáp rồi nghịch chuyển thành vòng tròn quay lại; cũng kiêm cả thuận kỵ và nghịch kỵ
v.v… Nhưng phải có tinh thể ngay ngắn, mạch từ đỉnh chỏm rủ xuống, lại có cái tinh
thể ở sau như ngửa mặt chầu vào, có khí từ đỉnh chỏm phân xuống, có khí từ cánh
tay liền suốt thông vào. Lấy cái sơn thế quay ngược trở lại, thì chẳng sợ long phân
đoạt đi.

Vậy Bàn đảo là phụ lực lượng cho cán long, nó cướp cái vượng khí ở ngay chỗ quá
giáp sơ khởi, nên phát phúc rất lâu bền. Nó khác với những cái phấn thế, nhưng
hiềm kết ở giữa giáp thì phần nhiều là đường khí bức bách, vì chất hẹp; nếu được cái
dương khí ở ngoài cùng ứng hợp thì là thượng cách! Trong kinh có câu: “ Nhất hồi
đốn phục, nhất phiên thân; nhất hồi chuyển hoán nhất hồi tân”! ( Nghĩa là: Mỗi lần
phục xuống quay về, là một biến chuyển long thân; mỗi lần chuyển mình biến thế, là
một hồi mới, tức là tương tự với cái hồi long cố tổ nên lực lượng mạnh lắm! Vậy có
câu: “ Vật vị hồi long vi lực bạc, phú quý vĩnh vô cùng”, chính là nghĩa đó.

Trảm quan

Thế nào là Trảm quan?


- Trảm quan nghĩa đen ( Trảm là chém, quan là cửa): Huyệt kết ngay ở giáp quan,
tức là cửa chỗ long quá giáp, huyệt ở đó là chặn mạch, nên gọi là Trảm quan.
Trảm quan chỉ ở chỗ giáp hậu là tốt nhất, giáp tiền thì mạch còn đi, ở giáp trung thì
mạch không hay đình trú. Vậy chỉ ở chỗ giáp hậu là đại long ngừng trú, có sơn sa
tiền nghinh, hậu tống; long đến đấy đứng ngừng lại triệt cái vượng khí, nên lực lượng
rất mạnh. Nhưng cần phải kết thành tinh thể và khai diện, có minh đường chứng tá
phân minh; nếu sa, thủy không tụ hội, nếu giáp thủy nghiêng, chẩy tuột đi hết, thì là
không vong chi địa, táng xuống thì bại huyệt!

76
Tóm tắt
Tất cả cách hành long, tinh thần hình thể biến hòa của sơn, pháp, đã diễn giải từ đầu
đến cuối, tuy đại lược nhưng tóm tắt lại hết thẩy, không ngoài những ý nghĩa căn
bản đó. Độc giả cứ đọc kỹ , nếu chỗ nào còn hồ nghi, chưa thấu đáo, thì xem bản đồ
hình mà nhận xét, suy ra, rồi đi đến mấy nơi cựu phần ( mộ cũ) đã kết phát, ứng
nghiệm, lưu truyền hiện tại, mà quan sát lại để mục đích, là thành công về tầm long,
tức là tầm huyệt hay tầm địa cũng là một nghĩa.
Không cần phải có thày nữa, nếu có trí óc và nhỡn lực thông minh, chịu suy xét; vì
thày ở trong quyển sách này rồi! Và Tiên sư đã bảo cho biết cách thực hành ở nơi cổ
phần rõ ràng rồi.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 1) - Bình Dương pháp tầm long


Việt Hải

Bình Dương pháp tầm long

Phương pháp tầm long ở miền Bình Dương , khác với miền Sơn cốc. Bởi vì cách hành
long ở hai miền khác nhau: Ở miền Sơn cốc thì long mạch phát nguyên từ Đại thái tổ sơn
sơ khởi, ở về phía Tây bắc địa cầu, cao hơn hết, rồi phân ra những dẫy núi cao đồ sộ ngất
trời; rộng, dài, muôn trùng, ngàn dặm, rồi mới dẫn xuống thấp ên mạch hành cương cấp,
đột khởi cao, đã kể rõ ở mục Sơn pháp.

 
Khi đã phục xuống thấp thì long mạch trầm ẩn khoan thư đi theo chiều thấp
là phía đông nam địa cầu, thì mặt đất đã bình tĩnh, thấp, không cao hơn mặt
biển lắm, nên gọi là miền Bình dương. Nhưng trong miền Bình dương, rộng
lớn, cũng có cao, thấp, chênh lệch nhau ít nhiều, nên cũng phân biệt ra làm
ba, bốn vùng như là: Vùng Cận sơn có nhiều đồi, núi thấp ở liền với miền Sơn
cốc ( núi cao); vùng Cao nguyên là vùng đồng bằng nhưng ở trên cao, liên
tiếp với miền Cận sơn; vùng Trung châu là vùng đồng bằng thấp hơn miền
Cao nguyên, lại còn vùng đồng lầy, nước đọng nữa, trong sách chữ Hán gọi
là Trạch quốc, Thủy hương, ở Trung Hoa có vùng rộng lớn, dài mấy trăm dặm
toàn là đồng nước quanh năm). Long mạch đương nổi cao dẫn dài đi, mà đốn
phục xuống tức là tản ra hoặc chìm xuống, nên đột khởi ít, phần nhiều là
không thấy long tích, bởi vì mạch chìm lặn, luồn qua cả đáy sông ngòi, đầm,
hồ rồi mới ngóc nhô lên, không biết ở tông sơn nào buông xuống; có chỗ dẫn
đi dài, có chỗ dẫn đi ngắn một đoạn đã phục xuống, không còn cuống mạch
có chỗ thì xuyên qua đồng ruộng, truyền góc ruộng này chuyển tới ruộng
kia, gọi là “ xuyên điền truyền giác”; có chỗ thì phẳng lặng, cách mấy trăm
thước mới thấy khởi lên mấy cái gò đống nhỏ hoặc mấy mảnh ruộng cao hơn
một chút, rồi lại mất dấu vết dẫn đi. Nên có câu: “ Mạch lạc Bình dương mạc

77
vấn tông; chỉ quan thủy nhiễu định chân long”. Nghĩa là: Mạch xuống đồng
bằng không cần hỏi tông tích; chỉ xem nước bao vây quấn quanh, mà định
long mạch thôi.

Vậy tìm đất ở những vùng đồng bằng đã kể trên, thì trước hết phải xem nước
ở phương nào lại, dẫn đi đến chỗ nào, gặp dòng nước khác giao hội, hợp
nhau tụ lại,tức là: “ mạch chỉ, thủy giao” thì ở trong vùng gần đấy mới có
huyệt.

Đại hà, đại giang, khê, tụ họp là đại địa; tiểu giang, khê, cừ v.v…là trung địa;
tiểu trì, tiểu điền, thiển thủy là tiểu địa. Tùy xem sơn thủy của cục thế dài,
rộng, ngắn, hẹp, nhiều ít mà định đoán lực lượng địa huyệt to, nhỏ.

Hình thể, tinh thần ( tinh phong) và kiểu cách thì cũng như ở miền sơn cốc,
chỉ khác là ở miền núi cao thì hình thể đứng cao, còn ở miền đồng bằng thì
hình thể nằm, thấp.

Hễ thấy chỗ nào có những khu ruộng, hoặc giải đất cao hơn hai bên, hoặc
dài, hoặc ngắn, gồ lên lún xuống, vòng ra ôm vào, quanh co, uốn khúc v.v…
tựa hồ như hình con rồng, con rắn hoạt động, chữ gọi là “ Hoạt long, Hoạt
xà” tức là Sinh long (mạch sống). Nếu hợp lại như thành quách rộng lớn, là
kết đại cục, thì có quý huyệt, đại địa, nếu thấy nhũng giải ruộng đất, tuy có
nổi cao, nhưng bằng phẳng, hoặc nằm đườn ra như con lươn, con trạch chết,
chữ gọi: “Tử thu Tử thiện” là Tử long ( mạch chết), thì không kết huyệt; nếu
có cũng chỉ là hung-huyệt, không nên dùng!

Hễ thấy chỗ nào có gò đống đột lên cao, hoặc thấp, hoặc to, hoặc nhỏ, nhiều
hay ít đều hay có huyệt kết; nếu có nhiều gò đống đột khởi thành thể ngũ
tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cao lớn và đắc phương vị thành kiểu cách, là
đại địa phát quý nhiều hơn phát phú, hay là văn nhiều hơn võ, v.v…Tùy từng
kiểu cách của Ngũ tinh và Cửu tinh ở bản đồ hình nhận xét mà phán đoán.
Vậy sách có câu: “ Thế thế liên khoa mục, do hồ long thượng khởi tinh
phong”.

Nghĩa là: đời này qua đời khác nối tiếp thi đỗ văn khoa, võ bảng là bởi có gò
đống ở trên long tích, long thân, tức là ở trên giải ruộng đất cao hoặc thấp.
Hễ thấy chỗ nào 1,2 hoặc 3,4 chi thủy khuất khúc từ xa chạy lại, tụ họp ở
minh đường, quyết nhiên vùng đó có đại quý, đại phú huyệt, nếu là đại thế
trường lưu, thu được nhiều nước là đại cục, đại địa. Tiểu khu, tiểu thủy, tức
là thu được ít nước thì là tiểu cục v.v.. Nhưng bất luận trường hay đoản, đại
hay tiểu, đa hay thiểu, đều phải hợp cách, đắc phương vị cũng như long sơn,
thì mới được là quý thủy ( nước hay).

Vậy có cậu phú, đối với câu kể trên:


“ Đại đại mãn khố sương, hệ thị trường trung trừ tú thủy”.
Nghĩa là: Đời đời có của chứa đầy kho, két, là vì có nhiều nước trong sạch lưu
tụ ở trong minh đường.
Hai câu phú đoán về sơn thủy trên đây, là đại ý nói về phần chủ yếu thôi , vì
sách có chữ: “Sơn chủ quý, thủy chủ phú”; chứ thực ra thì sơn thủy đều có
phát quý, phát phú cả nếu đắc phương vị và hợp cách.

Còn những nơi bình điền, khoáng dã chỉ thấy một làn bằng phẳng, không
phân cao thấp; hoặc có phân cao thấp những khu dài rộng, mà không đột

78
khởi gò đống, dầu thấp nhỏ; hoặc những thửa ruộng cao hơn ít nhiều ở trong
khu bình điền, bình địa ấy, thì là long mạch tán mạn, câu chữ gọi là: “Hình
như chỉ phiến; thản-nhược bì ngưu” (Nghĩa là: im lặng như tờ giấy, phẳng lì
như tấm da trâu), tức long mạch bạc nhược, thì không kết tác được, không
có kết huyệt, thì đừng đến tìm phí công.

Vậy có câu: “ Hữu bộc, phương tầm chủ; vô-thần, mạc-vấn-quân”! ( Nghĩa
là: Có thấy gia nô sẽ tìm chủ nhân; không thấy bầy-tôi thì đừng hỏi vua
chúa).
Bộc và thần ở đây là ám chỉ vào tinh phong; chủ và quân là ám chỉ vào
huyệt. Ý nghĩa bóng, là thấy tinh phong xuất hiện thì tìm huyệt; không thấy
gì khởi động, thì làm gì có huyệt mà tìm!
Nhưng có đột khởi cũng không sao mấy, phần nhiều là đê bình vi tiểu thường
chỉ cao hơn nhau một vài thước; có chỗ chỉ cao hơn một, hai tấc không
chừng! Vì long mạch đi chìm sâu, lại phân tản, không còn đại-tụ, nên không
cương-ngạnh cấp-bách, thì không đột khởi cao. Nhưng khí lực vẫn sung túc,
hùng hậu, vì đã chìm lặng mà còn khởi đột được là mạnh lắm! Nên sách địa
lý đã có câu quyết định:
“ Sơn cao thiên nhận, bất như bình địa nhất đôi”! Nghĩa là: “Núi cao ngàn
đợt, không bằng một đống ở nơi đất bằng”.
Nghe thấy câu so sánh như vậy, những ai chưa thấy thì cho là “ quá ư đại
ngôn”! Đâu có tin, nhưng ai đã được thấy thì mới công nhận là Thánh hiền
nói đúng.

Bằng chứng là, ở nước Việt Nam ta về vùng trung châu Bắc-Việt, đã từng có
nhiều tổ mộ xưa, ở nơi bình địa, chỉ thấy cái gò đống nhỏ, như hình Hỏa tinh,
Kim tinh, Thổ tinh gọi là bút bảng, ấn kiếm v.v…thế mà kết ứng, phát xuất
đến Trạng nguyên, tiến sĩ, anh hùng, dũng tướng, Đế vương, danh lừng thế
giới, không còn chối cãi được nữa!

Các hình tượng thuộc về tinh thể của Ngũ hành, đại khái cũng thế, chỉ khác
là một đằng thì rộng lớn, đột cao, là thể đứng; một đằng thì nhỏ hẹp, và đột
khởi thấp, là hình thể nằm. Cũng có chỗ tuy nhỏ hẹp, nhưng cũng đột cao
vừa tầm tương xứng, cũng là thể đứng như là hình giá bút, đốn cổ, sương
khố, quỹ phủ v.v.. thì cực là quý cách! Quả là ứng nghiệm hiển nhiên.
Đất ở miền bình dương thì hay kết tác vào những gò đống và những ruộng
cao, hoặc ở ruộng cao ít, liền với ruộng đất cao, hay là gần gò đống có dư khí
nhả ra.

Ở Bình dương thì mộ để trên gò, đống hoặc ruộng cao cũng không sợ phong
suy ( gió thổi), chỉ cần có nước tụ thôi; nếu có nước ở gần nơi kết huyệt thì
tốt lắm! Nhưng phải là nước loan hoàn ( ôm vào mộ) yên tĩnh, chứ không
nên gần nước phản vào mặt và lưu động ( chẩy mạnh) thì lại hỏng! Nên có
câu: “ Thủy để tu cầu tứ thế bức”; “ Bình dương bất phạ bát phong suy”!
Nghĩa là: Mộ để ở trong vùng nước, nên tìm chỗ có bốn bề cao, tức là để ở
những gò đống hoặc bãi ụ ở trong hồ, ao hay là đầm, vũng; vì ở đồng bằng là
cả một khu rộng lớn, bình thản đều nhau và đều thấp, nếu tám phương im
tịnh mà có một phương khởi phong ( nổi gió), thì gió ấy tản ra khắp cả chỗ
nào cũng có, sức gió như nhau, không có chỗ gió nặng, gió nhẹ, xiên thẳng
vào một chỗ mộ phần. Không như ở miền Sơn cốc, vì núi cao như ngọn tháp,
bờ thành vây quanh; nếu chỗ có, chỗ không, chỗ cao, chỗ thấp và huyệt lại ở
cao, mà có một hoặc hai phía không có núi che vây, là gió dồn cả vào một
luồng thổi rất mạnh, tức là ngọn gió lùa tuôn qua, thì khí tản đi hết, nên gọi

79
là “ phong suy xạ huyệt”, chẳng những không kết mà còn lãnh khí xung
quan, thì hài cốt tiêu tan, nên con cháu bị gia tán, nhân vong bần hàn bại
tuyệt! Nên có câu: “ Sơn cốc yếu tàng phong; Bình dương tu hàn thủy”.
Nghĩa là: Ở miền núi, cần phải kín gió; ở miền đồng bằng cần phải có nước
ngăn.

Vì ở miền Bình dương, mạch phần nhiều là tản ra cả một phiến đồng ruộng
rộng lớn, ít có chỗ thu gọn, nên chỗ nào có rạch nước hoặc giải ruộng đất
thấp chứa nước, thì mới trông thấy long tích, tức là giải ruộng đất cao hơn
hai bên, nếu không có nước hoặc giải ruộng thấp, chỉ lượng suy theo chiều
bóng, vết của mạch, xuyên điền, truyền giác, ẩn ẩn vi vi tức là náu ẩn, hơi
gợn một chút ít, gọi là “Thảo xà, hôi tuyến chi mạch” ( Nghĩa là như con rắn
luồn trong bãi cỏ ngắn ngọn lăn tăn, mới có vết động, hoặc như sợi dây tro
tàn đứt khúc nằm trên bãi bằng phẳng, có vết gợn lên tí chút mà tinh mắt
mới trông thấy). Có chỗ phải cúi áp xuống mặt đất, mới phân rõ được cao
thấp hơn nhau, để mà định lai long ( mạch lại).

Có chỗ mạch đi hình dạng như con nhện giăng tơ, hoặc như vết chân ngực
chạy, tên chữ: “ Thù ti, Mã tích”, là chỉ thấy có vài cái gò đống cách quãng
đột lên lổm nhổm thôi, chứ mặt đất vẫn phẳng lặng một mực như nhau.

Có chỗ mạch đi tựa hồ như cái ngó sen, bẻ gẫy từng khúc, rồi kéo ra mà vẫn
còn sợi tơ, dắt dài liền một chuỗi. Có chỗ thì mất hẳn, không thấy tí gì gợn,
không biết mạch đi về phía nào cả! Chỉ là một phiến bình điền rộng lớn, đến
chỗ gần nước mới thấy có mấy cái tinh thể, hoặc giải ruộng đất khởi đột lên
cao một chút, thì mới biết là mạch động.

Vậy chứng minh là: long mạch hành, ngộ thủy tắc chỉ, ( gặp nước thời đứng
lại) mạch chỉ, tắc thủy giao ( mạch đứng lại thì thủy giao nhau). Mạch chỉ,
thủy giao, thì khí mới tụ. Khí có tụ thì mới khởi vựng, có khởi vựng tức là kết
tác huyệt trường ở chỗ sơn vựng đó. Nên có câu: “Hữu đường tắc hữu huyệt;
Vô đường tắc vô huyệt”! Nghĩa là: Có tụ thủy ở minh đường thì mới có huyệt
không có minh đường tụ thủy thì không có huyệt, tuy mùa nắng khô cạn,
nhưng mùa mưa thì có nước đọng lại, mới phải là có minh đường.

Nên ở vùng Bình dương cần phải có nước tụ. Nhưng nước chẩy lại hội tụ,
phải hợp pháp thì mới là nước tốt, nước hay, thì mới phát phú, phát quý. Nếu
là nước xấu, là hoàng tuyền thủy lưu nhập thì không phát phúc mà còn phát
họa! Sẽ xem thủy pháp ở mục lập hướng, tiểu nạp, diễn tả sau.

Cả Âm phần và Dương trạch ở vùng Bình dương, đều nên phong quang. Dĩ
nhiên là phải có sơn sa hoàn bão, nhưng cần là tương xứng với phần mộ
thôi, chứ không nên cao quá và bức cận thì không tốt.

Ở Bình dương tọa không cũng được, chứ không cần phải có chẩm hậu hoặc
ruộng đất cao; nếu có thì cũng không nên cao quá huyệt sơn. Tất cả tiền án
và tả, hữu sơn sa cũng vậy, phải tương đương ngang nhau hoặc thấp hơn
huyệt thì mới tốt; nếu cao hơn thì phải xa ra, cao quá như núi thì phải ở
ngoài xa chầu vào, không áp bức mộ mới được. Sách có câu: “Án viễn triều
bất phạ xung thiên; Án cận huyệt đãn hiềm quá não”! Nghĩa là: Án như núi
cao ngất trời, nhưng ở đằng xa chầu vào mộ cũng không sợ, càng là tốt vì ở
xa thì càng cao, càng hay và càng đẹp; tức là cảnh thanh sơn tú lệ, viễn
triều, là thế cục trọng đại!

80
- Án ở gần huyệt chỉ sợ cao hơn đầu, túc là cao, mà ở ngoài trông không thấy
phần mộ.
Lại có câu: “ Triều sơn viễn, cận yếu tương đương; bất nghi chủ nhược đối
tân cường”! Nghĩa là: Những tinh phong sơn sa triều ứng hộ vệ ở chung
quanh, dầu xa hay gần, cần phải tương đương ngang nhau, không nên chủ
( huyệt sơn) thấp, yếu đối với khách ( triền sơn) cao, mạnh.
- Huyệt là chủ, sơn sa là khách ; chủ hơn khách thì mới hay, khách hơn chủ
là khách lấn chủ thì không tốt!
Chủ cường thịnh, thì khách mới tôn kính; nếu chủ suy nhược thì khách khinh
nhờn, là lẽ tất nhiên! Địa lý cũng như chân lý.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 7

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:19 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Tọa Khôn, hướng Mão


Việt Hải

Ở miền Bình dương cũng có nhiều đại địa, chứ không phải là chỉ ở miền sơn cương mới
có đại địa. Bàng chứng là ở Việt Nam ta, những mộ để ở vùng đồng bằng đã kết phát
Vương tướng, anh hùng, như mộ nhà Ngô ( Ngô Quyền), nhà Lý, nhà Trần đều ở vùng
đồng bằng cả. Và còn nhiều mộ phát Trạng nguyên, Tể tướng v.v…cũng ở miền Bình
dương.

Tọa khôn, hướng mão

Thế nào là Tọa Khôn, hướng Mão?


- Ở chỗ ngồi, đằng sau không khoáng, là không có núi non hoặc ruộng đất và
gò đống cao hơn, là Tọa không.
- Ở trước mặt, gần hoặc xa, có đồi núi cao hơn, gọi là Hướng mãn hay là
Triều Mãn cũng thế.
Âm phần và Dương trạch ở miền Bình dương tọa không, hướng mãn; hoặc
tọa không, hướng không cũng hay.Chỉ cần có thủy triều tụ, là chân long đích
huyệt; còn như sơn sa hoặc gó đống to lớn mà có thì càng hay, bằng không
thì vi đê ( thấp, nhỏ) cũng được tốt lành.

Ở miền Bình dương cũng có nhiều đại địa, chứ không phải là chỉ ở miền sơn
cương mới có đại địa. Bàng chứng là ở Việt Nam ta, những mộ để ở vùng

81
đồng bằng đã kết phát Vương tướng, anh hùng, như mộ nhà Ngô ( Ngô
Quyền), nhà Lý, nhà Trần đều ở vùng đồng bằng cả. Và còn nhiều mộ phát
Trạng nguyên, Tể tướng v.v…cũng ở miền Bình dương.

Đã có nhiều nơi hương thôn, có quý địa ở ngay cửa ngõ, đầu làng; đi qua lại
hàng ngày mà không biết. Khi có người ở xa đến để mộ, rồi mới biết là đất
hay! Thật là đúng với câu ca: “ Huyệt tại lộ-bàng, đãi tha hương đại tha
hương chi khách”!
Ở kinh Biến-Địa-Kiềm của Dương Công có bài thơ:

"Bình dương đại địa nhân bất thức!


Hoặc tại thủy biên, hoặc tại thạch;
Hoặc tại bình-điền, hoặc tại nê!
Hoặc tại sa châu, dữ đôi tích!
Thừa phong, khí tản, chủ nhân ly!
Thủy nhiễu la thành, phương thị cát!"

Nghĩa là:
- Ở miền Bình dương thường có đất quý, mà ít có người biết! Hoặc kết huyệt
ở chỗ cạnh nước, hoặc ở chỗ đá nổi lên. Hoặc ở ruộng, hoặc ở gò đống trong
vùng bùn lầy. Hoặc ở bãi cát nổi hay là bãi ụ, đồng đất bỏ hoang v.v..
- Nếu để vào chỗ bị gió thổi thì khí tàn, thì bị hao người, tán của! Hễ thấy có
nước bao, vòng quanh như thủy thành thì mới tốt.
Trong hai câu:Thừa phong và thủy nhiễu có ý nghĩa sâu rộng, hay lắm! Khác
với chữ Phong suy, ở miền sơn cốc. Nghĩa là ở miền Bình dương thì không
phải là lấy cái đột khởi cao hơn chung quanh là Thừa phong, mà lấy cái
không có Thuỷ nhiễu mới là Thừa phong!
Hễ có nước bao vây quanh là thu được khí, không bị “ Thừ phong khí tán”!
Nếu không có nước bao quanh để cản gió, thì là thừa phong. Nên có câu:
“Thủy khứ, tắc phong lai”; “ thủy lai, tắc phong khứ”! Nghĩa là: nước chẩy đi
hết thì gió lại; có nước chẩy lại tụ, thì gió phải đi.

Thí dụ: Như một khu ruộng đất cao hơn chung quanh, bốn bề là sông ngòi,
hoặc ruộng trũng thấp. Khi không có nước đọng, tức là lòng không, khô rỗng
thì gió tuôn đập vào suờn cao ấy; do đó khí tán đi. Nếu có nước đầy sông
ngòi, ruộng trũng ấy thì gió trượt qua trên mặt nước, cũng như mặt đất bằng
mà thoảng bay đi, tản khắp cả, chứ không luồn xuống xiên vào trong lòng
đất được. Thật là đúng lý, nếu không biết cứ theo như Sơn pháp mà bảo,
huyệt ở chỗ cao hơn là Thừa phong thì không phải. Đa số là nhầm lẫn như
vậy. Bởi vì vô thư cũng như vô truyền!

Bởi vì từ thủa các Tiên hiền, Tiên triết sơ khởi tìm ra môn Địa lý này, thì toàn
là khảo cứu kinh nghiệm về sơn pháp cả, sau mới viết ra sách. Tuy đã phổ
biến và kế tiếp những nhân vật cao siêu tham khảo, bổ khuyết thêm và viết
ra nhiều kinh sách về địa lý, nhưng vẫn chuyên chủ về sơn pháp cả. Kể hàng
chục thế kỷ sau, ở miền Bình dương cũng theo như phép táng ở miền sơn
cốc. Có chỗ thì linh ứng, cũng có cái không thấy thần diệu nên đâm ra hoài
nghi: vì hình thế sơn xuyên khác nhau, có huyệt hau mà không biết. Vì cứ cố
chấp như sách vậy, sau mới suy xét, và du lịch các địa phương để nghiên cứu
địa lý về miền Bình dương; rồi mới canh cải, châm chước táng pháp, hội kiến
thảo luận chí lý rồi thi hành để thí nghiệm. Được thấy kết quả linh ứng kết
phát rồi, mới công nhận là đích xác, vừa làm vừa viết sách, nghiên cứu đến
đâu thì viết đến đấy. Cứ lần lần từng đoạn một, trao chuyển với nhau để xác

82
định, gom góp lại nhưng chưa đủ lập thành toàn bộ, để phổ biến, toàn là bản
viết tay, sao lại với nhau, coi như là bí thư vô truyền, nên ít người biết; từ ở
Trung quốc trước kia rồi, huống chi ngoại quốc, thì làm sao mà có sách để
biết được! Mãi đến triều đại Mãn thanh, Khang hy năm thứ 26, là năm đinh
Mão thì Diệp cửu Thăng tiên sinh, mới sưu tầm đầy đủ rồi xuất bản, nhưng
cũng chưa phổ biến. Chỉ có những nhà địa lý chuyên môn, chuyên nghiệp thì
mới biết và mua được sách, còn ngoài ra những người hiểu địa đạo lắm, chịu
tìm tòi thì mới có, và phần nhiều là bản sao lại! Mãi gần đây, chừng vài thế
kỷ mới có sách phổ biến ra các nước.

Hiện nay, ở Việt Nam ta cũng có, nhiều bộ sách Địa lý về Sơn pháp cổ truyền,
mà các cụ đồ cũng vẫn áp dụng về Bình Dương, cứ cố chấp là địa lý đều thế
cả. Sơn cốc cũng như Bình dương, thì thật là khuyết điểm! Không được biết
hoàn toàn về địa đạo, mà còn chống đối, cho là ngụy biện, giả thư! Cũng là
bởi không có sách và ít suy xét, không quảng kiến hay không được gặp thấy,
gặp bạn quảng giao, cứ khư khư độc ý tự hào, tự cao, tự đại, không chịu
phục thiện, thì không những hại cho người khác mà còn hại cả cho mình, thì
đáng chê trách thay!

Nay tôi ( soạn giả) xin trích mấy đoạn ở sách Bình dương, của các Tiền triết;
đã diễn tả, giải thích và lấy những Tổ-mộ, Thần-tử Lăng miếu linh nghiệm,
hữu danh của địa phương ở Trung Hoa, để làm chứng minh bằng cớ tự xưa,
cho các độc giả rõ thêm như sau:

Trích lục nguyên văn

1. – Thiên hạ châu thành trú hướng không!

"Hà tằng xanh trú hậu đầu long!


Kim nhân bất hợp cổ nhân pháp
Thùy đạo hậu đầu vô hảo phong!
Châu huyện nhân gia, nhược phạ thử
Thiên môn, vạn hộ, chẩm sinh dong?
Vô minh kiến giả, sinh nghi hoặc!
Bất hạ không long, hạ tử long!
Tử long tằng tự không long hoạt
Long động chi thời thiên địa khoát
Bất tín thả khan châu huyện trường
Tân thị không long, hoạt bát bát!
Đàm châu ( trường sa phủ) phương viên bát thập lý
Thập vạn nhân gia trú hướng tây,
Bất nhiên, dã khứ thảo đa long
Sở dĩ nan ngôn! Không xứ không!
Hàng châu tại Hồi, tứ thập lý
Nam sơn kháo tại Tây hồ vĩ
Gia gia không trú hướng Tiền đường
Bất tín long tòng hà xứ khởi!"

Giải nghĩa
- Những nơi châu thành, thành thị, trong thiên hạ đều ở chỗ tọa không,
hướng không.
- Đâu có phải cứ theo: ở đằng sau đầu có sơn cao!

83
- Người đời nay không hợp với phương pháp đời xưa.
- Ai bảo đằng sau đầu có sơn cao không tốt!
- Những người ở nơi thành thị, nếu sợ như thế.
- Thì hàng trăm ngàn nhà, phố, ở vào đâu mà sống?
- Không nhìn thấy rõ, thì đâm ra hoang mang , nghi hoặc.
- Chẳng đặt ở chỗ không long, thì đặt ở chổ tử long!
- Tử long cũng tương tự như không long, hoạt lắm!
- Lúc nào long động thì chuyển cả một vùng trời đất rộng!
- Chẳng tin thì đến những nơi đô thị mà xem!
- Hầu hết ở chỗ không long, mà phát đạt phơi phới!
- Ở Đàm Châu ( phủ Trường sa) rộng vuộng 80 dặm.
- Hàng trăm ngàn nhà, hết thẩy là hướng Tây.
- Chẳng phải thì đi đến các nơi xem!
- Khó mà nói là: không có chỗ nào là không phải thế!
- Hàng châu ở xứ hồi, rộng 40 dặm.
- Giải Nam sơn dựa vào cuối cái Tây hồ.
- Hết thẩy các nhà đều tọa không, hướng về phía Tiền đường.
- Chẳng tin là long mạch khởi từ đâu đến nữa!

Trên đây là chỗ biết cả hai cái Âm phần và Dương trạch đều thông một lẽ,
thấy Dương có thể suy ra âm! Vậy lấy phép dùng không mà bảo cho người ta
biết rõ:
So sánh về Dương Trạch, thì không nơi nào rộng lớn bằng nơi Châu Thành,
mà nhà ở Châu Thành thì đều là tọa không, hướng mãn, mà nhân, vật phồn
thịnh, tiền của tụ tập! đấy là một cái kinh nghiệm rõ rệt.

Người, khi sống, nhà ở đã tọa không; lúc chết phần mộ cũng lại tọa không,
mà con cháu vẫn hay! Vậy thì sao khỏi phàn nàn cho những người, không
hay lấy Dương mà suy Âm được! Nếu chỉ tin ở Sơn pháp, là tọa thực triều hư,
mà nghi ở Bình dương tọa không hướng mãn, cứ cố chấp là ở Bình dương
phải dựa vào chỗ thực ( chỗ cao).

Có biết đâu là: Sơn cốc thuộc Âm, khí cần thu vào! Bình dương thuộc dương,
khí cần nên mở ra! Cho nên chỗ Thực là tử, chỗ Hư (không) là sinh. Vậy
không nên dựa vào chỗ Thực ( chỗ cao). Hai chữ Tử Long, là chỉ dẫn rõ cái
diệu lý của thiên địa là như vậy; chính là cái lý khí của trời đất, chẳng qua là
cái Thực và cái Không mà thôi, cái Thực là địa, cái Không là thiên.

Ông Hồ An Quốc nhà Tống, nói: Hết thẩy ở trên trái đất, nhưng chỗ Không là
trời.
Vậy một cái núi khởi cao lên, là Đất lên nhập hợp với Trời. Một cái sông
( hoặc cái hồ, ao) lõm xuống, là Trời xuống nhập hợp với Đất. Người đời chỉ
thấy những Không thôi, chẳng biết là Trời cho nên chẳng hiểu là trong chỗ
Không có Khí, cái Không Khí ấy là Long. Có biết đâu, là hai cái Thực và
Không vẫn một cái khí lưu thông, xuyên suốt cả! Ở cái Không, thì vô hình là
Dương; ở cái Thực, thì hữu chất là Âm. Cực thượng ( trên rất cao) là Sương
hiệu ( trời xanh); Cực hạ ( dưới rất thấp) là Hoàng tuyền ( suối vàng) không
chỗ nào là không đầy đặc! Vậy đều không kết huyệt ở cả hai nơi ấy là bởi chỉ
có một thứ khí thôi, không được Âm Dương giao kết! Vậy thì phải có cái
Không ôm cái Thực, cái Thực ôm cái Không thì mới hợp thành một cái vòng
Thái cực, thì mới là Âm Dương giao kết, làm cho có long hoạt động; tức là
Âm và Dương hợp lại mà kết thành một huyệt.

84
Một nửa Thực, khí có đi, lại và dừng ở lại mà làm thành long.
Một nửa Không, Khí cũng có đi, lại và dừng ở lại mà làm thành long. Nhưng
cái Thực long thì mọi người đều biết, còn cái Không long thì người người khó
hiểu, nên mới phải diễn giải chỉ rõ cho như vậy.
Một chỗ Không, với tất cả cái Đại không đều thông với nhau; hễ một chỗ
động thì tất cả đều động.Nên có câu: “ Long động chi thời thiên địa khoát” là
nghĩa thế.
Ví dầu chẳng tin cái hay của Không long; thì đến xem các nơi thành thị như
Đàm châu, Hàng châu đều tọa không, hướng thực mà Không long hoạt bát.
Có bằng cớ đích xác thì sao được chấp nhất là Tử long như những người
không hiểu?
Về vấn đề Không long này, nếu không có Dương công thì đời chẳng hay biết
và cũng chẳng hay đàm luận!

Đấy chính là cái diệu dụng thiên địa, chẳng qua là ở cái Âm, Dương giao cấu
thôi. Chỗ núi khởi cao lên là Âm giao Dương; chỗ Không hãm lõm xuống là
Dương giao Âm. Núi cao thì bốn bên nhiều Không, nên cần phải có Thực; vậy
bên tả, bên hữu và đằng sau nên có sơn bao bọc thì mới tốt. Đất thấp thì cái
Không vào đất ít, vậy bên tả, bên hữu và phía sau , cần phải thấp và quang
đãng thì mới hay; đó là lý tự nhiên.

Ở Bình Dương là một phiến đất rộng lớn, bằng phẳng phô bầy; nếu không có
Không giới ( ranh giới không khí) thì là “ Dương bất giao Âm” , là Tử thổ
( đất chết). Vậy ở Bình dương phải lấy Không giới làm hoạt bát, đất có Không
giới ( chỗ thấp xuống thì tất nhiên là thủy nhập)

Về sau, nhân có cái Thủy Long Thuyết làm lập luận để đối đãi với Sơn long;
vậy nói Thủy long, không trái với ý nghĩa Không long. Mà xét thì không thấy
có cái Không long, vì không có tì tích gì, vậy là thế nào?

- Ở Bình dương , có một chỗ cao là có một cái Không giới, tức là thành huyệt
ma thủy thường khô cạn. Lại có chỗ đất cao thành địa cục, bốn mặt là bình
điền mà cũng chẳng gần thủy. Chỉ lấy cái Không mà nói là long, thời cái
Không ở chỗ có thủy và cái Không ở chỗ không có thủy, hai cái lý ấy đều
không ngại cả. Đây là lý thuyết của Dương công, đời không thể kịp được như
vậy.

2. – Thế nhân đa hữu trú không long

"Long tại không thời tổng hữu công!


Bối hậu thủy tòng sinh vượng khởi,
Nhi tôn thế đại bất giao cùng."

Nghĩa là:
Người đời từng ở chỗ Không long
Long ở nơi không đều có công
Thủy tự sau đầu sinh, vượng hợp
Đời đời con cháu được hanh thông.
Trên đây nói: Những nhà ở hoặc phần mộ ở nơi bình địa, không khoáng mà
được nước ở phương sinh, vượng chẩy lại tụ hợp ở đằng sau thì là rất tốt. Vì
địa lấy thủy làm dụng thần, nếu tiêu nạp hợp pháp ( tức là đặt địa bàn hay la
kinh, ở giữa chỗ thủy tụ nơi sau đầu chiếu xem thấy nước ở phương Trường
sinh, Đế vượng chẩy lại, thì còn hay hơn là tụ ở đằng trước mặt; vì huyệt hậu

85
là chủ, huyệt tiền là khách; khách hay, sao bằng chủ hay? Người đời phần đa
số là chỉ biết triều thủy, chớ không biết tọa thủy là như thế nào cả!

3. – Nhân ngôn trắc bối, thì Hoàng tuyền

"Ngộ liễu, nhân gia vạn vạn thiên!


Bất tín đãn tòng tiên tích nghiệm
Hậu đầu xung thủy , xuất thần tiên.
Ngưỡng sơn nam nhạc miếu long kỵ ( cơ),
Thế thượng thời Sư ná đắc tri!
Chỉ vị thủy xung long bối tích,
Tứ phương triều bái bất tằng ly!"

Nghĩa là:
- Người đời nói, nước chẩy xông vào ở bên cạnh sau đấu là Hoàng truyền.
- Kể có muôn ngàn người nhầm như vậy!
- Không tin, thì hãy theo Tiên tích mà nghiệm.
- Nước xung vào sau đầu, đã phát Thần tiên!
- Đến xem cái long tích của ngôi miếu ở núi Nam nhạc thì biết.
- Các thời sư xưa nay, có mấy ai rõ đâu!
- Chỉ vị có thủy xung long bối-tích ( nước chẩy ở sau đầu).
- Nên khách bốn phương đến chiêm bái đông đảo.
Trên đây là nhân thấy người đời không biết phép tọa thủy; nên đem chứng
cớ ra dẫn bảo cho biết thủy xung ở đằng sau là cách hay.
Vì người đời thường nói; ở sau đầu có nước xung nhập là hoàng tuyền, thì
xấu; nên không dám dựa ( gối đấu) vào nước mà tác huyệt. Có biết đâu, là
các Tiên, Thánh xưa lấy cách thủy xung hậu đầu là phát được Dị-nhân, Kỳ-sĩ!
Như ngôi miếu Nam- nhạc ở Hàng Châu, thủy xung bối tích; nên đất phát có
nhiều người đến chiêm bái, tức là ngôi Thần miếu ấy được đất hay, sau mới
uy linh hiển hách như vậy.
Người đời thấy huyệt tọa hoành thủy, mà còn sợ; huống chi là trực thủy
xung lai, là cái sợ to lớn, vì cái sức xung thủy còn mạnh hơn cái hoành thủy
nhiều lắm!

4. - Thiên hạ giang-tâm dữ hải-tâm

"Quân sơn thường tại giám trung hàng.


Quất-châu thủy-lục, Quân sơn tự,
Cánh hữu công-an dữ Động-đình.
Nhạn phong, Thạch cổ, Chu lăng tự
Hạ hữu Sương lang khả trạc anh.
Nhân-kiệt, địa-linh do tú-khí;
Phát cao thỉnh cử chiếm khoa-danh.
Đỗ-Phủ, Lư-Đồng, Lý-Bạch tổ,
Hậu đầu tận dĩ thủy vi lân.
Thử nhân bất tỉ, phàm lưu bối
Tận thị kinh-thiên, động-địa nhân!"

Giải nghĩa theo ý-tự, ngắn gọn của câu chữ:


- Ở trong thiên hạ này, chỉ trừ chỗ giữa lòng sông và lòng biển thôi ( vì
không kết huyệt)
- Núi Quân sơn ở giữa nước, tựa như giữa cái gương

86
- Ở Quất-châu thì chùa Thủy-lục, Quân-sơn
- Lại có như là: chùa Công-an và Động-đình
- Chùa Chu-lăng, Thạch-cổ, núi Nhạn-phong
- Phía dưới có sông Sương lang, nước trong giặt mũ được.
- Nhiều tú khí, nên đất thiêng sinh ra người giỏi.
- Phát xuất nhân tài chiếm được khôi danh, cao bảng.
- Như mộ tổ nhà Đỗ Phủ, Lý Bạch.
- Đằng sau đầu đều lấy nước làm lân cận cả.
- Những người ấy không thể ví vào hạng phàm nhân.
- Đều là nhũng người nổi tiếng vang trời, lừng đất!
Bài thơ trên, là chủ ý đem những danh địa tọa không ở miền Bình dương, để
chứng minh cho những người không hiểu, không dám đặt âm phần hay
dương trạch tọa không, tọa thủy thì hãy đi mà xem những nơi: Chùa Quân
Sơn ở giữa hồ Động Đình, chùa Kim Sơn ở giữa Chấn Giang; Động đình sơn ở
giữa Thái hồ; ở Kinh châu thì chùa Công an; ở Hàng châu thì chùa Nhạn
phong, Thạch cổ; đều là “lâm thủy thành địa” ( tới chỗ nước kết huyệt) mà
xuất phát danh nhân cao quý thế!

Vậy thì, cái thủy phát phúc không khác gì cái Sơn, ở giữa vùng nước còn hay
kết tác, thì ở gần nước còn nghi hoặc gì nữa!
Mấy cái bằng chứng vừa kể trên, là ở nước Trung Hoa. Còm ở Việt Nam cũng
thấy có nhiều chỗ như thế. Tôi ( soạn giả) cũng xin kể mấy cái, hẳn đã nhiều
người biết tới, thật là điển hình để độc giả nhận xét:

A. – Ngôi đền của đức Trần Hưng Đạo, ở gần chân núi Vạn Kiếp thuộc huyện
Chi Linh, tỉnh Hải Dương miền Bắc Việt. Trước là ngôi Dương Trạch ( Biệt
thự) của Ngài ấy. Khi Ngài từ trần, thì là ngôi đền thờ, do Ngài lập sẵn.
Ngôi đền này, cũng ở trên một bãi đất đột thấp giữa khu đồng nước trũng,
xung quanh và trước, sau đều là nước liền giáp với cạnh tường đền, lưu hãm
kinh niên và cũng là nước xung hậu đầu vì khi mùa mưa, ở trên dẫy núi đằng
sau đầu đổ xuống; tức là thủy xung bối tích, rồi mới tràn xuống sông lớn ở
trước mặt, gần đến, cũng là tọa không, hướng không. Ở mãi xa chừng 10
dặm, mới có sơn cao chầu lại tác án. Chỉ có dãy núi vòng cong ôm lại, tò ra
bên tả, bên hữu nhưng cũng cách một khoảng nước bao bọc quanh đền, ở
phía đằng sau; rồi mới đến núi cao.

B. – Ngôi chùa Trấn quốc ở trong hồ Tây xung quanh là nước mông mênh;
phải làm đường bắc cầu mới đi vào được. Trước kia, còn phải đi thuyền, và
gần đấy, cũng có một ngôi ở liền hồ Tây và bên cạnh hồ Trúc bạch, gọi là đền
Quan thánh cũng tọa không, hướng không cả.

C. – Ngôi đền Ngọc sơn ở trong hồ Hoàn Kiếm, giữa cố đô Hà Nội cũng tọa
không.

D. – Ngôi đền Phủ Dầy ở huyện Vũ Bản, Nam Định cũng tọa không v.v….
Tất cả mấy ngôi đền kể trên, đều tọa không mà khách thập phương đến
chiêm bái đời đời không dứt! Cũng không khác gì những ngôi đền từ ở Trung
Hoa.

E. – Ngôi âm phần, mộ tổ của nhà họ Nguyễn ở làng Kim Đôi huyện Võ


Giảng, tỉnh Bắc Ninh cũng tọa không, ở trên một giải đất bằng, nhỏ, hẹp,
nằm liền, bên bờ sông Nguyệt Đức ( tức sông Cầu) dài mấy tỉnh, rộng và
sâu. Ở đằng sau đầu, tức là đại thủy hoành đầu; đằng trước liền giáp ngòi

87
tào khê, cửa nước tiêu của vùng ba huyện. Chỉ cách mộ độ 10 thước, là đến
nước, rõ ràng là tứ vi thủy nhiễu, cận huyệt, mà kết phát kế thế cao khoa
mười tám (18) Tiến sĩ đồng triều, về đời nhà Trần và Hậu Lê! Đến đời nhà
Nguyễn Gia Long thuộc Pháp, vì bị đắp con đường đê ở sau, gần mộ độ 10
thước và xẻ cống đứt cuống mạch mà thấy họa ngay! Mấy người thanh niên
mới đổ Cử nhân, đương tấn tới, thế mà bị bệnh thổ huyết chết cả, thế là hết
phát!

F. – Ngôi mộ nhà họ Nguyễn ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc
Ninh, để trên cái Thổ tinh vuông thấp, đột lên ở trên phiến đồng ruộng cao,
xung quanh là rộng trũng và ngòi nước bao quanh ở ngoài, cũng là tọa
không. Thế mà phát nhân tài cả văn và võ, làm đến Quận công khai quốc
v.v…

Còn nhiều ngôi đại quý địa khác ở miền Bình dương cũng tọa không, như đất
nhà Hậu Lý ( Lý Công Uẩn) ở Bắc Ninh, nhà Trần ( Trần Thủ Độ) ở Nam Định
v.v… cũng đều tọa không mà phát đến Khôi nguyên, Hùng tướng, Đế vương!
Như vậy thì hai câu: “Bình dương tu dụng thủy”; “ Bình địa bất luận phong”
thật là Thánh hiền dạy không sai!

5. - "Tứ bạn đoàn đoàn tủy nhiễu ốc


Ư trung hữu huyệt, thực thiên lộc"

Nghĩa là:
Bốn bề thủy tụ vòng quanh,
Ở trong có huyệt, phước lành trời ban!
Đây là nói: Kết huyệt ở trong vùng nước, phần nhiều là quý địa-cục, đời nay
nhiều người thấy chỗ có một cái gò đống, đột ở giữa vùng nước bảo là không
mạch lai, vì không được thấy ở vùng Bình dương, tỉnh Giang Nam: Chiều dài
không được 10 dặm, rộng không được ngàn mẫu, thì đất nào mà không ở
trong vùng nước, mà đinh-tài phồn-thịnh như thế!
Vậy thì lấy cái hình tượng lớn mà nói, thì cái nhỏ có thể mà biết được.

Thí dụ: Như Đại-dư ( là trái đất) ở trong, bao bọc ở ngoài là trời, nửa trên là
không khí, nửa dưới liền với không khí là nước. Cho nên, bốn bề vây quanh
vòng tròn trái đất đều là nước.

Cái Thiên thể ở ngoài thì động, cái Địa thể ở trong thì tĩnh, hai vật cũng
nương tựa nhau mà không liên lạc nhau. Đấy là cả khối đất lớn, vốn là tự
nhiên, mà không phải lai mạch ( nghĩa là tự nhiên có đầy đủ khí mạch rồi,
còn phải khí mạch ở đâu lại nữa!). Chứ sao được bảo là không có khí, không
có mạch lai trái đất!
Vậy địa vốn là vô khí, mà cái địa khí tức là thiên khí đó! Thiên, địa vẫn cùng
là một khí lưu thông thôi! Nên cả một cái đại khối bất tất hữu mạch mà tự
hữu khí.

Vậy lấy địa mạch mà bàn: Như núi Côn lôn đột khởi cao ở giữa trái đất, như
cái chỏm ở trên đỉnh cái lọng, mạch tự đấy phân tán ra khắp nơi cả bốn
phương đều nối liền với nhau, không có chỗ nào rời đứt cả. Nhưng mạch đi
có chỗ khởi, có chỗ phục, nên có cái cao, cái thấp. Cái cao thì hiện trên mặt
nước, cái thấp thì chìm dưới đáy nước, người thì chỉ theo nước mà xem tưởng
như là đoạn tuyệt . Nhưng thực ra thì tất cả các nước trong hoàn cầu đều
liền thành một tấm rộng lớn; mà địa điểm của Trung Hoa đứng, vào giữa, thì

88
sao lại có thể riêng một, mà không có mạch liên tiếp được?

Họ Quách nói: Giới thủy tắc chỉ, ấy là nói cái thủy của giới khí ở chỗ kết
huyệt thôi, vì không có giới thủy ở ngoài làm ranh giới, thì cái nội khí nó tản
vào trong đất rộng lớn. Vậy có cái thủy làm giới hạn, thời khí tụ lại, không có
thủy giới thì khí tản chứ không phải là nói cái đại thủy. Nên kinh Huyền cơ có
nói: Mạch chỉ, là cái tiểu giới. Mạch quá, là cái đại giới ( cái sông lớn). Nghĩa
là: Cái tiểu thủy không là làm cái ranh giới cho mạch nó phải đứng lại; đó là
cái mạch tự nó đứng lại thôi!Đến như cái đại giang, đại hà, là cái đại ranh
giới để hãn mạch, mà mạch nó còn đi luồn qua được, thì mới biết là cái sức
mạnh của long mạch rất mạnh! Nên có câu: “ Long quá thiên giang, bất quá
nhát đường dã”. Nghĩa là : Long mạch đi qua ngàn cái sông, chứ chẳng phải
là chỉ qua một cái minh đường vậy! Biết như vậy, thì còn ngờ gì ở Bình dương
không có mạch nữa!

Sách Địa lý Bình dương pháp này, do ông Mịch giảng sư là người ở xứ
Nguyên Bình Tứ Minh. Nhân công được am hiểu sâu rộng về Bình dương
pháp, của Dương Công và Lưu Công. Đặt huyệt rồi mới viết sách, để lưu
truyền cho đời. Nên người thời nay, chỉ thấy có một sách nói về Bình dương
pháp, cho là biệt pháp về phái Mịch sư nên tự hào nói là ta được Mịch sư bí
mật truyền cho!

Nếu cho là Mịch sư tự khai sáng ra một môn này, thế thì người đó không
được biết: Ở nước Tấn còn có kinh Thủy Kiềm của Quách Thị và Biến Địa
Kiềm của Dương Công. Ở nước Tống có Bình Dương huyệt pháp của Lưu Thị.

Ông Mịch sư chẳng qua chỉ là học được phép, rồi ghi chép góp lại mà viết
thành sách đấy thôi! Chứ không phải là tự khai sáng ra được Dị thuật. Nay
người nào bảo Bình dương pháp là riêng môn phái cỉa Mịch giảng sư, thì hãy
cấp tốc tìm sách của Chư Công mà đọc đi!

Họ Nghi Tháo nói: Ta được thấy trong Thiên thấu địa xuyên sơn ở Bình
dương, là địa chi thủ cung, Thiên can gia lâm , mà sau biết ra cái Ngũ hành
của Lục giáp.

Nhân biết là: Địa thì lấy hình mà thụ thiên khí; Thiên thì lấy khí mà quán địa
hình. Cái hình thì tĩnh mà thực, cái khí thì động mà không. Cái thực mà
chẳng có cái không, thì đâu có phát sinh được. Ngược lại cái không mà chẳng
có cái thực, thì lấy gì mà nương tựa! Cái lẽ sinh sinh của trời đất cứ luân
chuyển mãi mãi vô cùng ấy, là bởi sự động, tĩnh của cái không vá cái thực
mà thành ra linh diệu thế!

Còn như đọc những sách Bình dương thì thấy thô thiển, quê kệch lắm! Từng
hận là không được thấy một cuốn sách của các vị Tăng, Dương, Lưu, để mà
phát tiết! Vẫn hoài bão lâu năm, mãi đến khi vãn tuế, mới được biết một
thiên Biến địa Kiềm của Dương Công, thấy lý luận tinh thâm, cao rộng, nói ít
nhưng ý nhiều, đủ phép và minh chứng xác thực!

Trong cái lý thuyết không long, vội nghe thì tưởng là mới sáng suốt. Sau
thực tư, tế vi, thì không khác với ghép ở trong kinh nói về can, chi mà tôi đã
được biết, tì mới tin là rất chí lý, đã có tự trong tâm của tô rồi.

Vậy xin lấy cái tinh thần chúc tụng Dương Công muôn ngàn năm vẫn sống!

89
Ông Trần Đạo Vinh: Dương Công nói Không long là long gặp không thì hoạt
bát ( sống động).
Mịch sư nói Thủy long, là long gặp thủy thì đình chỉ ( đứng lại). Chứ đâu phải
lấy Không, lấy Thủy làm long! Đều là quanh ở chỗ Không mà làm chỗ Thủy,
nên đều có khí, nhưng đặt táng thì phải thừa cái sinh khí của thực địa; Địa
vốn là làm chủ, Thủy chỉ là cái ứng thôi.
Nếu đột cao không có thủy, mà đằng sau huyệt đê bình, tức là Không, là
Thủy vậy!
Những người sau không biết, cứ giữ cái Sơn pháp mà đem làm ở Bình Dương,
thì là sát nhân!
Cũng thấy có số ít người được nghe lõm, xem trộm sách Bình dương, cứ gặp
đất ở bên cạnh nước bảo là tọa không. Ở chỗ hãm ( trũng) cũng bảo là
hướng mãn, thì thật là buồn thay!
Ông Trương Tử Vi nói: Ở Bình dương, hễ thấy chỗ đất cao mà thấp dần dần
xuống đến cùng tận, là tuyệt khí; nếu hạ táng, tất bị diệt vong! Thì lại càng
là sát nhân hơn nữa! Những cái nhầm lỗi ấy là bởi có sách mà không hiểu,
hoặc không có sách lại không có thầy chỉ dẫn cho.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Tư Mã Đầu và Dạt Tăng vấn, đáp


Việt Hải

Tư Mã Đầu và Dạt Tăng vấn, đáp

"Lối thuận cầu thì tìm thấy đất khó nhọc.


Lối nghịch cầu thì tìm được đất dễ dàng.
Một đằng theo chỗ Thực đi tìm chỗ Không.
Một đằng theo chỗ Không đi tìm chỗ Thực."

 
Tư Mã Đầu và Dạt Tăng vấn, đáp

- Vấn:Xưa nói: Ở Bình Dương chẳng cần phải hỏi tông tích long, hễ thấy thủy
nhiễu là chân long! Nếu bảo chỗ thủy nhiễu làm long, thì chỗ đất nào mà
không có thủy, mà không phải phân tách sa và cục, thì hết thẩy đều là long
à?

- Đáp: Hai dòng nước giáp hai bên long, chẩy xuôi dòng xuống dầu mạnh
như sóng đuổi, nhưng đến chỗ giao nhau, được có sa hội, thì định là long,
huyệt.

- Diệp Cửu Thăng nói : Ở miền Bình dương, những chỗ phẳng lì một mặt, thì

90
không hay kết tác. Đến chỗ có không giới ( là chỗ cao, thấp giáp nhau) mà
gặp thủy thì mới thành huyệt, cho nên lấy chỗ thủy nhiễu làm chân long.
Nhưng long có thủy nhiễu, sa cũng có thủy nhiễu, mà long thì hữu huyệt, sa
thì vô khí, nếu cứ thấy thủy nhiễu mà nhận là chân long, thì là nhầm lắm!
Không thể nói xiết được!

- Đáp: Lấy chỗ thủy giao, sa hội, mới định long huyệt. Chứ không phải thấy
thủy nhiễu mà nhận là chân long. Tất là thủy nhiễu sa hội, đoàn tụ lại thành
cục, thì ở trong mới là chân long, mới có huyệt. Còn chỗ có thủy nhiễu nhưng
sa không hội, vẫn quay đầu đi, thì không thể nhận là chân long được! Tức là
không có huyệt.

- Dương Công nói: Cái Không long ở Bình dương ấy; ý là lấy địa làm Thực,
Thiên làm Không, địa phải có Thiên thì mới kết, chứ không phải là bỏ cái
Thực, mà chỉ nói cái Không. Sau Mịch Sư lấy cái Không, thì thủy nhập ( nước
chẩy vào chỗ trũng), vậy lấy thủy là long cũng như Dương Công nói long
vậy.

Ở Bình dương, thấy có hai cách đi tìm đất:


Một đằng thì đi theo trên mặt đất, tìm đến chỗ gần nước, gọi là thuận cầu;
một đằng thì ngồi thuyền theo dòng nước, tìm đến chỗ đất đột khởi lên, gọi
là nghịch cầu.

"Lối thuận cầu thì tìm thấy đất khó nhọc.


Lối nghịch cầu thì tìm được đất dễ dàng.
Một đằng theo chỗ Thực đi tìm chỗ Không.
Một đằng theo chỗ Không đi tìm chỗ Thực."

Mịch Sư lấy Thủy phân chi, cán để tầm long, là cái cách đi tìm mau lẹ, chứ
không phải lấy cái Thủy làm long.
Xem phép đặt huyệt của Mịch sư, thì đều ở chỗ cao khởi, chứ không để chỗ
đê bình. Những người không suy xét thì không hiểu được ý vị, mà nhận thủy
làm long, chục muốn bỏ cái Thổ khí mà thừa cái Thủy khí, thì thất là nhầm
to! Nếu quả thật thủy là long; mà thổ không phải là long! Thì cứ bỏ hài cốt
xuống nước mà táng có được không? Hà tất phải tìm chỗ đát cao? Tức là
phép định cục , biến quái của Mịch Sư, lấy chỗ bên Nam có nước, thì gọi là
Khảm cục ( Bắc); Vậy thì rõ ràng lấy địa làm Thể, lấy thủy làm Dụng. Nếu
thủy là long, mà bên Nam có nước là Ly Long, thì phải gọi là Ly cục, chứ sao
lại gọi là Khảm cục? Vậy hai danh từ Thủy long và Không long, chỉ là cái
huyền bí, si thuật, cho những người u mê, lờ mờ thôi!

- Lại hỏi: Đã lấy thuận thủy làm chủ như, thủy ở phương đông lại, mà không
có long ở phương tây đến thì sao?

- Đáp: Cái địa khí lưu động, biến hóa, cũng như thủy lưu động, biến hóa. Nếu
y nguyên không định hướng, thì đâu có thấy, đều là thủy thuận lưu, mà
không có lý nghịch hồi hay sao?
Như cái đại thủy tùy long, chẩy về phương đông mà cái tiểu thủy ở trước mặt
( huyệt) cũng chẩy về phương đông, thì gọi là thuận cục.
Nếu cái đại thủy tùy long, chẩy về phương đông, mà cái tiểu thủy ở trước
huyệt, chẩy về phương tây, thì là nghịch cục.

- Lại hỏi: Dả như ở vùng Bình dương khoáng dã, long đã ly tổ rất xa, phần

91
nhiều là cách giang, cách hà, lại không thấy tông tích gì làm đích xác! Người
này nói là ở phương đông lại, người kia bảo là ở đằng tây đến, như thế thì lấy
cái gì mà biết là tuận với nghịch?

- Đáp: Một phiến đất rộng lớn sơ khởi, thô ngạnh, không có chi cước nhỏ
phân ra, mà thuận hành một độ trình, không đứt quãng, quá độ mới lần lần
kết thúc hẹp nhỏ lại, hình như cái cổ họng, cái hầu, mà có chi cước phân ra,
ôm quay lại, thấy có thủy hoàn bão hình như ngọc đới sa, hoặc như kim
thành thủy chiến hộ, hoặc cao, thấp chỉ hơn nhau thước, tấc ít nhiều, kết ở
chỗ thủy khẩu, thời là cái đất Thượng thủ bình thản; nhân chỗ bình thản ấy
mà phát tổ, rồi thuận chiều đi ra mà kết huyệt, thì gọi là thuận kết.

Như hạ thủ ( phía tay dưới) ngoan thản ( rộng lớn, thô ngạnh) không có chi
cước hỗ trợ, mà nghịch hành ( đi ngược lại) một độ trình ( một quãng
đường) mới thấy có chi nhánh nhỏ như chân, tay thò ra, ôm ngược trở lên,
lần lần kết thúc nhỏ lại cũng như kể ở trên. Tới chỗ bố cục, sa, thủy phân ra,
ôm lại và thấy khai diện kết huyệt, thì gọi là nghịch kết.
Cho nên kết huyệt ở chỗ thủy khẩu, gọi là thuận kết; kết huyệt ở chỗ phân
thủy gọi là nghịch kết.

"Sách của Dương Công thì cao diệu!


Sách của Lưu Công thì tinh thục!"

Mịch Sư thì học phép của Lưu Công; Lưu Công đã lấy địa làm long thì Mịch Sư
đâu có phản lại, mà chẳng lấy địa làm long?

- Lại hỏi: Theo pháp xem đất, thì phải vấn tổ, tầm tông, lại nên biết cả Thạch
cốt quá giang hà ( gân đá đi qua sông) mà “ Trùng hưng Doanh trại” ( tức là
lại khởi tổ tông nữa). Nếu như câu nói ấy, thời cứ xem ở đằng sau huyệt là
biết được cái thuận hay nghịch, chứ chẳng cần phải hỏi gì nữa?

- Đáp: Nếu có tông tích mà có thể xét được cao, thấp, thì tìm thấy chẳng
khó; nếu trong chỗ vi diệu ( là nước chỉ nông, cạn sấp xánh tí xíu), thì không
thể biết long nó xuất xứ chỗ nào, thì cứ đương nhiên theo hình thế mà xem
thuận, nghịch.

- Lại hỏi: Sợ có huyệt thế mà không có long thế thì như thế nào?

- Đáp: Huyệt là mình, long là Tổ phụ, ở trong thiên hạ này , chưa thấy chỗ
nào nói: Không có Tổ phụ đẻ ra, mà có con cháu bao giờ!
Vậy có kết tác, thì biết là có long. Nhưng sợ : Huyệt hảo, mà không biết tổ
tông quý hay tiện? Thì sao? Đáp: nếu như con cháu hiển vinh, tức là Tổ tông
tự có phước hậu, đâu phải là cứ lấy thánh nhân mới đẻ ra Thánh nhân!
Nhận xét bài vấn đáp trên, là lý luận kỹ càng, xác thực của phép tìm đất ở
miền Bình dương.
Nếu thấy rõ kết huyệt, lại thấy rõ cả long lai thì càng hay, nhược bằng chỉ
thấy huyệt thôi; không biết long ở phương nào lại, thì cứ làm, đừng câu nệ
như sơn pháp, mà bỏ mất đất quý! Huyệt hay! Thì thật là đáng tiếc! Như
những người không biết phép xem đất ở miền Bình dương.

Chi Lũng Thiên


Lũng Long với Chi Long khác nhau ( Ở miền sơn cốc gọi là Lũng, ở Bình
dương gọi là Chi).

92
Lũng long thì tiếp mạch, Chi long thì tựu khí; Lũng long tắc ai bạc ( thì nhằm
chỗ thấp mỏng), Chi long, tòng hậu ( theo vào chỗ cao dầy). Chỉ long được
có Lũng, làm quý;Lũng long có Chi làm vượng; Chi long hữu dương cực thành
âm, thì định làm âm phần ( mộ); chỗ âm cực thành dương, thì nên làm
dương trạch ( nhà ở).
( Chi long mà đột khởi, là dương cực thành âm: Lũng long mà phô bình, là
âm cực thành dương).
Chi long táng điên ( để đỉnh chỗ cao)
Lũng long thủ uất ( để chỗ lõm khuất).
Chi long tản vu bình dã, dặc xứ vi tôn!
( Chi long thì khí tản ra đồng bằng lấy chỗ cao đặc biệt là tôn trọng)
Lũng long xuất vu sơn cốc, kỳ giả vị quý!
( Lũng long thì mạch xuất ở trong hỏm núi lấy chỗ kỳ dị là quý).
Chi long tu đắc thủy, Lũng long mạc lộ phong.
( Chi long nên có nước, Lũng long chớ để lộ gió).
“ Dương Trung đắc Lũng, quý nhi vô địch!”
( Ở Bình dương được mạch khởi cao, quý không gì bằng!)
“ Cốc nội sinh Chi, dị chúng diệc tôn!”
( Trong hẻm núi được có mạch phục xuống thấp, khác mọi chỗ là hay lắm!)
“ Chi long đắc thạch thành thai”
( Đồng bằng có đá là thành thai kết huyệt)
Lũng long đắc bình hữu kết.
( Ở sơn cốc, được chỗ thấp bằng thì có kết huyệt)
“ Chi long cương nhị tắc quý”
( Mạch ở đồng bằng đất cứng rắn thì là quý).
“ Đoạn nhi tắc kết”
( Từng đoạn thắt lại, thì kết tác).

Bất cương bất đoạn, di long lãn mạn ( không cứng, không thắt đoạn, mạch
ướt mềm, lan man ra ở chỗ bùn lấy), thì phải có sa che kín bốn mặt, môn hộ
phải khẩn bế. Ở dưới vũng nước thì phải có gò đống; Ở trong đồng ruộng, thì
phải có khởi đột cao lên. Đất to hay nhỏ, thì xem ở chỗ phát tổ; huyệt quý
hay tiện thì do ở bản thân long mạch. Thấy một đoạn khởi, một đoạn phục,
đoạn nọ nối liền đoạn kia, thì có thể dùng được. Nếu không thấy như vậy, thì
không thành huyệt. Có chỗ liền với chân núi, có chỗ thì hiện hình ở trong
đồng bằng. Xuất hiện ở trong đồng bằng là khí vượng, mà phát sinh ; liền với
chân núi là thế đã thành mà đứng lại. Cái thế thành mà đứng lại, thì cái tốt
cũng nên xem. Cái khí vượng mà phát sinh, thì cái phước hay lắm! Có cái
Lũng long nẩy ra Chi long; Có cái Chi long hỗ trợ Lũng long; Chi long thì xem
khí, Lũng long thì xem mạch. Chi long thấy có khí thì dùng, Lũng long thấy
có mạch thì lấy.

Trên đây là đủ phép ở miền Cận sơn và miền bình dương , Thủy hương.
Long mạch trong miền Bình dương hiện ra như ảnh ưởng ( bóng vang), có
khí thì khởi ( đột lên), khí yếu thì chỉ ( Thôi nghỉ). Trong chỗ dương, có chỗ
âm thì khí tụ nhiều; bên trong có cái tinh hoa gấp trăm nghìn lần, thì ảnh
hưởng mới lộ ra một chút, nên quý không nói xiết! xưa nói: “ Vạn nhận bất
như nhất đôi”; “ Cao sơn bất như bình địa”. Nghĩa là:Muôn tầng núi cao,
không bằng một đống đất ở nơi bình địa ( đồng bằng).

Vì âm thấy dương thì mới sanh; dương gặp âm thì mới phát. Có câu: “ Độ
giang hà, nhi Thần cơ mạc trắc! Xuyên điền dã nhi đạo nhỡn nan minh”!
Nghĩa là: long mạch vượt qua cả sông ngòi, vậy Thần cơ ( máy thần) cũng

93
không lường được! Xuyên suốt cả đồng điền đến Đạo nhỡn ( mắt thánh)
cũng khó mà nhìn rõ! Hình như kín kín, hở hở thật là dị tông, kỳ mạch, như
là hôi tuyến liên miên, hóa thành trăm dạng! Hoặc hình như con quy, con xà
ở bên bờ, con cò, con vịt nổi trên sông; Hoặc tác chúng tinh củng nguyệt
( chòm sao chầu trăng); Hoặc vi quần Ưng tróc Thỏ ( bầy chi diều hâu bắt
thỏ) trầm miết lộ nê ( con giải bò trên bãi bùn); Du ngư hí thủy ( con cá vờn
nước) ; Hoặc như Thù Ti, Mã Tích đoạn, tục, liên hành, hoặc ẩn, hoặc hiện, có
nước sấp sảnh giao giới; ruộng trũng làm minh đường, ruộng cao làm sa hộ,
chỉ thấp nhỏ thôi, phải tinh tế mới thấy, bốn phía cũng phải vây che v.v…
Tinh thần đều ở Bình dương cả, nhưng phú quý khác nhau ; lớn hay nhỏ, là
do ở lực lượng Tổ tông; Phú hay quý là do ở chỗ long thân kết tác, thấy long
thanh tao, khéo, dẻo thì phát quý; long hình thô lộ, cứng cỏi, to, dầy là phát
phú.

Xem chứng ứng bốn bề có triều hộ, tùy tòng sa, thủy, ở Bình dương , “ Đắc
khí vi chân” ( có khí là thực); “ Thủy nhiễu triền thân vi giai” (nước quanh
quấn gần long thân thì tốt), điểm huyệt tìm vào chỗ thai tức ( bầu bụng) ,
tác pháp chớ thương tần khẩu ( môi miệng), thủ dụng đều phải đích thực.
Nhũ đâu thì phần nhiều là đâu thu ( ôm tụ lại)
“ Bạc trung thi thần vi thượng”.
( Là trong chỗ bạc ( mỏng) thò môi ra là đích xác, tốt lắm!)
“ Đột trung vô khí mạc cầu”.
( Là trong chỗ đột mà không có khí xuất, thì chớ tìm.)
Ở trong miền Bình dương khí mãn ( đầy), thì khởi đột, nên lấy chỗ minh bạc
( mỏng) làm huyệt; “ Khí đa, tác sa, bạc trung vô thần, khủng vi vô khí”.
Nghĩa là: Dư khí nhiều ở chỗ sa hộ vệ bên ngoài, mà ở trong chỗ kết, huyệt
bạc nhược, không có khí dư ra, như cái môi; thì sợ là không có khí tụ, trong
chỗ thùy nhũ có khí hiện cũng hay kết huyệt, nên viên tĩnh ( tròn trĩnh), phì,
ẩn ( mập, giấu hình), không nên hiện ra. ( Hiện là có chi thò ra, ẩn là giấu
kín không có tông tích gì) Nếu hiện mà có chi, thì tìm chỗ vượng khí; ẩn tàng
thì lấy chỗ động. Long thì quý ở cái tàng ẩn, chứ không quý ở cái hiển hiện,
nhưng trong chỗ bình địa mà lộ hình, thì là rất quý!
Trên đây là kể đầy đủ phép về đột khởi ở miền Bình dương.

Địa Long Thiên


Quan sơn mạch chi nan minh; Khán địa long chi bất dị. ( Nghĩa là: xem mạch
ở miền núi cũng khó, xem đất ở miền đồng bằng chẳng dễ).
Mạch ở miền núi, thấy thắt lại nhỏ mà minh hiện ( rõ ràng) là mạch. Ở miền
đất bằng hễ vi động ( khởi tí xíu) là khí; ruộng cao là mạch, viên hoạt (hình
tròn, hoạt bát) là khí. Mạch thì theo chỗ cao mà hiện, khí thì ở chỗ thủy tụ
mà xuất. Ở núi thì đứng xa xem được, đồng bằng phải lại gần mà nhận xét,
ruộng cao, ruộng thấp, ở bên gần nước mà tìm mạch, thì phải phân biệt cao,
thấp, theo long mạch mà đi, hoặc khiên liên ( giắt liền), hoặc đoạn, tục
( đứt, nối), hoặc như âu điểu phù trầm ( chim cò chim nổi); Ẩn tắc “ Vân
trung tàng nhạn” ( như chim nhạn trong mây); Hiện, tắc “ Lãng cổn sa phi” (
như sóng cồn, gợn cát), đến chỗ đầu ( huyệt), hoặc vuông, hoặc tròn, hình
như ẩn núp mà vựng thành tinh thể thụ huyệt, là rất quý! Chỗ kết huyệt
hoặc đại, hoặc tiểu, khởi động nhiều ít, mà uốn tròn và hoạt bát, là sinh
( sống). Chỗn long xuất thân mà có chi cước thò ra thì tốt. Chỗ kết huyệt có
thủy nhiễu trước mặt thì hay. Đê điền tác đường, Cao điền tác sa, thưa thớt
vòng quanh ôm lại là đích, vòng ngoài là la thành chớ nên thấp trũng, không
khuyết. Căn cứ trong thế Ngũ tinh mà tầm huyệt, huyệt thì lấy chứng tá làm
đích xác. Thế thấy thanh xảo là quý, thế tròn thì cầu chỗ tĩnh, thế vuông thì

94
tầm chỗ động; phú hay quý, lớn hay nhỏ thời tùy long mà phân biệt. Quan tu
phù khởi ( táng nông), huyệt tu táng trầm ( táng trầm là đắp đất cao dầy
thêm lên mà táng); không ngại gió lọt, không có nước thì không thành
huyệt, “ Băng hồng chi huyệt, đa tại Bình dương” ( Huyệt Băng hồng phần
nhiều là ở miền Bình dương); “ Bằng sơn cộng thủy, vị chi Băng hồng” ( sơn
làm bạn cùng thủy, tức là gò đống hoặc ụ bãi khởi đột trong vùng nước gọi là
Băng hồng). Hoặc như thù ti ( tơ nhện) mà tích ( vết móng ngựa) loa, bạn
( ốc, trai); hoặc như Quán tự (chữ Quán), Nhân tự ( chữ Nhân), Cá tự ( chữ
Cá), Vương tự ( chữ Vương ), Thập tự ( chữ Thập) v.v…Hoặc từ bản thân
phân chi ra mà hợp lại; hoặc khí mạch ở long sơn khác giáp liền nhau; hoặc ở
bên Đông cao; hoặc ở bên Tây đột khởi, khiên liên dẫn đi đến chỗ kết huyệt
thì quay đầu lại hội hợp. Ở chỗ Huyệt trường, hoặc thấy như “ phong trung
điệp” ( con bướm ở trong bầy ong), “ điệp trung phong” ( con ong trong bầy
bướm) thấy khác mọi cái, thì lấy cái đó. Hoặc động trung thủ tĩnh, tĩnh trung
thủ động; hoặc tác miên ngưu ( con trâu nằm) bán nguyệt ( nửa mặt trăng);
hoặc như quy hình ( con rùa), phú bồn ( cái chậu úp)v.v… Những cái như thế
đều là lộ, mà không ẩn; đó là “ dương trung chi âm” ( cái âm ở trong chỗ
dương), “ âm trung thủy oa” ( trong cái âm thì lấy chỗ lõm xuống, là oa
đấy). Nên có câu: “ Đột trung chi oa mạc khí” ( nghĩa là:Thấy cái oa ở trong
chỗ đột thì chớ bỏ). Hoặc hữu trầm nê, xà, miết ( con giải, con rắn, chìm
trong bãi bùn), phô chiên hà diệp ( lá sen, lá súng phô riềm), những cái đó
là ẩn, mà Không lộ: ẩn là nhiều dương, dương trung thì tựu âm. Nên có câu:
“ Bình trung chi đột tu thiên” ( nghĩa là: Cái đột ở trong chỗ đất bằng, thì
nên đặt huyệt). Câu trên này ý nói: Ở Bình dương thì nên để chỗ đột cao,
nhưng ở trên cao thì lại tìm chỗ lõm xuống, thấp hơn.

- “ Long mạch trực triều vu đại giang, tắc tiền thôn chi hữu đại địa” ( Nghĩa
là: Long mạch chầu thẳng vào cái sông lớn, thì cái làng ở trước đó có cái đất
to).

- “ Địa khí lại, chỉ ưu tiểu giới, tắc bản thân chi thụ huyệt diệc tiểu” ( Nghĩa
là: Cái địa khí đến chỗ tiểu giới ( nước nhỏ) mà dừng lại, thì cái bản long thụ
huyệt ấy cũng nhỏ). “ Sở dĩ giả: Tiểu giới; sở quá giả: Đại giang” ( Nghĩa là:
Chỗ mạch dừng lại, là cái tiểu thủy, chỗ mạch vượt quá là cái đại giang).
Tiểu giới giả: giới bất năng chỉ, nhi mạch tự chỉ ( Nghĩa là: Cái nước nhỏ ấy,
không phải là cái ranh giới làm hãn mạch lại được, đó cái mạch nó tự đứng
lại thôi).

Đại giang giả: Thủy bản giới mạch, nhi mạch tự quá. ( Nghĩa là: Cái sông lớn
ấy vốn là cái nước để làm ranh giới hãn mạch mà mạch nó tự qua được). Cổ
vân: “ Long quá thiên giang, bất quá nhất đường, chính là nghĩa đó.

Những chỗ chưa thấy nước mà đứng lại, là mạch tự đứng lại; nếu thấy nước
mà đứng lại, là mạch còn đang đi đấy! Đại để: Long vi chủ, thủy vi dụng.

Lại nói: Cái đại cán long, đại giang, đại thủy cùng ngược lại, hoặc cái tiểu cán
long, tiểu giang, tiểu thủy cùng thuận theo chiều mà thấy cái long lớn, cái
nước nhỏ hơn, thì là tốt, dùng được. Nếu nước lớn, cái long nhỏ là xấu, có hại
không nên dùng! Cổ ngôn: Đắc Thủy vị thượng; tàng phong thứ chi” ( Nghĩa
là: Được có nước là tốt nhất, kín gió là thứ nhì). Thủy thì đa cát khí ( nhiều
khí lành) nhưng lại có “ Bát sát thủy” ( 8 cái nước độc ác, như là: Xuyên, Cát,
Tiễn, Xạ, Tà, Ngưỡng, Xung, Đãng).
- Xuyên: là chỗ nước như cái tên đâm vào mộ.

95
- Cát: là nước cắt phá mất cái khí gần sát long mạch.
- Tiễn: là chỗ nước chẩy đến, chẩy đi, thẳng xuyên như cái tên bắn!
- Xạ: là như cái tên bắn vào, hoặc ở trước, ở sau, hoặc bên tả, bên hữu mộ.
- Tà: là ở đằng trước huyệt, nước chẩy thiên thẹo tạt qua, đâm đi như phản
vào mặt.
- Ngưỡng: là huyệt ở chỗ thấp, nhỏ, mà bị nước lớn ở trên cao chẩy lao
xuống trước mặt.
- Xung: là nước chẩy xung thẳng vào chỗ huyệt, không thể để mộ được.
- Đãng: là thủy lớn mà khoáng đãng ( rộng), huyệt không thu được, khí tán
ra ngoài mất.
Trên đây là tám cái nước xấu, nếu có thì rất là tai hại, nên gọi là bát sát.
Hựu vân: Huyệt cao bất luận xạ; Thủy khoát khởi vi tiễn; Mạch đại hà hiềm
khoát; Hộ khẩn nhiệm tà khiên; Khuất khúc vô xuyên ý; Ngưỡng đãng huyệt
đăng thiên; Chân long tương trú xứ; Phản cát nhậm quân thiên.

Nghĩa là: Huyệt ở chỗ cao, thì chẳng cần bàn gì đến cái thủy xạ Thủy rộng
lớn thì đâu phải là thủy tiễn. Mạch lớn thì không ngại thủy khoát. Thủy khẩu
kín đáo bao vây, thì mặc kệ cái thủy tà khiên. Nếu có chỗ khuất khúc thì
không phải là thủy xuyên. Nếu ở chỗ quang đãng thì huyệt hướng lên trời.
Có chân long cùng trú tụ ở chỗ ấy, thì trở lại làm tốt lành cứ nên để mộ).

Bài thuyết vừa kể trên là trái lại, để phản đối với cái bát sát nếu xét thấy
đúng như thế thì không sợ ác sát, cứ làm được.
Trong miền Bình dương, ở chỗ khởi phục cao, thấp mà thấy có tông tích
mạch đi thì gọi là “ Địa long thiếu âm”, đột cao lên như núi, gọi là thái âm.
Vậy có câu: “Bình điền bình địa hữu cao phong kỳ hạ khởi vô chân quý
huyệt”! Là ở nơi đồng bằng đất phẳng, có núi đột cao, ở dưới vùng đó hay có
đất quý huyệt hay.

Thủy Thần Thiên


Thủy đáo Bình dương, dĩ thủy vi mạch, dĩ thủy vi tọa, dĩ thủy vi triền. Nghĩa
là: Ở miền Bình dương mà có nước chẩy đến, thì lấy nước làm mạch, lấy nước
là chỗ tọa huyệt, lấy nước làm triền hộ. Thủy thì vốn không chỉ là mạch,
nhưng mạch nó theo thủy mà hiện ra. Long theo thủy mà đi; sa cũng dựa
vào thủy mà ôm thu; khí cũng theo thủy mà tụ lại. Thủy mà trực lưu ( chẩy
thẳng) là tử thủy ( nước chết). Thủy khuất khúc ( cong, gẫy) là sinh thủy
( nước sống). Sinh, tử, cát, hung, tận tại hồ thủy ( Nghĩa là: sống, chết, lành,
dữ, hết thẩy là bởi nước). Thủy lớn thường bao vây vùng tỉnh, quận; thủy
nhỏ thì tụ hội một xóm, một làng, không có hạn. Long mà không có thủy thì
không có giáp, khí mà không có thủy thì không thu ( tụ); một cái giáp, một
cái thu mà hóa ra muôn ngàn khí tượng. Vô giáp, vô thu, âm dương bất
ngẫu. ( Nghĩa là: không có giáp, không có thu thì âm, dương không thành
đôi phối hợp!) Thủy lớn thì long cũng lớn, thủy nhỏ thì long cũng nhỏ; thủy
lớn thì nên phòng tán đãng ( tản ra ngoài), thủy nhỏ sợ khô cạn, thủy lớn thì
nên thanh ( trong), thủy nhỏ thì nên thâm ( sâu). Dầu thủy lớn hay nhỏ,
cũng đều quý là khuất khúc, chứ không quý trực ( chẩy thẳng tuột); quý tụ,
chứ không quý tán. Vậy không nên loạn loan ( vòng cong đi lung tung), thủy
mà vòng cong thì khí tụ nhiều nhưng không nên loạn tụ ( tụ lằng nhằng ở
ngoài); thủy tụ thì long hội, thủy tụ thời tĩnh, thủy khúc thời động: động thì
không nên chẩy cấp bách, tụ thì nên trừng thanh ( trong và đầy) như là nước
tụ trong hồ đầm bao vây khóa kín, lấy thủy làm mạch, “ vô thủy bất thành
long”, “ vô thủy bất hiện mạch”. Cổ vân: “ Dương dương đại thủy vi qian tỏa;
quan tỏa lý diện, hữu chân long. Chân long lý diện, khán sa đầu. Vô sa hoàn

96
bão, yếu thủy câu. Nghĩa là: nước to làm khóa cửa cho long; cửa khóa thì
long thật ở trong; Thật long, đã có, xét sa đầu; Sa chẳng ôm, thì nước phải
câu ( uốn lưỡi câu, vòng chầu lại).

Hành long chi xứ, bất phạ đại, kết huyệt chi xứ, tu dụng tiểu ( là chỗ hành
long, thì không sợ long lớn, chỗ kết huyệt, thì nên dùng long nhỏ). “ Long
tiểu, thủy đại, tự phù âu, phú quý bất năng hưu” ( là long nhò, nước lớn, tựa
phù âu ( con cò biển nổi trên mặt nước), giàu sang rất bền lâu). “ Khảm long
chi hướng nam, khủng thủy thần chi khoáng đãng; Ly long chi hướng bắc,
hiềm tây bắc chi sinh hàn”. ( Nghĩa là: mạch phương khảm ( bắc) lại, thì lập
hướng nam, nhưng sợ nước rộng lớn, tán loạn, nên có sa ôm thu lại; Mạch
phương Ly đến, thì hướng bắc, nhưng hiềm tây bắc khí lạnh lùng!) hai câu ấy
là bảo: hướng nam thì hòa hoãn ( ấm áp), hướng bắc thi lãnh hàn ( lạnh
rét). Dương Công bảo: “ Tuyết lý phiêu mai”; “Bất thủ bắc hướng”. ( là: cây
mai rạc, trong vùng tuyết lạnh, không nên lấy hướng bắc).Nhưng tôi ( soạn
giả) nghĩ: Ở miền Nam Việt Nam, ít gió bắc, ít khí lạnh, nếu gặp đất quý thì
cứ dùng, nhưng có sơn sa cao, che về phương tây và phương bắc thì tốt hơn.

- Hoặc hỏi: Như có nhiều chi mạch dẫn đến huyệt trường, thì biết cái nào
quý, cái nào tiện?

- Đáp: Cái nào có thuy trùng tác giáp, thì là cái quý. Không có giáp, cứ phẳng
lì tựa như tấm da, tờ giấy, thì là cái tiện; thấy đương lớn hóa ra nhỏ, đương
nhỏ biến ra lớn, nhiều lần bác hoán ( thay đổi) là quý! Hễ nhiều cái lớn thì
lấy cái nhỏ, hễ nhiều cái nhỏ thì lấy cái lớn. Hễ thấy nhiều lần sa vòng cong,
ôm lại, mà khẩn bão ( ôm gần, kín đáo chu vi) thì là quý! Bác hoán, thì nên
vuông hoặc tròn là quý. Lấy cái lớn thì không nên tán mạn; Vì tán mạn lan
man thì khí không thu tụ. Lấy cái nhỏ thì sợ nhỏ hẹp quá, vì nhỏ hẹp thì khí
không vượng. Long càng nhiều đoạn thì mạch càng tốt; Thủy càng sâu, thì
phúc càng dầy, Mạch ở phương Đoài ( phương dậu, phương tây) ra thì cần có
tả sa ôm thu. Mạch ở phương chấn ( đông) về tây, thì nên có hữu thủy vòng
ôm lại, lập huyệt thì hướng Nam, trực lai thì hoành tác. Tứ duy ( kiền khôn
cấn tốn) phát mạch, thuận thủy, thì nghịch thụ, được tọa quý thần ( phương
quý) thì mạch tòng nhĩ nhập ( vào tai). Cốt đường thủy ôm thu, nên cục diện
ngay ngắn ( tề chỉnh) có một dòng nước thì tìm chỗ khúc ( cong). Có hai
dòng nước thì tìm chỗ hội hợp. Có bốn dòng nước tụ là đất Công, Hầu! Nhiều
nước tụ hội, thì lập tỉnh, quận, đô, thị, nhiều dòng nước tụ hội, thì đại vượng;
một dòng nước thì tiểu vượng. Long khí thanh thì phát quý; thủy thần hậu
thì phát phú. Chỗ khí hậu thì nên lấy chỗ bạc; chỗ khí tán thì nên tìm chỗ
hậu. Đáo đầu mà long khí vượng thì nhận định phồn thịnh; nhập huyệt mà
thủy đãng thì cô quả, bần cùng! Thủy thắng thì tài vượng, thổ hậu thì nhân
đa. Thanh ( trong) thì phát quý, trọc ( đục) thì phát phú. Thủy đại thì nên
táng xa, thủy tiểu thì táng gần. Trưởng tử hưng vượng, định thị, tả bạn
trường lưu. ( Cong trưởng giàu sang là bởi nước ở bên tả dài, xa, có nhiều
chẩy lại). Trung nam phát phúc, hoàn do đường thủy tồn lưu. ( Nước tụ ở
minh đường thì cac con thứ vượng). Quý tử hưng gia, tụ quy hữu bạn ( nước
tụ bên hữu thì con út phú quý). Được có nhiều nước thì tốt nhưng phòng
đãng bức. Nhất phiến thuần dương, âm thủ phù phần tác huyệt ( là: Cả một
khu bình điền thấp một làn, thì lấy đất đắp nền cao lên mà táng nổi) Bàng
thủy tầm long mạch , y tiền giới thủy lan ( là: Tìm đất ở bên gần nước, thì
dựa vào cái thủy ở trước mặt làm giới thủ ngăn hãn).
Bình phô, vô khởi phục chi xứ, giai dĩ thủy thần tầm mịch Lão dương.
Nghĩa là: Một mặt phẳng lì, không khởi phục gì, thì lấy nước mà tìm thấy Lão

97
dương. ( Lão dương là một khoảng đất bằng, có nước làm ranh giới).
Họ cửu thăng nói: Đất có bốn ( 4) cái tượng: Sơn cao ( núi cao) là Lão âm,
Bình dương ( đồi bằng) là thiếu dương, Bình điền ( ruộng thấp) là Lão
dương, Cao địa (đất cao) là Thiếu âm.
Chu Văn Công nói: Về Thiên đạo, thì Dương động, Âm tĩnh; cho nên dương
cương ( cứng), âm nhu ( mềm). Về Địa đạo, thì Âm động, Dương tĩnh; nên
Âm cương, dương nhu. Đấy là cái sơn thì cương, nên cho làm Âm; địa thì
nhu, nên cho làm Dương. Nhưng trong cái Dương, có Âm; trong cái Âm, có
Dương. Lại phân ra bốn (4) cái tượng, trong bốn cái tượng thì hai (2) cái Lão
âm, Lão dương là thiên khô ( khô than, vô khí), phần nhiều không kết huyệt.
Vậy, thành huyệt thì phần nhiều là ở hai (2) cái Thiếu dương và Thiếu Âm;
nên ở bình dương phải tìm cái thiếu âm, là chỗ đất cao mà đặt táng.

Trương Tử Vi nói: Ở miền Bình dương mà táng vào chỗ thấp, thì bị tuyệt tự!
Vì cớ là thuần dương bất biến.
Vậy núi cao là Lão âm, nếu trên đỉnh mà hóa xuất dương khí thì cũng làm cái
huyệt ngưỡng cao ( ngửa lên cao) được. Bình điền là Lão dương, ở bên cạnh
mà biến xuất âm khí thì cũng làm cái huyệt phi biên ( bay ra bên rìa) được.

Nhưng, nếu ở chính diện ( ngay thẳng mặt) mà bất động ( im lặng không
biến đổi gì) thì phải có thủy thần giao kết ( hai nước hợp lại), thì mới có
bằng cứ. Đây là phép lấy ngoại khí chứng nội khí vậy.

Bốn thiên liên tiếp kể trên; là ở sách địa lý Huyền cơ của các nhà tiên triết đã
chứng minh, kinh nghiệm diệu lý linh ứng, mới viết ra sách để làm nghi thức
muôn đời bất di, bất dịch. Thật là một công đức to lớn, quý báu với hậu
nhân!

Vậy tôi ( soạn giả) trích lục ra, y như nguyên văn mà dịch thuật đúng và sát
nghĩa với danh từ Việt Nam, để các độc giả hiểu rộng thêm, tường tận các
phương pháp làm địa đạo ở miềm Bình dương cho khỏi nghi hoặc. Người đời
có câu: Nói có sách, mách có chứng!Vậy tôi được biết, thì nói ra cho người ta
biết; chứ đâu dám mạo ra mà dối người, lừa đời để mang tội vào mình muôn
đời ngàn kiếp!

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 8

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:23 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Tam thập lục thủy kiềm

98
Việt Hải

Tam thập lục thủy kiềm

Ba mươi sáu (36) cách Thủy kiềm đồ hình liệt kê đưới đây, do nhà Tiền triết Quách Cảnh Thuần,
tức là Quách Công hay Quách Thị cũng vẫn là một vị, đã am tường, thâm thúy về Địa đạo cả sơn
cốc và Bình dương, Đã nghiên cứu và kinh nghiệm , mới khai sáng, hoạch định ra để minh thị
cho hậu thế. Vậy, tôi ( soạn giả) lục thuật y như nguyên bản cổ truyền theo thứ tự, để độc giả biết
rộng thêm khỏi bị nghi hoặc.

Quách - Phác tam thập lục thủy kiềm


Đường - Triều - Sinh, Đổng - Ngộ - Nguyên vấn đáp

HÌNH 1. – Triều sinh hỏi: 36 cách thủy kiềm của Quách Công, đầu tiên là huyệt
Long ngạnh tàng châu: trên là Trời dưới là Đất rất là mênh mang, huyền hoặc! Thế
nào là thượng ứng Hoa cái, sinh chức Hiền phụ ( quan to giúp vua)?
Ngộ Nguyên đáp: Doanh lưỡng gian giả, giai khí dã, Nhật, Nguyệt, Đẩu, Tinh, Giang,
Hà, Xuyên, Trạch, nhị khí tương thông, tuy cửu uyên chi hạ diệc thiên dã, phù hà
huyền tuyệt diểu mang tai! Cố tinh vân lệ vu địa trung; địa khí Hành vu thiên biểu,
địa chi khí, tức thiên chi khí dã, cố thủ chỉ thiên tinh, hợi long tương cấn chuyển
mạch giả: Năng toàn Thiên môn chính khí, hướng bính tựu dương, thủ ánh nam ly
chi dương, cố tổ lục giáp, uy di nhi lai, cái nhược trụ chỉ tiêu giao ủy khúc, hựu đắc tả
hữu nhị sa vi chú tham thừa dĩ phụ chi, tắc Hoa cái chi danh; Đế thông vu u thất,
chủ sinh Hiền phụ đại thần hĩ.

HÌNH 2. – Triều Sinh viết: Quách Cảnh Thuần: Hà Hán giao độ, thượng ứng nhị
phiên đồ vi quý cục dã, dĩ long pháp suy chi, mạch tự đoài chuyển cấn, kim nhập
mộc hương, bất tri ngũ hành chi vị, hà sinh dĩ chi quý hồ?
Ngộ Nguyên viết: Thiên dữ địa mạch, dĩ toàn khúc vi khí, dĩ tỏa kết vi thần, thần khí
lưỡng toàn, tất sinh Hiền quý. Quan thử đồ: Nội khí tự đoài nhập cấn, ngoại khí tự ly
xu khảm, bàn nhiễu củ khúc, cát khí tụ hĩ; thủy khẩu trấn sa, bất tiết bất xạ, cát
thần vệ hĩ, bình nhục chi vinh, như nhị phiên, cố ứng yên, hựu kim nhập vu mộc
tham khắc dã, hướng hỏa thụ chế, quy tuần dã, cận thị chi thần, hiển nhi thuận dã.
Cố vân.

99
HÌNH 3. – Triều sinh viết: Bàn long ẩm nhũ, như đới, như câu, giao tỏa chức kết,
long pháp diệu hĩ, trung huyệt khí thâm, nghi vi Chủng tể, lưỡng bàng khí thiển, diệc
hữu phiêu kỵ chi quý. Triều tắc nghi yên?
Ngộ Nguyên viết: Chẩn tú nhất tinh, trương kỳ lưỡng bàng, phiêu kỵ chi tượng dã,
thả thủy chi tượng, nội dương nhi ngoại âm: Tướng chi đức, ngoại hiểm nhi trung
thuận, cố vi Võ thần chi ứng, dị long mạch ngôn chi: Hợi mạch toàn khúc, phục nhập
hợi cung, kiền kim vượng hĩ, hóa xuất Vũ khúc, thâm cư trung khí, nhi hữu biên tái
chi hình, cố vi vũ sĩ chi đoán.

HÌNH 4. – Triều Sinh viết: Án thử đồ, lục tú chế lễ, biến cấn nhập huyệt, bính vi
hướng, long pháp: Thiên thị triều vu Thái vi, mộc hỏa tương sinh, nãi quý tượng dã.
Kiềm pháp sở vị thượng ứng thiên uyển, hàn uyển danh dương, kỳ diệc do thị hồ?
Ngộ Nguyên viết: Phù thiên uyển chi nghĩa, diệc thủ hồ bình di nhi hữu viên vệ dã.
Kim quan thử triền, thủy tinh đới kim, sinh khí tương toàn dã, lịch nam ly nhi bất
khắc, chuyền chấn cấn nhi tương sinh, chân quý cục dã, nhập đường cục cchi nội,
lưỡng thế khoan bình, hữu uyển hựu ( vườn ruộng) chi tượng, Cố vân.

HÌNH 5. – Triều Sinh viết: Phi hồng ẩm hải, tam phân, tam hợp, thủy triền toàn hĩ,
dĩ triều luận chi, lục tú tam hợp; nghi văn hiển dã, hà dĩ vũ vi?
Ngộ Nguyên viết: Tam hợp chi trung, phân kỳ khinh, trọng, tả xuất hữu nhập, tả
nhược, hữu cường: Hổ thắng long hĩ, thị chi vi vũ tượng, hạ hợp tuy minh, thượng
phân khiếm thanh, âm diệc trọng hĩ, diệc vi vũ tượng, thả bính long do cấn nhập
khảm, tự dương toàn âm, tuy hướng ngọ bính, lịch âm thượng đa, diệc vũ tượng dã.
Nha đao giao kiếm, huyệt cư nhàn cung, trừu dần vượng khí, quyền sát đại hùng, cố
thượng ứng thiên, đại tướng quân, hữu uy biên chi thế, thị chi vị vũ.

HÌNH 6. – Triều Sinh viết : Kim câu quải Nguyệt, ngoại phương, nội viên , kim thổ
tương sinh, cố nghi quý dã. Đãn long pháp: thổ kim, huyệt diện nam ly; hỏa khí phá
kim, bắt năng đại hiển, hà vi khả điếu hiển quan?
Ngộ Nguyên viết: Ngũ hành giả: Lý dã, bàn khúc giả: Hình dã phương vị giả: Khí dã,
lý phụ vu khí, khí phụ vu hình, tam giả câu đắc, tứ vi thuần cát; kim huyệt diện hỏa,
cố nan hiển dã. Thù bất trí thổ trọng, kim ngoan phi hỏa bất tú, cổ câu mùi dục tây,

100
thu kim khí dã, táng khẩu thừa kim, thượng ứng thiên câu nhi hiển, phù hà nghi yên.

HÌNH 7. – Triều sinh viết: Thử đồ Thiên hoàng khởi tổ, do thiên thị, bác nhập hợi
cung, phục thừa Thiên hoàng chi khí, tựu thân nghịch bão, quan diệu tương tòng, cố
vi quý hĩ. Kỳ vu phương vị sinh vượng chi lý, diệc hữu hợp phủ?
Ngô Nguyên viết: Hợi long phục hợi, thủy thừa vượng hĩ, thủy vượng dục xúc, ngũ
hành chi thể dã, ngoại khí bàn hoàn, tàng nhi bất tiết, chân vi quý hĩ, thượng ứng
tiệm thai tứ tinh, phương nhi ty lậu, hữu bội ứng phong hầu, biến lý âm dương chi
tượng, cố vi bách thặng chi ứng ( Bách thặng là trăm cổ xe, ý nói cách ứng giầu
sang).

HÌNH 8. – Triều Sinh viết: Thiên trù ngọc thiện nhất thức, ngoại nhiễu chi phương,
nội chi viên, trù phủ chi tượng dã, án sa xổ trùng, thiên quan địa trục, hình thể quý
hĩ. Cảnh Thuần dĩ vi đỉnh phủ tài huyệt, sinh tu phì độn, duy dục minh phú quý chi
hưởng đã. Ức biệt hữu thuyết hồ?
Ngộ Nguyên viết: Ngũ tinh hợp cách, tức vô tha thuyết, kỳ hoặc vật hợp, thượng hữu
luận đã, tử cô khuyết nghi, dĩ sĩ hậu lai chi ngộ.

HÌNH 9. – Triều Sinh viết: Tam dương chi thủy, triều nhập minh đường, thần quy
nghịch thủy nhi nhượng, nhị khí giao hội, lưỡng sa giáp tòng, hậu cung triền thác,
khả vi phú quý song toàn, Cảnh Thuần độc dĩ kỳ phúc ( thọ khảo) hứa chi bất ngôn
quý hà dã?
Ngộ Nguyên viết: Thủy pháp tuy chủ bàn toàn, lập huyệt hậu trọng, sửu mạch lai
nhập thủ; hiệu viết: Ám kim, nhược ngộ đinh hỏa triều nghinh, quý tinh lâm hĩ. Sửu
cung nguyên vô bính hỏa, duy hữu thọ tinh, cố Cảnh Thuần dĩ phú thọ hứa chi, bất
diệc nghi hồ?

HÌNH 10: - Triều Sinh viết: Tế quan thủ huyệt hậu thác hữu khí, quỷ diệu biến u, hộ
sa chu vi hoàn đạt sanh trì, như bình, như giá, thượng ứng ngũ xa tinh phủ, cố nghi
quý dã, đãn do ly nhập khảm, dĩ dương nhập âm bất hợp sinh cục, tuy quý bất cửu,
cảm vẫn thử nghĩa hà cư?
Ngộ Nguyên viết: Ly, Khảm cố khắc, huyệt điểm Tý, Ngọ, thủ tị cung sinh khí chế

101
chi, tắc bất vi hại, khảm thủy tại hậu, văn tinh thịnh lâm, cố hữu ngũ xa chi tượng,
hàn lâm chi quý, đãn ly hỏa hư nhi bất thực, khí diệm di tán, tuy quý bất cửu, tử
ngôn thị dã.

HÌNH 11. – Triều Sinh viết: Cảnh Thuần Vân: Ngọc giai ngũ cấp Dực tú sở cư, huyệt
thừa vũ hàn, phi bộ thiên cù, phù ngọc giai giả, cái thác dã hậu long khí thịnh, thủy
khúc sa minh, cố vị ngọc, giai ngũ cấp, thương ứng Dực tú, phi bộ thiên cù giả, bất
thức thử nghĩa thị phủ?
Ngộ Nguyên viết: Dực tú giả, tượng dã hữu sa khúc nhập, tả sa hoàn bão, khí giao
mạch tụ, ẩn nhi dục trương, tĩnh nhi dục dương, khí thế hoạt bát; như hữu đằng khởi
chi trạng, nhiên táng đắc thừa sinh khí dĩ giới Thiền dực, tất hữu tử tôn phi bộ Thiên
cù, nhi chưởng lễ nhạc chi phủ dã, thị dực tú chi ứng.

HÌNH 12. – Triều Sinh viết: Thử huyệt nội ngoại câu phương, nãi Cự môn thổ tnh
dã, tịch mạo tọa hậu, nhởn cung án tiền, cố nghi hiển quý, bất thức ngũ hành
phương vị hòa hợp hà như?
Ngộ Nguyên viết: Cự môn thổ dã, hựu kiến tịch mạo thổ tú nhi qu1y dã, nhởn cung
kim tinh, thổ sinh kim dã, giai vi quý tượng, nhiên hộ sa thái thịnh, chỉ thị vũ thần,
thử huyệt, hậu cung đới mộc, tòng dần cung thấu mạch, hỏa huyệt mộc vượng hỏa
sinh, thổ hữu khí hĩ, cái thổ trọng, kỵ thương tốn thủy, hựu hỷ hậu cung, tú thủy chế
chi, Văn khúc vượng hĩ, thị văn vũ lưỡng hiển chi tượng, cố thượng ứng bát khôi liệt
diệu, ty chu mậu ( chém giết) trọng quyền, phi tầm thường khả tỷ dã.

HÌNH 13. – Triều Sinh viết: Kim tỏa quỳnh vi, thượng ứng đầu tú, địa trục thiên
quan, quan tỏa cố nghi quý dã, nhiên thủ huyệt khúc trì, bất tri lai mạch ngũ hành,
đương thừa hà phương vượng khí vi cát?
Ngộ Nguyên viết: Thủy thuận sa phi, tuy quan vô khí, thử địa long sa, nghịch thủy
nhi thượng, khí dĩ tụ vu nội hĩ, thủy khẩu nhị trục trấn chi, khí hựu hoàn vu ngoại hĩ,
sở vị kim tỏa quỳnh vi, bất diệc nghi hồ, tả mộc hữu kim, cấn long thừa hỏa, bất
táng khắc hĩ, hựu hà phương vị chi biện.

HÌNH 14. – Triều sinh viết: Địa mạch đắc khí vi sinh, long thừa sinh khí vi cát, tế

102
quan thử đồ, chu vi tứ bàng chủ túc sinh tụ vi cát hĩ, bất tri Cảnh Thuần dĩ ngọc
đường văn mịch, thủ hà nghĩa hồ?
Ngộ Nguyên viết: Ngọc đường vân giả: Minh tĩnh nhi phương dã Văn mịch vân giả:
Chức kết nhi văn dã, khí phủ nhất viên, chủ ty thiên nhạc, câu cảm ứng chi lý, thị dĩ
thủ nhĩ.

HÌNH 15. – Triều Sinh viết: Long mạch tế khúc vi chân, quan tỏa vi cục, chân, cục
ký đắc, tất xuất hiển quan, hà dĩ phì độn đoán hồ?
Ngộ Nguyên viết: Trập long thủ hạ nhi âm, cố dĩ nữ trạng phối chi, long miên tắc khí
tịnh, diệu âm tắc khí hàm, tiềm nhi bất diệu, nghi xuất ẩn độn hiền nhân, nhược
huyệt ai dần mão, dương khí trấn kỳ long nhĩ, ly, tốn, bính, đinh, chiêu kỳ trập bế. Y,
Lã chi phụ khả vãn thành.

HÌNH 16. – Triều Sinh viết: Phương thành tú diễn mộc án thổ huyệt, nghi hữu khắc
hĩ, hà dĩ phú ngôn?
Ngộ nguyên viết: Thổ trọng sinh kim, hà khắc chi hữu? mộc phụ vi thủy, hoạt mộc
dã, kim phụ vu thổ, vượng kim dã, vượng sinh nhi, sinh nhi tượng, khởi bất hồ?

HÌNH 17. – Triều Sinh viết: Cửu loan cửu khúc chi thủy, long pháp sở hỷ, kim quan
thử hợi long lạc huyệt, tốn thủy triều nghinh, thủy bàn sa khúc, quý hiển tất hỹ, hựu
hà nghi ngọc luyện triền thiên, huyệt cư tiễn tài hồ?
Ngộ nguyên viết: Tử kiến thủy chi khúc, vị kiến thủy chi huyền, phàm thủy giai thủy
dã , Ngọc luyện giả: kim thủy dã, Tiễn tài giả: kim tinh dã, dĩ kim thủy nhi đắc km
huyệt, thanh chi chí dã, kim thanh thủy bạch; Văn khúc chi tượng, toàn nhi nhập hợi,
vượng chi chí dã, nhiên thủy vượng đa hàn, tự ly, tốn bính đinh nhi lai, lịch viêm
phương nhi khí ôn, thử quý hiển chi tượng dã, nhược đồ nệ loan khúc bất biện ngũ
tinh sinh vượng, khởi huyền lý chi thuật tài!

HÌNH 18. – Triều Sinh viết: Thủy nhược bài nha, huyệt cư kỳ trung cố vi kim khuyết
nha ban chi tượng, hựu vân: thượng ứng khố lâu, bất tri thử thị hà nghĩa?
Ngộ Nguyên viết: Khố lâu giả: thập tinh, kỳ lục đại tinh vi khố. Nam tứ tinh vi hành,
tứ tinh vi lâu tại giác Nam binh thảo chi phủ, nhược lâm thử địa, chủ vi bình quyền
chi quan, Lục tinh cư trung, phương nhược ngọc án, trụ tinh thập ngũ, giai toàn
nhiên yên. Cố vi liệt tước uyên ban chi tượng.

HÌNH 19. – Triều Sinh viết: Trĩ hoành cửu uyển; ngôn kỳ chu quảng, nhi thể hùng
dã, cố vô dong nghị hĩ, bất tri thử địa sở thượng giả hà ý, toại hữu phụ ỷ chi quý?
Ngộ Nguyên viết: Nhị thủy tự nam lai, thiều giao, giao hội, thư hùng tị hòa, thủy
khẩu khẩn tắc, ải nhược hồ lô, dĩ chi ngôn khí, tụ nhi bất tán, dĩ chi ngôn mạch, hoãn
nhi bất bách, dĩ chi ngôn hình, quảng nhi bất thúc, dĩ chi ngôn tinh, hòa nhi bất
khắc, hình đại khí hậu, mạch mậu tinh cát, hữu bất dữ phụ ỷ giả đồng bốc hồ.

HÌNH 20. – Triều Sinh viết: Cảnh thuần chư đồ, chuyên ngôn ngũ hành chân khí,
nhân long biện mạch, nhân mạch biện huyệt, nhân huyệt biện phương, nhân phương
biện cát. Thử đồ cấn long, hợi mạch, tốn thủy triều nghinh, viên cục tuy tú, vị vi bạt
kỳ, hà cố thượng ứng đẩu hộc khả sinh chúng tể?
Ngộ Nguyên viết: Ngũ hành chi lý, hiển bạt vi lậu. Ẩn chuyết vi kỳ Tốn đắc dương khí
chi toàn, thiểu giao bất tuyệt, cố vi dương hà chừ lộc, đông bắc hành long, Thiên
hoàng nhập huyệt, tắc đẩu hộc cửu tinh huy chiếu, trú súc đông nam, nhất phương
sinh khí, bách linh chi phúc chủng tể sinh hĩ, nhược nệ cục cầu kỳ, khởi vi huyền
thuật? Triều Sinh viết: Hữu thị tai, ngã tương cầu kỳ vu hình cục chi ngoại.

103
HÌNH 21. – Triều sinh viết: Lang vị nhất thập ngũ tinh, huy quang liên lạc, hữu như
dương thấp triền huy, bàn toàn hữu khí, tiện thành nhất huyệt, bất tri diệc dữ ngũ
hành tương hợp phủ gia?
Ngộ Nguyên viết: Thiên địa gian, chỉ hữu ngũ hành chi khí khác hành, cát, hung hậu,
bạc, tự nhiên thành hĩ, tử bất quan chư khâu huề ( khu ruộng) chi túc ( hột thóc lúa)
hồ? Khi trú hồ nội bào toàn vu ngoại bất thực giả diệc chúng hĩ, thị tức ngũ hành chi
hậu, bạc dã. Tử khởi cầu hậu bạc vu ngũ hành chi ngoại hổ? Huyền thuật chi sĩ, duy
ngũ hành nhĩ.

HÌNH 22. – Triều Sinh viết: Cảnh Thuần, thần quy thập cáp, lục giáp đoạt quang,
huyệt cư phong cảnh ( cổ mập lớn) nhiếp lý âm dương hà nghĩa?
Ngộ Nguyên viết: Phàm tốn, lý, bính, đinh chi thủy dương dã, tối hỉ kim thủy chi
hình, chuyên kỵ hỏa thổ chi tượng, ngộ quy hình nam phù, tiện khán ngũ hành, thị
hà tinh chi thủy, nhược hỏa thổ chi thủy lỳ khí thái táo, đắc kim mộc nhị thủy, hình
thành nhi khí tú, thần quy chi lạc cung ( cung mừng vui) dã, hựu đắc cáp án ( hình
con cáp làm án) nãi phì bão chi quy dã. Táng cảnh thủ phong táng kiên thủ hậu,
táng cáp thủ liên, nhược đắc thủy khôn tàng lai, tắc kim thủy khí thanh, chân Tể phụ
chi địa, thử thị Cảnh Thuần tâm pháp, bất khả bất sát.

HÌNH 23. – Sưu tư trạo vĩ, đắc đông phương cấn mạch, nhập hợi tác huyệt, âm toàn
thủy triều, du du tứ bá. Thôi quan thiên vân: “ Tây phương thủy triều tiến kim bảo,
diệc hữu nữ nhân như hoa sảo, huyệt thừa Thái ất đông nam long, thủy triều sa tú vi
quan tảo, bất tri thử đoán diệc tương hợp phủ?
Ngộ Nguyên viết: Thôi quan nhất thư , kỳ nguyên diệc bản Cảnh Thuần nhi lai, cố
toàn dĩ phương vị sinh, khắc chế hóa lập ngôn, quan mỹ nũ như hoa, sa tú quan cao
chi ngôn, diệc thủ tân thủy triều vu cấn huyệt, dĩ gia kỳ âm khí chi mỹ dã, nhiên tắc
Sưu tư Tả tướng chi ứng, diệc thủ tú vu Cự môn hựu hà dị yên.

HÌNH 24. – Triều Sinh viết: Nhật nguyệt phân tinh, nhất cục nhị viên, vi âm dương
nhất miếu. Triều tắc dĩ văn chi hĩ, táng dương ngự âm giả bất tri hà pháp dã?
Ngộ Nguyên viết: Táng dương giả: hướng ly tốn dã, ngự âm giả: chúng thủy tòng dã,
pháp chủ nam, nữ giai hiển, Cung tần thị sử chi quý dã.

104
HÌNH 25. – Triều Sinh viết: Cấn cung nhi long, canh vị nhất thủy phân âm, phân
dương, tụ vi nhị huyệt, như Thái vi viên khẩu, tả hữu chấp pháp, cố thủ kỳ nghĩa, bất
tri ngũ hành phương vị sinh vượng chi lý, diệc hữu thuyết hồ?
Ngộ Nguyên viết: Lý biện tắc điều phân tự giải, hà hữu cùng dã, chấp kỳ yếu lĩnh,
nhất ngôn khả tất, ngũ hành chi khí ngô vô thường vượng, ngũ khí chi vận vô thường
sinh, cố dục kỳ ủy khúc bao tụ, sử sinh khí thường tồn, thử đồ, sa triền vu nội, thủy
la vu ngoại, dương khí hoàn cố, chân mỹ cục dã, nguyên kỳ sở tự, nhị mạch giai tòng
cấn phát, nhất thủy viễn tòng canh lai, canh ngộ dần cung tắc tuyệt, hỏa trọng nhi
thượng phản hồn, kỳ tượng ứng chấp pháp, hữu Cao Đào chi trực dã.

HÌNH 26. – Triều Sinh viết: Thần cung nhất huyệt, Cấn long bính thủy, nãi nhị khu
tương phối, khả thủ quý dã, cập quan Cảnh Thuần ngoại truyền, hựu chủ tử tức hiển
đa hà dã?
Ngộ Nguyên viết: Thần cung cửu tinh, chủ đa tử tức, long mạch hồ thủy triều ứng,
dương mạch âm lưu, nhị khu phối hợp, hữu phu phụ chi nghĩa, sinh khí dương dật, cố
vi xuân giao tái nguyệt đa tử tức hiền dã.

HÌNH 27. – Triều Sinh viết: Kim bàn xuất hạp nhất đồ, nội, viên ngọa, phương, hợi
long chuyển cấn, hướng đinh huyệt quý, hữu thổ trọng kim sinh chi nghĩa dã?
Ngộ Nguyên viết: Cái hỏa nãi kim tinh chi diệu, nghi vi hướng cung, quý tý mã kim
chi tử, tối nghi lập huyệt, giới minh viên mật, bão sa hộ triền, chân hữu y tịch hoa
nhân chi tượng, đãn táng pháp thực cộng hào soạn.

HÌNH 28. – Triều Sinh viết: Quan thử đồ, đoài mạch chuyển hơi nhập huyệt, kim
thừa thủy hĩ, hướng cung nam lục, hỏa bác kim hĩ, kim hỏa tương chiến, thủy thần
chế chi, thị tử cứu kỳ mẫu, hữu thương nhi vô hại, kỳ huyệt tối cát, bất tri thượng
ứng thiên khuân giả, hựu hà thủ nghĩa dã?
Ngộ Nguyên viết: Nghĩa giả, nhân vật nhi thủ phương dã, nhân thực nhi mạnh danh
dã, Thiên khuân thập tam tinh, tại vị nam, sương lẫm giả, dĩ ngôn hồ trừ tích dã, thử
đồ nội hoàn ngoại thực, triền khỏa hữu sương lẫm chi tượng, cố thủ chi nhĩ, nhược
chấp kỳ tượng, tắc hại kỳ nghĩa, ngụ hành chi biến, như chuyển hoàn dã, bất khả

105
chấp nhất.

HÌNH 29. – Triều Sinh viết: Ngọc nữ phô sàng nhất cục, chủ Phụ mã nghi tân chi
quý, thủ hà nghĩa dã?
Ngộ Nguyên viết: Thử cục toàn thị thổ mộc chi tinh, thổ tinh thịnh vu bắc lục, mộc
tinh thịnh vu nam ly, tứ thế hòa bình, nhị tinh bất loạn, kỳ cát khả tri hĩ, chấn vi
trường nam thuộc mộc, khởi tổ chuyển cấn, ngộ thổ vượng, nhi hoạch thê phúc,
nhập huyệt hướng hồ nam ly, mộc tinh điệp xuất, dĩ loại tương tòng, hóa hỏa huy
minh, tuyên chương kim tử, cố kỳ tượng thượng ứng thiên sàng, vi Phụ mã nghi tân
chi quý, nhược huyệt trung thiên xuất kim khí, phá vu mộc cục, biến bần tiện dã,
trạch thuật khả bất thận tai!

HÌNH 30. – Triều Sinh viết: Thiên hỗn Thất tinh tại ngoại bình nam thiên chi xí dã,
hà dĩ hạ ánh, tú mịch ngân bình, vi ngự uyển phương anh chi quý?
Ngộ Nguyên viết: Thiên địa chi khí, nhược nhân chi nhất thân, bách khiếu giai thông,
nhất lý tương xúc, nhi dong cảm dã, hề tất dĩ tương đồng thiên hỗn, nãi Hán viên bất
khiết chi xứ, tàng cấu nạo ô hữu hàm thụ bao hoang chi nghĩa, cố thủ tú mịch ngân
bình dĩ tượng chi, nhược năng dụ kỳ huyền nghĩa, tắc phàm tích uế tàng ô chi địa,
giai vi thiên hạ chi nhân lậu dã, hà tất nhiên hỗn vi nghi, thường quan thiên văn,
thực hữu tú mịch ngân bình chi tượng, phi uế xí khả tỉ dã, cố Cảnh Thuần thủ chi,
khởi mậu dã tai!

HÌNH 31. – Triều Sinh viết: Cảnh Thuần thiên ngôn vạn ngữ, chỉ thị yếu minh ngũ
hành chi tinh, tự Ngụ hành chi vị, dĩ sinh khắc vi chính môn. Dĩ thiên tinh vi tượng
liệt, bàn viên tàng nạp, bất xạ, bất tiết, kỳ thuyết cố tận long pháp chi tinh vi hĩ,
thường ngộ nhạn lạc bình sa nhất huyệt, bồi lũ giai kim tinh dã. Kim tinh đa tại tây
bắc, thị chính vị dã, kim thủy chi mạch, nhập huyệt thừa sinh khí hĩ, thượng ứng điệp
bích chư tinh, dĩ loại tương tòng dã; đoài thủy triều nghinh, diệc sinh thủy dã, kim
thịnh vi vũ, văn khúc sinh yên, hữu văn vũ lưỡng hiển chi tượng, kỹ thuyết thượng
hữu dị yên?
Ngộ Nguyên viết: kỳ thuyết xuất vu Cảnh Thuần, lý minh nhi huyền ảo, vô dư nghĩa
hĩ, hựu hà dị nghĩa chi hữu.

106
HÌNH 32. – Triều Sinh viết: Châu thai tả nguyệt nhất đồ, thượng ứng thiên uyên,
thủ hà nghĩa dã?
Ngộ Nguyên viết: Thiên uyên giả: Thiên hải dã, châu sở tiềm, nguyệt sở xuất dã, thử
đồ âm mạch âm huyệt, kim thủy chi tinh, ngọc hạp án tiền, Quỳnh hoàn hậu thác, cố
thượng ứng thiên uyên, nhi vi châu thai tá nguyệt chi tượng, táng pháp cận châu
hướng nguyệt, thủ ảnh nhị quang, tắc thực lộc quỳnh vi hĩ.

HÌNH 33. – Triều Sinh viết: Tích tốt thập nhị tinh, thổ binh tượng dã, hà dĩ ánh kim
liên trắc lộ?
Ngộ Nguyên viết: Kim liên tắc lộ, dả tượng dã, mạch thế tà trắc, lập huyệt chi xứ
hữu nhược lộ trích kim liên, cố thủ chi nhĩ. Thượng ứng tích tốt chi tinh, cái âm thịnh
nhi hữu võ quyền, cố vị thống ngự thiên quân, phi dả tượng dã. – Triều Sinh viết:
Nhiên tắc phương vị khả thiểu hoãn hồ? Viết: Thị tức sở vị phương vị dã, hề kỳ hoãn
tai!

HÌNH 34. – Triều Sinh viết: Ngọc hành quải đầu, thượng ứng thiên xương, thiên
xương cố hữu đẩu dã, hà sở thủ nghĩa?
Ngộ Nguyên viết: Phi thị chi vị dã, ngọc hành; thủy thành chi tượng dã, đẩu giả:
thủy mạch chi phụ, lệ nhược đẩu dã, thượng ứng thiên xương, nhân cụ trừ xúc chi
nghĩa, dĩ tương cảm dã, trụ sử trừ khanh: ngũ hành phương vị, tinh văn; địa linh dĩ
tượng dục dã, tử năng cầu sở dựng dục chi lý, kỳ như thị chư chưởng hồ?

HÌNH 35. – Triều Sinh viết: Thiên khu địa trục thủy khẩu nhị diệu tính dã. Cảnh
Thuần bất ngôn tha vật, chỉ ngôn diệu tinh, cự dĩ quý hiển hứa chi hà dã?
Ngộ Nguyên viết: Phù địa long chi mạch, bình di khoáng mạc, khí tuy thâm tàng, nan
vu câu tụ, đãn đắc thủy khẩu khẩn ải, tắc khí thâm nhi mạch tụ hĩ, phương vị ngũ
hành, tất hữu mỹ lợi nhiên hậu thủ chi, tuy bất ngôn hà hại kỳ ẩn, tử như bất ngộ,
tuy mai số điều trần, cùng dĩ nhật dạ, đồ kiến khuyên khúc chi ngoại tích, tằng thị dĩ
vi thuật hồ?
Triều Sinh viết: Khuyên khúc chi nội, thượng hữu kỳ tích? Viết: Tích hồ! Tích hồ, ngô
độc hữu bất tích giả hồ, tử năng vô tích, tắc vô vấn hỉ.

HÌNH 36. – Triều Sinh viết: Thử đồ toàn mạch cư bính, ngoại khí uy di, thành nhược
cẩm bình quải kính, Cảnh Thuần viết: Thượng ứng thiên tiền, vi cung tần chi quý hà
dã?
Ngộ Nguyên viết: Thiên tiền: kính chi tượng dã, hựu thuộc kim vi âm, cố ứng cung
phi chi quý, nhiên âm khí thịnh hĩ. Văn khúc tự hiền, bất duy nữ quý, nam diệc quý
dã.

xXx

Ba mươi sáu thủy kiềm đồ hình trên đây, do nhà Tiền triết Quách Cảnh Thuần, là bậc
cao siêu thâm thúy về địa lý thiên văn, tinh thông, tường tận long pháp, thủy pháp,
cả về sơn cốc và bình dương, đã nghiên cứu, kinh nghiệm, mới khai sáng, hoạh định
ra tam thập lục thủy kiềm ( là lấy gốc tự khôn nguyên dụng lục số, tức địa nhu số;
lục x lục = tam thập lục; 6x6= 36) rồi lấy Thiên tinh hiện tượng chiếu ứng ở trên
trời, mà xét đoán địa hình, kiểu cách ở miền Bình dương. Sẽ biết phát sinh phú, quý,
bần, tiện, họa, phúc v.v…

Sau lại có hai nhà địa lý trứ danh xuất thế là Đường triều sinh và Đổng Ngộ Nguyên,
đem ra vấn đáp, nghị luận để giải thích nhũng nghi vấn cho thời sư và để phổ biến.

107
Cứ theo sách chép, nhũng giải đáp về lý thuyết biệc bạch thì cũng lưu loát. Nhưng
theo như thiển kiến của tôi, thì chỉ đúng về phần địa đạo, là phần lý khí về âm
dương, ngũ hành, phương vị, sinh, khắc, vượng, suy thôi. Còn về phần Thiên văn,
mà lấy thượng ứng thiên tinh hiện tượng để đoán xét, thì cả là một mối nghi hoặc
huyền tuyệt, đó chỉ là lý thuyết ảo tưởng! Vì cổ sơ, về vấn đề thiên văn thì còn mập
mờ, chưa khám phá ra được minh bạch; nên các Ngài cứ tưởng tượng là, nhìn thấy
những vi tinh tú lố nhố ở trên, những ngôi gần nhau, thì cho là liên hệ với nhau nên
mới ngụy tạo ra là: Ghép những ngôi sao ấy thành bộ, để làm tượng trưng cho mọi
vật ở dưới địa cầu này, là để cho có uy linh thần thánh, chứ làm gì có thực như thế!
Cũng vì vậy, mà đời cho là huyền ảo, làm ngưng cản sự tin tưởng về địa lý, làm thiệt
thòi cho những người nghi hoặc, không tìm đất táng nên không được hưởng phúc về
mồ mả, là do đó!

Nhưng tôi cứ lục thuật y như nguyên văn, để các độc giả tự suy xét qua về ý thức cổ,
kim cho lịch lãm! Vì người đời phần nhiều là hiểu hình, thích kiểu; nếu không nói cục
đất là kiểu gì, thì cho là không phải danh sư và đất ấy dầu là quý địa, cũng cho là
thường! Vậy, cứ phải vẽ kiểu bày hình cho có vẻ…thôi! Xem hình kiểu là để biết hình
kiểu ấy thuộc về tinh thể hành gì? Ở phương vị nào? Tương sinh, tương vượng hay
tương khắc? Để xét đoán cát, hung ở đó, chứ ngoài ra không phải ở thiên tinh, địa
quỷ gì cả!
Vì vậy không muốn dịch nghĩa tỉ mỉ, cứ để nguyên chữ, đọc lên cũng hiểu và nghe
còn có vẻ hay, chứ dịch ra tiếng Việt thường thì nhiều cái chả có ý nghĩa gì cả không
cần phải biết tới cái thượng ứng thiên tinh, chỉ nhận cái hình thể của thủy kiềm thôi.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Phụ lục: Ngọc Tủy Kinh - Bình Dương
Việt Hải

Trong khoảng ấy, lại có những nơi bình địa đều là làng mạc khô cạn. Lại có những nơi
như Tứ xuyên, Ba thục, Tần lĩnh ( thuộc Trung Hoa). Có những núi cao ngất trời trên mây,
không phải tầm thường! Chợt có đôi chỗ bình địa xuất lạc long mạch kết huyết, là chỗ lãn
long ( long lươn, yếu) khí mạch không trường viễn.

 
Phụ lục
1. - Ngọc Tủy Kinh - Bình Dương

"Hựu hữu Bình cương Thiên xích long


Thử huyệt ngũ xích, tứ xích trung
Nhập huyệt thái thâm dị thành tuyệt
Tu yếu thiển dữ khí tương phùng
Kinh vân: Cổ pháp táng bình địa

108
Tu yếu nhất trượng hữu dư thị
Như hà trích huyền khước yếu thiển?
Khủng dữ Tiên hiền thuyết tương lệ!
Bất tri trung nguyên thiên lý bình
Dĩ thủy tầm long phi thường lý!
Long hành địa trung, bất xuất địa
Ẩn ẩn thâm tàng, long bất khởi
Nhược phi thâm táng bất đắc mạch
Thiên táng quảng mạc, hà xứ thị?
Hựu hữu giang hồ, hữu hồ hương
Tam, ngũ thập lý, giai Bình dương
Xuân, hạ mang mang giai thủy tẩm
Chi hữu thu, đông kiến tam quang
Bất nghi thâm huyệt, tụ long khí
Bất xử thủy tích niên niên thương!
Lưỡng hoài đông, tây hữu sơn lĩnh
U, Ký, Âm Sóc đa cao cương
Như hà chấp nhất khán bình địa
Gian hữu bình địa giai can hương
Hựu hữu Xuyên Thục cập Tần lĩnh
Phong nhập tiêu hán phi tầm thường
Ngẫu hữu bình địa xuất long huyệt
Nãi thị lãn long khi bất trường
Hoặc thị chi long phân mạch thiển
Bất năng tác thế viễn phi dương
Đãn tác đê bình tế nộn huyệt
Như hà quá mạch, yếu thâm tàng
Chính duyên thâm tàng, mạch tại thượng
Hạ cập hoàng tuyền thị tuyệt hương."

Giải nghĩa theo nguyên văn


Lại có tên gọi là Thiên xích long, ở miền Bình dương Huyệt ấy ở khoảng 4
thước sâu ( nói: Thước của Đông phương ta, I thước ta, dài 40 phân tây, tức
2 thước rưỡi ta , bằng I thước (Im) Tây phương) – Đào huyệt sâu quá sẽ bị
bại tuyệt! – Chỉ nên nông, vừa độ với chỗ khí gặp, giao tiếp với nhau thôi –
Kinh sách nói: Phép táng ở miền đất bằng ngày xưa – Phải nên sâu hơn 1
trượng ( 1 trượng là 1om) – Sao lại nói là nên đào nông? – Sợ sai với thuyết
Tiên hiền chăng? – Chẳng biết ở miền trung nguyên 1 ngàn dặm, đều là đất
bằng à! – Lấy thủy mà tầm long chẳng phải là lẽ thường. Long mạch đi ở
trong đất, không hiện ra ngoài - Ẩn nấp ở trong đất sâu kín; không đột khởi.
Nếu không chôn sâu, thì không có mạch được. Táng nông thì mạch chỗ nào?
Vì đất rộng xa! – Lại có những miền nhiều sông ngòi, đầm hồ, lạch vũng –
Hoặc 3,4 mươi dặm đều là Bình dương – Mùa xuân, mùa Hạ thì nước ngâm
mênh mang hết thẩy – Chỉ có mùa Thu và mùa Đông, mới thấy cạn nước và
rõ ràng, sáng sủa – Vậy nơi này không nên táng sâu, huyệt chỉ vừa độ ở
khoảng long khí tụ thôi. – Không nên để nước ngâm thấm vào thì bị tổn
thương! - Ở hai miền như Quảng đông, Quàng tây ( ở trung hoa) có nhiều
núi non. – Châu U, châu Ký về phía Bắc tỉnh Hồ nam ( nước Trung Hoa) có
nhiều núi cao âm sóc ( u ám) v.v…Vậy sao lại chấp nhất giữ một mức như
nơi bình địa được? Trong khoảng ấy, lại có những nơi bình địa đều là làng
mạc khô cạn. Lại có những nơi như Tứ xuyên, Ba thục, Tần lĩnh ( thuộc
Trung Hoa). Có những núi cao ngất trời trên mây, không phải tầm thường!
Chợt có đôi chỗ bình địa xuất lạc long mạch kết huyết, là chỗ lãn long ( long

109
lươn, yếu) khí mạch không trường viễn. Hoặc là Chi long phân mạch nhỏ
yếu, không thể phi đương xuất tác thế cục dài rộng được. Chỉ là cái huyệt
nhỏ bé, đê bình thôi! Như thế, sao có thể đào sâu quá mạch? Nên vừa độ
thông hợp với khí mạch thâm tàng thôi. Thâm tàng, chính nghĩa là huyệt ở
trên mạch. Dưới mạch là hoàng tuyền vô khí, chỗ tuyệt diệt không vong!

2. - "Trung nguyên, Bình địa cập Hồ hương


Hành long nhập địa, chí nan tường!
Tầm đắc long lai, vô huyệt hạ!
Mang mang khoát viễn, hà tương đương?
Thử thị Thiên bình chỉ khán thủy
Thủy nhiễu loan hoàn thị huyệt trung
Nhược hoàn xả thủy khứ tầm huyệt
Vọng vọng giai bình vô định tông!
Long huyệt phùng thủy, huyệt phương chỉ
Vô thủy lan, đoán khứ bất cùng!
Chư công ký thử thủy long quyết."

Nghĩa là
- Những miền Trung nguyên, miền đồng bằng, miền đầm, hồ, sông, nước
đọng. Long mạch đi vào đấy, rất là khó nhận rõ. Tìm được long lại, thì không
có chỗ hạ huyệt. Mênh mang rộng thẳm, không thấy chỗ nào tương đương,
khác cả. Đấy gọi là Thiên bình, chỉ xem thủy thôi. Hễ thấy thủy vòng quanh
là có huyệt ở trong vòng đó. Nếu bỏ nước, mà cứ đi tìm huyệt, thì trông chỗ
nào cũng là bình địa, không định rõ được tông tích long mạch. Long và huyệt
gặp thủy, thì mới dừng lại kết huyệt. Không có thủy ngăn lại, thì đoán là đi
mãi mãi không biết chỗ nào cùng tận. Đây là thủy long pháp, các ông ghi
nhớ lấy! Khác chứ không cùng một lệ luật với miền sơn cốc.
- Thiên xích là: long tích hiện ra ở trên mặt đất, tức là sống đất gồ lên. Thiên
binh là bình thản, không có sống đất gồ cao lên, tất nhiên phải đợi thủy mới
thấy. Mười ( 10) đồ hình dưới này, chỉ có hình đồ số ( 01) một, số ( 03) ba,
số (06) sáu, số (08) tám, là chân Thiên bình huyệt.

Cách thứ nhất (01): Một nê Long hình


Như con rồng, con rắn nằm giấu mình ở bãi bùn lầy, cũng có chỗ có long tích
hiện ra một chút ở ngoài bùn, có thể tìm được tông tích, mà không thấy toàn
thể được.
Hình trên này, là mộ tổ của Vương – Thái – Bảo huyệt này hai đời, làm đến
tước Tam công và năm đời làm tước Hầu. Dắt dẫn mạch ra khu bình điền
rộng lớn, không có sơn, điền phân biệt cao, thấp, rất là khó kiểm điểm: vì
mấy trăm dặm, mới khởi động khai trương long, hổ, tả, hữu tuy có hình
nhưng khó nhận thấy. Long mạch, đầu tiên hiện ở tam thai mãi sau mới kết
một huyệt, có hàng ngàn lời bàn nói! Vì mấy trăm dặm mới thấy cái sơn sa ở
trước, như vậy đâu có chốc lát mà xem thấy được!

110
Cách thứ hai ( 02): Tấu mã, Ngọc xích Long huyệt,
Hình thế phân minh, cao thấp khác nhau, không ví với những chỗ long khởi
phục được; phần nhiều người đến xem lược qua, chỉ thấy những ruộng cao,
ruộng thấp tán loạn cả, nếu không biết lấy cách Ngọc xích mà xem, thời
đương diện đều vượt qua cả, bỏ không nhận được!
Trên đây, là mộ tổ của Lý-Tướng-Công, phát bốn đời Tể phụ; một đời Thần
đồng; chín đời Khanh giám ( là những chức quan triều xưa).
Ngọc xích là cách quý long, nước chẩy đi, lại chầu trở lại. Đây là đại quý địa.

Cách thứ ba (03): Xuất thủy Liên Hoa hình

Hơn trăm dặm đồng ruộng bằng phẳng, đến chỗ có nước tụ, là nơi mạch tận

111
chỉ; biết là có phong loan thiển thiển, lạc xuống khu đồng ruộng, tản ra đồng
cỏ, huyệt xuất xứ như lá sen ngàn cánh. Thật là đặc biệt kỳ dị!
Trên đây, là mộ tổ của Dương-Tướng-Công là người thời Ngũ Đại ( ở Trung
Hoa). Đoài sơn, Mão hướng, ở giữa khu bình điền khởi lên một cái núi nhọn,
mạch lạc vào bình cương tản ra làm miền đồng cỏ. Ở trong miền đồng cỏ
này, có hai khu tỉnh điền ( xưa phân hoạch ruộng vuông từng khu, từng
khoảng gọi là tỉnh Điền); còn ngoài ra là khu bỏ cỏ mọc rậm rạp. Ở ngoài
huyệt có đại khê ( dòng lạch nước to) đấy tràn, làm khu nước ngâm bao vây
cả khoảng bình cương ( đồi bằng), cái núi hình Nga mi và núi nhọn ở ngoài,
cách xa huyệt chừng 6,7 chục dặm, sắc vẻ tươi xanh sầm uất. Chỉ có cái đồi
nằm ngang ở ngoài cái khe nước nhỏ, đã phát xuất tám đời Bái tướng rồi về
sau, làm quan mãi không dứt!

Cách thứ tư (04) Ngũ Long ấm thủy


Long mạch ở vùng bình điền tán loạn, khó nhận thấy rõ, mà lại lẫn lộn với
khê, giang, ngòi, lạch, tụ hội thủy giao, tung hoành câu cổ, chưa dễ dàng mà
thu thập được địa cục, nếu không phải là bậc có nhỡn lực cao minh, thì cũng
chỉ cho là đất thường ở khu ruộng cao, bên cạnh có thủy thôi! Chứ đâu biết
là quý địa!
Hình trên đây, là đất mộ tổ của Dương Tế Tướng Công. Tọa quý, hương đinh,
ở vùng bình điền chừng vài trăm dặm rộng lớn; duy chỉ thấy có ba (03) cái
gò đá ( tức là tam thai) là biết long mạch phục tàng ở trong miền bình địa,
mà song khê ( hai dòng nước khe) cũng dài ước vài trăm dặm. Cái sông lớn
giáp long, lại khuất khúc bày ngang ba lần gấp xếp ở trước mặt, đến chỗ
giao hội rồi chẩy ra; lại có núi đá nhọn đột lên thành cái đập đá ngăn nước
sông, là kỳ đột! Thắt nhỏ như lưng ong ( phong yêu) là một cái quý lạ! Ngoài
trăm dặm ở phía trước mặt, lại có hai lần tú phong tủng thúy! ( núi nhọn,
cao, đẹp) bày hàng như thành chướng! lại là một cái đặc kỳ nữa! tức là thái
sơn bút, viễn triều!

Cách thứ năm (05) Phi Phượng sang Châu hình

Huyệt ở hạ sa, ở dưới mỏ phượng thời là toàn đá, không thể đào xẻ được, lại

112
là thạch châu ngộ nhởn, là hình hại, phản, ở hạ chấu thì đã là không có hình
tượng hung lại thổ huyệt, đây là thiên tạo tự nhiên, không phải là nhân lực
di chuyển, khai phá, bồi đấp.
Trên đây là mộ tổ của Lưu-Trung-Thư, nguyên là gò đá ( thạch phụ) giữa có
đá ngũ sắc, ở trên, chỉ có thể lọt cữu, là thổ huyệt thôi! Thật là tạo hóa an
bài rất tinh xảo! Muốn xê dịch về bên tả, hay bên hữu hoặc về đằng trước,
đằng sau cũng không thể được nữa!
Bên ngoài cái sông lớn, có hai dẫy núi cao, đẹp kỳ lạ! chầu ở phía trước.
Ở chỗ thủy khẩu, thì hai bên bờ có đá liền tảng và đặc khởi núi đá, hình con
rùa rất đẹp! như bò đến gần đến giáp thủy khẩu. Chữ nói: “ Hà kỳ kỳ tai”!
( là: Sao lạ vậy thay!)
Vậy phát ba đời Tể tướng.

Cách thứ sáu (06): Tấu mã Hoàng Phi, Ngọc xích Long


Hoặc nói: Long mạch thì lấy ruộng cao có thể thấy, nhưng huyệt thì ruộng
bình đầu, khó nhận được đích. Chẳng được xem Tiên hiền lấy tông tích như
thế nào, mà bàn về phong thủy; xin ngài thử đào xẻ chỗ này xem đạo lý ra
sao?
Trên đây, là đất mộ tổ nhà Vương Mãnh, long đi luồn qua những ruộng cao,
lấy giữa ruộng làm huyệt. Long tích thì chỉ thấy 1 chỗ nổi đá, còn đá đều ở
chỗ ruộng thấp, chiếu chỗ quá long mạch, là Trạch tinh giáp; vậy thì, có thể
thấy rõ là mạch đi chìm ở trong, là giải đá những ruộng thấp, thì sao lại tìm
long ở trên đất cao! Vậy huyệt ở vùng Bình dương, thì tất là chỗ nào hơn mới
cho là chỗ ấy tốt, nhưng nếu nó lại trái hẳn với những chỗ bình địa khác, thì
những hàng trí giả, chẳng lấy chỗ cao làm huyệt, mà lấy chỗ có đá tức là
thạch huyệt.

Cách thứ bảy (07): Chân vũ phục xà hình

Thường gọi là Xuất thủy xà hình, chỗ mạch qua thì tinh vi nhưng tiếc rằng,
chỗ long phân thu là núi đá đen phá mạch! Như “ loạn sáp triết sang đao”!
Chỗ tổ tông sơn đã bất cát, kịp đến chỗ phụ mẫu sơn là thai tức, cho tới chỗ
kết huyệt, đều là Hắc thạch ( đá đen) cố xuất nhân bất khắc linh chung! Bất

113
tri Tạo hóa xuất thử huyền cơ, nhi bất dựng dục mỹ huyệt, nãi thuần hắc
thạch mạch, diệc khả tích tai! ( nghĩa là: không biết tại sao Tạo hóa đã bày
ra chỗ đất có cách hay, mà không có huyệt kết tác hay? Thật là tiếc thay! Vì
thuần là đá đen dẫn mạch, nên cái hay quý không trọn vẹn.
Trên đây là mộ tổ nhà Đàn-Đạo-Tế. Công danh tuy hiển, nhi bất linh chung!

 
Cách thứ tám (08): Phục Long hình, Ngũ lôi án
Hơn trăm dặm đều là bình điền, không có một cái gò núi nào, chỉ chỗ nhập
huyệt, có mạch đá nho nhỏ, long thân xuất về phía tay tả, Sơn long tác
nghịch triền, có năm (05) cái gò đá tác án, đấy là kỳ dị!
Trên đây là mộ tổ nhà Trương Yến Công, phát văn chương thanh danh, tước
vị huân danh, đều do đất này. Đây cũng lại là long huyệt ở điền trung, khó
nhận thấy, cũng nên nghiên cứu cho tường, mà tế nhận ở miền Bình dương
có thạch huyệt.

Cách thứ chín (09): Hành đại Long hình


Phục địa long hình thì không trông thấy, hành địa long hình thì có thể thấy.
Con rồng hiện hình lộ ra trong đám mây, rồi biến hóa mất ở trên không, nay
thấy hình lộ ở trên mặt đất, nên gọi là Hành đại long.
Trên đây là mộ tổ của Lý Tướng Công. Ở bên hồ Cổ sào, xa hồ độ tám, chín
dặm, không trông thấy nước hồ, chỉ có hai dòng nước giáp long thân, hội hợp
( giao lưu), thật là thủy thổ giao hội. Tương truyền: Lý Tướng Công tổ phần.
Thạch diệu hình như đầu lưỡi, ở bên ngoài tay long, tay hổ, không còn nghi
hoặc là hung nữa. Tả, hữu giao hộ, thật là cát diệu, nên phát quý. Là do sơn,
thủy tú, xuất sinh nhân.

Cách thứ mười (10): Cố - Tố Long hình


Hai bên sơn thủy giáp giới, ở khu bình điền chợt thấy sơn loan ( núi uốn
cong) không thấy chỗ tổ sơn lai long, chỉ thấy hai giải sơn, hai giải thủy chia
cách lưỡng giới, lai hội, triều bão phân minh lực lượng bất khả dương dã!
( tức thế mạnh).

114
Trên đây là đất tổ của nhà Triệu Phổ. Nguyên là đất tổ của nhà họ Lý. Tể
tướng chấp chính, Tiền hậu tương vong về thời Ngũ đại ( ở Trung Hoa). Về
sau, Triệu Thị lại đem mộ đến táng, tức là mộ thân phụ của Triệu Tướng
Công, lại phát xuất nữa. Họ Triệu táng ở trên, gần long bên tả là chính khí,
nên lại đại phát!
Ở nơi bình điền khoáng dã, không hẳn là chấp nhất huyệt pháp, hoặc thủ túc
lạo trạo, tức là chân tay so le, dáo dở. Là vì ở vùng không phải là miền sơn,
mà thấy sơn đã là kỳ, nên thủ túc, hình hài của long thân, hoặc một nhập địa
trung ( ẩn nấp ở trong đất) hoặc tản ra đồng điền, nên không lộ hình toàn
thể. Vậy không có thể lấy thường pháp mà ngôn luận, phải linh động thì mới
là danh sư!
Mười (10) cách đồ hình trên, là đất mộ tổ của những danh gia tiền đại ở
Trung Hoa, ký táng ở miền Bình dương, đã phát phúc, sinh nhân hiển quý,
lịch nghiệm, rồi mới họa đồ hình di lai, ở bộ địa lý chân truyền.
Nên tôi ( soạn giả) họa, dịch theo như nguyên bản, mà lược thuật để Độc giả
tế nhận và suy lượng ra những địa hình khác nữa, chứ không bút giấy nào có
thể dự tả hết được. Vậy sách nói: Thiên hình vạn trạng, biến hóa bất đồng,
cao minh khả biến.
Ở nước Việt Nam ta, về miền bình nguyên hay bình dương, cũng có nhiều
kiểu cách quý huyệt, đại địa. Tôi đã được đến tận nơi xem, chừng mấy chục
ngôi ở miền Bắc Việt đã kết phát, sinh nhân, thông minh, anh hùng, lạ
thường! Đại địa cao khoa, kế tiếp Công, Hầu , Khanh, Tương, Thế thế Đế
vương hùng vĩ, lịch sử ghi danh, như đã kể ở trên rồi. Tiếc rằng tôi chỉ được
xem qua đại khái, ở nội cục huyệt trường thôi, và nhớ sơ sơ, chứ không kịp
họa hình; vì hoàn cảnh, tình trạng quấc giả, xã hội, bị nhiều ngăn trở, chưa
có phương tiện, để trùng lai tái khán, tường tận địa hình, huyệt cách, nên
chưa có họa đồ, tôi rất là băn khoăn. Nay tôi đã bẩy chục (70) tuổi rồi, mà
vẫn còn gặp thời chiến tranh, đen tối mãi thế này! Chẳng biết có cho tôi
được làm như ý muốn hay không? Mong các Độc giả tiếp tục cho, nếu tương
lai có phương tiện.

115
116
 

Còn tiếp

Việt Hải

Nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn giới thiệu .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 9

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |

117
Đăng ngày: 17:25 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 1) - Hữ đệ nhất cách


Việt Hải

Hữ đệ nhất cách

"Thiều thiều mạch khởi tổ phương lai


Nhập não tu cầu lưỡng thủy lai
Hậu hợp đường tiền tiên tối hảo
Tự nhiên phú quý đích vô sai."

Chú viết: Kỳ mạch nhập não, Nhất viết: Mai hoa sát, Nhị viết: Song kim sát,
Tam viết: Đấu mạch sát , Tứ viết: Tán não sát, thử danh: Tứ sát bất khả táng
dã! Nhiên đáo đầu nhất tiết nghi tiểu tế , vi đê tắc cát , như bản thân chi tinh
, cao đại phát phúc nãi trú, hoặc oa, kiềm nhũ, đột, táng chi tất đại phú quý
hĩ.
Hựu vân: Nhập não tu cầu đoản tế vi. Nhược nhập yêu kiên tắc bất nệ, thô
đại trực trường giai khả tị , tế vi , đoản, tiểu quý vô nghi !
Thử đệ nhất cách: Tổ tông tủng bạt, thiều thiều thiên lý nhi lai, đại thế khai
kim thủy hình. Thái-cực tứ vi tinh phong, nội ngoại hướng phục, tả sa loan
nhĩ, hữu sa tiếp tục, phối đắc kỳ long , thử vi quý cục, tất nhiên phú quý chi
đại địa hĩ.
Chú vân: Vân tiêu thực thực nhất thiên trùng ( huyền vũ) thế nhược kim
hình dữ thủy thông; Hổ bão quá long triều cố tổ, long loan hướng hổ lập hồi
tông; Nam sinh tất đắc đề kim bảng, nữ xuất thanh kỳ nhập ngọc cung; Thùy
thức mạnh trung vi đệ nhất, thủy chi xu hướng sử nhân thông.

Giải nghĩa:

Cách thứ nhất


"Đùn đùn mạch tự tổ sơn lai.
Đến huyệt hai dòng nước khép đai.
Thủy hậu hợp tiền, hồ, nguyệt ánh.
Giàu sang đoán trước tất không sai."

Lời chú: Mạch này vào đầu, có những tên: Thứ nhất là: MAI HOA SÁT, Thứ
nhì: SONG KIM SÁT, Thứ ba: ĐẤU MẠCH SÁT, Thứ tư: TÁN NÃO SÁT. Bốn loại
Sát này không thể táng hài cốt. Vậy đến chỗ vào đầu một tiết thì cần phải
quan sát cẩn thận. Thấy chỗ vào đầu thấp nhỏ là tốt; Núi bản sơn cao lớn là
phát phúc, nên tìm chỗ có Oa, Kiềm, Nhũ, Đột mà táng tất đại phú quý.
Thơ rằng: Chỗ mạch vào đầu cần ngắn, cong và rất nhỏ. Nếu mạch vào vai
hay lưng thì chẳng cần câu nệ. Khi thấy mạch vào đầu mà thô, lớn, dài và
thẳng thì phải tránh; Mạch nhỏ, ngắn là quí vô cùng .
Trong cách này: Tổ tông sơn cao đại, mạch khởi từ ngàn dậm lần lần dẫn lại,
tới chỗ kết cục thì khai Kim –thủy hình. Cục này gọi là Thái cực, bốn bề có
núi cao, trong ngoài đều hướng phục, tả sa ôm cong, hữu sa ôm tả sa. Nếu

118
được long này mà táng huyệt thì là Quí cục, tất hưởng được phú quý của đại
địa.

Lại có thơ rằng:

"Ngàn lần lững thững, ngất chen mây,


Sơn thế hình Kim, Thủy uốn quây.
Hổ bão quá Long, hồi cố tổ,
Long đương hướng Hổ, hộ triều vây .
Bảng vàng đợi phát con trai đấy,
Điện ngọc chờ sinh cháu gái đây.
Ai biết mạch trong là quý nhất?
Nầy người thông thái khí thiêng này."

Hữu đệ  nhị cách


"Thiều thiều khởi tổ phái chi phân,
Nhập huyệt vi mang nãi thị chân.
Lưỡng thủy giao lai đường nội tụ,
Tự nhiên phú quý vĩnh thiên xuân."

Chú vân: Phàm mạch nhập não, tu cầu đoản thủy vi mang, thụ huyệt tắc
dương, nhược, thô đại trường trực nhập, thụ chi, bất sát tắc tuyệt! đới chi!
Đới chi! Nhiên bản cục tiên nghịch hậu long, thứ nghịch tả sa hữu sa, hữu tứ
sa nghịch, nội ngoại bao khỏa, tứ vi chu mật, sơn thủy hữu tình, phối đắc
chân long, thử thị quý cách, tất nhiên phú quý chi đại địa dã.

Chú vân:
"Thế tòng huyền vũ, hổ long phân
Tả hữu loan hoan nhập thử phần,
Lưỡng hổ đới triền thành triết phụ
Trùng long liên bút xuất hiền nhân.

119
Đường tiền nguyệt chiếu sinh Tiên nữ
Sơn hậu trùng trùng xuất tướng quân.
Đại địa khả tri y thử cục.
Đương minh huyệt nội thọ thiên xuân."

Hựu vân:
"Cục phương mã tử thế gian vô.
Thử địa thành vi hiến tước câu.
Địa trục tất sinh tam phẩm tự
Long hình duy xứ lưỡng long khu
Tứ vi viên tú thiên thu hảo
Vạn lĩnh tằng tằng bách thế luân
Phối đắc long chân minh huyệt nội
Tất sinh hào kiệt bá “ Hoàng đô”."

Hữu vân:
"Cục thế hình như vạn tinh thành
Tướng quân nghiêm tọa tại bình doanh,
Long châu sinh tại hải trung thủy
Hổ ấn phương như thiên thượng tinh
Chính án phẩm sơn hà tất vấn!
Chủ tinh củng nội chúng sơn hành.
Quan tương tự cổ kim vô địch
Phúc tự tiên sinh nhỡn lực tinh."

Giải nghĩa:

Cách thứ 2
"Núi cao khởi tổ, phách phân chi,
Đến huyệt, mạch còn bé tí ti.
Hai nước giao nhau gần trước mặt,
Giàu sang vĩnh viễn, quyết vô nghi."

Lời chú: Phàm mạch vào đầu cần có “ Đoản thủy vi mang”. Thụ huyệt nên
tìm chỗ dương động. Nếu mạch thô đại, dài, thẳng, mà lập huyệt thì không bị
sát cũng bị tuyệt cần phải thận trọng. Trong cục: Trước tiên cần có hậu long
nghịch, Thứ đến là Tả sa, Hữu sa nghịch. Bốn sa đều nghịch, trong ngoài bao
che, bốn bề chặt chẽ, sơn thủy hữu tình. Được long này đặt huyệt là quý
cách, tất nhiên sẽ hưởng được phú quý của chỗ đại địa.
Trong cách này: Từ chỗ khởi tổ lại, tới chỗ nhập cục là đại hình đại thế; trước
sau có ôm, che, phải trái được bao bọc, bốn phía có tinh phong cao khởi. Nội
cục thì loan hoàn, giữ ngăn được gió, tụ được khí. Đất phát đời đời làm quan,
phú quý viên mãn, là đại địa vậy.

Thơ rằng:
"Thế theo Huyền Vũ, Hổ, Long phân,
Phải, trái vòng cong ấp mộ phần.
Lưỡng Hổ thêm triền nên vợ tốt,
Trùng Long liền bút xuất hiền nhân.
Minh đường trăng chiếu, sinh tiên nữ,
Sơn hậu muôn lần, phát Tướng quân.

120
Đại địa là đây, ai khá biết.
Đường minh gần huyệt, thọ muôn xuân."

