You are on page 1of 62

Liêm Trinh hóa Lộc thủ Mệnh – Can Giáp

Tinh hệ "Liêm Trinh Thiên Tướng" thủ Mệnh ở Tý hoặc Ngọ, có Liêm Trinh hóa Lộc, đối cung ắt
sẽ là Phá Quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ Khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm phục vụ cho
người khác (phục vụ của Liêm Trinh), nhưng lại thường kiêm nhiệm trọng trách và nắm giữ
quyền hành, ở vai trò điều hành, quản lý cấp cao (cầm Ấn Thiên Tướng, lại do Liêm Trinh hóa
Lộc mà có tài, Phá Quân hóa Quyền là mạnh dạn tiến lên thực hiện, lại biết điều phối tiền bạc có
tổ chức). Đại hạn hoặc lưu niên đến cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến theo hướng tốt
lành, nhưng nếu Thái Dương tại cung Tỵ hóa Kỵ (can Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự Môn ở Hợi
cư Huynh đệ, thì cũng đồng thời chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu. Tinh hệ
"Liêm Trinh Thiên Tướng" mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao tế càng thêm quan
trọng. Không thể không chú ý các sao phối hợp.

Tinh hệ "Liêm Trinh Thất Sát" thủ Mệnh ở Sửu hoặc Mùi, có Liêm Trinh hóa có Đà La đồng độ,
hoặc có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ Khoa
Quyền Lộc, cung Quan là Phá Quân hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Khoa ở cung Tỵ hoặc Hợi, thanh
thế cũng cực hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn "Liêm Trinh Thiên Tướng". Cung Di có
Thiên Phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung Tài có "Tử Vi Tham Lang" chủ về tiêu xài, cho nên
toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức độ tài lộc dồi dào hơn tinh hệ "Liêm Trinh Thiên Tướng". Đà La
thì sinh lần nữa, nhưng lúc này cung Bào là Thiên Lương cư Tý, đối cung với cung Nô là Thái
Dương cư Ngọ hóa Kỵ, quan hệ giao tế so với mệnh "Liêm Trinh Thiên Tướng" thì lại cần phải
chú ý hơn, thường dễ phạm pháp, tranh chấp, cho đến âm mưu...

Liêm Trinh độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc Tồn hội hợp, cung
Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ "Thiên Phủ Vũ Khúc" trong đó Vũ Khúc hóa Khoa (can Giáp), thì
chủ về tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài chính. Nhưng Liêm Trinh đối nhau với
Tham Lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính ham muốn vật chất của Liêm Trinh, vì vậy cũng dễ
thành xem trọng hưởng thụ vật chất. Về sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ
thuật, giải trí, vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt. Tinh hệ "Thái
Dương Thái Âm" thủ cung Nô tại Sửu hoặc Mùi, chiếu cung Bào Vô Chính Diệu , chủ về người
dưới quyền nhiều mà không ổn định.

Tinh hệ "Liêm Trinh Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm Trinh hóa Lộc
đồng độ với Phá Quân hóa Quyền, có Kình Dương đồng cung, hoặc Kình Đà vây chiếu, chủ về
cuộc sống nhiều biến động, cung Quan là tinh hệ "Vũ Khúc Tham Lang" mà Vũ Khúc hóa Khoa,
càng làm mạnh thêm tài vận của "Liêm Trinh Phá Quân", cung Tài là tinh hệ "Tử Vi Thất Sát"
cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Cung Di có Thiên Tướng tại Mão, bị "Cự Môn
Thái Dương" có Thái Dương hóa Kỵ, và Thiên Lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh
hưởng thành Hình Kỵ giáp Ấn, khiến "Liêm Trinh Phá Quân" cũng dễ bị các tình huống trắc trở
ngầm mai phục. Nhân tố trắc trở của cung Mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên Phủ
ở cung Phúc (Tỵ Hợi) hội hợp với Thiên Tướng bị sao Hình - Kị giáp cung, chủ về khó giữ được
sự thận trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành tựu đã đạt được mới cát lợi.

Tinh hệ "Liêm Trinh Thiên Phủ" thủ Mệnh ở Thìn hoặc Tuất, có Liêm Trinh hóa Lộc, Vũ Khúc
hóa Khoa của tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Tướng" ở cung Quan tương hội, đối cung là Thất Sát, Tài
cung là Tử Vi độc tọa. Tính chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc trong chính giới, hay
trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người kiêm văn võ, có thể công và có thể thủ,
còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung Quan thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi. Tinh hệ
này còn có một đặc điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu
khởi sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa năm cuối
cũng tốt hơn nửa năm đầu. Đây là vì "Liêm Trinh Thiên Phủ" ở cung "thiên la địa võng", cho nên
mọi lợi ích đều chủ về từ từ. Khuyết điểm của mệnh bàn này là ở cung Bào, cung Nô và cung
Phối. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì cần phải xem trọng tâm trạng của người phối ngẫu.

Tinh hệ "Liêm Trinh Tham Lang" thủ Mệnh ở Tỵ hoặc Hợi, Liêm Trinh hóa Lộc, cung Quan có
"Vũ Khúc Thất Sát" hóa Khoa, cung Tài là "Tử Vi Phá Quân" hóa Quyền có kèm Đà La hoặc hội
hợp với Kình Đà, chủ về tính chất không giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải
tự lập. Cho nên ở đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên cục. Kết cấu tinh hệ này thích hợp
với các nghề liên quan đến nghệ thuật, hoặc công nghệ, gặp đào hoa cũng có thể thích hợp với
sự nghiệp nghệ thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Có điều cung Tài là "Tử Vi Phá
Quân" đồng độ với Đà La, chủ về kiếm được tiền nhưng có hiện tượng kéo dài và khó tích lũy,
còn chủ về bản thân không muốn thù tạc mà phải tiêu xài quá lớn. Cung Phối là Thiên Phủ, nếu
cung Mệnh hoặc cung Phúc có các sao "đào hoa", cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ vẫn
còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái Dương hóa Kỵ đến cung Nô (cung Nô) chủ về
không đắc lực, mà còn có tranh chấp ngầm.

Thiên Cơ hóa Lộc thủ Mệnh – Can Ất


Thiên Cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự Môn, cung Tài là tinh hệ
"Thiên Đồng Thiên Lương" có Thiên Lương hóa Quyền (can Ất), cung Quan là Thái Âm độc tọa
hóa Kỵ hoặc kèm có Kình Dương (Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm tinh hệ này, vì thành "Cơ
Nguyệt Đồng Lương cách", cho nên bất lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy Thiên Cơ hóa Lộc, nhưng
"Thiên Đồng Thiên Lương" lại không phải tổ hợp sao chủ về giầu có, còn Thiên Lương hóa
quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên Cơ có thể thành tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn
định, thường dễ bị lung lạc dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên
Lương hóa Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà người có
nhóm tinh hệ này thủ Mệnh phải lưu ý.

Thiên Cơ hóa Lộc thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên Lương hóa Quyền, hội
hợp với Cự Môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên Đồng thì đối xung với Thái Âm lạc hãm hóa Kỵ
ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này hoàn toàn nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay
trắng kiếm tiền, mà nguồn tiền tài lại không rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha lãng phí,
chi tiêu không đúng mục đích. Cho nên, tuy Thiên Cơ hóa Lộc, thì vẫn không chủ về tài lộc dồi
dào, mà chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng khá
cao, hoặc làm môi giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên Cơ có thể phát huy.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thái Âm" ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà La cùng bay đến, hoặc bị Kình Đà
hội chiếu, Thiên Cơ hóa Lộc Thái Âm hóa Kỵ, hội hợp với Thiên Lương độc tọa hóa Quyền ở
cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên Đồng độc tọa, có thể bị Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ
với Kình Đà. Nhóm tinh hệ này cũng là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cung Mệnh và cung Tài
đều có khuyết điểm, rất có thể thành người thích dùng thủ đoạn, kế vặt để kiếm tiền, thiếu khí
khái gánh vác trọng trách. Vì vậy về sự nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở
ngại. Đạo "tìm cát tránh hung" là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước mắt, và phải
có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được "nhân hòa", thì mới có thể tự nhiên gặp cơ
duyên tiến thân.

Tinh hệ "Thiên Cơ Cự Môn" ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ Mệnh có Thiên Cơ hóa Lộc, lại có Lộc
Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Mệnh Tài khí rất vượng, cung Tài có Thiên Đồng cư Hợi,
cung Quan Vô Chính Diệu có "Thái Dương Thái Âm" chiếu cung, Thái Âm hóa Kỵ. Kết cấu
tinh hệ Cự Cơ này tài lộc vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp
có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du lịch, môi giới,.v.v... Nếu có thêm Văn tinh, có thể
đảm nhiệm công việc quảng bá. Các sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi Vô Chính
Diệu), dễ thay đổi nghề nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu tư hay
đầu cơ, nếu không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì "Thái Dương Thái Âm" hiếu động, trôi nổi, mà Thái
Âm hóa Kỵ thì thường ít suy tính trước khi đầu tư. Thiên Đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao
Lộc đồng độ, chủ về tay trắng làm nên, nhưng Thiên Lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý
tưởng quá cao mà bị tổn thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến tranh chấp, gặp trở
lực.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thiên Lương" ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên Cơ hóa Lộc và Thiên
Lương hóa Quyền, có Kình Dương hội hợp, hoặc bị Kình Dương Đà La cùng chiếu. Cung Quan
Vô Chính Diệu được "Thái Dương Cự Môn" chiếu, lại có Sát tinh đồng cung. Cung Tài là "Thiên
Đồng Thái Âm" mà Thái Âm hóa Kỵ, còn có Đà La hoặc Kình Dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này,
cung Mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi về công tác kế hoạch, quản lý, giám sát, nhưng
có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng hơi khó thực hiện. Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó
nắm chắc, cũng khó phát huy. Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là
hoặc Kình Dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt, không được quá
tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó tránh gặp sóng gió, trắc trở, nếu kinh
doanh làm ăn thì còn có nguy cơ vỡ nợ. Cung Quan chủ về dễ được người ở phương xa, hay
người ngoại quốc tạm thời ủng hộ (Cự Nhật)
Thiên Cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối cung là Thái Âm hóa Kỵ, cung Tài là
"Thiên Đồng Cự Môn". Cung Quan Vô Chính Diệu có "Thái Dương Thiên Lương" chiếu đến, có
Lộc Tồn tọa thủ. Nhóm tinh hệ này, tài lộc không vượng, rất nên chỉ dùng sở học để kiếm tiền,
tiến hành nghiên cứu học thuật, hoặc tiếp nối tổ nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ
phí tâm lực, hoặc phí lời nói. Thiên Cơ hóa Lộc bị Thái Âm hóa Kỵ gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ
hội nhưng lại bỏ qua mà không biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất, hoặc nhận
lầm cơ hội, vọng động thay đổi công việc nên bị trắc trở. Tinh hệ "Thiên Đồng Cự Môn" thủ cung
Tài, tuy có Thiên Cơ hóa Lộc hội hợp, lại có Lộc Tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao
lương nhiều, mà vẫn cần phải hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị phi phiền
nhiễu cũng kéo đến, khó mà yên thân.

Thiên Đồng hóa Lộc thủ Mệnh – Can Bính


Tinh hệ "Thiên Đồng Thái Âm" ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ Mệnh, khi Thiên Đồng hóa Lộc, hội
với "Thiên Cơ Thiên Lương" ở cung Quan (ở Thìn hoặc Tuất) mà Thiên Cơ hóa Quyền. Cung Tài
Vô Chính Diệu được "Thái Dương Cự Môn" chiếu cung (ở Dần hoặc Thân). Ở xã hội hiên đại,
nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này, nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác
giới xem trọng ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong phú, rất
có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn Xương hóa Khoa ở cung Mệnh hay cung
Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên,
thường phải khởi nghiệp bằng các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên,.v.v...),
hoặc viên chức cao cấp trong tổ chức lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến triển mà không
phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người có Văn Xương hóa Khoa hội hợp cung
Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ hội.

Tinh hệ "Thiên Đồng Cự Môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ Mệnh, khi Thiên Đồng hóa Lộc,
hoặc gặp Lộc Tồn đồng ở cung Quan là Thiên Cơ hóa Quyền (tại Tỵ hoặc Hợi). Cung Tài Vô
Chính Diệu có "Thái Dương Thiên Lương" chiếu cung (ở Mão hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng
chưa chắc là hợp với "Thiên Đồng Cự Môn", chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa,
hoặc "sao lẻ" phụ tá (nhất là Văn Xương hoặc Văn Khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình cảm,
thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới chủ về tài lộc dồi dào,
nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ. Cung Quan là Thiên Cơ "Lộc trùng điệp" thích hợp
với công tác kế hoạch tài vụ, tài chính, kinh tế, vặch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều tâm
lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử không tốt, chủ về dễ bị người
do mình đề bạt đoạt quyền.

Tinh hệ "Thiên Đồng Thiên Lương" ở hai cung Dần hoặc Thân thủ Mệnh, khi Thiên Đồng hóa
Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên Cơ hóa Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là
Thái Âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất), có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà La đồng độ. Tinh hệ có
kết cấu dạng này ưa Kình Dương mà ghét Đà La. Gặp Đà La hội chiếu sẽ dễ thành người thích
tán gẫu, lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa, thì chú trọng sự thú vị và
tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực.
Nếu có Kình Dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn tiền tài cũng
nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái Âm đồng độ với Đà La thì kiếm được
đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba
vất vả. Nếu không có Đà La đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản chất của "Thiên
Đồng Thiên Lương" lợi về phục vụ, cũng chủ về danh tiếng. Nếu có Văn Xương hóa Khoa hội
hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự vinh dự của bản thân.

Thiên Đồng độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung là Thái Âm. Cung
Tài là Cự Môn, có Lộc Tồn cùng hội hợp với cung Mệnh (ở Hợi hoặc Tỵ). Cung Quan là Thiên Cơ
hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp
sáng sủa. Nhưng Thiên Đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về
dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá đáng, nam mệnh thì thích
an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường cũng dễ mất. Cung Tài là Cự Môn có sao Lộc, đối
chiếu với Thái Dương, chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ,
thích hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao tổn tâm lực. Cung
Tử tuy Liêm Trinh hóa Kỵ, nhưng đồng cung với Thiên Tướng, nếu thành cách "Tài Ấm giáp ấn ",
còn chủ về được người dưới quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây
phiền phức.

