You are on page 1of 20

BÀN VỀ SINH KHẮC CỦA NGŨ HÀNH NẠP ÂM.

(Tiếp theo Bài Nguyên Lý Nạp Âm )


Thành Phố Hồ Chí Minh , ngày 20/10/2012 
Lý Trần Lê
A/ Về cách đặt tên cho Ngũ Hành Nạp Âm .
I/ Việc đặt tên cho các Hành Nạp Âm
Thiệu Vĩ Hoa ( Nhà Dịch Học Danh Tiếng Trung Quốc hiện nay ), trong Sách “ Dự đoán theo
Tứ Trụ ” và Sách “ Chu Dịch với Dự Đoán Học ”, đã viết :
“Trong Bảng 60 Giáp Tý, căn cứ nguyên tắc gì để nạp Âm Ngũ Hành? Người xưa tuy có bàn
đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền
bí khó hiểu. Bảng 60 Giáp Tý biến hóa vô cùng, cho đến nay đối với giới Học Thuật của
Trung Quốc vẫn còn là một bí ẩn ’’ . 
Vậy là, Người đặt Tên cho Ngũ Hành Nạp Âm và cả những Người sử dụng Ngũ Hành Nạp Âm
đã không hiểu được Nguyên Lý của Phép Nạp Âm.
Thế thì, làm sao mà xác định được tính chất của Ngũ Hành Nạp Âm ?
Đã không hiểu được tính chất của Ngũ Hành Nạp Âm thì làm sao mà sử dụng chúng đúng
đắn được ?
Vậy , các Vị Tiền Bối đã dựa vào những tiêu chí nào để xác định Tính Chất của các Hành Nạp
Âm và đặt Tên cho chúng ? 
30 Hành Nạp Âm đã được Nhà Dịch Học Đào Tông Nghi đặt Tên , xác định Tính Chất và đã
được in trong Sách HKBPT của Mai Cốc Thành, Bản dịch, Tập 1, từ trang 115 .
Dưới đây là một số Tên trong các số đó :
1/ Hải Trung Kim : Giáp Tý-Ất Sửu là Hải Trung Kim.
Tý thuộc Thủy lại là cái hồ, lại là đất vượng của Thủy, kiêm Kim tử ở Tý, Mộ ở Sửu. Thủy
vượng mà Kim tử mộ, vì vậy mà đặt là Hải Trung Kim.
2/ Kiếm Phong Kim : Nhâm Thân- Quý Dậu là Kiếm Phong Kim.
Thân Dậu là chính vị của Kim, Kim lâm quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu. Kim đã sinh vượng thì
thành cương vậy, Kim thì vượt hơn ở Kiếm Phong. Vì vậy đặt là Kiếm Phong Kim.
3/ Giản Hạ Thủy : Bính Tý- Đinh Sửu là Giản Hạ Thủy.
Thủy vượng ở Tý, suy ở Sửu. Vượng mà lật lại là Suy, thì không có thể là Giang Hà được. Vì
vậy đặt là Giản Hạ Thủy.
4/ Ốc Thượng Thổ : Bính Tuất- Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ.
Bính Đinh thuộc Hỏa, Tuất Hợi là Thiên Môn, Hỏa đã đốt cháy ở trên thì Thổ không ở dưới
mà sinh ra được, vì vậy đặt tên là Ốc Thượng Thổ. 
5/ Tang Chá Mộc : Nhâm Tý- Quý Sửu gọi là Tang Chá Mộc.
Tý thuộc Thủy, Sửu thuộc Kim ( ? ), Thủy mới Sinh Mộc, Kim thì phạt Mộc. Vì vậy đặt là Tang
Chá Mộc.
6/ Thiên Thượng Hỏa : Mậu Ngọ- Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa.
Ngọ là đất vượng Hỏa, Mộc ở trong Mùi lại phục sinh. Tính Hỏa cháy ở trên Trời, lại gặp sinh
địa. Vì vậy đặt tên là Thiên Thượng Hỏa.

II/ Nhận xét về cách đặt tên của Đào Tông Nghi : 


Chú ý : Tôi sẽ gọi những cái Tên của Hành Nạp Âm do Đào Tông Nghi đặt ra là những Tên
Truyền Thống và gọi mỗi Hành của Ngũ Hành ( Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim ) là Hành Gốc.
Một vài ký hiệu : => : Sinh trợ cho ; =< : khắc xuất. 

Qua những câu trích dẫn trên, ta thấy rằng, có thể mô tả công thức “chế tác” ra Tên Gọi và
Tính Chất của Ngũ Hành Nạp Âm của Đào Tông Nghi như sau : 

Hinh SK1.JPG (10.57 KiB) Đã xem 5421 lần

Trong đó : 
+ A , B là một cặp Can Chi ; A’ , B’ là cặp Can Chi tiếp theo, tức cặp Can Chi cùng Ngôi Vị ( ví
dụ Giáp-Tý , Ất-Sửu ) .
+ Ký hiệu v là trộn lẫn các thành phần vào nhau ( ví như trộn gạo và đậu với nhau rồi giữ
nguyên mà không có sự “ xào xáo ” nào cả ). 
+ Ký hiệu
Hình SK 5.JPG (7.79 KiB) Đã xem 5417 lần
”:ở đây muốnnói rằng , chỉ dùng suy diễn thuần túy để rút ra kết luận. 
+ Ω là Sản Phẩm được rút ra sau quá trình suy diễn thuần túy . 
Ω được Đào Tông Nghi gọi là Ngũ Hành Nạp Âm và được đặt cho một cái Tên mới , ví như
Hải Trung Kim chẳng hạn . 
Nhận xét rằng : 
1/ Ở đây, Ω vẫn chỉ là một Hành Gốc nào đó, không có sự biến đổi về chất. 
2/ Trong ( 1 ) hoàn toàn thiếu vắng một nhân tố quan trọng, đó là Âm được nạp vào.
Tự vấn :
– Nói về Nạp Âm mà không có Âm thì sao gọi là Nạp Âm được ? 
— Âm là thành phần quan trọng bậc nhất trong quy trình sản sinh ra Hành Nạp Âm, mà lại
không có Âm thì “sản phẩm “ được sinh ra đó là cái gì ?
—Ω thực chất chỉ là một Sản Phẩm rút ra từ suy diễn, từ tư duy chủ quan -duy ý chí, nó vẫn
chỉ là một Hành Gốc của Ngũ Hành (木 水 金 火 土) không hề thay đổi về chất. Cớ sao nó lại
có thể tự biến thành Thiên Thượng Hỏa, Đại Hại Thủy, Tang Chá Mộc , … ? 
— Ngoài ra, ta biết rằng, Ngũ Hành vô cùng khái quát và trừu tượng. Tính chất của Ngũ
Hành vô cùng tinh tế , uyển chuyển và biến hóa vô cùng , bởi vậy, không thể mô tả Ngũ
Hành bằng những hình tượng mang “ Tính vật chất “ đơn giản và tường minh được, ví như
Thiên Thượng Hỏa, Đại Hải Thủy, KIếm Phong Kim, … 
Tóm lại :
Những cái Tên do Đào Tông Nghi nêu lên và cả những Tính chất của Ngũ Hành do Ông luận
ra không có mối liên hệ gì tới Nguyên Lý Nạp Âm.
Bởi vậy, có thể kết luận rằng :
+ Những cái Tên của Ngũ Hành do Đào Tông Nghi nêu lên không phải là Tên của các Hành
Nạp Âm, chúng không Đại Diện cho các Hành Nạp Âm.
+ Những Tính Chất của Ngũ Hành do Đào Tông Nghi luận ra không phải là Tính Chất của các
Hành Nạp Âm . ( * )
( Xin xem tiếp phía dưới sẽ rõ thêm điều khẳng định này ). 

Còn theo Nguyên Lý Nạp Âm thì quy trình sản sinh ra Hành Nạp Âm phức tạp hơn nhiều.
Có thể mô tả quy trình sinh hóa của Hành Nạp Âm như sau :

Hình SK2.JPG (12.66 KiB) Đã xem 5421 lần

Trong đó :
+ A,B và A’,B ’ là hai cặp Can Chi cùng Ngôi Vị.

Hình SK3.JPG (59.97 KiB) Đã xem 5421 lần


+ Các ký hiệu : 
^ ,~, ^ dùng để chỉ rằng có sự hòa hợp và hóa hợp Ngũ Hành của hai cặp Can Chi với Khí
của hai Âm được nạp vào trong quy trình Nạp Âm để tạo nên Thành Phẩm mới. ( Có thể ví
như : Trộn Nếp với Đậu rồi tác động theo một cơ chế nào đó, được Thành Phẩm mới là
Rượu , hay như Na và Cl hóa hợp thành Muối Ăn, H và O hóa hợp thành Nước nguyên chất ).
+ α là Thành Phẩm Mới , mới hoàn toàn về chất, là kết quả tất yếu và khách quan của
Nguyên Lý Nạp Âm , không có sự tác động chủ quan của Con Người vào quá trình biến hóa
đó . α có thể không có mặt trong các cặp Can Chi thành phần, nhưng nó phải có mặt trong
các Âm được nạp vào.

Ví dụ : 
+ Cặp Can Chi Giáp 木-Tý 水 được nạp Âm Hoàng Chung của THƯƠNG ( Âm cơ bản của Hành
金 ) và được α là Hành KIM . Kim không có mặt trong Giáp 木 và Tý 水. αlà Kim Thượng
Nguyên của Tam Nguyên Thứ Nhất, là Trọng Kim. Chưa có Tên gọi riêng cho α , Đào Tông
Nghi gọi nó là Hải Trung Kim.
Tạm gọi như vậy, vì Đào Tông Nghi chỉ có Ω chứ Ông chưa biết đến α .
+Cặp Can Chi Canh 金- Thân 金 đượcnạp Âm Di Tắc của GIỐC ( Âm cơ bản của 木) và
được Hành MỘC.α= Mộc ( Mộc không có mặt trong 金), là Mộc Trung Nguyên của Tam Nguyên
Thứ Nhất, là Mạnh Mộc. Nó chưa có Tên gọi riêng, Đào Tông Nghi gọi nó là Thạch Lựu Mộc.
+ Cặp Can Chi Bính 火 - Ngọ 火 được nạp Âm Nhuy Tân của VŨ ( Âm cơ bản của 水) được Hành
THỦY. α= Thủy ( Thủy không có mặt trong 火) , là Thủy của Thượng Nguyên của Tam
Nguyên Thứ Hai , là Trọng Hỏa. Đào Tông Nghi gọi nó là Thiên Hà Thủy.
+ Cặp Can Chi Mậu 土 - Tý 水 được nạp Âm Hoàng Chung của CHỦY ( Âm cơ bản của 火 ) được
Hành HỎA. α = Hỏa ( Hỏa không có mặt trong 土 và 水 ), là Hỏa Thượng Nguyên của Tam
Nguyên Thứ Nhất , là Trọng Hỏa. Đào Tông Nghi gọi nó là Tích Lịch Hỏa.
+ Cặp Can Chi Canh 金 - Ngọ 火 được nạp Âm Nhuy Tân của CUNG ( Âm Cơ bản của 土) được
Hành THỔ. α = Thổ ( Thổ không có mặt trong 金 và 火),là Thổ Thượng Nguyên của Tam
Nguyên Thứ Hai, là Trọng Thổ. Đào Tông Nghji gọi là Lộ Bàng Thổ.