Hữu đệ tam cách


"Thiều thiều mạch phát tổ tông sơn.
Thế đoản hình trường huyệt chí nan.
Tứ thủy trừng thanh kim hữu thủy.
Đích nhiên phú quý lập triều ban."

Chú vân: Trực mạch nhập não, nghi cầu đoản thủy vi mang, giáp mạch nhập
huyệt tắc cát. Nhược trường trực thô đại nhập não bất khả táng chi! Bất tử
tắc huyệt, đới chi, đới chi!

Hựu vân: Bản cục tứ diện giai thủy, tả hữu loan hoàn, tàng phong tụ khí,
mộc tướng thủ thành, kim tinh lạc thủy, kỳ địa thậm giai, huyệt tinh nan thị,
phối đắc kỳ long , thử vi quý địa. Thử đệ tam cách, mạch tự phát tổ nhi lai,
tung hoành khúc trực, thủy tiến dương dương, sơn trùng thực thực, chỉ yếu
tế vi, minh sinh hướng lập , tắc thành chân huyệt dã.

Chú vân:
"Cổn cổn sơn hành đới thủy biên.
Tổ long cao trạc, tảo Khôi Nguyên.
Long cung giá bút đăng thiên ngoại.
Hổ bạn trừng thanh, nguyệt chiếu tiền.
Nhất địa, hà tri, tâm tối hảo.
Tử tôn phú quý tất thiên nhiên."

Giải nghĩa:

Cách thứ 3
"Lần lần mạch tự Tổ tông sơn.

121
Thế ngắn, hình dài, huyệt khó bàn.
Kim thủy như gương soi bốn mặt.
Đích là phú quý, phát cao quan."

Lời chú: Vì là mạch vào đầu thẳng, nên cần có “ đoản thủy vi mang” ở chỗ
gần huyệt là tốt. Nếu mạch dài, thẳng và xấu thì không nên táng; vì không
chết cũng bị tuyệt phải nên thận trọng. Trong cục: bốn bề là nước, bên phải,
bên trái cong và ôm vòng; ngăn giữ được gió, tụ được khí. Núi hình mộc ở
ngoài làm thành, núi hình Kim bên trong chìm dưới nước. Đất rất đẹp nhưng
huyệt tinh khó nhận. Nếu đặt huyệt ở long này thì là quý địa.
Trong cách này: Mạch từ Tổ sơn đến, chỗ ngang , chỗ dọc, chỗ gầy, chỗ
thẳng; nước chảy bon bon, núi dài trùng điệp, chỉ cần nhận xét cho thật tỉ
mỉ, lập được hướng SINH, ắt thành chân huyệt.

Thơ rằng:

"Sơn hành lớp lớp thủy liền bên,


Tổ sơn cao vút, phát khôi nguyên.
Trong Long: Bút giá cao vòi vọi,
Cạnh Hổ: Đầm trong trắng chiếu tiền,
Được một đất này ôi quá đủ,
Cháu con phú quý, lý đương nhiên."

Hữu đệ tứ cách
"Tổ khởi hữu lai nhập Tả kiên
Hữu sơn hữu thủy tụ đường tiền
Long sa tiên đáo vi triều án
Hổ bão ngoại long, phúc vĩnh miên."

Chú vân: Long hành uyển chuyển, phát tự tây cung chí đông cung nhập cục,
thủy hậu đáo tiền, long tiên quá hổ, hổ hựu bão long, thử bản thân dã. Cố
viết: Nghịch cục tắc tả hữu sa giai nghịch, chứng đắc chân long chính huyệt
nhiên, tả hữu tiền hậu, giai quý sa chiếu ứng, tri phú quý khả kỳ, tất nhiên
quý cách dã. Thử đệ tứ cách, tự phát tổ nhi lai, uyển chuyển hồi hoàn, long
thân đới bút, hậu quỷ, tiền quan, tứ vi chiếu nội, sơn thủy hồi hoàn, tam
tiêm sáp ngoại, thế xuất cao quan, thử vi quý địa, phúc hữu thiên nhiên.

Chú vân:
"Long hành uyển chuyển bút sinh biên
Thử thị Thần đồng trạc thiếu niên
Hổ xuất hổ mao, hình tự lập
Mả khiên mã tử, thế tranh tiên
Vân đằng sơn ngoại Thần đồng xuất
Nguyệt chiếu giang hồ, Ngọc nữ truyền.
Nhược kiến đại giang hoàn nhiễu bão.
Tất nhiên phụ tử kế Khôi nguyên."

Giải nghĩa:

Cách thứ tư
"Tổ sơn bên hữu, tả khiên kiên,
Hổ thủy theo Long, tụ điện tiền,

122
Long sa đến trước, loan triều án,
Hổ lại bao ngoài, phúc vạn niên."

Lời chú: Long hành uyển chuyển, từ phía Tây đến phía Đông mới nhập cục.
Nước ở sau vòng đến trước mặt. Long thoạt tiên bao quá Hổ, Hổ lại bảo
Long, do ở bản thân Long vậy. Nên nói: Hễ là nghịch cục, ắt Tả, Hữu sa đều
nghịch; nếu đủ bằng chứng là Long chân Huyệt đích thì bên phải, bên trái,
trước, sau đều có quý sa chiếu ứng; tất phú quý không lường được, và là quý
cách.
Trong cách này: Mạch từ Tổ sơn lại, uyển chuyển vòng về. Trên Long thân có
Bút, đằng sau huyệt có Quỷ sơn, trước huyệt có Quan sơn, bốn bề núi cao
hướng vào trong. Sơn thủy đều vòng cong ôm vào, ba ngọn núi cao nhọn
đứng sừng sững ở ngoài. Thế đất phát làm quan to, thực là quý địa, phúc tự
trời cho.

Thơ rằng:
"Long hành uyển chuyển, bút liền bên,
Ấy đất thần đồng, đỗ thiếu niên.
Hổ quất đuôi hùm, hình tự lập,
Dắt con ngựa mẹ, dáng tranh tiên.
Ngoài xa núi hiện, thần đồng xuất,
Trăng chiếu trong sông, ngọc nữ truyền.
Nếu được sông to vòng quấn lại,
Ắt là Phụ Tử kế khôi nguyên."

Hữu đệ ngũ cách


"Tổ khởi Tả kiên nhập hữu sa
Long tòng thủy nhiễu tụ đường oa
Long quá tây cung, tiên bái tướng
Hổ quá đông cung, thế thế khoa."

123
Chú vân: Tổ tông tủng bạt giả, mạch bác hoán nhi lai, tự đông chí tây nhập
huyệt, hậu hữu triều phục, tiền hữu bái yết, long hổ trùng trùng, oa trung
huyệt kết, chiếu đắc long chân, phối nghi chính huyệt, thế thế khoa danh,
trâm anh bất tuyệt, thử quý cách dã.
Thử đệ ngũ cách, tiên nghịch bản thân, thứ tả hữu sa giai nghịch, nhược kiến
thử long, hình chân huyệt chính, tả hữu hồi hoàn, tứ vi viên tĩnh, giai thị
chân long, thiên nhiên ký định, bất khả lậu truyền, sát thân táng mạng!

Luận giải vân: Cát cầm tinh, nhất cầm tiểu phú, nhị cầm trung phú, tam cầm
tứ cầm tỷ Thạch sùng, ngũ cầm lục cầm tề nhập huyệt, Đào, Chu kim ngọc
túc thiên chung, nhược yếu phát đại gia đại phú, cầm tinh trùng điệp đáo
phần trung, cứu bần tu yếu y thử pháp, Tăng, Dương diệu yếu đắc kỳ chân,
nhược kiến thành môn tam ngũ triết, nhi tông định dữ quốc vương thần.
Thủy khẩu thâm đàm tam ngũ tinh, định vi tướng tướng vạn dân hân!!!

Giải nghĩa:

Cách thứ năm


"Tổ sơn từ Tả Hữu liền sa,
Thủy tụ, Mạch dừng, Huyệt kết oa
Long quá Tây cung, triều bái tướng,
Hổ qua Đông vị, nối muôn khoa."

Lời chú: Tổ tông sơn cao tủng, mạch biến dạng mà lại, từ Đông sang Tây
nhập huyệt. Đằng sau có sa triều phục, đằng trước có sa bái yết. Tay Long,
Hổ trùng điệp. Huyệt kết oa. Nếu nhận là chân long nhập huyệt thì là quý
cách.
Theo cách này: Đầu tiên được cách nghịch long, thứ đến là Tả Hữu sa nghịch.
Nếu nhận biết Long này là hình chân, huyệt chính, tả hữu vòng ôm, bốn bề
núi non tròn trĩnh thì đích là chân long, là chỗ Đất Trời đã an bài, chẳng nên
tiết lộ mà bị họa táng mạng.

124
Luận giải về CÁT CẦM TINH:
- Nhất Cầm phát tiểu phú.
- Nhị Cầm phát trung phú.
- Tam Cầm giầu sánh Thạch sùng.
- Tứ Cầm như Đào Chu có vàng ngọc chứa ngàn chum.
Nếu muốn phát đại phú, đại gia thì cần phải có nhiều Cầm tinh trùng điệp
dẫn tới mộ phần. Nếu muốn đất Cứu bần thì cũng theo phép này. Đó là diệu
pháp của 2 vị TĂNG – DƯƠNG , để đạt đến chân huyệt. Ngoài thành môn mà
có 3,5 tinh sa thì định là phát tới Quốc Vương Thần. Nêu Thủy khẩu có hồ
sâu, lại có 3,5 tinh sa trấn giữ thì định là phát Tướng của Tướng, được muôn
dân hân hoan đón mừng.

Hữu đệ lục cách


"Thiều thiều phát tổ khởi căn nguyên
Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền
Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu
Bàn vu cục thế tự ngưu miên
Đường khai nội ngoại gia chân huyệt
Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên."

Chú vân: Mạch phát hữu kiên hành chí tả kiên nhập huyệt, tả hữu loan bão,
quần tinh lạc ứng, lưỡng diện giai thủy, kỳ bản cục hổ mạch dương chính
tích, bát khả táng dã! Nhiên lập huyệt tại dư khí táng chi tắc cát, nãi thị chân
huyệt, tất nhiên phú quý khả kỳ!
Thử đệ lục cách, tiên nghịch bản thân, thứ tả hữu sa giai nghịch, tiền chiếu
hỏa tinh, hậu lạc phốc đầu, sơn như hoa, quan đới chiếu minh huyệt nội thử
cục nãi Khôi nguyên chi quý địa dã.

Luận giải Thú Tinh:


"Nhất cá Thú tinh Kiểm bạ úy
Nhị cá Thú tinh Tri phủ quan
Tam cá Thú tinh Kinh lược chế
Đề hình chiêu thảo Vận ty quan
Tứ cá Thú tinh tố Thừa tướng
Ngũ cá phong hầu Phụ mã quan
Lục cá triều thiên phụ Đế vị
Hợp môn y quyến tận phong ban."

125
Giải nghĩa:

Cách thứ sáu


"Đùn đùn mạch tự Tổ sơn nguyên,
Khuất khúc trông như nét chữ “Huyền”.
Vai hữu chuyển tả, tả về hữu,
Hình như Trâu ngủ tại bình điền.
Minh Đường nội ngoại đều: Chấn huyệt,
Chiếu ứng quần tinh, phúc vạn niên."

Lời chú: Mạch phát từ vai phải chuyển qua vai trái rồi nhập huyệt. Bên phải,
trái đều vòng ôm, quần tinh ứng sau huyệt, hai mặt có nước bọc. Trong cục
Hổ mạch dương chính tích nên không thể đặt táng, lập huyệt tại chỗ Dư khí
ắt được tốt lành. Đó mới chính là chân huyệt, tất nhiên sẽ phát phú quý.
Trong cách này: Thứ nhất được bản long nghịch, rồi đến Tả, Hữu sa đều
nghịch, Hỏa tinh chiếu mặt tiền, sao Tả phụ ( phốc đầu) làm lạc sơn chiếu
sau đầu. Sơn như hoa, quan đới chiếu sáng ở trong cục. Cục đất này sẽ phát
Khôi nguyên và là đại quý địa.

Luận giải về Thú Tinh:


- Nhất Thú phát Kiểm Bạ úy
- Nhị Thú phát Tri phủ quan
- Tam Thú phát Kinh lược sử hoặc Đề hình, chiêu được giặc, hoặc phát Vận ty
quan.
- Tứ Thú phát Thừa Tướng.
- Ngũ Thú phát Tước, Hầu và được làm Phò Mã.
- Lục Thú được đội mũ Triều thiên, phụ giúp vua. Nếu hội hợp ở của khẩu sẽ
được tận phong ban.

Còn tiếp

126
Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Hữu đệ thất cách


Việt Hải

Hữu đệ thất cách

"Tổ tông tự hữu nhập long kiên


Hổ thủy hồi hoàn đáo diện tiền
Hổ bão quá cung tiên tác án
Long bao quá Hổ phúc miên miên."

Hữu đệ thất cách


"Tổ tông tự hữu nhập long kiên
Hổ thủy hồi hoàn đáo diện tiền
Hổ bão quá cung tiên tác án
Long bao quá Hổ phúc miên miên."

Chú vân: Mạch phát tây cung, hành chí đông nhập huyệt, kỳ huyệt nội kiến
lưỡng Thái âm tinh chiếu, hình như lưỡng hổ tranh nhục, tả hữu loan hoàn,
nội ngoại hướng phục, bút giá xâm vân, linh đàm ngoại chiếu, vạn thủy triều

127
quy, chư sơn hội diện, hữu như lập huyệt, kỵ đương chính mạch, bất khả
táng chi. Thử đệ thất cách. Mạch tự tây chí đông, nhập cục, thế tự kim tinh,
hình hổ tranh nhục , cực quý vô nghi, liên đăng khoa muc, táng bất chân
long, họa năng đoạt phúc!
Chú vân:

"Hậu sơn điệp điệp xuất trùng sơn


( Huyền vũ sơn, văn tinh thủy đầu nhi chỉ dã)
Long hổ thiều thiều thế nhược bàn
Thủy thanh nghi đắc thanh giang chiếu
( Đông phương thanh long hữu thảo mộc mậu thinh giả, hữu trường giang
nhiễu bão, cố viết thủy thanh)
Kim bạch tu cầu gián thủy loan
( Tây phương bạch hổ, hữu loan bão, cố viết kim bạch dã)
Nam tử tất sinh đa thịnh vượng
Nữ nhi định thi xuất bình an
Chân huyệt ký đắc truyền thiên thế
Vạn đại thời sư yếu sát quan."

Giải nghĩa:

Cách thứ bảy


Tổ long từ phía hữu tới, chuyển vào vai long sơn bên tả. Nước Hổ thủy vòng
ôm về phía trước mặt.
Tay Hổ bao quá cung làm án trước. Tay Long bao quá tay Hổ làm án sau, nên
phát phúc dài.
Lời chú: Mạch khởi từ Tây sang Đông nhập huyệt. Huyệt này: phía trong thấy
hai gò Thái Âm tinh như hai con Hổ đang tranh thịt. Bên tả, hữu cong vòng,
trong ngoài đều hướng phục. Núi cao chọc thủng mây, hồ linh ở ngoài chiếu
ứng, muôn ngọc nước quy triều về chúng sơn đều hội diện. Lập huyệt chớ
nên đương ở chỗ chính mạch vì ở đó phạm sát, không thể táng được.
Trong cách này: Mạch từ Tây sang Đông nhập Huyệt. Huyệt tinh giống hình
hai hổ tranh mồi là đất cực quý , chớ nghi ngại. Táng rồi sẽ phát liên khoa.
Nếu không táng đúng sẽ bị họa kinh khủng.

Thơ rằng:
"Sau đầu khởi phục điệp trùng san,
Long, Hổ lần lần thế uốn tròn.
Thủy thanh bởi tại thanh giang chiếu,
Kim bạch nên cầu gián thủy loan.
Nam tử nếu sinh, là thịnh vượng,
Nữ nhân hễ xuất, ắt bình an.
Huyệt sẵn an bài dành hậu thế,
Thời sư vạn đại đến chiêm quan."

Hữu đệ bát cách


"Tổ sơn vương tự, tự đông biên
Chuyển hữu nhi lai nhập tả kiên
Hổ bạn đáo tiền, long đáo hậu
Hà tu dịch thủy hội triều tiền."

128
Chú vân: Phát nguyên khởi tổ tả biên hành chí hữu biên, hữu đáo tả biên
nhập cục, giai bác hoán vi quý, nãi thị tử long hà dã? Đãn kiến long hổ kim
hình, năng khắc mộc hình, thị tử long dã! Nhiên long hổ hình sinh huyệt, tất
phát đại phú quý hĩ! Như long vô bác hoán, hựu viết tử long, hoặc đắc tả sa
hữu sa loan bão, tắc cải tử hoàn sinh chi cách cục dã, thử thị minh sinh lai,
ám tử khứ, chi sự tất hĩ.
Thử đệ bất cách, luận long hành bác hoán tự đông chuyển tây, tây hựu
chuyển đông, tả hữu tương hỗ, giai quý cách dã.

Luận giải Quý Tinh:


"Nhất cá Quỷ tinh phát bản nhân
Nhị cá Quỷ tinh tác tinh nguyên
Tam cá Quỷ tinh hàn lâm vị
Đề hình Án phủ Vận ty liên
Tứ cá Quỷ thần nhập triều sĩ
Nhật lệnh Quỷ mật phụ vương Thiên
Lục cá Quỷ tinh vi Chính bái
Hợp môn ân quyến quế chi sinh."

Giải nghĩa:

Cách thứ tám


Tổ sơn hình chữ Vương, từ mé Đông chuyển về bên phải dẫn vào vai trái.
Bạch Hổ đến trước, Thanh Long lại sau. Nước “ râu tôm” hội triều ở trước
huyệt.
Lời chú: Mạch từ Tổ sơn theo bên Tả chạy qua bên hữu, lại theo bên tả nhập
cục ; đều lột, đổi tốt đẹp là quý. Tại sao lại cho là Tử Long vậy? – Vì Long Hổ
là Kim hình nên khắc Mộc hình, đó là Tử long vậy. Trái lại, nếu được Tả, Hữu
sa loan bão thì lại được cách “ Cải Tử Hoàn Sinh”, đúng với câu: “ Hễ minh
sinh lại thì ám tử phải ra đi” sự việc ắt phải xẩy ra như thế.
Trong cách này: Luận Long lột đổi từ Đông qua Tây, Tây lại chuyển sang
đông, tả hữu hỗ tương với nhau , là quý cách vậy.

129
Luận về Quỷ Tinh:

- 1 Quỷ phát bản thân


- 2 Quỷ phát Tỉnh nguyên.
- 3 Quỷ phát Hàn lâm, Đề hình, Án phủ, Vận ty quan.
- 4 Quỷ phát thi đỗ, được nhập triều đình.
- 5 Quỷ phát Nhật lệnh quỹ mật giúp vua.
- 6 Quỷ được đăng đàn bái tướng.
Nếu Quỷ hợp ở cửa, toàn gia được đỗ đạt cao sang.

Hữu đệ cửu cách


"Long hình loan bão tứ vi viên
Khi tụ hình tàng tại thủy uyên
Sơn khởi kiền, khôn nghi cấn, tốn
Thủy trừng bất tiết huyệt thiên nhiên
Long khởi loan hồi nhất bao quả
Thủy tụ trừng thanh sơn nhất cá
Nguyệt chiếu tinh thần thân bão hướng
Thử địa khoa danh đa hiền bá."

Chú vân: Mạch khởi sơn nguyên, long vô bác hoán, nãi thị tử long dã, nhiên
tả hữu lưỡng sa loan bão, nhi thủy trừng thanh tứ thời bất kiệt, án tiền minh
tĩnh, thị tử biến hoàn sinh huyệt dã, nhược táng chi, đại quý hĩ. Thử đệ cửu
cách, luận sơn hình bao khỏa, khí tụ phong tàng, huyệt sinh thủy trung, nữ
quý nam xương, hựu vi quý cách dã. Thi vân: Lưỡng thủy phần trung đáo
diện tiền, Án phù thủy thượng nguyệt thu thiên; Hổ cung bão cứ long triều
ứng, Huyền vũ loan hoàn hữu thủy duyên; Yếu đắc tả biên sinh trác bút, Tu
cầu hữu bạn xuất tiêm viêm viên; Long hình đảo địa sơn như hốt, Tảo chiếm
khoa danh quán thiếu niên; Thủy khẩu thạch sơn xâm thiên viễn, Ủng khởi
nhai nga áp chúng môn; Đại đại vũ văn, nhân quá phủ, Anh hùng mãnh liệt,
vạn nhân khan!

130
Giải nghĩa:

Cách thứ chín


"Mạch vòng ôm khắp bốn phía của Viên cục.
Khí tụ, huyệt ẩn trong vực nước.
Sơn khởi ở các cung Kiền, Khôn, Chấn, Tốn.
Thủy lắng trong cả bốn mùa, huyệt thiên nhiên.
Long sơn khởi lên, vòng ôm một lần kín khắp.
Nước tụ trong xanh, núi một hòn.
Long lanh ánh trăng chiếu, lại có tinh phong bão hướng.
Đất này phát khoa danh nhiều người hiền đạt."

Lời chú: Mạch khởi Tổ sơn, Long hành không bác hoán, đích thị là Tử long.
Tuy nhiên, được tả, hữu sa loan bão, nước lại lắng trong bốn mùa không khô
kiệt; án đằng trước mình tĩnh, vậy là TỬ HUYỆT biến trở lại thành SINH
HUYỆT. Nếu táng hài cốt thì được đại phú quý.
Trong cách này:Sơn hình bao kín, khí tụ, lại che được gió, Huyệt sinh trong
nước, ắt sinh ra gái quý và trai hiền đạt, thật là quý cách.

Thơ rằng:
"Hai thủy phân chia hội mặt tiền,
Án phù thủy diện, cách thần tiên.
Hổ sa bao kín, long triều lại,
Huyền vũ vòng cong, thủy có duyên.
Tốt bởi tả biên sinh Bút lập,
Xinh vì hữu bạn núi cao viên.
Bởi long đảo địa sơn như hốt,
Sớm chiếm khôi nguyên rạng thiếu niên."
Thủy khẩu núi đá cao ngất trời, trấn giữ ở cửa nên đời nọ sang đời kia phát
văn võ, quân hầu đầy đủ trong dinh , nổi tiếng anh hùng được vạn người
khen.

Hữu đệ thập cách


"Tổ sơn tự hữu quá long kiên
Nhập não đường minh nhất tiết thiên
Yếu đắc hữu sa bao quá huyệt
Tất sinh phú quý tử tôn hiền."

Chú vân: Mạch khởi hữu chí tả nhập cục, hổ tiên đáo đường, long hậu tiếp
tục, nội ngoại loan hoàn, tả hữu khởi, phục. Thành thượng tinh phong, giang
loan bàn nhiễu; thủy hiện sơn trung, thử vi quý cách, nhiên đắc kỳ huyệt,
phát phúc tậm giai, nãi thành quý cục.
Hựu vân: Tứ sơn nhai chĩ, lưỡng thủy hợp hoàn, long hổ bàn nhiễu, thủy xuất
chi huyền, hình sinh kim kiên, thế tự hổ miên, nãi thị quý cách dã. Thử đệ
thập cách, luận đại hình đại thế, vạn thủy vạn sơn, tiền quan hậu quý, chủ
khách hồi hoàn, tất nhiên phú quý, phát phúc vĩnh miên. Kinh vân: Thập nhị
long loan, thị Thiên tử chi địa, dĩ hà vi Thiên tử? Khởi hữu thập nhị long loan
bão hà? Nhược đắc cửu, thập long giả, giai Thiên tử chi địa, tất cầu ngoại thế
vọng triều, hoặc tam đại án ngoại loan hoàn diệc nhiên, án cao như Thái sơn,
hậu tự Côn lôn địa, thị xuất long nhị thập chi địa dã.

131
Giải nghĩa:

Cách thứ mười


Mạch khởi từ Tổ tông đến vai hữu long, chỉ vào đầu một tiết. Vì được hữu sa
bao quá huyệt nên sinh được con cháu quý hiển.
Lời chú: Mạch bên hữu tới bên tả nhập cục, trước tiên là Hổ sa tới minh
đường, rồi sau lại đến Long sa tiếp tục. Trong ngoài ôm cong về, Tả hữu có
tinh phong cao đại khởi phục. Song to uốn quanh, thủy hiện trong núi, là quý
cục. Để huyệt tại long này sẽ phát phúc lâu dài.
Lại nói: Bốn phương núi đến, hai thủy hợp hoàn, Long Hổ quấn quanh, thủy
xuất chi huyền. Huyệt tinh hình kim, thế như Hổ nằm ngủ, rất là quý cách.
Trong cách này đại hình đại thế, có muôn dòng nước, có vạn hòn núi. Tiền
Quan, hậu Quỷ, mọi khách sơn đều triều về, tất nhiên sẽ phát phúc đời đời,
phú quý không lường được.
Kinh nói: Có 12 Long ôm là đất sinh ra Thiên tử
- Thế nào mới là đất sinh ra Thiên Tử? Phải chăng cứ phải có 12 Long ôm
bão?
- Nếu chỉ được 9 -10 long loan bão mà cũng là đất sinh ra Thiên Tử, thì phải
cần ngoại thế chầu vào hay phải có 3 đại Trùng án ở ngoài ôm cong về huyệt
mới là đúng. Ẩn trước phải cao như núi Thái Sơn. Núi sau phải cao dầy như
núi Côn Lôn mới đúng là long xuất nhị thập chi địa vật.

132
Hữu thập nhất cách
"Tổ khởi long kiên nhập hữu kiên
Đáo đầu nhất tiết trực lai thiên
Tu cầu hổ bạn bao quá huyệt
Phú quý công danh thế thế truyền."

Chú vân: Hữu chuyển nhập não, vị chi đấu mạch, tán não nhị sát, pháp bất
khả phạm, nhiên đắc hữu sa bão quá long cung, mạch nhập não tế vi bất sát,
thử cách nãi diệu truyền chi thuật giả, đương tế sát ư đồ trung, nhu hữu
cách giả táng chi, tất phú quý khả kỳ, nãi vi quý cách dã, Thử ngôn Hổ nhập
đông lâm, nhân thế chi phú!
Thử thập nhất cách, luận long đáo đầu trực đấu, vị chi đấu sát đới chi! Nhiên
hữu sa, tả sa loan bão, thử minh sinh lai, ám tử khứ, nãi vi diệu dụng chi
pháp dã.
Luận Bắc thần: Nhất cá Bắc thần quản vạn hộ, Phụ Mã phong Hầu chiêu thảo
danh! Cao đại cánh nan tủng Vân Hán, Tất thị tranh thiên đoạt quốc nhân;
Nhị cá Bắc thần lưỡng bạn sinh, Thô ngang ủng khởi đảm hàn kinh; Thử tinh
định xuất kình thiên tướng, Trảm thạch phong vương hộ quốc thần.

Giải nghĩa:

Cách thứ mười một


Tổ khởi từ vai long nhập vào vai hữu long, vào đầu một tiết rồi đi thẳng vào
ngay cửa trời. Bên hổ nên bao quá huyệt. Phú quý công danh đời đời được
truyền tụng.
LỜI CHÚ: Từ bên hữu vào đầu thì gọi là ĐẤU MẠCH, TÁN NÃO , hai cái đại
sát. Theo lý thì không nên phạm. Tuy nhiên, vì được hữu sa bão quá long,
chỗ mạch vào đầu lại nhỏ nên không bị phạm sát. Cách này là sự diệu
truyền, cần quan sát tỷ mỷ nơi đồ hình. Cứ như cách này mà táng tất phú
quý không nói xiết được, vì là quý cách vậy. Cách này gọi là “ Hổ nhập rừng
Đông” phát phú lừng lẫy trong đời.

133
Trong cách này: Long vào đầu trực đấu nên gọi là “ ĐẤU SÁT MẠCH”. Tuy
nhiên, vì Tả, Hữu sa loan bão, ấy là “ Minh sinh lại ám tử đi” nên trở thành
diệu dụng chi pháp vậy.

Luận về sao Bắc Thần: Có được 1 sao Bắc thần là có thể cai quản được vạn
cửa, làm tới Phò Mã và được phong Hầu. Nếu núi Bắc thần cao lớn chọc
thủng mây, tất sinh người tài giỏi có tể tranh thiên, đoạt quốc với thiên hạ.
Nếu được 2 cái Bắc thần ở 2 bên Thủy khẩu trông thô ngang, cao đại khiến
người yếu bóng vía trông thấy phải sợ hãi thì đất sẽ xuất ra bậc Tướng “
Kình thiên, trảm thạch”, sẽ được phong Vương, làm Hộ quốc công thần.
 
Hữu thập nhị cách
"Tổ khởi hữu kiên nhập long kiên
Đáo dầu nhất tiết huyệt lai tiền
Tu cầu tả bạn bao quá cục
Vạn dại khoa danh thế thế truyền."

Chú vân: Tả lai nhập não, vị chi mai hoa song kim nhị sát! Pháp bất khả
phạm! Nhiên tả sa bão quá hổ cung, mạch nhập não tế vi, tắc bất phạm, thử
cách nãi diệu truyền chi pháp dã, dương tế sát ư cục trung, như hữu cách giả
táng chi, tất phú quý khả kỳ, nãi quý cách dã . Thử ngôn: Long quải tây hoài,
danh đề nhạn tháp. Thử nhập nhị cách, luận long lai tả hữu, mạch nhập yêu
kiên, tả sa nhiễu bão, văn xuất Khôi nguyên, chân vi quý địa dã. Hựu luân
quan tinh: Thả thuyết quan tinh thiểu nhân chi! Hình như sương kiếm tỏa
đinh trùy; Án bất kiến hề vi đại cát, Phong Hầu phong tướng tụ ân uy! Long
hình sinh trạch tiêm như sương. Chỉ hậu chi gian bội kim chương; Song song
bình địa tiêm như kiếm. Toàn gia tử tức nhập triều đường; Bạ uy, Thừa thiêm
chức vị đê, Quan tinh đê tiểu thái thừa vi; Nhị vị quan tinh trường cánh đại,
hình hiển vi quan định chước bài.

Giải nghĩa:

134
Cách thứ mười hai
"Tổ khởi ở phía hữu nhập vào vai long,
Vào đầu chỉ một tiết là tới ngay huyệt.
Nên cầu được Tả sa bao quá cục đất,
Sẽ phát khoa danh được đời đời truyền tụng."

Lời chú: Mạch từ phía tả lại, vào đầu , được gọi là phạm MAI HOA SONG KIM
nhị sát. Theo phép thì không thể táng huyệt được. Tuy nhiên, vì tả sa bao
quá hữu sa, mạch vào đầu lại rất nhỏ nên táng được mà không bị phạm sát.
Đây là phép truyền lại rất huyền diệu. Nên quan sát thật cẩn thận ở trong
cục, nếu quả có cách này thì nên đặt huyệt. Tất phú quý không thể lường
được vì là quý cách vậy.
Trong cách này: Long từ tả qua hữu, mạch nhập vào vai long tả sa bao quấn,
văn đậu tới khôi nguyên, đúng là đất quý.

Luận về Quan tinh:


Cái thuyết về quan tinh rất ít người biết. Hình như ngọn giáo, cây kiếm, ở
trong án không trông thấy được là đại cát, sẽ phát phong hầu, phong tướng,
được thụ hưởng ơn vua lộc nước. Nếu thấy long hình sinh đá nhọn như mũi
giáo chỉ về phía sau là đất phát võ tướng, được ban thưởng nhiều huy
chương. Ở nơi bình địa, nếu thấy hai gò đất song song, nhọn như mũi kiếm
thì đoán là đất toàn gia sẽ nhập triều đình. Bạ úy, thừa thiên, chức chẳng
phải nhỏ. Quan tinh nếu thấp nhỏ thì nên bỏ, chẳng nên làm. Nếu như quan
tinh dài lớn, hình tốt đẹp thì đúng là đất phát làm quan vậy.

Hữu thập Tam cách


"Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên
Sơn cao huyền vũ, thủy chi huyền.
Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội
Thử địa vinh hoa phú quý toàn."

Chú vân: Mạch khởi long cung, chuyển chí hữu cung, hữu đáo tả cung nhi
nhập huyệt, long cung tiên triều án, bạch hổ điệp điệp sa, huyền vũ sơn cao
toán, minh đường thủy tụ oa, nhược chiếu minh huyệt nội, nữ sinh phú quý
đa, thử vi quý cách dã. Thử thập tam cách, luận long bác hoán, bình địa hữu
sơn, chư sơn triều huyệt. cả cá hồi đầu, sơn lai thủy tụ, huyền vũ kiên thu,
giai vi quý địa dã.

135
Thi vân:
"Thế thế tương liên bất dục phân
Thủy sơn thâm xứ thị tri phần
Hổ sơn thủy tẩm sinh dâm nữ
Long thủy phi tha, xuất đãng nhân
Nam gián khê cùng vô thí trúng
Bắc thần lộ trực nữ vô nhân
Địa hình hà tất tri kỳ sự
Thiết yếu tu cầu chính thị vân."
Luận dương thủy triều: Đại phàm thủy triều giả, yếu bản thân , hữu sa quan
lan phương hảo. Thủy lai sa ngoại, hiệu dương triều, thế thế vi quan cách
phú nhiêu, nhược kiến đại giang trào nhập giả, quản giao cực quý thượng
thanh tiêu.

Giải nghĩa:

Cách thứ mười  ba


"Mạch khởi Tổ từ vai tả nhập vào vai hữu Long,
Núi Huyền Vũ cao dày, thủy chảy như chữ chi, chữ huyền.
Minh đường trong sáng, được nhật nguyệt chiếu minh,
Đất phát vinh hoa phú quý toàn vẹn."

Lời chú: Mạch khởi từ tay Long, chuyển sang Hữu, lại chuyển qua tả rồi mới
nhập huyệt. Tay Long trước tiên đến làm triều án. Tay Hổ thì sa hội trùng
trùng. Huyền vũ từng dẫy núi cao vòi vọi. Minh đường thủy tụ, huyệt hình
oa. Vì được Nhât Nguyệt chiếu sáng huyệt nội nên con gái sinh ra đều được
phú quý, ấy là quý cách vậy.
Trong cách này: Long hành biến đổi, đất bằng có núi, các núi đều chầu về
huyệt, từng từng núi đều quay đầu về. Minh đường thủy tụ, Huyền vũ kiêm
thu về cả được, đúng là đất quý địa.

136
Thơ rằng:
"Mạch thế liền liền chẳng chịu phân,
Nước non sâu kín khó tri phần.(1)
Hồ sơn nước ngầm sinh dâm nữ,
Long thủy bay xa xuất đãng nhân. (2)
Nam thấy khê cùng, thi chẳng trúng,
Bắc nhìn núi thẳng ít người nhân.(3)
Đất hình như thế đâu bày chuyện,
Cứ thực phơi bày chẳng dối phân.
(1) Cái mộ. (2) Đãng nhân: người du đãng.
(3) nhân: lòng thương người."

Luận về dương thủy triều: Phàm có nước triều về thì bản thân phải có hữu sa
quan lan ( đóng sóng) mới tốt. Nước chẩy đến, sa ở ngoài gọi là dương triều,
đời đời phát quan, lúc hết lại phát phú, nếu được sông to triều nhập thì cực
quý.

Hữu thập tứ cách


"Thiều thiều mạch khởi viễn phương lai
Uyển chuyển hồi hoàn khuất khúc hồi
Vạn thủy thiên sơn quy nhiễu hậu
Kỳ sơn tú thủy thị bàn hồi."

Chú vân: Mạch hành thiên lý, phân chi cán nhi lai, hữu tả thuận hành loan
bão, sơn hồi thủy chuyển, nội ngoại giao khâm, thử thị hồi long cố tổ chi địa
dã, giai vi quý cục, nhược minh huyệt nội, phú quý kiêm toàn, thử chi vị:
Mạch nhập cước, thủy nhập hoài, kỳ thế thậm diệu nan mịch. – Chú vân:
Tòng tả nhi lai vị chi sinh mạch, tòng hữu nhi lại vị chi thốn mạch. Thử thị
thập tứ cách, hồi long cố tổ, mạch phát căn nguyên nhi lai, thượng phân
huynh đệ, hạ hợp tổ tông, chư sa hộ tống, vạn thủy hồi đông, mạch tòng hữu
nhĩ, huyệt xứ tàng phong, thời sinh hào kiệt, thế xuất anh hùng, thử vị hồi
long cố tố dã, chiếu đắc huyệt chân, nãi đại phú đại quý chi địa dã.

137
Chú vân:
"Hậu tiền sơn thủy các phân hành
Chỉ thị sơn đầu chủ khách nghinh ,
Long mạch hà tu cầu địa cát
Huyệt thành bất tất hợp thiên hình
Hữu tình bất việt sơn hồi bão
Sa xứ vô qua địa thản bình."

Giải nghĩa:

Cách thứ mười bốn


"Lớp lớp từ xa mạch dẫn lai,
Quanh co uốn khúc thế loan hồi.
Ngàn lần sông núi đằng sau tiếp,
Nước biếc non xanh, cách tuyệt vời."

Lời chú: Mạch lại từ ngàn dậm phân thành chi, cán mà tới; cứ theo phía tả
mà đi thuận, sơn hồi đầu, thủy nghịch chuyển; trong ngoài giao nhau ở chỗ
hợp khâm; đó là cách HỒI LONG CỐ TỔ, là quý cục, nếu tìm được huyệt ở
trong mà táng thì phú quý được kiêm toàn. Cách trên đây gọi là MẠCH NHẬP
CƯỚC, NƯỚC NHẬP HOÀI, thấy thì làm chớ mách ai.
Trong cách này: Mạch theo phía tả lại nên là sinh mạch, nếu mạch theo phía
hữu lại thì gọi là thốn mạch ( mạch càng ngày càng suy đốn đi). Trong cục
đất này thì mạch phát khởi từ chỗ đầu, phía trên đã phân thành huynh đệ
long, phía dưới hợp cả tổ tôn long. Trong cục có chư sa hộ tống, vạn thủy hồi
đồng, mạch theo tai hữu mà vào, chỗ kết huyệt tàng được phong. Đất phát
sinh ra người hào kiệt, anh hùng, đó là đặc tính của cách HỒI LONG CỐ TỔ
VẬY. Tìm được long chân huyệt chính mà táng, ắt là được phú quý.

Thơ rằng:
"Trước sau sơn thủy khéo phân hành,
Chỉ ở sơn đầu, chủ khách nghinh.
Long mạch cần chi cầu địa cát,
Huyệt thành chẳng hẳn hợp nguyên hình.
Hữu tình bởi tại sơn hồi bão,
Đầu phải không sa, đất thân bình."

Hữu thập ngũ cách


"Long lai thực thực nhập đông biên
Thủy hội đường tiền phóng hữu huyền
Thượng phân tả hữu vi cầm thế
Hạ hợp giao già hữu thú miên."

Chú vân: Hồi long cố tổ, mạch tự phát nguyên nhi lai, thượng phân huynh
đệ, hạ hợp tổ tông, tàng phong tụ khí, tiền thủy trừng thanh, hậu sơn cao trĩ,
ngoại chiếu chư tinh, nội tàng tứ mỹ, táng đắc chân long, phát đại phú quý,
thử vị hồi long cố tổ chi quý cách dã, nãi thị chân long, tất nhiên phú quý hĩ.
Thử thập ngũ cách, hồi long cố tổ, mạch phát sơn điện nhi lai, thượng phân
tả hữu, hạ hợp giao khâm, lưỡng sa hộ tống, chúng thủy triều lâm, mạch
tòng tả nhĩ, cục thế nhược cầm, chư tinh chiếu nội, gia đẩu lượng kim, chiếu
minh thử huyệt, thế xuất anh hiền, thử vị hồi long cố tổ chi chính cách dã,

138
nãi đại phú đại quý chi địa mạch dã.

Chú vân:
"Tổ phát cao phong cổn cổn lai
Hùng thư tả hữu lập môn đài
Đường trung hữu thủy loan như nguyệt
Án ngoại đường lai tịnh liệt thai
Nam trù khổn ngoại bình doanh thượng
Nữ quản cung trung phượng các khai
Nhược kiến ngoại sơn phong trĩ lập
Vinh hoa phú quý đích vô sai."

Giải nghĩa:

Cách thứ mười  lăm


"Đùn đùn Long dẫn tới bên Đông,
Tụ trước Minh đường, thủy phóng thông.
Thượng thế như cầm hai cánh mở,
Hạ sa tựa Thú ngủ bên đồng."

Lời chú: Cách HỒI LONG CỐ TỔ thì mạch từ chỗ phát nguyên lại, phía bên
phân thành Huynh đệ Long, chỗ dưới hợp được cả Tổ tôn Long. Chỗ kết
huyệt tàng được phong, tụ được khí. Thủy lắng trong ở phía trước, sơn cao
đại ở phía sau, các ngọn núi ở ngoài chiếu vào trong, sơn ở trong hình dáng
tú mỹ. Nếu táng ở đây sẽ phát đại phú quý vì HỒI LONG CỐ TỔ là quý cách
vậy.
Trong cách này: Mạch xuống từ đỉnh núi, trên phân thành tả, hữu; dưới hợp
ở chỗ giao khâm. Có hai sa hộ tống và rất nhiều ngọn nước triều vào. Mạch
theo tả nhĩ vào, cục thế như loài cầm, được chư tinh chiếu nội. Phát xuất anh
hiền là chính cách HỒI LONG CỐ TỔ, phát đại phú quý vậy.

139
Thơ rằng:
"Tổ phát cao phong cuộn cuộn lai,
Thư, Hùng hai phía lập môn đài.
Trong đường, án nhỏ cong như nguyệt,
Ngoài lại tam thai án thứ hai.
Nam vào triều trước ngồi dinh thượng,
Nữ nhập cung sau ngự các đài.
Nếu được núi ngoài cao đại lập,
Vinh hoa phú quý chẳng còn sai."

Hữu thập lục cách


"Tổ tông thực thực tổng thiên trùng
Long mạch thô ngang nhất lý tòng
Nhất tiết hoành lai nhi nhập cục
Lưỡng sơn triều đối, lập thần đồng
Long cung tiên đáo hồi tây cá
Hổ bạn hoành lai tất bão long
Ngọa tỉnh diện câu nhi hướng nguyệt
Tất nhiên phú quý nữ nam đồng."

Chú vân: Mạch lai thực thực, khí tượng thô hùng, tứ vi trĩ lập, tả hữu long
cung, đáo đầu nhất tiết, văn vũ tịnh đồng, nữ sinh cực quý, thế xuất anh
hùng, trường trung thủ đoản, huyệt tại kỳ trung. Thử thập lục cách, Tổ sơn
cao tủng, mạch phát thô hùng, long hành trường viễn, tinh ứng tiêm phong,
thần đồng thị lập, hoành thủy nhiễu long, hoành sinh nhất tiết, huyệt nội
tàng phong, tất nhiên quý địa, thế xuất anh hùng, chiếu minh thử huyệt,
nam tử hanh thông, thử cách thị chân long dã.

Thi vân:
"Tả hữu loan hoàn ký hữu tình
Nghiệm quan huyền vũ nhược bồng doanh
Hữu tình tất kiến sinh đa tử
Vô thế đương quan tử bất sinh
Vạn nghiệm tri sinh, dữ tri tử
Đường tiền khuynh tả hãm nhi khanh
Bắc phương nhược khuyết thâm y hậu
Hà thủy lưu hành quá bất đình."

140
Giải nghĩa:

Cách thứ mười sáu


"Tổ tông cao đại, núi muôn trùng,
Long mạch thô ngang, một dặm vòng.
Một đốt quay ngang rồi nhập cục,
Hai gò triều đối lập thần đồng.
Tay Long tới trước vòng Tây, bão,
Hổ lại vòng qua bão tại Long.
Huyệt giếng, tiền cong, ôm án nguyệt,
Tất nhiên vinh hiển nữ nam cùng."

Lời chú: Mạch cao đi lại hình thế thô hùng, bốn bên cao sừng sững, hai bên
tả, hữu cung chào. Mạch vào đầu chỉ một tiết, đủ cả văn võ tinh. Con gái sinh
ra ắt cực quý. Con trai đời đời phát anh hùng. Trong chỗ dài lấy cái ngắn,
huyệt ở chỗ giữa.
Trong cách này: Tổ sơn cao đại, mạch phát thô hùng, long hành thô, xa và
dài, những ngọn núi cao đều được thiên tinh chiếu ứng, núi thần đồng đứng
sừng sũng, nước hoành thủy quấn long, mạch hoành sinh, chỉ dài một đốt,
huyệt ở trong che được gió, tất nhiên là quý địa, đời đời phát xuất anh hùng.
Nếu tìm đúng long chân huyệt chính mà táng sẽ phú quý nhiều.

Thơ rằng:
"Tả hữu vòng cong thấy có tình,
Xem qua Huyền vũ tưởng bồng doanh.
Hình chân thì tốt là sinh vượng,
Thế nhược cho là tử chẳng sinh.
Kinh nghiệm vạn lần sinh với tử,
Đường nghiêng là: tả, hãm là: khanh ( vùi).
Bắc phương nếu khuyết không cao hậu,
Sợ nước lưu hành chẳng chịu đình."

141
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 10


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 17:30 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Hữu thập thất cách


Việt Hải

Hữu thập thất cách

"Tổ sơn đại khởi nhập long kiên


Thủy nhiễu loan hồi hậu đáo tiền
Tả hữu loan hoàn lai hướng phục
Tế vi nhất tiết nhập yêu thiên."

            
Hữu thập thất cách

142
"Tổ sơn đại khởi nhập long kiên
Thủy nhiễu loan hồi hậu đáo tiền
Tả hữu loan hoàn lai hướng phục
Tế vi nhất tiết nhập yêu thiên."

Chú vân: Sơn sinh hữu bạn, hành chí tả biên, nhập yêu kết huyệt, hậu thủy
trừ tiền, đường tâm tụ khí, nguyệt chiếu đường tiền, long hổ giao hỗ, tả hữu
nghịch triền, nhận đắc chân huyệt, phú quý diệc nhiên. Hựu vân: Long hồi hổ
bão, tả hữu hộ triền, đường tâm nguyệt chiếu, ngoại bút quải thiên, chiếu tri
huyệt nội, phú quý kiêm toàn. Thử đệ thập thất cách: Sơn hành thô đại, cục
kết tế vi, sơn kỳ thủy tứ, long hổ triều quy, giai như thử địa, phú quý như
chi.

Luận Quỷ tiêm diệu:


"Hà dụng thiên tinh, hà dụng quái
Thủy kim định thị, thử ngôn sai
Lộc mã quý nhân, thôi quan thuyết
Đáo đầu chung thị bại nhân gia
Bút giá lâu đài sương tinh kiếm
Tiện thị quan tinh diệu tế vi
Bình dương hoành án lai loan bão
Hậu sơn trực khứ, vi sương trùy
Sinh chủy sinh dực thị cầm hình
Hữu giác hữu nha thử thú tinh
Tùy hổ tùy long giai xuất hiện
Noa tinh đại tiểu hộ long thần."

Giải nghĩa:

Cách thứ mười bảy


"Tổ sơn cao khởi, chuyển vai long,
Tụ hậu lai tiền, thủy uốn cong.
Long, Hổ, sa loan, triều, củng, phục,
Tinh vi nhất mạch nhập yêu cong."

Lời chú: Núi phát sinh ở bên hữu hành long tới bên tả, vào lưng kết huyệt.
Hậu thủy tới đọng ở trước mặt, Minh đường tụ được khí, có án hình mặt
nguyệt, Long Hổ giao hỗ với nhau, bên tả, hữu đều có nghịch triền. Nếu nhận
được chân huyệt mà táng thì chắc chắn được phú quý kiêm toàn.
Trong cách này: Sơn hành thô đại, chỗ kết cục thì nhỏ bé, sơn kỳ thủy tú,
Long, Hổ chầu về, đất phát phú quý.

Luận về Quỷ Tiêm, Diệu:


Hà phải dùng đến thiên tinh, hà phải dùng đến quẻ Dịch.
Cứ THỦY, KIM hai hình, lời nói này chẳng nên ngờ vực. Lại theo "Lộc Mã Quý
Nhân và Thôi Quan thuyết.
Cứ hai sao này đáo đầu là bại nhân gia,
Còn như giá bút, lâu đài, thương, kiếm.
Đều là Quan tinh rất vi diệu.
Như ở Bình dương mà có hoành án cong ôm vào,
Và hậu sơn núi chạy thẳng như thương, như trùy.

143
Sinh mỏ, cánh, là cầm hình,
Có sừng, răng là Thú tinh.
Theo Long, Hổ cùng xuất hiện,
Đều là Noa tinh đại tiểu, theo hộ vệ long thần."

Hữu thập bát cách


"Tổ tông tủng bạt thế kim loan
Sổ lý long lai khuất khúc hoàn
Quần tinh chiếu huyệt long tiêm tú
Thử tả đơn đề thế bất khan."

Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục thế tả đơn, tứ vi hỏa diệu, nội ngoại kim
loan, chư tinh chiếu nội, sơn thủy hồi hoàn, đương tri thử cách, phát phúc
vĩnh miên, nhược năng đắc địa, văn trúng Khôi nguyên.

Hựu vân: Sơn lai sinh huyệt, tả bạn hồi hoàn, hữu kiên tác chứng, tác viết tả
đơn. Thử vi: tả tiên cung huyệt chi cách dã.
Thử thập bát cách: Luận mạch lai uyển chuyển, sơn khởi cao phong, long
bao quá hổ, vi tả tiên cung, thử tả đơn đề chi cách dã.

Luận Cầm, Thú, Quan, Quỷ, Diệu tinh tổng quyết:


"Tam Cầm, tứ Thú, Ngũ Quan, Quỷ
Tài học tầm long tiên nhận thử
Nhược phù bất thức lục cát tinh
Đồng nhân hữu nhỡn bất quang minh
Thức đắc thử tinh, chân thị bảo
Bất thức thử tinh, đa lạo thảo
Chân long đoan đích hữu thử tinh
Giả huyệt thử tinh nà lý thảo
Minh đường thủy khẩu kiến thử tinh
Dương Công bả tác chân kim bảo

144
Vấn Quân như hà vị chi Cầm?"
- Như long, như ngư, thủy khẩu sinh, viết Cầm.
Vấn quân như hà vị chi Quỷ?
- Chủ sơn hậu bối sinh dư khí, viết Quỷ.
Vấn quân như hà vị chi Thú?
- Như hổ, như sư thủy khẩu cư, viết Thú.
Vấn quân như hà vị chi Diệu?
- Như xà, như kỳ, long, hổ hậu sinh, viết Diệu
Vấn quân như hà vị chi Quan?
- Triều sơn bối hậu, nghịch thi trường tiêm, viết Quan.

Giải nghĩa:

Cách thứ mười tám


"Núi Tổ tông cao chót vót, thế đất hình Kim Loan,
Long từ nhiều dặm lại đi khuất khúc như cái vòng."
Các Sao đều chiếu huyệt, Long có nhiều núi nhọn đẹp. Đấy là cách TẢ SƠN
ĐỀ thế đất quý chẳng nên bỏ.
Lời chú: Sơn Long đi uyển chuyển, cục đất này gọi là Tả đơn đề. Bốn phía
đều có diệu tinh hình Hỏa, trong ngoài đều có Kim tinh uốn cong, mọi tinh
phong đều chiếu vào trong Huyệt, Sơn, Thủy hồi hoàn. Nếu biết được cách
này mà táng thì phát phúc đời đời, văn trúng khôi nguyên.
Lại nói: Sơn lại sinh huyệt, phía tả hồi hoàn, vai hữu làm chứng cục gọi TẢ
ĐƠN. Đó là cách Tả sa tới trước cung huyệt.
Trong cách này: Mạch lại uyển chuyển, núi khởi cao vòi vọi, tay Long bao
quá tay Hổ nên được gọi là Tả tiên cung, cũng gọi là TẢ ĐƠN ĐỀ CÁCH.

TỔNG LUẬN về CẦM, THÚ, QUAN, QUỶ, DIỆU tinh:


Ba Cầm, Bốn Thú, năm Quan, Quỷ.
Tài học tầm long đầu tiên phải nhận được ra các thứ đó.
Nếu mà chẳng hiểu được sáu cát tinh này,
Thì cũng như người có mắt chẳng quang minh.
Biết được các thứ tinh ấy là rất tốt,
Chẳng biết được những thứ ấy thì vẫn còn luộm thuộm.
Chỉ có Chân long thì mới có được những thứ tinh này,
Nếu là Giả huyệt thì những tinh này có cũng như không.
Trước Minh Đường, ngoài thủy khẩu, thấy các loại tinh này, Dương Công nắm
lấy làm của gia bảo.
HỎI: - Như thế nào gọi là Cầm?
- Như Rồng như Cá sinh ra ở Thủy khẩu thì gọi là Cầm.
HỎI: - Thế nào gọi là Quỷ?
- Được nhiều núi ở bối hậu là có nhiều du khí, nên gọi là Quỷ.
HỎI: - Thế nào là Thú?
- Như Hổ, Sư tử nằm ở thủy khẩu thì gọi là Thú
HỎI: - Thế nào là Diệu?
- Như Rắn, như Cờ sinh ra ở sau tay Long, Hổ thì gọi là Diệu.
HỎI: - Thế nào là Quan?
- Những triều sơn ở sau lưng chạy ra đằng trước quay ngược lại và nhọn thì
là Quan.

145
Hữu thập cửu cách
"Tổ sơn cao khởi thế kim loan,
Sổ lý long lai khuất khúc hoàn,
Chư sơn chiếu huyệt sơn tiêm tú,
Thử hữu đơn đề thế bất khan."

Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục thế hữu đơn, tứ vi tiêm diệu nội ngoại kim
loan, chúng tinh chiếu huyệt, hữu bạn hồi hoàn, hựu như thượng cách, phát
phúc vĩnh miên, nhược năng đắc địa, vũ khổn binh quyền.
Hựu vân: Sơn lai sinh cục, hữu bạn hồi hoàn, tả kiên tác chứng, cổ viết đơn
đề, thử vị hữu Tiên cung huyệt cách dã.
Luận Quan Diệu nhị tinh, sinh tử phương vị:
Trường sinh, Quan xuất, vị khôi tinh Quan Diệu ( chủ xuất đại quan, bán
niên tất phát). Mộc dục quan xuất vi tài lộc quan diệu ( chủ xuất đại quan),
Quan đới cung xuất, vi tài hoa quan diệu ( chủ xuất quý sứ), Lâm quan cung
xuất, vi chính sự quan diệu ( chủ vi quan đạt). Đế vương cung xuất, vi thông
đạt quan diệu, ( chủ vi quan cửu thiên), Suy cung xuất, vi liên trệ quan diệu.
( chủ vi quan vô lộc), Bệnh cung xuất, vi chính chiến quan diệu.( chủ vi quan
phát ác nghịch). Tử cung xuất, vi vô khí quan diệu. ( chủ vi quan, đạt bất
cửu chức), Mộ cung xuất, vi lộc khố quan diệu ( chủ vi quan thanh).

Giải nghĩa:

Cách thứ mười chín


"Tổ sơn cao vót thế Kim cong,
Vài dặm long lai thế uốn vòng.
Mấy núi nhọn cao: Đèn chiếu huyệt,
HƯU ĐƠN ĐỀ CÁCH đứng mà trông."

Lời chú: Sơn lại uyển chuyển, cục thế được gọi là HỮU ĐƠN, bốn phía đều là
Diệu tinh hình Hỏa, trong ngoài Kim tinh đóng hình vòng cong, chúng tinh

146
đều chiếu vào huyệt, bên hữu vòng ôm. Được như thượng cách sẽ phát phúc
đời đời: để được đất này sẽ phát võ điều khiển binh quyền.
Lại nói: Sơn lại sinh cục, bên hữu ôm vòng, vai tả làm chứng nên gọi là ĐƠN
ĐỂ CÁCH hay HỮU TIÊN CUNG HUYỆT CÁCH.
Luận QUAN, DIỆU và phương vị Sinh, Tử:
- Quan xuất hiện tại Trường sinh được gọi là Khôi Tinh Quan Diệu ( sẽ phát
làm quan lớn, chỉ nửa năm là phát).
- Quan xuất tại Mộc dục là Tài tinh Quan Diệu ( sẽ phát làm quan lớn).
- Quan xuất tại Quan đới là Tài hoa Quan Diệu ( Phát sứ thần).
- Quan xuất tại Lâm quan là Chính sự Quan Diệu ( Phát quan được hiển đạt).
- Quan xuất tại Đế Vượng là Thông đạt Quan Diệu ( Phát quan thường hay
thay đổi)
- Quan xuất tại Suy là Liên trệ Quan Diệu ( làm quan không bổng lộc)
- Quan xuất tại Bệnh là Chinh chiến Quan Diệu ( Phát quan tàn ác)
- Quan xuất tại Tử là Vô khí Quan Diệu ( Làm quan không được cất nhắc).
- Quan xuất tại Mộ là Lộc khố Quan Diệu ( Làm quan thanh liêm).

Hữu nhị thập cách


"Tổ khởi nhi lai trú hữu cung
Hựu hoành đoạn tiết chí biên đông
Nhập yêu tác huyệt oa vi quý
Vạn khoảnh điền trang, gia phú ông."

Chú vân: Long hành hữu biên, chí tả cung nhập yêu sinh huyệt, sơn thủy
trùng trùng, bạch hổ tiên đáo, xuất phú gia ông, chiếu đắc chân huyệt, phú
quý trùng trùng, thủ giai đại phú chi cách cục dã. Tả hữu giao nha sinh thạch
thủy, hiệu thử quan tinh chính thể hình, quan tinh nhược tại thành môn
hiện, thạch chủy đôi đôi nhập tướng môn. Thử nhị thập cách: Luận long hành
đoạn tục, tả hữu loan hoàn chư sơn hướng lập, chúng thủy hồi hoàn, diệc
phát đại phú, thử vị phú cách dã.

147
Thi vân:
"Diện vị sơn đa liệt thị đình ( Diện phương hữu sơn như loại tụ)
Định tri thương mại hữu xưng danh
Tây giang dẫn nhập xu nam thị
Kiền ấn lai lâm bắc thượng hành
Thực thực hậu đầu thành án thế
Hồn hồn hổ phục hữu viên hình
Địa trục liễu nhiên giai tại mục
Hà tu tất sự vấn Tiên sinh"

Luận lục kiến thủy quy triều:


Đại phàm tam dương giả, minh đường vi nội đường, án nội vi trung đường;
án ngoại triều sơn vi ngoại đường.
Lục kiến giả: Thủy bão tả vi thiên kiến; bão hữu vi địa kiến; bão tiền vi nhân
kiến. Hựu viết: Lộc kiến, mã kiến, mệnh kiến, giai chiếu vu tiền giả, thử thị
lục kiến dã.

Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi


"Khởi Tổ mạch lai chú hữu cung,
Quay ngang một tiết tới bên Đông.
Mạch vào lưng huyệt khai oa quý,
Vạn mẫu điền viênđích phú ông."

Lời chú: Long hành từ phía hữu, tới phía tả nhập vào lưng tác huyệt. Sơn
thủy nhiều tầng, Bạch Hổ tới trước, phát phú ông. Nếu chiếu đúng chân
huyệt mà táng thì Phú quý trùng trùng, chính là cách Đại phú gia vậy. Hai
bên tả, hữu Long Hổ như giao nha, sinh đá nhọn như mỏ chim, đúng là hình
thế chính của Quan tinh, nếu Quan tinh này xuất hiện tại Thành môn thì sẽ
được nhập vào cửa Tướng.
Trong cách này: Long hành đứt nối, tả, hữu loan hoàn, các núi đều đứng
quay đầu vè, vạn ngọn nước đều triều về, đất phát đại phú.

Thơ rằng:
"Mặt trước sơn đa gọi liệt đình,
Đoán rằng buôn bán khởi thanh danh.
Sông Tây dẫn nhập về Nam chợ,
Kiền, ấn lai lâm phía bắc thành.
Núi tốt sau đầu, thành thế án,
Tròn như Hổ phục gọn thu hình.
Thế đất nhìn ra do tại mục,
Cần gì vẽ chuyện hỏi Tiên sinh."

LUẬN VỀ LỤC KIẾN THỦY TRIỀU: Nói về Tam đường thì Minh đường là Nội
đường, trong Án là Trung đường, triều sơn phía ngoài là Ngoại đường.
Thủy bão ở trên tả là Thiên kiến, bão bên hữu là Địa kiến Bảo ở đằng trước,
ấy là Lục kiến thủy vậy.

Hữu nhị thập nhất cách


"Tổ tông phát mạch khởi tinh phong
Chi cán phân hành lưỡng dực đồng

148
Hậu thủy đáo tiền minh án nội
Long lai hổ bão nập đường trung
Phong tàng khí tụ giai chân huyệt
Phú quý vinh hoa tỉ Thạch sùng."

Chú vân: Sơn lai sổ lý, chi cán phân hành, đại hình đại thế, nội minh ngoại
minh, long lai hổ bão, vạn thủy trừng thanh, tiêu môn giá quý, địa chấn khoa
danh, đa sinh cự phú, thế xuất anh hùng, thử giai quý cách dã, dĩ thượng nhị
thập nhất đồ, giai vi quý cách dã, đích vi chân huyệt, hoặc tác âm phần, hoặc
tác dương trạch, giai đại phú quý, chi cách dã, thử vị minh sinh lai chi pháp
dã, thử nhị thập nhất cách luận long thân tích thủy, chi cán phân minh, đại
hình đại thế, nội ngoại trừng thanh, giai vi quý cách dã.
Thi vân: đại địa bình phô tự trướng trung, Long sa hổ huyệt thị trùng trùng;
Thiên tinh sơn lập triều lai bắc, Địa thủy lưu quá tẩu hướng đông. Long Hổ
lưỡng ban kim huyệt thủy, Hậu tiền nội ngoại lập triều phong; Phong tàng
khí tụ chân thành huyệt, phú quý vinh hoa tỉ Thạch sùng. Huyệt tàng long
khuất cư thủy khẩu, Thần đồng độc lập ấm hương thôn. Thiên ban quái
thạch sinh ư thủy, Định hữu chân long lý diện tàng.

Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi mốt


"Mạch khởi tinh phong tự Tổ tông,
Cán chi hai phái chạy thong dong.
Thủy tiền thủy hậu bao quanh án,
Sa Hổ Sa Long bão hướng trung.
Khí tụ phong tàng chân quý huyệt,
Giầu sang sánh với Thạch Sùng Ông.
Khoa danh nổi tiếng lừng thiên hạ,
Võ cũng quyền binh khét tiếng hùng."

149
LỜI CHÚ: Sơn mạch chạy từ nhiều dặm lại, chi cán phân chia mà đi, hình lớn
thế lớn; trong sáng, ngoài sáng. Long vòng Hổ bão, vạn ngọn nước lắng
trong, là cách TIÊU MÔN GIÁ QUÝ, đất phát khoa danh chấn động thiên hạ,
thường sinh cự phú, đời đời phát xuất anh hùng, thất là quý cách vậy.
Trong cách này: đúng là chân huyệt, nếu táng mộ hoặc làm nhà đều được đại
phú, đại quý.

Thơ rằng:
"Đất lớn phô bày tự tướng trung,
Long sa hổ huyệt thất trùng trùng.
Núi cao trước mặt chầu về Bắc,
Thủy đại băng qua chạy hướng Đông.
Long, Hổ cong vòng Kim Thủy huyệt,
Trong ngoài bốn phía núi triều cung.
Phong tàng khí tụ chân long cục,
Phú quý vinh hoa sánh Thạch sùng."
Huyệt ẩn Long che, núi Thần đồng ở ngoài Thủy khẩu, đất phát khoa danh cả
làng được hưởng ân huệ, trời cho quái thạch sinh ra ở ngoài Thủy khẩu, hẳn
là phải có chân long ẩn dấu ở mặt trong.

Còn tiếp 

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Hữu nhị thập nhị cách


Việt Hải

Hữu nhị thập nhị cách

"Trùng âm thử cách bất lao khan


Huyền vũ cao cao cấp cấp sơn
Nhược ngộ táng chi đa bại tuyệt
Gia tài bất tất vọng tài quan."

150
            
Hữu nhị thập nhị cách
"Trùng âm thử cách bất lao khan
Huyền vũ cao cao cấp cấp sơn
Nhược ngộ táng chi đa bại tuyệt
Gia tài bất tất vọng tài quan." Chú vân: Trùng âm giả; Vị chi hậu đầu sơn
nhất tiết cao nhất tiết, tắc thủy thượng cao, huyệt hậu hoặc tam tiết chí thập
tiết, giai tằng tằng đột khởi, vô bác hoán đốn khởi, vị chi trùng âm, như thử
cách bất khả táng dã! Nhược ngộ táng chi, đa sinh tử tuyệt, đới chi! Thận
chi!

Thi vân:
"Địa hình tuyệt tự thiểu nhân tri
Bắc lộ tây trì định bất nghi!
Long đê phản ngoại nam vô tự!
Hổ đoạn phi tha, nữ bất nhi!"

Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi hai


"Thấy cách trùng âm chớ nên tìm,
Sau cao từng cấp uổng công xem.
Táng vào huyệt ấy tiêu vong mạng,
Hổ bão Long loan cũng chẳng thèm."

Lời chú: Trùng âm là: Ở đằng sau hạ đầu cứ mỗi đốt lại cao lên một đốt, từ 3
đến 10 cấp đột khởi thành nhiều tầng, là cách trùng âm, không thể táng
huyệt được. Nếu gặp đất này mà táng huyệt sẽ bị tuyệt diệt. phải cẩn thận ,
chớ coi thường.

151
Thơ rằng:
"Đất hình huyệt tự ít người hay,
Đường bắc, hồ tây bởi cách này.
Long thấp hướng ngoài, trai tuyệt tự,
Hồ sa bay, đứt, gái thương thay."

Hữu nhị thập tam cách


"Trùng dương thử địa bất khả vi
Hậu sơn nhất cấp hựu nhất đê
Nhược ngộ táng chi đa bất lợi
Thời sư mạc nãi tác tâm cơ."

Chú vân: Trùng dương giả: Vị chi hậu đầu sơn nhất tiết đê nhất tiết, thủy tự
huyệt nội bạt khứ hậu đầu, vị chi thủy phá đầu nhi khứ thử vi ngưỡng ngõa
chi cách dã, tự huyệt chí hậu đầu tam tiết chí thập tiết, giai đê chi, nhi bất
khởi, vị chi trùng dương chi cách dã, nhược ngộ táng chi chung đa bất lợi dã.
Thủy khẩu nhất trùng đê nhất trùng, bất sinh kỳ thạch, thị bần cùng, túng
nhiêu nữ muội, nhi tu bại, nhất đại phong quang tiện kiến hung.

Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi ba


"Gặp cách Trùng dương chớ có làm
Sau đầu, từng cấp chẳng nên ham.
Khuyên rằng đừng tiếc sa loan bão,
Táng xuống toàn gia họa bất kham."

Lời chú: Thế nào là cách Trùng Dương?


- Hậu đầu có núi cứ từng cấp xuống thấp dần, nếu táng mộ tại đây sẽ bị “
Thủy phá hậu đầu” giống mái ngói ngửa rốc vậy. Từ chỗ Huyệt tới sau đầu

152
nếu có từ 3 đến 10 cấp đều thấp là đúng cách Trùng dương, nếu táng huyệt
sẽ gặp nhiều bất lợi.

Thơ rằng:
"Thủy Khẩu nhất trùng, thập nhất trùng,
Chẳng sinh thạch lạ ắt bần cùng.
Táng vào nhất định gia đinh bại,
May được một đời sẽ lại hung."

Hữu nhị thập tứ cách


"Trực lai, trực thụ thế vi nan!
Đấu mạch táng chi, thị bất an!
Thử địa trùng tang sinh bách bệnh!
Thời sư thức phủ nhỡn lao khan!"

Chú vân: Mạch tự huyền vũ thô trực nhi lai, vô khởi vô phục, vô bác hoán nhi
nhập huyệt giả, cố viết trực lai, thực thụ dã, như Kiền Hợi long lai sổ tiết chí
huyệt hựu tọa Tốn Tỵ hướng vị chi đấu mạch sát khí, bất khả táng dã. Cố viết
mai hoa, song kim nhị sát, bất khả phạm dã, nhược mổ long lai, hướng mổ
cán chi giai khả kỵ chi.

Thi vân:
"Thủy khuyết môn tiền hạ thạch giang
Bệnh phùng hạ lỵ tử khê bàng!
Sơn cao áp diện sinh hôn mục!
Thủy tiết biên thân tẩu dị hương!
Bắc khuyết phong suy đa bệnh khổ!
Nam phương hỏa tử hữu tai ương!
Nhược đắc thử môn như hữu thử
Tử tôn hà hoạn hữu ôn hoàng!"

Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi bốn


"Trực lai, trực thụ, chớ nên bàn,
“ Đấu mạch”, táng vô ắt chẳng an.
Tên gọi TRÙNG TANG sinh lắm bịnh,
Thời sư kém mắt chớ lo toan."

Lời chú: Mạch tự Huyền vũ lại thẳng, không khởi, không phục, không biến
đổi, cứ thô đại nhập huyệt: Đó là cách “ TRỰC LAI, TRỰC THỤ”. Thí dụ như
Long lại từ phương Kiền, Hợi được chừng vài đốt; mà huyệt lại ở phương Tốn,
Tỵ, thì gọi là Đấu mạch, bị sát khí, chẳng thế táng huyệt được. Nên mới có
câu: “ Mai hoa song kim nhị sát”, chớ có phạm vào; mỗi long lại có 1 phương
kỵ, vậy nên phải cẩn thận.

Thơ rằng:
"Thủy khuyết môn tiền dưới thạch giang,
Sinh người bệnh hoạn chết bên đường.
Núi cao áp mặt, sinh mù mắt,
Thủy chảy bên thân, chạy bỏ làng.
Gió Bắc thổi lùa, nhiều bệnh khổ,

153
Lửa nam bốc cháy lắm tai ương.
Nếu thấy cách này mà táng phóng,
Cháu con phải chịu họa ôn hoàng."

Hữu nhị thập ngũ cách


"Bất phân long hổ sự nan khan!
Thử địa thô tề hữu nhị ban
Nhược ngộ táng chi tai họa chi!
Bất tu chước mục uổng lao khan!"

Chú vân: Chủ sơn dữ huyệt tinh long hổ tương tề, vô phần cao hạ, gián đoạn,
đồng nhất đẳng dã, vị chi long hổ dữ chủ sơn tề tráng, bất phân cách cục,
như bất minh, thử pháp nhi ngộ lao quan, táng đa bại tán! Thử cách tắc đới
chi, như tâm mạch ( tâm tinh tức mão) lai giáp tự, nam đới phong tật! Nhập
tốn tự nữ hữu phong tất!

Thi vân:
"Thủy bức tiền môn bất khả khan
Đãn hiềm ngũ bát tuế nhi hoàn!
Long trường hổ đoản nam thương túc!
Hổ xúc long cao nữ triết oan!
Tử vô tùy phụ nan thành phẩm
Phụ bất tòng phu tất dã quan!
Hữu địa nhược quan, y thị thử
Tiên sinh hà tất chuyển la bàn!"
Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi lăm


"Không phân Long Hổ chẳng nên bàn,
Cách ấy thô hung huyệt bất an.

154
Nếu gặp, táng vào, tai họa đến,
Khuyên đừng ngó tới, uổng tâm can."

Lời chú: Huyệt tinh và Long, Hổ đều bằng nhau, không phân cao thấp, được
gọi là cách “ LONG HỔ và CHỦ SƠN CÙNG MẠNH” không phân thành cách,
cục thì cũng ví như bất minh. Nếu gặp cách này mà cứ táng thì gia đình sẽ bị
bại tán. Như mạch lại từ Mão cung, cung đến đúng vào chữ Giáp trên địa bàn
thì người con trai sẽ phải mang chứng bịnh phong, nếu vào chữ Tốn thì con
gái sẽ bị phong tật.

Thơ rằng:
"Thủy bức môn tiền đất chẳng hay,
Thiếu niên chết uổng đáng thương thay.
Hổ dài, Long cụt: trai què cẳng,
Hữu thấp, tả cao: gái gẫy tay.
Vợ chẳng theo chồng, vì cách ấy,
Con không nghe bố, bởi Long này.
Đất nào mà thế đừng xem nữa,
Thày để cho người họa đến ngay."

Hữu nhị thập lục cách


"Đoạn long chi thủ bất kham thiên!
Tuy hữu chân hình bất khả ngôn!
Đoạn mạch thổ tiêu nhân thụ sát!
Quỷ sơn sát mạch địa nan toàn!"

Chú vân: Long lai nhập huyệt, hoặc bị nhân dân quật hãm, hoặc bị hồng thủy
phá băng, đoạn thử long chi hậu dã, tuy hữu quý long huyệt, giai bất khả
táng dã, cẩu hữu, táng chi, phát nhi bất trường cửu, đới chi! Thận chi!

Thi vân:
"Tứ vi hữu lộ tẩu như xả
Thế tự tù đồ ngục tất gia!
Ngũ quỹ vũ sương binh trận tử!
Nhập lưu cấp án tọa sinh ba
Thế gian dục tỵ đồ tù sự
Kỳ thủy đường tiền bất diệu hà
Tứ vi hữu lộ như tỉnh tự"
Danh viết thiên ngục, chủ phi tai, hình ngục dã, tứ phương tiêm phạm chủ
đao binh trận tử vong, thủ dĩ bát tự bị ngục trung nhi tử.

Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi sáu


"Đứt Long, Đứt Hổ chớ nên trông,
Dầu có hình hay cũng chẳng dùng
Đoạn mạch thô tan người bị sát,
Sau đầu trực đấu học vô cùng."

Lời chú: Long nhập huyệt mà bị dân chúng khai quật, hoặc bị nước lớn phá
băng ở hậu long, tuy là quý long cũng chẳng nên táng, bởi không được
trường cửu phải cẩn thận.

155
Thơ rằng:
"Bốn mặt đường đi tựa rắn vây,
Hình như ngục thất bị tù đày.
Sau đầu súng chĩa, vòng ngoại trận,
Trước mắt thủy xâm, chết mất thấy.
Muốn tránh ngục tù cần nhận kỹ,
Hình như chữ Tỉnh huyệt đâu hay.
Dở hay bởi đất sinh ra cả,
Đặt táng xong là ứng nghiệm ngay."

Nếu thấy bốn bên đường chạy dọc, ngang, như chữ TỈNH thì là đất sinh tai
họa hình ngục, nếu bốn bên thấy ngọn nhọn đâm vào huyệt sẽ chết trận,
trước sau có thủy phân hình chữ Bát, chảy đi là bị tù và chết ở trong ngục.

Hữu nhị thập thất cách


"Khuyến quân tuyệt huyệt bất lao hạ
Tất sử nhân đinh bất an dã,
Thời sư loạn tác ngộ đa ban.
Táng giả nhân đinh chung tụ họa"

Chú vân: Mạch lai tắc hoãn, huyệt xứ đê đơn, bất khả tạo táng lãnh khí xâm
quan, táng chi thử huyệt, vong mạch bất an, tử tôn tật bệnh, tuyệt địa vọng
khan! Nhược cục thế hữu tình, mạch lai cận huyệt, thổ sắc kiến sinh, tắc
huyệt tại đê dã bất nệ.
Hựu vân: Mạch tận xứ, tu phòng khí tuyệt, địa thần chiên tất huyệt hữu sinh,
nhược ti đê, hữu tình, thậm diệu bất nệ dã.

Thi vân:
"Lưỡng biên long hổ đấu như trùy
Nhân mạng phi tai bất định kỳ
Khuyết tý định tri, ly táng mạng!
Tàng đầu tất thị, bị dang thi!
Phương ấn tiêm đầu nhân tất sấu
Viên hình khoan hậu tử tôn phì
Thủy bức đường tiền xâm thượng tọa
Tao phùng khái thuật mạng nan y!"

156
Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi bảy


"Khuyên rằng: tuyệt huyệt chớ nên táng,
Táng xuống chết mòn toi uổng mạng.
Cẩn thận đừng nghe thầy làm càn,
Thầy mà như thế thì sao đáng."

Lời chú: Mạch lại ngược, hoãn, chỗ huyệt lại thấp mỏng, chớ nên táng. Nếu
táng tất bị lãnh khí nhập vào quan sẽ bị vong mạng, con cháu không yên,
liên miên bệnh tật. Nếu cục thế có tình, có mạch đến gần huyệt, đất ở chỗ
huyệt có sinh khí sắc thì huyệt ở chỗ thấp chớ nên câu nệ.
Lại nói: Mạch đến chỗ tận cùng cần phải đề phòng chỗ khí tuyệt, đất có chiên
thần thì huyệt mới là sinh, nếu nhỏ thấp mà có tình là rất tốt, chớ nên câu
nệ.

Thơ rằng:
"Đấu tranh Long Hổ nhọn như trùy ( mũi dùi)
Nhân mạng vong oan chẳng hẹn kỳ.
Khuyết Tý khó toàn, Ly táng mạng,
Đấu đầu ắt hẳn tử dang thi ( chết cũng còn xiềng xích)
Ấn vuông đầu nhọn, sinh người ốm
Hậu nở hình tròn nẩy giống phì.
Thủy bức đường tiền, xâm mộ địa,
Không may gặp gỡ mệnh nan y."

Hữu nhị thập bát cách


"Tích long chi huyệt tế suy tường,
Táng thử nhân đa thụ họa ương!
Tật bệnh yểu vong hà đắc hảo!
Quý điền dong vệ sư nhân thương!"

157
Chú vân: Sơn tự hữu nhi lai, tòng hữu kiên nhập thủ, tắc hoành lai hoành
thụ, nhược hữu sơn, hữu án, hữu long, hữu hổ giả, nhiên huyệt cư long tích,
bất khả táng dã, nhược miễn cưỡng táng chi tắc bất trường dã, nhược ngộ
táng chi, dĩ đáo yểu vong! Bệnh tất tai họa! đới thận mạc quan! Tả hữu diệc
nhiên, như hữu kỵ cục bất nệ. Kinh vân: “ Kỵ long tắc huyệt sinh long tích,
đa tử đa tôn quý vô địch!”, rĩ thượng thất đồ giai vị tặc cách dã, thị vi giả
huyệt! hoặc tác âm phần, hoặc tác dương trạch, thị vi tử tuyệt chi cách dã,
thử vị ám tử khứ chi pháp dã.
Phù địa lý giả chi nan, đương tất lực, tế sát ư minh sinh lai, ám tử khứ chi
pháp dã. Xả, thủ diệc dụng dã, ngộ duy đắc lục tự chi tính giả, tắc địa khí chi
năng sự tất hĩ, thả dĩ khí cục vi tiên, địa mạch vi hậu hà dĩ ngôn tai? – Khí
tức lý dã, đãn Dong sư dã tẩu, mang nhiên ư tứ ngũ bộ chi gian, nhi bất tri
kỳ khí chi sở tại, huống dĩ thị vi phi! Dĩ chân vi ngụy, thị đồ chi thiên môn địa
hộ, nệ ư đồ cục, phàm thuyết phân phân, bất tri chính quý, thân tai!

Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi tám


"Huyệt trên long tích phải tinh tường;
Không phải huyệt thì bị họa ương.
Bệnh tật chết non tàn cán uổng,
Ruộng to nhà đẹp bỏ đời thường!"

Lời chú: Sơn mạch từ phía hữu lại, theo vai hữu mà nhập thủ thì gọi là
HOÀNH LAI, HOÀNH THỤ, chẳng thể táng được, nếu miễn cưỡng tất bị yếu,
phải thận trọng. Nếu được Long Hổ hồi hoàn, đường án minh bạch thì là
huyệt Kỵ long, rất quý.
Kinh nói rằng: Huyệt KỴ LONG sinh ở trên Long tích, đất phát sinh con cháu
đầy đàn, quý vô địch.
Đồ hình trên chỉ là giả huyệt chứ không phải là huyệt KỴ LONG, nếu táng mộ
hoặc làm nhà thì bị tử, tuyệt vậy.

Phiên âm

Hữu nhị thập cửu cách

Thi vân:
"Long phi, Hổ khứ chủ tha hương,
Phiêu bạt nam nhi tán tứ phương.
Kham tiếu gia trung vô nhất vật,
Nhi tôn khất thực thiên môn thương."

158
Giải nghĩa:

Cách thứ hai mươi chín


"Hai đầu Long, Hổ ngoảnh ra ngoài,
Phiều bạt giang hồ cả gái trai.
Khốn khó trong nhà không một vật;
Cháu con khất thực biết nhờ ai!"

Ghi chú: Từ cách này trở lên đến cách thứ 22 là 8 cách Giả Long, giả Huyệt,
không thể tác dụng được. Gọi là TỬ TUYỆT CHI CÁCH, ÁM TỬ CHI ĐỊA, rất
hung ác, nếu nhận nhầm hoặc không hiểu mà táng mộ, hay dựng nhà ở
những chỗ như thế thì bị bại tuyệt:
Vậy nên thận trọng, Tầm long cũng phải nhớ sáu chữ “ MINH SINH LAI, ÁM
TỬ KHỨ”. Nghĩa là: Thấy cách đất là Minh sinh, thì lại mà xem. Hễ thấy cách
đất là Ám tử thì đi, không nên đứng nhìn nữa.

Phiên âm

Tam thập cách

Thi vân:
"Hình như Khuyển ngọa thiếu phiêu lưu,
Kỳ thực quyền gia đắc sở ưu.
Nhất tự thánh quân chuyến bính dụng,
Quyền siêu ư thế thụ Công Hầu."

159
 

Giải nghĩa:

Cách thứ ba mươi

1 - "Khuyển ngọa phiêu lưu lại tốt duyên,


Quyền môn ăn gửi sướng như tiên.
Thánh quân tín dụng trao quyền bính,
Chức trọng quyền cao lại lám tiền."

2- "Hình như con chó nhỏ lang thang,


Ăn gửi nhà vua, sướng nhất làng.
Tín nhiệm giao cho chuyên việc ấy,
Quyền to hơn hết, chức cao sang."

Tinh thể hình như con chó nằm ở trong. Ngoài có vòng đai, sơn hình hai tay
ngai, thủy tụ án triều, cục thế loan hoàn có thế thôi, mà ứng nghiệm, phát
phước như vậy cũng lạ thay!

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
Trích dẫn Sửa Xóa

BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 11

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:32 11-08-2008

160
Bảo Ngọc Thư (Phần 1) - Tam thập nhất cách
Việt Hải

"Mộc tinh quang chiếu tại bình nguyên,


Thần kiếm an bài Bắc đẩu tiền.
Huyệt tại kiếm phù, tinh tác án,
Quan cao Hòa Thượng thị vương thiền."

Phiên âm
Tam thập nhất cách

Thi vân:

1. - "Mộc tinh quang chiếu tại bình nguyên,


Thần kiếm an bài Bắc đẩu tiền.
Huyệt tại kiếm phù, tinh tác án,
Quan cao Hòa Thượng thị vương thiền."

2. - "Long Hổ khai kiềm, ngoại Mộc Tinh,


Diện tiền thần kiếm chí quang minh.
Đãn hiềm thủy tẩm long tinh vị,
Phù pháp tuy hữu bất anh linh."

Giải nghĩa

Cách thứ ba mươi mốt


1. - "Mộc tinh soi sáng chốn bình nguyên,
Thần kiếm bên vai Bắc đẩu tiền.

161
Huyệt ở linh phù, đài chính án,
Cao siêu Hòa Thượng ngự Vương thiền."

2. - "Hai vai kiếm bút, mộc khai kiềm,


Vậy phát van nho Thích đạo kiêm.
Hiềm chút Long Sa liền thủy hãm,
Chỉ e phù phép giảm oai nghiêm."

Phiên âm
Tam thập nhị cách

Thi vân:

1. - "Trừng viên kính diện xuất phương Đông,


Lạc hộ quần sơn bất lộ phong.
Huyệt tại nhật trung hồ tác án,
Cung phi, phụ mã, tứ Hoàng tông."

2. - "Nhật xuất Đông phương ánh sắc quang,


Tường vân phi nhiễu tế quần phương.
Vưu hiềm nhật thực vô toàn bản,
Tuy xuất cung phi diểu tảo vong."

Giải nghĩa

Cách thứ ba mươ hai


1. - "Như gương lóng lánh biển Đông,
Vừng O tròn nổi bập bồng gió im.
Huyệt nằm ở giữa tôn nghiêm,
Nga mi hồ, án chính điềm cung phi."

2. - "Thái dương nhô chiếu ánh phương Đông,


Vòng núi như mây, trấn tỉnh phong.
Khuyết méo, chỉ hiềm hinh Nhật thực,
Cung phi, Phụ Mã sớm lìa vong!"

162
Phiên âm
Tam thập tam cách

Thi vân:

1. - "Hỏa tinh quang chiếu tại sơn tiền,


Hạ hữu thâm hồ hoặc đại uyên.
Ngọc bảng, hổ thân triều tác án,
Nhất khoa phụ tử công khôi nguyên."

2. - "Tổ sơn viễn tống hạ Bình nguyên,


Đột khởi song tiêm chiếu huyệt tiền.
Thiết kỵ tiển sơn sinh ác thạch,
Bình sinh khoa giáp hạ Hoàng tuyền."

163
Giải nghĩa

Cách thứ ba mươi ba

1. - "Hỏa tinh soi sánh ngoại môn tiền,


Giữa có hồ sâu tụ thủy uyên ( vực nước).
Bảng ngọc sa thôi triều tác án,
Một khoa cả phụ, tử Khôi nguyên."

2. - "Tổ sơn mạch dẫn xuống đồng bằng,


Núi nhọn nhô lên: Mấy ngọn đăng.
Rất kỵ đá cao làm án đó,
Khoa danh tuy sớm, tảo hàn băng ( chất con)."

Phiên âm
Tam thập tứ cách

Thi vân:

1. - "Lưỡng diện Kim tinh, lưỡng nhĩ viên,


Danh vi sư tử phục bình nguyên.
Huyệt cư diện thượng châu vi án,
Thiên hạ danh cao Tướng soái quyền."

2. - "Kim tinh ngưỡng diện cách cao viên,


Thiết kỵ thân trung lộ phá xuyên.
Tuy phát tướng tài chung bị ách,
Trận trung đao sát mệnh phi tuyền."

164
Giải nghĩa

Cách thứ ba mươi bốn

1. - "Hai Kim tinh ứng ở hai tai,


Sư tử hình nằm phục rất oai.
Trên mặt huyệt ngồi nhìn án ngọc,
Tổng quyền Tướng Soái, đất không sai."

2. - "Hình Kim ngửa mặt, thể cao tròn,


Rất kỵ long thân lộ phá mòn.
Tuy phát Tướng tái sai bị nạn,
Anh hùng giữa trận mệnh không còn."

Phiên âm
Tam thập ngũ cách

Thi vân:

1. - "Bình địa quang trần nhất Mộc tinh,


Danh vi chế cáo nhập môn đình.
Hương đài án ngoại cao nghiêm vọng,
Đại phát Vương hầu, tước hiển vinh."

2. - "Long Hổ khai độ liệt trận doanh,


Môn tiền hoành liệt, Mộc quang minh.
Danh vi chế cáo nghinh triều án,
Thủy nhập xuyên tà bị bại hình."

Giải nghĩa

165
Cách thứ ba mươi lăm

1. - "Đất bằng khởi Mộc tinh cao,


Gọi là Phong Sắc Ấn trao đến nhà.
Đài hương án ngoại nguy nga,
Phát sinh Vua Chúa ắt là không sai."

2. - "Hai bên Long, Hổ mở đồ dinh,


Trước mặt nằm ngang một Mộc tinh.
Đó là hộp Sắc nghinh tiền án,
Bởi nước xuyên tâm bị tội hình."

166
Phiên âm
Tam thập lục cách

Thi vân:

1. - "Bàn bàn chân khí tối anh linh,


Bách mẫu thâm hồ, cố mẫu hình.
Mạch tại tụy đầu Thiên Tử huyệt,
Cơ đồ Đế nghiệp lộ quang minh."

2. - "Bàn Long Cố Mẫu tãi kỳ hình,


Vạn trượng thâm hồ, mạch tối linh.
Khả giới Thời sư đương cấm thiết,
Dĩ kỳ vô phước tội phi khinh."

Gải nghĩa

Cách thứ ba mươi sáu

1. - "Rồng khoanh uốn khúc, khí chung linh,


Trăm mẫu hồ sâu, đại thế hình.
Đầu mũi mạch thu; Thiên Tử huyệt,
Đế vương sáng nghiệp, đức cao minh."

2. - "Rồng quay nhìn mẹ thật kỳ hình,


Muôn trượng hồ sâu, khí mạh linh.
Cấm các thầy ơi! Đừng bép xép,
Phước đâu chưa thấy, tội ngay mình."
Ngày xưa ở nước Trung Hoa, các triều đình đều nghiêm cấm các thầy Địa lý:
- Những cách đất Hoàng Vương, Đế bá, không được để cho nhà thường dân,
nếu tìm thấy, phải trình cho nhà Vua biết chứ không được dấu diếm để cho
nhà mình nữa. Nên mới có bài thi ca khuyên bảo như vậy.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 1) - Quyết đoán địa cách


Việt Hải

Quyết đoán địa cách

Những cách thường hay có, đã từng thấy chứng ứng và kinh nghiệm xưa nay, nên đặt
thành câu thơ phú, vấn chương, để cho dễ nhớ. Vậy tôi sưu tập lại và đính chính những

167
câu sai lầm ( bởi khi in khắc), cho phù hợp với công thức địa lý chân truyền, biên ra minh
bạch như sau:

 
1. – Tam quân xuất trận, sinh hùng tướng;
2. – Lưỡng sĩ phù kiên, trúng nột nho.

Giải nghĩa

- Ở trước huyệt có ba cái gò tròn, hoặc đồi, núi hình kim tinh đi thẳng ra, là
cách “ Tam quân xuất trận”, phát võ tướng.
- Ở hai bên ngang với huyệt, hoặc về hai vai ở phía sau, có hai cái gò tròn
nhỏ, hình kim tinh nhất là ở cấn và đinh phương gọi là “ Lưỡng sĩ phù kiên”
là kiểu đất xuất thần đồng ( tảo ứng) vậy bảo là: học dốt, đi thi cũng đậu
cao.
3. – Quan cư ngũ phủ, do hồ đoài trú nhị kim.
4. – Chức chưởng lục bộ, hệ thị khí tàng bát tướng.
- Ở phương đoài ( canh, dậu, tân) có hai kim tinh chứng ứng về huyệt, là
cách “ đoài trú nhị kim” thì phát quan chức cao, ở nơi ngũ phủ, ( ngày xưa
mỗi triều đại, thường tổ chức quan chế khác nhau hoặc mấy tỉnh, hay mấy
quận, huyện là một phủ hợp lại v.v…)
- Huyệt nào cả tám phương: kiền, khảm, cấn, chần, tốn, ly, khôn, đoài, đều
có tinh phong đột khởi triều ứng, là cách “ khí tàng bát tướng” ( tức bát
quốc) thì phát Bộ trưởng, hoặc Thủ tướng ( các triều đình xưa chỉ có 6 bộ tức
là Lục bộ thương thư, Tể tướng quyền hành trọn cả lục bộ, nên gọi là: chức
trưởng lục bộ).
5. – Ngũ mã triều tiền, quan Nhất phẩm.
6. – Thất tinh ứng hậu, vị Tam công.
- Đất có 5 cái tinh phong hình như đầu ngực hoặc yên ngựa, triều ở phía
trước, là cách “ Ngũ mã triều tiền” thì phát cao quan cực phẩm triều đình
( tức là đệ nhất cấp)
- Đất có 7 cái tinh phong ( gò, đồi, núi) liền một chuỗi ra triều ứng ở đằng
sau mộ là kiểu “ Thất tinh ứng hậu”, phát cao quan đến tước Tam công.
Triều đại xưa đặt ra 5 tước là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam; to nhất là tước Công,
thứ tự đến tước Nam. Là 5 tước quý trọng của triều đình để phong tặng cho
các quan chức hữu công.
7. – Vương tự tiền, đương tiền tiền ngộ đế!
8. – Vương tự hậu, tử hậu phong vương!
- Long sơn hình như chữ Vương ở phía trước, thì phát làm vương từ lúc sinh
thời ( lúc sống). Nếu có chữ Vương ở đằng sau, thì khi chết rồi mới được
phong tước vương.
9. - Bình, Ngọ, Đinh, tam bút khởi tiêm, văn trường độc bộ.
10. – Canh, Dậu, Chấn, liệt kỳ, đốn cổ, võ vị tam quan.
- Cả ba phương Bính, Ngọ, Đinh đều có tinh phong hình như hỏa tinh, là tam
bút khởi tiêm, thì một bước vượt cao hơn cả trường thi tức là đậu thủ khoa.
- Ở phương canh, dậu, chấn ( mão) có tinh phong hình như lá cờ trận; hoặc
tròn, hình như cái trống để đứng, thì là võ cách làm tướng súy cả tam quân (
các binh chủng).
11. – Nga mi, bán nguyệt xuất ư diện tiền vô luận đoài ly nhi để hậu;
12. – Trùng sương, điệp quỹ sinh ư lưỡng bàng, bất chấp cấn bính diệc phú

168
ông.
- Đất có tinh thể hình như mày con ngan, hoặc như nửa mặt trăng ở ngay
trước mộ, thì chẳng cứ ở phương đoài hau phương ly, cũng phát sinh con gái
đẹp, làm vợ vua! Vì 3 phương tốn, ly, đoài là phương vị thuộc về con gái, nếu
gặp, thì quyết định là càng hay hơn nữa!
- Thấy núi non, gò đống đột cao hình như cáo kho, cái đụn liên tiếp ở hai bên
tả hữu, thì không cứ ở về phương cấn hay phương bính cũng phát phú ông.
Vì 2 phương ấy chủ về tiền tài; nếu gặp vị, thì đích là cự phú không sai!
13. – Khảm, cấn, chấn sơn, thủy loan hoàn, nam gia trường thịnh.
14. – Tốn, ly, đoài tinh thần thanh tú, nữ phái đa vinh.
- Ba phương Khảm, cấn, chấn có sơn thủy, hoặc long lai triều ứng về mộ, thì
giới nam nhi thịnh vượng lâu dài hơn giới nữ.
- Ba phương: Tốn, ly, đoài, có sơn tú, thủy thanh triều ứng hoặc long lai, thì
phải nữ nhi quý giá, vẻ vang nhiều hơn trai.
15. – Bút tốn, bảng tân, văn khôi kế thế!
16. – Cổ canh, kỳ chấn, võ súy truyền gia!
- Có hỏa tinh, núi nhọn ở phương tốn, là bút tốn, có thổ tinh hình vuông ở
phương tân, là bảng tân, thì văn khoa nối đời đậu cao.
- Có kim tinh tròn, đột cao hoặc thấp, ở phương canh, hình như cái trống, là
cổ canh; và hỏa tinh liền nhau hình như là cờ trận ở phương chấn, là kỳ
chấn, thì võ chức, truyền tông là tướng suy.
17. – Hổ bút thôi thân, ngao đầu trúng tuyển.
18. – Long bảng liệt diện, mã thượng vinh quy.
- Bên hổ sa hỏa tinh đâm ra là hổ bút thôi thân.
- Bên Long sa có thổ tinh đột ở trước, là long bảng liệt diện, hai cách này đều
là phát quý, đậu cao, cưỡi ngựa về làng, là vinh quy bái tổ. Đời xưa, mỗi
khoa thi thì vua ( triều đình) ban mũ áo ccho các vị tân khoa, dân chúng
phải đi đón rước linh đình, cờ trống rợp trời.
19. – Thiên trụ cao kiền, nhi thọ Bành tổ.
20. – Thiên nguyên không khuyết, nhi yểu Nhan Hồi.
- Ở phương kiền hợi có sơn tinh đột cao là “ Thiên trụ cao kiền” thì đất ấy có
nhiều người thọ, nên ví như ông Bành Tổ.
- Thiên nguyên cũng là phương kiền, nếu thấp hoặc không khoáng thì sinh ra
người hay chết non; nên ví như Nhan hồi, có thành tài mà bị chết sớm, uổng
đời!
21. – Hợi sơn nhất xích chung nhi chi phú,
22. – Tốn thủy nhất thược khả dĩ cứu bân.
- Phương hợi cao hơn một thước, cũng có thể giầu.
- Phương Tốn có chứa một gáo nước cũng có thể cứu nghèo.
Hai câu này ý nói: Phương hợi mà có sơn cao đại và phương tốn có thủy đa
trừ tụ, thì phát đãi phú; nếu cao ít và tụ ít, thì cũng không đến nỗi bần cùng!
23. – Huyệt huynh đệ, huynh đệ đồng bảng
24. – Án phụ tử, phụ tử đồng triều.
- Tinh phong kết huyệt, mà có hai cái liền nhau là cách “ Huyệt huynh đệ”
thì phát anh, em cùng đậu một khoa, nên bảo: Huynh đệ đồng bảng.
- Tinh phong tác án mà có hai cái, một lớn, một nhỏ gần nhau là cách “ Án
phụ tử”, thì cha con cùng làm quan một thời, nên bảo: Phụ tử đồng triều.
25. – Bát diệu đông, cửu diệu tây, danh nhân xuất chúng,
26. – Tam thai tiền, ngũ nhạc hậu, quý khách siêu quần.
- Cục địa có những gò đống, hoặc núi, đồi đột cao, đi gần nhau ở trước mặt
hoặc ở sau lưng, hoặc bên tả, hoặc bên hữu, hoặc ở bốn phương đông, tây,
nam, bắc có thành cách gì thì gọi tên cách ấy. Như ba cái gần nhau là Tam
thai, năm cái gọi là Ngũ nhạc, sáu cái là Lục tú, bẩy cái là Thất tinh, tám cái

169
là Bát diệu, chín cái là Cửu diệu; nếu nhiều nữa, vô số, thì gọi là Quần tinh la
liệt, là đại quý cách đặc biệt! do quý khí tụ chung xuất hiện, nên phát sinh ra
người siêu quần xuất chúng; hoặc văn, hoặc võ tùy ở tinh thể,, cách, ứng.
27. – Hậu sơn tiêm xuất, thất bộ thành thị.
28. – Tiền án phương sinh, nhất trình chiếm bảng.
- Sơn sa ở đằng sau đầu, có như hỏa tinh nhọn nẩy đâm ra thì phát sinh
nhân thông minh, đi bẩy bước đã thành câu thơ hay. Vậy: Thất bộ hành thi.
- Trước mặt có án vuông như cái bảng, thi một lần đậu cao ngay, nên nói:
Nhất trình chiếm bảng.
29. – Tả hữu qua mâu, Quận công khai quốc.
30. – Hậu tiền tượng mã, Hầu bá phong vương.
- Bên tả bên hữu, đằng trước sau có tinh phong hình như gươm dáo, mâu,
thuẫn vũ khí và voi, ngựa ứng chầu vào mộ, đều là cách phát tướng súy võ
quan; nên nói: Quận công khai quốc, Hầu bá phong vương.
31. – Khôn kim ấn, cấn ngọc đường, Công Hầu hiển hách.
32. – Tỷ long lâu, ngọ thiên mã, Vương Tướng uy nghi.
- Phương khôn hoặc phương cấn, có kim tinh tròn, hoặc thổ tinh vuông đột
khởi chứng ứng chầu vào phần mộ, gọi là “ Khôn kim ấn” “ Cấn ngọc
đường”; nếu có hai phương đăng đối là đặc quý cách, nên phát Công, Hầu
hiển hách.
- Phương tý có sơn hình như cái lầu rồng, gọi là Tý long lâu; phương ngọ có
sơn hình như đầu con ngựa, gọi là Ngọ thiên mã.
Tý, Ngọ là quân vương địa vị, nếu có kiểu cách đăng đối như vậy là đặc quý
cách, nên phát Đế vương, Tướng soái!
33. – Bính thủy trừng thanh, nhân đa mỹ mạo.
34. – Cấn sơn tủng tú, tài mãn trân châu.
- Đất có đường thủy tụ ở phương bính mà nước trong sạch, thì sinh ra nhiều
người nhan sắc phương phi ( xinh đẹp khôi ngô).
- Ở phương cấ có sơn cao đầy đặn, thì có của đầy đủ ngọc quý, bạc vàng.
35. – Đường hữu tứ thời chi thủy bất hạc,
Gia hữu thiên niên bất tán chi tài.
36. – Địa hữu vạn điệp chi sơn bất đoạn!
Tông hữu thiên thu chi duệ vô sai.
- Minh đường có nước bốn mùa không cạn, thì trong nhà có của ngàn năm
không hao tán.
- Đất có muôn lần núi đột cao dài xa, thì dòng họ có cháu chắt ngàn đời
không khác!
37. – Bút giá hậu đầu, tài cao bất đệ!
38. – Bảng trương tiền diện, học thiển đăng khoa.
- Huyệt nào có bút gác ở đằng sau, thì văn học dầu có tài cao, nhưng thi
cũng trượt!
- Có bảng trương bày ở nước, thì học ít thi cũng đậu ngay!
39. – Án mạn thiên, nhi Linh ngữ du du!
40. – Bút đảo địa, nhi Văn đồ thân thân!
- Án sơn cao mà hình như há miệng ngửa lên kêu trời, thì ở tù đằng đẵng!
( Linh ngữ là tên ngục tù xưa).
- Hỏa tinh nhọn, ở trên cao mà lao ngọn xuống thấp là “ Bút đảo địa”, thi
đường văn lồng lộng, là ý càng tả nhiều càng hay!
41. – Long, Hổ kình quyền, phu thê bất thuận!
42. – Tả, hữu đấu thủ, huynh đệ tương tranh!
- Tay Long, tay Hổ như khuỳnh tay ngang nhau là “ Long Hổ kình quyền”!
- Bên tả sa và bên hữu sa, hai bên đều nghênh đầu đối lập ngang hàng, là “
Tả hữu đấu thủ”.

170
Thì cả anh, em và vợ, chồng, không bao giờ hòa thuận nhau thường tranh
giành, kiện cáo lẫn nhau!
43. – Hổ bão long đầu, dâm phong bất chỉ!
44. – Long trường hổ đoản, luân lý khả gia!
- Bên hổ sa mà dài hơn, ôm bọc đầu long sa, thì nữ đa dâm hỗn loạn không
ngừng!
- Bên long dài, bên hổ ngắn, là thuận lý, luân thường trật tự đáng khen!
45. – Mão, dậu, dần, thân, tỵ, hợi đa sinh ư bình trị chỉ thời;
46. – Tý, ngọ, thìn, tuất, sửu, mùi đa phát ư nhiễu nhương chi thế.
- Những phương: Mão, dậu, dần, thân, tỵ, hợi là long nhập thủ hoặc hướng,
thi hay phát đạt về thời bình.
- Những phương Tý, ngọ, thìn, tuất, sửu, mùi thì phần nhiều là phát về thời
loạn.
47. – Thiên hoàng nhập thiên thị, quý bất khả ngôn.
- Thiên hoàng là phương hợi, Thiên thị là phương cấn; long khởi từ phương
hợi chuyển đến phương cấn nhập huyệt, là “ Thiên hoàng nhập Thiên thị”,
thì cái quý hay, không thể kể hết! Vì hai phương này quý hơn hết, cả ở 24
phương vị.
48. – Canh long chấn hướng phát dã như lôi.
- Phương canh là thuộc kim, phương mão ( lôi là Không) là vì các đồ vật
bằng kim loại, mà gặp không khí thổi mạnh thì kêu vang to; nên lấy lý mà
đoán là phát mạnh, vậy sinh ra ở người giỏi, có uy quyền, nổi tiếng vang như
sấm, như sét!
49. – Tý long, mộc tinh thụ huyệt, Bạch ốc xuất Công khanh.
- Phương tý là thủy, mà long mạch chuyển vào mộc tinh, là thủy dưỡng mộc,
nên phát mạnh, thì con nhà dân nghèo cũng làm lên quan Công, quan
Khanh!
50. – Thanh long nội bão viên phong, tất hữu Minh linh chi tử;
51. – Bạch hổ tâm hoài phương ấn, tất sinh Thuần thước chi phong!
- Bên long sa mà ôm cái kim tinh tròn ở trong lòng, thì hay có con nuôi
( Minh là con nhện, linh là con tò vò; hai giống này hay nuôi nhau ở chung
một tổ, nên mượn chữ đặt thơ.
- Bên hổ sa mà ôm bọc cái thổ tinh vuông, như cái ấn, ở bên trong, thì trai
gái hay dâm ô hỗn loạn! ( Thuần, Thước là hai gống chim, thường ở chung
với nhau một tổ, giống mái lẫn lộn, nên lấy chữ danh hiệu đặt câu!).
52. – Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, ưu tư thiết thiết!
53. – Tam đẳng nhân, tam đẳng vật, tình tú du du!
- Một cái thổ tinh kết huyệt, lại nẩy ra một cái kim tinh nữa ở gần trước mặt,
là nhất thốn thổ, nhất thốn kim, thì lo nghĩ nay náy trong lòng! Lấy lý nghĩa
là thổ sinh kim, là cách đọa thai tiểu sản ( đẻ non).
- Mộ táng ở trên cái mộc tinh hình chữ Nhất, mà đằng sau đầu cũng có một
cái như thế, đằng trước cũng lại có một cái nữa, là thành kiểu cách chữ Tam!
Nói ví là: ba bậc người, ba hạng vật phân chia tam cấp như thế là xấu, nên
muộn tứ rầu rầu!
54. – Nhất tự hoành đầu trưởng nam bại tuyệt!
55. – Nhất tự hoành diện thứ tử ưu tư.
- Đất có mộc tinh hình chữ Nhất nằm ngang ở sau đầu thì dòng trưởng suy
bại, nằm ngang ở trước mặt thì các chi thứ lo âu!
56. – Tả, hữu, tiền, hậu, hữu sơn thủy hình tiêm nhuệ xạ, đao thương ác tử
nan đào!
- Đất ở chung quanh mộ có hình mũi nhọn, hoặc sơn hay thủy đâm vào thì,
khó tránh thoát cái chết về tai nạn đâm chém!
57. – Sơn tán loạn hề, tử dang thi!

171
58. – Thủy khấp khốc hề, sinh diệt tộc!
- Sơn sa tản mạc mỗi chi một ngả, không đoàn tụ thu họp thành cục, thì có
người bị chết phơi thây mất xác!
- Thủy chẩy réo, nghe tiếng kêu ồ ồ, thì kẻ sống cũng lìa họ, bỏ làng, tức là
đau khổ! ( Ở thìn phương mà gần mộ nghe tiếng thì độc ác lắm !)
59. – Tiền diện thủy phân, gia vô ân ái,
60. – Hậu đầu thủy phá, tộc bại yểu vong!
- Ở trước mặt mà nước phân rẻ ra hai ngả là: “ Tiền diện thủy phân” tức là
cao hơn hai bên, không trừ tụ, thì anh em họ hàng ở với nhau không có tình
cảm thương yêu!
- Nước đằng sau đầu chẩy rốc tuột cả về đằng sau là “ Hậu đầu thủy phá”tức
là đằng sau thấp dần dần xuống, không tụ, và không quay về trước mộ, thì
dòng họ bị bại vì chết non dần mòn hết!
61. – Song sinh phương, dạng tự hồ lô, tất sinh phong tàn tật bệnh!
62. – Tứ mộ vị, hình như đao kiếm, đa phát đạo tặc hung đồ!
- Dần, Thân là 2 phương thuộc về trường sinh, mà có hình thể sơn, thủy thắt
ngẫng như quả bầu be, cổ chai, cổ lọ, thì có người bị bệnh phong cùi hoặc
lao tể!
- Thìn, tuất, sửu, mùi là 4 phương mộ khố, mà có sơn thủy hình như đao, dùi,
gươm, giáo thì phát sinh người hung bạo, giặc cướp!
63. – Khanh hãm chi sơn, tàng hung ác!
64. – Thâm tù chi thủy, tích tai ương!
- Long sơn hoặc gò đống cô đơn, nhược tiểu, ngâm ở trong vũng nước quanh
năm, là chôn hãm thì xấu!
- Nước tù hãm ở ao, đầm nhỏ mà sâu, không có cửa tiêu đi, thì xấu! hai cách
trên đây đều nói là hay sinh tật bệnh tai họa!
65. – Thi thể thủy phù, đầu hà tự di.
66. – Đà la sơn hiện, khất cái tha phương!
- Đất có hình như thây người nổi trong vũng nước, thì có người đau buồn,
đâm đầu xuống sông, hồ tự tử!
- Có sơn hình như cái túi, cái bị đeo ở chung quanh gần huyệt thì có lúc cơ lỡ
phải đi ăn mày! Nếu đất hỏng thì ăn mày truyền nối đời đời.
67. – Mão phương cao yếm, nan thụ quân ân!
68. – Ngọ vị tế minh, đa sinh nhỡn tật!
- Phương đông là tượng trưng về ngôi quân vương, nếu bị núi cao che khuất
mặt trời thì không được hưởng ơn vua, lộc nước.
- Phương nam là hướng của ánh sáng của mặt, mắt, mà coa1n sơn cao ngất
như che bưng, thì hay bị đau mắt hoặc mù lòa.
69. – Kiền đoài mộc cư, nữ sinh tân khổ!
70. – Dần chấn hỏa xạ, nam tử lôi đình!
- Kiền đoài là kim, thuộc về con gái, mà có hình mộc tinh nằm ở phương ấy,
thì con gái hư hèn, chẳng ra gì, là vì kim khắc mộc.
- Dần chấn ( mão) là thuộc hỏa lôi ( sấm) và là con trai, nếu có hỏa tinh
nhọn đâm vào huyệt thì hay bị sét đánh, hoặc điện quấn, hay chết cháy!
71. – Hành long quý, nhi kết huyệt tiện; Cổ, Cổn sinh Thuấn, Vũ chi hiền.
72. – Hành long bạc, nhi kết huyệt hậu; Nghiêu, Thuấn sản Thương, Quân
bất tiếu.
- Long sơn đi hùng dũng, nguy nga, đến chỗ kết huyệt rút lại thấp, nhỏ, là
cách quý và lâu bền, tức là con hơn cha nên ví như ông Cổ, ông Cổn sinh ra
vua Thuấn, vua Vũ là người hiền tài.
- Trái lại, long mạch đi bạc nhược, đến chỗ kết huyệt thấy đột khởi hùng hậu
cũng là quý, nhưng mau tàn. Nên ví như vua Nghiêu, vua Thuấn đẻ ra ông
Thương, ông Quân là con hư, bất hiếu v.v…

172
Việt Nam địa mạch
Tổng quát thi

"Việt Nam địa mạch, tối hùng cường


Điệp điệp, trùng trùng, tủng tú trường
Sơn bất triều tha, hiềm lưỡng giới!
Thủy vô tòng ngoại, đãn song phương!
Bắc, Nam biệt thế giai kỳ cục!
Tả, hữu phân cương các dị đường!
Như mộc, nhất căn, quân nhị cán!
Như quân; nhất quốc, nhị vương đương."

Hết phần 1

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 12

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:36 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Điểm huyệt bộ suy luận

173
Việt Hải

Phần hai
Điểm huyệt bộ suy luận

Về phần Điểm Huyệt có lẽ khó hơn việc Tầm Long, nên có câu: “ Tầm long bất dị; điểm
huyệt vưu nan!” ( Nghĩa là: Tìm mạch chẳng dễ, điểm huyệt càng khó!) Và câu: “ Thiên lý
lai long, kết huyệt bất quá chỉ dong nhất tịch” ( Nghĩa là: Mạch đi dài ngàn dặm, đến chỗ
kết huyệt chẳng qua chỉ giải lọt chiếc chiếu thôi!)
Xét mấy câu như vậy, thì đủ biết rằng Điểm Huyệt khó hơn Tầm Long.

Bởi vì, cốt ở cái huyệt, mà điểm sai, không phải chỗ khí mạch chung tụ kết
huyệt, thì hết thảy những sơn, thủy, cục, thế, tinh thần kiểu quý, cách hay ở
gần hay xa chầu ứng chung quanh, đều sai lệch phương vị, thì thật là vô
vọng, uổng phí công phu lội suối, trèo non, khó nhọc để tìm đất! Vậy có câu:
“ Tọa hạ nhược vô chân khí mạch, nhãn tiền hưu vấn kỷ trùng sơn!” ( Nghĩa
là: Ở dưới chỗ ngồi, tức là chỗ huyệt mộ, nếu không phải là thực khí mạch,
thì đừng hỏi đến mấy lần núi non ở trước mặt nữa!).
Sách điểm huyệt có bài thơ:

"Nhất cá sơn trung hạ thập phần,


Nhất phần phú quý, cửu phần bần!
Cộng đường, cộng án, cộng sơn, thủy,
Diệu tại huyệt trường, nhận đắc chân!"

Dịch nghĩa

"Mười mộ trong một khoảng đồi,


Một ngôi kết phát, chín ngôi hao mòn!
Cùng chung đường, án, nước, non,
Khác vì trúng huyệt, cháu, con sang giàu!"

Được những câu văn, bài phú của các Tiên hiền, Tiên triết dạy trong sách
như vậy, nên các nhà hậu học suy xét và học hỏi, thụ truyền tinh tế, do đó
đã điểm được nhiều huyệt đúng, với Tạo hóa an bài, hoặc còn cải tạo những
cái bất túc và khai phá, trừ khử những cái hung sát hữu dư, để được hoàn
hảo hơn. Nên có câu ca: “ bất túc thì ta đắp thêm, hữu dư tước khứ, mới nên
danh thầy!”
Nay các độc giả cũng nên cẩn thận, khi tìm thấy huyệt tinh rồi, tuy đã có xảo
tâm lực mục, nhưng chớ nên vội vàng, phải xem đi, xem lại, đứng bên tả
ngắm bên hữu, qua phía sau, nhìn phía trước, kiểm điểm từng thước ,từng
tấc, rồi thu rút lại từng phân của vị trí long lai, tinh thần chứng ứng, mà
điểm huyệt, thì mới không còn nghi hoặc. Thánh hiền cũng dạy, phải thập
vãng, cửu lai, rồi mới nhất định hạ táng, chớ nên cậy tài năng mà hồ đồ thì
hay bị sơ sót.
Kể ra thì là khó, nhưng xét lại, cũng chẳng phải là khó. Nếu bảo là khó, tại
sao vẫn có nhiều người biết làm được? Vậy khó là tại mình ngại khó, không
chịu khó học hỏi thôi; hoặc ở trình độ kiến thức của từng cá nhân mà cho là
khó, chứ đâu phải tuyệt đối khó! Độc giả muốn trở thành một tướng địa gia,

174
thì cứ xem kỹ, ghi nhớ lấy những phương pháp đã quyết định của Thánh hiền
lưu truyền ở nhiều bộ địa lý kinh, mà tôi đã đọc qua và chọn lựa những cái
cần thiết, đích xác, sưu tập tổng quát lại, để soạn lục ra bộ địa lý Chân
Truyền này, là đủ công thức, diệu pháp tinh vi để xu cát, tị hung, hoàn toàn
về địa đạo rồi, chứ không cần phải tìm xem những sách nào khác nữa, để
cho rối trí, hoang mang. Vì những cái chính yếu của địa lý cũng chỉ có thế
thôi, mà các nhà viết sách về sau mỗi đời, mỗi người một ý, kéo dài mãi ra,
thật là trần kỳ man lục, vẽ rắn thêm chân, nặn rồng đắp vảy! để cho có vẽ
khác người một chút, đó là những hạng hiếu danh, cầu lợi nên những nhà địa
lý chính tông đã phải than phiền về những hạng hủ nho, manh sĩ này!
Vì sách của các Cổ Tiên, Tiền triết tóm lại có một bộ, đại ước độ mấy trăm
trang, mà dần dần sản xuất ra hàng mấy trăm bộ, mỗi bộ kể có mấy ngàn
trang, mà cốt yếu vẫn có thế, bởi họ cứ bày vẽ thêm dài dòng ra, nhai đi,
nhai lại mãi, hàng mấy chục lần quanh quẩn vẫn không ngoài câu cốt cách,
cùng một ý nghĩa.
Những bậc thức giả đã bảo: “ Dĩ tâm định thư, vật dĩ thư định tâm!” ( Nghĩa
là: Lấy tâm trí mà xét định sách viết đúng hay sai, chứ đừng vội tin sách mà
bắt mình phải mê tín cái mù quáng của họ!). Vì có nhiều loại kinh sách: loại
sách của các vị Cổ tiên, loại sách của những nhà Tiền triết, loại sách của
những bậc chân nho, loại sách của những vị minh sư, loại sách của những
bọn manh sư, rong sị, man nhân, dã tục v.v… Vì tôi cũng đã được đọc qua
mấy bộ sách hay quý, chân thực, và những bộ sách giả nhiều, thực ít không
thể tin cả được. Nhưng tôi thấy nhiều người có nho học, mà cứ thấy sách
Hán văn là tin rồi! Không biết suy xét, nghi hoặc gì nữa, đáng buồn cho họ,
có học mà không trí thức, nên bị mê hoặc nhiều.
Tôi dám quả quyết rằng: các học giả hiện tại và tương lai khác hơn những
nho sĩ cổ nhân, tuy không học Hán tự nhưng có Âu văn, hoặc nhiều ngoại
ngữ; hẳn đã tham kim khảo cổ, những khoa học tân tiến, nên đã mở mang,
sáng suốt, cao xa. Dầu có những hạng khôn ngoan quỷ kế, đến mức nào đi
nữa, cũng không lừa dối nổi. Mong các độc giả cứ nghiên cứu kỹ, bộ sách
mới soạn này, rồi đến các cựu phần ( mộ cũ) do những danh sư tiền đại tạo
táng, đã kết phát, con cháu dòng dõi đã kế tiếp hưởng phúc vinh hoa xưa
nay, để xem xét sơn, thủy, địa hình, địa vật, Tạo hóa an bài ra sao? Các ngài
điểm huyệt, lập hướng như thế nào? Đó là sự học mục kiến thực hành, chóng
hay hơn hết. Rồi đem so sánh với những bản đổ giả họa ở trong sách, mà suy
lượng, đại khái tương tự đôi chút thôi, chứ không cái đất nào, giống hệt cái
nào cả, chỉ kinh qua mấy ngôi mộ cũ mà tế nhận là hiểu biết, tìm ra đất mới
ngay, nếu có nhãn lực.
Hoặc muốn dễ hiểu mau hơn và chắc chắn không nghi ngại, thì tìm thấy,
kiếm bạn đã hiểu biết về khoa địa lý, cùng đi đến để chỉ dẫn cho một lượt thì
rõ, rồi tự suy ra thế là thành công kết quả một cách dễ dàng.
Chính tôi cũng tự học sách, rồi một mình đến những cổ mộ danh địa, xem
các Tiền thế, Tiên sư đã thực hành rồi, mà học trước thôi. Xin thề rằng:
không học ai chỉ dẫn cả, mà tôi cũng biết làm, tôi đã trần tình ở bài Tự Tố
trong quyển đầu, để độc giả rõ và suy xét mà linh động thêm, có thể còn hơn
xưa không chừng!

Phương pháp điểm huyệt

Về phương pháp Điểm Huyệt, thì ở miền sơn cốc và miền Bình dương cũng
cùng một pháp lý, chỉ có khác, là ở cái long sơn ở miền Sơn cốc thì đột khởi
cao, tinh thể phần nhiều đứng cao. Ở miền Bình nguyên và Bình dương thì
long mạch đột khởi thấp, tinh thể phần nhiều là nằm thấp, dài, nên điểm

175
huyệt cũng có khác nhau đôi chút là:
Ở Sơn cốc thì phải tìm chỗ thấp hơn, chung quanh phải có sơn bao vây cao
hơn, để che huyệt sơn, khỏi bị gió lùa, thì khí tán không kết! Vậy có câu: “
Sơn cốc tầm oa xứ”, “ Sơn cốc yếu tàng phong” là nghĩa đó.
Ở Bình Dương thì phải điểm ở chỗ cao hơn, chung quanh cần phải thấp hơn,
để huyệt được phong quanh, không bị bí bức, không ngại gió thổi, chỉ cần
nhất là có nước tụ bao vây, thì khí mạch mới đình tụ kết huyệt. Vậy có câu: “
Bình dương tựu đột điên”, “ Bình dương tu dụng thủy”, “ Bình dương bất
luận phong” là nghĩa đó.
Vậy những cái gì tương đồng, cái gì dị biệt, sẽ kể riêng về từng mục, tuần tự
ở sau.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Thể thức tương đồng


Việt Hải

Mục I
Thể thức tương đồng

Trước khi Điểm Huyệt, phải hiểu thế và cục, nó khai cục ở chỗ nào, bế cục ở chỗ nào;
nhận kỹ xem nơi đó có phải là huyệt tinh không đã, rồi sẽ xem mạch nhập thủ chỗ nào;
đường cục hội hợp ở chỗ nào; có tiền án hay không; có hậu chẩm hay không. Xem long
hổ, sơn sa triều bão, tả, hữu tinh thần chứng ứng ở xung quanh huyệt tinh làm bằng cớ,
tức là nội cục, lấy La kinh làm thầy chỉ phương, để đối chiếu, xê dịch mà xu cát, tị hung,
cho hợp với long gia ngũ hành, thì mới quyết định là đúng huyệt.

 
Thí dụ: Như tới một tòa dinh thự, đình tài, hoặc nơi công sở, khán đài, hội
trường nào, thì trước hết phải nhìn bao quát tất cả, xem nơi ấy trang trí thế
nào thì mới nhận được địa vị chính tôn, ghế chủ tọa v.v… Đại khái điểm
huyệt cũng như vậy.
Điểm huyệt có ba (3) phép chính:
1/ Tiếp mạch
2/ Thừa khí
3/ Khí mạch kiêm thu
- Hoặc hỏi: Thế nào là Tiếp mạch? – Thế nào là Thừa khí? – Thế nào là Khí
mạch kiêm thu?
- Điểm huyệt liền ngay ở chỗ mạch dẫn đến huyệt trường, tức là chỗ long
sơn đang đi cao phục xuống thấp, mà điểm ngay liền ở chỗ cao, là Tiếp
mạch.
- Điểm ở chỗ thấp, dưới chỗ long sơn đứng lại, mà dưới còn thè lè dư ra, thì
gọi là điểm Thừa khí.

176
- Điểm ở chỗ thấp, là giữa khoảng cao, thấp nối liền nhau, tức là gồm được
cả mạch lẫn khí, thì gọi là Khí mạch kiêm thu.
Thế nào gọi là Mạch? Thế nào gọi là Khí?
- Chỗ chính long tích, tức là chỗ sống đất gồ lên cao hơn hai bên, gọi là
Mạch.
- Ở hai bên thấp hơn, liền chân sơn long thè ra gọi là Khí.
Câu chữ: “ Chính tích vi mạch, lưỡng biên vi khí”; ví như thân thể người, thì
xương tủy là Mạch, thịt da là Khí.

Hình thể kết huyệt

Kết huyệt có bốn (4) cái tể chính:


1/ Oa
2/ Kiềm
3/ Nhũ
4/ Đột
Thế nào gọi là Oa? Kiềm? Nhũ? Đột?
- Chỗ đất đương bình, tự nhiên có một chỗ lõm xuống như chôn, đáy cái nồi,
nên gọi là Oa.
- Chỗ đất đương bằng phẳng, có một chỗ mở tách khe, phân ra như hình hai
gọng kìm, thì gọi là Kiềm.
- Chỗ huyệt sơn tự nhiên rủ xuống, hoạc thò ra nảy nở như cái vú đàn bà, thì
gọi là Nhũ.
- Đương bình tĩnh, tự nhiên thấy khởi vựng như cái nấm tròn, hoặc vuông,
hình chữ nhật, hoặc dài v.v… đột khởi cao hơn, thì gọi là Đột.
Ngoài bốn hình thể này, còn có nhiều biến thể khác, tuy không đúng rõ hoàn
toàn, nhưng đại khái cũng thuộc về bốn loại này.
Thường ở trong khoảng Oa, Kiềm lớn, rộng, lại có đột nhỏ nữa; hoặc ở trong
khoảng đột, lại có khai Oa, Kiềm, Nhũ nhỏ nữa không chừng, nếu có thì thật
là quý, đích là chân khí mạch, kết tác huyệt rồi đó.
Trong sách điểm huyệt có câu: “ Oa trung tựu đột, đột trung tựu oa. Tĩnh
trung tầm động, động trung cầu tĩnh” là nghĩa thế.
Thế nào là động? Thế nào là Tĩnh?
- Chữ Động, Tĩnh ở địa lý, thì khác với cái nghĩa Động, Tĩnh thường dùng ở
ngoài. Vì bảo là Động, nhưng vẫn nằm yên không cử động. Tĩnh là bằng
phẳng một thể, tức là bình tĩnh.
Tỷ dụ: Mặt đất bằng phẳng, tức là bình địa, gọi là Tĩnh.
Đương bình tĩnh, có chỗ đột cao lên, hoặc lõm xuống, hoặc tự khai kẽ ra, hay
là thè lè nhú ra v.v… gọi là Động, tức như Oa, Kiềm, Nhũ, Đột vừa kể trên.
Hoặc chỉ vi động ( động nhỏ) là chỉ cao, thấp hơn nhau một, hai tấc cũng là
Động. Vậy có câu: Động giả “ Như thủy trung ngư” ( Nghĩa là : cái Động ấy,
như có con cá ở trong vũng nước. Ý là: mặt nước phẳng lặng mà thấy có
xoáy lõm xuống, hoặc có vằn sóng nhỏ gợn lên, túc là có con cá cử động ve
vẫy lượn đi ở dưới nước đó, gọi là Động). Tức là đến chỗ Động ấy mà điểm
huyệt, gọi là “ Động trung thủ huyệt”, “ Tĩnh trung cầu động” vẫn một ý
nghĩa.
Hoặc thấy nhiều chỗ động, tức là loạn động, mà ở nơi ấy thấy có một chỗ
bình tĩnh, thì huyệt thường kết ở chỗ bình tĩnh đó. Chữ gọi là “ Động trung
cầu tĩnh”, “ Tĩnh trung thủ huyệt” vẫn một ý nghĩa.
Long mạch đi cao, đến chỗ kết huyệt phục thấp xuống, thì huyệt ở chỗ thấp,
gọi là “ Cấp lai hoãn thụ, cao lai đê kết” hay là “ Âm lai dương thụ” cũng vẫn
một ý nghĩa. Tùy chỗ cao nhiều, cao ít mà xê dịch xa, gần, đó là điểm Thừa
khí.

177
Long sơn đi thấp, đến nơi kết huyệt khởi cao hơn lên, thì huyệt kết ở chỗ
cao, gọi là “ Hoãn lai cấp thụ, đê lai cao kết” hay gọi: “ Dương lai âm thụ”
cũng một ý nghĩa. Như vậy gọi là điểm tiếp mạch
Nếu long sơn đi không cao lắm, mà đến chỗ nhập thủ, kết huyệt cũng không
thấp mấy, tức là “ Bất cấp, bất hoãn”, thì huyệt kết ở chỗ cao, thấp giáp
nhau ấy, gọi là khí mạch kiêm thu.
Câu chữ: “ Cấp tắc thừa chi”, tức là điểm thừa khí. “ Hoãn Tắc tiếp chi”, tức
là điểm tiếp mạch.
Nghĩa là cao quá, nên khí mạch cấp bách, thì phải lui ra, đừng để gần giáp
mạch, xung ngay xuống đầu quan tài, thì đấu sát. Thấp thì khí mạch khoan
thư, điểm gần lại, đừng để thoát mạch hoặc thoát khí, thì không đúng chỗ tụ
chung và không kết. Phải cẩn thận nhớ lấy ba phép chính này, bất cứ ở nơi
nào, hành tinh gì cũng không thể ngoài được.
Kết huyệt ở tinh thể gì, thì gọi tinh ấy là thụ huyệt, như kết huyệt ở kim tinh,
là kim tinh thụ huyệt, kết huyệt ở mộc tinh, thì gọi là mộc tinh thụ huyệt
v.v…
Có năm (5) tinh thể chính: Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Thổ tinh, Hỏa tinh.
Mỗi tinh thể chính, còn có nhiều tinh thể biến nữa, hoặc cát, hoặc hung;
những tinh biến ấy thuộc về hành gì, thì gọi là biến thể của hành ấy ( Xem
lại ở bản đồ)

Huyệt tinh

Tinh là căn bản ( gốc rễ) của huyệt. Đất nào mà không vựng khởi thành tinh,
thì không kết huyệt.
Thành tinh là nói: tinh khởi đính ( nhô chỏm) và khai diện ( mở mặt). Tinh
không khai diện, thì đoán là không kết huyệt. Tú nộn là nói: bác hoán thuần
thúy, sơn thể mà thô lão, thì không kết huyệt; cũng như cái thân cây già
cứng, thì phải sinh ra cái cành non, mới nẩy nụ khai hoa, kết quả, cái tinh
kết huyệt cũng vậy.
Những cái tinh kết huyệt, có bốn thể dạng:
1/ Tôn đặc
2/ Tú nộn
3/ Phì hậu
4/ Đoan xảo
Những cái tinh không kết huyệt, thì có đến hai mươi ( 20) cái thể dạng:
1. – Phá não 2. – Trắc đính 3. – Băng diện
4. – Súc dầu 5. – Đột hung 6. – Phúc trướng
7. – Tiêm chủy 8. – Không đỗ 9. – Phi phát
10. – Lậu tai 11. – Thũng cước 12. – Tán chỉ
13. – Kình quyền 14. – Thân túc 15. – Bài hiếp
16. – Quang Bối 17. – Trường cảnh 18. – Thô hạng
19. – Thi trường 20. – Tiển nịch.
Những cái thể dạng này đều là hung ác, tất vô dong kết, tức là không kết
huyệt ( xem họa đồ ở trên).

178
Huyệt pháp

Huyệt có cái lý nhất định và cũng có cái phép nhất định. Sơn vốn là tĩnh, nên
thế cần phải tìm chỗ động và vốn là âm, nên huyệt phải tìm chỗ dương. Vậy
xét mọi hình dung, bên ngoài tựa như cái hoa nở, hoặc như con ốc hé mép,
bên trong tựa như cái quả, hay hộ trứng chim, thì huyệt nào cũng thế, chỉ
khác nhau là cái tinh thể thôi. Ví như loại cây, hễ cây khác giống, thì hoa quả
cũng khác hình, khác chất vị. Vậy tìm huyệt, trước hết phải xem cái tinh thể
ấy thuộc về loại hành gì. Muốn biết rõ và mau lẹ, thì lên ngay đỉnh chỏm cái
tinh phong nhập thủ (mạch vào huyệt) ấy, xem cái lai thế nó ở phương nào,
đường cục nó tụ ở nơi nào, mạch xuống nó đình chỉ ở chỗ nào, tinh thể ấy

179
thuộc về hành gì, kết tác huyệt tinh ra sao. Tất nhiên phải cần nó khởi đính
khai diện, chân tay phải thu hướng vào, mới là đích thực. Lại phải biết rõ
mạch nào sinh, mạch nào tử ( hoạt động tú nộn là sinh, trực cấp thô ngạnh
là tử). Cái nào là chính mạch, cái nào là hộ sa ( cái bình diện là chính mạch,
cái gồ sống lưng và lệch nghiêng là hộ sa). Mạch thì lấy cái gồ sống lưng lên
đi âm, cái không gồ là dương. Những cái thể dạng như: Nhũ, đột, tiết nha, lê
bích, qua mâu v.v… hễ cao nhô lên là thuộc âm, thì huyệt phải đặt ở chỗ
thuộc dương, như là ở góc , ở mép, ở miệng, môi; tức là chỗ thấp hơn. Những
cái thể dạng như; Oa, Kiềm, ngưỡng chưởng ( ngửa bàn tay), yến sào ( tổ
én), kê sào ( ổ gà), phô chiên ( cái mền giải rộng), động lãng ( sóng nước
động ) v.v… tức là chỗ lõm hũm xuống, là thuộc dương, thì huyệt phải đặt ở
chỗ huyệt âm; như là: Châu, bào, huyền đột v.v… tức là chỗ cao hơn, đó là “
âm lai dương thụ, dương lai âm thụ” nhất định chi pháp; dương thụ cố nhiên
là phải khai diện, mà âm thụ cũng cần phải khai diện, nếu đột vừa ít thôi, mà
không khai diện, thì là hư giả.
Những cái tinh thần kết tác, mà thấy khai diện ngay ngắn thì lấy chỗ giữa,
nghiêng lệch thì lấy ở góc. Hoành lạc thì tựu thế, thiểm lạc thì ỷ mạch, bình
diện thì táng đính, đột diện thì niêm thần ( môi), vòng cầu thì lấy thế hồi
nghịch, gãy khúc thì lấy khúc cổ ngắn và mềm dẻo khéo hơn. Khoảng mạch
rộng lớn thì bị khí tản, phải tìm đến chỗ động, hoặc chỗ có hình như khung
đàn, mắt nhỏ; mạch lớn mà hùng dũng thì bị khí cấp bách , nên thiểm kỳ sát
( tránh chỗ sát); mạch đi uốn éo dài quá thì bị khí trì hoãn, nên thấu vào chỗ
cấp; mạch ngắn hẹp quá thì bị khí suy nhược, đương thừa kỳ thịnh; mạch
loạn tạp thì bị vô tông, nên chọn chỗ đặc biệt hơn; mạch lãn thản quá thì bị
không thu khí, đương đoạt kỳ tổng ( chỗ tóm thắt lại). Thượng, hạ câu tiêm (
trên dưới đều nhọn) thì không phải mạch; thượng, hạ tề thoát ( đều rộng)
thì vô khí. Mạch lăng huyền thì không nên thiên thẹo; mạch phân qua mâu
thì cần phải đầu đại; Oa mà não bạc thì bị thủy tào ( hẹp như cái mánh
nước ); Nhũ mà quang đột thì bị âm sát; mạch như thoa kiềm thì đầu nên
viên tĩnh; hình ngưỡng chưởng ở sau, thì nên thừa kim ( kim hình tròn); hình
như yến sào ( tổ én), thì lấy chỗ nông hay bình; hình như sơ xỉ ( răng lược)
thì khéo dùng, ở chỗ tiết pha ( như đột và liền dính với nhau); như bình dịa
thì rất cần phải khai Oa, bình điền cũng cần phải khai khẩu.
Hình tượng tuy muôn ngàn cái khác nhau, nhưng cái bí thuật thi không cái
nào khác được.

180
Xem bản đồ hình trên, mà suy xét tế nhận.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI .13


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 17:39 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Kim tinh thu huyệt


Việt Hải

181
Kim tinh thì kỵ Hỏa long và Mộc long nhập thủ. Hỏa long nhập thì Kim tinh bị diệt, Mộc
long nhập Mộc long bị tử! vì hỏa khắc kim, kim khắc mộc. Câu chữ: “ Kim thừa hỏa vị”, “
Mộc nhập kim hương” giai bị khắc sát! Chính là nghĩa đó.

Ngũ tinh huyệt trường


Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là Ngũ tinh. Huyệt trường ở tinh nào, thì gọi tinh
ấy thụ huyệt.

Kim tinh thu huyệt


Kim tinh thì kỵ Hỏa long và Mộc long nhập thủ. Hỏa long nhập thì Kim tinh bị
diệt, Mộc long nhập Mộc long bị tử! vì hỏa khắc kim, kim khắc mộc. Câu chữ:
“ Kim thừa hỏa vị”, “ Mộc nhập kim hương” giai bị khắc sát! Chính là nghĩa
đó.
Điểm huyệt ở Kim tinh thì cần phải tìm chỗ khai oa, khai kiềm, hoặc sinh
thủy; vì oa, kiềm thuộc thủy, tức là mẫu sinh tử ( kim sinh thủy), hoặc đới
thổ là tử y mẫu ( thổ sinh kim) thì tốt.
Nếu thùy nhũ dài, là thuộc mộc, là hạ khắc thượng ( kim khắc mộc) là bị sát
thì hỏng. Lấy một Kim tinh làm thí dụ kinh nghiệm mà suy ra 4 tinh khác
cũng lý ấy cả.
Nếu nhận xét, đích là kim tinh thụ huyệt, là chân long có khai diện, hoặc
khai thủ, mà không thấy có oa, kiềm thì tự mình phải khai phá ra làm cái oa
nhỏ ở chỗ nhất định điểm huyệt ấy, mà đặt quan thì mới được. Đó là theo
phép táng của các nhà triền triết đã dạy trong kinh sách rõ ràng, Chữ: “
Thiên tạo, địa thiết, nhân thành chi”, chính là ý ấy. Xưa nay đã kinh nghiệm
phát phúc rất nhiều, không còn nghi hoặc nữa.

Mộc tinh thụ huyệt


Mộc tinh thì kỵ Kim long và Thổ long nhập thủ, cũng lý khí như Kim tinh đã
kể trên.
Mộc tinh thì quý nhất là Thủy long nhập thủ, vậy sách có câu: “ Tý long, mộc
tinh thụ huyệt, bạch ốc xuất Công Khanh” chính là lý “ thủy năng dưỡng
mộc”, Thánh hiền dạy không sai.
Điểm huyệt ở Mộc tinh thì phải tìm chỗ Nhũ, đột hoặc tiết, bào ( cái đốt vấu,
mầm mống), nếu không thấy có thì điểm ở gốc ( mộc căn), hoặc ở bìa vỏ
( mộc bì), hoặc ở ngoài gần bóng cây ( mộc ảnh) v.v… Tùy chỗ mạch lai,
khai diện, đường, án, thủy tụ, triều, tả, hữu chứng ứng.
Xưa thường nói: Huyệt ở trên Mộc tinh đứng cao là thiên huyệt, ở Mộc tinh
ngồi là nhân huyệt; ở Mộc tinh nằm là địa huyệt; nhưng cái ấy cũng không
cứ thế. Điểm huyệt thì chỉ xem cái bầu oa, nó ở chỗ nào thôi, nếu không thấy
kết tác ở dưới, mà chỉ khai oa ở đỉnh đầu, thấy thật rõ ràng, bốn phía có sơn
cao ủng hộ vào giữa thì sẽ làm thiên huyệt; nếu tựa như oa, thì không phải
oa, chỉ thấy hóa khí chút xíu, đấy gọi là: “ Hài nhi đầu, hóa sinh não” ( đầu
trẻ còn non ở trong thai, hóa sinh óc), là khí ở đỉnh núi kết huyệt, chứ không
phải huyệt trường ở đấy.
Còn như huyệt tổ én ( yến sào) hoặc ở khoảng mặt, hoặc ở khoảng giữa lưng
chừng núi, có bầu oa, leo lên hẳn cũng khó, nhưng xem thấy oa tàng an ổn,
như nhà ở chỗ kín đáo, không lộ ra như cái núi cao đồ sộ thì mới được.
Còn có cái huyệt gọi là “ Liễu nhãn khuy xuân” ( mắt cây liễu dòm xuân),
hình như cây đương thời xuân, có mầm nhú ở trong, sắp thò ra ngoài vỏ, làm
cái mắt nhỏ, tác huyệt ở cái hình nhú ra ấy, tất nhiên phải hướng về phía

182
đông nam để đón khí xuân ấm mát, xem có thấy thế mới là sinh ý, thì mới
phải là tác huyệt, nếu không thì là hư giả, rất sợ, nhầm táng thì bị tuyệt diệt.
Cũng có cái huyệt thùy nhũ, hoặc có bầu oa, như tổ én lưng chừng núi, gọi là
“ Quải đăng chi huyệt” ( như cái đèn treo).
Những Mộc tinh đứng cao như núi, từ đỉnh ngọn đến khoảng ngực, bụng,
không nên làm huyệt đột, nhũ, vì lộ phong ( gió thổi), khí tán, không thể kết
thành huyệt được.
Những cái gọi là: Thiên căn, Nguyệt khuất, Phục linh đều là ảnh huyệt
(huyệt ở bóng), là huyệt buông xuống ngoài chân núi, tức là táng ở bóng
cây. (Căn, khuất là đã hết chỗ chân núi, mà ở trên bãi bình địa lộ ra hình
nhũ, đột; Phục linh là chui trong đất đâm thò ra, vậy rất là tinh diệu, quý
lắm! Đó là sự bí tàng của Tạo hóa).
Trên có hình Nữ la ( cây dây leo! Nữ la), dưới có Phục linh ( củ Phục linh) là
hình thoát khí mà thông, càng là loại kỳ tông ( dấu tích lạ).
Mộc tinh đứng không sinh cành cội, cành cội phân nhiều ở Mộc tinh nằm
thấp, ở miền bình dương thường hay có nhiều.
Nếu là một khúc, thì điểm ở khúc cổ ngắn hoặc tú nộn hơn.
Mộc tinh dài thẳng, thì không nên điểm ở đầu, vì đấu sát. Câu chữ: “ Một tinh
trường trực, mạc khả đương đầu” là ý nghĩa đó.

Thủy tinh thụ huyệt


Thủy tinh thì kỵ Thổ long và Hỏa long nhập thủ, cũng như các tinh trên.
Thủy tinh thì hình thể nhu nhược, huyệt trường y mẫu ( dựa vào mẹ) hoặc y
tử ( dựa vào con).
Điểm huyệt ở thủy tinh thì tìm chỗ đầu tròn như đới kim, tức là: “ ai kim thủ
khí” là “ y mẫu”.
Nếu đầu đãng nhuyễn ( rộng tản, mỏng yếu) thì tìm đến chỗ thủy bảo ( chỗ
gợn đột nhỏ), tức là “ y tử”. Nếu khai oa, kiềm, thì phải điểm vào chỗ
khoảng cầu thiềm, là thấu cầu, hoặc thấu thiềm ( xem chỗ giải thích về cầu
thiềm).
Thủy thịnh thì hình thể rộng lớn, thường hay xuất nhũ, thì điểm ở chỗ nhũ,
hoặc thè ra như lưỡi trai, lưỡi ốc là thủy lưu kim, thì điểm vào chỗ khai, hoặc
chỗ động ấy.
Nhũ thuộc mộc, thủy sinh mộc, là “ mẫu y tử”.
Kim sinh thủy, tức là “ tủ y mẫu”.

Hỏa tinh thụ huyệt


Hỏa tinh thì kỵ Thủy Long và Kim long nhập thủ, cũng như lý khí kể ở Kim
tinh trên.
Hỏa tinh ít khi tác huyệt.
Hỏa tinh dài nhọn thì dữ lắm! không thể làm huyệt được, vì mọi thứ vào lửa
đều bị thiêu thành tro tàn! Không nên tìm huyệt ở Hỏa tinh. Nếu thấy chỗ
sơn thủy hữu tình, chân long quý cách, mà huyệt kết ở Hỏa tinh, thì chỉ có
một cách là: điểm ở gốc Hỏa tinh, gọi là “ Tiễn hỏa cách”, là đầu nhọn đâm
ra ngoài, hoặc bên tả hay bên hữu và đằng sau, hướng mộ không trông thấy
đầu nhọn mới được.
Ở giữa vùng núi cao, cõng có cách gọi là Phi phượng, ( chim phượng bay)
phát to và chóng phát lắm! Hình thế như chọc lên trời, nhưng là: “ vô đức chi
xứ” nên sau bị tiêu diệt, không được bao lâu. Còn cái gọi là: “ Đăng hoa tiễn
diệm” (hoa đèn cắt ngọn lửa) vốn là thủy hoa thì có thể được, nếu là kim
hoa thì không dùng được.
Nếu đầu hỏa, thân thổ, là “ hỏa tế thổ”, tọa huyệt hướng về phía thổ, không
nên trông thấy đầu hỏa nhọn.

183
Hỏa nhỏ, thổ lớn, là khí ấm, quý long, thường kết nhân quả ở đó. Hỏa trọng,
thổ khinh thành viêm táo, thì có tiền không người giữ, có gạo không người
ăn, tức là bị diệt vong!!!

Thổ tinh thụ huyệt


Thổ tinh thì kỵ Mộc long và Thủy long nhập thủ, cũng lý khí khắc sát như kể
ở trên.
Điểm huyệt ở Thổ tinh thì phải tìm chỗ đột kim tinh hoặc đột Thổ tinh nhỏ,
hoặc “ thổ phúc tàng kim”, hoặc “ thổ giác lưu kim” thì mới là chân kết
huyệt. Câu chữ: “ thổ hình tác huyệt diệc y tử” ( tức là thổ sinh kim).
Thổ tinh không điểm huyệt ở Oa, Kiềm được, vì oa, kiềm thuộc thủy, là thổ
khắc thủy, tức là “ hạ khắc thượng”, “ mẫu hình tử” chính là nghĩa đó.
Nếu oa, kiềm mà có đột kim hoặc thổ ở trên, thì huyệt đặt ở chỗ đột, tức là “
oa trung tựu đột” thì tốt. Nếu không có đột, mà thấy quả long chân khí hảo,
thì lấy đất ở ngoài oa mà bồi đắp thành đống đột, như kim tinh tròn ở giữa
chỗ định điểm huyệt, rồi đào trong đống đắp ấy mà hạ quan, là theo táng
pháp của các nhà tiền triết dạy rõ trong kinh sách.
Nếu khai hoặc đột kim ở bên nào; như ở kiên ( vai) hoặc giác ( góc) thì táng
ở chỗ đó. Nếu táng ở kim đó mà không thấy có bằng cớ, thì tới chỗ thượng
huyền ( trên chỗ hình khung đàn, hay mắt nỏ) tìm chỗ vượng khí mà điểm;
nếu không thể, hoặc thổ khí hợp ở dưới, thì điểm chỗ sinh khí ấy, nhưng
phần nhiều là phô bình như cái mền, cái đệm vuông giải ra, hoặc bình diện
rộng như hình bàn cờ, thì nên đắp thành đột kim ở giữa chỗ tướng quân vị,
mà đặt huyệt.
Nếu khai oa hoặc kiềm, mà thùy nhũ, nhũ thuộc mộc, là “ Sinh tử phá mẫu
phúc” ( sinh con phá bụng mẹ), tức là “ Mộc khắc thổ” thì hỏng!
Nếu thổ tinh nhỏ vừa tầm mà bằng phẳng, thì táng giữa thổ tâm.Ba góc cao,
một góc thấp, thì điểm ở góc thấp: ba góc thấp, một góc cao, thì điểm ở góc
cao, hoặc nửa cao, nửa thấp mà huyệt tinh cao, lại ở miền núi cao, thì điểm ở
nửa thấp. Ở miền đồng bằng thì điểm ở nửa cao hoặc chỗ cao thấp gần giáp
nhau chẳng hạn, vì còn phải tùy đường cục và tinh phong chứng ứng, lựa vào
phương vị hay thì mới là đúng huyệt.
Tất cả ngũ tinh tuy có chính hình, chính thể, nhưng còn có nhiều biến thể,
biến hình nữa.
Cửu tinh cũng có chính, có biến như Ngũ tinh, nên có câu: “ Thiên hình vạn
trạng, biến hóa vô cùng”! Vậy mới có “kỳ hình, quái huyệt” không giấy bút
nào tả hết. Sẽ xem đại lược các bản đồ dưới để suy lượng mà điểm cho khỏi
nhầm lẫn.
Còn những chỗ kết huyệt vào những hình thể, tựa như dáng kiểu muông
cầm, loài thú, côn trùng, v.v… đại loại như sau:
Có bốn loài vật quý: Long, Ly, Quy, Phượng, gọi là “ Tứ linh”.
Long là con rồng. Nếu có kiểu đất tựa như hình con rồng, thì nên tìm huyệt ở
mắt ( là táng long nhãn), hoặc ở rốn ( gọi là long tề), táng ở miệng ( gọi là
long khẩu), táng ở mũi ( gọi là long tụy), hình như “ long hàm châu” ( là
long ngậm ngọc), “ long hí châu” ( là rồng giỡn ngọc), hoặc như “ quần long
tranh châu” ( bầy rồng tranh ngọc) thì điểm huyệt ở chỗ hạt châu. Có chỗ
như “ lưỡng long triều nguyệt” ( là hai rồng chầu mặt trăng) thì huyệt ở mặt
trăng.
Ly là con kỳ lân loài sư tử, hổ, báo. Nếu có hình tựa những loại ấy, thì tìm
huyệt ở mắt, ở trán, ở bụng; nếu có hình như “ sư tử hí cầu” thì huyệt tại cầu
trung ( là huyệt ở quả cầu) v.v…
Quy là con rùa, nếu có hình như con rùa, con đồi mồi, ba ba, giải rạch, cũng
thuộc loài rùa cả, điểm huyệt tìm ở vai ( gọi là quy kiên), tùy theo địa hình,

184
địa vật, khí kết tác ở vai bên nào thì táng ở vai bên ấy tối kỵ ở quy bối ( là
trên mai rùa).
Nếu có rùa con là “ Thiên miết huề tử, huyệt tại tử” ( là rùa dắt con thì huyệt
ở con).
Nếu có nhiều hình rùa, gọi là “ quần quy du hải” ( là đàn rùa qua biển), hoặc
“ quần quy hạ than” ( bầy rùa xuống bến nước). Nhiều rùa lớn, một rùa con,
thì huyệt chính thường hay kết ở rùa con, gọi là “ Chúng đại, độc tiểu, huyệt
tại tiểu” ( hoặc gò đống không phải hình rùa hay hình gì cũng thế). Nếu rùa
quay đầu về phương bắc, gọi là “ Quy triều đầu”.
Nếu có hình con rắn ở gần, là “ Quy xà tương khí” hoặc liền dính thì gọi là: “
Quy xà hợp hình”, là chỗ ấy có đất quý, nên tìm huyệt ở trong vùng đó.
Phượng là con chim phượng hoàng, nếu có hình giống như phượng thì tìm
huyệt ở mắt, ở mỏ, ở diều; nếu có thư thì gọi là “ phượng hoàng thư”, thì
huyệt ở thư ( mảnh đất đột vuông như hình phong thư), hình như phượng
bay là “ phượng phi”, hình như phượng lộn gọi là “ phượng vũ” ( phượng
múa).
Còn có hình như con chim, con gà ôm trứng gọi là “ Điểu, kê bão hoàn”, tì
huyệt ở noãn ( là cái gò, cái nút tròn, gọi là noãn).
Ở khu nào có đủ cả bốn hình: Long, Ly, Quy, Phượng, thì vùng ấy có đại
huyệt! nên tìm đất ở khu vùng đó.
Xà là con rắn, nếu có hình, hoặc thính cáp thì huyệt ở tai ( gọi là táng nhĩ),
nếu là xà trực cáp, là rắn đuổi cáp, thì huyệt ở nhãn ( Cáp là mô đất nhỏ đột
lên).
Ngô công là con rết, nếu có hình thì huyệt ở mắt, hoặc nhả ngọc thì huyệt ở
viên ngọc. Hai kiểu đất hình Xà và Ngô công thì sinh ra hùng dũng, oai
quyền dữ lắm!
Ngưu là con trâu, nếu có hình như con trâu nằm thì huyệt ở bụng, chữ: “
Ngưu tầm phúc”,hoặc có hình bán nguyệt ở gần, mà đầu trâu triều vào, gọi
là: “ Tề ngưu vọng nguyệt” thì huyệt ở nhãn, hoặc uống nước, là “ Ngưu ẩm
thủy” ( trâu uống nước ), “ huyệt tại tụy” ( huyệt ở mũi) v.v…
Trên đây là kể đại loại thôi, chứ trong sách còn nhiều lắm, sẽ xem ở bản đồ
sau.
Các tiền triết đoán là: Các loại cầm hình ( là loài chim có hai cánh) thì phát
về văn, các loại thú hình thì phát về võ.
Đó là có tiền triết cao siêu, lấy lý là: hình thanh thì khí thanh, đoán là phát
văn; hình thô thì khí cũng thô, đoán là phát võ. Nhưng kỳ thực, kết phát là
do ở khí mạch của sơn, thủy kết thành tinh thể, thuộc Ngũ hành tương sinh,
âm dương giao hợp, dung hòa cấu tạo mà thành địa linh, khí vượng, hun đúc
thi hài cốt tủy, kết hóa tinh anh, rồi ứng hợp vào khí huyết người cùng một
dòng màu, tiêm nhiễm vào thai tinh mà sinh sản ra người dị biệt! chứ không
phải là có, những cái hình của những con vật ấy mới kết phát.
Những kiểu cách đó, chẳng qua là nhân thấy tựa hình cái gì, thì đặt tên vào
cái vật mà gọi cho dễ nhớ và cho vẻ thiêng liêng, cao quý, bí hiểm thêm lên
thôi. Xét như câu: “ Tại thiên thùy vượng, tại địa thành hình”, tức là vi như
đám mây, khí hợp tụ thành muôn hình ngàn vẻ, lại tan biến hư không, đó là
vô tình tự nhiên mà thành, mà tan, chứ không phải là hữu ý như nhân tạo,
nhân phá! Vậy tôi cho đó là lý thuyết huyền ảo, chứ không được thực tế
chứng minh, chỉ là vấn đề trừu tượng, ảo tưởng, nên tùy ý tự do tín ngưỡng
của thuyết duy tâm mà cho là có phần ảnh hưởng đến sự hay dở, không thể
biết! Vậy ai dám tuyệt đối là không được tức như là những cái dị đoan bùa
ngải, phù phép trừ tà, đọc chú, thư phù chữa bệnh của những nhà ngoại
khoa mà khỏi được, không cần dùng đến thuốc thang gì cả, thì sao?
Điểm huyệt ở miền núi cao, thì chỉ khác là tinh thể cao thì phải tìm chỗ thấp

185
hơn để khỏi bị gió thổi, thì khí tán. Ở vùng bình dương thì tinh thể thấp, nên
không sợ gió thổi, chỉ cần có nước bao vây làm giới thủy để hãn khí thì mới
kết. Câu chữ: “ Sơn cốc yếu tàng phong, bình dương tu dụng thủy”, hay là
câu: “ Sơn cốc vô đàm thủy, bình dương bát luận phong” cũng vẫn cùng một
ý nghĩa ấy cả.
Hễ thấy có nhiều tinh phong lớn mà có một cái nhỏ, thì huyệt thường kết ở
cái nhỏ. Câu chữ: “ Chúng đại, độc tiểu, huyệt tại tiểu”.
Hễ thấy nhiều gò đống nhỏ mà có một cái lớn, huyệt thường kết hay kết ở
cái lớn. Câu chữ: “ Chúng tiểu, độc đại, huyệt tại đại”.
Hễ thấy nhiều chỗ cao, một chỗ thấp, thì huyệt thường ở chỗ thấp. Câu chữ:
“ Chúng cao, độc đê, huyệt tại đê”.
Hễ thấy nhiều cái thấp, một cái cao, thì huyệt thường hay kết ở cái cao. Câu
chữ: “ Chúng đê, độc cao, huyệt tại cao”.
Cũng có chỗ không kết huyệt ở gò đống, mà kết huyệt ở bình điền hay bình
địa. Gò đống, hình thể kiểu cách chỉ là chứng tá hộ vệ cho huyệt mà thôi,
hoặc ở trước mặt, hoặc ở sau lưng, hoặc ở bên tả, hoặc ở bên hữu không
nhất định; vậy thường khó điểm hơn chỗ kết ở tinh phong gò đống, nên cũng
cần đến xảo tâm, lực mục thì điểm huyệt mới không sai.
Phần nhiều những đại địa là khó tìm huyệt, nên có câu: “ Đại địa thâm tàng,
khởi ư bộc lộ” ( Nghĩa là: đất to, huyệt thường giấu ở chỗ sâu kín, không phô
bày ở chỗ dễ thấy), cũng như người: “ Quân tử tàng hình tiểu nhân lộ thế” là
ý nghĩa đó.
Đại địa, quý huyệt, ví như kinh đô nhà vua hay bản doanh chủ tướng, tất
nhiên ở trung ương nơi chu mật trong nước, chứ đâu ở ngoại ô, biên giới! Tuy
ở dinh điện ấy, nhưng lại ngự ngọa ở trong thâm cung sơ soàng, chứ không ở
nơi phòng khách đồ sộ, trang hoàng lộng lẫy như thường nhân nhầm tưởng!
Chỉ có những người trí thức mới hay hiểu được cái thái độ của người quân tử!
Đại ý là như vậy.
Mạch nhập huyệt cũng không nhất định, hoặc vào đằng sau, hoặc vào bên
tả, hữu không chừng, nên có những dang từ: Mạch nhập não ( vào đầu),
mạch nhập nhĩ ( mạch vào tai), mạch nhập kiên ( vào vai), mạch nhập yêu
( vào lưng), mạch nhập cước ( vào chân); điểm huyệt phải liệu lựa, tránh né,
đừng để mạch vào thẳng đầu, tức là đấu sát, tối kỵ! Kinh điểm huyệt có thí
dụ: “ Cổ đỉnh yên tiêu hương thượng phù; tắc xả yên, nhi tựu hương” ( Nghĩa
là: ví như cái đỉnh đốt trầm, khói tiêu tan rồi, mà mùi thơm vẫn còn nổi,
đượm ở chung quanh, thì nên tránh chỗ khói xông vào mặt, tới chỗ ngoài
khói mà ngửi mùi hương).
“ Hoang thiềm vũ quá, thanh do trích,tắc xả trích nhi tựu thanh” ( Nghĩa là:
ví như cái mái nhà cỏ tranh, mưa đã qua rồi, mà vẫn còn nghe tiếng giọt
nước rơi lách tách, thì phải tránh chỗ giọt nước rơi xuống đầu, nên đứng ra
ngoài mà nghe tiếng nước rơi). Ý là nói: mạch cũng như luồng khói và giọt
nước, xông khói vào mặt, rơi nước xuống đầu thì chịu sao được? Mồ mả cũng
ví như người, vậy phải né ra, đừng để mạch rót thẳng vào đầu quan tài, chỉ
cần khí ( hơi) đất xung vào thôi.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Quán mạch


Việt Hải

186
Quán mạch
Từ Thái Tổ đến chỗ nhập huyệt, tiết này đến tiết khác là hành long, chẳng qua xương
sống sơn dắt díu liên liền thì người thường cũng biết, nhưng đến chỗ nhập huyệt, dẫu là
bậc lão sư cũng chưa chắc đã biết!