Thiên Đồng thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà La đồng độ, hoặc bị Kình Đà
hội chiếu. Cung quan là "Thiên Cơ Thái Âm" mà Thiên Cơ hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ
bị Kình Dương hoặc Đà La chiếu xạ. Cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương (ở Tý
hoặc Ngọ), hoặc bị Kình Dương Đà La chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La,
thì dễ lãng phí thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới kiếm được. Khi Thiên Đồng
ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây "kích phát", nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình
Dương; Thái Dương của đối cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà
còn bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng về sau có thành
tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng, hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới
quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không
nên xem trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.

Thiên Đồng thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đồng độ với Lộc Tồn, hoặc có Lộc Tồn
vây chiếu hay hội hợp, thành cách "Lộc trùng điệp", thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà
có sản nghiệp. Cung Tài Vô Chính Diệu ở Sửu được "Thái Dương Thái Âm" ở Mùi chiếu đến, gặp
Lộc Tồn, lợi hơn là Vô Chính Diệu ở Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên Đồng hóa Lộc ở
cung Tỵ thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên Đồng ở cung Tỵ thì "Lộc trùng điệp", tuy có "phụ
ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự nghiệp có nguy cơ (thường do người
dưới quyền xâm phạm). "Thiên Cơ Cự Môn" của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên
Cơ hóa Quyền cũng mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần hao
tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn Xương hóa Khoa hội hợp sẽ
làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung Mệnh gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ
mệnh càng dễ cảm thấy trống rỗng. Gặp "sao không" là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều
cảm giác "trống vắng dưới trăng trước hoa".

Thái Âm hóa Lộc thủ Mệnh – Can Đinh


Tinh hệ "Thiên Đồng Thái Âm"thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm hóa Lộc, Thiên
Đồng hóa Quyền, còn có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, như vậy là "sao Lộc" nặng, thì vấn đề
tình cảm càng thêm nghiêm trọng. Nhưng tinh hệ này thường thường lại tượng trưng cho sự
thông hôn với người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng. Cung Quan có "Thiên Cơ Cự Môn" mà Cự
Môn hóa Kỵ, chủ về giao thiệp với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), vì vậy cũng thích
hợp làm việc cho Cty nước ngoài, lao tâm lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung
Phúc thiên về vất vả, còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến
thành vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề tình cảm ra, thì
còn có điều tiếng thị phi.

Tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái Âm hóa Lộc. Cung
Quan là Thiên Lương đồng độ với Lộc Tồn (ở Tỵ hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thiên Cơ Cự Môn"
nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có Thiên Cơ hóa Khoa còn Cự Môn hóa Kỵ. Nhóm tinh hệ này tài
lộc không vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung Phúc đều không ổn định; hơn nữa
trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền phức, tài khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn,
nên sau khi kiếm được tiền cũng nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt
hơn ở mệnh bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm mà thôi.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Âm hóa Lộc còn Thiên
Cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc Tồn trùng điệp. Cung quan là Thiên Lương (ở
Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên Đồng hóa Quyền (ở Tuất hoặc Thìn). [Chú: phần này sách dịch
nhầm, nên saobienden có chỉnh sửa để phù hợp theo tinh bàn - kiểm???]. Nhóm tinh hệ này, Thái
Âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên Cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường đường chính chính, cung Tài có
Thiên Đồng hóa Quyền càng chủ về nguồn tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu
có. Cung Quan là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách "Lộc trùng điệp" rất thích hợp với giới
công chức ngành bảo hiểm, công chứng,.v.v... nếu làm việc trong chính giới thường hay bị hối lộ,
vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát tài vụ, kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự Môn hãm ở
"thiên la địa võng" nên nội tâm thường không được yên ổn.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình Dương hay Đà La. Cung
Quan là Thiên Lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng độ với Đà La, hoặc bị Kình Đà hội chiếu.
Cung Tài là Thái Dương độc tọa (ở Hợi hoặc Tỵ), đối cung là Cự Môn hóa Kỵ đồng độ với Đà La,
hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái Âm hóa Lộc và Thiên Đồng hóa Quyền đối nhau,
gọi là "Độc tọa tương hội", là kết cấu khá tốt, tuy bôn ba vất vả, không cách nào có thời gian
hưởng thụ trong đời người, nhưng mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên
thường cho rằng mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ
mệnh đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng thích hợp làm những
nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc ở cung Hợi thì nội tâm bình lặng hơn ở
cung Tỵ.

Thái Âm thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại trùng điệp hội Lộc Tồn,
mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với cung Thìn. Cung Quan là "Thiên Đồng Thiên
Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên Cơ hóa Khoa (ở Tý
hoặc Ngọ), hoặc có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng sẽ đồng thời vây chiếu Cự
Môn hóa Kỵ. Ở "tam phương tứ chính" có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn phối trí cân
xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về kiếm được tiền lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ
ứng phó (nhất là Thái Âm ở cung Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự
nghiệp của cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm nghề bán
lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay những nghề có sắc thái quảng
bá. Cung Phúc là Cự Môn hóa Kỵ ở cung Ngọ ắt sẽ có Kình Đà giáp cung, không những không
được yên ổn, dễ chuốc điều tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp lực "quan phi", hôn nhân cũng
thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức độ chỉ giảm nhẹ mà thôi.

Thái Âm thủ Mệnh hóa Lộc ở hai Tỵ hoặc Hợi, đối nhau với Thiên Cơ hóa Khoa, mệnh ở cung Hợi
tốt hơn, ở cung Tỵ thì Thái Âm lạc hãm, chủ về bôn ba vất vả, không ổn định để theo giữ một
nghề. Cung Quan là "Thái Dương Thiên Lương" được Quyền Lộc chiếu (ở Dậu hoặc Mão), có Văn
Xương đồng độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật, nếu không có thể làm viên chức NN
hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo ngành y dược, công tác xã hội,, gặp Văn Khúc thì
thích hợp làm môi giới bảo hiểm. Cung Tài là "Thiên Đồng Cự Môn" một hóa Quyền một hóa Kỵ,
kiếm tiền ắt phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình cảm cũng là
khuyết điểm của tinh hệ này.

Tham Lang hóa Lộc thủ Mệnh – Can Mậu


Tham Lang độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với Tử Vi. Cung Tài là
Phá Quân. Cung Quan là Thất Sát. Trong hai cung Tý Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị "phiếm thủy đào
hoa", vì vậy ở cung Ngọ tốt hơn và là cách "Mộc Hỏa thông minh". Cho nên tuy cùng là Hóa Lộc,
mà ở cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì thường dễ tiêu xài,
hao tổn vì người khác giới. Phá Quân thủ cung Tài, ưa đầu cơ mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập
sự nghiệp, hoặc ưa làm những công việc có tính khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng
giữ tiền không được tốt, đây là khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên Cơ hóa Kỵ ở cung Nô, hội
chiếu cung Bào, vì vậy không nên hợp tác với người khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới
quyền cũng thiếu trợ lực.
Tinh hệ "Vũ Khúc Tham Lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham Lang thủ Mệnh hóa
Lộc, ở cung Sửu còn hội Lộc Tồn tốt hơn cung Mùi. Cung Quan là "Tử Vi Thất Sát" hội hợp với
Lộc Tồn, khí thế bàng bạc. Cung Tài là "Liêm Trinh Phá Quân" ở cung Dậu, thì "Lộc trùng điệp",
nên an Mệnh ở cung Sửu thì "tài khí" ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh hệ này chủ về đời
người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường, nhưng đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao
tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt sẽ dư giả. Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp
lớn mà tài lộc cũng dồi dào. Tinh hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ sót trong việc
giáo dục con cái. Đồng thời trong nội bộ môi trường làm việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm
làm ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp lang, thường xảy ra tệ "có người thì làm việc đoàng hoàng,
không có người thì nghỉ".

Tham Lang thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này Tham Lang hóa Lộc
đều có khuyết điểm, dễ "bạo phát bạo tàn". Cho nên ở đại vận mà gặp nó thì có lợi hơn là gặp ở
cung Mệnh nguyên cục. Ở cung Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng
sáng lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách "Mộc bị Kim khắc chế", thường phải trải qua gian khổ mới
có được tiền của, rồi lại phá tán, thất bại tiếp. Tham làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất
bại, thì vẫn còn cục diện để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá Quân cũng chủ về lên xuống bất
thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất Sát, vì vậy không nên
đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí, vui chơi, hưởng thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu
dùng.

Tinh hệ "Tử Vi Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham Lang hóa Lộc. Cung
Tài là "Vũ Khúc Phá Quân ắt sẽ có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Ở hai cung độ này đã đủ
tượng trưng cho lực "xung kích", sức cạnh tranh rất mạnh, do đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng
sự nghiệp, người này đều không chịu bỏ qua. Cung Quan là "Liêm Trinh Thất Sát", cũng mang ý
vị quyền lực và thủ đoạn phối hợp hỗ tương với đặc tính của "Tử Vi Tham Lang". "Vũ Khúc Phá
Quân"thủ cung Tài, chỉ chủ về đặc trưng dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng.
Nhưng đối với người khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết điểm
này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người hợp tác hay người dưới
quyền xâm phạm.

Tham Lang thủ Mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Thìn ắt sẽ đồng độ với
Đà La, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So sánh hai trường hợp, ở cung Thìn thì lúc trẻ gặp
nhiều hiểm trở, đường đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là
Phá Quân, cung Quan là Thất Sát, chủ về không chuyên giữ một nghề, phần nhiều đều làm nhiều
công việc hay kiêm nhiều chức vụ, hoặc thường đảm nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài
những điều vừa thuật ở trên, thì tinh hệ này là kết cấu Tham Lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng
đối với nữ mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của chồng mà phải
duy trì cuộc hôn nhân.
Tinh hệ "Liêm Trinh Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, mà Tham Lang hóa Lộc, còn
có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là "Tử Vi Phá Quân" không chủ về tích lũy tiền bạc,
cho nên khi hội hợp hai cung độ này, sẽ có bản chất cực kỳ chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là
"Vũ Khúc Thất Sát", tam phương tứ chính có đào hoa trung trùng, rất thích hợp với ngành có tính
giải trí, vui chơi, hưởng thụ. "Vũ Khúc Thất Sát" ở cung Dậu có thể theo nghề ảm thực. Có điều
nếu gặp các sao khoa văn hội hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ
sản,.v.v...

Vũ Khúc hóa Lộc thủ Mệnh – Can Kỷ


Tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ mà Vũ Khúc hóa Lộc, là kết cấu
tốt lành. Hơn nữa còn có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, "Lộc trùng điệp" nên nguồn tiền tài
càng vượng. Cung Tài là Liêm Trinh độc tọa hội hóa Lộc, thì giỏi quản lý tài chính, cũng là sở
trường lợi dụng của cải để kiếm tiền (lấy tiền để kiếp tiền, rất an nhàn, thường thường còn được
nhiều). Ở cung Dần gặp "Lộc trùng điệp" là khá tốt. Cung Quan là "Tử Vi Thiên Tướng", chủ về ưa
hợp tác với người khác, mà bản thân mệnh tạo ở địa vị lãnh đạo, địa vị chủ đạo. Ở cung Tuất gặp
"Lộc trùng điệp" cũng khá tốt (Tóm lại "Vũ Khúc Thiên Phủ" ở cung Ngọ là khá tốt, nhưng ở đây
chỉ nói về tiền bạc của cải). Nhóm tinh hệ này cần phải quan sát kỹ xem Văn Khúc hóa Kỵ ở cung
độ nào, thường thì khuyết điểm cơ bản của mệnh cục là ở đó.

Tinh hệ "Vũ Khúc Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ Khúc hóa Lộc còn
Tham Lang hóa Quyền, nhưng ắt sẽ có Kình Dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Cung
Quan là "Tử Vi Thất Sát" đồng độ với Đà La, hoặc có Kình Đà giao hội. Cung Tài là "Liêm Trinh
Phá Quân" bị Đà La hội chiếu, hoặc Kình Dương hội chiếu. Gặp Đà La thì khá bất lợi, chủ về tuổi
trẻ hưởng thụ sa đà, nếu không sẽ chủ về vất vả mà không thu hoạch được gì. Nhóm tinh hệ này,
ham muốn tiền bạc và sự nghiệp đều nặng, chính vì duyên cớ này mà thường có hiện tượng lộng
quyền, lạm quyền, thích sống sa hoa, ưa lôi kéo trong quan hệ giao tế, nhưng trong tình bạn lại
không được lâu dài và tình bạn không bền vững. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kỵ ở cung Nô
(cung Nô) hay cung Bào, sẽ chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền ngầm gây tổn hại. Đánh giá
về "nhân tình" là then chốt để luận đoán nhóm tinh hệ này.

Tinh hệ "Thiên Tướng Vũ Khúc" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ Khúc hóa Lộc, hơn
nữa ở cung Dần còn hội Lộc Tồn, tài khí không phải yếu. Cung Quan là Tử Vi ở cung Tý hoặc
Ngọ, có khí thế độc lập, được Lộc Tồn đồng độ hoặc hội chiếu, sự nghiệp có thực chất chứ
không khoa trương phù phiếm. Cung Tài là "Liêm Trinh Thiên Phủ, chủ về giỏi quản lý tài chính,
lại sở trường vận dụng tiền bạc để có tiếng tăm. Xem toàn bộ tinh hệ là một kết cấu tốt, chủ về
lúc đầu thì giúp người khác gây dựng sự nghiệp, nhưng không lâu liền tự lập mà trở nên giầu có,
danh lợi có đủ. Nhưng nếu Văn Khúc hóa Kỵ ở cung Mệnh hoặc cung Phúc, phần nhiều sai lầm
là do gánh lụy cho người khác, tuyệt đối không nên đầu cơ, cũng không nên làm người bảo lãnh
tiền bạc cho ai. Văn Khúc hóa Kỵ ở cung Bào chủ về bị bạn bè uy hiếp.
Tinh hệ "Vũ Khúc Thất Sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ Khúc hóa Lộc. Cung
Quan là "Tử Vi Phá Quân" đồng độ với Kình Dương, hoặc có Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là "Liêm
Trinh Tham Lang" mà Tham Lang hóa Quyền, có Đà La đồng độ, hoặc Kình Đà hội chiếu. Toàn
bộ tinh hệ có kết cấu mạnh mẽ, vì Vũ Sát đã có sắc thái quyền lực, lại thêm Tham Lang hóa
Quyền. Nếu cung Mệnh không có Hỏa Linh, thì rất thích hợp theo võ nghiệp. Gặp Xương Khúc thì
có thể là Bác sỹ ngoại khoa hoặc nha khoa, cũng thích hợp với nghề ẩm thực. Nhóm này, tinh hệ
cũng chủ về khéo vận dụng cơ hội, có năng lực quản lý tốt, cũng khéo vận dụng tiền bạc để lôi
kéo sự ủng hộ, nên được nhiều trợ lực.