KẾT LUẬN :
1 / α trong ( 2 ) mới đích thực là Hành Nạp Âm, mới là Đại Diện chính thức của Hành Nạp
Âm.
2 / Tính chất của Hành Nạp Âm α được quyết định bởi tính chất của Âm được nạp vào , còn
Tính Chất Ngũ Hành của các cặp Can Chi thì đã bị mờ nhòa, chúng bị hòa nhập vào trong α. 
Nói đến Tính Chất của Ngũ Hành Nạp Âm là phải nói đến Tính Chất của  α . ( Chứ không phải
là của Ωtrong ( 1 ) ).
Nhưng vì “ Con nhà Tông không giống Lông cũng giống Cánh ” cho nên một số tính
chất không cơ bản nào đó của Hành Nạp Âm α có thể được suy ra từ Ngũ Hành của các cặp
Can Chi AB và A’B’.
/ Hễ nói tới cặp Can Chi là phải nói tới Hành Nạp Âm của chúng .
Do đó, nếu muốn tìm hiểu Tính Lý của mỗi cặp Can Chi thì phải nghiên cứu tính chất của
Hành Nạp Âm của chúng chứ không phải là nghiên cứu Ngũ Hành riên g lẻ của Can , Chi  . 
Vì nói đến CAN-CHI là nói đến THIÊN-ĐỊA , ta nhớ tới Quẻ Thiên Địa Bĩ

Hình SK3.JPG (59.97 KiB) Đã xem 5421 lần


. Bĩ thì Dương ở trên đi lên, Âm ở dưới đi xuống. Âm Dương không giao nhau được , bế tắc ,
cùng đường. Đó là mối quan hệ “ Ông Chằng, bà Chuộc”— Một Tổ hợp chỉ có 1 Can và 1 Chi ,
theo thứ tự đó, thì chằng làm nên tích sự gì.
Muốn cho Âm Dương giao thoa hòa hợp với nhau cần có “ Tác Nhân ”, đó là Âm. Khi Âm đã
được nạp vào thì cặp Can Chi không còn nguyên trạng, chúng đã bị biến hóa – Bây giờ chỉ
còn Hành Nạp Âm của chúng mà thôi.
( Từ đây, ta hiểu rõ thêm những điều khẳng định ( * ) trên ).

III / Hiểu được Nguyên Lý Nạp Âm ta biết thêm nhiều điều mới lạ .
 / Nguyên Lý Nạp Âm đã đưa đến cho Ngũ Hành Nạp Âm những đặc tính mới lạ mà Ngũ
Hành Gốc không có - Điều này xưa nay ta chưa từng biết. 
Ta thường nghe những câu như : 
Lưỡng Thổ thành Sơn . Lưỡng Thổ, Thổ tuyệt ;
Lưỡng Thủy thành Giang . Lưỡng Thủy, Thủy kiệt …
Một số Tác Giả có nhắc đến những câu như thế , nhưng không giải thích được tại sao có hiện
tượng đó và cũng không chỉ ra được khi nào thì hiện tượng đó xẩy ra và xẩy ra ở đâu. Cho
nên họ đã không sử dụng được điều hiểu biết đó hoặc nếu có dùng đến thì cũng chẳng biết
đúng sai ra sao, sinh ra “ nói đại”.
Chẳng hạn như, có không ít người đã phán chắc nịch rằng, Nam Nữ có Mệnh là Lộ Bàng
Thổ và Thành Đầu Thổ thì không thể kết duyên với nhau được vì “Lưỡng Thổ Thổ
tuyệt” (!?).
- Thật đáng thương cho đôi Bạn Trẻ, đây lại là “ Lưỡng Thổ thành Sơn ” !
Ngược lại, nhiều người lại hết lời khích lệ cho cặp Hôn Nhân Thạch Lựu Mộc và Tùng Bách
Mộc vì cảm thấy rằng “Lưỡng Mộc thành Lâm” (!?).
-Tiếc thay, trường hợp này lại là “ Lưỡng Mộc , Mộc chiết “ .

Vậy những tình huống như thế này được giải thích ra sao ?
Từ Nguyên Lý Nạp Âm ta biết được rằng, đó là hiện tượng sinh và khắc cùng xẩy ra trong
cùng một Hành Gốc. Hiện tượng này chỉ xẩy ra giữa các Hành Nạp Âm với nhau mà thôi còn
trong Ngũ Hành Gốc thì không có.
Ta chỉ có thể hiểu được điều này sau khi đã hiểu rõ Nguyên Lý Nạp Âm .
Nhắc lại vài nét quan trọng của Nguyên Lý Nạp Âm.
Nội dung chủ yếu của Nguyên Lý Nạp Âm là : 
“ Cách 8 sinh con ”. 
Nguyên lý này chỉ xảy ra trong phạm vi từng Tam Nguyên và trong cùng một Hành Gốc.  
Mỗi Hành Gốc có hai Tam Nguyên. Tam Nguyên Thứ Nhất gồm những cặp Can Chi mà Địa
Chi lần lượt là TÝ – THÂN – THÌN ( hoặc Sửu - Dậu - Tỵ ). Tam Nguyên Thứ Hai gồm các cặp
Can Chi mà Địa Chi là NGỌ - DẦN - TUẤT ( hoặc Mùi – Mão - Hợi ).
1/ Trong mỗi Tam Nguyên, các Hành Nạp Âm có quan hệ tương hợp, tương sinh với
nhau ( do “Nguyên Lý cách 8 sinh con” ), không có quan hệ tương khắc, đó là :
+ Hành Thượng Nguyên sinh ra Hành Trung Nguyên,
+ Hành Trung Nguyên sinh ra Hành Hạ Nguyên.
+ Cả 3 Hành này cùng thuộc một Tam Hợp của các Địa Chi:
a/ Hoặc Thân – Tý – Thìn ( Tỵ - Dậu – Sửu ) : Trong Tam Nguyên Thứ Nhất.
b/ Hoặc Dần – Ngọ - Tuất ( Hợi – Mão – Mùi ) : Trong Tam Nguyên Thứ Hai.
ai.
Vì vậy, lúc này thì “ Lưỡng Thổ thành Sơn. Lưỡng Thủy thành Giang “…

2/ Quan hệ giữa hai Tam Nguyên :


Tam Nguyên Thứ Nhất có Tam Hợp THÂN-TÝ- THÌN ( Tỵ-Dậu-Sửu ) .
Tam Nguyên Thứ Hai có Tam hợp DẦN-NGỌ-TUẤT ( Hợi –Mão-Mùi ) .
Hai Tam hợp này đối xung nhau, từng cặp Địa Chi xung khắc nhau :
Tý =< Ngọ
Thân =< Dần
Thìn =< Tuất , …
Các cặp Địa Chi xung khắc nhau thì các Hành Nạp Âm tàng chứa trong các Địa Chi đó cũng
xung khắc nhau. 
Lúc này thì “ Lưỡng Mộc Mộc chiết ” , “ Lưỡng Thổ, Thổ tuyệt ; Lưỡng Thủy, Thủy kiệt ” . … 
( Xin xem tiếp phần dưới ).