 
Mạch nhập huyệt, thì phải bàn đến cách thức xuyên sơn; xuyên sơn ở đây
không phải là cách xuyên sơn ở La kinh, phải dùng đến nhãn lực mà xem:
long nhập thủ thế nào, khởi đính thế nào, xuyên đến huyệt trường thế nào,
thì mới nói là mạch xuyên sơn như vậy, đó mới là hiểu biết.
Chính phép thì lấy một đoạn mạch nhập thủ, làm quan hệ tính mạng của
long nhập thủ! Phải nhận xem chính xuyên, chính xuất, hoặc tà xuyên, tà
xuất, khúc xuyên, ngang xuất.
Mạch xuyên sơn cao thì xuất vựng cũng cao, mạch xuyên sơn thấp thì xuất
mạch cũng thấp, mạch xuyên sơn trung bình thì xuất vựng cũng trung bình,
mạch xuyên sơn cao quá thì mạch theo đều nghiêng xuống, miệng khí xuất ở
dưới chân, mạch xuyên sơn thấp quá thì mạch theo dưới lên trên, miệng khí
theo đỉnh ngọn xuất, mạch xuyên sơn rõ rệt là khí thịnh xuất, mạch xuyên
nhỏ là khí ẩn xuất ( náu lén), mạch xuyên sơn thoát là khí minh xuất ( ra rõ
rệt), mạch xuyên sơn hãm tất thị khí thoát xuất ( Xem họa đồ đại lược ở
dưới).

 
- Mạch thoát tu long đáo, khủng thị la tinh,
- Mạch hãm tu cục hội, khủng thị quá long.
Nghĩa là ở chỗ mạch thoát, phải nên điểm ở chỗ có mạch tiếp đến, vì sợ nó là
la tinh chấn thủy khẩu chứ không phải vựng huyệt - Ở chỗ mạch hãm, thì

187
phải nên ở chỗ cục hội lại, vì sợ ra ngoài quá long mạch, tức là tảm hữu
không có sơn sa bão huyệt.
Tinh đầu khởi lên, mà không phục xuống, thì bàn đến mạch, lấy mạch đã
xuyên sơn theo khoảng giữa bụng xuyên ra; nếu không phục, thì theo xuống
mạch có thể tìm được. Người không biết, thường tìm mạch ở dưới tinh đầu
cùng tận, thì không bị xạ cũng bị diệu tinh, tức thừa sát, táng càn, tự cầu
họa.
Cũng có cái tinh đầu rộng lớn, hoặc tự tác ủy xà, đốn điệt ( nghĩa là : tựa
như con rắn ngoằn ngoèo uốn khúc ), mạch xuyên sơn, không phục xuống
để làm chuẩn đích.
Cũng có nhiều cái mạch bí ẩn không trông thấy, là mạch nó lõm xuống ở
giữa, hoặc nó đi từng cấp rồi mới vựng, hoặc mạch đi trong đất bằng phẳng,
hoặc dắt dẫn vào một góc chẳng hạn. Có cái nhìn thấy được là: mạch như
thảo xà, hôi tuyến ( mạch đi gợn một chút, tựa như con rắn, cây cỏ, bó ở
trên mặt đất, gọi là “ Thảo xà chi mạch”; cái gợn từng đốt ngắn thấp, cao tí
xíu tựa như sợi dây tro tàn, nằm trên bãi đất phẳng, nhìn tinh mắt mới thấy,
chữ là “ Hôi tuyến chi mạch”.

 
Giải thích

Ẩn mạch hình đồ
Hình 1. – Mạch hành Tằng Vựng: Ở dưới đỉnh chỏm tầng tàng vựng ảnh, gọi
là Thiên luân ảnh, 5 cái hoặc hơn, đều thuận đi đến gần chỗ khai khẩu thè
môi, mới vựng huyệt.
Hình 2. – Thốt Trung Mạch, ba phía cao, giữa hãm, ở giữa nơi hãm kết huyệt,
nếu không tinh thì bỏ.
Hình 3. – Mạch Hành Tằng Giai: Ở dưới đỉnh chỏm từng cấp cấp ngang bằng,
gọi: Ngọc giai mạch; đi thẳng xuống, đến gần nơi khai khẩu, xuất thân khởi
thành vựng kết huyệt.
Hình 4. – Thảo Xà Mạch: Tinh thể khai diện rộng lớn bằng phẳng, trên lộ ra tí
chút gợn lên, ngoằn ngoèo như con Rắn, hoặc dây cỏ nằm và bò dài, hoặc
như cái xuống lưng lông mao, rồi vựng huyệt.
Hình 5. – Mạch Khiên Nhất Ngung: Tinh thể đầu bằng phẳng, không thấy

188
mạch hiện; đến chỗ, khai khẩu toàn thân chuyển động, dẫn vào 1 góc khởi
vựng kết huyệt.
Hình 6. – Hôi Tuyến Mạch: Hình này càng bí ẩn hơn hình Thảo xà! Chỉ lộ tí
chút, rồi đứt mất tích, rồi lại lộ lên cái khác, lần lần vựng huyệt tựa hồ cái
bóng mạch, tức thị ảnh huyệt, có tinh thông lắm mới biết!
Những long mạch tới chỗ thành vựng tất là vượng khí, khai vựng tất là hàm
sinh ý, là kết huyệt đó; nếu không thành vựng, không khai khẩu thì không
kết huyệt.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 14


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 17:42 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Luận huyệt trung thai, Túc, Quyết
Việt Hải

Luận huyệt trung thai, Túc, Quyết

"Huyệt trung thai, tức tối nan tài!


Thai tại phục trung, cầu thượng mai,
Ly phúc, tức danh: thiềm nội điểm;
Cấp thừa kỷ tức, hoãn thừa thai.
Ai sinh, khí tụ, vi huyền diệu,
Yếu tá dương hô, âm hấp hồi.
Nhược thị thuần âm, thuần dương thủ,
Không tương táng pháp, mộ trung bồi."

Giải nghĩa

- Cái thai và tức ở trong huyệt trường rất khó điểm !


- “ Thai” thì còn ở trong bụng, điểm ở trên chỗ “ cầu”
- Lìa khỏi bụng, là “ tức”, thì điểm ở trong chỗ “ thiềm”.
- Cấp thì điểm ở chỗ “ tức” ( là điểm thừa khí).
- Hoãn thì điểm ở “ thai” ( là điểm tiếp mạch).
- Nắm lấy cái sinh, bỏ cái tử, mói là tài khéo.
- Cốt là mượn cái “ dương” nó thở khí ra, cái “ âm” nó hít khí vào.
- Nếu là âm cả, là đều cao,thì điểm ở chỗ dương, là chỗ thấp.
- Nếu không khoáng thấp cả, thì đem cái phép táng ra mà làm, là lấy đất đắp
cao chỗ điểm huyệt lên mà táng, huyệt đặt nông ở trên mặt đất thôi, đừng

189
đào sâu xuống, bì nước thấm vào ngâm xương thì không kết phát.
Nhận xét “ Thai”, “ Tức”:
Giữa chỗ điểm huyệt là tận xứ của âm, dương.
Âm đáo tá dương, dương đáo tá âm.
Nghĩa là: Long mạch đi cao dẫn đến huyệt, là “ âm đáo”, thì mượn chỗ dương
là chỗ thấp mà điểm huyệt, là thừa khí.
Long mạch đi thấp dẫn đến huyệt, là “ dương đáo”, thì mượn chỗ âm là chỗ
cao mà điểm huyệt, là điểm tiếp mạch. Trong khoảng trên dưới phải tinh tế
liệu độ mà xê dịch thước tấc cho vừa đúng, đó là tận cùng đầu, chỗ âm
dương giao độ kết huyệt, thực sự ăn thua ở chỗ ấy.
Tại phúc ( bụng) là Thai, như dạng đàn bà hoài thai ( có bầu); Ly phúc là
Tức, là mẹ đẻ con ra rồi, con là Tức.
Ví dụ: Như từ khoảng đầu mái giọt tranh tới đất, gọi là “ Cầu thiềm chi gian”,
khoảng trên là “ Cầu”, khoảng dưới là “ Thiềm”. Huyệt ở giữa, là khí mạch
kiêm thu.
Cầu nghĩa là ở trên có phân thủy như đầu cái cỏ tranh thu tròn nước lại như
viên cầu nhỏ, nên gọi là “ Cầu”. Khi giọt nước rơi xuống, hợp lại như nước
mái nhà tranh ở dưới thềm đất dọng lại, nên gọi là “ Thềm”. Thai ví như viên
cầu (giọt nước nhỏ), một nửa còn ngậm ở trong, một nửa thò ra nhưng chưa
rơi ra hết, hay sắp sửa rơi. Vậy ở phía trên gọi là Cầu và Thai, phía dưới
đương rơi xuống gọi là Tức và Thiềm.
Mảng trên là Thai cốt thụ khí, nên cần phải phi mãn; mảng dưới là Tức, cần
phải có sinh khí dừng tụ. Mảng trên tĩnh, là lúc chưa đê; mảng dưới động, là
khí đã đẻ con ra khỏi bụng rồi.
Thai, Tức có thể dạng con trai, con gái, là giống như oa, kiềm, nhũ, đột vậy.
Kinh Hiếu Tử nói: Nhũ đột là nam tử thể dạng, nên tinh khí tiết xuất ra
ngoài. Vậy điểm huyệt ở nhũ, đột phải tranh mạch đấu sát, là phải tránh chỗ
cầu mà thấu chỗ thiềm; tới dưới chỗ nhũ, đột mà điểm gọi là thửa tức mạnh
hay là thừa khí cũng thế.
Oa, Kiềm là thuộc nữ nhân thể dạng, chúy là thụ tinh khí thu vào trong. Vậy
điểm huyệt ở oa, kiềm thì đừng hạ ở chỗ hư hủ ( là chỗ ẩm thấp), ví khí tán,
nên nhập thiềm và thấu cầu, phải liệu độ cho tương đối ở chỗ oa hoặc kiềm
mà điểm, đấy là thừa thai khí.
Kinh Đảo Trượng có những câu:

“ Tụy tiêm, tựu tức hưu an huyệt.


Yêm khẩu thừa thai yếu thấu viên”.
Nghĩa là: Như cái mũi nhọn rủ xuống là nhũ hoặc đột, thì đừng điểm huyệt ở
chỗ tức, là mạch đấu sát, không kết mà sinh họa!
Ở miệng chỗ Oa, Kiềm mà điểm thừa thai, thì nên thấu hợp với viên ( là vừa
tương đối trong vòng tròn, ôm thu bão lại). Ý là không nên giáp vào thai
quá, là kiêm thu cả khí lẫn mạch.
Hai điểm kể trên là phép thường thì kinh sách nào cũng thế. Nhưng ở trong
cái thừa thai, thứa tức nài lại còn phải phân ra cấp, hoãn thì ít sách nói đến.
Vậy khôn khéo ở cái quyền, biến của mình nữa thì mới là tuyệt diệu, thì mới
là hoàn toàn mỹ mãn!
Như Nhũ đột lại cấp, thì phải đương thấu thiềm để thừa tức, không ngại tính
hoãn, đó là thừa khí.
Nhu mạch lại bình di ( thấp phẳng) là khí hoãn ( gọi là Hạ lại), thì nên thấu
cầu, để làm cho cái tính hoãn nó cấp lên ( thấu cầu là dịch lên giáp với
mạch), đó là tiếp mạch.
Lại còn có lý thừa thai, không cấp, không hoãn, là mạch lai trung hòa (tương
đương, bằng nhau) thì khí nó tụ ở chỗ vựng tâm kết huyệt, phải tới chỗ

190
trung tâm của viên vựng nhũ, đột mà điểm huyệt, cái nghĩa chữ: “Tựu tức
niêm thai” là như thế.
Nếu oa, kiềm mà mạch lại hoãn, thì phải tới chỗ thấu hợp với cầu mà điểm,
không ngại gì tính cấp.
Mạch lai khởi đốn, thì chỗ khí gọi là lai, tụ kết toàn ở chỗ vựng tâm của oa,
kiềm để làm hoãn cái tính cấp.
Cũng có lý là: thừa tức gọi là dương, cũng là đấu sát, nên phải liệu lượng mà
điểm huyệt cho khỏi bị đấu sát. Lại có chỗ bất cấp, bất hoãn, là mạch lai
trung hòa mà khí lại ở chỗ huyền lăng của oa, kiềm thì nên tới bên cạnh chỗ
thượng huyền mà đặt huyệt, cái nghĩa: “ Tựu thai niêm tức” là như thế.
( Huyền lăng là cái góc của cái hình giống như cái nỏ cái đàn).
Biết rõ được cái nghĩa hai chữ Cấp, Hoãn rồi thì cái nghĩa Thừ Thai, Thừa
Tức, lùi, tiến, cũng là rõ hết, không có gì là khó.
Nhưng còn cái huyền diệu ở trong đó, lại có phép “ Ai sinh, khí tử” ( là lấy
cái sống, bỏ cái chết) sở vị “ nhiêu giảm nhị phân, chân cốt tủy”. ( nghĩa là:
thêm bớt vài phân, thật là xương, tủy).
Như Nhũ lạc huyệt, gọi là âm kết, thì âm là tử, mà dương là sinh, thì không
nên thẳng giữa đường chữ thập đặt táng, phải nên thêm bớt, là gối đầu qua
bên dương ( bên thấp) hai (2) phân mà đặt quan tài, là mượn một hơi thở
của cái dương, mà vạn vật sinh, đó là âm giao cấu với dương, vậy gọi là “ Ai
sinh”. Câu chữ: “ Âm đáo, dĩ bạc xứ vi sinh” ( nghĩa là: Mạch ở chỗ cao lại,
thì lấy chỗ thấp ( bạc) là sinh).
Như oa, kiềm lạc huyệt, là dương kết, thì dương là tử, âm là sinh, cũng
không nên đặt quan ở giữa thập đạo, phép phải gia giảm; nên gối qua bên
âm vài phân. Câu chữ: “ Phong quan tá âm khí nhất hấp, nhi vạn vật thành”
( Nghĩa là: Đặt quan tài nhờ một chút âm khí hút vào thì muôn vật thành,
tức là dương cấu hợp với âm cũng gọi là “ Ai sinh” ( là mạch ở thấp lại, thì
lấy chỗ cao là sinh).
Kinh Đảo Trượng có câu: “ Ninh khả thoát mạch nhi tựu khí, bất khả thoát
khí, nhi tựu mạch.
Nghĩa là: Thà Thoát chỗ mạch mà tới chỗ khí, chứ không nên thoát khí, mà
tới chỗ mạch. Chữ “ Khí tử, dĩ ai sinh” là ý nghĩa đó.

Luận huyệt trung sa


Sinh, Tử, Bí quyết
"Chân sa, sinh, tử, yếu tiêu tường,
Đoản giả, vi sinh, tử giả, trường.
Tiên, hậu, trực, loan kiêm đại, tiểu,
Cá trung sinh, tử nghĩa đồng phương.
Thu tiên, xả hậu minh sinh, tử,
Quan cước thu nạp, tử tế lương.
Cánh hữu hạ sa, thu chủy điện,
Tài đầu, xuyên khẩn, phúc vô cương."

Giải nghĩa

- Cần phải biết rõ cái sa sinh ( sống), cái sa tử ( chết) mà tiêu nạp.
- Cái sa ngắn là sinh, cái sa dài là tử ( chết).
- Cái sa đến trước, sa đến sau, sa thẳng ra, sa ôm vòng lại, sa lớn và sa nhỏ.
- Tất cả những cái sa đó, nghĩa sinh, tử cũng giống nhau.
- Nên thu cái đến trước, bỏ cái đến sau, là rõ nghĩa chữ sinh, tử.
- Thu nạp là liệu lượng mà gia, giảm, xê dịch chút xíu ở đằng chân quan tài,

191
để hướng vào cái sinh ấy.
- Nếu có cái hạ sa thì lựa khéo mà hướng vào cái đầu mỏ nó thu thủy, hoặc
thu khí khép đóng lại.
- Như vậy gọi là “ tài đầu xuyên khẩn” thì phước lộc nhiều không biết bao
nhiêu chừng hạn! vì thủy là chứa tài lộc. Vậy sách Lý Gia Hoạt Sáo có câu: “
Hạ sa thu tận nguyên đầu thủy; tử Tôn mão tận thế gian điền”. Ý nghĩa cũng
thế, tức là phát đại phú.
Xét ra: cái chân sa là cái sa ở gần giáp cái thân thể của bản long, những cái
âm lạc ấy theo từ cái sơn loan đầu ( là cái sơn vòng cong ôm lại ở sau đầu)
chia ra hai giải sơn, làm tay long tay hổ, là sa thật.
Dương lạc, tức là cái long mạch khai khẩu, sinh ra hai càng chân nhu gọng
kìm, gọi là Kiềm.
Hai cái sa ở bên tả bên hữu ấy, cái nào đến trước gọi là sinh; cái nào đến sau
gọi là tử. Cái đến trước là cái ngắn, thu nước ở gần giáp với huyệt thì phía
bên ấy cái nội khí nó ngưng kết.
Cái đến sau lá cái dài, thu nước rộng xa, thì cái nội khí bên ấy không ngưng
kết. Vậy lấy đấy mà phân ra sinh, tử.
Lại có cái ở nội nó cong ôm nước lại, là sinh; thẳng cứng dựa nước đưa ra, là
tử; khởi phục hoạt động, là sinh; thô xuân ngang ngạnh, là tử; cái nhỏ là
sinh; cái lớn là tử; cái thấp là sinh; cái cao là tử; cái tròn trĩnh, vuông vắn,
ngay ngắn là sinh, cái vỡ lở, thiên thẹo, nhọn, méo là tử; thuần thổ ( toàn
đất) là sinh; nhiều đá là tử; nghịch thủy thu khí là sinh; thuận thủy tẩu tán
là tử. Lại còn những cái niêm thân sa ( dán vào mình), thiền dực sa ( hình
hai cánh ve), ngưu giác sa ( cong như sừng trâu) càng khẩn hơn, cần phải
hiểu thấu đáo cái nghĩa sinh, tử. Vì quan hệ lợi, hại ở đó, lấy một cái mà suy
ra một cái mà suy ra một cái.
Theo như sa thuyết, ở kinh Đảo Trượng: Phóng quan, cần phải thu cái tiên
đáo ( đến trước) làm hướng, là cái ý lấy bên thủy khẩu ( gần nước) thì nội
khí nó ngưng kết. Vậy nâng đầu quan xê chuyển một vài phân để thu nạp lấy
cái sa tiên đáo, hoặc xê phía chân quan tài, chỉ hướng vào đầu mỏ cái sa tiên
đáo, đó là thu được cái tài lộc của cái thủy ấy phát sinh ra.
Hoặc không tiện lấy cái sa tiên đáo làm hướng, thì lấy cái đầu mỏ của hạ sa
để thu khí, của cái nghịch thủy ở ngoài triều lại gọi là “ Tiến tài đầu”. Vậy
đưa đằng quan tài hướng vào chỗ đầu mỏ sa ấy một vài phân, thế gọi là “
Xuyên khẩn tài đầu, quán triệt thủy lộ” ( Nghĩa là: ngăn cửa đường nước đi,
xuyên gần đầu sa tiến tài), đó là chủ về phát tài.
Nếu bên trong thu được sa tiên đáo, ngoài lại thu được đầu mỏ sa, tu nghịch
thủy, là “ nội, ngoại hợp phù” thì phát phúc càng to và mau lẹ, nhưng cũng
khó được cả hai, cũng không nên cầu toàn trách bị.

Luận huyệt trung


Thủy, Minh, Ám, Quyết
"Mạch tiếp quán châu tự bác hoa,
Tiên đường hôi tuyến, thảo trung xà.
Thiển minh, thâm ám lai giao hội,
Tương hợp thư, hùng, thủy đáo thoa.
Ám đáo khước nghi minh xứ chẩm,
Dương lai âm xứ, hảo tầm tha.
Vưu tri tiên, hậu, phân minh, ám,
Khí ám đầu minh, phúc tự giai.
Lưỡng thủy câu minh, trung chính thủ,
Pháp thần phóng tống, diệu vô gia.

192
Tống thần tu yếu, quan môn hảo,
Như bất quan môn, tống diệc sai."

Giải nghĩa

- Mạch liên tiếp tựa như chuỗi hạt châu, thông suốt như xâu chuỗi hoa.
- Trước hết phải biết rõ cái mạch thảo xà, hôi tuyến.
- Cái nước nông là Minh, nước sâu là Ám cùng hợp lại.
- Cái thủy thư, thủy hùng, là thuộc loại đực, loại cái, đến hội lại với nhau tựa
hình chữ Thoa nên gọi là: “ Thủy đáo thoa”.
- Cái nước ám đến, thì nên gối đầu quan tài vào bên thủy minh.
- Nước dương lại, thì tìm chỗ âm mà gối thì tốt.
- Lại càng phải biết cái đến trước, cái đến sau mà phân biệt cái minh, cái ám.
- Bỏ cái ám, nắm cái minh, tự phát phước hay.
- Hai nước đều minh, thì lấy chỗ chính giữa.
- Phép phóng tống ( đặt quan tài) tốt là không gia, giảm.
- Phép tống ( tống quan tài) thì nên cần chỗ cánh cửa nước, đóng lại thì tốt.
- Nếu không đóng khép, hẹp cửa lại thì tống cũng sai!
Ý nghĩa bài quyết ca trên đây là: Chỗ mạch xuất để kết huyệt mà ẩn ẩn vi vi
( là náu hình, không lộ rõ) như mạch thảo xà, hôi tuyến, chỉ gợn gồ lên chút
xíu để phân thủy, thu sinh khí. Mạch hình như chuỗi hạt, chuỗi hoa nối tiếp
thì không đấu, không thoát, nên điểm thừa khí. Đến chỗ nước phân ra hai
bên rồi hợp lại, tuy nông cạn chỉ sấp sảnh thôi, nhưng là chân thủy, vì là giới
mạch thu khí nên rất là lợi hại ở đó!
Tự nhiên có bên minh, bên ám, đấy là thủy phân ra thư, hùng; vậy bên thủy
thiển là minh, tức là thư ( giống cái), bên thủy thâm là ám, tức là hùng ( loại
đực). Kinh Tứ Tự nói: “ Hấp khí vi âm, kỳ thủy ẩn vu thổ bì chi hạ, tất thâm
nhi ám”; “ Hô khí vi dương, kỳ thủy hiện vu thổ bì chi thượng, tất thiển nhi
minh”: Minh ám giao hội tức thư, hùng giao độ.
Nghĩa là: Hít khí vào là âm, nước ẩn ở dưới lần da đất, hẳn sâu, là mờ tối;
Thở hơi ra là dương, nước nó hiện ở trên da đất, hẳn là nông và sáng sủa. Cái
sáng và cái tối giao hợp với nhau, tức là chỗ giao độ của loại đực và loại cái.
Thủy đáo thoa, tức là thủy thư, thủy hùng.
Thủy đáo thoa: nước thư, nước hùng hợp nhau.
Kinh Chí Bảo nói: Nếu âm đáo kết huyệt ở nhũ, đột, thì lấy dương là sinh,
nên gối quá về bên thủy thiển minh, một, hai phân. Dương đáo kết huyệt ở
oa, kiềm thì lấy âm là sinh, nên gối quá sang phía thủy thâm ám, một, vài
phân. Ý là bên thủy thiển minh, huyệt tất bình thản, vậy là dương; bên thủy
thâm ám huyệt tất viên củng, vậy là âm.
Lại có chỗ lấy thủy tiên, hậu để phân minh, ám, tức như ở chỗ hai nước giao
hội, nước bên nào đến trước là minh, nước bên nào đến sau là ám.
Khi đặt quan, nên đối chiếu về bên tiên đáo là tủy minh, một hai phân làm
hướng, lấy cớ thủy khẩn mà khí ngưng vậy.
Lại có chỗ nhị thủy tể đáo ( hai nước cùng đến) là nhị thủy câu minh ( đeều
sáng), thì đối chiếu vào khoảng giữa hai nước hợp nhau làm hướng.
Với phép phóng tống tương thông; thu nước đến trước, đưa đằng chân quan,
quá về bên nước đến trước, một hai phân, tức là hợp với tống pháp, đó gọi
là: “ Nhiêu giảm nhất, nhị phân, chân cốt tủy thị dã” ( là thật xương với tủy).
Hai nước đến đều nhau, gọi là: “ Nhị thủy câu minh”, thì đặt đằng chân
quan, chiếu vào giữa khoảng chỗ hai nước hợp nhau, lấy thẳng chữ thập làm
hướng, không dùng nhiêu giảm, tức là hợp với phóng pháp. Chữ: “ Phóng
thời nhập huyệt tương quan đối” chính là nghĩa đó. Đây là theo thủy để
phòng tống, là phép thứ hai.

193
Nếu ở trong cục ấy mà “khẩn quan huyền khiếu” là chỗ cửa khẩu nước nó
chảy quanh co ở gần huyệt, tức là khẩn mặt, thì phải phân biệt xem mạch
cường hay nhược, huyệt âm hay dương, để định phóng tống, mới là diệu
pháp hơn hết.
- Làm sao mà biết thủy tiên đáo? Hậu đáo? Tề đáo?
- Bên nào cao hơn, thì nước chảy tới minh đường trước, là thủy tiên đáo.
- Bên nào thấp hơn, thì thủy tới minh đường sau, là thủy hậu đáo.
- Hai bên bằng nhau, hoặc không cao, thấp hơn mấy chút, thì nước cùng đến,
là thủy tề đáo.
Xét ra, cái mạch tốt đẹp là “ bất cấp, bất hoãn”, “ cương nhu tương tề” thì
khí trung hòa theo đầu vào huyệt thì nên thừa khí và tiếp mạch, là đến chỗ
kết huyệt phải liệu độ khoảng bán âm, bán dương giao tiếp là chỗ hai khí
giao hợp, huyệt nên điểm ở giữa, không dùng phép nhiêu giảm.
Còn như chỗ hai nước hội hợp, mà hai bên nước cùng đến đều nhau, thì
huyệt nên đối vào khoảng giữa làm hướng, đó là mạch với thủy, định rõ là
phù hợp, nội với ngoại cùng một lẽ. Vậu sau phải dùng phóng pháp, là: trên
đem đầu quan, gối vào giữa chỗ mạch lai, gọi là “ thượng thừa sinh khí”,
dưới đem đằng chân, chỉ vào giữa chỗ thủy hợp, gọi là “ hạ tiếp đường khí”,
nên có câu: “ Phóng thời nhập huyệt tương quan đối” ( là lúc đặt quan vào
huyệt, thì nên đem quan tài mà đối chiếu). Như mạch lai cướng cấp, là âm
đa dương thiểu, là mạch cường, không nên đương đầu ngay chỗ sơn nhọn, sẽ
bị đấu sát! Nên dùng phép nhiêu giảm, là lấy cái nhu, để chế cái cương, vậy
thì khí theo bên tai vào . Kinh nạp Túc có câu: “ Nghinh, tắc tri kỳ lai giả
thuận dã; Tống, tắc tri kỳ lai giả nghịch dã” chính là nghĩa “ phóng tống” kể
trên.
Đã biết thì càng cần phải xem bên nào là sinh? Bên nào là tử? Sinh, tử định
rõ được rồi, lại phải xem sa, thủy bên nào tiên đáo, bên nào hậu đáo; biết
phân biệt nội, ngoại, rồi, sau sẽ dùng tống pháp là trong thì đem đầu quan
đưa về bên sinh một (1) phân tránh khỏi mạch đấu sát!để mượn cái khí
dương hô, âm hấp. Ngoài lại đưa đằng chân quan để thu nạp bên sa, thủy
tiên đáo, hai (2) phân chỉ định làm hướng.
Kinh vân: “ Nhiêu nhất, cánh nhiêu nhị giả” chính là nghĩa khéo dùng đó.
Tức là lấy chỗ giữa chiều ngang, dọc, của vòng Thái cực, viên vựng, ở dưới
nơi mạch nhập thủ ấy làm chữ Thập ( ) chia mỗi bên một nửa, đều năm ( 5)
phân, đầu trong thêm quá sang một ( 1) phân, lấy cái 4, 6 là trung cung,
(4/6) là tránh khỏi chỗ thẳng giữa, là mạch đấu sát, để tới cái sinh khí, vị
chi là : “ Thoát mạch tựu khí”. Nếu thêm hai (2) phân, thì lấy 3/7 làm trung
cung ( 3/7).
“ Hạ thủ tác dụng toàn tại tâm thượng kinh luân, lâm huyệt thủ tài, nãi vi
hoạt pháp dã! ( Nghĩa là: đưa tay xuống làm, là do ở cái tâm trí khôn khéo
của mình, tới chỗ điểm huyệt mà lấy tài liệu ở đó, tùy theo mà gia giảm mới
là hoạt pháp vậy:

Thiển, Thâm, Pháp, Quyết


"Dương thăng, âm giáng lý vô nhai,
Ngoại khí bình lương, tự bất sai.
Thâm thiển đắc thừa, tòng thử kế,
Hoàng kim đăng thủy, mạc đăng sa."

Giải nghĩa

194
- Cái dương thì thở khí lên, âm thì hút xuống, không có chừng hạn nào.
- Lấy chỗ đất bằng mà liệu lượng thì không sai, cái ngoại khí từ chỗ ấy, lấy
đó làm mức.
- Thâm ( sâu) thiển ( nông) phải theo cái kế ấy, mới biết rõ.
- Tiền bạc vàng ngọc là do ở thủy phát lên, chứ không phải ở cái sa nảy ra.
Xét ra, thì huyệt kết ở nhũ, đột là âm lạc, “ tam âm tòng thiên giáng khí”, là
khí tự trên trời sa xuống, thuộc về khí trầm nên sâu, lẽ ấy nguyên ở kinh
Dịch, quẻ Thiên phong cấu, là nhất âm giáng: Thiên sơn độn, là nhị âm
giáng; Thiên địa bĩ, là tam âm giáng, đều theo ba (3) quẻ chữ Thiên giáng
hạ.
Những huyệt kết oa, kiềm là dương lạc, “ tam dương tòng địa thăng khí”, là
khí tự dưới đất xông lên, thuộc về khí phù nên nông. Quẻ Địa lôi phục là nhất
dương sinh, ở sơ hào ( hào thứ nhất); Địa trạch lâm, là nhị dương ( theo lên
hào thứ hai); Địa thiên thái, là tam dương ( theo lên hào thứ ba), đều theo
chữ Địa thăng thượng. Nghĩa chữ dương thăng, âm giáng là như vậy, muôn
đời không xê dịch được!
Kham Dư gia, lấy cái nông, sâu, mà định huyệt để thừa khí, ý ấy cũng là: “Dĩ
khí giả: thủy chi mẫu”; “ Thủy giả: khí chi tử” ( Nghĩa là: Khí là mẹ của nước,
nước là con của khí). Con thì không lìa mẹ, khí là nội khí, thủy là ngoại khí,
ngoại khí phải giáp nội khí. Vậy định lấy huyệt nông hay sâu, thì phải do cái
nông hay sâu của ngoại khí làm mức độ; nhưng huyệt ở Bình cương và Bình
dương thì hai thủy giao hợp phân minh, người ta thấy rõ, không nghi hoặc.
Còn những huyệt ở nơi cao sơn, cao cương thì ranh giới nó giao hợp sâu,
năm, mười ( 5, 10) thước không chừng! nên người ta thường sinh nghi hoặc,
không biết khí nó kết ở chỗ nào, tất nhiên phải xem ở nơi “ Cầu” “ Thiềm”
của chỗ viên vựng làm chân kết.
Ở dưới chỗ cầu, thiềm thường mở ra cái oa rộng, tức thị táng khẩu; ở dưới
nơi táng khẩu, tất có khoảng bình thản, chỗ bình thản ấy là tiểu minh đường,
thì lấy tiểu minh đường, làm nhất định, đem một cây tre dựng trong tiểu
minh đường, lấy sợi giây buộc vào cây ấy, kéo thẳng đến trước chỗ khai
huyệt lấy mức thăng bằng, nếu mắt khó xem được thăng bằng, thì lấy thước
mà đo cột, để định mức thì tiện hơn, xem cái cao, thấp bằng nhau là bao
nhiêu thì lấy đấy làm mức độ, không nên đào sâu quá hoặc nông quá! Nhớ
rằng nông quá thì lâu kết và phát phúc ít, sâu quá thì không kết phát.

Tổng luận
Tuy nhận được đúng là huyệt tinh rồi, nhưng điểm huyệt sai cũng vô vọng!
Gọi là huyệt tinh, mà đâu có phải cả cái huyệt tinh ấy muốn đặt vào chỗ nào
cũng được! Cái huyệt tinh nhỏ hẹp thì còn dễ điểm, chứ những cái rộng lớn
hàng sào, hàng mẫu mà khoảng kết huyệt chỉ lọt chiếc chiếu thôi, nên mới
khó điểm! Tuy rằng huyệt nhỏ, nhưng làm chủ cả một vùng sơn thủy bao la!
Vậy có câu: “ Huyệt tuy tiểu, nhi phát phúc bất tiểu!” là ngụ ý vào nghĩa đó.
Vì vậy, điểm huyệt phải căn cứ vào tất cả Long, Hổ Minh đường, Triều sơn,
Án, Quan, Quỷ, Lộc, Diệu, Dư khí, Thủy khẩu, dầu không được đúng hợp cả,
cũng phải được nửa, thì mới là đất quý, huyệt hay! Vậy diễn tả thêm dưới
đây để tiện việc nhận xét, khỏi nghi hoặc:

Long hổ
Long hổ là hai cái sa hộ vệ ở bên tả, bên hữu huyệt. Có cái thì long hổ cùng ở
bản thân phát xuất; có cái thì bên không, bên có; có cái thì ở bản thân đều
không, mượn cái ngoại sơn ( là cái sơn ở nơi khác) mà hộ huyệt, nhưng cái
sơn sa mượn này, không tốt bằng cái ở bản thân sinh xuất.
Sách có câu: “ Vô long yếu thủy triền tả biên, vô hổ yếu thủy hữu bạn”; “

195
Mạc phạm thủy, vi định cách, đãn cầu huyệt lý tàng phong”. ( Nghĩa là:
không có long sa, thì phải có nước ôm vòng, vây ở bên tả; không có hổ sa,
thì cần phải có nước bao bọc ở bên hữu; không bị thủy phạm, thì định là
được, nhưng phải tìm chỗ huyệt ở trong chỗ kín gió).
Ý nói: long hổ là hộ vệ huyệt, mà không có sa che gió thì dầu có nước cũng
là vô ích!
Long hổ thì cốt phải thuận tuần ( phục tòng), không nên kinh quyền ngang
đầu, tức là nghển đầu ngang nhau là khi chủ! Phải lấy cái hoàn bão, như
khuỷu tay ôm vào, thì mới là tốt, lành, nếu trực ngạnh phản bối là hung xấu!
đấy là phép thường vậy. Còn như cái nó buông rủ như cái đai thõng ( gọi là
La đới), cái bãi ra như tay áo múa lên ( gọi là Vũ tụ), cái thẳng như gọng kìm
( gọi là Trực kiềm), cái như hai tay áo thu vát nhọn, bãi ra ( gọi là Duệ liễm),
những cái hình thể như thế là biến cách của long hổ, như bay nhảy mà
giương ra vậy.

Hạ sa
Hạ sa, là cái sa ở phía tay dưới nó ngịch chuyển lại. Có hai cái: một cái thu
thủy, một cái thu khí; có cái vừa là thu khí, vừa là thu thủy, mà vẫn là một
cái sa. Như cái long theo bên tả lại, thì cái bên hữu là hạ sa; cái long theo từ
bên hữu lại, thì cái bên tả là hạ sa. Nếu cái mà long thế đi thẳng, long nhập
thủ hẳn là thiểm quy tả, hữu, là giấu diếm không rõ là ở bên nào, thì hai cái
sa cũng như nhau cả, cái ấy bảo là thu khí đấy. Nếu không có cái sa ấy, thì
đoán là bất kết địa! nếu chỉ lấy cái thu thủy mà nói, thì cái long nghịch tòng,
tức là cái hồi long, và chẳng lẽ những cái chi nhánh sa bảo ở trên đầu là hạ
sa à? Trong kinh nói: Cái kết tác của nghịch long tất thuận, mà nói nhập thủ
tất chuyển, chuyển thì tự có cả thu khí, thu thủy ở đấy vậy, há lại cứ khái lấy
sa thu thủy làm hạ sa à?
Cái sa thu thủy thì cố nhiên là không nên thiếu, nhưng cái sa thu khí càng
khẩn yếu hơn.
Không có sa thu thủy thì không phát tài, tóm lại là, phát phúc cũng không
được thấp phần phú hậu.
Nếu là hồi long, không có hạ sa thì cái nhập thủ trước đã đắc thủy rồi, không
phải bàn ở cái này nữa.
Diệp Cửu Thăng nói: hạ sa có hai thứ, có cái hạ sa thu thủy, có cái hạ sa thu
khí. Cái hạ sa thu thủy ấy là: Thủy tòng tả lai, thì bên hữu là hạ sa; Thủy
tòng hữu lai, thì bên tả là hạ sa, tức là sa với thủy ngược nhau. Cái hạ sa thu
khí, thì long khí hướng về bên tả, lấy cái sa bên tả làm hạ sa; long khí hướng
về bên hữu, thì lấy cái sa bên hữu làm hạ sa, tức là sa với long huyệt ngược
lại nhau.Cái sa thu thủy thì người thường đều biết, chứ cái sa thu khí thì ít
người biết, chỉ có bậc danh sư cao rộng thì mới rõ!
Cái bản văn bàn về hạ sa này, chú trọng ở cái thu khí. Một sa thu khí, một sa
thu thủy ấy, là: thủy tòng tả lai, long khí nghịch chuyển khai diện hướng về
bên tả, thì cái sa bên tả thuận thủy ấy làm cái hạ ( sa thu khí; cái sa bên hữu
nghịch thủy ấy, làm cái hạ sa thu thủy, thế là một bên thu khí, một bên thu
thủy).
Còn cái vừa thu khí, vừa thu thủy cùng ở một sa, ấy là: thủy tòng tả lai, long
huyệt cũng theo thuận thủy ở bên hữu, đã cùng với thủy nghịch, lại cùng với
long khí nghịch, thì thu khí và thu thủy đều ở hữu sa, thế là vừa thu khí vừa
thu thủy cùng ở một sa.
Xét ra: không có hạ sa thu thủy thì phần nhiều có kết tác, không có hạ sa
thu khí, thì đoán là không kết huyệt. Đất lấy hạ sa làm trọng, ấy là nói cái hạ
sa làm thu khí.

196
Cái hạ sa thu thủy thì hẳn là nghịch thủy, cái hạ sa thu khí, thì hẳn là thuận
thủy, phần nhiều thấy như vậy. Ý là địa đúc kết, là long với thủy cùng đi đôi,
đến chỗ kết huyệt, thì long và thủy cùng quay đầu nghịch trở lại. Long đã
cùng với thủy nghịch lại, vậy cái sa thu khí với cái long tương nghịch, thì với
cái thủy tương thuận, cho nên cái hạ sa thu khí phần nhiều là thuận thủy.
Cái bản ý bài bàn này là không được khái, lấy cái sa thu thủy làm hạ sa, lý
thuyết rất rõ ràng! Thường tục chỉ trọng về thu thủy, đến cái thu khí, thì lại
bất luận, thật là buồn thay! ( Xem họa đồ trên đây).

 
Minh đường
Minh đường là chỗ thấp, có nước tụ hội ở trước mộ. Có Nội minh đường,
Trung minh đường, Ngoại minh đường. Ở trong tay long, tay hổ, là Nội
đường, ở ngoài long hổ đến án là Trung đường, ngoài án sơn đến triều sơn là
Ngoại đường. Nội đường thì nên gần, hẹp, gió kín; Trung đường và Ngoại
đường thì nên khoan thư và nạp khí, tức là rộng rãi và bình tĩnh. Lấy cái
ngay ngắn, tròn trĩnh, rộng lớn thích trung là cát, thì tốt, nếu nghiêng lệch,
thiên thẹo vỡ lở, tán loạn, hoặc trường trực thì hung, là xấu. Long sơn lớn,
thì minh đường nên rộng lớn, long sơn nhỏ thì minh đường cũng nên nhỏ. Vì
long sơn nhỏ, mà cục rộng lón, thì đường khí không thu; long sơn lớn mà cục
nhỏ, thì quy mô chật hẹp, dầu long chân và huyệt đích, cũng là minh đường
không hợp pháp, nhưng cũng không hại đến đại thể, tuy vậy, nhưng mà được
long chân huyệt đích, tức là chỗ ngôi Chí tôn, đã đặc biệt hơn cả mọi cái.
Minh đường cũng chỉ là cái tụ nước triều hướng về huyệt thôi, không có cái
gì là bất thiện cả.

Còn tiếp

Việt Hải

197
 

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Triều Án


Việt Hải

Triều Án

Triều và Án là cái âm, dương tương phối, ở gần là Án, ở xa là Triều.


Án thì nên thấp, Triều thì nên cao, cao là tề mi, thấp là ứng tâm hay là yểm tâm. Lấy cái
bản thân xuất làm Án, và cái cố tổ sơn, đặt Triều là thượng cách, cái sơn ở chỗ khác, bay
ngay ra là thứ cách. Chân long tất có cái đặc án chân triều, như loại thư, hùng tương ứng
hợp. Có chỗ có cận án mà không có viễn triều, cũng có chỗ có viễn triều mà không có cận
án; không có viễn triều thì nên có thủy trừ tụ. Ngoại đường không có án, thì nên có thủy
loan hoàn nội cục.

 
Cái Triều và Án tuy lấy cái sơn nhọn, tròn, vuông, ngay ngắn làm quý, nhưng
phải cần xem nó hữu tình hay là vô tình, chứ chẳng nên câu nệ tròn, vuông,
hễ thấy triều bão là hữu tình, thì mới tốt. Triều, Án tuy có quý, có tiện,
nhưng long thân vẫn tự nhiên, chứ không có biến hung biến cát gì cả.

Quan, Quỷ, Lộc, Diệu


Hoành long thì quý có Quỷ, hoành án thì quý có Quan; nếu hoành long mà
tiền hậu đối phân, là đăng đối như chia bày, thì không phải là Quỷ, hoành án
mà tiền hậu đối phân thì không phải là Quan, ngắn và nhỏ, lại hoàn bão thì
mới tốt, chớ nên dài quá!
Dương Công, luận về Quỷ: Lấy cái tả chuyển là “ Ngọc bàn tứ tướng”, hữu
chuyển là “ Kim bàn tứ tướng”; Lộc, Diệu thì ở bên tả hoặc hữu long thân,
cũng có chỗ ở ngoài long hổ, cái tròn là Lộc, cái nhọn là Diệu, nếu có là đất
phú quý song toàn.

Sơn cốc Bình Dương


( Biên phụ)

Ở miền Sơn cốc bà miền Bình dương hình thể khác nhau, kết tác cũng khác
nhau.
Ở nơi Sơn cốc, thì phần nhiều là bức bách, chật hẹp, nên quý ở chỗ khai
dương ( mở ra rộng rãi, sáng sủa). Ở vùng Bình dương ( đồng bằng),phần
nhiều là khoáng đãng, nên quý ở chỗ thu tụ, hội họp.
Nghĩa là: ở miền núi cao, thì nên mở rộng ra xa, ở vùng đồng bằng, thì cục
nên thu hẹp gần lại; ở miền núi cao, cục bức cận, thì huyệt nên ở chỗ đất tụ
cao tương xứng; ở vùng đồng bằng, cục quang đãng, thì huyệt nên ở chỗ đột
thấp, là đột khởi vừa tầm thôi! Nếu cục bức, mà huyệt ở thấp; cục khoan, mà
huyệt ở cao, thì đều là không hợp cách, dẫu có kết phát thì phúc lực cũng
giảm.

198
Ở miền Sơn cốc vì long mạch thô lão, thì nên ở chỗ đặc tiểu ( nhỏ hơn), mới
là bác hoán tú nộn. Ở miền Bình dương vì long mạch nhu nộn ( non mềm),
thì nên ở chỗ đặc đại ( to lớn) mới là hùng vĩ tôn đặc, đại khái là như vậy. Lại
còn như là: ở trong chỗ bình mà có một cái đột, tuy là nhỏ thấp, nhưng là cái
đặc biệt. Vậy phải tùy ở trong chỗ cao, thấp có hay không, lấy ý hội, chứ
không thể nhất khái được.
Trong bộ Kết Tác Pháp, tinh thần biến thể của Liêu Kim Tinh: Long, Hành,
Chỉ ( đi đứng) có định lý, cho nên huyệt kết tác cũng có định trường.
Ở bộ Đạo pháp Song Đàm, cũng đem cái thường độ của cán long, chi long mà
bàn đến cùng cực, không thiếu sót, và nhiều bộ khác của các Tiên hiền lưu
lại ngày nay, đã thu thập tóm tắt cả ở quyển Một, bộ TẦM LONG.
Nhưng xuyên sơn đúc kết có thường, có biến, do Tạo hóa đặt bày như là:
Mạch đứng lại ở chỗ đá tụ, hoặc dẫn tản xuống đồng lầy hoặc kết vào vùng
nước đọng, đó là những cái biến thể, chưa mấy người biết tới! Vậy, biên kể
thêm năm (5) phép đại thừa, của Liêu Công dưới đây, để cho được hiểu
tường tận những cái biến và những cái gọi là kỳ hình, quái huyệt, nhưng vẫn
đều theo cái biến hóa mà hiện ra, xem bài Tổng luận đây:

Tổng luận
Năm (5) cái đại thừa khí là:
1. – Sơn thừa tú khí 4. – Thủy thừa di khí 5. – Nê thừa sinh khí.
2. – Thạch thừa sát khí 3. – Bình thừa tích khí

Giải thích? Sơn thừa tú khí, là lấy cái sơn hình đoan chính, thanh nhã, tú lệ,
vuông vắn, tròn trĩnh, mạch lạc thanh tao tinh tế, đột, lõm, khởi, phục vựng
thành tinh thể, lá tú.
Thạch thừa sát khí, là lấy cái long nhập thủ ( là một đoạn ngắn ở cái một cái
mạch vào huyệt) đến chỗ sơn hết, thủy hợp lại ở trước mặt, bên tả bên hữu
hoặc đằng trước đằng sau có đá đâm lên lổm nhổm như búp, như măng mọc,
thành hình tượng, tinh thần phát lộ, khai khẩu, phô bày rõ rệt, thừa chỗ sát
khí ấy mà đặt táng, gọi là tọa sát! Nhưng phần nhiều là kết phát, xuất công
thần, danh tướng, thần hoàng v.v…
Bình thừa tích khí, là ý nói: Ngũ tinh lạc vào bình dương, thì tinh thể không
hay có nhũ, có tiết, thường chỉ tựa như thảo xà, hôi tuyến chi mạch, chứ
không phân rõ âm thể, dương thể, khí mạch vượng mà đột gồ lên như cái bờ,
cái chân lũy, cong vòng, ôm thu khí lại, thì thừa chỗ âm ( cao) mà đặt táng,
nên gọi là bình thừa tích khí.
Thủy thừa di khí, là lấy cái sơn thế hùng kiện, mạch lai cấp bách, băng qua
vùng nước rồi đột khởi như là tự lập khu vực, dinh trại riêng biệt, hoặc ở chỗ
khí chỉ thủy giao, tụ chứa lại một cái hồ, hoặc là thanh tuyền rộng lớn, nước
mênh mông trong sạch, đấy là âm dương cố tế, ví như phu phụ đồng hành,
tức là đặt táng ở cái gò hoặc bãi ụ ở trong hồ, lấy mực độ nước của hồ suối
ấy, mà định nông sâu. Nếu nước sâu mạch nổi thì dùng táng pháp, là lấy đá,
lấy đất mà đắp thêm nhiều lên, tức là nhân cái khí mạch đã ngưng kết ấy mà
bồi phụ để khí mạch hùng hậu thêm, thì hay kết tác quý huyệt, phát xuất đại
quý nhân!
Nê thừa sinh khí, là lấy cái, ở trong khu bình điền, bình địa khởi đột gò đống
cao lên chút ít, hoặc ụ đá, đất, sỏi gồ lên, kiên cố, kết hình như con rùa, con
ốc v.v… đó là “ Sơn xuyên vượng khí, du tông, tàng tích, độ thủy lâm điền
kết tác”, “ chính thị sinh khí giao cố, nhi cô lập thành thai, bất úy bát phong
suy tán”. (Nghĩa là: Cái khí mạch thịnh vượng của núi sông, không trông
thấy dấu vết cuống mạch, luồn qua vùng nước tới khu đồng lầy, mà đích là
sinh khí cấu kết thành khối đất, đá bền chắc như cái thai vựng, đứng riêng

199
biệt một thân ( một mình), mà không sợ tám phương gió thổi). Như vậy,
long mạch rất là tinh túy, hay có quý huyệt, phát phúc to!
Tất cả những cách vừa kể trên, đều là chân khí chung tụ, tinh thần siêu việt
đã thoát tĩnh thành thai, kết thành giai phẩm, vì khí mạch đã bác hoán, gạn
lọc nhiều lần, không còn phức tạp một mảy nào nữa! Thời sư thường không
biết là những cái hay ấy mà bỏ qua thì thật là đáng tiếc! Vậy xem đồ hình
dưới đây:

Giải nghĩa

200
Sơn thừa tú khí huyệt pháp
Vi đột huyệt: hình Thái dương ( mặt trời) khai khẩu trên tụ dưới tán, mà
không có tay long, tay hổ, ở trong khẩu đột chút xíu, là Thư, Hùng nội kết,
tinh thần đoan chính; đặt táng ở chỗ đột khởi, không nên khai đào rộng quá,
bị tổn thương long khí. Huyệt này hay phát xuất Bái tướng quý quan.
Lộ mạch huyệt: Hình kim tinh, xế về bên tả gọi là Thái dương, xế về bên hữu
gọi là Thái âm, khí mạch lộ rẽ theo thuận mạch mà điểm niêm huyệt ( dán
liền vào mạch) theo nước liên sát ở hai bên hẻm nách, đón bên nước đến
trước, chớ nên đào sâu quá, mất long mạch.
Hoành ấm huyệt: hình như Kim thủy tinh thể, mạch xuất ngang, kết huyệt ở
bên sườn bụng, là mạch quay ngang, quan tài đặt thẳng, gối đầu dựa vào lạc
tinh ở đằng sau, thu đường khí ở đằng trước mặt, thủy hợp khâm ở dưới
( như hai vạt áo khéo hợp lại), lấy lai mạch quán khí nhập huyệt, là hoành
thụ, âm dương, tẩn mẫu tương ứng, thần giao nhất khí, tức là trực hoành
huyệt.
Tẩu tích huyệt: Ở nơi bình địa thấy lổm nhổm những Kim, Thủy tinh như cái
chậu, cái chén úp, trông như dạng vẻ chạy trốn, lủi mất hút. Vậy điểm thì lấy
chỗ đột đặc biệt, bốn bên có nước tụ mà đặt táng vào đỉnh chỗ đột ở trên cái
oa ấy; nếu thấy đột khởi ở bên ngoài là la tinh thì không nên dùng.
Quá tiết huyệt: Hình Kim Thủy Tinh, có như cái đốt thò nhú ra, hai bên đầu
ngoảnh ôm lại, thì dùng phép trảm khí lan triệt, là đặt quan ở chính giữa, lấy
cái sơn lạc hậu, nghinh tiền, làm tài, lộc, tiết khí không mất ở chỗ tiền
nghinh hậu tống, là qua chỗ lõm vào làm tiết huyệt.
Thiên tỉnh đê bình: Huyệt ở cái Kim tinh giữa vũng nước như cái giếng, cái
hồ, bốn bên có hình kim, thủy tinh, vòng cong chuyển ôm lại, tức là đặt táng
ở chỗ đột tụ nhỏ ở giữa lòng hồ, lấy cái tiền ứng hậu lạc, làm tốt, không nên
đặt sâu quá.
Đảo xung huyệt: Hình Kim, Thủy, Thiên tài, đảo lợi đối chiếu nhau, đầu khởi
lên như chim phượng bay, mạch tà thì trực tràng, là theo cái lạc ứng ở sau
mà đặt táng, nên khí vào sâu thì tốt.

Thạch thừa sát khí huyệt pháp

Yến sào huyệt: Thiên cương xuất Thái dương, trông mặt như con sư tử hoặc
con hổ đá, khai khẩu ở lưng trời, thì tới chỗ thạch khẩu ( miệng đá) mà đặt
táng. Bốn phía đều không khoáng, chỉ có đá tầng khởi đột ở chung quanh
như cờ, như trống, bày ra hộ vệ, thì kết phát Bái tướng, Thành hoàng.
Tọa sát huyệt: cũng là Thiên cương khai kim diện, sinh thủy oa, thân cước
đều là đá, tả, hữu bốn phía minh bạch, thư, hùng tương ứng, thì đặt táng ở
chỗ đại tụ, đào vừa lọt quan tài thôi, không nên rộng quá, thương long
mạch; lấy đất ở ngoài đắp thêm cao lên, như oa trung hữu đột thì mới là hợp
pháp.
Tảo đãng huyệt: Kim thủy xuất Tảo đãng hình, kết huyệt như ở mõm mũi con
trâu, nên nhận chỗ thư hùng giao độ khai ra cái Kim Thủy huyệt, mà đặt
táng.
Thiết ba huyệt: cô diệu khí mạch, xuất hình như ngón tay bó gò lại cứng
nhọn, sắc bén, như tay làm giả bằng sắt, bày kẻ ra như răng cưa, thì lấy chỗ
động ở dưới trung tâm; lưỡng thủy tề đáo, thì đặt hướng vào giữa chỗ thủy
hợp; nếu có thủy tiên đáo, thì đặt hướng vào gần về bên tiên đáo ( đến trước
).
Mã tích huyệt: Thiên cương xuất mạch ở nơi bình địa, hoặc ở chỗ giữa giáp
giới, là nửa núi, nửa đồng bằng, có gò đá tròn nổi lên thành hình như vết
móng ngựa chạy tản mác hoặc gần nhau, bày ra nhu thất tinh, ngũ đẩu, tam

201
thai, thì đích là chân khí chung tụ phát hiện, vậy tìm ở chỗ tinh thể khai
khẩu hoặc khai oa mà đặt táng, không nên đào sâu hoặc rộng quá! Huyệt
này phát đại quý.
Cách sơn xuyên huyệt: Kim tinh, thốt huyệt, là tới chỗ lõm lún xuống ở trên
long tích, chiếu thẳng khoảng lồi ra ở dưới, là thư hùng, mà đặt táng. Nếu
mạch thô đại, như là có, lại như là không, mà hồ nghi! Thì đặt ở chỗ có lạc
sơn ở sau huyệt dán liền vào long tích gối vào chỗ lõm. Chữ sách: “ Cách
xuyên tinh, lưỡng thốt liều, lưỡng kim tương cận diệu”, là ý nghĩa điểm
huyệt như thế.
Chúc tâm huyệt: Kim tinh có sống tích mạch thẳng đến, mà trên đỉnh sơn lại
bình chính, thì nên tới đỉnh kim tinh mà điểm huyệt, gối đầu vào chỗ sống
mạch, chỉ cốt hai bên, cong như khung đàn, khung nỏ phân minh, tứ duy
khởi sơn hộ vệ cao hơn bản thể ( chỗ huyệt sơn), mà nghinh tài tiếp lộc, thì
phát xuất đại quý.
Hoành thạch huyệt: Kim thủy tinh xuất hoành thạch ( đá nằm ngang mạch
đi) tự Kim thư, Ngọc xích ( Nghĩa là: sơn thể là Kim thủy tinh,có đá hiện,
nằm ngang ra, trông như quyển sách mở, hay là cái thước ngắn nên gọi là “
Kim thư, Ngọc xích”). Vậy không cần hỏi ở hai bên đầu hay giữa nữa, cứ đặt
vào chỗ đại tụ khí cho thẳng thắn mà táng.
Lưu đan huyệt: Hỏa tinh khô táo, nảy mọc đá nhọn như búp măng, mũi dáo.
Nếu có nước hai bên chảy lại minh đường, nhiều sơn sa tụ hội, và trong
khoảng đá có khai oa đột khởi, thì đặt táng ở giữa chỗ oa đột. Chữ sách: “
Xích táo lưu đan nhân bất thức; sinh phong Hầu tử miếu thực” ( Nghĩa là: ví
như cái bếp có lửa để lửa luôn luôn, nên phát phúc: lúc sống thì được phong
tước hầu, khi chết được thờ làm Thành hoàng), là do kiểu đất này phát sinh.

Bình thừa tích khí huyệt pháp


Kim Thổ huyệt: Ở khu đất bằng rộng lớn có mạch đột lên, có minh đường
rộng rãi, long hổ cũng khoan bình thì dùng Thiên cơ quyết pháp: lấy giữa là
Tứ khí ( khí vượng), bên tả là Thái dương, bên hữu là Thái âm. Vậy đặt táng
gối vào mạch khí, hướng vào minh đường, huyệt ở giữa, thì đặt thẳng hướng
vào chỗ hai bên nước hợp lại, huyệt ở bên tả và bên hữu, thì nên đón hướng
vào chỗ nước đến trước. Như cục đất này có ba huyệt tốt, nhưng cần phải có
nước chảy lại minh đường mới là chân huyệt, còn những huyệt ở hai bên là
Cô, Đãng, Cương hình, thì đều là hung cả. Nhưng ở nơi đồng bằng long mạch
yếu mềm, khí cũng khoan thư; vậy nên đắp đất thêm cao lên thành đống to,
để có khí tụ thì mới thu được nhiều tài lộc.
Thủ mạch huyệt: ở khu đất bằng rộng lớn, mạch đi chỉ gợn lên chút xíu, như
thảo xà, hôi tuyến, thì nên điểm huyệt tựa như xâu lỗ kim; vậy phải xem thế
cấp hay hoãn, nếu mạch cấp, thì đặt táng niêm khí, mạch lai hoãn, thì điểm
huyệt thấu vào mạch.
Tòng thủy huyệt: Ở đồng bằng không thấy cuống vết mạch đi liền, chỉ thấy
mạch khởi thấp, cách quãng, vòng cong tròn như hình Kim Thổ ký thai, là
mạch bên dòng nước đi dần dần cao lên, thì khí theo nước chuyển, hoặc
vòng xoáy ốc quay ngược lại chỗ thủy hợp, đột lên cao hơn cả; là dương
trung hữu âm, thì tới chỗ đột cao ấy mà đặt táng nghinh thủy, ( là đón nước
chảy lại).
Thủy tức huyệt: Hình thể như Kim thủy tinh, không có nhũ, lại mất tông tích
mạch; xem bốn phía bình chính, thì lấy chỗ chưởng tâm ( lòng bàn tay) nhận
chỗ tức mà đặt táng, cốt là ở ngoài không trông thấy, mà ở trong chỗ kết
huyệt mới thấy, thì phải là có huyệt.

Thủy thừa di khí huyệt pháp

202
Di thai dương tụ: Hình Cô diệu nảy ra thai ở đầm nước, có dương tụ, ở trong
đầm nước có đá nổi lên như hình con thú, hay con rùa, con cá, sinh ra thư
hùng, thì tới chỗ mặt thú vật ấy mà đặt táng, quan tài hướng vào chỗ nước
triều bão, lấy đất ở ngoài mà đắp thêm thành đống to lên; nếu ở ngoài có
sơn sa tú mãn hộ vệ, là đất Bái tướng Phong hầu.
Âm tụ huyệt: Hình Cô diệu thoát sát, âm tụ kết huyệt ở bên bờ đầm, hồ
nước, như là con rùa bò xuống nước hoặc như con cá, con cò v.v… thì đặt
quan nghinh tài lộc, lấy đầm hồ làm minh đường , tức là khí tụ ở trong nước,
thư hùng tương ứng, ngoài có sơn sa tủng tú bao vây, thì là đại phú, đại quý.
Nguyệt ảnh hàn đàn: Hình Cô diệu xuất hiện ở đồng bằng lạc vào giữa vùng
nước tụ, như là bóng trăng ở trong hồ nước, gọi: bán âm, bán dương; thì tới
giữa bãi trong hồ mà đặt táng. Tên chữ: Nguyệt ảnh hàn đàn ( là bóng trăng
ở trong vòng nước lạnh), tức là Nguyệt ảnh huyệt, không nên đào huyệt sâu,
nên táng nông, hoặc đột thấp thì bối đất cao lên mà táng nổi, thì tốt.
Hấp tuyền huyệt: Kim thủy tinh khởi lên ở chỗ có vũng nước rộng lớn, vòng
cong ôm bọc cái hồ, gọi là “ Âm dương cố tế, âm hấp dương tinh”, đặt táng
gối đầu vào giữa khoảng nước. Sau khi táng, nước khôn cạn, thì phát đại
phước; mạch nổi thì dùng Huyền quan điếu pháp, nghĩa là đặt quan ở trên
mặt đất, tức là táng treo, rồi lấy đất ở ngoài lấp kín thành đống mộ cao lớn,
tinh huyết đúc kết bền chắc, không bị thấm nước, thì phát sinh đại quý.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 15


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 17:44 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Nê thừa sinh khí huyệt pháp


Việt Hải

Nê thừa sinh khí huyệt pháp

Tàng tích huyệt: Mạch hành Tảo đãng xuyên nê, ẩn tại ba tâm. Nghĩa là sơn hình phân tán
xuyên xuống đồng bằng như lớp sóng cồn đi, kết tác như lén lút vào trong lòng lớp sóng,
có nấm đất hoặc đá nổi đột gồ lên, thì đặt táng vào chỗ đột gồ cao ấy, tất là phát đại quý.

Dương kết huyệt: Hữu bật tinh tảo đãng, lẩn lút ở khu đồng bằng, thì xem
chỗ có giới thủy triều tụ hoặc có đá hay đất đột, kết thành tinh thể, thì nhận
xét chỗ nào hoàn bão và minh đường phương chính, bón bên hoàn nhiễu thì
đặt táng, tất thị phát đại phú quý.
Mã tích huyệt: Cũng là mạch tảo đãng biến ra hình Mã tích, Mai hoa, tựa như

203
sợi tơ vương, cái thoi dệt vải, hình như theo hút nhau lổm nhổm gò đống
hoặc đá hoặc đất đột lên, bày la liệt Ngũ tinh, Thất tinh v.v… ở nơi bình điền,
bình địa có nhiều nước triều tụ mà minh đường phương chính ( ngay ngắn,
vuông vắn), thì phát phú quý.
Năm (5) phép Đại thừa khí đã diễn giải trên, khi thấy sơn hình, địa cục nào
thì phải tế nhận và xem lại những hình đồ mà điểm huyệt. Xem những
khuyên nhỏ hoặc điểm chấm nhỏ, là huyệt mộ, và suy lượng những ý nghĩa,
câu danh từ chữ hán, thì hiểu biết, tức là bậc minh sư, chứ chẳng có gì là khó
cả, chỉ khó là: không chịu khó suy xét mà học hỏi thôi!

204
205
Giải thích

Hết thảy những đồ hình kể trên, tuy thuộc âm kết hay dương kết, thể loại
khác nhau, nhưng không ngoài ba (3) phép điểm huyệt là: Tiếp mạch, Thừ
khí, khí mạch kiêm thu, đã kể trước hết ở trên: vậy phải thuộc lòng và tinh
mắt mà tế nhận thì điểm huyệt mới đúng.
Còn có ý nghĩa danh từ của các hình thể, kiểu cách sẽ giải thích ở dưới bài
Âm Dương Nhị Kết Phát Minh, liền đây xem qua sẽ hiểu.

Âm dương nhị kết phát minh


Học giả hỏi: Cái huyệt pháp của Tư Mã Đầu Đà mà họ Tạ lấy làm quái huyệt,
nay thu thập làm bộ sách kết tác, không cho vào bộ quái huyệt là tại làm

206
sao?
Đáp: Hai cái âm kết, dương kết đều là sự kết tác tầm thường mà cho là quái
huyệt, là bởi chưa nhận xét kỹ những cái hình thể kết huyệt, như cái này, cái
kia giống nhau, khác nhau như thế nào?
Xét ra, thì chẳng qua là bốn cái Oa, Kiềm, Nhũ, Đột nó cực kỳ biến hóa đấy
thôi. Không có gì là quái dị. Xin giải đại ý như sau:
Như chữ Ngưỡng oa, là: cái hình khai oa.
Thừa chưởng là: kết huyệt ở giữa khoảng đất bằng mà lõm xuống một chút
như lòng bàn tay, nông và dài rộng tức là khai oa.
Đâu đẳng là: ở lưng chừng sườn núi kết lại, khai ra cái oa ngửa lên, gọi là
Quải đăng huyệt ( huyệt như cái đèn treo)hoặc như là Mã đạp đẳng ( như cái
ghế duỗi chân ra như chân ngụa vươn).
Yểm cơ là: cái oa không tròn, dài méo như cáo thúng bẹp.
Thủy pha là: cái oa thể rộng lớn, bằng và nông, ở sườn núi rủ xuống mà khai
khẩu nghiêng ra.
Bàn đảo là: Cái long sơn chuyển minh ngược trở lại mà khai oa.
Trách kiềm là: khai như cái kìm, mà hẹp nhỏ để kết huyệt.
Khuynh tôi là: hình như cái chén đựng rượu nhưng đồ nghiêng xuống.
Quyết thường là: như nửa cái vòng ngọc hay là như cái vòng đai quàng ở
ngoài áo, xiêm, tức là khai diện khai oa rất rộng lớn.
Bán nguyệt là: hình nửa trên cái oa, khai ra có một nửa vòng, như nửa mặt
trăng.
Yếp ẩn là : lõm xuống một chút, như mà có núm đồng tiền.
Âu phù là: đột lên một chút ít, như hình cái đám bọt nước nổi lên.
Phu tọa là: sơn hình trọng hậu, như người ngồi buông thõng chân, tức là
khai ngưỡng oa.
Duệ liễm là: khai oa mà hai bên tay áo thu lại như lưu động, nên gọi là Duệ
liễm.
Hàn châu, Thổ châu: là hai cái kết tác do cái oa thể bình ngưỡng, trong mặt
oa không sinh động, thì lấy cái vi hào ( gợn đột tí chút) ở trong miệng oa,
hoặc lấy cái nhân lậu ( như cái mền, cái đệm) ở ngoài miệng oa làm kết
huyệt.
Mạch trám là: ở trong cái oa lớn có mộ cái gân mạch trên rủ xuống, thẳng
đến chỗ kết huyệt đặt quan, thì trên tiếp mạch, dưới thấm nước, nên gọi là
mạch trám ( chữ Trám, nghĩa là thấm nước).
Đột lâm là: Âm đột thô ngạnh quá, thì điềm ở chỗ nhân lậu, nhưng dán liền
vào chỗ chân đột, tức là niêm huyệt.
Huyền năng là: thủy nhữ huyệt, trên to dưới nhỏ là nhũ ( cái vú), trên nhỏ
dưới ta là nang ( cái túi) cũng gọi là Huyền đảm ( như bầu mật treo).
Khoát phu là: tể dạng thô lớn, nhu người ngồi thõng chân xuốn, như thủy
nhũ, thì điểm ở chính giữa.
Yển đột là: đột lên mà thể dạng non đẹp, tức là ở chỗ đất bằng đột khởi lên
một nấm nhỏ thấp.
Tiết nha là: cái đột nhỏ ở bìa sườn, như cái mầm cây nhú ra ở khoảng đốt
cây, nên gọi là Tiết nha.
Đà phong là; cái núi, lún quãng giữa, như lưng con lạc đà, nên gọi là Đà
phong, tức là Thiên tài phan yên huyệt.
Hạc đính là: sơn hình rủ thẳng xuống như cái vú cứng mà nhọn đầu, vậy phải
điểm ở chỗ góc cái nhũ để áp sát khí.
Long tảng là: sơn hinh như cái vú, cái túi rủ xuống nhưng to lớn, không đột
khởi, mà khai diện, trên nhỏ dưới to, huyệt ở giữa trán, trên xống mũi, nên
gọi là long tảng.
Thù phúc là: đột tròn mà nảy nở mập mập như bọng con nhện, nên gọi là

207
Thù phúc.
Chiên thần là: Mạch lai bình nhuyễn ( mềm mại bằng phẳng) đến chỗ đứng
lại, thè lè ra uốn thu ôm lại như cái môi cá Chiên, tên chữ: Chiên thần.
Mã tích là: khoảng đất bằng ở chân sơn, bày mở rộng ra, trong khoảng ấy là
dương, mà có đột khởi nhỏ, tức là chỗ dương biến hóa thiếu âm, đó là kết tác
rất tinh diệu, tức là sinh khí khởi động, là chân long.
Tất cả ba mươi hai (32) hình thể kể trên, cái nào thuộc về “ Oa”, “ Kiềm” là
dương, cái nào thuộc về “ Nhũ”, “Đột” là âm.
Còn những hình thể ở miền Bình dương, Bình điền, thì lấy chỗ khí khởi động
cao, thấp, hơn, kém ít, nhiều; tuy hình thể không rõ rệt lắm, nhưng cũng
chẳng lìa bốn (4) cái thể; Oa, Kiềm, Nhũ, Đột vẫn thuộc về những loại ấy cả,
vì mạch đi chìm ẩn nên khó nhận hơn.
Tóm lại, âm kết, dương kết cũng vẫn do bốn cái Oa, Kiềm, Nhũ, Đột, biến hóa
ra thôi, chứ chẳng có gì là lạ!
Sách Kham Dư bàn rất rõ: Các vị Tiền triết như Tăng, Dương, Ngô, Liêu: chu
công, luận về “ Loan đầu” đều theo Ngũ tinh, Cửu diệu cả. Vậy truyền phái
đều theo Thiên cơ Tố thư của Khưu công để lại, có một họ Quách lấy sinh khí
mà bàn, về sau tuyệt vô không thấy nói tới nữa, chỉ thấy có sách của Tư Mã
công thôi.
Họ nghi tháo nói: Về Khoa Địa lý, chỉ có một cái sinh khí là rất khó nói! Ý là
long sơn lúc sắp kết huyệt, tự nhiên có một loại khí sinh động; vậy chẳng có
thể lấy cái hình mà cầu, nếu lấy hình mà cầu, thì chỉ âm trung cấu dương, là
trong chỗ âm có dương, hoặc dương trung hữu âm, là trong chỗ dương có cái
âm; đại để như thế là có sinh khí. Cho nên các tiên hiền phần nhiều là lấy cái
ấy mà nói là sinh khí, chứ không phải lấy cả cái âm, dương mà cho là sinh
khí! Còn nhiều thứ loại khác, nhưng cũng gần giống như thế, là biết cái sinh
khí. Vậy tự linh động suy lượng,chứ không thể diễn tả hết thảy được.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Cửu tinh huyệt pháp luận


Việt Hải

Cửu tinh huyệt pháp luận

Nhận xét về hình thể Cửu tinh, thì thấy Phá quân và Lộc tồn có rất nhiều, nhưng nói tóm
một cách dễ hiểu, là: hễ thấy tinh cát thì khí cát, hình hung thì khí hung, sơn thanh tú thì
sinh người tuấn tú, sơn thô trọc thì sinh ra người ngu đục, đó là lẽ tự nhiên; không có gì là
lạ!

 
Vậy phải cần biết Cửu tinh, trong Cửu tinh tuy lấy tam cát làm quý, nhưng
không có Liêm Trinh làm tổ sơn, thì long thế không được tôn đặc hùng vĩ,

208
dầu có phát quý cũng không được hiển hách! Không đới Phá quân, thì chi
nhánh không nhiều, không có quý diệu phi dương; không đới Văn khúc, thì
long thế trực cấp, không có hình thể mềm dẻo như sinh long, hoạt xà; không
đới Phụ bật, thì không có sơn sa giáp tòng, là hình thế cô đơn! Vậy lục diệu
hành long, mà không có tam cát làm gián tinh, thì long thô hùng, không bác
hoán các tinh. Tam cát hành long, mà không có Lục diệu làm gián tinh ( ở
khoảng giữa), thì long thế nhu nhược, không có tôn đặc hùng uy cứu trợ. Bởi
vậy, Lục diệu không nên thiếu tam cát, tam cát cũng cần có Lục diệu.
Tam cát thì sinh thể là đoan chính, không có chi cước. Nếu thấy đột khởi lên
mà không khai diện tức là thuộc về Phá quân hay Lộc tồn, có khai diện tú lệ
mới là chân thể tam cát tinh. Hết thảy mọi tinh hễ thấy có bác hoán, tức là
có kết tác.
Sách có chữ: “ Cát tinh chi hạ vô bất cát, hung tinh chi hạ sở tồn hung”
( Nghĩa là: Ở dưới cái tinh thể lành thì cái gì cũng tốt lành, dưới cái hung
hình thì vẫn còn cái hung ác).
Người đời phần nhiều chỉ biết là các hung tinh như, Phá, Lộc, Liêm, Văn cũng
đều hay có kết tác, nhưng chẳng hiểu sự kết tác ấy như thế nào! Chính là có
bác hoán, biến hóa thuần thúy là cát tinh, thì có kết tác. Nếu vẫn thô ngạnh,
cương trực là hung, thì không đúc kết.

Lược giải hình tương Cửu Tinh - Tham Lang Tinh

Hình thể Tham lang tựa như cái măng mới mọc, không có chân thò ra hai
bên.
Tham lang có đến mười hai (12) thể dạng: Tiêm, Viên, Bình, Trực, Tiểu là
năm thế tốt: Kha, Tà, Trắc, Thạch, Đảo, Phá, Không là bảy cái thế xấu,nên
phát phúc có hơn kém khác nhau. Tham lang bình trực là đảo địa mộc tinh,
là biến thể. Tham lang hành long mà thấy nhiều đới Lộc tồn và Liêm trinh tác
tổ, thì phát đại quý; long đại thì phát xuất Thánh hiền, Vương đế, Long tiểu
thì xuất Thần đồng, Khôi nguyên, Kiệt sĩ. Nếu không có Liêm trinh, Lộc tồn
không phát quý, không có uy quyền, chỉ xuất Hiền sĩ văn chương thanh cao
quý giá thôi. Tham lang làm gián tinh thì quý, nếu độc hành cô lộ, thì xuất
Thần tiên Đạo sĩ, khi suy bại thì sinh đồng cốt, làm thấy bói, thầy bùa.

209
Mười hai (12) Phép kết huyệt ở Tham Lang

Tham lang huyệt ở đầu nhũ, thì nên trên thắt, dưới nở to, trước mặt nên có
dư khí thè ra và có khe lõm như rạch máng nước ở hai bên tả, hữu. Lấy chỗ
lũm xuống chút ít, hoặc như bừa ra như cái vấu đốt của cây làm chân đích;
nếu thẳng và nhọn như cái mỏ, thì là giả, nếu bằng phẳng thì kết ở chỗ
khuỷu, hoặc chỗ uốn thè ra một ít như cái mầm cây chẳng hạn, tối kỵ là trên
to dưới nhỏ và nhọn, hoặc mặt đột gồ lên, chân bãi soạc ra. Nếu huyệt kết ở
cao thì phải có sơn sa che gió, huyệt ở thấp hoặc ẩn lén thiên về hai bên, thì
tùy ở cục thế và đường thủy mà điểm ( Xem hình đồ trên đây).

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 16


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 17:47 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Cự môn tinh


Việt Hải

Cự môn tinh

210
Cự môn hình như cái hốt, hoặc như cái kỷ, cái bình phong đứng hai bên tả, hữu, không có thò
chân ra, hình thể vuông ngay, tôn trọng, không hay ngã ngả nghiêng, lệch lạc. Cự môn hành long
thì phần nhiều là đới Vũ khúc và Phụ bật, hai bên thường có sơn sa hộ vệ la liệt; có Phá quân thì
hay đới đao, kiếm, có Lộc tồn thì hay đới kỳ, cổ. Đại long thì hay xuất Hoàng vương Đế bá, tiểu
long thì xuất Công Hầu, Khanh, Tướng.

Mạch nhập thủ là Cự môn thô trọng thì phát cự phú. Nếu làm gián tinh, là Ngự binh,
Ngự tòa, thì phát đại quý; nếu độc hành thô lộ, là xuất Phạm vũ ( Phật pháp cao
siêu), suy bại thì xuất tu sĩ cao tăng.

Cự môn bát huyệt pháp


Huyệt ở Cự môn khai oa, thì oa nên bình và nông, ở hai bên tả, hữu rủ xuống cũng
nên đê bình thuộc về dương, ở giữa nên có dư khí phô ra như nhân lậu, lấy cái bình
phân cân đối như vòng cung đàn, khung nỏ làm đích, nếu trên đỉnh ngả vẹo, chân
bãi ra, diện rộng là giả. Tùy chỗ huyệt tinh cao, thấp mà điểm; nếu cao, thì cần phải
tàng phong, thiên lệch hoặc thiểm lạc, thì phải xem cục thế và đường thủy mà điểm,
không thể chấp nhất được.

211
Lộc tồn tinh
Lộc Tồn hình như cái trống để đứng, dưới sinh mộc cước; gò đống nhỏ, tròn trĩnh là
lộc, vỡ lỡ, nham nhở là sát. Tinh này cũng có quý, có tiện, đều do chín (9) thể cát và
hung là: Đệ nhất: đốn cổ ( nhu cái trống) - Đệ nhị: như phú phủ ( như cái chõ úp) –
Đệ tam: như hạc trảo ( móng chim hạc) – Đệ tứ: như lặc phiến ( xương sườn rẻ
quạt) – Đệ ngũ: như huyền thuần ( con chim thuần, nhỏ bé) – Đệ lục: như cự lãng
( làn sóng lớn) – Đệ thất: trường xà ( con rắn) – Đệ bát: như đâu mâu ( khí giới võ
bị đời xưa) – Đệ cửu: như dư khí tán mạn, như lạc hoa, tác thủy khẩu.
Lộc tồn hành long đới Phụ bật mà có tiểu viên đôn ( gò tròn nhỏ) mới là đới lộc,
không có tiểu viên đôn thì không phải là Lộc. Lộc tồn đới Tam cát: Tham, Cự, Vũ, tức
là đại quý long, xuất Thánh hiền đại quý ( ở Trung Hoa xưa là cấm địa, để lập kinh
đô hoặc cung điện nhà vua), Tiểu long thì xuất Thần đồng khôi nguyên, văn chương
khoa giáp. Nếu tác gián tinh thì có uy quyền, không có chi cước mà chỉ đột thô lớn
như ủng thũng, tựa quả dưa, quả bầu, thì chỉ nên đặt làm đền miếu thần linh hoặc ở
nơi trấn thủy khẩu thôi.

Lộc tồn thập bát huyệt pháp


Lộc tồn kết huyệt tựa như là răng lược, hoặc như chải đầu tóc rẽ tỏa xuống, thì nên
đặt táng ở chỗ có khuất khúc hoạt động mà có sống mạch khởi và khai diện, hoặc
cong như khung đàn thì mới là chân đích. Nếu không phân biệt rõ bối, diện là thuần
âm, tức giả. Hình như đầu chải, thì cần phải khai diện bình chính, hoặc lõm uốn vòng
lên và thè môi nhả khí xuống là chân đích; nếu lệch lạc có mũi nhọn bãi ra đều là giả
v.v… đại khái cũng như các phép kể trên.

212
Văn khúc tinh
Văn khúc hình như con rắn, con giun bò đi ngoằn ngoèo, hoặc như nga mi, hoặc
khuất khúc hoạt động, ở trong khu bình địa hoặc thung lũng làm chỗ mạch quá, hoặc
làm long sơn, thường hay đới Phụ, Bất hai tinh, ở khoảng giữa làm gián cách ccho
Tam cát tinh, thì phát xuất mỹ nhân nhan sắc, làm Hậu phi quý nữ. Nếu thiên thẹo
hoặc nằm đườn ra như con lươn chết, hoặc tán mạn tảo đãng, thì chỉ là đất phát dâm
tà du đãng mà bại tuyệt thôi.

213
Văn khúc tứ huyệt pháp
Văn khúc kết huyệt thì hay ở nơi sườn cạnh ( bình pha), hoặc ở chỗ trũng như lòng
bàn tay, thì đặt táng vào chỗ đột gồ lên chút ít. Hoặc ở chỗ giáp gần mạch qua, nhu
cái cổ, thì nên đặt táng ở cái cổ ngắn và nhỏ, mềm dẻo, dưới có dư khí như nhân lậu,
đặt gối vào chỗ có núm đột hoặc dựa vào chỗ phì hậu mới là chân đích; nếu lờ mờ,
thản lãn là giả, phần nhiều là thiểm trắc ( là lẩn lén ra bên cạnh) thì phải tùy đường
cục làm trung chính, hoặc là thuận, hoặc chuyển nghịch hồi tùy tế cục mà định
huyệt, cũng như các chỗ kể trên.

Liêm trinh tinh thể


Liêm trinh hình như diệm hỏa ( lửa nhiều ngọn bốc lên cao) thô hùng cao đại, thường
làm tổ sơn cho các sơn tinh. Có bốn (4) hình thể: nhọn gọi là Long lâu, bình gọi là
Bảo điện; một ngọn nhọn, chân bãi xẻ ra gọi là Hồng kỳ; trên đầu hoặc dưới chân có
đá nhọn là Diệu khí. Hình đều vở lở, hoặc rủ xuống xẻ kẽ ra như cái tàn, cái lộng
chẳng hạn, thấy đá màu hồng tía là chân, nếu xanh, trắng, vàng, đen đều là Phá
quân, Lộc tồn. Trên đỉnh cao có Thiên trì và đới Phụ, Bật xuất long, rồi kế tiếp sinh
phong là đại quý long, tất có đại địa huyệt, nhưng tùy long tinh lớn, nhỏ, quý, tiện
mà định đoán phát phúc hơn kém khác nhau. Nếu không biến ra tam cát tinh
( Tham, Cự, Vũ) thì nên làm La tinh trấn thủy khẩu hoặc hộ ứng ngoài thành môn thì
tốt.

214
Liêm trinh nhị huyệt pháp
Liêm trinh hay làm Tổ sơn, chứ không hay kết huyệt, nếu biến chuyển bác hoán ra
nộn tinh ( là những tinh thể mềm dẻo, non đẹp), hoặc thân đới đá tầng lớn và màu
sắc đỏ nhọn làm Thúy bích huyệt ( nghĩa là huyệt ở cái vách đá xinh đẹp), thì lấy chỗ
khai diện như cái khung đàn, mắt nỏ mà đặt táng ở chỗ môi thè ra, hoặc như cái lưỡi
trai, lưỡi ốc, áp cái sát khí thì mới là chân đích, nếu trực ngạnh thô đại âm lưu, là
giả.
Sách có câu: “ Sơn lai hùng dũng thế nên át, tiện thị tiêm hình dã tác huyệt” ( Nghĩa
là: cái sơn thế lại, sức lực mạnh bạo thì khó ngăn cản, nếu thu nhỏ hình lại mà nhọn,
vậy là tác huyệt), nhưng ở Bình dương thì có thể đặt táng được, chứ ở sơn cốc mà có
hình như thế thì tuyệt vô kết tác, không nên nhầm tưởng, đó là ác sát.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Vũ khúc tinh


Việt Hải

Vũ khúc tinh

215
Vũ khúc hình như cái chuông hoặc như cái chõ úp, đoan chính trọng hậu, dưới chân không đâm
thò ra hai bên tả, hữu; hành long thường đới Phụ, Bật hai tinh, ở khoảng cách, giữa Cự môn tinh.

 
Long này thường xuất Vương, Hầu, Tể tướng; địa đại, long nhỏ cũng xuất văn võ,
quyền quý cao quan vinh hiển.

Vũ khúc bật huyệt pháp


Vũ khúc kết huyệt thì như thoa, kiềm tà khúc, nghĩa là: vế dài vế ngắn, là thoa; tề
chính là kiềm, cốt là khai tào bình thiển ( là mở ra như cái máng nước mà nông
lòng), trong máng là dương lưu dưới có nhân lậu phô ra, lấy cái đầu tròn có lũm
xuống tí chút, như mà có đồng tiền và có hình cong như khung đàn, hoặc mắt nỏ làm
đích; nếu đầu não bạc nhược, đùi vế khinh tiểu hoặc âm lưu, là giả; cao hay thấp,
chính hay trắc, thì tùy chỗ huyệt tinh, đường thủy, cục thế mà điểm huyệt.

Phá quân tinh thể


Phá quân hình như tẩu kỳ ( cái cờ chạy), dưới chân sinh hỏa tinh nhọn như mũi đao,

216
mũi kiếm, có sáu (6) hình thể: 1. – Đầu cao đuôi kẽ là Tẩu kỳ 2. – Bên tả, hữu kẽ
tẩy nhau là Cái thiên, Súy kỳ ( cờ hiệu của nguyên súy) 3. – Cái cao cái thấp là Mã
trì ( Ngựa ruổi) 4. – Có đá lô nhô lên là Đới giáp ( đai áo chiến) 5. – Nhiều tầng lớp là
Thiên thể ( bậc thang trên trời) 6. – Nằm ngang và thấp là Đao kiếm.
Phá quân hành long đới Phụ Bất, hoặc làm gián tinh cho tam cát: Tham, Cự, Vũ, là
đại quý long. Ở Trung Hoa đời xưa, các vua chúa đều nghiêm cấn không cho ai được
làm, vì hay xuất Thiên hoàng Đế bá, hoặc Vương hầu, Tể phụ, Tướng súy uy quyền
oanh liệt. Nếu Phá quân cô lập, không có tinh sa hộ vệ, thì chỉ nên ở thủy khẩu, hoặc
làm điện miếu thờ thần thì tốt.

Phá quân tứ huyệt pháp


Phá quân kết huyệt, mạch như qua mâu ( vũ khí nhọn), nên trên to dưới nhỏ, khởi
não khai diện ở chỗ to, dưới thò mỏ nhọn, hai bên tả hữu cong ôm lại, thì đặt táng ở
môi thè ra ở phía trước mặt, là áp sát. Cũng có cách đặt ở chỗ thiểm sát hoặc tiễn
hỏa, là lấy cái trên thô dưới nhọn. Nếu âm dương bất phân, trực ngạnh, buông thẳng
tuột đi, là giả.

217
Tả phụ tinh thể
Tả phụ hình như đầu phủ khăn, phía sau lớn, đằng trước nhỏ, hai bên tả hữu có thò
chân ra ngắn tí chút. Ở bên tả hoặc bên hữu quý long, là Phụ bật; ở trên đỉnh núi
hoặc thiên trì là thị vệ: ở minh đường là Thiên ất, Thái ất; ở trước viên là Chấp nháp;
ở chỗ giáp là Kim ô, Ngọc thỏ; ở chỗ thủy khẩu là Thiên quan, Địa trục; ở chỗ hộ
tòng la liệt là cờ, táng, chiêng, trống hoặc voi, ngực, ấn, kiếm v.v… Quý long mà đới
những cái ấy là đại viên cục, tức đại quý địa, chứ không phải làm phụ tinh nữa!
Hình như cái nồi chõ úp, là phân tông từ Vũ khúc; nếu tự kỷ hành long, như đà
phong, phốc đầu, hoành giáp mà dẫn đi, là quý long, xuất văn chương, hàn uyển
thanh cao quý hiển; nếu cô lộ độc hành, thì xuất cao tăng đạo sĩ, khi suy bại thì sinh
tăng, ni tu hành, hoặc đồng cốt cô đơn.

Tả phụ lục huyệt pháp


Tả phụ kết huyệt như tổ én, nên khai oa bình thiển huyền lăng đoan chính; lấy chỗ vi
đột như châu bào và huyền lăng làm đích, nếu trên đầu não khinh bạc, hoặc tà thiên
ra bên cạnh góc, hoặc diện băng và khoáng đãng, oa thâm, âm lưu là giả.

218
Vậy phải nhận xét, tùy hình thế đường cục như thường lệ của các tinh đã kể trên mà
đặt huyệt.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
Trích dẫn Sửa Xóa

BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 17

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:50 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Hữu bật tinh thể


Việt Hải

Hữu bật tinh thể

Hữu bật hình như mảnh trang xế khuyết, hoặc như cái thoi dệt ải, hoặc như cái ấn v.v…
Hữu bật thì vốn là không hiển linh, hình nó tùy tòng, phụ thuộc và tám tinh: Tham, Cự, Lộc, Văn,
Liêm, Vũ, Phá, Phụ, sinh ra ở khoảng giữa các tinh, chỗ cao thấp giáp nhau, tựa như cái thoi
buông đi, hoặc như Thù ti, Mã tích, Thảo xà, Hôi tuyến chi mạch, thường hay đứt khúc, mất tông
tích, tìm không thấy nữa! Những cái thể dạng vừa kể đó, đều là Hữu bật.

219
Tinh này ở hai bên tả, hữu những quý long, cùng với Tả phụ tương đối. Vậy nên bảo:
Hữu bật không có chính thể, hoặc tản vào trong khoảng giữa các sơn, làm long, quá
giáp, cho những long sơn nối tiếp nhau. Hoặc lạc vào Bình dương, thường đới phụ
tinh, làm thế trợ lực cho long sơn, như cái mền, cái chiếu phô bày ra, gọi chữ: “ nhân
lậu, triển tịch”, tức là dư khí lan ra hai bên hoặc phía trước, phía sau, hoặc đột lên
những gò đống lổm nhổm ở khu bình điền, bình địa tựa hồ dắt díu, như có dây vương
víu nhau, có khi như chuỗi hạt, gọi chữ: “ quán châu chi mạch”. Tuy đột khởi thấp
nhỏ, nhưng phát xuất nhân tài thanh cao đại quý! Chớ nên coi thường.

Hữu bật thập huyệt pháp


Hữu bật kết huyệt hình như ổ gà, nhưng nên đoản xảo, tả hữu quân bình, huyền
lăngđoan chính; lấy cái tròn đầu khai diện làm chân thực, lấy cái lõm xuống chút xíu
như mà có đồng tiền, hoặc có vòng cong như khung đàn, mắt nỏ, chữ: “ Huyền lăng”
mà trong khoảng huyền lăng có vi đột ( gồ lân chút xíu) là đích huyệt. Nếu diện
thoát đầu não mỏng manh hoặc tà trắc, oa thâm, là giả: phải tế nhận tình trạng chỗ
long nhập thủ cao hay thấp, thì tùy thế cục, đường thủy, mà điểm.

220
Đảo ảnh tam thập lục huyệt pháp

Giải thích hai chữ "Đảo ảnh"


Đảo ảnh là danh từ ngược lại với 2 chữ “ Chính hình” Nghĩa là: “ Chính hình” là cái
hình thể chân chính, đích xác, huyệt pháp dễ hiểu biết; cón “ Đảo ảnh” là như cái
hình ảnh, tức là nói tựa hồ cái bóng dáng của cái Chính hình nó ngả xuống lệch lạc,
nên gọi là Đảo ảnh, thì huyệt pháp chưa thể biết đích xác, khó nhận hơn.

221
Chính hình là hình thể của Ngũ tinh: Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ, Bật.
Cửu tinh lại biến ra nhiều hình thể khác thường, không thể nói hết được. Nhưng hình
thể biến ấy cũng có kết tác, nhưng chưa xác định huyệt pháp như chân long chính
huyệt, cũng thuộc vào loại kỳ hình quái huyệt. Vậy hết thảy những biến thể ấy gọi là
Đảo ảnh cả.
Các vị Tiền triết xưa như: Dương, Tăng, Quách, Liêu chư công v.v… đã giả họa ra ba
mươi sáu ( 36) Đảo ảnh huyệt pháp hình đồ để lại cho hậu thế khỏi nghi vấn, hoang
mang.
Ba mươi sáu hình đồ ấy, là do mười hai (12) cái huyệt pháp của các vị sáng tác, mới
đặt ra 12 danh từ: Kỳ lân, Phượng hoàng, Chương quan, Ngọc đường, Tham lang, Tử
vi, Thái âm, Phan yên, Nhiêu long, Nhượng long, Thiên tài, Thái dương.

222
Ba mươi sáu huyệt ấy, thì lấy cái Kỳ lân thuộc Hỏa, Phượng hoàng thuộc Mộc, Ngọc
đường thuộc Kim, Chương quan thuộc Thủy, là bốn cái huyệt tổ; bốn huyệt tổ này,
mỗi cái sinh ra ba cái huyệt nữa, là mười hai (12) cái Liên tổ huyệt.
Mười hai cái Liên tổ này, mỗi cái lại sinh ra ba (3) cái huyệt nữa (3x12= 36) cộng
thành 36 huyệt.
Xem họa đồ trên đây.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Ngũ tinh tróc mạch chính, biến hình đồ
Việt Hải

Ngũ tinh tróc mạch chính, biến hình đồ

Luận Ngũ tinh phân biệt tại cao sơn, bình cương, bình dương ba miền thể cách khác nhau:

 
Kim tinh
1. – Kim tinh ở miền sơn cốc ( núi cao) hình như cái chén, cái nồi chõ, cái chuông úp,
hễ đầu tròn, không nghiêng lệch, trông có vẻ quang thái, phì thuận là cát, thì quý
lắm.
2. – Miền Bình cương ( đồng bằng) hình như cái mũ, cái nón, hoặc như chuỗi hạt
ngọc, hoặc hoạt động vòng tròn như cái vòng đai, cái vành mâm, là cát.
3. - Ở miền Bình dương ( đồng bằng) thì tròn như cái bánh bao, hoặc như cái bánh
dầy, thấy có huyền lăng ( như mắt nỏ, bán nguyệt mà đầy đặn, là cát (lành tốt).

Mộc tinh
1. – Mộc tinh ở miền Cao sơn thì hình như măng, hoặc cái ngọn bút cao vót lên, thấy
đĩnh nhiên đặc lập không nghiêng ngả, là cát.
2. – Ở miền Bình cương thì hình như cái cành, cái cán uyển chuyển, vươn dài ra như
cái roi, cái que uốn v.v… là cát ( tốt lành).
3. – Ở miền Bình dương thì hình dạng mềm dẻo, dầu tròn thẳng và bình diện, hoặc
gồ mai mộc ngắn thấp như cái cành, cái cán, nằm ngang ra, hễ thấy có đột chút xíu
như cái đốt, cái mầm nhú, là cát.

Thủy tinh
1.– Thủy tinh ở miền núi cao, thì lưng gồ lên lún xuống uốn khúc, hoặc mở rộng ra
như khai trướng ngang dài, rộng, là cát.
2. - Ở miền Bình cương, thì chân lan rộng ra và bằng phẳng, trông như đám mây đi,
hễ thấy khuất khúc, dắt dài ra, là cát.
3. – Ở miền Bình dương, thì hình như con giun, con rắn uốn khúc, hoặc phô ra như
cái mền, cái đệm, mở rộng lan man như riềm là sen, lá súng, hoặc như làn sóng cồn,
hễ thấy có động ngóc lên, là cát.

223
Hỏa tinh
1.- Hỏa tinh ở miền núi cao thì khởi nhọn đầu, tựa như ngọn lửa cháy bốc cao lên,
chỉ làm tổ tông sơn thì tốt.
2. – Hỏa tinh ở miền Bình cương thì như tay chân, buông dài rộng ra, ngang hoặc
dọc, nhọn đầu như mũi đao, mũi kiếm, nếu có thủy tinh tương liên thì cát.
3. - Ở miền Bình dương thì hình như tà phi thiểm thiểm, như lao đầu mũi nhọn xuống
thấp, như lén lút mất, hoặc ở chỗ khúc khuỷu đâm nhọn ra là diệu, thì tốt, hoặc ở
trong vũng nước đột đá liền tảng, nhọn đầu đâm thò ra, là cát.

Thổ tinh
1. – Thổ tinh ở miền Cao sơn thì hình như cái bức bình phong, hoặc như cái kho, cái
quỹ cao lớn, đoan chính, phương bình, trọng hậu là cát.
2. - Ở miền Bình cương thì hình như cái kỷ, cái khuê ( cái ghế đẩu, cái hộp ngọc) cao
vuông, hễ thấy đoan chính, trọng hậu, là cát.
3. – Thổ tinh ở miền Bình dương hình như cái ấn vuông, hoặc rộng lớn như cái bảng,
hễ thấy vuông vắn, bằng phẳng, hoặc thấp, hoặc cao, đều là cát hình quý thể cả.

Kim tinh tróc mạch thức


Trong Ngũ tinh kết huyệt, thì Kim tinh chiếm phần nhiều hơn cả.
Kim tinh hoặc ở Cao sơn, hoặc lạc nhập, Bình cương Bình dương, tựa như trái cầu
buông đi, hoặc như chuỗi hạt, một khởi, một phục, đoạn rồi lại khởi, rồi lại đoạn
phục v.v… hoặc đột nổi lên ở trong vùng nước, đồng lầy, đều hay có kết tác.
Kim tinh có chính thể, có biến ra tứ tinh, và có cái cao, cái thấp, cái lớn, cái nhỏ, cái
bình diện đã kể trên. Kim tinh thì kỵ Hỏa, Mộc kết tác, vì khắc sát, nên khi điểm
huyệt, nếu có đới mộc đới hỏa, thì phải áp sát, tị hung, thì mới được lành, không biết
làm thì bị họa tiêu diệt!
Tất cả Ngũ tinh, tinh nào cũng có tương sinh tương khắc, đã kể nhiều lần ở trên.
Vậy, lấy một cái thí dụ mà suy ra bốn cái thì hiểu hết. Tế nhận cách thức tróc mạch,
ở các bản đồ hình Ngũ tinh dưới đây sẽ rõ.

224
225
226
Mộc tinh
Mộc tinh cũng là một tôn tinh ở trong Ngũ tinh, nhưng ít kết huyệt, không nhiều
bằng Kim tinh, kỵ kim sát, vì kim khắc mộc. Mộc tinh chính thể có: Lập mộc ( đứng
cao), Thùy mộc ( rủ xuống thấp), Hoành mộc ( nằm quay ngang, có biến thể ra tứ
tinh, hoặc kiêm thể, kết huyệt phần nhiều ở tiết bào, hoặc ở chỗ hình dạng khúc
chiết. Xem đồ hình tróc mạch dưới đây:

227
Thủy tinh tróc mạch thức
Thủy tinh thì phần nhiều làm hóa khí, dẫn long quá mạch và làm kiêm tinh, mà chỉ
kiêm kim tinh, mộc tinh thì mới kết huyệt. Nếu có kỳ quái biến thể, thì cũng là kết
phát tầm thường thôi! Và không hay có thuần túy làm chính thể. Có mấy thể dạng
như: Trừng ba, Hồi lan, Lưu bào ( giải nghĩa: Trừng ba là lan rộng ra một khoảng
hoặc to, hoặc nhỏ, hình không tròn lắm tựa như lá sen, lá súng mà bình diện ( bằng
phẳng mặt) – Hồi lan là xoáy tròn như ruột ốc, hoặc vòng quanh rộng chẳng hạn –
Lưu bào là như dòng nước chảy uốn khúc dài đi và có một đột thấp gợn lên, tựa như
đám bọt nước nổi tụ tròn lại, nếu không có bào mà lan man rộng dài ra, là tảo đãng,
thì không hay kết huyệt). Huyệt chỉ kết ở chỗ có bào và chỗ khúc uốn ôm lại, hoặc
thè lè ra, xem họa đồ trên đây thì rõ.

228
Hỏa tinh tróc mạch thức
Hỏa tinh thì phần nhiều là làm tổ sơn và làm diệu tinh, chứ ít khi kết huyệt, vì là lửa
chỉ bốc cháy bùng lên rồi tắt lụi ngay, chỉ còn đống tro tàn, là tử khí thôi! Chỉ giúp
sức thêm cho thổ, nhưng thổ ấy lại phải nhờ có thủy mới tái sinh. Vậy, Hỏa tinh đứng
một mình thì không có huyệt.
Chính thể cũng có mấy hình dạng, như là: Diệm thiên hỏa ( nghĩa là: lửa bốc ngọn
cao ngút trời, tức là nhiều ngọn lửa bùng lên, gọi là Liêm trinh tinh). Đảo địa hỏa là
những hỏa tinh thấp, nằm ở nơi bình điền, bình địa, hễ thấy hình tam giác nhọn hoặc
đột lên ít nhiều, hoặc bình diện như góc ruộng, đều là hỏa tinh cả. Có biến ra tứ tinh,
tùy hình thể kiêm tinh. Xem họa đồ trên sẽ hiểu.

Thổ tinh tró mạch thức


Thổ tinh cũng là tôn tinh như Mộc, Kim tinh, nhưng kết huyệt không nhiều bằng Kim
tinh và Mộc tinh. Nhưng gặp đại cục mà kết huyệt, là thượng cách, là đất xuất
Vương, Tướng, Công, Hầu, đất nhỏ cũng phát phú. Có cao thổ và đê thổ, có bình
diện, có trắc diện, hễ thấy vuông bốn góc là Thổ tinh chính thể. Có biến thể ra tứ
tinh, tùy hình dạng kiêm thể mà điểm huyệt. Xem họa đồ dưới sẽ rõ.

Tam thế huyệt


Cái sơn thế kết huyệt của huyệt tinh có ba (3) cách, gọi là Tam thế: Thiên huyệt, Địa
huyệt, Nhân huyệt, là ba danh từ chính. Ở trong ba cái chính này, còn có nhiều danh
từ phụ nữa, vì những thời đại sau có những người hiếu danh, hoặc hiếu lợi, hoặc hiếu
kỳ, viết sách thêm nhiều bộ, đặt tên khác cho nó có vẻ kỳ dị đặc biệt, làm cho người
ta phải ngó đến mình, chớ kỳ thực chẳng có gì khác lạ cả! Vì các phương pháp, thể
cách, các Tiền triết đã nghiên cứu đích xác rồi, không còn khe kẽ nào nói khác được,
chỉ còn có cách là đặt tên khác thôi! Vậy xưa đã có nhiều người than phiền, vì làm
cho người ta hoang mang, phải phí tiền mua sách, uổng thì giờ đọc mà chẳng có cái
gì hay đem lại, chỉ bực mình thêm!

229
Vậy nay tôi cũng kể sơ lược 12 cái danh từ ở bộ Lạc Đầu Thuyết ( Lạc đầu là sơn ở
đằng sau huyệt rủ đầu xuống). Họ Quách nói: Huyền vũ không thùy đầu là Cự thi
( phản kháng thân thể), huyền vũ thùy đầu mới là thụ táng ( thuận thụ kết huyệt).
Vậy, xưa lấy cái đầu của chủ sơn rủ xuống, để làm táng pháp, nên gọi là Lạc đầu.
Mười hai danh từ ấy là: Cái – Niêm - Ỷ - Tràng – Ai – Tính – Tà – Sáp – Trảm – Triệt
– Câu – Trụy. Nhưng sao Dương Công nói: mười hai tên ấy chỉ có bốn tên: Cái,
Niêm, Ỷ, Ai, thì tác dụng linh hoạt, còn tám tên kia vẫn chấp trệ ( bí đọng). Vì thế,
mới lập ra mười hai phép Đảo trượng gọi là: Thuận – Nghịch – Xúc – Xuyết – Đấu –
Xuyên – Ly – Đối – Một – Triệt – Đốn – Phạm, bất chấp sơn hình, tinh thể, chỉ lấy khí
mạch cương nhu, cấp hoãn mà thi hành tác dụng, vậy táng pháp mới hoạt bát,
không trệ. Về sau phái Hồ ủy Tiên làm sách Đảo trượng, mà những cái vi diệu mới
phát tiết hết.
Vậy độc giả xem lược giải và những đồ hình dưới đây, mà tế nhận suy lượng ra nhiều
hình thể khác nữa, chứ không bút giấy nào diễn tả được hết thiên biến vạn hóa của
tạo vật.

230
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 18

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:54 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Danh nghĩa 12 huyệt phụ


Việt Hải

Danh nghĩa 12 huyệt phụ

1) Cái huyệt, là huyệt đặt trên cao, đè cưỡi trên đỉnh huyệt tinh, nên gọi là Cái. Ví như huyệt kết
tại kê tâm ( bụng con gà), là cát vật nó có cái màng như cáo áo bọc ở ngoài, thì phá xé bỏ cái
màng bọc ấy đi ( tức là đào sâu xuống). Đó là bảo: huyết bao tinh, nếu không xé bỏ cái màn ấy
đi, là tinh bao huyết thì hung!

2) Niêm huyệt, là huyệt đặt dán sát vào long, ví như ngư bào ( bong bóng cá), là cái
vật hình trên to, dưới to, khoảng giữa nhỏ, thì trên dưới đều là hư, khoảng giữa là
thực, thì tới chỗ thực ấy mà điểm huyệt.
3) Ỷ huyệt, là huyệt tựa vào long thân, ví như trư yêu ( lưng con heo), là cái vật
hình nó như có cái đai lưng, nếu cái đai ấy có động ở dưới, thì trên đầu cái đai ấy là
cát ( tốt lành), thì tới chỗ khẩu nội ( trong miệng) mà điểm huyệt.
4) Tràng huyệt, là huyệt đặt vào giữa. Ví như loa tràng ( ruột ốc), là cái vật hình nó
bên dài bên ngắn huyệt ở chỗ bế khẩu ( là miệng có cái che đậy), thì huyệt đun đưa
qua bên ngắn mà đặt táng, gối vào cái ruộng như thân con ốc ấy.
5) Ai huyệt, kết ở chỗ khí mạch đưa ra bên. Ví như hai chỗ vú của người, thì xem
bên nào có sinh khí thì đặt huyệt, gối đầu vào sinh khí ấy.
6) Tính huyệt, là huyệt ở chỗ khí mạch gồm tụ lại, như là long đương đi, mà huyệt
kết ở long thân, nhận thấy chỗ nào khí tụ thành khối, là đột lên, bừu ra như cái đốt,
cái mắt cây, thì điểm huyệt ở chỗ đó, chữ gọi là: Cát bào ( cái củ cây sắn dây).
7) Tà huyệt, là huyệt đặt ở chỗ mạch đi thiên thẹo về bên cạnh, thì chỗ chính giữa là
hư, bên cạnh rìa là thực, thì điểm huyệt ở bên tay chân tà thiên ấy.
8) Sáp huyệt, là huyệt như gài gắn ở bên ngoài, ví như hai bên vai, mà có oa nông
nhỏ, ở trong oa lại có vi đột, là đột chút xíu, chữ gọi: Giảo sát huyệt ( giảo sát là con
chấy, con rận, cắn bám vào ngoài da).
9) Trảm huyệt, là huyệt kết bên tả hoặc bên hữu, khí mạch đương đi, chuyển mình
quay lại, mà đặt huyệt như chặt ngang khí mạch, nên gọi: Trảm huyệt.
10) Triệt huyệt, là huyệt đặt ở chỗ long mạch đương đi, chưa đứng lại, mà ở long
thân có chỗ khí kết tụ thành khối, tức là phình to ra hoặc đột cao lên chút ít, mà

231
huyệt chặn ngang khí mạch, nên gọi: Triệt huyệt.
11) Câu huyệt, là huyệt đặt ở chỗ long mạch đi tà thiện về bên tả hoặc bên hữu
chân tay, chuyển đầu quay vòng lại như hình lưỡi câu cá nên gọi là Câu huyệt.
12) Trụy huyệt, là huyệt đặt ở chỗ mạch đã lìa thoát nơi núi cao xuống chỗ đât bình,
lại khởi đột bừu ra như cái đốt, cái bọc, nên chữ gọi là Đông qua ( quả dưa mùa
đông): nếu lại có oa, có nhũ thì càng tốt.

 
Giải thích ba huyệt Thiên - Địa - Nhân

Thiên huyệt, là: Cái huyệt ở trên cái huyệt tinh là thể đứng, đầu huyệt tinh như cúi
xuống, chỗ xuất mạch kết huyệt sinh vựng ở hai bên long hổ, sơn sa, minh đường,
thủy thành, triều án, chứng ứng cũng đều cao, mọi cái tương xứng, ở trước huyệt có
khoảng bình địa hoặc ruộng, hoặc hẹp không nhất định; đấy là sơn thủy kết tụ ở trên
nếu đi xuống thì khí mạch tán, không phải chỗ kết huyệt, đó là Thiên huyệt, cũng
phân ra ba cách: ở trên đỉnh sơn đầu gọi là Ngưỡng cao huyệt; ở dưới sơn đầu gọi là
Bằng cao huyệt, hai cái này dùng Cái pháp điểm huyệt; ở trên sơn tích ( xống lưng)
thì gọi: Kỵ long huyệt, dùng Tràng pháp điểm huyệt, mạch lai cần phải thư hoãn.

Địa huyệt, là: Cái huyệt ở trên huyệt tinh là thể nằm, đầu như ngửa lên, chỗ xuất
mạch kết huyệt, sinh vựng cũng thấp, hai bên sơn sa, đường án, thủy hành, triều
ứng mọi cái đều thấp tương xứng, đấy là sơn thủy tụ chung ở dưới, nếu đi lên mà
điểm ở cao thì không phải huyệt, vì khí mạch tán. Cũng có phân ra ba cách: Ở trên
chỗ chân sơn, gọi là Huyền nhũ huyệt, thì dùng xuyết pháp điểm huyệt; ở dưới cái
chân sơn ấy, gọi là Thoát sát huyệt, thì dùng Niêm pháp điểm huyệt, nếu xuất ở phía
trước cái tinh thể ấy, thì dùng Tiếp pháp: nếu lìa ra xa cái tinh thể ấy, mà lại đột khởi
lên cái tiểu bào, thì dùng Phao pháp điểm huyệt: ở nơi bình điền, bình địa gọi là Tàng
quy huyệt, cũng dùng Tràng pháp điểm huyệt. Nếu địa huyệt mà tới chỗ thủy hạ
( chỗ nước tụ) kết huyệt thì mạch lại cần phải khẩn cấp.

232
Nhân huyệt, là: Huyệt ở cái sơn thể như ngồi, đầu cái sơn thể không cúi, không
ngửa tự nhiên như hình dạng ngồi, chỗ xuất mạch kết huyệt sinh vựng, cũng không
cao, không thấp, hai bên tả hữu, đường án, thủy thành, triều sơn, chứng ứng cũng
đều đều không cao,không thấp, tương xứng. Đấy là sơn thủy tụ chung ở khoảng
giữa, nếu đi lên, đi xuống thì khí mạch tán, không phải chỗ kết huyệt, chỉ có một
cách, là tại sơn yêu ( chỗ lưng chừng sơn). Cũng có ba thể cách điểm huyệt: Áp sát,
Thiểm sát, Tàng sát. Huyệt tinh sinh nhũ đầu, mà chân bên tả, bên hữu nhọn hoặc
trực hạ ( thẳng xuống), đó là Thần sát xuất hiện, thì nên điểm huyệt ở chỗ cao, là Kỵ
hình, Phá sát, tức là dùng Cái pháp điểm huyệt. Nếu bên tả hữu có tiêm trực thiên lộ
ra, thì xem bên nào có hình thể viên tĩnh sẽ lập huyệt ở bên ấy, bằng cách dùng Ỷ
pháp; nếu thấy sơn sa có tỳ tích hung ác đáng sợ, thì phải vào trong chỗ có oa thâm
kín, ở huyệt không trông thấy ái hung ác ấy mà điểm huyệt, gọi là Tàng sát, thì cũng
dùng Tràng pháp.

Tứ sát
Tứ sát là bốn cái thể sát:
1. – Mạch lai trung bình, hai bên đều viên tĩnh, kết huyệt ở chính giữa là Tàng sát.
2. – Mạch lai trực cấp, huyệt ở trên đỉnh đầu cao là áp sát.
3. – Sơn thể tiêm trực ( nhọn thẳng), mạch thoát xuống chỗ bình địa là thoát sát.
4. – Sơn hình một bên tiêm, một bên viên, hoặc bên cấp, bên hoãn, thì bỏ bên tiêm,
cấp và thiểm khai thì chớ dùng, nên tới bên viên hoãn mà đặt táng, là Thiểm sát.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Cửu dạng


Việt Hải

Tinh thần khai diện, không xuất cước là Chính thể nên điểm Áp sát huyệt. Những sơn hình chính
thể là bao hàm cả tạo hóa, thu hút cả tinh thần. Vậy là lực mạnh, cong to, khí thuần, nên bảo là
Cát huyệt, nhưng phải là hoàn mãn: diện không vỡ lở, thân không nghiêng ngả.

 
Cửu dạng
Cửu dạng là chín cái thể dạng khác nhau:
1. – Chính thể 2. – Khai khẩu 3. – Huyền nhũ
4. – Cung cước 5. – Song tý 6. – Đơn cổ 7. – Trắc não
8. – Một cốt 9. – Bình diện

1. Chính thể
Tinh thần khai diện, không xuất cước là Chính thể nên điểm Áp sát huyệt. Những sơn
hình chính thể là bao hàm cả tạo hóa, thu hút cả tinh thần. Vậy là lực mạnh, cong to,
khí thuần, nên bảo là Cát huyệt, nhưng phải là hoàn mãn: diện không vỡ lở, thân
không nghiêng ngả. Xét cái động, tĩnh ở chỗ có vi mang ( khác tí chút), phân biệt cái

233
cao, đê ở chỗ ẩn ước ( hơi lấp lí, không hiện rõ). Thấy có như thế là phải, nhưng chỉ
hiềm thủy trực, và thân cô, thì sợ lắm! Vì thủy trực thì khiên động thổ ngưu, thân cô
thì phiêu tán sinh khí! Vậy phải xem cẩn thận, chớ nên hồ đồ mà uổng phí công phu.

 
2. Khai khẩu
Khai khẩu là: Tinh thần bình khai lưỡng cước. Nghĩa là: tinh phong mở ra hai bên
như hai chân bằng nhau, cân đối, là khai khẩu, thì nên điểm huyệt Tàng sát. Những
sơn thể khai khẩu, thì cái khí linh quang tụ ở trong khoảng giữa, cái dư khí phân ra
hai bên dẫn xuống dưới, thế là “ thư hùng tương cố, huyết mạch giao thông”. Vậy
nên là kết huyệt, nhưng khẩu trung phải viên tĩnh, oa nội phải sung đúc, long thân
như là cúi xuống thì huyệt phải tiếp mạch; nếu như ngửa lên cao, thì huyệt phải đặt
vào trong cái vòng cung như khai oa, chữ gọi: Trám huyền ( tức là thấm nước trong
cái oa, như mắt nỏ ấy), thì mới phải là đúng, nhưng tối kỵ đường quyển hoặc lạc tào
( nghĩa là: minh đường chảy cuốn nước đi hết, là đường quyển; như cái máng nước
đầu trên cao, dưới thấp chảy dốc xuống hết, là lạc tào).

"Đường quyển thì không thu được ngoại khí.


Lạc tào thì phá hoại cái tinh thể cát.
Vậy phải xem xét cẩn thận, kẻo phí công phu."

234
 
3. Huyền nhũ
Huyền nhũ là: Cái huyệt sơn có như cái sống mũi rủ xuống chính giữa chỗ khai khẩu,
tựa hồ cái vú treo, nên gọi là Huyền nhũ. Nếu mạch nhũ cấp, thì nên điểm Thoát sát;
nhũ hoãn, thì điểm huyệt Tọa sát. Những cái sơn thể như huyền nhũ là sinh khí
ngưng tụ lại mà rủ xuống, cái linh quang phát lộ ra ngoài trông thấy, hai cung ( tả,
hữu) tề đáo, một nhũ ở chính giữa, vậy là cát huyệt. Chỉ cốt là, ở trên cái nhũ được
tròn và quang tĩnh, và trong cái vòng khai khẩu ấy, được khoan thư. Ngũ khí phân
hình, tam đình lập huyệt, là đích phải: tối kỵ minh đường bị tắc, hoặc thủy khiên ( là
đường tâm đấy lấp, hoặc nước như lôi cuốn kéo đi), thì hung họa!.

235
 
4. Cung cước
Cung cước là: Cái sơn thể bình chính mà khai khẩu, có một chân, vòng chuyển ôm lại
huyệt trông như cái khung nỏ, nên gọi là Cung cước. Có 2 thể là: Tả, hữu Tiên cung
và Giao nha. Lập huyệt thì lựa ghé vào đấy mà tiếp tài nghinh lộc. Những cái tinh thể
cung cước, thì cái linh quang nó hướng vào bên trong mà tiềm tàng, cái dư khí dẫn
về đằng trước mà quay lại, ôm vào minh đường tụ ở trước mặt, hoặc có ứng lạc liên
chi thì đúng là cát huyệt. Chỉ cốt là, đầu cái chi cước ấy chuyển ngược lại, thì không
ngại gì chỗ thủy khẩu không có quan tỏa. Muốn định huyệt ở cao hay thấp, thì phải
tùy ở bên tả, hữu mà điểm, tối kỵ “ cước cao quá nhãn, Hổ nhiễu kình quyền” Quá
nhãn thì sinh ra người nhân phẩm hèn hạ! Kình quyền thì con cháu hung bạo!
Cái thể cung cước này có 2 dạng: Xuất cước một bên dài, một bên ngắn là Chính
cách, thì xuyên vào bên dài mà đặt huyệt; hai cước giao nhau là Biến cách, thì xuyên
vào chính trung tâm đặt huyệt. Tùy hình thể, lấy Tứ sát pháp mà xử dụng.

 
5. Song tý
Tinh này thì thân cao, diện bình, hai bên khai hai cước, nên gọi là Song tý, tức là hai
cánh tay, hai cẳng chân cũng vậy. Có ba thể: Có cái cả hai bên tả, hữu, đều có đôi –
Có cái thì bên tả có đôi, bên hữu có một – Lại có cái bên hữu có đôi, bên tả chỉ có
một, đấy là biến cách. Điểm huyệt thì phải tùy chỗ, lấy Tứ sát huyệt pháp mà làm,
tất cả những cái tinh thể song tý là linh quang đầy đủ và thứ thái, cái chân khí có dư
dật đầy rẫy, nên đông tây song đáo, nội ngoại trùng hồi, vậy là cát huyệt. Chỉ cốt ở
trước mặt có minh đường tụ thủy và án, ứng tới gần thì rất quý! Điểm huyệt thì lấy
chính giữa thiên tâm.
Tối kỵ: Nội tý tiêm xạ, nguyên thần trường trực! Tiêm xạ thì huyệt cát cũng hung!
Trường trực thì tinh lành hóa ác! Song tý nên loan bão, mà giao nha càng tốt. Lưỡng
cước viên tĩnh thì quý, nếu nhọn quá mà như cắp cái đòng, cái dáo, thì cắt phá bớt
đầu nhọn đi.

236
 
6. Đơn cổ
Tinh này thân cao, diện bình, khai có một cước, nên gọi là Đơn cổ, tức là một vế hay
một chân. Cũng có mấy thể dạng: Cái thì chân hơi cong như một tay mang xách đồ
vật, đó là chính cách – Có cái ở dưới tinh não, một bên kết nhũ, một bên khai cước
cung, đấy đều là biến cách. Vậy, điểm huyệt phải tùy chứng ứng ở bốn phía mà định.
Những cái thể Đơn cổ, là cái linh quang nó tụ ở trong, dư khí không đủ, nên chỉ rủ
xuống được có một bên, tuy bên tả hay bên hữu thiếu mất một, nhưng huyệt hoặc ở
trên hay ở dưới cung chỉ dựa vào một bên tốt, chứ không dùng được cả hai, nên cho
là cát huyệt. Vậy đơn cổ cần phải nghịch chuyển quay đầu lại ôm vào, và lưỡng cung
phải thấu thành, huyệt thì quý là ôi tàng ( dấu kín vào chỗ cong ôm lại), cục nên chu
mật, thì mới phải huyệt. Tối kỵ: Phong suy huyệt bạn, khứ thủy diện tiền, thì không
nên dùng.

237
 
7. Trắc não
Tinh này thân cao, đầu tròn, khai cước nhũ. Sinh cái vai ở phía dưới, đầu lệch về một
bên, nên gọi là Trắc não. Có hai thể dạng: Cái có 2 chân đều nhau, gọi là Tiên cung
– Cái có một chân dài, một chân ngắn, hình uốn cong như cái nỏ đưa qua bên kia,
gọi là Nữu hội huyệt, ( như cái nút áo hợp lại). Có cái nảy ra ở dưới vai gọi là Giảo
sát ( nhu con chấy, con rận bám cắn). Những cái tinh thể trắc não thì cái chân khí
không ở dưới não, cái linh quang nó trú vào trong cái vai. Đời xưa gọi là tả hữu Tiên
cung, nay gọi: Thiên tà quái huyệt. Tuy cái đầu nó khác nhau, nhưng cái lực lượng
vẫn như nhau, nên bảo là cái huyệt. Chỉ cốt là đường khí tụ ở trước mặt, lạc tinh cao
ở đằng sau, điểm huyệt thì nên dùng Ỷ, Tràng pháp và huyệt nên đạp ngược lại,
nước triều tới trước mặt, nhưng tối kỵ: “ Án tiền phi tẩu, huyệt nội không sơ” Phi tẩu
là hư hoa ( cái hoa giả), không sơ thì đằng lậu ( nước đuổi đi hết), thì không dùng
được.

238
8. Một cốt
Tinh này thân cao, khai khẩu ở dưới vai, gọi là Một cốt, tức là mất xương, chỉ thấy
thịt mập vai. Cũng có mấy thể dạng: Cái khai khẩu một bên thì mềm khéo, ôm vòng
cong lại, một bên thì thô xuẩn đườn ra. Vậy điểm huyệt phải tìm chỗ nhuyễn ngạnh
giáp nhau mà triệt khí, đấy là chính cách. Còn những cái như lè lưỡi ra, hoặc như
nắm đấm tay, hoặc tựa nhu cái bừu nảy, rủ xuống, đều là biến cách cả. Những cái
tinh thể một cốt, là cái hình thể đã thấy rõ thiên tà, thì khí mạch tất thị chạy ra bên
tả hoặc bên hữu, tiềm ẩn không thấy tông tích, chỉ nhận có khai khẩu làm bằng cớ,
tuy là kỳ quái bất đồng, nhưng không khác gì cái đoan chính, nên bảo là cát huyệt.
Nhưng mọi phương pháp vẫn phải như thường lệ, là: Đướng án, cục, thế, chứng ứng
sơn sa các cái hữu tình, mới là phải huyệt.
Tối kỵ: Hậu long thất thế, tiền án vô tình, thì đều là giả, không nên dùng.

239
9. Bình diện
Tinh này thân như là cúi xuống, mặt thăng bằng, nên gọi là Bình diện, nhưng trung
tâm cần phải có đột. Tinh này chỉ có một thể thôi, hay xuất hiện ở trong vùng Bình
địa nhiều hơn: hoặc có xuất hiện ở miền Sơn cương, nhưng ở miền cao sơn mà bình
thì phải lõm xuống, trong chỗ lõm mà lại có đột hơi gợn chút thì hay lắm. Ở miền
Bình dương mà bình, thì cần phải có đột lên, trong chỗ đột mà lại có lõm tí chút thì
quý. Huyệt thì đặt ở giữa ( trung tâm) là đúng.
Nhưng cái tinh thể bình diện, thì cái linh quang nó tự xuất ở chỗ đính ( chính giữa
chỏm), sinh khí nổi tụ ở trên mặt, tức thị tinh thần thu liễm, tạo hóa hoàn toàn; vậy
là cát huyệt, tất nhiên hình thể đoan chính; đường khí chu mật; chủ, khách hữu tình
tương xứng; tả hữu sơn sa hộ vệ. Xét thấy có chỗ động tĩnh, phù trầm là phải kết
huyệt rồi, nhưng tối kỵ: Thai tức cơ hàn, huyết mạch phản bội thì không nên dùng.
Vì cô hàn thì nhân đinh yểu tử! Phản bội thì gia nghiệp tiêu vong! ( Thai tức cô hàn:
ở chỗ kết huyệt bạc nhược, không có sơn sa hộ vệ, cô đơn chỉ có một huyệt tinh bé
thấp thôi – Huyết mạch phản bội: sơn thủy ở nội cục liền với huyệt tinh, quay đi ra
ngoài hết). Tinh này phần nhiều là kim tinh tròn như cái mâm ngửa mặt lên. Vậy nên
mộ phải đắp đất thành đống cao, kỵ dùng đá tảng xếp thành thềm đá, thì không tốt.

240
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 19

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 17:59 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Vựng pháp nhận xét thái cực
Việt Hải

Vựng pháp nhận xét thái cực

Huyệt trường đã định được rồi, còn phải biết rõ cái viên vựng nó ẩn ẩn nó vi vi ở khoảng ấy, tức
là bao gồm cả một vùng vòng quanh chỗ ở viên vựng vi khởi (là đột lên chút ít) hoặc rộng lớn,
hoặc nhỏ hẹp, tùy ở thế cục không hạn định, có chỗ lộ hình thấy rõ ràng, có chỗ tựa hồ như ẩn
lấp, lén lút, phải tinh tế để ý mới biết, nó hồn nhiên do thiên địa an bài, tự nhiên mà hóa ra, thế
mới gọi là Thái cực, tất thị sinh Lưỡng nghi ( là âm, dương) v.v…

241
Ở phía trên chỗ vựng, thì cần phải thủy phân ra hai bên ( hình chữ Bát) chảy xuống,
phía dưới chỗ vựng, thì cần thủy phải hợp lại, chỗ thủy hợp tụ ấy gọi là Tiểu minh
đường, cái tiểu minh đường này chỉ nên nhỏ hẹp và nông cạn, là quý, không cần sâu
rộng, vì vậy có câu: Nội đường yếu dong nhân trắc ngọa, ngoại đường khả dong vạn
mã” ( Nghĩa là: cái nội ở đường liền giáp huyệt chỉ cốt lọt người nằm nghiêng ngụ ý
là: nên nhỏ hẹp, tuy nhỏ hẹp nhưng rất cần, vì nước này là nội khí của huyệt, nên
gọi là Thiếp thân chi thủy ( nước ở gần, như dán dính vào mình). Ngoại đường nên
ruổi được muôn ngàn con ngựa, ngụ ý là nên rộng lớn).
Huyệt trường cần phải có viên vựng, thì mới phát là có sinh khí tụ ở trong. Nếu
không khởi vựng thì không phải kết huyệt.
Nhưng đặt ngôi dương cơ ( nhà ở), thì chỗ vựng nên rộng rãi và quang đãng. Đặt
táng mộ ( âm phần), thì chỗ vựng nên thu hẹp. Thấy có khởi vựng phân minh, thì
ngả trượng ( đặt gậy nằm) ở trung tâm chỗ vựng, rồi cắm một cái cây thẳng làm tiêu
chuẩn, muốn gia giảm, tiến thoái, đều lấy đó làm căn cứ mà quyết định tọa, hướng,
hoặc đặt tọa chính đỉnh vựng, hoặc đặt chỗ thấu suốt vào mạch, thì tùy ở trường
hợp. Nếu có Lạc sơn ứng ở đằng sau, thì nên đặt quan gối vào Lạc sơn, những cái
sơn thể như là: Thốt não, Song não, Một cốt, đều nên gối vào Lạc sơn.
Phía trước thì nên đối chiếu vào Án sơn, dưới nữa thì cần hướng chiếu tới minh
đường. Bên tả, hữu thì cần là quân phân long, hổ, không thiên lệch đường chữ thập,
thì mới là tốt.
Tổng luận bài quyết: Ẩn ẩn vi vi, hoảng hoảng hốt hốt, thô khán hữu hình, tế khán
vô vật, hoặc vị chi: La văn, Thổ tú, nhất điểm linh quang, ngưỡng, phú Mai hoa, giai
dị danh nhĩ.
Nghĩa là: Tựa hồ như bóng dáng lén lút, ẩn nấp nhấp nhoáng, không lộ rõ, hoặc bảo
là: Cầu thiềm hợp khâm, La văn thổ tú v.v… hễ thấy có một điểm linh quang, lộ ra
chút xíu như đóa hoa mai, như thể xấp, hoặc như thể ngửa, đều là dị danh, hữu vị
đấy. Vậy giả họa đồ dưới đây, để nhận rõ đại khái mà suy rộng thêm.

Phân lưỡng nghi


Thái cực định được rồi, lại phải phân biện âm dương, tức là Lưỡng nghi
Thấy ở khoảng vựng mà phì khởi, thì làm dương huyệt, hễ sấu hãm, thì làm âm
huyệt, như thế gọi là Lưỡng nghi. Những chỗ tới long thân cát huyệt; nếu tái khởi
tinh phong ( là lại khởi đột tinh phong khác ở trên long thân ấy), là dương long, thì
phải làm âm huyệt. Những chỗ tái khởi tinh phong như thế, cứ cho là âm long mà
đặt táng dương huyệt như xưa, thì lầm lỗi đó! Vậy, có hai bài long huyệt ca.
1. – Dương long thiết mạc hạ dương huyệt! lộ tử, sinh ly biệt! Nhược thiên âm huyệt
chính tương đương tử tức tố quan trọng.
Nghĩa là: Dương long đừng hạ táng vào dương huyệt, nếu phạm thì bị họa: chết, thì
chết ở đường! Sống, thì phải ly biệt gia hương! Nếu hạ táng âm huyệt thì chính là
tương đương ( hợp cách ), con cháu làm quan lang!
2. – “ Âm long nhược thị hạ âm huyệt, nữ nhân công sự phát! Nhược thiên dương
huyệt, định vi quan! Phú quý túc điền viên.
Nghĩa là: Âm long mà hạ táng âm huyệt, thì giới con cháu gái bị kiện tụng xuất phát!
Nếu biết đặt táng vào dương huyệt, thì quả quyết là làm quan! Giàu sang đủ ruộng
vườn.
Nếu trên triệt phì khởi, dưới triệt sấu hãm; hoặc trên triệt sấu hãm, dưới triệt phì
khởi; hoặc bên tả phì khởi, bên hữu sấu hã; hoặc bên hữu phì khởi, bên tả sấu hãm,
đều là nhị khí giao cảm, thì chẳng phải hỏi âm hay dương, đều có thể dùng được.
Tất cả huyệt âm, huyệt dương đều phải nhiêu giảm, như hữu sơn, nghịch thủy
chuyển, thì theo cái tiêu chuẩn dựng ở trung tâm chỗ vựng ấy, mà dịch ghé về bên
hữu hai (2) phân.
Thí dụ: Tọa tý, thì ghé gác sang nhâm 2 phân, nếu không nhiêu giảm thì khí trực lai,
mà đặt chính ở chữ tý, là thiên khô, thì không kết phát phúc, mà còn phát họa!

242
Tả nghịch chuyển, thì khí chỉ tả, dừng lại tụ ở bên tả.
Hữu nghịch chuyển, thì khí chỉ hữu ( dừng ) tụ ở bên hữu. Vậy phép phải đặt táng ở
chỗ khí chỉ ấy, chỉ có chỗ nào hai khí giao cảm, thì lấy chỗ âm dương giao tiếp, là nơi
khí thăng giáng tụ hội, thì không phải nhiêu giảm, chỉ luận một dương nghi thôi.
Thái cực động, mà sinh dương; vậy chỗ viên vựng phì khởi ( dột cao dày) ấy, làm
dương, đó là cái tĩnh ở trong chỗ động. Nếu dùng làm nền nhà ở thì san bằng, dùng
làm huyệt táng mộ, thì lấy chỗ thực địa ( là đất cao, dày), Người xưa bảo đó là “ phú
Mai hoa” ( cái hoa mai úp xấp), tất thị phải nhiêu giảm; tả sơn nghịch chuyển,thì ai
tả ( ghé gác về bên tả), hữu sơn nghịch chuyển, thì ai hữu; ngày nhập cư, hoặc ngày
hạ táng,thì nên quang minh, trời sáng sủa, là hòa hợp khí tốt. Khai huyệt thì nên đào
nông, sâu quá thì tiết tán, mất sinh khí, lấy đất đắp lên thành đống mộ, không nên
dùng gạch đá, dương long thì kỵ dụng, chỉ luận một âm nghi thôi.
Thái cực tĩnh, sinh âm; vậy cái viên vựng sấu hãm ( lõm thấp) ấy làm âm, đó bảo là
cái động ở trong chỗ tĩnh. Dùng làm nền nhà ở thì nên đắp bằng phẳng, dùng làm
huyệt táng, thì nên đắp cao lên. Người xưa bảo đó là: “ Ngưỡng mai hai” ( hoa mai
ngửa lên), tất thị phải nhiêu giảm; tả sơn nghịch chuyển, thì ai tả, hữu sơn nghịch
chuyển, thì ai hữu. Ngày dựng nhà mới, hoặc nhập cư, hoặc ngày hạ táng hài cốt, thì
nên âm thiên âm, là trời u ám thuộc âm thì tốt. Khai huyệt thì nên đào sâu mới trừu
động sinh khí, nên dùng thổ đắp thành đống mộ, âm long thì kỵ dụng.

Cầu tứ tượng
Lưỡng nghi đã định rồi, lại phải phân biện động, tĩnh. Huyệt có “ Mạch, Tức”, Khuật
đột là động; không có gì là tĩnh; tĩnh là Lưỡng nghi, động là Tứ tượng “ Mạch”, là ở
khoảng vựng có chỗ lõm một chút xíu, đó là Thiếu âm của Thái cực; “ Tức”, là ở
khoảng vựng có chỗ đột lên chút xíu, đó là Thiếu dương của Thái cực; Khuật, là
khoảng vựng thô mà có oa, đó là Lão âm của Thái cực; Đột, là khoảng vựng thô mà
có bào, đó là Lão dương của Thái cực. Dương long thì kỵ hạ Tức đột huyệt; Âm long
thì kỵ hạ Mạch đột huyệt.
Tứ tượng tác dương cơ ( nhà ở) có bốn (4) phép: Mạch huyệt, thì lấy chính giữa mà
định cơ ( làm nền nhà) – Tức huyệt, thì đương chỗ triển khai mà định cơ ( triển khai:
mở rộng) – Đột huyệt, thì nên tạc bình ( san bằng) mà định cơ. Khuật huyệt, thì
đăng cao ( đắp thêm cho cao) mà định cơ.
Tứ tượng tác âm phần ( táng mộ) có mười sáu (16) phép: Mạch hoãn thì dụng Cái
pháp, là đặt quan ở trên chỗ cao – Mạch cấp thì dụng Niêm pháp, là tới chỗ thấp mà
đặt táng – Mạch Trực thì dụng Ỷ pháp, là né ra bên mà đặt táng Mạch hoành thì
dụng Chủng pháp, là lấy chỗ trực ( thẳng) mà đặt mộ - Hình Tức ngắn thì dụng Trảm
pháp, là đương đầu mà đặt táng – Mạch Tức dài thì dụng Triệt pháp, là đặt quan ở
chỗ khoảng giữa lưng, mà bình tĩnh – Tức cao thì dụng Điếu pháp, là đương chỗ lạc
đầu mà đặt táng – Tức thấp thì dụng Trụy pháp, là đặt quan ở cước mạch ( chân) –
Khuật hẹp thì dụng Chính pháp, là quan ở trung tâm khuật. Khuật rộng thì dụng Cầu
pháp, là đặt táng ở chỗ tiếp khí – Đột có hai cái thì dụng Tính pháp, là đặt quan vào
cái ngắn – Khuật sâu thì dụng Giá pháp, là nêu trừu khí ( kéo dắt khí ra) mà đặt
quan, tức là đắp đất lấp vào, đừng để sâu, thì khí xông lên tụ thấm vào chỗ đất mới,
cũ đã gắn liền với nhau, là kéo được khí lên đặt quan tài trên chỗ đất cao ấy, gọi là
Giá táng ( Giá, nghĩa là gác lên trên) – Khuật nông thì dùng Triết pháp, là liệu độ chỗ
mạch giao tiếp mà đặt táng ( Triết là bẻ) – Đột, có một cái thì dụng Ai pháp, là ghé
dịch vào chỗ cao mà đặt táng – Đột chính thì dụng Tà pháp, là đặt táng vào chỗ
thiểm trắc ( là lén đem ra bên cạnh rìa) – Đột nhiên thì dụng Sáp pháp, là sát vào
gần chỗ trung chính mà đặt táng.
Trên đây là những diệu pháp bí truyền, rất là tinh mật. Nếu không hiểu biết mà làm
tràn, thì tổn thương long mạch mà sinh họa; vậy phải ghi nhớ trong tâm nhãn, kẻo
uổng phí công phu! Sách có câu: “ Huyệt cát, táng hung! Dữ khí thi đồng”. Nghĩa là:

243
Có huyệt hay mà không biết, lại đặt táng vào chỗ dở, thì cũng như là vứt bỏ cái thây
đi! Độc giả nên chú ý.

Đảo trượng
Có 12 danh tự:
Ly, Xúc, Thuận, Nghịch, Một, Xuyên, Đấu, Triệt, Phạm, Xuyết, Đốn, Đối.
- Hoặc vấn: Sao lại lấy tên là Đảo trượng?
- Đáp: Vì người đời xưa, trước khi điểm huyệt đến giữa chỗ vựng tâm ở huyệt trường,
đặt cái trượng ( gậy) để nằm dọc xuôi, rồi cắm một cái cây tre thẳng cao ở đầu cái
trượng nằm dọc ấy, lại đến chỗ đằng sau đầu cắm một cây nữa, ở trên chỗ phân
thủy chiếu thẳng về chỗ hợp thủy ở trước mặt, cắm một cây để ngắm xem phía trên,
phía dưới, bên tả, bên hữu chỗ khai khẩu, xem chính hay trắc, cao hay thấp mà định
huyệt. Ý là táng khẩu, thì trên phải lấy đỉnh chỗ phân thủy, dưới thì phản đối ( trông
hướng) vào chỗ thủy hợp khâm, huyệt ở giữa chỗ vựng tâm ( tức là trung tâm chỗ
khí tụ đột khởi) mới là chân đích, cắm những cái ấy để làm tiêu biểu mà chiếu thẳng
nhìn xa. Sau, Dương Công lập 12 táng pháp, mượn cái đó đặt tên, vậy Đảo trượng
nguyên thủy từ đấy.
- Sao lại phải lập phép Đảo trượng?
- Vì phép táng thì phải thừa sinh khí mà khí mạch thì có cương có nhu, có cường, có
nhược khác nhau, nếu cái thừa ấy mà không phải phép, thì cái cương cường là phạm
sát! Cái nhu nhược là thoát khí. Đấy là bất vấn cái hình thể Ngũ tinh của chủ sơn là
gì? Và thể dạng oa hay đột của huyệt tinh. Chỉ biết được cái khí mạch cương hay
nhu, mà làm theo táng pháp cho xác thực, là nên thôn táng (táng chỗ khí nuốt vào)
hay thổ táng ( táng ở chỗ khí nhả ra). Vì hay, dở, là khôn khéo ở cái phép thừa sinh
khí, mà ngoài cái sinh khí đều bất luận, chỉ theo cái thừa sinh khí mà lập pháp. Cho
nên, chỉ có 12 phép này mà lấy hết cái biến của 360 huyệt pháp, phép thì đơn giản
mà dùng được đủ cả, thực là cái phép táng thông hoạt cả Đại viên ( tức là vũ trụ).
Vậy cái Trượng pháp của Dương Công, là cái hoạt pháp nguyên bản của táng pháp,
nhưng chỉ có 12 cái danh tự thôi, chứ không có họa đồ, không có lập thuyết, chỉ
truyền khẩu, khẩu truyền với nhau thôi! Nguyên vì cái Trượng pháp này không theo
ở cái tinh thể phát xuất, nếu không có họa đồ, chỉ khã dĩ ý hội, bất khả ngôn truyền,
là tự biết ở trong tâm, chứ không thể tự nói ra được, nên không lập thuyết. Vậy có
câu: “ Thần minh tồn hồ kỳ nhân dã”, là ý nghĩa đó.

Danh nghĩa thập nhị trượng


Thi cú:
"Nhuyễn lai, kính khứ, phân Ly, Xúc,
Chính lạc, tà phi, Thuận, Nghịch an.
Yển, Ngưỡng, Một, Xuyên, tiềm phúc lý,
Tung, Hoành, Đấu, Triệt, thấu yêu gian.
Cánh tường Phạm, Xuyết nhân cường, nhược,
Đốn, Đối đê ngang, lưỡng tương quan."

Nghĩa vắn tắt:


- Bởi sơn thế, cái mềm lại, cái cứng đi, mới phân ra cái Ly, cái Xúc.
- Cái chính rủ xuống, cái tà bay đi, thì huyệt yên ở cái Nghịch, hoặc cái Thuận.
- Cái thể dạng như cúi xuống, như ngửa lên thì cái Một, cái Xuyên nó chìm giấu ở
trong bụng.
- Cái thể nó dọc hay ngang, thì cái Đấu, cái Triệt nó thấu nhập ở khoảng eo, lưng.
- Nhân ở cái cường, cái nhược, nên phải rõ cái Phạm, cái Xuyết.
- Cái Đốn và cái Đối là do cái sơn thế phục thấp và cái nghển cao, hai cái nó quan hệ
với nhau.

244
Giải thích
- Nhuyễn lai, là cái khí mạch ngắn nhỏ và thư hoãn, thì nên đặt táng ở chỗ khẩn tiếp,
lấy ý Xúc nhập ( hẹp gần vào) nên gọi là Xúc trượng.
- Kính khứ, là khí mạch thô cứng và dài đi, thì nên đặt táng thoát sát, là chỗ mạch
tận, phô ra phiến binh địa như cái mền, cái đệm dài rộng ra, chữ gọi: Nhân lậu, thì
tìm chỗ lõm hoặc đột lên chút ít, ở trong khoảng Nhân lậu ấy mà đặt táng, gọi là Ly
trượng, tức là lìa mạch.
- Chính lạc, là sơn thể khai diện đoan chính, khí mạch xuất ở chính giữa, thì nên đặt
táng vào chỗ chính giữa, là lấy nghĩa thuận khí mà hạ quan, nên gọi là Thuận
trượng.
- Tà phi, là cái sơn thể nó tà thiên lại, khí mạch xế về một bên, thì nên táng nhĩ thụ (
là huyệt ở bên, mạch vào bên tai), lấy nghĩa bất thuận, sơn thế nghịch mà trảm
mạch, nên gọi là Nghịch trượng.
- Yển, là sơn thế cao mà đầu như cúi, mạch rủ xuống, phì ngoan ( mập cứng), thì tìm
chỗ lõm xuống hoặc đùng phép khai cô, là đào mở ra cái oa khẩu, đặt vào giữa bụng
sơn như xuyên tiến ( dùi xiên tới) nên gọi là Xuyên trượng.
- Ngưỡng, là sơn thế bình mà như ngửa lên, ngửa ra, mạch phô bày rộng lớn, khó có
thể thu nhập, thì nên tìm chỗ vi đột, là gồ lên chút ít, phép thì lấy thủy thể, là đào
mở ra cái oa kiềm mà đặt quan vào giữa oa, lấy ý nghĩa chìm lặn xuống, như một
nhập thủy để ( lặn vào đáy nước, mất không thấy), nên gọi: Một trượng ( chữ Một,
nghĩa là mất).
- Tung, là khí mạch đi dài dọc mà bình, thì nên đặt quan ở khoảng giữa và cưỡi vào
sống mạch, chữ là: Kỵ tích, như chém ngang đứt mạch, nên gọi: Triệt trượng.
- Hoành, là khí mạch hoành lai ( lại theo chiều ngang) thì nên thụ khí ở khoảng
ngang lưng bụng, đặt quan tài như là cái lưỡi rìu búa nằm ngang cái cán, gọi: Đấu
phủ, nên đặt tên là Đấu trượng.
- Phạm, là khí mạch nhược, hoãn, thì nên đặt táng ở chỗ khí cường thịnh, là chỗ sơ
khởi ao hơn, nên gọi là Phạm trượng.
- Xuyết, là khí mạch hùng cường, thì nên tới chỗ nhược, là chỗ sắp tận khí mà hạ
táng, không lấy ở khoảng giữa mà chỉ tiếp nối ở dưới, nên gọi: Xuyết trượng ( chữ
Xuyết, nghĩa là nối tiếp).
- Đốn trượng, là sơn thế trực lai khí mạch thẳng đến, ở giữa rũ xuống một cái nhũ
( vú), trên thì bình nhuyễn ( là mềm và đầu bằng), dưới thì tiêm ngạnh ( thô cứng và
mũi nhọn), thì nên đặt táng ở trên đỉnh chỏm cái nhũ ấy, là áp sát tác huyệt. Sở vị: “
Huyền vũ chủy trường, cao xứ điểm”. Nghĩa là: Ở sau rũ xuống , cái mỏ dài, thì điểm
huyệt ở trên chỗ cao, là lấy ý nghĩa đốn trên, nên gọi: Đốn trượng.
- Đối trượng, là sơn thế như tọa lập ( đứng hoặc như ngồi cao), ở khoảng giữa có
nhũ rũ xuống thẳng, trên thì cương ngạnh, dưới thì nhu tán, nên tới chỗ cương nhu
giao tế, đối ( hướng) vào chỗ trung chính mà đặt táng, nên gọi là Đối trượng.
Ghi thêm 12 bài thơ tự dưới đây, để rõ thêm:

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Ly trượng thi


Việt Hải

245
Long mạch cao lớn, cương cấp đương đi không đình, chỉ, thì đến chỗ mạch lìa thoát chỗ cao, ra
chỗ bãi bình như là cái mền, cái chiếu giải rộng ra, thì lìa chỗ mạch tới giữa bình ấy mà ngả cái
trượng, như là chính giữa cái kim tinh, rồi đắp thành đống mộ cao lên mà táng.

 
1. Ly trượng thi
"Long hùng, mạch cấp, tuấn vô danh,
Thoát mạch phô chiên triển tịch bình.
Ly mạch tựu bình trung đảo trượng,
Như kim trung chính lũy thành phần."

Giải nghĩa
Long mạch cao lớn, cương cấp đương đi không đình, chỉ, thì đến chỗ mạch lìa thoát
chỗ cao, ra chỗ bãi bình như là cái mền, cái chiếu giải rộng ra, thì lìa chỗ mạch tới
giữa bình ấy mà ngả cái trượng, như là chính giữa cái kim tinh, rồi đắp thành đống
mộ cao lên mà táng.

2. Xúc trượng
"Thế đoản lai từ, thượng tụ cao,
Khí ngưng bách hội, sản anh hào.
Phóng quan thấu khẩn, đường trung tiếp,
Xúc nhập Thiên đinh bất dụng nhiêu."

Nghĩa là
Sơn thế ngắn, mạch thong thả như từ từ lại, tụ ở trên cao – Khí ngưng lại, thì trăm
cái đều tụ hội, nên mới sinh ra người anh hào. Nên đặt quan tài ở chính giữa trung
tâm, để thấu hợp tiếp xúc gần cả bốn bên – Khi mạch đã thu tụ vào giữa rồi, thì
không phải dùng phép nhiêu giảm nữa, cứ theo thẳng thập đạo mà đặt quan.

3. Thuận trượng
"Điềm thiện thiều thiều thế nhuyễn bình,
Uy di khuất khúc hướng trung hành.
Khí tòng não nhập, quan tu chính,
Thuận trượng Tiên cơ diệu tại nghinh."

Nghĩa là
Sơn thế trông bình tĩnh, tốt lành, mềm dẻo, lần lần, lớp lớp kéo dài – Dắt díu khuất
khúc lượn đi mà triều bão vào trong – Khí theo vào đằng đầu, thì nên đặt quan chỗ
trung chính – Theo phép Thuận trượng của Cổ tiên, thì khéo ở chỗ biết nghinh sinh
hoặc nghinh lộc.