Vũ Khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Tham Lang hóa Quyền ở đối
cung. Cung Tài là "Liêm Trinh Thiên Tướng" có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Quan là
"Tử Vi Thiên Phủ". Nhóm này, tinh hệ về tài lộc đều vượng, nhưng Vũ Khúc hãm ở "thiên la địa
võng" e rằng sức khai sáng không đủ, dễ ham thích an nhàn. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kỵ
ở cung Phúc đức. Cung Tài là Liêm Tướng, nếu đồng độ với Lộc Tồn thì keo kiệt ích kỷ. Nếu Lộc
Tồn vây chiếu thì chủ về rộng rãi hào sảng. Nếu gặp tinh hệ này ở lưu niên hoặc đại hạn, mà ở
nguyên cục Liêm Trinh hóa Kỵ, hoặc Vũ Khúc hóa Kỵ, thì lại không cát tường, chủ về vì tiền bạc
mà thất bại lớn.

Tinh hệ "Vũ Khúc Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Lộc, hội với "Tử
Vi Tham Lang" ở cung Quan mà Tham Lang hóa Quyền và hội với "Liêm Trinh Thất Sát" ở cung
Tài. Khi luận đoán cần lưu ý tình hình 3 tinh hệ này hội hợp với Kình Dương, Đà La. Tinh hệ này
có sức khai sáng rất mạnh, chỉ khi đồng độ với Đà La ở cung Tỵ mới chủ về sức khỏe không tốt,
gây ảnh hưởng đến sức khai sáng của nó. Tử Tham ở cung Quan có Tham Lang hóa Quyền, chủ
về cực kỳ tích cực, có thể phối hợp tốt với cung Mệnh. Nhưng cung Tài lại khá yếu, thích tích lũy
tiền bạc mà lại thiếu lực, dẫn đến không thể phối hợp với cung Mệnh và cung Quan. Đây là
khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nguyên nhân không thể tích lũy tiền của, là vì thường có
nguyên nhân liên quan đến sức khỏe, cũng có liên quan đến hôn nhân.

Thái Dương hóa Lộc thủ Mệnh – Can Canh


Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Cự Môn. Cung Tài
mượn "Thiên Cơ Thái Âm" để hội hợp với cung Mệnh, có Lộc Tồn đồng độ. Đây là "phú cục",
nhưng "phú" của nó là do sao Lộc trùng điệp ở cung Tài, chứ không phải do Thái Dương hóa
thành sao Lộc ở cung Mệnh, nhưng vẫn nhờ vào danh dự và địa vị của bản thân mệnh tạo mà
có. "Thiên Cơ Thái Âm" không đủ sức giữ tiền bạc, hội sao Lộc lại chủ về có kiếm được tiền một
cách thuận lợi, vì vậy dễ có cảm giác thỏa mãn, nhưng cảm giác thỏa mãn của mệnh tạo cũng là
vì "quý" (có danh tiếng) chứ không phải vì "phú" (giầu có). Thái Dương ở cung Ngọ tốt hơn ở
cung Tý, vì ở cung Ngọ thì Thái Dương và Thái Âm đều miếu vượng (??? kiểm), còn ở cung Tý thì
Thái Dương và Thái Âm đều lạc hãm (??? kiểm). Cho nên Thái Dương ở cung Tý đắc tài lộc hơi ít
mà quá trình kiếm tiền cũng khá hao tổn tinh thần. Nhưng Thái Dương hóa Lộc ở cung Ngọ, ánh
sáng chói lọi quá thịnh, dễ bị người khác giới để ý làm tăng thêm rắc rối khó xử về tình cảm, hơn
nữa còn vì chi tiêu, gánh vác quá đáng mà dễ biến thành trống rỗng.

Tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Dương hóa Lộc.
Cung Quan là Thiên Lương độc tọa. Cung Tài mượn "Thiên Cơ Cự Môn" nhập cung, ắt sẽ có Kình
Dương đồng độ. Thái Dương hóa Lộc không bằng Thái Âm hóa Lộc, chỉ chủ về "danh" lớn hơn
"lợi". Cung Tài là Cự Cơ có thêm Kình Dương, kiếm tiền ắt sẽ hao tổn tâm lực, hoặc chủ về phải
nói năng vất vả. Thái Dương hóa Lộc ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu. Thái Dương hóa Lộc ở
cung Mùi có thể giải được tính "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương, khiến cho tình hình cạnh
tranh trong sự nghiệp khá thuận lợi, làm tăng thu nhập.

Tinh hệ "Thái Dương Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Dương hóa Lộc, có
Lộc Tồn đồng độ hoặc đối nhau. Cung Quan là "Thiên Đồng Thái Âm" mà Thiên Đồng hóa Kỵ.
Cung Tài mượn "Thiên Cơ Thiên Lương" nhập cung. Do Thái Dương hóa Lộc còn hội Lộc Tồn,
cho nên chủ về "danh" trước rồi mới có "lợi" sau, danh khí càng lớn thì thu nhập cành nhiều.
Nhưng, toàn bộ các tinh hệ đều là kết cấu lao tâm, phải vất vả và phải nói năng rất nhiều, mà
kinh doanh làm ăn vẫn gặp nhiều tranh chấp. Cung Quan là Đồng Âm mà Thiên Đồng hóa Kỵ,
chủ về vui vẻ mà lại không vui vẻ, có phúc mà không hưởng được, điều này cũng tương ứng với
các sao ở cung Mệnh. Thái Dương hóa Lộc ở cung Dần ưu hơn ở cung Thân, vì Thái Dương ở nơi
vượng.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái Dương hóa Lộc
ắt sẽ gặp Kình Dương, hoặc Kình Dương Đà La hội chiếu. Cung Tài là Thái Âm độc tọa. Cung
Quan mượn "Thiên Đồng Cự Môn" nhập cung. Thái Âm so với "Thái Dương Thiên Lương" cùng là
hóa Lộc mà khác nhau rất xa, chủ yếu là do Thái Âm ở cung Tài, Thái Âm lạc hãm thì tài khó mà
tụ, cho nên "Thái Dương Thiên Lương" ở cung Dậu không bằng ở cung Mão. Nhưng toàn bộ các
tinh hệ đều có sắc thái phục vụ, mà còn có danh lớn, vì vậy rất nên dựa vào "phúc ấm" để nâng
cao tên tuổi. Bao gồm danh hiệu học vị, được nhiều người biết tiếng ở nơi làm việc, cho đến việc
được nhiều người có tiếng tăm nâng đỡ, nếu không sẽ dễ chuốc đố kị. Nếu thành cách "Dương
Lương Xương Khúc" thì rất thích hợp nghiên cứu học thuật, cuộc đời sẽ có nguồn tiền tài vào
không ngừng, như nước nhỏ mà chảy dài.

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Tài là Cự Môn, có thể
hội Lộc Tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" nhập
cung mà Thiên Đồng hóa Kỵ, có Lộc Tồn đồng độ. Toàn bộ các tinh hệ của kết cấu này rất
vượng tài lộc, nhưng Thái Dương ở "thiên la địa võng", tuy đời người tiến triển ổn định, nhưng vẫn
khó tránh lao tâm, lao lực. Cự Môn ở cung Tài có "sao Lộc trùng điệp", tuy chủ về "phú" và được
người ngoại quốc (hay người ở phương xa) giúp đỡ hay ủng hộ, nhưng vẫn khó tránh phải lao
tâm và rất vất vả về nói năng. Điều này còn hợp với tính chất của Thiên Đồng hóa Kỵ ở cung
Quan. So sánh hai cung vị, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, cung Thìn thì Thái Dương nhập
miếu, danh lợi đều ưu.
Thái Dương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tỵ hoặc Hợi. Cung Tài là Thiên Lương. Cung
Quan là Thái Âm. Thái Dương hóa Lộc ở cung Tỵ chủ về hưởng thụ, Hóa Lộc ở cung Hợi thì lạc
hãm, cuộc sống đơn sơ. Nói về danh khí, ở cung Tỵ cũng hơn ở cung Hợi. Có điều Thái Dương
hóa Lộc thì bất kể thế nào, cũng phải nhờ vào danh tiếng mà kiếm tiền. Thiên Lương ở cung Tài
thì rất nên dựa vào phát minh sáng tạo mà thu lợi, hoặc nhờ thương hiệu, tiếng tăm cũng có thể
trở nên giầu có. Nếu không, nên làm những công việc như kiểm toán, giám sát, bảo hiểm.

Cự Môn hóa Lộc thủ Mệnh – Can Tân


Cự Môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Thái Dương hóa
Quyền. Cung Tài mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" nhập cung, ắt sẽ kèm Đà La. Nếu có Văn Khúc
hóa Khoa đồng độ hay hội hợp, là cách "Thạch trung ẩn ngọc", tài lộc sẽ theo tiếng tăm địa vị mà
đến, nhưng lúc trẻ ắt phải chịu qua gian khổ trước. Lúc này người Cự Môn hóa Lộc thủ Mệnh nên
giấu bớt tài năng, không quá lộ sự sắc xảo, thì mới hợp với tính chất của "Thạch trung ẩn ngọc
cách". Nếu không, địa vị càng cao thì thế sẽ càng nguy, càng dễ bị người ta bài xích, chèn ép.
Cung Tài là Đồng Lương mượn để nhập cung, cũng chủ về tiền của theo danh dự và địa vị mà
đến. Nếu cố ý kiếm tiền thì lại khó mà được.

Tinh hệ "Thiên Đồng Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự Môn hóa Lộc ở cung
Sửu lại có Lộc Tồn trùng điệp. Cung Quan là Thiên Cơ. Cung Tài mượn "Thái Dương Thiên
Lương" nhập cung, mà Thái Dương hóa Quyền, ắt sẽ kèm Lộc Tồn. Nếu Văn Xương hóa Khoa hội
hợp với cung Mệnh hoặc cung Tài, thì cung Tài sẽ hình thành Cách: "Dương Lương Xương Lộc"
cát tường. Cách này ở bản tinh hệ, có lợi về làm việc trong chính giới. Nếu không thành Cách, do
Thái Dương và Cự Môn được cát hóa, nên cũng có thể được người ngoại quốc (hay người ở
phương xa) xem trọng. Vì vậy rất thích hợp làm đại lý thương phẩm nước ngoài, hoặc làm việc
cho công ty nước ngoài. Nếu không chỉ nên làm những nghề mang tính phục vụ, hoặc chuyên
nghiệp. Người "Thiên Đồng Cự Môn" thủ Mệnh ở cung Mùi thì khó tránh hiếu động, trôi nổi,
thường thay đổi hoàn cảnh công tác.

Tinh hệ "Thái Dương Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, có Thái Dương hóa Quyền,
còn Cự Môn hóa Lộc ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội hợp với Kình Đà. Cung Tài mượn "Thiên
Cơ Thiên Lương". Cung Quan mượn "Thiên Đồng Thái Âm". Trong các cung chỉ có cung Mệnh là
mạnh, các cung khác đều yếu, tuy không giảm trợ lực, nhưng cũng bất lợi về hôn nhân, ở cung
Thân càng nặng. Tiền bạc do danh dự và địa vị mà đến, vì vậy muốn tích lũy cũng không dễ. Bạn
đọc có thể tham khảo thêm đoạn "Cự Môn hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ" đã thuật ở trước.
Riêng về nữ mệnh, gặp "Thái Dương Cự Môn" hóa Quyền và hóa Lộc ở cung Mệnh, thường chủ
về kết hôn với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), và đối với nữ mệnh đều được người
ngoại quốc, hay người ở phương xa xem trọng.

Tinh hệ "Thiên Cơ Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Lộc ắt sẽ hội
hợp với Lộc Tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Có điều cung Tài là Thiên Đồng lại quá thích an
nhàn hưởng lạc. Cung Quan mượn "Thái Dương Thái Âm" lại quá hiếu động, trôi nổi, nên cũng
ảnh hưởng đến tài lộc của "Thiên Cơ Cự Môn", khó tránh phải lao lực, hoặc vất vả và nói năng,
cũng thích hợp với những nghề cần miệng lưỡi, tài ăn nói. Nếu cung Tài ở cung Tỵ thì được "Lộc
trùng điệp cách" tài khí khá vượng, chủ về tay trắng làm nên trở thành giầu có. Cách "Lộc trùng
điệp" ở cung Tài ưu hơn "Lộc trùng điệp" ở cung Mệnh. Đây là đặc điểm của cách cục này.

Cự Môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, hội Kình Đà, hoặc có Kình Dương
cùng bay đến, Thiên Đồng ở đối cung. Cung Tài là Thái Dương hóa Quyền. Cung Quan mượn
"Thiên Cơ Thái Âm". Cự Môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, vì vậy tuy hóa Lộc cũng
không chủ về tài lộc dồi dào. Nếu có ý kiếm tiền thì sẽ gặp nhiều gian khổ. Nếu có thể nâng cao
học lực, nhờ địa vị xã hội hoặc tiếng tăm mà kiếm tiền thì lại thích hợp. Cung Tài là Thái Dương
hóa Quyền, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc lợi lộc theo tiếng tăm, danh dự mà đến, thích
hợp làm những nghề chuyên môn như giáo chức, luật sư,.v.v... cũng thích hợp với công việc bán
hàng, chào hàng, hoặc phục vụ.