/ Nguyên Lý Nạp Âm đưa đến những điều trái ngược với những hiểu biết Truyền Thống
của chúng ta .
Những hệ quả được trực tiếp suy ra từ Nguyên lý Nạp Âm cho chúng ta thấy rằng, những
vấn đề mà xưa nay ta thường gọi là Ngũ Hành Nạp Âm thì bây giờ chúng ta hiểu ra rằng,
chúng không phải là những Kiến thức của Phép Nạp Âm, chúng chẳng dính dáng gì đến Nạp
Âm cả. Từ đó, chúng ta khẳng định được rằng, những quan niệm về Ngũ Hành Nạp Âm và
các mối quan hệ của chúng mà chúng ta đã biết và vận dụng hàng ngàn năm nay là không
chuẩn xác, cần nghiêm túc xem xét lại .
1/ Những cái Tên Truyền Thống do Đào Tông Nghi nêu lên không phải là Tên của các Hành
Nạp Âm, chúng không Đại Diện cho các Hành Nạp Âm.
2/ Những Tính Chất của Ngũ Hành do Đào Tông Nghi luận ra không phải là Tính Chất của
các Hành Nạp Âm . 
3/ Không thể suy ra Tính Chất của Hành Nạp Âm từ những cái Tên Truyền Thống của Đào
Tông Nghi . 
4/ Không thể từ những cái Tên Truyền Thống của Đào Tông Nghi suy diễn ra mối quan hệ
của các Hành Nạp Âm. 
5/ Trong các Môn Ngành nghiên cứu về Mệnh Lý , không nên lấy Hệ thống Tên Truyền
Thống của Đào Tông Nghi ( Ví như : Hải Trung Kim , Tích Lịch Hỏa , Giản Hạ Thủy , … ) đặt
Tên cho Nhân Mệnh , Niên Mệnh.
Bởi vậy,
a/ Không thể hiểu là :
+ Ngũ Hành Nạp Âm Thiên Thượng Hỏa của cặp Can Chi Mậu Ngọ là Lửa Trời, có sức mạnh
tàn phá ghê gớm.
+ Ngũ Hành Nạp Âm Đại Hải Thủy của cặp Can Chi Nhâm Tuất là Biển nước khổng lồ vô
biên, sẵn sàng nhấn chìm và cuốn trôi mọi thứ.
+ Ngũ Hành Nạp Âm của Bính Tý là Giản Hạ Thủy , là cái khe nước tý tẹo, vô tích sự.
+ Ngũ Hành Nạp Âm của Giáp Thìn là Phú Đăng Hỏa , là Ngọn đèn lay lắt trước gió , là Mệnh
chết yểu.
b/ Không thể nói rằng :
+ KIếm Phong Kim sẽ băm nát Bạch Lạp Kim.
+ Không có Thủy nào có thể khắc được Thiên Thượng Hỏa.
+ Nếu Mệnh Nam là Hải Trung Kim và Mệnh Nữ là Kiếm Phong Kim , hay Mệnh Nữ là Đại Khê
Thủy và Mệnh Nam là Thiên Hà Thủy ,
thì không thể kết hôn với nhau được vì “ Lưỡng Kim , Kim khuyết “, “ Lưỡng Thủy , Thủy
kiệt “.
( Thực ra, theo Nguyên Lý Nạp Âm thì hai cặp Nam Nữ đó là những cặp hôn nhân đẹp : Vừa
tương sinh, vừa tương hợp ).
+ Cũng không thể áp dụng tùy tiện Quan Niệm Truyền Thống “ Nhất Gái hơn Hai, Nhì Trai
hơn Một ” ( Vấn đềnày được giải thích ở mục sau ). …
/ Cần có cái nhìn mới vế Ngũ Hành Nạp Âm.
Con Đường tìm kiếm và tích lũy Tri Thức của Loài Người là Con Đường đầy chông gai trắc
trở, trên đó là những chuỗi dài những Phủ Định và Phủ Định. Cái Mới phủ định Cái Cũ, thay
thế Cái Cũ. Nhưng Cái Mới luôn luôn bị Cái Cũ kìm hãm, chống đối – Cụ thể là bị những con
người bảo thủ, giáo điều ; những tín đồ mê muội của Cái Cũ công kích quyết liệt, đấu tranh
dai dẳng. Nhiều khi Tác Giả của Cái Mới phải trả giá bằng cả Sinh Mệnh. 
Nhận ra cái mới, chấp nhận cái mới và ủng hộ cái mới là điều xưa nay vốn không dễ dàng.
+ Thời Hy Lạp Cổ Đại, những Quan Điểm của Aristoteles ( 384-322 , Trước CN ) được xem
như Kinh Thánh.
Aristoteles đã nói thì Muôn Dân phải nghe. Ai chống đối, hoặc chỉ cần tỏ thái độ hoài nghi
thì đều bị Pháp Luật trừng trị. 
Mãi gần 20 Thế Kỷ sau, Galileo Galilei (1564-1642) mới đánh đổ được một số Quan Điểm
của Aristoteles.
+ Môn Hình Học Phi Euklid hiện nay là Nền Tảng Toán Học của nhiều Ngành Khoa Học Hiện
Đại. Nhưng khi mà Lobashevski công bố phát minh của mình thì lập tức ông bị xem là người
điên, bị cách chức Hiệu Trưởng Trường Đại Học, bạn bè xa lánh – Vì Ông đã “ quậy phá ”
Nhà Hình Học Vĩ Đại của Nhân Loại - Euklid.
Sau khi Ông mất, phải đợi thêm 20 năm nữa mới có một số rất ít Nhà Toán Học đầu tiên
hiểu được Ông . 
+ Để chuyển đổi được nhận thức từ Thuyết “ Địa Tâm ” sang Thuyết “Nhật Tâm ”, Loài
Người đã phải trải qua suốt những “ Đêm dài Trung Cổ ”.
Vẫn vang vọng đâu đây câu nói : “ Trái Đất vẫn quay ! ”. … 
+ Những người cuồng tín kiểu xưa kia bây giờ chỉ lác đác, do đó khi Einstein đánh vào
Thành Trì Vật Lý Cổ Điển của Newton bởi Thuyết Tương Đối của mình thì Thế Giới Vật Lý tuy
có choáng váng nhưng đã bình tĩnh đón nhận Einstein.
Về Nguyên Lý Nạp Âm .
N ếuNguyên Lý Nạp Âm là ĐÚNG ( Tôi tin là ĐÚNG ) thì Đội Ngũ các Nhà Dịch Học, Các Nhà
Lý Số cần bình tâm , khách quan và sáng suốt nhìn lại toàn bộ Hệ Thống Ngũ Hành Nạp
Âm . Từ đó có những sự điều chỉnh hợp lý hệ thống Lý Thuyết của các Môn Ngành Mệnh Lý.
Đó là việc lâu dài. Lắm gian truân ! ... 

IV/ Sử dụng các Tên Gọi Truyền Thống của Ngũ Hành Nạp Âm
Đặt tên cho một đối tượng nhằm nêu bật được Bản ính của nó quả không dễ, bởi vậy, người
ta thường đặt bằng những hư từ như a, b, c ; α , β , γ …
Các Hành Nạp Âm chính thống chưa có tên gọi riêng, trong khi đã có một hệ thống Tên Gọi
do Đào Tông Nghi đặt ra. Vậy ta có thể sử dụng Hệ Tên Gọi Truyền Thống đó để đặt Tên cho
các Hành Nạp Âm. Nhưng chỉ dùng để gọi Tên thôi, loại bỏ nội dung của chúng đi.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, khi gọi các Hành Nạp Âm - Mệnh bằng những cái Tên
Truyền Thống đó thì cũng rất dễ gây ra những điều ngộ nhận. Chằng hạn như : 
+ Với cái Tên Thiên Thượng Hỏa, thì bất cứ ai cũng đã quen nghĩ rằng, chẳng có Thủy nào
mà khắc được Hỏa trên Trời , chớ có dại mà đụng đến Lửa Trời ! 
Từ đó lại suy diễn ra rằng, người có Mệnh là Thiên Thượng Hỏa là người bất khả xâm phạm.
Được luận giải như vậy, nên những người này trở thành những kẻ ngạo mạn, xem “Trời
bằng vung ”, sống vô tổ chức, vô kỷ luật, tự tung tự tác.  
+ Hay như, người có mệnh là Giản Hạ Thủy, thì bị luận rằng, Giản Hạ Thủy là cái khe nước
nhỏ. Mà đã là cái khe nước nhỏ thì làm nên trò trống gì, tưới được mấy cái cây, ai dám uống
thứ nước đó, ai thèm để mắt đến cái khe nước tí xíu ấy mà làm gì ! Từ đó gây cho những
người này tâm lý bi quan, tự ty, thiếu tinh thần phấn đấu, thiếu ý chí vươn lên.
Nếu nắm được Nguyên Lý Nạp Âm thì ta dễ thấy ngay rằng, những lời luận giải như vậy là
sai lầm và nguy hiểm. Vì, Thiên Thượng Hỏa chẳng phải là Thần Linh của Sức Mạnh và Giản
Hạ Thuỷ chẳng hề bé nhỏ chút nào.
Cái mà ta thường gọi là Thiên Thượng Hỏa thực chất là Hỏa Thượng Nguyên của Tam
nguyên thứ hai cùa Hành Hỏa, là Trọng Hỏa, là cái có được sau khi đã nạp âm Nhuy Tân của
Chủy cho cặp Can Chi Mậu Ngọ.
Thiên Thượng Hỏa chẳng phải là Lửa Trời , nó ở ngay xung quang chúng ta thôi. 
Mệnh “ Thiên Thượng Hỏa ”cũng không phải là “Thành Lũy bất khả xâm phạm ”. Nó bị “
Tích Lịch Hỏa ” khắc kịch liệt. ( Theo cơ chế Tam hợp đối xung trong cùng một Hành Gốc ).
Ngoài ra, Thiên Thượng Hỏa còn bị Thủy khắc. Đó là Trọng Thủy – Thủy Thượng Nguyên của
Tam Nguyên Thứ Nhất, tức là Thủy được sinh ra sau khi đã nạp Âm Hoàng Chung của Vũ cho
cặp Can Chi Bính Tý. 
Thủy trong Tý, Hỏa trong Ngọ. Tý Ngọ đối xung và Thủy khắc Hỏa, nên Thủy này khắc Thiên
Thượng Hỏa rấ mãnh liệt. 
Nói đến đây, tức chỉ dừng tại đây, thì chắc rằng chúng ta dễ chấp nhận điều giải thích trên.
Nhưng nếu nói trắng ra rằng, cái Thủy này chính là cái mà ta thường gọi là Giản Hạ Thủy,
tức là :Giản Hạ THủy khắc Thiên Thượng Hỏa rất mãnh liệt! 
Lúc này, nếu ai đó còn bị ám ảnh bởi hình tượng của cái Tên gọi, thì chắc sẽ nổi máu “
Không Kiếp “ mà rằng : “ Điên ! Mấy giọt nước ở dưới cái khe tí xíu kia mà dám ngó mặt lên
cái bầu lửa sôi sùng sục trên Chín Tầng Mây ? To gan ! Khùng ! Tàm bậy tàm bạ ! …

…………………..