4. Nghịch trượng
"Long mạch tà lai bất hướng trung,
Lưu quy tá hữu trắc biên phùng.
Nghịch mạch tà lai nhĩ thụ khí,
Giá long, giá hổ thủ thành công."

Nghĩa là
Long mạch đi thiên thẹo, không triều vào giữa Tạt về bên tả bên hữu, gặp nhau ở

246
bên cạnh rìa – Đấy là Nghịch mạch tà chuyển, thì phải thụ khí ở bên tai – Vậy nên
đặt táng ghé gác vào bên long, hoặc bên hổ, thì mới thành công.

5. Một trượng
"Thể bình, diện mãn, mạch vi mang,
Pháp hữu khai kim thủ cố phương.
Khoát đại khai oanh trung một khí,
Thong tiền khai phát, pháp chân lương."

Nghĩa là
Sơn bình, mà diện thể phì mãn, thô xuẩn – Lấy phương pháp đời xưa: có cách khai
phá cái kim tinh ra – Mở cái oa thành rộng lớn, để thấu tới cái khí chìm lặng ở bên
trong – Mở cho phong quang phía trước là phải phép, thì được tốt lành.

6. Xuyên trượng
"Thế tủng, thũng thùy mạch bất thanh,
Hảo tầm uyển chuyển thốt vi sinh.
Y thốt hoành công, xuyên khổng nhập,
Phúc trung khí đắc phát tường trinh."

Nghĩa là
Sơn thế cao, mà rũ xuống thô xuẩn, không được thanh – hoạt – Nên tìm chỗ mạch đi
mềm dẻo và có lõm một chút, là sinh khí – Tựa vào chỗ lõm, đặt táng chặn ngang
mạch như dùi xâu vào bụng sơn, được cái khí tụ ở giữa bụng, thì phát phúc tốt lành.

7. Đấu trượng
"Long hoành yêu thượng, huyệt tinh đình,
Hảo hướng đình trung, tràng lạc tinh.
Thập tự phóng quan, hoành thụ khí.
Tiên nhân đấu trượng, hữu thùy năng?"

Nghĩa là
Mạch đi ngang trên lưng, dừng lại ở huyệt tinh Tốt hơn là đặt quan vào giữa chỗ
mạch đứng lại, mà gối vào chỗ Lạc tinh ứng ở đằng sau – Theo thẳng đường giây
thập tự mà hạ quan, thụ cái khí quay ngang ấy – Đấy là phép Đấu trượng của các vị
Tiền nhân, có ai đã hay bằng đâu!

8. Triệt trượng
"Thể miên thế trực, khí hành hành,
Bình nhuyễn trung gian, tất hữu đình.
Triệt tại long yêu kỵ mã tích,
Tế khan giáp nhĩ, dữ triều nghinh."

Nghĩa là
Sơn thế đi thẳng mà hình thế thấp, thuộc vào loại miên thể ( nằm dài), mạch còn
đương đi - Ở trong khoảng bình nhuyễn bình diện mà mềm dẻo), tất nhiên có khí
mạch dừng lại – Đặt quan chặn ngay chỗ lưng long thân, như là cưỡi trên lưng ngựa
– Nhưng phải xem kỹ ở chỗ giáp nhĩ và những cái triều ứng nghinh tiếp có thực là
hữu tình, thì mới phải huyệt lành.

247
9. Đối trượng
"Thượng cương, hạ tán huyệt nan thê,
Cương, nhu giao xứ khước vi kỳ.
Chỉ đương đối thử quan trung chính,
Phát phúc tu giao, cát bán chí."

Nghĩa là
Sơn thế phía trên thì mạch cứng, phía dưới thì mạch tản, khó có thể đặt táng được –
Phải tìm chỗ cương, chỗ nhu giao tiếp mà điểm huyệt thì mới là kỳ - Chỉ xem nó triều
ứng đăng đối ở đấy, chỗ nào là trung chính, huyệt cũng phát phúc lành, được một
nửa.

10. Đốn trượng


"Thượng bình, hạ cấp nhũ thùy tiêm,
Cao xứ tu tương đốn trượng thiên.
Sinh khí ký thừa, sát hựu áp,
Tam niên ngũ tải sản anh hào."

Nghĩa là
Cái sơn thế ở phía trên thì bình, phía dưới thì cấp, rũ xuống như cái đầu vú nhọn –
Nên đem phép – Đốn trượng mà đặt huyệt ở chỗ cao – Thế là cái sinh khí đã thừa
được, mà cái sát khí đã áp được – Vậy táng rồi, thì 3 năm hoặc 5 năm sẽ sinh ra
người tài năng anh dũng.

11. Xuyết trượng


"Kính thế xung lai bất khả hồi,
Tu tòng mạch tận tế suy quỹ.
Bán mạch, bán bình niêm nhất huyệt,
Xuyết trượng năng giao phát tự lôi."

Nghĩa là
Cái sơn thế mạnh cứng xông lại, thì chẳng nên ngó tới – Nên theo xem chỗ mạch tận
mà suy xét, đo lường kỹ càng - Ở nửa là mạch, nửa là bãi bình giáp nhau, đặt quan
dán sát vào chỗ đó – Thế là Xuyết trượng, hay khiến cho sự phát đạt mạnh dữ như
sấm sét!

12. Phạm trượng


"Khí lai hoãn nhược, tiêm đê thùy,
Nhược hạ đê bình khí tiện ly!
Hảo hướng mạch căn, sơ khởi xứ,
Phạm cầu cái hạ pháp tương nghi."

Nghĩa là
Mạch khí lại, chậm yếu, thấp dần dần xuống – Nếu hạ táng ở chỗ đê bình (bằng
phẳng, thấp), thì khí sẽ lìa mất – Tốt hơn là tới chỗ gốc mạch, mới khởi lên mà đặt
táng – Đó là phép Phạm trượng, cũng như phép Cầu thượng, hạ táng Cái huyệt.
Trên đây là 12 phép Đảo tượng, cứ suy xét mà làm cho đúng là được, chẳng cần hỏi
đến trăm, ngàn cách khác, vì chỉ khác là khác cái tên đặt ra thôi! Chứ phương pháp
không ngoài cái phép Đảo trượng, mà tất cả 12 phép Đảo trượng, 12 phép Lạc đầu,
36 phép Đảo ảnh v.v… cũng đều nằm trong 3 phép: Tiếp mạch, Thừa khí, Khí mạch
kiêm thu, đã kể ở đầu, mục Điểm Huyệt này rồi.

248
Cầu thiềm, Tiêm, Viên, Đại, Tiểu bát
Tự huyệt pháp đố quyết

Cầu thiềm là cái giọt nước ở đầu cái cỏ gianh của mái nhà, khi nó sắp đứt lìa ra, hình
nó thu tụ tròn nhu viên cầu nhỏ, nên gọi là Cầu thiềm, lấy cái đó là khí tụ, đem ra để
làm thí dụ.
Tiêm là cái đầu nhọn ở phía dưới, tức là chỗ thủy hợp khâm – Viên là cái đầu tròn ở
trên, nó phân thủy ra hai bên, hai cái; thủy phân ở trên, thủy hợp ở dưới không thể
thiếu một được. cần thiết là, trên phân ra hai bên mà chảy lại trước mặt, dưới thì
phải hợp lại với nhau rồi mới chảy ra hai bên cạnh tiêu đi.
Phải nhận rõ là chân hay giả, biết là Cơ, hay Ngẫu ( Cơ là lẻ, có một – Ngẫu là chẵn,
có đôi). Hễ thông hiểu được một sự, thì muôn sự sẽ suốt hết. Xem bản đồ đại khái
dưới đây:

 
Nhận định nhiêu giảm phân số

Vì những sơn thể, khai khác nhau, chỗ thì Tề khẩu ( khẩu ở giữa, hai bên cân nhau),
chỗ thì Trắc khẩu ( khẩu lệch về bên cạnh); tùy địa thế xuất khai, chứ không nhất lệ.
Trắc khẩu, tức là khẩu khai ở bên tả hoặc bên hữu, thế lai cấp, thì nhiêu hai (2)
phân. Tề khẩu, thì đặt táng ở chính giữa không có sát khí, thì không cần nhiêu giảm.
Nếu như Bạn cáp khẩu ( khai khẩu như miệng trai, miệng sò), thì lấy một bên sáng
sủa hơn mà đặt táng; nếu đầu não như răng lược xẻ kẻ ra, mà đặt chính chỗ ấy, thì
phải nhiêu tam phân ( là xê ra ba (3) phân, gối ra bên, chớ gối đầu vào chỗ có hình
hung ấy!). Chỗ sơn thế bình thản, thì đặt táng ở dưới chỗ cầu thiềm; nếu lai sơn cao,
thì phải đặt ở trên, xuyên thấu tới mạch, tức là đặt ở trong khẩu, tùy theo sâu hay
nông mà liệu độ cho hợp pháp. Đã kể rõ ở trên đầu mục, và đồ quyết cầu thiềm liền
đây.

249
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 20

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:02 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Hô hấp luận


Việt Hải

Hô hấp luận

Hô là thở hơi ra, Hấp là hít hơi vào.


Những tinh thể thuộc âm, là hút khí vào mà tụ lại, tức như là cái đột ở trong cái oa, là chỗ khí
chìm xuống mà là thực, nên gọi là Cầu, tất thị mạch cấp, đó là dương bao bọc âm, âm đã hít khí
vào thì phải dùng tiếp pháp, là tiếp khí, thì tới trên chỗ đột ấy mà đặt táng.

Những cái sơn thể thuộc dương, là thở hơi ra mà tản đi, tức như cái oa ở trong cái
đột, nó nổi lên mà là hư, nên gọi là Thiềm, tất thị mạch hoãn, đó là âm bao bọc

250
dương, dương đã thở khí ra, thì phải dùng nghinh pháp, là đón khí, thì tới giữa chỗ
oa lõm ấy mà đặt quan.
Biết được như thế là: thiên địa giao thông, âm dương hội hợp; nếu không hiểu thế,
thì không thể nói chuyện về địa lý được!
Vậy, tôi ghi vài bài thơ tổng yếu của Cổ tiên, và giải nghĩa để các độc giả ký tâm,
thâm thức:

1. - "Táng pháp chân ky hữu kỷ đa!


Tiên sự bất khẳng dữ huyền ca!
Hữu nhân hội đắc âm dương quyết,
Tiện thị: Dương, Tăng phục xuất ma!"
Nghĩa là:
Phép táng chân chính của Huyền cơ thì có rất ít, chứ không nhiều! – Đấng Tiên sư
chẳng ưng cho những bài huyền ca; chỉ truyền khẩu thôi! – Nếu có người biết được ý
nghĩa của phép lý khí âm dương – Tức là nhị vị Dương, Tăng lại xuất thế đó.

2. - "Địa lý thiên kinh vạn quyển ky,


Âm dương nhị tự thiểu nhân tri!
Tiên nhân diệu quyết vô đa ngữ,
Khẩu khẩu tương truyền phúc ký chi.
Tự cổ Tiên nhân tàng bí quyết,
Vu kim tiểu tử lộ huyền vi.
Đắc pháp, đắc văn, tính đắc quyết,
Tường tại kỳ trung tam lục thi."
Nghĩa là:
Về địa lý thì kể có hàng ngàn kinh, muôn quyển, bàn nói đến Huyền ky ( phép huyền
bí của thiên địa) – Nhưng có hai chữ Âm, Dương thì ít người biết được tường tận! –
Cái phép hay của các vị Cổ tiên thì không nói nhiều – Chỉ truyền khẩu, lại khẩu
truyền cho nhau mà nhớ thuộc lòng thôi – Từ xưa kia, các vị Tiên nhân vẫn giấu kín
những bí quyết – Về sau, những học trò các ngài mới tiết lộ những huyền vi ra – Đời
mới được biết phương pháp thiên văn, địa lý và bí quyết – Kể rõ ở trong 36 bài thơ
Đảo trượng.

3. - Âm dương Đảo trượng nhược năng minh,


"Khai tỉnh, phóng quan, lập táng thằng.
Yếu thức chuẩn tiêu thâm dữ thiển,
Hưu phao hậu tiếp, dữ tiền nghinh.
Tiếp nghinh nhược ngộ nan vinh hiển,
Thuận nghịch như sai, hữu phế hưng!
Học giả năng minh nhiêu giảm pháp,
Tiên tòng mạch lộ, nhận lai tinh."
Nghĩa là:
Nếu hiểu được cái lý âm dương, cái phép Đảo trượng – Và cách khai đào huyệt, đặt
quan, đặt giây theo đường thập tự - Cần biết cái lập tiêu chuẩn nông, sâu – Đừng bỏ
mất cái phép tiếp khí mạch ở sau, nghinh tài lộc ở phía trước – Cái phép tiếp, nghinh
này mà lầm lẫn, thì khó được phát phúc hiển vinh – Cái lý thuận, nghịch mà sai, thì
cái thịnh suy có biến cố - Học giả mà hiểu được phép gia giảm – Trước khi phải nhận
xém cái chân tình của đường mạch dẫn lại huyệt trường.
Bài trên nói về ý nghĩa hai chữ âm, dương. Bài này nói về pháp lý của Đảo trượng,
cũng do ở cái biết diệu dụng âm dương mà ra. Vậy, phép Đảo trượng trước hết phải
cắm một cây thẳng cao ở chỗ long nhập thủ ( mạch vào huyệt) làm tiêu chuẩn, rồi
tới chỗ minh đường là chỗ thủy hợp ở trước mặt, cắm một cây làm tiêu chuẩn. Sau

251
lấy dây dài kéo thẳng theo cái đầu trượng đã chỉ định, đối chiếu hai cái tiêu chuẩn ở
trước mặt, sau đầu đẻ lập hướng, tọa và liệu độ nông, sâu, lấy mức thăng bằng ở
chỗ huyệt, và đường thủy xem bao nhiêu thước, tấc cao, mà đào vừa tới chỗ mặt
nước, hoặc ở cao hơn, chớ nên sâu hơn mặt nước ở minh đường thì không kết, vì
nước thấm ngâm! Đấy là những phép hay của Đảo trượng.
Tóm tắt:
Đảo trượng là xét cái tình hình của đường mạch dẫn lại, thuận hay nghịch, để định
cái hậu tiếp, tiền nghinh, là nên dùng cái nào, bỏ cái nào. Nhiêu giảm là phép xê
dịch, ghé gác sang bên, một hai phân để mượn cái âm khí hút vào, hay dương khí
thở ra một chút. Cái lý ai sinh, khứ tử của phép phóng tống, là phải xem chỗ kết cục
ấy, bên nào dài, bên nào ngắn, thì đưa cái trượng nằm thẳng, lấy dây kéo thẳng
theo đầu trượng làm chuẩn đích mà định gia, giảm thì mới đúng, nếu không thế thì
gia, giảm sai! Không rõ chỗ phân, chỗ hợp thì rất là quan hệ, phúc họa do chỗ đó!

Hình đồ trên đây là giả thử bày ra một cục địa, phân định từng địa vị thuộc về các
con hay các ngành, các chi phái, dòng dõi của ngôi mộ, để xét đoán phước, họa v.v…
Ở khoảng trên chỗ tọa huyệt là Thiên trụ, gọi là Thượng đường, thì đoán về tuổi thọ.
Ở khoảng giữa, chỗ đặt mộ, gọi là Trung đường, thì đoán về số đinh (người). Ở
khoảng dưới, trước mộ, gọi là Hạ đường, thì đoán về tài sản ( tiền của).
Ở phía bên tả, từ chỗ giáp huyệt một trở ra ngoài, đến hết tay long, đều là địa phận
thuộc về một ngành con trưởng.
Ở phía bên hữu, từ chỗ giáp quan quách trở ra đến hết tay hổ, là địa phận chung,
thuộc về các ngành con thứ, từ 2 đến 10 hoặc nhiều hơn nữa. Cứ theo từ bên vai
giáp mộ đến chỗ giữa hướng, tùy số con nhiều, ít, tính chia đều mỗi ngành một
khoảng, đừng xâm lấn, rộng hẹp. Hễ phần vị nào có sơn khởi chỏm, thì đoán là
ngành ấy thọ; phần vị nào khoáng khuyết thì đoán ngành ấy yểu!
Về tiền tài thì xem đồ thức, chỗ nào có sa, có thủy, thì đoán ngành ấy giàu; không
sa, không thủy thì đoán là ngành ấy nghèo!

Phân phòng quyết


"Trưởng phòng huyệt tả khán cao đê,
Nhị phòng huyệt hữu bất khả di;

252
Dư phòng không khuyết, công lực bổ,
Không khuyết tu tri, yểu tuyệt nghi!
Tọa cơ vi ngại vô cốt thổ,
Tương lai ná đắc ban y vũ;
Cơ hậu tọa không, như nghưỡng ngõa,
Tu giao yểu tuyệt! định bất giả!
Minh đường, hướng án, chúng phòng chiêm,
Huyệt hữu quân tương, chúng phòng độ;
Nhược thị cao, đê, vô không khuyết,
Thọ dữ đinh, tài, khởi hữu ngộ!"

Nghĩa là
Đoán về ngành con trưởng, thì em chỗ thấp, cao, ở về bên tả, huyệt, tức là Thanh
Long – Về ngành thứ hai, thì xem về bên hữu huyệt, tức là Bạch hổ, nhất định như
thế, không thể di dịch! – Về các phòng dư khác, mà phận vị khoáng khuyết, thì lấy
công lực mà bồi bổ - Nên biết là không khuyết thì bị yểu tuyệt (chết tuyệt tự)! –
Chỗ, tọa cơ ( ở sau đầu), mà không có thổ hoặc núi đá làm chướng ngại vật để cản
gió, thì về sau, đâu có được ban áo múa! ( áo múa mừng tuổi thọ) tức là không có
người sống lâu ở hàng tuổi thọ! - Ở đằng sau mộ mà không khoáng, ngửa lên như
mái ngói rốc tuột nước đi, thì bị chết non tuyệt tự, không sai! - Ở đằng trước là
hướng, án và minh đường, thì xem đoán chung cả các nhàng – Ở phía bên hữu, thì
đem phân quân từng độ mà đoán cho các ngành con thứ. Nếu chỉ ở chỗ cao và chỗ
thấp hơn, chứ không phải là khuyết hãm ( trũng xuống) – Thì đinh tài và tuổi thọ,
vẫn đều khá cả, chớ có nhầm!

Tọa sơn quyết


"Sơn trung cơ địa thậm sầu đê,
Đê xứ vi cơ một phạn y!
Cơ nhược cao thời đa phú quý,
Âm dương định lý khởi sai di!"

Nghĩa là
Ở trong miền núi cao ( Sơn cốc) thì rất lo sầu! – Là ở đằng sau mộ, cái cơ địa ( chỗ
đất gối đầu) thấp khuyết, không có cơm ăn áo mặc là bởi chỗ ấy thấp trũng đấy! –
Nếu chỗ cơ ấy cao, thời giàu sang lắm! – Cái định lý của Âm Dương đâu có sai!

Sa quyết
"Thanh long bất tiếp, hướng sơn khuyết,
Trưởng phòng bại tán, nhân đinh tuyệt!
Thọ trưởng hữu tử, tại ngoại gia!
Kim ngân bảo ngoạn tán như sa!"

Nghĩa là
Sa bên tay long không tiếp liền dài ra trước mặt được, thì hướng bị không khuyết
không có sơn sa tác án – Như vậy ngành trưởng tán bại, người hết, của tan! – Nếu
thấy thọ, thì ngành trưởng ấy là con của ngoại nhân, hoặc bên họ ngoại phát về con
gái, con của vợ! – Nhưng tiền bạc, báu ngọc cũng tan như tro cát!

"Huyệt tả vô hộ sa, trưởng phòng định xuất cô!


Long hướng bất thông phong, trưởng phòng tích tài ông;

253
Huyệt hữu hộ sa sinh, Nhị phòng vượng nhân đinh,
Hồ hướng hữu khuyết hãm, nhị phòng bại tuyệt tán!"

Nghĩa là: Bên tả huyệt không có sa già hộ, thì định là ngành trưởng bị cô độc! Về
phía tay long, hướng, không bị gió thổi vào mộ, thì ngành trưởng phát phú ông, có
nhiều tiền của chứa – Bên hữu huyệt có sinh sa già hộ, thì ngành thứ vượng nhân
đinh ( nhiều người) – Nếu bên hổ, hướng, mà khuyết hãm ( thấp trũng), thì ngành
thứ hao tán, bại tuyệt!
Đã là tử sa ( cái sa chết) thấp lại thấp dần đi, thì có 1 người con cung bị yểu! Tuy là
sinh sa ( cái sa sống), nhưng lưng phản vào, mặt hướng ra ngoài, là biệt ly, thì có 1
người con, sau cũng bị tuyệt! Tuy là tử sa, nhưng mặt hướng bão lại, thì cũng có 1
con, nhưng mà thịnh vượng, sau cũng bị tuyệt tự! Đã là tử sa, mà lại phản bối biệt
đi, thì dẫu có 2 con rồi sau cũng tuyệt tự! Chỗ tọa huyệt là tử khí, mà thấy có hình
như đầu ngọn bút, tức là mũi nhọn, thì ngành này, ngành kia cũng đành chịu đau
khổ về đao kiếm mà bại tuyệt! Bên tả huyệt không có khí, thì ứng về ngành trưởng.
Bên hữu huyệt không có khí, thì ứng về ngành thứ. Đằng sau huyệt không có sơn sa
nương tựa che gió, lại không có khí; sau khí táng mộ, con chấu tất bị linh đinh! Trên
đằng vai mà sơn địa mỏng manh, gầy bé lại thấp, thì sau có người cùng khổ thiếu
cơn áo! Nếu là phì hậu, cao đại, thì tự nhiên con cháu hưng vượng và giàu đều. Chỗ
sơn thế tọa huyệt, mà đầu, chân, mình, đuôi đều thấy rõ cả, thì được ba đời nhất cử
đăng khoa! Đằng đầu cao, lại phì hậu, thì 1 người con cũng làm được chức Thượng
thư! Sơn địa gầy mỏng, nhưng thanh xảo,thấy cả thân thể và đầu đuôi, thì cũng sinh
người làm chức vụ khá giả. Nếu đầu đuôi long thân như ẩn hình, thì con cháu ngu
xuẩn, nhiều người mà hèn hạ!

Án sơn quyết
Ở phía trước huyệt có triều sơn, tức là án, nằm ngang thăng bằng như cán cân, thì
quyết định con cháu ngàn năm vẫn giàu sang. Ở phía trên đằng sau huyệt về phía
tay hữu, có triều sơn hình như lá cờ trận, thì con cháu làm về võ chức có uy quyền
cao quý lạ thường! Ở phía trước huyệt có nhiều sơn hình như thây người nằm làm án
triều, thì con cháu hay bị sa ngã xuống sông hồ chết đuối! Triều sơn lại đâm vào bên
tả, thì ngành trưởng chết ngả giữa đường, không chỗ tránh! Triều sơn đâm vào bên
hữu, thì ngành thứ cũng chết đường hoặc hổ cắn! Triều sơn như thây nằm xếp, thì có
một người giàu to, nếu nhiều hình như thây người nằm úp, thì được 2,3 người đăng
khoa. Trước huyệt có sơn liên tiếp làm án, thì làm quan to, có tiền của tích tụ! Nếu
án sơn hình như “ thức lệ trùy hung” ( xem hình đồ đã có kể), tức là lau nước mắt
khóc con! v.v… Đây kể đại khái thôi. Tóm lại, thấy sơn hình cao khởi đầy đặn thì tốt;
bạc nhược, mỏng manh và phản bối quay đi, thì xấu!

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Minh đường quyết


Việt Hải

Minh đường quyết

254
Thấy minh đường tốt, thủy tốt, sơn tốt, tức là đoan chính mỹ mãn, mà kết huyệt thiên
thẹo, phải đặt táng ở bên tả, thì ngành trưởng chỉ có 1 con trai; nếu đặt táng ở bên hữu, thì
ngành thứ không có con trai. Nếu không tà thiên, đặt được huyệt trung chính, thì cả hai
ngành đều được dài đời nối tiếp. Minh đường uốn khúc cong mà thủy tự như lòng bàn tay,
thì cả hai ngành đều giàu sang, lấy đấu đong vàng!

 
Sơn tốt, thủy tốt, minh đường tốt, thì tay trắng làm giàu, có nhiều ruộng, đặt
thành điền trang, phú ông thọ khảo. Minh đường có một chỗ khuyết, thì con
cháu “ y thực tuyệt”! Nghĩa là nước chảy rốc hết, thì cơm áo không còn! Nếu
minh đường sâu, có nước tụ, thì giàu bền v.v…
Đại khái mấy hình thức dưới đây, xem qua sẽ suy ra mọi cái, dầu khác nhau,
nhưng cùng tính bệnh.

Giải thích hình thức

HÌNH 1. – Về bên phía tả Thiên trụ, không khuyết sa, lại thấp ngắn, là tử khí,
nên ngành trưởng không có người tuổi thọ, sau mấy đời sẽ suy dần, rồi bị
tuyệt!
Ở bên hữu Thiên trụ cao, sơn sa lại phì hậu, dài, là sinh khí; vậy ngành thứ
người nhiều và thịnh vượng, sống lâu dài, bền vững.
HÌNH 2. – Tả, hữu Thiên trụ cao đều, nên cả 2 ngành trưởng và thứ đều được
thọ, nhưng về bên tả sa cao và liên tiếp dài ra đến hướng có án ở ngoài, nên
ngành trưởng đinh thịnh, tài vượng, là có nhiều tiền nhiều người. Bên hữu sa
thấp và không được dài ra ngoài hướng, là tử khí, nên ngành con thứ thua
kém ngành trưởng cả đinh lẫn tài.
HÌNH 3. – Thiên trụ cao, cả 2 ngành cùng chung hưởng phước thọ, nhưng tả
sa ngắn, cộc, là tử khí, nên ngành trưởng đinh, tài đều suy bại! Bên hữu sa
hộ vệ dài liên tiếp đến hướng làm án; vậy ngành thứ đinh tài đều thịnh
vượng bền lâu.
HÌNH 4. – Chỗ tọa huyệt, long thân thấy rõ cả đầu đuôi, chân, nên được 3,4
đời phát quý, đăng khoa cử làm cao quan. Về bên tả, sa phì hậu, thì ngành
trưởng phát quý trước; bên hữu đê bạc hơn, nên ngành thứ chậm phát quan
quý. Như vậy, quý hay phú hoặc đinh số đa, thiểu là do ở hộ sa, có hay
không, và cao hậu hay đê bạc, cứ thế mà xét đoán.
HÌNH 5. – Chỗ tọa huyệt tinh thể hiện rõ cả đầu, mình chân, tay, mà về bên
hữu lại cao và phì hậu, nên về phòng thứ hai, con cháu nhiều và làm quan
trước, lại thọ hơn. Bên tả đầu não thấp, nên đậu muộn và làm quan chậm, lại
không được thọ bằng ngành thứ, nhưng cũng được 3, 4 đời phát quý.
HÌNH 6. – Tuy nhiên trụ cao, nhưng trước huyệt không có dư khí, vì minh
đường sâu, ở giáp long thân gần huyệt, là “ khê thủy cát cước” ( nước khe
suối cắt chân long mạch!). Cả bên tả và bên hữu đều khanh hãm; vậy cả 2
ngành trưởng và thứ cũng tật bệnh thương tàn!
HÌNH 7. – Hình này khai kiềm, nhưng kiềm khẩu không thu khép lại được,
hai bên kiềm khẩu như tay ném gạo buông mở ra, là minh đường không có
cửa đóng, thì nước rốc tuột đi hết, là tử khí, tử đường hình thể lại thô ngạnh,
là cô diệu, không nên dùng!
HÌNH 8. – Hình này cũng tựa như hình số 7 trên. Hai bên tả và hữu xoạc ra,
là minh đường khoáng đãng, không có nước ở trong minh đường, chảy rốc đi
hết. Có câu quyết: “ Minh đường như bá mễ, tử tôn cùng đáo để!” Nghĩa là:

255
Minh đường như tay mở ra gieo lúa gạo, thì con cháu cùng nghèo đến tận
đáy!
Trên đây là đại khái, có mấy hình để nhận xét, sẽ suy ra trăm ngàn hình
khác. Xem hình đồ dưới đây!

256
257
258
259
260
261
262
263
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 21

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:05 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Bình Dương điểm huyệt pháp


Việt Hải

Bình Dương điểm huyệt pháp

Phép điểm huyệt ở miền Bình dương ( đồng bằng) so với miền Sơn cốc ( núi cao) thì cũng có cái
tương đồng, (cùng như nhau), cũng có cái bất đồng ( khác nhau). Cái tương đồng: Ba phép
chính: 1. – Tiếp mạch 2. – Thừa khí 3. – Khí mạch kiêm thu, thì nhất định ở miền nào cũng phải
chấp nhận như thế, không thể khác được. Những cái bất đồng đại khái như sau:

264
- Ở miền Sơn cốc, thì nên tọa cao, triều đê, là huyệt gối vào chỗ cao, hướng vào chỗ
thấp. Bên tả và bên hữu, đằng sau, thì nên bao vây cao kín và thủy triều ở trước
huyệt.
- Ở miền Bình dương, thì nên tọa đê, triều cao, là huyệt gối vào chỗ thấp, hướng vào
chỗ cao. Bên tả bên hữu và phía sau thì nên không khoáng, phong quang, thoáng khí
và tủy nên xung vào huyệt. Thật là hai phương pháp phản lại đặc biệt! lấy lý là: sơn
thuộc âm, thì nên dùng thuận đi, mà hướng vào chỗ dương, thủy thuộc dương nên
dùng nghịch lại, mà triều vào chỗ âm.
Nhận xét hai phép khác nhau này, chỉ nói vắn tắt có vài câu mà bao quát hết được ý
nghĩa của lý khí, rất là hay! Không cần phải diễn tả dài dòng như những sách khác,
mà thêm khó hiểu.
Trích lục mấy bài quyết về Bình dương:

Bính Dương quyết


1. - "Bình dương tạo huyệt dữ sơn phân:
Thời sư vô pháp mạc thiên phần;
Táng pháp nhược đồng sơn cốc lý;
Trảm huyệt nhân gia, tộc thuộc thân!"

Nghĩa là
Phép đặt huyệt ở Bình dương phân biệt hẳn với miền Sơn cương – Người không biết
phép táng, thì chớ nên làm thầy đặt mả - Nếu theo phép điểm huyệt ở miền sơn cao
– Là chém giết hết cả con cháu, thân thuộc dòng họ của người ta!

2. - "Sơn thuộc âm hề, Dương thuộc dương;


Cao khởi vi âm, đê thị dương;
Sơn cốc tàng phong, ci chân huyệt;
Dương địa phong suy, thị huyệt trường."

Nghĩa là: Miền sơn cao thuộc âm, miền đất bằng thuộc dương – Khởi đột cao là âm,
chỗ thấp là dương - Ở sơn cốc che kín được gió là chân huyệt - Ở Bình địa có gió thổi
là chỗ huyệt trường.

3. - "Loan đầu tinh thể mịch chân long,


Âm dương giao hội phối thư hùng;
Tàng phong, nạp khí vi chân huyệt,
Phong suy thủy kiếp thọ đinh cùng."

Nghĩa là: Thấy cái tinh thể ở đầu vòng cong ôm lại là chân huyệt – Âm dương giao
hội với nhau là Thư hùng – Phong suy thủy kiếp thì đa đinh sống lâu nhưng nghèo
khổ.

4. - "Giang hồ, hà hải tác Bình dương,


Phong thủy nguyên lai biệt hữu thành;
Tị thủy, tị phong chân tuyệt huyệt,
Phong suy thủy kiếp thọ đinh trường."

Nghĩa là: Ở miền gần sông ngòi, hồ biển là Bình dương – Phong thủy ở hai miền
nguyên lai có phương pháp riêng biệt để làm – Một đằng tránh nước xung, tránh gió
thổi là chân huyệt, rất tốt – Một đằng có gió thổi, có nước xung thì đa đinh, trường
thọ, là tốt, là chân huyệt.
Ở miền Bình dương so với miền Sơn cốc, thì hai phép đặc biệt phản lại:

265
Phép điểm huyệt ở miền Bình địa, thì lấy tọa hư ( chỗ thấp) thì thọ ( sống lâu), tọa
thực ( chỗ cao) thì yểu ( chết non). Bên tả bên hữu phóng không thì đa đinh, bao
vây lăng bức thì tuyệt tự ( chết mất giống). Hướng vào chỗ cao thì phát tài, hướng
vào chỗ thấp thì tán tài, hết của.
Vậy có bài quyết: “ Thượng đê, trung đê, hạ đường cao; thọ trường, đinh vượng phú
nhi hào”.
“ Thượng cao, trung cao, hạ đường đê; thọ đoản, đinh hy, vô phạn y”.
Nghĩa là: Cái thường đường thấp, cái trung đường thấp, cái hạ đường cao, thì đất ấy
sinh ra nhiều con cháu trai, sống lâu, giàu sang, tài giỏi.
Trái lại, nếu cái thượng đường cao, cái trung đường cao, cái hạ đường thấp, thì con
cháu ít và hay bị chết non, nghèo khổ, không cơm ăn, không áo mặc!
Vậy, lập huyệt cần phân biện xem ba cái đường: Ở phía sau huyệt là Thượng đường;
bên tả hoặc bên hữu huyệt là trung đường; phía trước huyệt là hạ đường. Hoặc là, ba
đường cùng ở trước mặt, thì cái nội đường ở gần huyệt là Thượng đường; cái ở
khoảng giữa là Trung đường; cái ở ngoài xa là Hạ đường.
Và có câu: “ Huyệt hậu cao, yển nan đào! Huyệt hậu đê, thọ hữu dư!”. Nghĩa cũng
như hai bài kể trên.
Phép ở Bình dương trái lại với phép ở Sơn cốc, nên bảo: “biệt hữu hành”. Chữ: “ bất
khạ phong suy” là bảo huyệt ở miền Bình dương. Tối kỵ ở phía sau và bên tả bên hữu
huyệt, có đột khởi cao che kín, tối hỷ: “ đê thản thụ phong”! là thấp phẳng để cho có
gió thổi, thoáng khí, chỉ có phía triều hướng ở trước mặt là nên cao thôi không cho
gió thổi lại trước huyệt ( trái với ở Sơn cốc là: Sơn cốc không kỵ gió thổi ở trước
mặt). Vậy có câu: “ Thiên trụ phong suy hữu thọ dã; Minh đường đôi tích vạn tư
sương”. Nghĩa là: Ở đằng sau đầu mà gió thổi thì lại thọ khảo ( sống lâu); ở Minh
đường là trước huyệt có đống cao đột khởi là đôi tích, thì có nghịch thủy, là thu ngoại
khí tụ lại, thì giàu có, của chứa muôn kho.
Thủy kiếp, là ở bản thân có lạch nước đâm ra, hãn mạch hẹp lại nên gọi là Thủy kiếp.
Thủy xung, là: cách một cái sông, mà ở bên kia sông có lạch nước triều lại, gọi đấy
là Thủy xung. Có thủy xung, thủy kiếp thì khí mới tụ và khí mới động, nên bảo: “
Giang hồ, hà hải vi dương đoán; Xung, Kiếp, phản, dĩ tác quan lan”, là ý nghĩa đó.
Xem họa đồ dưới đây:

Ở Bình dương không có thủy xung, thủy kiếp, tức là một phiến bình thản như tấm da
cứng phẳng là tử khí, thì lấy gì làm bằng cớ mà tìm huyệt. Nếu có cái binh kiếp ( lạch
nước hẹp) thì thủy lai hoàn bão; có cái binh xung ( lạch nước triều) thì thủy triều

266
củng. Có xung, có kiếp là giới thủy, chỉ long, có quan lan (ngăn cửa hãn nước) rõ rệt,
cũng như ở miền Sơn cốc có long hổ, sơn sa thì mới kết huyệt. Vậy, tất cả những chỗ
ở Bình dương mà có thủy kiếp, thủy xung ở trước, sau, tả, hữu huyệt, đều coi như là
ở Sơn cốc có tinh phong cao khởi, nó là thủy phong ở miền Bình dương đấy. Có nhiều
ngòi lạch nước xung, kiếp là nhiều thủy phong bài sáp hộ vệ, nên có câu: “ Huyệt
hậu hà thủy trực lai xung; tả hữu lưỡng bàng phú quý ông. Huyệt tả yêu biên sáp
nhất bút; trưởng phòng tử tôn tố Hầu bá. Huyệt hữu, yêu biên sáp nhất bút, nhị
phòng tử tôn tố Hầu bá”. Ở đằng trước huyệt có xung, có kiếp, gọi là Chấp hốt ( cầm
cái Hốt); ở bên tả thì phát về ngành con trưởng, ở bên hữu thì phát về ngành con
thứ; ở giữa trước huyệt thì các ngành đều phát.
Có bài quyết đoán: Tả chấp Hốt, trung thừa xuất, hữu chấp hốt, Ngự sử xuất. Diện
tiền sáp nhất bút, trung thần gián quan xuất, nhược giả sáp tam bút, Thượng thư cá
lão xuất. Những cái xung, kiếp ( lạch nước) ấy, ở đằng trước gọi là Hốt; ở bên tả,
bên hữu gọi là Bút, lại là Ngư đại; ở đằng sau là Tọa sơn, hết thảy những cái xung,
kiếp ấy nên ngắn, không nên dài, nên rộng, không nên hẹp; nếu hẹp mà thảng dài là
tiễn thủy ( cái tên bắn), thì rất là hung! nên tránh; ngắn và rộng mới là Hốt, là Bút.
Cái quyết bảo là Hốt và Bút, là theo cái tông tích của Cửu tử tinh thể mà tìm. Cửu tử
là Văn khúc, Tứ lục là Văn xương, Nhất bạch lả Tham lang. Những tinh này đều là
phát quý, nếu niên bạch hợp đến phương vị có Hốt, Bút thì năm ấy phát quý.
Nếu có cái chuôm, cái ao nhỏ ở gần trước huyệt thì tối kỵ! Vì hay sinh người dâm dục
và đui mù. Ở xa ngoài trăm bước thì không sợ phạm.
Trên đây là luận về Bình dương đã tường tận, chẳng qua là lấy lý ở Bình dương thì
long mạch ly Tổ sơn đã xa, long mạch khoan thư, và bình thản, không có sống tích
mạch, vì là thủy đã xuyên cắt đứt đoạn nhiều rồi, không còn dầu vết lộ ra, như là
một khu đất bằng trong khoảng ấy rộng độ chừng gần ngàn mẫu, dài không được vài
dặm, mà nhận long mạch rất khó, nên phải lấy thủy lưu hành hoàn bão, xung kiếp
làm chủ. Xưa đã nói: “ Lạc tại Bình dương mạc vấn tông, đãn quan thủy nhiễu thị
chân long” chính là nghĩa đó.
Đây là lý thuyết dĩ thủy vi long. Vì cớ là, ở đồng bằng phần nhiều là kết huyệt ở tận
trung tâm và đầu giác, chỗ thủy vòng câu hoặc quanh tròn như bàn long, có tiểu
thủy thanh huyệt ở trong, có đại thủy triền nhiễu ở ngoài, nhưng tối kỵ huyệt khoan
( chỗ kết huyệt rộng), hà khoát ( sông rộng lớn), vì huyệt khoan thì khí tản, hà
khoát thì thủy đãng, đều là không thành cách cục kết địa.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Hướng - Tọa - Minh đường


Việt Hải

Cái thuyết: Tọa đê, hướng cao, tả hữu phóng không nghe nói, thì ai cũng cho là quái lạ! nhưng
đã được nhìn thấy thì rất là thường tình! Cái chữ Tọa đê ấy, không phải là điểm huyệt ở dưới chỗ
thấp! Chỉ kỵ là, đất ở đằng sau huyệt cao hơn chỗ đặt mộ thôi, thì nên bình thản, thấp hơn chỗ
đặt mộ là tốt. Vậy bảo tọa đeê hướng cao ấy, không phải là huyệt ngồi ở dưới chân gò đống đất,
mà hướng ngửa lên đỉnh gò đống cao, như người ngoảnh mặt vào tường đâu!...

267
 
Hướng - Tọa - Minh đường
Tả - Hữu quyết

1. - "Sơn trung tọa cơ thậm sâu đê!


Đê xứ vi cơ một phạm y!
Cao nhược cao thời đa phú quý,
Âm dương định lý khởi sai di!"

Nghĩa là: Ở trong miền núi cao, thì rất buồn sầu là đằng sau mộ thấp – Chỗ thấp làm
chẩm hậu thì mất cơm ăn, áo mặc – Nếu được gối vào chỗ cao, thì con cháu giàu
sang nhiều lắm – Phép định lý về âm dương đâu có sai lầm!
Bài này nói về Sơn pháp để so với Bình dương.

2. - "Bình dương đê xứ, yếu tầm đê,


Tọa cơ đê hạ hữu dư doanh;
Cơ nhược cao thời cùng đáo để!
Tiên thiên chế định bất sai di."

Nghĩa là: Ở miền Bình dương là nơi đất thấp, thì nên tìm chỗ thấp mà làm tọa cơ ( ở
sau huyệt, là tọa cơ) – Chỗ tọa cơ thấp xuống, thì tiền của có đầy kho, dư dật – Nếu
ở sau mộ mà cao hơn, thì con cháu nghèo đến đáy! Pháp lý ở Tiên thiên đã định
không sai.

3. - "Huyệt tiền hướng cao, tiến kim ngân,


Huyệt hậu địa cao, chủ tuyệt nhân;
Phần tiền địa đê, gia tư sách,
Phần hậu địa đê thọ bách xuân."

Nghĩa là: Đằng trước huyệt cao, làm hướng thì vàng bạc tiến lên giàu bền – Sau
huyệt mà cao thì con cháu chết mòn hết! – Phía trước mộ đất thấp, thì gia tư điền
địa tán hết! – Đằng sau mộ đất thấp, thì thọ trường trăm tuổi.

4. - "Huyệt bàng tả hữu hộ sa cao,


Táng hậu nhi tôn tiệm tiêu hao!
Phần tả, phần hữu lưỡng biên đê,
Nhi tôn nhất cử tiện đăng khoa!"

Nghĩa là: Bên tả, bên hữu huyệt mà hộ sa cao ở gần huyệt – Thì sau khi táng, con
cháu tiêu hao, chết dần mòn! – Bên tả, bên hữu huyệt hai bên đều thấp hơn huyệt –
Con cháu thi một lần cũng là đậu cao, tên đầu khoa bảng.

5. - "Thời sư bất thức Bình dương quyết,


Tọa đê, hướng cao vi chính huyệt!
Đinh, tài lưỡng vượng, thọ khang ninh,
Bí truyền dữ nhân, thiết vật thuyết!"

268
Nghĩa là: Những hạng, dong sư không biết phép ở miền Bình địa – Là ngồi chỗ thấp
hướng vào chỗ cao – Thì người và của cả hai đều vượng và thọ, khang, ninh – Phép
này bí truyền, chớ nói cho người khác biết!

6. - "Thời sư bất thức Bình dương quyết,


Tọa cao, hướng đê nhận chính huyệt!
Nhược hoãn hữu nhân thiên táng thử!
Hậu đại nhi tôn tất chủ tuyệt!"

Nghĩa là: Các thầy thường không biết phép ở miền Bình dương – Cứ chấp nhận là gối
vào chỗ cao, hướng vào chỗ thấp, mà bảo là chính huyệt! – Nếu thấy có người đặt
táng như thế - Thì con cháu đời sau tất nhiên bị tuyệt diệt!

7. - "Bình dương minh đường cao hựu cao,


Kim ngân đôi tích mễ trần ngao!
Bình dương huyệt hậu nhất xích đê,
Cá cá nhi tôn, hội độc thư!
Bình dương tả hữu lưỡng biên đê,
Huynh đệ lưỡng cá, vi Thượng thư!"

Nghĩa là: Ở Bình dương mà minh đường đã ở cao rồi, lại cao lên dần dần nữa – Thì
nhà có vàng bạc chất chứa, lúa gạo mục nát trong kho - Ở Bình dương mà đằng sau
huyệt thấp xuống một thước – Thì con cháu đua nhau đọc sách – Huyệt ở Bình
dương mà hai bên tả hữu thấp – Con cháu sau, cả hai anh em làm Thượng thư!

8. - "Bình dương minh đường đê, ngoại cao,


Trưởng, thứ lưỡng phòng túc phú nhiêu;
Bình dương minh đường như chưởng tâm,
Các gia phú quý đẩu lượng kim!
Bình dương minh đường đê hựu đê,
Vạn lạng hoàng kim hóa tác nê!"

Nghĩa là: Ở miền đồng bằng mà có cái minh đường thấp, ngoài minh đường cao hơn
– Ngành Trưởng, ngành Thứ đều giàu có, đầy đủ, phong lưu - Ở Bình điền mà minh
đường như lòng bàn tay – Thì tất cả các ngành đều lấy đấu đong vàng! - Ở miền
Bình địa mà minh đường thấp lại thấp dần dần xuống – Thì nhà có muôn ngàn lạng
vàng, rồi cũng biến hóa thành đống tro bùn!

9. - "Bình dương phần hậu cao áp trủng,


Các phòng thoái bại nhân tuyệt chủng!
Bình dương tả hữu cao áp huyệt,
Huynh đệ lưỡng phòng nhân tất tuyệt!
Bình dương biên đê, nhất biên cao,
Phùng cao bại tuyệt, đê huyệt nhiêu!
Thủy ngoại cao: phú, đê bại tuyệt!
Sơn dữ Bình dương phản phúc suy."

Nghĩa là: Ở Bình dương mà phía sau mộ cao lấn áp mộ - Tất cả các ngành đều thoái
bại và tuyệt chủng, không người nói dõi! - Ở Bình dương mà hai bên tả hữu cao lấn
huyệt – Cả ngành Trưởng, Thứ đều hết người kế tự - Ở Bình địa một bên thấp, một
bên cao – Huyệt nào gặp phải bên cao thì bại tuyệt, gặp bên thấp thì hưng thịnh - Ở
ngoài chỗ nước tụ hợp mà cao hơn thì giàu, thấp hơn minh đường thì lụn bại! - Ở

269
Bình dương đối với Sơn cốc thật là mâu thuẫn, táng pháp bất đồng.
Cái thuyết: Tọa đê, hướng cao, tả hữu phóng không nghe nói, thì ai cũng cho là quái
lạ! nhưng đã được nhìn thấy thì rất là thường tình! Cái chữ Tọa đê ấy, không phải là
điểm huyệt ở dưới chỗ thấp! Chỉ kỵ là, đất ở đằng sau huyệt cao hơn chỗ đặt mộ
thôi, thì nên bình thản, thấp hơn chỗ đặt mộ là tốt. Vậy bảo tọa đeê hướng cao ấy,
không phải là huyệt ngồi ở dưới chân gò đống đất, mà hướng ngửa lên đỉnh gò đống
cao, như người ngoảnh mặt vào tường đâu!
Tọa đê hướng cao là: Thí dụ: như mạch ở đằng trước lại thì điểm huyệt cách đảo kỵ,
tất nhiên là chỗ mạch lai cao, thế hướng cao. Hoặc mạch ở đằng sau lại hoặc mạch ở
bên tả, bên hữu lại, đi ngang vào huyệt, mà ở phía trước huyệt có phiến ruộng thấp
làm minh đường, ở ngoài minh đường lại có đột khởi cao làm án, cũng là hướng cao
đó. Nếu không khởi cao tác án, thì minh đường không thu thập được thủy, tức là nội
khí tản. Tả, hữu phóng không áy là bảo: Ở miền Bình địa thuộc dương, thì tối hỷ là: “
Dương trung sinh âm”, âm là khởi đột, mà thấy nơi hậu đầu và bên tả hữu đều thấp,
thì bản thân chỗ huyệt ấy tự nhiên là khởi đột! mà câu: “ Bình dương nhất đột…”? thì
người ta đã thường biết, nay nói đến chỗ có huyệt như thế, là Bình dương nhất đột
rồi, thì ai không mừng! Vì là cùng với huyệt ấy rồi. Với câu : “Tả hữu câu đê”, nghe
nói thì ai cũng không chịu, vì còn hoang mang, chưa phân biện được thị phi! Nếu
được nhìn thấy địa hình như thế, là hậu đê, là tả hữu câu đê, là Bình dương nhất đột,
thì là thường, chứ có gì là quái dị!

Tác pháp nghi kỵ quyết

"Bình dương dương khí bất khả vi,


Thổ tác u thành, quan thụ thủy!
Thời sư bất thức Bình dương quyết,
Phản thử nhân gia đinh thọ hy."

Nghĩa là: Ở miền Bình dương, thì không nên bao vây kín cái dương khí – Nếu có đất
cao bao vây bưng kín như cái bờ thành u ám, thì quan tài bị nước ngâm, hài cốt nát!
– Thời sư không biết phép ở miền Bình dương – Cứ theo phép ở miền Sơn cốc mà
làm là phàn pháp ( trái phép) là giết hại nhà người ta, hao người! tán của! chết non.
Tất cả các huyệt ở miền đồng bằng, không nên đắp cao vây kín xung quanh mộ,
hoặc táng vào chỗ khai oa sâu thì hỏng, không kết mà sinh họa! Vì là dương, thì khí
nên thư khoáng, chứ không nên thu hãm, u ám!

Bình Dương tọa pháp luận


Hoặc vấn: Ở Bình dương khác với ở Sơn cốc là nên tọa hư, triều thực, cái ấy là lệ bất
dịch, nhưng cũng có chỗ có thể tọa thực, hướng hư là thế nào?
Đáp: Những chỗ mạch ở phía trước lại, hoặc mạch đi ngang bên cạnh đến, hoặc
mạch bình phô ra, thì đều nên tọa đê hướng cao.
Nếu mạch ở đằng sau lại, mà khởi tích cao, lộ rõ, thì cái ấy là Thiếu âm địa; ở chỗ
bàn âm, bán dương thì cũng theo như Sơn cốc. Nhưng, dùng phép tọa thực thì phải
có thủy tụ ở minh đường, và cũng có thể tọa cao triều đê được; đã có câu quyết: “
Diệc hữu hướng đê khả vi huyệt, chỉ nhân như thủy tụ kỳ gian” là nghĩa đó.
Những chỗ long mạch ở đằng sau mà lộ cao, là khí thuộc âm, thì đằng trước nên khai
oa, là xuất dương khí thì tốt, nhưng nên điểm huyệt ở chỗ cao, chớ có đặt táng ở
thấp, không hợp như phép ở Bình dương thì bị tuyệt tự! Ở Bình dương sợ thủy hoán
tán, vậy nên hướng vào chỗ cao và có nghịch thủy quy đường. Nếu ở chỗ thấp đằng
trước có nước tụ, thì không phải là hoán tán, sao lại không triều hướng và được!

Còn tiếp

270
Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 22


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 18:07 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Thiên Bình huyệt tổng luận


Việt Hải

Hiện nay, có nhiều người chỉ biết là ở miền Bình dương hay có đất quý, nên đặt táng, mà không
biết phép điểm huyệt, vẫn cứ theo như phép ở miền núi cao mà điểm huyệt, nên hay bị hỏng
nhiều! được ít! Mà thường cũng là cái may tự nhiên, chứ không hẳn đã phải là ở ngoài biết làm!

Thiên Bình huyệt tổng luận

Hoặc vấn: Đất ở miền Bình dương thấy có nhiều nhà bị tuyệt tự ( chết mất giống) là
bởi sao?
Đáp: Cái đó không phải vì huyệt ở Bình dương! Chính là lỗi ở người không biết phép
chọn đất táng mà cứ làm thầy, đặt huyệt bậy bạ!
Hiện nay, có nhiều người chỉ biết là ở miền Bình dương hay có đất quý, nên đặt táng,
mà không biết phép điểm huyệt, vẫn cứ theo như phép ở miền núi cao mà điểm
huyệt, nên hay bị hỏng nhiều! được ít! Mà thường cũng là cái may tự nhiên, chứ
không hẳn đã phải là ở ngoài biết làm!
Bởi vì, ở miền Bình dương đã là nơi đất thấp rồi, lại đặt huyệt vào chỗ thấp hơn nữa,
là chỗ đê trầm tuyệt mạch vô khí, nên mới bị họa diệt vong! Vậy nên phải tìm đến
chỗ đất cao hơn chung quanh mà điểm, thì mới là có khí mạch khởi động, thì mới có
huyệt kết.
Bởi cao, thấp ở đây, thường là chỉ hơn nhau một, hai tấc cũng là khởi cao, kém một,
hai tấc cũng là đê trầm vô khí. Nay thấy có người đặt táng ở chỗ lõm sâu như cái ao
cạn, mà bảo là tàng phong tụ khí thì thật là nhầm quá! Ở miền núi cao thì mới bàn
đến tàng phong! Chứ ở đồng bằng thì bất luận đến tàng phong, huyệt đặt ở chỗ bình
địa đã là đê trầm, huống chi thấp hơn chỗ bình thản nữa! thì huyệt ấy tránh sao khỏi
cái họa tuyệt tự!

Hoặc hỏi: Phong bất tàng, khí bất tụ thì sao?


Đáp: Ở Bình dương không cần bàn đến tàng phong, chỉ cần nói khí tụ thôi. Khí tụ, thì
thấy chỗ nào có thủy giới và có khởi đột ít nhiều,đều là có khí tụ. Đại để là: đất ở
miền Bình dương thì phong độ thản đi ( bàng phẳng, rộng lớn), ví như người ở nơi
khoáng dã, là ở giữa cánh đồng không, rộng lớn bốn phương đều quang đãng, không
có cái gì che cản, cả ngày trực tiếp gió bay, qua lại, mà vẫn mạnh khỏe như thường,
ít khi bị cảm! mà người ở trong nhà kín, chỉ có một lỗ hổng hoặc là cửa sổ nhả, bất
thần gió lùa vào, mà làm cho người phải thụ bệnh có khi không cứu chữa được! Vậy
thì đất cũng thế! Ở Bình dương tám phương quang đãng, núi non ở xa, tuy có gió

271
thổi nhưng không hại gì, mà còn nhiều chỗ có khí đúc kết thành chân long chính
huyệt, đầu là nơi đồng bằng khoáng dã, nhưng đầy sinh khí ấm mát,không thấy lãnh
khí xung lai, nếu có gió cũng tản đều cả, thoảng qua, nhẹ nặng như nhau, chứ không
thổi lùa mạnh như một luồng khe hở, ở miền núi cao, vậy chớ nên câu nệ! Cái tàng
phong là nói về những huyệt ở miền Sơn cốc, như là cái huyệt kết ở sườn núi có sinh
nhũ ( cái vú) rũ xuống, thấp sâu hơn xung quanh độ 5, 7 thước hoặc hơn trượng
không chừng, mà không bị phương nào khoáng khuyết thế mới là tàng phong tụ khí.
Nếu cái huyệt thấp như thế, mà ở miền Bình dương là đê trầm tuyệt khí mạch, thì
diệt vong chủng tộc!

Hoặc vấn: Như vậy thì cái huyệt Thiên trầm ở miền Sơn cương, không bị đê trầm
huyệt tự à?
Đáp: Không phải thế! Thiên trầm là bảo ở chỗ thấp, bốn bề vây cao thì không có
huyệt, và cái sơn bốn bề vây cao ấy, cùng ở bản thân của long sơn ở huyệt tinh nó
vòng tròn vây cao, là trầm huyệt thì không dùng được. Nếu ở miền Sơn cương, thấy
có long chân huyệt đích như thế, thì đâu phải là đê trầm, thì làm sao mà bị! Bởi là, ở
miền Sơn cương, những chỗ thấp là thấp hơn những cái cao ở đấy thôi, chứ so với
chỗ bình địa ở ngoài Bình dương thì nó là cao, mà những cái cao là sơn sa chứng ứng
bao vây ở ngoài, chỉ là cái loan hoàn hộ vệ làm tàng phong cho huyệt, tức là tụ khí,
mà cái bình địa ở trong miền Sơn cương, hẳn là chỗ xuất mạch mà khởi đột ở trên
những khoảng bình địa ở miền Bình dương ấy. Tóm tắt: Lấy một cái sơn kết huyệt ở
giữa những cái cao ở liền gần, thì là đê trềm.Nếu so với những cái cao ở bốn phía
ngoài xa, thì nó vẫn là cao, đâu phải là đê trầm! chỗ đê trầm ở Sơn cốc chỉ là chỗ có
suối, vực nước sâu hơn mặt ở miền Bình dương mới là đê trầm. Nếu thấy suố, vực
nước khô cạn mà bảo đó là tàng phong, hạ táng vào chỗ ấy, thì cũng bị tuyệt chủng!

Hoặc vấn: Tiên sinh bảo: xem long thì phải biết Tổ tông, nay thấy bản đồ ở Bình
dương nói: huyệt ở miền Bình dương đều không cần xem Tổ tông là thế nào?
Đáp: Đất cũng như người, phải có chủng loại, tộc phái sinh sản ra. Có Tổ tông, sau
mới có cha mẹ; có cha mẹ, thì mới có con cháu, chứ sao lại không Tổ tông mà có loài
người được! Người đã như thế! Đất cũng như thế! Bởi vì, long mạch ở trong miền
Bình nguyên đi xa kể có hàng ngàn dặm, rồi xuống miền Trung châu bình địa cũng
xa hàng ngàn, hàng trăm dặm, thường thường là phẳng một làn như tờ giấy, chỗ
khởi Tổ tông ở cách xa mấy chục dặm, hoặc mấy trăm dặm ở bên ngoài, đã biến tản
ra làm khu bình điền khoáng dã, cái cao, thấp chỉ hơn nhau thước, tấc không chừng!
Cao hơn một, hai tấc cũng có long tích, long thân, thấp kém một, hai tấc cũng là
thủy lộ, thủy trừ, mà là cốt nhục, là huyết mạch đấy.
Tục nhãn nhìn ở miền bình dương thường hoa huyền, mờ tịt, cả bốn phương, không
biết lai lịch của long mạch ở phương nào lại! Huống chi là còn những ngòi, lạch, hồ,
đầm mênh mang, ngang dọc tứ tung không thể nhận được!
Hoặc là ở trong khoảng mấy cây số ngàn, mới khởi đột vài cái gò đống rồi lại trầm ẩn
phẳng lì, không biết mạch đi về phía nào nữa! Thế mới có câu: “ Long hành địa
trung, mao tích vi lộ” ( Nghĩa là: mạch đi ở trong miền đất bằng, chỉ hơi lộ ra như là
đường vết lông mao mọc ở trên sống lưng thôi). Người xem địa đạo giỏi mới biết!
Không khác gì những người tìm vàng trong bãi cát, tuy vàng cát lẫn lộn, nhưng cái
tinh chất của hoàng kim vẫn hơi nhấp nháng sáng, khác với sỏi cát, người nào tinh
thì tìm được.
Những người không tinh tế về địa lý, thì cũng như là tìm ngọc trai dưới biển, chỉ thấy
nước biển mênh mang, không hiểu chỗ nào là ổ trai, vũng ngọc! Chỗ nào cũng mò,
thật là…!
Đại để Tiên hiền dạy, chỉ bảo là mạch đi ở trong miền Bình địa thì không mấy người
biết thôi! Chứ không nói rõ cái lý mạch hành địa trung như thế nào cả.Đây bảo xem
cái mao tích có thể thấy mạch đi, là cái lý rất minh bạch. Vậy cũng là do cái nhãn lực

272
của người có cái đồng tử ( lòng con người) tinh sáng, thì xem ra, nếu cái đồng tử bị
cái trần thế ( màng bụi) nó che bưng thì cũng khó thấy!

Hoặc vấn: Long hành ở trong miền Bình dương thường đi chìm ở trong đất, nên quý
hồ thâm tàng ( chôn sâu). Nếu ở gần chỗ đồng lầy, ruộng muối ẩm ướt, mà chỗ kết
huyệt lại ở giữa đáy thấp khác, nhưng ở gần chỗ ruộng muối ngâm nước, thì có sợ là
bất lợi cho huyệt không?
Đáp: Xét về âm dương, thì cái huyệt ở giữa đáy chỗ đất thấp là tuyệt diệt địa rồi! Xét
về lưu truyền, thì cái huyệt ấy lại càng sợ nữa! Nếu ở gần chỗ đồng lầy nước đọng,
mà huyệt để ở chỗ đất cao hơn ít, cũng cần phả khai thông hết đi, chứ còn đọng luôn
luôn cũng đáng lo! Nếu cao đặc biệt hơn cả từ phía lân cận thì mới được, mà huyệt
không bị đào sâu, nước không thấm vào quan thì mới tốt. Nếu huyệt đặt sâu bị nước
rỉ tới, thì rất là tai hại hơn chỗ nước ngọt thấm ngâm nữa!
Vậy điểm huyệt ở Bình dương cần phải ở chỗ cao ráo, và tùy địa chí mà quyền biến
chế nghi, chứ không thể chấp nhất được.
Cái hành long kết huyệt là do thiên tạo địa thiết, tực khắc có Tạo hóa khu xử, tự
nhiên thuận hợp với nhân tâm. Còn những chỗ long giả huyệt loạn, thì tự n nhiên là
không ứng hợp với pháp độ địa đạo, dẫu lấy nhân lực, nhân trí khôn khéo mà cải tạo,
để xu cát, tị hung, thì cũng chỉ đỡ được phần nào thôi, chứ chẳng phải là cát địa! Vậy
Kinh xích đình nói: “Thấp như ngưu tụy, pháp tức bất táng”! (Nghĩa là: Ẩm ướt như
lỗ mũi trâu, phép là không được táng)! Bảo cái ấy là “ Thiên ô huyệt” ( là lỗ dơ bẩn
Thiên tạo).

Hoặc vấn: Cái kiểu đất đệ tam Thiên bình gọi là Thái hồ tự tẩm, và cái kiểu đệ ngũ
Thiên bình là Thấp lỗ thư như, thì thế nào?
Đáp: Cái hồ rộng lớn, thấp mà đất cao, cái nước đọng nó ở xa, có chất đá tốt bền
chắc, mà đất khô ráo, chỗ ấy là Thiên tạo địa thiết.

Hoặc vấn: Cái cách đệ cửu Thiên bình: ở trong long hổ khẩu, sinh ra mảnh đá hình
như cái lưỡi! chẳng phải là bất hợp pháp độ à?
Đáp: Cái mà ở trên đầu ái tay long như cái lưỡi đá, lại cùng với đầu tay hổ gần nhau
thì hung! Nhưng chỗ ấy ở trên tay hổ nó cũng sinh ra một cái lưỡi đá, mà nó bao bọc
với nhau, đó là thạch diệu giao hỗ ( cùng hợp lại hỗ trợ nhau), thì không phải là hung
ác! Mà cũng chẳng phải là cái lưỡi nữa!

Hoặc vấn: Cái đệ thập Thiên bình, khong phải là đất đơn độc hay sao?
Đáp: Nếu cách giang khê mà không có sơn triền hộ là đơn độc! Nhưng chỗ ấy có sơn
ở ngoài triền hộ, thì không phải là đơn độc.
Những cái sơn sa hỗ trợ quan tỏa của đại địa, phần nhiều là cùng đi ra ngoài xa mấy
trăm dặm, mới biệt sinh ra cái viển sơn triều lại, làm giao hội với nhau, ở gần địa
phương kết huyệt, thì cái ấy không thể lấy, mà bàn với những cái thường pháp được.
Cái đất ấy là mộ Tổ của Lý Hiền Lương, đã phát năm (5) đời Chấp chính, 3 đời Tể
phụ, 4 đời Liệt hầu và hơn 40 người đăng đệ cao khoa. Cái lực lượng tối đại ấy, chính
là cái sơn ở ngoài hai trăm dặm làm hộ thác. Chỉ có một cái địa cục ấy, mà đã trải
nhiều năm, tưởng là địa khí tiêu tán hết rồi, mà con cháu đã ưng cho người ta lại
táng gần đó, là nhà họ Triệu đem hài cốt thân phụ đến táng ở phía trên chỗ long lai
của huyệt họ Lý, mà lại tốc phát đạt cũng như mộ họ Lý. Ngôi của nhà Triệu trung
Linh này, làm đến Khai quốc nguyên huân, sau lại được phối hưởng cùng Thái miếu,
tử tôn “ dữ quốc đồng hưu”! là những tước phẩm cực cao quý của triều xưa! Thật là
lần lượt trước sau, có một địa cục, đồng sơn thủy mà lưỡng mộ tương lân, cộng
hưởng đại phước, phú quý diên trường hãn hữu!

273
Hoặc vấn: Huyệt ở miền Bình dương không nên táng ở chỗ đê trầm lầy ướt, phải
chọn nơi đất cao khô ráo, chỗ đơn long thì xem sơn sa ở ngoài hỗ trợ v.v… đã được
nghe chỉ giáo nhiều rồi. Còn như cái đất, là chân long, mà đến chỗ đại tận ( là chỗ
cùng tận cộc sơn) mà huyệt thế lại đê trầm! Bỏ thì tiếc, mà dùng thì sợ tuyệt! Vậy có
thể lấy hay đừng?
Đáp: Có một loại là tuyệt long, chỉ làm cái hãn thủy khẩu cho cái chính huyệt ở bên
trong, mà nó hội tụ giao kết, tất như tân long, nhưng huyệt trầm vô khí, đặt táng thì
tuyệt diệt! Cũng có chỗ 3, 4 chi long mạch đều theo từ mấy chục dặm ở ngoài xa lại
giao hội, mà lại có hai dòng sông làm giới thủy cắt một chi chính mạch ở giữa hai chi,
ở chỗ như thế là đại tận, hoặc làm gò đống, hoặc làm con quy, con xà đều ở gần chỗ
huyệt và lại ở bản thân của chính huyệt xuất hiện làm La tinh trấn thủy khẩu, trông
thì ai cũng phải mừng, nhưng cái thế nó đê trầm, chỗ quá long xem cũng mơ hồ, mà
cái triều ứng cũng nghi hoặc! Xem thấy, như có ở đằng trước, thì đằng sau không!
Định gối vào phía sau, thì phía trước không! Được sơn thì hỏng thủy, được thủy thì
hỏng sơn! Hoặc trông sơn thủy tứ phía đều có thể lấy dùng được cả, mà không biết
theo cái nào là phải, mà lấy làm sơn thủy để tác dụng, không lấy gì làm bằng cớ để
đặt táng! Như thế là chỗ long tuyệt, chứ không phải là chỗ long tận. Cái tận với cái
tuyệt tương tự, nhưng thật khác: Phải nhận xét kỹ mà phân biệt, chớ nên vội vàng
hồ đồ!
Cái tận long, là cái long sơn đi đến chỗ sơn tận cùng, nhưng còn có dư khí phô ra
hoặc lan rộng, hoặc thè lè hẹp vừa vừa, tựa như cái đệm, cái thảm ở liền với chỗ tận
sơn, chữ gọi là: Nhân lậu, ở dưới cái nhân lậu ấy đê trầm ( thấp trũng), nhưng ở
ngoài khoảng thấp trũng ấy, còn có đất cao khởi đột làm long hổ sa hỗ trợ, hộ vệ, thì
chỗ ấy là tận long, thì có huyệt, nên đặt táng.
Cái tuyệt long, là cái long sơn đi thấp dần dần từ cao xuống hạ đến chỗ tận sơn
( cùng cộc) thì đê trầm, không còn dư khí xuất hiện gì cả, tả hữu cũng không. Chỗ
như thế là tuyệt long, tuyệt khí, nếu ngộ táng thì tuyệt tự!

Hoặc vấn: Cái đệ thất Thiên bình, sao lại bảo là Tổ tông bất cát?
Đáp: Hỏa tinh làm Tổ tông, vốn là lộc tinh ( loại hành tinh chủ về tài lộc) nhưng vì
khuyết liệt, vỡ lở lại trắc diện ( mặt lệch nghiêng về bên cạnh), lại là cái Tổ tông thụ
sinh, nên bảo là hung ( Thụ sinh, là do ở cái khác phân phối sinh ra, chứ không phải
tự mình làm chủ). Bài trên này là tổng luận về cái Thiên bình huyệt, là cái huyệt ở
miền Bình dương ( ở nơi đất bằng, thuộc dương nên gọi là Thiên bình), tức là mười
(10) cái huyệt, Tổ mộ của những địa gia danh địa ở Trung Hoa thời xưa. Đã có bản
đồ ở mục Bình dương Tầm long, vậy chỉ phụ lục lý luận để nhắc lại mục này cho tiện
việc tra cứu về phương pháp điểm huyệt ở miền Bình dương.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Ngụ hình luận


Việt Hải

Ngụ hình luận

274
Long mạch dẫn xuống miền Bình dương đã phân tán, trải qua nhiều khu bình điền khoáng dã, thì
toàn thuộc dương cả vì là cái thế nó bình nên lưu thông thư hoãn, khí nổi, mạch nông.

 
Có thủy để hòa dưỡng, nhưng không nhiều thực chất ( tức là đất, đá) để buộc giữa
nó làm cái thế hùng hậu, nên cái hình dạng long mạch phần nhiều là vi đê, xem như
là bạc nhược, long mạch đi như phơi mở ra, cái dài thì uốn vươn ra tựa như cầu vồng
rũ xuống, ngang thì như cái cán cân thăng bằng, hình cong thì như cái vòng cung,
cái thẳng như sợi chỉ tơ kéo dài,hình vuông thì phẳng như cái thảm, cái chiếu giải,
hình tròn thường như cái vành mâm, hoặc như lá sen, hoặc như hình con rồng uốn
khoanh, hoặc hồi chuyển như lưỡi câu, hoặc gãy khúc như cái thước gấp, hoặc nhô
hình như con rùa, con giải nằm trên bãi bùn lầy, hoặc như con le, con cò bơi ( con
hải âu) lềnh bềnh trên sông nước v.v… đây là những cái hình lộ ra rõ, gọi là Thiếu
âm, do địa khí xuất. Còn những cái ẩn hình như lén lút vào trong khu bình điền, mất
tông, mất tích, không biết có phải đích mạch hay không! Rồi lại thấy ở xa xa đột lên
lổm nhổm mấy gò đống như mã tích v.v…đã diễn tả nhiều chỗ ở mục Tầm long.

275
Điểm huyệt, thì nên tới xem những cái khởi đột đặc biệt lớn, hoặc đặc biệt nhỏ, hoặc
thấy nó thu, hoặc nó củng ( ôm cong) tựa như vẩy cá, so le, tầng tầng, lớp lớp như
làn sóng nước tiến đi, hoặc giăng rộng như cái màng lưới nhện, hoặc thu gọn lại uốn
cong nhu cái vòi ( mũi) con voi, hoặc sừng trâu, hoặc khai kiềm như càng cua, miệng
nanh con rết v.v… đều là thể dạng thuộc dương và có khí động, biến thành hình thể,
hoặc khai khẩu, khai thủ, hoặc vi vựng kết huyệt. Nếu thấy có giải rộng gợn cao lên,
hoặc có những lạch nước ở ngoài hội hợp triều bão, hoặc triền nhiễu trừ tụ, tức chỗ
ấy là mạch chỉ, thủy giao, khí tụ; hễ thấy hữu tình hợp lý là chân long, đích huyệt,
tùy cục thế mà điểm huyệt, theo như phương pháp ở Bình dương là được.
Xem các đồ hình như trên:

Giải thích kết huyệt

Cái kết huyệt ở miền Bình dương khó có thể mà cầu hình được, vậy không lấy cái đại
lược mà nói, thì như là bắt gió, nắm bóng! Vì cái hình thể nó không xuất lộ hoàn toàn
như ở miền Sơn cốc, và ít chỗ có chi cước thò ra, thường thường là đơn sơ vi đê, chỉ
lấy chỗ cao hơn ở nơi đó, và có động, lại có thủy trừ, là kết huyệt. Có động, là nói:
mạch hơi chuyển động như lưỡi trai, hoặc khai tiểu khẩu, vi kiềm, hoặc như hà tu
( râu tôm) thủy thiển v.v… chỉ cao, thấp, hơn, kém phân, tấc thước chẳng hạn. Lấy
cái sa thủy ở ngoài hội hợp triều lại làm chứng ứng mà điểm huyệt, chứ đừng chấp
nệ là phải có thành hình gì, không có hình kết huyệt, cũng phát đạt to! Đại khái như
những đồ hình lược họa ở trên mà suy ra trăm ngàn cái khác.

Lược giải ý nghĩa danh tự, hình đồ


1. – Hồng thùy, là cái long thể nó buông rủ dài, và uốn cong tựa như cái cầu vòng,
nên gọi: Hồng thùy.
2. – Xà bãi, là như hình con Rắn nó trườn ra, hoặc dài, ngắn, nhiều tể dạng.
3. – Hành bình, là cái hình thể nằm ngang, thăng bằng như cái cán cân, tức là mộc
tinh nằm.
4. – Cung mãn, là cái hình thể cong như cái khung nỏ, trong vòng cung khung có dư
khí phì mãn, nảy nở thè lè ra, nên gọi là Cung mãn.

276
5. – Du ty, là hình như sợi tơ kéo dài ra, nếu được cái thế dài và quay ngang, rộng
lớn thì tốt.
6. – Duệ huyền, là hình như cái dây đàn kéo thẳng, cũng như Du ty ( Huyền là cái
dây đàn). Nếu khỏi lên như bãi châu thổ rộng lớn, mà có mạch như thế, thì lực lượng
trọng hậu, rất tốt.
7. – Phô chiên, là hình như cái mền, cái đệm giải rộng ra, nếu ở giữa hơi trũng xuống
mà lại khởi cao lên một chút, thì càng quý, thế là dương trung biến âm, âm trung
hóa dương, nhưng cũng ít có như thế, huyệt nên đặt ở giữa chỗ cao.
8. – Hà bàn, là hình tròn như cái mâm, hoặc như cái lá sen ngửa lên, tròn mà rộng
thì khí tụ nhiều, nhỏ hẹp thì khí tụ ít. Nếu đằng sau cao hơn, nghiêng về đằng trước
thì tốt hơn; nếu thiên về cạnh đằng sau thấp, thì lấy giữa làm đích. Bốn mặt đều
bằng, thì nên có ứng lạc chu toàn, hoặc có gò đống nhỏ chứng ứng, hoặc có nước
như gương chiếu thì hay.
9. – Quy miết, là hình như con Rùa, con Giải, nếu đột cao như gò đống là “ Phù quy
đặc lộ”, nếu là ruộng cao ít chút là “ Trầm quy vi lộ”.
10. – Ngư, là hình như con cá, có nhiều loại cá, tùy hình cá khác nhau mà nhận định.
11. – Phù, là như hình loài côn trùng, thân mình dài và uốn cong, nhiều thể dạng.
12. – Loa, là hình như con ốc sên ở trong vỏ bò ra, còn đội xác ở một đầu.
13. – Bạng, là hình như con Trai, con Sò.
14. – Bàn long, là hình như con Rồng uốn khúc vòng khoanh như vành mâm, nên gọi
là: Bàn long.
15. – Thùy câu, là hình như lưỡi câu rũ xuống, vòng câu lại, nên gọi là Thùy câu.
16. – Ngư lân, là hình như vẩy cá, là long mạch gợn lên cong cong một chiều, lần
lần, lớp lớp, theo nhau như xếp vảy, nên gọi là: Ngư lân.
17. – Ba lan, là mạch đi gợn lên như vành sóng nước, hàng hàng lớp lớp, đuổi theo
nhau như cuốn đi, tức là thửa ruộng cao, thấp nằm ngang, từng đợt mà đi theo chiều
dài, có tống, có thu, đến chỗ ngộ thủy thì khởi đột, hoặc khai khẩu, khai kiềm cũng
tựa như hình Ngư lân. Nếu lần lần mở rộng to thêm ra, là hậu khí thì tốt.
18. – Thù võng, là mạch lai như hình lưới nhện, có củng, có thu như hình 1, không
củng, không thu như hình 2, tùy theo chỗ củng, thu mà điểm huyệt ở giữa khoảng
ấy.
19. – Tượng tụy, là như hình mũi Voi, thì tới chỗ vòng quay lại, hoặc chỗ phì mãn
hơn mà điểm huyệt hoặc chỗ thủy ôm lại hữu tình là đích.
20. – Giải kiềm, là hình như con Cua mở càng, hay như cái gọng kìm, thì điểm huyệt
thừa khí ở bên rìa, cạnh mắt, hoặc ở chỗ thủy ôm ở gần; nếu thế quân bình, mà ở
sau rộng lớn, thì nên điểm ở chính giữa chỗ thoát mạch, như là ở trước miệng phun
nước bọt ra, gọi là Phún thóa huyệt, hoặ như là thè cái đầu môi tròn, thì cũng điểm
huyệt ở chính giữa, bất tất phải lấy ở bên cạnh.
21. – Ngô khẩu, là hình như cái miệng con Ngô công ( con rết), thì điểm huyệt ở chỗ
trám huyền, thừa khí ( gần giáp chỗ đường dây đàn uốn cong). Nếu miệng mở rộng,
thì nên điểm thoát mạch, thừa khí.
22. – Thừa kim, là như hình kinh tinh, mạch tản rộng ra, hoặc như cái oa ngửa lên,
thì nên đắp một đống đất to mà táng ở trung tâm thừa khí, đại ước là cái huyệt ở chỗ
dương, nổi lên cái nấm đất, là sinh âm.
23. – Tương thủy, là cái hình thể như làn sóng dốc nghiêng, thì lấy ở chỗ khai khẩu
rộng và tròn, điểm ở trên chỗ bình diện, đại ước là bán âm, bán dương ở chỗ thủy
nội lại thừa kim, là tương hàm tương sinh, nên gọi là Tương thủy.
24. – Huyệt thổ, là hình thổ tinh, thì điểm huyệt ở giữa, nên khai huyệt sâu, để
thông địa khí mà không đắp mộ cao, phép của Huyệt thổ như là: nhũ mạch thô đại,
thì dương khí thâm tàng ( khí tụ ở sâu), huyệt nên đặt sâu, để khí quán quan, mà
không nên đắp đất, nếu đất cao dày thì khó phát.
25. - Ẩn mộc, là hình thể nhu mộc tinh, đằng sau tiếp, đằng trước nghinh, nhận cái
sơn mà mạch tiếp tục, gọi là An mộc. Nếu mạch đi tán loạn nhỏ bé, thì Ẩn mộc vi

277
tục, là điểm huyệt ở gần chỗ nối tiếp vào mộc tinh cũng không bị tổng thương, nên
gọi: Ẩn mộc ( tức là in dán vào mộc tinh).
26. – Khai kim, là như hình kim tinh to lớn, khí tụ rộng, thế khoan, thì nên khai phá
ra như cái oa khẩu ( là cái hố rộng lớn, tròn) mà đặt táng rồi ở giữa cái oa ấy, tức thị
“ biến âm vi dương” là phép khéo tác dụng. Vậy bảo: “ Khai tạc hữu nhất định chi
pháp”, “ Dong kết vô nhất định chi hình”, “ Khả y pháp, bất khả y hình”.
Nghĩa là: Không hay có cái hình nhất định đúc kết, nhưng có cái phép nhất định phải
khai tạc ( mở đào) vậy thì theo phép, chứ không theo hình.
27. – Củng lai, là cái hình khum khum cong ôm lại, gọi: Củng lai.
28. – Thu lai, là cái long mạch đi thu gọn lại như thè môi, cũng tựa như hình Ngư
lân, đều là khí động cả. Nếu dương tròn mà thấy có cái góc vuông, cái vuông là khí
tĩnh, thì kết huyệt ở chỗ vuông ấy.
29. – Ngư lân, Ngư lân ở cuối cùng này đại khái cũng như những hình Ngư lân trên,
tùy địa xứ, địa hình, địa vật mỗi chỗ khác nhau, đâu có một thể được. Tất cả các
hình trên đều phải có sơn sa thủy lộ ở ngoài hội hợp, hỗ trợ thì mới là cát huyệt, nếu
không có là cô đơn huyệt, thì không phát bền lâu.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 23

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:11 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Khai khẩu luận


Việt Hải

Khai khẩu luận

Những cái hình thể ở miền Bình dương thì phần nhiều là thấp và nhỏ, nhưng cũng có hiệu lực
quý lắm! Hễ thấy có mở tách ra hai bên, dầu rộng, dầu hẹp cũng gọi là khai khẩu ( nghĩa là: mở
miệng, há mồm), ngắn gọn gọi là khai khẩu, dài gọi là khai thủ ( mở tay) hoặc khai kiềm ( mở
gọng kìm).

278
Những chỗ như thế, đều là do khí mạch hoạt động mà xuất hiện, có hoạt động mới là
có sinh khí, có sinh khí mới có kết huyệt. Đại khái như mấy cái hình đồ ở trên, nhận
thấy nó tựa như cái vật gì, thì đặt tên nó là cái ấy, thường thường có hàng trăm ngàn
vật loại khác hình dạng, không thể vẽ hết được. Vậy, hễ thấy nó giống cái gì, thì tùy
ý tự đặt tên ra mà gọi, chứ chẳng có gì là nhất định cả.

Phụ lục bình nguyên luận


Các nhà bàn về đất ở Bình Dương
Họ Lưu nói: Ở miền Trung nguyên trăm dặm, ngàn dặm đều là đất bằng, tuy có hình
cao, có thể tìm long mạch, nhưng không có huyệt để hạ táng, vì long mạch ùn ùn
khởi phục, cũng thấy có chỗ tưởng là tác huyệt, nhưng đến nơi thì không nhận định
được tông tích ở phương nào lại, chỉ xem cái thủy nó khúc chiết như thế nào thôi.
Nếu thủy nó hoàn nhiễu, ngăn chặn ở đầu huyệt thì dễ thấy, không thế, thì thủy
cũng phải ở trước, hoặc ở sau, huyệt phải tương đương ở chỗ thủy nó vòng cong,
hoặc gãy khúc ôm lại đó, thì mới phải là phép dịnh huyệt, nếu không có thủy tụ, thì
dẫu có huyệt cũng chẳng phải là chỗ long mạch tận xứ, thì không đích hẳn là huyệt ở
đấy! Vì theo như thủy pháp ở chỗ thủy hương, thế là mất rồi, là bất hợp pháp!

Huyệt pháp ca
"Bình địa hữu đột; khí dũng, nhi sinh.
Tuyệt thắng vạn nhận: Tiên nhãn nan minh.
Chỉ quan thủy thế; Tiện kiến chân tình,
Thủy như bất nhiễu; Huyệt pháp nan bằng."

Nghĩa là: Ở nơi đất bằng mà có đột, là khí ở dưới vọt lên, mà là sinh khí – Tốt hơn ở
miền núi cao ngàn đợt; nhưng mắt Tiên, Thánh cũng khó mà nhìn rõ! – Chỉ xem cái
thủy thế; mà thấy cái chân tình thôi – Nếu thủy không ôm quanh lại: huyệt pháp
không lấy gì làm bằng cớ.
Họ Quách nói: Ở miền Bình dương táng đỉnh chỗ cao, lấy lý là mạch ở đất bằng thì
nên ở chỗ khởi vi đột, là “ dương lai âm thụ” mới là kết huyệt. Nếu không đột, thì
phải khai kiềm, khẩu mới là có huyệt. Vậy bảo: “ Bình địa bất khai khẩu, Thần Tiên
nan hạ thủ” ( Nghĩa là: Ở nơi đất bằng mà không khai khẩu, thì Thấn Tiên cũng khó
có thể ra tay điểm huyệt).

279
Thủy Dương huyệt quyết
"Giang hà chỉ khán mạch vi tiên,
Long đoản thùy tri hà để liên;
Tầm điạ hưu hiềm mạch khí súc,
Văn tinh nhiên phiếm bích ba tuyền;
Tiểu chu trục lãng đầu giang điểm,
Cô nguyệt trầm giang, giác thượng thiên;
Như phùng mãm nguyệt, trung tâm thủ,
Ngọc xích yêu chính lưỡng đầu liêm.
Lý được long môn đại tạo hóa,
Huyệt cư mục khẩu bất tu ngôn;
Hà điệp liên hoa tâm lý mịch,
Như noãn, như kiển, thủy trung miên.
Huyệt pháp tùy biên âm xứ thị,
La thành thủy nhiễu, phúc miên miên;
Thu sinh, xuất sát, hướng trung thủ,
Huyền trạch chiêm nhu, đoạt Trạng nguyên.
Phu phụ hành long tiết tiết lai,
An phần, lập huyệt, nhẫm quân tài;
Huyệt tài hợp đắc long lai thủy,
Phú quý hà sầu sự bất hài!"

Giải nghĩa
Ở chỗ gần sông ngòi chỉ cần xem mạch làm trước hết – Long mạch ngắn, nhưng ai
biết là nó liền với đáy sông – Tìm đất đừng hiềm khí mạch hẹp – Tuy hẹp thế, nhưng
mà như ngôi Văn tinh nổi lồng bồng trên mặt sóng nước suối biếc – Như cái thuyền
con đuổi sóng, thì điểm huyệt ở khoảng đầu – Hình như Cô nguyệt ( mảnh trăng cô
đơn) ở vũng nước bao vây, thì điểm huyệt ở trên góc cao – Nếu gặp được vầng trăng
tròn vẹn đầy đặn, thì điểm ở trung tâm vầng nguyệt – Hình như Ngọc xích ( thước
ngọc, ngắn hẹp) thì điểm ở chính giữa khoảng ngang lưng, kiêm cả hai đầu. Hình
như con cá chép vượt Long môn, là cá hóa rồng, tức thị tạo hóa an bài đại địa, thì
huyệt ở mắt và miệng, không cần bàn nói gì nữa! Hình như lá súng, lá sen thì ở
huyệt trung tâm – Hình như quả trứng, tổ kén ( bọc con tầm) nằm ở giữa vũng nước
– Theo như huyệt pháp, thì tìm ở bên nào là chỗ âm, là phải huyệt – Chỗ có thủy
nhiễu La thành, là nước vòng quanh ở ngoài như bao bọc bờ thành, thì đất phát phúc
lâu dài - Ở giữa hướng mộ, thì phải thu cái sơn thủy tương sinh, tránh cái sơn thủy
tương khắc, là thu sinh, xuất sát – Nếu có cái đầm, cái suối, hình khuất khúc như
chữ Huyền ( ) , có nước thấm nhuần lưu tụ, thì cướp được Trạng nguyên ( đỗ Khôi
nguyên) Long mạch bác hoán nhiều, tiết cao, tiết thấp, là âm dương biến hóa, nên
gọi: Phu phụ hành long, hoặc thư hùng giao hợp thì quý lắm – Ngươi nên nhớ, chỗ
đó mà lập huyệt, đặt nền nhà – Huyệt vừa hợp được long, lại hợp cả thủy, thì sự giàu
sang, lo gì đến cái chẳng hài lòng?

280
281
Còn tiếp 

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Giải đóan Thủy Dương huyệt


Việt Hải

Thủy thế phân tả hữu đều chuyển hồi như vòng câu, bên tả câu là tốt thượng hạng, bên hữu câu
là thứ hạng, bởi bên tả là chân khí ( khí phương đông) quý trọng hơn, vậy sinh ra người có mưu
lược uy quyền làm nên sự oanh liệt vĩ đại, nhưng về sau thường có con nuôi kế nghiệp, là vì có
Ất phương tạp khí.

 
Giải đóan Thủy Dương huyệt

1. – SONG CẦU THỦ DỤNG ĐỒ: Thủy thế phân tả hữu đều chuyển hồi như vòng
câu, bên tả câu là tốt thượng hạng, bên hữu câu là thứ hạng, bởi bên tả là chân khí (
khí phương đông) quý trọng hơn, vậy sinh ra người có mưu lược uy quyền làm nên
sự oanh liệt vĩ đại, nhưng về sau thường có con nuôi kế nghiệp, là vì có Ất phương
tạp khí.
Bên hữu câu là Canh khí ( khí phương canh) nhập thủ, sinh ra người trung nghĩa quả
cảm, độ lượng khoan hồng, nhưng về sau thường hay bị quả phụ quản gia! Hoặc
hâm mộ đạo pháp tu hành! Hoặc sinh người hung bạo làm quân giặc cướp! Vì kiêm
Thân phương là tạp dương khí, nên không được hoàn hảo.

2. – HỮU SONG CÂU THỦ HUYỆT: Cả hai cái thủy câu cùng ở bên tay mặt, lấy cái
câu ở trong làm chính, cái câu ở ngoài là thứ, ví cái trong lực trọng hơn, vậy sinh ra
người túc trí đa mưu, phát tiểu quý, đại phú.
Cái câu ở ngoài lực lượng khinh kém, cũng phát tài giàu có, nhung phát sinh con
người khí độ hẹp hòi, tâm trí nhỏ nhen! Anh em bất hòa, chị em dâu bất mục! nhiều
kẻ bị một mắt, trai thì bất hiếu, gian dối, nữ thì dâm ô, giả trá, gian tà!

3. – TẢ SONG CÂU THỦ HUYỆT: có một lạch nước mà hai cái câu đều khéo đẹp,
đơn long mà kết hai huyệt cùng là quải câu, không thiên lệch, thì sinh ra nhiều cn
hiếu, cháu thảo, dâu hiền, rễ quý, và hòa thuận họ hàng. Nhưng tới chỗ địa cục, thấy

282
bên đông, bên tây đều tú mỹ cả, nên lấy bên nào làm cái câu lý khí hơn! Vậy phải
tùy nghi, hoặc bên tả làm nhà ở, bên hữu làm âm phần, tùy theo địa điểm hoặc tiền,
hậu, tiên đáo, hậu đáo,cao thấp, nông, sâu, lập huyệt phải phép, thì mới được toàn
mỹ.

4. – ĐƠN CÂU THỦ HUYỆT: Có một lạch nước vòng về đằng sau câu lại, là sức
mạnh gấp ngàn cái câu khác, hai cái sa vòng về đằng trước hợp nhau ôm vào huyệt,
giá trị lại tăng gấp trăm sa khác nữa, bao đằng trước, bọc phía sau, ở Bình dương
được như thế là đất phú quý song toàn, bên tả có giới thủy hãn mạch lại, bên hữu có
sa bão đóng cửa thủy khứ, không bị tán khí; nếu chỗ ấy là đại địa, thì con cháu phú
quý lâu bền, nam nữ đều vinh hiển! Nhưng khi điểm huyệt, thì phải nhờ ở thần công,
dùng tâm cơ khôn khéo, lập hướng ở cái thánh trí có nhãn lực cao minh! Tiễn tài hợp
pháp, “ Công, Khanh chi vị hà nghi”! Âm đức tài bồi, “ Vương, Tướng kỳ tài tự sản”.
Nghĩa là: Biết phép đểm huyệt, thì chức vị Công Khanh không còn nghi ngờ nữa! Tu
nhân tích đức dầy thêm, thì cái kỳ tài làm Tướng, làm Vương, tự khắc nảy nở ra!

5. – TRẢM QUAN TRIỆT KHÍ HUYỆT: Kinh Ngọc Xích nói: Tóm lại, là lấy cái thủy
trừ súc làm then khóa cửa, cũng là trảm yêu triệt khí ( là chặn ngang lưng triệt ngăn
khí lại). Nếu là chân long xuất thân, mà trong khoảng giữa có nước trừ tụ và phân
đầu, xuất diện hoặc có chi thủy liền giáp bên vai, phá ngang lưng từng khúc, mở ra
nhiều đầu, diện, thì lập nhiều huyệt, đều là trảm long triệt khí, đó là lấy khí mà điểm
huyệt, chứ không phải là đất chính long khí súc. Vậy phải có xảo tâm lực mục rất giỏi
mới biết làm.

6. – PHÂN ĐẦU XUẤT DIỆN LẬP HUYỆT: Kinh Ngọc Xích nói: Tuy có khai môn lập
diện, nhưng nên biết cái tính tình của hành long nó có trú khí hay không? Có thu khí
hay không? Nếu ở giữa trong khoảng ấy có đầu sa phân ra từng môn, diện, tựa như
có huyệt trường, có thể chỉ điểm, đó cũng là phân chi kết huyệt, chứ không phản khí
chung tụ kết đại địa. Tất cả những huyệt cũng như là bầy chim tạm họp ở trong chốn
rừng thưa, để tránh cơn gió bão. Bầy cá tạm dựa vào chỗ ven bờ im tĩnh, để chờ qua
trận hồng thủy ba đào, chứ không phải là nơi yên ở lâu dài. Ý nói: Những huyệt phân
chi đơn tiểu như vậy, là lực lượng khinh thiểu, thì không kết phát to và bền bỉ bàng
những huyệt có long mạch hậu trọng.

7. – SINH TỬ SINH TÔN KẾT HUYỆT: Long mạch ở miền Bình dương cũng Tổ
tông, phân chi phách phái, có chính long, có bàng long, có chính kết, trắc kết, đều là
do ở thủy nguyên phân lưu, sinh chi khúc chiết, mà làm cho địa hình phân đầu xuất
diện kết tác huyệt chính, huyệt bàng, cái chính thì tất nhiên là to hơn, không phải nói
nữa! nhưng cái bằng cũng có nhiều cái kỳ dị, thanh xảo, cũng phát phú quý cực kỳ
oanh liệt! Ví như Đô, tỉnh, thành thị ngoài chỗ dinh phủ, còn có nhiều công, tư cơ sở
vĩ đại, đồ sộ khác nữa, chứ đâu phải chỉ có một chỗ mà thôi.

8. – CHI THỦY CÁC LẬP ĐẦU, DIỆN TÁC HUYỆT: Cái đại thủy nó khuất khúc đi,
phân ra nhiều chi tiểu thủy, ngành đi đông, ngành đi tây, uyển chuyển loan hoàn,
bão củng nhiều chỗ có thể đặt huyệt, tuy không phải là chính kết, nhưng là chi kết,
cũng có khí mạch chung tụ, nếu được tam cát lục tú long thủy hợp pháp, âm dương
không hỗn tạp, đường cục bình chính, không bị xung phá, thủy pháp hợp nghi, dẫu
hình thế tiểu xảo, nhưng phát phúc bất tiểu! Con cháu, tôn phái cũng hiển vinh phú
quý hơn những nơi khoáng dã, khô khan.

9. – BÌNH ĐỊA BÀNG THỦY TÁC HUYỆT: Đất ở miền Bình dương phần nhiều là
điểm huyệt ở bên cạnh nước, hoặc ngòi lạch, hoặc ruộng sâu chứa nước. Hễ thấy
nước lưu thông tựa như sinh xà ( con Rắn sống) hoạt động, khuất khúc như hình chữ

283
Chi ( ), chữ Huyền ( ) là hữu tình, thì có huyệt, mỗi khúc thường có thể lập một
huyệt, hoặc một ngôi nhà ở, cũng được yên lành hưởng phúc, tuy không to lớn bền
lâu, nhưng còn hơn không được, mà bị thụ họa, nghèo khổ, hèn hạ, ngu dốt!

10. – HỮU BÀN LONG HUYỆT: Hình này tựa như con Rồng nằm khoanh mình, ở nơi
bình địa được có hình thế như vậy, thì bất chấp Thiên tinh lý khí, chỉ tới nhận chính
hướng mà lập huyệt ở trên đó, tất nhiên đinh, tài thịnh vượng, phú quý song toàn,
sinh con cháu anh hào tuấn kiệt, và các phòng nam, nữ quân bình vinh hiển.
Cả 24 long, hễ thấy hữu nghịch hành là âm long, thì chỉ lấy một tiết nhập thủ, là một
đoạn long mạch dẫn vào huyệt, mà hạ La kinh, chóc đúng chữ gì, thì gọi là long ấy
làm chủ cục, và đặt chính huyệt, lập chính hướng, là hay hơn hết.

11. – TẢ BÀN LONG: Những long thế theo từ bên tả, thuận chuyển về bên hữu, là
dương long. Hễ long hành uyển chuyển bác hoán mỗi đoạn một khác, cũng chỉ lấy
một đoạn long mạch dẫn vào huyệt thôi, đó là đoạn long nhập thủ, chỉ vào chỗ nó
loan bão làm đích thực mà đặt huyệt, lập hướng, và xem cả triều án chứng ứng, hoặc
đăng đối tương xứng, long hổ hộ vệ hữu tình, thủy pháp hợp lý, mà lập âm phần
hoặc dương cơ, tùy trường hợp tiện nghi nhớ theo phương pháp mà làm, chớ nên hỗn
tạp.

12. – HỒI LONG CỐ TỔ: Đây là thuận thủy trực xung mà hồi nghịch (quay ngược
lại hướng về sơn) kết huyệt. Nên biết cái chân khí của thể đoạn: nếu quay về làm
nghịch thủy trực xung, mà hợp khâm ở đằng sau huyệt, thì cái ấy là Hư hoa chi địa
( là giả huyệt). Những cái đất là hồi long thì cái thủy không theo ờ cái bản sinh
phương mà lại, chỉ ở chỗ có thủy mà chảy ngược lên thôi, cái thủy chạy hướng về
đằng sau lưng mà hợp ấy đều không phải là chân địa, đều là hư hoa giả huyệt! Vì
hợp lưu ở đằng sau, thì khí hết thảy xu hướng về chỗ thủy giao hội hợp khâm. Tuy
cái thể thế uyển chuyển, cái tọa ứng chỉnh tề cũng là hư hoa! Nếu là mạch hồi long
cố tổ, thì sao lại thoát cái khí bản sinh của phụ mẫu. Hai vế đều xuất, vế dài vế
ngắn, vế to vế nhỏ, cái vế ngắn và nhỏ ấy tất nhiên là nó rút hẹp, vế to và dài hẳn là
nó ruỗi ra, thì hẳn là khúc chiết và hứng về cái sa ngắn thu lại chỗ đó. Vậy nhiều cái
đất hồi long, thường là cái hạ sa khúc chiết chuyển tới chỗ cửa ngoài, để che ngăn
thủy khẩu, cũng có huyệt hồi long, vậy cũng được cái khí ở bản thân của phụ mẫu
dẫn tới, thì mới là đại địa. Sách có câu: “ Vật vị hồi long vi lưc bạc”! Nghĩa là: Đừng
bảo cái hồi long là bạc nhược! tức là khí mạch còn mạnh mới hồi chuyển được như
thế.

13. – BÌNH ĐỊA NGÔ CÔNG TIẾT LONG: Đây là long hành hình như con Rết, có
nhiều đốt liền mình nên gọi là: Ngô công tiết long, tức là đảo địa thổ tinh sinh kim
( thổ tinh nằm dài thấp, hai bên dư khí ra, cong tròn như là kim hình, nên gọi là Đảo
địa thổ tinh sinh kim), là phiến ruộng khởi, phục 5, 7 tiết hoặc hơn 10 tiết không
chừng, mà ở hai bên hình thế ruộng cao, thấp tựa như có sinh cước (chân); đến chỗ
kết huyệt mở ra, hai bên ôm lại như hai gọng kìm, tựa như hai càng nanh con Rết,
đó là cái long sơn kỳ dị, rất thanh quý, là đại quý cách! Hoặc trực lai, hoặc khuất
khúc mà lại, dều là phú quý địa long, nếu hai bên tả hữu có sa thủy triều hộ chu mật
là toàn cát, thường hay phát Vương, Tướng, Nguyên soái anh hùng! Đất nhỏ cũng
sinh người hùng dũng trung kiên.

14. – MỘT NÊ QUY HÌNH: Đây là hành long, quý cách ở miền Bình địa, hình như
con Rùa nằm náu ở nơi đồng lầy nước đọng, không thấy tông tích long sơn, gọi là:
“Một nê quy hình”. Ở phía trước có đại thủy, thủy thế hai bên tả hữu khuất khúc
vòng quanh, giống như hình thể chân long, lại được gò, đống, nhu hình Tường vân lôi
điện ở đằng trước đằng sau, bên tả bên hữu. Chỗ huyệt ở hai bên có tiểu thủy quan

284
giới như Song tâm, là “ cực quý chi địa” nhưng khó được tự nhiên sinh thành, mười
phần hoàn toàn tú lệ cả mười, còn phải nhờ ở cái công tiễn tài, là biết phép làm đất
cho hợp với âm dương thiên địa lý khí, thì mới phát cự phú và anh em đều nối tiếp
cao quan, con cháu vinh hoa kế thế!

15. – HỒI LONG CỐ TỔ TÁC PHÁP: Đây cũng là cái thể thức phép đặt huyệt, lập
hướng của đất hồi long cố tổ. Giải thích theo hình đồ đại ý như sau:
1/ Ngọ long, thuận thủy lai: Mạch ở phương Ngọ ( Nam) nghịch chuyển về phương
Mão ( Chấn, Đông) nhập huyệt tuận thủy lai đường, tức là phương Bính ngọ và
phương Ất mão, thủy hợp ở trước mặt. Đặt huyệt tọa Khảm vị, hướng về Ngọ
phương, là hồi long cố tổ.
2/ Khảm long, thuận tủy lai: Mạch ở phương Khảm nhập huyệt, thuận thủy lai
đường, tức là nước ở phương Khảm, phương Ất giao hợp trước mặt. Đặt huyệt tọa
lưng vào phương Ngọ, hướng về phương Khảm, là hồi long cố tổ.
3/ Đoài long, thuận thủy lai: Mạch ở phương Đoài nghịch chuyển vào huyệt, thuận
thủy lai, tức là nước ở phương Đoài ( Tây) hợp với nước ở phương Ất ở nước. Đặt
huyệt gối đầu và lưng vào phương Chấn ( Đông), hướng quay về phương Đoài, là hồi
long cố tổ.
4/ Chấn long, thuận thủy lai: Mạch từ phương Chấn nghịch chuyển vào huyệt, thuận
thủy lai, như là nước ở phương Quý hợp với nước ở phương Ất ở trước. Đặt huyệt tọa
lưng vào phương Đoài ( Tây), hướng về phương Chấn (Đông) là hồi long cố tổ.
Lấy bốn (4) cái trên này mà suy ra 24 cái long hướng khác, cũng đại khái như thế,
đều là Hồi long cố tổ.

16. – BÌNH ĐỊA TRẬP LONG THĂNG THIÊN HÌNH: Hình này tựa như con Rồng
nhiều chân hướng lên trời, nên gọi là Trập long thăng thiên. Ruộng cao lần lần ôm
vây bốn mặt, lại có thủy phân hoạch minh bạch, ở trong khoảng ấy, có hình ruộng
thấp hơn chút ít, thành có lạch nước; trong khoảng ruộng thấp, lại đột khởi ruộng
cao, thành bình diện kim thủy chi hình, cái hình ấy gọi là: Một nê quy. Xét rõ thấy án
ứng, thủy thế thì đặt huyệt, nếu hợp pháp thì con cháu phú quý song toàn; nên điểm
huyệt ở hai mắt, hai vai hoặc bên tả, bên hữu, tùy nghi tại chỗ ấy, nếu được bốn bên
có ruộng cao thấp uyển chuyển hộ vệ thì rất là quý cục!

17. – MỘT NÊ XÀ HÌNH: Ở nơi Bình điền có hình thế ruộng cao, ruộng thấp khúc
chiết, quanh co, uyển chuyển tựa như con Rắn hoạt động ở trong khu đồng lầy ( bùn
nước), không biết mạch ở đâu đến, mất tích, nên gọi là Một nê xà. Nhận thấy cục
diện có sa thủy triều ứng hữu tình thì đặt huyệt, hoặc ở vương tự, hoặc ở gần đường
khí, tùy nghi tọa, hướng họp pháp v.v… thì quyết định phát xuất con cháu làm cao
quan, phước lộc muôn ngàn đỉnh chung, là do ở chỗ có án sa như hình con Quy, con
Cáp, tất nhiên là nối tiếp đời đời giàu sang không dứt!

18. – BÌNH ĐỊA LƯ HOA TAM LIỂU LONG: (1) Lư hoa tam liểu là cái hình thủy
tinh khuất khúc nằm dài ở nơi đồng bằng. Nếu long thân cô lộ, thì sinh người dâm
loạn! Nếu long thân đi dài ra được 5, 7 dặm hoặc hơn, đến chỗ kết huyệt có sa thủy
triền hộ chu mật thì cực quý! Phát xuất Trạng nguyên, Thủ khoa, kịp thời đăng đệ,
làm nên Khanh, Tướng cao quan! Bên tả bên hữu có thủy giới long mạch thanh, hai
bên đều có 3, 4 chi tiết thủy làm quan giới ( ngăn cửa) khuất khúc mà chảy lại, cũng
đều là phát quý, thanh liêm hiển hách!

19. – BÌNH ĐỊA LƯ HOA TAM LIỂU: (2) Kinh Bình Sa Ngọc Xích: Hình như hoa Lau
uốn éo lướt dài ra, đi ngang thì lấy chỗ khúc, nếu khuất khúc thì lấy chỗ hình quay
ngang. Họ Lưu Thanh Điền nói: Khúc lai hoành triển, hoành lai khúc triển, 3, 4 đốt
gãy uốn dài lướt ra như bông lau mà dẫn đến, là mạch hoạt động long thế chân và

285
huyệt tình thiện mỹ, thì phước lực đại, phú quý lâu dài. Họ Lại Kính Tiên nói: 3 cái
hoặc 4 cái uốn éo xoáy đi, xoáy lại lướt dài tựa như lại mà chẳng lại, giống hình dạng
bông Lau, như thế là long mạch hoạt, khí thanh, hữu tình đều là tốt cả.

20. – BÌNH ĐỊA NGỌC BỆ CỬU CẤP LONG: (1) Long mạch là bình diền mà khởi,
phục một đợt cao, lại một đợt thấp, có 9 cấp như cái thang để nằm, nên gọi là Ngọc
bệ cửu cấp ( là cái bệ ngọc chín cấp của nhà vua xưa). Hai bên thủy thế khúc chiết,
lượn ra, lượn vào làm triền thủy giới cho long khí, là chân quý cục, long này từ
phương Hợi, lại từ phương Hợi vào huyệt, thật là: “ quý quý tương thừa”, chủ xuất
Hàn lâm thanh yếu chi quan, kim mã, ngọc đường chi quý. Ngoài 2 cái long này, còn
có: Chấn, Tốn, Canh, Tân, Bính, Đinh, Đoài, tất cả là 9 long vị tốt, gọi là Tam cát, lục
tú phương, đều phát nhân, tái phú quý cả là Tam cát, lục tú phương, đều phát nhân,
tài phú quý cả.

21. – BÌNH ĐỊA ĐƯỜNG BỆ CỬU CẤP LONG: (2) Ý nghĩa cũng như hình (1) trên.
Thủy thế đương diện triền, 9 khúc nhập minh đường là đại quí bất khả thăng ngôn,
lại có hai bên tả, hữu chiết khúc 9 lần dẫn lại, trong khoảng đó có ruộng khởi, phục
cũng giống cấp bậc như hình trên, dẫn mạch đến chỗ kết huyệt, tự nhiên thành
đường cục, đây là Ngọc bệ thuận long, đại quý cách, chủ phát nam: Thái bình Tể
tướng, Quốc trụ Tướng quân, nữ: Hậu phi, Phu nhân đời đời kế tiếp. Xem chỗ án ứng
thị vệ mà đoán, thấy ứng ngiệm rõ như vậy.

22. – LIÊN HOA XUẤT THỦY HÌNH: Đất ở nơi đồng bằng, mà tới chỗ kết huyệt, ở
trước mặt có nước tụ như đầm, hồ rộng lớn, ở gần nước có tú sa sinh xuất, tả hữu
khai kiềm, đoan chính quân bình, trong khoảng kết tụ có cái sa uốn lượn khúc tròn,
hoặc thành hình dạng kim thủy, hai bên lại có sa dài ra, loan hoàn hồi bão, ở trước
mặt lại có tú sa, như thế, chính tên nó:Liên hoa xuất thủy hình. Quyết định tử tôn vi
quan Hàn lâm, thanh quý chức vị, sinh nữ đa chiêu quý tế lâm đình, hoặc xuất nam
vi Phụ mã nghi tân hiển quý!

23. – THẦN LONG HÍ CHÂU HÌNH: Long mạch ở gần đầm hồ khuất khúc mà dẫn
đi, chợt thấy ở đầu sa kỳ tú, trước mặt lại khởi đột cái gò tròn nhỏ, ngoài lại khởi đột
cái đồi lớn như hình Tường vân ( đám mây) tụ ứng, như rồng gặp mây lại vờn hòn
ngọc, nên gọi tên: Thần long hí châu. Đất này cực quý! Tất nhiên phát huynh đệ
đăng khoa, cao quan đại chức, cháu chắt vinh hiển đời đời! Hoặc như ở núi cao trút
lui xuống dưới chân mà kết thành hình thể, như vậy cũng phát quý, chứ không
những chỉ ở nơi Bình dương mới phát.

24. – BÌNH ĐỊA DƯƠNG LIỄU CHI LONG HÌNH: Ở miền bình địa cũng hay sinh ra
huyệt kỳ dị, có cái hình rất tinh xảo ở trong chỗ thô chuyết, trông thấy mà chưa biết
hoặc chưa định được là ứng lấy cái nào, chỗ nào! Như là cái long mạch tựa hình cành
Dương liễu ở nơi Bình điền, có giới thủy quan tỏa phân minh, triều hộ chu mật, nếu
biết điểm huyệt, hạ táng hợp pháp cũng phát sinh con cháu tuấn tú, thế đại Công,
Hầu, Khanh, Tướng. Tất cả những cái đất hình dạng như thế, rất sợ là thiên khô, nếu
một cái thiên khô, tức thị sinh con gái! Không sinh con trai, và hay sinh ra người tàn
tật, bệnh hoạn!

25. – BÌNH ĐỊA QUYỂN LIÊM ĐIỆN THỨC CÁCH: Huyệt này ở đằng sau có những
phiến ruộng nằm ngang, trùng trùng khởi phục, mà cái mạch chính lại đi theo một
bên, đến chỗ kết huyệt ở trong khoảng bình điền, có lạch nước bao vây, trong chỗ đó
có cái hình uốn cong như cái khung nỏ, hai bên có thủy thế quan giới phân minh, ở
bên cạnh lạch nước đều được có hình dạng sơn sa ủng hộ, trước mặt có tú sa tác án,
hình như lâu đài miếu điện, bên tả bên hữu có tú sa như quý nhân đúng chầu, nên

286
đặt tên là Quyển liêm điện thức long, kiểu đất này là cách: Thế xuất Khôi nguyên,
chưởng Lễ điển Văn hành chức vị.

26. – NGỌC HÀ PHÙ THỦY TINH: Ngọc hà phù thủy, là cái sa tự nơi bình điền dẫn
mạch tới mà kết cục ở trong chỗ có thủy tụ, tựa như hình con Tôm nổi trên mặt
nước, mà đều có trùng sa ( hai lần sa) hồi bão ở hai bên tả, hữu, làm long hổ triều
củng, bao bọc tàng mật! Những địa hình như thế rất là kỳ xảo, lại được cục diện
khoan khoát, sơn sa ở ngoài không có bức bành, lại tàng tụ hữu tình, thấp cao tương
xứng. Nếu biết chế tác hợp độ, là phương pháp điểm huyệt, mức độ đặt quan vừa tới
khí mạch thông bị thủy tẩm nhập, lập hướng không bị xung sát thì cực kỳ thiện mỹ!
Quyết định con cháu, dòng dõi tuấn nhã, phú quý thanh cao!

27. – NGỌC HÀ DU THỦY HÌNH: Đất này hoặc khởi tổ ở miền núi cao mà bác hoán
trút lui xuống khoảng bình pha ( cao nguyên bình điện), mà có thủy thế bao bọc như
thành lũy, kết cục hình như vậy thì rất tốt, nên lập huyệt. Hoặc ở trong giữa đầm hồ
mà có sa kết thành hình như thế thì rất quý! Đặt táng hợp pháp lại hợp sinh, vượng,
sa, thủy lai triều, quý long thanh thuần nhập thủ, là quý bất khả ngôn!
Nếu cô lộ đơn độc, ngoại sa ngoan ngạnh, không triều bão, và thủy lưu vỡ lở mòn
dần dần đi, thì không nên dùng.
Ngọc hà du thủy, ý nghĩa cũng như trên.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 24


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 18:14 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Bình Dương tam pháp


Việt Hải

Bình Dương tam pháp

Ở miền Bình dương, lng khí phục tàng ư địa trung, là khí mạch chìm giấu ở trong đất, thường chỉ
vi lộ mao tích, là hơi gợn lên như cái đường lông mao trên sống lưng.Vậy có thể xem thấy, mà có
thể tìm được long, cục, huyệt. Người đã từng trải, thì coi như quen thuộc và tin hẳn, nhưng ai
chưa được biết nhiều, thường bán tính bán nghi!

Vậy nhắc nhở lại lần nữa, để độc giả nhớ rằng:
1. – Hễ thấy chỗ cao hơn, là đất theo khí ở dưới xông lên mà khởi đột, là khí mạch
đúc kết. Lấy thủy bao vây chu mật làm bằng chứng, tuy không dài rộng như ở miền
Sơn cương, mà có gò, đống nổi lên đặc tú, tôn nghiêm như xếp hàng hoặc như tụ

287
tập, những chỗ ấy là tinh thần lực lượng của khí mạch, cực quý! ở Sơn cương cũng
không sánh kịp!
2. – thấy những ruộng đất khởi cao hơn ít nhiều, hợp thành hình dạng đoan chính,
tuy nằm thấp mà có hàng, có lớp, hoàn bão hộ vệ hợp lại thành cục, là có huyệt ở
trong đó.
3. - Ở nơi bình địa không khoáng, khó có thể mà phân biệt được cao hay thấp, hễ
thấy có thủy đạo thành văn, là những lạch nước uốn éo lượn vòng cong, hoặc khúc
chiết, thành hình thế hữu tình cũng là tú thủy, trong đó cũng có huyệt.
Ba cái vừa kể trên, là phép ở miền Bình dương, nên gọi là: Bình dương Tam pháp,
gồm có: Đặc sinh Đôn phụ - Miên hoàn viên cục – Tiễn thủy tài cục. Trong ba cái ấy,
thì cái Đặc sinh đôn phụ là thượng hạng quý! Bởi thiên tạo địa thiết, có như Thiên
tinh viên, là như những vì tinh tú triều ứng hoàn vệ.
Hoặc có đại giang, đại hà làm củng cố, thì trong khoảng ấy có đất phát Hào kiệt đĩnh
sinh!
- Cái Miên hoàn viên cục, là những giải ruộng cao hơn và chút ít, kết thành cục, cũng
là tú lệ khả quan, nên sinh xuất Văn nhân tú sĩ! Lộc hưởng thiên chung lưu danh lịch
sử!
- Cái Tiễn thủy tài cục, là ở nơi bình địa không khoáng, chỉ có thủy đạo thành văn. Ý
là ở chỗ cao thì nhận cái gò đống, ở nơi thấp thì nhận cái sông, đầm làm cái chứng
ứng.
Những cái ngòi lạch ấy, thường là người ta khai đào để tiện lợi cho việc canh nông,
hoặc tiện việc giao thông thuyền bè đi lại, chứ chưa hẳn là thiên tạo địa thiết, nhưng
lâu năm khí tụ, như huyết mạch lưu thông, thành hình thủy oanh vu ( quanh co)
hiến tú ( bày ra tốt đẹp), âm dương hiệp cát, thành địa khí chung linh, cũng như
thiên thành, nên phát sinh nhân tài tuấn kiệt, phú quý khoa danh v.v…
Xét ba phép này ở miền Bình dương, xưa nay đã ứng nghiệm hiển nhiên, nhiều nhà
đã được hưởng phước địa lưu truyền hàng mấy trăm năm, cháu chắt dòng họ vẫn
thịnh vượng giàu sang, ngày nay còn kế tiếp! Như vậy thì các nhà địa lý Tiền đại đâu
có hư truyền! thiên địa đâu có ngụy tạo! Chỉ vì không được học, không được hiểu nên
nghi hoặc, thì không được hường hạnh phước như nhà người ta thôi!
Xem diễn tả và hình đồ sau đây:

Đặc sinh đôn phụ


Đôn phụ là những cái gò đống ở nơi bình điền, bình địa, trông thấy mà hữu ý thì
cũng lấy làm kỳ.
Xưa nay có nhiều người thắc mắc, hỏi nhau rằng: Những cái gò đống ấy ai đắp mà
có? Kể có bao nhiêu người bàn đi, tán lại, cứ phản đối nhau hoài, không ai chịu ai là
người nói đúng! Rút cuộc, phần đa số bảo là trời sinh ra mà cũng còn có người chưa
chịu! Đến cả bậc Thánh hiền, Tiên triết, về địa chất học cũng chịu cho là tự nhiên
Thiên Địa an bài, do Tạo hóa bẩm sinh, cũng như đã vận chuyển thành núi non, sông
biển là kết luận.
Đến các nhà Địa lý về môn Phong thủy, là những bậc Cổ tiên, Tiền triết đã từng kinh
lịch nghiên cứu, khảo sát về Âm dương lý khí cũng bảo: do Thiên tạo, Địa thiết ( là
Trời xây dựng, Đất đặt bày). Bởi cái âm khí ở trong địa cầu xung lên, đất theo khí mà
khởi đột, cái cao, cái thấp, dài ngắn, lớn, nhỏ là do khí lực xung lên nhiều, ít, còn
như hình tròn, vuông, bằng, nhọn, v.v…là do khí âm, khí dương, thuộc về Ngũ
hành:Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, khí thuộc về hành nào, thì xuất hiện thành tinh thể
của hành ấy. Cái địa khí ở trong là âm đã xuất hiện thành tinh, thì cái thiên khí ở
ngoài là dương, nhân có cái hình ấy mà nhập hợp, là âm dương dung hòa, tụ chung
thành khí thiêng, do tính chất của cái hình thể ấy mà phát huy. Vì vậy mà cái gò
đống ở nơi đồng bằng tuy nhỏ thấp, nhưng rất quý, không kém lực lượng những cái
cao hàng trăm ngàn thước ở miền Sơn cốc, nên thấy ở nơi bình điền nào có khởi đột
gò đống nhiều, là nơi ấy hay có quý huyệt. Nếu chỗ kết huyệt, mà đối chiếu thấy gò

288
đống ấy ở vào phương tam cát, lục tú, và lại hợp với địa vị của Ngũ tinh như là: Mộc
tinh cư đông, Hỏa tinh cư nam, Kim tinh cư tây, Thủy tinh cư bắc, Thổ tinh cư khôn,
cấn và tứ mộ vị là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lại có thủy cũng được ở phương tam cát, lục
tú và phương Trường sinh, Đế vượng, Quan đới, Lâm quan, Thai dưỡng, cũng như
lnog sơn hợp cục, ngoài có sa thủy loan hoàn hồi bão, bao bọc chu mật là chân long
đích huyệt; thấy thế cục rộng lớn là Đại địa, đại quý huyệt, rộng vừa vừa là Trung
địa, đại quý huyệt, nếu cục nhỏ hẹp là Tiểu địa, nhưng cũng phát quý không kém,
chỉ kém là long, cục đơn tiểu thì không được lâu dài bằng đại địa cán long thôi.

289
Nếu thấy có gò đống nhiều, nhưng tán loạn,đối chiếu với huyệt không được phương
vị tốt, lại không hợp với tọa, hướng, long, là giả huyệt, chớ nên dùng! Tức là huyệt ở
chỗ khác, hoặc không có huyệt, tức là loạn sơn loạn thủy, không thành địa cục! Nhận
xem hình đồ trên đây:

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Miên hoàn viên cục


Việt Hải

Miên hoàn viên cục

Miên hoàn viên cục, là vòng bao quanh một khu vực của cục địa, do sa thủy hồi hoàn loan bão
hợp lại, có ruộng hoặc giải đất gồ lên làm cái phạm vi ranh giới như cái chân tường, bờ lũy,
nhưng hình nằm thấp, nên gọi tên vắn tắt là Miên hoàn viên cục.

 
Vì ở miền Bình dương long mạch đột khởi thấp, phần nhiều là ruộng cao làm sơn sa,
ruộng thấp làm đường thủy, nên cục thế bao vây thấp và hẹp, không rộng lớn như ở
miền Sơn cương, có những núi rộng, sông dài hàng trăm ngàn dặm không chừng!
Những địa cục ở Bình dương, thường là chỉ độ 5, 7 cây số, hoặc ngắn hẹp hơn, có
chỗ chỉ ước độ 1, 2 cây số vuông chẳng hạn, ở vào khoảng giữa hai sông lớn, hoặc

290
ngòi, lạch, khe, suối, hoặc ở bên bờ đầm, hồ, hải, kết hợp thành viên cục ở bên
ngoài, trong thu tụ thành đường cục, kết huyệt, thường thường là hành long đảo địa
( nằm ngả ở mặt đất), có chỗ nhô đầu, đuôi thấp, chỗ thì đầu thấp, đuôi cao, có chỗ
thì đầu, cuối đều thấp, khoảng giữa gồ cao v.v… tuy thể dạng không giống nhau,
nhưng thực sự thì tính tình đúc kết không khác gì Sơn cương, mà khí mạch lực lượng
còn lành mạnh hơn, vì long mạch đã ly miền núi non cao cấp, thoát xuống bình
nguyên đã rong ruổi hàng muôn ngàn dặm, bác hoán, biến hóa, thoát tá không biết
trải qua bao nhiêu lần… Ở vùng Bình dương khoáng dã mà còn khởi xuất được như
thế, tất nhiên đã gạn lọc những cái hung trọc nên khí mạch được thanh thuần đến
chỗ kết huyệt chuyển động, phân ra làm triều ứng, hộ vệ, quan tỏa, cùng với thủy
hòa hợp làm triền nhiễu, loan hoàn, bố cục chu mật, thì không còn nghi hoặc là giả
long hư hoa nữa! Nên có câu: “ Nhất sa chi tú, quá vu cương loan sổ lý”, “ Nhất thủy
chi loan, quá vu khê giản sổ trùng”! Nghĩa là: Một cái sa tốt, hơn mấy dặm đồi núi
vòng cong, Một lạch nước ôm triều, hơn mấy lần khe suối!
Nếu xét rõ hình tượng không bức áp, không ngạnh trực phản bối. Xem cả sa, thủy
hữu tình xu hợp, biết cái tính khí động tĩnh , ở chỗ huyệt trường, có chứng tá minh
bạch, thì dầu là thạch bàn ( mảnh đá) cũng khai phá ra mà đặt táng!
Nếu huyệt phát chưa đích, dầu là hình thảo ( hình đẹp) cũng chớ tham tiếc mà làm
càn, táng bậy, thì bị họa diệt vong!
Xem hình đồ dưới đây:

291
 

292
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

293
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 25

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:16 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Tiễn thủy tài cục


Việt Hải

Tiễn thủy tài cục

Tiễn thủy tài cục, là xem cái thủy thế và hiểu cái văn lý của thủy, tự lượng ra mà cắt nó để lập
cục, đặt huyệt, định hướng, tọa cho hợp phép, nên gọi vắn tắt là Tiễn thủy tài cục.

Ở miền Bình nguyên, những nơi đồng lầy nước đọng, chỉ thấy ruộng đất phẳng lì một
mực, không thấy có chỗ cao, chỗ thấp một chút ít nữa, cũng chẳng thấy có gò đống
gì cả, nếu cứ theo điạ hình mà tìm, thì trong đó chẳng có chỗ nào đúc kết tác huyệt,
nhưng xem cái thủy thế mà tìm, hễ thấy có chỗ tụ, chỗ tán, đằng trước mặt, đằng
sau lưng, nó hoàn bão khéo đẹp, hữu tình, thành cục, thì cũng có thể lấy đó làm
bằng cứ được. Từng thấy ở vùng đó cũng có nhiều nhà giàu sang, mà cũng không
thiếu anh tài, nhân sĩ sinh trưởng ở đó, chết cũng mai táng ở nơi đó! Người xưa ở Á
đông ta, có cái phong độ nhân hậu: chết cũng không muốn rời khỏi quê hương,
thường nói câu: “ Cáo dù ở đâu, khi sắp chết cũng quay đầu về núi”! Cái tập quán
ấy, đến ngày nay có nơi cũng vẫn còn! Vì vậy, các Tiên hiền lập pháp đến miền ấy
làm, khiến cho người ta được thỏa vong linh, an tể phách! Mà người sống cũng được
hưởng phước về âm phần của Gia tiên, và dương cơ có cát khí nhập môn hộ.
So cái sinh thành hoàn cục ấy với cái hoàn cục ở các nơi, thì cũng không khác, có lẽ
là cái thịnh khí của cái thủy tú, ở nơi cao, nơi hạ, về sự hưng vượng cũng như nhau.
Vì vậy mà những người đến khai tạc trước ở đấy, thấy được khí hậu tốt lành có lợi,
nhân cái lợi mà sau mới dần dần phổ biến truyền thông đi, rồi thành đông đảo an cư
lạc nghiệp ở đấy.
Như thế thì xem cái hình thế, văn lý của thủy, mới biết chỗ tụ, tán, hướng, bối mà
lấy cái hoàn bão thành cục là có thể biết được. Đấy cũng là cái Thiên thành tàng ẩn,
mà do cái tâm trí khôn khéo của nhân trí tạo tác. Cứ xem cái hiển tú ở trước, mà lấy
cái âm, dương, không hỗn tạp, thì một cái thuần khí tụ hợp, nên vong hồn yên thì
con cháu được yên.
Nhưng Thời sư cho cái Tiễn thủy là quái lạ! Cầm La kinh đi, chỉ tìm xem cái thủy đạo
( đường nước đi) mà không biết xem cái thành văn của thủy. Vậy sưu tập những cái
tác cục của Cổ nhân đã có ứng nghiệm, khiến cho hậu nhân biết cái thành cục của
Thủy lộ, mà sau suy lượng cái âm, dương để mà tác dụng.

294
295
Bình Dương pháo hình thế

Phép xem hình thế cục địa ở miền Bình dương thì, trước hết phải xem cái đại giang:
nếu hoàn bão, triền nhiễu là thượng hạng! Tiểu giang triền nhiễu là thứ hạng. Cái
tiểu phố ( sông nhánh hay ngòi lạch) triền nhiễu là hạng tốt thứ ba.
Cái đại giang triền nhiễu là kết đại cục, rộng lớn mấy tỉnh hoặc mấy châu, mấy quận
không chừng! Cái tiểu giang, tiểu phố cũng kết cục rộng mấy quận hoặc mấy làng,
tức là mấy dặm. Những đại cục ấy, nếu có quý cách thì phát đại quý, có phú cách thì
phát đại phú, có cả hai thì phú quý song toàn! Nếu là trung, tiểu cục cũng phát quý,
phát phú, tùy ở cách kiểu.
Những chỗ quan gián hợp ( là chỗ ranh giới khởi phục giáp nhau), thì chỉ xem cái
thủy thành triền nhiễu loan chuyển vi trú, là khí chung tụ. Nên có câu: “ Bách lý trực
lai lâm hữu khúc, thử gian tất định ẩm chân long”! Là chính ý nghĩa đó.
Phép tìm đất ở Bình dương thì trước lấy cái đại thủy, sau lấy cái tiểu thủy. Trước lấy
cái đại thủy thì biết cái cán long, nó chung khí, có thể rõ được cái đại thế thì cái ấy là
đại địa. Sau lấy cái tiểu thủy thì biết cái chân long tụ khí, có thể quyết định được chỗ
chân huyệt. Nếu không rõ cái đại thế thì không phân biệt được đại địa, tiểu địa,
không định được chỗ thì huyệt chân hay giả cũng không biết được!
Luận về thủy pháp, thì trước hết lấy cái nước ở gần, sau mới lấy cái nước ở xa. Cái
nước ở gần mà hữu tình, thì cái ở xa có thể dùng, nếu cái ở gần mà không tốt, thì cái
ở xa dầu tốt cũng chỉ là cái khách thủy vãng lai qua thôi, không đủ bàn nói.
Cái thủy hữu tình là cái nước triều lai, thì cần phải trừ tụ nhiều mới là chân quý. Cái
thủy vô tình là cái nước trực, xung, thì phải có sa ngăn cản, hoặc cắt đứt ra cho nó
khỏi đâm vào huyệt thì mới được. Cái đại giang giao hội không khuất khúc triều bão,
thì phải có cái tiểu thủy ở trong, là sinh thủy, chuyển vòng câu lại, bao vây thì mới là
hữu tình, tức là chân khí nội tụ, nên bảo: “ Ngoại thủy trực, tu dụng nội thủy chuyển
câu. Nội thủy trực, yếu ngoại thủy loan triền” chính là nghĩa đó. Nếu nội ngoại đồng
tình đích vi thượng địa!
Thủy pháp, thì quý cái thủy nghịch triều lai, không nên thuận hướng khứ, hoặc trú
nhập thành hồ, hoặc vi trú, hoặc chuyển câu, tất thị kết địa hoặc bất nội trú nhập
thành hồ, tự sinh ra 1, 2 cái thủy ở trước, ở sau hoặc bên tả hay bên hữu vi trú câu

296
chuyển kết, cái ấy là rất hay! Trú nhập ở trước thì huyệt điểm ở trước, trú nhập ở
đằng sau thì đặt huyệt ở đằng sau, hoặc câu chuyển bên tả thì huyệt ở bên tả, câu
chuyển bên hữu thì huyệt ở bên hữu v.v… Tùy ở chỗ thủy loan bão, trăm ngàn hình
dạng không thể diễn tả hết được, xem hình đồ mà suy lượng. Tóm lại, là: thấy thủy
khuất khúc triền nhiễu loan hoàn ôm lại là tốt, hễ trực lai trực khứ, là thẳng đến hay
thẳng đi, là xấu! Bất cứ ở trước, ở sau hoặc ở bên tả hay bên hữu cũng đều là xấu
cả, và thủy lộ cần phải lưu thông, nhưng thủy khẩu cần hẹp lại thì tốt, nếu khoáng
đãng ( là rộng quá, chảy rốc hết cũng xấu) mà bế tắc không tiêu đi được, cũng là
hung! Quý nhất là vẫn lưu thông nhưng lưu bất tận, vẫn trừ tụ ở minh đường không
bao giờ khô cạn, càng trừ tụ nhiều càng tốt, khuất khúc nhiễu nhiều lại càng hay
nhiều! Đất suy, hay thịnh phần nhiều là ở nước, nên cẩn thận chớ nên coi thường!

 
Sách có chữ: “ Nhập sơn tầm thủy khẩu! Đáo xứ vấn thủy khẩu” v.v… cũng vẫn một
ý nghĩa. Thủy mà bế tắc, không những các thủy không lại được, mà long thế cũng
không quán chí, thông mạch được. “ Thiên địa chi đạo: bất giáng, tắc bất thăng, bất
khứ, tắc bất lai” là nghĩa đó. Nhưng thủy khẩu không nên cao quá, áp bức! Cũng
không nên khoáng đãng, vì áp bức ngăn cấm thì long khí bất lai, không khoáng thì
long khí bất xúc ( không chứa đựng). Xem mấy đồ hình trên và nhiều đồ hình về
thủy pháp đã có ở các mục trên sẽ rõ.

Còn tiếp

Việt Hải

297
Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Chân khí
Việt Hải

Chân khí

Phép đặt huyệt hạ táng cần phải biết cái chân khí mạch. Trước hết phải nhận một điểm chân
nguyên khí của thiên địa, để lấy làm cái long mạch hô hấp vạn vật! Vậy xét thế nào mà biết được
cái chân nguyên khí?Phải lấy cái thổ mà định hình, nhân thấy cái hình mà xét khí thì khí không
được thanh, tức là kiêm cả hai phương vị, khí cùng vào huyệt.

 
Thí dụ: khí ở cả phương Thân và phương Canh cùng dẫn vào, là lẫn lộn, bất thành.
Chỉ có một phương Canh dẫn vào thuần túy, khí nhanh. Có chỗ chỉ cách nhau không
quá 3 thước ta, mà mộ này thì kết phát, mộ kia thì tuyệt diệt! hoặc mộ kia thì giàu
sang, mộ này thì nghèo hèn khác nhau! Bởi thế mới bảo: “ Thiên cơ bí hiểm sâu xa,
mênh mông, mờ mịt! Nhưng ai hay biết rõ được cái chân khí, thì đường này lối nọ,
mọi cái đều sáng suốt, không nghi hoặc hoang mang!
Nếu không rõ được cái lý khí, thì sao biết được cái hay của Thái cực, mà ngũ hành
điên đảo thì đâu còn linh nghiệm! Vì thế, nên sai lầm chỉ độ thước, tấc mà cái linh khí
huyền vi khác biệt. Vậy những cái đất giàu sang là do sa, thủy hoàn toàn, án đoạn
chính, khí mạch thanh thuần, không bác tạp là chân khí, thì phát phước được hoàn
hảo. Trái lại, làm sai một lằn giây hoặc một ly, là âm dương giao chiến, sinh họa liền
ngay! Vậy điểm huyệt cũng như lập hướng, phải đem La kinh ( địa bàn) đặt ở chỗ
định huyệt mà chiếu xem long mạch ở phương nào vào huyệt, thuần hay tạp, tốt hay
xấu, rồi chiếu tứ vi bát quái, sa thủy chứng ứng, có hợp với long khí nhập thủ không,
tương sinh, hoặc đồng loại là hợp, thì tốt. Nếu tương khắc, thì xấu! Khắc là: Hình,
Hại, Xung, Phá, tức là sát khí, thì “ chung họa nan đào”, là khó tránh thoát cái họa
diệt vong!
Xem họa đồ và phương vị dưới đây:

298
Huyệt tình

1. - "Tam hợp anh linh, yếu tịnh chuyên,


Tối kỵ bàng tạp, tương khiên liên.
Nhất tự khẩn giáp vi tinh túy,
Dữ thủy hợp quái khước lộc biền."

Giải nghĩa
Cái khí mạch ở ba phương hợp nhau thì rất là anh linh ( thiêng liêng), nhưng cốt là
phải tịnh chuyên, tức là thanh tịnh chỉ có một khí, một phương vị, rất kỵ là, ở hai
phương bên cạnh lẫn lộn dẫn dắt cùng đi liền với nhau! Chỉ có một chữ giáp gần vào
huyệt là tinh túy. Cùng với thủy hợp quái ( quẻ) thì phước lộc liên tiếp bền lâu.
Thí dụ: Hợi long hợp Mão thủy lai, xuất Đinh Mùi khứ, tức là: Hợi, Mão, Mùi là tam
hợp quái, Can hợp là: Kiền, Giáp, Đinh là tam hợp quái v.v… Xem hai hình đồ dưới
đây, là “ chuyên nhất bất tạp”, không lẫn lộn, là long khí tối thanh! Tức là chỉ chuyên
một phương Hợi dẫn đến huyệt, hợp với thủy ở phương đông và phương nam, hợp ở
trước rồi chảy về phương canh, tức là hợp Mộc cục, rất tốt lành! Cứ như thế mà suy
ra ba cục nữa, là Km cục, Thủy cục, Hỏa cục, đại ý cũng thế.

299
2. - "Nhược thị âm dương trú lưỡng huyền,
Gia kế tước thời như lưu tuyền,
Cánh kiêm hình xung, dữ khắc phá,
Họa cữu chủng môn! An hữu thuyên!"

Giải nghĩa
Nếu cả âm dương ở hai bên ( 2 phương vị) cùng rót mạch vào, thì gia tài hao tán
cuốn đi như dòng suối chảy! Nếu lại gồm cả phương vị: hình, xung và khắc, phá thì
tai họa dồn theo vào nhà, sao thoát khỏi!
Xem những hình đồ dưới đây:

300
301
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

302
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 26

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:19 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Hình hại xung phá


Việt Hải

Như là tay thầy thợ khéo làm hợp phép, thì cướp được cái hay của Huyền cơ. Như là Đinh khí
lại, gồm được cả Hợi phương lại là một khí, thì tốt, hoặc đinh gồm cả Mão thì cùng tính tình liên
kết, tức là mộc với hỏa tương sinh thì tốt! Mão kiêm Kiền thì ngành trưởng bất lợi.

Hình hại xung phá

HÌNH: Tý – Mão, Sửu – Tuất, Mùi – Dần, Tỵ - Thân, Dậu – Thìn, Ngọ - Hợi.
HẠI: Tý – Mùi, Sửu – Ngọ, Dần – Tỵ, Mão – Thìn, Thân – Hợi, Dậu – Tuất.
XUNG: Tý – Ngọ, Sửu – Mùi, Dần – Thân, Mão – Dậu, Thìn – Tuất, Tỵ - Hợi.
PHÁ: Tý – Dậu, Mão – Ngọ, Dần – Hợi, Tỵ - Thân, Sửu – Thìn, Tuất – Mùi.

Ca quyết
"Nhược hoàn song củng khí bất thiên,
Thu trước tức tiện phú quý kiêm:
Như hà song củng tiện thụ ích?
Tam hợp mẫu tử tình tự luyến.
Tuy thị liên hoàn lưỡng cá khuyên,
Cốt nhục tương thông Tạo hóa tuyền;
Bất câu thiên giác trung tâm thụ.
Hợp đắc thần công diệu đoạt huyền.
Đinh kiêm Mão thời tình diệc liên,
Mão kiêm Kiền thời trưởng bất lợi;
Hợi kiêm Mùi thời ấu phòng quyên,
Bính kiêm Cấn thời tú khí tuyền,
Cấn kiêm Tân thời quý diệc diên,
Tân kiêm Dần thời diệc bốc cát;
Như tư dư cục loại giai nhiên."

Giải nghĩa vắn tắt


Nếu cả hai cái hoặc hai bên ôm vào thì khí không tản đi. Thu được khí, tức là gồm cả
giàu sang. Như thế nào là hai cái ôm lại mà được ích lợi cả? Là: được tam hợp thì
tình mẹ con thương mến nhau. Tuy là có hai lần cong ôm liền hai cái vòng khoanh.
Nhưng mà là cốt nhục thông với Tạo hóa, là tốt được nguyên vẹn. Không cầu thu vào
bên đầu góc, thì thụ huyệt ở khoảng trung tâm. Như là tay thầy thợ khéo làm hợp
phép, thì cướp được cái hay của Huyền cơ. Như là Đinh khí lại, gồm được cả Hợi
phương lại là một khí, thì tốt, hoặc đinh gồm cả Mão thì cùng tính tình liên kết, tức là
mộc với hỏa tương sinh thì tốt! Mão kiêm Kiền thì ngành trưởng bất lợi. Hợi kiêm Mùi
thì ngành thứ tổn thương, tức là kim khắc mộc, mộc khắc thổ, nên xấu! Bính kiêm
Cấn thì tú khí nguyên vẹn tức là hỏa với thổ là tương sinh. Cấn kiêm Tân thì phú quý
lâu dài, tức là thổ với kim tương sinh v.v… các cục khác đại loại cũng như thế. Tức là

303
tam hợp cục chi hợp: Hợi, Mão, Mùi là Mộc cục; tam hợp, can hợp: Cấn, Bính, Tân là
Hỏa cục. Có 4 đại cục, cứ thế mà suy ra. Xem hình đồ dưới đây mà nhận định. Nhất
khí tương liên, là âm dương bác tạp cũng có thể phát phúc, nếu được một khí thuần
tịnh thì tối thượng hạng tốt.

Phụ luận

Nếu hình cục rộng lại khó hợp, thì có cái phép gọi là: Lộ châu đường thảo, thu một,
bỏ một.
Xem cái hinh đồ liền dưới đây; là cái cục hình rộng, hai bên đều có thể lập huyệt
được, nên biết thế nào đắc vận thì lấy, tức là xem Cửu tinh phi cung biến pháp, biết
Thượng nguyên, Hạ nguyên, nguyên nào vượng thì lấy v.v… Như cục dưới, nếu là Hạ
nguyên Giáp tý thì nên lấy Cấn huyệt trước. Sẽ diễn tả sau, xem tự khắc hiểu hết.

304
Hình hảo bất phát ca

"Tằng tằng bao quả, song quan tiết,


Kiến đạo, nhân nhân, đa hỷ duyệt;
Như hà tất cánh bất xuất quan?
Nội phạm âm dương, kỳ giới liệt,
Diệc hữu tạp thụ, tiểu phát phúc!
Tiên khán tiểu viên, khí lai trục,
Nhược thị bá hội, thụ đắc chân;
Bàng ngã vô quyền, diệc toàn phục!"

Nghĩa: Hình cục trông đẹp mà không phát.


Mấy lần sa thủy bao bọc, hai bên như cánh cửa khép mở. Mọi người thấy đều vui
mừng là đất đẹp. Tại sao mà không phát phú quý? Bởi vì, ở trong cái ranh giới long
mạch vào huyệt lẫn lộn cả âm dương, là phạm hung! Cũng có cái tạp thụ không bị
khắc, thì cũng phát phúc nhỏ. Vậy, trước hết phải xem cái khí ở trong cái đường cục
ấy nó thu dồn lại thế nào? Nếu nhiều cái tốt lành mà hội thụ được thì là chân đích.
Còn những cái ở bên ngoài xa phụ tá, không có quyền hành cũng phải quy phục.
Tóm lại: Cái mạch nhập huyệt, mà lấy ở giữa chỗ giáp giới cả âm dương, là khí phức
tạp, thì không phát quý! Nếu ở trong chỗ lập, huyệt mà thu, phóng hợp pháp thì
cũng có thể phát phúc, nhung không được hoàn hảo, trọn vẹn! Nhận xem hình đồ đại
khái dưới đây:

305
Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (phần 2) - Ca ngữ


Việt Hải

Ca ngữ

"Mộ khí đơn thu tối cô độc!


Thứ tử minh linh diệc nạn dục!
Nhược kiêm quý tú bất đồng luận,
Phòng phân mỹ hảo dữ sân bạo!"

 
Nghĩa là: Ở phương Mộ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là 4 phương mộ khố của địa cục, nếu
đơn thu, là có một lần sa hoặc bạc nhược vi đê không thu được khí tụ lại thì cô độc,
là hung ( xấu)! Thì cả con xin con mượn làm con nuôi cũng khó mà sống!Nếu gồm có
những tinh tú tốt, thì không kể là xấu. Những cái hay, những cái dở cũng phân biệt,
là có phòng thì tốt, phòng thì xấu, chứ không bao giờ được tốt tất cả, vì ít khi có đất
được hoàn hảo chu toàn.
Xem hình đồ đại lược dưới đây:

306
Thi ngôn
"Nhất mạch thanh hàn, phú quý cao,
Ná tri ngoại giáp cánh kiên lao!
Diệc hữu đơn hành, vô hậu ứng,
Ngoại yếu sa chuyển hoàn ba đào."

Nghĩa là: Có một mạch dẫn vào huyệt, tức là thanh hàn ( là không bác tạp) thì phát
sang giàu và cao thượng. Ai biết ở ngoài có hai giải nước làm giáp mạch nên cục địa
được bền vững, khí không bị khoáng đãng, tán loạn. Cũng có chỗ mạch đơn hành
không có sa ứng ở sau. Nhưng cốt phải có sa chuyển vòng quanh, bao bọc ở ngoài,
làm cái vòng đai che ngăn sóng khởi bạo động vào huyệt trường, hoặc huyệt sơn
cũng thế.
Như mấy hình đồ dưới đây:

Thi ngôn
"Huyệt hữu trực lai trực thụ kết,
Tu phòng trực lai trực khứ tiết!
Lai khứ chi thời nhất thược gian,
Thử thị long tòng thủy chuyển quyết."

Nghĩa là: Huyêt có cái long mạch lại thẳng mà thụ huyệt cũng thẳng kết. Nên đề
phòng cái long lại kết huyệt đã thẳng, mà cái thủy chảy đi thẳng thì không được! Ở
chỗ thủy lai thủy khứ, chỉ ở trong khoảng rất nhỏ hẹp thôi. Đấy là cái long mạch nó
chuyển theo dòng nước đi, thì là giả huyệt, không nên dùng.
Xem như mấy hình đồ dưới đây:

307
Thi ngôn
"Thủy chủ thanh quý thành phiệt duyệt,
Thiết kỵ bác long hành khắc điệt:
Hợi long nhược giao Tuất thượng hành,
Tiện thị phú quý tao biếm yết."

Nghĩa là: Về thủy thì vốn là loại thanh quý, vậy phát ra hạng người phiệt duyệt, là
danh giá cao sang ở đời. Nhưng rất kỵ là thay đổi hóa ra long hành, lẫn với phương
vị khắc sát. Như là Hợi long thuộc thủy, nếu giao hội với Tuất là thổ hành long thì
bác tạp, thủy, thổ tương khắc thì hung. Vậy là giàu sang nhưng gặp tai họa tán hết
ngay, không được lâu dài hưởng phúc.
Như mấy hình đồ dưới đây:

Thi ngôn
"Thanh lý thanh thời quan bất ty,
Trọc trung trọc thời như để hy;
Thanh lý trọc thời hà bàng thứ,
Trọc lý thanh thời nhân dệt huy."

Nghĩa là: Ở trong cái thanh mà lại được thanh nữa, thì làm quan cao chức lắm. Ở
trong chỗ đục mà lại bị đục nữa, thì như là ở dưới cái đáy thấp. Ở trong chỗ thanh
mà có cái đục, thì biết nhìn ngó vào bên nào? Ở trong chỗ đục mà có cái thanh, thì
cũng sinh ra người hay.
Đại khái như hình đồ dưới:

308
Thi ngôn
"Vượng kiến vượng thời trước tử phi,
Vượng kiến sát thời phụ hình uy!
Sinh kiến sinh thời nhân thiên khẩu,
Sinh kiến sát thời đinh khẩu vi.
Vượng sinh kiến sát hoặc giải hàng,
Dĩ sát kiến sát thùy miễn hung?
Cánh kiến bát diệu lai trọc xứ,
Toán gia hình lục vô di thời."

Nghĩa là: Ở phương vượng, lại thấy có cái cùng là vượng khí thì mặc áo tía, tức là
làm quan to! Ở phương vượng mà thấy cái khắc sát, thì bị tội lỗi của uy quyền luật
pháp! Ở phương sinh mà thấy tương sinh, thì nhân đinh có ngàn suất số. Ở phương
sinh mà thấy có cái sát, thì nhân số ít! Ở phương sinh vượng mà thấy có sát khí, thì
bị giảm xuống hoặc bị thải hồi! Ở phương sát mà lại thấy cái sát, thì ai mà tránh
thoát được cái hung họa! Nếu 8 ( tám) cái phương sát ( là Bát diệu sát) dẫn lại chỗ
đục ( tức là phương vị hung) thì toàn gia bị giết chết hết!
Xem hình đồ đại loại dưới mà suy ra các phương vị hung sát những cục địa khác:

309
Thi vân
"Tuy hữu kim câu quải nguyệt hình,
Nhược ly thái cực tức phi chân!
Túng thị thiên diệp liên hoa thế,
Diệc yếu Ngũ hành tác chũ tân.
Nhược thị Tháii cực ngũ hành không,
Công tào truyền tống sa thủy hùng!
Hiệu viết: Bình, tướng ly tâm cục,
Túng hữu phúc lai diệc bất hồng!"

Nghĩa là: Tuy có cái hình như là Kim câu quải nguyệt, nhưng nếu lìa thái cực ( tức là
âm dương) là giả huyệt. Dầu là có cái thế như hoa Sen ngàn cánh. Cũng cần phải có
ngũ hành làm chủ, làm khách. Nếu không hợp ngũ hành của Thái cực. Dầu là sa,
thủy mạnh như Công tào, Truyền tống cũng gọi là cái cục địa: “Binh tướng ly tâm”
( là tướng, binh lìa nhau, không đồng tâm nhất chí)! Dầu có phước lại cũng chẳng
được là phước to, là không được tốt hoàn toàn!
Thí dụ: Như hai hình đồ dưới đây:

310
 
Thi vân
"Mộc tinh đương vị ứng triều thiên,
Thổ tú hoàn tòng tứ giác thiên;
Kim chân diệc yếu tòng biên hạ,
Thủy tinh tu tại động xứ toàn."

Nghĩa là: Mộc tinh thuộc về dương vị, nên đặt mộ triều hướng về dương vị. Thổ tinh
thì theo về bốn góc mà điểm huyệt. Kim tinh là chân hình, cũng phải theo về bên rìa
mà hạ táng. Thủy tinh nên tìm ở chỗ động, là chỗ uốn khúc cong mà đặt huyệt.

311
Thi vân
"Tổng kỳ huyệt tình hữu chính xuyên,
Tà xuyên, đơn xuyên, cập song xuyên;
Hoa tâm chỉ tức hữu thiển thụ,
Nghịch quải, thuận quải, ngoại ứng liên.
Đồng tử tòng cục đa hình tượng,
Chỉ tại minh nhân nhãn giới gian."

Nghĩa là: Tóm lại thì huyệt tình có cái là Chính xuyên, có cái là Tà xuyên, Đơn xuyên
và Song xuyên. Có cái như Hoa tâm, cái là Thiểm thụ, cái là Chỉ tức. Có cái là Ngịch
quải, cái là Thuận quải và là Ngoại ứng. Có cái gọi là Đồng tử ( là quả Ngô đồng)
v.v… Còn nhiều hình tượng, tùy ở cái địa cục, giống cái hình gì thì gọi là cái ấy. Chỉ ở
hai cái mắt của người thông minh thì thấy hết thảy, chẳng có gì là bí hiểm cả. Đại
khái như mấy cái hình đồ dưới đây:

 
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 28

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:24 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ lục hình thức 1


Việt Hải

Ở miền bình địa có hình Ngọc Xích, gọi là: “ Nhất tự văn tinh”. Nếu được vuông vắn bằng thẳng,
ở trước mặt lại có hình cửu khúc chầu lại, gọi là: “ Ngọc giản lâm triều”, nên tới chỗ trung tâm đón
thủy lai mà điểm huyệt.

312
Phụ lục hình thức

Giải thích

1. – Ngự bệ thức
Ở nơi đất bằng khí tụ xuất hiện mạch hình như chữ Chi ( ), chữ Huyền ( ), tựa như
chim nhạn đi trong mây, phân ra cao thấp chín lần gọi là: Ngự giai, tức là như thềm
nhà vua xưa. Nên tìm chỗ thổ lộ như hình kim quang ( vòng cong thu tròn gợn lên)
mà điểm huyệt ở giữa chỗ vựng cao hơn, hướng đón vào chỗ thủy hợp nhau, hoặc có
khúc chiết, gọi là: “ Tam thoa thủy hợp”, có chín cấp gọi: Thiên khê ( thang lên trời).
Nếu đất có cách này, quyết đoán là giàu sang tuyệt bực! Con trai thì Công Khanh,
Thủ tướng, gái thì Cung phi Hoàng hậu thời xưa.

2. – Ngự giai thức


Nơi bình địa mà khí tụ xuất hình Thổ tinh, gọi: “ Ngự giai triều cận”, tức hình tượng
thiên tử ngự triều đời xưa, là cách quý thượng hạng! Xem chỗ mạch nhập thủ ngang
và thẳng hợp lại, tụ tích sinh khí quán thông cả phía trước, phía sau, tới chỗ mạch
thùy đầu mà điểm huyệt. Nếu hình chữ Nhất mà không rủ mạch, thì nên đến chỗ tích
tụ khí mạch ở đỉnh chỗ ấy, đón chỗ thủy triều bão mà điểm huyệt.

Thơ đoán:
"Phương thổ tằng tằng hiệu Ngự giai,
Cánh hỷ nghi trượng lưỡng biên bài;
Lai vãng vô phi chu tử khách,
Nhi tôn thế đại sủng ân lai!"

Nghĩa là: Hình thổ tinh vuông mà có tầng tầng cấp bậc gọi là: Ngự giai – Như là nghi
thức bày đặt ở hai bên đài khánh lễ Hoàng vương – Như vậy đều là những quý khách
áo tía đai vàng vãng lai dự tiệc! – Nên con cháu đời đời có ân phúc tiếp đến!

313
3. – Ngọc giản lâm triều
Ở miền bình địa có hình Ngọc Xích, gọi là: “ Nhất tự văn tinh”. Nếu được vuông vắn
bằng thẳng, ở trước mặt lại có hình cửu khúc chầu lại, gọi là: “ Ngọc giản lâm triều”,
nên tới chỗ trung tâm đón thủy lai mà điểm huyệt.

Thơ đoán:
"Kim đồng Ngọc trụy hỷ tương liên,
Đại địa vi quan cận Đế tiền;
Cánh gia kiếm ấn sinh tả hữu,
Phong Hầu, Bái Tướng bất tu ngôn!"

Nghĩa là: Mừng có hình như là Kim đồng Ngọc trục liền nhau – Vậy đời đời có làm cao
quan ở gần ngai vàng nhà vua – Lại thêm có hình như cái ấn ở bên tả hoặc bên hữu
– Quyết nhiên là được phong tước Hầu hoặc Bái tướng, không cần phải nói nữa!

4. Quyển liêm điện thức


Ở nơi bình địa có khí tụ hình Thổ tinh, xuất mạch đâm theo đường lối nhu là đan dệt
từng hàng dây sợi, gọi là: “ Quyển liêm điện thức” : nhập thủ long, hình thành chữ
Nhất, xem như câu đầu, mà lại như trực thể, không phải là câu! Nên nhận xét chỗ
nào có khí tụ tích thì điểm.