Cự Môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, Thái Dương ở đối cung hóa Quyền.
Cung Tài là Thiên Cơ gặp Sát tinh. Cung Quan là Thiên Đồng được Lộc Tồn. Cự Môn khó tương
hội với Lộc và Quyền, ở cung Hợi ưu hơn ở cung Tỵ, vì mệnh Cự Môn ở cung Hợi thì Thái Dương ở
đối cung miếu vượng hóa Quyền ở cung Thiên Di, cổ nhân cho rằng đây là: "danh chấn tha bang"
(nổi tiếng ở nước ngoài) rất có lợi về đi du học. Thông thường tinh hệ này chủ về biến động thay
đổi, hoặc liên tiếp thay đổi công việc, phải bôn ba ở đất khách, hoặc bản thân công việc đã có
sắc thái lưu động, sau mới đắc lợi, nhưng về nghề thì vẫn nên có tính chuyên nghiệp, tính hưởng
thụ (như quản lý nhà hàng khách sạn, hàng không) là tốt nhất.

Thiên Lương hóa Lộc thủ Mệnh – Can Nhâm


Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái Dương có Kình
Dương đồng độ, hoặc hội hợp với Kình Đà, nhóm tinh hệ này đã có sắc thái rắc rối thị phi. Ở cung
Tý tốt hơn ở cung Ngọ, đây là do tình trạng miếu hãm của Thái Dương. Cung Sự nghiệp (cung
Quan) là Thiên Đồng. Cung Tài là "Thiên Cơ Thái Âm", đều chẳng phải là các sao có sắc thái tích
cực. Vì vậy nếu kinh doanh làm ăn, ắt chủ về gặp nhiều rắc rối, không bằng những nghề nghiệp
mang tính chuyên môn để kiếm tiền. Nhưng khiếm khuyết đáng tiếc lớn nhất của mệnh tạo là ở
cung Nô (Nô). "Vũ Khúc Phá Quân" hóa Kỵ, bản thân dễ ăn của đút lót, ắt sẽ bị người dưới quyền
chỉ trích. Mệnh tạo khéo léo xử sự như thế nào, điều này sẽ ảnh hưởng cực lớn đến vận mệnh.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên Cơ. Cung
Sự nghiệp (Quan) là Thiên Cơ. Cung Tài là Thái Âm. Nhóm tinh hệ này ưa Thiên Lương ở cung
Sửu, vì Thái Dương ở cung Tỵ, Thái Âm ở cung Dậu, chúng đều miếu vượng. Thái Dương chủ về
"quý" khi ở cung Quan, Thái Âm chủ về "phú" khi ở cung Tài, bản chất là rất thích hợp. Cho nên
địa vị và tài bạch của mệnh tạo đều không lo thiếu, khi Thiên Lương thủ Mệnh ở cung Mùi thì tệ
hơn nhiều. Nhưng hễ Thiên Lương hóa Lộc, mỗi lần có khoảng thời gian rắc rối khó sử xảy ra,
cần phải lưu ý đến Vũ Khúc hóa Kỵ ở nguyên cục bị cát hóa ở đại hạn hay lưu niên xung khởi, đây
là thời kỳ có bất hòa, tranh chấp về tiền bạc. Vũ Khúc hóa Kỵ ở cung Điền, doanh nhân dễ vì xoay
chuyển tiền bạc khó khăn mà đình chỉ công việc kinh doanh.

Tinh hệ "Thiên Đồng Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân mà Thiên Lương hóa
Lộc, hội Kình Dương hoặc hội Đà La. Cung Quan là Thiên Cơ. Cung Tài là Thái Âm độc tọa.
Nhóm tinh hệ này thiếu tính tích cực, vốn thuộc loại kết cấu an nhàn, yên Tỵnh. Có điều Thiên
Lương hóa Lộc gây ra biến đổi toàn cục, phần nhiều những tình huống rắc rối khó xử đều liên
quan đến tiền bạc. Cung Nô là "Tử Vi Phá Quân" mà Tử Vi hóa Quyền, lại hội "Vũ Khúc Thất Sát"
mà Vũ Khúc hóa Kỵ, nếu có Sát tinh hội hợp, thường thường là gặp tình cảnh "đầy tớ phản chủ",
người dưới quyền là người tâm phúc do bản thân mệnh tạo chọn lựa đề bạt lại biến thành đại
họa. Nếu cách kiếm tiền không chính đáng sẽ dễ bị thuộc cấp thừa cơ phản chủ.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên Lương hóa
Lộc. Cung Quan mượn "Thiên Đồng Cự Môn" nhập cung. Cung Tài là Thái Âm độc tọa. Nhóm
tinh hệ này cũng không thích hợp làm ăn kinh doanh, chủ về tiền bạc phải dựa vào địa vị hoặc tri
thức mới có. Nhưng Thiên Lương hóa Lộc thì vẫn không tránh được chuyện bị thuộc cấp gây lụy.
Đại hạn hoặc lưu niên xấu nhất cũng thường ở cung hạn Vũ Khúc hóa Kỵ, chủ về người dưới
quyền gây lụy, hoặc chủ về sức khỏe không tốt, cần phải xem xét các cung liên quan mà định,
nhất là phải lưu ý đến cách "Linh Xương Đà Vũ".

Tinh hệ "Thiên Cơ Thiên Lương thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Lương hóa Lộc ắt
sẽ gặp Sát tinh. Cung Quan mượn "Thái Dương Cự Môn". Cung Tài là "Thiên Đồng Thái Âm" ắt
cũng sẽ gặp Sát tinh. Nhóm sao này tuy không phải là chính cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương"
nhưng cũng thích hợp làm công chức. Có điều trong 12 cung, hai cung Thìn và Tuất rất kị Thiên
Lương hóa Lộc, ngoài việc mượn lực của "Thái Dương Cự Môn" nhập cung Quan, thì không còn
đạo "tìm cát tránh hung" nào khác. Cho nên Cơ Lương ưa ở cung Thìn hơn, vì Cự Nhật sẽ ở cung
Dần, nếu cung chứa Cự Nhật gặp các sao Sát - Hình trùng trùng, thì thường vì tiền bạc mà xảy ra
kiện cáo, tố tụng.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, có Thiên Đồng ở đối cung, lại
hội Lộc Tồn trùng điệp. Cung Tài là "Thái Dương Thái Âm". Cung Quan phải mượn "Thiên Cơ Cự
Môn" nhập cung để hội hợp với cung Mệnh. Vấn đề lớn nhất của nhóm tinh hệ này là sức khỏe vì
Vũ Khúc hóa Kỵ ở cung Tật ách. Bản thân tinh hệ cũng thiếu tính tích cực, chỉ thích hợp với cảnh
làm hưởng đồng lương để có tiền. Có điều vì mệnh tạo thường dễ cảm thấy thỏa mãn, thường
ba phải dễ chấp nhận, nên khó xảy ra tình huống rắc rối khó xử. Ở hai cung này lại thường chủ về
đất đai nhà cửa của ông bà hay cha mẹ để lại bị phá sạch, trường hợp Thiên Lương thủ Mệnh ở
cung Tỵ nặng hơn, nhưng rời xa quê hương lại tốt.
Phá Quân hóa Lộc thủ Mệnh – Can Quý
Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ hội hợp Lộc Tồn, thành cách
"Lộc trùng điệp". Cung Quan là Tham Lang hóa Kỵ. Cung Tài là Thất Sát. Tinh hệ toàn cục vì Phá
Quân có cách "Lộc trùng điệp" nên tính chất biến thành tốt lành. Chỉ cần lưu ý "Tử Vi Thiên Phủ"
đồng độ ở cung Phúc, nếu là "bách quan triều củng" thì quá thiên nặng về "thủ thành", không
thích ứng với tính chất của Phá Quân "Lộc trùng điệp". Trái lại, sẽ dễ có những phản ứng sai lầm,
tiến thoái không hợp thời cơ. Nếu "Tử Vi Thiên Phủ" là cách "tại dã cô quân", thì Phá Quân "Lộc
trùng điệp" lại có biểu hiện sống cô lập, cũng không nên. Vì vậy mấu chốt để luận đoán tinh hệ
này là cung Phúc nên trung hòa.

Tinh hệ "Tử Vi Phá Quân" thủ Mệnh, mà Phá Quân hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, hội "Liêm
Trinh Tham Lang" ở cung Quan có Tham Lang hóa Kỵ. Cung Tài là "Vũ Khúc Thất Sát". Do bản
chất của cung Quan, nên nhóm tinh hệ này chủ về khuếch trương sự nghiệp một cách quá đáng,
đặc biệt là làm ăn trong lĩnh vực kinh doanh tiêu dùng, thường lập nhiều chi nhánh, làm tăng
thêm tình huống rắc rối. Ngoài ra lại vì quá mải mê kiếm tiền, "thấy lợi quên nghĩa" khiến dễ xảy
ra sự thay đổi trong quan hệ giao tế, thiếu trợ lực, đời người khó tránh quá vất vả. Cung Tài là
"Vũ Khúc Thất Sát" cũng chủ về tính toán cẩn thận, đồng thời lại có hào khí dám mạo hiểm, cần
phải xem xét kỹ vận hạn để định nên làm hay nên dừng.

Phá Quân đọc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là "Vũ Khúc Thiên
Tướng". Cung Tài là Thất Sát. Cung Quan là Tham Lang hóa Kỵ, ắt sẽ có Lộc Tồn hội hợp. Lực
phát đông của nhóm tinh hệ này là ở Tham Lang hóa Kỵ, hội Lộc Tồn và Phá Quân hóa Lộc, vì
vậy thường hay sửa đổi mục tiêu tiến thủ mà không biết dừng lại. Thất Sát thủ cung Tài ở nhóm
tinh hệ này có đặc tính giỏi tính toán, khéo dùng tiền để tạo giao tình, lôi kéo người ủng hộ, do
đó tính chất của Phá Quân hóa Lộc sẽ phát lộ không xót chút nào. Cung Tật là "Thái Dương
Thiên Lương", gặp Sát tinh là chỗ tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này. Vì vậy cần phải
lưu ý vấn đề sức khỏe.

Tinh hệ "Liêm Trinh Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Phá Quân hóa Lộc hội
Kình Dương hoặc Đà La. Tinh hệ này cũng là tổ hợp sao có tham vọng khá lớn, cho nên sự
nghiệp của đương số cũng là cục diện lớn, phần nhiều có liên quan đến lĩnh vực giải trí, vui chơi,
nghệ thuật hoặc tiêu dùng, hưởng thụ. Do tính chất của cung Tài, nên khi vận dụng tiên bạc,
thường có tình huống như "Hàn Tín điểm binh", càng nhiều càng tốt, cần phải lưu ý đến đại hạn
hoặc lưu niên để "tìm cách tránh hung".

Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là "Tử Vi Thiên
Tướng". Cung Tài là Thất Sát gặp sao Lộc. Cung Quan là Tham Lang hóa Kỵ. Phá Quân ở "thiên
la địa võng" thì lực biến động thay đổi không nhiều, nên cuộc đời tương đối ổn định, nhưng
thường có biểu hiện gánh vác công việc quá mức, hoặc kiêm nhiệm nhiều chức vụ, đúng với hiện
tượng "người giỏi thì làm nhiều". Cung Tài là Thất Sát gặp sao Lộc (ở cung Tý còn là "Lộc trùng
điệp") thu nhập tất phải nhiều. Khuyết điểm của tinh hệ này là sau trung niên, phần nhiều đều
thích hợp với người khác để làm ăn, nhưng thường lại là kết quả xấu.

Tinh hệ "Vũ Khúc Phá Quân" thủ Mệnh, mà Phá Quân hóa Lộc ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ắt sẽ gặp
Sát tinh. Cung Tài là "Liêm Trinh Thất Sát" cũng gặp Sát tinh. Cung Quan là "Tử Vi Tham Lang"
mà Tham Lang hóa Kỵ, lại cũng gặp Sát tinh. Ba cung chủ yếu đều gặp Sát tinh, trở thành điều
tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này, do đó cuộc đời gặp nhiều trắc trở, biến động thay
đổi không như lý tưởng, mà còn thiếu trợ lực, khiến vất vả thậm tệ. Cung Tài quá không ổn định,
vốn liếng tiền bạc không đủ để chống đỡ sự nghiệp, do đó tăng thêm áp lực về mặt tinh thần.
Hơn nữa sau trung niên còn xảy ra nhiều tình huống rắc rối trắc trở, khiến cho đời người có nhiều
điều đáng tiếc. Nhưng Phá Quân hóa Lộc, dù sự nghiệp trắc trở, vẫn có thể duy trì thu nhập, đây
là ưu điểm của tinh hệ này.

Phá Quân hóa Quyền thủ Mệnh – Can Giáp


Phá Quân thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là "Liêm Trinh Thiên Tướng"
mà Liêm Trinh hóa Lộc. Cung Quan là Tham Lang độc tọa. Cung Tài là Thất Sát cũng độc tọa có
Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, ở tam phương tứ chính đều không gặp Kình Dương và Đà La.
Tinh hệ có kết cấu dạng này khá tốt lành, có lợi về khai triển sự nghiệp, tài lộc cũng theo đó mà
tăng lên, nhưng không được có Địa không Địa kiếp Hỏa tinh Linh tinh hội chiếu Phá Quân. Tinh
hệ kết cấu dạng này ở tinh bàn nguyên cục có thể nói là cách cục đẹp, dù đại hạn hoặc lưu niên
gặp kết cấu này, cũng chủ về biến động thay đổi theo hướng cát tường. Nhưng nhóm tinh hệ
này, cổ nhân lại cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, chủ yếu là về phương diện hôn nhân.
Cung Phối là Vũ Khúc hóa Khoa hội "Tử Vi Thiên Phủ", lại hội "Liêm Trinh Thiên Tướng" mà Liêm
Trinh hóa Lộc (Phá Quân ở cung Tý thì Vũ Khúc còn hội Lộc Tồn), kết cấu dạng này thường dễ
xảy ra tình huống thay lòng đổi dạ, bất mãn chồng, do đó ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Tinh hệ "Tử Vi Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Phá Quân hóa Quyền (đồng độ
với Đà La, hoặc hội Kình Đà). Cung Quan là "Liêm Trinh Tham Lang" có Liêm Trinh hóa Lộc.
Cung Tài là "Vũ Khúc Thất Sát" có Vũ Khúc hóa Khoa. Ở tam phương đều gặp Sát tinh. Tuy gặp
Kình Đà nhưng ở cung Mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này, vẫn có thể xem là thượng cách. Nếu tam
phương là Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa tụ hội, phối trí quân bình, thì Kình Đà chỉ chủ về tình
huống căng thẳng mà thôi. Đời người không thể thập toàn thập mỹ, không thể việc gì cũng thuận
lợi, vì vậy không thể xem đây là khuyết điểm trọng đại. Nhóm tinh hệ này có biểu hiện chủ động,
còn có sở trường giao tế, có thể lợi dụng quan hệ giao du để trợ giúp cho công việc làm ăn, cũng
thường thích đầu tư vốn lớn vào sự nghiệp mới, đầu óc linh hoạt và tinh tế sắc sảo. Chỉ có một
khuyết điểm lớn, đó là người dưới quyền không đắc lực, nên khó tránh khỏi phải vất vả, mà còn
bất lợi nếu phát triển ở tha hương.

Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây
chiếu, đối cung là "Vũ Khúc Thiên Tướng" mà Vũ Khúc hóa Khoa. Cung Tài là Thất Sát. Cung
Quan là Tham Lang. Phá Quân có sao Lộc được hóa Quyền, cho nên lực "xung kích" cực kỳ
mạnh, thanh thế cũng lớn, có thể nói là đời người nhiều biến đổi, nhiều đột phá, thường không
giữ một nghề. Cung Di là "Vũ Khúc Thiên Tướng", mà Vũ Khúc hóa Khoa, còn có Lộc Tồn hội
hợp, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội cách", do đó rất có lợi đối với người Phá Quân hóa Quyền
thủ Mệnh, có thể rời khỏi quê hương để phát triển, hoặc có khả năng chủ động sửa đổi hoàn
cảnh khách quan, thường thường có kết quả tốt hơn ban đầu. Chỉ có một điều tệ hại là Thất Sát
hội sao Lộc ở cung Tài, tài lộc vượng mà không giỏi quản lý, thêm vào đó cung Bào và cung Nô
đều không ổn định, về phương diện quản lý tài chính lại không thể ủy thác cho người khác, nên
dễ có hiện tượng tài chính vượt khỏi tầm kiểm soát.

Tinh hệ "Liêm Trinh Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Liêm Trinh hóa Lộc đồng
độ với Phá Quân hóa Quyền. Xin tham khảo ở đoạn "Liêm Trinh hóa Lộc".

Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Quan là Tham Lang
độc tọa, có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đồng thời ắt cũng có Liêm Trinh hóa Lộc vây chiếu.
Cung Tài là Thất Sát độc tọa (chỉ có Thất Sát tọa cung Ngọ mới hội Lộc Tồn). Cung Quan có sao
Lộc nặng, cung Tài có sao Lộc nhẹ, cho nên ý nghĩa của Phá Quân hóa Quyền có thể biến thành
nắm quyền tài chính, mà không thể tích lũy tiền của. Nếu kinh doanh làm ăn, thì thường giỏi
"công" mà không giỏi "thủ", thậm chí vượt quá tầm kiểm soát. Cần phải tích lũy cho đến lúc có
tài lực kha khá, mới phát động đột phá một lần, như vậy sẽ tốt hơn là cứ hay thay đổi lặt vặt. Đây
là đạo "tìm cát tránh hung" cải thiện vận mệnh đời người. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ
có kết cấu kiểu này, cần phải tham khảo thêm vận hạn sau để tính toán phương cách hành
động. Tinh hệ này sở trường về ra quyết sách, cho nên làm việc trong lĩnh vực tài chính kinh tế là
tốt nhất. Cung Di có Lộc Quyền Khoa tụ hội, cho nên cũng có lợi về chuyển đi xa. Chỉ có một
khuyết điểm là không giỏi xử lý theo chế độ công ty, nên tâm chí thường có cảm giác bị rối loạn.

Tinh hệ "Vũ Khúc Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Khoa còn Phá
Quân hóa Quyền. Cung Quan là "Tử Vi Tham Lang" ắt sẽ có Kình Đà hội chiếu hoặc Kình Dương
đồng độ. Cung Tài là "Liêm Trinh Thất Sát" mà Liêm Trinh hóa Lộc ắt cũng có Kình Đà hội chiếu,
hoặc Đà La đồng độ. Nhóm tinh hệ này, người đời Thanh có thuyết: "Vũ Khúc Phá Quân Hóa
Khoa Hóa Quyền, nhậm chức về quân nhu", do đó có thể thấy sắc thái đặc biệt của nó. Giỏi quản
lý tài chính, giỏi kiếm tiền, là hai đặc điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nếu kinh doanh làm ăn, thì
khó tránh vì tham vọng quá lớn mà làm tăng vất vả khổ lụy, nhưng lại dễ khiến cho người khác
phải giật mình vì thành tích của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này đồng thời cũng có một nguy cơ, đó
là do làm việc quá vất vả nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe. Thích hợp với những ngành nghề kinh
doanh phục vụ, có tính chất tiêu dùng. Nếu nhậm chức làm công hưởng lương, thì nên đề phòng
có quan hệ không tốt đối với thượng cấp. Vì Thái Dương hóa Kỵ ở cung Phụ mẫu, cũng dễ xảy ra
tình huống soi bói, bới móc. "Vũ Khúc Phá Quân" ở cung Hợi thì càng nặng.
Thiên Lương hóa Quyền thủ Mệnh – Can Ất
Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái Dương, hội
"Thiên Cơ Thái Âm" mà Thiên Cơ hóa Lộc còn Thái Âm hóa Kỵ, lại hội Thiên Đồng độc tọa; hai
nhóm sao này ắt sẽ gặp Kình Dương Đà La. Nếu nguyên cục gặp kết cấu dạng này, có thể nhờ
nghiệp dư để kiếm tiền, hoặc đương số nên làm những nghề có tính "cô khắc và hình kị" (như
khoa dược, khoa y, trật đả, tư pháp,.v.v... ), đồng thời tài lộc của người này cũng sẽ có ý vị hao
tổn tinh thần, hơn nữa dù thừa kế sự nghiệp của bậc trưởng bối, ắt cũng sẽ trải qua sự biến động
thay đổi triệt để, biến đổi thành cục mới hoàn toàn, giống như tay trắng sáng lập sự nghiệp. Thời
cổ đại không ưa nữ mệnh gặp kết cấu dạng này, bởi vì dễ vì áp lực của hoàn cảnh khách quan
mà thành trụy lạc. Nếu ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tổ hợp tinh hệ này thì ý nghĩa sẽ khác, gặp
Cát tinh là tượng trưng cho cạnh tranh trong sự nghiệp, gặp các Sát tinh tụ tập thì có thể vướng
vào kiện tụng, cũng có thể bị người ta gây trở ngại về phương diện nguồn tiền bạc, khiến phải
hao tổn tinh thần để ứng phó, rốt cuộc cũng có thể hóa giải phiền phức. Trong các tình huống
thông thường, Thiên Lương hóa Quyền ở cung Tý sẽ ưu hơn ở cung Ngọ.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì Thiên
Lương có thể hội Lộc Tồn), đối cung là Thiên Cơ đồng thời cũng hóa Lộc, hội hợp với Thái Dương
độc tọa và Thái Âm hóa Kỵ độc tọa. Tính chất của nhóm tinh hệ này bất lợi về "tài bạch", về cơ
bản có thể định nghĩa là "danh lớn hơn lợi". Bởi vì Thái Âm hóa Kỵ ở cung Tài, nhẹ nhất thì "tài
bạch" cũng khó mà tích lũy được. Nhưng hai sao Thiên Cơ và Thiên Lương hóa thành Lộc và
Quyền, nên không ảnh hưởng đến thành tựu và địa vị của mệnh tạo. Trong tình hình gặp Cát tinh
và Sát tinh lẫn lộn, thường lại chủ về tính chất đặc thù như sau: phải có liên quan đến tình hình
rối ren về tài chính. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp thực tế, người này có địa vị trong
nghề nghiệp, nhưng chỉ thu nhập bình thường, về sau phải bán hạ giá để tuyên bố phá sản. Ở lưu
niên hay đại hạn mà gặp mà gặp nhóm tinh hệ này, không tuyệt đối chủ về tiền của. Nếu Sát tinh
nặng, thường cũng bất lợi về sức khỏe. Tính chất cơ bản bất lợi về "tài bạch" là do nhìn quá cao,
hoặc tự tin quá đáng, vì vậy mà bị dẫn dụ đầu tư rồi thất bại, về sức khỏe là do quá lo nghĩ về sự
nghiệp và tiền tài mà mắc bệnh liên quan đến hệ thần kinh.

Tinh hệ "Thiên Đồng Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Lương hóa
Quyền. Cung Quan là Thiên Cơ ắt cũng hóa Lộc. Cung Tài là Thái Âm đồng thời cũng hóa Kỵ. Ba
nhóm tinh hệ này tất phải gặp Kình Dương và Đà La. Tinh hệ "Thiên Đồng Thiên Lương" vốn là
những sao thương hay "tâm trạng hóa" cực nặng. Sau khi Thiên Lương hóa Quyền thì tâm trạng
có thể ổn định hơn, nhưng lại dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm, khiến ảnh hưởng đến sự
thành tựu trong sự nghiệp. Nhưng phần nhiều đương số lại thích thú trong những tình huống rắc
rối khó xử về tình cảm này, và quy về triết lý coi cuộc đời là hư ảo. Nếu chúng gặp những sao
hiếu động, trôi nổi, như các sao Thiên hư, Thiên không, Thiên mã, Hỏa tinh, thì sẽ chủ về lãng
đãng giang hồ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp các tổ hợp sao này, thì sự nghiệp và tiền bạc đều
không ổn định.
Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Lộc Tồn đồng độ vây
chiếu. Thiên Lương hóa Quyền thì sao hội hợp là Thái Âm ắt sẽ đồng thời hóa Kỵ (Hóa Kỵ ở cung
Hợi thì tốt), hai sao hội hợp khác là mượn "Thiên Đồng Cự Môn" nhập cung. Nếu thành cách
"Dương Lương Xương Khúc" thì lợi về thi cử và cạnh tranh, đồng thời cũng thích hợp tạo dựng
tiếng tăm hoặc thương hiệu. Nhưng nếu gặp các sao Sát - Hình, thì nhóm tinh hệ này sẽ ngầm
mang lại những tình huống rắc rối khó xử. Ví dụ như vốn đang có một kế hoạch có lợi, nhưng vì
nguyên nhân nào đó mà quyết định hủy bỏ, hủy bỏ rồi vẫn chưa biết là có tổn thất, một thời gian
khá lâu sau mới biết đó là thất sách. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có kết cấu
kiểu này, thì tính chất đã thuật ở trên càng rõ nét. Nếu các Sát tinh - Hình tinh nặng, lại gặp thêm
Đại hao, Âm sát ở niên hạn thì gặp kiện tụng, phạm pháp. Thiên Lương hóa Quyền chỉ chủ về rốt
cuộc cũng hóa giải được tai nạn.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Lương hóa Quyền thì
đồng thời Thiên Cơ ắt cũng hóa Lộc. Xin tham khảo đoạn "Thiên Cơ hóa Lộc" đã thuật ở trên.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối cung là Thiên Đồng, cung
tam hợp mượn "Thiên Cơ Cự Môn" mà Thiên Cơ hóa Lộc gặp Lộc Tồn, hai sao hội hợp khác là
"Thái Dương Thái Âm" mà Thái Âm hóa Kỵ. Thiên Lương hóa Quyền ở cung độ này, tuy có năng
lực tiêu giải tai nạn, nhưng đồng thời cũng làm tăng tai nạn trong cuộc đời. Nhất là Mệnh an tại
cung Tỵ thì tính chất hung hiểm càng lớn. Thiên Lương hóa Quyền bất quá chỉ khiến lúc xảy ra
hoạn nạn, thì mệnh tạo sẽ biết cách hóa giải mà thôi. Đối với nữ mệnh thì phần nhiều gặp rắc rối
về tình cảm, còn có sắc thái độc đoán, vì vậy các tình huống rắc rối khó xử là do bản thân mệnh
tạo gây ra. Thiên Lương hóa Quyền ở cung Tỵ, cũng làm mạnh thêm sắc thái thần bí của công
việc.

Thiên Cơ hóa Quyền thủ Mệnh – Can Bính


Thiên Cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Tài là "Thiên Đồng Thiên
Lương" mà Thiên Đồng ắt cũng hóa Lộc. Hội hợp cung Quan là Thái Âm độc tọa, đối cung với
Thiên Cơ là Cự Môn cũng độc tọa, tất sẽ hội Kình Dương và Đà La, hoặc đồng độ với Kình
Dương. Thiên Cơ hóa Quyền trong nhóm tinh hệ này có tính chất khá tốt lành, có thể làm mạnh
thêm ý vị "quyền bính và giầu có", nhất là lúc Thiên Cơ thủ Mệnh ở cung Ngọ, quyền càng cao thì
lộc càng trọng, thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Nhưng Thiên Cơ hóa Quyền đồng thời làm
tăng tính trôi nổi, không thiết thực của Thiên Cơ, chủ về người có thể trốn tránh trách nhiệm một
cách dễ dàng, giỏi chi phối người khác, hoặc mượn lực của người khác mà thành việc. Ở đại hạn
hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có tính chất như đã thuật ở trên, thông thường chỉ
chủ về có biến động theo chiều hướng tốt đẹp.

Thiên Cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (Thiên Cơ ở cung Sửu còn
đồng thời hội Lộc Tồn), có Thiên Lương ở đối cung. Cung Quan có Cự Môn độc tọa. Cung Tài có
Thiên Đồng cũng độc tọa hóa Lộc hội hợp cung Mệnh. Nhóm tinh hệ này chủ về dễ xảy ra biến
động thay đổi trong cuộc đời, thường sau khi xảy ra biến động thay đổi, cục diện sẽ thay đổi
hoàn toàn, không như dự liệu ban đầu. Cho nên cần phải xem xét từng đại hạn một cách tỉ mỉ,
mới có thể luận đoán tốt xấu, cát hung. Thông thường, Thiên Cơ hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc
Mùi có tính chất bôn ba vất vả, khổ lụy, nhưng vất vả khổ lụy chỉ là vì mục tiêu tạm thời của đời
người mà thôi.

Tinh hệ "Thái Âm Thiên Cơ" thủ Mệnh, mà Thiên Cơ hóa Quyền ở hai cung Dần hoặc Thân. Cung
Quan có Thiên Lương. Cung Tài có Thiên Đồng hóa Lộc. "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của
nguyên cục vốn không đủ lực tiến thủ, lúc Thiên Cơ hóa Quyền và Thiên Đồng hóa Lộc tương hội,
sẽ cải thiện tính chất này, không những làm mạnh thêm lực tiến thủ, đồng thời còn làm mạnh
thêm năng lực vạch kế sách và hiệu suất của công việc. Khi có Văn Xương hóa Khoa đến hội, sẽ
tạo thành tính chất khá tốt cho "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của tinh hệ Thiên Cơ hóa Quyền,
có thể tay trắng thành sự nghiệp, tuy vẫn không thoát khỏi tính chất phải làm việc cho người
khác, cũng không nên tự kinh doanh làm ăn, nhưng vẫn thuộc cách cục rất phú quý.. Nếu đại
hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về tiến thủ trong sự nghiệp.