SINH KHẮC CỦA NGŨ HÀNH NẠP ÂM


( Tiếp theo – Bài 2 )
B/ Bàn về Quan hệ Tương Hợp, Tương Sinh, Tương Khắc của Ngũ Hành Nạp Âm.
I/ Xưa nay, vấn đề Sinh Khắc của Ngũ Hành Nạp Âm được giải thích như thế nào ?
Trước hết chúng ta hãy đọc qua một số lời giải thích :
α / Một số câu giải thích củaThiệu Vĩ Hoa :
1/ Hỏa khắc Kim, nhưng “Hải Trung Kim” là Kim ở đáy biển, “ Sa Trung Kim” là Kim trong
cát nên Hỏa không dễ khắc được Kim.
“ Bạch Lạp Kim” là Kim trên ngọn nến rất đễ bị Hỏa khắc.
“Hải Trung Kim”, “Sa Trung Kim” tuy khó bị Hỏa khắc, nhưng nó lại sợ lửa của sét, vì lửa
của sét có thể đánh tận đáy biển, đánh rất sâu vào đất.
Nói chung, Mộc rừng xanh, Mộc bình địa không dễ gì bị Kim khắc. Nhưng Mộc rất sợ “ Kiếm
Phong Kim”, vì Kiếm Phong Kim là Kim đã thành vũ khí.
2/ Nói chung, Hỏa trên Trời, Hỏa sấm sét không dễ bị Thủy khắc.
3/ “Thiên Hà Thủy”, “ Đại Hải Thủy” thì không những không sợ Thổ khắc mà thực tế , Thổ
không thể khắc, vì Thiên Hà Thủy ở trên Trời, còn Thổ ở dưới đất; Đại Hải Thủy thì nước to
và dũng mãnh, Thổ không thể khắc nổi.
β / Một số câu trích từ Diễn Đàn và các Sách.
1/ Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim gặp nhau thì tốt, gọi là Lưỡng Kim thành khí.
2/ Bình Địa Mộc và Đại Lâm Mộc gặp nhau thì tốt. Lưỡng Mộc thành Lâm.
3/ Lư Trung Hỏa và Phúc Đăng Hỏa gặp nhau thì tốt .lưỡng Hỏa thành Viêm.
4/ Thành Đầu Thổ, Ốc Thượng Thổ và Bích Thượng Thổ đều không kỵ Mộc. Riêng Sa Trung
Thổ, Đại Trạch Thổ và Lộ Bàng Thổ đều kỵ Mộc, nhất là Đại Lâm Mộc và Bình Địa Mộc Ngũ
Hành nạp Âm tỵ hòa (đồng Hành ).
5/ Tất cả các loại Mộc đều sợ bị Kim khắc, Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim thì khắc mạnh
hơn, trừ có Bình Địa Mộc không sợ Kim khắc.
γ / Một số câu giải thích trong Almanach : 
Almanach (2010), trang 378, có một số câu giải thích như sau : 
1/ Nói là Thủy khắc Hỏa, song liệu rằng Giản Hạ Thủy ( nước ở rạch nhỏ ) có thể dập tắt
được Sơn Đầu Hỏa, Thiên Thượng Hỏa và Tích Lịch Hỏa hay chăng ? Hẳn là sự khắc chế ấy
không đáng kể.
2/ Cũng như vậy, Giản Hỏa Thủy không thể đủ để tưới (sinh) cho cả một rừng cây lớn. Đó là
nói giữa các Hành với nhau.
3/ Ngoài ra trong cùng một Hành, lại có sự sinh khắc lẫn nhau.
Chẳng hạn, trong Hành Thủy, nước ở rạch nhỏ đổ vào suối, suối chảy ra sông, sông dồn ra
biển. Vậy rạch hoặc suối phải cạn.
Hoặc trong Hành Kim, Kiếm Phong Kim ( Vàng trong thanh kiếm ) tác động tới Thoa Xuyến
Kim ( chất Kim ở đồ tư trang ), hẳn đồ tư trang sẽ bị sứt mẻ, hư hỏng. Từ đó người ta rút ra
kết luận :
Lưỡng Kim, Kim khuyết ; Lưỡng Kim thành khí .
Lưỡng Thổ, Thổ huyệt ; Lưỡng Thổ thành Sơn . 
Lưỡng Thủy, Thủy kiệt ; Lưỡng Thủy thành Giang .
Lưỡng Mộc, Mộc chiết ; Lưỡng Mộc thành Lâm .
Lưỡng Hỏa, Hỏa tuyệt ; Lưỡng Hỏa thành viêm .
II/ Nhận xét về những lời giải thích trên.
α / Về những câu của Ông Thiệu Vĩ Hoa :
Ông Thiệu Vĩ Hoa chỉ thuần túy dựa vào Tên của Ngũ Hành Nạp Âm mà suy diễn ra theo chủ
quan của mình. Do đó, những lời giải thích của Thiệu Vĩ Hoa mang nặng tính “ Vật Chất ” và
tính “ Kinh Nghiệm Chủ Nghĩa ”. Không thuyết phục. 
β / Về một số câu trên các Diễn Đàn :
Cả 5 câu ở mục này chỉ đưa ra một khẳng định mà không có lời giải thích, nên chẳng ai biết
đúng hay sai để mà nghe hay không nghe !
Những câu luận giải kiểu như vậy chỉ làm cho người đọc lúng túng, vô bổ. 
Thực tế, cả 5 câu đó đều sai.
γ/ Những câu trên Almanach :
+ Các câu 1/ và 2/ là không đúng.
+ Câu 3/ có một ý mới : “Ngoài ra trong cùng một Hành lại có sự sinh khắc lẫn nhau”. 
Nhưng, Tác Giả mới chỉ đưa ý tưởng này ra như một lời nhận xét, một điều nhắc nhớ được
rút ra từ thực tiễn , chứ chưa có lời giải thích. Chưa giải thích được vì không có cơ sở Lý
Thuyết. Do vậy, câu nói đó chỉ như gió thoảng qua, chẳng ai nhớ tới, vì chẳng ai biết ứng
dụng nó theo phương cách nào. Không được minh chứng bằng lý thuyết nên ý tưởng đó
không có tính thực tiễn và không phát triển được.
Tóm lại, để luận giải về Quan Hệ của các Hành Nạp Âm, xưa nay chúng ta chỉ có duy nhất
một “ Bảo Bối ” để làm cơ sở lý thuyết : Đó là Cơ Chế Sinh Khắc của Ngũ Hành Gốc.
Trên cái vốn ít ỏi đó, các Nhà Lý Số thả sức suy diễn và phát ngôn theo trình độ hiểu biết,
theo quan niệm và theo hướng đi riêng của từng người. Trong khi những tính chất tinh tế,
uyển chuyển và biến hóa vô cùng của Ngũ Hành Nạp Âm thì lại không được sử dụng đến – vì
chưa phát hiện ra.
Cách suy diễn chủ quan trên một bình diện thiếu cơ sở Lý Thuyết của một đội ngũ đông đảo
các Nhà Lý Số đã làm cho các vấn đề về Dịch Lý trở nên rối rắm , mâu thuẫn, phức tạp, khó
hiểu, chẳng biết nghe ai.
Vậy cần phải bổ sung Lý Thuyết của Nguyên Lý Nạp Âm vào công viêc nghiên cứu Lý Thuyết
của các Môn Ngành Dịch Lý, Mệnh Lý.
III/ Xác định Quan Hệ Sinh Khắc của Ngũ Hành Nạp Âm thế nào cho đúng  ? 
Vấn đề này quá mới mẻ nên vô cùng khó khăn. Đối với tôi lại càng khó. Vì xưa nay chưa có
ai đề cập vấn đề này, chưa có sách vở nào nói tới. Trong tay tôi chí vỏn vẹn có 43 câu của
Thẩm Quát in trong Hiệp Kỷ Biên Phương Thư. Không có người cộng tác. Không có người
phản biện. Tự mình phải tím tòi suy nghĩ. Suy nghĩ thì có. Tìm tòi thì không. Có cái gì đâu
mà tìm tòi !
Trong hoàn cảnh đó, suy nghĩ được gì, tôi cứ mạnh dạn thông báo lên đây để Quý Vị tham
khảo, nếu Quý Vị nào đồng tình thì xin đề nghị cùng suy nghĩ tiếp và chỉ bảo cho. Xin trân
trọng cảm ơn. LTL.

α / Các Nguyên tắc để xác định Quan Hệ của các ành Nạp Âm :
1/ Hành Nạp Âm vẫn là Ngũ Hành, cho nên trước hết, quy luật Sinh Khắc của Hành Nạp Âm
phải tuân theo cơ chế Sinh Khắc của Ngũ Hành Gốc . 
2/ Các Hành Nạp Âm là những Hành đặc biệt được sản sinh ra từ Nguyên Lý Nạp Âm , cho
nên Quy Luật Sinh Khắc của các Hành Nạp Âm còn phải tuân thủ nghiêm ngặt các Quy Luật
của Nguyên Lý Nạp Âm . 
Quy Luật Sinh Khắc của các Hành Nạp Âm là hệ quả trực tiếp được suy ra từ Nguyên Lý Nạp
Âm.
β/ Các Quy Luật Sinh Khắc của các Hành Nạp Âm

Để tiện việc trình bày bài viết, tôi gọi Tên các Hành Nạp Âm mà ta đã biết xưa nay là
các Tên Gọi Truyền Thống ( chỉ dùng để gọi Tên thôi, bỏ qua nội dung của chúng ) và gọi
mỗi Hành của Ngũ Hành ( Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim ) là Hành Gốc.
Một số ký hiệu được sử dụng : Sinh xuất : => , Khắc xuất : =<

Chép lại Bảng 30 Hành Nạp Âm.


Bảng 10 
Bảng 10.JPG (144.1 KiB) Đã xem 60111 lần

Trong Bảng 10 trên đây :


+ Các cột 1a , 2a , 3a thuộc Tam Nguyên Thứ Nhất. Đó là nửa phần bên trái của Bảng.
Các cột 1b , 2b , 3b thuộc Tam Nguyên Thứ Hai. Đó là nửa phân bên phải của Bảng.
+ Có 5 dòng , mỗi dòng ứng với một Hành Gốc : Kim, Hỏa, Mộc, Thủy, Thổ .