Thơ đoán:
"Tụ khí tinh thần điệp trùng trùng,
Quyển liêm bình chính xuất Tam công
Diện tiền lưu thủy xả chi huyền,
Nhi tôn thế đại, thụ Hoàng phong!"

Nghĩa là: Có khí tụ nên đất khởi lên từng cấp cao thấp, lần một lại lần một, xếp hàng
như bức mành mành ngay bằng thẳng thắn, thì phát xuất chức phẩm Tam công
( quan cao cực phẩm) - Ở trước mặt lại có thủy chảy khuất khúc như chữ Chi, chữ
Huyền – Vậy con cháu nối đời được hưởng thụ của Hoàng thượng ba phong tước lộc.

5. – Bình địa lư tiên thức


Ở bình địa khí vượng chuyển chiết mạch, gọi là: “ Lư tiên nhập thủ”, tức là hình
mạch lại như cái roi, tựa như cây lau, ở đầu huyệt bẻ gãy như hình chữ Nhất, thùy
đầu kết huyệt. Vậy trong chỗ có nhiều cái nằm ngang, thì lấy chỗ mạch rủ xuống
thẳng mà điểm ở chỗ rủ đầu, mạch thu uốn tròn, tuy là đại thủy nhưng toàn dựa về
một bên, hai cái thủy hợp ở trước, có vài chỗ uốn gãy khúc mà chảy ra như giao nha.
Họ Quản nói: Đường đi như chữ Chi, chữ Huyền, tuy rằng đi mà không phải đi.

Thơ đoán:
"Lư tiên tam liểu thế phi hoa,
Đại đại vinh hoa phú quý gia!
Thanh giá mãn triều chu tử khách,
Văn chương cái thế, thực kham khoa!"

Nghĩa là: Hình như Lư tiên mà lại có ba cái xoáy đi như bông lau bay! – Vậy đời đời
là một nhà vinh hoa phú quý lưu truyền! – Đầy triều là khách cân đai áo tía, xiêm
hồng, lẫy lừng thanh danh phẩm giá! – Văn chương trùm cả thế gian thực là đáng
khen!

314
6. – Bình địa mai hoa thức
Ở nơi bình địa có hình như Kim thủy, lại có năm, bảy cái gò đống nhỏ, gọi là: “ Lạc
địa mai hoa”, buông ruộng biến ra như hình Mã tích, độ mạch, như hình sợi tơ vướng
trong cái thoi, cái thể thế của long mạch này, trên trời thì hợp với thiên tinh, đối với
dưới đất là đại tụ, mở ra như kiềm cục, nên tới chỗ kiềm mà điểm huyệt.

Thơ đoán:
"Lỗi lổi minh châu tự tán hoa,
Ngẫu đoạn ty liên túc khả khoa;
Hữu nhân nhận thũ chân long mạch,
Nhi tôn tất định cận Hoàng đô!"

Nghĩa là: Lổm nhổm như hòn ngọc, tựa như đóa hoa tản rời ra – Như khúc ngó sen
bẻ gãy tùng đoạn mà còn sợi tơ liền vương víu, đủ là đáng khoe khen! – Ai biết mà
nhận được chỗ long mạch chân đích – Quyết định là con cháu được tới gần nơi nhà
vua.

7. – Chúng âm triều dương thức


Hình như Cô diệu di thai, sinh ra ở giữa vũng nước bốn mặt đều là gò vuông, chỉ có
một cái ụ đất bình vòng tròn ở giữa, gọi tên là: “ Chúng âm triều dương”. Chẳng cần
phải hỏi chỗ lai mạch, chỉ tới trung tâm điểm mà đặt táng. Thư vân: “ Bình dương
bất vấn tông, thủy nhiễu thị chân long” chính là chỉ vào chỗ đó! Đây và dưới đều là
theo thủy thế mà lấy huyệt.

Thi đoán:
"Tứ diện Ngọc xích hộ kim châu,
Dương quang nhất điểm dữ nhân thù;
Thần đồng, Bảng nhãn, hoàng kim chức,
Công, Hầu, Tể tướng thử trung cư."

Nghĩa là: Bốn mặt đều có hình như thước ngọc hộ vệ hòn kim châu – Có một điểm là
Dương quang khác với người ta: - Thần đồng, bảng nhãn, quý giá hơn chức vị hoàng
kim! – Vậy thì Công, Hầu, Tể tướng ở trong nơi ấy mà phát xuất.

8. – Đoan vân đoàn nguyệt thức


Đây là hình thái âm bình diện, ở giữa nơi Bình dương mà bốn bề chung quanh có sa
vòng tròn, tụ khí, như đám mây lành vây quanh mặt trăng, nên gọi là: “ Đoan vân
đoàn nguyệt” là Thái âm xuất Cô diệu. Ở chỗ môi là lộ hình, thì tránh cái Cô diệu;
nếu ẩn, không thè môi lộ ra, thì ngồi lên cái Cô diệu theo phép Bình sát mà điểm
huyệt. Ông Vũ nói: Bình sát là như cái thuyền ở trong vùng nước mà có bờ vây
quanh.

Thi đoán:
"Văn tinh điệp điệp hộ trùng trùng,
Nguyệt lệ thiên tâm chiếu thái không;
Phú quý vinh hoa hà túc tiện,
Nhi tôn nhất cử vị Tam công!"

Nghĩa là: Hình như ngôi Văn tinh, mấy lần bao vây hộ vệ - Như vầng trăng sáng quắc
ở giữa bầu trời soi khắp cả - Cái vinh hoa phú quý không thể khen sao cho đủ hết cái
hay! – Con cháu một lần tiến cử lên chức vị Tam công!

315
Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ lục hình thức 2


Việt Hải

9. – Kim Quy bái đẩu thức

Hình Kim thủy lạc vào trong hồ lớn, trước mặt có 5, 7 cái gò nhỏ chiếu ứng, gọi là: “ Kim quy bái
đẩu”, thì tới giữa hình con Rùa, chỗ bình diện có nhũ đầu mà điểm huyệt, lấy cái gò ở trước làm
án, chỉ có một gò hình Rùa tôn trọng hơn, các gò nhỏ tản mạc, nên điểm ở mình Rùa, đó là ở
trong những cái tản nhỏ thì lấy cái tụ lớn.

 
Thi đoán:
"Ngọc xích kim quy đối thất tinh,
Thiếu niên tài tử hữu thanh danh;
Đại đại xuất nhân, chu tử quý!
Hoàn ưng cự phú vượng nhân đinh."

Nghĩa là: Có cái hình thước ngọc và con Rùa vàng đối triều vào thất tinh (sao Bắc
đẩu có 7 sao một giây liền) – Thì phát sinh người tài giỏi, từ khi nhỏ tuổi đã nổi tiếng
tăm! – Đời này truyền đời khác, đều có quan cao quý giá – Và còn là giàu to và có
nhiều người, đông đảo họ hàng thân thích nữa!

10. – Linh Quy đới tử


Địa khí phân tản ra Kim thủy dẫn vào ao hồ, có thể dạng tựa như Rùa mẹ dắt đàn
con, thì chọn lựa chỗ đoan trang điểm vào chính giữa, hoặc là táng kiên để tránh cái
Cô diệu, đấy là “ loạn trung thủ chính”, “ ngạnh trung thủ nhuyễn”, là: lấy cái chân
chính ở trong những cái tán loạn; lấy cái mềm dẻo ở trong những cái thô ngạnh,
cứng cỏi mà làm huyệt.

Thi đoán:
"Sổ điểm kim tinh tùy thủy khởi,
Kim bạch, thủy thanh thùy khả tỷ;
Xuất nhân phú quý thọ nguyên trường,
Tử tôn vinh hoa thiên vạn thế."

Nghĩa là: Có mấy cái gò Kim tinh theo nước khởi đột – Vậy là kim bạch, thủy thanh
( đều trong trắng), không ai có thể ví kịp được! – Sinh ra người sang giàu, sống lâu
mạnh khỏe – Con cháu vẻ vang muôn ngàn đời!

316
11. – Chúng tinh củng thần
Khí mạch phân ra hình Cô diệu, lạc vào khu bình điền hoặc ao, hồ; có hình Đẩu tinh:
nhiều sao nhỏ chầu vào sao Bắc đẩu. Nên nhận xét cái thế quán châu, mà điểm vào
giữa cái lớn, lấy những cái triều ứng ở trước và sau làm án chẩm, chẳng phải hỏi là
tận long hay là bất tận long.

Thi đoán:
"Trùng điệp trân châu quán hậu tiền,
Âm dương giao độ túc chân ngôn!
Đoán nhiên yếu táng dương kim huyệt,
Đại đại vi quan phước lộc toàn."

Nghĩa là: Có nhiều lần như là hình chùm ngọc, trân châu dắt díu ở đằng trước, đằng
sau là âm dương giao độ, đủ cho là chân đích rồi Cần táng theo phép Dương kim
huyệt ( kim tinh bình diện là Dương kim, lại ở giữa hồ nước, cũng gọi là Dương kim).

12. – Kim tinh bạn nguyệt


Đây gọi là Cô diệu hình, lạc vào hồ, ao hoặc nơi bình điền, nảy ra thái âm tinh ( hình
mặt trăng), gọi là: “ Kim tinh bạn nguyệt” ( là sao làm bạn với trăng), thì điểm vào
chính chỗ khẩu, là thừa hư thủ tức.

Thi đoán:
"Kim, thủy tương hàm thể thâm thanh,
Bạn nguyệt lưu tinh phân ngoại minh;
Thập nhân tài tử đăng khoa đệ!
Phi tử, yêu kim, thế đại vinh."

Nghĩa là: Hình thể thuộc về Kim thủy bao bọc gần nhau, là tinh thể rất thanh khiết! –
Lại phân ra cái kim tinh nổi ở ngoài, làm bạn quang minh đối chiếu – Vậy là có thể
mười người tài giỏi đăng khoa cấp đệ! – Đời đời áo tía, đai vàng hiển vinh!
Bốn cách trên đều là Tiểu trung thủ đai, và là tọa hư thừa thực. Nghĩa là, lấy cái lớn
ở trong những cái nhỏ mà đặt táng, huyệt ngồi trên chỗ đất cao, lưng gối vào chỗ
thấp, không khoáng.

13. – Xuân thủy phù hoa


Hình kim thủy phân khí, tản vào đầm, hồ hoặc vào khu bình điền 5, 7 cái gò đống,
gọi là: “ Xuân thủy phù hoa”, mạch này cũng khó nhận, nên xem cái thế, biết rõ
đằng trước, đằng sau, bên tả, bên hữu; tới giữa cái gò lớn mà điểm huyệt.

Thi đoán:
"Xuân thủy phù hoa dữ thủy kỳ,
Loạn trung thủ chính thiểu nhân tri!
Nhược năng điểm đắc hoa tâm huyệt,
Nhi tôn thế đại bộ vân thê."

Nghĩa là: Cái cảnh tượng của địa cục này, tựa như là cái hoa và cái thủy kỳ ngộ với
nhau trong thuở Xuân quang. Vậy ít người biết, đây phải nhớ là phép “ Loạn trung
thủ chính” – Nếu hay, điểm nhược huyệt ở giữa hoa tâm – Thì con cháu đời đời vượt
bước thang mây! Ý là đậu cao, quan lớn, phú quý lâu bền!

317
14. – Bạng thổ Minh Châu
Hình thể Cô diệu, lọt vào đầm, hồ, hoặc là đất bằng ruộng thấp khí mạch phân tản
có hình dạng như con Trai ốc nhả viên ngọc sáng, thì tới chỗ hòn ngọc ấy mà điểm
huyệt.

Thi đoán:
"Du thân quá mạch thiểu nhân tri!
Lão bạng thổ châu thế diệc kỳ,
Châu quang nhất điểm thiên kim giá!
Tử tôn thân đán phượng hoàng trì."

Nghỉa là: Mạch qua lẻn dấu ít người biết – Như hình thể “ Lão bạng thổ châu”, cũng
cho là kỳ dị! Tuy có một điểm như viên ngọc sáng, nhưng đáng giá ngàn lần vàng –
Vậy nên con cháu được dung thân nơi đền rồng gác phượng.
Mấy cách kể trên đều là mạch khí di thai tụ kết, bất tất câu nệ là mạch dài hay ngắn,
ở bình địa chỉ lấy thủy vi long, là nghĩa đó.

15. – Ly Long Hí Châu


Cái tinh thể Kim thủy lạc vào nơi bình điền, triển khai như kiềm cục, tương đối với
diệu tinh, gọi là: “ Ly long hí châu”. Nên tới trong kiềm cục đối chiếu hai chỗ thủy
hợp thoa như xâu lấy tài lộc, là theo khoảng giữa mà đặt huyệt, lấy viên ngọc làm
án.

Thi đoán:
"Minh châu nhất điểm hiến Văn tinh,
Kiềm khẩu suy khai huyệt thậm minh;
Đại đại tử tôn thực thiên lộc!
Vinh hoa phước thọ hữu thanh danh!"

Nghĩa là: Một điểm minh châu như là ngôi Văn tinh hiến ở trước mặt – Khai kiềm
khẩu ra, là huyệt kết rất rõ rệt – Vậy đời đời con cháu được hưởng lộc trời! – Vẻ vang
phú quý thọ khang có thanh danh!

16. – Bàn Long quyển thủy


Hình dạng Kim thủy mạch, ở bình điền biến ra Tảo đãng, hình như du dương cùng với
dòng thủy, đầu đuôi vòng quanh cuốn lại nên gọi là: “ Bàn long quyển thủy”; thì tới
chỗ tận cùng mà điểm huyệt ( là tiễn tài khúc động tàng trung huyệt)

Thi đoán:
"Thiều thiều kim thủy thế bàn long,
Phú tỷ Đào, Chu, trường thọ ông!
Nhân vượng, tài hưng, kinh bách thế!
Nạp túc quan viên hậu tặng phong."

Nghĩa là: Hình thể Kim tủy đi dài đằng đẵng như hình con Rồng cuộn vòng tròn cái
đầu lại. – Vậy đất phát phú, ví với họ Đào, Chu là ông nhà giàu, sống lâu! – Người
thịnh của vượng trải trăm đời không đổi! – Về sau được tặng phong tước Nạp túc
quan viên ( ở Trung Hoa ngày xưa).

17. – Thổ phúc tàng kim


Thổ tinh lạc vào nơi bình điền mà rộng lớn, khó có yên huyệt được, nhưng ở chỗ có

318
thủy triền nhiễu, ở trong giữa hoặc ở góc, có kim tinh nhỏ phô diện, hiện hình, gọi là
“ Thổ phúc tàng kim”, thì tới chỗ trên bình diện kim tinh ấy mà đặt quan; nếu không
có ở chỗ trung chính mà có ở góc, thì triệt góc mà lấy huyệt, đó là bỏ cái già lấy cái
non, tức là cái huyệt lìa thoát cái tử khí ( chết) nắm lấy cái sinh khí, là như thế.

Thi đoán:
"Văn tinh hậu thác Cự môn tinh,
Bài nha chi sa lưỡng biên nghinh;
Ngoại tụ bất phương, nội thủy trực,
Liên phương pha đệ phụ triều đình."

Nghĩa là: Sau Văn tinh có Cự môn tinh nâng đõ. Hai bên tả hữu có sa bày như Nha
môn nghinh tiếp – Ngoài có hồ tụ thủy, không hại gì cái nội thủy trực khứ - Nên liên
tiếp đậu cao khoa, phụ tá triều đình, thơm danh nức tiếng!

18. – Ngọc xích truyền thư


Thất tinh lạc vào bình địa như hình Ngọc xích, đó là trùng điệp hai cái thổ tinh, có
long mạch, có tích khí, nên dựa vào một cái thổ tinh mà đặt huyệt ở Văn tinh ( Kim
tinh).

Thi đoán:
"Song thổ trùng trùng Ngọc xích liên,
Đại đại vi quan cận đế tiền.
Gia tích tiên sương, điền vạn khoảnh!
Nhân đinh đại vượng, phú thao thiên!"

Nghĩa là: Như đôi thổ tinh lại có thổ tinh ở ngoài mấy lần liên tiếp nữa, như hình
thước ngọc, gọi là: “ Ngọc xích truyền thư” ( như quyển Ngọc thư truyền, đưa ra) –
Vậy đời đời có người làm quan cao ở gần vua – Nhà giàu, của có ngàn kho, muôn
khu ruộng – Họ nhiều đinh nam, giàu có rợp trời.

19. – Kim câu quyển liêm


Hình như Kim câu lạc mạch bình điền, vòng quanh kết cục, ở trước mặt có thủy hình
như là dệt lụa, lại có hình thế như Kim câu cuốn màng. Vậy tới trong vòng câu, đối
chiếu suốt cả những cái ứng lạc ở phía sau và phía trước mà đặt táng, gối lưng vào
chỗ thủy của bão.

Thi đoán:
"Văn tinh tác huyệt quý thủy triều,
An định tiêu chuẩn bất tu nhiêu!
Tam tứ đại gian, đa phú hào!
Tử tôn anh kiệt tác quan liêu!"

Nghĩa là: Văn tinh tác huyệt quý có nước triều tụ - Yên định tiêu chuẩn, làm thẳng
hướng, không nên gia giảm bên nào cả - Trong khoảng ba, bốn đời thì nhiều người
hào phú! – Sau cháu chắt mới có người tài giỏi làm quan!

Còn tiếp

Việt Hải

319
( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn
giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 29

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:29 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ lục hình thức 3


Việt Hải

20. – Kim câu quải nguyệt

Long mạch tảo đãng vào miền đồng bằng, biến ra Kim thể nhập thủ, có một lạch nước nhỏ nông
cạn theo chạy về đằng trước, khuất khúc, chuyển lại như vòng lưỡi câu, nên gọi: “ Kim câu quải
nguyệt”, nên tới trung tâm nguyệt hình mà đặt quan.

Thi đoán:
"Tảo đãng xuất kim, vượng long tinh,
Nhất câu chuyển xứ nguyệt quang minh;
Thủy thần bất tất vấn lai, khứ,
Nhân vượng, tài hưng thế đại vinh!"

Nghĩa là: Hình thủy Tảo đãng mà thành, thể Kim câu tinh, là long mạch vượng – Một
chỗ câu chuyển như hình mặt trăng sáng láng – Có cái nước thần tình như vậy, thì
chẳng cần hỏi đến thủy lai hay khứ! – Đấy là chân long đích huyệt, nên người thịnh
vượng, của hưng tiến, vinh hiển đời đời!

21. – Hạp trung ngọc ấn


Đây cũng là hình Kim thủy ở bình địa, trong vòng có thổ tinh nhỏ, nên gọi: “Hạp
trung ngọc ấn” ( là cái ấn ngọc ở trong hộp), vậy tới trung tâm thổ tinh điểm huyệt,
có Quan, Quỷ thì chiếu thẳng suốt vào Quan, Quỷ ( sa hoặc thủy ở đằng trước là
Quan, ở sau là Quỷ).

Thi đoán:
"Quỷ tinh ngọc ấn hoán văn chương,
Tam kỳ chi hậu, đại phát dương;
Nhi tôn nhất cử đăng cao đệ,
Ngọc đường Kim mã tọa triều đường."

Nghĩa là: Có Ngọc ấn là cái quý tinh thì phát văn chương hiển hách, rất lừng danh! –
Sau ba kỷ thì đại phát dương! – Con cháu ứng cử một lần là chiếm được cao khoa! –
Tứ là Kim mã Ngọc đường, ngồi ở trong triều đình.

22. – Thảo lý minh châu


Có khí vượng lạc vào khu bình địa, ở trong mấy cái phân khí có cái đống tròn, nên

320
gọi: “ Thảo lý minh châu” ( nghĩa là ở trong bãi cỏ có viên ngọc sáng), nên đến giữa
viên ngọc ấy mà điểm huyệt, đấy là cục đất loạn trung thủ chính.

Thi đoán:
"Phù thủy Mộc tinh tam tứ điều,
Biến xuất kim bàn tụ khí nhiêu!
Minh châu xuất thủy thiên thừa chiếu,
Nhi tôn hiển đạt tác anh hào!"

Nghĩa là: Có ba, bốn cái hình Mộc tinh nổi trên vùng nước – Biến ra hình Kim bàn tụ
khí nhiều – Lại có hình Minh châu ở giữa, chung quanh đều chiếu ánh sáng vào – Nên
con cháu hiển đạt là bậc anh hào!

23. – Thần kình cổ lãng


Hình thể Kim thủy ở miền đất bằng, phân khí nhập cục có cái thế như cá Kình nghê
cuộn sóng, nên tới chỗ đầu khí thu tụ, đón cái nghịch thủy triều lai mà diểm huyệt.

Thi đoán:
"Thần kình cổ lãng, nghịch thủy thiên,
Tử tôn phú quý, phước miên miên!
Nhị, tam đại hậu tu đăng đệ;
Vi quan thường cận đế vương tiền."

Nghĩa là: Như thể cá Thần kình khua sóng động lên, mà điểm huyệt ở chỗ nghịch
thủy triều – Vậy con cháu giàu sang, hưởng phước lâu dài ! – Sau hai, ba đời mới đỗ
đạt cao – Làm quan to thường hay ở trước triều đinh, gần Đế vương.

24. – Tiềm long quyển vĩ


Ở bình địa có hình Kim thổ tinh xuất diện, nội thủy khuất khúc triều nhập cục, như
cái thế Tiềm long quyển vĩ, là con Rồng chìm cuốn đuôi, nên tới chỗ đầu, điểm huyệt
chính giữa óc con Rồng ấy.

Thi đoán:
"Tiềm long Kim thổ phương thả viên,
Nhị thủy giao hoàn nhiễu huyệt tiền,
Tam đại nhân tài đại phát phước,
Tử tôn tất định, chiếm khôi nguyên."

Nghĩa là: Hình như con Tiềm long, lại có hình Kim thổ tinh ( vừa tròn mà vừa vuông,
là hình Kim thổ) – Hai giải thủy hợp ôm vòng trước mặt, là loan bão nhiễu huyệt tiền
– Ba đời phát phước lớn, cả người lẫn của đều thịnh vượng! – Quyết đoán là con cháu
chiếm bảng khôi nguyên, tức là thủ khoa.

321
25. – Xuất thổ ngô công
Hình thế tảo đãng chuyển mình biến ra Kim thủy ở nơi Bình dương, gọi là hình Xuất
thổ ngô công, là con Rết bò ra đất bằng, thì tới chỗ đầu nó mà đặt huyệt, gối vào hai
tai huyệt ngồi ở trong kiềm, nhưng tiếp mạch chỗ chính giữa.

Đoán vân:
"Tảo đãng khuất khúc thế bàn toàn,
Biến xuất kim thủy cư thủy biên;
Giã vượng nhân đinh giã phú quý,
Tử tôn ưng thị Tử vi viên."

322
Nghĩa là: Hình thế phóng đãng và lại khuất khúc, quanh co – Biến ra hình Kim thủy ở
bên cạnh lạch nước – Vậy giàu sang, người nhiều, của sẵn – Con cháu được ngồi
chầu ở nơi Tử vi viên, tức là cung điện nhà vua.

26. – Tượng tụy quyển vân


Hình Thổ tinh mà bình, là thiên tài, biến ra Kim tinh nhỏ, có hình thế tượng tụy
quyển vân, là vòi Voi cuốn đám mây, thì nên tới động mà điểm huyệt vào chỗ Kim
tinh khuyết lõm, đấy là lấy cái nhỏ ở trong cái lớn làm cái quý hơn.

Đoán vân:
"Tượng tụy quyển vân thị đơn đề,
Thổ giác lưu kim nhân thiểu tri;
Tiền tài đại vượng gia hào thịnh,
Nhi tôn tất định bộ vân thê."

Nghĩa là: Vòi voi cuốn mây là cách đơn đề - Ở góc Thổ tinh có như hình Kim tinh trôi
cuốn, ít có người biết! Đó là cách tiền tài đại vượng, hào gia phú túc – Con cháu tất
định là tiến bộ, làm lên to, nên bảo: bộ vân thê, tức là vượt bước thang mây.

27. – Hồng liên xuất thủy


Hình thể là Cô diệu mà có như hai cẳng tay xuất lạc ở nơi bình điền, hoặc ở nơi đầm
hồ tựa như bông Sen, nên gọi là: “ Hồn liên xuất thủy”. Vậy tới giữa chỗ hoa tâm
điểm huyệt.

Đoán vân:
"Nhất đóa Hồng liên phiếm thủy khai,
Trung tâm nhất huyệt sản kỳ tài!
Long, hổ trùng trùng thanh khí thịnh,
Đệ, huynh bái tướng tọa kim thai!"

Nghĩa là: Một đóa hoa Sen đỏ nở trên mặt nước – Có một huyệt ở giữa lòng hoa, sinh
ra người tài khác lạ! – Hai bên long hổ có mấy lần thanh khí thịnh vượng – Quyết là
cả anh, em làm nên chức vị bái tướng, tọa chốn Kim thai ( tức là ngai vàng bệ ngọc).

28. – Thanh bình phiến thủy


Hình thể Kim thủy xuất hiện ở nơi Bình dương, tựa như cái bèo xanh lềnh bềnh trên
mặt nước. Thư vân: “ Kim thực giả, thừa kỳ hư, đương tầm pha tâm vi động xứ”.
Nghĩa là: Kim tinh đầy đặc, thì nên lấy chỗ đê bình, tức là chỗ thấp phẳng có động
một chút, thừa tiếp chỗ thủy động mà đặt táng.

Đoán vân:
"Kim thủy phô lạc đáo bình pha,
Lục bình phiếm phiếm xuất tinh ba;
Động, tĩnh tương thừa tầm thủy huyệt,
Tử tôn thế đại chiếm cao khoa."

Nghĩa là: Hình thể Kim thủy đến chỗ đất bằng phô lộ ra – Hình dạng như đám bèo
xanh lềnh bềnh trên làn nước như sóng động, trông thấy hữu tình – Vậy tìm ở chỗ
động, tĩnh nối tiếp nhau mà đặt huyệt, tức là nơi gần nước giao hợp – tất sinh ra con
cháu đời đời chiếm bảng cao khoa.

323
Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ lục hình thức 4


Việt Hải

29. – Thuận thủy duy chu

Hình Thổ tinh, bình diện mà xuất hiện Kim thể, bốn lạch thủy hợp lưu là được cái thế “ Thuận
thủy duy chu” ( là ràng buộc thuyền lại). Vậy tới chỗ trung tâm xem có vi oa ( chỗ lõm ít) mà điểm
huyệt.

 
Đoán vân: Thổ tinh sinh Kim, Kim sinh thủy
Tử, Mẫu, Công, tôn, đồng nhất loại;
Thừa hư tế tế nhận tư sinh,
Tử tôn khoa đệ đăng cao quý!

Nghĩa là: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy – Mẹ, con, Ông, cháu cùng một dòng giống –
Vậy phải cẩn thận nhận xét kỹ càng long mạch tuy vi động ( nhỏ thấp), nhưng tư
chất là thanh khí sinh hoạt, thuần khiết – Quyết định con cháu đăng khoa cao quý!

30. – Hoàng xà thổ khí


Hình như nghiêng mình, phóng đãng, biến ra thể Kim thủy, như con Rắn ngoằn
ngoèo khuất khúc, nên gọi là: “ Hoàng xà thổ khí” phun rãi. Vậy tới chỗ giữa miệng
khí mà điểm huyệt, đối với lưu thủy ở phía trước, như thư hùng giao hợp.
Đoán vân: Hoàng xà thổ khí, khí khẩu chân,
Kim thủy sinh nhân quý mạc luân!
Nhân vượng, tài hung tam, ngủ đại,
Quan nhậm hoàng đường cập Hàn lâm.

Nghĩa là: Con Rắn vàng nhả khí, thì ở chỗ miệng nó là khí thật – Thể chất Kim thủy
thì sinh ra người quý lắm! Không phải bàn nói nữa! – Người hưng, của vượng đến 4,
5 đời không hết.

31. – Giao cảnh uyên ương


Địa hình tảo đãng ( buông phóng rộng ra), khoảng trong thì nhỏ, bên ngoài thì to, ở
phía trước có lạch nước nhỏ khuất khúc triều vào, ở đằng sau có một lạch nước loan
hoàn tiến vào, hình thế như đôi uyên ương hai cổ giao hợp gần nhau, tới chỗ cổ cong
mà điểm huyệt, là chỗ khí qua ngang, huyệt đặt vào chỗ bóng của hai bên ngả vào.
Đoán vân: Lưỡng phiến loan sa bất túc khan!
Nhận thủ trung tâm tế xứ an;

324
Tiền, hậu nhị thủy phân thanh, trọc,
Quản giao thế đại xuất cao quan.

Nghĩa là: Có hai phiến sa loan, xem như vậy thì không đủ cho là tốt! – Nhưng nhận
thấy chỗ trung tâm có thể yên được – Vì đằng trước, đằng sau có hai giải thủy, phân
biệt cái thanh, cái trọc mà điểm huyệt – có thể đời này, đời khác cũng xuất được cao
quan.

32. – Lưỡng khuyển giao Xuân


Hình thể là Thổ Kim, phân ra làm hai mảnh quân bình như bày hàng cân đối, tựa như
thế Lưỡng khuyển giao cấu! Nên đến chỗ quá cái mạch ngang mà đặt âm huyệt.
Đoán vân: Khí thế hoành phân nhị khuyển hình,
Bài nha xướng nhạ lưỡng biên nghinh;
Dương tinh nhất mạch chân tiêu tức,
Môn tiền thanh báo Trạng nguyên danh!

Nghĩa là: Cái khí thế chia ngang ra hai mảnh tựa như hình hai con Khuyển – Bày
hàng ở hai bên như đón rước vái chào – Chỉ có một mạch thuộc dương tinh, thì thật
là chân tiêu tức ( tức là chân khí mạch) – Đất này quyết có tin báo danh Trạng
nguyên đến trước cửa, tức là đậu Thủ khoa không sai.

33. – Khuê Bích liên huy


Hình thể là Thổ Kim lạc vào nơi bình điền xuất diện thể, bình viên ( phẳng và tròn)
mà sau lại kéo ra thành hình Thổ tinh vuông, có cái hiện tượng như là sao Khuê, sao
Bích liền nhau cùng soi sáng. Vậy tới chỗ Kim diện ( mặt kim tinh) mà điểm huyệt,
tọa vào chỗ mạch dẫn đi, lấy Thổ tinh làm quỷ sơn ( ở sau lưng), đấy là quá khí,
chân âm huyệt.
Đoán vân: Ngọc chẩm song song, hậu quỉ kỳ!
Mãn nguyệt kim quang, thị tử vi;
Thủy tứ bất sầu, quan tước lộc,
Nhi tôn bình bộ thượng vân thê!

Nghĩa là: Như cái gối ngọc nằm song song ở đằng sau rất là kỳ! – Như hình Kim tinh
tựa hồ mặt trăng đầy đặn sáng soi, thế là ngôi sao Tử vi – Có cái thủy tú, vậy không
lo gì về phần quan liêu, tước lộc – Con cháu thẳng bước lên thang mây, ý nói tài
năng cao quý làm nên.

34. –Toàn loa hấp nhật


Hình tượng Thái âm (mặt trăng) ở nơi bình địa có một vế quanh vòng, là: “Đơn cổ
bàn toàn”, có hình thế như con Ốc bể hút khí sáng mặt trời. Vậy nhận cái tích khí ở
chỗ tận cùng bình viên ( tròn và phẳng mặt) mà điểm huyệt.
Đoán vân: Khúc cước Kim, Thổ đơn cổ thâu
Nhất phát nhân tài cận bách thu;
Nạp túc tú tài đăng giáp đệ!
Phú quý thanh danh chấn Đế đô.

Nghĩa là: Hình Thổ tinh có chân khuất khúc hình Kim tinh, có một bên vế thu khí như
hình mặt trăng – Vậy phát phúc lâu bền, người và của đều tịnh vượng gần trăm năm!
– Chỉ đi nộp thuế thóc mà được ban thưởng Tú tài đăng giáp đệ, giàu sang nổi tiếng
đến kinh đô Đế châu! ( Ý là nói chỉ phát đại phú thôi! Nhà vua thấy nộp thuế nhiều
quá, mới thưởng cho tước “ Nạp túc Tú tài”!

325
35. – Thủy Liên vân thức
Hình Kim tinh bình diện ( tức là hình tròn, mặt bằng phẳng), có hai lạch nước khuất
khúc chảy theo vòng quanh đi, tựa như thế thủy liền mây. Vậy tới giữa trung tâm
hình Kim ấy mà đặt táng, đấy là cách “ Trực trung thủ hoành” (tức là trong chỗ
thẳng thì lấy chỗ quay ngang). Họ Quản nói: Cái dương linh chung khí sáng ánh ở
phía đông, thì cái âm, tạo thành cái lưu thanh góc bên tây.
Đoán vân: Nhất thủy liên vân thế bất cô!
Tam hoành, ngũ khúc dữ nhân thù,
Tuy nhiên bất xuất Công, Hầu quý!
Giã tại lục khanh bộ lý cư!

Nghĩa là: Có một cái thủy mà như là thế liên vân, thì không phải là thế đơn cô! – Có
ba cái quay nằm ngang, năm chỗ khuất khúc, là khác hẳn với mọi cái của người ta
rồi – Tuy không xuất Công, Hầu thượng quý, nhưng cũng ở trong lục bộ triều đình,
Khanh tướng chứ vị!

36. – Ngũ Long tranh Châu


Khí tụ rộng rãi, biến ra hình Cô diệu, như thể là năm con Rồng tranh một hòn ngọc,
khí ở năm con Rồng đều thu tụ vào viên ngọc, thì phải tới viên ngọc mà điểm huyệt.
Nếu chỉ là một vùng nước rộng lớn như thanh tuyền, thì lấy phép Hàn đàm nguyệt
ảnh huyệt, tức là điểm vào giữa cái hình mặt trăng ở vùng thủy ấy; nếu nước sâu thì
lấy đất ở ngoài đắp cao to têm lên mà đặt táng, ví như cái bóng hình mặt trăng ở
trong lòng hồ nước lạnh, sáng trong như gương soi đáy nước.
Đoán vân: Chúng sơn, chung thủy nhất tề bôn,
Tụ khí tinh loan thế độc tôn!
Nhược vô minh châu tầm nguyệt ảnh,
Nhất luân thụy sắc mãn kiền khôn!

Nghĩa là: Cả mọi giải sơn, mọi giải thủy cùng chạy đến một chỗ đều đặn như nhau –
Khí thu tụ, thế loan hoàn, chầu vào một cái gò tròn tôn nghiêm! – Nếu không có hòn
minh châu thì tìm cái hình như là mặt trăng mà điểm huyệt – Đây là một vòng tròn
khí sắc tốt đẹp, rực rỡ đầy một bầu trời đất!
Ba mươi sáu (36) hình đồ trên đây là ở tập Thủy cách của Tiên Bà sáng lập, nguyên
do cũng theo 36 cách Thủy kiềm của Quách Công thoát thai ra, cũng là để bổ khuyết
và gia tăng, vì 36 cách của Quách Công chưa là đủ! Tôi nhận thấy 36 cách thức của
Tiên Bà này có phần giản dị và thực tế hơn. Hiện tại, ở Việt Nam thường hay có
những cách này; vậy tôi thuật lục để độc giả thấy rộng thêm.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 30


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 18:30 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Thủy Long chi cán

326
Việt Hải

Thủy Long chi cán

Thủy long cũng có cán long, chi long như Sơn long. Cái đại long như là cái sông lớn là cán long.
Cái sông nhỏ ở sông lớn phân phái ra, rồi lại phân ra những ngòi lạch khác, đó là chi long cả;
không khác gì chi, cán của Sơn long vì thế mới gọi là Thủy long.

Vậy ở miền Bình dương, hễ thấy có đại giang, đại hà loan bão hoặc khuất khúc hoàn
nhiễu ở ngoài, là đại cục, hay kết đại địa. Có tiểu giang, tiểu khê hoàn bão triều lại,
là hay kết trung địa. Có ngòi, lạch nhỏ hoặc giải ruộng trũng ngắn hẹp hoàn nhiễu, là
kết tiểu cục, tiểu địa; đại ý là như vậy.
Thủy long cũng có cái đơn cô, cũng có cái trùng trùng điệp điệp; có cái chỉ kết một
huyệt, có cái kết 2, 3 uyệt hoặc 5, 7 huyệt không hạn số.
Kể ra thì cũng có muôn hình vạn trạng, có tốt, có xấu, không bút nào tả xiết. Nhưng
tóm lại, bất luận là cán long hay chi long, cần phải loan hoàn, khuất khúc thì mới là
hoạt động, là sinh long thì mới là sinh khí, có sinh khí thì phải có chân long, phải là
chân long thì mới có cát huyệt! Trái lại, nếu thô ngạnh, trường trực, tán đãng là tử
long ( long chết), tử khí thì không kết huyệt. Bởi vậy phải am tường thủy pháp thì
mới biết là sinh long hay là tử long, cũng như Sơn long, chớ thấy thủy đã vội cho là
có long, có huyệt, thì thật là lỗi lầm quá!
Cũng có cái thủy đơn hành, ít phụ tá, nhưng cái bản thân nó toàn nhiễu, là vòng
quanh ôm lại gần nhau, hoặc biến sinh ra chi tiết, tựa như có lông có cánh, thì cái khí
ấy tự nhiên giao cấu, tuy là đơn, nhưng không phải là độc! Vì cũng có thư hùng giao
phối. Cũng có cái chỉ có một giải thủy thôi nhưng ở trong khoảng có mấy chỗ đâu
thu, chứ không phải có một chỗ nó dẫn đi như hình dạng giây dưa, giây bầu, nó lững
lại hình như đốt, cái bọc bừu ra, có một giải đất mà ở đó kết hai, kết ba huyệt, đấy là
cái thai khí nó thâm hậu mới dưỡng dục được nhiều thế! Thì những cái ấy đều biến
thành cục cả, cùng đặt táng được và đều phát phước!
Phần nhiều người chỉ biết cán long là quý ( !) mà không biết là cái cán mà thô lão,
tức là già, thì lại không sinh dục được! Trên cái cán nhờ cái chi non tươi tiếp cho cái
cán khỏi tẩu tán, tức thì sẽ chuyển khí sang cái chi non, thì huyệt kết ở cái chi non.
Đừng thấy cái chi nhỏ không gần với cán mà nghi hoặc, cho là long khí bạc nhược!
Nên biết là, cái long mạch nó thoát tá là thâm tàng, càng rất bé đi càng hay! Vậy có
chữ: “ Khí nhập đại tắc tán, khí nhập tiểu tắc tụ!” chính là ý nghĩa đó. Vì như là cái
ấm rót vào cái chén thì phải rót vào cái vòi, nếu không có vòi nhỏ mà rốc cả cái
miệng ấm to, thì tóe ra ngoài hết, vì cái ly nhỏ xíu chứa đựng sao được!
Vậy bất luận Sơn long hay Thủy long càng dài bao nhiêu thì càng quý, càng rộng lớn
bao nhiêu thì càng hay! Tức là đại long mạch, đại cục, đại địa. Nhưng khi dẫn đến
huyệt trường kết địa, thì cái long mạch nhập thủ phải nên thắt nhỏ hẹp lại, gọi là
thúc khí, dẫn vào huyệt chỉ có một chữ ở khe kẽ của La tinh, thì mới là tinh tế thuần
thúy không bị hỗn tạp.
Cũng có chỗ 5, 7 chi thủy tương đương tầy nhau, không cái nào có thể làm chủ thu
thập thống lĩnh được, như vậy thì không hay thành ục. Tất nhiên phải có một chi
thủy độc kết, mà sau mọi chi thủy đều lấy làm tác dụng, như là chúng chi, dực vệ
nhất chi, tức là cực đại kết cục, gồm cả cán thủy ở xa lại cũng đều hoàn nhiễu
nghinh triều, hình như toàn lực ngưng trú ở đấy, đó là thượng đẳng chi long!
Cũng có những cái thủy lai mà không có tình lưu trú, thì chi là cái thủy thông hành
vãng lai thôi, hoặc là đại tụ, nhưng cũng là cái thủy chung của cả mọi người cùng
được có, nên gọi là của công, cái công ấy chỉ mượn làm cái ngoại tú (cái đẹp ở bên
ngoài), nên gọi: khách thủy, tức là cái thủy ở ngoài xa chảy qua để phụ trợ thêm

327
thôi!
Cái nội thủy loan hoàn mới là quý, tuy ít, nhưng là cái thủy tinh hoa nguyên thần của
bản thân, nên gọi: của tư, tức là của riêng một mình, để ỷ thác tính mạng vào đó,
đem cái chân khí đó để khống chế những cái sa, thủy tinh thần của tám phương
chứng ứng ở chung quanh mình, nên mới gọi là làm chủ trì, chỉ huy tất cả cái sa,
thủy tinh thần ( gò đống) thuộc trong khu vực đại cục đó.
Nếu cái thủy ấy cùng tương tự như hình thế mọi cái, không phân biệt được cái nào là
chủ, cái nào là khách, thì phải nhận định:chúng đại độc tiểu hoặc chúng tiểu độc đại,
chúng trường độc đoản hoặc chúng đoản độc trường, chúng tử độc hoạt hoặc chúng
tà độc chính, chúng trực độc khúc v.v… Hễ thấy một cái đặc biệt, là sinh khí tụ chung
ở cái ấy,thì cái ấy là chân long, còn ngoài ra đều là cái phụ tá hỗ trợ vào cái chân
long ấy cả. Nhưng cái hay chính của cái thủy là chân long ấy, chỉ ở trong khoảng vi
mang diễu hốt, tức là nước nông cạn chỉ xấp xảnh mong manh thôi, chỗ ấy là Thái
cực của Tạo hóa! Cũng như những cái huyền khiếu ở trong thân thể người, tức là
những cái lỗ hổng nhỏ ở chân lnog da thịt mình, hết thảy biến biến, hóa hóa đều
theo chỗ ấy mà phát xuất, nên gọi là Hóa khí; đất cũng như người, xét suy ra thì có
lý xác thực, chứ không phải là giả thuyết hư huyền! Vậy độc giả lưu ý đem cái trí tuệ
thông minh mà nhận định để khỏi hồ nghi.
Đại khái như mấy hình đồ dưới đây:

328
Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ luận hình tượng


Việt Hải

Phụ luận hình tượng

Trên trời có các vì tinh tú, dưới đất có các loại sinh vật. Cái thề dạng của mỗi loài vật nhân cái
khí tượng của các tinh tú xuất hiện nếu không có cái tinh chất thực thì không phát lộ ra như thế
được, không có cái sắc mạo thực thì đâu có phô trình ra như vậy được, nên có câu: “Hữu ư
trung, tất hình ư ngoại” chính là nghĩa đó. Nhưng cái sơn tinh thì dễ thấy, chứ cái thủy tinh thì khó
biết!

 
Vậy các Tiên hiền, Tiền triết phải vẽ ra hình đồ và chỉ dẫn rõ ràng để hậu nhân khỏi
mơ hồ:
Cái tròn là hình Kim tinh; cái dài thẳng là hình Mộc tinh; cái vuông là hình Thổ tinh;
cái nhọn là hình Hỏa tinh; Thủy tinh thì uốn lượn nhu hình sóng nước. Thổ tinh là
trung ương vị, của Ngũ hành; Ngũ hành có cái hình nguyên vẹn một thể, có cái gồm
hai thể hoặc biến hóa nhiều hình thể không hạn.
Chẳng phải chỉ có một ngũ diệu tinh, còn có viên cục tinh nữa ( tinh của cục). Ngũ
diệu tinh tuy bày tản ra, nhưng được một tinh đoan chính là tôn đặc! Tinh viên được
hợp cách như có hình ỷ, cái củng môn, tức là có sơn sa hộ vệ phụ tá triều củng vào
cửa ngõ, như là Tam viên Đế tọa, tất nhiên có một vị Thiên tinh ở trong nhị thập bát

329
tú làm chủ tọa, quản lý một cung, chính ở trong đại viên cục ấy. Tùy ở sở tinh, thuộc
về tinh nào thì tinh ấy cầm quyền chấp chính toàn cục bộ.
Suy xét nguyên do của cái linh ứng ấy, là ở Tinh viên giáng hạ mà hóa ra các hình
vật như Long, Ly, Quy, Phượng và hết thảy môn loại thuộc về Cầm, Thú, Côn, Trùng,
cùng khí cụ vật liệu v.v… Kể có hàng muôn ngàn chủng loại không thể gọi tên hết
được! Những chủng loại ấy còn kết khí, ứng vào địa huyệt mà xuất phát ra Nam, Nữ,
Văn, Võ, Quan liêu, Phú quý, Bần tiện, Phước, Họa … không thể diễn tả hết được!
Vậy tùy ở địa cục, thấy có cách gì sẽ suy ra mà quyết đoán.
Cần nhớ rằng: Viên thì chủ ở ngoại khí, Tinh thì chủ ở nội khí. Viên mà không được
có khí, thì chỉ là cái đồ dùng hư giả thôi! Tinh mà không được có Viên ( có cục tốt),
thì Tinh hay tự chế được! Vậy nên phải trù tính cái bản kế, nghĩa là cần biết cái huyệt
tinh trước, chớ tham cái thế cục!
Trên đây là nói: Sơn hình có Thiên tinh thì thủy hình cũng có Thiên tinh. Nhưng đời
chỉ biết Sơn tinh thôi, còn Thủy tinh thì ít người biết! thường thường chỉ tháy chuyên
nói về danh tính của địa hình mà thôi. Vậy phải chỉ dẫn cái bình Thủy cho những
người chưa từng biết, hãy xem đấy mà nhận lấy, nhớ lấy mà làm, chớ nên coi thường
thì uổng công, vô ích!
Trong Ngũ tinh ( hay Ngũ diệu, Ngũ hành cũng vẫn là một, muốn gọi tên nào cũng
được), thì chỉ lấy Thổ tinh và Kim tinh là chính kết thôi, Thủy tinh thì nên ở ngoài làm
phụ tá thì tốt. Hỏa tinh cũng kỵ huyệt, chỉ nên ở ngoài làm sơn sa chứng ứng thì hay.
Mộc tinh cũng phải biến ra khúc hoặc tiết, bào thì mới kết huyệt.
Ngũ tinh cũng có kiêm thể, tùy hình biến ra Cửu tinh, Lão cửu tinh, Thiên cơ cửu
tinh, đã kể ở mục Tầm long v.v…
Viên tú ( hay Viên tinh, Cục tinh cũng thế) cũng không thể lìa Ngũ hành được! Thủy
hình kiêm vài tinh thể, tức là thành một viên tú của cục hoặc là mượn cái ngoại thủy
củng bão chiếu vào, là Viên cục, nhưng ở trong viên cục phải có tinh tú phô bày, nếu
có được một cái tinh, là quý tú, đã xuất quần làm tiêu biểu cho các tinh chứng ứng,
tức lấy Thiên tinh ấy làm chủ để chi phối, đối chiếu với các tinh ở tả, hữu, tiền hậu,
xem tinh nào được sinh vượng, tinh nào là xung sát mà xu cát, tỵ hung! Phát phước
hay sinh họa, theo đó mà đoán cũng như ở Sơn cương, cùng một luật lệ. Tóm lại, là
ngoài có Viên cục thì trong cần phải có huyệt tinh để lập huyệt; đã có huyệt thì dầu
là không hợp với Viên cục, nhưng nguyên khí được chu toàn kiên cố thì còn nghi hoặc
gì mà không phát đại phước! Cho nên cần xét cái gần, là cái Bản tinh, không nên
tham cái xa là cái Viên cục. Nếu được cả Viên cục thì càng hay, không thì có huyệt
tinh là được rồi!

Tiến khí thuyết


Xem đất ở miền Bình dương, chỉ cần xem tiến khí thôi! Tiến khí là mạch nhập thủ, lại
gọi là mạch đáo đầu nữa, chỗ gần nước là sinh khí.

330
Như một khối đất, ở giữa khởi cao hơn mà bốn phương tám phía đều có kết huyệt;
nếu phía Nam gần nước thì tác Khảm cục, phía bắc gần nước thì tác Ly cục, tứ duy,
tứ chính đều làm như thế ( Tứ duy: Kiền, Khôn, Cấn, Tốn – Tứ chính: Chấn, Đoài,
Khảm, Ly). Kinh ghi rằng: Hễ có một khối đất, tất thị khí từ giữa dẫn ra. Thí dụ: như
hình dạng cái là Sen, thì khí mạch theo cái cán hay cái cuống dẫn vào giữa chỏm, rồi
mới tản ra bốn bề. Hễ thấy hình như thế, thì chẳng cần hỏi chỗ mạch phát nguyên
nữa! Cứ theo chỗ nào có khí mạch vi động và thủy lan bão, thì đặt huyệt được!
Xem mấy hình đồ trên đây.

Còn tiếp

331
Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 31

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:36 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ luận hình tượng


Việt Hải

Phụ luận hình tượng

Trên trời có các vì tinh tú, dưới đất có các loại sinh vật. Cái thề dạng của mỗi loài vật nhân cái
khí tượng của các tinh tú xuất hiện nếu không có cái tinh chất thực thì không phát lộ ra như thế
được, không có cái sắc mạo thực thì đâu có phô trình ra như vậy được, nên có câu: “Hữu ư
trung, tất hình ư ngoại” chính là nghĩa đó. Nhưng cái sơn tinh thì dễ thấy, chứ cái thủy tinh thì khó
biết!

Vậy các Tiên hiền, Tiền triết phải vẽ ra hình đồ và chỉ dẫn rõ ràng để hậu nhân khỏi
mơ hồ:
Cái tròn là hình Kim tinh; cái dài thẳng là hình Mộc tinh; cái vuông là hình Thổ tinh;
cái nhọn là hình Hỏa tinh; Thủy tinh thì uốn lượn nhu hình sóng nước. Thổ tinh là
trung ương vị, của Ngũ hành; Ngũ hành có cái hình nguyên vẹn một thể, có cái gồm
hai thể hoặc biến hóa nhiều hình thể không hạn.
Chẳng phải chỉ có một ngũ diệu tinh, còn có viên cục tinh nữa ( tinh của cục). Ngũ
diệu tinh tuy bày tản ra, nhưng được một tinh đoan chính là tôn đặc! Tinh viên được
hợp cách như có hình ỷ, cái củng môn, tức là có sơn sa hộ vệ phụ tá triều củng vào
cửa ngõ, như là Tam viên Đế tọa, tất nhiên có một vị Thiên tinh ở trong nhị thập bát
tú làm chủ tọa, quản lý một cung, chính ở trong đại viên cục ấy. Tùy ở sở tinh, thuộc
về tinh nào thì tinh ấy cầm quyền chấp chính toàn cục bộ.
Suy xét nguyên do của cái linh ứng ấy, là ở Tinh viên giáng hạ mà hóa ra các hình
vật như Long, Ly, Quy, Phượng và hết thảy môn loại thuộc về Cầm, Thú, Côn, Trùng,
cùng khí cụ vật liệu v.v… Kể có hàng muôn ngàn chủng loại không thể gọi tên hết
được! Những chủng loại ấy còn kết khí, ứng vào địa huyệt mà xuất phát ra Nam, Nữ,
Văn, Võ, Quan liêu, Phú quý, Bần tiện, Phước, Họa … không thể diễn tả hết được!
Vậy tùy ở địa cục, thấy có cách gì sẽ suy ra mà quyết đoán.
Cần nhớ rằng: Viên thì chủ ở ngoại khí, Tinh thì chủ ở nội khí. Viên mà không được
có khí, thì chỉ là cái đồ dùng hư giả thôi! Tinh mà không được có Viên ( có cục tốt),
thì Tinh hay tự chế được! Vậy nên phải trù tính cái bản kế, nghĩa là cần biết cái huyệt
tinh trước, chớ tham cái thế cục!
Trên đây là nói: Sơn hình có Thiên tinh thì thủy hình cũng có Thiên tinh. Nhưng đời
chỉ biết Sơn tinh thôi, còn Thủy tinh thì ít người biết! thường thường chỉ tháy chuyên
nói về danh tính của địa hình mà thôi. Vậy phải chỉ dẫn cái bình Thủy cho những
người chưa từng biết, hãy xem đấy mà nhận lấy, nhớ lấy mà làm, chớ nên coi thường
thì uổng công, vô ích!

332
Trong Ngũ tinh ( hay Ngũ diệu, Ngũ hành cũng vẫn là một, muốn gọi tên nào cũng
được), thì chỉ lấy Thổ tinh và Kim tinh là chính kết thôi, Thủy tinh thì nên ở ngoài làm
phụ tá thì tốt. Hỏa tinh cũng kỵ huyệt, chỉ nên ở ngoài làm sơn sa chứng ứng thì hay.
Mộc tinh cũng phải biến ra khúc hoặc tiết, bào thì mới kết huyệt.
Ngũ tinh cũng có kiêm thể, tùy hình biến ra Cửu tinh, Lão cửu tinh, Thiên cơ cửu
tinh, đã kể ở mục Tầm long v.v…
Viên tú ( hay Viên tinh, Cục tinh cũng thế) cũng không thể lìa Ngũ hành được! Thủy
hình kiêm vài tinh thể, tức là thành một viên tú của cục hoặc là mượn cái ngoại thủy
củng bão chiếu vào, là Viên cục, nhưng ở trong viên cục phải có tinh tú phô bày, nếu
có được một cái tinh, là quý tú, đã xuất quần làm tiêu biểu cho các tinh chứng ứng,
tức lấy Thiên tinh ấy làm chủ để chi phối, đối chiếu với các tinh ở tả, hữu, tiền hậu,
xem tinh nào được sinh vượng, tinh nào là xung sát mà xu cát, tỵ hung! Phát phước
hay sinh họa, theo đó mà đoán cũng như ở Sơn cương, cùng một luật lệ. Tóm lại, là
ngoài có Viên cục thì trong cần phải có huyệt tinh để lập huyệt; đã có huyệt thì dầu
là không hợp với Viên cục, nhưng nguyên khí được chu toàn kiên cố thì còn nghi hoặc
gì mà không phát đại phước! Cho nên cần xét cái gần, là cái Bản tinh, không nên
tham cái xa là cái Viên cục. Nếu được cả Viên cục thì càng hay, không thì có huyệt
tinh là được rồi!

Tiến khí thuyết


Xem đất ở miền Bình dương, chỉ cần xem tiến khí thôi! Tiến khí là mạch nhập thủ, lại
gọi là mạch đáo đầu nữa, chỗ gần nước là sinh khí.

333
Như một khối đất, ở giữa khởi cao hơn mà bốn phương tám phía đều có kết huyệt;
nếu phía Nam gần nước thì tác Khảm cục, phía bắc gần nước thì tác Ly cục, tứ duy,
tứ chính đều làm như thế ( Tứ duy: Kiền, Khôn, Cấn, Tốn – Tứ chính: Chấn, Đoài,
Khảm, Ly). Kinh ghi rằng: Hễ có một khối đất, tất thị khí từ giữa dẫn ra. Thí dụ: như
hình dạng cái là Sen, thì khí mạch theo cái cán hay cái cuống dẫn vào giữa chỏm, rồi
mới tản ra bốn bề. Hễ thấy hình như thế, thì chẳng cần hỏi chỗ mạch phát nguyên
nữa! Cứ theo chỗ nào có khí mạch vi động và thủy lan bão, thì đặt huyệt được!
Xem mấy hình đồ trên đây.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phong thủy nhị tự


Việt Hải

Phong thủy nhị tự

Hỏi: Long và Huyệt, lấy hai chữ Phong Thủy đặt tên, ấy là, người ta nói: Thừa phong thì khí tán,
có ranh giới thủy thì khí lững lại, nên gọi là Phong Thủy! Nếu như vậy thì không đúng! Về cái
Thủy thì hay trú khí, cũng có thể gọi được, nhưng về Phong thì khí tán, cái ý nghĩa mệnh danh
như thế đâu có cùng nhau?

334
 
Đáp: Phong với Thủy đều không có định chất! Cái thể vuông tròn, cong, thẳng, tán,
tụ, trôi đi, đều lấy theo cái hình mà biến hóa, khí cũng như vậy. Nhưng về cái hư và
cái thực thì không cùng nhau, là: Khí thì theo cái thực mà nhập, Phong với Thủy thì
theo chỗ hư mà nhập; còn cái đình chỉ và hồi loan thì cũng một tính. Vậy nên điểm
huyệt thì lấy cái hư làm cái thực, lấy cái thực làm cái hư, tức là lấy chỗ nó vòng
quanh chuyển lại để định huyệt, là phải đấy!
Thủy không chọn lựa gì, bất luận sông, ngòi, đầm, hồ to nhỏ, hễ gặp chỗ khuyết
trũng là chảy vào, chỗ đầy thì tràn ra, như cái thủy ở chỗ nông mà chảy cấp mạch,
hễ gặp chỗ sâu rộng thì bình tĩnh, đó là âm biến dương. Cái thủy ở chỗ rộng mênh
mông, thấy thu hẹp lại chảy cấp xiết, đấy là dương biến âm. Chỗ thẳng thì nó chảy
tuột đi, chỗ cong thì nó quay đầu lại, chỗ gãy khúc thì hoạt động, chỗ phóng đãng thì
phiên thân. Cái thủy ở chỗ cửa cầu cống thì giữa chảy thẳng mà hai bên quanh lại, ở
đáy lòng sông thì hai bên chảy đi mà giữa thì quanh lại, đáy nước có đá, thì trên mặt
sinh vành sóng gợn lên. Ở chỗ thủy khẩu có sa bão thu, thì ở trong hẳn là thủy nhiễu
quanh co.
Hễ thấy chỗ nào vòng quanh, hoặc như hình xoáy tròn là hình dạng kết huyệt đấy!
Cái Phong cũng vậy, Phong thì nhân con đường đi như cái luồng rỗng không mà
chuyển đi, có chỗ phối kết tụ. Gặp cái gì, thì tùy cái vật ấy mà phát thành tiếng kêu
ào ào, vu vu v.v… Có cái gì to lớn ngăn cản, thì im tĩnh ngưng ngay, thấy thúc lại,
như là đương ở khoảng rộng, hai bên có vật gì cao mà rút hẹp lại thì càng thổi mạnh,
ở giữa chạy thẳng, hai bên cuốn theo v.v…
Cũng lấy chỗ nó vòng quanh lững lại, đó là cái long khí biến hóa tựa như khí dạng
nhập huyệt. Tóm lại, do địa khí, lúc bốc xông lên, khi đình lững lại, cũng “ như phong
chi hành, như thủy chi tẩu”. Vậy lấy ý nghĩa ấy mà đặt tên là Phong Thủy; người
cũng theo cái danh từ ấy, mà lấy cái khí tượng làm chân tình của Phong thủy để định
huyệt, cũng thấy phần nhiều.

Thông cù thuyết

Những đại lộ là con đường lớn và các thông cù là những đường nhỏ giao thông, có
nhiều người đi lại gọi là nhân triều. Bất luận là mộ, miếu hay nhà ở, hoặc ở đằng
trước, đằng sau, bân tả hay bên hữu, đều là nên khuất khúc hoàn bão triều lại hữu
tình thì tốt lành, hễ dài thẳng đâm vào là hung! Xung vào trước mặt, thì cả nhà hoặc
cả họ đều bị hung họa! Xung vào bên tả hoặc bên hữu, thì có phân tách từng phòng
hay ngành nào bị thôi! Nếu vào đằng sau, thì lại lành!
Đại để xem đường cũng như xem nước, cùng một phương pháp, chỉ cốt là khuất khúc
hoàn bão. Ở Cửu cung thì lấy sinh khí phương; ở Bát sơn, thì lấy tam cát phương làm
tốt!
Lại có chỗ, như ở khu bằng phẳng rộng rãi có một con đường vòng quanh ôm lại
thành cục, thì có thể tới ở gần đường ấy điểm huyệt, cũng phát đinh tài; nếu đường
ấy có tú khí, cũng phát xuất quan quý!
Bài này là chuyên lấy cách nhân triều kết huyệt, lấy lý là “ khí nhân, nhân động”,
nghĩa là cái không khí nên có người đi lại mà động, có xe ngựa đi lại luon luôn càng
chuyển động, thì càng tốt! Cũng như có chợ hợp đông thì càng thịnh vượng! Cái này
thì dong tục, ít hay biết, tôi thấy Tiên hiền nói có lý, vậy viết ra để độc giả biết rộng
thêm.

Đương diện triều thủy thuyết

335
Ở miền Bình dương, mà có đại thủy ở ngay trước mặt chảy xông vào huyệt, gọi là
Phá diện sát! Nên cần phải có dư khí rộng lớn phô ra để cản cái thủy ấy, hoặc huyệt
ở cao, hoặc có sa già hộ, tức là che ngăn ngang trước mặt, hoặc làm án, thì mới hay
phát phước, nếu xung đãng, là chảy rót thẳng tràn vào, nước ở cao, huyệt ở thấp, là
ngưỡng diện, thì hung họa! Xung thẳng đến huyệt thì đinh, tài tiêu tán bại vong!
Như huyệt đặt trên bãi ụ, nổi trong giữa đầm hồ, thì không phải là dương diện thủy
xung.
Nhận xem mấy hình đồ dưới đây:

Thông tắc thuyết

Đất ở miền Bình dương được có nước làm trước hết, nhưng nước có sinh, cái tử, cần
phải xem xét. Thấy có những ngôi mộ, và ngôi nhà ở cạnh bên thủy tụ, thanh và
hoạt động, thủy lai và khứ, hợp pháp rất hay! Khi mới đặt táng thì thuyền nan bé
nhỏ có thể không qua được. Sau khi đặt táng rồi, con cháu chia phần mỗi người một
khoảng đầm ao, đắp ao thả cá lấy tiểu lợi, có biết đâu là làm bế tắc, nước chảy loạn
cả, làm ngăn thủy nguyên, long khí loạn tạp không quanh lại được, mà đến nỗi gia
tài phá bại hết! Vậy cũng nên dặn bảo cho nhau biết, không nên làm như vậy.

Kiếm thủy thuyết

Thấy có những ngôi mộ và ngôi nhà ở thực là chân long, chính huyệt, thủy tú, sa
thành hợp pháp. Tuy nhiều người giàu sang, nhưng ở trong nội cục gần huyệt có cái
ao hình trường trực, gọi là: Phù kiếm thủy, hoặc xung long mạch, hoặc xạ phá huyệt
trường, cái ấy rất là ẩn ác, người không hay biết! Vì hay sinh ra tai họa, chết tại tha
phương! Nếu cháu nhiều ngành thì phân phòng, cung, vị, ứng vào ngành nào thì
đoán ngành ấy.

Phân kiếp thuyết

Đất ở miền Bình dương cũng thu long, điểm huyệt, nhưng phát phú quý toàn ở thủy!
Thấy có những ngôi mộ và nhà ở, là long chân huyệt chính, thủy lai thủy khứ đều

336
hợp pháp. Sau khi táng mộ, phát phúc phân phòng không đồng đều, hoặc ngành
giàu, ngành nghèo, người thì sang, người thì hèn v.v… Đó là nguyên cớ gặp kiếp sát
thủy, và như đất Bắc hướng Nam, mà đằng trước, đằng sau, bên tảm bên hữu, thấy
thủy sinh chi, triều hướng ra ngoài mà đi, hoặc đi rồi lại sinh ra chi khác. Nếu ở gần
độ 5, 6 chục bước hoặc trăm bước, thì rất hay tiết mất tú khí, gặp phương vị nào
thuộc về ngành ấy, thì ngành ấy bị thiệt!

Đắc thủy thuyết

“ Bình dương tu đắc thủy, Sơn cốc yếu tàng phong”. Nếu ở Bình dương mà bốn mặt
đều là không, mà thủy tẩu, là nước chảy hết khô cạn, thì bị lạnh rét, vì gió lọt vào
chỗ lõm rỗng ấy; nếu huyệt có thủy vòng quanh, thì long ấm nhuần, vì nước ngăn
hãn khí ở lại, không còn có gió nữa, thì huyệt được ấm khí, nếu khuyết hở thì huyệt
bị lạnh khí tức là rét vì gió thổi vào huyệt. Vậy bảo: tránh gió như tránh giặc!

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 32


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 18:40 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Bình Dương bất khả táng lệ


Việt Hải

Bình Dương bất khả táng lệ

1. - Ở miền Bình Dương tuy không có tinh phong đặc đột, nhưng cũng có tinh thể bình diện. Vậy
những chỗ không thấy thành hình Ngũ hành tinh thể, không nên đặt táng.

2. – Nếu chỉ thấy mặt đất phẳng lì một mực, không chỗ nào có phân biệt ranh giới
cao, thấp hoặc không kết nhân, thúc khí, tức là không thấy hết khí bó thắt nhỏ bé lại
như cái hầu, cuống họng người, thì long mạch bất thanh không nên đặt táng!

337
3. – Thấy đứt ra từng mảnh, từng đoạn, mà không thấy có chút xíu dính líu gì như là
hình dạng sợi chỉ còn vướng víu mũi kim, chữ gọi: Vì mao ẩn tích v.v… thì cái đó
phần nhiều chỉ là cái phù sa dùng làm hãn thủy khẩu thôi, không nên đặt táng!
4. – Tuy có lưỡng thủy giáp tống, nhưng mà thẳng đườn ra không chuyển động gì, là
tử long ( mạch chết), không nên dùng.

5. – Thấy hình hiện lộ ra tựa như đầu nhọn của ngọn lửa bùng lên, đó là sát khí quá
nhiều, mạnh lắm! không nên dùng.
6. – Thấy ở nội cục tựa như điêu khắc ( là chạm trổ, đục khoét), mà ngoại cục thì sa
thủy vô tình, đó là do nhân lực tạo ra, thì không có địa khí, không nên đặt táng!

338
7. - Ở trước địa cục mà thấy sa thủy trực ngạnh vô tình, thì không nên đặt táng.
8. - Ở trước huyệt mà khuyết thần, là thiếu môi, đó là ở trong không có sinh khí nên
ngoài không có dư khí thè ra, thì không nên dùng.
9. – Thổ chất rời tản, vì không có nhuận khí chung tụ nên khô ráo rời tản, thì chớ
nên dùng.
10. – Thấy sơn bất xứng thủy, thủy bất xứng sơn, tức thứ to quá, thứ nhỏ quá, là âm
dương bất phối, không nên đặt táng.
11. – Thấy chỗ đầu sa có nghịch thủy chuyển lại, ma mạch lai không rõ ràng, thì
phần nhiều chỉ dùng làm sa thu ngăn thủy khẩu, chớ hạ táng.
12. – Thấy đằng trước rộng lớn, mà đằng sau thu nhỏ và nhọn, là thoái long, thường
gọi là: thốt hậu, thì không nên đặt táng.
13. – Thấy nhiều cái cao, chỉ có một cái thấp, là đất độc dương, cũng không nên
dùng.
14. – Thấy có một chỗ khởi đột, đằng trước phô chiên ở rìa mà không có hộ sa, là
đất cô âm, không nên dùng.
15. - Ở chỗ đã nhiều lần tác chiến trường, có nhiều oan hồn tử trận, cũng không nên
đặt táng.
16. – Chỗ làm ngục tù, là nơi sầu oán hận trường của vong linh! Cũng không nên
dùng.
17. – Chỗ mới mưa qua mà cạn khô ngay, hoặc chỗ ẩm thấp là bùn lầy, tức là Lậu
long, không nên đặt táng.
18. – Chỗ gần đại hà, đại hải, mà không phải là nơi thâm thúy, nội thủy cũng không
hoàn nhiễu, thì không nên đặt táng.
19. – Thấy đằng sau huyệt có hình phản cung, tức là hình khung nỏ phản lưng vào
sau huyệt, cũng không nên đặt táng.
20. – Chỗ long đáo đầu mà nhiều chi cước không bão lại hộ huyệt, tựa hồ tơ liễu gió
bay phiêu tán, đó là tảo đãngtinh không nên dùng.
21. – Đáo đầu là Thổ tinh mà xuất Mộc nhũ trường trực, là tử khí khắc mẫu ( con đi
phản mẹ), là nghịch khí, thì chớ dùng! Đáo đầu là Kim tinh mà xuất Hỏa chủy, là mỏ
nhọn; Mộc tinh đáo đầu mà xuất Kim chủy, là mỏ tròn, đều không nên đặt táng, tức
là bị sát khí!
22. – Có đại lộ xung xạ ( đường đi đâm và mộ), hoặc là phản bối ( cong lưng vào)

339
chớ dùng!
23. – Có đầu cầu đâm thẳng vào mộ, tức là xung xạ huyệt trường, cũng không nên
dùng!
24. – Thấy long mạch ở phương Đông lại mà mộ lập hướng Tây, có thủy qua lại, hoặc
thủy ấy là bờ đập đắp ngăn thủy ở cao, thì phía bên Tây hẳn cũng phải có bờ đập cao
ngăn nữa, tức như người qua đò lên bờ bên kia, chứ không phải là nơi trú trác ( chỗ
đứng ở đấy!)
Sinh khí đi chính hướng Tây thì không nên gần nước vì huyệt ở bên Đông là Giáp
mão thành thai, bất thực Dậu, Tân chi khí, tức là Kim thủy khắc Mộc long, không nên
dùng! Cái khác đại loại cũng thế sẽ suy ra.
25. – Tuy có hai giải thủy giáp lại mà đều không có chi cước chuyển thu, là bệnh
nhược long, không nên đặt táng!
26. – Tuy có cát thủy triều lai mà nhiều thủy khẩu xuất khứ, không biết lấy chỗ nào
làm cửa tiêu thủy, đấy là tinh linh phân tán, thì chỉ tạm yên chút thôi, chợt lúc lại tán
hết, chớ dùng!
27. – Thấy những chỗ không khô, không ướt, mà dẫm chân tới thì có nước rỉ ra ngay,
đó là đất sình lầy ở dưới, không nên đặt táng.
28. – Thấy chỗ đất khô cứng mà loài mối loài kiến hay đục thủng làm tổ tụ ở đấy, thì
không nên đặt táng, vì không có khí mạch dẫn đến.
29. – Thấy sa thủy hữu tình mà hậu long bất trú trác ( mạch ở sau huyệt không
đứng lại), tức “ đại long nghinh đội”, nghĩa là ví như bọn quân đội đông đảo đi đón
tướng chỗ khác, không đóng quân ở đó; tức là không kết huyệt, thì không nên đặt
táng.
30. – Thấy ở trước huyệt có thủy trường trực mà không có nghịch sa, hoành thủy lan
triệt, là không có cái sa quay ngược trở lại, hoặc không có cái thủy đi ngang qua để
ngăn cản cái thủy trường trực thuận đi ấy, thì không nên đặt táng, vì khí phóng đi
không thu tụ ở huyệt trường.
31. – thấy chỗ đào ao, xẻ rãnh nhiều có thương long mạch, cũng không nên đặt
táng.
32. – Thấy chỗ đào lò nung đúc gạch ngói v.v…đã đốt chết đất đứt long mạch, thì
chớ dùng!
33. - Ở nơi đông nhân cư, nhiều nhà ở trù mật, tức là dương thịnh thì âm suy, không
nên táng!
34. - Ở chỗ có ốc tích giao xung, tức là đầu nóc nhà giao nhau đâm vào mộ, thì chớ
dùng!
35. - Ở phía trước hoặc đằng sau có Thần từ, Phật tự ở gần, là có âm linh bất an, chớ
dùng!
36. – Có bốn lạch thủy tụ mà xung vào huyệt không nên đặt táng.
37. – Thấy bốn phía thủy tán, tức là sinh khí tản theo nước đi ra hết, không nên đặt
táng.
38. – Thủy trực vô tình, tức là thư hùng bất giao, không nên đặt táng.
39. – Thấy chỗ cây cỏ khô héo không được xanh tốt tươi màu, là chỗ không có sinh
khí đến, thì không nên táng.
40. – Thấy chỗ có nhiều gạch ngói vỡ, là chỗ binh hỏa tàn phá xưa kia, không táng.
41. – Thấy chỗ có án sơn cao áp huyệt, cũng không nên táng.
42. - Ở ngoài chỗ thủy khẩu, một phương đó là nơi sa phi, thủy tẩu, thấy như thế thì
cũng không nên táng.
43. – Tới chỗ huyệt trường mà thấy hung sa ác thủy, không nên táng, tuy long chân
huyệt chính, cũng không được tốt lành trọn vẹn.
44. - Ở chỗ có nhiều ngọn nước xuất khứ, chợt thấy thạch cốt ( gồ xuống đá) mà
mạch lai không rõ rệt, thì dầu thấy có thành hình tượng cũng không nên đặt táng,
nhân vì cục nội đã kết đại địa rồi, đấy chỉ là cái diệu khí trấn thủy khẩu thôi.
45. – Thấy chỗ tựa như phải huyệt mà lại không phải, thì càng nên Phân biện rõ.

340
Như là cái hình phù thi ( thây người nổi), thì không nên tưởng nhầm mà nhận là con
cá nằm trên mặt nước! Như hình cái mai con Giải khô, thì chớ nên nhận là con Rùa
ẩn trong bãi bùn! Như hình cái quan cái quách, thì không nên nhận là nhất tự mộc
( là mộc tinh hình chữ Nhất)! Như hình cái gông, cái cùm dài, thì chớ nhận nhầm là
giao chi mộc ( ành cây giao nhau)! Hình như nón lá, chớ nhận làm Dũng kim bàn!
Như hình con đằng xà ( Rắn chạy), chớ nhận làm Xuất thảo xà! V.v…
Tóm lại, thấy hình thế nào, thì nhận xét mà đóan là thế, chớ nên miễn cưỡng mà
tham tiếc cứ bảo là quý vật, thì không nên! Nếu muốn sửa chữa, thì nhân có cái ấy
rồi, thừa thì phá bỏ một chút, thiếu hụt thì đắp thêm một chút, chứ không nên tự
khai, tự tạo, là phí công vô ích! Còn như cái thủy khẩu thì có thể ngăn, khai, cho
phóng đi ra phương xấu, cho hợp phép cũng được.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ luận hình tượng


Việt Hải

Phụ lục hình thể

Khái cử cách thức hình thế cát hung để định huyệt cát, huyệt hung sau đây:
Lấy hình thế làm chủ, Sa thì kỵ tiêm tước ( đầu nhọn đâm vào), Thủy thì kỵ kích xung ( ngọn
nước nhọn đầu xông vào). Sa và Thủy chầu hướng ôm vào, thì cát, hễ phản lưng cong vào mình
thì hung! Khi bước vào trong một cục địa, thì phải nhìn nhận xem chỗ nào nên nghinh cát, chỗ
nào nên tỵ hung. Hễ thấy chỗ Sa, Thủy nghinh tụ, là chỗ ấy sinh khí dung hòa, thì tốt lành, có
huyệt.

 
Thấy chỗ nào Sa, Thủy phản phi, thì chỗ ấy là tử khí sát tán, không có huyệt! phải
xem chỗ nào hoãn, chỗ nào cấp, chỗ nào thừa được khí, chỗ nào mất không tế khí;
chỗ nào là thượng bức, hạ khoan; chỗ nào Hổ lăng, long tiếm, thì mới định được
huyệt vị. Đã tường tận những cái vừa kể ấy, là chắc chắn biết được rồi.
Còn như lấy Quái ( Bát quái) định cục, lấy cục phối thủy, chẳng qua chỉ di dịch mấy
thước hoặc vài trượng, để quyền tá chủ khách có vệ lực mà khiến cho âm dương
không bị cô độc, hoặc khí mạch không hỗn tạp thôi, chứ đâu có bỏ cái Thể mà cầu
cái Dụng! Vậy thêm mấy chục hình đồ cả Sa và Thủy dưới đây, để cho biết thêm rõ
ràng cách thức hình thế khỏi bị nghi hoặc.

341
Giải đoán Cát, Hung Thuỷ
Hình thế

1. – Thủy trực như huyền, là thẳng như cây nằm, thì xấu, nếu đâm vào mộ tai họa
diệt vong!
2. – “ Khúc thủy nhập kim thành, quan quý tổn nhân đinh”, là hình lạch nước cong
chảy vào cái lạch lớn hình như Kim thành; ở trước mộ là Quan, ở đằng sau là Quỷ,
thì tổn hại về nhân số ít dần!
3. – “ Hỏa thủy nhập Kim hương, bại sát hảo nhi lang” là cái Thủy hình nhọn như
Hỏa tinh ở phương vị thuộc kim, thì sát hại những con cháu quý báu tốt đẹp!
4. – Hình nước gãy khúc, tuy có phát ít phúc, nhưng lại bị suy bại ngay, không bền!
5. – Thủy cong như hình kim tinh, nhưng phân ra hai bên đầu như bay đi, thì cha,
con, anh, em, mỗi người ở một nơi, tức là hung!
6. – Nước ở hai bên Long hổ đều đi, không ngoảnh lại thì nghèo khổ ai là người cứu
được!
7. – Nước như hình ba mũi dao nhọn đâm ra, thì rất hung, sinh người trộm cướp mà
bại!
8. – Ao, hồ nên hình dài và uyển chuyển thì tốt lành mà nhiều ao, chuôm bé nhỏ như
phá toái ( phá vỡ tung tán) thì rất hung! Ở bên tả, bên hữu thì chú cháu thông gian!
Ở sau mộ có ao nhỏ thì bị tuyệt bại! hoặc giếng nhỏ cũng bị tai ương!
9. – Thủy hình như tà phi ( đâm thiên đi) thì hung, nếu đầu vòng câu thì lại thành
cát thủy.
10. – Thủy sinh chi nhưng thẳng đi, không hồi đầu, thì không phát được lâu, tất tốc
bại!
11. – Một cái thẳng bức cận bên long thân, thì không nên đặt táng, tuy có hảo huyệt
cũng bị bần hàn! Nếu ở ngoài có hạ sa quay ngang ra, cản ngọn nước hợp lại, thì
không sợ hung!
12. – Tuy có môi tròn và dài ôm huyệt, nhưng hai cước ( chân) phi khởi (bay lên), thì
có phát phước nhỏ nhưng chẳng được bao lâu sẽ bị quân tạc tàn phá!
13. – Bên tả cũng như Hỏa hình thôn trủng ( nuốt mộ), bên hữu cũng như Hỏa hình
thôn trủng, bị tuyệt bại con cháu!
14. – “ Mộc lai khắc thổ, gia nhân tân khổ; Thủy trực xung môn, nhân khẩu bất

342
tồn!”, là hình thẳng như Mộc tinh lại mà huyệt để trên Thổ tinh, thì cả nhà bị tân
khổ; hình nước đâm thẳng vào cửa, thì không còn người sống nữa!
15. – Lưỡng thủy phân xuất, là hai giải nước đều phản nhau, thì bố con mỗi người
một ngả, lại sinh ra người làm quân giặc cướp!
16. – Thủy như hình Thổ tinh tà thiên đới hỏa, thì bị ly hương tẩu tán! (Nước đi
ngang là Thổ tinh, nhọn góc là Hỏa hình).
17. – Hình này có bốn cái Kim thủy bão trực đường, tức Kim khắc mộc, vậy hay có
quả mẫu và tuyệt tự!
18. – Hình này gọi là “ Khỏa đầu thành”, táng xuống thì bị tuyệt nhi tôn! (Tức là có
một lạch nước bọc đầu, long mạch lại ngắn, lại vừa hẹp!).
19. – Tả, hữu đều là Hỏa phi, sinh ra kẻ dâm loạn và làm quân tặc! tuyệt nhân đinh!
20. – Hình này cũng như hình trên, bại vong! Vì chỗ thủy xuất khẩu không bão
huyệt.
21. – Hình này cũng hung như hai hình trên.
22. – “ Kim thành hung chiết tiệp như xà, hoành sinh du tử kết oan gia!”, nghĩa là:
Hình Kim thành Thủy, nhưng gãy khúc liên tiếp nhanh như khúc mình Rắn, thì sinh
ra con du đãng làm oan uổng cho nhà! Vì Kim thành đầu tròn, khuất khúc như con
Rắn, hiềm nhiều khúc quá là đới Tảo đảng hình, nên hung.
23. – Có một ngôi là Khảm khí thì lành, nhưng phát ngắn ngủi lạ suy ngay! Còn ba
ngôi bị hung, đều bại tuyệt!
24. – Hình này khởi đầu nhọn lại nhỏ, là một cái bệnh! Lai long tuy hoạt động nhưng
xuất mạch thiên thẹo, là hai cái bệnh! Chi thủy nhập phúc ( bụng) phá long thân, là
ba cái bệnh! Tả hữu phân khí bất hoàn bão, kiếp quỷ thái trọng (nặng quá), là bốn
cái bệnh! Nếu nhầm táng vào thì bị tuyệt vong!

25. – Hình đồ này tuy viên tĩnh, nhưng chúng thủy vô tình, chúng sa thừa lại phản,
sinh khí không hay hòa tụ! Nếu đặt táng tất nhiên bại!
26. – Hình này là bao vi, lại ở trong cái đại bao vi, tuy thất thế ở ngoài hồi hoàn,
nhưng mà bốn cái thủy xung kích khó có thể tránh né, nếu đặt huyệt thì đại hung!
27. – Hình đồ này đặt huyệt ở chỗ thủy, đầu có hình Hỏa nhọn thì tối hung! Đặt
huyệt ở trong chỗ thủy câu là: Bàn lnog chi thủy hậu đầu đâu, nhi tôn đại đại xuất
Công, Hầu.

343
28. – Hình này thủy pháp như chữ Tỉnh, có một huyệt thừa Cấn khí, tuy có cái đôn
tích, nhưng không bằng cái huyệt ở phía Đông cái chi thủy, có lực, theo tựa vào cái
hạ sa, đặt Khảm cục, là cách Thoát long tựu cục, rất hay! Nên phát khoa giáp, hai
huyệt phúc ấm khác nhau.
29. – Có câu đoán: Kim thành kết chiết, tiệp như xà; phú hào thiên khẩu bất phân
gia, nghĩa là thủy thế tựa Kim thành kết huyệt, thủy khúc uốn chuyển mau như khúc
mình con Rắn hoạt động, nên phát phú hào, có ngàn nhân số mà không phân biệt
nhà nào cả, đều phát phúc. Trước mặt có cái ao hình vuông, hoàn nhiễu ở ngoài, chỉ
cốt chỗ thủy xuất khẩu quan tỏa hữu tình thôi!
30. – Hình này một huyệt là Cấn khí, nhưng sa bức, bên hổ lại ngang ngạnh, sa ở
đằng trước thuận thủy thoái xuất. Nếu nhầm đặt vào, thì bại tuyệt! Một huyệt ở phía
Bắc, thấy có hạ sa nghịch chuyển về trước mặt, không thấy thủy kiếp, vậy là sinh khí
hòa tụ kết, là chính huyệt cát.
31. – Hình này là Kim tinh vòng cong ôm, lại có vòng ôm nữa, nên giàu sang vào
hạng Thạch Sùng. Có câu đoán: “ Kim tinh loan, phú quý thạch Sùng ban”!
32. – Hình này là “ Thủy triền huyền vũ”, phát phúc lâu bền.
33. – Hình này là Kim tinh, một nữa bao bọc một lần ngoài, hình tròn là quý thượng
hạng, vậy hay xuất phát Công, Khanh chức vị.
34. – Hình này là một lần Thổ tinh bọc Kim tinh, cả hai Kim cùng một dạng tình, nên
cái hoành thủy ( cái nằm ngang), là quý thượng hạng.
35. – “ Chu tước nhất điền, thử địa lạc an nhiên, thủy cánh hậu đầu đâu, phú quý
dục thôn thiên”. Nghĩa là: Ở trước minh đường có một phiến đất cao, đấy là địa lạc,
tự nhiên an bài, đằng sau nước thu vòng đầu lại, là cách giàu sang muốn nuốt cả
trời!
36. – “ Kim câu quải nguyệt phước lộc sinh, tối phạ nam phương, hữu hỏa tinh”, là
hình Kim câu quải nguyệt, thì sinh phước lộc, nhưng rất sợ là ở phương nam có Hỏa
tinh! Khai cái ao để chế cái hỏa, có thể khỏi bị mất hồi lộc.
37. – Hình này có Kim câu ứng ở đằng sau, đằng trước là cát huyệt.
38. – Câu chữ đoán: “ Bàn long chi thủy diệu tiền loan, vi quan bất đẳng nhàn. Bàn
long trung huyệt quý” là có cái lạch nước hình như con rồng vòng khoanh, ôm ở đằng
trước mặt, thì làm quan ở hạng bất đẳng nhàn. Hình như Bàn long huyệt ở trong
giữa, thì quý nhất, tức là thượng hạng.
39. – Hình này là cách “ tứ tủy tụ thiên tâm, Thạch Sùng phú quý”, là có bốn giải
nước tụ ở minh đường, nên phát phúc giàu sang như Thạch Sùng ( người giàu nhất
nước Tàu xưa). Ở chỗ có nhiều ngọn nước tụ hội, thì không phải câu nệ là âm hay
dương phương vị gì cả, chẳng phải bàn đến cục nữa, chỉ lấy hình thế mà lập thôi!
( Ngọ hướng, là đường cục tý ngọ, tức là tọa Tý, hướng vào thủy tụ ở phương Ngọ).
40. – Hình này nếu rộng 2, 3 mẫu cũng khá, hoặc 4, 5 mẫu là đại phú rồi, không kỳ
hạn bao nhiêu cả! Có 4 chi nước dòng dòng vào minh đường, nếu đều ở đằng trước
xung thì không nên, phải tìm chỗ có khuất khúc quay vào, thì mới phát quý to.
41. – Hình này là bốn phía đều thấp có nước tụ nông, chỉ xấp xảnh chút thôi, ở giữa
có khu ruộng hơi cao một chút, hoặc hình thế vuông hay tròn, đều có lập tám cục
được, chỉ xét xem chỗ có sa thủy thì đặt, và gặp khí vận được vượng tướng thì phát
ngay!

344
Như dương thủy triều đường thì đặt dương cục; âm thủy triều đường thì đặt âm cục.
Như thuộc về thượng nguyên giáp tý, thì đặt Nhất, Nhị, Tam cục; Trung nguyên giáp
tý, thì đặt Tứ, Ngũ, Lục cục; Hạ nguyên giáp tý thì đặt Thất, Bát, Cửu cục, là đắc khí
vận.
42. – Hình này long mạch phân xẻ ra như xương sườn, có cao, thấp hơn nhau một,
hai, ba phân; chỉ có chỗ khe xương sườn mới có nước, mà không có thủy phân chảy
đi; ở trước hướng có mấy lần sa quan tỏa đường khí; ở giữa có mạch khí quán lai
nhập thủ, có án ứng chỉnh tề, phước lực rất lớn. Nếu long mạch 3, 4 dặm xuất thế,
thì phát phước thịnh vượng 5, 6 chục năm; nếu là long triều lại, thì đặt huyệt đảo kỵ,
khí lực càng lớn mạnh, đây là tả hữu khẩn giáp, đường khí giao cố, cục địa quý lắm!
43. – Hình này có bản thân sa, lại có khách sa lần lần bao bọc, gọi: “ Tường vân phủ
nguyệt hình”, là đất rất quý!
Đây là hình thế thiên nhiên, chỉ xem chỗ có sa thủy triều, đường án đoan chính thì
đặt huyệt, bất tất phải hỏi nên thừa khí nào và cục nào cả!
44 . – Hình này là Tiểu vi, ở giữa nơi có nhiều sa, nhiều thủy ở vòng quanh bên ngoài
mà lại la xung khích, tuy loạn mà hữu tình, nên phát phước rất to! Lấy 4 cái phương
thủy lớn, thủy nhỏ đi và lại mà định quái, thủ dụng; con cháu cùng ở chung cả thì
không hay phát đều, phải phân ra các môn hộ mà ở riêng, thì mọi phòng mới phát
đều, vì bốn phương thủy đều thông suốt cả tám phương, khó có thể định được cái
nào là xuất, cái nào là nhập! Chỉ xem chỗ thủy tụ, thủy triều làm án ứng, là được.
45. – Hình này là cái vòng vây nhỏ ở trong vòng vây lớn, lại có cái chi thủy ở nội giới,
cái đại thủy ở bên ngoài không xung khích, thủy khẩu đắc lực, hoàn bão như kim
thành chi thủy, là đất đại phú quý!
46. – Những chỗ đất thấy nhiều cái nhỏ chỉ có một cái lớn, thì cái lớn là tôn! Có
nhiều cái lớn một cái nhỏ, thì cái nhỏ là quý! Cục địa này có nhiều sa nhỏ, sa lớn ở
giữa, gọi: “ Quần nhạn tân hồng hình”.
47. – Hình này cũng tương tự như hình 46 trên.
48. – Hình này lấy cái thủy phối mà định huyệt, chỉ lấy thủy gần làm cục, chứ lấy ở
trung cung thì vô long! Đặt táng tạm yên thôi, không được quý cách!
49. – Hình này là Tốn long đinh hướng, đinh thủy hợi thủy nhập, tân, tuất thủy khứ,
trung cục không thấy thủy khứ; thừa Tốn khí thì phát văn, các phòng quân bình.

345
50. – Hình này kết huyệt ở ba phía gần nước, đón thủy triều lai hợp pháp, thì phát
phú quý vinh hiển, tùy phương vị mà đoán phát văn, phát võ, không nhất định.

Trên đây là bản đồ phân biện thuộc về các phòng, như các ngành, các con cũng vậy.
Bên tả là Thanh long thì thuộc về ngành trưởng, trước huyệt hoặc sau huyệt về phía
bên tả, đều thuộc về địa vị ngành trưởng hay con trưởng cũng thế, tùy cách hay, dở
mà đoán nghiệm.
Bên hữu là Bạch hổ, thuộc về ngành thứ, từ thứ hai trở xuống đều về bên hữu cả;
cách tốt, cách xấy tùy địa phận ứng mà đoán.

Có những câu quyết chữ Hán:

"Huyệt tả Thanh long câu thuộc trưởng,


Tả đường, tả trụ phi khiên cường;
Hoặc cao, hoặc đê thế bất tề,
Trưởng phòng họa phước ứng như ưởng!
Huyệt hữu Bạch hổ thất phòng bài,
Bài trước cao địa xuất mại sài!
Đường hữu, huyệt hữu tính hữu trụ,
Nhị phòng luân định bất tu sai!
Tam phòng bài định thị đê điền,
Phú quý, thọ đinh câu lưỡng tuyền;
Tứ phòng luân tước thị cao điền,
Bần cùng bại tuyệt khiếu hoàng thiên!
Ngũ, lục phòng vị điền nhược đê,
Phát quý đinh đa tiền hựu dư!
Đệ thất, đệ bát bài trước cao,
Lưu vong, bại tuyệt, yểu nan đào!"

Nghĩa là: Về bên tả huyệt, là thanh long, đều thuộc về phần ngành con trưởng –
Minh đường và sơn khởi, ở bên tả chẳng dắt đi mạnh, lững lại – Hoặc là cao, hoặc là

346
thấp cái địa thế không đều nhau – Cái phước và cái họa của ngành trưởng ứng mau
như tiếng vang! – Bên hữu huyệt là Bạch hổ, thuộc về 7 ngành, đã phân bày ở trên –
Nếu là đất cao an bài, thì sinh ra cái nghèo khổ phải đi kiếm củi bán! – Về phía bên
hữu ấy, có minh đường hoặc đất ruộng khởi cao lên, tức là sa và thủy luân chuyển,
quyết định đoán là con thứ hai không sai! – Về phía vị thứ ba, mà là ruộng đất thấp
– Thì phòng ấy giàu sang, sống lâu, người và của đều được lưỡng toàn! – Về địa vị
phần thứ tư, mà là ruộng đất cao – Thì ngành thứ 4 ấy nghèo khổ, lụn bại, phải kêu
trời! – Phòng vị về phần thứ 5, thứ 6 nếu là đất ruộng thấp – Thì ngành con thứ 5,
thứ 6 ấy giàu sang, người nhiều của thừa, tuổi lại thọ! – Nếu về phần địa phận ngành
thứ 7, thứ 8 lại đột khởi cao lên – Thì hai ngành này bị lưu vong, bại tuyệt, chết non,
khó có thể tránh thoát!
Vậy, huyệt dịa ở miền Bình dương khác hẳn ở miền núi cao, phải cẩn thận suy xét
hình đồ mà định huyệt, và nên làm, hay không nên làm, chớ nên hồ đồ!

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 33

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:42 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Quyết Vân


Việt Hải

Quyết Vân

"Huyệt tả vô hà địa thượng cao,


Trưởng phòng tuyệt tự định nan đào!
Huyệt tả nhược thị đê nhất thôn,
Trưởng phòng ngũ tử bất tu vấn.
Huyệt tả nhất biên tiết tiết đê,
Trưởng phòng đinh, thọ túc kim châu;
Huyệt tả tam xích, tứ xích đê,
Trưởng phòng phú quý sát tam thê.
Huyệt tiền minh đường tả biên cao,
Trưởng phòng phú quý trí sương ngao;
Huyệt tả minh đường lưỡng câu cao,
Trưởng phòng định tuyệt gia phú hào;
Minh đường tả cao, hữu nhược đê,
Trưởng phú nhị bần bất tu nghi;
Huyệt hậu tả, điền đê hựu đê,

347
Trưởng phòng phú quý đắc quân tề.
Huyệt tả cao địa tính cao điền;
Trưởng phòng quải cước bạch nhỡn khiên."

Nghĩa là: Ở phía bên tả huyệt, không có sông hồ hoặc nước đọng, mà trên mặt đất
lại đột cao – Thì trưởng tử tuyệt tự, khó trốn khỏi! – Bên tả huyệt nếu thấp hơn một
tấc – Ngành trưởng có năm con trai, không cần hỏi gì nữa! – Bên tả huyệt có một
bên thấp dần dần – Ngành trưởng người vượng, của nhiều, đầy đủ vàng ngọc chứa
trong kho – Ở bên tả huyệt mà thấp xuống 3, 4 thước – Thì ngành trưởng giàu sang,
nhưng bị sát ba lần vợ! Ở trước huyệt về bên tả minh đường cao! – Trưởng phòng
giàu sang có kho chứa tài vật; - Ở bên tả minh đường hai bên đều cao; - Thì ngành
trưởng không có con trai, nhưng nhà vẫn là phú hào – Minh đường bên tả cao mà
bên hữu thấp – Thì ngành trưởng giàu, ngành thứ hai nghèo không còn nghi hoặc
nữa - Ở phía sau huyệt về bên tả có ruộng thấp, lại thấp dần nữa – Ngành trưởng
đều được giàu sang bàng nhau - Ở bên tả huyệt có ruộng và đất cao – Ngành trưởng
bị đui què, nhờ trẻ con dắt dẫn mới đi được!
Ở bên tay hữu huyệt có chỗ cao, thấp, cũng theo như bên tả mà đoán, nhưng thuộc
về phận ngành thứ hai hoặc ngành thứ mấy, cũng phải phân thứ tự từng ngành như
đã bày ở trên bản đồ thuộc các ngành mà định đoán.

Câu nói: “ Tả đê sát tam thê”, là lấy ngay ở chỗ đầu thấp hẳn xuống 3, 4 thước, thì
mới bị sát thê! Nếu thấp lần xuống thì không bị tai hại gì cả…
Hai cục trên đây là đoán về chỗ không có sông, chỉ xem ruộng đất, ao, vũng là minh
đường và đường sá, mà đoán nghiệm cái tốt cái xấu thôi. Còn nơi có sông, ngòi lạch
thì cứ xem như các đồ hình về thủy pháp mà đoán.

348
1. – Quyết Vân

"Nhất trượng chi cách thập niên cường;


Nhị trượng chi cách trấp niên lương;
Tam thập niên cường tam trượng cách.
Tứ trượng ngũ đại cốc doanh sương!
Ngũ trượng ngũ đại phú quý túc,
Nhi tôn chư tử tăng huy quang;
Tả, hữu hộ sa lưỡng biên bức,
Lưỡng phòng bần cùng tuyệt tử tức.
Tả hữu phần hậu cao áp trủng,
Tử tôn thoái bại nhân tuyệt chủng!"

Nghĩa là: Cái sa cao ở cách xa mộ được một trượng thì cường thịnh được mười năm;
- Cách xa mộ hai trượng thì giàu có được 20 năm; - Cách xa 3 trượng, thì giàu mạnh
được 30 năm; - Cách xa 4 trượng thì được 4 đời, thóc lúa đầy kho – Cách xa 5
trượng thì được 5 đời giàu sang – Tất cả cháu chắt đều được thêm vinh quang – Bên
tả bên hữu mộ, hai cái sa cao áp bức, thì hai ngành trưởng, thứ đều nghèo khổ,
tuyệt diệt con cháu! - Ở đằng sau mộ, mà cả bên hữu cũng có sa cao áp bức, thì con
cháu thoái bại, tuyệt chủng tộc!
Bài trên đây nói đại ý: ở miền Bình dương, sa cao ở gần thì xấu, ở xa mà cao dần
dần lên hộ vệ triều vào, thì tốt và phát phúc lâu bền.

2. – Quyết Vân

"Minh đường ngũ xích cao;


Túc bạch thành sương ngao;
Minh đường nhất xich đê,
Vạn kim hóa tác hôi!
Phần hậu nhất xích đê,
Xuẩn nhi hội độc thư;
Phần hậu ngũ xích cao,
Trưởng trung yểu nan ngao!
Tả hữu lưỡng biên đê,
Huynh đệ tố Thượng thư!

349
Tả hữu biên cao, đê,
Cao dật, đê hữu dư."

Nghĩa là: Minh đường cao 5 thước, thì nhà có lúa gạo, gấm lụa đầy kho – Minh đường
thấp 1 thước, thì nhà có muôn lạng vàng cũng biến ra đống tro tàn! – Đằng sau mộ
thấp 1 thước, thì đứa con ngu xuẩn nó cũng biết đọc sách! – Đằng sau mộ mà cao
hơn 5 thước, thì ngành trưởng và các ngành dưới khó tránh khỏi nạn chết non! – Hai
bên tả, hữu đều thấp, anh, em làm Thượng thư – Tả hữu bên cao, bên thấp, thì
ngành thuộc về bên cao thiếu thốn nghèo khổ! Ngành thuộc về bên thấp giàu có của
dư!
Bài này nói về Minh đường ở cao, thấp; đại khái như thế.

Quyết Vân

1. - "Bình dương thiên táng hữu chân quyết,


Tọa đê hướng cao vi chính huyệt;
Nhân tài lưỡng vượng thọ diên khang,
Bí tàng thận vật dữ nhân thuyết."

Nghĩa là: Ở Bình dương đặt táng có phép thực đích – Gối vào chỗ thấp, hướng vào
chỗ cao, là chính huyệt – Thì người và của đều Thịnh vượng, sống lâu, mạnh khỏe –
Cẩn thân giấu kín, chớ nói với người ta.

2. - "Thời sư bất thức Bình dương quyết,


Tọa cao hướng đê vi chính huyệt;
Nhược dã hữu nhân thiên táng chi,
Hậu đại nhi tôn đa bại tuyệt!"

Nghĩa là: Người làm thầy không hiểu phép ở miền Bình dương – Cứ bảo gối lưng vào
chỗ cao, hướng mặt vào chỗ thấp! – Như vậy mà đặt huyệt cho người ta – Thì đời
sau con cháu người ta sẽ bại tuyệt!

3. - "Cao tắc vi thủy hiệu Chưởng tâm,


Thời sư ngộ nhận đàn hung khâm;
Hữu nhân thiên đắc thử hình huyệt,
Đại vượng nhân tài phú vạn xuân."

Nghĩa là: Cao thì làm cái minh đường có nước, gọi là: lòng bàn tay – Thời sư nhầm
bảo là vạt áo bụng mở phơi ra, là xấu! – Có người biết đặt táng được cái huyệt của
hình này – Thì phát nhiều nhân tài và giàu có muôn năm.

4. - "Đê tắc vi sơn danh thức lệ


Thời sư bất thức trùy hung đối!
Hữu nhân thiên táng thử hình huyệt,
Khốc tử khốc thê gia bại tuyệt!"

Nghĩa là: Thấp thì làm cái sơn không có thủy lại, tên gọi: Thức lệ ( là lau nước mắt) –
Thời sư không biết đấy là cái nó đâm vào bụng! – Đặt táng cho người ta vào hình
huyệt ấy – Sẽ phải khóc vợ, khóc con, về gia cảnh suy tàn bại tuyệt!

5. - "Huyệt tiền minh đường cao bát phiến,

350
Chỉ yếu lưỡng bàng đê nhi hiển;
Táng hạ quan tụng phát tài tai,
Ấm hựu vi quan chức Đô hiến."

Nghĩa là: Ở trước mặt mà có cái minh đường hình như cái quạt xòe ra, ở trên cao
chứa nước – Chỉ cốt là ở hai bên gần huyệt thấp mà hiện rõ – Táng xuống thì làm
quan xử kiện, mà phát tài đem lại – Nhờ phước ấm về ngôi đất ấy, mà làm nên quan
chức ở Đô hiến phủ ( Hiến pháp).

6. - "Huyệt tiền minh đường đê bát phiến,


Chi khủng lưỡng bàng cao nhi hiến;
Danh viết tài vượng định thương thân,
Hình thể khắc tử định tao biến!"

Nghĩa là: Ở đằng trước minh đường thấp, lại như hình cái quạt – chỉ sợ hai bên cao
mà lộ hiển – Tên gọi: vượng tài, định thương thân! Hình hại vợ! khắc sát con! Quyết
định là gặp nguy biến!

7. - "Huyệt tiền minh đường cao trấp phiến,


Táng hạ nhi tôn nhân mạnh biến!
Tả thủ chấp thời trưởng phòng ưu!
Hữu thủ chấp giả nhị phòng kiến!
Phiến tử hướng ngoại tại minh đường,
Nhân mạnh quan phi lập kiến đương!"

Nghĩa là: Ở đằng trước có minh đường cao như cầm cái quạt – Táng xuống thì nhân
mạng của con cháu nguy biến – Tay tả cầm quạt thì ngành trưởng lo phiền! – Tay
hữu cầm quạt thì ngành thứ thấy họa ngay! Cái quạt ở ngoài minh đường hướng vào
mộ, thì tính mạng và quan sự tai họa thấy ngay! – Đấy là lấy cái hình mũi nhọn nó ở
ngoài như phóng bắn vào!

351
8.- "Huyệt cao minh đường chấp phiến đê,
Táng hạ trung tử thập niên dư,
Trưởng, tiểu nhị phòng y thực túc,
Chỉ khủng cửu hậu nhạ thị phi!"

Nghĩa là: Huyệt ở cao, mà có cái hình minh đường như cầm cái quạt ở dưới thấp –
Thì trong khoảng mười năm, các ngành giữa như con thứ 3, thứ 4, chẳng hạn, thì
vẫn phong phú có thừa – Con trưởng con út đủ ăn đủ mặc – Nhưng sợ về sau lâu
năm sinh ra nhiều sự thị phi bất trắc!

9. - "Tiền khoát hậu tiêm phú hữu dư,


Tiền tiêm hậu khoát tài thọ hư!
Tiền cao hậu đê phụ phong xuy,
Thọ trường, đinh vượng, phúc vô khuy."

Nghĩa là: Đằng trước huyệt rộng, đằng sau huyệt hẹp thì giàu có dư dật – Đằng trước
cao, đằng sau thấp, được có gió thổi thoáng khí – Thì tuổi được thọ trường, đinh tài
lưỡng vượng, không thiếu phước may.

10. - "Huyệt tiền minh đường cao ngoại đê,


Trưởng, nhị lưỡng phòng họa vô nghi!
Huyệt tiền tả hữu tiết tiết đê,
Trưởng, nhị lưỡng phòng bại đào di!
Huyệt chi tả hữu lưỡng biên đê,
Trưởng, nhị lưỡng phòng đinh vượng hy."

Nghĩa là: Ở đằng trước có minh đường cao, nhưng ở ngoài minh đường lại thấp – Thì
ngành trưởng và thứ bị họa, không còn nghi ngờ nữa! - Ở đằng trước huyệt, cả hai
bên tả, hữu cứ mỗi đợt thấp dần – Thì ngành trưởng và thứ bại rời bỏ quê hương trốn
đi! - Ở bên tả, bên hữu huyệt, cả hai bên thấp, thì cả ngành trưởng và ngành thứ
đinh vượng, vui mừng.

11. - "Huyệt hữu quách biên thổ tiêm đê,


Nhị phòng tử tôn bách thiên dư!
Huyệt hữu minh đường hậu thả cao,
Nhị phòng tử tôn phú thả hào!"

Nghĩa là: Phía tay hữu gần bên mộ, đất thấp và nhọn đâm ra ngoài, - Thì ngành thứ
con cháu có trăm ngàn nhân số - Ở phía bên hữu huyệt có minh đường cao và dày
rộng – Thì ngành thứ con cháu giàu có và tài giỏi! Về bên tả, thì đoán về ngành
trưởng hay và dở cũng như ngành thứ.

12. - "Huyệt hữu quách biên thổ cao hậu,


Nhị phòng vô tử tuyệt liễu hậu!
Huyệt hữu minh đường tiêm hựu đê,
Nhị phòng vô phạn hựu vô ý!"

Nghĩa là: Về phía hữu huyệt, ở gần mộ mà đất khởi cao và hậu trọng ( dày rộng) –
Thì con cháu thuộc ngành thứ bị tuyệt tự! Ở phía hữu có minh đường thấp và nhọn –
Thì ngành thứ hai không có cơm lại không có áo! Nếu ở bên tả có như thế, thì thuộc
về ngành trưởng, phước họa cũng đoán như thế.

352
13. - "Trung huyệt tiền đê hậu cao khởi,
Trưởng, nhị thọ đoản bần đáo để!
Tả huyệt tả hà tào đầu an,
Tiền đê trưởng quý bất tích tiền!
Hữu huyệt hữu hà tào đầu thiên,
Thứ phòng phát quý vô điều viên!"

Nghĩa là: Huyệt ở chính khoảng giữa mà đằng trước thấp, đằng sau cao – Thì ngành
trưởng và thứ nghèo khổ và chết non! – Bên tả có sông có ngòi, hạ táng ở gần đầu
ngòi ( tào), mà trước mặt đất lại thấp – Thì ngành trưởng phát quý, nhưng không có
tiền để dành! - Ở bên hữu huyệt có sông có ngòi, mà đặt táng ở đầu ngòi sông ấy –
Thì ngành thứ phát quý, nhưng không ruộng vườn, tức là nghèo.

14. - "Huyệt tả hà biên trưởng vượng nhân,


Tiền cao hậu đê phú thọ hân;
Huyệt hữu hà biên thứ đinh vượng,
Tiền đê hậu cao nhân yểu bần!
Huyệt tả hà biên huyệt tiền cao,
Trưởng phòng cập đệ gia phú hào;
Huyệt hữu hà biên huyệt tiền đê,
Nhị phòng Hoàng giáp vô phạn y!"

Nghĩa là: Ở bên tả huyệt có sông, thì ngành trưởng vượng, có nhiều nhân số - Mà
đằng trước huyệt cao, đằng sau huyệt thấp, thì giàu có, sống lâu vui vẻ - Ở bên hữu
có sông, thì ngành thứ vương nhân đinh – Đằng trước huyệt thấp, đằng sau huyệt
cao thì chết non và nghèo! – Bên tả huyệt có sông, mà trước huyệt cao – Thì ngành
trưởng đi thi đậu kịp thời và giàu có, tài giỏi – Bên hữu có sông, mà đằngg trước
huyệt thấp – Thì ngành thứ đậu Hoàng giáp, nhưng mà thiếu cơm thiếu áo, tức là
nghèo!

15. - "Nhất danh trùy hung thùy,


Huyệt tả thủy tào lai nhất triệt;
Trưởng phòng đảo lộ vô quan quách!
Lưỡng biên hà tào huyệt cư trung,
Hà bất đảo huyệt nhân mạnh hung!"

Nghĩa là: Hình này tên là Trùy hung thủy ( nước đâm xuyên vào bụng) - Ở bên tả
huyệt có lạch nước đâm lại triệt một mạch – Thì ngành trưởng có người bị té ngã
chết ở trên đường, không có hòm quách chôn! – Hai bên cùng có lạch nước, mà
huyệt ở khoảng giữa – Tuy cái hà không phá vỡ huyệt, nhưng mạng người cũng bị
hung! Ở bên hữu huyệt, cũng đoán về ngành thứ như vậy.

16. - "Huyệt tiền thủy phong hiện,


Nhi tôn chập chập kiến;
Huyệt tả thủy bài phong,
Nhi tôn đinh vượng long,
Tào tại phần tiền danh chấp hốt,
Tào tại phần hậu danh sương khố."

Câu danh tào phong. Tả chấp hốt Trung Thừa tướng. Hữu chấp hốt Ngự sử xuất.

353
Diện tiền chấp nhất bút, Trung gián Kinh quan xuất. Nhược dã tam bút, sáp, Thượng
thư Các lão phát. Diện tiền phản cung bút, Gian thần Tặc tử diệt!

Nghĩa là: Ở trước huyệt có lạch nước ngăn, gọi là Thủy phong, tức như cái núi cao ở
miền Sơn cương, thì con cháu thấy đông đảo bầy bầy. Ở bên tả huyệt, thấy thủy như
bài phong ( như bày hàng), thì con cháu thịnh vượng nhiều người lắm!
Có thủy tào ở đằng trước mộ, gọi tên là Chấp hốt ( cầm cái hốt). Tào ở đằng sau cái
mộ, gọi: Sương khố ( kho tàng). Những cái thủy hình như thế đều gọi là Tào phong.
Ở bên tả có chấp hốt, thì phát xuất làm chức Trung Thừa tướng. Ở bên hữu có hình
chấp hốt, thì làm chức Ngự sử. Ở trước mặt có một cái hình như cây bút, thì phát
làm Trung gián Kinh quan. Mà có cái bút tựa cái nỏ phản vào, thì bị Gian thần Tặc tử
giết!

17. - "Huyệt tả thủy tào hiện,


Trưởng phòng xuất Đô hiến,
Huyệt hữu thủy tào hiện,
Nhị phòng tố Thiết diện."

Nghĩa là: Ở về bên tả có thùy tào ( lạch nước) hiện – Thì ngành trưởng có người làm
chức quan Đô hiến - Ở bên tay hữu có thủy tào hiện – Thì ngành thứ có người làm
chức Thiết diện ( chức tước cổ quan, gọi tên lạ kỳ!

18. - "Huyệt hữu thủy tào phong,


Tam tứ ngũ phòng vinh;
Huyệt tiền chấp hốt tào,
Nhi tôn đăng khoa tảo."

Nghĩa là: Ở bên hữu có hình thủy tào phong – Thì ngành thứ 3, thứ 4 vinh hiển. Hình
cục này có hà thủy bài phong triều ở ngoài, thì phát! Huyệt có đống nổi cao ở đằng
trước, thì hay đau bụng hoặc đau mắt tốn tiền thuốc! Ở bên tả, bên hữu mà có gò
đống, thì con cháu có thể hẹn được ngày giàu có – Nếu muốn phát quý, thì tìm chỗ
có bút giá sơn, tức là có ngọn núi nhọn cao đâm chân mây; hoặc 3, 4 cái ngay thẳng
vót chân mây, thì văn chương cái thế! Xuất phát Khôi nguyên kế tiếp không sai!

19. - "Huyệt trung tả hữu Bất thông phong,


Trưởng ấu lưỡng phòng tuyệt vô tông!
Huyệt tiền minh đường tiệm tiệm đê!
Trưởng ấu lưỡng phòng chủ ngoại di!"

Nghĩa là: Huyệt ở giữa, hai bên tả, hữu cao, gió không thông qua được – Thì cả
ngành lớn, ngành nhỏ đều tuyệt tự không còn dòng giống! - Ở trước huyệt mà minh
đường thấp dần dần xuống – Thì ngành lớn, ngành nhỏ phải di tản ly hương ra ngoài,
lụn bại mất cả! bởi vì đường thủy chảy rốc hết nước, thì không còn khí tụ.

20. - "Huyệt tả thiên trụ đê hữu phong,


Trưởng phòng định xuất bách thế ông;
Huyệt hữu thiên trụ cao nhi hậu,
Nhị phòng thọ cận ngũ thập tẩu!"

Nghĩa là: Ở phía bên tả về đằng sau thấp, có gió thông qua – Thì ngành trưởng thọ
đến trăm tuổi - Ở phía bên hữu về đằng sau cao mà đất dàu rộng – Thì ngành thứ

354
chỉ sống được gần 50 tuổi thôi!
Bên tả cao, bên hữu thấp, thì ngành trưởng cũng đoán như ngành thứ.

21. - "Bàng giải hình tự nhất liên hoa,


Vị trúng khoa đệ bất thuyết tha;
Trúng liễu thư si lai nhất khán,
Phản nhận trung huyệt tố quan gia,
Thời sư bất thức giang hà quyết,
Ngã đạo thời sư thuyết tiện sai!
Hà biên thiên huyệt sinh đa khí,
Nhất phòng nhất cử chủ vinh hoa."

Trung ương hữu trì, khả tọa trì tác huyệt, như vô tắc táng giác.

Nghĩa là: Hình này giống con Cua, tựa như cái hoa Sen – Khi chưa có người thi đậu,
thì chẳng thấy nói gì đến nó cả - Lúc thấy có tiếng là đất ở đấy có người đậu khoa
bảng, thì có ông thầy ngu dốt đến xem, bảo là: Nhà thi đậu là quan là nhà có ngôi
mộ để ở giữa – Ta bảo cái ông thày địa ấy, không biết phép về giang hà ( sông ngòi)
nên nói sai! – Chứ đặt huyệt ở gần bên sông có nhiều sinh khí lắm! – Cứ thấy một
cái thuộc về phần ngành nào, thì lấy đây mà đoán về một ngành ấy được vinh hoa
v.v… - Ở trung ương có ao, thì nên đặt huyệt ở giữa khoảng ấy, gối vào ao; nếu
không có ao, thì đặt huyệt ở bên góc, gần sông ngòi.
Ở bên cạnh sông mà có huyệt nhỏ ( tiểu địa) hướng chầu vào sông, thì đặt cách xa
sông độ hơn 1 trượng rưỡi ( tức là 15 thước trở lên). Nếu theo táng pháp mà điểm
huyệt như cách thức ấy, thì ngành trưởng thi một lần là đậu khoa bảng. Ở bên cạnh
sông mà có huyệt hướng trông vào ruộng, thì đặt huyệt lìa xa sông 1 trượng rưỡi,
tức là cách xa sông 15 thước thôi. Nếu hay theo táng pháp mà điểm huyệt như thế,
thì thi một lần là đăng khoa đến trước mặt vua ngay, tức là đậu cao làm quan lớn!
Những bài quyết trên, là nói cách thức địa huyệt, hình thế, đại ý là như vậy. Còn sự
kết tác phát phúc, sinh họa to hay nhỏ, là do ở cục địa đại, tiểu; chi, cán và chân
long, chính huyệt; hoặc bàng long, tùy huyệt. Phải nhận xét liệu lượng mà định
đoán, chứ không hẳn là có cái hình như thế mà đều được như thế cả đâu!
Đây là kể đại khái mấy hình thức thôi, chứ còn biến ra muôn hình, ngàn tức khác,
khôn bút giấy nào tả hết! Độc giả sẽ suy ra mà linh động được hết, chẳng khó gì cả!

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Phụ trích lục


 Việt Hải

Ngoài cái huyệt là cái Sa, Thủy cũng có tác pháp, như: cái Sa xem trường đại thô ngạnh, là cái
hữu dư – vô dụng! thì nên phá bỏ san bằng đi, để triệt chế cái Quá; cái Sa đê tiểu nhược, là cái
bất túc, thì nên đắp cao thêm để bổ khuyết cho cái bất cập! cái Thủy mà nghiêng ( dốc) chảy đi
hết thì nên bồi trúc ( đắp) thành cái bờ đê như cái Sa để ngăn hãn nước lưu trữ lại.

355
 
Phụ trích lục

Táng pháp lạc đầu - Tác pháp bộ


Kim Cương toàn, nhị thập cửu pháp
Tiễn tài tác dụng đồ

Dịch nghĩa
( Theo như nguyên văn)

Họ Cửu Thăng nói: “ Nhân bất Thiên, bất nhân; Thiên bất Nhân, bất thành”. Nghĩa
là: Người cải tạo mà không có cái hình của Thiên tạo thì chẳng có cái gì để mà dựa
vào được! Thiên tạo ra hình mà không có Người cải tạo ( sửa đổi) thì cũng chẳng
thành cát địa! Bởi vậy, ngoài cách Chính táng, còn có cách Pháp táng nữa. Chính
táng là nhân có cái hình đãsinh thành rồi, mà định chỗ kết huyệt. Pháp táng là tự
mình định đặt huyệt trước, sau sẽ tác hình khác. Thí dụ: cái hình là thuần âm, thì
đào xẻ ra cái Oa, Kiềm; cái hình là thuần dương, thì đắp lên cái Nhũ, Đột; nếu không
làm thế, thì âm dương bất giao tức là không hóa khí; như vậy là Thiên tạo chưa thu
được toàn công! Hẳn là sinh ra thế, để đợi người biết phép tác dụng mà thành cái
huyệt hoàn hảo.
Đấy là: “ Thiên Nhân giao dụng chi vi cơ, tam tài chi sở tịnh lập, nhi bất khả khuyết
nhất giã!” chính là ý nghĩa chỉ vào việc như vậy.
Ngoài cái huyệt là cái Sa, Thủy cũng có tác pháp, như: cái Sa xem trường đại thô
ngạnh, là cái hữu dư – vô dụng! thì nên phá bỏ san bằng đi, để triệt chế cái Quá; cái
Sa đê tiểu nhược, là cái bất túc, thì nên đắp cao thêm để bổ khuyết cho cái bất cập!
cái Thủy mà nghiêng ( dốc) chảy đi hết thì nên bồi trúc ( đắp) thành cái bờ đê như
cái Sa để ngăn hãn nước lưu trữ lại.
Những việc làm như thế đều là nhân tạo để trợ lực cho Thiên tạo, nên phụ lục sau
đây:

Kim cương toàn


( Dương quân Tùng trước tác)

Xưa Dương Công, ngày thường cầm quyển sách Kim cương Toàn, bảo Môn nhân
rằng: “ Cái yếu thuật về địa lý thì Long cần có chính tinh, Huyệt cần có chính hình,
Sa cần có chính danh, Thủy cần có chính tình”, ngoài 4 cái ấy lại còn có cách Pháp
táng, nên mới bảo “ Có thường tất phải có biến” vậy cái pháp táng là để chế biến đi.
Như: Ở núi cao thì táng ở chỗ hỏm ( lõn sâu), hang, là dịnh hình; nhưng lại có cái
hang rỗng không là hang Thiên cẩu ( chó trên Trời); ở nơi đất bằng thì đặt táng chỗ
khởi đột, là định hình; nhưng lại có cái bạo đột là Cô diệu; nếu đặt táng vào những
chỗ ấy thì gia phá nhân vong! Lại bảo rằng Địa lý không đủ nghiệm, nhưng đâu phải
là Địa lý không nghiệm, đó là bởi mất cái cách làm của Táng pháp.
Cái long hung huyệt cát là vô tình mà trông lại hữu tình, tuy phát phúc nhưng không
được bền. Cái long cát huyệt hung là hữu tình mà trông thì vô tình,tuy hung nhưng
lại phát phúc. Vậy cách khử hung triệu cát ( bỏ cái ác, vời cái lành) chỉ ở cái phép
sửa chữa giúp cho hình địa, để tránh chỗ khiếm khuyết, tới chỗ hoàn toàn thôi.
Cho nên phép tìm đất, trước hết phải nhận xem cái huyệt tinh là âm hay dương. Cái
hình là Dương lạc, hẳn là ngửa lên; là âm lạc thì hẳn là úp xuống. Vậy sau sẽ tìm cái

356
sống lưng nó rủ xuống để tróc khí mạch; xét cái mạch gợn lên một chút xíu như hôi
tuyến mà định chỗ kết huyệt; rồi xét đến cái nước làm ranh giới huyệt, cái nước ấy
gọi là “ Kim ngư chi thủy”. Cái Sa hộ vệ huyệt gọi là: “Phượng hoàng chi sa”.
Có thủy mà không có sa chuyển bão thì khí tán loạn không tụ, đó là “ Kim ngư bất
Phượng Hoàng” thì trở thành tai ương.
Lại phải xem chỗ xuất nhũ ( thò vú ra) có tròn trĩnh không? Hoặc đột như mắt cua
mà hoạt động hữu tình, hai bên có thủy vi mang ( nước nhỏ hẹp mà nông) bao
quanh, thì không phải là bạo đột; bởi vậy, khi đặt táng rất kỵ vô nhũ. Lõm sâu là
hang không, như hinh mắt cua chết, thì bị họa! Vậy có câu “ Hà nhỡn đương, cầu
pháp” “ Tử giải lộ, nhân vong” nghĩa là: Hình như mát con tôm thì nên tìm phép
táng; hình như mắt cua chết thì hay có người bị chết ngoài đường.
Cầu phép tức là khai ra cái khẩu ( miệng) hoặc đắp lên cái Nhũ ( vú) hoặc như chỗ
lõm ở vai, nách, cổ, chân…
Lại nên xét cái “ Hà tu chi thủy” cho minh bạch ( Hà tu chi thủy là cái thủy ở trước
huyệt hình như nhân trung, hai bên hợp lại như vạt áo khép vào, nên gọi là thủy hợp
khâm); nếu không rõ ràng thì giới hợp bất thành, không nên dùng, chớ có nhận sai
là Hà tu. Hà tu là cái lạch thủy như 2 càng tôm, người ta thường mừng có thủy Hà tu
dài thì tốt.
Lại nên xem cái Sa bên tả và hữu có phải là “ Thư hùng giao độ” thì khí mới tụ, hoặc
là âm giao Dương, hoặc dương giao Âm; thì mới thực la kết cục. Hoàng là Hùng
( đực), Phượng là Thư ( cái), nên mới bảo: “ Hoàng hùng đoan, yếu Phượng thư”, ý
nghĩa là bảo về cách biện dụng như vậy. Sa hai bên tả hữu chuyển vòng cong ôm
vào ( là hộ vệ bên trong) thì bên trong hẳn được thủy khí tịnh minh ( trong sạch).
Nếu sa có đuôi thò dài quay đi ra ngoài,gọi là “ Vĩ tha hướng ngoại”, có câu đoán
nghiệm: “ Tẫn giả vĩ, đa loạn; Mẫu giả vĩ, thảng dương”, nghĩa là: Sa bên hữu ví như
Tẫn ( loại cái) có đuôi thì bên nữ nhiều sự hỗn loạn! Sa bên hữu tả ví như Mẫu ( loại
đực) có đuôi thì phái nam du đãng!
Nếu có đuôi sa phiêu dương ra ngoài như thế thì nên khuất kín, ở chỗ huyệt không
trông thấy thì không tốt!
Lại nên phân tách những cách của long sơn, nếu thấy như hình cái máng nước, hoặc
lõm xuống như lòng cối nghiền thuốc, lòng khay trà, hoặc như cái sảo, cái thúng
lõm, lòng chảo… thì không nên đặt táng. Tuy xem đã được hợp pháp rồi, lại còn phải
phân biệt cái thủy khẩu, thành môn, tứ thần, bát tướng, tam dương, lục kiến, mọi cái
đều được rõ rệt, đầy đủ thì mới là toàn cát vô hung; cái cục địa ấy là “ Thập toàn chi
địa”. Tất cả các phép tầm địa cũng không ngoài những cái ấy.
Nay liệt cử những cái bản hình của Ngũ tinh và những cái Diệu quyết của Pháp táng
ra bản đồ để bảo cho mọi người. Đây là cái năng lực về địa học rất chí lý, giữ lấy
phép này mà làm thì được hưởng phúc lâu dài, không bị họa; nếu muốn làm đất mà
bỏ mất phép này thì ví như tìm thóc trong đống bụi, tìm àng trong đống cát!
Ai được phép của ta thì chẳng những không gieo họa cho người, mà chính là tạo phúc
cho người vậy!

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

357
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 34

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:46 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Giải thích kim tinh hình cục
Việt Hải

Nếu gặp những hình huyệt như vậy mà có lai long chân chính thì dụng Pháp táng: “ Đặt huyệt ở
trên chỗ long nhập thủ tận xứ đứng lại), chẳng cần đào xẻ sâu, chỉ lấy đất ở ngoài mà đắp nối
liền cho dài thêm ra độ 4, 5 thước ( thước ta độ 40 cm) hoặc hơn, cao lên như hình móng ngựa,
rồi sẽ hạ táng; thì đường khí ngắn lại và có Kim ngư thủy giới ở trên đầu mộ dẫn ra; về sau sẽ
phát to. Đây gọi là “ Tiếp khí táng pháp”.

Giải thích kim tinh hình cục

1. – Kim tinh lai thể: đứng như hình cái ngai, hai vai cân đối bằng nhau, hai bên tả
hữu rộng rãi, minh đường dài, chỉ là Hư kiềm thôi! Không có “ Kim ngư giới thủy”.
Hình này gọi là “ thiên cương thượng huyệt”, nếu hạ táng thì không phát phúc.
Nếu gặp những hình huyệt như vậy mà có lai long chân chính thì dụng Pháp táng: “
Đặt huyệt ở trên chỗ long nhập thủ tận xứ đứng lại), chẳng cần đào xẻ sâu, chỉ lấy
đất ở ngoài mà đắp nối liền cho dài thêm ra độ 4, 5 thước ( thước ta độ 40 cm) hoặc
hơn, cao lên như hình móng ngựa, rồi sẽ hạ táng; thì đường khí ngắn lại và có Kim
ngư thủy giới ở trên đầu mộ dẫn ra; về sau sẽ phát to. Đây gọi là “ Tiếp khí táng
pháp”.

2. – Kim tinh lai thế bình hoãn: như ngửa ra, hai đầu giác tầy ( đều) nhau, trong
miệng thiên lệch về bên cạnh, minh đường chật hẹp, nếu hạ táng thì bại tuyệt!
Nếu long sơn hảo cát thì nên dụng pháp táng: “ Khai xẻ bên tay hổ ra làm thành
vòng cong ôm lại thì được: bên hữu không bức bách long xứ hồi bão – Nguyên thần
bất trực, tự nhiên có Kim ngư thủy giới ở huyệt nội; sẽ phát phúc, nhân tài đại
vượng.

3. – Kim tinh trắc lai: thế đứng cao, đầu về một bên; nếu chỉ tìm huyệt ở hai bên
mà không phá ra cho thò dài và hai bên vòng ôm lại, thì không tiếp khí lại phạm
minh đường thường trực, trước huyệt lại bức bách, chủ tinh không thu được thủ tụ,
thì sẽ bại tuyệt!
Gặp những hình trắc đảo như thế, nếu tả hữu dài rộng, mạch lạc phân minh thì chớ
bỏ, nên lấy đất đắp thêm chỗ chính giữa khẩu thần độ 3, 4 thước dài thêm ra và cao
chừng 2, 3 thước; đã khai tả hữu thành 2 nách rộng thì đường khí tụ, nguyên thần
thủy bất trực, tực khác có Kim ngư thủy giới huyệt, hạ táng thì đại phát phúc.

4. – Kim tinh thiên sinh: ( lệch lạc) có tả, không hữu! Huyệt ở chính diện hữu sơn
không vòng câu, tức là huyệt lộ thủy tán, tên gọi “ Kim thủy bất tụ”.
Nếu hậu long hảo cát thì nên dụng Pháp táng: “ Kim tinh thoát kim nghĩa là làm cho
bên tay tả và hữu đều loan bão như nhau, sẽ phát phúc vượng đinh.

5. – Kim tinh thoái bại: dẫu là long chân huyệt chính cũng bị ly hương, kiện cáo
liền liền lập tức!

358
Dụng táng pháp: “ Bạt san chính giữa ra vài thước, đắp thêm đất nối liền vào để tiếp
mạch, cao lên độ 3 thước, đặt huyệt sâu độ 2 thước mà hạ táng, trước huyệt khai
đào một cái ao nhỏ để tụ thủy thì minh đường ngắn, không bị thủy trực khứ, sau sẽ
vượng nhân phát phúc.

6. – Kim tinh nội khoan khoát, ngoại quan khẩn: ( trong rộng rãi, ngoài khép
gần) nếu long hảo cũng là cục đất phát phúc.
Dùng phép nội tụ hạ táng nguyên kim huyệt hình, hợp hạ thủy tức là nội trực, ngoại
câu. Nên dụng công bạt ở giữa minh đường đắp thành Kim thủy bào huyệt làm cho
tiếp liền với lai mạch, tự nhiên thành Kim ngư thủy giới, khiến Đường Thủy bất trực,
tự thành Đại địa.

7. – Kim đính hỏa cước: đặt xuống 1 kỷ thì Kim tinh khiên động, hai đầu giác hỏa
tinh, các ngành ấu đều bất cát! Nếu được long hảo thì chớ bỏ.
Tới chỗ 2 giác hỏa tinh, bừa san thành Thủy Mộc hình, thì được Kim sinh Thủy, Thủy
sinh Mộc, tự nhiên tương sinh, về sau ba đời đều thịnh vượng.

Giải thích Mộc tinh hình cục

1. – Mộc tinh lưu thủy: nếu đặt táng thì đường khí bất tụ, nguyên thần thủy trực,
sẽ bị thoái bại.
Gặp vậy, nên làm cho thủy tụ rồi hạ táng; vì đầu Bản hình ( đại cục) lại khai khẩu ở
Bản tinh ( huyệt trường), táng Thủy oa cũng không được. Phải dụng công đắp đất
thành đống mộ ở giữa Minh đường để tiếp mạch lại, khiến tả hữu củng bão giáp
huyệt thì Minh đường ngắn lại, thủy mới không bị trực lưu, thì được thành cát địa
phát phú trước phát quý sau.

2. – Mộc đầu kim cước: tương khắc chủ hung, tả hữu sát trọng! nếu hạ táng thì
sinh ra chứng bệnh Hoàng thũng khí đàm! Nếu long hảo cát thì nên dụng Pháp táng
mới lành.
Gặp những hình huyệt như thế rất khó dùng, nên khai phá bên hữu ra thành cái
Thủy huyệt mà hạ táng để tránh cái Tả sát, lấy Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, là tị

359
sát nginh sinh, thì chuyển thành đại địa.

3. – Mộc tinh mộc giao: toàn vô hóa khí, tả hữu đều trực, không hồi hoàn loan
bão, nếu không có thủy lưu thuyến thì bị cô bần tuyệt nhân!
Nếu được long hảo, có hộ, có tống, có đại thủy hoành bão thì chớ bỏ, nên dùng pháp
táng: “ Đả khai, làm ra cái Thủy oa ở trước huyệt sửa chữa đắp thêm 2 tay quay đầu
ve lại, khiến Đường cục có quan tỏa, Thủy Mộc tương sinh thì tự nhiên phát phúc,
phú quý vượng nhân.

4. – Mộc tinh chủ sơn cao áp, tả hữu bức bách: nếu hạ táng thì cả ba ngành đều
tuyệt, sinh ra người hèn hạ!
Nếu long chân thì chớ bỏ, dụng Pháp táng: “ Dụng công đả khai chỗ bức bách, lấy
rộng ra 2 bên tả hữu làm nội sa hoàn bão, khiến Thủy Mộc tương sinh; sơn thế lại
thấp và như ngửa lên thì huyệt đặt ở chính giữa, nếu cao áp thì đặt huyệt ở bên
cạnh, sẽ phát phúc mau chóng.
Gặp những hình dong có tả hữu như thế thì đều dùng được, chớ bỏ.

5. – Mộc tinh lai thế: hậu cao tủng bạt, áp bức tiền sơn; Huyệt, Đường chật hẹp.
Nếu hạ táng thì bị Thiên cương sát, hay chết non, góa vợ… không phát phúc.
Gặp vậy tức là Chủ sơn cao, áp Tiền sơn thì dùng Pháp táng: “ Xẻ khai vào độ 4, 5
thước rồi bừa san cả hai bên tả hữu, làm cho đằng trước rộng rãi thêm ra, Minh
đường sẽ vuông vắn hồi hoãn mà thành Đại địa, thì phát phú quý.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Giải thích Thủy tinh hình cục
Việt Hải

Giải thích Thủy tinh hình cục

1. – Cổn tuyền Thủy hình đới Kim: Chủ phát đại phú, tử tôn phồn thịnh; nếu Kim bào ( gợn nổi
như đám đọt) không rõ rệt, tả hữu không hộ huyệt, hậu long tuy hảo cũng không phát phúc.

 
Gặp vậy, sửa ngay một chi chính mạch mà hạ nguyệt ở chỗ thoát sát, dụng công đắp
như hình Kim bào khởi động minh bạch, bồi bổ thêm hai tay dài ra và loan hoàn hộ
huyệt; thì đường cục không tiết khí, sẽ thành Đại địa, phú quý vượng nhân.

2. – Thủy tinh đáo nguyệt: trông khuất hồi ( khúc khuỷu) thì thủy tán, Đường
khoan thông tụ; hạ táng tất sau bị thoái bại ly hương, nữ nhân dâm loạn!
Nếu long hảo cát nên dụng Pháp táng: Khai cái tiểu thủy khuất, như hình Kim đính
vọt thủy khởi xuất, theo Kim đính mà đặt táng; thì Kim thủy tương sinh, đắp thêm tả
hữu làm cho hai cánh tay dài thêm ra, bão quá huyệt thì thành Đại địa.

360
3. – Thủy tinh trích thủy: mạch rõ xuống đầu Thủy tinh nên khai 1 chi giữa (hoặc
lớn, hoặc nhỏ) khác hẳn với mọi chi mà hạ táng; nếu tả hữu ngắn không dài ngang
đến huyệt thì khí lộ, vô lực, bất phát phúc, nên dụng tác pháp.
Gặp hình như vậy thì cốt ở hậu long khởi Đại kim tinh làm chủ, nên ở thoát sát chính
mạch, lấy đất đắp lên thành Kim đính ( Kim tinh khởi đính) nấm mộ để lấy Kim thủy
tương sinh, lại dụng công làm 2 bên tả hữu nối dài thêm ra để có long hổ vệ huyệt,
khỏi bị lộ gió. Ở đằng trước huyệt đắp lên một đống nằm ngang đối với huyệt, không
cao, không thấp để làm nội án, khiến thủy khỏi phiến lạm; đời đời sẽ hiển văn,
vượng nhân, phát tài.

4. – Thủy tinh Kim bào huyệt: bên tay tả có Sơn phi tẩu trực xuất, bên tay hữu
không bão, huyệt xứ lộ phong. Hạ táng nguyên hình thì sau bị cô bần, ly hương.
Nếu được tiết hậu long hảo cát, có Đại kim tinh làm chủ thì nên dụng Pháp táng: “
Gặp lai long hợp pháp nên dụng công đắp thêm ở trên cái sơn phi tẩu về bên tả, nối
liền ra 2, 3 tay để che khuất kín, khỏi trông tháy cái đầu nhọn, đắp cao thêm cái
chỏm Kim tinh làm mộ phần: tiếp thêm bên tay hữu để loan bão huyệt thì Tả hữu
đều không bị phong xuy như cái hình La đới, là đất phát Thanh quý, thịnh vượng lâu
dài.

Giải thích  Hỏa tinh hình cục

1. – Hỏa tinh Mộc huyệt: trực lai trực thụ, vô nhiêu vô giảm, phát phúc bất cửu.
Nếu được long hảo thì dụng Pháp táng: “ tựa về 1 bên Mộc tinh, khai ra cái biên oa,
lấy thủy lập huyệt khiến cho Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa; tự dưới sinh lên, dựa vào
thì tránh được trực sát; đắp lên thành đống mộ thì đước cát tường, lấy cách như “
Liệt tu huyệt pháp” mà hạ táng, ( Liệt tu là như rau bao vòng quanh miệng, tức là
hình tiểu thủy quanh trước huyệt), thì phú quý lâu bền.

361
2. – Nhũ đoản: nếu hạ táng thì phạm Kim khí: Hỏa kim tương khắc bất cát!
Thấy hậu long hảo thì nên dụng Pháp táng: Khai phá 2 bên sườn nách cái Nhũ đoản
ấy ra làm hình Thổ tinh, đặt táng gắn liền vào Thổ tinh thì được Thổ Hỏa tương sinh,
sẽ phát phú quý vĩnh viễn.

3. – Hỏa tinh thoát lạc Bình địa: ( tên gọi là “ Bảo địa hỏa”) vi khởi Thổ diện,
trông đột lên chút xíu nhu mặt Thổ tinh). Nếu đặt huyệt ở trên mặt Thổ tinh thì đấu
cương ngạnh, gọi là phạm Thiên cương thì bại tuyệt! nếu hậu long hảo thì chớ bỏ,
mà dụng Pháp táng:
Gặp hình như vậy là Hỏa sinh Thổ, hợp chính pháp độ, nhưng không nên phạm Thiên
cương. Nếu đặt huyệt ở trên ngạnh diện thì nên khai ra cái khẩu tiến sâu vào trong
độ 7, 8 thước ( hoặc hơn) tùy Thổ tinh lớn nhỏ; sẽ lập huyệt ở chính giữa chỗ Kim
tinh thè môi ra chút xíu, mà đặt ở chỗ nhuyễn ( mềm) gắn liền với chỗ ngạnh
( cứng); 2 bên tả hữu sẽ bừa san rộng ra làm tay long tay hổ, khiến cho nội thủy hợp
lưu lại tại đường trung, rồi mới chảy ra ngoài, thì sẽ thành Đại địa phát Võ tướng, Đại
tướng…

Giải thích Thổ tinh hình cục

1. – Thổ tinh: để nguyên hình mà hạ táng thì thô đại, tuy được đường cục đoạn
chính cũng sinh ra chứng hoàng thũng bệnh hoạn mãi, rồi cũng bị cô tuyệt!
Gặp vậy tức là “ Nhũ thô cổ đại” ( vú xấu, đùi to), xem thấy có gân mạch gợn lên
như sợi giây rủ xuống, thì chỉ nên tiếp mạch tới chỗ đầu Nhũ ấy mà hạ táng, dụng
công mà bừa khai xẻ ra 2 bên Tả Hữu lấy làm tay long tay hổ loan bão để trừ tuyệt
bớt cái thô ngoan đi, gọi là “ Tiếp Mộc Huyệt” thì phát phú quý.

2. – Thổ tinh vô nhũ: nếu để nguyên hình như thế mà hạ táng thì phạm Mộc sát,
sau khí hạ táng sẽ sinh ra chứng phù thũng, bệnh tật hoài, rồi tuyệt vong!
Nếu thấy long chân thì dụng Pháp táng: “ Gặp hình vô huyệt như thế, tới 2 giác mà
tìm, nếu 2 giác lại băng diện như Mộc tinh, không hợp Pháp táng thì phạm Mộc sát;
nên tới bên giác chỗ có thể thôn tiến mà khai ra oa, kiềm huyệt, thâm nhập tới long
thân để lấy khí nội kiềm khẩn giáp, thì được cát huyệt.

3. – Ngọa ngưu: ( trâu nằm) Thổ tinh đầu chỏm lệch lạc, nếu để như vậy mà hạ
táng thì sau sẽ phát xuất Tăng ni và sinh bệnh thũng,chết đường. Chữ gọi “ Thổ tinh
phạm sát huyệt”, phải dụng pháp mà làm:
Gặp những hình huyệt đính tà, vế to, phía trên lại phì mãn như thế thì nhắm xem cái
mạch rất nhỏ, gợn lên như sợi giây ở giữa dính rủ xuống, mà khai chỗ cánh tay ra
mới có giới thủy ở đầu Nhũ, làm cho 1 vế hoàn chuyển ôm lại, rồi tới giữa mà lập
huyệt, thu thập đường khí, gọi là “ Tà mộc thác nha huyệt” ( nghĩa là cây cong thì
đặt huyệt vào cái mầm cây) thì phát đại phú.

4. – Thổ tinh xuất tử khí: ( khí đỏ tía rất tốt) nhập huyệt, lưỡng giác đới hỏa; nếu
hạ táng thì lưỡng giác bất thu; Thổ tinh vô khí, huyệt bất cát. Nếu hậu long chân
chính thì nên dụng Pháp táng:
Hình này là “ Chính thổ xuất Mộc huyệt”, chỉ là Hỏa giác bất thu thôi! Nên nhắm vào
giữa, dưới chỗ nhũ mà hạ táng, thoát mạch niêm huyệt, nhưng không nên ra ngoài,
xa nhiều quá thì phạm thủy! Nên đào sâu 5, 6 thước ở 2 bên, lấy đất đắp lên thành
dư khí ở dưới mộ, bồi đắp 2 bên long hổ làm cho loan bão huyệt trường, thì mới phát
phúc.
Nếu mạch lai cấp bách cương ngạnh, thì không nên hạ táng, niêm huyệt; cần phải
bình hoãn thì mới nên làm.

362
Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 35

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:48 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Huyệt nội tác dụng pháp (29 phép)
Việt Hải

Huyệt nội tác dụng pháp (29 phép)

1. – Thôn pháp: ( Thôn là nuốt vào) huyệt tinh nhỏ bé thì không nên đào phá, lấy thôn Pháp mà
làm: đào khoét ở dưới chỗ định huyệt 1 cái hang nhỏ để đút quan vào ngang, rồi lấy đất đắp lên ở
ngoài thành mộ; thì linh khí ngưng tụ ở trong, đường khí ở ngoài thấu hợp; vậy không bị tổn hại
tinh thể thụ huyệt, sẽ chóng liền mạch.

2. – Thổ pháp: ( Thổ là nhả ra) long sơn cao, mạch cường cấp, thấu vào thì sợ nát
quan cốt, sẽ sinh họa! lìa ra thì sợ thoát mạch mà lãnh thoái! Vậy nên lấy thổ pháp
mà đặt táng; đào 1 cái huyệt rỗng ở dưới chỗ thấu vào mạch, đắp như cái ụ để thoát
cái sát khí; sau đặt táng ở dưới cái ụ rỗng đó thì tốc phát phúc, không sinh tai họa
( huyệt để ở ngoài cái ụ rỗng).

3. – Phù pháp: ( phù là nổi) long mạch trọng hậu, đào huyệt sâu thì sợ khí đi qua ở
trên, đào nông thì sợ khí qua ở dưới ( nghĩa la không quán khí được), vậy dùng phù
pháp mà táng; đào sâu huyệt, ngăn làm 2, thành 1 huyệt rỗng ở dưới đáy; sau sẽ
đặt quan cốt lên cái huyệt rỗng đó rồi mới đắp đất lại thì sinh khí tự dưới xông lên
khiến tốc phát thiếu niên cấp đệ ( thi đỗ sớm) phúc lộc lâu dài.

4. – Trầm pháp: ( Trầm là chìm) long mạch hùng vượng nên thâm tàng (chứa ở
sâu) sợ khí không xung hòa thì tảo tuế sinh họa, vậy lấy Trầm pháp mà làm: đào cái
kim tỉnh ( huyệt) sâu, rồi đặt quan cốt xuống, xong lấy gạch hoặc đá đặp xếp thành
cái huyệt rỗng ở trên cái quan thì vượng khí lưu thông, sẽ phát phú quý mau chóng
và thiếu niên không bị hại.

5. - Ẩn pháp: ( ẩn la giấu kín) long mạch dã là chính, mà trước huyệt dư khí còn đi
dài, thì lấy ẩn pháp mà làm: lập huyệt ở chỗ long chỉ ( mạch đứng lại), không đắp
mộ cao; sau đến chỗ thụ đường khí ( gần giáp Minh đường) đắp xây 1 cái hư phần
( mộ rỗng) lập 1 cái bia ở chỗ phóng thủy thì phát lâu dài.

6. – Thông pháp: ( Thông là suốt) tinh thần trọc đại ( gò đống thô tục) thì khí ung
trệ, nên lấy thông pháp mà làm: chừa vài thước ở trong giữa gò, đừng động đến mà
làm dài ngang vào 1 cái hang nhỏ để thông khí, đặt táng ở bên cái lỗ hang ấy thì

363
phát phúc mau chóng, mà vẫn có tú khí.

7. – Chú pháp: ( chú là rót) long mạch khoát đại, hướng về đằng trước thực (ăn)
đường khí thì thoát long, hướng về đằng sau tiếp long khí thì vô thủy, vậy nên lấy
Chú pháp mà làm: chính chỗ gần huyệt ( trước cái gò đống điểm huyệt ấy) khai một
cái đường cục, lấy gạch hoặc đá xây thành bờ ( hình tròn hoặc vuông) sâu hơn huyệt
độ 1, 2 thước, sau sẽ theo phép mà phóng thủy. Lại lấy đá ngăn che đường cục, sau
sẽ khai ra cái lạch nước như hình Hà tu ( càng tôm) ở trước huyệt, xa thì nông gần
thì sâu, chảy vào cái mặt ngoài tiểu minh đường ở phương Sinh, Vượng; xẻ một cái
lỗ nhỏ thì nước rót vào Nội đường, huyệt hướng vào chỗ chú ấy, vậy sẽ lưu thông và
phát phúc lâu dài.

8. – Bồi pháp: ( Bồi là đắp) thạch long vô thổ mà huyệt tình minh bạch, sa thủy tú
dị, thì lấy đất tốt mà đắp thành đống mộ rồi hạ táng theo Bồi pháp: lấy đất ở phương
Sinh, Vượng mà đắp thành cái đáy huyệt, dầy thì 1 thước, mỏng thì 5 tấc cũng được,
hạ táng xong rồi đắp thành ngôi mộ tròn thì phát phúc lâu dài.

9. – Tá pháp: ( Tá là mượn) có lai long đẹp thì nên lấy, nếu đáo đầu thì vô huyệt,
chỗ mạch chỉ là ruộng bùn lầy hoặc la ngòi lạch, nếu đặt táng phóng ở trên thì sợ cao
vót! Lập huyệt ở dưới thì sợ ẩm thấp, vậy lấy Tá pháp mà làm: đưa liền vào long
mạch mà chất đá, đắp đất, mượn cái long khí để thu thủy pháp rồi đặt huyệt ở chỗ
đắp đất ấy thì năm mới táng ( sơ niên) sẽ được lợi mà phát phúc lâu dài.

10. Trở pháp: ( Trở là ngăn cản) long huyệt đã kết thành rồi mà dư sơn đi mãi
không thôi ( chưa đứng lại) tựa hồ như thể cước trọng, thân khinh ( chân nặng, mình
nhẹ). Dương Công bảo là Thiên kiếp đấy! ( Trời cướp đó!), vậy kíp lấy Trở pháp mà
làm: tới chỗ khứ trọng ấy, bất luận tả hay hữu, chỉ ở chỗ sơn khứ mạnh hơn về 1 bên
mà đào 1 cái huyệt rộng độ 3, 4 thước, sâu độ 1, 2 thước; xong lấy đá phiến to xây
đắp thật bền vững thì long khí sẽ hoàn tụ mà không thể đi được nữa, thì phát phúc.

11. – Hàm pháp: ( Hàm là ngậm) gặp long mạch thô ngạnh, không kết huyệt vì
không có dư khí, mà tấc lòng vẫn lưu luyến thì hãy dụng Hàm pháp mà làm: đặt
huyệt 1 nửa vào trong mạch, nửa ở ngoài; bên trong mạch thì không nên xây đắp,
bên ngoài hãy xây đắp đá thì phúc lộc đại phát.

12. – Giá pháp: ( Giá là gác) có huyệt Thủy oa trên núi cao ( tức là hang hố đá) tứ
thời có nước chảy rỉ ra không dứt, thì hãy lấy Giá pháp mà làm: đẽo 1 phiến đá bằng
phẳng như tấm ván dầy, lớn, rồi gác lên miệng hang hố ấy, sau đặt cái quan ở trên
tấm đá ấy, rồi lấy đất đắp thành mộ ( chứ không nên chất đá ở trên mộ nữa) thì sau
phát phú quý.

13. – Tải pháp: ( Tải là chở, gánh vác) có cái “ Đảo địa Mộc tinh khởi bào” (Mộc tinh
nằm, có cái nấm như mảng bọt nổi trên mặt nước) hoặc như hình “Thiên tài Mộc” có
cái Oa nhỏ, nông; những cái như thế đều không nên đào xẻ mà lấy Tải pháp mà làm
( không nên đá động đến tấc đất) có Bào thì đặt quan trên Bào, có Oa thì đặt trong
Oa; rồi đắp đất thành mộ ( chứ không nên xây bàng gạch đá) sẽ phát lâu dài.

14. – Chế pháp: ( Chế là trừ triệt) có cái Hỏa tinh bình địa, kết ở trên mặt Thổ tinh
hình vuông thì nên lấy Chế pháp mà làm: chiếu cái chỏm long sơn ở đằng sau đối
thẳng với cái mũi nhọn Hỏa tinh ở phía trước, mà đặt huyệt ở khoảng trung ương;
không nên đào sâu quá ( tới chỗ thổ khác màu sắc thì thôi) tức như đáy lò lửa, lấy
gạch đá xếp thành đống mộ, trước mộ khai ra cái hình Đại đâu khâm, tức như Minh
đường thủy hợp khâm, ví như huyệt sâu 5 tấc trở lên thì cái thủy rót vào cũng sâu 5

364
tấc trở lên thôi; đó là lấy Thủy chế Hỏa thì phát phúc, vô hại.

15. – Tạc pháp: ( Tạc là đào xẻ) có lai long chân chính, chứng tá minh bạch, thế mà
hạ táng sau lại sinh ra tai họa; khai huyệt ra xem thì có nước bùn: đấy là bởi long
khí đại vượng thì nên lấy Tạc pháp mà làm: theo phép mà suy nghiệm thì ở chỗ long
mạch của Thiếu tổ ( Thiếu tổ sơn ở gần) đổ gục xuống chỗ trũng, thấp quá; vậy nên
khai xẻ 2 bên tả hữu chỗ thấp trũng ấy cho rộng ra để thoát nước đi, do đó, huyệt sẽ
không có nước và cũng không sinh hung họa, thì phát phúc được lâu dài.

16. – Ký pháp: (Ký là gửi) ở chỗ thạch long đứng lại, khai ra cái hố nhỏ mà không
thấy có thổ thì nên dùng Ký pháp: đặt quan vào trong hang rồi lấy đất ở phương
Sinh, Vượng mà đắp vào rồi làm 1 cái cửa huyệt ( nhưng hang sâu là giả huyệt,
không nên dùng cách này). Lại còn cái ụ đá có hang rỗng ở nơi bình địa thì dù sâu,
rộng cũng nên dùng, lấy Ký pháp để thừa khí thì sẽ phát phúc.

17. – Thực pháp: ( Thực là thật) thấy lai long tú bạt mà đáo đầu thành cái Hư oa,
thì nên lấy Thực pháp mà làm: trong Oa, xén vào chỗ lai long ấy độ 1, 2 thước hoặc
mấy tấc cũng được, rồi đặt quan tiếp long mạch, sau đắp thành đống mộ thì phát
phú, phát quý.
Đại để là Mộc tinh thì phần nhiều kết huyệt như vậy.

18. – Hư pháp: ( Hư là hư không) có lai long tuấn cấp, đến bình dương thì tán mạn
vô thu. Vậy huyệt nên điểm ở chỗ thủy giao thì lấy Hư pháp mà làm: đào 1 cái huyệt
sâu; trên đầu, dưới chân, 2 bên đều làm 1 cái huyệt rỗng rồi đặt quan ở giữa, thì
long mạch chu lưu ngưng kết ở đấy, sẽ phát phúc không ngừng.

19. – Thiểm pháp: ( Thiểm là lén lút, giấu diếm) có cái lai long trực ngạnh, bất
kham lập huyệt ( nó ẩn lén lút ở bên tả hoặc bên hữu) thấy thủy đảo bên tả thì
huyệt cũng ở bên tả, thủy đảo bên hữu thì huyệt cũng ở bên hữu, vậy lấy Thiểm
pháp mà làm: đẩy sát vào tinh thể mà đào 1 cái huyệt, bỏ trống rỗng. Vậy sau khi
đặt huyệt ở chỗ không có mạch nhập thủ thì sẽ xuất quan chức có uy quyền.

20. – Toàn pháp: (Toàn là dùi, khoan xuống) có cái dương oa ở nơi đất bằng thì
nên lấy Toàn pháp mà làm: khoan dùi xuống giữa huyệt ở trong cái Oa rồi lấy đất lấp
cho bình diện cái Oa ấy cho đầy lên, đắp cái mộ nhỏ, khởi cao, và làm cho 2 bên tả
hữu có tay long, tay hổ ôm gần vào mộ thì sẽ phát đinh, tài thịnh vượng.