Tinh hệ "Thiên Cơ Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội hợp với Thiên Đồng cư Tài
và mượn "Thái Dương Thái Âm" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên Cơ hóa Quyền thì ắt Thiên
Đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Nếu Thiên Cơ ở cung Dậu hội Thiên Đồng thì có Lộc Tồn đồng độ,
hoặc có cách "Lộc trùng điệp". Nhưng bất kể Thiên Cơ hóa quyền thuộc loại "Quyền Lộc" trùng
điệp, hay "Cơ Cự đồng lâm", thông thường đều thiếu lực tiến thủ, cho nên Thiên Cơ Hóa Quyền
cũng chỉ có thể phát huy mưu trí và quyền biến, tính cơ động, làm tăng hiệu suất hoạt động của
nó. Muốn luận đoán đánh giá cách cục của nhóm tinh hệ này, cần phải đồng thời xem xét Thiên
Lương của cung Phúc mà định. Nếu Thiên Lương hội hợp với các sao không tốt, thì đời người
thiếu mục tiêu. Hơn nữa còn phải xem xét cung có Thái Dương đồng độ. Nếu đó là cung ưu thì
có thể vinh thân, nếu không tuy chủ về dư giả, thì cũng khá trôi nổi và không thiết thực.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thiên Lương" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, tương hội "Thiên
Đồng Thái Âm" thủ cung Tài, và mượn "Cự Môn Thái Dương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên
Cơ hóa Quyền thì Thiên Đồng ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Thiên Cơ cũng dễ hội hợp với Sát tinh. Nhóm
sao có kết cấu kiểu này thích Thiên Cơ hóa Quyền, thường có thể nhờ các quyết định chính xác
mà giảm được bớt áp lực của những biến động thay đổi trong cuộc đời, đồng thời còn làm tăng
năng lực vạch kế sách và năng lực lãnh đạo của bản thân mệnh tạo. Nếu có Văn Xương hóa
Khoa đồng thời đến hội, thì đây lại là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có tính chất tốt nhất. Ban
đầu vốn có bản chất phú quý không lâu bền, đến đây thì coi như đã được giải quyết. Bản chất
"phú quý không lâu bền" phần nhiều nguyên nhân vì có những biến động thay đổi không thực sự
cần thiết. Nhưng lúc Thiên Cơ hóa Quyền mà còn thành "Lộc Quyền Khoa hội", thì những biến
động thay đổi không cần thiết sẽ bị triệt tiêu, mà chỉ có những biến động thay đổi với biên độ lớn
dẫn đến thành công.
Thiên Cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối nhau với Thái Dương, tương
hội "Thiên Đồng Cự Môn" thủ cung Tài và mượn "Thái Dương Thiên Lương" nhập cung Quan để
hội hợp. Thiên Cơ hóa Quyền ắt sẽ có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Tài là Thiên Đồng
sẽ đồng thời hóa Lộc. Những nhóm sao này, do bản thân Thiên Cơ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi là hai
cung thiếu lực tiến thủ, cho nên tuy Quyền Lộc giao nhau, cũng không thể tích cực tiến thủ, bất
quá đời người chỉ khá ổn định, đồng thời có địa vị mà thôi. Hơn nữa khi đạt tới một địa vị nào đó,
thì mệnh tạo có thể chìm đắm trong thành tựu, nếu có Hỏa Linh Không Kiếp đồng độ với Thiên
Cơ, gặp hai sao Hỏa Linh có thể phát triển thành lộng quyền, gặp hai sao Không Kiếp thì dễ xảy
ra trắc trở một cách vô cớ. Nhưng đại hạn và lưu niên mà gặp nhóm sao này thì không có tính
chất như đã thuật ở trên, vẫn chủ về biến động thay đổi theo hướng cát lợi.

Thiên Đồng hóa Quyền thủ Mệnh – Can Đinh


Tinh hệ "Thiên Đồng Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên Đồng hóa Quyền thì
Thái Âm đồng thời hóa Lộc. Xin tham khảo ở đoạn "Thái Âm hóa Lộc".

Tinh hệ "Thiên Đồng Cự Môn" đồng độ thủ Mệnh ở cung Mùi (hoặc Sửu), mà Thiên Đồng hóa
Quyền thì Cự Môn sẽ đồng thời hóa Lộc. Cung Quan hội Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa. Cung Tài
mượn "Thái Dương Thiên Lương" nhập cung để hội hợp, đồng thời có Kình Đà hội hợp, hoặc
đồng cung với Kình Dương. Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là Thái Âm hóa Lộc ở cung
Phối. Thái Âm hóa Lộc ở cung Hợi là cát, còn cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, cho
nên tuy chủ về có ngoại tình, nhưng về phương diện hôn nhân lại có khuynh hướng lấy được vợ
đẹp, được vợ trợ lực. Nữ mệnh thì chủ về chồng có sự nghiệp tốt, nhưng cũng dễ có tình nhân
bên ngoài. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về dễ xảy ra tình huống ngầm
có rắc rối về tình cảm. Thiên Đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thiên Đồng Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Đồng hóa
Quyền (ở cung Dần còn đồng độ Lộc Tồn), ắt sẽ đồng thời hội Thái Âm độc tọa hóa Lộc ở cung
Tài, và hội Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa ở cung Quan, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội", thông
thường đều là cách cục tốt lành. Nhưng nhóm tinh hệ này lại hoàn toàn có khuynh hướng làm
mạnh thêm đặc tính của Thiên Lương. Cho nên thông thường đều chủ về nhiệt tâm đối với việc
công ích, hoặc thích giúp đỡ người khác mà không ngại vất vả, đồng thời bản thân cũng có sinh
hoạt hưởng thụ lành mạnh. Khuyết điểm của tinh hệ này là Cự Môn hóa Kỵ ở cung Phối, nên
thường xảy ra tranh cãi ồn ào không càn thiết, có thể dẫn đến có tình cảm với người bên ngoài,
nhưng không vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này thì
không mang ý nghĩa ngoại tình và vợ chồng tranh cãi ồn ào như gặp ở nguyên cục. Mà chủ về
sáng lập sự nghiệp và có công trạng, chí ít cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành.

Thiên Đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Kình Dương hoặc Đà La, có Thái
Dương ở đối cung hóa Lộc, có Thiên Cơ hóa Khoa và Cự Môn hóa Kỵ hội hợp. Đây là cách tứ hóa
"Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, chủ về làm những nghề mang tính phục vụ, cần đến tài ăn nói
để kiếm tiền, đây là phương hướng phát triển tốt nhất. Thiên Đồng hóa Quyền ở cung Mệnh
không chủ về phát đột ngột, chỉ chủ về sự nghiệp phát triển vững chắc, thông thường cuộc sống
cũng nhàn hạ. Ở thời hiện đại, tinh hệ này cũng thích hợp với nghề bán lẻ. Thông thường "Cơ
Nguyệt Đồng Lương" không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, nhưng gặp tinh hệ kết cấu kiểu này
thì cũng có thể suy tính đến việc kinh doanh bán lẻ. Có điều không nên đầu cơ, không nên hợp
tác với người khác.

Thiên Đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Cự Môn hóa Kỵ ở đối cung "kích
phát", hội hợp Thiên Lương và "Thái Âm Thiên Cơ" hóa Lộc hóa Khoa. Thiên Đồng ở cung Tuất
rất ưa gặp Lộc Tồn bay đến cung Ngọ, gọi là "phản bối", chủ về "qua cơn mưa trời lại sáng". Dù
Thiên Đồng ở cung Thìn cũng chủ về phát vượt lên. Vì vậy, trong các tình huống thông thường,
có thể nói Thiên Đồng rất ưa cung hạn Hóa Quyền. Đặc biệt cần phải chú ý cung Phúc đức, Thái
Dương độc tọa tương hội Thiên Lương, chủ về thích hợp nghiên cứu học thuật, ý nghĩa sâu hơn
nữa là, thích hợp với những công việc đòi hỏi lao tâm nhiều hơn lao lực. Nhưng ở đại hạn hoặc
lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có dạng kết cấu này, thì không có những tính chất như đã thuật ở
trên. Còn rất ngại Cự Môn hóa Kỵ, mang lại quấy nhiễu, gây khó khăn, thường chủ về gặp những
tình huống rắc rối khó xử về tình cảm.

Thiên Đồng độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, gặp Kình Đà hoặc đồng độ với
Đà La, Thiên Lương độc tọa ở đối cung. Mượn "Thái Dương Thái Âm" mà Thái Âm hóa Lộc để
hội hợp, và hai sao hội hợp khác là "Thiên Cơ Cự Môn" hóa Khoa hóa Kỵ. Đây cũng thành cách
"Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, nhưng do vị trí hội hợp có khác nhau nên tính chất cũng khác
nhau. Nếu so sánh thì đây là kết cấu bất lợi về hôn nhân, "Thiên Cơ Cự Môn" ở cung Phối, mà Cự
Môn hóa Kỵ làm mạnh thêm ý vị "phá sạch". Nói về sự nghiệp thì vẫn có thể luận đoán là tốt
lành, nhưng muốn trong sự nghiệp không bị đố kị, thị phi, oán trách, thì nên trọn những ngành
nghề cần tài ăn nói để kiếm tiền, sẽ có hiệu quả với đạo "tìm cát tránh hung". Ưa đi đường tắt,
vốn là biểu hiện rất cụ thể của nhóm tinh hệ này, đây cũng là nhân tố dẫn đến oán trách thị phi.

Thái Âm hóa Quyền thủ Mênh – Can Mậu


Tinh hệ "Thiên Đồng Thái Âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái Âm hóa
Quyền hội với "Thiên Cơ Thiên Lương" cư Quan mà Thiên Cơ hóa Kỵ, và mượn "Thái Dương Cự
Môn" nhập cung Tài để hội hợp có Thái Dương hóa Khoa. Cung Mệnh gặp Kình Dương Đà La,
hoặc đồng độ với Kình Dương. Nhóm tinh hệ này, Thái Âm hóa Quyền có Thái Dương hóa Khoa
hội chiếu, thông thường đều có biểu hiện tốt lành. Cung Quan Thiên Cơ hóa Kỵ, chủ về sự nghiệp
có nhiều biến động thay đổi, dù ở cùng một nơi làm việc cũng chủ về liên tiếp bị điều động sang
nhiều cương vị công tác khác nhau. Hơn nữa trong nhiều tình huống, mệnh tạo sẽ không chuyên
một nghề, cũng chính vì bị thay đổi quá nhiều lần, nên dù có khéo thay đổi thì thu nhập thực tế
cũng không nhiều. Chỉ trong tình hình có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp có tác động tích cực
thì sự nghiệp mới hơi ổn định, thu nhập cũng khá hơn, những vẫn thuộc tính chất "danh lớn hơn
lợi". Ở lưu niên hay đại hạn gặp nhóm tinh hệ này, thường thường chuyển biến thành vận trình có
tính sáng tạo. Có lúc còn tốt hơn so với gặp nhóm tinh hệ này ở nguyên cục.

Tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Âm hóa
Quyền còn Thái Dương hóa Khoa, tương hội Thiên Lương độc tọa cư Quan, và mượn "Thiên Cơ
Cự Môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà Thiên Cơ hóa Kỵ. Trường hợp ở cung Sửu thì "Thái
Dương Thái Âm" có thể gặp Lộc Tồn. Nhật Nguyệt đồng độ với đã có ý nghĩa "chợt âm chợt
dương", có ý vị mâu thuẫn, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực. Thái Âm hóa Quyền làm tăng thu
hoạch, Thái Dương hóa Khoa làm tăng sự phát tán, hai tính chất này dễ gây ra xung đột mâu
thuẫn về tâm trạng. Do cung Quan là Thiên Lương, vì vậy cũng dễ xuất hiện biến động thay đổi
và bị quấy nhiễu, gây khó khăn về phương diện sự nghiệp. Cung Tài là Thiên Cơ hóa Kỵ đồng độ
với Cự Môn, chủ về lao tâm tổn thần cực độ, cho dù ở đại hạn hay lưu niên cũng thường có hiện
tượng đồng dạng.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thái Âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Cơ hóa Kỵ,
Thái Âm hóa Quyền, gặp Đà La, các sao hội hợp là Thiên Lương độc tọa cư Quan và Thiên Đồng
độc tọa cư Tài. Do hai sao Hóa của Cơ Âm có tính chất xung đột nhau, Thái Âm hóa Quyền chủ
về ổn định, Thiên Cơ hóa Kỵ lại chủ về biến thiên, do vậy thường diễn hóa thành bất ổn trong
công việc bình thường, thích đi đường tắc để tìm sự thay đổi, nhất là dễ theo đuổi hư danh, làm
ảnh hưởng đến sự thành tựu của bản thân. Tinh hệ này còn bất lợi về tình cảm, nhất là nữ mệnh,
tuy giỏi "chế ngự" chồng, nhưng tình cảm vợ chồng lại rất ngăn cách. Có điều, người ngoài lại
vẫn cứ tưởng hai vợ chồng rất ân ái, tính chất này càng nặng nếu "Thiên Cơ Thái Âm" ở cung
Thân. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, thường thường là mất cơ hội thay đổi.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở Dậu thì Thái Âm có thể hội
Lộc Tồn ở cung Tỵ), Thiên Đồng ở đối cung, có Thái Dương hóa Khoa cư Tài và Thiên Lương độc
tọa cư Quan. Thái Dương và Thái Âm ở riêng hai cung, sự xung đột ít hơn, do đó tính chất không
ổn định cũng ít hơn. Nhưng lại dễ biến thành an phận trong hiện trạng, kế hoạch của bản thân
không thông suốt, nên ảnh hưởng đến sự thành tựu. Muốn luận đoán thực tế mệnh cách là cao
hay thấp, cần phải xem xét kỹ các đại hạn mà định, từ đó có thể nắm được "tiên cơ" để tiến hành
phép "tìm cát tránh hung". Thông thường tinh hệ này bất lợi về tình cảm và hôn nhân, thường có
khuynh hướng tái hôn. Người vợ nguyên phối dễ bị tình trạng tính cách không hợp nhau. Kết hôn
muộn cũng là phép "tìm cát tránh hung" nên tính đến. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này,
nên nắm chắc cơ hội phát triển.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thái Dương hóa Khoa ở đối
cung, gặp Kình Đà, hoặc có Đà La hội chiếu, hội hợp với "Thiên Đồng Thiên Lương" cư Quan và
Thiên Cơ hóa Kỵ cư Tài. Thái Âm ở hai cung độ này là rơi vào "thiên la địa võng", còn có bản chất
không điều hòa với Thái Dương, gây ra ý vị xung đột, hơi giống tình trạng hai sao này đồng cung
ở Sửu Mùi, chỉ khác nhau là không xung đột trực tiếp. Vì vậy người Thái Âm hóa Quyền ở hai
cung Sửu hoặc Mùi có thể bỗng nhiên lập ra một kế hoạch, rồi cũng bỗng nhiên hủy bỏ kế hoạch
đó. Nhưng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì lại hay trì hoãn, kéo dài, không thực hiện ngay kế
hoạch, mà cũng không hủy bỏ kế hoạch. Trì hoãn ở đây còn mang hàm nghĩa "đầu voi đuôi
chuột". Thêm vào đó cung Tài là Thiên Cơ hóa Kỵ, chủ về có được đồng tiền thì rất hao tâm tổn
lực, khác với Thái Âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi. "Thiên Đồng Thiên Lương" ở cung
Quan chủ về phải rất vất vả về ăn nói, thuyết phục, giải trình. Đây là đặc điểm của Thái Âm hóa
Quyền ở "Thiên la Địa võng". Trong vận hạn mà gặp tinh hệ này, thì không có bản chất như đã
thuật ở trên, cần phải xét kỹ các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, hội hợp thực tế để
định cát - hung.