1 / Quan hệ Sinh Khắc của các Hành Nạp Âm cùng thuộc một Hành Gốc ( tức là cùng thuộc
một dòng trên Bảng 10 ).
Đây là điều mới nẩy sinh về quan hệ Sinh Khắc của Ngũ Hành . Hiện tượng này chỉ xẩy ra
trong mối quan hệ của các Hành Nạp Âm với nhau mà trong Ngũ Hành Gốc không có. 
a / Quan hệ của các Hành Nạp Âm trong cùng một Tam Nguyên của một Hành Gốc : 
Trong Bảng 10 ở trên : 
Đó là quan hệ của các Hành Nạp Âm trên cùng một dòng và giữa các cột :
+ Cột 1a , cột 2a , và cột 3a .
+ Cột 1b , cột 2b , và cột 3b.
Các Hành Nạp Âm thuộc một Tam Nguyên của một Hành Gốc có quan hệ Tương Hợp, Tương
sinh, không có quan hệ Tương Khắc. (Điều này suy ra từ “Nguyên Lý cách 8 sinh con” ).
+ Quan hệ Tương hợp :
Gồm Tam hợp ( kể cả Bán Tam hợp ) của các Địa Chi và Lục Hợp :
Tam hợp : Thân-Tý-Thìn ( Tỵ-Dậu-Ngọ) thuộc Tam Nguyên Thứ Nhất. 
Dần-Ngọ-Tuất ( Hơi-Mão-Mùi ) thuộc Tam Nguyên Thứ Hai.
Tức là : Trong một Hành Gốc ( Trên cùng một dòng ) , các Hành 1a, 2a, và 3a tương hợp
nhau ; các Hành 1b , 2b , và 3b tương hợp nhau.
Bán Tam Hợp : 
1a hợp 2a , 1a hợp 3a ;
1b hợp 2b , 1b hợp 3b.
Lục Hợp : Tý – Sửu , Thìn – Dậu , Thân – Tỵ , 
Ngọ - Mùi , Tuất – Mão , Dần Hợi.
Điều này cho thấy : Trong cùng một Hành Gốc ( tức trên cùng một dòng ) và cùng một Tam
Nguyên, ngoài quan hệ “Cách 8 sinh con” còn có quan hệ Lục Hợp. Do đó , ở đây, mối tương
hợp, tương sinh rất mạnh.
+ Quan hệ Tương sinh :
Hành Thượng Nguyên sinh cho Hành Trung Nguyên,
Hành Trung Nguyên sinh cho Hành Hạ Nguyên.
Ta cũng có thể xét Quan hệ Tương Sinh theo Trọng Mạnh Quý hoặc theo Luật Lữ :
Trọng => Mạnh => Quý. ( => là ký hiệu sinh xuất).
Hoàng Chung => Di Tắc => Cô Tẩy (Tam Nguyên I ),
Nhuy Tân => Thái Thốc => Vô Dịch (Tam Nguyên II ). 
Nhìn vào Bảng 10 ta thấy ngay điều đó :
Trong cùng một Hành Gốc, tức là trên cùng một dòng, ta có :
1a sinh 2a , 2a sinh 3a ; 1b sinh 2b , 2b sinh 3b.
Cụ thể :
+ Trên dòng I , đó là dòng của Hành KIM. Ta thấy : 
@ Hải Trung Kim (1a) => Kiếm Phong Kim (2a),
Kiếm Phong Kim (2a) => Bạch Lạp Kim (3a).
@ Sa Trung Kim ( 1b ) => Kim Bạc Kim (2b) , 
Kim Bạc Kim (2b) => Thoa Xuyến Kim (3b).
+ Trên dòng II , đó là dòng của Hành HỎA . Ta thấy : 
@ Tích Lịch Hỏa (1a) => Sơn Hạ Hỏa (2a) , 
Sơn Hạ Hỏa (2a) => Phú Đăng Hỏa (3a) .
@ Thiên Thượng Hỏa (1b) => Lư Trung Hỏa (2b),
Lư Trung Hỏa (2b) => Sơn Đầu Hỏa (3b) . …
b/ Quan hệ giữa các Hành Nạp Âm thuộc hai Tam Nguyên của cùng một Hành Gốc ( vẫn
trên cùng thuộc một dòng ):
Quan hệ giữa các Hành Nạp Âm cùng thuộc một Hành Gốc nhưng thuộc hai Tam Nguyên
khác nhau không có Quan hệ Tương Sinh Tương Hợp, chỉ có Quan hệ tương khắc (vì chúng
được sinh ra từ hai Tam Hợp Địa Chi đối xung nhau ) , do đó :
Tý =< Ngọ , Thân =< Dần , Thìn =< Tuất
( Sửu =< Mùi , Dậu =< Mão , Hợi =< Tỵ ).
Nhìn vào Bảng 10 ta thấy ngay những điều đó:
Trong cùng một Hành Gốc, tức là trên cùng một dòng, ta có :
1a khắc 1b , 2a khắc 2b , 3a khắc 3b . 
Cụ thể : 
+ Trên dòng I , đó là dòng của Hành KIM. Ta thấy :
Hải Trung Kim (1a) =< Sa Trung Kim (1b) , 
Kiếm Phong Kim ( 2a) =< Kim Bạc Kim (2b)
Bạch Lạp Kim (3a) =< Thoa Xuyến Kim (3b).
+ Trên dòng II , đó là dòng của Hành HỎA . Ta thấy :
Tích Lịch Hỏa =< Thiên Thượng Hỏa ,
Sơn Hạ Hỏa =< Lư Trung Hỏa , 
Phú Đăng Hỏa =< Sơn Đầu Hỏa. … 

Đến đây, ta giải thích được các hiện tượng mâu thuẫn nhau sau đây :
Lưỡng Kim, Kim khuyết ; Lưỡng Kim thành khí .
Lưỡng Thổ, Thổ huyệt ; Lưỡng Thổ thành Sơn . 
Lưỡng Thủy, Thủy kiệt ; Lưỡng Thủy thành Giang .
Lưỡng Mộc, Mộc chiết ; Lưỡng Mộc thành Lâm .
Lưỡng Hỏa, Hỏa tuyệt ; Lưỡng Hỏa thành viêm .
( Đây chính là hiên tượng sinh khắc xẩy ra trong cùng một Hành Gốc )
Cụ thể : 
Lưỡng Kim, Kim Khuyết : Nghĩa là hai Kim khắc nhau làm cho cả hai đều bị sứt mẻ. Đó là : 
Trên dòng I :
Hải Trung Kim =< Sa Trung Kim,
Kiếm Phong Kim =< Kim Bạc Kim ,
Bạch Lạp Kim =< Thoa Xuyên Kim.
( Trường hợp này, Hai Hành Nạp Âm thuộc hai Tam Nguyên khác nhau ).
Lưỡng Kim thành Khí : Nghĩa là hai Kim gặp nhau sinh trợ cho nhau, hợp với nhau làm cho
Kim mạnh lên, tăng thêm khí lực.
Trên dòng I :
@/ + Hải Trung Kim => Kiếm Phong Kim, 
Hải Trung Kim và Kiếm Phong Kim là Bán Tam hợp.
+ Kiếm Phong Kim => Bạch Lạp Kim.
Hải Trung Kim và Bạch Lạp Kim là Bán Tam hợp.
@/ + Sa Trung Kim => Kim Bạc Kim, 
Sa Trung Kim và Kim Bạc Kim là Bán Tam hợp.
+ Kim Bạc Kim => Thoa Xuyến Kim.
Sa Trung Kim và Thoa Xuyến Kim là Bán Tam hợp . … 
( Trường hợp này, hai Hành Nạp Âm cùng thuộc một Tam Nguyên ).
2 / Quan hệ Sinh Khắc của các Hành Nạp Âm cùng thuộc một Nguyên ( tức là trên cùng một
côt ) . 
Đây cũng là vấn đề mới nẩy sinh trong Nguyên Lý Nạp Âm .
Trong Bảng 10 : mỗi cột 1a, 2a, 3a ; 1b, 2b, 3b ứng với một Nguyên.
Trong mỗi Nguyên đều có 5 Hành Nạp Âm - đại diện cho 5 Hành Gốc– Ngũ Hành. Có đủ Ngũ
Hành ắt có đủ cơ chế Sinh Khắc.
Vậy, trong mỗi cột , các Hành Nạp Âm có Quan hệ Sinh Khắc.
( Đây cũng là một đặc điểm của Nguyên Lý Nạp Âm ). 
Ví dụ :
a/ Xét Thượng Nguyên của Tam Nguyên Thứ Nhất ( Cột 1a )
+ Hành Hải Trung Kim :  
Hải Trung Kim => Giản Hạ Thủy
Hải Trung Kim =< Tang Đố Mộc
Bích Thượng Thổ => Hải Trung Kim
Tích Lịch Hỏa =< Hải Trung Kim
+ Hành Tích Lịch Hỏa :
Tích Lịch Hỏa => Bích Thượng Thổ
Tích Lịch Hỏa =< Hải Trung Kim
Tang Đố Mộc => Tích Lịch Hỏa
Giản Hạ Thủy =< Tích Lịch Hỏa
+ Hành Tang Đố Mộc :
Tang Đố Mộc => Tích Lịch Hỏa
Tang Đố Mộc =< Bích Thượng Thổ
Giản Hạ Thủy => Tang Đố Mộc
Hải Trung Kim =< Tang Đố Mộc 
+ Hành Giản Hạ Thủy :
Giản Hạ Thủy => Tang Đố Mộc
Giản Hạ Thủy =< Tích Lịch Hỏa
Hải Trung Kim => Giản Hạ Thủy
Bích Thượng Thổ =< Giản Hạ Thủy.
+ Hành Bích Thượng Thổ :
Bích Thượng THổ => Hải Trung Kim
Bích Thượng Thổ =< Giản Hạ Thủy
Tích Lịch Hỏa => Bích Thượng Thổ
Tang Đố Mộc =< Bích Thượng Thổ.

b/ Xét Hạ Nguyên của Tam Nguyên Thứ Nhất ( cột 3a )


+Hành Bạch Lạp Kim
Bạch Lạp Kim => Trường Lưu Thủy
Bạch Lạp Kim =< Đại Lâm Mộc
Sa Trung Thổ => Bạch Lạp Kim
Phú Đăng Hỏa =< Bạch Lạp Kim
+ Hành Phú Đăng Hỏa
Phú Đăng Hỏa => Sa Trung Thổ
Phú Đăng Hỏa =< Bạch Lạp Kim
Đại Lâm Mộc => Phú Đăng Hỏa
Trường Lưu Thủy =< Phú Đăng Hỏa 
+Hành Đại Lâm Mộc
Đại Lâm Mộc => Phú Đăng Hỏa
Đại Lâm Mộc =< Sa Trung Thổ
Trường Lưu Thủy => Đại Lâm Mộc
Bạch Lạp Kim =< Đại Lâm Mộc.
+ Hành Trường Lưu Thủy
Trường Lưu Thủy => Đại Lâm Mộc
Trường Lưu Thủy =< Phú Đăng Hỏa
Bạch Lạp Kim => Trường Lưu Thủy
Sa Trung Thổ =< Trường Lưu Thủy.
+Hành Sa Trung Thổ
Sa Trung Thổ => Bạch Lạp Kim
Sa Trung Thổ =< Trường Lưu Thủy 
Phú Đăng Hỏa => Sa Trung Thổ
Đại Lâm Mộc =< Sa Trung Thổ