21. – Lậu pháp: ( Lậu là nước thấm, rỉ) có 2 mạch hợp thành thạch đôn ( ụ đá),
nếu đặt quan lên trên đống đá thì nước ở đằng sau không có chỗ chảy ra, hãy lấy
Lậu pháp mà làm: “ khai 1 cái lỗ nhỏ ở giữa đống đá để phóng thủy, sau lấp đá cho
đầy, bằng phẳng; đặt mộ trên đá thì có thể ngưng khí của 2 cái mạch lại, mà phát
phúc vô cùng vậy.

22. – Tốc pháp: ( Tốc là mau chóng) Kim tinh to lớn là ngoan kim, huyệt ở 1 bên
mà không nên dụng phép Đả khai là vì cớ gì?
Bởi vì huyệt ở giữa thì khí vượng, huyệt ở bên rìa thì khí ít! Vậy không nên khai phá,
mà chỉ lất Tốc pháp mà làm: khai 1 cái kim tỉnh ( huyệt) nhỏ mà hạ táng rồi lấy thổ
đắp lên thành mộ, chứ không nên xây gạch hoặc chất đá lên. Năm đầu tiên mới táng
thì không nên phóng thủy,khi nào được phát thì mới cho thủy phóng đi để lấy tốc
phát, nên phép gọi là Tốc pháp.

23. – Triết pháp: ( Triết là chảy đi) có long mạch hùng hậu, phi bão thực vượng! hạ
táng thì sợ về sau sinh chứng bệnh ôn hỏa! Vậy nên lấy Triết pháp mà làm: “ sau khi

365
táng 1 năm, chọn ngày tốt lành để “ TRỪU XUẤT QUAN DĨ TIẾT KỲ KHÍ” ( nghĩa là:
kéo cái quan ra để cái khí tiết bớt đi), về sau lâu lâu lại chọn ngày tốt lành mà kéo
quan ra cho khí tiết thêm lần nữa thì phát phúc vĩnh viễn, không sinh họa ách!

24. – Phá pháp: ( Phá la phá vỡ) tinh thổ thô ngoan, huyệt ở giữa, nên lấy Phá
pháp mà làm: “ xem chứng tá 4 bên chung quanh mà điểm huyệt, rồi khai phá ra cái
Oa, thấy khác màu thổ và sắc tươi thì thôi. Vì cớ là: cái tinh thần ( tức gò đống) ấy
hàm xúc linh tú ở trong, là cái chất khí trọng trọc tàng trữ, tức như thạch trung tàng
ngọc, thì phải phá vỡ thạch ra thì mới thấy ngọc, nên gọi là phá pháp.

25. – Thốt pháp: ( Thốt là khuyết, lõm) có long mạch tú dị mà đến chỗ kết huyết
thì bên tả hoặc bên hữu lại lõm khuyết, bị phong xuy huyệt, thì nên lấy Thốt pháp
mà làm: “ bất luận tả hữu, đều khai 1 cái huyệt khác ở giữa chỗ định lập huyệt hạ
táng, về mé bị lõm khuyết để che và tránh gió”. Vậy sau đưa quan cốt ở cạnh cái
quan gỗ không có hài cốt ( tức 2 cái quan liền nhau); nông, sâu cũng như nhau. Do
đó, không bị gió thổi lạnh hài cốt và không bị kiến, mối đục khoét mộ nữa, thì con
cháu các ngành đều thịnh vượng.

26. – Ưng pháp: ( Ưng là cản, giữ lại) long mạch hùng dũng, đáo đầu ủng thũng,
thô xuẩn hoặc như đông qua, mộc biều ( quả dưa, quả bầu), như phi long, thiếu
thiên long, cường long… hay kết huyệt như thế, hoặc có thạch huyệt nữa, thì làm
như cái Thủy tinh đôi ( gò đống như hình thể thủy tinh), đặt quan thừa khí ở chỗ
lưng thắt lại như eo mạch,thì phát phúc lâu bền.

27. – Huyền phát: ( Huyền là treo) có lai long tủng bạt, đáo đầu ta nga đẩu tả
( cao chênh vênh vọt nước xuống), trực táng, tức táng cũng đều bị thương nhân
khẩu, thì nên lấy Huyền pháp mà làm: “ lấy đằng chân quan mà thừa thụ khí”; mặt
ngoài thì đắp đất lên mà khai ra làm minh đường, thì không hung họa mà phát phúc
lâu dài.

28. – Đấu pháp: ( Đấu là xung đấu) Mộc tinh đảo địa ( hình dài như cây gỗ đổ, nằm
xuống) thì bất luận ở miền núi cao hay đất bằng nếu không thấy đột, thò bướu ra
như mấu đốt cây, hoặc không chuyển động như khúc cong… đó la trực mộc, có sát
khí! Theo phép thì “ Dĩ yêu thụ khí” tức là lấy chỗ ngang lưng mà thừa khí, gọi là
nhập yêu, hay gọi là “ Xuyên trâm đấu phủ” ( đặt huyệt ngang như cái lưỡi rìu đâm
ngang cán) bên tả hữu khai rộng ra, thấp xuống, mộ đắp cao như cái bia đứng, trước
mặt giáp gần tới đường, thì phát phúc lâu dài.

29. – Tức pháp: ( Tức là nghỉ, đứng lại 1 chút) long mạch tuấn cấp, sát khí thái
trọng; là đằng sau huyệt, mạch ở trên đổ xuống cấp quá thì bị sát khí xung vào đầu
não mạnh quá. Vậy phải tránh ra; đào cái huyệt rộng ở đằng sau, rồi đặt quan ở
trước cái huyệt bỏ trống đó, khiến cấp khí chậm lại 1 chút, ngõ hầu không bị cái họa
hoạn ở chỗ bạo khí xung quan, thì phát phúc rất mau và càng bền lâu.

Còn tiếp

Việt Hải

366
Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Huyệt ngoại tác dụng pháp
Việt Hải

Huyệt ngoại tác dụng pháp

Ở trong huyệt, hễ thấy có chút ít bạo khí ( khi mạnh quá) thì ở trên quan quách không nên đắp
đất dầy quá ( tức như đống mộ, không nên đắp cao) để cho nước mưa và sương lạnh thấm
xuống diệt cái sát khí đi sau sẽ dần dần đắp thêm để hun nung ở trong.

 
Trước huyệt có ít bạo khí thì chỉ lúc sơ niên ( năm mới táng) là bất thuận mà thôi. Ở
đằng trước cái Niêm huyệt ( cái huyệt đặt như dán vào long mạch) thì lấy đất đắp cái
bờ như hình chữ nhất để ngăn cái sát, về sau lần lần nạo mòn bớt đi cho đến khi hết
cái đất đắp ấy cũng được. Cái ao sâu như hình Đâu kim, chứa nước cũng nhiều lắm:
như vậy, táng ở huyệt toàn là thổ mà làm cái ao nhỏ, cũng đều là phép làm cái bạo
khí bớt đi!

Kể ra thì có nhiều sách nói về táng pháp cho là kỳ quái, gọi là “ Thanh kỳ táng
pháp”, nhưng xét kỹ cũng vẫn la những tên gọi của các kiểu cách cũ như các loại
Thảo Mộc, Cầm thú… mà biến hóa khác thường thì đều lấy nhân lực, ý chí khôn khéo
của Người ma đoạt quyền lực của Thợ trời cả thôi! Chẳng cần viết ra nữa. Chẳng qua
là “ Sơn thế biện long, Thủy khí quán huyệt” chứ chẳng có gì là kỳ quái cả!

Giải thích
8 hình Tài tiễn tác dụng đồ thuyết

367
1. – Bổ tả sa cách: Thấy huyệt tình đã chân đích mà bên tả khuyết, không có sa là
sa có giới thủy ở gần huyệt: tuy ở ngoài có hộ vệ nhưng cách xa, chẳng tuân theo
mình ( huyệt) vận dụng. Vậy phải đắp thêm ra 1 vế bên tả ở gần huyệt để bổ túc
cho nội thể thì ngoại hộ cũng tùy tòng mà hô hấp, tự nhiên phát phúc ấm lâu dài.

2. – Bổ hữu sa cách: Sa, thủy không đều nhau là tình tự nhiên của Tạo hóa, không
khiếm khuyết bên tả mà khuyết bên hữu, thì tất nhiên là sinh khí thiên khô ( 1 bên
yếu kém). Vậy thêm bên hữu thì long hổ chỉnh tề, khí tượng tự nhiên thư sướng
( phát dương đều hòa).

3. – Thượng bổ huyệt đích cách: Những long sơn ở miền bình cương phần nhiều là
thuần dương thiểu âm, cho nên đỉnh chỏm hay khuyết lõm. Vậy ví như là: thể lực
người mẹ yếu ớt thì phải đắp cho cái chỏm sơn nó cao lên, tức thị bồi bổ cho người
mẹ thì sinh ra con mới được khỏe. Đây là Thiếu dương biến xuất Thiếu âm, chính hợp
địa đạo.

4. – Hạ bổ nhân lậu cách: Những chỗ cát long, chân huyệt thường hay thiếu, ít dư
khí ở dưới chân huyệt tinh về đằng trước, đó là cái sinh khí chưa đủ. Vậy nên bồi
khách thổ, là lấy đất ở ngoài đắp liền vào dưới chân huyệt sơn để cho có đầy đủ dư
khí, thì lâu ngày sẽ sinh thành đồng thể, vận khí tự nhiên tiếp xúc không nghỉ, nhân
số sẽ có nhiều, không bị hiếm ít.

5. – Bồi bổ nhược thể cách: Huyệt tinh thấp bé, khí thế bạc nhược thì không xông
lên được. Vậy nên theo hình thể của bản tinh mà lấy đất ở ngoài đắp vào cho to lớn
rực rỡ quy mô, thì cái nhược khí đê vi sẽ thành tráng kiện, tự nhiên tú khí hưng
vượng.

6. – Trúc đường hoàn khí cách: Ngoại sa tuy khẩn mặt nhưng nội đường bất bế
( không có cánh cửa đóng kín) thì Nguyên thần nước đầu tiên ở trước gần huyệt.
chưa hẳn đã khỏi chảy nghiêng đi. Vậy nên đắp làm thành cái vòng cung tác án,
thành có nội đường, thì Kim ngư thủy giới bất trục lưu, sơ niên không bị thoái bại.
Nếu Nguyên thần không chảy tuột đi thì sinh khí được toàn vẹn, kinh sách nói: “Khai
đường bất như trúc đướng” chính là ý nghĩa như thế.

368
7. – Trúc sa để sát cách: Những cục địa có thủy triều mà long hổ ngắn hoặc
khuyết, không che đậy được như là Huyệt đê Triều cao thì khó mà đương nổi cáu sát
khí. Vậy ở trước mặt nên đắp thành cái sa cao để làm án mà trấn cái sát hại ở thủy
khí trực xung! Đó là “ Hóa sát vi cát” xưa đã nghiệm. Ông Đổng đức Trương ở Trung
hoa đã từng tác dụng phép này mà đã thấy phát đại phúc.

8. – Trúc đường hoàn khí cách: lại thấy cái long hành ở khoảng giữa ngang lưng,
xuất hiện 1 cái Kim thổ tinh nằm ngang giữa 2 long mạch, lại thốt não ( lõm đầu)
hậu đường ( đằng sau) khẩn mật, tứ duy củng lập, tuy long sơn còn đi mà khí mạch
đã chung đúc ở khoảng giữa rồi. Đãn hiềm trước mặt có dư khí phô chiên (như cái
đệm trải ra ở dưới) mà Nguyên thần dài quá, vậy nên đắp cao lên thành cái Nội
đường ở dưới huyệt tinh, vào khoảng giữa cái dư khí thì không ngại cái bệnh Nguyên
thần trường trực.
Xưa đã kinh nghiệm thấy nhiều đất làm như thế, đều phát phú quý cả!

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 36

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:51 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 2) - Giải thích Tài tiễn tác dụng đồ thuyết
Việt Hải

369
Hết thẩy những Tác pháp kể trên, thường thường ở miền nào cũng có những sơn sa hình thể
như vậy: nhưng ở miền Sơn cước và Bình cương có nhiều hơn ở miền Bình dương.
Soạn lục đến Tác pháp là đầy đủ về phép điểm huyệt bộ rồi, dẫu thiếu xót đôi chút lặt vặt thì
cũng chẳng hề chi; cũng là thừa, không cần tới làm gì nữa.

Giải thích Tài tiễn tác dụng đồ thuyết


( 10 hình đồ)

1. – Kim thuận tác đảo cách: long sơn này nhập thủ thành Tam thai ( 3 quả núi
liền) nhưng hiểm huyệt tinh trực mà lại nhọn đầu, gồm cả ở dưới án sa lại tha xuất
( nẩy ra) cái Mộc tinh nhọn xạ huyệt, tuy cách thủy nhưng thật là sát trọng! Vậy
thuận táng đều hung! Liêu công bỏ cái huyệt tinh trực thể ở mặt chính, lấy cái Thái
âm tinh ở trên chuyển đảo ngược lại làm huyệt, lấy Tam thai làm án. Ở chỗ mũi nhọn
của Mộc tinh liền với các sa loan bão cách thủy ấy, đắp 1 cái Thái âm kim để trừ sát
khí. Gọi là “ Phi lai quỷ”, sau khi hạ táng thì phát đại phúc.

2. – Trúc viên tị sát cách: Bốn bề chung quanh huyệt đều là Thạch long ( núi đá)
rủ xuống như bích lập (bức vách) cả, tựa như hình nhân hình mã, hình kiếm hình
ấn… trên đầu trông thì tú lệ, dưới chân thì thô ngạnh ghê sợ.
Những cái huyệt như thế thì nên khai ra 1 cái Doanh ( cái vựa, cái hố to để táng
mộ), đào sâu vừa độ và rộng rãi ( đối với huyệt), chung quanh đắp tường cao để che
khuất, đứng chỗ huyệt không thấy những vầng đá thô ngạnh ở chân núi, mà chỉ thấy
toàn sắc thiên thanh củng hộ huyệt trường; là cục địa cực kỳ quý cách, nếu được
huyệt chính, long chân.
Đất nhà họ Từ ở Trung hoa đời xưa đã dùng phép này mà phát Khoa Giáp rất vượng.

3. – Ngoan kim thủ thủy cách: long mạch chân chính, tỉnh thể viên mãn như hình
chân cơ tiềm ẩn ( đồ quý giấu kín) thì nên đào ra cái Oa sâu để trừ cái bạo thể, lấy
cái linh khí mới mẻ. Cái hình đã thành khí được bình, tự nhiên được tốt lành. Đấy là
cái Tác pháp, không nên đả phá cái Thái cực vựng thể.
Nếu thấy Long, Huyệt, 2 cái đều là giả thì chưa hẳn là khỏi họa. Đây cũng là lý luận
về phép đả phá Thiên cương.

4. – Trừ hạ dâm khi cách: Hình này ở dưới huyệt tinh lộ ra 1 cái mũi nhọn như đầu
Hoả Mộc tinh, thì ngại là cái dâm khí rót xuống. Vậy nên cắt bỏ đi để trừ tiệt cái xú
ác. Nếu cái thế đại ( to lớn) mà không thể trừ phá được thì lấy phép Áp sát mà làm
cũng được. Thấy có chiên thần mà bình phục, tức là dư khí lưu hành, thì tốt lành,
không được phá bỏ.

5. – Trảm long triệt khí cách: Huyệt kết ở trên đỉnh núi cao, khoảng giữa thì bình
như chưởng tâm ( lòng bàn tay), trước mặt có hữu sa bão làm Nội đường, không
trông thấy ở ngoài Minh đường nghiêng đổ, như vậy là Mỹ cục. Nhưng hiềm ở ngoài
án sơn phân ra mấy chi, ở dưới chân sơn phi tẩu, thì chưa khỏi được cái bệnh trú
thiểu khứ trường ( ở lại ít, đi thì dài). Vậy nên mỗi chi đào 1 cái giếng sâu ở giữa chi
mạch, để triệt cái khí chạy đi, thì khí mới tụ lại ở Nội đường. Liêu Công và Trương thị
dùng phép này đặt táng thì thấy đất phát phúc ấm rất lớn.

6. – Cao thế tác dụng cách: Hình này cả mọi cái sơn thể đều cong như cái cung
( lẫy nỏ), thế địa lại cao vút, phong sương đóng thành băng vắng ( băng tuyết) bám
vào như da thịt xù xì, tất là ngoan ngạnh tinh ngoài trước mặt lại vỡ lở xướng thì

370
phạm hung. Vậy nên ở chỗ định huyệt đào bỏ đất cũ đi, làm thành 1 cái huyệt toàn
mỹ, mới mẻ để lấy cái tân khí tượng phát sinh. Đây la phép: “ Cải tử hồi sinh” do ở
chí lực khôn khéo của người cải tạo mà công hiệu cũng như Tạo hóa. Sự tác dụng về
huyệt cao thể như vậy, nếu được thực là quý long, kỳ cách, sẽ phát phúc lâu dài.

7. – Trừ tả dư cách: Hình thể có vế minh vế ám, là chỗ Tạo hóa che cái khéo đẹp
đi, phô cái vụng xấu ra. Nếu không biết dụng những phép hay mà chế tác thì bên Tả
ám này bị che mất. Vậy khoét bỏ cái ám đi để hiện ra cái minh thì sinh khí không còn
hiềm là thiên khô ( hư kém) nữa.

8. – Trừ hữu dư cách: Hình này sa bên tả ôm thu nước vào Minh đường thì Long và
Huyệt là chân đích rồi, hiềm một chút là sa bên hữu có như là “ Dư nhục” ( thịt thừa)
trực thể và đầy chướng trong cái dịch ( nách) nên sinh khí không phát dương. Vậy
nên khoét bỏ cái thịt thừa ấy đi, khiến cho cái hữu sa loan bão hộ tuyệt, để lấy cái
trực xuất ấy làm diệu tinh thì cái sát khí trở thành quý khí. Cái khéo vạn dụng này
cũng là 1 cách hay như Tạo hóa vậy!

9. – Tả sinh hữu tử cách: Huyệt tinh là hình “ Kim thủy tương sinh” trông tựa như
cái yên ngựa lật ngửa, sinh khí tụ ở chỗ Kim Thủy tương sinh, nhưng hiềm vì chỗ
mạch lại là Kim thể phì mãn mà ám hãm, là cái thể u trọc.Vậy nên khoét bỏ cái thịt
chết ở trong nách tay hữu đi, để cho hình thể rõ rệt, thanh quang, mới hay có sinh
khí dựng linh ( khí thiêng tụ hợp).

10. – Hữu sinh tả tử cách: 1 bên sinh, 1 bên tử là cái thường tình của Sa, Thủy lưu
hành, bế tắc. Vậy toàn nhờ ở nhỡn lực, chí lực khon khéo; lấy phép hay mà sửa chữa
thì mới “ khởi tử hồi sinh” sẽ trở thành cát khánh. Những long mạch chân thực mà tả
dịch hoặc hữu dịch ( nách tả hay hữu) mà thấy đầy chướng liền với cánh tay, tức ví
như mảng thịt chết, cái bướu thịt thừa lấn da thịt trong nách ấy, thì nên khoét bỏ nó
đi, cái hủ nhục đã trừ khử hết rồi thì cái sinh khí tự khác ổn cố lưu thông, thì phát
phúc rất nhiều.
Hết thẩy những Tác pháp kể trên, thường thường ở miền nào cũng có những sơn sa
hình thể như vậy: nhưng ở miền Sơn cước và Bình cương có nhiều hơn ở miền Bình
dương.
Soạn lục đến Tác pháp là đầy đủ về phép điểm huyệt bộ rồi, dẫu thiếu xót đôi chút
lặt vặt thì cũng chẳng hề chi; cũng là thừa, không cần tới làm gì nữa.

Hết phần 2

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Lập hướng bộ


Việt Hải

Kiểm điểm

Ước lượng về phương pháp và công trình của môn Địa – lý Phong Thủy này, nếu trải qua được
hai giai đoạn Tầm long và Điểm huyệt, thì đã biết được hai phần ba rồi, đến lập hướng thì chí còn
độ một phần ba nữa là hoàn thành sự nghiệp Địa lý, công việc lập hướng thì không tổn mồ hôi

371
nước mắt như việc Tầm long hay Điểm huyệt. Tuy không vất vả về thể lực, nhưng cũng mệt nhọc
về tinh thần trí óc.

 
Vì phải nhận xét tường tận tất cả nội, ngoại sơn sa, thủy lộ, tình hình của địa cục ấy.
Nhất là cái long nhập thủ ( mạch vào huyệt) phải tế nhận đích xác và am hiểu lý khí:
Âm, Dương, Ngũ hành, Thuận, Nghịch, Sinh, Khắc, v.v… để chế hỏa, xu cát, tỵ hung,
thì mới lập hướng được đúng phép. Vì hướng có hợp với long, với thủy lai, thủy khứ
của cục địa, thì mới là hướng cát; Hướng cát, thì mới phát phúc, nếu hướng sai một
ly, thì không phát phước, mà phát họa ngay, rất là mau chóng; thì uổng phí công lao
lội suối, trèo non, dẫu đã tìm được Long chân, Huyệt đích, cũng như là không.
Vậy Lập hướng lại là việc trọng yếu hơn cả. Nên có câu kết luận: “ Lập hướng vi lý
khí đệ nhất nan sự”, “ Hướng nhược bất sai, tắc vô dư sự hỹ”. Nghĩa là: Lập hướng là
việc khó hạng nhất về lý khí. Nếu hướng không sai, thì về lý khí không còn lo sự gì
khác nữa. Xem như thế thì việc lập hướng rất là quan hệ. Vì là phần kết quả của ngôi
hộ, hoặc là ngôi nhà ở, phát phước hay sinh họa, là do ở sự lập hướng. Vậy phải thận
trọng chớ nên coi thường.
Xưa nay từng nghe tiếng dư luận của những dong sư thiên học, cũng như những
người không biết, chỉ bàn nói về huyệt đúng hay sai, chứ không thấy kể gì đến Tọa,
Hướng. Có lẽ họ tưởng: chỉ cần là đúng huyệt thôi, còn Hướng thì cứ trông vào chỗ
thấp có nước trữ, tụ, hoặc có núi, gò tác án là phải hướng rồi. Nếu chỉ có thế thôi,
mà ngôi mộ hay là nhà ở được kết, phát phú quý, thì gì mà chẳng làm được, cần gì
mà phải đọc sách nữa. Đó là địa lý cũng như người điếc không sợ súng, người mù
đâu biết tránh chông gai. Bởi vì họ không được đọc sách, hoặc có sách mù không
hiểu nghĩa, lại không có thầy biết rõ mà giảng dạy truyền cho, thì đâu có biết là lý
khí tối nan. Còn quan hệ hơn là Dược sư bào chế thuốc, Y sư khám mạch người.
Bởi vì sơn, thủy biến hóa thiên hình, vạn trạng, tuy địa hình địa cục, sơn sa bày trí,
cũng có chỗ tương tự, nhưng Thủy lộ lai, khứ không giống nhau, hoặc đường án,
chứng ứng, mỗi chỗ một khác, thường không ngay thẳng với huyệt sơn khai diện,
hoặc không cân đối với tả, hữu Thành nộn v.v… Được sơn tề, án chính, thì lại không
hợp với lý khí vượng, sinh; được Hướng Vượng, Sinh, thì lại không có án triều, thủy
tụ v.v… thật là khó nghĩ. Có chỗ cục hảo, huyệt hảo, sơn, thủy hữu tình, mà không
lập được hướng cát, bỏ thì tiếc, làm thì sợ. Vì vậy, có sách bàn: “ Đường chính án
thiên, cứ đường nhi vọng”, “ Đường thiên Án chính, cứ Án nhi quan”! “ Bất ngoại hồ
sơn tề Án chính”. Nghĩa là: “ Minh đường đối với huyệt ngay thẳng, mà án sơn lệch,
thì cứ trông thẳng vào minh đường. Nếu đường lệch mà án ngay, thì cứ hướng thẳng
vào Án, không thể ngoài hai cái sơn tề Án chính được. Có cách nói: “ Thiên thành chi
huyệt, tất hữu thiên nhiên cai hướng, bất khả cầu công lập sáo, nhi phản thiên địa
chi chính khí hồ?” ( Nghĩa là: có cái huyệt tự nhiên thành, thì hẳn có cái hướng tự
nhiên có sẵn, chẳng nên cầu kỳ khôn khéo để lập hướng khác, mà làm trái mết cái
chính khí của thiên địa thì sao?)
Phái thì chuyên về phương pháp của Ngọc Xích Kim, Thanh Lang bí quyết; Phe thì
chuyên về Bát sơn tiễn thủy; Cánh thì chuyên về cửu cung phi tinh; Nôn thì dụng
Đảo trượng phóng tống v.v… Có hai chữ Lập hướng, mà bao nhiêu là Sảo cộng, diệu
kế, lý luận về phương pháp tác dụng khác nhau. Sách thì nói: Phép này ít hiệu
nghiệm. Kinh thì bảo: Phép kia linh ứng hơn.Đại ý khác nhau như thế, chứ không
phải là mâu thuẫn tuyệt đối, so sánh thì: Phép đúng với cái này, nhưng sai với cái
kia. Phép thì hợp với long, nhưng trái với cục. Cách được Long, Cục, thì không được
Đường, Án. Ít khi được hoàn toàn.Xét kỹ ra, thì phép nào cũng có cái tốt, có cái
không tốt. Chỉ có khác hơn là cái hay nhiều, cái dở ít, chứ không phép nào được thập

372
phần hoàn hảo, nhưng cũng nên biết cả thì hay, khi gặp địa huyệt phải đem cả ra mà
xét thử trước, hễ phép nào hợp với long huyệt, cục ấy được nhiều cái tốt lành hơn thì
dùng. Các phương pháp sẽ lần lần kê như sau:

Phương pháp lập hướng

Pháp Lập hướng thì ở miền núi cao cũng có khác miền đất bằng vài điểm là:
- Ở miền núi cao có thể Lập hướng Bắc, và hướng trông về phía thấp được.
- Ở miền đất bằng thì không nên lập hướng Bắc, và khong nên trông về phía thấp,
tức phải lập hướng về phía đất cao.

Hỏi: Tại sao lại khác nhau như thế?


Đáp: Bởi vì phương Bắc nhiều lãnh khí, như miền Bắc cực toàn là băng tuyết đóng
thành đại khối kinh niên, nên hễ có gió Bắc là rét lạnh không chịu nổi, nếu không
được che bọc kín gió. Nhưng ở miền núi đồi có nhiều núi cao bao bọc huyệt trường,
gió không thổi lọt vào, thì lập hướng Bắc được. Ở miền sơn cao rất là hậu khí, vì sơn
cao với thủy thâm, có đại mạch vẫn lưu thông với nhau, bởi thế nên núi cao chừng
ngàn thước mà vẫn có nước từ trên chẩy xuống quanh năm không hết; nên có thể
hướng vào chỗ thấp, không có nước tụ đường cũng được, vì khí vẫn sung túc hữu dư.
Ở miền đất bằng, ít nơi có núi khởi cao, đến cả Long, Hổ sa bao vây cũng thấp, nếu
có gió bấc thổi hắt vào mặt, thì khí tán và lãnh khí xung quan (mộ) hỏng. Vậy không
nên lập hướng Bắc, vì là vô sinh khí, nên bảo “ Tuyết lý tỏa hàn mai”. Nghĩa là: Ví
như cây mai ở trong vùng tuyết lạnh phong tỏa, bị gió rét héo mòn, thì tươi tốt làm
sao được. Ở miền bình dương, đất phẳng không có nước tụ, thì vô khí. Nếu lập hướng
vào phía thấp không có nước tụ đường, lại thấp dần dần chảy rốc đi hết là tuyệt khí,
thì hỏng. Nên phải hướng về phía cao, để có nghịch thủy chảy lại Minh đường, thì
mới hữu khí, mới kết phát. Vì lẽ ấy nên hai miền lập hướng khác nhau.
Nếu ở miền núi, mà không có sơn cao che ở phương Bắc, thì cũng không lập hướng
Bắc được. Ở miền Bình dương mà có sơn sa cao ở phương Bắc che gió, thì cũng lập
hướng Bắc được. Ở miền sơn cước mà có thủy tụ đường thì càng hay. Ở miền Nam
nước Việt ít gió Bắc, khí hậu ấm và nóng nhiều, không cần kỵ hướng Bắc. Còn về lý
khí, phương pháp tác dụng tất cả hai miền đều cùng chung một luật lệ, nhưng cũng
tùy trường hợp của Địa hình, thế cục, mà định liệu, nên gia, nên giảm, sẽ do trí óc
tinh thông mà linh động, thì sẽ hay thêm hơn nữa không chừng.

Lập hướng

Lập hướng phải liền với Điểm huyệt, tuy phân thứ tự khởi hành trước sau, nhưng đền
lúc được ngừng bước, thì hai việc phải đi song song với nhau, cũng như việc Điểm
huyệt phải đi liền với Tầm long.
Vậy trước khi định huyệt, cũng đã tạm biết là hướng sẽ phải trông về phía nào rồi,
dầu chưa tính đến lý khí. Vì đã thấy Long sơn khai trướng, Huyệt tinh khai diện, Thủy
lộ quy khố v.v… Nhưng phải xem long thuộc âm hay dương, để phối hướng phối
thủy, thì mới được. Muốn biết Long là Âm hay Dương thì phải lấy chính ngũ hành mà
luận định. Trước phải biết hai mươi bốn phương vị đã phân hoạch rõ ở trong La kinh (
Địa bàn) như là:
- Từ phương Hợi đến Nhâm, Tý, Quý bốn phương thuộc hành Thủy.
- Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn, năm phương thuộc Mộc.
- Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, bốn phương thuộc Hỏa.
- Thân, Canh, Dậu, Tân, Kiền, năm phương thuộc Kim.
- Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Khôn, Cấn, sáu phương thuộc Thổ.
Đấy chính là Ngũ hành. Nhưng Tả toàn long, thuận chuyển là thuộc dương long; Hữu

373
toàn long nghịch chuyển là Âm long.
Tuy đã biết Tam cát, Lục tú phương là Quý long, nhưng phải theo thập nhị vị của
vòng Trường sinh, xem có được gặp phương vị hợp với lý khí thì mới là chân cát long.

Thập nhị vị vòng tràng sinh


Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Thí dụ cách khởi tràng sinh:


Hợi, Nhâm, Tý, Quý, bốn phương thuộc Thủy. Long mạch ở phương Tây thuận
chuyển vào phương Hợi, đến phương Nhâm, phương Tý, phương Quý, là TẢ TOÀN
LONG thuộc Dương, thì khởi Trường sinh ở phương thân, thuận chuyển đi, thì Mộc
dục ở Dậu, Quan đới ở Tuất, Lâm quan ở Hợi, Đế vượng ở Tý, Suy ở Sửu, Bệnh ở
Dần, Tử ở Mão, Hộ ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ, Thai ở Ngọ, Dưỡng ở Mùi ( đi thuận chiều như
kim đồng hồ luân chuyển)
Nhưng nếu Long mạch ở Phương Đông, nghịch chuyển vào phương Quý đến phương
Tý, phương Nhâm, rồi đến Hợi, thì lại là HỮU TOÀN LONG thuộc Âm. Trường sinh
phải khởi ở mão? Nghịch hành ( đi ngược) thì Mộc dục ở Dần, Quan đới ở Cửu, Lâm
quan ở Tý, Đế vượng ở Hợi, Suy ở Tuất, Bệnh ở Dậu, Tử ở Thân, Mộ ở Mùi, Tuyệt ở
Ngọ, Thai ở Tỵ, Dưỡng ở Thìn. Lấy một cục Thủy làm cách thức, sẽ suy ra bốn cục
khác cũng thế.
Xem cái long nhập thủ, mà gặp được SINH, VƯỢNG, DƯỠNG, QUAN ĐỚI, LÂM QUAN
thì tốt, gặp Thai thì bình thường, gặp SUY BỆNH, TỬ, MỘ, TUYỆT thì xấu, 5 vị này mà
gặp Tam cát, Lục tú phương, thì còn tạm được, nếu gặp tạp long phương vị, thì
không nên dùng.
- 5 phương thuộc hành Mộc: Tả Toàn Long thì Trường Sinh khởi từ Hợi thuận chuyển;
Hữu Toàn Long thì Trường Sinh khởi từ Ngọ nghịch chuyển.
- 4 phương thuộc Hỏa: Tả toàn long thì Trường Sinh khởi từ Dần thuận chuyển; Hữu
Toàn Long thì Trường Sinh khởi từ Dậu nghịch hành.
- 5 phương thuộc Kim: Tả Toàn Long thì Trường Sinh khởi từ Tỵ thuận hành; Hữu
Toàn Long thì Trường Sinh khởi từ Tý nghịch hành.
- 6 phương thuộc Hỏa: Tả Toàn Long và Hữu Toàn Long an theo cách an như Sành
Thu đã kể giải rõ ở trên.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 38


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 18:53 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Bài quyết ca về Long gia trường sinh
Việt Hải

Bài quyết ca về Long gia trường sinh

374
"Hợi, Nhâm, Tý, Quý Thủy sinh
Tả toàn thân khởi, thuận hành dậu, tân.
Hữu toàn khởi mão, nghịch dần,
Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn, Thân, Mộc chí,
Tả lai Sinh hợi thuận đi,
Hữu lai sinh Ngọ, nghịch về Tỵ cung,
Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Hỏa hung,
Tả lai Dần khởi, Hữu thống kê ( Dậu) hoàn.
Thân, Canh, Dậu, Tân, Cấn, Kiền,
Kim cục, Tả toàn, khởi Tỵ thuận sinh,
Hữu Toàn khởi Tý nghịch Hành."

Nhớ lấy bài ca vần này, thì không hay nhầm lẫn phương vị, chỉ cần những chữ chính
chủ từ: 12 địa chi mà thôi, còn những chữ trợ từ, là lấy vần cho để đọc chữ không có
nghĩa lý gì cả. Bài trên này dùng chính Ngũ hành để khán long, hay Cách long cũng
thế,nên gọi là “ Long gia Ngũ hành”.

Huyền không ngũ hành

Huyền không ngũ hành, thì dùng để luận hướng, tức là lấy Tam hợp phương vị, để
xem thủy lai, thủy khứ, của Tú đại cục thủy khẩu. Như là:
Thủy khẩu ở về phương Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp, Mão thì thuộc về Kim cục Mộ khố,
tức là Tỵ - Dậu – Sửu: Tam hợp chi, Tốn Canh Quỷ; Tam hợp can, thành đại kim cục.
Kim cục thì Trường sinh ở Tỵ, tính theo nhiều thuận đi, thì Mộc dục ở Ngọ, Quan đới
ở Mùi, Lâm quan ở Thân, Đế vượng ở Dậu, Suy ở Tuất, Bệnh ở Hợi, Tử ở Tý, Mộ ở
Sửu, Tuyệt ở Dần, Thai ở Mão, Dưỡng ở Thìn, đủ 12 vị ở trên 12 địa phương, mỗi địa
chi, đem một thiên can gia lâm phụ hợp, thành 24 phương, phương nào cũng đều có
Âm, Dương phối hợp ( Can là Dương, Chi là Âm).

TỨ - ĐẠI – CỤC
KIM – CỤC, MỘC – CỤC, HỎA – CỤC, THỦY – CỤC

TAM – HỢP – CỤC


- Tỵ - Dậu – Sửu, Tốn – Canh – Quý  : Kim – cục
- Hợi – Mão – Mùi, Kiền – Giáp – Đinh : Mộc – cục
- Dần – Ngọ - Tuất, Cấn – Bính – Tân  : Hỏa – cục
- Thân- Tý- Thìn, Khôn – Nhâm - Ất  : Thủy – cục
- Kim – cục thì Trường sinh khởi ở Tỵ thuận hành
- Mộc – cục  ---------------      Hợi  ------
- Hỏa – cục ----------------      Dần -----
- thủy – cục ---------------      Thân --------
Các cục khác ( ngoài kim cục) cũng theo thứ tự thuận hành như Kim cục đã kể trên.
Lập hướng phải theo nước mà định. Câu chữ: “ Hướng tòng Thủy lập” “ Nhận thủy
Lập hướng” hai câu cùng một ý nghĩa. Nhưng cũng phải theo cả Long cục nữa.
Tức như Dương Long cục, nên lập Dương hướng, dương thủy lai triều; Âm long cục,
nên lập Âm hướng, Âm thủy lai, mới được bảo là: Âm, Dương thuận tịnh, nhưng mà
ở trong cái thuận tịnh, thì cái thủy ở phương Liêm trinh bất cát. ở trong bác tán thì
cái thủy ở vị phụ bật lại phi hung ( túc là tốt). Vậy Dương Long cục thì còn có thể thu
cái âm thủy, chứ cái Âm long cục, bất khả thu dương thủy (Tức là cái Dương thủy lai,
không nên dùng).

375
Luận vô khứ thủy ( thủy tiêu đi) thì Âm long cục nên dương phương khứ, Dương long
cục, nghi Âm phương khứ, vị chi là: “ Âm Dương giao cấu”, theo ở trong chiếu thủy
và Tiễn thủy hai kinh đều nói rõ như vậy.
Lập hướng là chỉ có 4 hướng là lập được mà thôi. Bốn Hướng:
1. – Hướng Trường Sinh 2. – Hướng Đệ - vượng
3. – Hướng Dưỡng  4. – Hướng Mộ
Ngoài 4 hướng này đều không thể được. Cứ phải theo Thủy khẩu của 4 cái Đại – cục,
và Đường Án, Long, Hổ của Địa cục ấy, khai diện về phương nào. Gặp Sinh thì lập
hướng sinh, gặp hướng Vượng thì lập hướng, gạp Dưỡng thì lập Dưỡng, gặp Mộ thì
lập Mộ. Đã phân biệt ra 4 cục: Kim, Mộc, Hỏa, Thủy. Xem Tam hợp của 4 cục đã kể
rõ ở trên.
Sách dạy: “ Nhập cục vấn thủy khẩu”. Nghĩa là: vào địa cục, phải tìm xem thủy chảy
đi ra phương nào.
Vậy phải đem La kinh đặt giữa Minh đường, là nội cục ở gần trước huyệt mà chiếu
xem phương vị của thủy lai đường, thủy khứ khẩu. Thí dụ: Thấy Thủy khứ về phương
Quý Sửu, hoặc Cấn Dần, hoặc Giáp Mão, ba phương này là thuộc về Kim cục Mộ -
khố.

Kim – cục

Kim – cục thì Tỵ - Dậu – Sửu là Tam hợp chi, Tốn – Canh – Quý là Tam hợp Can. Cả
ba phương này Âm, Dương giao cấu hợp thành Kim – cục. Kim – cục thì Trường sinh
khởi ở Tốn – Tỵ, thuận chuyển lần đi, thì Mộc dục ở Bính Ngọ, Quan – đới ở Đinh
mùi, Lâm quan ở Khôn thân, Đế vượng ở Canh Dậu, Suy ở Tân Tuất, Bệnh ở Kiền
Hợi, Tử ở Nhâm – Tý, Mộ ở Quý Sửu, Tuyệt ở Cấn – Dần, Thai ở Giáp Mão, Dưỡng ở
Ất Thìn.
12 vị của vòng Trường Sinh, thì chỉ có 5 vị phương cát là: Trường sinh, Quan đới,
Lâm quan, Đế vượng, Dưỡng, phương Thai thì bình thường, không tốt không xấu.
Còn 6 vị: Mộc dục, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt là hung. Những hướng có 4 phương:
Sinh, Vượng, Dưỡng, Mộ, thì mới lập hướng được, ngoài ra dầu hung, hay cát, cũng
không dùng làm hướng được, vì không hợp với lý khí của những vị khác.
Kim cục lập hướng  Tốn – Tỵ là Sinh hướng
    Canh – Dậu là Vượng hướng
    Quý – Sửu là Mộ hướng
    Ất – Thìn là Dưỡng hướng
Can là Dương, chi là Âm, tùy ở lai long và thủy khứ, là Âm long, thì lập Âm hướng và
thủy lai cũng là âm vị, thì hợp. Nếu là Dương long, Dương thủy lai thì lập Dương
hướng là hợp pháp, không bị phá cục, là cát hướng. Nhớ lấy câu quyết:
  “ Âm long, Âm hướng, Âm lai thủy”
  “ Dương long, Dương hướng, Dương lai thủy”
Lập hướng Sinh mà có nước ở phương sinh ấy, chảy lại trước mặt là: “ Sinh thủy
nghịch triều đường” thì hay lắm, phát đa đinh và sinh quý tử ngay. Được cả nước ở
phương Vượng chảy lại hội ở trước mặt là: “ Sinh Vượng thủy tụ đường” thì càng quý
hơn nữa. Tất nhiên được đinh, tài lưỡng vượng.
Lập Vượng hướng mà có nước ở phương Vượng chảy lại trước mặt là: “ Vượng thủy
nghịch triều đường” thì phát phú ngay. Được có cả Sinh thủy lại trước mặt hợp với
Vượng thủy là: “ Sinh Vượng thủy hội đường” càng quý hơn nữa, tất nhiên phú quý
liêm toàn đính tài lưỡng vượng.
Lập Dưỡng hướng mà có nước ở phương sinh, dưỡng ấy chảy lại trước mặt là: “
Dưỡng sinh Thủy nghịch triều đường” có cả nước ở phương Vượng chảy lại cùng hợp
ở trước mặt là: “ Tam cát thủy hội đường” thì quý bất thăng ngôn. Là đại quý địa.
Lập Mộ hướng, mà có nước ở ba phương Sinh, Vượng, Dưỡng lai tụ Đường, gọi là: “
Hoành thủy” hay là “ Thủy hợp khâm”, tất nhiên là thuận thủy lai đường, thì chỉ nên

376
tụ ở trước mặt, tứ là phương Mộ - khố, rồi thuận lưu đi ngang,tạt ra phương Tuyệt sẽ
phóng đi, thì tốt nhất. Nếu chảy thẳng tuột ở phương Mộ ra thì không được tốt lắm.
Vì sợ là Thủy lội tâm, và là Thoái thần. Nhưng lại tối kỵ là thủy nghịch triều, nếu
phương ấy mà chảy nghịch lại là: “ Mộ thủy lưu nhập” thì hỏng; không thể được. Nếu
thấy như thế thì bỏ không nên dùng. Không có Huyệt.
Trên đây là ví dụ về Kim cục, nhưng đại khái cả bốn cục cũng giống nhau như luật lệ
ấy.

Mộc – cục

Hễ thấy Thủy khẩu ở phương Đinh Mùi, đến phương Canh Dậu là thuộc về Mộc cục
Mộ khố. Lấy hai phương hợp với Đinh Mùi: Kiền – Giáp – Đinh là Tam hợp Can; Hợi –
Mão – Mùi là Tam hợp Chi; ba phương này hợp thành Mộc – cục.
Mộc cục thì khởi Trường Sinh ở phương Kiền Hợi, tính thuận chuyển luân đi, thì Mộc
dục ở Nhâm Tý, Quan đới ở Quý – Sửu, Lâm quan ở Cấn – Dần, Đế - vượng ở Giáp –
Mão, Suy ở Ất – Thìn, Bệnh ở Tốn – Tỵ, Tử ở Bính – Ngọ, Mộ ở Đinh – Mùi, Tuyệt ở
Khôn – Thân, Thai ở Canh – Dậu, Dưỡng ở Tân – Tuất, là đủ 12 vị của vòng Trường
Sinh, ở trên 12 phương vị của Địa bàn.

Hỏa - cục

Hễ thấy Thủy khẩu ở phương Tân – Tuất, Kiền – Hợi hoặc Nhâm – Tý là thuộc về Hỏa
cục Mộ khố. Lấy hai phương hợp với Tân – Tuất: Cấn – Bính – Tân là Tam hợp Can,
Dần – Ngọ - Tuất là Tam hợp chi, ba phương này hợp thành Hỏa cục. Hỏa - cục thì
khởi Trường Sinh ở phương Cấn – Dần, theo thứ tự mà thuận chuyển đi, thì Mộc dục
ở Giáp Mão, Quan đới ở Ất - Thìn, Lâm quan ở Tốn Tỵ, Đế Vượng ở Bình Ngọ, Suy ở
Đinh Mùi, Bệnh ở Khôn – Thân, Tử ở Canh – Dậu, Mộ ở Bính - Ngọ, Tuyệt ở Kiền –
Hợi, Thai ở Nhâm – Tý, Dưỡng ở Quý – Sửu.

Thủy - cục

Hễ thấy Thủy khẩu ở phương Ất – Thìn, Tốn – Tỵ, hoặc Bính – Ngọ, là thuộc Thủy
cục mộ khố. Thủy - cục thì khởi Trường Sinh ở Khôn – Thân, mà phương Khôn vốn là
Tổ - Mẫu của Thổ. Phương Cấn và Thìn – Tuất, Sửu, Mùi đều là Thổ, nhưng là con
của Thổ ở phương Khôn - Thân, sinh xuất, nên Trường sinh khởi ở Khôn cả. Vậy Thủy
và Thổ hai cục, thì cùng khởi Trường sinh ở Khôn – Thân, thuận chuyển lần đi thì:
Mộc dục ở Canh – Dậu, Quan đới ở Tân – Tuất, Lâm quan ở Kiền Hợi, Đế vượng ở
Nhâm – Tý, Suy ở Quý – Sửu, Bệnh ở Cấn – Dần, Tử ở Giáp – Mão, Mộ ở Ất – Thìn,
Tuyệt ở Tốn – Tỵ, Thai ở Sinh – Ngọ, Dưỡng ở Đinh – Mùi.
Địa bàn thì có hai mươi bốn phương vị, hợp Thiên can với Địa chi, là Âm Dương phối
hợp thành có mười hai phương vị, nhất định bao giờ cũng yên vị ở đấy, không di
dịch, chỉ mười hai vị sao, của vòng Tràng – sinh là di chuyển thôi, nên mỗi cục mỗi
khác, như là: Hướng Tốn – Tỵ, ở Địa bàn thì cục nào cũng vẫn là Hướng Tốn Tỵ,
nhưng về Sinh, Vượng, Dưỡng, Mộ, thì mỗi cục một khác. Tức là:
- Thuộc về Kim cục thì Tốn – Tỵ là Sinh hướng.
- Thuộc về Mộc cục thì  -------      là Bệnh hướng.
-  --------    Hỏa cục thì  ------        là lâm quan hướng.
-  ---------   Thủy thổ cục   -----     là Tuyệt hướng.
Như trên, thì không thể lấy Tốn Tỵ làm hướng ở ba cục Mộc Hỏa, và Thủy Thổ được.
Phải xem Thủy khẩu thuộc về mộ - khố của cục nào, mà khởi vị Trường Sinh ở
phương vị tại Địa bàn của cục ấy, để mà tìm hướng Sinh, Vượng, Dưỡng, Mộ, của
cục… mà lập hướng, thì mới hợp với Thủy khố của cục ấy. Vì vậy mới bảo là “ Hướng

377
tòng thủy lập” hay “ Hướng do thủy lập” cũng thế.
Trên đây là theo “ Huyền không ngũ hành” lấy Tam hợp thủy, để tìm Sinh, Vượng,
Thủy mà thu nạp để lập hướng. Biết Tử, Mộ, Tuyệt, thủy mà tiêu khứ thôi.
Có bài quyết tổng kết của bốn cục như sau:

Thi vân
"Quý quy Cấn vị phát văn chương,
Tân nhập Kiền cung bách vạn trang,
Ất hướng Tốn lưu, thanh phú quý.
Đinh, Khôn chung thị, vạn tư sương."

Ý nghĩa: Như Kim cục thì thuộc về tiền bạc, hoặc về võ chức, Quý - Sửu là Mộ khố
của Kim cục, nước chứa ở phương Mộ khố, mà không bị chảy tuột đi, ngay ở vị ấy mà
di về phương Cấn mới phóng tiêu ra, thì hợp thủy cách hay lắm. Vậy phát cả Văn
quan nữa. Nên bảo: “ Quý quy Cấn vị phát văn chương”. Vì thủy khứ thì nên phóng
Thiên – can, mà Quý và Cấn là Thiên can.
Như Hỏa cục, thì phát về văn chương quan cao quý cách Tân – Tuất là phương Mộ
khố của Hỏa cục, tức là kho tàng, mà không bị thẳng tuột đi, lại chảy vào phương
Kiền mới phóng xuất tức là hợp thủy phóng cách, thì lại phát cả phú nữa. Vậy bảo “
Tân nhập Kiền cung bách vạn trang”. Vì thủy phóng Thiên – can: Tân và Kiền, nên
giàu có trăm ngàn trang trại vườn ruộng ( Tân là thuộc về Văn chương địa vị)
Như Thủy Thổ cục, thì hay phát Trọc phú. Ất – Thìn là phương Mộ khố của Thủy thổ
cục, mà nước không bị chảy thẳng ở phương Mộ khố đi ra, còn quay ra phương Tốn
mới phóng đi, tức là hợp cách hay, thì lại phát thanh quý nữa.Nên bảo: “ Ất hướng,
Tốn lưu, thanh phú quý”. Ất Tốn là Thiên can mà lại thuộc về văn chương địa vị, nên
giàu sang ma thanh lịch.
Như Mộc cục, thì phát về văn sĩ, Dinh Mùi là phương Mộ khố, của mộc cục, mà không
bị chảy thẳng Phương Đinh – Mùi ra, lại đi sang phương Khôn, rồi mới phóng xuất
ngoại khứ, tức là hợp thủy pháp thì tốt, nên phát cả phú nữa. Vậy bảo: “ Đinh- Khôn
chung thị vạn tư sương” là phát đại phú, có hàng muôn ngàn kho chứa của.
Hoặc hỏi: Tại sao lại thành ra Kim cục? Mộc cục? Hỏa cục? Thủy cục? Thổ cục?
Đáp: Ngũ hành tuy đặc biệt mỗi hành một tính chất, nhưng lúc nào cũng vẫn phải
liên hệ với nhau, phải nhờ lẫn nhau, thì mới kiện toàn tồn tại được. Cả Ngũ hành đều
có Âm, có Dương. Âm Dương có dung hòa, thì mới sinh thành được. Ngũ hành có
sinh thành, thì vạn vật mới nhờ đấy mà phát sinh. Nói sinh thành đây, nghĩa là, phải
nhờ lẫn nhau, thì mới sống và mới thành cục thể. Có cục thể, thì mới phát xuất sinh
khí, có sinh khí thì muôn vật mới sinh trưởng trường tồn.
Về Địa lý, thì cốt yếu nhất là Âm, Dương, Ngũ hành phải phối hợp với nhau, thấu
nhập với địa hình, địa vật, thì mới kết huyệt lành, hướng tốt, mới phát sinh nhân tài
v.v…
Tức như: Kim cục, tuy lấy phương Thân, Canh, Dậu, Tân, Kiền đều là Kim, nhưng lấy
phương Dậu là địa chi làm chính chủ, thuộc Âm, rồi đem phương Canh là Thiên can
thuộc Dương, gia lâm, tức hai phương Âm Dương chập lại, là phương Canh Dậu,
thuộc Kim vị, đem hợp với phương Tốn Tỵ và phương Quý Sửu, gọi là tan hợp, thành
Kim cục. Nhưng Tốn là Mộc, Tỵ là Hỏa, Quý là Thủy, Sửu là Thổ. Vậy thì đủ cả Âm,
Dương, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, hòa hợp với nhau, mới thành Kim cục.
Lấy một Kim cục mà suy ra bốn cục: Hỏa, Mộc, Thủy, Thổ cũng tương tự như thế.
Ở trong Kim cục thì nên thu cái nước ở phương Đinh là Âm Hỏa, phối hợp với cái thủy
ở phương Canh là Dương kim, rồi hội tụ lại phương Sửu, là Âm Thổ thì hợp cách. Vậy
bảo: “ Đẩu ngưu nạp Đinh Canh chi khí” ( Phương Sửu là ứng vào con trâu, ở vào
phương Đông Bắc, thuộc về địa vị sao Bắc Đẩu, nên gọi là Đẩu ngưu).
Ở trong Mộc cục, thì nên thu cái thủy ở phương Quý là âm thủy, và phương Giáp là
Dương Mộc, rồi hội họp về phương Mùi, là Âm Thổ thì hợp cách. Vậy bảo: “ Kim

378
Dương thu Quý Giáp chi linh ( khí thiêng). ( Mùi là phương vị con Dê, ở về phía Tây
nam, nên gọi: Kim Dương ( dương là dê).
Ở trong Hỏa cục, thì nên thu cái thủy ở phương Ất là Âm mộc, và phương Bính là
Dương Hỏa, phới hợp với nhau rồi hội tụ về phương Tuất, sẽ phóng khứ thì hợp cách.
Vậy bảo: “ Ất – Bính giao nhi xu Tuất”.
Ở trong Thủy cục, thì nên thu cái thủy ở phương Tân là Âm Kim và phương Nhâm là
phương Dương thủy phối hợp lại, rồi hội tụ về phương Thìn, sẽ phóng khứ, thì hợp
cách. Vậy bảo: “ Tân Nhậm hội, nhi tụ Thìn”.
Còn Thổ cục, thì cũng khởi Trường Sinh ở Khôn Thân phương, như Thủy cục, vì
phương Khôn là Mẫu của Thổ, cả bốn phương Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đều là Thổ, là con
của Khôn – Mẫu phát xuất, Thổ thì vốn ở giữa cả bốn phương Kim, Mộc, Thủy, Hỏa.
Cả bốn hành đều ở liền với Thổ, hành nào cũng nhở Thổ, nên bảo: “ Phi Thổ bất
thành”. Nghĩa là: không có đất chẳng thành gì cả.
Vậy trong Ngũ hành, thì Thổ là quan trọng nhất. Xét ra, thì hết thảy cả muôn vật,
lớn, nhỏ, đều phải nhờ đất, không thể lìa đất được.
Đất, tức như là Địa cầu, đài thọ chứa đựng tất cả. Vậy bảo: “ Đất là mẹ, vì cớ: Sống,
chết, hay dở, do ở đất, không thể chối cãi được.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Ngọc Xích kinh thuyết


Việt Hải

Ngọc Xích kinh thuyết

Ở Ngọc Xích kinh, thì toàn bộ đều chú ý: chí tại Thủy đổ xô chảy cả về phía Đông – Bắc, nên khí
ở phương Khôn Thân ( Tây nam) mới sinh. Nhiều dòng thủy chảy về phương Chấn Thìn ( Đông
nam) nên Long mạch ở phương Kiền Hợi mới đục tú ( tụ khởi tốt đẹp). Hai câu nói này hàm ý hết
cả.

 
Vậy thì cái khí ở phương Khôn – Thân phát nguyên, thì cái tủy làm ranh giới ở bên tả
long, thuộc phương Canh; cái nước làm ranh giới bên hữu long, thuộc về phương
Đinh, hai dòng nước này tất hợp ở phương Sửu – Cấn, chính là hợp với câu “ Đẩu
ngưu nạp Đinh Canh chi khí”.
Vậy những người xem đất, trước hết phải xem cái đại thế thủy đi về phưng nào. Như
thủy đi về phương Đông Nam, tất thị phát nguyên từ Tây Bắc. Thủy chảy về Tây Bắc
tất thị phát nguyên tự Đông Nam. Đông khứ tất thị Tây lai; Tây khứ tất thị Đông lai.
Mọi nơi đều như thế. Trước phải nắm chắc cái cục ấy nhất định đã, sau mới xem cái
thủy nhỏ đi ngang, đi dọc, ở bên trong, hoặc thuận, hoặc nghịch, có thể ngồi mà
định được. Hoặc cái đại thủy và tiểu thủy đều chảy về phía Đông Bắc, mà trong

379
khoảng giữa có cái tiểu tào ( lạch nước nhỏ) phản lại, quay về phía Tây nam, cái tiến
khí nhập thủ là Cấn, đấy là thuận thủy trực xung, mà nghịch hồi kết huyệt, nên biết
cái thể đoạn ấy là chân, có thể lập hướng Khôn Thân được. Nếu cái lạch nước nhỏ
làm ranh giới ấy, lại chảy ra Đông bắc là thuận kết, thì không nên lập hướng thuận
thủy. Đại ý là như thế, lấy đấy mà suy ra những cái khác. Tóm tắt: Cái Đại thủy ở
bên ngoài, thì định long thân. Cái tiểu thủy ở bên trong, thì xem chỗ long mạch nhập
thủ.

Bình Dương lập hướng thu thủy huyết

Khi đến Huyệt trường, đã định được huyệt rồi, nên biết rõ cái thủy nó phát nguyên ở
phương nào, dẫn đến Minh đường Thủy khẩu xuất khứ ở phương nào; Đem La kinh
chiếu xem đúng phương vị, nếu hợp thủy cục, thì lấy thủy cục mà thu nạp, hợp Kim
cục thì lấy Kim cục thu thủy, hợp Hỏa cục, Mộc cục thì lấy Hỏa cục, Mộc cục mà thu
thủy, Vậy bảo: “ Nhận thủy lập Hướng” là nghĩa thế đấy. Chỉ cốt là phương Thai,
Dưỡng, Trường Sinh, Quan đới, lâm quan, Đế vượng được thủy chảy lại Minh đường,
Thủy ở phương Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, theo đường thủy chảy ra chỗ thủy khẩu,
nên mới bảo: “ Lai ư Sinh vượng, khư ư tù tạ” là nghĩa thế. Nếu được Thai, Dưỡng,
Trường Sinh, thủy lai thì đại vượng nhân đinh. Quan đới, Lâm quan, thủy triều đường
thì “ Chung tư thiên khẩu” ( là có hàng ngàn cháu chắt). “ Vượng thần tụ cục, thì lộc
du nghi” ( là phương Đế vượng có nước tụ ở Đường cục; thì tài lộc càng nhiều). Là
bởi có thủy hợp cách như thế. Lại có câu: “ Sinh giữ vượng đồng quy, Nhân cộng tài
hàm cát”. Nghĩa là: Nước Sinh và Vượng cùng chảy vào Minh Đường thì người và của
đều thịnh vượng). Nếu nước ở phương Thai, Dưỡng, Trường Sinh, quan đới, lâm quan
chảy đi là Thủy phá, thì bị dọa thai, chết non, chảy phá ở phương Đế Vượng, thì tài
lộc tiêu hao. Phương Mộ - khố mà chảy lại trước mặt, thì nhân đinh tuyệt tự.Phương
Mộc dục mà nước chảy lại, thì sinh ra dâm loạn ứng phát rất mau. Ngọc Xích Kinh
cũng bảo rõ: “ Nhận thủy lập hướng”. Lấy hướng mà tiêu thủy, nạp thủy. Ý nói là: cái
phương vị của thủy, thì vốn là không có cát, hung. Cát hay hung, là do ở hướng di
chuyển. Vậy phúc hay họa, theo ở hướng mà phát sinh.
Giả như: Thủy tự phương Tốn – Tỵ chảy lại, chuyển sang phương Thân, Canh, Dậu
rồi đi ra phương Sửu, Cấn, đấy là Kim cục thủy hành, nếu lập hướng Tốn – Tỵ thì
vượng nhân đinh, lập hướng Canh, Dậu thì Dinh tài lưỡng vượng. Nếu trông theo
nước chảy đi, lập hướng Sửu, Cấn, mà bên tả, bên hữu nước ôm thu lại không bị
thủy trực lưu thì cũng hay phát tài, vượng đinh, ý là thủy ở hai phương Sinh – vượng
qua trước huyệt, rồi hội họp ở Sửu, Cấn, chảy vòng cong mà tiêu khứ. Đấy là “ Kim
cục, thu Kim cục thủy” là như vậy.
Nếu lập hướng về Hỏa cục, thì không phải là Trường sinh thủy thượng đường. Vậy
nhân đinh hao tốn: Lập hướng về Mộc cục thì Sinh, Vượng thủy cũng đều không nhập
đường cục. Vậy Đinh, Tài đều chẳng phát. Lập thủy cục hướng, thì tuyệt thu đáo
đường, Sinh, Vượng phản bội, trái cục, đều sai cả. Đại ý là như thế, sẽ suy ra mọi cái
khác.

Tứ lộ hoàng tuyền
Lập hướng, kỵ Thủy lộ, phạm Hoàng Tuyền.

Bài quyết
1% - Canh, Đinh, Khôn thương, thị Hoàng Tuyền.
2% - Ất, Bính tu phòng, Tốn thủy tiên,
3% - Giáp, Quý hướng trung, ưu Kiến Cấn.
4% - Tân, Nhâm thủy lộ, phạ đương Kiền.
Theo nghĩa đơn, của chữ trong mỗi câu:

380
1% - Phương Canh và Đinh, thì trên phương Khôn là Hoàng tuyền.
2% - Phương Ất và Bính, thì nên phòng nước phương Tốn trước hết.
3% - Trong hướng Giáp và hướng Quý, thì lo thấy ở phương Cấn.
4% - Phương Tân và Nhâm, thì sợ đường nước ở ngay phương Kiền.
Nói như thế thì làm sao mà hiểu được, nếu thiên học! Bởi vì bài quyết bí hiểm, nên
có ít người am tường thôi. Còn đa số Thời sư không hiểu, cứ bàn ra, tán vào, mãi
cũng đều vô lý, nghe nói vớ vẩn mà buồn cười.
Vậy tôi giải thích rõ, để Độc giả khỏi nghi vấn.
Nghĩa rộng: Giáp, Canh, Nhâm, Bính, là Tứ dương can ( 4 thiên can thuộc dương).
Ất, Tân, Đinh, Quý là Tứ âm can ( 4 thiên can thuộc âm), ở về 4 phương chính, mỗi
phương có 2 can một âm, một dương.
Kiền, Khôn, Cấn, Tốn gọi là tứ duy, cũng là hàng Thiên can, ở bốn phương ngưng
( bốn phương góc) cộng là tám phương ( bát quái).
Giáp, Canh, Nhâm, Bính bốn phương can hợp với bốn địa chi: Tý, Ngọ, Mão, Dậu ở
bốn phương chính. Theo về lý khí của vòng Trường Sinh, thì bốn phương này, vừa là
bốn phương Vượng, vừa là bốn phương Tử của bốn Đại cục.
Ất, Tân, Đinh, Quý; bốn âm can, hợp với bốn địa chi: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, ở bốn
phương bàng, theo về lý khí của vòng Trường sinh, thì bốn phương này, vừa là 4
phương dưỡng, vừa là bốn phương Mộ, của bốn Đại cục.
Kiền, Khôn, Cấn, Tốn: bốn Thiên can hợp với bốn địa chi: Dần, Thân, Tỵ, Hợi ở bốn
phương ngung ( Tứ duy), theo lý khí của vòng Trường Sinh, thì bốn phương này, là
bốn phương sinh, vừa là bốn phương Tuyệt của bốn Đại cục khác nhau.
Thí dụ: Câu: Canh, Đinh, Khôn, thương thị Hoàng tuyền:
Như lập hướng Canh, là hướng vượng của Kim cục, thì Khôn là Lâm quan, thì thủy ở
Khôn phải chảy lại trước huyệt, nếu chảy đi là thủy phá lâm quan, thì bị Hoàng
tuyền.
Như lập hướng Đinh, là Dưỡng hướng ở thủy cục, thì Khôn là Trường sinh, thì thủy ở
phương Khôn cũng phải chảy triều lại trước huyệt, nếu chảy đi là thủy phá sinh
phương, thì bị Hoàng tuyền. Nhưng trái lại cũng lập hướng Đinh, nhưng ở Mộc cục,
thì Đinh lại đổi là Mộ, Khôn đổi là Tuyệt, thì thủy ở Khôn phải cho chảy đi, nếu chảy
lại, là Tuyệt thủy lưu nhập thì bị phạm Hoàng Tuyền.
Nghĩa như thế mà quyết, chỉ có một câu 7 chữ, thực là bí hiểm. Nếu thiển học, lại
không được minh sư truyền, thì đâu hiểu thấu, nếu không có trí óc thông minh.
Lấy một câu: Canh, Đinh, Khôn thương thị Hoàng Tuyền mà suy ra ba cậu kia, cũng
như thế.
Tức là: Hướng Bính, Giáp, Nhâm 3 hướng này cũng như hướng canh ở câu trên.
Hướng Ất, Quý, Tân, 3 hướng này cũng như hướng Đinh ở câu trên.
Phương Tốn, Cấn, Kiền, 3 phương này cũng như phương Khôn ở câu trên. Nếu không
biết phép tiêu, nạp thủy ở trong 4 phương: Kiền, Khôn, Cấn, Tốn này thì phạm
Hoàng tuyền. Vì vậy bảo là: Tứ lộ Hoàng tuyền. Hoàng Tuyền nghĩa là Suối vàng, là
nơi vô khí ( Tứ xứ).

Bát sát hung kỵ


Lập hướng phải kỵ tám phương sát khí.

Quyết ca
1 - Khảm long, Khôn thỏ, Chấn sơn hầu;
2 - Tốn kê, Kiền mã, Đoài xà đầu;
3 – Cấn hổ, Ly trư, vi Sát diệu;
4 – Phạm chi Mộ, Trạch nhất tề hưu.

381
Giải nghĩa
1 – Phương Khảm thì kỵ khắc với phương Thìn ( Thìn thì ứng tinh là con rồng, nên
gọi là bí danh là Long). Phương Khôn kỵ khắc với phương Mão ( Mão thì ứng tinh là
con thỏ, nên gọi bí danh là thỏ). Phương Chấn kỵ khắc với phương Thân ( Thân thì
ứng tinh là con khỉ,nên gọi bí danh là Hầu).

2 – Phương Tốn kỵ khắc với phương Dậu ( Dậu thì ứng tinh là con gà, nên gọi bí
danh là kê). Phương Kiền thì kỵ khắc với phương Ngọ ( Ngọ là hứng tinh là con ngựa,
nên gọi bí danh là Mã). Phương Đoài thì kỵ khắc với phương Tỵ ( Tỵ thì ứng tinh là
con Rắn, nên gọi bí danh là Xà đầu).

3 – Phương cấn kỵ khắc với phương Dần ( Dần thì ứng tinh là con cọp, nên gọi bí
danh là Hổ). Phương Ly kỵ khắc với phương Hợi ( Hợi thì ứng tinh là con heo, nên gọi
bí danh là Trư). Tám phương nọ khắc với 8 phương kia nên bảo là sát diệu ( sao sát).

4 – Phạm vào đấy, thì mộ phần hay nhà ở đều cũng hỏng.

Thí dụ:
Lấy hai chữ Khảm long ở đầu câu, mà giải thích dưới đây. Như là: Mạch ở phương Tý
nhập Huyệt, thì không nên lập hướng Thìn, hoặc mạch ở phương Thìn vào huyệt, thì
cũng không nên lập hướng Tý. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị diệt vong!
Bởi vì phương Tý thuộc Thủy, phương Thìn thuộc Thổ, Thổ khắc Thủy, nên bị sát.
Xem một cái, hai chữ vừa giải thích trên đây, thì bảy cái kia, mỗi cái hai chữ, cũng
đều như thế, suy ra thì rõ hết, không khó gì cả.
Ở miền Bình dương, xem Long nhập thủ cũng có chỗ khác khác với Sơn cương, nếu
thấy long sơn khởi cao hơn hai bên một chút, thắt lại nhỏ hẹp, thì cũng lấy 24
phương định mạch khí, như ở miền núi đồi cao. Nếu long mạch bình thản (thấp và
phẳng rộng), không nhận đích được Long tích, thì lấy phương nào ở gần nước hơn,
mà định cục, lập hướng. Như là phương Nam gần nước thì lấy khảm cục long, lập
hướng nam v.v… đại khái như vậy, đã kể rõ ở mục Điểm Huyệt.
Cục cũng kỵ khắc như phương, tức là Khảm cục, không nên lập thìn hướng; Khôn
cục, không nên lập Mão hướng v.v…

Còn tiếp

BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 39

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 18:56 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Phụ tinh thủy pháp


Việt Hải

Phụ tinh thủy pháp

Độc ca
- Liêu Công thì lấy Hướng làm chủ, theo hướng vị Khởi phụ ( sao Phụ Bật) để xem thủy triều lai,
thủy tiêu khứ.
- Lại Công thì lấy Long ( mạch) làm chủ, khởi Phụ để lập hướng, tiêu Sa, nạp thủy, đây là tịnh
âm, tịnh dương pháp.
- Dương Công thì lấy Âm – Dương ( khán Thư, Hùng).

382
Quyết ca
"Dương Công, dưỡng lão, khán thư, hùng;
Thiên hạ chư thư, đối bất đồng.
Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá,
Cộng song Phụ Bật, cửu tinh cung.
Tạo hóa khu cơ, bàng Đấu chuyển,
Ngũ tinh cát dã, Tứ tinh hung.
Phiên chuyển cửu tinh, thành cửu quái,
Phi lai diệu pháp, tập kỳ trung."

Giải nghĩa: Phép Dưỡng lão của Dương Công thì xem về Thư, Hùng ( Thư là Âm,
Hùng là Dương).
Đối với các kinh sách ở trong thiên hạ,thì khác hẳn không giống nhau.
Sao Tham lang, sao Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân là 7
sao.
Cộng với 2 sao Phụ, Bật là 9 sao, ở 9 cung.
Than máy của Tạo hóa, bằng cứ ở Tinh Đẩu vân chuyển có 5 sao cát, 4 sao hung.
Phiên chuyển chín sao, thành chín cung ( Cửu quái).
Bay lại cung nào, thì cái phép linh ứng hay, dở ứng trong cung đó.

Thôi quan quyết


"Thôi quan chi pháp, Lại Công chuyển,
Tịnh Âm, tịnh dương, phân kỳ gian,
Cơ yếu phối cơ, ngẫu phối ngẫu,
Lạc thư vị thương, bải Tiên thiên.
Cánh hỷ Liêu Công, thiện phiên quái,
Chuyên thủ Phụ tinh, tường thủy pháp."

Nghĩa là:
Phép Thôi quan này do Lại Công truyền;
Phân cách khoảng ra tịnh Âm, tịnh Dương,
Số lẻ sánh với số lẻ, số chẵn sánh với số chẵn,
Bày ở trên phương vị Lạc thư là do Tiên thiên.
Lại mừng được Liêu Công khéo phiên quái ( luân chuyển cung)
Chỉ chuyển lấy phụ tinh mà biết rõ thủy pháp ( là phép xem nước cát, hung).
  Tham, Cự, Vũ, Phụ: bốn sao lành. Phá, Lộc, Văn, Liêm là bốn sao ác, là phép của
Dương Công.
  Kiền, Khôn, Khảm, Ly: bốn cung Dương; Chấn, Tốn, Cấn, Đoài là bốn cung Âm, là
phép của Lại Công.

Quyết ca
"Tinh, quái tương phối, thành nhất gia,
Bát bát biến lai, vô vạn sai,
Tiên biến Kiền quái, chưởng trung tài,
Thượng Đoài, hạ Chấn, tiểu chỉ bài.
Vô danh chỉ, an Khôn dữ Khảm,
Trung chỉ Tốn thượng, Cấn hạ bài.
Thượng Ly, hạ Kiền, quy thực chỉ,
Nhất quái ký định, dư phiên lai."

383
Nghĩa là: Sao và quẻ, sánh với nhau, thành một nhà – Tám lần tám, biến ra không
sai. Trước hết biến quẻ Kiền, ở trong bàn tay – Đến ngón tay út đốt trên là Đoài, liền
đốt dưới là Chấn – Chéo bên đốt trên ngón vô danh là Khôn – liền xuống đốt dưới là
Khảm – Lại chéo lên đốt trên ngón giữa là Tốn – Rồi liền xuống đốt dưới là Cấn – Lại
chéo lên ngón tay trỏ đốt trên là Ly – Lại liền xuống đốt dưới là Kiền.
Đã định được một quẻ, thì phiên ra tám quẻ cũng vậy. Xem bàn tay chỉ dẫn dưới
đây:

Phiên quái chưởng quyết


( Phép bày quẻ bàn tay)
Kiền nhất biến thương vi Đoài – Đoài nhị biến trung vi Chấn – Chấn tam biến hạ vi
Khôn – Khôn tứ biến trung vi Khảm – Khảm ngũ biến thượng vi Tốn – Tốn lục biến
trung vi Cấn – Cấn thất biến hạ vi ly – Ly bát biến trung vi Kiền. Trung khởi trung
chỉ, Biên khởi biên chỉ.
( HÌNH VẼ BÀN TAY)

Kiền đối với Đoài; Cấn đối với Khôn, Khảm đối với Tốn, Chấn đối với Ly.
Đối cung khởi Tham lang, là Lệ thiên địa quái.
Kiền cách Khảm, cấn cách Chấn, Ly cách Khôn, Tốn cách Đoài.
Cách cung khởi Tham lang, là Lệ ngũ quỷ quái.
Lệ phụ tinh quái, thì theo Hướng thượng khởi phụ có bài quyết ca sau:

Quyết ca
"Nhất phiên, thượng khởi, hạ lạc hô,
Nhị phiên, hạ khởi, thượng lạc tồ.
Tam phiên, trung khởi, nhưng trung lạc,
Tứ phiên, biên khởi,biên lạc tồ."
 
Giải nghĩa:
1 – Khởi ở trên thì nghỉ ở dưới
2 – Khởi ỏ dưới thì nghỉ ở trên
3 – Khởi ở giữa thì nghỉ ở giữa
4 – Khởi ở bên ngoài, thì nghỉ ở bên ngoài.
Họ Khưu Diên Hàn, thì dùng Thiên địa quái để định long cho biết Tam cát, Lục tú.
Lấy một đoạn mạch vào Huyệt, xem thuộc quái nào, thì lấy quái ấy làm chủ, rồi đối
cung khởi Tham lang. Lấy Tham, Cự, Lộc, văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ làm thứ tự.

Giả thử: Tân hướng thì khởi phụ ở Tốn ( Tốn nạp Tân). Tức là phụ ở Tốn, Vũ ở Cấn,
Phá ở Ly, Liêm ở Kiền, Tham ở Đoài, Cự ở Chấn, Lộc ở Khôn, Văn ở Khảm.
Dương Công dụng Ngũ quỷ quái, cách cung khởi Tham lang ( nhập thủ long, cách
cung)
Cũng lấy Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ làm thứ tự.Đây là Ai điểm pháp,
cùng với hai phép ở trên.
Giả thử: Kiền long, thì Chấn là Cự Môn, tốn là Liêm trinh, lập Tốn hướng, theo Tốn ở
Trung hào biến là Cấn; lại ở Cấn khởi Tham lang, đến Chấn là Liêm trinh, đó gọi là
Ngũ quỷ vận tài lai, cái khác cũng theo phép như vậy.
Dương trạch ( nhà ở) lấy Liêm trinh lập hướng gọi là Ngũ quỷ Lâm môn, lấy Cự môn
làm môn lộ ( cửa lối đi), gọi là Ngũ quỷ đới tài lai ( Ngũ quỷ đem của lại).
Âm phần ( mồ mả) lấy Liêm trinh lập hướng ở phương Cự môn có nước triều lai, cũng
là ngũ quỷ đới tài lai, thì mau chóng giàu có, các vị xưa dùng phép này, để cứu bần
gia.
Theo phép Ngũ quỷ vận tài lai: xưa Lại Công đoán đặt ( Mộ) Hồ Thái Phó:

384
Tốn long, Kiền hướng, ngũ quỷ bất đới tài. Đã làm quan đến chức Thái phó ( cao
quan đời xưa) mà vẫn nghèo. Ví thủy bất triều lai, mà cũng chỉ vì là phương Khôn,
Ất, vô thủy triều kai, Vậy cứ xem 2 chữ bất đới, thì đủ rõ.
Tốn long, Kiền hướng, là Ngũ quỷ lâm môn. Nếu Kiền triều lai, thì Liêm trinh biến
làm Phụ tinh thủy, thì làm quan nếu có Khôn, Ất thủy triều, tì làm bản quái của Cự
môn, nên mau ứng nghiệm vậy.
Phương phu tử nói: Xưa Dương Công lập ngôi Dương trạch ( nhà ở) ở xứ Châu, để
cứu một nhà nghèo, chỉ cốt là được có của thôi.
Tân long, Giáp hướng, Khôn môn lộ ( cửa ngõ) là nhiên khắc có của. Là do Ngũ quỷ
vận tài lai. Tân tức là Tốn, Giáp tức là Kiền, dùng phép đối cung khởi Tham lang. Tốn
thì Tham lang tại Khảm, Cự môn tại Khôn, Liêm trinh ngũ quỷ tại Tân, Tốn long, Giáp
hướng là Ngũ quỷ Lâm môn, tức là Khôn Ất; Cự môn chưởng ( giữ) tài bạch. Dương
trạch thì dùng môn lộ, Âm phần thì dụng thủy lai, đấy là nước chỉ nên triều lại,
không nên chảy đi, nếu chảy đi là ngũ quỷ vận tài khứ ( đưa của đi) chảy lại là Ngũ
quỷ đới tài lai, khác tự nhiên có tiền của lại ( là làm giàu mau lẹ).
Trên đây là một cách tốc phát, do hai vị Cổ tiên: Dương, Lại, luận định. Tốn quái khởi
lộ, thì ở trong quyết lâm môn, hai chữ: bất đới tài, chử Đới mới làm tinh thực. Tức là
nắm lấy Liêm trinh, là phép đảo lệ quải đầu vậy, vả lại, lây một sao Liêm trinh với
Tham, Cự, Vũ, tam cát tinh, hợp khởi, thì được tịnh Âm, tịnh Dương, xem Khôn quái
lập Chấn hướng, thu Tốn thủy, thì tự khắc hiểu rõ ràng.

Ngũ quỷ vận tài định cục


Dương trạch dụng môn lộ, Âm phần dụng thủy lai.
- Kiền, Giáp long, lập Tốn hướng, là ngũ quỷ. Đắc ( được) Chấn, Canh, Hợi, Mùi, thủy
lai là đới tài.
- Khôn, Ất long, lập Chấn, Canh, Hợi, Mùi hướng là Ngũ quỷ, Đắc Tân, Tốn Thủy lai là
đới tài.
- Chấn, Canh, Hợi, Mùi long, lập Khôn, Ất hướng, là ngũ quỷ, Đắc Kiền thủy lai là đới
tài.
- Tốn, Tân long, lập Kiên giáp hướng, là ngũ quỷ. Đắc Khôn Ất thủy lai là đới tài.
- Khảm, Quý, thân, Thìn long, lập Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu hướng, là Ngũ quỷ, Đắc Cấn;
Bính thủy lai là đới tài.
- Ly, Nhâm, Dần, Tuất long, lập Cấn, Bính hướng, là ngũ quỷ. Đắc Đoài, Đinh, Tỵ,
Sửu thủy lai là đới tài.
- Cấn, Bính long, lập Ly, Nhâm, Dần, Tuất hướng, là ngũ quỷ. Đắc Khảm, Quý, Thân,
Thìn thủy lai là đới tài.
- Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu long, lập Khảm, Quý, Thân, Thìn hướng, là ngũ quỷ. Đắc Ly,
Nhâm, Dần, Tuất thủy lai là đới tài.
Tám cục ở trên tức là tám quẻ:
- Kiền Khôn 2 quẻ, dụng Thiên địa định vi.
- Chấn, Tốn 2 quẻ, dụng Lôi phong tương bạc.
- Khảm, Ly 2 quẻ, dụng thủy hỏa bất tương xa.
- Cấn, Đoài 2 quẻ, dụng Sơn trạch thông khí.
Mà là Nam quái long, dụng Nữ quái hướng, thu Nam quái thủy, Nữ quái long, dụng
Nam quái hướng, thu Nữ quái thủy.
Tức là Âm Dương tương phối, tất cả đều như thế là khóc hợp.

Cửu tinh thủy cát , hung đoán pháp


(Tòng hướng thượng khởi phụ)

"Phụ chủ Sinh nhân hiếu đế từ ( hiền từ)


Nam vi Phụ Mã, Nữ cung phi
Đa đinh phú quý, kiêm trường thọ

385
Bật sản minh – kinh, hiếu đế nhi."
Phụ Bật thì không định danh, Hỏa hướng vi Hỏa, hướng vi thủy,nhưng cũng có sở
thuộc.Phụ thuộc Mộc, ứng Hợi, Mão, Mùi niên, nhật, nguyệt, thời, và ứng vào
phương. Bật thuộc Hỏa ứng vào Dần, Ngọ, Tuất niên, nguyệt, nhật, thời và phương
vị.
"Vũ lâm Khôn, Cấn, Đoài, Kiền lưu ( dòng nước)
Tam tử vinh đăng, Giáp đệ cao;
Hào hiệp, đinh, tài, kiêm thọ khảo.
Binh quyền, phong hiến, chưởng trung tao."
(Quân quyền hiến pháp, nắm cả trong tay).
Vũ khúc thuộc kim, ứng vào Thủy? vượng về phương Thủy? năm, tháng, ngày, giờ
thuộc thủy.
"Phá quân hung bạo, tối kham lân
Kiếp lược đầu quân, bại tốt bần.
Đổ bác tụng tranh, kiêm tủng, á ( cả câm đi )
Thiểu vong, tuyệt tự, thể khuy tàn."
Phá quân thuộc Kim, ứng vào phương vị Kim và tháng năm Kim.
"Liêm lâm Dần, Ngọ, Kiền, Đoái lai,
Nhất tử, gian phi vô lễ nghĩa.
Thổ huyết, quan tai, hựu trụy thai ( đẻ non)
Thối tài, thất hỏa, ôn hoàng lụy.
Mục manh, Hổ giảo,hoặc lôi thương ( sét đánh)
Uổng lệ, phong ma, tính mộc trụy ( té ngã cây)
Thất phân Cự, Vũ, Tam phân Liêm,
Cự phát phú hề,Vũ phát quý.
Nhược kiêm Văn, Liêm thủy hỏa triều ( lẫn lộn)
Hà phòng trị thử, sinh hồ mị ( yêu quái)"
Liêm trinh thuộc Hỏa, ứng tại hỏa phương vị và năm tháng, ngày, giờ thuộc hỏa.
"Tham tại Khảm, Ly, Chấn, Tốn phương.
Lục (6) nam hiếu thuận, hữu văn chương.
Quản đắc điền tài, đinh, lộc vượng,
Cao đăng khoa đệ tính danh hương"
Tham lang thuộc Mộc, ứng tại Hợi Mão, Mùi phương vị, Niên, Nguyệt, Nhật, thời
thuộc Mộc.
"Cự tại Cấn, Khôn, Đoài dữ Kiền,
Tứ (4) Nam phú quý, thọ kiêm toàn.
Quân tử tiến quan, tăng lộc, vị,
Tiểu nhân tiến lợi, phước trường miên ( lâu dài)"
Cự môn thuộc thổ. Vượng thổ phương vị và niên, nguyệt, nhật, thời thuộc thủy.
"Lộc chủ hành cuông, tính chuân ngoan,
Đổ, dâm, quan, quả, thổ khuy tàn.
(Đánh bạc, hỗn dâm, không vợ, hóa chồng, què thọt tàn phế)
Quá phòng ly tổ, vi tăng đạo ( đi tu ở chùa đen),
Tuyệt tự, ải vong, hựu sản nan ( khó đẻ)."
Lộc tồn thuộc thổ, ứng thổ phương vị, giữ niên, nguyệt, nhật, thời thuộc thổ.
"Văn đa kỹ, trá, tửu, dâm tà,
Điền điệt, phong, lao, thũng dang noa ( bệnh tật).
Hoạn nhỡn, hỏa tai, tính thủy ách ( chết đuối),
Thoái tài, đổ bác, biệt hượng gia ( bỏ làng lìa nhà)."
Văn khúc thuộc thủy, vương võ thủy phương vị và ứng năm, tháng, ngày, giờ thuộc
thủy.

Còn tiếp

386
Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Phụ tinh thủy pháp ca ( Tăng bổ)
Việt Hải

Phụ tinh thủy pháp ca ( Tăng bổ)

"Sơ di Tả phụ, đắc quan quý,


Phụ mã, cung phi vinh lộc vị.
Thứ di Vũ khúc, phú quý toàn,
Cập đệ, đăng khoa, thọ diên niên.
Phá quân hung bạo thả hiếu tụng,

 
Thể khuy âm, á, vô nhân lân ( quẻ câm không ai gần)
Đệ tứ Liêm trinh tối hung lệ!
Thất hỏa, thoái tài ôn hoàng lụy.
Ngũ quỷ phát tài, nhân thổ huyết ( mửa ra máu)
Đới Cự, đới Vũ, tam phân Liêm.
Cự phát phú hê, Vũ phát quý,
Nhược thị Liêm trinh, đơn thủy triều.
Sở trị công vị, tuyệt bất nhiêu ( các phòng đều bị)
Biệt phòng năng đắc Cự, Vũ giả.
Ngũ quỷ Tốn tài, nhạ huyết lao ( Dẫn bệnh do Lao)
Văn, Liêm nhị thủy, như tương hỗn,
Hồ mị xâm nhân, Mệnh nan đào ( khó trốn
Ngũ di phùng trước, Tham lang tinh.
Thông minh, tài phước, thả đa đinh,
Cự môn đệ lục, chi tường cát.
Y, thực, phong tục, sương khố doanh
Lộc tồn hành sự, đa cuồng vọng ( điêu càn)
Tâm tính ngoan chuân, vi đạo tăng ( tu hành)
Đệ bát Văn khúc hiếu dâm loạn,
Đổ bác, khi dâm, phong giới hạn!
Dĩ thượng Cửu tinh hợp thành bát ( 8 quái)
Mồi nhất cá tính, quản nhất quái
Quái trị cát tinh tòng cát suy ( xét xem)
Quái trị hung tinh tòng hung, thuyết ( đoán xét)
Nhị thả cát tinh, nhập dương cung
Hung tinh tiên nhập tứ âm quái ( 4 quẻ âm)
Hung tinh nhược du tứ dương thần ( 4 quẻ dương)
Cát tiện nhập âm, bất tương tạp ( không hỗn tạp)
Dụng thử, Dương Công hợp Lại Công,
Liêu Công dụng chi, biện thủy pháp
Đãn tư nhất quái, hữu sổ thủy ( vài dòng nước lẫn lộn)
Lưỡng điều, tứ điều, các nghi thanh.

387
Kiền nạp Giáp hề, Khôn nạp Ất,
Cấn nạp Bính hề, Tốn nạp Tân.
Đông: Chấn nạp Canh, dữ Hợi, Mùi…
Tây: Đoài nạp Đinh, Tỵ, Sửu Kim
Nhâm dữ Dần, Tuất, Ly cung nạp,
Khảm Quý, Thân, Thìn nạp thủy âm.
Dả như Ly cung Tham lang trị,
Trung hữu Dần, Tuất dữ bắc Nhâm,
Hợp đoán Tham lang cổ thị cát ( vốn là lành)
Tứ điều khởi vô phân biệt tình.
Vô thủy, hữu lộ, diệc phi nghi ( cũng chẳng phải ngờ).
Phạm tội, tao hình, duy tai cửu!
Tý, Ngọ, Thìn, Tuất long, Dậu thủy! 
Thử phương như hàm, Tốn, Mão long.
Vi quan trận vong! Toàn quân phúc ( cả binh sĩ phản)
Tân, Dậu nhị thủy triều nhập hoài
Tuy phá, nan miền cổ hồn ai ( chết vợ sớm )"

Chu cục thủy hợp, thủy phá

Kiền thủy hợp cục:


Kiền là Thiên, Phụ, phương vị. Kiền và Giáp là thuần Dương. Kiền long, hướng Khôn –
thân, được Kiền thủy lai, hoặc Oa phong khởi. Ngọ long, Thìn long, mà phương Kiền
có nước, hay ở đống cao cũng vậy. Thìn là ngôi thứ 5 của địa chi, nguyên Kim long ở
đấy. Kiền ở Tây – Bắc là Thiên môn, chẳng những phát quan, mà còn là đất phát Đế
vượng, Thần tiên.
( Tôi ( tác giả) đã kinh nghiệm, thấy đất Thìn long, được Kiền sơn khởi, Kiền thủy lai,
chính là lăng mộ đức thánh Trần Hưng Đạo, ở núi Vạn Kiếp, miền Bắc Việt, quả nhiên
sách dạy không sai).

Kiền thủy phá cục:


Cấn, Bính, Tốn long, thấy Kiên thủy lai, Bính – Đinh – Mão  – Tốn 4 long, hoặc 4
hướng này, thấy Kiền Hợi song triều, hoặc Tuất, Kiền song triều ( hai phương cùng
chầu vào) cũng vậy, thì hay sinh nhiều bệnh tật như phong, lao, thổ huyết v.v…

Giáp thủy hợp cục:


Giáp thủy hay Giáp sa, gặp Kiền long thì phú quý lớn.

Giáp thủy phá cục:


Giáp khởi cao phong ( núi) hay cao phụ ( gò) đều là bất cát, hoặc Giáp long, Giáp
thủy đi cùng với Mão, là âm, dương hỗ tạp thì không tốt.

Khôn thủy hợp cục:


Khôn, Ất là Thổ, là Địa mẫu quái danh là tên quẻ Phụ bật.
KIỀN, KHÔN, KHẢM, LY là hợp cục.
CHẤN, ĐOÀI, CẤN, TỐN là phá cục.

Đoán vân:
"Ất, Quý, Kiền, Ly tứ long thân,
Hỷ phùng Khôn thủy, Khôn sa triều.
Nhược dữ Thân phương, song hợp đáo,
Võ văn Nam, Nữ, đệ khoa cao."

388
Do Tiên thiên, thì Khôn nạp Khảm, Hậu thiên thì Khôn nạp Ất, vậy là Tiên thiên Kiền
Hậu thiên.
Kiền long ngộ Khôn thủy, là Thiên địa định vị. Ất nạp về Kiền, tức là quy nguyên thủy
( gốc trước) vậy.

Khôn thủy phá cục:


Mão long, Khôn thủy, hoặc Khôn sơn, đều khắc cả. Nếu cùng Mùi thủy song nhập ( đi
đôi vào) Mùi thiểu, Khôn đa, ngộ dương cục, thì phải Nam bại. Mùi nhiều, Khôn ít, là
Âm cục, thì phải phái Nữ suy.
Nhưng Khôn với Thân cùng hợp, thì lại tốt vì Tiên thiên Hậu thiên hội nhất phương.

Ất thủy hợp cục:


Ất thủy ngộ ( gặp) Khôn long và Nhâm long thì quý lắm.
Do Tiên thiên, thì Nhâm nạp về Kiền, nên Kiền gặp Ất thủy là Thiên địa định vị.
Hậu thiên, Ly nạp Nhâm, sinh khí Tham lang thì rất hay.
Thìn, Ất thủy song triều đắc hiền thê, quý tử.

Ất thủy phá cục:


Ất thủy phá cục chiêu tai họa tối đa. Nếu cùng Mão thủy, là Mão thủy hỗn tạp lưu
nhập thì bị khắc thê 3-4-5 phen.

Tý quý thủy hợp cục:


Quý, Tý tại Bắc phương: Khảm nạp Quý, Thân, Thìn. ( Tý, Quý, nhị thủy lai, hoặc sơn
sa cao khởi, đắc Ly long nhập huyệt, thì giàu sang).

Tý quý thủy phá cục:


Tam điều: Mão, Hợi, Cấn, âm long.
Tội phạ Tý, Sửu, cộng triều phần ( triều vào mộ)
NGHĨA LÀ: Ba phương Hợi, Mão, Cấn là Âm long, nếu Tý và Sửu thủy triều về phần
mộ, thì rất sợ. Vì là dương thủy phá cục, thì xấu lắm. Nhâm, Tý, Quý long hoặc Thủy,
thường sinh ra người 6 ngón tay, hoặc 6 ngón chân.

Thân thủy hợp cục:


Thân thủy lai, gặp Tý, Quý, Thìn long, thì tốt, nếu Mão long, Thân thủy, lập Thân
hướng là sát ( xấu). Nhưng long Chấn, huyệt dịch, mà gặp bắt    Thủy thì nên dụng
thủy pháp chế hóa đi, thì lại phát danh tướng cao quan.

Thân thủy phá cục:


Mão long, Canh hướng, Thân thủy lai, thì nhân mạng bị tuyệt diệt!

Thìn thủy hợp cục:

Quyết vân:
"Đại vượng tài sản, thị Thìn thủy
Kiền long, Thìn thủy, vi tối mỹ!
Thử thủy khứ, lai, giai bất câu,
Tổng thị xung khai mộ khố lũy."

Nghĩa là: Nước ở phương Thìn là đại vượng về tài sản – Kiền long gặp Thìn thủy thì
rất tốt – Nước ở phương này chảy lại hay chảy đi đều hay cả, không câu nệ - Tóm lại
là nước xung khai thành lũy ở phương Mộ khố.

389
Khôn long đắc Thìn thủy, hoặc Thìn long đắc Thìn thủy, thì phát Trạng nguyên, Tể
tướng, nhưng cũng ít có như vậy.

Thìn thủy phá cục:


Dậu long thấy Thìn thủy, hoặc Sửu, Mùi hướng thấy Thìn thủy lai, tối hung. Độc lắm.

Ngọ thủy hợp cục:


Nhâm, Tý, Quý, Dần, Tuất long, thấy Ngọ thủy là hợp cục. Thử thủy khứ lai, câu sậu
phạt. Nghĩa là: nước phương Ly này chảy đi hay triều lại, cũng đều mau phát.

Ngọ thủy phá cục:


Tý, Bính hướng, Ngọ thủy lưu động, thì phụ nữ hay bị thổ huyết hoặc ói mửa ra máu.
Mão, Cấn long thấy Ngọ thủy triều, thì sinh ra người bị đau mắt hoặc mù. Hợi long,
Ngọ thủy lai, thì Nhâm mệnh đa tổn thương. Nếu Dậu phương là thủy khẩu xuất khứ,
thì sinh ra loạn dâm.
Kiền long thác nhân ( bó thắt như cái hầu ở họng) thì hay có hỏa hoạn ứng, nên đào
thấp đi, hoặc xây đắp gò cao lên để chế hóa.

Nhâm thủy hợp cục:


Ngọ long đắc Nhâm thủy hoặc Nhâm sa tú ứng, thì phát văn võ toàn tài, đơn thủy thì
phú, đại thủy thì phát quý, thủy lai thì tại gia cũng được phát, thủy khứ thì ly hương
mới phát phú quý.

Nhâm thủy phá cục:


Phá cục là những phương khắc sát với Nhâm.

Dần thủy hợp cục:


Dần thủy, là Trường sinh thủy, vượng đinh tài, Khôn, Ất hoặc Ly, Khảm long, hoặc
Kiền, Thân long, đắc Dần thủy lai thì phát phú quý.

Dần thủy phá cục:


Cấn phương là bát sát, Không long, Cấn hướng, Dần thủy là lai, là đới sát, thì bị tài
hỏa bênh tật, hoặc hổ giảo ( cọp cắn) Dần, Giáp phương có gò nhỏ và dài thì sinh du
đãng tử. Có gò tròn, thì phát đại sĩ ( thầy tu), phù thủy ( thầy bùa).

Tuất thủy hợp cục:


Thìn long Tuất thủy, Kiền long, Thìn thủy,
Tuất long Tuất sa, lập Thìn hướng, Thìn thủy triều lai là thượng cách, Nhị thập tứ
long, có thìn long là vượng nhất cả.
Xưa đã nghiệm đất nhà họ Dư: Tân long, Tốn hướng, thực Tuất khí, tọa Tuất đinh,
dụng Thìn sa, nhị hướng Tỵ, kỷ tử ( người con) đến năm Giáp Tuất đậu Tiến sĩ nhập
Hàn lâm viện, đó là Tuất long cùng phất Khoa giáp rõ ràng.

Tuất thủy phá cục:


"Phá cục gia trung, tất ngộ hung,
Khắc thê, sát tử, họa liên phùng.
Sinh nhâm âm á, ngu si túng ( câm điếc ngu si)
Hoặc ngộ đao thương, ác bất động."
Như Mão long Tuất thủy lai, thì sinh người câm ngọng, Cấn long, Tuất thủy lai, thì
sinh người mù, điếc. Canh, Dậu long mà thấy Tuất phương có sơn sa nhọn như đao
kiếm, thì sinh người làm giặc cướp, mà bất đắc kỳ tử v.v… ( Chết về đâm chém).

390
Mão thủy hợp cục:
Canh long, Chấn ( Mão) hướng, phát giã như lôi ( như sám sét). Vì Canh là Kim,
Chấn là Không, Kim ngộ không, thì tiếng kêu như còi hét.
Canh long, Mão thủy năng sậu phí ( chóng giàu). Hợi Mùi long, Mão thủy, thì phát
văn võ kiêm toàn, nếu được cao phong khởi, thì xuất Anh hùng dũng tướng. Quyền
sinh, quyền sát.

Mão thủy phá cục:


Phá cục, thì sinh người du đãng, đạo tặc, dâm loạn. Như Khôn, Thân long, ngộ Mão
thủy lai, hoặc khứ, cũng bị đâm chém hoặc tù tội v.v….

Canh thủy hợp cục:


"Mão long Canh thủy, khả Thôi quan,
Vô quý cao thăng, cảnh bất nan.
Khâm hoài, đảm lược, nhân vô địch,
Khứ lai giai phú, hợp gia hoan.
Canh sa cao khởi, tinh kỳ dạng,
Tái đắc đầu mâu, chương binh quyền.
Tứ thân bát tướng, triều lai chỉ,
Danh bá chư bang, trấn đại phiên.
Mão long Canh sa như thử nghiệm,
Nhược thị Tốn long, Canh sa tủng.
Vi quan thanh chính, bất tham ô,
Thử thị canh thủy, Canh sa tú."

Giải nghĩa: Mão long nhập thử ( Mạch vào huyệt) mà thấy có nước ở phương Canh
đáo, thế là Thôi quan thủy ( Nước quý cách) – Phát làm quan võ, quyền cao quý, làm
nên rất dễ - Trong túi áo có đủ chiến lược, can đảm không ai kịp. Nước đi hay triều
lại đều hợp cách giàu sang cả họ - Phương Canh có sơn khởi cao, hình dạng như cờ
trận – Lại có hình như đầu mâu – đao kiếm thì nắm cả binh quyền – Bốn phương tám
phía, sơn đều cao vót triều lại. Tức lừng danh cả thế giới, trấn hết mọi cường địch –
Đây là kinh nghiệm về Mão long Canh sa – Nếu là Tốn long mà có Canh sa cao vót
lên – Thì làm quan thanh liêm chính trực không tham ô – Đây là có canh thủy và có
Canh sa tú ứng.

Canh thủy phá cục:


"Như kỳ phá cục, đơn canh thủy,
Thâu thiết Trường Sinh bất tiếu nam.
Canh, Thân tịnh triều xạ nhập chủng,
Bị nhan sắc mậu, tối hung ngoan.
Nhược Bính, Đinh phương, Sa thủy cứu,
Hại chúng thành gia, phúc lộc toàn.
Mão, Canh, nhị thủy phá đường cục,
Hiến pháp nan đào, hình tội thảm.
Bính, Đinh, nhị thủy, danh sá văn,
Nhược đắc triều lai, miễn họa hoạn."

Giải nghĩa: Nếu chỉ có một Canh thủy mà là phá cục – Sinh con trai bất nhân, trộm
cướp sống dài – Nước cả hai phương Canh Thân, cùng lại như xạ nhập ( bắn vào mộ)
– Thì mê gái đẹp mà bị giết – Nếu có Sa thủy ở phương Bính, Đinh cứu cho – Thì làm
hại mọi người, mà vinh thân phì gia; lại thọ khang – Hai cái nước: Mão và Canh mà
phá dương cục – thì khó mà trốn thoát tội chết thê thảm của pháp luật – Hai cái

391
nước ở phương Bình và Đinh, gọi là Sá văn tinh – Nếu được hai thủy ấy triều lại, thì
khỏi cả hoạn nạn.

Hợi thủy hợp cục:


"Hợi thủy vãng, lai, năng hợp cục,
Đại vượng nhân đinh, tính tài lộc.
Đoài Tốn nhị long, kiến thử thủy,
Giáp khoa cập đệ, gia phú túc.
Mão long, Hợi thủy, vi nạp Giáp,
Văn, võ toàn tài, thực thiên lộc.
Hợi long, Hợi thủy, Hợi sa khởi,
Quan cư đài các, phát cảnh tốc ( mau phát).
Thả ấm nhân gia, đa tích thiện.
Cấn, Bính nhị long, vưu phú túc."

Hợi thủy phá cục:


"Phá cục hư lao, tổn thiếu niên,
Thổ huyết yểu vong, đa tật bệnh.
Ngọ long, kiến chi, hại đinh tài,
Hoành quá ( chảy quá) huyệt khinh, chung tiêu phước."

Mùi thủy hợp cục:


"Mùi thủy hợp cục, vượng đinh tài,
Khố thủ, điền viên, tối lạc hoài ( vui lòng).
Tân, Tốn nhị long, Mùi thủy nhập.
Vi quan đắc lộc, tiến hoành tài.
Xuất nhân câu cận, tín phật đạo ( đều tin tu đạo),
Mão long, Mùi thủy, phân lai, khứ.
Thủy lai lôi kích, gia tiệm phú,
Thủy khứ lôi kích gia tiệm suy.
Cấn Hợi nhị long, Mùi thủy nhập,
Cự phú, hà tu, tiến hoành tài ( của ngang tắt).
Đoài, Đinh nhị long, bản tương phối ( vốn sánh đôi),
Khoa Giáp liên đăng, chí tam thai ( đỗ liền 3 cấp)"

Mùi thủy phá cục:


"Phá cục, khán kinh, thời niệm phật
Ni cô, tăng đạo, bái liên đài.
Thìn, Tuất nhị long, Mùi thủy nhập,
Vưu triều quan, quả, yểu triết tai ( chết non).
Bội nghịch bất trung, nan chế phục,
Thi sơn lộ tử bất văn hồi."

Nghĩa là: Sinh ra người bất trung bất hiếu ngỗ ngược. Phơi thây ở ngoài đường hoặc
rừng núi không a biết mà báo tin về.

Còn tiếp

Việt Hải

392
( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn
giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 40


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 18:59 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Tốn thủy hợp cục


Việt Hải

Tốn thủy hợp cục:

"Tốn, Tân bài nhập Cự môn trung,


Tốn vi Trưởng nữ lộ tương đồng.
Tốn sa, Tốn thủy, long Tân, Hợi
Trạng nguyên cập đệ vị tám công.
Tốn thủy triều lai, van bút khởi,
Thiếu niên khoa giáp vận hanh thông.

Huynh đệ liên phương nhập Hàn uyên,


Hỷ khán dương toàn, hữu song phong ( 2  núi nhọn).
Mão, Canh nhị long, Tốn sa khởi,
Kinh lược chi sĩ, trấn uy phong.
Tốn vi trưởng nữ thủy triều nhập,
Trinh tiết nữ nhi, mỹ mạo nông ( đẹp nồng hậu).
Hoặc nhân nữ gia, chí tài phú ( vì vợ mà giàu)
Hoặc nhân thê quý đắc ân vinh ( vì vợ được sang).
Nhược thị Nga mi sơn tại Tốn,
Cung phi, phụ mã lưỡng tương phùng.
Tốn, Bính, Đinh hiệu: tam dương thủy,
Triều lai, hỷ quý, Kim dương trung ( con dê vàng; là núi)
Đông Mão, Tây Canh, giai Quỷ vị ( quẻ quan quỷ).
Nghĩa môn, thọ khảo, phước vô cùng,
Tốn thủy, long, ngộ thiếu nam mạch ( cấn vị)
Thọ toán giảm hề, phước phong long ( thịnh vượng)
Tam dương thủy triều, nhập Canh, Chấn ( Mão)
Khai phủ, lập ấp, vị tam công ( quan lớn)
Cánh xuất Tiên ông dữ Phật tử
Bồng lai, tiên cảnh thiệu phàm phong" ( Vượt cả trần thế tục, cõi phàm nhân)

Tốn thủy phá cục:

"Tốn thủy phá cục đa khất cái ( đi ăn mày)


Bão hoa sơn, kiến, triệu dâm phong ( làm gái điếm).
Thứ hoặ sơn sa, thủy tà trách,
Thất nữ, ( con gái) hoài thai, hiếu tư thông.
Tốn, Tỵ song triều, phá đường cục,

393
Há kham Tốn thương, khởi cao phong.
Hương khúc hữu nữ, nhan như ngọc,
Trụy thai điếm ố, xuẩn phong dong."

Xét đại khái: Tốn, Tỵ tương kiêm, như bắt Tỵ vị sinh khí, Tốn vi vượng khí, tắc nam
vi Phụ mã. Nhược bắt Tỵ vi   vượng khí, Tốn vi tiết khí, Tắc nữ tác cung phi.
Như mộ nhà họ Vương: Hợi long, Bính hướng, kiêm Tỵ, hợi tam phân ( 3 phân) có
Tốn thủy lai, đem La kinh chiếu ( ở nội bản) thì Bên Tả  không kiêm tỵ, bên hữu
không tạp ( lẫn) Thìn.
Hợi long, Bính hướng thì là rất tốt, lợi lắm. Nhưng có biết đâu là: Bính kiêm Tỵ ba
phân lấy hướng khắc thủy, lại bị phạm lãnh thoái chi bệnh.

Tân thủy hợp cục:

"Tân thủy tối tú, tư ( giữ về việc) văn chương,


Trạng nguyên, khôi thủ, tính danh dương.
Tốn long niên thiếu đăng khoa giáp,
Hàn lâm, học sĩ, cận long quang đền rồng.
Cánh hữu như hoa nữ nhân mạo ( mặt),
Gia đa Kim bạch, châu thúy hương.
Cấn, Mão, Hợi long, kiến thử xứ ( thấy phương Tốn),
Thủy minh, sa tú nhập Minh đường.
Á bảng minh kinh, nhân tranh tiễn,
Âm long, âm thủy, thích ( đến) tương đương.
Hợi sơn nhất trượng ( cao một trượng) khả chí phú,
Tân sơn thập hướng ( 10 trượng) phú kham thương.
Tuy nhiên kim bạch khoa ( khoe) phú túc,
Quá phòng dị tính chân nan dưỡng."

Nghĩa là: Tuy khoe khoang là giàu có, nhưng nhiều con, khác họ tức là con hoang,
hoặc con ngoại, thật là khó nuôi đâu có được toàn hảo.

Tân thủy phá cục:


Phá cục, bất giác gia lãnh thoái ( suy đốn)
Vi cái ( ăn xin) vô cứu ( không người cứu) chí tuyệt mạng.

Phúc đoạn: Xưa có ngôi đất, hình Ngũ mã bôn đảo, ở huyện Phân thủy (trung hoa)
Lại thái Tổ để cho họ Hồ, là họ nhà vợ của Tần Cối, vì vậy Tần cối nuôi đứa cháu gái
nuôi ấy, đỗ trạng nguyên là do đất ấy là Khảm long, Nhâm sơn, Bính hướng Tốn
thượng cao phong, rồi lấy Khảm long nhất biến vi tốn, Tốn phong vi Tham lang cát tú
giã. Đấy là một cái kinh nghiệm.
Lại còn một ngôi Bính long nhập thủ, đặt bọn bần hướng Thân, đối ngay vào ngọn
tháp núi Tinh sơn, có một nhà thuất sĩ tới huyệt nói: Đáng tiếc! Vì có một ngọn văn
bút ở Khôn Thân! Người cũng được đọc kinh Ngọc xích rõ rệt rồi chứ?
Đấy nói: Phát văn thì bút ở Tốn, Khôn Thân là bút từ tụng ( thưa kiện).
Đem hai cái long: Khảm, Khôn mà nói: Khôn long nhập thủ, nhất biến thượng hào
của quẻ Khôn là Cấn, Cấn vi Tham lang, Tốn Tân vi Cự môn, Thân vi Phá quân.
Khảm long nhập thủ; nhất biến Khảm thượng hào vi Tốn, Tắc Tân Tốn vi Tham lang,
Cấn vi Cự môn, Khôn vi Phá quân. Tham, Cự, thì cát, Phú quân thì hung, cát thì làm
văn bút, hung thì làm tụng bút! Cớ vậy.
Nay lấy ngôi đất Bính long nhập thủ: Cấn quái nhất biến Khôn vi tham lang, Tái thứ
biến Khảm vi Cự môn, Thân nạp vu Khảm, chính Ngọc xích Kinh bảo là: Cự môn là

394
cát phương tức thị Văn bút cớ vậy. Nhưng trong phép ai tính, hễ ai được vượng thần,
thì chỉ được phát tài giàu có thôi. Còn như Văn bút, tụng bút thì ở trong 24 phương vị
đều có định rõ cả. Tiên hiền chỉ đem một cái Khảm và một cái Khôn để bàn thôi,
muốn người ta lấy đấy mà suy ra cái khác.

Cấn thủy hợp cục:

"Tham lang sinh khí Cấn thủy viên ( là cục)


Cấn, Bính thiếu nam ( trai thứ 3) tinh bất phàm.
Cấn thủy hợp cục Thiên thị tú ( sao Thiên thị)
Thế nhân tài bảo ( của báu) tự kỳ gian ( khoảng).
Nhược kiến sa hình trù quỷ dạng ( hình sương khố)
Du dương thủy nhập, hướng phần tiền ( trước mộ)
Xuất sĩ quan tư, ký ( đã) nhiêu hậu ( nhiều lắm)
Phú kham dịch quốc, phi đẳng nhân ( không phải thường)
Sa như đê tiểu, thủy tính đoản ( ngắn hẹp)
Diệc chủ bảo loãn ( no ấm) lạn hòa, tiền ( tiền lúa để nát)
Bính long, ngộ thử sa, thủy tú
Hoàng giáp thanh danh dương thế truyền
Tam thai tủng tú, thủy ngưng tụ
Dữ Quốc vi nhân, lộc miên miên."
(Thông gia với nhà vua, nhiều lộc lâu dài)

Cấn thủy phá cục:

"Cấn thủy phá cục đa lãnh thoái ( suy bại)


Diệc chủ tuyệt diệt, tự bất điên ( ngàn đời)
Tuy hữu văn chương bất hiển đạt
Thử phương khuyết hãm, phong bất toàn! ( xấu)."

Bính thủy hợp cục


"Bính thủy hợp cục đa phú thọ,
Phạm tội chi gia, dụng thử cứu ( nước Bính cứu tội)
Bính, Đinh: Sá văn, sơn, thủy triều
Hoàng ân hạo hạo thao nguyên hựu ( ơn vua rộng lắm)
Cấn long, Bính thủy, khả thôi quan ( nước quý)
Nạp giáp chi lý, nghi tham thấu.
Phàm địa phi sa, quý nan cầu,
Bát cá quy nguyên, thủy tối tú.
Sa hình án hốt xuất Công khanh,
Khố, quý chi hình phú hào dụ ( phúc hậu)
Mão, Tân, Hợi long, thực nghiệm chi
Diệc nghi thủy triều, như phúc thấu ( tụ họp)"
Quy nguyên, là thủy nạp giáp, có thể gọi Thôi quan lực ( sức mạnh rất hay) cũng
như sa quý, triều bão huyệt.

Bính thủy phá cục


"Phá cục bại gia; hoặc hỏa thiêu
Phế nghi bất khởi đa tai cửu.
Thủy lộ Bính, Ngọ, tịnh lưu lai,
Dần, Ngọ, Tuất niên họa nan cứu."
Bính thủy mà phá cục thì tai họa dữ dội lắm. Nên bảo nóng như bỏng cháo sôi trong

395
nồi vạc.
Xét xem cái ngôi dương cơ của nhà họ Dư đời xưa, ở trung hoa, Tiên hiền đã kinh
nghiệm:
Hợi long nhập thủ, thừa được Cấn khí, kết một cái hình Thái âm tinh loan đầu, đặt
tọa Nhâm hướng Bính, kiêm Tỵ Hợi tam phân, ở phía bên hữu, đón cái thủy ở phương
Tân, hợp với cái đại khê ( lạch nước lớn), lại được cả Bính thủy triều chảy về phương
Mão, xuất khẩu khứ, trên phương Tốn có sơn sa hình tròn như Thái âm tinh, tác án
triều, bên thanh long loan bão, thu tận nguyên đầu thủy, đằng sau lưng về phương
Kiền lại có phong khí cao hơn trăm trượng ( một trượng ta là 4 thước tây) ở phương
Mão, Ngọ là có Vượng phong tròn trĩnh khởi cao.
Thấy năm con trai, ngành nào cũng đinh tài đại vượng. Ngành thứ hai ( con thứ) đầu
tiên phát võ khoa, sao 20 năm, về tiền tài sút kém, nhưng nhân đinh có mấy trăm
hơn, về con thứ ba thịnh vượng nhất cả. Vì long hành Cấn khí, Cấn vị thuộc về tam
nam ( con thứ ba), nên đến năm Bính Thân sinh người, năm Mậu Thìn thì phát khoa (
Đậu thi) đến năm Bính Tuất được vời đến bổ nhiệm. Thấy Cấn long, thừa nạp Bính
thủy là Thôi quan thu thủy chứng ứng, linh nghiệm như vậy.

Dậu thủy hợp cục:


"Vũ khúc hiệu vi Thiếu nữ tú ( Sao thuộc con gái thứ 3 -4 -5-6-7)
Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, kim quang thấu.
Dậu thủy hợp cục, nhã nhi thanh,
Ngư ( cá) Đại ( đồi mồi) sa sinh đăng chiếu hữu.
Dậu sa, Dậu thủy, Tốn cao phong,
Quý cận Quân vương, y cẩm tú ( áo gấm, vóc hoa đẹp)
Đoài, Đinh nhị long, xuất văn quan.
Duy hữu sơn triểu kiêm thủy tú."
Đất nhà họ Lại: Đinh long nhập thủ, thừa Mão khí kết huyệt, Thái âm tinh loan đầu,
đặt huyệt tọa Mão, hướng Dậu, Dậu thủy nghịch triều, theo về phương Hợi khứ khẩu
xuất. Hướng trông thẳng vào đỉnh ngọn núi như đầu con hạc ở phưng Dậu, cao
chừng mấy trăm trượng hơn, xa độ mấy dặm, ở gần long thân có hình Thiên mã sơn
ở phương Tuất, rất tú lệ, ở phương Tốn có sơn đoan hậu củng triều, thực là Đinh
long, Dậu thủy quy nguyên nạp giáp, có thể gọi là thôi quan hợp cách, đặt táng sau
một thế kỷ, đinh tài đại vượng, và nhiều huynh, đệ đồng khoa. Đấy là bởi có Thiên
mã là nô sa ở phương Tuất, liền gần ứng vào mộ. Về sau phòng thứ 3 đại phát văn
khoa, là ở phương Dậu có sơn sa vượng khởi, vì ở xa, nên ứng chậm như vậy.

Dậu thủy phá cục:


"Phá cục, dâm loạn bất kham ngôn,
Tốn long, Dậu thủy sát tương đấu.
Vô thủy, hữu lộ, diệc phi nghi!
Phạm pháp, tao hình, tội, hung cữu.
Tý, Ngọ, Thìn, Tuất, tứ long hướng ( 4 phương)
Thất nữ ( con gái) du tình ( chữa hoang) tùy nhân tẩu."

Nhận xét: những nước chảy triều vào sinh đường, nước chảy ra thủy khẩu phóng đi,
đều lấy ở trước phần mộ, , đứng đấy, mà trông thấy, làm chủ đích. Nếu đoán về
công vị ( thuộc các phòng). Thí dụ: như một ngôi, lập Tân sơn Ất hướng, có Dần thủy
ở trước hướng chảy lại, Nhâm thủy tòng tả lai, ngọ thủy hữu lai hội vào minh đường,
tòng tả, Tuất phương khứ, thì lấy Ngọ thuộc về Trưởng, Tuất là thứ 2, Dần là thứ 3
đều tốt lành cả, sẽ lấy đấy mà suy cái khác.

396
Đinh thủy hợp cục:
"Đinh thủy hợp cục, Nam cực tinh,
Nam, nữ khang ninh tối đa thọ. 
Bình thủy, Đinh thủy danh: Sá – văn,
Gia vô hung họa, phước tần hựu ( lần đến)
Xạ xách kim môn đệ nhất lưu;
Dậu long, Đinh phương, sa thủy tú,
Cấn long, Đinh phong, thủy đặc triều.
Vương, Hầu huyết thực, ngôn phi mậu."

Đinh thủy phá cục:


"Đinh thủy phá cục đa phúc thống ( nhiều bị đau)
Thoái bại chi thời, vô khả cứu."
Thủy pháp thì lấy Tốn, Bính, Đinh: làm tam dương, sa pháp thì lấy Bính, Ngọ, Đinh;
tam hỏa tề huy ( sáng đều nhau) vi tam dương. Tất cả Sa, đục, hễ thấy ở phương
Đinh thì không nên thấy ở phương Tốn; hễ thấy ở phương Tốn thì không nên có ở
phương Đinh, vì kỵ sát.

Tỵ thủy hợp cục


"Tỵ thủy hợp cục vượng đinh tài,
Mão long hỷ kiến thử thủy lai ( nước ở Tỵ lại)"
Tỵ nạp vu Đoài, thử tức Hậu thiên hợp thập, phu pháp chi pháp giã.
"Sích xà nhiễu ân, bội kim chương,
Cấn, Hợi nhị long, thực kham tài ( nên làm)"

Tỵ thủy phá cục


"Phá cục thổ huyệt dữ lao tễ;
Thiếu niên đa tổn, kiến xà tai ( nạn rắn cắn)
Dậu long, Tỵ thủy, hoặc phong xạ ( gió bắn vào)
Sát thân táng giã, hình ngục mai ( chồn)"

Nhận xét: Bát sát phương, chẳng những sợ một thủy lộ, còn sợ cả khuyết hãm không
khoáng, gió thổi vào huyệt nữa.
"Sửu long, Tỵ thủy, đa sát mậu ( bị giết)
Lý hiệp kim kê, phạ xà hại.
Tỵ hướng, Tốn thủy đa lãnh thoái ( suy bại)
Tốn hướng, Tỵ thủy, nhập khẩu tai ( họa ở miệng)
Sơn hướng khắc thủy, họa khinh hoãn ( nhẹ, chậm)
Thủy khắc hướng, trọng họa tốc lai ( họa đến mau)
Tốn, Tỵ song lưu, thủy khắc thủy
Hà năng nhất thước ( gáo) cứu bần tai ( vậy thay)!
Canh thân, Ất, Mão, đồng Tân, Dậu
Cấn, Dần, Nhâm, Hợi nhất lệ bài ( một thể lệ cả)"
Nói về lý sát, mọi cái, tức là Đoài, Tốn chẳng nên thấy nhau. Ở trên đây là 6 cái nước
thường thường là phạm bát sát vậy đem cái thủy pháp chân quyết, hợp với địa bàn,
ra đây, để cứu cho người si manh.
Tỵ, Hợi đều thuộc về phương Trường sinh,Tỵ là địa hộ ( cửa ngõ của đất) rất nên mở.
Tốn thuộc Tỵ, Tỵ thuộc Tốn, nên nói như vậy.
"Âm long thủy khẩu, tỵ oa tắc ( tắc là bị lấp)
Phụ nhân bất dựng tuyệt anh hài!"

397
Nghĩa là: Âm long thủy khẩu, mà bị cái sa ở Tỵ phương lấp kín thì đàn bà không có
thai, bị tuyệt thai ( trẻ còn nhỏ chưa thành người, gọi là Anh hài)
"Dương long Tỵ khẩu, viên đốn khởi,
Tuy nhiên hài dựng, giã trụy thai."

Nghĩa là: Dương long, mà thủy khẩu ở phương Tỵ, lại có gò tròn khởi lên ở đấy, thì
tuy rằng có thai (  có bầu) nhưng bị sẩy ( rớt mất) tức là đẻ non.

Sửu thủy hợp cục:


"Sửu thủy hợp cục, vượng điền trang,
Sản tức ngưu, dương, mục mãn đường.
Xuất nhân sùng tín âm cầu Phật, 
Mão long, Sửu thủy, trấn triều cương.
Cấn long, văn, võ, song mư, sĩ.
Bính, Canh nhị long phát văn chương,
Đoài long nhược kiến, Sửu thủy nhập.
Khoa mục thanh danh, đương thế dương
Mùi long, Sửu thủy tín Phật đạo,
Sửu long, Mùi thủy phát ngưu, dương" ( nhiều trâu, tức là giàu có)

Sửu thủy phá cục:


"Sửu thủy phá cục đa yểu triết ( chết non)
Quan ( góa vợ), Quả ( góa chồng), tăng, ni, đạo, bất lư
Thìn, Tuất nhị long, Sửu thủy nhập
Phiên quan, phúc quách, nhân tao ương ( gặp họa)
Hoành nghịch, ác tử ( chết khổ) da lại tật
Sát mậu, công sự, họa phi thường ( họa to)
Tốn hướng Sửu thủy, nhập chủng, trạch ( mộ, nhà ở).
Nghiệt ( ác) đồng Tỵ, Dậu hung nan dương
Tứ mộ ( mộ khố) Ngư đại ( túi cá) phi vi cát
Lộ tử giang thi ( chết xiềng thây) khốc nhất trừ
Kiền, Khôn nhị long, kiến thử xử ( chỗ Sửu phương)
Tiêm đao ( đao nhọn) Sa xuất, đồ khoái lang.
Thủy pháp ca biên: trấp tứ hướng ( 24 hướng)
Bát can, tứ duy ( Kiền, Khôn, Cấn, Tốn) thập nhị
Thôi quan hữu chí ( phép hay) vô ca quyết.
Hữu chí, vô ca, cố biến chí."

Quyết vân:
"Cát tinh thất vị ( mất ngôi) giã sinh họa,
Hung tinh đắc vị ( được ngôi) hữu cát thần
Kỳ trung cánh luận tiêu sa pháp
Cao, đê, trung đẳng, phân tam tứ.
Sa cao phước hậu, đê lực bạc.
Viễn sa tuy hảo, phát đa trì ( chậm, lâu)
Học giả thử ca ( bài ca này) năng thục độc
Chân quyết ngộ lai ( nhớ lại) như diện sư."

Giải nghĩa: Phép xem về nước tốt, nước xấu, ở trong vị, đặt ra thi ca, để cho dễ đọc,
dễ nhớ.
- Bát can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Quý, và thêm tứ duy: Kiền, Khôn, Cấn,
Tốn, gọi là 12 vị thiên can, hợp với 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ,

398
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, cộng là 24 phương vị, gọi là Nhị thập tứ sơn, hay là Nhị
thập tứ hướng, vẫn là một ý.
- Cách Thôi quan thì có và tất hay. Nhưng không có bài ca.
- Vì không có bài ca, nên phải kể biên ra những cách gọi là Thôi quan, để cho biết.
- Cát tinh mà không hợp chỗ, cũng sinh tai họa.
- Hung tinh mà gặp chỗ hợp của hung tinh thì cũng phát phước.
- Những câu ca, ở trong đó là luận về phép tiêu sa.
- Phân ra ba bậc là cao, đê, trung bình – Sa cao thì phước lực đầy – Sa thấp thì lực
lượng mỏng.
- Sa ở ngoài xa, tuy tốt, nhưng chậm phát phước
- Học giả nên đọc kỹ những bài ca ấy.
- Nhớ lấy những cách hay, cách dở, ở trong chân quuyết biên trên, tức là như thấy
chỉ dẫn ở trước mặt.
Xét xem Thủy pháp kể trên 24 cách hợp cục – 24 cách phá cục, cộng thành 48 ( bốn
mươi tám) cách cục, cục tức là hướng.

Tóm lại: Đều theo thủy lộ mà lập hướng, thủy là âm triều vào, thì lập huyệt âm
( âm hướng); thủy là đương triều, thì lập Dương hướng, là hợp cục. Nếu Dương Thủy,
mà lập âm hướng, hoặ âm thủy mà lập dương hướng, cũng đều là phá cục cả.
Tóm lại là: lấy tịnh âm, tịnh dương làm chủ yếu, phép này là chí lý lắm.
Phép này nói ở chỗ thủy, lại nói đến long, nói ở chỗ long, lại nói đến sa, nói ở chỗ sa,
lại nói đến hướng. Nếu ở chỗ long ấy, mà lại có tinh phong cao, rộng, tốt đẹp, uốn
cong ôm lại, thì rất là kỳ quý. Lại nói: Âm long lai phá dương thủy, dương long lai
phá âm thủy, nhưng hành long khuất khúc, tiết âm, tiết dương thì lẽ nào có tịnh âm,
tịnh dương. Tức là lấy một tiết ở chỗ đáo đầu kết huyệt ấy, mà là âm vị long, thì gọi
là âm long, là dương vị, thì gọi là dương long.
Tuy nói là long, nhưng thực ra, là nói hướng, lấy hướng làm long vậy, vì có chỗ
không nhận rõ long nhập huyệt, chỉ lấy tọa sơn mà định là cục, thì chỉ lấy hướng
thôi, hướng tức là long đó.
Nói Dương long phá Âm thủy; Âm long phá dương thủy, nhưng không phải là long,
chính là hướng, vậy lấy thủy là Âm triều, thì lập âm hướng, thủy là dương triều, thì
lập dương thủy là đích.
Đại ý nhứ Tý sơn, Ngọ hướng, Thân thủy lai, Thìn phương khứ, với tọa sơn: Thân Tý
Thìn tam hợp, há chẳng phải là dương triều dương hướng thì sao.
Lại cũng có sát thủy, khắc long, hướng, nếu lập hướng được phải phép, thì cũng có
thể tiêu đi được nhẹ.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Trâm quyết


Việt Hải

Trâm quyết

Chính trâm thì chiếu xem thừa khí, lập hướng lấy hướng để tiêu thủy.
Trung trâm thì dùng để tiêu sa, tất là lấy tọa độ là khuôn phép không thể  di dịch.

399
 
Tức là Dương Công, Lại Công là 2 vị Cổ tiên, nếu tái sinh cũng chẳng hay bỏ cách
này, mà lập một cách khác được cái ấy thì cát, trái với cái ấy thì hung. Địa lý chỉ có
một đạo thôi, không có hai. Học giả thụ nghiệp đạo này, thì nên tin sách khác.
Thường hay có cái thuyết bí thuật, mà hoang mang làm thay đổi lý phải đi.
Hướng có thể kiêm, những cái kiêm mà có ích lợi, lộ cũng có thể song lai ( 2 phương
liền nhau cùng chảy lại như long nhập thủ một đoạn, cũng có thể 2 phương đi liền
như là dưới đây:
"Tuất Kiền, Nhâm Tý, Tý Quý kiêm
Sửu Cấn, Dần Giáp, Ất Thìn tiên
Tỵ Bính, Đinh Mùi, Khôn Thân hợp
Canh Dậu, nguyên lai thị Hậu thiên"
Hướng không nên kiêm, vì kiêm không lợi. Vậy thủy cũng có thể  song lai, tức như
long nhập thủ cũng có song lạc. như dưới đây:
"Bính Ngọ, Ngọ Đinh: Song sát diệu
Mùi Khôn, Thân Canh: loạn như ma!
Dậu Tân, phương thượng bất nghi động
Tân Tuất, Kiền Hợi, Hợi Nhâm gia 
Quý Sửu, Cấn Dần hưu tương phạm
Giáp Mão, Mão Ất, mặc phùng tha ( chớ gặp nó)
Thìn Tốn, Tốn Tỵ giai tu kỵ
Thử thị Giáp ( Giáp gần nhau) sát, định vô sai."
Những cái vừa kể trên, đều không nên kiêm hướng, hoặc long, và thủy lai cũng thế
cả. Nếu phạm thì chỉ có một con thôi. Nếu hai ba con, thì thụ tai ương. Đấy là: “ Ám
trung thụ hại” mà không biết. Vậy nên rõ ra đây để cứu người đời.
Nếu bên tả phạm vào, thì các con thứ bị hại. Bên hữu phạm vào thì ngành con
trưởng bị hại. Vậy phải cẩn thận.
( Súc độ) doanh độ, hợp nhân bàn ( tức trung bàn)
Phân trâm, tiêu sa tối tường minh, ở trong đó lại có cứu tinh bàn, để biện thổ sắc tìm
huyệt tinh, ở chỗ giáp thấy sắc đất đỏ, tía, thì huyệt cũng đỏ tía ( Tử là tía) ( Hồng là
đỏ, hoàng là vàng) tức là Liêm trinh, Cự môn thể.

Chế sát pháp


Giả như: Mão long kết huyệt, Thân thủy lai, thì nên lập Dần sơn, Thân hướng, là hóa
sát vi quan, cũng nên xem hai cái thủy ở bên tả và bên hữu có hợp cục hay không
hợp cục, nếu bất hợp cục, thiết kỵ bất khả thiên ( đặt táng)
Tất cả những long và thủy là bát sát, thì đều nên kiêng kỵ. Chỉ có Kiền với Ngọ,
Khảm với Thìn, thì không kỵ thôi, vì Kiền theo Tiên thiên tại nam, Ngọ theo Hậu
thiên cũng tại Nam, tức là Tiên thiên, Hậu thiên tương kiến ( cùng thấy), đều thuộc
Dương cả. Thìn nạp vu Khảm, cùng là quyến thuộc một nhà; Thân Tý Thìn hội thành
thủy cục vậy.
Cứ theo như thế thì Tỵ nạp vào Đoài, cũng là quyến thuộc một nhà, Tỵ Dậu Sửu hội
thành Kim cục, thì lấy cớ gì mà kỵ?
Chép một kinh nghiệm đời xưa như sau:
Họ Thác trường lão nói: Có một ngôi Dương cơ nhà Bần nạp: Ly long nhập thủ, Bính
Ngọ song hành, thấy cứ mỗi kỳ 5 năm, hai lần hồi lộc ( có tài lộc đến). Về sau nhà
Bần nạp được Thìn thủy, cùng Bính Ngọ long nhập thủ, chỗ long nhập thủ, đào một
cái ao nhỏ sâu, phân làm hai đoạn, sâu độ tám thước, rộng độ năm thước, để tiết sát
khí, lại làm một cái môn lầu ( cổng có lầu cao) ở xa nhà độ 48 (bốn mươi tám) bước,
về phương Bắc, lập chính Ngọ sơn, Tý hướng, ngoài cửa lầu lại đào một cái ao nhỏ

400
làm Minh đường, là nước bốn phía chảy vào tụ ở chỗ cao ấy, lấy ý nghĩa: Kim lai sinh
thủy, về sau đinh, tài hưng vượng, tuy không phải là đại phú, nhưng cũng là phong
lưu phú túc chi gia, để làm kinh nghiệm.
Những cái long giáp sát, mà có kiêm một vài phân, thì cũng giảm mất đôi phần
phước lực. Nếu đi đôi mà bằng nhau, thì không nên dùng.

Hữu thi vân ( có bài thơ)


"Canh, Tuất nhị cung danh: Táo hỏa
Giáp, Thìn vị thượng hiệu: Thiên cương
Thủy, Hướng, bất nghi lai hội cục
Định hữu phi thường kiến họa ương."

Nghĩa là: Phương Canh và phương Tuất, hai vị này gọi tên là Táo hỏa, là vị hung
thần,
Giáp và Thìn hai phương này gọi là Thiên cương, cũng là vị Hung tinh.
Thủy ở những phương này, không nên chảy lại. Hướng cũng không nên lập hội với
cục.
Nếu phạm thì quyết định là bị tai họa dữ lắm, không phải là tầm thường.

Nguyên Hà Đồ chi nghĩa


Người đời thường biết giải Hà Đồ mà không biết dùng Hà Đồ, là vì chưa biết Thập
thiên can ( 10) trong Hà Đồ ra sao! Vậy đưa ra đây để chỉ dẫn cho hay.
Thí dụ: Như tọa Quý, hướng Đinh: Đinh là đệ nhị sinh số, nếu Bính phong cao
tủng,thì được thành số. Bính thì sinh ra người Quý, nếu sa không khởi cao, mà có
thủy triều lai thì phát phú càng mau, đó là dụng Hà Đồ thành số vậy.
Sinh số thì: Tọa Nhâm, hướng Bính, đinh phong cao, Đinh thủy triều, thì nhân đinh
vượng và thọ khảo. Phép này đều theo ở lập hướng mà biết tiêu, nạp, thì được hợp
cách hay.
Nêu ra một cái Bính, đinh là hỏa cục, thì cái Giáp Ất là Mộc cục, Nhâm quý là thủy
cục; Canh, Tân là kim cục, đều có thể suy ra được, nếu có trí óc thông minh, thì tiến
đạt nhiều hơn nữa.
Lại Tiên nói: “ Kim ung bản thị Đông Lâm tử, tống dữ Tây lân ký thế sinh”. Nghĩa là:
Kim cung vốn là con của rừng cây, ở phương Đông, đưa cho người hàng xóm bên Tây
mà gửi thân thế sống. Ý nghĩa thật là bí hiểm quá. Bởi thế, mà suy ra thì Quý là
thủy, Nhâm là hỏa, Đinh giáp là Kim, Ất, Bính là Thổ, Canh, Tân là Mộc,cho nên Kiền,
Đoài quy nguyên tại Giáp, Đinh, Khôn, Cấn quy nguyên tại Ất, Bính; Chấn, Tốn quy
nguyên tại Canh, Tân; Khảm quy nguyên tại Quý; Ly quy nguyên tại Nhâm. Những
cái này đều là đơn kiến ( có một vị lẻ) thì cái khí thuộc về nạp giáp, như là Kiến Giáp,
bất kiến Ất; nếu hai cái hội lại với nhau, thì hợp với số sinh thành ở trong Hà Đồ, mà
thành cục, như là Giáp, Ất thủy đều cùng dẫn lại, hoặc Giáp hướng, mà Ất thủy lai;
Ất hướng mà Giáp thủy lai, đều là ở khoảng ấy cả. Thiện dụng ( khéo dùng) thì có
thể ( hóa sát sinh quyền), bất thiện dụng ( không biết phép) thì có thể ( biến quan vi
quỷ) tức như Canh, Tân dưới đây:

Kỳ quyết:
Canh thủy triều, canh phong khởi, tức lập Canh hướng, tại Chấn vi quy nguyên, tại
Tốn vi tương bạc, tại Đoài vi hợp thập, tại Cấn vi thiên tam.
Tân thủy triều, Tân phong khởi, tức lập hướng Tân, tại Tốn vi quy nguyên, tại Chấn
vi tương bạc, tại Kiền vi hợp thập, tại Ly vi địa tứ, câu bất tác kim cục (đều không
làm kim cục)
Hoặc Canh,Tân nhị thủy tề lai ( đều đến). Hoặc Canh phong, Canh hướng, Tân thủy
triều, hoặc Tân phong, Tân hướng, Canh thủy triều, tắc sinh thành hội cục. Long
tòng Khảm cung lai, tức Tử tôn đới Phụ mẫu; Long tòng Ly cung lai, tắc Phụ mẫu đới

401
thê tài, Long tòng Kiền, Đoài lai, tắc huynh đệ đới thê tàilà thượng cục ( là cục tốt
thượng hạng). Long tòng Khôn Cấn lại tắc Quan quỷ đới Tử tôn, thứ chi ( là tốt thứ
hai). Long tòng Chấn, Tốn lai, tắc huynh đệ đới thất sát. Các Chí sĩ đến đây đều vui
thích được bản chủ long sơn tủng bạt ( cao ngất): củng, thủy triều thì phát văn, võ
toàn tài sinh nhân anh nghĩa ( anh hùng) như thế bảo là: Hóa sát sinh quyền. Nếu
bản chủ tủng bạt, sa bảo phản ( là sa phản) thủy dĩ khứ, nước đã nhi hội cục ( mà
hội cục) như mộ tổ nhà Lý lăng.
Tốn long nhập thủ, Tân phong khởi, Tân hướng, tất nhân kiêm Dậu, Canh thủy khứ,
thì thấy võ tướng bị giết. Nếu bản chủ bình bình sa mỹ, thủy triều nhập, thì trước
phát phú quý nhưng về sau cũng bị diệt nhân ( hết người). Như thế bảo là: Biến
quan vi quỷ.
Nếu như: Sơn loan đầu mà được tinh tuấn tú, đường cục hùng kiện, thì đều được cát
lợi. Chỉ vì sơn loan đầu bất cập ( thấp kém) nên biến hung, sẽ suy ra ba cục kia, đại
khái cũng như vậy.
“ Canh, Tân chính thể, thuộc Kim, nạp vu Chấn Tốn, kỵ thể thuộc Mộc, long tòng
Khảm cung lai, là thủy, thủy sinh Mộc thì ký thể của Canh Tân là Mộc, là tử tôn. Kim
sinh thủy, thì cái chính thể của Canh, Tân là Kim, là phụ mẫu, thế là Tử tôn đới Phụ
mẫu”

Hà Đồ tú đại cục
“ Bốn cục đã hợp với đại số của thiên địa sinh thành mà lại cùng với Tiên thiên đối
đãi, phu phụ tương hợp, nếu gặp những đất thuận thủy như thế, thì càng được lâu
dài, cái hay không thể nói xiết được”
- Ất thủy ( Khôn nạp Ất), lại lập Giáp hướng ( Kiền nạp Giáp) – Giáp thủy lai, lập Ất
hướng ( hợp thành mộc cục lại hợp quẻ Thiên địa định vị)
- Bính thủy ( Cấn nạp Bính) lai, lập Đinh hướng ( Đoài nạp Đinh).
- Đinh thủy lai, lập Bính hướng ( hợp thành hỏa cục, lại hợp quẻ Sơn trạch thông khí)
- Canh thủy lai ( Chấn nạp Canh) lập Tân hướng ( Tốn nạp Tân).
- Tân thủy lai, lập Canh hướng ( hợp thành kim cục, lại hợp quẻ phong lôi tương bạc)
- Nhâm thủy lai ( Ly nạp nhâm) lập Quý hướng ( Khảm nạp Quý).
- Quý thủy lai, lập Nhâm hướng ( hợp thành thủy cục, lại hợp quẻ Thủy hỏa bất
tương xạ).

Nguyên lạc thư chi nghĩa

Dương thì ở bốn phương chính, về Tiên thiên thì Kiền,Khôn, Khảm, Ly ở đấy.
Âm thì ở bốn phương ngung ( góc), về Tiên thiên thì Tốn, Chấn, Cấn, Đoài ở đấy. Đó
là định số của Lạc thư. Vậy mà cái thuyết tịnh âm, tịnh dương của Địa lý gia gốc là ở
đó.
Nhưng về Hà Đồ thì số Cửu lại ở Tây, số Thất lại ở Nam, tức là Hà Đồ, Lạc thư đổi vị,
Kim, Hỏa đổi ngôi, là thế nào?
Hà Đồ thì chủ về thuận sinh; Lạc thư thì chủ về nghịch khắc vậy. Nhưng lấy cái lý
hợp thập ( hợp lại thành 10) mà suy xét, thì lại đều là cái số tự nhiên. Ý là số nhất
(1) tại Bắc, thì số Cửu (9) tại Nam, Tam (3) ở Đông, thì Thất (7) ứng tại Tây, dương
tại thời thái cực, sinh lưỡng nghi, thì Kiền tận ( hết) Ngọ trung ( ở giữa Ngọ); Khôn
tận Tý trung; Ly tận Mão trung, Khảm tận Dậu trung, đó là số đã định, vậy nên là
Thiên nhất sinh Khảm thủy, Địa lục Kiền thành chi. Kiền hướng ( giáp đồng) Khảm
thủy lai Khảm phong khởi ( núi cao) ( Quý giáp, thìn đồng). Kiền thủy lai, Kiền phong
khởi ( giáp đồng) là lục lai, hội nhất. Tức là Hà Đồ thiên nhất sinh Nhâm thủy, Địa lục
Quý thành chi, ý nghĩa là như thế.
Thiên tam sinh Chấn mộc, Địa bát Cấn thành chi, Chấn hướng ( Canh, Hợi, Mùi đồng)
Cấn thủy triều, Cấn phong khởi ( Bính đồng) vi Bát lai hội tam ( là 8 lại hợp với 3).

402
Cấn hướng ( Bính đồng) Chấn thủy triều, Chấn phong khởi ( Canh, Hợi, Mùi đồng) vi
tam lai hội bát ( là 3 hợp với 8) tức là Hà Đồ thiên tam sinh giáp Mộc. Địa bát Ất
thành chi, ý nghĩa là như vậy, chỉ có hai cục này là thủy quy thủy viên ( cục). Mộc
hội Mộc viên, lại đều được tịnh âm tịnh dương không bác tạp (hỗn hợp).
Địa nhị sinh Khôn hỏa, Thiên Thất Đoài thành chi, Khôn hướng thì cát, vì là hỏa sinh
thổ. Đoài hướng thì hung, vì cớ là kim sợ hỏa vậy. Với địa nhị sinh Đinh hỏa, Thiên
thất Bính thành chi, thì vị tại nam, mà khí là tịnh âm, khác vậy.
Địa tứ sinh Tốn kim, Thiên cửu Ly thành chi, Ly hướng thì cát, vì cớ là hỏa khắc vi tài
vậy. Tốn hướng thì hung vì cớ là kim khắc mộc, thì sát vậy. Với Địa tứ sinh Tân kim,
Thiên cửu Canh thành chi, thì vị tại Tây, hà khí là tịnh âm, khác vậy. Chỉ có hai cục
là long vượng, cục chu toàn, huyệt đích xác triền chân thực, biết phép tiêu, nạp
khéo, thì phát phước cũng to và lâu bền, bởi là được hợp cái đại số sinh thành vậy.
Nói tóm lại: trước khi chưa hội hợp, thì Kiền tự là Kim, Cấn tự là Thổ, Tốn tự là Mộc,
Ly tự là Hỏa, Khôn tự là Thổ, Đoài tự là Kim. Sau khi đã hội cục, thì Khảm vẫn là
thủy, mà Kiền cũng là thủy. Chấn vẫn là Mộc, mà Tốn cũng là Mộc, Khôn thổ làm
Hỏa, mà Đoài kim cũng là hỏa. “ Bát quái dịch vị” ( đổi ngôi) đều là việc khởi sau,
mà nhất sinh, nhất thành ( một cái sinh, một cái thành) là cái khí lúc mới sinh trước
hết của Tiên thiên. Hai câu nói này ở Nho gia, thì cho là “ Chín lý chi ngôn” ở thuật
gia là “ Thiên kim chi quyết”.

Ngọc xích kinh vân

“ Sinh lai hội Vượng, thông minh chi tử phương sinh” “ Vượng khứ triều sinh, phú quý
chi kỳ sậu chi” ( Nghĩa là: Nước ở phương Trường sinh chảy lại hợp với nước ở
phương Đế vượng thì có con thông minh đang sắp sinh ra; nước ở phương Vượng
chảy đến triều vào, hợp với nước phương sinh, thì cái kỳ hạn giàu sang đến rất mau).
Lại nói: Tham giàu sang, thì bỏ cái thủy ở phương sinh, hướng triều vào thủy ở
phương vượng, muốn cầu con cháu, thì bỏ cái vượng thủy, hướng chầu vào phương
Sinh thủy.
Mấy câu lý luận trên đây Tiên hiền đã nói rõ, để làm cái đặc biệt minh chí cho hậu
thế, nhưng hiền có Âm, dương bác tạp thì nên lấy hướng mà tiêu, nạp, nếu không
biết phép, thì đa “ Trắc thất, tục huyền chí ứng” ( Nghĩa là: phần nhiều hay bị chết
vợ lớn, phải nối tiếp vợ nhỏ). Như Cán long, hoặc Cấn hướng, Khôn, Ất thủy triều,
hoặc hành long kiêm khôn, Ất, thì nên lập dương hướng, nếu lập âm hướng thì hỗn
tạp vậy.
Phương lão sư, xem ngôi đất ở núi Phượng Hoàng ( nước Trung Hoa): Khôn, sơn, Cấn
hướng, Chấn phương nhất trì ( một cái ao), là cấn hướng Chấn thủy triều; tam lai hội
bát, cố “ sinh lai hội Vượng, thông minh chi tử phương sinh”. Tiếc rằng: cái ao ở
phương Chấn, lại kiêm Ất ba phân, ( Khôn nạp Ất) vi Cấn hướng Hậu thiên chi phu
phụ, mới chỉ vào đấy mà bảo: “ Nan tự tục giả” (khó có con nối dòng), là hiếm ứng
vào phu phưở Hậu thiên, Vậy kinh nghiệm như thần.
Xem như thế, thì cái số Sinh thành, cái lý hợp thập, cũng đều nên biết.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

403
BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 41

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 19:05 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Lạc thư tử đại cục


Việt Hải

Lạc thư tử đại cục

Khảm, Quý, Thân, Thìn, thủy lai, lập Kiền, Giáp hướng, Kiền, Giáp, thủy lai, lập khảm, Quý,
Thân, Thìn hướng, hợp thành Thủy cục.

Chấn, Canh, Hợi, Mùi, thủy lai, lập Cấn, Bính hướng, Cấn, Bính thủy lai, lập Chấn,
Canh Hợi, Mùi hướng, hợp thành Mộc cục.
Trên đây là hai cục Thủy quy thủy viên, Mộc quy Mộc viên là “ Thuần thúy vô tì, vi tối
cát”.
Khôn, Ất thủy lai, lập Đoài, Đinh, Tỵ Sửu hướng. Đoài, Đinh, Tỵ sửu thủy lai, lập
khôn, Ất hướng, hợp thành Hỏa cục.
Tốn, Tân thủy lai, lập Ly, Nhâm, Dần, Tuất hướng, Ly, Nhâm, Dần, Tuất thủy lai, lập
Tốn, Tân hướng, hợp thành Kim cục.
Hai cục này là: “ Hỏa nhập Kim hương” ( Lửa vào chỗ loài kim), “ Kim thừa hỏa vị”
( là loại kim liền với đống lửa). nếu Âm, Dương phá cục, địa lực lại bạc nhược, thì
phát một chút lại suy ngay. Nếu long mạch, lớn mạnh thì vượng, so sánh với thủy,
Mộc 2 cục, thì 2 cục này lại là trọng và tốc phát hơn, và lâu bền hơn.

Hậu thiên hợp thập tứ đại cục

Tam thất hợp thập:


Tọa hướng Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, kiến Canh, Chấn, Hợi, Mùi thủy lai.
Tọa hướng Canh, Chấn, Hợi, Mùi, kiến Đoài, Dinh, Tỵ, Sửu thủy lai.

Cửu thất hợp thập:


Tọa hướng Khảm, Quý, Thân, Thìn, kiến Ly, Nhâm, Dần, Tuất thủy lai.
Tọa hướng Ly, Nhâm, Dần, Tuất, kiến Khảm, Quý, Thân, Thìn thủy lai.
Thử nhị cục: thuần thúy vô tỳ ( không có vết gì cả)

Nhị bát hợp thập:


Tọa hướng Khôn, Ất, kiến Cấn bính Thủy.
Tọa hướng Cấn, Bính, kiến Khôn, Ất thủy.
Khôn, Ất Bính thủy, tu ( nên) Bính Tam, Ngọ Tuất. Ất hướng, Cấn thủy, tu Cấn tam,
Dần thất, kiêm hợp Phụ tinh quái là Tham lang thủy.
Cấn hướng, Ất thủy, tu Ất tam, Mão tuất; Bính hướng khôn thủy, tu Khôn tam, Mùi
thất, hợp Lạc thư Thiên tam sinh số là thủy.

Tứ lục hợp thập:


Tọa hướng Kiền, Giáp, kiến Tốn, Tân thủy.
Tọa hướng Tốn, Tân, kiến Kiền Giáp thủy.

404
Kiền hướng, Tân thủy, tu đới Tuất, kiêm hợp Hậu thiên chi thủy; Giáp hướng, Tốn
thủy, tu đới Thìn, kiêm hợp Phụ tinh quái. Tham lang thủy; Tốn hướng, Giáp thủy, tu
đới Mão, Tân hướng, Kiền thủy, tu đới Hợi, kiêm hợp Phong lôi tương bạc cách.
Đấy là hai cục âm, dương bác tạp, chỉ có khéo lập hướng, khéo nạp thủy, thì mới tốt,
phép này hay phát về con của vợ kế tiếp sau, là vì lấy lý Hậu thiên là phu phụ vậy.

Tiên hậu thiên tương kiến


Tiên thiên bát quái là Địa lý chi thể.
Hậu thiên Bát quái là Địa lý chi dụng.
Từ xưa thánh hiền tương truyền: “ Hữu thể bất khả vô dụng, Hữu dụng, phương
nặng minh thể” nghĩa là: có cái thể thì chẳng nên không dùng, tức là nên dùng, có
dùng, thì mới biết là cái hay của thể. Long thân bác hoán, hướng thủ chuyển đi, thủy
pháp lai khứ, sa vị triều củng, tóm lại là không ngoài cái thể và cái dụng, chẳng qua
ở chỗ cùng thấy cùng hỗ trợ nhau thôi. Thế cho nên: Một phương Kiền, mà Tiên
thiên, thì ở chính nam hậu thiên lại cư Tây Bắc. Ly tức Tiên thiên chi Kiền, Cấn tức là
Hậu thiên chi Kiền đó là không phải Kiền, mà lại là Kiền, tức: Cấn, Bính, Nhâm, Dần,
Tuất đều là Kiền vậy…
Một phương Khôn, mà Tiên thiên thì cư Bắc ( khảm vị Hậu thiên). Hậu thiên lại cư
tây nam ( Tốn vị của Tiên thiên). Vậy Khảm tức là Khôn của Tiên thiên, Tốn tức là
Khôn của Hậu thiên, thế thì chẳng một Ất, Khôn, làm Khôn; tức là Khảm, Quý Thân,
Thìn Tốn, Tân, đều là Khôn vậy. Nhị Thiên ( 2 thiên) tương kiến, là như thế đấy. Sẽ
suy ra lục quái ( 6 quẻ) khác.Bởi vậy: Thôi quan thiên nói: Đệ nhất là thiên hoàng
long sơn bác hoán, chuyển đến Thiên thị phương, Thiên hoàng là Hợi, Thiên thị là
Cấn. Hợi tức là Chấn; Chấn chuyển Cấn là Hậu thiên nhập Tiên thiên. Trong kinh
Ngọc xích truyền rằng: “ Kiền sơn, Kiền hướng, Thủy lưu Kiền, Kiền thượng cao
phong xuất trạng nguyên”. Chính là nói: Kiền long, Ngọ hướng Dần, Giáp thủy lai,
Tuất khứ, Cấn, Nhâm, Bính phương phong khởi vi Tiên, Hậu, nhị thiên tương kiến,
tức quyến thuộc nhất gia.
Kiền cung: Tọa hướng Kiền, Giáp, kiến Ly, Nhâm, Dần, Tuất, cập Cấn, Bính sa, thủy.
Long, huyệt, sa, thủy, hướng, đều ở trong những phương vị ấy, thế là bảo. Hoa Mai,
Trúc, giáp liền nhau, nói gồm cả huyệt, tọa pháp, chẳng câu nệ gì, cho nên trong
thiên, không nói đến chữ huyệt vậy. Có tham khảo bác lãm, thì mới rõ đạo lý cao
siêu bí hiểm.
Khảm cung: Tọa hướng Khảm, Quý, Thân, Thìn, Kiến, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu cập Khôn,
Ất sa, thủy.
Cấn cung: Tọa, hướng Cấn, kiến Kiền, Giáp cập Chấn, Canh, Hợi, Mùi sa, Thủy.
Chấn cung: Tọa hướng Chấn, Canh, Hợi, Mùi, kiến Cấn, Bính, Ly, Nhâm, Dần, Tuất
sa, thủy.
Tốn cung: Tọa, hướng Tốn, Tân, kiến Khôn, Ất cập Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu sa, thủy.
Ly cung: Tọa, hướng Ly, Nhâm, Dần, Tuất, kiến Kiền, Giáp và Chấn, Canh, Hợi, Mùi
sa, thủy.
Khôn cung: Tọa, hướng Khôn, Ất, thấy Khảm, Quý, Thìn và Tốn, Tân sa, thủy.
Đoài cung: Tọa, hướng Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, thấy Tân và Khảm, Quý, Thân, Thìn sa,
thủy.
Nghĩa chữ Tiên, Hậu nhất gia, là hợp cả Long, Hướng Sa, thủy mà nói vậy. Những
đất nào mà gặp có cách ấy, thì quyết định sinh sản ra những người ở bậc Thai, Tọa
Đại Thần đời đời khoa giáp. Nhưng Thủy nên hợp hướng, không nên phức tạp, mà sa
pháp nên khẩu truyền tâm thụ, thì mới được là chân chính tường tận. Nếu không thì
hồ đồ lấy Tốn làm Thìn, lấy Mùi làm Đinh. Phần nhiều là như vậy, nên không thấy
hiệu ngay, xem cục địa thì đẹp, mà không phát phước, lại sinh họa. Là bị thủy hướng
sai, phương vị lẫn lộn.
- Sa pháp thì theo trung – chân làm đích.
Lấy phương vị của Hậu thiên, dụng lý khí của Tiên thiên đã định:

405
Kiền, Giáp long, hoặc Kiền, Giáp hướng, thấy Khôn, thủy.
Khôn, Ất long, hoặc Khôn, Ất hướng, thấy Kiền, Giáp thủy ( là hợp “ Thiên địa định vị
cách”)
Chấn, Canh, Hợi, Mùi long, hoặc hướng, thấy Tốn, Tân thủy.
Tốn, Tân long, hoặc hướng, thấy Chấn, Canh, Hợi,           ( là hợp “ phong lôi tương
bạc cách”).
Khảm, Quý, Thân, Thìn long, hoặc hướng, thấy Ly, Dần, Tuất thủy.
Ly, Nhâm, Dần, Tuất long, hoặc hướng, thấy Khảm, Quý, Thân, Thìn thủy (là “ thủy
hỏa bất tương xạ cách”).
Cấn, Bính long, hoặc hướng, thấy Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu thủy.
Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu long, hoặc hướng, thấy Cấn, Bính thủy ( là hợp Sơn trạch thông
khí”)
Trên vừa kể đây, là bốn cái Đại cục, thủy lai phối long, phước lực tối trọng, đó là cái
cục Thiên tạo, Địa thiết vậy. Thủy lai phối hướng, phước diệt bất khinh. Như thấy Ất
thủy có thể lập Kiền hướng, tức nên lập, thu đấy, cái khác đại loại như vậy.