Thái Âm hóa Quyền thủ Mệnh, độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Lộc Tồn và đối nhau
với Thiên Cơ hóa Kỵ. Mượn "Thiên Đồng Cự Môn" nhập cung Tài để hội hợp, cùng hội hợp "Thái
Dương Thiên Lương" ở cung Quan mà Thái Dương hóa Khoa. Trong hai cung, Thái Âm ở cung
Hợi tốt hơn nhiều so với ở cung Tỵ. Có điều bất kể là cung Tỵ hay cung Hợi, đều là cách "Lộc gặp
Thái Âm", chủ về gặp nhiều rắc rối về tình cảm, nhưng giỏi quản lý tài chính. Sau khi sự nghiệp
ổn định thì tình cảm và sự nghiệp lại đều không ổn định, nhưng nguồn tiền tài lại cực kỳ thịnh
vượng. Sự nghiệp không ổn định ở đây cũng chưa hẳn là khuyết điểm, bởi vì khi Thái Âm hóa
Quyền thì chủ động tìm sự thay đổi, thường có thể phát triển tốt hơn. Ở đại hạn hay lưu niên
cũng có ý vị thay đổi theo hướng tốt.

Tham Lang hóa Quyền thủ Mệnh – Can Kỷ


Tham Lang thủ Mệnh hóa quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Phá Quân và Thất Sát hội hợp, đối
cung là Tử Vi độc tọa, Tham Lang còn được đồng độ với Lộc Tồn hoặc được Lộc Tồn chiếu xạ.
Tham Lang hóa Quyền ở cung Tý, thì ham muốn dục tình nặng hơn ham muốn vật chất, ở cung
Ngọ thì ham muốn vật chất nặng hơn ham muốn dục tình. Do hóa Quyền mà còn gặp Lộc Tồn,
nên làm mạnh thêm tính chất theo đuổi dục vọng, vì vậy chỉ thích hợp làm ăn kinh doanh một
cách độc lập, không nên hợp tác với người khác, càng không nên chủ về làm việc cho người
khác. Tham Lang hóa Quyền rất kị đồng độ với Văn Khúc hóa Kỵ, tuy xử lý rất ổn thỏa mà kết
quả lại mất công vô ích, hao tổn tinh thần và tiền tài một cách uổng phí, mục tiêu theo đuổi
không được như ý nguyện. Nếu cung Phúc đức hoặc cung Phối gặp các sao đào hoa, đồng thời
còn gặp các Sát tinh, Hình tinh, Địa không, Địa kiếp, thì sẽ nhuyễn hóa thành cuộc đời bị lầm lẫn
vì tình, tiền bạc cũng vì vậy mà phá tán.

Tham Lang thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ có Vũ Khúc hóa Lộc đồng độ,
xin tham khảo ở đoạn "Vũ Khúc hóa Lộc".

Tham Lang độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với Liêm Trinh, hội hợp với
Thất Sát độc tọa cư Quan và Phá Quân độc tọa cư Tài. Tham Lang ở cung Dần còn được hội Lộc
Tồn. Đặc điểm của nhóm tinh hệ này là cung Phối có sao Lộc quá nặng, "Vũ Khúc Thiên Phủ" mà
Vũ Khúc hóa Lộc lại đồng thời còn gặp Lộc Tồn, nên cuộc đời thường được biểu trưng ở người
phối ngẫu. Nam mệnh Tham Lang hóa Quyền tuy có sự nghiệp của riêng mình, nhưng ý vị "vợ
đoạt quyền chồng" quá nặng. Lúc cung Thê đồng thời gặp sao Văn, tuy có khuynh hướng được
tiền bạc của vợ, nhưng vẫn khó tránh bị vợ lấn át. Nữ mệnh Tham Lang hóa Quyền chủ về dễ bị
người giầu đã có vợ theo đuổi, thường vì vậy mà vận mệnh cuộc đời thay đổi.

Tinh hệ "Tử Vi Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tham Lang hóa Quyền, hội
"Vũ Khúc Phá Quân" cư Tài mà Vũ Khúc hóa Lộc, và hội "Liêm Trinh Thất Sát" cư Quan, lại gặp
Kình Dương Đà La, hoặc đồng độ với Kình Dương. Đây là nhóm tinh hệ có ham muốn vật chất rất
mạnh mẽ. Do cung Tài là "Vũ Khúc Phá Quân" mà Vũ Khúc hóa Lộc, nên tài khí không yếu,
nhưng thường có biểu hiện lãng phí và thích trang điểm bề ngoài, phấn son lòe loẹt, áo quân
bảnh bao, mà nội tâm lại "trống rỗng". Tinh hệ Tử Tham đồng độ mà Tham Lang hóa Quyền, còn
là biểu trưng của tính thích dùng thủ đoạn, không cần làm việc trong chính giới, dù hoạt động
trong lĩnh vực thương nghiệp cũng có khuynh hướng này. Nếu có Văn Khúc hóa Kỵ đồng độ
hoặc vậy chiếu, thì vì nguyên nhân lộng quyền thủ đoạn, nên bản thân phải chịu cảnh thất bại.

Tham Lang độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Vũ Khúc hóa
Lộc, hội Thất Sát độc tọa cư Quan, và hội Phá Quân độc tọa cư Tài. Do sức mạnh của "Quyền
Lộc tượng hội", khiến cho Tham Lang ở "thiên la địa võng" có thể phá được cảnh khốn khó, đột
nhiên có biểu hiện vượt bậc. Có thêm Hỏa tinh hoặc Linh tinh đồng độ, thì càng chủ về phát lên
một cách nhanh chóng. Cũng chính vì vậy, mệnh tạo cần phải lưu ý đến vận thế nào thì có thể
sụp đổ, để tìm cách "tìm cát tránh hung". Mỗi một vận hạn, cần phải lưu ý đến cát - hung của
cung Phúc đức. Cung Phúc đức của nguyên cục là "Liêm Trinh Thiên Tướng" đối nhau với Phá
Quân, về kết cấu tinh hệ là đã có thiếu xót. Nếu cung Phúc đức của đại hạn hoặc lưu niên có các
Sát tinh, Kị tinh, Hình tinh quấy nhiễu, gây khó khăn, thì đây là điềm dẫn đến suy sụp một cách
nhanh chóng, mà sự cố suy sụp thì nguyên nhân thường do tình cảm gây ra.

Tinh hệ "Liên trinh Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, mà Tham Lang hóa Quyền,
đồng thời hội "Vũ Khúc Thất Sát" mà Vũ Khúc hóa Lộc ở cung Quan, và hội "Tử Vi Phá Quân" ở
cung Tài bạch. Nhóm tinh hệ này có tính chất biến hóa thay đổi cực kỳ lớn, do có Kình Dương Đà
La hội hợp, hoặc có Đà La đồng cung. Nếu gặp thêm Địa không Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao,
Hóa Kỵ, sẽ dễ vì tham ô mà dẫn đến tai họa lao ngục. Nếu gặp các sao Văn và các sao đào hoa,
là biểu trưng cho cho nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tạo mẫu thiết kế, thì Tham Lang hóa Quyền có
thể làm tăng mức độ mỹ quan. Đây chỉ cử ra những ví dụ có tính cực đoan, ở đại hạn hoặc lưu
niên mà gặp tinh hệ có kết cấu theo dạng này, sẽ chủ về đột nhiên xuất hiện cơ hội chuyển biến
theo hướng tốt. Nhưng nếu có Văn Khúc hóa Kỵ cùng đồng độ với cung Mệnh của đại hạn hoặc
lưu niên, thì nên đề phòng bị lừa, cũng chủ về vì sắc mà chuốc họa.

Vũ Khúc hóa Quyền thủ Mệnh – Can Canh


Tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ Khúc hóa Quyền
còn Thiên Phủ hóa Khoa, ở cung Tý còn có Lộc Tồn đồng cung, tam phương hội cung có Liêm
Trinh độc tọa cư Tài, "Tử Vi Thiên Tướng" cư Quan, đối cung là Thất Sát độc tọa.
Vũ Khúc ở Tý hoặc Ngọ, đây là hai cung độ khá đẹp khi Vũ Khúc hóa Quyền, biểu trưng cho tài
khí rất vượng, có năng lực khiếm tiền, mà bản thân còn có thể mượn tiền để vận dụng. Khuyết
điểm của nó là Thiên Đồng hóa Kỵ ở cung Bào, vì vậy thiếu trợ thủ đắc lực. Lúc giao cho trợ thủ
sự lý việc, mệnh tạo thường không vừa ý, do đó trở thành không có người trợ giúp để giảm sự
vất vả của bản thân.

Người gặp tinh hệ này, nên làm việc ở công ty lớn, tập đoàn lớn, thì danh dự, địa vị và quyền lực
cùng thăng tiến, dễ được cấp trên trọng dụng.

Nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, quan hệ với chồng dễ biến thành "ngó đứt mà tơ vương", đồng thời
còn dễ được người đã có gia đinh theo đuổi.

Tinh hệ "Vũ Khúc Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ Khúc hóa Quyền, ắt sẽ
hội hợp với Kình Dương, Đà La, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương hội cung "Liêm Trinh Phá
Quân" cư Tài, và hội "Tử Vi Thất Sát" cư Quan.

Vũ Khúc hóa Quyền đồng độ với Tham Lang, chủ về làm tăng dục vọng về tiền tài. Ở đây không
chỉ nói về kiếm tiền, mà còn nói về dục vọng chi phối tiền bạc. Cho nên nắm quyền tài chính là
nguyện vọng lớn nhất của người có kết cấu tinh hệ Vũ Tham thủ Mệnh, và đây cũng là thành tựu
lớn nhất của họ.

Trải qua cạnh tranh và nỗ lực (bao gồm cả thủ đoạn), họ có thể nắm quyền tài chính, nhờ vào đó
mà dần dần cải biến sự nghiệp của bản thân. Có lúc còn mượn sự trợ giúp của quyền lực tài
chính để thay đổi chức nghiệp của mình, tức là lấy tiền của người khác để làm bàn đạp tiến
thân.

Nữ mệnh nếu không có nghề nghiệp, thì "bà quản gia" được coi là "chức nghiệp".

Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cũng là điềm tiến thủ, chủ về nhờ tranh chấp mà tạo ra
chuyển biến.

Tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ Khúc hóa Quyền, có
Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối nhau với Phá Quân, tam phương hội cung có "Liêm Trinh
Thiên Phủ" cư Tài mà Thiên Phủ hóa Khoa, và hội hợp Tử Vi độc tọa cư Quan.

Nhóm tinh hệ này xem ra có vẻ như toàn mỹ, "Lộc Quyền Khoa" hội hợp, thanh thế hiển hách.
Nhưng cần chú ý "Vũ Khúc Thiên Tướng" luôn luôn bị Thiên Đồng hóa Kỵ và Thiên Lương giáp
cung. Ở cung Thân còn bị thêm Kình Dương và Đà La giáp cung, do đó cần phải nhẫn nhịn để
cầu toàn, không tốt bằng Vũ Tướng ở cung Dần.

Nói "nhẫn nhịn để cầu toàn", có nghĩa là cần phải tình nguyện ở vị trí thứ hai, còn phải tránh để
xảy ra tranh chấp thị phi với đồng sự. Đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Sát - Kị - Hình nặng,
thì lại cần phải lưu ý đạo "tìm cát tránh hung".

Nữ mệnh tuy có sự nghiệp riêng, nhưng phần nhiều cũng chủ về làm nhị phòng, kế thất, nếu
không sẽ dễ đổ vỡ.
Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, là điềm hợp tác với người khác để kiếm tiền,
cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng có lợi.

Tinh hệ "Vũ Khúc Thất Sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ Khúc hóa Quyền, đồng
độ với Kình Dương, hoặc hội hợp với Kình Dương, Đà La, đối cung là Thiên Phủ đồng thời hóa
Khoa, tam phương hội "Tử Vi Phá Quân" cư Quan và hội "Liêm Trinh Tham Lang" cư Tài.

Nhóm tinh hệ này nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, cuộc đời gặp nhiều rắc rối về tình cảm, sau trung
niên phần nhiều cảm thấy cuộc đời là hư ảo, buồn rầu, dễ đem lòng yêu thương người đã có gia
thất mà không thể kết hợp, do đó càng có nhiều nỗi đau thầm kín, thế là phần nhiều đều dốc tâm
vào sự nghiệp.

Nói về sự nghiệp thì đây là kết cấu có quyền lực quá mạnh mẽ, thường có thể phát triển thành
lộng quyền hoặc lạm quyền, người dưới quyền cũng vì vậy mà li tán.