c/ Xét Trung Nguyên của Tam Nguyên Thứ Hai ( cột 2b ).
+ Hành Kim Bạc Kim
Kim Bạc Kim => Đại Khê Thủy
Kim Bạc Kim =< Tùng Bách Mộc
Thành Đầu Thổ => Kim Bạc Kim
Lư Trung Hỏa =< Kim Bạc Kim
+ Hành Lư Trung Hỏa
Lư Trung Hỏa => Thành Đầu Thổ
Lư Trung Hỏa =< Kim Bạc Kim
Tùng Bách Mộc => Lư Trung Hỏa
Đại Khê Thủy =< Lư Trung Hỏa 
+Hành Tùng Bách Mộc
Tùng Bách Mộc => Lư Trung Hỏa
Tùng Bách Mộc =< Thành Đầu Thổ
Đại Khê Thủy => Tùng Bách Mộc
Kim Bạc Kim =< Tùng Bách Mộc
+ Hành Đại Khê Thủy
Đại Khê Thủy => Tùng Bách Mộc
Đại Khê Thủy =< Lư Trung Hỏa
Kim Bạc Kim => Đại Khê Thủy
Thành Đầu Thổ =< Đại Khê Thủy. 
+ Hành Thành Đầu Thổ
Thành Đầu Thổ => Kim Bạc Kim
Thành Đầu Thổ =< Đại Khê Thủy
Lư Trung Hỏa => Thành Đầu Thổ
Tùng Bách Mộc =< Thành Đầu Thổ. … 
3/ Quan hệ sinh khắc của các Hành Nạp Âm thuộc hai Hành Gốc khác nhau và không cùng
một Nguyên, tức là các Hành Nạp Âm thuộc 2 dòng khác nhau và hai cột khác nhau.  
Trong trường hợp này , để xác định : 
a/ Trước tiên xét theo cơ chế sinh khắc của Ngũ Hành Gốc :  
Thủy => Mộc => Hỏa => Thổ => Kim => Thủy
( Dấu => : ký hiệu sinh xuất ).
Thủy =< Hỏa =< Kim =< Mộc =< Thổ =< Thủy
( Dấu =< : Ký hiệu khắc xuất )
b/ Tiếp theo là căn cứ đặc điểm của các Hành Nạp Âm : 
+/ Quan hệ Tương Sinh trong cùng một Tam Nguyên mạnh hơn Quan hệ Tương Sinh giữa
hai Tam Nguyên.
+ / Quan hệ Tương Khắc xẩy ra giữa hai Tam Nuyên mạnh hơn Quan hệ Tương khắc trong
nội bộ một Tam Nguyên .
+/ Giữa các cột : 1a và 1b , 2a và 2b , 3a và 3b không có Quan hệ Tương Sinh, chỉ có Quan
hệ Tương khắc và tương khắc rất mạnh ( Vì các cặp Địa Chi đối xung nhau ).
Theo ý nghĩa Ngũ Hành Tương Khắc, thì người ta thường nói : các cột
1a và 1b tương xung , 2a và 2b tương xung , 3a và 3b tương xung.
Vì rằng, cho dù A =< B hay B =< A thì quan hệ giữa A và B đều không tốt, cho nên chỉ cần
nói A và B tương xung là đủ.
( Trong mục 3/ này tôi còn có chút phân vân. Kính mong Quý Vị cho ý kiến ).
Chú ý : 
Kết quả của việc Sinh Khắc của Ngũ Hành nói chung còn tùy thuộc vào mức độ suy vượng
của Ngũ Hành. Vấn đề này không thuộc phạm vi của Phép Nạp Âm.

………….

SNH KHẮC CỦA NGŨ HÀNH NẠP ÂM


( Tiếp theo – Bài 3 )
C / Ứng dụng :
Mệnh là Ngũ Hành Nạp Âm của cặp Can Chi của Năm Sinh của mỗi người. Mệnh là Yếu Tố
Nhân trong Thuyết Tam Tài Thiên Địa Nhân.
Ngũ Hành Nạp Âm có nhiều ứng dụng quan trọng trong các Môn Ngành Mệnh Lý, Dịch Lý.
Như, lập Mệnh cho một con người, tìm tuổi hợp cho Hôn Phối, xem Trạch Cát, đặc biệt có
nhiều ứng dụng trong Phong Thủy…
Đó là những vấn đề rất lớn. Chỉ riêng về Trạch Cát thì đã có nguyên cả Bộ Hiệp Kỷ Biện
Phương Thư, ngoài ra cũng đã có đến hàng trăm Tác Giả viết về vấn đề này. Ở đây, tôi chỉ
dám thử đưa ra vài ứng dụng nho nhỏ.
I/ Tìm hiểu Nhân Mệnh
Khi nói về Hôn Nhân, về Con Người, về Cuộc Sống … thì có nhiều tiêu chí để xem xét, sàng
lọc. Ở đây, chúng ta chỉ thuần túy luận theo Ngũ Hành Nạp Âm. 
Xem Mệnh thì chủ yếu là xét đặc tính của Hành Nạp Âm, còn những tính chất Ngũ Hành của
Can Chi là thứ yếu , là phụ, chỉ để tham khảo thêm. 

Bây giờ, ta tìm hiểu một Nhân Mệnh cụ thể :


Tìm hiểu Mệnh của một người Nam sinh Năm 1962 .
( Xem Bảng 10, đã đăng ở bài trước )
+ Năm 1962 là Năm Nhâm Dần . Người ta thường nói người này tuổi Dần. 
+ Theo Bảng 10 trên đây và theo Tên gọi Truyền Thống thì Năm Nhâm Dần có Hành Nạp Âm
là Kim Bạc Kim -- Ô ( I , 2b ). Ta nói người này có Mệnh là Kim Bạc Kim và thường gọi tắt
là người này Mệnh Kim.
1/ Xét Quan hệ Sinh Khắc của Mệnh Kim Bạc Kim với các Nhân Mệnh, Niên Mệnh (Hành
Nạp Âm ) khác .
Nhì vào Bảng 10 ta thấy, Kim Bạc Kim là Hành được sinh ra từg Cặp Can Chi Nhâm Dần được
nạp âm Thái Thốc của Thương, đó là Kim của Trung Nguyên của Tam Nguyên thứ hai,
là Mạnh Kim .
a/ Xét Quan Hệ Tương Hợp : 
Trên dòng I , trong Tam Nguyên Thứ Hai ( trên Bảng 10 ) :
Các Hành Nạp Âm ( Mệnh ) Kim Bạc Kim , Sa Trung Kim và Thoa Xuyến Kim tương hợp với
nhau.
b/ Quan hệ Tương Sinh :
@/ Sinh xuất : 
+ Trong cùng một Hành Gốc ( Hành Kim – Dòng I ) :
Kim Bạc Kim sinh trợ cho Thoa Xuyến Kim ( 2b => 3b ).
+ Trong cùng một Nguyên ( Trung Nguyên – cột 2b ) :
Kim Bạc Kim sinh trợ cho Đại Khê Thủy – Giáp Dần.
+ Trong quan hệ khác Hành Gốc và khác Nguyên ( tức khác dòng và khác cột ):
@ Sinh xuất :
Kim Bạc Kim sinh trợ cho :
a/ Đại Hải Thủy , Thiên Hà Thủy ( và Đại Khê Thủy- đã nói trên).
b/ Giản Hạ Thủy , Trường Lưu Thủy.
( Kim Bạc Kim không sinh trợ cho Tuyền Trung Thủy vì có Thân =< Dần ). 
@/ Sinh nhập :
+ Trong cùng một Hành Gốc ( Hành Kim – Dòng 1 ) :
Kim Bạc Kim được Sa Trung Kim sinh trợ cho ( 1b => 2b ).
+ Trong cùng một Nguyên ( Trung Nguyên – Cột 2b ) ;
Kim Bạc Kim được Thành Đầu Thổ sinh trợ cho .
+ Với các Hành Gốc và các Nguyên khác nhau :
Vì Thổ sinh Kim nên Kim Bạc Kim được các Hành Nạp Âm sau đây sinh trợ cho : 
a/ Lộ Bàng Thổ , Ốc Thượng Thổ ( và Thành Đầu Thổ đã nói trên )
b/ Bích Thượng Thổ , Sa Trung Thổ.
( Đại TrạchThổ không sinh trợ cho Kim Bạc Kim vì có Thân =< Dần ) .
c/ Quan hệ Tương khắc :
@ / Khắc xuất : 
+ Trong cùng một Hành Gốc ( Trên dòng 1 ) :
Kim Bạc Kim không khắc Hành nào cả.
Nhưng Kim Bạc Kim và Kiếm Phong Kim tương xung nhau.
+ Trong cùng một Nguyên ( Cột 2b ) :
Kim Bạc Kim khắc Tùng Bách Mộc.
+ Với các Hành và các Nguyên khác nhau :
Vì Kim khắc Mộc nên suy ra Kim Bạc Kim khắc các Hành sau :
Tang Đố Mộc , Đại Lâm Mộc , Dương Liễu Mộc , Bình Địa Mộc.
@ / Khắc nhập :
+ Trong cùng một Hành Gốc ( Dòng 1 ) :
Kim Bạc Kim bị Kiếm Phong Kim khắc ( 2a =< 2b ).
+ Trong cùng một Nguyên ( Cột 2b ) :
Kim Bạc Kim bị Lư Trung Hỏa khắc.
+ Với các Hành và các Nguyên khác nhau :
Kim Bạc Kim bị các Hành sau đây khắc :
Sơn Hạ Hỏa , Tích Lịch Hỏa , Phú Đăng Hỏa ,
Thiên Thượng Hỏa , Sơn Đầu Hỏa ( và Lư Trung Hỏa đã nói trên ).
2/ Vài Đặc điểm của người có Mệnh Kim Bạc Kim :
Năm sinh là Năm Nhâm Dần : 
Nhâm Thủy là Ngôi Thiên, là Ngôi Cha . 
Dần Mộc là Ngôi Địa , là Ngôi Mẹ.
Năm Nhâm Dần là Năm tự hành tương Sinh : Nhâm Thủy => Dần Mộc , Cha sinh trợ cho Mẹ.
Kim sinh trợ cho Nhâm Thủy. Kim khắc Dần Mộc.
Mệnh này trợ Dương , phế Âm : Giúp Cha, khắc Mẹ.
Nếu người này sinh vào Mùa Thu ( Tháng 7, tháng 8 ) thì khắc Mẹ rất mạnh ( Vì Mùa Thu
Kim vượng ).
Phần này chỉ là thứ yếu.
Vận của người này năm nay ra sao ?
Năm nay là năm 2012 - Nhâm Thìn , Niên Mệnh là Trường Lưu Thủy. Năm nay Cha mẹ được
trợ giúp, gặp thuận lợi ( Vì Thủy tương tỷ với Nhâm, sinh trợ cho Dần Mộc ). Kim sinh Thủy :
Thủy là Tử Tôn của Nhâm Dần, nên Đương Số được lợi về đường con cái và đường Phúc Đức.

II / Từ Quan hệ Sinh Khắc của Ngũ Hành Nạp Âm, tìm người Hôn Phối cho Mệnh Nam sinh
năm Nhâm Dần nói trên .
Các bước thực hiện :
1/ Tìm những Hành Nạp Âm sinh trợ cho Kim Bạc Kim.
Tại mục Sinh Nhập đã xét ở trên, ta thấy Hành Kim Bạc Kim được các Hành Nạp Âm sau đây
sinh trợ cho. Ta sắp xếp thứ tự ưu tiên từ mạnh đến yếu cho các Hành đó :
a/ Sa Trung Kim ( Giáp Ngọ / Ất Mùi ), vừa tương hợp vừa tương sinh.
b/ Lộ Bàng Thổ ( Canh Ngọ / Tân Mùi ), Canh => Nhâm , Ngọ => Dần
c/ Thành Đầu Thổ ( Mậu Dần / Kỷ Mão ),
d/ Ốc Thượng Thổ ( Bính Tuất / Đinh Hợi ),
e/ Bích Thượng Thổ ( Canh Tý / Tân Sửu ),
f/ Sa Trung Thổ ( Bính Thìn / Đinh Tỵ ).