Thập nhị vị quý nhân


Ứng các phòng phận

Mười hai vị, đều tới chỗ long đáo đầu, lấy một đoạn (tiết) mà khởi trường sinh, để
định từng phòng phận, lấy bát sơn nạp Giáp định: Phụ mẫu, Tài, Quan, Huynh đệ mà
tham đoán, phép này sẽ có hiệu nghiệm vậy.
Thủy thổ thì trường sinh tại Thân.
Kim thì Trường sinh tại Tỵ.
Mộc thì trường sinh tại Hợi
Hỏa thì trường sinh tại Dần.
- Trường sinh là Thiếu phụ.         - Mộc dục là Trung phụ
- Quan đới là Trưởng phụ            - Lâm quan là Trưởng nam
- Đế vượng là trung nam             - Suy tinh là thiếu nam
- Bệnh thần là Quý tế                 - Tử thần là Trung tế
- Mộ thấn là Trưởng tế               - Tuyệt thần là Trưởng nữ
- Thai thấn là Trung nữ               - Dưỡng thần là thiếu nữ.
Trên đây là 12 vị Quý nhân thuộc các phòng phận, tùy ở phương vị nào, ứng vào địa
phận của phòng nào, thì đoán về ngành ấy.
Giả như: Ở phương thấy Sơn bình, thủy tĩnh, thì xem phương ấy thuộc phương vị gì?
Thuộc về phòng nào? Thì đoán người ở ngành ấy, tuổi, mệnh những người cùng với
phương vị ấy, hoặc đến năm ấy, thì sinh người, hoặc phát phú quý, sơn thì phát quý,
thủy thì phát phú, cứ theo ứng đâu thì nghiệm đấy.
Nếu ở phương ấy mà sơn phi, thủy tẩu, thì tất nhiên không có người thuộc về
phương vị ấy. Ví dầu có hỏi đến người thuộc về phòng ấy, tuổi, mệnh cùng với
phương vị ấy, mà mộ mới táng, và người ấy vẫn còn ở, thì đoán là sẽ chết về những
ngày, tháng, năm ấy, hoặc đối chiếu xung, hợp, với phương vị ấy. Hoặc vị ở cung ấy,
mà tuổi mệnh ở cung khác, thì đoán là đã ly hương nghèo khổ.
Hoặc ở gần mộ, mà phương ấy không có sơn sa bị khoáng khuyết, ở xa lại có sơn sa
tốt đẹp, thì tất là có người phú quý, nhưng chìm đắm ở tha phương. Cứ lấy phụ tinh
thập can, hóa diệu, bát sơn nạp giáp mà đoán, thì trăm ngàn cái không sai mất một.

Bát sơn hạp giáp


Long phận nội ngoại
1 – Kiền 
Nội:  Giáp Tý là Tử tôn, Giáp Dần là Thê tài, Giáp Thìn là Phụ mẫu.
Ngoại: Nhâm ngọ là Quan quỷ, Nhâm thân là Huynh đệ, Nhâm Tuất là phụ mẫu.

406
2 – Khảm:
Nội: Mậu Dần là Tử tôn, Mậu Thìn là Quan quỷ, Mậu Ngọ là Thê tài.
Ngoại: Mậu Thân là Phụ mẫu, Mậu tuất là Quan quỷ, Mậu Tỳ là Huynh đệ.

3 – Cấn:
Nội: Bính thìn là Huynh đệ, Bính ngọ là Phụ mẫu, Bính Thân là Tử tôn.
Ngoại: Bính Tuất là Huynh đệ, Bính Tý là Thê tài, Bính Dần là Quan quỷ.

4 – Chấn:
Nội:  Canh Tý là Phụ Mẫu, Canh Dần là Huynh đệ, Canh Thìn là Thê tài.
Ngoại:  Canh ngọ là Tử tôn, Canh thân là Quan quỷ, Canh Tuất là Thê tài.

5 – Tốn:
Nội:  Tân sửu là Thê tài, Tân hợi là Phụ mẫu, Tân dậu là Quan quỷ.
Ngoại: Tân mùi là Thê tài, Tân hợi là Tân tỵ là Tử tôn, Tân Mão là Huynh đệ.

6 – Ly:
Nội: Kỷ Mão là Phụ mẫu, Kỷ Sửu là Tử tôn, Kỷ Hợi là Quan quỷ.
Ngoại: Kỷ Dậu là Thê tài, Kỷ Mùi là Tử tôn, Kỷ Tỵ là Huynh đệ.

7 – Khôn:
Nội: Ất Mùi là Huynh đệ, Ất Tỵ là Phụ mẫu, Ất mão là Quan quỷ.
Ngoại: Quý Sửu là Huynh đệ, Quý Hợi là Thê tài, Quý Dậu là Tử tôn.

8 – Đoài:
Nội:  Đinh Tỵ là Quan quỷ, Đinh Mão là Thê tài, Đinh Sửu là Phụ mẫu.
Ngoại:  Đinh Hợi là Tử tôn, Đinh Dậu là Huynh đệ, Đinh mùi là Phụ mẫu.

Quyết vận: Nội quản sa, ngoại quản thủy, Sơn chủ quý, thủy chủ phú, sơn triều,
thủy tụ kiêm vinh ( gồm cả vinh hiển) sơn tĩnh, thủy bình, trung mỹ ( tốt hạng trung
bình). Tuế vị sơn phi, thủy phá, tùy ngũ cung, nhi họa bại gia lâm.
Giả như: Chính tuế ( chính tuổi mệnh tại nội, gặp phương vị khuyết hãm (không có
sơn sa), lại ở vào cung Phụ mẫu, thì quyết là bị Đại tang, tức là bố mẹ chết. Cái khác
cũng cứ thế mà suy ra.
"Chính mệnh thủy phóng, sơn xung
Tòng bản phận nhi tại ương định vị
Dục quan hưu cửu nhất đoàn
Vưu thả tham tẩm thập nhị."
Nghĩa là: ở phương chính tuổi Mệnh của người nào, mà thủy phóng phá, chảy đi, sơn
xung xạ vào, thì cứ theo phận vị phòng đó mà định đoán tai ương của người thuộc về
phòng ấy.
Muốn xem thịnh, suy của tất cả một đoàn phòng, thuộc về ngôi mộ ấy, thì phải tham
khảo cả 12 cung, mà tìm 12 vị…
Giả như: Thủy, Thổ long, thì Trưởng nam quý phận tại Hợi, mà Hợi sơn không
khuyết, lại xem ở phương nạp Giáp như Tốn cung, thì tân Hợi là Phụ mẫu, Ly cung
thì Kỷ Hợi là Quan quỷ, Không cung, Quý hợi là Thê tài, Đoài cung, Đinh Hợi là Tử
tôn, cũng sơn không, thủy khuyết, thì quyết đoán là tai họa tới.
Lại như kim long, thì Trưởng tử quý phận tại Thân, mà Thân sơn khuyết, chính là
Thân vị, thì lại xem Kiền cung, Nhâm Thân là Huynh đệ, Khảm cung Mậu Thân là Phụ
mẫu, ở phương ấy, cũng sơn khuyết thì đoán là tang của anh em, ở Nhâm thân, ở
Mậu thân, thì thụ tang bố mẹ chết. Nếu cung nạp giáp mà có sơn, thủy hữu tình và
Thập nhị vị quý nhân cũng hữu tình, thì lấy chính tuổi của người ấy, hoặc lâm Phụ

407
mẫu, thì đoán là Phụ mẫu được công danh, Lâm vào Thê tài thì đoán là Nhân vì vợ
mà được của; lâm vào quan quỷ, thì đoán là người tuổi mệnh ấy, được giàu sang, cái
khác cũng như đây mà suy đoán.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Thế đại phận thuộc Cát - Hung
Việt Hải

Thế đại phận thuộc Cát - Hung

- Minh Đường nhất đại, phân bình trắc.


( Nhất đại thuộc về Tiểu minh đường ở gần mộ, cân bằng thì cát, nghiêng lệch thì hung)

 
- Nhị đại, huyệt trung định giả, chân.
( Huyệt chân thì cát, huyệt giả thì hung, hai đời thuộc về chính ngôi mộ ấy)
- Tam đại, loan đầu hung, cát biện
( ba đời thì thuộc về sơn loan đầu, ôm ở sau đầu, lấy 5 sao cát 4 sao hung mà đoán)
Mạch cư tứ đại, định trọc thanh
( Tứ đại là 4 đời, thì xem ở chỗ loan đầu hậu, là chỗ khí thắt nhỏ lại, ở sau sơn loan
đầu, thanh thì quý, thô trọc thì bình thường)
Long sơn ở sau huyệt, tiết thứ hai thì đoán về Ngũ đại tiết thứ 3, thì thuộc về Lục đại
( đời thứ 6), trên tiết thứ 3, thì đoán vế thất đại ( đời thứ 7). Bát đại, đời thứ 8, thì
đoán ở tiết sau tiết thứ 3, Cửu đại, đời thứ 9, thì thuộc về tiết thứ 4, Thập đại, thì
thuộc về đằng sau tiết thứ 4. Cứ thế mà đoán đi, nếu long sơn dài thì dài đời, theo lùi
trở về Tổ sơn mà đoán.

Nạp giáp
Kiền nạp Giáp, thuộc Kim. Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu sơn, kỵ ngày Giáp, ngày Thìn càng
phải kỵ hơn.
Cấn nạp Bính thuộc Thổ. Tốn, Tân sơn, kỵ dùng ngày Bính, Bính ngọ lại càng kỵ hơn.
Khôn nạp Ất, thuộc Thổ, Cấn, Bính, thuộc thổ sơn, kỵ dùng ngày Ất, Ất mão lại càng
kỵ hơn.
Tốn nạp Tân, thuộc mộc, vậy Kiền, Giáp sơn, kỵ dùng ngày Tân, ngày Tân Sửu lại
càng kỵ hơn.
Chấn nạp Canh, Hợi, Mùi thuộc mộc, vậy Kiền Ất sơn, kỵ dùng ngày Canh, ngày
Canh Tý lại càng kỵ hơn.
Đoài nạp Đinh, Tỵ Sửu thuộc Kim, có Mão, Canh, Hợi sơn, kỵ dùng Đinh nhật, Đinh
mão càng kỵ.

408
Ly nạp Nhâm, Dần, Tuất thuộc Hỏa, nên kỵ ngày Kỷ.
Khảm nạp Quý, Thân, Thìn thuộc thủy, nên kỵ ngày Mậu.

Bát sát
Khảm sơn kỵ Mậu thìn, Mậu tuất.
Khôn sơn  kỵ Ất Mão
Chấn sơn kỵ Canh thân
Tốn sơn kỵ Tân mão
Kiền sơn kỵ Nhâm ngọ
Đoài sơn kỵ Đinh tỵ
Cấn sơn kỵ Bính Dần
Ly sơn kỵ Kỷ hợi
Tất cả năm, tháng kỵ, ngày, giờ càng kỵ hơn nữa.

Bát quái phi hào


CỔ TIÊN VÂN: Quái hào phi xuất, thị sinh long, phú quý vĩnh vô cùng, HỰU VÂN:
Xuất quái vô quan chức.
KIỀN vi Thiên, Thiên phong Cấu, Thiên Sơn Độn, Thiên Địa Bì.
Phong Địa Quan, Sơn Địa Bác, Hỏa địa Tấn, Hỏa thiên đại hữu. Kiền quái vi xuất Cấn,
Tốn, Khôn, cập Ly. Cố ( cho nên) Kiền cung oanh địa ( phận mộ) hoạch phước giả là:
Giáp, Nhâm và Ất, quý, niên, mệnh ( Năm, tuổi người) là Đệ Nhất, Tân, Bính là tứ
nhì, Kỷ, Nhâm, thì lực khinh bạc.
KHÔN vi Địa, Địa Lôi Phục, Địa Trạch Lâm, Địa Thiên thái, Lôi Thiên Đại Tráng, Trạch
Thiên Quyết, Thủy thiên nhu, Thủy địa tỷ.
Ất, Quý, và Giáp, Nhâm niên, mệnh, vi đệ nhất, Canh, Đinh thứ nhì.
CHẤN vi Lôi, Lôi Địa Dự, Lôi thủy giải, Lôi Phong Hằng, Địa phong Thăng, Thủy
phong Tĩnh, Trạch phong Đại quá, Trạch lôi Tùy.
Tân (can ) và Canh, niên, Mệnh vi đệ nhất, Ất, Quý, Mậu, thứ nhì, Đinh thì bình
thường.
TỐN VI PHONG, Phong Thiên tiểu Súc, Phong Hỏa gia nhân, Phong lôi ích, Thiên lôi
vô vọng, Hỏa lôi Phệ nạp, Sơn lôi Di, Sơn Phong Cổ.
Tân can và Canh can, niên, mệnh tốt nhất, giáp, Nhâm, Kỷ, tốt thứ nhì, Bính thì lực
khinh.
KHẢM vi THỦY, Thủy trạch Tiết, Thủy lôi Chuân, Thủy Hỏa ký tế, trạch hỏa cách, lôi
hỏa phong, Địa hỏa Minh di Địa Thủy sư.
Quý, Mậu và Nhâm, Kỷ, niên, mệnh, tốt thứ nhất, Đinh canh thứ nhì.
LY VI HỎA, Hỏa sơn lữ, Hỏa phong Đính, Thủy hỏa ký tế, Sơn Thủy Mông, Phong
Thủy Hoán, Thiên thủy Tụng, Thiên Hỏa Đồng nhân.
Nhâm, Kỷ và Quý, Mậu, ( niên, Mệnh) tốt thứ nhất, Bính, Tân, tốt thứ nhì, Giáp thì
lực khinh.
CẤN VI SƠN, Sơn hỏa bí, Sơn thiên đại súc, Sơn trạch tôn, Hỏa trạch Khúc, Thiên
trạch lý, Phong trạch trung phu, Phong sơn Tiệm.
Cấn sơn oanh địa hoạch phước giả, thì Bính và Đinh, là thứ nhất, Kỷ, Nhâm, Giáp, tốt
thứ nhì, Tân thì lực khinh, chỉ bình thường thôi.
ĐOÀI VI TRẠCH, trạch Thủy khốn, Trạch địa Tụy, Trạch hàn, Thủy sơn Kiên, Địa Sơn
Khiêm, Lôi sơn Tiểu quá, Lôi trạch Quy Muội.
Đinh và Bính ( niên mệnh), tớt thứ nhất, Mậu, Quý, Ất, tốt thứ nhì và Canh thì bình
thường.
Trên đây là mỗi quái có lục hào ( 6 hào) khởi biết từ dưới lên. Do sơ hào ở trên, đến
nhị hào, đến Tam hào, đến Tứ Hào, đến Ngũ hào, Lục hào thì không biến, trở xuống
biến hào, là du hồn quái, lại trở xuống đem nội quái nhất từ tận quay về bản quái, là
Qui hồn quái. Đấy là Bốc dịch ( Bói để xem phép phi phục vậy). ĐỊA LÝ dụng để xem

409
TẢ, HỮU, TIỀN, HẬU, SA, SINH, VƯỢNG, mà đoán phát phước về tuổi, mệnh, người
nào hưởng v.v… Lấy một đoạn long nhập thủ làm bản quái.

Hoàng bạch nhị khí thuyết


Ở trái đất chỉ có hai loại khí là:
 Hoàng khí ( khí sắc vàng)
 Bạch khí ( khí sắc trắng)
- Hoàng khí là cái Thổ khí ( hơi đất) ở trong Đại khối ( tức là Địa cầu)
- Bạch khí là cái thủy khí ( hơi nước) ở các sông hồ suối, lạch v.v…
Cái Bạch khí làm giới hạn ( ranh giới) cho Hoàng khí ở trong đất. Hai loại khí đều đi
liền nhau mà phân làm hai đường. Hoàng khí đi đến chỗ nào gặp Bạch khí thì đứng
lại ( gọi là chí khí).
Bạch khí ví như tường thành, Hoàng khí như mây khói, hoặc ví Bạch khí như cái túi
bọc, Hoàng khí như thứ lương ăn.
Địa lý gia, lập cục địa, phải dựa theo nước để thừa cái Thổ khí chí ( khí đứng lại)
Bạch khí làm cái dẫn khứ ( dẫn đi), Hoàng khí làm cái tùy hành ( đi theo). Hễ thấy
nhiều cái Dẫn ( Bạch khí) giao nhau (hội thủy ) thì những cái Tùy (Hoàng khí) khắc
dừng lại. Nên thủy cần phải hợp lại.
Bạch khí trôi thẳng đi, thì cái Hoàng khí cũng theo thẳng đi, Bạch khí nhu động ( đi
ngoằn ngoèo) thì Hoàng khí Oanh hồi ( đi quanh co). Hễ thấy quanh co thì khí tụ,
thẳng tuột thì khí tán. Bởi vậy thủy muốn được khúc chiết ( gẫy khúc hoặc khúc uốn
cong). Một lần gặp Bạch khí là Hoàng khí một lần đứng lại, hai lần gặp là hai lần
đứng lại, nhiều lần gặp là nhiều lần đứng lại, càng nhiều lần thì càng được hậu khí, ít
lần gặp thì ít khí, tức là bạc ( mỏng). Vì vậy thủy muốn được có nhiều lần thì mới là
thủy quý, hữu tình đặc biệt.
Nếu Bạch khí trường ngạnh ( Thủy thẳng đườn), thì Hoàng khí dầu chí, nhưng không
có chỗ nương tựa, không chỗ bám vịn thì lại tán đi, nên phải có chi nhánh đâm
ngang ra thì mới lưu giữ được. Vậy thủy muốn có nhiều ranh giới, nhưng nhiều ranh
giới mà bình trực ( bằng phẳng thẳng đườn) thì lững phút chốc lại đi luôn. Nên cần
được bao vây, chỗ kết huyệt mà được thủy có sơn sa bao vây, thì cả bên Tả bên Hữu
khí đều quay về.
Nếu thủy đoạn tế ( đứt thủy rồi), mà là cho thủy nguyên ( nguồn nước) thì cái Hoàng
khí đượcnhiều cái thủy câu ( bão lại) thì tốt. Gặp chỗ đoạn thủy mà có cửa chảy đi
thì khí dầu theo cửa ấy mà đi ra, thì không được gì hết. Khí bất xuất (là khí không bị
tiết xuất) thì thu được tất cả. Cho nên cái thủy thì muốn cho nó lưu thông, không
phóng đi hết.
Như cái tiểu thủy ở đằng Nam, cái đại thủy ở đằng Bắc, ta tuy tựa vào Nam, nhưng
chẳng phải chí chuyên một cái ở đằng Nam. Cái Tiểu thủy ở đằng Đông, cái Đại thủy
ở đằng Tây, ta tuy dựa vào bên Đông, nhưng chẳng phải chí chuyên về Đông, phải
xem cái tính thân sơ, cái thế chủ, khách, nên biết cái nào là Thân, để mà đón sơ. Cái
nào là chủ để mà nghinh khách.
Vậy nên ở bên rìa c1i Đại giang, đại hồ mà thấy cái ngoại khí và cái nội khí giao
hoành ( tức là cái Đại thủy có cái tiêu thủy nó đâm ngang vào, đó là tủy giao hợp) thì
chỗ ấy không nên bỏ, có thể kiến đô lập ấp, nhưng phải liệu lượng cho quân bình
( đều cân bằng nhau) chứ chẳng phải lấy một cái thủy, phải tác dụng cả hai cái thủy.
Ở chỗ có núi cao rừng rậm, cao ngất như tường thành, lũy quách ở về phương nào,
cũng đều đủ lấy đó làm hồi phong phản khí từ cao xuống thấp, áp cách cái Hoàng khí
quay lại trở về nhà mình, cả những Kiều lương, Đao lộ, thường thường có xe ngựa,
người qua kẻ lại, cũng đủ làm Chấn động Hoàng khí. Hễ động thì khiến nó dẫn lại,
tĩnh thì hãn ( ngăn) nó đứng lại.
Bài luận thuyết trên là do những tiền Triết dã nghiên cứu chí tình, chí lý, từng kinh
nghiệm. Tôi cũng xác nhận là đúng.
Xem mấy hình đồ đại khái dưới đây:

410
Dương cơ lý khí
Về vấn đề Dương cơ ( nhà ở) còn quan hệ mau hơn là Âm phần ( mồ mả). Vì Mộ thì
khí đi chìm dưới đất còn tiêm nhiễm vào hài cốt của tiền nhân, rồi mới dần dần phát
xuất hợp nhập tới người sinh sau, thì phước họa còn chậm ứng.
Trạch khí thì đi nổi ở trên đất, liền với thân thể những người sống ở chung trong một
ngôi nhà, hấp thụ luôn luôn trong giây phút, vậy cái họa phước ứng nghiệm rất mau.
Có thể sớm vui, tối sầu, hoặc sáng lo chiều mừng không chừng. Vậy có câu: “ Thiên
hữu bất trắc, chi phong vân, nhân hữu đan, tịch chi họa – phước” đích là nghĩa đó.
Xưa nay đã thấy nhiều kinh nghiệm .
Vậy ghi biên bài quyết ca Hán tự của Tiền triết, phiên âm thành Quốc ngữ dưới đây
làm bằng chứng:

Quyết vân
"Địa dư chí lý, khởi duy tàng hình;
Y cổ thanh triết, kiến đô tác kinh;
Khâm giang đới hà, cửu dã dựng linh;
Triệu dân tụy xứ, bách đổ truật hưng;
Duy trạch chi cơ, dữ mộ hợp phù;
Mộ khí ngưng kết, trạch khí diễn phu;
Tử ỷ chi địa, quảng hạ bất di;
Di cung cái bộ, tại áo cập ngung;
Viễn hữu tử ky, Thục duy tông yếu;
Nhất Môn, Nhị Địa, Tam Cù, Tứ Kiểu;
Độc tuân Tam nguyên, Vi tham Cửu diệu;
Du niên quái lệ, phước họa bất triệu;
Mộ khí tòng địa, trạch khí tòng môn;
Nhất môn dịch hướng, vinh lạc chuyển luân;
Môn thông đại đạo, khí nhập khuê khôn;
Tiền hậu bàng trạch, hợp thế quân hình;
Nam, Nữ cư thất, viết duy đại luận;
Phòng khuê thị chủ, đường giai tác tân;
Trí trạch quang nguyện, địa phù nhiễu quán;
Đa ốc tắc tụ, đơn xa hằng hoan;
Nhược tại đô áp, vô thủ thủy viễn;
Nhược hoạch triêm nhu, quyết công vô toán;
Mộ khí cập cốt, trạch khí cập thân;
Thử như tư điều, bí như ốc căn;
Căn vinh dĩ tuế, điều mậu cập thân;
Mộ cát, trạch hung, phiền sí thực bần;
Mộ hung, trạch cát, ương cập hậu nhân;
Mộ trạch tịnh cát, giới phước thiên xuân;
Năng bất thất ngự, mại chủng chi anh."

Bài lý quyết phiên âm trên, tiền triết sáng tác theo lối thi vân ( văn vần) dùng chữ đã
vắn tắt lại có ý cầu kỳ bí hiểm, rất là khó hiểu. Nghĩa bóng thâm ám. Vậy cũng giải
nghĩa vắn tắt theo thứ tự từng câu như sau:
Suy xét cái lẽ của Địa dư, tức là trái đất, chở gánh muôn vật, chẳng phải chỉ che bọc
có một phần mộ mà thôi. Vậy những vị thanh vương Tiền triết đời xưa, kiến lập kinh
đô, thành thị thì lấy trường giang Đại hà hội họp, đất đai rộng lớn suốt cả chín khu,
chung linh tú khí, đểnhân dân được nơi tụ tập an cư trăm phần hưng vượng, là do
gốc ở cái nền nhà, cũng như ngôi mộ được hợp pháp tốt lành. Mộ phần, thì khí nên
ngưng kết thu lại. Trạch khí thì nên mở rộng tràn ra. Chỗ đất bốn bên có thể nương
tựa, thì đặt nhà ở giữa chỗ rộng, không nên di dịch; Di cung đối bộ thì khí ở chỗ khí

411
tụ thu vào hỏm và góc thôi. Có bốn cách gọi là Tứ ky; lấy làm tông yếu: 1) Môn; 2)
Địa; 3) Cù; 4) Kiệu. Bốn phép này chỉ tuân theo một phép của Tam nguyên, xem
thêm tí xíu về Cửu diệu ( 9 vị ai tinh phiên bả) gọi là vi tham. Còn về du niên quái lộ,
là cát tinh chuyển vận từng năm, thì phước họa không hề gì. Mộ khí thì theo từ dưới
mạch đất lên! Trạch khí theo từ ngoài cửa vào. Đổi hướng một cái Cửa hay cái ngõ
thì sự Cát, hung sẽ có biến chuyển. Cái cửa ngõ thông với đại lộ ( đường cái lớn) thì
khí nhập Khuê khôn ( khí vào tới phòng khuê). Những nhà ở đằng trước, đằng sau và
ở hai bên cạnh, thì nên hợp cả cái hình thế cho cân đối đều nhau. Cái nhà của đôi
nam nữ cùng ở ( tức là Vợ chồng) gọi là đại luân ( luân thường lớn trọng hơn cả) thì
cái phòng khuê là chủ; Cái thềm hiện ở khoảng giữa nhà là khách ( chỗ tiếp khách,
chứ không phải là chính chủ).
Đặt nhà ở nơi bãi rộng lớn, thì cũng như phép của âm phần lấy địa khí nhiễu quan ở
nơi đặt nền nhà, có nhiều nóc nhà, thì khí tụ, nếu nhà nhỏ, lại đơn độc, thì khí
thường tản ra mất.
Nếu nhà ở nơi đô thị, thì không cần lấy cái thủy ở xa. Nếu ở gần có nước, được thấm
nhuần thì càng tốt.
Khí ở mộ thì hun đúc hài cốt, khí ở nhà thì hấp thụ ngay vào mình, cái khí ở nơi nhà
này, ví với sự tưới nước vào nhánh cây; khí ở Mộ kia, ví như bón vào gốc rễ. Cái rễ
tươi tốt thì coi như khoảng tháng năm ( tức chậm). Cái nhánh tươi tốt, coi như
khoảng thời giờ ( tức mau lẹ). Được cái mộ cát mà trạch hung, ví như nhiều cái răng
ăn mòn dần, thì sẽ nghèo; Cái Mộ hung mà trạch cát thì ví như cái tai ương sẽ đến
người sau. Được cả Mộ lẫn trạch đều cát, thì hạnh phước bền lâu ngàn năm, cháu
chắt vẫn vinh hoa, hiển hách hơn cả tổ tiên.

Giải thích rộng thêm:


Chương trên này, luận về lý khí của Thiên địa, bao hàm che chở cả muôn vật, chứ
không phải là chỉ cho riêng về mồ mả mà thôi. Những Vua, Chúa, Thánh hiền đời
xưa, hiểu biết nên đã từng kinh lịch khắp cả giang sơn cương thổ trong nước, chỗ
rộng lớn hữu tình thì lập kinh đô, thị trấn, chỗ nhỏ hẹp thì thiết quận ly, hương thôn,
chẳng chỗ nào là không có hình thế hội họp.
Về phép Cửu cung lập cục, của Dương cơ, thì cũng như phương pháp lập cục âm
phần, chỉ có khác mấy cái tác dụng nhỏ như là: Mộ khí thì chỉ lấy một chút  tiêu thủy
tụ ở nội đường gần huyệt, gọi là “ Nguyên thần chi thủy”, còn Kinh đô, Quận, ấp thì
lấy Đại giang, đại hà làm cục, tức thị Đại thủy tại nam, thì tác khảm cục, Đại thủy ở
phía bắc thì làm Ly cục, cái đại thể suy hay vượng là then chốt ở đấy ( tức cái đại
thủy). còn cái trạch khí của các nhà, thì lại tới chỗ tiểu thủy ở gần của từng nhà, mà
phân ra cửu cục. Nhưng âm phần, thì lấy cái thủy tích tụ lại, còn dương cơ, thì lấy cái
thủy mở rộng ra, tùy chỗ rộng, hẹp kết cục khác nhau.
Tứ ỷ là tựa vào bốn bên, thì phải tùy ở hình thế, hoặc là tựa vào đằng trước, hoặc
đằng sau, hoặc bên tả, hoặc bên hữu, mà chỉ chuyên tựa một cái thủy thôi, tựa một
cái thủy, thì cục được là chân thực.
Tuy làm cái nhà rộng lớn, mà khí đều không biến. Nếu đất ở chỗ góc hỏm nước bao
vây quanh mà đặt nhà ở trung cung ( ở giữa) là đại thể thu khí, gọi là quái giác lập
trạch, chớ lẫn lộn với những cái đặt ở đằng trước, đằng sau, bên tả, bên hữu, vì
những cái ấy, biến thành cục khác rồi. Thí dụ Quái giác là Cấn trạch, mà Tây và Nam
hai phương đều có thủy giáp liền, thì cái dãy nhà ở bên tả, phía trước, gần nước
phương Nam, thì làm Khảm cục, dãy nhà ở bên hữu, lại nghinh thủy phương Tây, thì
thuộc Chấn cục, khác hẳn rồi.
Một cái nhà phân ra từng phòng, thì cái thịnh, suy của mỗi phòng có khác nhau.
Âm phần, thì khí chìm trong đất, mà chỉ lấy một cái khí ở trong chỗ huyệt làm chủ.
Dương trạch thì g ồm cả khí nổi ở trên, chứ không phải chỉ chuyên lấy cái địa khí làm
chủ như âm phần. Khí nổi ở trên tức là Môn khí ( khí vào cửa). Bởi vì khí đi ngang nổi
ở trên đất, theo cửa mà vào, sức nó cũng tương đương đối địch với địa khí. Cái nhà

412
mà địa khí suy, Môn khí vượng, hoặc Môn khí suy, địa khí vượng, thì cát hung tham
bán, tức nửa lành nửa dữ, được cả địa khí và Môn khí đều cát, thì hạnh phước mới
hoàn toàn đưa đến nhiều sự tốt lành.
Ngoài cái môn khí, Địa khí, lại luận đến cái Đạo lộ ( là đường cái đi). Con đường triều
lại, là lai khí ( là khí đưa đến) như: Phương Kiền có đường triều lại, thì cái nhà ấy thụ
Kiền khí. Con đường chặn ngang là chí khí ( khí đứng lại) như: Khôn phương có con
đường chặn ngang, thì cái nhà thụ Cấn khí. Con đường triều lại, ví như lai long
( mạch lại). Con đường chặn ngang, ví như giới thủy ( là nước làm ranh giới), hoặc
có cái cầu bắc cao, hoặc có bờ đập chặn thủy cũng thế, nên mới bảo: “ Tam giả: Cù,
Kiểu, Lương, đồng đoan”, nghĩa là con đường, cái cầu, bờ đập, ba cái coi như nhau
cả.
Kiệu là cái nóc nhà cao hơn ở gần trong khu xóm, thí dụ: ở phương Cấn có nóc nhà
cao, thì khí bị chặt đứt, nhưng khí quay trở lại theo từ chỗ cao ở phương Cấn ấy, dẫn
xuống đưa tới nhà mình. “Hoàng Bạch nhị khí thuyết, bảo cái đó là: Hồi phong phản
khí” Nghĩa là: Cái gió quay về, cái khí trở lại, từ trên cao đưa xuống thấp. Có nhiều
nhà cao thì khí hậu ( dầy), ít nhà cao thì khí thiển ( ít mỏng). Nếu ở phương xa, có
nhiều nhà cao liên tiếp, mà không gần dần, thấp dần thì khí qui kết đến nhà mình
càng hậu bội phần.
Bốn cái vừa kể trên chữ gọi là “ tứ ky” hay “ tứ cơ” ( tức: Môn, Địa, Cù, Kiệu). Bốn
cái này chỉ tuân theo phép của Tam nguyên suy, vượng mà đoán niềm hưng, phế,
của cái nhà đó có cách nào thì số ứng nghiệm ở cái ấy.
Lập hướng thì vẫn lấy Cửu tinh, của Địa cục làm chủ, nhưng phần nhiều cái đều
không hợp với Cửu tinh, mà chẳng hại gì đến sự tốt lành nên mới bảo “ Vi tham”
( xen vào chút ít) ý là không quan trọng gì. Còn về Du niên quái lộ ( tính luân
chuyển của mỗi năm) thì chỉ lấy trị niên thần sát, tham gia để đoán sự ứng nghiệm
cát hay hung thôi, chứ thực thì phước, họa không can hệ ở cái ấy. Nếu được trạch khí
vượng, thì dẫu là phương Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, cũng chẳng hại gì đến sự cát. Hoặc
trạch khí suy thì tuy là phương Thiên y, Sinh khí cũng không cứu hết được cái hung.
Xem nhà ở, chỉ đem cái Tứ ky, mà xét cái Tam nguyên chủ vận tinh, để định suy,
vượng, hết thẩy ở đấy ( chủ vận tinh). So sán về cái tòng môn, và tòng địa, thì cái
môn thận trọng hơn, vì Địa là cái vật nhất định, chẳng hay dời đổi được. Môn khí tì
có thể tùy phương mà canh cái. Cũng có cái đất, nhà đương thịnh vượng, chỉ vì đổi
một hướng cửa, mà bị giảm phước. Có cái đất đương suy, cũng chỉ đổi một cái cửa
mà trở thành hưng vượng, chỉ xê dịch độ mấy tấc hoặc một thước, mà sự cát hung
biến đổi khác ngay. Vậy nên phải cẩn thận.
Môn thì lấy cái thông với đại lộ làm trọng, bởi khí ở trong đại lộ có người hoặc xe cộ
vãng lai thì chuyển động, hễ cữa mở là khí theo cửa lọt vào nhà ngay. Những cửa ở
đằng sau, hoặc bên tả, bên hữu cũng là cửa cả, cái Cát, cái hung phải phân biệt xa
gần, động hay tĩnh, nóng hay lạnh, mà luận sự hưng phế.
Một cái nhà chỉ có một cái cửa, được là vượng thì được toàn mỹ. Nếu có mấy cái cửa
đều là cửa vượng thì mọi sự hoàn toàn hạnh phước đưa đến nhiều. Cái gọi là nội
môn, ( những cái cửa trong nhà) thì lấy cửa buồng làm trọng nhất. Ý bảo: một âm,
một dương là thành đạo. trong gia trạch hưng hay phế là lúc phu phụ phối hợp, sanh
dục con trai, con gái kế tự tổ tông đều nguyên do ở đấy.
Trạch nội trùng môn lộ ( tức trong nhà có hai lần cửa ngõ) cùng ở về phương Vượng,
bước trước, bước sau, cùng dẫn nhập khuê khốn ( buồng ngũ của đôi vợ chồng) thì
nên mở cái cửa ấy ra để nghinh Cát khí, thì ngũ phước toàn thu (là Phú, Quý, Thọ,
Khang, Ninh) đều hưởng vẹn cả.
Nếu chính giữa nhà, lại làm chỗ giao tiếp Tân ( khách) thì nơi ấy chẳng phải thuộc về
gốc bản mệnh của mình ( chủ nhà) thì không quan trọng.
Nếu đặt nhà ở nơi khoáng dã, thì trong cái Tứ ky chỉ chuyên lấy một Địa khí làm
trọng thôi, cũng như phép lập âm phần, tất nhiên là Địa khí tụ trong nền nhà ấy, sẽ
hội họp với phong khí mà thu lấy cái dương hòa. Nhà nhỏ bé quá thì phải có 2, 3 lớp

413
ở liền nhau thì mới có khí tụ súc, nếu chỉ có một dãy nhà làm thẳng, hoặc phân tản
ra mấy ngả chơ vơ, thì đều là bị khí hoán tán, tuy là địa cát cũng không ứng nghiệm.
Vì thế những nhà ở nơi đồng bằng không khoang, thường hay đắp lũy, trồng tre và
cây to cao lớn, để chắn gió cho khí tĩnh lại, là hợp với Ly khí lắm.
Nếu ở nơi thành thị thì bốn cái Tứ ky, đều trọng dụng cả chứ chẳng phải chuyên lấy
thủy làm cục, dẫu thủy ở xa, cũng thừa đủ được vượng khí phát phước. Nếu ở chỗ
gần nước lại được là sinh khí triêm nhiễm ( đằm thắm) thì phước lực có thể ví là cách
phi thường ( quy ít có). Tuy là gần nước nhưng là chỗ suy địa, tức là sát khí, thì họa,
lại càng tệ hại hơn.
Đoạn cuối này, nói tóm lại, Cả hai cái: âm phần, Dương trạch đều thận trọng, không
thể bỏ qua một cái nào. Bởi là mộ khí thì chìm còn thấm nhập hài cốt người chết rồi,
dần dần mới phát xuất, tìm đến người sống đồng khí huyết sẽ hợp thu nên còn
chậm. Cái trạch khí thì nổi ở liền với bản thân người sống. Vậy ứng nghiệm rất mau,
có thể nói là sớm vui, tối sầu không chừng. Những người biết, chẳng nên coi thường.
Được cả hai cái đều cát, thì phước ấm mới hoàn toàn. ( Xem hình đồ sau).

Hình trang 71

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 42

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 19:08 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Nhị thập Tú Long lập hướng Phân - Kim -
Pháp
Việt Hải

Nhị thập Tú Long lập hướng Phân - Kim - Pháp

Quách thị và Ngô, Nguyễn các nhà Địa lý ở Trung hoa, quý về Âm, chê về Dương, cũng đều
luận các vì sao trên trời. Bởi Thán nhân nói: Dùng Quái để minh lý, dùng Quái để suy đoán khí,
Phàm Tiên Thiên, hậu thiên, Song sơn, Hồng phạm, Tam hiệp, Nguyên không, Xuyên sơn, Thấn
Địa, Tọa độ, Phân châm, Hưu, Từ, Vượng, Tướng Vận khí, Tuế tời, đều do lý khí mà ra cả.

Người đời xưa dùng phép quăng gậy, chỉ lấy chỗ sanh khí, làm địa cục, ngoại trừ
sanh khí không bàn đến. Đại để phép chiếm sơn, dùng thế đất là rất khó, mà hình
cuộc là thứ yếu, phương hướng lại thứ nữa, Phàm xem huyệt phảo xét trong huyệt
đó phải có sanh khí, có đúng kết trong lòng huyệt đích xác không, tức là huyệt có

414
tình, mới xuất kết trong lòng mới được chánh khí nhập mạch đặt quan tài. Nếu trong
huyệt đó vô tình, tức không có sanh khí, dù quý âm chê dương thừa sanh khử mộ tất
cả về lý khí. Những thứ vô ích, chắc có hại lắm đấy, chỗ đã không có sanh khí, tức
dù dùng lý khí cũng vô dụng. Trong sách có nói: Đất huyệt không có sanh khí mà
dùng lý khí, thì lấy khí gì? Sau đây là 24 long, bàn về cách lập hướng và phân kim.

1 – Nhâm Long:
- Tý sơn Ngọ hướng; Cấn sơn Khôn hướng;
- Tân sơn Ất hướng; Thủ Bính Tý chính khí.

a) Tọa Tý hướng Ngọ: Nhâm long Nhập thủ, hữu lạc. Huyệt Tý hướng Ngọ, Ai tả,
gia Hợi nửa phân, lấy Bính Tý thì chính khí ở Chánh Nhâm, quán hữu nhĩ ( khí vài tai
bên mặt).
Thôi quan thi vân:
"Bối cửu diện nhất, thừa Thiên Phụ
Khí tòng Hữu nhĩ vi hợp củ ( phép)
Huyệt nghi ai tả gia Thiên Hoàng ( Hợi)
Phú quý vinh hoa trấn hướng sĩ."
Phân kim: Kiêm ( gồm) Nhâm Bính, nghi ( nên) Canh Tý, Canh Ngọ.
Kiêm Quý Đinh nghi Bính Tý, Bính Ngọ.

b) Tọa Cấn hướng Khôn: Nhâm long nhập thủ, hữu lạc. Huyệt Cấn hướng khôn, ai
tả gia Hợi bán phần, lấy Nhâm mạch, quan ( suốt) hữu yêu ( lưng).
Thôi quan thi vân:
"Nhâm sơn thiểu thiểu, huyệt Thiên thị ( Cấn)
Thiên phụ ( Nhâm) khí bên xung hữu du
Huyệt tả vi xâm ( lấn chút xíu) bán phân Hợi
Thu quý thanh danh hướng lư lý ( xóm làng)."
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi, nghi Tân Sửu Tân Mùi
Kiêm Dần Thân, lấy Bính Dần, Bính Thân.

c) Tọa Tân hướng Ất: Nhâm long nhập thủ, tả lạc, Huyệt Tân hướng Ất, Ai hữu thì
đun nhích qua Tý nửa phần, để lấy chính Nhâm mạch suốt qua lưng bên trái.
Thôi quan thi vân:
"Thiên Phụ ( Nhâm) huyệt, hướng Thiên quan tinh ( Ất)
Khí tòng tả du ( bụng) thông huyền linh
Huyệt nghi ai hữu, gia Dương Quang ( Tý)
Diệc chú tài phú, nhân tuấn anh ( tài giỏi)."
Phân kim: Kiêm Mão Dậu, lấy Tân Mão, Tân Dậu
Kiêm Thìn Tuất, lấy Bính Thìn, Bính Tuất.

2 – Khảm long:
- Tý sơn Ngọ hướng
- Cấn sơn, Khôn hướng, lấy Canh Tý là chính khí.

Tọa Cấn hướng Khôn: Tý long Nhập thủ, hữu lạc. Huyệt Cấn hướng khôn, nhích
sang bên phải một chút Nhâm phương một phân, khiến chính cái khí ở Tý suốt qua
tai bên phải.
Thôi quan thi vân:
"Dương quang ( Tý) Huyệt Tọa Thiên thị viên;
Khí trung hữu nhĩ, nãi vi huyền;
Huyệt nghi ai tả gia Thiên phụ ( Nhâm)
Dựng ( Thai) sinh lục chỉ ( 6 ngón) đa điền viên ( nhiều ruộng vườn)"

415
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi lấy Tân Sửu, Tân Mùi.
Kiêm Dần Thân, lấy Bính Dần, Bính Thân.

3 – Quý long:
Gồm: - Cấn sơn Khôn hướng
- Tý sơn Ngọ hướng
  - Lấy Đinh Sửu chính khí.

a) Tọa Cấn hướng Khôn: Quý long nhập thủ ( vào đầu), hữu lạc, Huyệt Cấn hướng
khôn, nhích sang trái Hợi, gia Tý chút ít, lấy Đinh Sửu là chính Qui mạch, để khí suốt
qua tai phải.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan thập tam, hướng Huyền qua ( Khôn)
Âm quang ( Quý), tuấn mỹ hữu nhĩ qua;
Ai tả vi gia bán phân nguyệt (tý)
Phú quý tiện ( hèn) kiến phong lưu đa."
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi, nên dùng Tân Sửu, Tân Mùi
Kiêm Dần Thân, nghi Bính Dần, Bính Thân.

b) Tọa Tý hướng Ngọ: Quý long nhập thủ, tả lạc, huyệt Tý hướng Ngọ, nhích sang
bên phải gia Sửu, lấy Đinh Sửu, lấy chính Quý khí, suốt vào tai bên hữu.
Thôi quan thi vân:
"Âm quang ( quý), huyệt Khảm hướng viêm tinh ( ngọ);
Tả nhĩ thừa khí, bất vi khinh ( nhẹ).
Huyệt nghi ai hữu, vi gia Sửu
Xuất nhân anh tuấn, tư tài danh ( tư bản đầy kho của)."
Phân kim: Kiêm Nhâm Bính, nên dùng canh Tý, Canh Ngọ.
Kiêm Quý đinh, nghi bính Tý, Bính Ngọ.

4 – Sửu long:
Gồm: - Nhâm sơn Bính hướng
- Lấy Tân Sửu chính khí.

Tọa Nhâm hướng Bính: Sửu long nhập thủ, tả lạc, Huyệt Nhâm hướng bính, nhích
sang bên phải ( ai hữu) gia Cấn, lấy Tân Sửu chính mạch suốt vào tai bên tả.
Thôi quan thi vân:
"Ngưu ( Sửu) kim tẩu hướng thái vi ( bính) viên
Khí bên Tả nhĩ, long mạch toàn ( quanh)
Dương khu ( cấn), vi gia, huyệt niêm ( dán) hữu
Thủy triều cục tỏa ( khóa) đa điền viên."
Phân kim: Kiêm Hợi Tỵ, nên dùng Tân Hợi, Tân Tỵ
Kiêm Tý Ngọ, nên dùng Bính Tý, Bính Ngọ.

5. Cấn long:
Gồm: - Quý sơn Đinh hướng  - Nhâm sơn Bính hướng
- Giáp sơn canh hướng - Ất sơn Tân hướng
- Mão sơn Dậu hướng  - Kiền sơn Tốn hướng
- Hợi sơn Tỵ hướng  - Sửu sơn Mùi hướng
Lấy Mậu Dần làm chính khí.

a) Tọa quý hướng Đinh: Cấn long nhập thủ, tả lạc, huyệt Quý hướng Đinh, nhích
sang Bạch hổ, lấy thêm Dần một phân, khiến Mậu Dần chính Cấn khí, quán Tả nhĩ.

416
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan mộ nhất huyệt nghi quí
Thiên thị ( Cấn), chính khí xưng tả nhĩ
Huyệt niêm tây thú vi gia Dần
Ý cầm vinh hoa diệu lư lý ( công làng)"
Phân kim: Kiêm Tý Ngọ, dùng Canh Tý Canh Ngọ
Kiêm Sửu Mùi, dùng Đinh Sửu Đinh Mùi

b) Tọa Nhâm hướng Bính: cấn long nhập thủ hoành lạc, Tả lai hữu xuất, huyệt
Nhâm hướng Bính, ai hữu lấy Mậu Dần làm chính Cấn khí, quán tả yêu ( lưng)
Thôi quan thi vân:
"Thiên thị ( Cấn) lai lnog Thái vi ( Bính) hướng
Khí xung, yêu du quan tư vượng ( làm quan của cải vượng).
Âm Dương tương kiến phước vĩnh trinh.
Nhị khu ( cấn, Bính) phân phối tương tùy xướng ( thuận hòa nhau)."
Phân kim: Kiêm Tý Hợi, lấy Tân Tỵ, Tân Hợi
Kiêm Tý Ngọ, lấy Bính Tý, Bính Ngọ.

c) Tọa Giáp hướng Canh: Cấn long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Giáp hướng canh, ai
Thanh long, gia Sửu một phân, lấy Bính Dần chính khí, quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thiên thị thiểu thiểu nhập Âm cơ ( giáp)
Khí xung hữu nhĩ vô uy di ( không quanh co)
Thiên trù ( Cấn) vi gia huyệt niêm tả
Phú quý văn võ quan ban tùy ( làm quan to có các ban tùy tòng)"
Phân kim: Kiêm Dần Thân, dùng Canh Dần, Canh Thân
Kiêm Mão Dậu, dùng Đinh mão Đinh Dậu.

d) Tọa Ất hướng Tân: Cấn long nhập thủ hoành lạc, hữu lai tả xuất, huyệt Ất
hướng Tân, ai tả, vi gia Sửu, thủ Mậu dần chính khí, quán hữu yêu (lưng bên hữu).
Thôi quan thi vân:
"Dương khu ( Cấn) vi long, hướng tây Đoài.
Hữu nhĩ thừa khí vi tối ( rất ) ứng
Huyệt nghi ai tả gia trù tinh ( Sửu)
Phiệt duyệt vinh hoa định vô ngải ( không sai)"
Phân kim: Kiêm Mão Dậu, nghi ( nên dùng) Tân Mão, Tân Dậu
Kiêm Thìn Tuất, nên dùng Bính Thìn, Bính Tuất.

e) Tọa Mão hướng Dậu: cấn long nhập thủ hữu lạc, huyệt mão hướng dậu, ai
Thanh Long, gia Sửu nhất phân, lấy Bính Dần chính khí, suốt vào tai bên hữu.
Thôi quan thi vân:
"Dương khu vi long hướng Tây Đoài
Hữu nhĩ thừa khí vi tối ứng
Huyệt nghi ai tả gia trù tinh
Phiệt duyệt vinh hoa định vô nghi."
Phân kim: Kiêm Giáp Canh nên dùng Tân mão, Tân Dậu
Kiêm Ất Tân, nên dùng Đinh Mão, Đinh Dậu.

g) Tọa Kiền hướng Tốn: Cấn long nhập thủ hoành lạc, tả lai hữu xuất, huyệt Kiền
hướng Tốn, ai hữu, lấy Mậu Dần chính Cấn khí, suốt vào lưng bên trái.
Thôi quan thi vân:
"Thiên thị ( Cấn) hành long hướng dương tuyền Tốn ( Tuyền là ngọc đẹp)
Khí xung tả du ( lưng bụng) không vi huyền

417
Co nhuận, gia phì, tích kim báo
Đãn khủng yếu triết, ưu yêu niên ( tuổi trẻ chết non)."
Phân kim: Kiêm Thìn Tuất, nên dùng Canh Thìn, Canh Tuất
Kiêm Tỵ Hợi, nên lấy Đinh Tỵ, Đinh Hợi.

h) Tọa Hỡi hướng Tỵ: Cấn long nhập thủ hữu lạc huyệt Hợi hướng Tỵ, ai hữu, thủ,
lấy Cấn chính khí, quán tả yêu, thử huy hữu phú vô quý ( giàu không sang).
Phân kim: Kiêm Kiền Tốn, nên lấy Tân Hợi, Tân Tỵ
Kiêm Nhâm Bính nên lấy Đinh Hợi, Đinh Tỵ

i) Tọa Sửu hướng Mùi: Cấn long nhập thủ, tả lạc, huyệt Sửu hướng Mùi, nghi ai
hữu, gia Dần nhất phân, sứ hậu Dần chính Cấn khí, quán tả khí.
Phân kim: Kiêm Quý Đinh, nghi Tân Sửu, Tân Mùi
Kiêm Cấn Khôn, nên lấy Đinh Sửu, Đinh Mùi.

6 – Dần long:
Gồm: - Cấn sơn Khôn hướng  - Dần sơn Thân hướng
- Lấy Nhâm Dần chánh khí

a) Tọa Cấn hướng Khôn: Dần long nhập thủ, tả lạc, huyệt Cấn hướng Khôn, ai
hữu, vi gia Giáp, thủ Nhâm Dần chính khí, quán Tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Công Tảo ( Dần) tọa Cấn, điện huyền qua ( Khôn)
Tả nhĩ thừa khí, vô thiên phả
Vi gia Giáp vị cục chu hoàn
( long mạch tinh kỳ phát như hỏa)
Thử huyệt phát phước cực tốc."
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi, nên lấy Tân Sửu, Tân Mùi
Kiêm Dần Thân, nên lấy Bính Dần, Bính Thân.

b) Tọa dần hướng Thân: Dần long nhập thủ, trực lai trực xuất thụ, tác Dần sơn
Thân hướng, huyệt nghi ai hữu, lấy Giáp Dần chính khí, yếu long thân kỳ đặc dũng
được, huyệt tinh thâm sảo, sa thủy, tú lệ, thì được, khuyết một cái thì không phải là
tốt lành.
Thôi quan thi vân:
"Công tảo ( Dần) chính hướng Thiên quan ( Thân) cửa
Long mạch đĩnh dị, huyệt kham thân ( gần)
Sa thủy bất dị ( chẳng đủ) tối hung ác
Quả mẫu quái tật, đa sinh sân ( ác xấu)"
Phân kim: Kiêm Cấn, Khôn, nên lấy Canh Dần, Canh Thân
Kiêm giáp, Canh, nên lấy Bính dần, Bính Bính Thân.

7 – Giáp Long:
Gồm: - Cấn sơn Khôn hướng - Tốn sơn Kiền hướng  - lấy Kỷ Mão chính khí.

a) Tọa Cấn hướng Khôn: Giáp long nhập thủ tả lạc, huyệt Cấn hướng Khôn, ai hữu,
vi gia Dần, lấy Kỷ mão chính Giáp khí, quán Tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Âm cơ ( giáp) long hướng Khôn
Tả nhĩ thừa khí phước vô cùng
Huyệt nghi niệm hữu vi gia Dần
Long kỳ cục tỏa phương ( mới) kham dụng ( nên dùng)

418
Thử huyệt dị hưng ( dễ làm nên)"
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi, nên lấy Tân Sửu, Tân Mùi
Kiêm dần Thân, nên lấy Bính Dần, Bính Thân

b) Tọa Tốn hướng Kiền: Giáp long nhập thủ tả lạc, huyệt Tốn hướng Kiền, nghi ai
hữu, thủ Kỷ Mão chính khí, quán hữu yêu.
Thôi quan thi vân:
"Âm cơ ( Giáp) Huyệt Tốn hướng Cơ phong ( tinh phong Kiền)
Khí tòng hữu yêu gia hưng long ( tiến khởi thịnh)
Tả hữu bất giao long thất độ ( mất độ phận)
Quan quả phong bì, động ôn phong ( bị cô quả, bệnh tật phong tản)"
Phân kim: Kiêm Thìn Tuất, nên dùng Canh Thìn, Canh Tuất
Kiêm Tỵ Hợi, nên dùng Đinh Tỵ, Đinh Hợi.

8 – Mão Long:
Gồm: - Giáp Sơn canh hướng - Ất sơn Tân hướng - Quý sơn Đinh hướng  - Tỵ sơn Hợi
hướng  - lấy Quý Mão là chính khí.

a) Tọa Giáp hướng Canh: Mão long nhập thủ, tả lạc, huyệt Giáp hướng Canh, ai
Bạch Hổ, vi gia Ất, lấy Quý Mão chính khí quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ ngũ, huyệt nghi Giáp
Dương hành ( Mão), khí tòng tả nhĩ phát
Huyệt ai Tây thủ ( Hổ) gia thiên quan ( Ất)
Tri tiết biên cương chương sinh sát."
Phân kim: Kiêm Dần Thân, nên lấy Canh Dần, Canh Thân
Kiêm Mão Dậu, nên lấy Đinh mão, Đinh Dậu.

b) Tọa Ất hướng Tân: Mão long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Ất hướng Tân, ai Thanh
long, gia Giáp bán phân, thủ Quý mão chính khí quán hữu nhĩ
Thôi quan thi vân:
"A hương ( khí thơm) ( Mão) đông lai, huyệt Thiên quan
Khí quan hữu nhĩ thần linh an
Vi gia Giáp vị huyệt niêm tả
Tiên văn, hậu võ, vinh quyền quan."
Phân kim: Kiêm Mão Dậu, nên lấy Tân Mão, Tân Dậu
Kiêm thìn Tuất, nên lấy Bính Thìn, Bính Tuất.

c) Tọa Quý hướng Đinh: Mão long nhập thủ hoành lạc, tả lai hữu xuất, huyệt Quý
hướng Đinh, ai hữu, Thủ Quý Mão chính khí, quán Tả yêu.
Phân kim: Kiêm Tý Ngọ, nên lấy Canh Tý, Canh Ngọ
Kiêm Sửu Mùi, nên lấy Đinh Sửu, Đinh Mùi.

d) Tọa Tỵ hướng Hợi: Mão long nhập thủ hoành lạc, hữu lai tả xuất, huyệt Tỵ
hướng Hợi, ai tả, thủ Quý Mão chính khí, quán hữu yêu ( thông vào lưng bên phải).
Phân kim: Kiêm Bính Nhâm, nên lấy Đinh Tỵ Đinh Hợi
Kiêm Tốn Kiền, nên lấy Tân Tỵ, Tân Hợi

9 - Ất Long:
Gồm: - Cấn sơn Khôn hướng - Lấy Canh Thìn là Chính khí

Tọa Cấn hướng Khôn: Ất long nhập thủ, hoành lạc, tả lai hữu xuất, huyệt Cấn
hướng Khôn, lấy ai hữu, thủ Canh Thìn chính khí quán tả yêu.

419
Thôi quan thi vân:
"Thiên quan ( Ất) không hướng, huyệt Thiên thị ( Cấn)
Khí bên tả du nãi vi lợi
Cang kim ( Thìn), vi gia huyệt niêm tả;
Diệc ( cũng) chủ phú quý, nhân chiêu chuế ( có người vời làm rễ)."

10 – Thìn long:
Gồm: Tốn sơn Kiền hướng, Cấn sơn Khôn hướng, lấy Giáp thìn là chính khí.

a) Tọa Tốn hướNG Kiền: Thìn long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Tốn hướng Kiền, ai tả,
vi gia Ất, thủ Giáp Thìn chính khí, quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Cang Kinh ( Thìn) huyệt Tốn hướng Dương Ky ( Kiền)
Khí tòng hữu nhĩ vi hợp củ ( phép)
Thiên quan ( Ất) vi gia huyệt niêm tả
Cự phú, đãn khưng vô kỳ."
Phân kim: Kiêm Thìn Tuất, nên dùng Canh Thìn, Canh Tuất.
Kiêm Tỵ Hợi, nên dùng Đinh Tỵ, Đinh Hợi.

b) Tọa Cấn hướng Khôn: Thìn long nhập thủ, tả lạc, huyệt Cấn hướng Khôn, ai
hữu, vi gia huyệt niêm tả, lấy Giáp Thìn chính khí, quá tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Cang kim ( Thìn) hành long hướng Huyền qua ( Khôn)
Tả yêu thừa khí, lực tý hòa
Thiên quan ( Ất) vi gia, huyệt ai tả
Long yếu tinh Tốn cục quan tỏa."
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi, nên dùng Tân Sửu, Tân Mùi
Kiêm Dần Thân, nên dùng Bính Dần, Bính Thân.

11 – Tốn Long:
Gồm: - Ất sơn Tân hướng - Tỵ sơn Hợi hướng 
- Khôn sơn, Cấn hướng  - Lấy Tân Tỵ chính khí.

a) Tọa Ất hướng Tân: Tốn long nhập thủ, tả lạc, huyệt Ất hướng Tân, ai Bạch Hổ,
gia Tỵ nhất phân, lấy Tân Tỵ chính Tốn khí, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ tứ huyệt nghi Ất
Dương toàn ( Tốn) tả khí xung nhĩ nhập
Thiên quan ( Ất) tả tọa gia thanh xả ( Tỵ).
Cấm khuyết thần cung ban dạ trực."
Phân kim: Kiêm mão Dậu, nên dùng Tân Mão, Tân Dậu
Kiêm Thìn tuất, nên dùng Bính thìn, Bính Tuất.

b) Tọa Tỵ hướng Hợi: Tốn long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Tỵ hướng Hợi, ai Thanh
Long, gia Thìn bán phân, lấy Tân Tỵ chính Tốn khí, quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thái Ất ( Tốn) hành long, Thiên bình ( Tỵ) huyệt
Hữu nhĩ thừa khí chân kỳ tuyệt
Kim cang ( Thìn) sát vị vật gia đa ( chớ gia nhiều)
Cự phú, tiểu quý, nhân anh kiệt."
Phân kim: Kiêm Tốn Kiền, nghi tân Tỵ, Tân Hợi
Kiêm Nhâm bính, nên dùng ( nghi)Đinh Tý, Đinh Hợi

420
c) Tọa  KHôn hướng Cấn: tốn long nhập thủ, hoành lạc, hữu lai tả xuất, Huyệt
Khôn hướng Cấn, ai tả, lấy Tân Tỵ chính Tốn khí, quán hữu yêu.
Thôi quan thi vân:
"Thái Ất ( Tốn) hành long, hướng Dương khu ( Cấn)
Hữu yêu thừa khí, vô sai thù ( khác)
Sa tùy thủy ấp, long tinh dị ( khác)
Thi, lễ, phú, quý đa kim châu ( vàng ngọc)."
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi, nên dùng Tân Sửu, Tân Mùi
Kiêm Dần Thân, nên dùng Bính Dần, Bính Thân.

12 – Tỵ Long:
Gồm: - Tỵ sơn Hợi hướng - lấy Ất Tỵ chính khí.

Tọa Tỵ hướng Hợi: Tỵ long nhập thủ, nghi ai hữu, thủ Tốn chính khí nhập huyệt,
tọa Tỵ hướng Hợi, chú phú quý.
Thôi quan thi vân:
"Xích xà ( Tỵ) đầu, hướng Thiên môn ( Hợi) bắc;
Trực lai trực hướng thần công liệt
Tốn bính thụ huyệt tối vi lương
Phú quý vinh hoa, nhân anh kiệt."
Phân kim: Kiêm Tốn Kiền, nên dùng Tân Tỵ, Tân Hợi
Kiêm Bính Nhâm, nên dùng Đinh Tỵ, Đinh Hợi.

13 – Bính Long:
Gồm: - Tỵ sơn Hợi hướng - Giáp Sơn Canh hướng
- Ất sơn Tân hướng - Khôn sơn Cấn hướng
- Lấy Nhâm Ngọ chính khí.

a) Tọa Tỵ hướng Hợi: Bính long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Tỵ hướng Hợi, nghi sáo
( ít) ( nghi sáo cũng như vi gia) ai hữu, thủ chính Bính khí, quán tả nhĩ.
Phân kim: Kiêm Tốn Kiền, nên dùng Tân Tỵ, Tân Hợi
Kiêm Bính Nhâm, nên dùng Đinh Tỵ, Đinh Hợi.

b) Tọa Giáp hướng Canh: Bính long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Giáp hướng Canh,
nghi sáo ai hữu thủ Bính chính khí quán tả nhĩ.
Phân kim: Kiêm Dần Thân, nên dùng Canh Dần, canh Thân
Kiêm Mão dậu, nên dùng Đinh Mão, Đinh Dậu.

c) Tọa Ất hướng Tân: Bính long nhập thủ , hữu lạc, huyệt Ất hướng Tân, nghi sáo
ai hữu ( nên đưa về bên phải chút ít), lấy Bính khí quán tả yêu.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ bát ( thơ thứ tám) Bính long Ất ( Ất hướng)
Khí xung Tả yêu anh tài xuất
Thai vi chi long huyệt niêm Tỵ ( Thái vi: Bính)
Tả khí quán nhĩ, phú nhi dĩ ( giàu mà thôi)"
Phân kim: Kiêm Mão Dậu, nên dùng Tân Mão, Tân Dậu
Kiêm Thìn Tuất, nên dùng Bính Thìn, Bính Tuất.

d) Tọa Khôn hướng Cấn: Bính long nhập thủ tả lạc, huyệt Khôn hướng Cấn, sáo ai
tả gia Tỵ, lấy chính Bính khí quán hữu yêu.
Thôi quan thi vân:
"Thai vi ( Bính) hành long hướng dương khu ( Cấn)
Hữu yêu thừa khí vô sai thù

421
Huyệt nghi ai tả, gia Thanh xà ( Tỵ rắn xanh)
Diệc chủ nhân vượng, gia tư phú."
Phân kim: Kiêm Sửu Mùi, nên dùng Tân Sửu, Tân Mùi
Kiêm Dần Thân, nên dùng Bính Dần, Bính Thân.

14 – Ly Long:
Gồm:  - bính sơn nhâm hướng  - Đinh sơn Quý hướng 
- Lấy Bính Ngọ là chính khí.

a) Tọa Bính hướng Nhâm: Ly long nhập thủ tả lạc huyệt Bính hướng Nhâm, nên ai
Bạch Hổ, gia Đinh bán phân, lấy Bính ngọ chính mạch, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ thập huyệt Thiên quý ( Bính)
Ly cung tả nhĩ khí trong trú
Vi gia Nam cực ( Đinh) cục chu hồi
Sa thủy hợp củ Công hầu khởi."
Phân kim: Kiêm Tỵ Hợi, nên dùng Tân Tỵ Tân Hợi
Kiêm Ngọ Tý, nên dùng Bính Ngọ, Bính Tý.

b) Tọa Đinh hướng Quý: Ly long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Đinh hướng Quý, nghi ai
Thanh Long, gia Bính bán phân, lấy Bính Ngọ chính Ly mạch, quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Ly sơn thiêu nghiêu ( cao chót vót) ứng Nhật tinh
Hạ huyệt hữu nhĩ, thừa Viêm tinh ( ngọ khí nóng)
Vi gia Thiên Quy ( Bính) hào ly vị.
Lập kiến ( đứng thấy) Sậu phú ( mau giàu) quan chức vinh."
Phân kim: Kiêm Ngọ Tý, nên dùng Canh Ngọ, Canh Tý.
Kiêm Sửu Mùi, nên dùng Đinh mùi, Đinh Sửu.

15 – Đinh Long:
Gồm: - Khôn sơn cấn hướng - Tý sơn Hợi hướng
Lấy Quý Mùi chánh khí.

a) Tọa Khôn hướng Cấn: Đinh long nhập thủ hữu lạc, huyệt Khôn hướng Cấn, nghi
ai Thanh long, gia Ngọ nhất phân, lấy Quý Mùi chính Đinh khí, quán hữu nhĩ
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ thất huyệt nghi Khôn
Nam cực ( Đinh) khí tòng hữu nhĩ bôn;
Yếu sứ ( cốt khiến) Cang âm ( Khôn) vật quán huyệt cho thông vào huyệt)
Vi gia Thiên Mã ( Ngọ) vinh gia môn."
Phân kim: Kiêm Mùi Sửu, dùng Tân Mùi, Tân Sửu.
Kiêm Thân Dần, dùng Bính Thân, Bính Dần.

b) Tọa Tỵ hướng Hợi: Minh long nhập thủ tả lạc, huyệt Tỵ hướng Hợi, nghi ai Bạch
Hổ gia ( thêm) Mùi một phân, lấy chính Đinh mạch là Quý Mùi khí, thông tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Nam cực ( Đinh) hành long Thiên hoàng ( Hợi) hướng
Khí xung tả nhĩ tối vi thượng ( làm hạng tối thượng)
Huyệt niêm Tây thú vị gia Dương ( con dê: Mùi)
Dưng quyền ( Ngọ) thân vật hào lý gian ( cẩn thận chớ sai khoảng một ly một sợi
dây)."
Phân kim: Kiêm Tốn Kiền, dùng Tân Tỵ Tân hợi
Kiêm Bính Nhâm, dùng Đinh Tỵ, Đinh Hợi

422
16 – Mùi Long:
Gồm: - Khôn sơn Cấn hướng
Lấy Đinh Mùi là chính khí

Tọa Khôn hướng Cấn: Mùi long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Khôn hướng Cấn, nghi ai
hổ ( hữu) vi gia Đinh lấy Đinh Mùi chính mạch quan hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Mùi sơn khởi phục long hướng Cấn
Thiên thường ( Mùi) khí xung hữu nhĩ tiến
Huyệt ai tả vị đới Đinh Mùi
Tả đạo Vinh hoa, quý hiển thịnh."
Phân kim: Kiêm Mùi Sửu, dùng tân mùi, Tân Sửu
Kiêm Dần Thân, dùng Bính Dần, Bính thân

17 – Khôn Long:
Gồm: - Đinh sơn Quý hướng
Lấy Giáp thân chính khí

Tọa Đinh hướng Quý: Khôn long nhập thủ, tả lạc huyệt Đinh hướng Quý, nghi ai
hữu gia Thân bản phân, lấy Giáp Thân chính khôn mạch, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Đinh huyệt hồi hoàn, cục chu tỏa ( đóng cửa kín đáo)
Huyền quá nhĩ nhập, khi xung tả, ( Huyền qua: Khôn)
Huyệt ai tây thú, vi gia Thân
Long mạch chân kỳ, phát như hỏa."
Phân kim: Kiêm Tý Ngọ, dùng Canh Tý, canh Ngọ
Kiêm Sửu Mùi, dùng Đinh Sửu, Đinh Mùi

18 – Thân Long:
Gồm: - Đinh sơn hướng Quý, Canh sơn giáp hướng
Lấy Mậu Thân chính khí

a) Tọa Đinh hướng Quý: Thần long nhập thủ, tả lạc, huyệt Đinh hướng Quý, nghi
ai hữu, vi gia Khôn, lấy Mậu Thân chính mạch, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thân sơn cục hướng Dương quang ( Quý) cung;
Tả nhĩ thừa khí lực vi trùng
Huyền qua ( Khôn) vi gia huyệt niêm hữu
Long tốn, huyệt Mỹ gia tư phong ( phong phú) ( huyệt này phát phú)"
Phân kim: Kiêm Ngọ Tỵ, nên dùng Canh Ngọ, Canh Tý
Kiêm Mùi Sửu, nên dùng Đinh Mùi, Đinh Sửu.

b) Tọa Canh hướng Giáp: Thân long nhập thủ tả lạc, huyệt Canh hướng Giáp, nghi
ai tả, vi gia Khôn, thủ Mậu thân chính mạch, quán hữu nhĩ
Thôi quan thi vân:
"Thiên quan ( cửa ở Thân) long tọa Thiên hán ( canh cung).
Khí tòng hữu nhĩ thừa chính long
Vi gia Thiên Việt ( Khôn) phụ ( giúp) long hành
Thủy triều huyệt tỏa ( khóa), nhân tài long ( người của thịnh vượng). Huyệt này đa
vượng nhân."
Phân kim: Kiêm Thân Dần, nên dùng canh Thân, Canh Dần
Kiêm Dậu Mão, nên dùng Đinh Dậu, Đinh Mão.

423
19 – Canh Long:
Gồm: - dậu sơn Mão hướng - Khôn sơn Cấn hướng
-lấy Ất Dậu chính khí.

a) Tọa Dậu hướng Mão: canh long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Dậu hướng Mão, nghi
ai tả, gia Thân một phân, lấy Ất Dậu chính Canh khí, quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ lục huyệt đông Chấn
Thiên hán ( Canh) khí tòng hữu nhĩ tiến
Vi gia Thân vị đa vinh danh
Phú áp hương bang chúng khâm tín."
Phân kim: Kiêm Canh Giáp, nên dùng Tân Dậu, tân Mão
Kiêm Tân Ất, nên dùng Đinh Dậu Đinh Mão.

b) Tọa Khôn hướng Cấn: Canh long nhập thủ tả lạc, huyệt khôn hướng Cấn, nghi
ai hữu biên, gia Dậu một phân, lấy Ất Dậu chính Canh khí, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thiên Hán chính hướng Thiên thị ( Cấn) tin
Khí bên tả nhĩ, chân kỳ thanh
Vi gia tây Đoài, huyệt ai hữu
Thủy triều cục bị gia tư doanh ( nhà tư bản đầy kho)."
Phân kim: Kiêm Mùi Sửu, nên dùng Tân Mùi, Tân Sửu
Kiêm Thân Dần, nên dùng Bính Thân, Bính Dần.

20 – Dậu Long:
Gồm: Khôn sơn cấn hướng - Kiền sơn Tốn hướng
- Hợi sơn Tỵ hướng  - lấy Kỷ Dậu chính khí.

a) Tọa Khôn hướng Cấn: Dậu long nhập thủ tả lạc, huyệt Khôn hướng Cấn, nghi ai
Bạch hổ ( hữu) gia Tân nhất phần, lấy Kỷ Dậu chính Đoài khí, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ cửu Đoài sơn Cấn
Tả khí xung nhĩ vô đa vặn ( rối rít)
Lược gia Thiên Ất ( tân), quy long lai
Diệc chú văn chương, điền châu quận."
Phân kim: Kiêm Mùi, Sửu, nên dùng Tân Mùi, Tân Sửu
Kiêm Thân Dần, nên dùng Bính Thân, Bính Dần.

b) Tọa Kiền hướng Tốn: Dậu long nhập thủ hữu lạc, huyệt Kiền hướng Tốn, nghi ai
Thanh long, gia Canh nhất phân, lấy chính Đoài mạch quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
Khí xung hữu nhĩ, Thiên Cứu ( Kiền)
( Nói: chẳng nên lập Kiền huyệt, cho Kiền là hư mà lập Hợi huyệt vậy)
Phân kim: Kiêm Tuất Thìn, nên dùng Canh Tuất, Canh Thìn
Kiêm Hợi tỵ, nên dùng Đinh Hợi, Đinh Tỵ.

c) Tọa Hợi hướng Tỵ: Dậu long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Hợi hướng Tỵ, nghi ai
Thanh long ( tả) gia canh nhất phân, lấy chính Kỷ Dậu mạch quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Kim kê ( Dậu) lai bạc Thiên Môn ( Hợi) Để ( kêu khóc )
Khí xung hữu nhĩ Thiên cứu hư
Vi gia Thiên hán ( Canh) thủy sa triều
Thiếu niên nhất cử đăng khoa đệ."

424
Phân kim: Kiêm Kiền Tốn, nên dùng tân Hợi, Tân Tỵ
Kiêm Nhâm Bính, nên dùng Đinh Hợi, Đinh Tỵ.

21 – Tân Long:
Gồm:  - Kiền sơn Tốn hướng - Dậu sơn Mão hướng
- Khôn sơn Cấn hướng  - lấy Bính Tuất chính khí

a) Tọa kiền hướng Tốn: Tân long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Kiền hướng Tốn, nghi ai
Thanh long, vi gia Dậu, lấy Bính Tuất chính khí, quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ Tam huyệt Thiên Cửu ( Kiền)
Thiên Ất ( Tân) hành long hữu nhĩ thụ
Ai tả lập huyệt gia Thiểu vi ( Dậu)
Trung nam cập đệ, đới tử thụ ( đai cang tía)"
Phân kim: Kiêm Tuất Thìn, nên dùng Canh Tuất, Canh Thìn
Kiêm Hợi Tỵ, nên dùng Đinh Hợi, Đinh Tỵ.

b) Tọa dậu hướng Mão: Tân long nhập thủ, tả lạc, huyệt Dậu hướng mão, nghi ai
Bạch Hổ, gia Tuất nhất phân, lấy Bính Tuất chính Tân khí quán Tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Âm tuyền ( Tân) ( ngọc Tuyền) huyệt Tây hướng Đông Chấn
Âm tuyền khí tòng Tả nhĩ tiến ( lên)
Vi xâm Khương ( Tuất) vị, vật gia đa!
Tuần cảnh tiểu quan, diệc anh tuấn."
Phân kim: Kiêm Canh Giáp, nên dùng Tân Dậu, Tân Mão
Kiêm Tân Ất, nên dùng Đinh Dậu, Đinh mão

c) Tọa Khôn hướng Cấn: Tân long nhập thủ, hoành lạc tả lai hữu xuất. Huyệt Khôn
hướng Cấn, nghi ai hữu, thu Bính Tuất khí quán tả yêu.
Thôi quan thi vân:
"Âm tuyền ( Tân) long hướng Thiên thị ( Cấn) viên ( cục)
Khí tòng tả du xuy thôi kỳ nguyên
Ngọc đường kim mã vô phân đáo
Nỏ quan tuấn nhã đa điền viên!"
Phân kim: Kiêm Mùi Sửu, nên dùng Tân Mùi, Tân Sửu
Kiêm Thân Dần, nghi Bính Thân, Bính Dần.

22 – Tuất Long:
Gồm: Tân sơn Ất hướng ( sách khác có thêm Canh sơn Giáp hướng)
Lấy Canh Tuất chính khí

Tọa Tân hướng Ất: Tuất long nhập thủ tả lạc, huyệt tân hướng Ất, nghi ai hữu gia
Dậu, lấy Canh Tuất chính khí, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Tuất long thiều thiều huyệt hướng Ất
Cổ bổn ( Tuất) tả khí bên nhĩ nhập
Long hành khởi phục hướng dương ( biển) triều.
Cự phú, đãn khủng nhân tàn tật."
Phân kim: Kiêm Dậu Mão, nên dùng Tân Dậu, Tân Mão
Kiêm Tuất Thìn, nên dùng Bính Tuất, Bính Thìn.

425
23 – Kiền Long:
Gồm: Tân sơn Ất hướng ( sách khác có thêm Canh sơn Giáp hướng)
Lấy Đinh Hợi chính khí

Tọa Tân hướng Ất: Kiền long nhập thủ, tả lạc, huyệt Tân hướng Ất, nghi ai hữu, vi
gia Tuất, lấy Đinh Hợi chính khí quán Tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Dương cơ ( Kiền) lai long nghi hướng Ất
Thiểu thiểu tả khí tòng nhĩ nhập
Huyệt nghi ai hữu vi gia lâu ( Tuất)
Thủy triều cục bị gia tư thực ( thực phú)"
Phân kim: Kiêm Dậu Mão, nên dùng Tân dậu, Tâm Mão
Kiêm Tuất Thìn, nên dùng Bính Tuất, Bính Thìn.

24 – Hợi Long:
Gồm: - Nhâm sơn Bính hướng   - Kiên sơn Tốn hướng
- Quý sơn Đinh hướng   - Sửu sơn Mùi hướng
- Dậu sơn Mão Hướng  - lấy Tân Hợi chính khí

a) Tọa Nhâm hướng Bính: Hợi long nhập thủ, hữu lạc, huyệt Nhâm hướng Bính,
nghi ai Thanh Long, vi gia Kiền bán phần, lấy Tân Hợi chính khí quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thôi quan đệ nhất Thiên Phụ ( Nhâm) huyệt
Thiên hoàng ( Hợi) khí tòng hữu nhĩ tiếp
Huyệt nghi ai Tả vi gia Kiền
Tứ thụ kim chương tại tiền liệt."
Phâm kim: Kiêm Hợi Tỵ, nên dùng Tân Tỵ, Tân Hợi
Kiêm Tý Ngọ, nên dùng Bính Tý, bính Ngọ.

b) Tọa Kiền hướNG Tốn: Hợi long nhập thủ, tả lạc, huyệt Kiền hướng Tốn, nghi ai
Bạch Hổ, vi gia Nhâm bán phần, lấy Quý Hợi chính khí, quán tả nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thiên hoàng ( Hợi) khí xạ Thiên Cửu ( Kiền) tinh;
Vi ai Tây thú, gia Nhâm hành
Thiên Cửu huyệt không thủy vi cát
Tả nhĩ thụ khí quan tư vinh ( làm quan có tư cách) ( vinh hiển)"
Phân kim: Kiêm Tuất Thìn, dùng Canh Tuất, Canh Thìn
Kiêm Hợi Tỵ, dùng Đinh Hợi, Đinh Tỵ.

c) Tọa Quý hướng Đinh: Hợi long nhập thủ, hữu lạc, huyết Quý hướng Đinh, nghi
ai Thanh Long, gia Kiền Nhất phân, lấy Tân Hợi chính khí quán hữu nhĩ.
Thôi quan thi vân:
"Thiên hoàng ( Hợi) khí xung huyệt Đắc đạo ( Quý)
Ai tả lập huyệt vi khu yếu;
Sáo gia ( thêm chút) Kiền vi, tế suy tường
Hữu nhĩ thừa khí vô xung não."
Phân kim: Kiêm Tý Ngọ, dùng Canh Tý Canh Ngọ
Kiêm Sửu Mùi, dùng Đinh Sửu, Đinh Mùi."

d) Tọa dậu hướng Mão: Hợi long nhập thủ, tả lạc, huyệt Dậu hướng Mão, nghi ai
bạch hổ, lấy Tân Hợi khí quán tả nhĩ, diệc chú phú quy vượng nhân, dĩ kỳ Hợi khí
nhập yêu cố ( có) nhĩ ( vậy) nay lấy Tân khí quán nhĩ ( thông vào tai) thì cát.
Phân kim: Kiêm Canh Giáp, dùng tân Dậu, Tân Mão

426
Kiêm Tân Ất, dùng Đinh dậu, Đinh Mão.

e) Tọa Sửu hướng Mùi: Hợi long nhập thủ, hữu lạc, tả xuất hoành mạch tác xuyên,
đấu phú huyệt, nghi ai Thanh long, lấy Tân Hợi chính khí, quán hữu yêu, nhược long
chân huyệt mỹ, tắc cát, diệc đắc phú quý.
Phân kim: Kiêm Quý Đinh, dùng tân Sửu Tân Mùi
Kiêm cấn Khôn, dùng Đinh Sửu Đinh Mùi

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Chú Tử


Việt Hải

Chú Tử

Những huyệt, hướng về 24 long mạch kể trên đây, là theo phương pháp của lại công chân
truyền, trong kinh Thôi quan, những câu chữ:

 
- Nghi ai Tả, nghi ai hữu, nghĩa là xê về bên tay trái, xích xích cang bên tay hữu nửa
phân hoặc một phân, tức là hào ly trong Địa bàn đã phân kẽ, khắc chữ từng độ số
của vị trí.
- Tả hữu nhĩ, hoặc yêu, du là nói: lấy một đốt long mạch đến sau đầu đột cao hơn cả
chung quanh chỗ đó rồi khí chuyển về phía bên nào dẫn vào huyệt ví như là chếch
sang tai, chứ không xung thẳng chính chỏm đầu. Chỗ thì chuyển đến ngang vai,
ngang lưng, chân chẳng hạn. Vậy phải chăng đây hay lấy cây cắm chiếu đối 3 cái
thông một hàng làm đích, chớ nên coi thường. Nếu sai một lằn dây bằng sợi tóc ở
trong Địa bàn, thì ra ngoài sẽ sai đi trăm ngàn dặm, tức là không vào phương cát,
gặp phải vị hung, thì chẳng những không phát phước mà thấy sinh họa, thì uổng
công phu vô ích. Vậy nên thận trọng.

Bát Quái huyệt hướng


Chứng hướng

1 – Kiền Long nhập thủ:


- Lập Khôn hướng là : Thiên địa định vị
- Lập Giáp hướng là : Hợp khí
- Lập Ngọ hướng là : Hậu thiên kiến tiên thiên
- Lập Bính hướng là : Hậu thiên kiến tiên thiên
- Lập Ất hướng là : thiên địa định vị
- Lập Tý hướng là : Thiên địa định vị

427
Giáp Long nhập thủ:
- Lập Khôn hướng là : Thiên địa định vị
- Lập Kiền hướng là : Hợp khí
- Lập Ngọ hướng là : Hậu thiên kiến Tiên thiên

2 –  Khôn Long nhập thủ:

- Lập Kiền hướng là : Tiên địa định vị


- Lập Ất hướng là : Hợp khí
- Lập Tý hướng là : Hậu thiên kiến Tiên thiên
- Lập Quý hướng là : Hậu thiên kiến Tiên thiên
- Lập Giáp hướng là : Thiên địa định vị
- Lập ngọ hướng là : Thiên địa định vị

Ất Long nhập thủ:


- Lập Khôn hướng là : Hợp khí
- Lập Tý hướng là : Hậu thiên kiến tiên thiên
- Lập Quý hướng là : Hậu thiên kiến Tiên thiên
- Lập Kiền hướng là : Thiên địa định vị

3 – Ly Long nhập thủ:


- Lập Quý hướng là : Thủy hỏa bất tương xạ
- Lập Nhâm hướng là : Hợp khí
- Lập Kiền hướng là : Tiền thiên kiến Hậu thiên
- Lập Ngọ, Mậu hay Dần hướng là : Tam hợp

Nhâm Long nhập thủ:


- Lập Ngọ hướng là : Hợp khí

4 – Khảm Long nhập thủ:


- Lập Ngọ hướng là : Thủy hỏa bất tương xạ
- Lập Khôn hướng là : Tiên thiên kiến Hậu thiên
- Lập Thân hay Thìn : Tam hợp

Quý Long nhập thủ:


- Lập Ngọ hướng là  : thủy hỏa bất tương xạ.

5 – Cấn Long nhập thủ:


- Lập Bính hướng là : Hợp khí
- Lập Dậu hướng là : Sơn trạch thông khí
- Lập Đinh hướng là : Sơn trạch thông khí

Bính Long nhập thủ:


- Lập Cấn hướng là : Hợp khí
- Lập Dậu hướng là : Sơn trạch thông khí

6 – Đoài Long nhập thủ:


- Lập Đinh hướng là : hợp khí
- Lập Cấn Bính hướng là: Sơn trạch thông khí
- Lập Tỵ Sửu hướng là : Tam hợp ( Tỵ sát nên Bính hướng)

428
Đinh Long nhập thủ:
- Lập Dậu hướng là : Hợp khí
- Lập Cấn hướng là : Sơn trạch thông khí

7 – Tốn Long nhập thủ:


- Lập Tân hướng là : Hợp khí
- Lập Can hướng là : Phong lôi tương bác
- Lập Hợi hướng là : Phong lôi tương bác

Tân Long nhập thủ:


- Lập Tốn hướng là : Hợp khí
- Lập Mão hướng là : Phong lôi tương bác

8 – Chấn Long nhập thủ:


- Lập Canh hướng là : Hợp khí
- Lập Tân hướng là : Phong lôi tương bác
- Lập Hợi, Mùi hướng là: Tam hợp.

Canh Long nhập thủ:


- Lập Mão hướng là : Hợp khí
- Lập Tốn hướng là : Phong lôi tương bác

Lời giải thích

1 – Hà Đồ Thiên phối các Lạc thư HậU Thiên? Âm, Dương, Tịnh khí:
Phép lập hướng thì cốt yếu là ở cái long huyệt, sa, thủy, chứng ứng, chẳng nên câu
nệ là phải được thập toàn.
Vậy ghi chép 24 long lập hướng nên Tiên sa, nạp thủy, hợp cục như sau:
- Nhâm long : NGỌ, KHÔN, ẤT, BÍNH, TỴ, ĐINH
- Bính long : CANH, HỢI, TÂN, CẤN, NHÂM
- Khảm long : KHÔN, NGỌ, BÍNH, ĐINH, ẤT
- Ngọ long : NHÂM, QUÝ, KIỀN, CẤN, TÂN
- Quý long : NGỌ, KHÔN, BÍNH, ĐINH
- Đinh long : CẤN, HỢI, QUÝ
- Sửu long : BÍNH, ĐINH, KHÔN
- Mùi long : CẤN, GIÁP
- Cấn long : BÍNH, ĐINH, CANH, TÂN, MÙI, KIỀN, HỢI
- Khôn long : NHÂ, QUÝ, KHẢM, ẤT, GIÁP, CẤN, NGỌ.
- Dần long : KHÔN, THÂN, NGỌ, TÂN, NHÂM
- Thân long : QUÝ, GIÁP, BÍNH
- Giáp long : KIỀN, KHÔN, THÂN, MÙI, CANH
- Canh long : MÃO, CẤN, TỐN, GIÁP, SỬU, QUÝ
- Mão long : CANH, TÂN, ĐINH, HỢI
- Dậu long : CẤN, TỐN, TỴ, QUÝ, BÍNH
- Ất long  : KIỀN, KHÔN, TÝ, QUÝ, TÂN
- Tân long : TỐN, MÃO, CẤN, ẤT
- Thìn long :KIỀN, KHÔN, THÂN, QUÝ
- Tuất long : ẤT, GIÁP, QUÝ, TỐN, KHÔN
- Tốn long : TÂN, HỢI, CẤN, CANH, KIỀN, KHÔN,
- Kiền long : ẤT, GIÁP, THÌN, NGỌ, KHÔN, TỐN
- Tỵ long  : HỢI, KIỀN, DẬU, CẤN, GIÁP
- Hợi long : BÍNH, TỐN, ĐINH, MÃO, CẤN.

429
2 – Long hươớg nên kỵ:
Nhâm, tý, quý long, nên lập Bính ngọ, Đinh hướng thì tốt, vì Hỏa vốn là mạch hay
phát. Thủy hay chế được Hỏa nên phát sau.
Ngọ long thì kỵ tý hướng, Hỏa không thể chế ngự được thủy. Vậy nên lập Quý
hướng, Nhâm hướng
Dậu, Canh, Tân long, nên lập Mão, Giáp, Ất hướng, vì Mộc vốn tĩnh động, kim hay
chế được Mộc, hễ động thì phát.
Mão long thì kỵ lập Dậu hướng, vì Mộc không chế được Kim vậy nên lập Canh hướng,
Tân hướng.
Các long, hướng khác cũng khắc sát như vậy, tự ý mà suy ra thì biết chớ nên nhầm.

Cát sa vị đanh
TỨ THẦN TOÀN: Kiền, Khôn, Cấn, Tốn đều có phong loan ( có núi đồi, gò đống ôm
vòng quay vào) thì phát đại quý, thiếu một cũng giảm phước lực, đủ cả là Thần toàn.
BÁT TƯỚNG BỊ: Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Chấn, Canh tám phương đều có
phong loan thì chủ đại quý, gọi là Bát tướng bị.
TỨ THẾ CAO: Dần, Thân, Tỵ, Hợi, là tứ sinh vị đều có khởi cao thì quý lắm.
TAM GIÁC TRĨ: Cấn, Tốn, Đoài ba phương có khởi cao vót lên gọi là Tam giác trĩ.
BÁT QUỐC CHU: Tức là: Giáp, Canh, Nhâm, Bính, Ất, Tân, Đinh, Quý tam can vị. Lại
lấy ở đằng trước, đằng sau, bên tả, bên hữu chỗ tọa huyệt cũng là Bát Quốc ( 8
nước) được có phong loan, cao như bình chưởng chu mật là cực quý cách.
TAM DƯƠNG KHỞI: Tức là: Tốn, Bính, Đinh 3 phương.
Lại lấy Bính, Ngọ, Đinh là ba phương tam dương, những phương này đều có đột khởi
cao lên là quý cách lắm. Nếu là Hỏa tinh ( đầu nhọn) thì văn chương đậu cao.
NHẬT NGUYỆT MINH: Phương Ly là Nhật “ Thái dương” phương Khảm là Nguyệt
( thái âm), 2 phương có đột khởi cao vót đối với nhau gọi là “ Nhật nguyệt tịnh minh”
là quý cách, hoặc có Ngọ phong không có Tý phong, mà có Tý thủy lai triều, cũng là
quý cách. Có câu “ Thái dương đắc thủy oàn phú hào”
LỘC MÃ TỤ: Những sơn sa gọi là Lộc, Mã, không phải chỉ có một lệ, nếu được mọi
ban Lộc, Mã cùng tụ là Cực quý cách. Kể như dưới đây:

Chính lộc quyết


"Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Tốn cung tường
Bính, Nhâm, Canh, Giáp, Quý đồng hương.
Ất, Tân, Đinh, Quý, ẩm thần vị
Thập nhị thần lai Khôn thương dương
Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Kiền vi Lộc.
Khôn, Cấn, Tốn, cung xuất nghi cường."
Giải nghĩa:
Tý, Ngọ, Mão, Dậu 4 phương là Long nhập thủ, là tọa son, hoặc là hướng của huyệt
thì lấy phương Tốn là Lộc.
Bính, Nhâm, canh, Giáp, 4 phương thì Lộc cùng ở Quý.
Ất, Tân, Đinh, Quý là thuộc Âm, cả mười hai phương này đều lấy khôn làm Lộc.
Dần, Thân, Tỵ, Hợi 4 phương thì Lộc ở Kiền, nếu Khôn, Cấn, Tốn cùng có sơn khởi
xuất thì cáng thêm mạnh nữa, tức là Tứ Thần toàn đã kể ở trên rồi.

Phi Thiên lộc quyết


"Tý, Ngọ, Mão, Dậu tại Kiền cung
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tốn cung phùng
Dần, Thân, Tỵ, Hợi cư Khôn thượng
Nhược đắc vi quan tiền lập công."
Giải nghĩa:

430
Tý, Ngọ, Mão, dậu thì ở Kiền là Phi thiên Lộc.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì ở Tốn là Phi Thiên Lộc
Dần, Thân, Tỵ, Hợi, 4 phương thì lấy Khôn là Phi thiên lộc, nếu có phong khởi thì làm
quan và lập được công lớn.

Thực lộc quyết


"Tuần sơn du lộc yếu quân phân
Kiền, Đoài, Sửu, cầu Khảm thị tôn
Chấn, Tốn tầm Kiền vi chính lộ
Khôn, Ly, phước hương Tốn cung luân
Yếu tri Khảm, cấn suy khôn quái.
Phước đức bài lai khước khả trân
Nhược kiến phong loan, tiêm tú xuất
Tử tôn xa mã mãn triều môn."
Giải nghĩa:
Thực lộc là cái lộc chuyển qua theo lệ tuần hoàn của sơn nào thuộc về cung nào là
lộc ở đấy, gọi là Tuần sơn du lộc, cần phân tách rõ tức là:
- Kiền, Đoài sơn thì tìm Lộc ở cung Khảm
- Chấn, Tốn  --- -----      ------           Kiền
- Khôn, Ly    ------      --------            Tốn
- Khảm, Cấn  --------    --------           Khôn
Những phương vị là long, là hướng hoặc là tọa sơn của Huyệt ở phương nào kể trên,
thì  tìm đến Lộc vị của những phương ấy, hễ thấy có phong loan tiêm tú (nhọn đẹp)
thì con cháu xe ngựa đẩy cửa công sở cao quyền.

Chính mã quyết
"Kiền dụng Giáp vi chân chính mã
Khôn lại tầm Ất tối vi cường
Cấn tòng bính thượng tầm kỳ vị
Tốn hướng Tân phong thị Mã hướng
Nhược đắc song phong liên bất đoan
Nhi Tôn lưỡng phú bội kim chương."
Giải nghĩa:
Như Kiền long, hoặc tọa Kiền, hướng Kiền thì lấy phương Giáp làm chân chính Mã.
- Khôn thì lấy phương Ất làm chân chính Mã
- Cấn thì lấy phương Bính làm  ---------
- Tốn thì lấy phương Tân làm ----------
Những phương vị thuộc về Mã vị của mình ( tức là huyệt) mà được 2 cái tinh phong
liền nhau khởi đột lên, thì con cháu được đeo huy chương vàng cả hai phủ, tức là cả
hai Bộ của Quốc gia.

Dịch mã quyết
"Thân, Tý, Thìn sơn Cấn Mã Dần
Hợi, Mão, Mùi sơn Tốn, Tỵ tầm.
Tỵ, Dậu, Sửu sơn, Kiền, Hợi thương
Dần, Ngọ, Tuất sơn, tại Khôn Thân."
Giải nghĩa:
Dịch Mã là con ngựa liên lạc của trạm này với trạm kia. Nhưng Long, hướng, Tọa vị
của huyệt, hợp thành tam hợp cục, như Thân, Tý, Thìn hợp thành thủy cục hoặc Thổ
cục, thì lấy 2 phương Cấn, Dần làm Dịch mã. – Dần Ngọ Tuất là Hỏa cục thì Dịch Mã
ở Khôn Thân.  – Hợi Mão Mùi là Mộc cục thì Dịch Mã  ở Kiền Hợi.
Ở những phương vị là Dịch Mã của cục nào mà thấy có sơn phong, hoặc gò đống khởi

431
đột, gọi là có Mã, chứ không phải chỉ có hình Mã mới là Mã, nếu có hình tựa như Mã,
hoặc Mã đầu, Yên Mã thì càng tốt.

Tá lộc, tá mã quyết
Bính tá ( mượn) Tốn vi  ( lầm) Lộc mã trường
Nhâm  -------      Kiền   ---------------     Hương
Giáp    -------      Cấn       ------------       Địa
Canh   ---------    Khôn    -     -------        Phương
Những danh vị kể trên hễ thấy có núi đồi hoặc gò đống đột khởi cao lên, là quý cách,
nhưng cũng không hẳn là có đủ cả, được vài vị cũng là quý rồi, đủ cả là Đại quý.
- PHÚ QUÝ TOÀN: Tốn Tân 2 phương cùng có cao phong hoặc có gò đống đột khởi,
thì phát Trạng nguyên liền khoa.
Như Tân, Hợi sơn, mà thấy Tốn, Tân, có đất cao, thì phát Tể tướng, như Tân sơn, mà
hướng Tân có gò đống cao vót đẹp lạ kỳ thì phát Thượng thư ( bộ trưởng), thấp nhỏ
cũng phát văn quan, tú sĩ. Như Hợi sơn thấy hướng Bính, Dinh có gò cao hay Cấn sơn
thấy hướng Đinh, hướng Tân có gò cao thì phát Thần đồng Bái tướng cao thọ. Những
Sa kể trên là cách phát về khoa đệ văn chương.
Như lập Cấn sơn thấy hướng Bính, Đinh, Canh, Tân, cao đẹp thì phát đại phú đa
nhân, có thủy triều cũng tốt lành. Như lập Canh sơn thấy Mão, Cấn có gò cao, lập
bính đinh sơn thấy Hợi, Cấn có gò cao. Lập Cấn sơn thấy Đinh có gò cao thì phát
trung phú và vượng người. Những sa ở phương vị vừa kể trên là phát phú và thịnh
vượng.
TỬ, NỮ VƯỢNG: Cấn, Chấn, Khảm vi tam nam, 3 phương này có phong khởi thì
vượng đinh ( nhiều con trai)
Tốn. Ly, Đoài vi tam nữ, 3 phương này có phong khởi tốt đẹp thì chủ con gái quý
TÀI BẠCH PHONG: Cung Cấn là hóa tài chi phú, lại làm Thiên Lộc, làm Tử phú ( tử vi
Thiên phú) hễ thấy có phong cao đại hoặc gò đống đầy đặn mập mạp, mặt vuông
ngay thẳng, thì phát tải bạch đa số.
THỌ TINH SỦNG: Đinh vi Nam cực lão nhân, như lập Đoài sơn thấy Đinh phong thì
được nhiều người thọ.
CANH ĐIỂM MINH: Tốn là phương Canh điểm ( kiểm điểm canh gác) phương này có
phong khởi hoặc gò đống thì phát quý, cũng nên sánh với long huyệt tương đối.
HUYỆT CÔ TRẤN: Mão, Dậu, Cấn, Tốn, gọi là Dương cổ ( trống thuộc dương) Bính,
Đinh, Canh, Tân, gọi là Âm cổ ( trống thuộc dương vị). Những phương kể trên, nếu
có sơn thể hình tròn trĩnh như cái trống thì phát quý, văn võ cao quan.
VĂN BÚT TÚ: Tốn Tân 2 phương có núi nhọn hoặc gò đống hình tam giác có mũi
nhọn là văn bút, và gọi là “ Quý nhân phong”. Nếu có thì phát xuất người văn
chương quan thế ( đứng đầu thế giới).
NGỰ ĐẠI TẮC: Canh, Dậu, Tân 3 phương có sa hình như con Cá gọi là Ngự Đại tắc
nên cho chắn thủy khẩu thì phát quý. Nếu ở phương Dần, Giáp là Mộc Ngư thì xuất
Tăng đạo sĩ.
NGỌC ĐỚI HIỆN: Tốn, Tân hai phương có sa hình như cái đai lưng gọi là Ngọc đới.
Phương Canh, Dậu gọi là kim đới. Ở Cấn gọi là Ngân đới, những cái sa này nên dùng
làm án thì quý lắm.
KIM ẤN PHÙ: Đoài, Canh, Tốn, Tỵ, Kiền 5 phương này có sơn đột hình như cái Ấn,
đều gọi là kim Ấn, nổi lên ở giữa vũng nước là chân đích, gọi là “ Ấn phù thủy điện”
hoán hồ kỳ hữu văn chương.
Lại lệ:
 Tại Canh phương gọi là Kim Ấn
 Tại Dậu    --------------    Ngọc Ấn
Tại Tân    --------------      Ngân ấn
Tại Đoài  -------------        Vạn Mộc kim sương Ấn
Tại Dần    --------------      Mộc Ấn

432
Lại nói:
Ở phương Trường sinh là Kim Ấn
----------     Đế vượng ----   Ngọc Ấn
 ---------   Mộc dục ----    Mộc Ấn
 ---------    Tốn ------    Quan Ấn
---------      Ly    -------      Hỏa Châu Thiên Sư Ấn
---------      Khôn   ------    Điền Thổ Ấn
--------       Khảm    -------    Tăng Ấn
--------       Chấn     -------     Quỷ Ấn.
PHÁN BÚT TOÀN: Canh, Dậu, Tân 3 phương có sơn sa nhọn đứng cao hoặc nằm thấp
gọi là Phan bút toàn ( toàn là dùi, khoét). Lại nói là ở phương Tốn Tân cũng thế. “
Chủ phát luật sư”
NHA TRƯỢNG BÃI: Tỵ phương có hình như cái gậy. Gọi là: Nha trượng (cái gậy của
nha môn)
ĐÂU MẬU TUẤN: Đoài, Canh phương có phong cao đại gọi là Đâu Mâu tuấn, lại nói
phương Canh thuộc về Binh tướng “ phát binh tướng”
KIẾM KÍCH TRÁC: Canh, Dậu, Tân tam phong tịnh tú, đột xuất xâm vân, chủ xuất võ
tướng uy trần chư bang. Nghĩa là: Phương Canh, Dậu, Tân 3 phương đều có núi nhọn
đột cao lên chân mây, thì phát võ tướng có uy quyền chấn áp các nước.
PHÙ TIẾT CỦNG: Đinh phương có phong khởi, gọi là Phù tiết và gọi là Hỏa tinh.
BINH QUYỀN ĐẠI: Chấn sơn kiến Canh phong, Cấn sơn kiến Đinh phong, Canh sơn
kiến Mão phong. Nghĩa là: Huyệt tọa Chấn, hoặc hướng Chấn, hoặc Chấn long nhập
thủ, mà thấy ở phương Canh có núi khởi cao, hoặc gò đống đột lên thì có Binh quyền
lớn, các phương vị kia cũng vậy.
TỬ BÀO THANH: Phương Đinh là Tử bào thành ( áo màu đỏ tía)
NHA GIẢN TRĨ: Phương Tốn có sơn hình như cái thẻ Ngà đột cao, gọi là kha giản trĩ.
KIM LOAN CAO: Phương Đoài có hình như con chim đột cao gọi là Kim loan ( chim
loan vàng)
KIM NHAI CHÍNH: Phương Kiền là Kim nhai, phương Bính là Ngự nhai (tức là sơn hình
bình chính đoan trang).
NHA ĐAO XÁP: Ở phương Cấn, Tốn có hình như con dao gọi là Nha Đao (dao của Nha
môn về văn quan).
BẢO BÌNH LIỆT: Phương Tý có hình như cái bình ( lọ cắm hoa) gọi là Bảo bình. Ở
phương Tốn gọi là Bảo kê cài Trâm báu.
THIÊN LIỄN ĐOAN: Ở phương Khôn có hình như cái giá xe gọi là Thiên Liễn ( xe của
vua ngôi).
HOA CÁI LÂM: Ở phương Nhâm, Tý, Quý, có hình như cái lọng gọi là Hoa Cái Lâm.
TỬ LẬU THỊNH: Ở 2 phương Tốn, Tân có hình như cái Đệm, cái thảm giải rộng ra, gọi
là Tử lâu thịnh (cái đệm sắc tía)
XÁ VĂN KHỞI: Bính, Đinh, Canh, Tân 4 phương có sơn sa hình vuông khởi lên như
cái Bình phong gọi là Xa Văn khởi. Ở phương nào có thì phương ấy vĩnh viễn không bị
hung họa. Lại bảo: Kiền, Khôn, Cấn, Tốn là Đại Xá Văn, ở Giáp, Canh, Nhâm, Bính là
Tiểu xa văn ( Xá văn tinh là vì sao lành, tha thứ hết tội lỗi).
THÔI QUAN XUẤT:
Bính, Đinh, Canh, Tân là: “ Dương thôi quan”
Cấn, Chấn, tốn, Đoài là: “ Âm thôi quan”
Những phương kể trên có sơn sa, thủy triều gọi là Thôi quan xuất.

Quan Quốc viên:


"Tý sơn thì Quan quốc viên ở Tuất Kiền
Sửu sơn thì Quan quốc viên ở Hợi Nhâm."
Nghĩa là:
Tý long hoặc hướng, hoặc tọa, thấy có phong khởi hoặc gò đống hình tròn ở phương

433
Tuất Kiền là Quy cách. Sửu Long, hướng, tọa sơn thì ở Hợi Nhâm cũng vậy. Lại bảo:
Ở bệnh phương nữa. Họ Cửu Thăng nói: Ở long gia đại ngũ hành thì lấy ngọc ở trước
mặt phương  Bệnh làm Quan Quốc viên ( viên quan của quốc gia). Như thủy long, thì
Bệnh ở phương Dần, trước mặt đối chiếu với Dần là Thân, tức Quan Quốc viên ở
Thân.
ĐẾ TÒA TÔN: Hợi phương là Đế tòa, có phong khởi đoạn chính là Đế tòa Tôn.
CỐC TƯỚNG HÙNG: ngôi cốc tướng thì thấy mấy chỗ nói khác nhau, xét ra là sai cả.
Cứ như Long gia Đại ngũ hành, thì cốc Tướng ở giữa 2 ngôi Quan Đới và Lâm quan
của các cục.
THÍ DỤ: thủy thổ long Trường sinh ở Thân thì quan Đới ở Tuất Lâm quan ở Hợi, tức
Kiền Cốc tướng, nếu có sơn Phong khởi là Cốc tương hùng, được quý cách, phương
này không nên cho thủy phóng đi có câu thường nói: “ Lâm quan Thủy phóng không
người phù nâng” tức bại Tuyệt. Ba cục Kim, Mộc, Hỏa cũng vậy, theo lệ định mà suy
ra ( chủ giàu có).
THIÊN SƯƠNG VỊ: Kể từ phương Tý khởi trực Kiên, tính đến Trực Thu là thứ 10 ở
phương Dậu, gọi là Thiên sương vị ( kho trời)
HỒNG KỲ: Phương Chấn ( Mão) có sa hình như lá cờ gọi là Hồng Kỳ ( cờ đỏ)
THIÊN KỲ KHAI: Phương Bính Ngọ thấy sơn sa hình như lá cờ là Thiên kỳ khai ( mở
cờ).
THÁI DƯƠNG THĂNG ĐIỆN: Bốn sao Phòng, Hư, Mão, Tinh, ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu, nếu
thấy có Thái dương Kim tinh ở bốn phương ấy cùng chiều vào huyệt là cách cực
phẩm chi quý. Địch quốc chi phú ( giàu sang bực nhất)
THÁI ÂM NHẬP MIẾU: Bốn sao Tân, Nguy, Trương, Tuất, tại Giáp, Canh, Nhâm, Bính
4 phương này nếu có Thái âm Kim tinh ở bốn mặt cùng chiều, thì phát Nam vi Phụ
Mã, nữ tác cung phi.
NGŨ KHÍ TRIỀU NGUYÊN: Hỏa tinh tại Nam, Thủy tinh tại Bắc Mộc tinh tại Đông, Kim
tinh tại Tây, tinh tú đều đẹp. Trung gian Thổ tinh kết huyệt, tọa Bắc hướng Nam gọi
là NGŨ KHÍ TRIỀU NGUYÊN, cũng gọi là : Ngũ tinh thủ viên” chủ quý hiển, hiếu thực,
tức làm quan cao, về sau được thờ cúng ở nơi Tôn miếu triều đình.
TAM HỎA CÙNG CHIẾU: Ly là Thiên Lộc, Bính là Địa Lộc hỏa, Đinh là Nhân Tước hỏa,
3 phương đều có tinh phong tiêm tú là cách cực quý. Nhưng hiềm phương Ly có Hỏa
tinh thì nên ở Kiền Nhâm hai phương có phong để tiết chế thì mới cát, không có thì
nên dụng Ba chu pháp, là lấy Kiền là Kim khí sinh Nhâm thủy để chế đi. Dương trạch
phong thủy cũng vậy. Hoặc đào một cái ao to rộng ở trước mặt thì sinh xuất hiền tá (
quan to giúp vua) không thì hay sinh ra Hỏa tai ( nạn cháy nhà).
KIM MÃ THƯỢNG GIAI: Kiền vi Thiên Cứu ( chuồng sở nuôi ngựa). Ngọ vi chính mã
theo về giống vậy. Nên Kiền là Kim mã. Ngọ là Thiên Mã, hai phương này có mã sơn
lại đượcphương Đoài cao túng. Gọi là Mã Thượng Kim giai ( Ngựa trên thềm vàng)
tức là quý cách.
XÍCH XÀ NHIỄU ẤN: Phương Tỵ gọi là Xích Xà ( con rắn đỏ). Nếu có hình đột lên như
cái ấn thì quý lắm: gọi là Xích xà nhiễu ấn ( Con rắn đỏ quấn quanh cái ấn).
TÔN ĐẾ ĐƯƠNG TIỀN: Phương Bính là Tôn tinh, phương Đinh là Đế tinh, có song
phong ở 2 phương là quý cách. Hợi vi đế tòa vi Tiên kiểu ( cái cầu Tiên) có sơn cao là
cực quý.
LỘC MÃ CỦNG HẬU: Cấn, Bính, là thiên lộc, Kiền Ly, là Thiên Mã, những phương vị
này có sơn cao chướng ( che ngăn) cũng là quý cách.
QUÝ THAM THIÊN TRỤ: Kiền vi Thiên trụ, nhược Quý nhân phong cao tủng, chú đại
quý. Nghĩa là: Phương Kiền là cột trụ của trời, nếu có núi cao khởi vót lên là Quý
nhân phong, thì phát đại quý ( vua chúa, quan to).
MÃ THƯỢNG NGỰ GIAI: Phương Tốn mà có sơn đột, hình như con ngựa hoặc đầu
ngựa, yên ngựa, lại gồm cả thủy triều nữa, gọi là Mã thượng ngự giai (Ngựa trên
thềm nhà vua) thì phát quý ở gần Đế vương.
Họ Liêu đoán rằng: “ Mã để đạp phá Ngự giai thủy, Tá tài xuất khứ, Trạng nguyên

434
hồi” chính là cách này.
TAM QUYẾN TỀ MINH: Như Dần sơn, Thân hướng, mà ở phương Thân có đồi núi cao
hoặc gò đống là nhất quyến. Dần Ngọ Tuất có phong là nhị quyến. Thân Tý Thìn có
phong là Tam quyến, gọi là Tam quyến tể minh ( 3 quyến đều tỏ), không kể là vuông
hay tròn nhọn, đều là mỹ.
QUÝ NHÂN SƠN:  Giáp Quý Nhân tại Dậu. Thân Quý Nhân tại Thìn
- Bính Quý nhân tại Tý   - Đinh Quý nhân tại Hợi
- Mậu  ----               Mão - Kỷ -------------       Dần
- Canh và Nhâm ---- Ngọ - Tân và Quý  ------  Tỵ
QUAN QÚY SƠN:
- Giáp Quan Quý tại Mùi - Ất quan quý tại Thìn
- Bính     ----------     Tỵ  - Đinh  ---------    Dần
- Mậu   -------------    Mão - Kỷ và tân ----    Dậu
- canh      ----------     Hợi - Nhâm   - -----    Tuất
- Quý      -----------    Ngọ.
Thí dụ: Giáp long nhập thủ, hoặc tọa Giáp, hướng Giáp, thấy phương Dậu có sơn,
phong cao khởi, hoặc gò đống đột lên, là Quý Nhân, tức Quý cách thì ngôi mộ ấy
phát quý. Chín phương can kia cũng vậy, cứ như thế mà suy đoán.
Thí dụ: Quan quý sơn, cũng theo như thể lệ trên mà suy ra, để xét đoán. Nếu đất có
Quý nhân Quan Quý, cùng Lộc, Mã, là có quý cách đủ cả thì quyết đoán là xuất cao
quan, hậu lộc, tùy theo địa cục sơn thủy hình thế lớn, nhỏ, mà quyết đoán phát
phước to, bé của mộ ấy.
Nếu những phương vị là Lộc, mã, Quý nhân của long, hướng tọa cục ấy, mà không
thấy sơn khởi chứng ứng vào mộ, thì chỉ là đất phát phú ông thôi.
Trong sách đoán có câu: “ Tiến nguyên Quan Quý đầu không đồ vị hư danh hư vị”
Nghĩa là: Những phương vị là Quý thuộc của mộ mà đê bình không khoáng, thì chỉ là
phát tầm thường, thôi nếu có làm thì cũng là những chức vị phụ thuộc, hư danh, chứ
không được cao quan chính thức, quyền quý uy hùng.

Còn tiếp

Việt Hải

( Trích từ nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn


giới thiệu ) .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 43


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 22:14 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Cát thủy vị danh


Việt Hải

Cát thủy vị danh

Tam dương thuỷ: Tức là: Tốn, Bính, Đinh thủy, hợp lưu Chấn Cấn, xuất khứ thì phát cao quan
hậu lộc, như chức vị Tam công đời xưa. Hợp lưu với Canh, Dậu xuất khứ, gọi là Tam Quy Thủy
cũng thế.

435
Diệp Cửu Thăng nói: Tốn, Bính, Đinh, là 3 cát thủy đều ở phương Nam, nên gọi là
Tam dương, lại không phải là Tốn, Bính, Đinh mà lại là: Nội đường, Trung đường,
Ngoại đường ( ở trong tay long, tay Hổ là Nội Đường, ở trong án sơn, là Trung
đường, ngoài án sơn là Ngoại đường).

Lục kiến thuỷ: Tức, Thiên kiến là Hợi, Địa kiến là Cấn, Nhân kiến là Đinh, Tài kiến là
mão, Lộc kiến là Tốn, Mã kiến là Bính. Tăng Công thì lấy hình cục mà nói: Lấy Thủy
triều Tả, gọi là Thiên kiến, thủy triều hữu là Địa kiến, Thủy triều Trung là Nhân kiến (
kiến nghĩa là dựng)
Diệp Cửu Thăng nói: Lục Kiến là Sinh, Vượng, Mộ, Tuyệt, của Long gia Đại ngũ hành.
Những cái lục kiến kể trên, đều là mượn cái danh sắc của Lục kiến mà gọi thôi, chứ
không phải là thực Lục kiến. Nay đem Lục kiến phân liệt từng vị như sau:

1 – Thiên kiến: Thiên kiến là Địa vị của Thái dương, tức Dương sinh ra hai vị, nếu
có sơn, thủy triều Ấp, thì sinh ra con cháu, thông minh tú lệ, có đức lượng, không
bạo ngược hung ác. Có bài quyết:
"Thiên kiến chi sơn, cao bách trượng,
Trực thượng phong đính vong
Nhược nhiên thủy triều nhập minh đường
Thực lộc ta minh vương."

2 – Nhân kiến: Nhân kiến là cái hóa khí của Địa nó tụ lại, tức là Lâm quan, Đế
vượng thủy lai, thì phát đại phú, xuất thông minh, tuấn tú, Trạng nguyên, nam, Nữ
đều thọ, thủy khứ thì bại tuyệt. Tức thị Vũ khúc thủy lai đắc cát, có bài Quyết:
"Nhân kiến cát phượng sơn thủy đáo
Ngụ âm giai vân hảo
Thủy khứ thủy lai đại cát xương
Phú quý tức vô cương."

3 – Địa kiến: Địa kiến là cái âm khí của Địa, tức Mộc dục phương, chủ dâm loan,
con cháu bạo ngược bất hòa. Nếu có Quan đới, thủy đồng triều, thì phát hoành tài
( của ngang tắt) tức Văn khúc thủy lai, Khứ bất cát. Có bài quyết:
Địa kiến chi phương quân yếu hội, sơn thủy tả tương đối, Sơn kỳ thủy tú, tụ minh
đường, dục nữ phối hiền lương ( Nghĩa là: Phương Địa kiến người, cần biết: Sơn và
Thủy nên cùng đối nhau, tức là có sơn lạ, thủy đẹp ở Minh đường, thì sinh con gái,
hoặc con gái nuôi sẽ lấy chồng là bậc quan sang, rễ quý).
Tức là phương Mộc dục, thủy triều lại, cũng không tốt, thủy phóng đi, cũng xấu, chỉ
nên tụ hội ở phương ấy thì hơn.

4 – Tài kiến: Tài kiến là chỗ Địa nó hội khí, là nước nên chỗ nó chảy lại, phương
Suy, Bệnh thì tốt và thi cử gặp thời. Chảy đi thì phát tài, không phát quý, và sinh
nhiều con gái, tính khí nhỏ nhen, ghen tỵ, không hòa thuận, không trường thọ. Tức:
Cự Môn thủy, lai khứ cát. ( Nước đi lại ở phương ấy đều là cát) nên có bài Quyết.
"Tài kiến chi phương Sơn, thủy chí
Đoan định đăng khoa đệ,
Nhược nhiên, thủy lưu khứ vô hồi, gia phú tích tiền tài."
Nghĩa là: Ở phương Tài kiến mà có sơn thủy đến, quyết đoán thi đậu đăng khoa. Nếu
nước chảy đi không trở về, thì nhà có kho chứa tiền của. Vậy có câu “ Suy phương
khả khứ lai” ( chảy đi, chảy lại, cũng được cả không hại gì)

436
5 – Quỷ kiến: Quỷ kiến là chỗ nó ngưng khí, tức: Tử, Mộ hai phương. Nếu nước ở
hai phương này chảy lại tì gặp tai họa về giặc cướp  và hình ngục. Sinh ra người
tướng mạo như ác quỷ, và sẽ bị tật bệnh, đào vong, yếu triết v.v… Tức là Thiên
cương thủy, phong khứ thì cát, chảy lại thì hung. Có bài quyết:
Quỷ kiến chi phương, Sơn thủy ác, kiếp đạo niên niên trước, nhược nhiên triều thủy,
nhập Minh đường, ôn hòa huyết quang thượng, chính là nghĩa đã kể trên.

6 – Lộc kiến: Lộc kiến là ở địa vị nghịch khí, tức: Tuyệt Thai, 2 vị này Thủy phóng đi
thì phát tài, thủy triều lại, thì bị hình ngục, và sinh bệnh hoàng thũng lao sái. Nếu cả
2 phương Thai, Dưỡng đều triều, thì nửa cát, nửa hung. Có bài quyết:
  Lộc kiến thiểu thiểu thủy lưu khứ, đại đại khai chất khố, Nhược nhiên triều thủy
nhập minh đường, uổng tử Thiếu niên lang. ( Nghĩa là: Phương Lộc kiến nước chảy đi
tuồn tuột, thì đời đời có kho chứa, nếu nước chảy lại Minh đường, thì trai tài, chết
trẻ, uổng đời)

LẬP CÁT THỦY: Lập cát thủy, là những thủy kể sau đây:
Đinh là Ngọc Môn Thủy và là Thọ tinh thủy. – Tốn là Văn Bút Thủy – Tân là Học
đường thủy. – Bính là Kim Đường thủy. – Mão là Bảo Dương Thủy.
BÁT QUỶ THỦY: Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Chấn, Canh, 8 phương có thủy
triều.
LỤC TÚ THỦY: Cấn, Bính, Đoài, Đinh, Tốn, Tân, sáu vị có thủy lai triều.
THÔI QUAN THỦY: Cấn sơn, Bính thủy – Chấn sơn, Canh thủy – Tốn sơn, Tân thủy –
Đoài sơn Đinh thủy.
Tất cả đều triểu. những cái ấy là do nạp giáp, âm dương tương kiến, nên chủ là: Thôi
quan Tiến tước. Lại nói: Thủy lưu Thái Ất, thăng quang, phương vị, xuất khứ, tức là 2
phương Tuyệt Thai vậy.
XÁ VĂN THỦY: Bính Đinh thủy triều.
TRƯỜNG THỌ THỦY: Tức Cấn, Bính, Đoài, Đinh thủy triều.
Nam cực Lão nhân tinh, về tiết Xuân phân, thấy ở Bính. Tiết Thụ phân thấy ở Đinh, vì
Bính nạp ở Cấn, Đinh nạp ở Đoài. Cho nên Thủy ở bốn vị này, đều được thọ khảo
( sống lâu).
HOÀNH TÀI THỦY: Tức: âm sơn, âm thủy, thủy triều, Dương sơn, Dương thủy triều,
chủ phát lộc ( phát mau lẹ).
KIM ĐỚI THỦY: Tức Canh, Dậu, Tân thủy nhiễu bão ( ôm vòng) và nói: Đoài, Đinh
cũng vậy.
NGÂN ĐỚI THỦY: Cấn thủy nhiễu bão, Cấn là Ngân bảo địa vị, và nói: Cấn, Bính
cũng là Ngân đới.
KIM GIAI THỦY: Canh, Dậu, Tân thủy đặc triều, hoặc điền nguyên bình thản, là giải
ruộng thấp, như lạch nước ở đất bằng phẳng, phát nguyên dẫn lại Minh đường, mà
từ phương Canh, Dậu, Tân.
NGỰ GIAI THỦY: Âm cục mà Cấn, Tốn thủy lưu khứ: Dương cục mà Kiền, Khôn, thủy
lưu khứ.
Lại nói: “ Lộc mã hoàn tụ Thương ngự giai, Khôn, Thân, Dần, Cấn, hảo su bài”
( Nghĩa là: Ở phương Lộc Mã nên có thủy triều lại, gọi là Ngự giai thủy, như là Thủy
lưu về phương Khôn, Thân, và phương Cấn, Dần, mà suy xét được hợp pháp thì tốt).
BẢO KHÓ THỦY: Tức là Cấn, thủy nhiễu.
KIM NGƯ THỦY: Tức là Tốn, Tân thủy bão.
BINH TƯƠNG THỦY: tức Khảm, Quý thủy.
VŨ LOAN THỦY: tức Ly, Nhâm thủy.
QUAN DIỆU THỦY: Tức là Cấn sơn, Đoài thủy – Đoài sơn Cấn thủy – Khảm sơn Quý
thủy – Quý sơn Khảm thủy – Ly sơn Nhâm thủy – Nhâm sơn Ly thủy – Chấn, Canh,
Hợi, Mùi sơn, Kiến Tốn thủy – Tốn sơn Kiến Chấn, canh, Hợi, Mùi thủy, như thế đều
là Âm dương tương phối, không lẫn lộn nhau, cho nên chủ về Thôi quan, phát tài lộc.

437
QUY NGUYÊN THỦY: Tức Hợi, Cấn Sơn, Bính, Đinh thủy, - Bính đinh sơn, Hợi thủy –
Chấn, Tốn Sơn Canh thủy – Canh, Dậu, Tân sơn Chấn thủy – Ly sơn, Nhâm, Quý
thủy – Quý, Khôn sơn Ngọ thủy. Tức là: Tuyệt, Thai 2 vị thủy, hoặc ở trước huyệt,
thủy trực phong, đều không hại gì cả, chỉ có Khôn sơn thì Kỵ Tỵ thủy, là Mộc khắc
Thổ, Quý thủy vậy.
Lại bảo: Kim thì Tuyệt ở Giáp, Mộc Tuyệt ở Canh, thủy Thổ Tuyệt ở Bính, Hỏa Tuyệt
ở Nhâm. Nên Giáp Canh, Nhâm, Bính, bốn vị là Thái Ất quy nguyên thủy ( nước về
đầu gốc xứ) chủ phát quy.
TẠI LẠ THỦY: Tức Hợi Sơn, Tỵ bính thủy – Cấn, Bính sơn Canh thủy – Tốn sơn Đinh
thủy – Đoài, Đinh sơn Tân thủy – Canh sơn, Cấn, Bính thủy – Mão sơn Bính thủy –
Nhâm, ngọ sơn, Ất thủy – Khôn sơn Nhâm thủy.
QUỶ HƯƠNG THỦY: Tức Chấn, Canh 2 vị, tại Thiên quái là Ngũ quỷ, nên chảy đi.
DƯƠNG CÔ THỦY: Cấn, Tốn, Chấn, Đoài, thủy triều, tiên đáo huyệt, vi Dương Cổ tiên
minh ( trống tiếng kên trước).
ÂM CỔ THỦY: Bính, Canh, Đinh, Tân thủy triều tiên đáo huyệt, vi Âm cổ tiên minh,
( trống âm đánh tiếng trước).
LỘC MÃ THƯỢNG NHAI THỦY: Tức Giáp, tân nhị thủy lưu Kiền Ất, Bính nhị thủy lưu
Khôn, - Tân, Giáp nhị thủy lưu Tốn – Bính Ất nhị thủy lưu Cấn. Đây đều là lấy Tứ duy
làm chính Lộc, chính Mã lưu khứ.
KIM MÔN HOA BIỂU THỦY: Tức Tốn thủy lưu Cấn, chủ nữ vi phi ( vợ vua). Lại nói:
Hao Hợi cũng vậy.
TÀI BẢO NGỌC GIAI THỦY: Tức Cấn Bính thủy nập Đoài, Đinh, Nhâm, sậu quy ( phát
quy mau chóng). Lại nói: Cấn, Đinh nữa.
KIM MÃ NGỌC DƯƠNG THỦY: Tức Tốn thủy, nhập, Dậu, Đoài, Tân phương, chủ quý
nhập triều ban, hàn uyên thanh danh.
Tân thủy nhiễu, chuyển Đinh phương, chủ Thanh tụ Kỳ tài.
NHÂN ĐINH THÔI QUAN THỦY: Tức: Bính thủy lưu Đinh, Đoài xuất, chủ Vượng nhân
đinh, vinh hiển quý. Lại nói: Đoài, Bính, Bính, Đoài cũng vậy.
KIM NGỰ NGỰ GIAI THỦY: Tức Bính thủy nhập Tốn, chuyển Tân hoặc Đinh, chủ phú
quý song toàn. Nếu lại được nước phương Đông ( Chấn) triều lai, hoặc lai triều, được
dài dòng chảy vào Tuyệt Thai, Lộc Tồn, rồi xuất khứ, thì phát đạt. Lại nói: Đoài,
Đinh, Tốn cũng vậy, đều là Kim ngự ngự giai thủy.
KIM MÔN THƯỢNG MÃ THỦY: tức Bính, Thủy nhập Đoài, chuyển Tốn, lưu Chấn là:
Kim môn trao tí, hạch thanh danh. Lại nói: Bính, Đinh, Tốn, Mão cũng vậy.
CHÍNH QUAN VĂN TÚ THỦY: Tức thủy lai trường; dịch thế văn chương, liên danh
khoa giáp, quan chức hiên dương. Lại nói: Cự môn, Tốn, Tân cũng vậy.
KIM BẢNG NGỌC ĐƯỜNG THỦY: Tân thủy lưu nhập Bính, chủ xuất Thanh tú tài tử,
vinh quy miên viễn. Lại nói: Tốn, Tân, cũng thế.
CHÍNH QUAN TÀI BẠCH THỦY: Tức Tốn thủy lưu Dậu, nhập Hợi đắc Đoài, Chấn sơn,
cao ứng, chủ tư tài cự vạn ( tư bản lớn gấp muôn lần). Lại nói: Tốn Đoài cũng thế.
TẢ HÒA, HỮU HỢP THỦY: tức Mão thủy lưu nhập Tốn chuyển Canh Tân phương, Hợi
thủy lưu chuyển Bính Đinh phương, chủ xuất Vương hầu.
CHÍNH QUAN BẢO NHAI THỦY: Tức Đoài thủy lưu nhập Tốn, lại có Đoài phong tủng
bạt ( cao vót) chủ Tử tôn quý hiển.
KIM QUAN NGỌC ĐẨU THỦY: tức Đoài thủy lưu Cấn, nhược Chấn sơn cao ứng, chủ
quan tước mãn triều. Lại nói: Đoài Đinh nữa.
CHÍNH QUAN VÕ LOAN THỦY: Tức văn khúc lưu Khôn, nhược Khảm sơn mạch, chủ
xuất Võ phu Thượng Tướng và Ngọ phương cũng vậy.
HUYỀN QUAN TỬ KHÍ THỦY: tức Đinh thủy lưu chuyển Tỵ, Đoài sơn cao ứng. Chu tử
thụ kim chương ( huy chương vàng buộc tháo tía) và Đinh Đoài cũng vậy.
CHÍNH TƯỚNG BINH QUYỀN THỦY: Tức Nhâm thủy lưu Khảm Quý chu hoành phát tư
tài, quan chí khoa mục, và nói: Tân Hợi cũng vậy.
TAM DƯƠNG CỬU QUAN THỦY: Tức Vũ khúc tam nguyên lưu Liêm nhập Cấn, chủ

438
xuất Thiên Mục Tể phụ. Lại bảo: Tốn, Mão, Quý nữa, cũng thế.
CHÍNH MÃ NGỌC GIAI THỦY: tức Canh, Bính, Đoài thủy.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Hung thủy vị danh


Việt Hải

Hung thủy vị danh

Đào hoa thuỷ: Có 2 tên nữa gọi là Hàm trì thủy, Nga mi Thủy, ngụ ý: Mão, Dậu là chỗ của Thái
âm xuất nhập trước hôm 30 ( cuối tháng gọi là hối) và sau hôm mồng 1 ( đầu tháng gọi là góc) và
có hình dạng như Nga mi, trông vẻ đẹp như yêu kiều.

 
Phương Tý, Ngọ, với Mão, Dậu gọi là tứ chính, Dương cục thì kỵ hai cái thủy ở Mão
Dậu, phá cục. Nếu Nhâm Tý, Quý long, có Ngọ thủy triều, thì sậu phát ( phát sau)
lấy Kỷ, Nhâm phối nạp, là thủy chế, họa phục, vậy được cát.
Ly long, Khảm thủy triều, tuy phát phước nhưng sinh dâm loạn. Bởi vì thuần quái,
bất phối ( cùng là dương cả) long thụ khảm chế cơ vậy.
Âm cục, kỵ Tý, Ngọ hai thủy phá cục. Nếu Canh, Tân long thấy Mão thủy triều thì đại
phát. Lấy can quái tương phối, thì kim chế Mộc phục, nên được là cát? Như Chấn
sơn, Đoài thủy triều tuy cát tắt sinh dâm, lấy Ly: thuần quái bất phối ( không có âm
dương, tương phối) bởi Một long thụ kim chế cơ vậy.
Lại nói: Khảm long, Ly thủy, bất nghi nhập Dậu: bảo đấy là Dâm hỗn đào hoa.
Lại Công nói: “ Khảm long Ly nhập thủy nhập Dậu: Đoài Dâm bôn tất chu, kỳ tang
trung”  ( Nghĩa là: Dâm loạn, trai gái hẹn gặp nhau trong nương dâu).

PHONG THANH THỦY: Tức là: Tốn, Tỵ, Thủy,bất nghi phá dương cục. Khôn, Thân,
thủy bất nghi phá âm cục. Nếu thấy thủy ấy phá cục, thì sinh dâm loạn, tiếng tăm bỉ
ổi, nên bảo đó là Phong thanh thủy.
Lại có câu: Khôn Cấn chi sơn, tại Bính, Nhâm.
"Nhất định hoa nhai liễu hạng nhân
Nhược hữu tinh sa, lại tiếp ứng
Bất câu bần phú nhạ phong thanh."
Nghĩa là: Long, Huyệt ở phương Khôn, phương Cấn, mà phương Bính, hoặc phương
Nhâm, có thủy lai, thì nhất định sinh ra người dâm ô ở chỗ đường hoa, ngõ liễu. Nếu
có sơn sa tinh phong lai tiếp ứng nữa, thì chẳng kể gì kẻ nghèo, người giàu, cùng đều
sinh ra lãng mạn hoang dâm, tham hoa hiếu sắc. Bính, Nhâm, Khôn, Cấn, là Tham
hoa, phái nam nhiều người, hiếu sắc ngao du.

LY HƯƠNG THỦY: Tức là: Ly, Nhâm, Dần, Tuất tứ ( 4) thủy Ly là Ly hương biệt khứ,
Nhâm, Dần, Tuất 3 phương lệ thuộc vào phương Ly. Đất nào có 4 dòng nước ấy chảy
lại hoặc chảy đi, cũng đều là thủy phá cục. Nếu là cát địa, thì Ly hương làm nên phú

439
quý, là hung địa, thì nghèo khổ mà đào tẩu, bỏ quê hương.
TÁN LỘC THỦY: Ngọ là dương hỏa, Bính là âm hỏa, nước ở 2 cung này cùng lẫn lộn
triều lại, thì hay sinh hỏa tai. Nếu một cung, là đơn triều thì không kỵ. Dần, Ngọ,
Tuất tam hợp thành Hỏa cục, mà đều có thủy lai, thủy khứ, hoặc khoáng khuyết
phong suy, thì đều bị hỏa – tai.
Ất, Thìn, thủy lai, khứ phá âm cục, gọi là Đới sát Hỏa, cũng hay bị hỏa tai.

ÔN HOÀNG THỦY: Tức là: Chấn sơn, Tuất, Kiền, thủy Cấn sơn, Mùi, Khôn thủy, Đoài
sơn, Sửu, Quý thủy; - Tốn sơn Tuất thủy – Ly sơn Cấn Dần thủy; - Khảm sơn, Bính
ngọ thủy; - Kiền sơn, Mão thủy; - Khôn sơn, Tỵ thủy. Những long huyết ở phương
ấy, mà thấy có nước ở phương sát ấy triều lại, thì gọi là Ôn Hoàng thủy, tức là sinh
bệnh tật ôn hoàng chết mòn.

LAO SÁT THỦY: Tức là: Ất Thìn Thủy; Tuất Kiền Thủy, Mùi Khôn thủy – đều lấy phá
cục, làm ứng nghiệm. Phàm Tứ Mộ long mạch và ác sa tiêm xạ nhập hoài ( Mũi nhọn
như cái tên bắn vào bụng) hoặc hốt phong xuy huyệt, hoặc triều thủy phá cục, cũng
đều bị bệnh lao sái.

QUAN QUÁ THỦY: Tức là: Kiền thủy phá Âm cục, thì bị quan phu ( Đàn ông không
vợ), có tật.
Khôn thủy phá Âm cục, sinh ra Quả mẫu dâm phong ( đàn bà không chồng) dâm ô,
rồi tuyệt tự. Nếu gồm Mùi thủy nữa, thì thông tư với Tăng đạo, cũng nên gồm cả
Đoài thủy, mà đoán như vậy.

THIẾU VONG THỦY: Tức Thìn Thủy, Tuất, Kiền thủy, Khôn, Thân, thủy phá cục.

TUYỆT TỰ THỦY: Tức là Kiền hướng, hữu Khôn thủy lai.

CỐ TẬT THỦY: Tức là Tý, Quý, thủy phá cục, thì sinh bệnh thũng trương, hoặc đâm
đầu xuống nước tự ải, hoặc băng huyết, trĩ lậu, hoặc sinh ra 6 ngón tay, 6 ngón
chân, thiếu môi, xẻ môi,
Ngọ thủy phá cục, thì bị mù lòa.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tử thủy phá cục, thì bị cố tật, ngang ngược tai quái.
Tuất, kiền thủy phá cục, thì bị câm, điếc đui mù, phong tàn v.v…
Thìn thủy phá cục, thì lộ sỉ ( răng hô) câm, ngọng, điếc mù.
Dần, Giáp thủy phá cục, cũng sinh phong tàn tật bệnh, mù lòa, còng lưng v.v…
Lại nói: Mùi, Cấn hai phương có hố sâu, tù hãm, thủy khanh ( chôn) thì 3 con cũng
đều bị thanh manh ( mắt xanh lờ mờ không nhìn thấy).

ÁC TỬ THÚY: Tức là phương Quý có thủy thâm thì bị chết đuối, hoặc bị độc dược,
Giáp thủy thì hay tự ải, hoặc cây cối đó, đá lở đè chết.
- Ngọ thủy thì bị hỏa thiêu, ở nơi tù ngục.
- Sửu thủy thì chết về binh đao.
- Giáp thủy thì bị trận vong.
- Ất thìn thủy thì bị cây đè chết
- Kiền thủy thì đá đè chết
- Dần thủy thì hổ, báo cắn chết ( hổ giảo).
- Tỵ thủy, thì xà thương ( rắn cắn).
Những nước kể trên mà phá cục, thì mới ứng nghiệm.

HOÀNH YỂU THỦY: Thìn, Tuất là Thiên la Địa võng, nếu 2 cái thủy ở phương ấy phá
cục, thì bị chết về hung ác ngang trái.
LAO NGỤC THỦY: Tức là Ngọ, Thìn, Tuất thủy phá âm cục, Thiên lao tinh chiếu ở

440
phương Ngọ, mà Quý nhân bất lâm Thìn Tuất, lại có sơn hình như cái ngục tù hoặc
cái công, cái cùm, hoặc có đường đi như chằng, khỏa ở 3 phương ấy, thì hay chết ở
trong ngục tù.

HÌNH MẬU THỦY: Tức là Bát diệu sát thủy, thì hay bị tử hình hoặc gặp quân giặc
cướp giết, dầu là cát địa, cũng không tránh khỏi, hoặc bị trận vong, xưa đã nghiệm.

KHẤU ĐẠO THỦY: tức là Ất Thìn Thủy, Tân, Tuất Thủy, Dần Giáp thủy, Quý Sửu
thủy, Mùi khôn thủy, những thủy này phá cục. Nếu là cát địa, thường gặp giặc cướp,
nếu là hung địa, thì sinh ra người làm giặc cướp, cần xem ở chỗ có sa, kiêm cả thủy
cũng thế.

KHẤU CÁT THỦY: Tức là Thìn, Tuất 2 thủy phá cục, ở trước huyệt thuận khứ trực lưu
( nước chảy thẳng tuột đi) mà không có sa hãn hoặc không có nước chặn ngang, thì
bị khất cái ( là đi ăn mày).

ĐỒ TỂ THỦY: Tức là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi bốn dòng thủy giao nhau, là tứ sát thủy, thì
sinh ra người hung ác, làm đồ tể ( giết heo bò).

MINH LINH THỦY: Tức là: Ất thủy, Mão thủy, Ất Thìn thủy, Tân , Tuất thủy, Kiền
thủy lai, khư phá cục, thì chỉ có con nuôi thôi, không có con.

BỘI NGHỊCH THỦY: Tức là Thìn, Tuất thủy phá cục, sinh ra người bị kẻ phạm bội,
hoặc hung ác.

YÊU MUỘI THỦY: Tức là Sửu, Mùi thủy, lại gọi là Tả đạo thủy là nước xấu, sinh ra
người khùng, dở hơi, lần mần, gàn hoặc ma lâm.

HÀ BẠC THỦY: Tức là Nhâm, Tý thủy, Tý, Quý thủy, Canh Thân thủy, Ất Thìn thủy
phá cục, thường bị thủy ách, là tai nạn về nước, lại có lệ:
"Thìn gia Tuất vị, Tuất gia Thìn,
Lạc thủy tiết đáo, thị đại Tân,
Tân, Tuất, khê biên, lạc thủy tư
Dần tại đường trung, khiêu tư lân.
Canh hữu Thân, Thìn tịnh Hợi, Tý
Giang hồ táng mạng liều vô âm."
Nghĩa là:
Ở phương Thìn có thủy lai phương Tuất, ở phương Tuất lại có thủy tới phương Thìn
thì bị chết đuối ở nơi sông to, lớn như sông biển.
Có ngòi lạch ở về phương Tân, Tuất thì chết đuối. Minh đường ở vào giữa phương
Dần, thì kêu gào, bốn bên hàng xóm cũng buồn rầu. Có thủy ở phương Thân và Thìn,
gồm cả Hợi và Tý nữa, thì mất xác ở chốn giang hồ, không hề có tin tức.

ĐỘC DƯỢC THỦY: Tức là Quý thủy, Sửu thủy giao lưu phá cục, thì hay bị thuốc độc
mà chết, nên gọi là Độc dược thủy.

ĐỌA THAY THỦY: Tức là Tý, Quý thủy phá âm cục, Tốn, Tỵ thủy phá đường cục.

NGOẠI TỬ THỦY: Văn khúc chi thủy, nhược lưu trường.


Định chủ ly hương, xuất thiếu vong.
Nghĩa là:
Nước ở phương Tốn ( tức là Văn khúc thủy) mà chảy đi dài, giong, buột tuột, thì bị ly
hương, chết non mất tích.

441
CƯỚC TẬT THỦY: Ất, Cấn, khúc cước thiết tu phòng
Hội phạm tự ải. Ngoại phạm vong.
Nghĩa là:
Phương Ất và Cấn, có thủy phá cục, thì nên đề phòng gẫy chân. Phạm ở nội đường,
thì hay bị tự vẫn chết, phạm vào ngoại đường, thì cũng bị tuyệt vong.

TỬ ĐIẾU THỦY: Tức là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Mão, Tỵ, Ngọ thủy lai, phá cục, thì phần
nhiều là hay chết non. Dương thủy thì về giới Nam. Âm thủy thì về giới nữ. Quyết
đoán như vậy.
ĐẦU QUÂN THỦY: Tý, Ngọ, Mão, Dậu sơn thủy Kiến
"Đả kiếp đầu quân, thực khả lân.
Tử thần tương trị, Thân, Ngọ, Tuất
Bất luận bần, phú, tác quân nhân."
Nghĩa là: Bốn phương Tý, Ngọ, Mão, Dậu cùng thấy có sơn, có thủy thì phải ra đầu
quân đánh giặc, thiệt cũng đáng thương. Nếu cả Thân, Ngọ, Tuất cùng gặp nhau, thì
bất luận giàu, nghèo cũng đều ra làm quân nhân cả.

LÔI KINH THỦY: Hợi, Mão, Mùi tam hợp thủy, cùng thấy thì hay bị sấm sét đánh vào
mộ, hoặc đánh vào người. Nếu Chấn sơn, thấy Hợi Mùi 2 thủy, lai, khứ, cũng thế.

XÀ HỔ THỦY: Tức là: Dần, Tỵ thủy, theo tên chữ riêng mà gọi ( lấy bi danh)

NGHỆ THUẬT THỦY: Canh tăng, Giáp đạo, Bính sư nương


"Nhâm Tuất trường trai, Ất dược phương
Tân xuất họa công tính xử sĩ.
Đoài, Đinh trâm tuyến, tố y thường.
Cấn, Giáp tao quan cập tức cấp,
Quý phát đồng tử hạ hạ lang,
Thời sư hội đắc tạp nghệ pháp
Hành trình vạn lý bất trang lương."
Nghĩa là: Những cái thủy thuộc về nghệ thuật, nếu thấy thì đoán là sinh ra người
hiểu nghề nghiệp, tài khéo về kỹ thuật như sau:
Phương Canh thủy triều thì phát tăng ( thầy tu)
---          Giáp   ----  lai   ---------  đạo sĩ.
-------    Bính  ------ -------------    Sử bà ( ni cô)
--------- Nhâm   ------------------    Thầy tu ăn chay trường
--------  Ất     -----------------------  làm thầy thuốc
--------- Tân thủy thì sinh ra người làm thợ vẽ, hoặc là xử sĩ ( làm thầy học ở trong
tư gia).
Phương Đoài Đinh thủy thì làm thợ mày khéo
Phương Cấn Giáp thủy thì làm nghề, mà được ban tước quan, có cấp bậc, xưa là
Công bộ, nay là Kỹ sư.
Phương Quý thì phát Đồng tử, hạ lang ( Quan nhi đồng, còn nhỏ tuổi)
Thời sư nào mà hiểu biết những phép tạp nghệ này, thì đi xa muôn ngàn dặm, cũng
chẳng cần phải đem lương thực hành trang cũng đủ xài.
 
QUÂN PHỐI LƯU DI THỦY: Tức là: Ngọ thủy, Dần thủy, Quý thủy, Thân thủy, Thìn
thủy phá cục, thì con gái hay theo lính, đi tha phương, trai thì trốn tránh đi theo ở
quê vợ.

PHIÊN QUAN, PHÚC QUÁCH THỦY: Tức là ở phương Tuất Kiền, Ất Thìn, Quý Sửu, Mùi
khôn, có chỗ, khoáng khuyết gió thổi, lại có lạch thủy trực xạ ( Đâm thẳng như tên

442
bắn vào huyệt) chữ gọi là “ Phong tống tủy nhập” thì sinh tai họa, tối kỵ, lại bảo
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Khôn, Thân khí, Kỵ dần, Giáp phong, Tuất Kiền Phong, hoặc Tả
khí hữu trắc, hữu khí tả trắc ( nước bên hữu đổ nghiêng về bên tả) cũng hay nghiêng
quan lệch quách.

LÂU NGHĨ XUYÊN QUAN THỦY: Tức là: Ất Thìn thủy, Dần, Thân thủy, Giáp, Mão
thủy, Cấn, Dần thủy, Thân, Canh thủy, Tân, Tuất thủy, Mùi khôn thủy, Quý Sửu
thủy, Khôn thân thủy, Kiền hợi thủy đều lấy long, huyệt bất chân (không thực) làm
nghiệm. Phàm những huyệt đối với sát khí, kể trên đây, cũng hay có kiến mối. Lại
nói: Ất huyệt kỵ Khôn Thân, Giáp sơn thì kỵ Nhâm, Quý.

THỤ CĂN XUYÊN BÁN THỦY: Tức là: Dần, Giáp, Ất, Thìn Thủy, Tuất Kiền thủy phá
cục vậy, phàm những long mạch vô khí, huyệt trường thụ phong, hẳn là hay có rễ
cây xiên vào quán cốt, xiên vào mắt sọ, thì con cháu đau mắt. Xuyên vào lỗ tai ở sọ
thì con câm cháu điếc.

HOÀNG TUYỀN TẤM THỊ THỦY: Ất, Thìn thủy, Khôn Thân thủy, Nhâm Tý thủy, Tuất
Kiền thủy, Dần Thân thủy, phá cục vậy.
Phàm những long mạch vô khí, huyệt lại bị phong suy, cũng thường có nước thấm
hài cốt, bị nát và đen, thì con cháu sinh bệnh tật ốm đau chết mòn.

PHÁN PHÚC HOÀNG TUYỀN: tức là:


"Canh Định Khôn thượng thị Hoàng Tuyền
Khôn hướng, Canh Đinh, bất khả thiên,
Tốn hướng kỵ hành Ất Bính thương,
Ất bính tu phòng tốn thủy tiên.
Giáp Quý hướng trung, ưu kiến Cấn
Cấn hướng tu tri Giáp Quý điên
Kiền hướng tân, Nhâm hành bất đắc
Tân Nhâm thủy lộ phạ đương Kiền."
Nghĩa là: Bát can hướng, mà Tứ duy thủy lai triều, gọi là Hoàng Tuyền thủy ( Tức
thủy hung ác).
Tứ duy hướng, mà bát can thủy chảy đi, gọi là Bát sát ( tức hung ác). Vì vậy bảo là
phản phúc Hoàng tuyền. ( Phản phúc nghĩa là giáo dở, đảo lộn, hai cái cũng như
nhau đều hỏng cả). Bài quyết ca trên cũng vẫn như bài thi ca bốn câu gọi là TỨ LỘ
HOÀNG TUYỀN, đã kể trước rồi. Nhưng thêm bốn câu nữa đảo lộn lại. Nghĩa là: Lập
hướng vào 4 phương Kiền Khôn Cấn Tốn ( gọi là Tứ duy) thì kỵ nước chảy đi ở 8
phương ( gọi là bát can). Lập hướng vào 8 phương Can, thì kỵ nước ở 4 phương Tứ
duy chảy lại, cũng đều phạm hung cả.
 
BÁT SÁT THỦY:
Quyết vân:
"Khảm long, Khôn, thỏ, Chấn sơn hần.
Tốn kê, Kiền Mã, đoài xà đầu
Cấn hổ chư, vi sát diệu
Phạm chi, trạch, mộ, nhất tề hưu"
Năm chót là Giáp Thìn, Giáp Dần, thuộc về Tam bích quản trị, đến năm Quý hợi là đủ
60 năm, thì hết Thượng nguyên. Tuy nhiên cũng có quá khứ vị lai, trước đau phát
phước bất đồng mà cùng ở trong một nguyên, thì cũng đều do thừa vượng khí cả.
Hạ nguyên giáp Tý, thì thất xích là Đoài làm chủ Thống trị, Bát bạch là Cấn, Cửu tử
là Ly làm phụ trị quyền hành vượng trị cũng như nguyên trước.
Trung nguyên Giáp Tý, thì Tứ lục là Tốn, làm chủ thống trị, Ngũ hoàng là trung cung,
Lục Bạch là Kiền làm phụ trị.

443
Lịch nghiệm về dĩ vãng của các địa cục, thì Khảm ly là trung khí của Thiên địa, là
phương vị thuộc về Trung nam, Trung nữ ( con trai giữa và con gái giữa tức thứ hai).
Khảm Ly ở hậu thiên là Kiền khôn ở tiên thiên, vì Mậu, Kỷ là chân thổ tàng trú ở
trong đó, nên thấy nhiều đất thuộc 2 cục ấy vượng cả ba nguyên không suy tại.
Chấn cục thuộc Mộc, thì lấy là bản tráng căn thâm ( gốc lớn, rễ sâu). Đoài thuộc
Kim, lấy là nhỏ bé mà bền cứng, vả lại là cửa ngõ của vàng Nhật nguyệt (Thái
dương, Thái âm) tượng trưng là khí hậu ôn hòa của mùa xuân, mùa thu. So sánh vói
Khảm Ly thì cũng được là thứ hạng.
Cấn thì tượng trưng là sơn ( núi), sơn thì không thể di dịch mà chất kiên cố, nên
cũng bền lâu ví với Chấn Đoài.
KIỀN là ( Lão cang chi kim) ( vàng già cứng).
KHÔN là “ ký sản chi thổ”( đất đã đẻ rồi).
NGŨ HOÀNG ( trung cung) là “ Liêm Trinh chi Hỏa” ( lửa nóng dữ) cũng không có căn
nguyên, chỉ nương tựa vào vật khác mà cháy bùng lên và dễ tàn lụi, nên đều không
được bền lâu.
TỐN là Trĩ Mộc kỳ hoa ( cây non, hoa đẹp) sáng sủa xinh tươi, nhưng không quen
chịu gió mưa, nên dễ suy tàn.
ĐẠI ƯỚC: Những long mạch thuộc về Thượng nguyên đều vượng về Trung nguyên.
Những long sơn thuộc vào Trung nguyên cũng dự vượng về Thượng nguyên. Những
long thuộc về Hạ nguyên thường có dư lực vượng về Thượng nguyên.
Đây là định vận, long vận tuy định nhưng cũng cần phải xem rõ cái địa lực. Long
mạch hùng hậu, mà tinh quái được thuần khiết, dẫu gặp vào vận bại, cũng chỉ là
nghỉ, không phát phước thôi, còn có thể tự bảo thủ được. Nếu Địa mạch bạc nhược
tinh quái ( hỗn tạp) phức tạp dẫu gặp Vượng vận, có phát phước, nhưng cũng gặp
nhiều sự nghiêng ngả. Ngũ phước không được hoàn toàn.
Xưa nay đã kinh nghiệm: chỉ có một ngôi mộ, hoặc một ngôi dương cơ, tuy kết phát
nhưng hết vượng vận, đến suy vận thì không khiên chế được.
Nếu có 2 ngôi, một ngôi Suy, một ngôi vượng, thì hai cái đương đối không chế lẫn
nhau, thì cũng được hưởng phước lộc bình thường, nhưng cũng phải nhận xét rõ cái
lực địa của hai ngôi, lớn, nhỏ, để quyết đoán thẳng, phụ, một cái vượng chẳng dịch
được hai cái suy, thì cái suy hay tác hại. Một cái suy, hai cái vượng, thì cái suy không
dịch nổi, thì cái Vượng vẫn hay phát phước, nên biết rằng: Cái đại cát ( tốt thượng
hạng) thì mới có thể quét sạch được cái tiểu hung ( ác nhỏ).
Vậy được Mộ Cha, ông rồi, cũng cần thiết đến cả những mộ tổ tiên 4, 5 đời nữa, thì
phước ấm mới mỹ mãn bền lâu không bị biến đổi.
Xét ra: Tác giả tìm được cái Đại địa mà thất nguyên ( gặp phải nguyên suy) thì
không bằng được cái tiểu địa đắc thời ( gặp nguyên vượng). Bởi vì đời người thọ được
bao nhiêu? Mà đợi hết nguyên suy là 60 năm mới được nguyên vượng, hoặc hơn nữa
là thân tán gia phế rồi. Lại còn có ngôi mộ mới của người khác đoạt khí của ngôi mộ
nhà mình cũng chưa thể biết. Cho nên ở Trung hoa đời xưa có Mịch giảng Thiền sư
đã từng dạy người ta khai phương nọ lấp vị kia, để tới thịnh vượng của bản nguyên,
thực cũng khổ tâm mệt sức của Lương Công lắm thay. Vậy chỉ nên châm chước tinh
quái ( bản cục tinh) xem có hợp hay không sau sẽ theo đó mà làm thôi. Chớ nên
vọng động ( làm càn) là tự phá hoại mất cát địa không chừng.