2/ Tìm Tuổi tương xứng :


Xem tuổi Phối Hôn thì ngoài tiêu chí đầu tiên là hai Mệnh phải tương hợp tương sinh , còn
một điều kiện quan trọng nữa là tuổi của đôi Nam Nữ không được chênh lệch nhau quá
nhiều. Thông thường thỉ Nữ không nhiều hơn Nam quá 5 tuổi và không nhỏ hơn Nam dưới
15 tuổi.
Vậy, người Nam sinh năm 1962 thì hợp với Nữ tuổi nào ?
Ta lần lượt xét tuổi của 6 Mệnh Nữ đã được chọn ở trên.
a/ Ưu tiên 1 : Nữ Mệnh Sa Trung Kim ( Năm sinh Giáp Ngọ / Ất Mùi ) :
+ Năm Giáp Ngọ : 1954 , 2014 ; + Năm Ất Mùi : 1955 , 2015
Những tuổi này quá chênh lệch so với tuổi Nam. Trong những trường hợp quá đặc biệt thì có
thể xem xét đến năm sinh 1955 hoặc 1954.
b/ Ưu tiên 2 : Nữ Mệnh Lộ Bàng Thổ ( Canh Ngọ / Tân Mùi ).
+ Năm Canh Ngọ : 1930 , 1990 , 2050 ; + Tân Mùi : 1931 , 1991, 2051.
Những tuổi này quá chênh lệch so với tuổi Nam.
c/ Ưu tiên 3 : Thành Đầu Thổ (Mậu Dần / Kỷ Mão ).
+ Mậu Dần : 1938 , 1998 ; + Kỷ Mão : 1939 , 1999.
Tuổi của các Nữ Mệnh quá chênh lệch so với tuổi của Nam Mệnh.
d/ Nữ Mệnh Ốc Thượng Thổ ( Bính Tuất / Đinh Hợi ).
+ Bính Tuất : 1946 , 2006, 2066 ; + Đinh Hợi : 1945 , 2007 , 2067.
Không có tuổi thích hợp.
e/ Nữ Mệnh Bích Thượng Thổ ( Canh Tý / Tân Sửu ).
+ Canh Tý : 1960 : Nữ hơn Nam 2 tuổi. 
+ Tân Sửu : 1961 : Nữ hơn Nam 1 tuổi.
Hai tuổi này chấp nhận được.
f/ Nữ Mệnh Sa Trung Thổ ( Bính Thìn / Đinh Tỵ )
+ Bính Thìn : 1976 : Nam hơn Nữ 14 tuổi.
+ Đinh Tỵ : 1977 : Nam hơn Nữ 15 tuổi.
Hai tuổi này cũng thường được chấp nhận được. Nhưng, tìm hiểu kỹ thêm ta thấy :
Tuổi Nhâm Dần và Bính Thìn là Thiên khắc Địa Xung.
Tuổi Nhâm Dần và Đinh Tỵ thì Dần và Tỵ vừa Hình vừa Hại.
Nói chung, người ta thường tránh những trường hợp như thế này . 
( Chú ý : Hai cặp Can Chi có Thiên khắc Địa xung thì 2 Hành Nạp Âm của chúng chưa hẳn đã
khắc nhau, ngược lại có thể có sự tương sinh . Xem tiếp ở phía dưới ).
Tóm lại, có hai Nữ Mệnh có Tuổi tương đối thích hợp : Canh Tý , Tân Sửu.
3 / Chọn lấy một trong những Tuổi đã được lựa chọn.
Cách chọn lựa :
Trong các Tuổi đã được “ sơ tuyển”, ta chọn Tuổi nào có nhiều tiêu chí hợp hơn, hoặc đưa
thêm những điều kiên mới để có thêm tiêu chí lựa chọn, hoặc đánh giá những Tuổi đã được
“sơ tuyển” bằng những công cụ dự đoán khác như Phong Thủy, Hà Lạc, Lục Nhâm … để đối
chiếu, so sánh.
Ở đây, tôi dùng Mệnh Quái.
Cần nói thêm rằng, xét tuổi Hôn Phối, chủ yếu là xét tương quan giữa hai Mệnh, tức giữa hai
Hành Nạp Âm, còn các cách xem xét khác là phụ, là thứ yếu, chỉ để tham khảo thêm thôi.
Nam Mệnh sinh năm Nhâm Dần (1962) có Mệnh Quái là KHÔN. Quẻ Khôn có Bảng Du Niên
Biên Quái như sau .

Hình 5.JPG (25.48 KiB) Đã xem 10248 lần

Nếu Mệnh Quái của Nữ rơi vào các Cung Sinh Khí , Diên Niên , Thiên Y , Phục Vị trong Bảng
trên là Cát Phối ; còn rơi vào các Cung khác là Hung Phối , trong đó Cung Tuyệt Mệnh là Đại
Hung chi Phối.
a/ Xem tuổi Nữ Mệnh sinh năm Canh Tý ( 1960 ) .
Nữ Mệnh sinh năm Canh Tý có Mệnh Quái là Quẻ Khôn. 
Khôn là Phục Vị Tinh của Mệnh Quái Khôn của Nam. Đó là Đệ Tứ Cát Tinh, là Trung Cát Chi
Hôn, khá tốt đẹp.
Nhưng rất tiếc, vì Phục Vị Tinh thuộc Hành Mộc ; Khôn thuộc Hành Thổ. Mộc Thổ tương xung

Trong Hôn Phối, nói chung, Nam có Mệnh Quái là Khôn thường tránh chọn Mệnh Nữ cũng có
Mệnh Quái là Khôn.
Nói thêm : Sinh Khí là Đệ Nhất Cát Tinh, là Thượng Cát chi Phối. 
Nam có Mệnh Quái Khôn thì Sinh khí đóng tại Cung Cấn. Tham Lang Sinh Khí Tinh lại có
Hành Mộc, Cấn có Hành Thổ . Mộc Thổ tương xung. Do đó Nam có Mệnh Quái Khôn kỵ kết
hôn với Nữ có Mệnh Quái Cấn.
Cũng cần nói thêm rằng, đây chỉ là nói chung, còn đối với từng trường hợp cụ thể còn phải
đánh giá mức độ ảnh hưởng từ những yếu tố khác , mới có thể đưa ra quyết định đúng đắn
được.
Tìm Hướng Nhà cũng vậy, Nam có Mệnh Quái Khôn tránh lấy Hướng Nhà theo Hướng Đông-
Bắc và Tây-Nam.

b/ Xem tuổi Nữ Mệnh sinh năm Tân Sửu (1961 )


Mệnh Nữ này có Mệnh Quái là Chấn. Chấn là Họa Hại của Mệnh Quái Khôn. Lộc Tồn Họa Hại
là Đệ Tứ Hung Tinh, tức loại Hung Tinh ít xấu nhất trong 4 Hung Tinh. Nó thuộc loại Bình
thường Chi Phối. 
Đây là trường hợp tốt nhất trong những trường hợp xấu. Nên vẫn có thể dùng được.

KIểm tra lại tuổi hai Nữ Mệnh ở mục 2f/ Sa Trung Thổ ( Bính Thìn / Đinh Tỵ ) đã bị loại bỏ ở
trên bằng Mệnh Quái. (Hai tuổi có tô màu vàng ở trên ).
@/ Nữ Mệnh Bính Thìn 1976.
Ở trên nói rằng, trường hợp này gặp Thiên khắc Địa xung, nên tránh. Ta xem thêm trường
hợp này.
Nữ Bính Thìn 1976 có Mệnh Quái là Ly. Ly là Lục Sát của Mệnh Quái Khôn. Lục Sát là Đệ Tam
Hung Tinh. Xấu. Nên Tránh.
@/ Nữ Mệnh Đinh Tỵ 1977 
Ở trên nói rằng, Địa Chi của hai Năm Sinh là Hình, Hại. Nên tránh. 
Ta xem xét thêm trường hợp này.
Nữ Mệnh Đinh Tỵ 1977 có Mệnh Quái Khảm, Khảm là Tuyệt Mệnh của Mệnh Quái Khôn, là
Đệ Nhất Hung Tinh. Gặp Tuyệt Mệnh, cần phải hết sức tránh.

III/ Tìm người Hôn Phối bằng cách đi ngược từ Mệnh Quái trở về Ngũ Hành Nạp Âm.
Trên đây ta đã tìm người Hôn Phối bằng cách tìm Nhâm Mệnh rồi Kiểm tra Bằng Mệnh Quái.
Bây giờ ta tìm người Hôn Phối bằng cách đi ngược từ Mệnh Quái. 
Mệnh Quái Khôn còn có hai Cát Tinh là Diên Niên và Thiên Y mà trong cách làm trên không
thấy xuất hiện. Bây giờ ta tìm hiểu hai Cát Tinh đó.
1/ Xét Diên Niên Tinh :  
Diên Niên Tinh là Đệ Nhị Cát Tinh, còn gọi là Phúc Đức Tinh, đóng tại Cung Càn.
Ta tìm những Nữ Mệnh có Mệnh Quái Càn và có tuổi thích hợp với Hôn Phối.
Đó là những Nữ Mệnh có năm sinh là 1964 , 1973 .
+ Năm 1964 là năm Giáp Thìn, có Hành Nạp Âm – tức Mệnh – là Phú Đăng Hỏa. Phú Đăng
Hỏa khắc Kim Bạc Kim. Không tốt.
+ Năm 1973 là năm Quý Sửu , có Hành Nạp Âm là Tang Đố Mộc .
Kim Bạc Kim khắc Tang Đố Mộc. Không Tốt.
2/ Xét Thiên Y Tinh.
Thiên Y Tinh là Đệ Tam Cát Tinh, đóng tại Cung Đoài của Mệnh Quái Khôn.
Ta tìm những Nữ Mệnh có Mệnh Quái Đoài và có tuổi thích hợp với Hôn Phối.
Đó là những Nữ Mệnh có năm sinh là 1965 , 1974
+ Năm 1965 là năm Ất Tỵ có Hành Nạp Âm là Phú Đăng Hỏa. Đã nói tr6n : không tốt.
+ Năm 1974 là năm Giáp Dần có Mệnh là Đại Khê Thủy. Kim Bạc Kim sinh trợ cho Đại Khê
Thủy . Trường hợp này không có tương khắc, nhưng lại bị sinh xuất tức Mệnh Nam bị tiêu
hao mất mát. Trong hoàn cảnh cụ thể nào đó thì vẫn có thể phối hôn được.

Kết luận :
Về đường Tình Duyên, Mệnh Nam Nhâm Dần ( 1962 ) có nhiều trắc trở, không được thuận
chèo mát mái.

IV/ Tìm hiểu Câu Tục Ngữ xưa : “ Nhất Gái hơn hai , Nhì Trai hơn một ”.
Từ thực tiễn , Ông Cha ta rút ra kết luận “ Nhất Gái hơn hai , Nhì Trai hơn một “ và khẳng
định đó là những cặp Hôn Nhân đẹp.
Không rõ Ông Cha ta đã dựa theo tiêu chí nào và cũng không giải thích tại sao lại “Nhất” ,
“Nhì”.
Chúng ta hãy tìm hiểu điều đó bằng Kiến Thức của Ngũ Hành Nạp Âm .
Bảng A11.JPG (100.02 KiB) Đã xem 10248 lần

1/ Nhất Gái hơn hai :


Nếu Gái hơn Trai 2 tuổi thì Năm sinh của Nam và Nữ đều cùng là Năm Dương hoặc đều cùng
Năm Âm . Ví dụ : Giáp Tý và Bính Dần hay Ất Sửu và Đinh Mão.
Sách “Tam Mệnh Thông Hội” khi bàn về Mệnh Nam Nữ có nói : 
“Mệnh Nam nên vượng, vượng thì Phúc, suy thì tai hại. Mệnh Nữ nên suy, suy thì Phúc,
vượng thì tai hại, Nhu là gốc là Phúc, cương là hình phạt là tai hại”. Điều đó phù hợp với sự
cương nhu của Âm Dương.Nếu Nữ cương và vượng, Nam nhu và suy, đó gọi là Âm Dương sai
lệch. Ngược lại với quy luật Âm Dương, đương nhiên là có hại ( Trích “Dự đoán theo Tứ
Trụ”,-Thiệu Vĩ Hoa ).
Vậy thì nói chung, Năm Sinh của Nam nên là Năm Dương và Năm Sinh của Nữ nên là Năm
Âm thì thuận lý hơn. Do đó, trong trường hợp này, trước tiên, ta nhận xét rằng, Năm Sinh
của Nam và của Nữ đều cùng Dương hoặc cùng Âm là không thuận lý.
Trên Bảng Lục Thập Hoa Giáp, nếu Năm Sinh của Nữ ở Ô thứ Y thì Năm Sinh của Nam ở ô
thứ Y+2. Suy ra Ngũ Hành Nạp Âm của Can Chi Năm Sinh - Mệnh – của Nam và Nữ khác
nhau, đó là hai Hành Nạp Âm kế tiếp nhau trong Bảng 60 Giáp Tý. Hai Hành này có thể
Tương Sinh hoặc Tương Khắc. Nhìn vào Bảng 11, ta thấy có 15 cặp Tương Sinh và 15 cặp
Tương Khắc.
Ta chỉ xét các cặp Tương Sinh. Tương Sinh lại có Mệnh Nam sinh trợ cho Mệnh Nữ hoặc
Mệnh Nữ sinh cho Mệnh Nam.
Ví dụ :
+ Nam Mệnh sinh trợ cho Nữ Mệnh : Mộc ô 5 – Nam Mệnh - sinh cho Hỏa ô 3 – Nữ Mệnh ;
Mộc ô 6 – Nam Mệnh - sinh cho Hỏa ô 4 – Nữ Mệnh .
+ Mệnh Nữ sinh trợ cho Mệnh Nam : Thổ ô 7- Nữ Mệnh - sinh trợ cho Kim ô 9 – Nam Mệnh ;
Thổ ô 8 – Nữ Mệnh – sinh trợ cho Kim ô 10 – Nam Mệnh.
Trong Hôn Nhân, Mệnh Nam sinh trợ cho Mệnh Nữ hay Mệnh Nữ sinh trợ cho Mệnh Nam đều
là tương sinh, nên đều là Cát Hôn ( theo quan điểm sinh khắc Ngũ Hành ).
Trong 30 cặp Ngũ Hành Nạp Âm ( 30 cặp Mệnh ) chỉ có 15 cặp có khả năng để xem xét,
trong đó có 11 cặp Mệnh Nam sinh trợ cho Mệnh Nữ, có 4 cặp Mệnh Nữ sinh trợ cho Mệnh
Nam.
Nếu lại kết hợp xét thêm theo Mệnh Quái thì số cặp Mệnh được coi là Cát Hôn là rất ít ỏi.
Kết luận về “NhấtGái hơn hai” : 
Theo quan điểm của Ngũ Hành Nạp Âm thì “Nhất Gái hơn hai ” không phải là Nhất , thậm chí
là không Nhì, Không Tam …. .

2/ Nhì Trai hơn một :


Có hai trường hợp xẩy ra : Năm Sinh của Nam là Năm Dương hoặc Năm Sinh của Nam là
Năm Âm .
a/ Xét trường hợp Năm sinh của Nam là Năm Dương :
Trong trường hợp này, Năm Sinh của Nữ phải là Năm Âm và do đó, hai cặp Can Chi của Nam
và Nữ là cùng Ngôi Vị và cùng một Hành Nạp Âm.
Theo Nguyên Lý Nạp Âm, hai cặp Can Chi cùng ngôi vị là cặp Vợ Chồng, cách 8 sinh con. Thế
là Cát Phối.
Nếu tìm hiểu thêm bằng Phương Pháp Lập Mệnh Quái thì ta thấy không hoàn toàn như vậy,
nghĩa là nói chung, không phải là Cát Hôn.
b/ Xét trường hợp Năm Sinh của Nam là Năm Âm :
Nếu Năm Sinh của Nam là Âm thì Năm Sinh của Nữ là Dương. Trường hợp này không thuận
lý với Quy Luật của Tự Nhiên. Mọi điều nghịch lý đều không tốt ( Theo “Tam Mệnh Thông
Hội” ). 
Lúc này thì cặp Can Chi của Năm Sinh của Nam và Nữ không cùng Ngôi Vị, không cùng Hành
Nạp Âm. Chúng có hai Hành Nạp Âm khác nhau và kế tiếp nhau trong Bảng 60 Giáp Tý.
Trường hợp này giống trường hợp “Gái hơn hai”.
Vậy, “Nhì Trai hơn một” cũng chẳng “Nhì” chút nào !
Kết Luận chung :
Quan niệm “Gái hơn hai, Trai hơn một” không phù hợp với Quan Điểm của Thuyết Ngũ Hành
Nạp Âm. ( Có thể rất tối ưu với những tiêu chí khác).

V / Trường hợp Nam Nữ cùng tuổi . 


Trong trường hợp này thì Nam Nữ cùng Năm Sinh, cùng Ngũ Hành Nạp Âm. Trước tiên, ta
nhận xét rằng, Nam Nữ tỵ hòa là Hôn Nhân không thuận lý ( Theo “Tam Mệnh Thông Hội”) .
Ngoài ra ta thử tìm hiểu theo Mệnh Quái xem sao.
Khi Nam Nữ cùng Năm Sinh, thì Mệnh Quái của Nam và Nữ hiện ra theo từng cặp như sau :
Nếu Nam là Khảm thì Nữ là Cấn : Ngũ Quỷ - Hung
………….. Ly ………… Càn : Tuyệt Mệnh - Đại Hung
………….. Cấn ………… Đoài : Diên Niên - Cát Hôn
………….. Đoài ………… Cấn : Diên Niên - Cát Hôn
………….. Càn ………… Ly : Tuyệt Mệnh – Đại Hung.
………….. Khôn ………… Khảm : Tuyệt Mệnh – Đại Hung.
………….. Tốn ………… Khôn : Ngũ Quỷ - Hung Phối
…………… Chấn ………… Chấn : Phục Vị - Trung Cát chi Hôn
…………… Khôn ……….. Tốn : Ngũ Quỷ - Hung Phối.
Vậy, khi Nam Nữ cùng năm sinh, không thể đưa ra một kết luận chung về Cát Hung mà phải
xét từng trường hợp cụ thể. Số trường hợp Hung Phối nhiều hơn Cát Phối.
Vài lời về Hôn Nhân :
1/ “ Xưa nay Nhân định thắng Thiên cũng nhiều ” ( Nguyễn Du ).
Và xưa nay, người ta vẫn luôn nói : Đức năng thắng số.
Những cái mà ta gọi là Định Mệnh thì đó chỉ là cái “ Khà Năng ” chứ không phải là cái “Tất
Yếu”, nghĩa là cái “ĐỊNH” đó có thể xẩy ra hoặc không xẩy ra , hoặc chỉ xẩy ra ở một mức
độ nào đó. Điều này tùy thuộc vào cách hành xử của người có cái “ĐỊNH” đó – Nhân Định.
Các Bậc Tiền Nhân vẫn luôn dạy chúng ta rằng , là Con Người thì phải biết ăn ở Nhân Đức,
Lương Thiện, Thương Người như thể Thương Thân, để vun đắp cho cái ĐỨC ngày càng cao,
cái PHÚC ngày càng dày. Có Phúc Đức thì mọi họa hạn nếu gặp sẽ nhẹ nhàng nhanh chóng
trôi qua.
2/ Không ai mang “ Ngũ Hành Nạp Âm ” đi tìm Người Yêu. Nam Nữ đến với nhau theo
“Tiếng gọi của Trái Tim”. Tình yêu có thể lên Men từ từ theo kiểu “Lửa gần Rơm ” hoặc
“Tiếng Sét Ái Tình” ( Coup de Foudre ) nổ bùng lên ngay sau phút gặp mặt. Khi mà hai Trái
Tim đã cùng nhịp đập, hai Tâm Hồn đã đồng điệu thì “Biển Đông cũng tát cạn”, “Râu Tôm
Ruột Bầu cũng ngon”. Khi đó thì “Ngũ Hành Tương Khắc” và “Du Niên Biến Quái” chẳng là
cái gì cả.
TpHCM, 24/10/2012
LyTranLe
PS:
Bài viết tiếp theo:
Ngũ Hành Nạp Âm là Ngũ Hành có Linh.

You might also like