Phụ chú: Tiền triết luận thuyết, thì Tốn cục dễ suy tàn, về thời Trung cổ, lại thấy
Diệp Cửu Thăng là một Địa lý gia uyên thâm nói rằng: Tôi thấy Tốn cục phát phước
rất lâu dài, chớ nên câu nệ như lý luận cổ truyền ( Ghi thêm để độc giả nghiên cứu
mà lịch nghiệm).

Còn tiếp

Việt Hải

444
 

Nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn giới thiệu .


BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 44

Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |


Đăng ngày: 22:20 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Thẩm vận


Việt Hải

Thẩm vận

Tự suy nghĩ những thiển cận, ngay hiện tại: cùng trong một cõi Địa cầu này, cùng trong một thời
gian này, mà Đông, Tây, Nam, Bắc khác nhau: Xứ là ngày, xứ là đêm, xứ là sớm, xứ là chiều.
Nơi thì nóng, nơi thì lạnh, nơi thì mát, nơi thì ấm, chỗ nắng, chỗ mưa, chỗ êm đềm, chỗ gó bão
vãn vân… bất đồng khí tiết, nếu hỏi tại sao mà thế?

Thì hẳn là ai ai cũng biết, dầu chưa có học cũng trả lời ngay được một câu rất đúng:
“ Trời đất xoay vần”. Còn giới học thức thì đã hiểu sâu xa về thiên văn rồi, nên không
cần diễn tả ra đây nữa, mà xin giải thích ngay về phương diện Địa Lý phong thủy.
Chính vì Vận hội độ số do Thiên, Địa tuần hoàn ấy, mà Âm phần có khí vượng suy.
Dương trạch có lúc hưng, khí phế; mà ảnh hưởng đến con người, thành ra thẳng
giáng bất thường. Đó là lẽ tự nhiên của Định luật, liên hệ đến tất cả những loại vật,
có sinh, lão, bệnh, tử, thì nhất giai đồng thụ, không vật nào trốn tránh thoát. Chỉ có
những người trí thức, thì mới biết trước là: Gặp vận tốt thì phước sẽ thăng tiến, gặp
vận xấu thì bị giáng thoái. Vận tốt tức là Địa cục gặp Sinh khí, Vượng khí chuyển
đến. Vận xấu tức là Địa cục gặp phải khắc sát khí dẫn lại. Những người vô tri thì
không biết sợ, vì chẳng hiểu vận độ hay dở là thế nào.
Vận là luân thứ của Cửu tinh quản trị ở Bát sơn, phân làm Tam nguyên, mỗi nguyên
60 năm:
1- Thượng Nguyên
2- Trung nguyên
3- Hạ nguyên.

Thượng Nguyên: thì Nhất bạch thống trị, Nhị hắc, Tam bích tá trị (Phụ lực).

Trung nguyên: Thì Tứ lục thống trị, ngũ hoàng, Lục bạch tá trị.

Hạ nguyên: Thì Thất xích thống trị, Bát bạch, Cửu tử tá trị.
Trong nguyên là chính vận khí, ngoài nguyên là dư khí, dư khí đã hết, thì dẫu là Đại
địa cũng nghỉ không phát phước nữa. Nếu long mạch hùng hậu thì được bình bình
thủ tĩnh, long mạch Bạc – nhược, thì còn biến động, sinh tai hại không chừng.
Phần nhiều thấy có những nhà vẫn chỉ được có một ngôi mộ, hoặc một ngôi Dương
cơ kết phát mà trước sau hưởng phước khác nhau, snh ra nghi hoặc, cho là Địa lý
không đủ tin, Có biết đâu là Mộ, trạch không thay dổi, nhưng mà nguyên, vận tự
chuyển biến. Chỉ có những thức giả mới hay biết trước thôi.

445
Nguyên vận là: Thượng nguyên Giáp Tý thì sao Nhất bạch ở Khảm làm chủ thống
trị, Nhị hắc là Khôn, Tam bích là Chấn làm phụ trị trong 60 năm. Sao Nhất Bạch
quản trị 20 năm đầu, tức 10 năm thuộc Giáp Tý và 10 năm thuộc Giáp Tuất; kế đến
20 năm thứ nhì là Giáp Thân và Giáp Ngọ thì sao Nhị hắc quản trị, rồi đến 20 năm.
Bài Quyết bát sát thủy này, cũng vẫn là Bát Điệu sát, đã giải thích trước rồi. Tất cả
lai long, tọa sơn, lập hướng cũng đều phải kỵ cả, chứ chẳng phải kỵ thủy lai mà thôi,
nên cẩn thận.

Bát diệu sát thuỷ:


Quyết vân:
"Giáp phạ lưu Dần, Ất phạ Thìn
Bính Ngọ, Đinh Mùi yếu thương nhân
Canh, Thân, Tân, Tuất tu dương tị
Nhâm, Hợi, Quý, Sửu thị hung thần."
Nghĩa là:
Hướng Giáp thì sợ nước ở Dần lại. – Bính thì sợ nước ở Ngọ lại. – Đinh thì sợ nước ở
Mùi triều lại, đều là bị thương tổn người.
Canh thì sợ nước ở Thân lại – Tân thì sợ nước ở Tuất lại, đều hung cả nên phải tránh.
Nhâm thì ở Hợi, Quý thì ở Sửu, đều là nước Sát điệu hung thần. Lại bảo:
"Bính, Dinh, Tân hướng kỵ Dần lưu.
Nhâm, Quý phùng Xà, Ất hướng Ngưu
Canh hướng phùng Thân, Giáp tương Hợi
Giã giao Nhân phạm, phối tha châu."
Diệc danh: bát hướng, diệu thủy hung.
Nghĩa là:
Bính, Đinh, Tân 3 hướng này, thì kỵ nước ở phương Dần triều lại.
Hướng Nhâm, Quý thì kỵ nước ở phương Tỵ, hướng Ất thì kỵ nước ở phương Sửu.
Hướng Canh thì kỵ nước ở phương Thân và Giáp với Hợi nên kỵ.
Cũng gọi là: Bát hướng, Bát diệu, thủy hung cả.

Hung sa vị danh

BÁT MÔN KHUYẾT: Cả 8 phương ( bát quái) thốt hãm ( thấp lõm). Lại nói: Khảm vị:
Quảng mạc phong ( gió ở biển cát rộng) thì bị chết đường; hoặc chết đuối v.v… Cấn
vị: Điều phong ( gió rung cành) thì hay bị ma trêu, hổ cắn. Chấn vị: Minh thứ phong,
thì bị kẻ nô tỳ lấn chủ, hoặc bị tai nạn về cây cối. Tốn vị: Thanh minh phong hay bị
kiện tụng, điên cuồng, cây đè chết. Ly vị: Cảnh phong hay bị hỏa tai, binh trận vong.
Khôn vị: Lương phong, chủ tuyệt hộ. Đoài vị: Sương hạp phong ( cửa trời, cửa chính
trong cung) bị sản tử ( chết về đẻ), đao thương ( bị đao kiếm). Kiền vị: Bất chu
phong, bí khử hương thoái sản ( bỏ làng, hết nghiệp).
TỨ KIM THỐT: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi bốn phương khuyết hãm, thì hay bị nghiêng
quan lật quách.
DƯƠNG QUAN KIỆN: Tức Đoài phương thấp lõm chủ chết về chiến trận (binh tử).
KHÔI CƯƠNG HÙNG: Tức Thìn, Tuất cao áp, chủ xuất đạo tặc, khất cái (ăn mày).
TAM HỎA ĐÊ: Bính, Ngọ, Đinh ba phương thấp lõm thì không quy.
TỨ THẦN BÁC: Kiền, Khôn, Cấn, Tốn bốn phương này mà sơn sa, có đá lổm chổm, vỡ
lở thì hung.
TỬ CUNG HƯ: Cấn, Chấn, Khảm ba phương lõm khuyết, thì ít con trai.
LỘC VỊ KHUYẾT: Những phương vị là Lộc theo lệ định kể trên và lại cả Tý, Ngọ, Cấn,
Hợi, cũng gọi là Lộc vị, nếu không có phong đột khởi thì không phát quy.
KIM GIAI BÌNH: Đoài phương thấp lõm bất quý.
VĂN TINH ĐÊ: Tốn, Tân lõm ( hãm), dẫu có phát quý cũng không có tài lộc.

446
THIÊN TRỤ TRIẾT: Kiền cũng khuyết hãm thì chết non.
THỌ SƠN KHUYNH: Đinh phương đê khuyết cũng yểu vong.
THIÊN MẪU KHUY: Khôn cung thốt khuyết, thì tổn hại về phái nữ, hay bị quả phụ,
quả mẫu ( chết chồng).
TẶC KỲ HIỆN: Thìn, Tuất sơn sa hình như là cờ hay sinh ra đầu trộm, tướng cướp.
SÁT ĐAO XUẤT: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có tiêm sa đảo địa, chủ đồ quái kiếp tặc ( giặc
cướp chém giết người) tại Khôn, Thân là Đồ Đao ( dao giết heo thợ thịt).
HỒI TÁN LỘC LAI: Dần, Ngọ, Tuất có chỗ khuyết hãm, thì hay bị Hỏa tai ( nạn cháy
nhà) theo phương gió mà lại.
HÀNH TINH ÁP: Mão vi Dương hành, kỵ cao áp, tức là phương Mão cao áp bức huyệt,
thì công danh lẳng đẳng, lận đận, vì Mão là cửa Thái dương Xuất, cao quá thì cho
khuất mặt trời, nên công danh trì trệ.
SƯƠNG KHỐ ĐẢO: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi vi tứ khố, nếu nghiêng lệch ( tả trắc) vỡ lở
( phá toái) đổ gục ( đảo thoản) thì bần phạp ( nghèo đói túng thiếu)
TÀI BẠCH TÁN: Cấn là phương thuộc về tài bạch, nếu sa đều tán loạn, hoặc thốt
hãm, thì bần cùng.
HOÀNH THI KIẾN: Ngư đại sa tại Khảm, Quý và Tứ Mộ vị, chủ khách tử tại Bính Đinh
gọi là Yển bao. Nghĩa là: ở phương Khảm, Quý, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mà có sơn sa
hình như cái bong bóng cá ( dạ con cá) thì hay bị chết phơi thây ở nơi xa nhà. Ở
phương Bính Đinh là bọc khói lửa, cũng hung như vậy.
TRỤY THAI SANH: Tý, Quý, Sửu có gò đống, thì hay trụy thai ( rơi thai, đẻ non) ở
phương Tuất, Kiền thì hay bị đui điếc, ở phương Ngọ thì con thứ bị mù lòa ở cách xa
ngoài trăm bước thì không phạm.
NGŨ TINH THỤ CHẾ: Hỏa tại Bắc, Kim tại Nam, Thổ tại Đông, Mộc tại Tây, thủy cư
Tứ mộ ( Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) là Ngũ tinh thụ chế ( bị khắc) dẫu có huyệt mỹ, cũng
không có lực lượng lớn mạnh.
TỨ SÁT THIỆN QUYỀN: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cao áp lăng tằng, đới sát bức huyệt, chủ
đại hung, ác nghịch, đại đạo chu di, hữu tả văn chiếu giả, si giảm.
Nghĩa là: Bốn phương Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có cao sơn đồ sộ, tầng đá ghê sợ, áp bức
huyệt tinh, tức tử sát chuyên quyền, thì bị quân bạo tặc cường đạo chu diệt. Nếu có
xá văn tinh thì được giảm đỡ hung họa.
LỘC VÔ CHÍNH VỊ: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Thân, Tỵ, Hợi 8 phương ấy là Chính Lộc vị,
nếu khuyết hãm thì không phát quý hoặc tủy lưu phá ( nước chảy đi) cũng thế. Như
Bính hướng kỵ phương Tỵ nước phóng đi. Ví Bính, Mậu Lộc tại Tỵ, mà Tỵ phương
thủy khứ sơn không, là vô lộc cái khác cũng vậy sẽ suy ra mà đoán nghiệm.

Bát sơn suy vượng


Tế pháp
LỤC BẠCH: Vượng, Tướng tại Thượng Nguyên;
THẤT, BÁT: hưng long tại hạ nguyên
TAM TỨ: lưỡng sơn, trung lục thập
KHÔN: sơn Trung vĩ, Hạ đầu liền
Duy hữu CỬU TỬ dữ Nhất bạch.
Thượng vĩ, trung đầu, Ngũ thập niên.
THƯỢNG NGUYÊN Nhất bạch chủ sự, Khảm, Chấn, Tốn, Khôn cát, Ly hung.
TRUNG NGUYÊN Tứ lục chủ sự, Ly, Khảm, Kiền, Đoài cát, Khôn, Cấn hung.
HẠ NGUYÊN Thất xích chủ sự, Khảm, Ly, Khôn, Cấn, Đoài cát, Chấn, Tốn hung.

Giải nghĩa:
Xét kỹ về phép suy và Vượng ở Bát sơn tức là tám phương: Kiền, Khảm, Cấn, Chấn,
Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Lục bạch thuộc về Kiền, thì Vượng về Thượng nguyên.
Thất xích thuộc về Đoài, Bát bạch thuộc về Cấn, tức Đoài, Cấn 2 phương thì hưng

447
long về Hạ nguyên.
Tam bích thuộc về Chấn, Tử Lục thuộc về Tốn, tức Chấn Tốn 2 phương thì hưng
vượng về 60 năm ở Trung nguyên
Khôn phương thì Vượng về cuối Trung nguyên và đầu hạ nguyên.
Chỉ có Ly phương và Khảm phương là 2 phương cùng Vượng và cuối Thượng nguyên
và đầu Trung nguyên, vào khoảng 50 năm.
Thượng nguyên thì sao Nhất bạch cầm đầu trị sự cả 60 năm thì phương Khảm, Chấn,
Tốn, Khôn bốn phương tốt lành, phương Ly thì hung hại.
Trung nguyên thì sao Tứ lục đứng đầu trị sự cả 60 năm, Phương Ly, Khảm, Kiền,
Đoài bốn phương tốt lành. Khôn, Cấn là phương hung hại.
Hạ nguyên thì sao Thất xích đứng chỉ quyền trị sự cả 60 năm, thì phương Khảm, Ly,
Khôn, Cấn, Đoài là 5 phương tốt lành Chấn Tốn 2 phương hung hại.

Bát sơn tinh, bát khí pháp


Về phép sinh hay là cát của 8 phương thì lấy sao chủ vận là chủ:
- Khắc chủ vận gọi là Tử khí. – Sinh chủ vận gọi là Thoái.
- Chủ vận sinh vào mình gọi là Sinh khí,
- Chủ vận sinh khắc vào mình gọi là Đắt khí
- Cùng hòa với Chủ vận gọi là Vượng khí.
Như là: Thất xích làm chủ vận, thì khảm cục được sinh khí, Kiền, Đoài cục là Vượng
khí. – Khôn và Cấn là thoái khí. – Ly cục là Tử khí. – Chấn, Tốn 2 cục bị sát khí.
Các cục khác cũng cứ như thế mà suy ra.
Trên đây là Sinh, sát khí lấy chủ vận tinh phân ra. So với cái Sinh, Sát khí của tám
phương phân ra thì khác không cùng một luật lệ.

Tinh phù thiên


( Thiên nói về Cửu tinh chiếu hợp với Bát quái)
Khí hóa lưu hành suốt trong bầu trời, quả đất và các vì tinh tú chuyển vần v.v… hết
thẩy đều do Cửu tinh chủ trị cả.
Các danh hiệu của Cửu tinh ấy là:
1 – Thiên hoàng Đại đế, tức Tôn tinh.
2 – Tử vi Đại đế, tức Đế tinh.
3 – Bắc đẩu thứ nhất, tức Tham lang tinh
4 – Bắc đẩu thứ nhì, tức Cự môn tinh
5 – Bắc đẩu thứ ba, tức Lộc tồn tinh
6 – Bắc đẩu thứ bốn, tức Văn khúc tinh
7 – bắc đẩu thứ năm, tức Liêm trinh tinh
8 – Bắc đẩu thứ sáu, tức Vũ khúc tinh
9 – Bắc đẩu thứ bảy, tức Phá quân tinh.
Hai vị: Tôn tinh, Đế tinh, lại hóa ra Tả phụ, Hữu bật hai tinh ở bên Vũ khúc, đều là ở
ngoài, ngôi cao của Tử vi viên làm chủ tể cả Thiên địa, quay chuyển tạo hóa, dưới thì
thi hành ở Địa Cầu, hóa sinh muôn vật. Cái sinh mệnh của con người như: Thọ, Yểu
cung thông ( sống chết, hay dở). đều hệ thuộc ở đó. Cái địa khí tuy phát sinh hoàng
tuyền, nhưng thực ra thì cũng hợp nhất với phương vị của thiên khí, vậy cái hay, cái
dở của đất đai, phải ngũ hành, như Kiền, Khôn, Cấn, Tốn, Khảm, Khôn, Chấn, Đoài
cái thứ tự của quái hào là tự nhiên mà thế, chứ không phải người tạo ra, diên đảo
thác loạn, mà càng hợp vậy, ở trong cái bất đồng, có cái đại đồng. Quái thì lấy Kiền,
Khôn, làm phụ mẫu. Lấy lục hào ( 6 hào ở trong quái) làm tử ( con).
Nhị thập tứ lộ ( 24 phương vị) lại lấy Bát quái làm phụ mẫu, lấy Can, chi làm nạp
giáp làm tử. Bởi long ( mạch) là địa khí, địa khí thì trọng trọng ( nặng và đục) nên
tam lộ ( ba phương vị) qui vào một quái. Tinh là thiên khí, thiên khí thì khinh thanh (
nhẹ và trong), nên nhị thập tứ đạo ( 24 phương vị) tự phân hành (chia đi) mà đều lệ
thuộc vào quái nạp Giáp, lấy bản cung cách vị ( cách một cung) làm Địa mẫu quái,

448
Địa và mẫu vốn là thu khí ( chịu thu hút khí vào) nên lập hướng nạp thủy là chủ yếu.
Bản cung đối vị làm Thiên phụ quái, Thiên và phụ vốn là thi khí ( nhả khí ra) nên tiêu
thủy là chủ yếu, Tham, Cự, Vũ, Phụ ở Thiên phụ quái, tức là Văn, Lộc, Phá, Liêm ở
Địa Mẫu Quái.
Người biết thu được cái thủy và hướng của Tam cát ( Tham cự vũ) tiêu được cái ác
khí của tứ hung ( Phá, Lộc ,Văn, Liêm) thì cục địa nào cũng tốt lành. Vậy ở bên tả,
bên hữu quái như là sa thủy cát tụ thì nên ở phía trước, không nên ở đằng sau, ví
như bầy tôi với vua chúa, hướng chầu vào Vua là Phụ bật ( phò tá) trung thành, quay
lưng vào vua là phản bội, gian thần. Sa, thủy, long hướng, thì chỉ nên thụ đơn
phương của tam cát và Phụ bật thôi, chứ không nên kiêm ( hỗn tạp) vào phương vị
của tứ hung.
Cái thủy lai, ở những phương cát ấy phải cực thanh, nếu cả cát, hung thủy tề đáo
( cùng đến) thì cái thủy cát ứng cát, cái thủy hung ứng hung, nếu cả cát và hung hợp
vào một cung mà dẫn lại thì ở trong cái tốt có cái xấu, tức là bán cát bán hung.
Còn cái ảnh diệu, là cái bóng ánh nước chiếu, nhứ là khôn, trông thấy ánh nước
chiếu vào huyệt, là ẩn mà không thấy, thì cái phước hoặc cái họa chưa ứng nghiệm,
nếu thấy một cái soi vào huyệt, thì cái họa hay là phươc ứng. Vì thủy là cái vật hay
làm ra phước họa cho địa ( mộ huyệt) là do cái nguyên khí tự làm vậy. Cũng như cái
ánh sáng của tam quang ( nhật cầu, Nguyệt cầu, Tinh cầu) chiếu vào vật gì … ở xa
thì càng soi rõ, mà sức sáng càng trọng lượng.
Thường có cái nhà nhỏ thấp của người nghèo lại phát phước dần dần tiến hưng, mà
cái nhà lầu cao của người giàu lại thoái bại, là bởi thấy cái hung ở ngoài vậy. Có cái
huyệt thuở sơ táng bất phát, trồng cái cây cao vót lên mà sau phát quí, đó là có cát
thủy ở ngoài chiếu ánh vào huyệt ấy.
Còn cái chuyển diệu ( là sao luân chuyển) có cái hướng cát mà phản thành hung, cái
hướng hung mà phản thành cát. Ở trong cái hướng mà có thủy lai ( nước dẫn lại) là
hướng thực, ở trong cái hướng thủy khứ ( nước chảy đi) là hướng hư. Nên cái cát mà
lại hóa hung, cái hung lại thành cát, là vì thế. Vậy cái tinh quái ở chỗ khứ thủy phải
lấy chỗ xuất khẩu ( cửa khẩu tiêu thủy) ở gần với bản thân ( tức là Nội minh đường
gần huyệt) lấy chỗ triết thủy thứ nhất là đúng, sau chỗ triết thủy đã chảy đi rồi, mà
ở trong chỗ huyệt lại trông thấy cái bóng của thủy khứ nữa, thì cái ấy là chỗ ngoại
lưu ( nước ở ngoài đi).
Còn cái khứ thủy, lưu bất tận ( nước tiêu đi không hết), là ở chỗ cửa nước tiêu đi, lại
khai ra cái vũng hoặc cái đầm, ao lớn nữa, để làm cho cái thủy khứ ấy đình tích,
dừng chưa đọng lại thì cái cát, cái hung tất nhiên cũng có điên đảo, hoặc giả nên
xem xét cẩn thận, vì chỗ ấy là cái nguyên khí thịnh vượng, tuy là tiêu đi mà còn trở
lại.
Đây là phép Ai tinh, là cái bí tàng của Thiên địa. Xưa có câu: ( hữu nhân thức đắc Ai
tinh quyết, chiêu thị Phàm phu mộ thị Tiên). Nghĩa là: ( có người nào biết được phép
Ai tinh thì người ấy buổi sớm là kẻ trần tục, nhưng buổi tối là bực Tiên rồi, tức là
người nào biết dùng được hết phép Ai tinh, thì Tạo hóa ở cả trong bàn tay rồi, hô hấp
quán thông tới Tòa thượng lễ ( thấu suốt đến trời xanh).
Cố nhân truyền cho cái hay mà không truyền cái thuyết ( pháp thuật) thật là bí
hiểm. Có lẽ còn theo về duy tâm, sợ Thiên nộ ( trời giận).
Còn những chỗ gần biển có nước Hải trào ( nước biển dâng lên rút xuống) thì lấy chỗ
cửa ra biển là nơi thủy khứ. Nghĩa là cái nước của Hải trào chảy ngược lên, không
phải là cái thủy lai ( nước dẫn lại), đó là lạc thủy quy nguyên ( nước đã chảy xuống
lại quay về gốc cũ) ở khoảng đó là lưu tinh, địa lý tự nhiên của Thiên địa, bởi sự hô
hấp của âm dương mà thăng giáng như vậy.

Còn tiếp

Việt Hải

449
 

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Phiên quái quyết


Việt Hải

Tiêu khứ thủy ( nước tiều chảy đi), thì lấy bản cục đối cung khởi tinh. Hễ được Tham, Cự, Vũ,
Phụ là cát thì tốt, tức Thiên định quái ( quẻ thiên định) thì khởi Tham lang trước ( Tham, Cự, Lộc,
Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ).

 
Phiên quái quyết
HÌNH TRANG 118     

Khởi tham lang pháp:


Khôn tòng Ly khởi; Ly tòng Khôn khởi.
Nghĩa là: Khôn cục, thì khởi tinh ở cung Ly. Ly cục thì khởi tinh ở cung Khôn. Đây là
phép, cách cung khởi tinh.
Kiền tòng đoài khởi, Đoài tòng Kiền khởi.
Nghĩa là: Kiền cục thì khởi tinh ở cung Đoài, Đoài cục thì khởi tinh ở cung Kiền. Đây
là phép, đối cung khởi tinh.
Thu lai thủy ( nước chảy lại)  thì lấy bản cục cách một cung khởi tinh. Hễ được Tham,
Cự, Vũ, Phụ là cát thì tốt, tức Ngũ quỷ quái ( quẻ ngũ quỷ) tức vị vi khởi Liêm trinh,
là khởi Liêm trinh trước ( Liêm, Vũ, Phá, Phụ, Tham, Cự, Lộc, Văn).
Tiêu khứ thủy ( nước tiều chảy đi), thì lấy bản cục đối cung khởi tinh. Hễ được Tham,
Cự, Vũ, Phụ là cát thì tốt, tức Thiên định quái ( quẻ thiên định) thì khởi Tham lang
trước ( Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ).

Tinh quái định cục đồ lệ:


NGŨ QUỶ QUÁI:
Liêm, Vũ, Phá, Phụ, Tham, Cự, Lộc, Văn.
THIÊN ĐỊNH QUÁI:
Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ.
Cách thức như dưới đây:
Bảng trang 119

Cửu cung Bát Sơn tổng luận


Thái Cửu Thăng nói: mười đời nay nói về Lý khí ở trong miền Bình dương, đại để là
không ngoài 2 môn: Cửu cung và Bát sơn. Cửu cung thì lấy bản cục tinh nhập trung
cung, phi ra tám phương, lấy phương sinh khí và vượng khí làm tốt lành. Bát sơn thì
lấy bản cục quái, khởi cao Liêm trinh, lấy Tham lang, Cự môn, Vũ khúc là ba sao ở ba
phương ấy, làm tốt lành.
Về định cục và biện quái của hai môn, thì cùng như nhau, nhưng so sánh cái cát và
cái hung, ở tám phương, thì không hay giống hệt như nhau. Tức là bất đồng. Xem ra
thì mười cái chỉ một, hai cái là đồng, còn tám, chín cái là bất đồng. Vì thế, nên người
theo môn Cửu cung, thì bảo Cửu cung là phải, cười môn Bát sơn. Người giữ về môn

450
Bát sơn, thì bảo Bát sơn là phải, chê môn Cửu cung. Hai bên mâu thuẫn về nghị luận
rất nhiều. nhưng thực ra, thì cả hai bên đều chưa rõ cả. Có biết đâu là: Địa vận có
lúc thịnh, có lúc suy. Đắc vận thì hưng vượng, thất vận thì thoái bại. Nếu không
tường phép Cửu cung, thì không biết được khi hưng, khi bại. Nên Cửu cung là cái
phép, để xem khí vận. Phương vị có thuần thúy, có bác tạp. “ Âm dương tương kiến
nhi cát” “ âm, dương tương thừa nhi hung”. Nghĩa là: Có cái âm, dương cùng thấy thì
cát, có cái âm, dương cùng thấy thì cát, có cái âm, dương liền nhau thì lại hung,
chẳng có Bát sơn, thì không biết phân biện được.
Bát sơn là cái phép để xem Thủy định hướng, nên không hiểu bát sơn, thì không biết
phương vị là cát hay hung. Không am tường Cửu cung, thì không biết lúc nào là vận
hưng, lúc nào là vận suy. Vậy Cửu cung và bát sơn, hai môn, đều phải cần dùng cả,
thiếu một không thể được. Vậy nên khi biện phương định vị, thì lấy Bát sơn làm chủ,
lấy Cửu cung tá chi “ giúp đấy”. Như Bát sơn có cát địa, cát thủy, nhưng phải đợi đến
khi đắc vận, thì sau mới ứng nghiệm. Vậy thì: suy tường khí vận phải lấy Cửu cung
làm chủ, mà kiêm chi ( gồm đấy), lấy Bát sơn. Như thấy Cửu cung mà cục gặp đắc
vận, thủy gặp đắc vận, tất thị hợp với Bát sơn cát sa, cát thủy, thì sau mới phát quý.
Xét như thế, thì hai môn đều là tương dụng mà thực là cái trong, cái ngoài phải đi
đôi với nhau. Xét cái bàn nói của hai môn, thì cửu cung chỉ luận đại lược thôi. Bát sơn
thì phải tại huyệt thượng mà định Bát sơn, thì mỗi quẻ, phân ra tam sơn, tức là ba
phương nhỏ ở trong một cung ( quẻ) Xem kỹ thủy lộ, phân biệt từng phương, chứ
không nên bác tạp khiên liên, đó là cái dụng bất đồng, mà hai môn không cản trở
nhau, vậy thì Bát sơn và Cửu cung đâu có mâu thuẫn nhau. Không có cái này là phải,
cái kia là trái ở trong khoảng đó cả.
Lại nói: Bát sơn dụng ngũ thủy quái, ở trong cái âm dương thuần tịnh có Liêm trinh,
ở cái Âm dương bác tạp có Phụ tinh, chỗ thuần tịnh chẳng hay toàn cát. Chỗ bác tạp
cũng chẳng hay tận hung. Âm dương cùng gốc, họa phúc cùng chịu. Cực tắc tất biến.
Sở vị: “ Thiên đạo chi diệu dã”. Nghĩa là: Đến chỗ cùng cực ( là cuối cùng đứt hết) thì
phải biến đổi. Mới bảo là đạo trời hay thật là hay!
Lại nói: Ở ngọc kính trú văn, chỉ nói tiểu vận thôi, cho là ở miền Bình dương địa
khinh ( đất nhỏ) không được đại vận, nên chỉ lấy cái tiểu vận nói vậy. Nhưng ở miền
Bình dương cũng có đại Cán long kết tác, lực đại, khí hậu, nên phải lấy đại vận để
suy xét sự hưng, phế ( thịnh, suy).
Tiểu vận, thì lấy 20 năm, đổi thay một tinh vào giữa ( trung cung). Đại vận thì 60
năm, thay đổi một sao, đem vào giữa.
Kể từ Giáp Tý triều vua Khang hy năm thứ 23, thuộc Đại vận: Đệ thất Giáp Tý ( Giáp
tý thứ bảy), lấy sao Thất xích nhập trung cung, quản sự ( làm chủ cai quản cả 60
năm). Nếu lấy tiểu vận là: Đệ nhất Giáp Tý, thì lấy sao Nhất bạch nhập trung cung
quản sự ( làm chủ trị 20 năm). Luận về đất là đại địa hay tiểu địa, thì phải xem cái
địa cục lớn hay nhỏ và hậu, hay bạc mà dùng sao lấy vào Trung cung, để phi ( bay)
ra tám phương mà chỉ đoán tám cục, vượng hay suy và 8 phương thủy lộ, cát hay
hung thôi.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Ngọc kính chính kinh Sơn, Thuỷ, Kiến,
Phá định cục loạn

451
Việt Hải

Ngọc kính chính kinh Sơn, Thuỷ, Kiến, Phá định cục loạn.

Đi xem Sơn, Thủy thấy có sơn thì đoán sơn, có thủy thì đoán thủy, sơn thì xem cái thế nó dẫn
lại, thủy thì xem chỗ nó triều lại. Sơn tuy là gốc khởi phát tinh phong, nhưng Quái thực định ở chỗ
kết cục. Nếu không có sơn phong khởi chỏm lên, thì lấy chỗ lai long ( mạch lại huyệt trường).

 
Nếu có đến phong ( núi cao lên) thì quái, phải theo chỗ phong khởi. Thủy tuy gốc ở
chỗ nguyên đầu ( phát nguồn) mà quái thực ( bản cục) định ở chỗ góc nó triều vào,
không có hợp thủy, thì lấy chỗ thủy hoành nhiễu ( quẩn qanh ngang mặt). Nếu có
chỗ thủy hội họp, thì quái, lấy ở chỗ hợp ấy. Nghĩa là: Ở trong chỗ bình địa, thì lấy
chỗ cao hơn làm sơn, ở chỗ sơn khởi phong cao, gọi là Kiến, chỗ thấp hơn làm thủy,
chỗ thủy gặp nhau gọi là phá. Kiến làm chủ, Phá làm khách, chủ, khách tương phối
( sánh với nhau) thì khởi quái ( cục). Vậy sau biết được là gì Quái, và tinh gì, lấy
nhập trung cung, rồi phi ra tám phương để xem Sinh, Vượng, Quan sát mà đoán cát
hung.
Như Ly phương hữu thủy, thì tác Khảm sơn, Khảm phương hữu thủy, thì tác Ly sơn,
Kiền phương thủy cận, thì tác Tốn sơn, Tốn phương thủy cận, thì tác Kiền Sơn ( Sơn
tức là quái, hay là cục) Như TỨ vị ( 4 bên) hữu thủy, thì tác trung cung – LUẬN: Nếu
một bên có đường mạch liền nhau, thì lấy phương tiến khí làm quái ( cục) không nên
lấy trung cung, cốt xem có Kiền, bão, hoàn nhiễu, ở xa hay gần thấy hoạt phép thì
lấy.

Quyết vân:
"Sơn xuyên Kiền, Phá, yếu phân minh;
Kiến yếu thanh hề, Phá yếu ninh;
Cánh trị sơn phương, vô khắc sát
Chủ sơn đắc vận, họa nan sinh."

Nghĩa là:
1 – Núi, sông, kiện, phá, cốt phải rõ ràng.
2 - Ở phương Kiền ấy, cốt thanh sảo, không nên thô ngạnh, phương Phá cốt yên
tĩnh.
3 – Gặp vận, đối với phương chủ sơn ( tức quái, cục) không bị phương ấy khắc sát.
4 – Phương chủ sơn mà đắc vận ( được vận tốt) thì tai họa khó đến mà xâm lăng.
Ở nơi núi cao, thì lấy chỗ cao làm Kiền, chỗ thấp làm Phá ở nơi đất bằng, thì chỗ
trung tâm làm Kiền, chỗ thủy tế ( nước giao hội) làm Phá. Lại lấy tọa sơn ( ở đằng
sau đầu huyệt) làm Kiền, lấy chỗ hướng triều vào làm phá. Kiền là chủ, thì nên mạch
lai hoạt động, phong hậu thanh khiết. Phá là khách, thì nên triều tú, tủng bạt lưu
thần hoàn bão, nghĩa là: núi cao phải triều vào và tú lệ tinh quang. Thủy phải vòng
cong ôm lại.
Nếu thấy có phương Sinh có cao sơn mà thủy hoàn nhiễu, thì con cháu có phước lộc,
mà chủ kiến đắc vận, thì đại phát phú quý. Xem các phép chi tiết kể sau:

Cửu cung thuộc Bát Quái Ngũ Hành ca:


"Nhất bạch, Tham lang Khảm thủy thần
Nhị hắc Khôn thổ, khởi Cự môn.
Tam bích Chấn Mộc, Lộc Tồn thị,

452
Tứ lục văn khúc, Tốn Mộc thân,
Ngũ hoàng Liêm trinh trung cung thổ,
Lục bạch Vũ khúc, Kiền thuộc kim
Thất xích phá quân, kim, quán Đoài.
Bát bạch Cấn thổ, Tả phụ tinh.
Cửu tử Hữu Bật, Ly hỏa diệm
Cửu cung Bát quái thử trung phân."

Diễn nghĩa là: Nhất bạch là sao Tham lang ở phương Khảm, gọi là: Thủy Thần
Nhị hắc là: sao Lộc Tồn ở phương Chấn, thuộc Mộc.

"Nhị hắc là sao Cự Môn, thuộc Thổ, ở phương Khôn.


Tam bích là sao Lộc tồn, ở phương Chấn, thuộc Mộc.
Tứ lục là sao Văn khúc, ở phương Tốn, thuộc Mộc.
Ngũ hoàng là sao Liêm trinh ở trung cung thuộc Thổ
Lục bạch là sao Vũ khúc ở phương Kiền thuộc Kim
Thất xích là sao Phá quân ở phương Đoài, thuộc kim,
Bát bạch là sao Tả phụ ở phương Cấn, thuộc thổ
Cửu tử là sao Hữu bật ở phương Ly, thuộc Hỏa.
Cửu cung bát quái, chia ra ở trong đó."

Cửu tinh sinh, khắc ca:


"Sinh khí nguyên lai, sinh ngã thân
Sát tinh khắc ngã, tiện sinh cân
Ngã nhược sinh the, vi thoái khí
Bị ngộ khắc giả, thị tài thần
Đãn vi tử khí, phi toàn lợi
Dữ ngã tương đồng, vượng khí chân."

Nghĩa là:
"Sinh khí nguyên là sinh vào ta giúp cho thân ta.
Sát tinh khắc ta, thì ta bị hại,
Nếu ta sinh nó, là thoái khí
Nó bị ta khắc, thì thần tài đến với ta
Chỉ hiềm là phương Tử khí, thì chẳng được gì là ích lợi.
Nó với ta cùng hòa nhau, thì thật là vượng khí thì tốt."
Xét kỹ xem phương khởi phong ( núi cao lên) phương nào gần nước, lấy chỗ ấy mà
định quái cục. Quái cục đã định được rồi, thì lấy bản quái tinh nhập cung trung,
thuận phi ra tám phương, vậy sau xem phương nào sinh, phương nào khắc, để định
cát, hung.
Ví dụ: Phương nam gần nước, tức làm Khảm quái, lấy sao Nhất bạch nhập trung,
những phương Sinh, khắc, phải lấy Nhất bạch thuộc thủy, làm chủ ở giữa, tức là
trung cung, thì Nhị hắc đà thổ đáo Kiền, làm sát khí. Tam bích là Mộc đáo Đoài, làm
thoái khí phương, tức là Nhị hắc khắc Nhất bạch, nên bảo là sát khí, Nhất bạch sinh
Tam bích, nên bảo là thoái khí v.v… sẽ suy ra mọi cái khác.

Sinh khí quyết:


"Sinh nguyên, khí tụ, xuất danh thần
Hiếu hữu trung lương tá Thánh quân
Chập chập tử tôn hành hiếu nghĩa
Tự nhiên phú quý vạn niên xuân."

453
Nghĩa là: Vị sao làm chủ cái Nguyên ấy là sinh bản cục, mà khí tụ ở phương ấy, thì
phát sinh được Danh thần ( quan lớn) – là người trung lương hiếu nghĩa, phò tá vua,
giúp nước – Con cháu đông đảo đều là hiếu nghĩa – Tự nhiên giàu sang, trường thịnh
muôn năm vẫn còn.
Những phương là sinh khí, mà có đồi núi cao, hoặc thủy lai, thủy tụ, tú lệ hữu tình,
từ ngoài xa triều lại, là được phôi tinh tương tá. Những phương quan sát thấp phục,
thì đại phát tài lộc, đời đời làm quan. Sơn cương thủy lộ đoản, tiểu cũng được tiểu
phú quý. Nếu không có sơn, thủy thì bất cát.

Vượng khí quyết:


"Sơn gia vượng khí uất thông thông
Tú lệ tri cát sở chung
Ác diệu thô ngoan , tính phản bối
Quan tinh xung phá dã vị hung."

Nghĩa là: Ở phương là Vượng khí, mà có núi cao ngùn ngụt vót lên – thấy tú lệ ( tốt
đẹp) thì biết là khí chung tụ nhiều lắm – Nếu là Cô diệu ( núi đơn độc) thô ngoan
( thô xuẩn to ngạnh) hoặc lưng phản lại – Và quan sát tinh xung phá, vậy là hung.
Ở phương là Vượng khí, mà có núi nhọn cao, ôm ấp hoặc có tú thủy vòng quanh triều
vào, là Đại cát lợi. Nếu sơn xấu, thủy trực, thì không phải là tốt đẹp. Nếu gồm cả
Quan sát lại xung, thì biến làm hung.

Tử khí quyết
"Thủy lộ, Sơn Cương, phạm tử thần
Gia môn tịch tịch, chủ cô bần.
Lãnh thoái tai chuân, tần nhạ họa.
Khan khan hậu đại, tuyệt vô nhân."

Nghĩa là: Nước và núi đồi phạm vào phương Tử khí ( là Tử thần) – Nên cửa nhà
vắng vẻ bị cô quả bần hàn – Lạnh lẽo thoái bại, tai họa gây ra luôn luôn – Xem thấy
đời sau tuyệt tự không sai.

Thoái khí quyết


"Thoái khí nguyên lai, tối bất lương
Thời nhân phạm chước, họa nan dương
Doanh mưu thất bản, đồ ta thán
Gia đạo tiêu điều, khởi họa ương."

Nghĩa là: Phương thoái khí, nguyên là phương rất xấu, không lành – người nào bị
phạm ứng vào, thì tai họa khó tránh khỏi – mưu cự buôn bán thì mất cả vốn, những
than phiền – Gia đạo bị tiêu điều, khởi tai nạn, thiệt bại.
Hai phương Tử khí và Thoái khí, đều là bất lợi cả, nhưng sơn củng, thủy nhiễu, thì
cũng còn không đến nỗi. Tuy không phát quý nhưng tài lộc còn khá, không bị tuyệt
sản nghiệp. Vậy nên sơn sa phải đê phục bình thản, thủy không nên chảy đi ở
phương thoái khí, nếu trực khứ, thì tiết hết cục khí, tức là ngã thân tuyệt khí.

Sát khí quyết


"Lục sát sinh lai, thụ thử ương
Chỉ nhân định cục khiếm tư lường
Cấp tư di cải hung vi cát
Miễn đắc nhi tôn hoạn cửu trường."

454
Nghĩa là: Phương Lục sát mà sinh lai, thì bọ tai ương ở chỗ ấy – Chỉ vì khi định cục
thiếu suy nghĩ không biết liệu lượng – Kịp thời mà dời đổi, để chuyển cái hung làm
cái cát. Khiến cho con cháu khỏi phải bị nạn lâu dài.
Những phương Sát khí, mà có núi non cao tủng, thủy lộ xung xạ, gọi là: “ SÁT TINH
ngang lộ”. Lập hướng nhà ở, hay là lập hướng phần mộ thì đại hung. Bình phục hoặc
quánh ngang thì lành, phương ấy tối kỵ thủy lai, thủy khứ thì lại được lành.

Xung quan huyết:


"Quan sát tương xung, bất khả dương
Sơn cương thủy lộ, xạ Minh đường
Can thượng tương quan, do tự khả
Chi nội tương quan, lập kiến thương."

Nghĩa là: Phương quan sát tương xung ( xung cát lẫn nhau) thì không nên đương
đầu – như là Sơn cương, thủy lộ đâm thẳng vào minh đường ( là xạ) - Ở phương
Thiên can và tương xung thì còn dỡ chút - Ở trong phương Địa chi mà tương xung,
thì thấy đao thương ngay ( chết về đâm chém bất đắc kỳ tử).
Quan sát là phương Ngũ hoàng, cùng với bản cục đối xung. Vậy bảo là Quan sát
hung, cũng cùng như phương sát khí.

Quan sát sinh khí


( Hỗn tạp quyết)
"Sơn gia sinh khí phúc phi thường
Quan sát hung tai! Bất khả dương
Chỉ nhân thiện, ác tinh tương tạp
Cố sử vinh hoa kiến tử thương."

Nghĩa là: Về sơn, phương là sinh khí, thì cái phước chẳng phải là thường – Quan sát
phương, là tai ương, không nên đối xung – Bởi vì là sao dữ, sao lành, cùng lẫn lộn.
Vậy khiến cho người vinh hoa, mà bị cái chết thảm thương.
Phương Sinh khí và phương Quan sát với phương Sát khí, chỉ hiển sơn cương, thủy lộ
ôm lại, gọi là: Nửa lành, nửa ác – những chỗ ấy đều là nhà ở hay phần mộ, đều sinh
ra người khẩu thiện tâm ác ( là khéo léo ngoài miệng, mà trong lòng hiểm độc) hiếu
tranh, hiếu tụng, hiếu chiến, hiếu sát, cướp của mọi người làm của mình. Nhưng đa
thành đa bại. Tuy nhiều con cháu nhưng khó thoát được tội vạ. Quan tước tuy hiển,
mà chẳng được hoàn thiện. Những sơn sa thủy lộ, ở Sát phương phát lai, mà có sinh
phương kết cục, gọi là: Hành hung, tọa thiện. Những chỗ ấy có mộ, hoặc nhà ở, thì
gặp sự hung, có người cứu gặp nạn rồi lại được phước. Ra ngoài làm quan thường bị
phi tai đưa về. Nhưng ở nhà, thì không bị. Nhưng khó được lâu dài. Nếu ở Sinh
phương dẫn mạch lại, đến Sát phương kết tác, gọi là: “ hành thiện tọa hung” Phần
mộ hoặc nhà cửa, ở chỗ ấy đều là “ hảo sự đa ma” ( việc tốt hay mà nhiều dở). Làm
khéo, thành vụng, lợi khách bất lợi chủ. Không có mối gì, mà tai họa phá gia.

Khôi tinh quyết:


"Khôi tinh trùng điệp, khởi cao phong.
Cửu cửu tinh trung, độ nhất long.
Thử địa trinh tường, sinh kiệt sĩ
Nhi tế tôn thế đại nhập Triều trung."

Nghĩa là: Ở phương là khôi tinh, mà trùng trùng điệp điệp khởi cao phong, - Ở trong
Cửu cung, và Cửu tinh, hay nhất là long mạch ở phương ấy – Đất ấy là tốt lành, sinh
ra kiệt sĩ danh nhân. Con cháu đời đời được vào nơi triều đình. Tức là làm quan cao,

455
quyền lớn.
Thổ cục kiến Nhất bạch, Mộc cục kiến Bát bạch, Hỏa cục kiếm ục bạch làm Khôi tinh.
Lại nói: Chỉ có Nhất bạch làm khôi tinh thôi, ở phương ấy khởi cao phong, long sơn
từ đằng xa quay lại, mà bát phương triều bão hộ vệ, đất ấy táng mộ hoặc làm nhà ở,
tì sinh ra người thông minh tài học đời đời làm quan, và hiếu nghĩa, là bậc anh hào.
Phú quý vĩnh viễn, nếu sơn thủy gần, hẹp cũng sinh ra người anh tài phú quý. Nếu
phương ấy là sinh khí hay tài khí, thì cái tốt lành không thể nói xiết. nhưng nếu là
phương Thoái khí thì xuất cao tăng đạo sĩ, nghệ thuật xuất chúng. Chỉ có là phương
sát khí, thì sinh ra người khôn ngoan sảo trá, độc ác, hung tàn, nghèo khổ, chết non,
khó thoát khỏi hoạn nạn.

Thiên diệu quyết


"Tam bạch sinh lai, thị tử tôn
Mạc tương thoái khí, đẳng nhân luân
Cát tinh lâm chiếu, đa hưng vượng
Dịch dịch quan thường, khác mãn môn."

Nghĩa là: Sinh lại ba phương bạch ( là Nhất bạch, Lục bạch và Bát bạch) thì phương
ấy là con cháu mình – Đừng đem ra mà ngôn luận, coi như là hạng thoái khí – Những
phương ấy là cát tinh mà chiếu tới đấy, thì hưng vượng lắm. Nối tiếp Mũ, áo, cân đai
phước lộc đầy cửa trâm anh, thế gia phiệt duyệt.
Hỏa sơn kiến bát bạch; Thổ sơn kiến Lục bạch, Kim sơn kiến Nhất bạch. Nghịa là:
Hỏa cục ( Hỏa quái, hỏa cung cũng thế) gặp phương bát bạch là Hỏa sinh thổ; Thổ
sinh Kim, Kim sinh thủy, cũng vậy, thì làm con cháu mình. Ba sao ấy gọi là thiên
diệu ( sao lành). Lý do là hay chế ngự được cái Sát khí. Vậy những sơn đó, mà có
sơn thủy triều củng, thì rất hay ( hóa hung vi cát). Nếu có Chùa, Miếu, Đình, Đền,
Chuông, Trống trấn động, là đại cát địa, thì con cháu giàu sang, thông minh lương
thiện.

Tam cát địa quyết:


"Địa hữu tam cát, thực nghi cầu,
Sinh khí khôi tinh, tử tế sưu
Đại cương đại sơn tính xá mã
Tự, quán, Chung, cổ nhất dạng thu."

Nghĩa là: Đất có ba điều lành, thật là nên cầu; Sinh khí , khôi tinh nên cẩn thận
xem xét kỹ, mà sưu tầm – Như là Núi to, Gò lớn, Xe, ngựa lai vãng; Đình chùa
chuông, trống cũng vậy nên thu nhận.
Những phương Sinh khí, khôi tinh, mà có Đại sơn, Đại thủy triều cố ( chầu vào mộ)
bốn mùa không dứt, là một cái tốt lành. Có Kiều, lộ, lưu thông, xe ngựa đi lại triều
vào là hai cái tốt lành. Có chùa, Đền, Chuông, trống sớm tối nghe tiếng vang động là
3 cái tốt lành. Đất nào có những cái tốt lành như thế thì con cháu thông minh lương
thiện, đinh, tài lưỡng vượng. Nếu ở vào phương Quan sát, thì lại là hung, bị tai họa,
hình thương, yểu tử, không thể kể xiết.

Tam nguyên vượng khí quyết:


"Khán sơn, tu khán, chủ long tinh
Thượng nguyên, nhất bạch, cát nghi minh
Tứ lục chi tinh, Trung nguyên cát
Thất xích Hạ nguyên, đa hữu tình"

Nghĩa là: Xem hơn, thì phải xem vị tinh nào làm chủ long sơn – Nên biết rõ là: Về

456
thượng nguyên thì sao Nhất bạch tốt – Trung nguyên thì sao TỨ - Lục tốt – Hạ
nguyên thì sao Thất xích quyền hành, được thịnh vượng.
Những sơn cương, thủy lộ, mà được sao Quán nguyên ( làm chủ nguyên, vận), triều
cố, thì đại lợi trong 60 năm, nếu là phương sinh khí, thì trước sau đại cát. Nhưng là
phương Sát khí, thì cũng 60 năm được tiểu lợi, nhưng đến nguyên khác thì hung.

Tam nguyên long vận quyết:


"Tam nguyên long vận, lý nghi thông.
Thượng nguyên Nhất bạch, Nhị, Tam đồng
Trung nguyên Tứ lục Trung, Kiền vị
Hạ nguyên Thất xích Cấn, Ly trung."

Nghĩa là: Long vận về ba nguyên, Lý khí nên thông hiểu. – Thượng nguyên, thì sao
Nhất bạch, Nhị hắc, Tam bích ba sao cùng ở trong một nguyên. – Trung nguyên thì
sao Tứ lục, Ngũ hoàng, Lục bạch, ba sao ở trong một nguyên – Hạ nguyên thì sai
Thất xích, Bát bạch, Cửu tử ba sao cùng chung một nguyên.
Như Thượng nguyên gồm 60 năm, thì Giáp tý và Giáp Tuất, 20 năm thuộc về sao
Nhất bạch quản trị. Giáp Thân, giáp Ngọ 20 năm, thuộc về sao Nhị hắc quản trị. Giáp
Thìn và Giáp Dần 20 năm, thuộc về sao Tam bích quản trị. Nhưng sao Nhất bạch vẫn
làm chủ thống vận cả một đại nguyên là 60 năm, đều nắm quyền quản trị. Đến
nguyên khác luật lệ cũng như thế.
Mỗi nguyên lấy một sao Quản nguyên làm chủ, để luận Sinh vượng trong tám
phương. Như thượng nguyên thì sao Nhất bạch làm chủ vận, thì Khảm cục là Vượng
khí, Nhất bạch là thủy sinh Mộc, thì Chấn và Tốn cục ( phương) được sinh khí. Thủy
khắc hỏa, thì ly cục là sát khí, Kim sinh thủy, thì Đoài, Kiền cục là thoái khí. Thổ khắc
Thủy, thì Khôn, Cấn cục, là Tử khí. Khắc nguyên là Tử khí. Được nguyên sinh là Sinh
khí. Bị Nguyên khắc ấy là Sát khí, Tỷ hòa với nguyên ấy là Vượng khí. Cái sinh, Sát
khí ở bản cục, với cái sinh, sát khí ở trên tám phương, không cùng như nhau. Nghĩa
là: Cái sinh, sát của bản cục ở trong Sinh, Sát ra với cái Sinh, Sát ở ngoài sinh, sát
vào khác nhau. Tức là lấy cái bản cục ( là chính mình) được cái sinh, vượng khí là
cát, cái tử Thoái khí là hung, thì dẩu Địa cát cũng không phát phước.

Bát sơn sinh vượng quyết:


"Lục bạch Vượng, Tướng, tại Thượng nguyên
Thất, Bát hưng long, tại hạ nguyên
Tam, Tứ nhị sơn, Trung lục thập
Khôn sơn, Trung vĩ, Hà đầu liên.
Duy hữu Cửu ly dữ Khảm nhất
Thượng vi, trung đầu, ngũ thập niên."

Nghĩa là: Phương Kiền ( là Lục bạch) thì Vượng, Tướng ở Thượng nguyên – Thất xích
là Đoài, Bát bạch là Cấn, thì hưng thịnh ở Hạ nguyên. Tam bích là Chấn, Tứ lục là
Tốn, hai sơn này, thì Vượng, Tướng 60 năm, thuộc trung nguyên liền với đầu hạ
nguyên. Chỉ có Cửu tử là Phương ly và Nhất bạch là phương Khảm, thì vượng về cuối
thượng nguyên, và đầu Trung nguyên liền 50 năm.

Chủ vận gia phi quyết:


Như thượng nguyên, sau năm Giáp Thân lấy Nhị hắc nhập trung thuận gia bát
phương ( 8 phương). Xét xem sinh, khắc ở các phương vị để đoán cát, hung của bản
cục.
Như Nhị hắc nhập trung, thì Tam bích gia Kiền, Tứ lục đến Đoài, là hạ khắc thượng,
Ngũ hoàng tới Cấn, là tí hòa, Lục bạch tới Ly, là hạ khắc thượng; Thất xích tới Khảm

457
là thượng sinh hạ; cái khắc cũng thể lệ như thế.
Hạ khắc thượng, là chủ khi khách! Chủ nhân, tâm bất hòa, thì họa nhẹ thôi.
Thượng khắc hạ, là khách khắc chủ, là Sát khí gia lâm thì bách sự bất lợi, tất nhiều
hung họa. Hoặc đất ấy long, cục , sa, thủy, bị người phá hủy, thượng sinh hạ, là
ngoại ích nội, thì đại hưng, đại phát. Hạ sinh thượng là ngoại hao nội, tất lãnh thoái
nhân đinh.
Lại lấy sao chủ vận làm chủ, để luận bát phương Sinh, Sát, Cát, hung. Như thượng
nguyên Nhị hắc nhập trung, tức lấy Nhị hắc làm chủ, thì Tam bích gia Kiền, Tứ lục
gia Đoài, thì hai phương Kiền Đoài là sát khí phương. Cửu tử gia Chấn, thì lấy Chấn
làm Sinh khí phương, còn Tử, Thoái khí, cũng như thế sẽ suy ra mà đoán.
Những âm phần, Dương Trạch là phương Sinh khí của sao chủ vận, mà có cửa, ngõ,
lối đi, hoặc đường thủy chảy lại, thì vượng tài, thôn đinh. Nếu là phương Sát khí, có
chỗ khuyết hãm, vỡ lở, thì quyết là biến ra tai họa ở ngoài đưa đến. Phương ngũ
hoàng có đường, ngõ xung động, thì đại hung. Thoái phương, thì hao tán tiền tài. Là
Tử phương, thì người bị tổn thương. Ở Vượng phương mà có Lục sát, lại gồm cả Lưu
niên Cửu tử và ngũ hoàng phi đáo, thì bị kiện tụng hỏa tai thoái bại. Đây là Sinh sát
xung quan, chủ quản 20 năm, tức là Đại lưu niên pháp vậy.

Chủ vận lưu niên cửu tinh


Gia lâm cát, hung quyết:
"Sinh nhập Sát phương khán tật bệnh
Sát nhập sinh phương, đoán Tử, sinh
Tử thượng sát lai, động điền sản
Tài lâm sát, Thoái, tổn hy sinh
Sát lâm quan sát, xuyên tâm hại!
Sinh nhập Sinh phương, xứ xứ hưng."

Nghĩa là: Sinh vào Sát phương thì sinh tật bệnh – Sát vào sinh phương, thì đoán
sống chết! – Sát lại trên phương Tử, thì động về điền sản ( ruộng vườn, nhà cửa) –
Tài vào phương sát, Thoái, thì tổn Súc vật ( Trâu, bò, heo v.v…) – Sát tới phương
Quan sát, thì hại như đâm vào bụng! Sinh lại vào phương Sinh, thì mọi cái đều hưng
thịnh? – Chỉ có sao Ngũ hoàng là chính Thần sát. – Cả tám phương, đến phương nào
cũng chẳng có cảm tình, chỉ sinh tai họa thôi.
Lấy chủ vận tinh và lưu niên tinh, gia Bát phương, Bát cục mà đoán. Như Khảm cục
thì lấy Khôn phương làm Sinh khí phương, Thượng nguyên giáp tý 20 năm, lại được
Thất xích gia Khôn, là Sinh nhập sinh phương, cái kháo cũng theo thế mà suy ra.
Sinh mà thấy Sinh, thì tiến tài, tăng sản. Sinh thấy sát thì tai họa về quan tụng,
nhưng có người tết cứu. Sát thấy sát, thì bị hỏa tai, tổn người. Mọi sự dều bất lợi. Sát
thấy Sinh, thì được nửa tốt, nửa xấu, nửa năm trên thì lành, nửa năm dưới, thì hao
tổn nhân đinh. Thoái thấy thoái, thì họa hại bệnh hoạn! Sinh thấy thoái, thì tổn lục
súc và sinh khẩu thiệt. Nhưng sau gặp quý nhân. Lấy ở bản phương có sơn, thủy đạo
lộ và lục sự: Xe, ngựa, Đình, Chùa, Chuông, Trống v.v… mà đoán xét hung, cát.

Niên nguyệt cửu tinh quyết:


( Dùng về tu phương hướng)
"Thiên văn Cửu tinh, tuế tuế suy
Địa lý Cửu tinh vĩnh bất di
Phi khứ tương sinh, sinh quý tử
Phi lai khắc phục, thị hung kỳ
Tam bạch đáo tọa, chủ hoài thai
Tử, bạch lầm môn, hỷ khí lai
Hình hại, không vong, câu bất thực
Sinh phù ưng đắc, quý nhân tài."

458
Nghĩa là: Sao lưu niên cửu tinh gia lâm ( phi ra) thì lấy bản cục bản phương làm
chủ, sao phi lai làm khách, khách sinh chủ, thì sinh quý tử, khách khắc chủ, thì bị
hung họa. Như Kiền phương là kim, Bát bạch gia lâm là khách sinh chủ. Cửu tử gia
lâm là khách khắc chủ. Lại lấy bản tinh nạp âm biến hóa mà luận, sẽ nghiệm, như
Cửu tử vốn là hỏa, nếu Giáp Tý niên độn được Canh Ngọ thổ, thì Cửu tử lại biến làm
thổ. Biến hóa thì lấy Thái tuế Ngũ hổ độn, định, như Giáp Tý niên khởi Bính Dần, thì
Bát Bạch biến hỏa, Đinh Mão, thì Tam bích cũng biến hỏa, nếu không biến hỏa, mà
cứ giữ bát bạch là Thổ, Tam bích là Mộc, thì không nghiệm. Trong Cửu tinh thì 3 sao
Bạch và sao Cửu tử là cát tinh, nhưng không khắc bản phương, thì mới đoán là cát.
Hình hại, như Nhất bạch đáo Chấn, là Tý hình Mão, Nhất bạch đáo Khôn, là Tý hại
Mùi.
Ý là: Nhất bạch tức là Tý
Không vong là: Thái tuế bản giáp là phương vị không vong, như Giáp Tý 10 năm, thì
Tuất Hợi là không vong. Cái Cát tinh, hung tinh đến cung không vong, thì hiền lạc
hãm vô lực. Tử, Bạch đến đấy, cũng là vô dụng. Nếu tử, Bạch được đến cung Sinh,
Phù ( là Sinh giúp sức, thì đều là cát).

Khở niên bạch quyết:


"Niên bạch tam nguyên, các bất đồng
Thượng nguyên Giáp Tý khởi Khảm cung
Trung nguyên TỨ lục, cung trung khởi
Hạ nguyên Thất xích, nghịch hành cung."

Nghĩa là: Khởi bạch tinh về niên vận đều khác – Như Thượng nguyên Giáp Tý, thì
khởi ở Khảm cung – Trung nguyên Tứ lục thì khởi ở Trung cung, - Hạ nguyên Thất
xích, thì khởi cung nghịch trở lại.
Mỗi một Giáp Tý thì đều nghịch hình ( đi ngược) Cửu cung, thì đều thuận bá ( thuận
đi ra). Như Thượng nguyên năm Bính Dần, thì Giáp Tý khởi ở cung Khảm, ất Sửu ở
Ly, Bính Dần đến Cấn, tức lấy bát bạch nhập trung thuận phi.
Tu tạo, khởi công làm thì đại kỵ kiến phương của bản cục, như: Khảm cục, thì lấy
Nhất bạch làm Kiến, nếu Nhất bạch đáo phương Khảm, thì không nên làm, lại kỵ cát
tinh của bản cục ở đấy, như là Khảm cục kỵ nhị hắc trên Bát bạch phương. Phạm
kiến, thì thương Trạch trướng ( trưởng gia đình). Phạm bát thì triêu hoạnh họa ( Tai
họa đến bất kỳ). Lại Tam bạch là Cát tinh đến đấy, nhưng hạ khắc bản phương, thì
lấy cát, còn ngũ tinh ( 5 sao) khác, thì chỉ lấy sinh bản phương, mới làm cát, nếu
không phải là sinh, thì đều là hung.

Đích lưu sát:


Lấy cung Khảm, khởi Giáp Tý, nghịch hành ( đi ngược) tìm sao Thái tuế đến chỗ nào,
thì lấy tinh ấy nhập trung cung, là Dương niên thì thuận phi, âm niên thì nghịch phi,
tra ngũ hoàng ở đấy, như Đinh Dậu niên đáo Tốn, thì lấy sao Tứ lục nhập trung
nghịch bá, thì Ngũ hoàng đáo Tốn, tức là Đích lưu sát.

Đích mệnh sát


Lấy Giáp Tý nhập trung, thuận tầm Thái tuế ( đương niên) đảo xứ, tức lấy tinh ấy
nhập trung nghịch bá, tra Ngũ hoàng ở đấy. Như Ất Sửu niên đáo Kiền, tức lấy Lục
bạch nhập trung, nghịch bá, thì Ngũ hoàng đáo Kiền.

Ám hoàng sát
Lấy thượng nguyên Giáp Tý khởi Thất xích, Trung nguyên Nhất bạch, Hạ nguyên Tứ
lục, nghịch tầm Thái tuế đáo xứ, tức lấy tinh ấy nhập trung, năm là dương thì thuận

459
hành, là âm thì nghịch hành, tra Ngũ hoàng đáo xứ. Như là Thượng nguyên Ất Sửu
đáo Kiền, tức lấy Lục bạch nhập trung nghịch hành, thì Ngũ hoàng đáo Kiền, là Ám
hoàng sát. Chỗ Ám hoàng, thì phạm cái họa liệt ở Minh đường, ứng nghiệm như
thần.

Nguyệt bạch khởi chính huyệt tinh quyết:


"Tý, Ngọ, mão, Dậu khởi bát bạch
Dần, Thân, Tỵ, Hợi nhị hắc cầu
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Ngũ hoàng khởi
Nghịch hành, thuận bá bát phương du."

Nghĩa là: Năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, thì tháng giêng khởi Bát bạch, tháng hai là Thất
xích, tháng ba là Lục bạch v.v… cứ nghịch chuyển để lấy tinh của tháng, nhập trung
thuận phi bá bát phương, để luận cát hung, phép cũng cùng với niên tinh.
Năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi, thì tháng giêng khởi Nhị sắc tháng hai Nhất bạch, tháng ba
là Cửu tử, cũng nghịch chuyển lần đi như trên để tìm Nguyệt tinh nhập trung.
Năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tháng giêng khởi Ngũ hoàng, tháng 2 Tứ lục, tháng 3 là
Tam bích cũng nghịch chuyển như những năm kể trên, để tìm nguyệt tinh nhập
trung, rồi thuận phi ra bát phương, mà đoán cát, hung.
Cái cát, hung của năm, thì còn khoan, chứ cát, hung của tháng, thì tối khẩn, ứng
mau lắm!

Tam nguyên nhật bạch quyết:


"Đông chí Nhất bạch, Vũ thủy xích
Cốc vũ nguyên tòng, tứ lục cầu
Hạ chí Cửu tử, Xử thử Bích
Sương dáng tiên tòng, Lục bạch du
Dương tu thuận khứ, Âm hoàn nghịch
Đãn cầu lục Giáp vĩnh vô hưu
Nhược phùng Tử, Bạch, phương vi cát
Hoạt pháp tu dương, tử tố sưu."

Nghĩa là: Thuộc về tiết Đông chí, thì khởi Nhất bạch, tiết Vũ thủy thì khởi Thất xích
– Tiết cốc vũ thì khởi Tứ lục – Tiết Hạ chí thì khởi Cửu tử. Tiết xử thử thì khởi Tam
bích. Tiết Sương dáng thì khởi Lục bạch. Dương thì theo chiều thuận đi. Âm phải
quay về ngược chuyển đi – Tìm đúng LỤc giáp thì lâu dài phát phước không nghỉ.
Trích như là: Trước hoặc sau tiết Đông chí, thì ngày Giáp Tý khởi Nhất bạch, ngày Ất
Sửu là nhị Hắc, trước hay sau tiết hạ chí, thì ngày Giáp Tý khởi Cửu tử, ngày Ất Sửu
là bát bạch v.v… lấy quản trị Nhật tinh, nhập trung thuận phi bát phương. Các tiết
khác cũng cứ theo lệ như thế, sẽ suy ra.

Tam nguyên thời bạch quyết:


"Tam nguyên thời bạch, Nhật tương đồng,
Dương thuận, Âm nghịch nhập trung cung
Đông chí Nhất, Tứ, Thất, dương ký
Hạ chí Cửu, Lục, Tam, thị tông."

Nghĩa là: Khởi Bạch tinh của thời giờ thì cũng cùng thể lệ như ngày, cả ba nguyên
như nhau. – Dương thì thuận, âm thì nghịch, lấy chủ tinh nhập trung cung – Tiết
Đông chí thì nhớ là khởi Nhất bạch, Tứ lục và Thất xích – hạ chí thì Cửu tử, Lục bạch,
Tam bích là chính tông.
Như là: Sau tiết Đông chí, gặp ngày Tý, ngày Ngọ, ngày Mão, ngày Dậu, thì giờ Tý

460
khởi nhất bạch. Ngày Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì giờ Tý khởi Tứ lục. Ngày Dần, Thân,
Tỵ, Hợi thì giờ Tý khởi Thất xích, đều thuận hành tìm Trị thời tinh (sao quản trị giờ)
nhập trung cung, thuận phi bát phương.
Sau tiết Hạ chí, gặp ngày Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì giờ Tý khởi Cửu Tử. Ngày Thìn, Tuất,
Sửu, Mùi thì giờ Tý khởi Lục bạch. Ngày Dần, Thân, Tỵ, Hợi thì giờ Tý khởi Tam bích,
đều nghịch hành trị thời tinh nhập trung cung, thuận phi cát phương.
Trên đây cả, năm, tháng, ngày, giờ, chỉ có gặp được Cửu tử, Nhất bạch, Lục bạch
sinh khí, thì mới là đại lợi, tu tạo ở 3 phương Bạch, thì không kỵ Thai tuế, Tướng
quân, Quan phù và Đại tiểu hao, hành niên bản mệnh mọi cái sát. Chỉ có Thiên
cương tứ vượng, sát Đại nguyệt kiến, thì chẳng nên phạm.

Tổng luận
Niên, Nguyệt, Bạch quyết:
"Bát quái sơn đầu số yếu tinh
Chiêu nhiên dị kiến, lý nghi minh
Ai niên, toán nguyệt, bình tai họa.
Huyền huyền thấu lý Quỷ thần kinh"

Nghĩa là: Cái độ số của tám phương thuộc về tam nguyên phi đến bản cục, cốt phải
tinh tường, rõ rệt dễ thấy, lý luận phân minh. – Phải tính tháng và năm của nguyên
vận tinh phi đến – Tuy huyền bí cao siêu, nhưng lý khí mà thấu được, thì quỷ thần
cũng kinh sợ.
Những cái sát khí gia thủy cục, tất thị phát hung, như là Nhị hắc gia Khảm cục vậy.
Sinh khí gia Mộc cục tất phát phước, như là Nhất bạch gia Tứ Tốn vậy. Trước lấy chủ
vận của tam nguyên gia đấy, thì sau định ( 20) hai chục năm cát, hung, rồi lại theo
năm, và tháng lấy trị tinh gia đấy, thì cái hạn cát, hung có thể quyết đoán được.
Lại Tam nguyên độ số đến bản cục, làm Ám Kiến, đối cung làm Ám phá, như Thượng
nguyên Giáp Tý, thì năm Bính Dần đáo Cấn, thì Cấn cục làm Ám kiến, Khôn cục làm
Ám phá, Nguyên là cát địa, mỹ huyệt, thì lay động bản long, vậy mọi sự được cát
tường. Nếu là đất hung, huyệt sai lầm thì mọi sự đại hung.
Những Can cát của Thái tuế ở bản vị làm Minh kiến, đối cung làm Minh Kiến, như
năm Giáp Tý, Giáp ở cung Chấn, làm Can minh kiến, Tý ở Khảm cung, làm Chi minh
kiến. Đoài làm Can Minh Kiến, Ly làm Chi Minh phá. Năm Mậu, Kỷ thì Can Kiến, Phá
đều ở trung cung. Phạm vào Can kiến, phá thì họa, phước, giảm một nửa. Phạm chi
Kiến, Phá, thì đại hung không nên phạm.

Cửu tinh khắc, ứng quyết:


"Nhất bạch tinh bản thuộc thủy, Chấn, Tốn tu đạo mỹ,
Khan khan, Thất, Bát, Cửu, nguyệt lai
Giao tiến Nam phương ngoại khí tài
Nhị hắc, tinh bản thuộc thổ
Kiền, đoài phùng chi tu đạo mỹ
Thả đãi nhị, bát nguyệt giao lai,
Tiến nhập Đông, bắc, Tây phương tài.
  
Tam bích tinh bản thuộc Mộc
Dư cung mạc tạo tác
Giáo quân Nam phương dụng trước thời,
Tây phương hóa vật lục tuần chí ( Tứ lục đồng)

Ngũ hoàng binh trung thổ tôn,


Tây bắc chính tương thân

461
Thử tinh đãn khả tu Kiền, Đoài.
Thất, Bát, Cửu nguyệt ngoại tài lâm ( bát bạch cánh sát)

Lục bạch tinh nguyên thuộc Kim


Khảm sơn dụng chi phước dĩ thâm
Đãn giao tứ, lục, Thất bát nguyệt
Đông nam hỷ chí, lạc hân hân ( Thất xích đồng)

Cửu tử bản thuộc Hỏa


Khôn, cấn nhị thương, tu tạo khả
Trực đãi Dần, Tỵ, Ngọ, nguyệt niên
Sắc phương tài sản, lai phi tỏa."

Giải nghĩa:
Sao Nhất bạch vốn thuộc thủy, về phương Chấn và phương Tốn, tu tạo (đặt táng hay
làm nhà) thì tốt đẹp. Xem thấy tháng bảy, tháng tám, tháng chín liền lại, thì có ngoại
tào ở phương nam tiến tới.
Sao Nhị hắc vốn thuộc thổ, về phương Đoài và phương Kiền, gặp được lúc tu tạo thì
tốt và đợi đến tháng hai và tháng tám, khí giao lai, thì có của ở phương Đông Bắc, và
phương Tây tiến đến.
Sao Tam bích vốn thuộc Mộc, các cung khác không nên tạo tác bảo ngươi là: Chỉ có
phương nam mà đùng ( làm tu tạo) thì có của cải ở phương Tây, chỉ sáu tuần ( là 60
ngày) đưa đến ( tức mau phát) ( sao tứ Lục cũng như sao này).
Sao ngũ hoàng thuộc Thổ, là sao tôn trọng ở trung cung; phương tây bắc chính là
tương thân; sao này chỉ nên tu tạo ở phương Đoài và phương Kiền; - Tháng 7 tháng
8 tháng 9, thì có ngoại tài đến ( sao bát bạch gặp cũng tốt lành).
Sao lục bạch ( tinh) nguyên thuộc Kim, phương Khảm mà gặp được tạo tác thì phước
càng lâu bền, to dầy; Nhưng đợi tháng 6, tháng 7, và tháng 4 giao khí lai, thì có vui
mừng ở phương Đông nam đến rất là hân hoan ( Thất xích cũng cùng  như sao này).
Sao Cửu tử vốn thuộc Hỏa, gặp hai phương Khôn, và cấn, thì nên Tu tạo, - Lợi đến
tháng hoặc năm Dần, Tỵ, Ngọ, thì tốt, tài sản ở Bắc phương lại, chẳng phải khóa
cửa.

Thái tuế sơn đầu bạch tinh quyết:


"Tý niên Nhất bạch nhập trung cung
Ngọ tái tương phùng, Cửu tử đồng
Mão tuế trung cung, tam bích hội
Dậu niên Thất xích, thị tinh tông
Mùi, Thân nhị niên, câu Nhị hắc,
Thìn Tỵ hồi lai, TỨ lục trung,
Tuất, Hợi trung cung Khởi Lục bạch
Sửu, Dần, bát bạch, chính tương phùng
Bạch đáo sơn đầu, nghi tác dụng.
Âm phần, lập trạch tử tôn vinh
Bạch trung hữu cát, nghi hồi tị
Phạm giả tu giao, lập kiến hung."

Nghĩa là: Năm Tý, thì sao Nhất bạch nhập trung – Năm Ngọ thì Cửu tử nhập trung –
Năm Mão thì sao tam bích nhập trung – Năm Dậu thì Thất xích nhập trung; - Năm
Mùi và Thân hai năm đều lấy sao Nhị hắc nhập trung, - Năm Thìn và Tỵ thì sao Tứ
lục nhập trung; - Năm Tuất và năm Hợi, thì khởi sao Lục bạch ở trung cung; - Năm
Sửu và năm Dần, thì sao bát bạch nhập trung ( khởi). Những sao sao bạch đến cung

462
tọa sơn, hướng sơn, thì nên tác dụng ( làm nhà hay táng  mộ) ở trong phương sao
Bạch phi đến ấy, mà bị sát, thì nên tránh không nên dùng, nếu phạm sát, thì đứng
đấy mà nhìn thấy cái hung; Ý là sinh họa mau!
Trên đây là 12 năm, năm nào, lấy sao gì nhập trung cung, để phi ra bát phương, tìm
ba sao bạch  đến cung nào thì cung ấy tốt, nên tu tạo, những bị sao sát, thì tránh
không nên làm, vì bị hung! Như năm Tý, thì Tứ lục gia Cấn, là Mộc khắc thổ, nếu tác
Cấn sơn phương, thì 4 người bị thương, phạm sao Nhất bạch sát, thì bị thương 1
người, phạm sao Nhị hắc thì bị thương hai người. Lấy số của sao mà suy đoán. Cốt là
biết ứng vào kỳ nào. Gần thì lấy: như sao TỨ lục, thì đoán là 40 ngày hoặc 4 tháng.
Xa thì lấy: như Cấn phương là Sửu, Dần, thì đoán là năm Sửu, năm Dần hoặc năm
Mùi, năm Thân, tương xung, thì sẽ đoán đến năm ấy.
Cần biết là người nào bị tổn thương, thì lấy địa chi ở phương phạm ấy, ứng vào đó,
như Cấn phương là Sửu, Dần sinh nhân, thì đoán là người tuổi Sửu, tuồi Dần v.v…
Phép đoán tháng cũng cùng như năm, như Dần niên, lấy Bát bạch nhập trung, bạch
trung sát giả, là Ám kiến sát, Lục tiệp sát; Xuyên tâm sát; Đấu ngưu sát; giao kiếm
sát; thụ khắc sát; những phương phạm sát đều chẳng nên phạm.
"Nhất bạch đáo ly, phi vi cát
Nhị hắc hoàn phùng, Khảm thượng hung
Tam bích, TỨ lục khôn, cấn phạm.
Ngũ hoàng, Bát bạch, Khảm trung hung
Lục bạch, Thất xích, Chấn, Tốn kỵ,
Cửu tử, tương hình Kiền, Đoài trung
Bạch trung hữu sát, thiểu nhân tri
Đa , thiểu thời sư, hội bất thông,
Đãn đáo mộc bạch vi Sinh khí
Hắc, oàng, Bích, Lục, Xích hà hung."

Nghĩa là: sao Nhất bạch phi đáo cung Ly, thì không phải là cát – Nhị hắc gặp đến
phương Khảm, thì hung –Tam bích, Tứ lục, đến phương Khôn, phương Cấn, thì phạm
hung, - Ngũ hoàng, Bát bạch đến cung Khảm thì hung – Lục bạch, Thất xích đến
phương Chấn, phương Tốn thì kỵ - Cửu tử đến phương Đoài, phương Kiền là hình
hung - Ở trong phương bạch có bị sát ít người biết – phần nhiều là các người làm
thầy lúc còn ít tuổi không biết được thông đạt – Nhưng đáo cung Mộc thì Nhất Bạch
là Sinh khí – Nhị hắc, Ngũ hoàng đáo cung Tam bích là Chấn đáo Tứ lục là cung Tốn,
thuộc về Mộc cả, cũng đâu phải là hung.
Nhất định kỵ sát khí nhập trung, như Khảm sơn, kỵ Nhị hắc, Bát bạch nhập trung, thì
đại kỵ tu đạo.
Nhất định kỵ sát tinh đáo phương. Như là Cửu tử phi đáo Kiền, Đoài phương ( tức
hỏa khắc kim)cũng kỵ cả tu đạo, nếu phạm thì bị phi tai hoành họa. Như là Hỏa tai,
đạo tặc, kiện tụng, tù ngục, ôn hoàng, dịch lệ, đại hung. Cả tam nguyên và năm,
tháng, ngày, giờ, bạch tinh cùng kỵ như nhau.
"Tý niên, Kiền, Khảm, Chấn phương khai
Sửu, Dần, Trung, Đoài, Cấn, Ly, lai
Mão niên, Khôn, Cấn, Chấn, Tốn cát
Thìn, Tỵ, Ly, khôn, Chấn, Đoài tài
Ngọ, khôn, Kiền, Tốn, Ly, Trung, Đoài
Mùi, Thân, Khôn, Khảm, Tốn, Trung, ly
Duy hữu Dậu niên Kiền, Cấn cát
Tuất, Hợi thủ cung Cấn, Đoài suy
Hoàn hữu Chấn, Kiền vi tiểu lợi
Phân minh chỉ dẫn hậu nhân bài."
Bài này tức là lấy bạch đáo sơn đầu, định cục tốt như là: Năm Tý thì lấy nhất bạch
nhập trung, phi bá, thì Nhị hắc gia Kiền là sinh khí, Lục bạch, gia Khảm là Sinh khí,

463
Bát bạch gia Chấn là sát khí, nên mới bảo rằng: Kiền Khảm, Chấn phương khai.
Như là năm Sửu, năm Dần, thì lấy bát bạch nhập trung, thì trung cung là tốt rồi, phi
ra thì Nhất bạch đáo Đoài là Sinh khí; Nhị hắc đáo Cấn là Cát khí; Tam bích đáo Ly là
Sinh khí. Nên mới bảo rằng: Sửu, Dần, Trung, Đoài, Cấn, Ly lai. Các năm khác cũng
cứ lấy như thế mà suy.

Niên đầu cửu tinh quyết:


"Thập nhị niên đầu, phân chính vị
Tổng lĩnh vạn vật chủ cùng, thông
Thế nhân bất tín, chiêu hung cữu
Tôn thử, tương vi tế thế công."

Nghĩa là: Mười hai năm phân ra, chính vị của sao đứng đầu; - Tóm lãnh cả muôn
vật hay và dở; - người đời không biết thì bị tai họa. – Biết cái ấy là tôn trọng, đem ra
làm, thì có công tế thế “ khắp cả thế gian”
Năm Tý thì Tham lang, năm Sửu, năm Hợi, thì Cự môn; năm Dần, Tuất, thì Lộc tồn,
năm Mão, năm Dậu, thì Văn khúc, năm Thìn, năm Thân thì Liêm trinh, năm Tỵ, năm
Mùi thì Vũ khúc, năm Ngọ thì Phá quân, mỗi năm lấy trị niên tinh (sao quản trị một
năm) nhập trung cung, thuận hành tìm tứ cát tinh đáo phương thì đại lợi.
"Năm Thân Tý Thìn, thì Tham lang làm Đế tinh
Năm Dần Ngọ Tuất thì Cự Môn làm Đế tinh
Năm Tỵ Dậu Sửu thì Phá quân làm Đế tinh.
Năm Hợi Mão Mùi thì Lộc Tồn làm Đế tinh."
Tứ Đế tinh đáo sơn, Hướng, thì lợi tạo táng, đáo phương nào thì lợi việc tu phương ở
phương ấy.

Niên đầu tam cát quyết:


"Tý niên Chấn, Đoài, Tốn sơn khai
Sửu, Dần, Cấn, Đoài, Tốn, Trung tài
Mão tuế, Kiền, Ly, Khôn vi Thổ
Thìn, Tỵ, Đoài, Chấn, Cấn, kham tài
Ngọ niên, cánh hữu Tốn, Cấn, Đoài
Mùi, Thân, Khôn, Khảm, Kiền, Thượng lai
Dậu tuế, Ly, Kiền, Khảm thượng đối
Tuất, Hợi, Khảm, Khôn, Ly diệc khai."

Nghĩa là: Phép lấy Thái tuế đối Quái làm chủ, theo Thiên định Quái, phiên Cửu tinh,
lấy ba phương cát làm khai, như năm Tý đối quái là Ly: Thiên định quái thì đối cung
Ly, là Chấn, Tức lấy Tham lang khởi Chấn phi đi, thì Đoài là Cự môn, Tốn là Vũ khúc,
ba cát tinh tới ba phương ấy, vậy bảo: Tý niên ( Chấn Đoài Tốn sơn khai), lợi tu
phương và tạo táng ở ba phương đó. Các năm khác cũng suy như năm này, mà tạo
tác.

Dương trạch quyết:


"Bàn cổ thủ khai, thiên dữ địa
Phục Hy hoạch quái, đồ dĩ bị
Hiên viên thủ sáng, lập cung thất
Trụ cơ phong thủy, kham bằng sứ
Truyền cập Tấn triều Quách Cảnh Thuần
Tạo trạch, doanh phần, tri xu tỵ
Ư kim phù hợp, Quỷ thần cơ
Tử bạch tinh thần, suy cao nghệ

464
Tiên tu chưởng thượng bãi cửu cung."

Nghĩa là: Từ thuở đầu tiên: đời Bàn cổ mở ra trời và đất; Đến phục hy đã vạch ra đủ
quái đồ; - Đến đời Hiên viên mới bắt đầu sáng lập cung điện, cung thất, - Lấy quái
đồ ấy, làm Trụ cơ của phong thủy, để làm bằng cứ; - Truyền tới Quách Cảnh Thuần
về triều nhà Tấn ( ở nước Trtung Hoa) – tạo tác nhà cửa phần mộ, biết lấy đó để xu
cát, tỵ hung – đến đời nay, cho là phù hợp huyền cơ của Quỷ Thần, So sánh các tinh
thần, thì Tử Bạch, là cao nghệ, nên trước hết bày ra Cửu cung.
Xét kỹ xem phương nào khởi phong, phương nào gần thủy để định Quái cục, thì lấy
quái tinh nhập trung, thuận phi ra bát phương, để luận cát, hung. Trước lấy Sinh khí,
sát khí, xem Sa, thủy, ở cục ngoại, rồi lấy Sinh khí, Sát khí, phân ra từng khoảng của
các phòng nội, ở trong nhà. Xem một cái Sinh khí, Sát khí thấy ở trên phương nào.
Những phương thấy Sinh khí, Vượng khí thì tốt, nhưng không phải là hình hại với bản
phương, thì mới là toàn mỹ, cái khí Tử, Sát với bản phương hình khắc nhau thì hung.
Lại lấy phương Trường sinh, Đế vượng của bản cục làm phương có khí, phương Bệnh,
Tử, Mộ, Tuyệt, làm phương vô khí, Nội cục, ngoại cục đều cần luận cả.
"Thứ tương thái tuế lâm phương vị
Tài vấn kỳ gia, tạo tác niên
Thứ đệ khai ngôn, vô sai dị"

Nghĩa là: Lần lượt đem thái tuế tới phương vị; rồi mới hỏi đến năm tuổi, của nhà tạo
tác ấy; cứ thứ tự mà khai ngôn, thì mới không có sót và đừng làm sai khác.
Xem Dương trạch những năm nào hưng, phế, thì lấy ngay bản niên Giáp Tý khởi xử,
để tra tìm Trị niên tinh nhập trung thuận hành bát phương, trước xem ở trên bản cục
được tinh gì là sinh, tinh gì là khắc, để đoán cát, hung một nhà.
Thử xem các phương, tinh nào sinh, tinh nào khắc, để đoán các phòng hung, cát,
như Nhất bạch gia Tốn, là Sinh khí tài Tốn cục Tốn phương cát. Nhị hắc gia Khảm, thì
Khảm cục, Khảm phương hung.
Bản cục tinh làm thống lâm, bản phương tinh làm chuyên lâm. Thống lâm cát mà
Chuyên lâm hung, thì bản phòng chẳng khỏi hung. Thống lâm hung mà Chuên lâm
cát, thì bản phòng không bị xấu cát, nếu cùng đều là hung, thì rất hung. Cùng là cát
thì rất lành.
Đại xem đại tượng cả mười năm, đương lấy Quản giáp tinh nhập trung, thuận hành
bát cục, để tra cái sinh, cái sát mà đoán cát, hung.
Quải Giáp tinh như Thượng nguyên Giáp tý, trong là Giáp Tuất đáo ly, thì lấy Cửu tử
làm quản Giáp tinh, thì cả 10 năm ở tuần Giáp Tuất đều lấy Cửu tử nhập trung, vậy
là Quản Giáp tinh thống lâm. Thái tuế tinh chuyên lâm. Thống lâm cát đến Chuyên
lâm đều là cát, thì phát đại phước Thống lâm hung đến Chuyên lâm hung cũng đều
hung, thì bị tai họa đến.
Xem Dương Trạch lại phải hỏi xem tạo tác về thời nào? Thuộc Nguyên nào, làm chủ
nguyên là tinh gì? Và hỏi chủ nhân tuổi mệnh gì? Thì sự hưng, phế có thể biết được.
Như Thượng nguyên sáu chục năm, thì 20 năm đầu Nhất bạch làm chủ vận, Hai chục
năm giữa Nhị hắc làm chủ vận, hai chục năm cuối Tam bích chủ vận. Như Nhất bạch
làm chủ vận thì Khảm, Chấn, Tốn, ba cục được Sinh khí là Đại cát. Kiền, Đoài, Khôn,
Cấn cục, là Tử, Thoái khí; Ly cục là Sát khí, đều ở trong 20 năm ấy, mà hung, cát,
bất đồng vậy.
Đền khi Nhị hắc làm chủ vận, thì 4 cục: Kiền Đoài, Khôn, Cấn, trước lại biến làm Đắc
sinh, Vượng khí thành cát, Khảm cục lại biến thành Sát khí và hung. Đây là một nhà
mà lại có cái hay, cái dỡ khác nhau.
Vậy cái nhà tạo tác ở bản nguyên Giáp Tý, trong bản nguyên tuy có cái bất cát, chưa
đến đại hung, đến sau nguyên khác quản trị, mà bị Tử, sát khí, thì sự hung bại
không thể cứu được.
Lại lấy chủ vận tinh nhập trung, thuận hành, xem trên bản cục được tinh gì, để biết

465
rõ cát hay hung. Nếu được bản vận là Sinh, Vượng khí, mà gia lâm bất cát, là trong
cái cát, có cái hung. bản vận là Sát, Tử khí, mà gia lâm, là lai sinh, thì còn có phước
nhỏ, như Khảm cục ở trong vận của Nhị hắc, thì phương Khảm bất cát. Nhưng lấy
Nhị hắc nhập trung, được Thất xích gia Khảm, là Kim sinh thủy, làm sinh khí thì cát.
Lại xem cái tuổi mệnh của Chủ nhân Nạo âm, mà được cái Sinh, Vượng khí của bản
vận, thì cát, bị là Tử, sát khí, thì hung. Được cả mệnh và nhà ở đều cát, thì phước to
lắm, nếu đều là hung, thì đại bại ( hỏng to)
"Chu, Huyền, Thanh, bạch tứ thú thần
Tường Sát tả, hữu tiền hậu trú
Tam bạch Cửu tử, lệ phi đồng
Tương hợp, tương sinh, quân tu ký
Đãn năng thừa thử, cát cung hành.
Phân phòng, động tác, giai vi tý
Hắc, Hoàng, Bích, Lục tuy vận hung
Nhược phòng Sinh khí cát vô cùng
Hoặc mộ thoái, sát, hà tu thủ
Đãn tri vượng vị chủ phú vinh"

Nghĩa là: Chu tước, Huyền Vũ, Thanh long, Bạch hổ, là tứ thú thần (thần linh ở bốn
bên huyệt). Vậy phải xét rõ, bên tả, bên hữu, đằng trước, đằng sau là tứ trụ - Ba
phương vị Bạch tinh và Cửu tử tinh, thể lệ không đồng nhau; những cái tương sinh
tương hợp, ngươi nên nhớ, - chỉ hay thừa được cái ấy, mà đi đến cung cát – Phân ra
từng phòng để tu tạo, thì đều giúp sức cả - Nhị hắc, Ngũ hoàng, Tam bích, Tứ lục,
tuy nói rằng hung, nhưng gặp được sinh khí, thì lại tốt vô cùng – Nếu gặp Thoái khí,
sát khí thì chẳng nên lấy – Nhưng gặp được Trị tinh là Vượng vị, thì giàu có vinh hoa.
Dương trạch phân phòng ( chia buồng) thì lấy bản cục tinh nhập trung; để xem Sát
khí, sinh khí ở từng phương một, mà đoán cát, hung riêng từng phòng. Nhưng ở bản
phương; cũng tự có chia ra tùng phần vị Sinh, Vượng, Tử, Thoái, Cát, Hung. Phi đáo
mà khắc bản vị là Sát. Bản vị mà khắc phi đáo, là Tử. Phi sinh bản vị là Sinh. Bản vị
sinh phi là Thoái. Tương tỷ ( cùng giống loại) là Vượng. Hợp với cái Sinh, Vượng ở
cung trung, mà bản vị lại tự là Sinh, Vượng, chẳng phải tương hình, tương hại, thì đại
cát. Hợp với Sinh, Vượng ở trung cung, mà bản phương lại là Thoái, Sát, thì cát,
hung, tướng bán ( nửa cát, nửa hung) về sau lâu thì thoái bại. Không được cái Sinh,
Vượng của Trung cung, mà bản phương tự là Sinh, Vượng, chẳng tương hình, tương
xung, thì lại là cát. Nếu như thể cốt Trợ khởi bản phương, mỗi phương, thì lấy cái
giường nằm trong phòng ấy làm chủ, dịnh cái cục ấy, để luận Sinh, KHắc, lại lấy
phòng sàng tinh ( sao chủ, của phòng đặt giường) nhập trung, thuận phi ra các cửa,
ngõ, bếp, phòng xí v.v… chọn lấy cái sinh, vượng, tránh cái Quan sát, rất kỵ là cửa
buồng với cửa bếp xung nhau. Nếu có xung khắc, thì nên đổi một đi.
Định cục luận phương, đều có cái tốt, cái khắc, Đại để được nhiều cái cát thì tốt lành,
nhiều cái hung, thì hung xấu, không nên lấy.

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Phiên quái quyết


Việt Hải

466
Phân tân chủ

Bản phương với trung cung, nên phân ra chủ và khách, gia Địa bàn với định vị, phải phân biện
xem cái trọng cái khinh. Cái Minh, Thoái tà mà Cái Ám phục, là sinh khí, thì dương có cơ tiến, cái
Minh Sinh ta, mà cái Ám tiết khí, thì sự thành chẳng hơ sự bại. Phương Sinh, Vượng của trung
cung, mà trụ trì ở đây thì đinh, tài lưỡng vượng.

 
Nếu làm thoái khí của bản phương, thì tự tiết mất cái linh khí, tuy phát phước nhưng
không được bần, về sau sẽ bại tuyệt. Các phương tự phạm sát khí, tử khí, mà không
có sinh khí cứu, thì bị bại tuyệt. Tự phạm Thoái khí cũng bị tuyệt.
Những Thoái, Sát phương của Trung cung, nếu là tự Sinh, tự Vượng của bản phương
trụ trì ở đấy, thì nhân đinh phồn thịnh. Vậy bảo: “ Sát phương chi thượng, hảo an
phòng”. Nghĩa là: trên chỗ sát phương đặt phòng, có thể yên được.
Cửu tinh phi ra các phương. Thượng sinh hạ, làm Sinh khí thì cát. Vậy đã xem cái
sinh, khắc ở Bát quái, lại phải rõ cả cát, hung của 12 chi, như Tam bích thuộc Mộc,
sinh ở Hợi, và Mão là Vượng, Lộc, ở Dần là Tử, ở Ngọ, Mô ở Mùi, Tuyệt ở Thân. Gia
Khôn, Cấn, là Sát khí, Gia Ly là Sinh khí, nhập Khảm là Thoái khí, nhập Kiền, Đoài là
Tử khí. Vậy đáo Cấn, có Dần là Lộc đáo Kiền, có Hợi là Sinh, thì Dần và Hợi hai
phương làm cát. Như Tốn, vốn là Vượng khí, nhưng Mộc bệnh ở Tỵ, thì Tỵ là hung
phương. Chỗ khác cũng như vậy, lấy đấy mà suy ra.
Lại còn luận đến Sinh, Khắc, của Niên mệnh người chủ: Niên mệnh khắc bản sơn Phi
thân, thì rất hung. Khắc bản sơn Phục thân thì phá tài sản, bán cát, bán hung. Phi
khắc niên mệnh thì bị “ thiếu vong ngoại tử” ( chết non ở ngoài) phục khắc Niên
mệnh thì chủ nhân bị chết vợ.
"Sinh phùng Tam bạch, phước lộc sùng,
Khai môn, Tỉnh; Tác lục sự thông
Tử, Tuyệt, hoặc Ngộ Xích, bích, Hắc.
Hung hạn diệc dữ xung quan đồng."
 
Nghĩa là: Phương Sinh mà gặp được ba sao Bạch, thì Phước lộc nhiều. Mở cửa ngõ,
đào giếng, dựng bếp, mọi sự đều thông đạt. Hoặc phương Tử, Tuyệt mà gặp sao
Bích, Xích, Hắc. Thì cái họa hung cũng giống như cái xung quan.
Ở phương Trường sinh, Đế vượng của bản cục, mà được Tam bạch cát tinh gia lâm,
thì mọi sự đều đại cát, nếu là phương TỬ, Tuyệt, lại gặp hung tinh, thì cũng bị hung
như phương Ngũ hoàng.
Họ Cửu Thẳng nói: Cổ nhân luận về khí số, mỗi kỳ vận, lấy 500 năm làm hạn định
mà bàn nói. Như 500 năm tất có vị Vương gia giả hưng ( dầy). Năm trăm bốn mươi
mốt năm thì khởi; khoảng 500 xuất Đế vương. Lấy cái 500 năm lâu thế, thì người
chưa tất đã hiểu biết. Đó là khí số xuất ở Lạc thư, đại; tiểu vận. Đại vận phân ra 3
nguyên, mỗi nguyên ba Giáp Tý, mỗi Giáp Tý đi một cung, mỗi cung có 60 năm. Vậy
60 x 9 = 540 năm. Tiểu vận cũng phân ra ba Nguyên, mỗi nguyên một Giáp Tý, hai
Giáp đi một cung, mỗi cung 20 năm. Vậy ( 20 x 9: 120) tức một trăm tám chục năm.
Đại địa, thì nên lấy đại vận mà suy đoán hưng, phế. Trung địa ( đất hạng trung bình)
thì lấy tiểu vận mà suy đoán hưng, phế. Tiểu địa cục, thì thường có cái không hay đủ
số 60 năm. Địa có Đại, Tiểu vận; Vận vốn là có Đại, Tiểu; Vận có Vượng, suy, Mộ,
hay nhà ở, vốn có Vượng, Suy, là bởi khí số vậy.

BẢNG TRANG 148 – 149 -150

467
Cửu cung sơn cục

1 – Khảm cục – Sa quyết


"Nhất Dương Khảm sơn, khởi Tốn phong
Khôn long Khảm vị, điệp trùng trùng
Mão, Dậu, Ly, Sơn, Kiền, Cấn phục
Tử tôn hưng thịnh phước xương long"

Nghĩa là: Nhất bạch thuộc Dương, ở về phương Khảm, mà phương Tốn có phong
khởi; Phương Khôn làm long, mà phương Khảm có sơn trùng trùng điệp điệp. Con
cháu thịnh vượng, phước lộc hưng long.

Bát phương thủy quyết:


"Khảm sơn, Khảm thủy: Vũ khúc tinh ( tốt)
Thử lũng dương lưu, trị vạn kim
Tam tử vị trung gia nghiệp thịnh
Điền tài bột tiến, xứng nhân tâm.

Khảm sơn, Cấn thủy, thực phi tường ( xấu)


Nhân, khẩu phân ly, biệt cố hương
Điền thổ Hạ nguyên câu bại tận
Trung nguyên hoàn hứa, chí điền trang.

Khảm sơn, Chấn thủy, thị hung khôi ( xấu)


Xương khố, Kim ngân, hóa tác hôi
Tiểu phòng Nam, Nữ phong, lao, tử
Ôn, lệ Quả, cô, diệt tương tùy.

Khảm sơn, Tốn thủy chí điền trang ( tốt)


Sơn thủy sinh lai, trọng tư xương ( là người con thứ hai thịnh)
Hạ hậu nhi tôn nhân khẩu vượng
Gia nghiệp phong long tỉ Mạnh đường ( mạnh thường quân)

Khảm sơn Ly thủy ác tương xung ( xấu)


Hữu nhân phạm trước bại điền trang
Khuyến quân lưu luyến, thử sơn, thủy.
Hạ hậu tam niên hữu tổn thương.

Khảm sơn, Khôn thủy, tiểu phòng cường ( tốt)


Cát thủy tướng nghinh, bách sự xương.
Hậu đại nhi tôn quan chức vượng
Chu y chấp hốt, tá Minh vương.

Khảm sơn, Đoài thủy, hiệu Thiên La ( xấu)


Hạ, hậu nhi tôn hoạn nạn ma.
Áo diệu, hình nghinh, xương lẫm háo!
Cánh phong tật bệnh tổn thương đa.

Khảm sơn, Kiền thủy, phá xung lưu ( xấu)


Tứ, Ngũ, Tam phong, bại tuyệt hưu.

468
Hoạn nên phong lao, hư thung tử
Cánh phong quan tụng, thoái điền ngưu."

2 – Khôn cục sa quyết:


"Nhị Âm Khôn sơn, khởi Ngọ phong,
Tốn vi khỏi diệu, Hảo vi long.
Kiền Đoài Cấn phương, để củng phục.
Tử tôn phúc lạc, vị Tam công."

Nghĩa là: Nhị hắc là Thổ thuộc phương khôn, tức là Khôn sơn, mà phương Ngọ có
phong khởi.
Phương Tốn có sơn cao làm Khôi diệu, phương mão làm long nhập thủ - Phương
Kiền, Đoài Cấn thấp và củng phục – Thì con cháu hưởng phước lộc đến chức vị Tam
công.

Bát phương thủy quyết:


"Khôn sơn, Khảm thủy, thị nguyên long ( tốt)
Thủy lộ triều nginh sơn đốn phùng
Chỉ hứa hạ nguyên nhân phú quý.
Thượng nguyên, Trung Giáp ( tức nguyên) chủ bần cùng
  
Khôn sơn, Cấn thủy, thị hung thần ( xấu)
Kiếp đạo phong thanh, bại diệt thân
Hoành sự quan tai trung điệp chí
Phụ, Huynh, Thê, Tử, bất tương thân.

Khôn sơn, Chấn thủy hợp thiên kỵ ( tốt)


Phú quý. Cao quan ý cấm phi
Hạ hậu chư phòng đồng phát phước,
Thượng thưa xa mã bổ Đãn tri.

Khôn sơn, Tốn thủy lai triều nghinh,


Tứ quý an khang nhật nhật tân,
Tiến nạp điền trang, quan chức vượng
Anh hào phú quý, táu triều thần.

Khôn sơn, Khôn thủy, khởi phong loan ( tốt)


Phú quý vinh hoa vạn sự hoan
Bách tử, thiên tổn, giai tuấn tú
Gia táng trần bảo, hữu thiên ban.

Khôn sơn, Đoài thủy, kỵ triều xung ( xấu)


Trưởng tử tiền vong, họa hoạn trung,
Ngưu ẩn huyệt tai, giải sầu tử
Nhân đinh yêu tuyệt, nghiệp hoán không.

Khôn sơn, Kiền thủy, khởi cao cương ( xấu)


Phong lao, ác tất bật ly sang
Ốc, vũ điền, viên câu mãi tận
Tam, tứ tực, tảo thân vong ( ngành thứ ba)."

469
3 – Chấn cục sa quyết:
"Tam dương, Chấn sơn, Kiền, Tốn phong,
Mão vi Khôi diệu Tý vi long
Khôn, Đoài, Cấn, Ly, sơn củng phục
Nhi tôn thể đại phước trùng trùng."

Nghĩa là: Tam bích thuộc dương, là Mộc ở về phương Chấn, mà Kiền, Tốn, Phương
khởi phong, Sơn ở Mão phương làm khôi diệu Tý phương làm long – Khôn, Đoài, Cấn,
Ly phương đều thấp và củng phục – Con cháu đời đời phước đến lần lần nhiều lắm.

Bát phương thủy quyết:


"Chấn sơn, Khảm thủy hướng tài cung ( tốt)
Thiếu tử năng giao, tự Thạch sùng
Cánh hứa chư phòng, đồng phú quý
Tử tôn thổ đại nhập triều trung.

Chấn sơn, Cấn thủy thị hung phương ( xấu)


Phạm trước tiên giao, diệt trưởng phòng
Phi tai hoành sự niên niên hữu
Điền trang mãi tận, tử tôn vong.

Chấn sơn, Chấn thủy khởi cao phong ( tốt)


Bách tử, thiên tôn, thắng tổ tông
Xuất thủy lai triều, trung tử phú
Mãn môn Chu tử nhập triều trung

Chấn sơn, Tốn thủy, thị thìn phương ( tốt)


Tỵ, Ngọ, lai niên, bội khổ sương
Thái tuế gia lâm sinh quý tử
Chung dương chấp hốt, tại triều đường.

Chấn sơn, Ly thủy sử nhân sầu ( xấu)


Bệnh, tụng, liên miên bất khẳng hưu
Chỉ hứa Hạ nguyên, điền trạch vượng
Thương trung bại tuyệt! kiến hoang khiu!
  
Chấn sơn, Khôn thủy tổn trung phòng ( xấu)
Bệnh tật trùng trùng, cập yểu vong.
Quan sự, phong lao, kiêm tự ải
Hỏa quang, cửu số ( số 9) tất tương thương.

Chấn sơn, Đoài thủy thị Liêm trinh ( xấu)


Hoành sự hung tai, nhập trạch đình
Bại tân điền viên do vị dĩ
Khả lân tuyệt diệt, hựu tao hình

Địa đô, khôi diệu, yếu phân minh ( tốt)


Tú lệ cương loan, cung trạch đình
Hồi long cố tổ, gia vinh hiển
Y tử, yêu kim, mãn đế kinh."

470
4 – Tốn cục sa quyết:
"Tứ Âm, Tứ sơn khởi Tốn phong
Khôn vi Khôi diệu, ngọ vi long
Khảm, Cấn, Đoài, Kiền sơn củng phục
Yêu kim, Y tử, Lộc thiên trung"

Nghĩa là: Tứ lục thuộc Âm ở về phương Tốn ( tức Tốn sơn) mà Chấn phương, khởi
phong – Khôn sơn làm Khôi diệu, Ngọ phương làm long – Khảm, Cấn, Đoài, Kiền,
Sơn củng phục – Con cháu áo tía đai vàng, bổng lộc muôn chuông.

Bát phương thủy quyết:


"Tốn sơn, Khảm thủy, chủ tai ương ( xấu)
Tàn tật hình thương, bất khả dương
Tha nhật tao quan, tính thất hỏa
Lưu ly dâm dật Tử tôn vương ( là yểu vong).

Tốn sơn, Cấn thủy lai xung phá ( xấu)


Tam, thất niên trung, hỏa huyết quang
Ác tật phong, lao nhân bệnh tử
Họa lai tuyệt diệt, thực nan dương.

Tốn sơn, Chấn thủy tối nghi thiên ( tốt)


Nhất thổ lâm môn, phú quý tuyền,
Trung tử hưng gia, tiên hiền đạt
Tử tôn đại đại, xuất danh hiền.

Tốn sơn, Tốn thủy khởi trùng phong ( tốt)


Tổ khán lai long, tại bản cung
Cánh đắc cát tinh, đôi điệp tủng
Định sính hiền sĩ, hiền gia phong.

Tốn sơn, Ly thủy, cát kham ngôn ( tốt)


Hạ hậu nhi tôn, tiến khố điền
Tiểu tử trung nam, tiên phú quý
Chư phòng đã chủ, lộc cao thiên.

Tốn sơn, Khôn thủy viễn trường lưu


Tăng ích điền trang, tiến Mã ngưu
Anh tài tuấn tú đăng khoa bảng
Vi quan chức đại, tọa Kinh châu.

Tốn sơn, Đoài thủy, thị kim cung ( xấu)


Phạm thử hung tinh, lập Kiền cung
Phụ nữ tất nhiên, sản dựng tử
Đệ huynh phụ mẫu, các tây đông.

Tốn sơn, Kiền thủy xung nghinh xung ( xấu)


Hỏa đạo ôn hoàng, sản nạn hung
Công sự liên miên tính ác tử
Nhi tôn tuyệt diệt, cánh vô tông."

471
5 – Trung cung sa quyết:
"Ngũ dương sơn tiền, Khôn Cấn Phong ( tốt)
Khảm vi Nha Hốt, ngọ vi long
Chấn, Tốn, Đoài phương, đê củng phục.
Tử tôn đại đại xuất tam công."

Nghĩa là: ngũ hoàng thuộc dương ở trung cung, phía trước sơn là Khôn, Cấn phương
khởi phong, - Khảm phương có sơn làm Nha, Hốt, Ngọ ( vị) làm long mạch – Chấn,
Tốn, Đoài phương đều thấp củng phục – Đời đời con cháu nhận chức Tam công.

Bát sơn thủy quyết:


"Trung cung Khảm thủy, Nha, Hốt triều ( tốt)
Chư phòng tích tụ, hựu quan cao.
Hoành tài nhật nhật lai tăng tiến
Chỉ vị Tham lang, sơn, thủy triều.

Trung cung Cấn thủy, hỷ nghinh lai ( tốt)


Tiểu tử ưng tri tảo phát tài.
Đại đại vinh hoa, nhân hiếu dễ,
Nhi tôn chập chập hữu lương tài.

Trung cung Chấn thủy, thị Sát phương ( xấu)


Thủy trực, sơn cao, bất khả dương
Trưởng phòng tiên kiến, ôn hòang tử
Phụ nữ, tu giao, sản hậu vong.

Trung cung Tốn thủy, nhược tương phùng ( xấu)


Doanh tạo nhân gia, lập kiến cùng.
Tuyệt diệt tử tôn điền sản tận
Phụ nhân dâm tẩu, loạn gia phong.

Trung cung Ly thủy, khởi cao phng ( tốt)


Lai khứ oanh hồi, tả, hữu đồng
Kỳ gia phú quý điền tàm vượng ( tàm là nuôi tằm trồng dâu)
Đại đại vinh hoa, hữu tước phong.

Trung cung Khôn thủy, khởi loan phong ( tốt)


Tử tức thông minh, phước lộc sùng
Sơn triều, thủy cố, nhân đinh vượng
Trưởng, ấu hòa đồng, vạn sự thông.
  
Trung cung, Đoài thủy Bạch vân tinh ( con vượn trắng)
Tự cổ thường vi huyết nhận tinh ( sao hung, xấu)
Bệnh hoạn liên niên, gia nghiệp phế
Hạ nguyên, Âm cực hựu Dương Sinh
(Hạ nguyên hết âm lại dương sinh, vẫn xấu cả)

Trung cung, Kiền thủy, viễn lai triều ( tốt)


Tiến nhập điền trang, phước tự nhiên
Tử tức hiền lương đa hiếu nghĩa.
Đăng khoa cập đệ xuất anh hào."

472
6 – Kiền cục sa quyết:
"Lục dương Kiền sơn, Chấn, Khảm triều
Tây long, Ngọ vị, lưỡng phong cao
Cấn, Tốn, Khôn phương, bình củng phục.
An cư, thử địa, tử tôn hào."

Nghĩa là: Lục bạch thuộc dương, ở về phương Kiền ( Kiền sơn) mà phương Chấn,
phương Khảm triều – Phương Tây và phương Ngọ 2 phía đều có cao phong – Cấn,
Tốn, Khôn, ba phương đều củng phục ( thấp) – Đất ấy ở yên, con cháu hào hùng.

Bát sơn thủy quyết:


"Kiền sơn, Khảm thủy, nhược triều lai ( tốt)
Sương khố tu giao, tích bảo từ
Định sinh quý tử, quan chức hiển
Bạch y thân đáo, phượng hoàng thai.

Kiền sơn, Cấn thủy, thị hung phương (xấu)


Sản ách, phong lao, hỏa huyết quang
Dâm đãng quan tài, ôn dịch chí
Cánh phòng tuyệt diệt, bại điền trang.

Kiền sơn, Chấn thủy, khởi cao phong ( xấu)


Chỉ đắc Trung nguyên, khí thế hùng
Nhất đại sinh khí, nan cửu thị ( nhờ cậy)
Hạ nguyên y cựu, chủ cô bần.
 
Kiền sơn, Tốn thủy, bất nghi lai ( xấu)
Trưởng tử tiên giao, thụ họa thai
Thái tuế gia lâm, hình pháp tử
Lẫm sương hư háo, hóa trần ai.

Kiền sơn, Ly thủy, ái triều lưu ( tốt)


Tử tử tôn tôn, thế đại hào
Tiến nhập ngoại châu, điền dữ sản
Hiền tài hiếu nghĩa, xuất quan cao.

Kiền sơn, Khôn thủy, kiến quai trương


Phụ tử phân ly, xuất ngoại hương.
Ốc trạch diền viên, cầu đãng tận.
Ấu tôn, quan, quả, thực kham thương.

Kiền sơn, Đoài thủy, khởi phong cao ( tốt)


Thế trực lai long, phước lộc nhiêu
Nhược đắc chủ tinh, đồng thủ củng
Quản giao thế đại, tá hoàng triều.

Kiền sơn, viên tú, phục ( lại) ngang tàng ( dấu) ( tốt)
Cương thế hoàn giao, phước mãn đường
Hạ Giáp Tiểu nam đa phú quý
Thương, trung, y cựu, chí như thường."

473
7 – Đoài cục sa quyết
"Thất âm, Đoài sơn, Ly, Tốn phong
Kiền vi thiên diệu, Cấn vi long.
Cấn, Chấn nhị phương, xung khích thiểu.
Nhi tôn cá cá tử y vinh."

Nghĩa là: Thất xích thuộc Âm, ở về Đoài sơn ( phương Đoài) mà phương Ly, Tốn
khởi phong, Kiền làm phương Thiên diệu ( quý lành) Cấn làm long (mạch nhập thủ).
Hai phương là Cấn và Chấn, nước xung khích ít thôi – Con cháu đời đời kế tiếp, áo
tía, đai vàng vinh hiển.

Bát sơn thủy quyết:


"Đoài sơn, Khảm thủy, bất nghi triều ( xấu)
Sản nghiệp tuy đa, tự tuyết khiêu ( tan)
Phá sản ngỗ nghịch, tao hình tử
Trưởng phòng linh lạc, tuyệt căn miêu.

Đoài sơn, Cấn thủy, thị Tham lang ( tốt)


Phú quý anh tài, phước lộc xương,
Hiếu nghĩa trung lương đăng giáp đệ.
Mãn triều Chu, tử, thực phi thường.

Đoài sơn, Chấn thủy, thị xung quan ( xấu)


Nhất phạm Liêm trinh, sự bất nhàn
Đồ phối phong thanh, sản ách tử
Tử tôn linh lạc, hựu đa gian ( gian nan)

Đoài sơn, Tốn thủy, tử tôn xương ( tốt)


Gia mục, nhân hòa, hiếu nghĩa phong,
Sương lẫm, hy sinh, đa mậu thịnh
Anh danh viễn bá, thực phi thường

Đoài sơn, Ly thủy, hỷ triều nghinh ( tốt)


Định chủ anh tài, ý cẩm vinh,
Cánh chủ gia tàng, thiên vạn bảo,
Nhi tôn thế đại, vượng nhân đinh.

Đoài sơn, Khôn thủy, vượng Trung nguyên ( tốt)


Phú quý hoàn tri, ấm phượng loan,
Thượng Giáp tam nguyên, đương bại tuyệt ( xấu)
Quan phu, quả phụ, bại điền trang.

Đoài sơn, Đoài thủy, chủ ôn hoàng ( xấu)


Định kiến nhân đinh, đa diệt vong,
Mãi tận điền viên, gia tất phá
Tạo quan, tụng ngục, bị hình thương.

Đoài sơn, Kiền thủy, khán lai do ( tốt)


Tây bắc cao phong, tiến Mã ngưu
Tiêm chủ trung phòng, thân phú quý
Chư phòng y tử ( áo tía) vượng điền trù."

474
8 – Cấn cục sa quyết
"Bát dương sơn đầu, Chấn, Tốn phong,
Đoài vi khuê diệu, Kiền vi long,
Ly, Khảm, Khôn phương, đê củng phục,
Đăng khoa, cập đệ, nhập triều trung."

Nghĩa là: Bát bạch thuộc dương, ở về phương Cấn ( Cấn cục), mà phương Chấn, Tốn
phong khởi – Phương Đoài làm Khuê diệu, phương Kiền làm long – Phương ly, Khảm,
Khôn đều thấp phục – Con, cháu đăng khoa cập đệ, vào trong hoàng triều làm quan.

Bát sơn thủy quyết:


"Cấn sơn, Khảm thủy, bất khan thiên ( xấu)
Động tác phùng chi, họa hoạn liên,
Phụ tử phân ly, đa bại phá
Phong lao ác tật, nhập hoàng tuyền.

Cấn sơn, Cấn thủy túc kim ngân ( tốt)


Thử địa phân minh, xuất phú nhân,
Tử tức hiền lương, hoàn mậu thịnh
Trưởng nam gia lộc, phước như xuân.

Cấn sơn, Chấn thủy, xuất hiền tài ( tốt)


Nghĩa tụ, gia hòa, tích thiện lai
Tử tử tôn tôn đa mậu thịnh
Doanh sương, mãn khố, túc tiền tài.

Cấn sơn, Tốn thủy khởi cao cương ( tốt)


Nguyên khí gia lâm, phước dị thường ( tốt)
Vận trị Hạ nguyên, gia nghiệp thịnh ( tốt)
Thượng nguyên trung tuần, thoái điền trang ( xấu)

Cấn sơn, Ly thủy, thị hung thần ( xấu)


Thủy trực, sơn cao, tốn bại nhân
Hạ hậu liên niên, tai họa chí
Nhi tôn bại tuyệt, đoạn thân lân

Chấn sơn, Khôn thủy, thế luân tuân ( xấu, cao chênh vênh)
Thái tuế gia lâm, tốn hại nhân
Hỏa, đạo, ôn, hoàng, kiêm sản ách.
Lưu đồ một trận, cánh vong thân.

Cấn sơn, Đoài thủy, thế ngang ngang ( tốt, cao tương đương)
Cự phú gia tài, đại cát xương
Trung tử phong quan, gia lộc vị
Chư phòng phú quý, xuất hiền lang.

Cấn sơn, Kiền thủy vượng nhi tôn ( tốt)


Phú quý tiên hưng, trung tử môn,
Chư tử anh tài, giai cập đệ
Trung lương đại đại, tận xưng tôn."

475
9 – Ly cục sa quyết
"Cửu dương sơn tiền, Khôn tốn phong.
Ly vi Khôi diệu, Cấn vi long,
Khảm, Đoài, Kiền cương, đê nhiễu cát.
Tử tôn phú quý vĩnh vô cùng."

Nghĩa là: Cửu tử thuộc dương, ở về phương Ly ( tức Ly sơn), mà phương Khôn,
phương Tốn có phong khởi, tức phương Ly làm Khôi diệu, phương Cấn làm long
( mạch nhập thủ) – Phương Khảm và Kiền đều thấp, mà quanh vòng ôm lại, thì lành
– Con cháu được giàu sang bền lâu vô cùng.

Bát sơn thủy quyết:


"Ly sơn, Khảm thủy, thị quan tinh ( xấu)
Định Kiến nhi tôn, bệnh tật thân
Sản can, huyết quang, tính hoành tử,
Khan khan hậu đại, tuyệt nhân đinh.
 
Ly sơn, Cấn thủy, khởi cao phong ( tốt)
Hạ hậu nhi tôn, lộc vị xương.
Thế đại vi quan, Chu tử dị
Đoàn sương, doanh tích, vạn niên lương.

Ly sơn, Chấn thủy, Phá quân tinh ( xấu)


Hữu nhân phạm trước, bất an ninh
Thử tinh tọa xứ, nghi an tĩnh
Miễn đắc ngưu, dương, tắc phạm hình.

Ly sơn, Tốn thủy, chỉ bình bình ( tốt)


Thử thị minh long, Tả phụ tinh
Nhược đắc đại cương, lai cố tổ
Tử tôn vinh hiển, chí Công khanh.

Ly sơn, Ly thủy, phước hưng long


Bách lý cương long, khởi đốn phong
Cánh tại bản cung, uy thế mãnh
Văn vi khanh, Tướng, võ phong hầu.

Ly sơn, Khôn thủy, ích nhi tôn ( tốt)


Tự hữu tiền tài, tiến nhập môn
Tử tức hiền tài, sùng hiếu nghĩa ?
Long lai hồi nhiễu, vượng hương thân.

Ly sơn, Đoài thủy, họa lai kỳ ( lạ, xấu)


Ốc trạch không hư, nữ tử mê.
Tẩu biến tha hương, sinh kế thiền
Quan phu, quá phụ, nhất thê thê ( thương đau buồn mãi)

Ly sơn, Kiền thủy, kỵ tương phùng ( xấu)


Định chủ nhi tôn, ngỗ nghịch hung,
Tự thử điền viên, tiêu đãng tận,
Gia môn bại tuyệt, họa trùng trùng."

476
Còn tiếp

Việt Hải

Nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn giới thiệu .

 BẢO NGỌC THƯ - VIỆT HẢI . 45


Thư mục: TÀI LIỆU - SÁCH CỔ |
Đăng ngày: 22:27 11-08-2008

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Bát sơn tiễn thủy kinh định cục
Việt Hải

Như thấy ở phương Thìn có nước, hoặc có ba phương đều có nước thì lập một cục, đối diện
cung ấy là cung Kiền, tuy gọi là cung Kiền, nhưng gồm cả phương Tuất và phương Hợi ở hai bên,
vẫn thuộc về cung Kiền cả, vậy gọi chung là Kiền cục, các cục khác, đại loại cũng như thế, sẽ
suy ra.

Bát sơn tiễn thủy kinh định cục

Thìn, Tốn, Tỵ thủy, vi Kiền cục


Bính, Ngọ, Đinh thủy, vi Khảm cục
Mùi, Khôn, Thân thủy, vi Cấn cục
Canh, Dậu, Tân thủy, vi Chấn cục
Tuất, Kiền, Hợi thủy, vi Tốn cục
Nhâm, Tý, Quý thủy, vi Ly cục
Sửu, Cấn, Dần thủy, vi Khôn cục
Giáp, Mão, Ất thủy, vi Đoài cục

Nghĩa là: Như thấy ở phương Thìn có nước, hoặc có ba phương đều có nước thì lập
một cục, đối diện cung ấy là cung Kiền, tuy gọi là cung Kiền, nhưng gồm cả phương
Tuất và phương Hợi ở hai bên, vẫn thuộc về cung Kiền cả, vậy gọi chung là Kiền cục,
các cục khác, đại loại cũng như thế, sẽ suy ra.
Thủ cục, tức là định cục, thì ở Ngọc Kính Minh, Cửu cung cũng như Bát sơn, tiễn thủy
kinh, không khác.

Phiên quái thức


BẢNG TRANG 162

Đây là Thiên định quái, phép Bát sơn tiễn thủy, dụng Thiên định quái, Ngũ biến, khởi
Tham lang ở cung quẻ ( quái). Ở trong quái lệ, bảo là: Ngũ quỷ quái vậy, theo phép
ngũ biến, thì đối cung khởi Tham lang, phiên đến bản cung được Liêm trinh. Cho nên
phiên pháp, bản vị khởi Liêm trinh, để lấy tiện dụng. Vậy nên nay đều dụng tiệp
phép (  phép nhanh chóng), cứ đương tòng Ngũ biến, đối cung khởi Tham lang, mà
Cửu tinh thứ tự, mới không loạn ( sai).

477
Vị vị khởi Liêm trinh, Tham lang thứ lộ hành, Trung khởi, trung chí, biên khởi, biên
chí.
Như là: Tốn cục, thì Tốn ở giữa ( trung) tức lấy Liêm trinh gia Tốn, Vũ khúc gia Cấn,
Phá quân gia Ly, Tả phụ gia Kiền, Tham lang gia Đoài, Cự môn gia Chấn, Lộc tồn gia
Khôn, Văn khúc gia Khảm, như thế là khởi Tốn chỉ Khảm, nên gọi là: “ Trung khởi
trung chỉ”
Biên khởi, biên chỉ, như là: Kiền cục, thì Kiền ở biên ( bên ngoài), tức lấy Liêm trinh
gia Kiền, Vũ gia Ly, Phá gia Cấn, Phụ gia Tốn, Tham gia Khảm, Cự gia Khôn, Lộc gia
chấn, Văn gia Đoài, là khởi Kiền, chỉ ở Đoài, vậy bảo là “ biên khởi, biên chỉ”

Tinh tự quyết:
- Liêm trinh – Vũ khúc – Phá quân – Tả phụ - Tham lang – Cự môn – Lộc tồn – Văn
khúc.

Nạp giáp
Kiền, Giáp – Khảm, Quý – Thân, Thìn
Cấn, Bính – chấn, Canh – Hợi, Mùi
Tốn, Tân – Ly, Nhâm – Dần, Tuất
Khôn, Ất – Đoài, Đinh – Tỵ, Sửu.
Định cục chỉ dụng bát quái ( tán cung) không dụng nhị thập tứ sơn ( tức 24 phương)
Lập hướng thu thủy, thì phải phân nhị thập tứ sơn, như là Bính hướng, Bính thủy, thì
cát hay hung phải theo Cấn mà đoán chứ không theo ly đoán.

Hướng pháp
Hướng chỉ nên lập tam cát hướng thôi. Cái khác không nên dùng. Như là Khảm cục,
thì lấy Khôn, Ất, là Vũ khúc hướng, Kiền, Giáp là Tham lang hướng, Ly, Nhâm, Dần,
Tuất là Cự môn hướng, thủy lai cũng lấy bảy vị ấy làm cát.
Họ Cửu Thăng nói: Phép Quái lệ biến ra 64 lần, tức là ( 8x8=64 lần). Mỗi quái 8 lần
biến, mà Bát sơn Tiễn thủy, chỉ độc thủ Ngũ quỷ quái, là lấy quái ấy hợp tịnh âm,
tịnh dương. Vả lại Liêm trinh về trung cung vậy. Trong cái Bát biến, thì cái Tứ biến
bất hợp tịnh âm tịnh dương vậy vô luận. Sinh khí, Thiên y, Phúc đức, là ba quẻ tuy
hợp tịnh âm, tịnh dương, như Liêm trinh bất quy trung ( không về cung giữa), cho
nên cũng không lấy. Ý là thứ tự ở cửu tinh, thì Liêm trinh là thứ 5 tức là đệ ngũ, cứ
ngũ, là ở trung cung, chỉ có Liêm trinh cư trung, mà sau tám tinh mới đều được ở
bản vị ( vị của bát tinh), tinh được ở vị của tinh, thì sau cái Cát, cái hung mới có ứng
nghiệm. Đây là Bát sơn sở dĩ độc thủ Ngũ quỷ quái vậy ( tức chỉ lấy một phép Ngũ
quỷ quái, để định cát, hung).

Cửu tinh cát hung đoán

1 – THAM LANG THUỘC MỘC ( Sao cát)


"Cát tinh tối hảo, thị Tham lang
Hạ trước linh nhân, phước lộc xương
Bất vấn nhị âm ( hai tiếng), giai cát lợi
Trùng trùng tiến nhập, ngoại trang điền."

2 – CỰ MÔN THUỘC THỔ ( Sao cát)


"Cự môn cát tinh, diệc nan cầu
Trưởng vị điền tài tiến bất hưu.
Cánh đắc thủy lưu, tam bách bộ ( 300 bước).
Vi quan vinh hiển ngự giai du."

478
3 – LỘC TỒN THUỘC THỔ ( Sao hung)
"Xuất tổ, Ly hương, thị Lộc Tồn,
Bần cùng hoành họa, Tốn gia môn,
Cánh kiêm công sự, tương liên lụy,
Tật bệnh gian, dâm, bất khả dương."

4 – VĂN KHÚC THUỘC THỦY ( Sao hung).


"Thoái điền Văn khúc, khởi tai ương.
Ám diệu gia lâm, bất khả dương,
Dâm dục, phong thanh, công sự khởi
Sinh Ly tức phụ, tổn tài lương."

5 – LIÊM TRINH THUỘC HỎA ( sao hung)


"Tòng lai ôn hỏa, thị Liêm trinh.
Khẩn thiệt quan phù, bất tạm đình,
Phạm trước tự nhiên, điền, trạch thoái,
Thời sư tu yếu, tế giải tần."

6 – VŨ KHÚC THUỘC KIM ( sao lành)


"Mỗi phùng Vũ khúc, cát nghi thu
Tài bạch điền viên, sự sự ưu ( tốt)
Nhận thủ lai long, chân chính mạch
Nhi tôn phú quý, vĩnh vô ưu ( không lo)"

7 – PHÁ QUÂN THUỘC KIM ( sao ác)


"Phá quân nguyên thị, nhất hung thần,
Quyết phối lưu đồ, hoạnh sự sinh,
Điền địa niên niên, ưu thoái bại
Cánh kiên dựng phụ, mệnh nan tồn."

8 – PHỤ BẬT THUỘC THỔ


"Phụ bật vi phước, diệc vi tai ( hại)
Vi phước, vi tai, vị dị ( chưa dễ) sai.
Tả, hữu hướng lai, xưng cát trợ.
Hung tai Huyền vũ, ám xung lai."

CỬU TINH PHÂN PHÒNG ĐOÁN


"Tham hưng Trưởng tử, Cự hưng trung.
Vũ khúc Tam phòng, tài phước phong
Văn bại đại thành, Lộc bại tiểu
Liêm, Phá, Trưởng tử, thụ bần cùng."

1 – KIỀN SƠN
"Kiền sơn nhân dục, biện chân hình,
Tây bắc lai long, Tốn thủy đình
Nhược thị Đông môn, vô thủy nhiễu
Long thần tán hoán, bất vi trân."

Tổng ca
"Đông nam hữu thủy, tác Kiền sơn
Xuất nhân u kiện, tính thiên không
Chỉ khủng ngộ triều Nhâm, Bính hướng

479
Trưởng phòng tiên tử, thoái điền không
Tý, Ngọ, Thìn, Tuất, vi chính hướng
Nhi tôn ổn thực cửu hưng long
Hựu khủng căn đề, thủy phá mạch,
Tủng nhiên nhất phát, tựu bần cùng."

Hung phương ca
"Cấn lưu Sát trung tử! Mùi khổ sát thân ca!
Mão, Dậu hưu hành lộ! Xung quân đâm Quả phụ!"

Hung tinh ca
"Văn khúc tinh tại Đoài phương, công tụng tại bệnh
Liêm trinh tinh tại Kiền phương, tốn ngưu mã lục súc, cập đáo lộ nhận! Hữu tật bệnh
nhân.
Lộc tồn tinh tại Chấn phương, chủ quan sự huyết quang, Sản tử, tật bệnh.
Phá quân tinh tại Cấn phương, chủ Trưởng phòng, Tam phòng thụ hình phép quan
sự. Nữ nhân sản tử ( chết vì đẻ)"

2 – Khảm sơn
"Khảm sơn thuộc thủy, Bạch tinh lân
Chính bắc lai long, Ly thủy hình
Duy thủ thủy hoành, lưu tả hữu,
Kham khoa chân cục, hỷ tương phùng."

Tổng ca
"Ốc tiền hữu thủy, Khảm sơn long,
Nhược hữu căn nguyên, phát bất cùng
Hậu diện hữu trì, thành đại bại,
Nữ nhân dâm loạn, lộ hành tung
Hựu kiêm nhễm hoạn, phong ma hậu
Thiếu nữ thân gia, bất kiến phùng
Điền địa tiêu vong! Quan sự chí!
Vô tình cốt nhục, biệt gia công!"

Hung phương ca
"Mùi, Giáp hữu thủy xung! – Lạc, thủy hoạn ma phong
Tốn, Tân phong trần nữ; - Chấn, Cấn, phạm ôn hình."

Hung tinh đoán  
Liêm trinh tinh lạc tại Khảm phương, chủ chiêu quan sự! Phụ nhân tự ải, đầu hà
( đâm đầu xuống sông tự tử) – Phá quân tại Dậu phương, nhân mệnh công sự, trung
phòng tự ải lạc thủy, phối quân tha châu! – Lộc tồn tinh tại Cấn phương, tử tôn xung
quân, ôn bệnh quan sự! – Văn khúc tại Tốn phương, tự ải đầu hài hiếu tửu, dâm bôn!

3 – Cấn sơn
"Cấn sơn thuộc thổ, dữ Khôn quan,
Dục biện chân hình, Sa, thủy tường
Thủy tụ tây nam, phương thẩm cực
Long chân, huyệt chính nãi vi lương."

Tổng ca
"Tây nam hữu thủy, Cấn vi cung

480
Tốn, Tỵ lưu lai, phú thả phong,
Thiết mạc Ngọ cung, lưu Bính khứ
Thiếu niên nữ tử, trục nhân tung
Trưởng phòng tức phụ, tiên cô quả
Kiền cung đoán định, hữu quân xung!
Đông bắc căn đa, du cửu kế
Căn vô, điền sản, chí phiêu bồng."

Hung phương ca
"Nhất thủy nhập Kiền cung, Tức phụ dữ công thông
Thủy lưu Dần, Giáp vị; Nhân đả, hựu xà thương
Thủ quả kiêm tự ải. Sản tử mạc tương phùng
Khôn thủy, tính Ngọ thủy; Xung quân quan sự lâm."

Hung tinh đoán
Liêm trinh tinh tại Cấn phương, chủ ôn hoàng, cập điên đảo, nhân đinh, tức phụ Ly
hoàn – Phá quân tinh tại Kiền phương chủ triêu quân hỏa tai. Phụ nhân sản ách.
Nhân đinh ôn bệnh, Lộc tồn tinh tại Khảm phương, tổn thiếu niên thế. Nam nữ nhỡn
tật. Hỏa quãng, quan sự - Văn khúc tinh tại Khôn phương, tức phụ vô phu, chiêu
nhân nhập xá.

4 – Chấn sơn
"Chấn sơn thuộc Mộc, dĩ vi dương
Dục biện chân hình, ngộ thủy tường
Chính đông lai mạch, tây phùng thủy
Nam, Bắc liên hoàn, thị mỹ hương."

Tổng ca
"Ốc tây hữu thủy, Chấn sơn long
Tu dụng đông biên, khí mạch tòng
Thiết mạc câu cừ, trường tích thủy
Âm nhân thủ quả, cụ hàn đông
Thượng nguyên nhất phát, gia tài Vượng
Phùng mộc, phùng kim, gia bất phong
Thất hỏa tao ôn, thành đại bại
Sản vong, tự số phước thành hung."

Hung phương ca
"Thủy lưu Khôn, Thân Thượng; phong, lao, á, kiểu dạng
Tuất, Kiền vi tặc tử. Dần, Giáp, bại ly hương
Ngọ, Tý, phương thượng lai; quân tượng tặc tương tùy."

Hung tinh đoán
Liêm trinh tại Chấn phương, chủ phi tai hoành họa. Tự ải, đầu hà. Trung phòng
thường thường khốc khấp – Lộc tồn tinh tại Kiền phương, chủ hỏa tử triêu công sự!
Tử tôn tẩu hướng tha hương – Phá quân tinh tại Khảm phương, chủ triêu quan sự. Tử
ải lạc thủy. Tang sự bất ninh – Văn khúc tinh tại Ly phương, phụ, tử tẩu tán.

5 – Tốn sơn
"Tốn sơn vi mộc, hựu vi âm
Dục thức chân cơ, Kiền thủy tổn

481
Đông nam lai mạch, nghi triều viễn
Tây bắc khê vi ( vây), trị vạn kim"

Tổng ca
"Tây bắc hữu thủy, vi Tốn cung ( cục)
Thiên lý lưu lai, khả phú phong
Chỉ khủng thủy hình, như khúc xích
Tổng nhiên an thái, dã tham hồng
Đông nam hữu địa, tài nguyên vượng
Tây bắc đôn cao, khai khẩu xung
Nhất phát định giao, nhân bại tuyệt
Nhược tầm Ngọ hướng, bị nhân nông ( khinh rẻ)."

Hung phương ca
"Tân thủy ứng, tác tặc, Nhâm, Tý, Quý xung quân,
Lạc thủy ma phong đại; Quả phụ thụ cơ cùng
Ngọ, Dần, phụ miên nữ. Tức, phụ ước công công.
(Tức loạn luân dâm ô, cha con hủ hóa, vơ, con dâu, loạm dâm)
Dâm, mưu sát lão công ( dâm ô, giết chồng già)
Ngọ thủy triêu tế bại ( gây sự với con rễ)
Dần, Tuất, mạc tương phùng ( Không nên gặp thủy ở Dần, Tuất)"

Hung tinh đoán
Liêm trinh tinh tại Ly phương, chủ cô quả
Văn khúc tinh tới Chấn phương, chủ tật bệnh, tốn ngưu dương – Phá quân tinh tại
Tốn phương, tiểu phòng sinh tai họa phong tật đoản mạnh – Lộc Tồn tinh tại Đoài
phương, song mục manh, thiểu đinh.

6 – Khôn sơn
"Khôn sơn thuộc thổ, thị dương thần,
Lai mạch Tây nam, Cấn phương tầm
Sửu, Cấn, Dần phương, thủy toàn nhiễu
Kết thành chân cục phả kham thân ( tốt nên dùng)"

Tổng ca
"Đông bắc hữu thủy, thị khôn long
Dần, Giáp lưu lai, Quý thượng đồng
Nhược đắc bản căn, hành mã tích
Đoan nhiên tử tính, tận đăng dong
Cấn phương khai khẩu, kiểu ung tắc
Thoái khước điền trang, thất hỏa hung
Nhược thị bách niên, vô hoạn tử
Định ưng cát diệu chiếu viên trung."

Hung phương ca
"Sửu, Cấn, xung quân thủy ( nước xung quân)
Tốn lộ tác tặc môn ( Tốn phương là của giặc)
Tỵ, Dậu, sản nam tử ( phương Tỵ, Dậu xấu lắm)
Hợi, mão, tảo thương hình ( sớm bị hình thương)"

Hung tinh đoán
Liêm trinh tại Tốn phương, chủ Trưởng phòng phụ nhân tà dâm – Phá quân tinh tại

482
Ly phương, chủ yểu tử thiếu vong – Lộc tồn tinh tại Khôn phương, Trưởng phòng, Tứ
phòng, mãi ( bán) tận điền viên. Nam nữ tật bệnh – Văn khúc tại Khảm phương, chủ
tế tặc ( làm giặc) điên cuồng. Tẩu tán tha hương.

7 – Ly sơn
"Ly sơn dương hỏa, thủy nan tầm
Lai mạch thiểu thiểu nhập khảm đình
Thủy hội Tốn cung, Kham tiễn huyệt
Cấn, Kiền thủy nhiễu, cánh vi vinh."

Tổng ca 
"Ốc nam, thủy bắc, thị Ly long
Toán lai phùng mộc, thập phần vinh
Kim, thủy chi niên, gia hoán tính
Điền viên tịnh tận, xuất ma phong ( bệnh phong)
Nhược thị triều nam, trú Tý, Ngọ
Định ứng nữ tế ( con rễ) tác gia công ( chủ nhà)
Nhược đắc tọa Đinh, tác quý hướng
Tuy nhiên bần quẫn, Cựu môn phòng."

Hung phương ca
"Nhâm thủy xuất manh tủng ( mù điếc)
Sửu, Cấn, định sung quân ( ra quân đội)
Hợi, Mão, thiên hỏa phát ( bị lửa cháy)
Ất thủy, định suy bại
Bính dâm, ngỗ nghịch nhân."

Hung tinh đoán
Liêm trinh tinh tại Khôn phương, Sản tử, quan sự, tử tôn điên cuồng – Phá quân tinh
tại Đoài phương, Trưởng phòng tức phụ hung. Đầu thoái thất điền địa – Lộc tồn tại
Tốn phương, Trưởng phòng yểu tốt vong. Nhỡ tật tử vong – Văn khúc tại Cấn
phương, tức, phụ ( con dâu và vợ) đa tình. Tử tôn đào tán. Tự ải đầu hà.

8 – Đoài sơn
"Đoài sơn chân cục, thế đa khâm
Đắc thủy quan lan, thành mỹ cục
Chính tây lai mạch, cánh phùng thủy.
Cấn, Tốn, hồi lan, định hữu nhân ( nhân quả tốt lành)"

Tổng ca
"Ốc đông hữu thủy, Đoài cung long.
Phí thế thiểu thiểu, hỷ hoạt phùng
Mạch đoản nhất hưng, gia tất bại
Mạch trường dã cửu, cựu gia phong
Ốc Tây đê hãm, hà tu khán
Hạ hậu nhân gia, thoái tận cùng
Âm, á, Manh, tủng, tính cổ chướng
Phụ nhân tham sắc, dữ nhân thông ( dâm ô xấu lắm)"

Hung phương ca
"Kiền lưu Sát trưởng phụ, tương kế tử gia công
Đinh, Sửu, Dần đoạn tuyệt; Tý, Ngọ phát ma phong"

483
Hung tinh đoán
Liêm trinh tinh tại Đoài phương, nhi tôn ngỗ nghịch, tác quân viễn tử - Văn khúc tinh
tại Kiền phương, phụ nhân dâm bôn; gia chủ nội loạn – Phá quân tinh tại Khôn
phương, đầu hà tự ải. Nam, nữ đào vong. Phụ nhân thủ quả - Lộc tồn tinh tại Ly
phương tật bệnh quan phù, nhỡn manh, cước bí ( chân thọt, khô đét).

Còn tiếp

Việt Hải

Bảo Ngọc Thư (Phần 3) - Bát sơn chiếu thủy kinh phiên quái quyết
Việt Hải

Bát sơn chiếu thủy kinh phiên quái quyết


( Thiên định Quái, như lệ trên)

Đối với khởi Tham lang, Bát tinh thứ đệ hành. Biên khởi biên chỉ ( hay là: “ Huyền khởi huyền chỉ”
cũng vậy). Nghĩa là: lấy Thiên định quái, đối cung khởi sao Tham lang, lấy sao Tham lang, Cự
môn Vũ khúc, ba phương, để làm khứ thủy, thì được cát.

 
Họ Nghi Tháo nói: Cái phương cát của Thiên định quái tức là cái phương hung ở ngũ
quỷ quái, vậy thì lấy một quẻ hay là cung của Ngũ quỷ, để nghinh lai, tiêu khứ, cũng
có thể được, thế thì Thiên định quái nói cũng rườm phiến vậy ư? – Nên biết là: cái
phương thủy khứ là cát, chứ chẳng phải hung. Vả lại các tinh sở ứng, xem ra chẳng
phải như một, nếu không so sánh với Thiên định quái, thì không được kỹ càng cẩn
thận. Đây là Cổ nhân lập pháp, sở dĩ tinh tường, mà không còn ân hận sơ sót gì nữa.

Cát tinh đoán

Tham lang tinh: (Ứng Hợi, Mão, Mùi, sinh nhân và niêm huyệt)
Lâm kiền, Giáp, Khôn, Ất, Nhâm, Quý sơn, tên gọi là Tài La Thủy

Quyết vân
"Tài lai chi thủy, phú gia tài
Lưu nhập dương cung, thị phước sôi
Định sản nhi tôn, thông thả tuấn
Danh tiêu kim bảng, chiếm văn khôi"

Lâm ( phi tới cung) Cấn, Tốn, gọi là CẨM LA THỦY

Quyết vân
"Cẩm la chi thủy, hỷ lưu trường
Âm vị nghi cư Cấn, Tốn phương

484
Tử đệ thông minh văn đới tú
Tha niên ý cầm, hỷ hoàn hương."

Lâm Bính, Canh gọi là LỤC TÚ HOA LA THỦY.

Quyết vân
"Tham lang khứ thủy, hiệu Hoa la
Canh, Bính phương lưu, hỷ khí đa
Tài bạch kim ngân, tòng thử tiến
Nhi tôn thông tuấn cánh gia hòa."

Lâm ĐINH, TÂN, PHƯƠNG gọi là BẢO LA THỦY.

Quyết vân
"Thủy triết Tham lang, hiệu Báo La
Đinh, Tân hỷ vị thượng, hỷ tương qua
Tiền tài phong túc, hà tu thuyết
Tuấn tú nhi tôn đệ giáp khoa"

CỰ MÔN TINH ( Ứng Thân, Tý, Thìn, sinh nhân tính niên nguyệt)

LÂM KIỀN, GIÁP, KHÔN, ẤT, NHÂM, QUÝ gọi là HOÀNH TÀI THỔ

Quyết vân
"Hoành tài chi thủy, Cự môn dương
Triết thủy nguyên lai, vị tướng dương
Định hữu hoành tài, gia tất phú
Tự nhiên tiến lập, tối vi lương"

LÂM CẤN, TỐN gọi là LỤC Y THỦY.

Quyết vân
"Lục y chi thủy, cánh vi kỳ
Cấn, Tốn, Trung cung, hảo triết quy ( Ôm về mộ)
Gia đạo hưng long sinh quý tử
Hạ y quải lục, bộ đan trì."

LÂM BÍNH, CANH gọi là THIÊN CUNG THỦY.

Quyết vân
"Cự môn chi thủy, hiệu Thiên cung
Âm vị nghi Canh, hỷ Bính, trung
Ấm ích nhi tôn, đa phú quý
Văn chương tinh đẩu, cán tâm hung"

LÂM ĐINH, TÂN gọi là SONG TÚ THỦY

Quyết vân
"Song tú cung trung, Đinh, dữ Tân
Cự môn lâm chiếu, phước lai trăn ( rất nhiều)

485
Huyệt tiền triết thủy, bằng sơn mạch
Tha nhật nhi tôn, tận phú nhân"

VŨ KHÚC TINH ( Ứng Tỵ, Dậu, Sửu, sinh nhân, tính niên nguyệt)

LÂM KIỀN, GIÁP, KHÔN, ẤT, NHÂM, QUÝ gọi là THIÊN TÀI THỦY

Quyết vân
"Dương cung, Vũ khúc, tối vi kỳ
Thủy hiệu Thiên tài, phước lộc nghi
Táng hậu định sinh, thông tuệ tử
Cao xa Tứ mã, diệu sinh kỳ"

LÂM CẤN, TỐN gọi là THIÊN TƯỚC THỦY

Quyết vân
"Vũ khúc lưu quy, Tốn Cấn cung
Thủy danh Thiên tước, hỷ tương phùng
Nhi tôn thông tuấn đăng khoa giáp
Chính sự văn chương, quán thế hùng"
  
LÂM BÍNH, CANH gọi là VINH LỘC THỦY.

Quyết vân
"Thủy danh Vinh lộc, thị như hà
Canh, Bính chi trung Vũ khúc cư
Khứ thủy nhược nhiên, tòng thử xuất
Đăng dong, tiến lộc định thôi nguy"
(Như cất dựng, tiến triển tài lộc mạnh lên cao đại, vượng)

LÂM Đinh, TÂN gọi là TÀI NHIỄU THỦY

Quyết vân
"Thủy danh tài nhiễu thị hà nhân
Vũ khúc lâm đinh, quy dữ Tân
Hảo hướng huyệt trung, tùy bộ phóng
Gia doanh tài bạch, túc châu trân."

TẢ PHỤ TINH ( Ứng Dần, Ngọ, Tuất sinh nhân, tính niên nguy nguyệt)

LÂM KIỀN, GIÁP, KHÔN, ẤT, NHÂM, QUÝ gọi là BẢN CUNG THỦY

Quyết vân
"Đản cung phóng thủy, thủy lưu dương
Tả phụ tinh lai, chiếu thử phương
Gia vượng điền tàm, kim bảo tích
Cánh sinh Quý tử, túc hiên ngang."

LÂM CẤN, TỐN gọi là THIÊN TRÌ THỦY

486
Quyết vân
"Thủy lưu Cấn, Tốn, hiệu Thiên trì
Tả phụ tinh lâm, tối thị kỳ
Hưng vượng nhân đinh, túc tài bạch
Tính danh tha nhật, đạt Thiên trì ( cung vua)"

LÂM BÍNH, CANH gọi là NGÂN HÀ THỦY

Quyết vân
"Tả phụ lưu quy, Bính giữ Canh
Ngân hà nhất thủy tính Thiên hành
Tha niên định san, anh hùng bối
Kim bảng tu giao, tảo quải danh."

LÂM ĐINH, TÂN gọi là NGUYỆT KHUẬT THỦY.

Quyết vân
"Tả phụ lưu lai, Đinh dữ tân
Thủy danh Nguyệt khuật, thị Thiên tân
Khai câu phóng thủy, chân vi cát
Quán hủ thiên sương, túc thị trần."
  ( Nghĩa là: tiền nát chuỗi, ngàn kho thóc mục tức giàu lắm).

Phụ táng chương


( Sau táng thêm ngôi khác)

Về vấn đề phụ táng, Tiền triết có bàn tới:


Ở nơi núi, đồi cao, những chân huyệt thì đều ở một chỗ trung chính thôi, không nên
táng hai ngôi.
Ở vùng bình dương quang đãng, thì có thể đặt táng thêm ngôi khác được, nhưng
phải xét kỹ, nếu hồ nghi ngôi mộ trước không đúng huyệt, hoặc sai hướng mà không
dám canh cải, thì mới nên phụ táng, nếu mộ tổ trước đã kết phát phú quý thì không
nên làm phụ táng nữa.
Phép phụ táng thì phải phân biệt từng huyệt, cũng như là nhà ở, phải phân tách từng
phòng, xem phòng nào vượng? phòng nào suy? Vậy huyệt càng phải biết rõ huyệt
nào là cát? Huyệt nào là hung?
Có cái huyệt táng trước lại yếu kém, huyệt phụ táng sau lại mạnh hơn. Có chỗ ngôi
để trước phát phước, ngôi để sau lại bị hoại.
Cái ngôi táng trước đang phát phú quý mà có ngôi phụ táng nữa, thành ra giảm
phước đi, là vì bị ngôi sau làm đoạn thương long mạch! Cái ngôi phụ táng sau không
an ninh, là bởi ngôi cũ đoạt khí mạch rồi! Vậy thấy ngôi trước đã đúng được rồi, thì
không nên đặt phụ táng nữa. Ví như cái cây đương tươi tốt, thì phải bảo vệ gốc rễ,
không được đụng rìu búa đến. Nếu thấy ông cha xưa phú quý về ngôi mộ ấy, mà tự
nhiên thấy con cháu nghèo hèn, là do ở nguyên vận biến chuyển, nên đành chỉ một
nguyên là sáu chục năm không phát, hoặc suy kém dần, nhưng đến nguyên vận
khác, lại phát phước, phục hưng thường phát to hơn đời trước không chừng! Muốn
phát phú quý đều đều không bị gián đoạn, thì không gì bằng là tìm ngôi đất khác, để
tiếp phúc thì tốt hơn hết! Những danh gia lệnh tộc đời xưa, phần nhiều là có mấy
ngôi đắc địa kế tiếp, nên cháu chắt kế thế vinh hoa hiển hách mấy trăm năm, hiện
nay cũng có nhiều nhà vẫn được hưởng phước nhu vậy.
Còn những chỗ thấy chân long, quý cục mà huyệt đặt sai nên không thấy phát
phước, mà muốn đem hài cốt khác phụ táng, thì phải xem xét kỹ, nên đặt Chiêu

487
huyệt ( huyệt ở bên tả) hay đặt Mục huyệt ( huyệt ở bên hữu), lập hướng nào đúng
hơn, theo những phép đã kể rõ, phép nào được nhiều cái tốt hơn, mà không phản
mất chính khí của thiên địa an bài, thì mới đúng là huyệt, chớ nên coi thường, như
những dong sư không biết tường tận cứ làm càn đặt bậy! Như những người vô học,
thì bị họa diệt vong, không chừng! Cũng vì thế mà có nhà mộ tổ đã kết phát, đương
phú quý nhưng lòng tham lam muốn đặt thêm mấy ngôi nữa, tưởng là đượchưởng
phước thêm nhiều hơn nữa, nhưng lại sinh ra tai họa! thoái bại dần, rồi cả họ bần
cùng, tàn lụi. Vì tổ tông là can nguyên của cháu chắt cả dòng họ chứ đâu phải là chỉ
mấy người chịu nguy khốn! Cũng như cây bị đứt rễ cái hoặc gốc bị hư, thì tất cả cành
lớn, nhánh nhỏ đều héo lá, tàn hoa mà chết khô!.
Phương pháp phụ táng: có cách luận về bát phương ( tức Bát quái) thì đều lấy bản
cục của tổ huyệt ( huyệt táng trước) làm củ mà phi gia, khởi ở trên cung vị tam
chấn, tức khởi chủ tinh ở phương Chấn, rồi them thổ lệ luân thứ phi đi, như: tinh với
nguyên cung tương khắc, thì cát! Nếu là tương sinh thì hung! tỷ hòa thì bình bình,
không được là phước, nên mới bảo rằng: “ Sát phương thiêm táng phản vinh xương”
Nghĩa là: cái phương sát khí của ngôi mộ trước, mà đặt táng thêm ngôi khác ở
phương ấy, thì ngôi mộ trước ấy lại trở thành thịnh vượng, hiển vinh, đây là một
cách.
Có cách luận vô nhị thập tứ vị ( 24 phương) thì lấy chỗ thủy khẩu ( cửa nước tiêu đi)
của chủ huyệt làm đầu, lấy đối cung với cung thủy làm khởi tinh, phi xuất cửu tinh
cung, xem ngôi phụ táng ấy là phương của tinh gì, hễ được tam cát tinh, thì cát
tường. Đây lại là một cách khác nữa.
Hai cách này nên kiêm luận ( phải bàn gồm đến cả) tức pải dùng cả hai cách.
Xét ra thì mỗi vật đều có một Thái cục, vậy phụ huyệt cũng chẳng nên lấy phương vị
của chủ huyệt ( huyệt để trước) làm bằng Huyệt nào cũng riêng có thừa khí, riêng có
nguyên vận, riêng có tinh phù ( sao phù hợp) của phép lập – hướng tiêu sa, nạp thủy
các huyệt ấy. mỗi cái đều có sự biến chuyển khác nhau, tuy cái danh gọi là phụ
huyệt, nhưng thực ra là đặt cái huyệt chính khác, thì phải lấy phép chính, mà suy
đoán, nếu phép chính được hợp với phương vị tốt, thì cái phép phụ táng lại thuộc về
ý nghĩa thứ hai? Vậy chớ nên nhầm tưởng, mà bảo là: vân thừa cái cục của ngôi
huyệt trước.

Bảng trang 177- HẾT

Việt Hải

Nguồn :http://www.lyhocdongphuong.org.vn - dienbatn giới thiệu .

488
 

489
490

You might also like