Có một đặc điểm khá rõ rệt, đó là phải nhờ cải biến sự nghiệp thì tài khí mới được tăng cao, ở
đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

Vũ Khúc độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc Tồn), Tham Lang
độc tọa ở đối cung, tam phương có "Tử Vi Thiên Phủ" cư Quan mà Thiên Phủ hóa Khoa, và "Liên
trinh Thiên Tướng" cư Tài.

Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là sau khi trải qua gian nan, tạo dựng dược uy tín và danh
tiếng, thì mới có phát triển mang tính đột phá, nhờ đó bước vào vận tốt của cuộc đời. Nếu đối
cung gặp "Hỏa Tham cách" hay "Linh Tham cách", thì càng phát triển một cách đột ngột. Ở đại
hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về phát đột ngột. Nữ mệnh chủ về lấy chồng lớn
tuổi, và kết hôn muộn, nếu không sẽ dễ sinh ly.

Tinh hệ "Vũ Khúc Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Quyền, có Kình
Dương hoặc Đà là hội chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội có "Tử Vi Tham Lang" cư
Quan, và "Liêm Trinh Thất Sát" cư Tài.

Do có Phá Quân đồng độ, nên Vũ Khúc hóa Quyền thường vì xảy ra biến động quá đáng, mà gây
ảnh hưởng đến năng lực quản lý tài tính. Vì vậy thích hợp với những nghề có tính tiêu dùng,
hưởng thụ (nhất là ngành ẩm thực, giải trí, vui chơi). Nếu cung Quan cung Tài gặp Sát tinh, mà
cung Mệnh không có Sát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát. Nếu cung Mệnh có
Sát tinh thì thích hợp với những nghề có liên quan đến dao kéo.

Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thì đây là hạn biến động thay đổi kịch liệt,
thường có kết quản tốt.

Thái Dương hóa Quyền thủ Mệnh – Can Tân


Thái Dương độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung với Thiên Lương.
Tam phương hội Cự Môn hóa Lộc cư Quan, và mượn "Thiên Cơ Thái Âm" nhập cung Tài.
Nhóm tinh hệ này ở cung Ngọ đẹp hơn, nhưng cần phải chú ý không được phô trương thanh thế
quá đáng, nếu không sẽ dễ khiến cho người ta nhận thấy sự trống rỗng của bản thân. Nếu có
hành động thiết thực, chuyên chú trong một phạm vi nhất định (ví dụ đang công tác về pháp
luật, thì không được đổi thành làm việc trong chính giới), sẽ dễ được người ta biết đến danh
tiếng hơn, vì vậy đời người cũng không bị quá vất vả.

Thái Dương hóa Quyền ở cung Tý dễ trở thành "hữu hanh vô thực". Nếu có Văn Khúc hóa Khoa
đồng độ, hoặc ở đối cung thì thích hợp có một nghề, chỉ cần phát triển một cách thiết thực, thì
thanh thế tuy không hiển hách, nhưng vẫn có thể thăng tiến về sự nghiệp và tiền bạc.

Ở đại hạn và lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, là điềm tượng người ngoại quốc hay người ở
phương xa đề bạt, cũng chủ về địa vị thăng tiến.

Tinh hệ "Thái Âm Thái Dương" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Dương hóa Quyền,
tam phương hội Thiên Lương độc tọa cư Quan, mượn "Thiên Cơ Cự Môn" nhập cung Tài để hội
hợp, mà Cự Môn đồng thời hóa Lộc, và còn gặp Lộc Tồn.

Do "Thiên Cơ Cự Môn" ở cung Phúc đức, lúc Cự Môn hóa Lộc, thường có biểu hiện lời nói dễ
nghe, khéo ăn khéo ở, xử sự uyển chuyển, là đặc trưng của mưu thần và thuyết khách. Vì vậy
Thái Dương hóa quyền chỉ biểu trưng cho địa vị (ở cung Sửu thì càng như vậy), tích cực làm việc
sẽ có địa vị cao, nhưng không được tranh thủ địa vị lãnh đạo thực tế, nếu không ắt sẽ vì vậy mà
sinh phá sản, thất bại.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tình hệ này, sẽ chủ về địa vị được thăng chuyển, không chủ về
sáng lập sự nghiệp.

Tinh hệ "Thái Dương Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Dương hóa Quyền
ắt Cự Môn sẽ đồng thời hóa Lộc, tham khảo ở đoạn Cự Môn hóa Lộc.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái Dương hóa
Quyền ắt sẽ có Lộc Tồn hội hợp, tam phương có Thái Âm độc tọa cư Tài, và mượn "Thiên Đồng
Cự Môn" nhập cung Quan mà Cự Môn hóa Lộc.

Nhóm tinh hệ này rất ưa ham muốn về quyền lộc, quyền lộc rất nặng, nên thường thường ở địa vị
lãnh đạo có tiếng thanh cao (ở cung Mão thì càng tốt). Nói "có tiếng thanh cao" là bao gồm lãnh
vực học thuật, hoặc quan thanh liêm. Cần phải chú ý kết cấu này, Tài bạch sẽ tăng theo địa vị,
khi địa vị tăng cao thì cần phải có cống hiến thực tế, từ đó sẽ xác định được phương hướng phát
triển của đời người. Đây cũng là đạo "tìm cát tránh hung" vậy.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp kết cấu tinh hệ này, thì nên chọn sách lược tạo dựng uy tín (bao
gồm thương hiệu và tín nhiệm) là tốt nhất.

Thái Dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái Âm, tam
phương hội có Cự Môn hóa Lộc độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" nhập
cung Quan để hội cung, cung Mệnh còn đồng thời gặp Kình Đà, hoặc đồng độ với Kình Dương.
Thái Dương hóa Quyền ở hai cung độ này, tuy có năng lực đột phá "Thiên la Địa võng", nhưng lại
thường vì vậy mà hy sinh hạnh phúc hôn nhân. Thái Dương và Thái Âm đối nhau, cũng ví như
bình đẳng trong hôn nhân, nhưng một khi Thái Dương hóa Quyền thì lập tức xảy ra xung đột.
Nhất là nữ mệnh, cần lưu tâm ý vị này.

Thái Dương hóa Quyền ở cung Thìn có nhiều "triêu khí" (khí ban ngày), nhân sinh quan khá cởi
mở, tính tích cực cao, đồng thời cũng dễ thích ứng với xu thế phát triển của xã hội. Thái Dương
hóa Quyền ở cung Tuất, lại có nhiều "mộ khí" (khí ban đêm), biểu hiện tính chủ quan cực nặng,
rất khó thích ứng theo sự chuyển biến của hoàn cảnh, cho nên lúc vận hạn không cát tường thì
hay tự mình sinh ra cảm giác "không gặp thời", dễ biến thành tiêu cực.

Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp kết cấu sao kiểu này, trong xã hội hiện đại, thì nên mượn lực của
người ở nơi xa (hay người ngoại quốc), nhờ vả mong họ ủng hộ giúp đỡ để tiến thủ. Nếu ở trong
giới học thuật thì nên phát biểu chính kiến của mình, hay tạo cơ hội để diễn giảng để nâng cao
địa vị.

Thái Dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối cung với Cự Môn độc tọa
hóa Lộc, tam phương hội cung có Thiên Lương độc tọa ở cung Tài và Thái Âm độc tọa ở cung
Quan. Ở cung Tỵ còn gặp Lộc Tồn, vì vậy ưu hơn ở cung Hợi là Thái Dương lạc hãm.

Thái Dương ở cung Tỵ mà hóa Quyền, chủ về có tài lãnh đạo rất mạnh, đồng thời mệnh lệnh ban
phát ra cũng khiến cho mọi người vui vẻ tuân thủ nghe theo. Thái Dương ở cung Hợi thì chỉ nên
lợi dụng sức mạnh của Thiên Lương, lui về phòng thủ, hoặc bảo tồn giữ nguyên cục diện hiện có,
không nên chủ động mở rộng, cũng không nên chủ động đứng đầu chịu trách nhiệm thực thi sự
việc. Người kinh doanh làm ăn nên chú ý tạo dựng thương hiệu, người trong giới học thuật hoặc
giới chuyên nghiệp thì nên chú ý cống hiến trong lãnh vực của mình. Ở đại hạn hay lưu niên cũng
có cùng một ý vị như vậy.

Tử Vi hóa Quyền thủ Mệnh – Can Nhâm


Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ gặp Kình Dương Đà La, hoặc
đồng độ với Kình Dương, có Tham Lang độc tọa ở đối cung, tam phương hội "Liêm Trinh Thiên
Phủ" ở cung Quan mà Thiên Phủ hóa Khoa, và hội "Vũ Khúc Thiên Tướng" ở cung Tài mà Vũ
Khúc hóa Kỵ.

Ngoài những đặc điểm của Tử Vi hóa Quyền, về phương diện sự nghiệp còn có sắc thái của
Thiên Phủ hóa Khoa, đó là rất xem trọng uy tín, ở một mức độ nhất định nào đó, thì có thể biến
thành người bảo thủ, nhờ vậy mà đã giảm bớt nguy hại do Vũ Khúc hóa Kỵ ở cung Tài mang lại.
Chỉ có biểu hiện tiêu xài lãng phí.

Tử Vi hóa Quyền ở cung Ngọ còn có đặc điểm bất lợi về hôn nhân, đặc biệt là đối với nữ mệnh.
Đây là vì bị ảnh hưởng bởi Tham Lang ở đối cung, trở thành cách "Phiếm thủy đào hoa" dễ có
tình mà lại không có duyên, có duyên mà lại không có tình.
Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, là biểu trưng cho sự phát triển quyền lực.
Nhưng cần phải chú ý điều độ về mặt tài chính, nếu không dễ bị túng thiếu.

Tinh hệ "Tử Vi Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử Vi hóa Quyền (ở cung Mùi
còn gặp Lộc Tồn), đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội cung có "Liên trinh Tham Lang" ở
cung Quan, và "Vũ Khúc Thất Sát" ở cung Tài mà Vũ Khúc hóa Kỵ.

Do ảnh hưởng của Phá Quân đồng độ, nên so với Tử Vi hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì
Tử Vi hóa Quyền ở Sửu hoặc Mùi có tính chất ít thận trọng hơn. Vì vậy mà do sự cải biến của
người này có biên độ quá lớn, dẫn đến xảy ra khó khăn về mặt tài chính, nhưng họ lại vẫn cố tình
chống đỡ, khiến cho tâm lực vất vả. Đạo "tìm cát tránh hung" chính là đừng tìm và không thể cầu
"thể hiện sắc thái đặc tính của bản thân", khi bộc lộ sắc thái cá nhân hoặc đặc tính một cách thái
quá thì sẽ bất lợi, duy chỉ có thể làm việc một cách thiết thực, thì mới được bàng nhân quan tâm
ủng hộ và tán thưởng.

Do Tử Vi có đặc tính "kích phát", "kích động", nên khi gặp Tử phụ Hữu bật đồng cung, hoặc Tả
Hữu giáp cung, sẽ mang lại ảnh hưởng rất lớn đối với kết cấu Mệnh cục này.

Ở lưu niên hay đại hạn thông thường có ý vị làm tăng chuyển biến về quyền lực, nhưng vẫn phải
tự lượng sức mình. Nhất là phải chú ý tính chất của cung Bào và cung Nô (cung Nô).

Tinh hệ "Tử Vi Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử Vi hóa Quyền thì Thiên
Phủ ắt sẽ hóa Khoa, tam phương hội cung có "Liêm Trinh Thiên Tướng" ở cung Quan, và Vũ
Khúc độc tọa mà Hóa Kỵ ở cung Tài. Đối cung là Thất Sát, cung Mệnh còn gặp Kình Dương và
Đà La.

Nhóm tinh hệ kết cấu này, tuy có ảnh hưởng của Thiên Phủ hóa Khoa, nhưng đối cung là Thất
Sát, sẽ khiến cho quyền lực của Tử Vi khi hóa Quyền thêm nặng, do đó dễ vì có quyền lực mà
hành động một cách bất cẩn, làm cho sức mạnh của Thiên Phủ hóa Khoa không thể phát huy.

Hơn nữa, Tử Vi hóa Quyền mà đồng độ với Thiên Phủ hóa Khoa, một "công" một "thủ" có mâu
thuẫn quá lớn, cho nên có lúc phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, nên lại không được
toàn mỹ.

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng thường bị tình cảnh do dự giữa tiến và
thoái. Cần phải xem ở vận sau kế tiếp là "cát" hay "hung", để quyết định nên như thế nào, tiếp tục
hành động hay là nên dừng lại.

Tinh hệ "Tử Vi Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử Vi hóa Quyền ở cung
Mão sẽ gặp Lộc Tồn, tam phương hội cung có "Vũ Khúc Phá Quân" ở cung Tài mà Vũ Khúc đồng
thời hóa Kỵ, và "Liêm Trinh Thất Sát" ở cung Quan.

Tử Tham gặp Quyền Lộc, chủ về cực lực theo đuổi ham muốn vật chất, cũng đồng thời theo đuổi
ham muốn quyền lực, cho nên dễ khiến nhìn bề ngoài thì tích cực, nhưng trên thực tế lại cảm
thấy trống rỗng. Nhất là tổ hợp "Vũ Khúc Phá Quân" hóa Kỵ, thường sẽ khiến cho lý tưởng của
mệnh tạo không thực hiện được, cuộc sống bị tiền bạc khống chế, nên nội tâm càng buồn rầu lo
lắng. Tuy bề ngoài vẫn duy trì vẻ tôn nghiêm, lạc quan, nhưng về mặt tinh thần thường luôn
không ổn định (rắc rối).

Tinh hệ "Tử Vi Thiên Tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử Vi hóa Quyền bị Kình
Đà hội chiếu, hoặc có Đà La đồng cung, đối cung có Phá Quân, tam phương hội cung có "Vũ
Khúc Thiên Phủ" ở cung Tài, phân ra một sao hóa Kỵ một sao hóa Khoa, và Liêm Trinh độc tọa
cư Quan.

Nhóm tinh hệ này bị "Vũ Khúc Thiên Phủ" gây ảnh hưởng rất lớn. Trong các tình huống thông
thường, chủ về tính tự tôn cực nặng. Nhưng để giữ tính tự tôn của bản thân, trên thực tế thường
thường lại không cần thiết phải trả giá quá đắt như vậy.

Gặp nhóm tinh hệ này trên vận trình, phần nhiều lại xảy ra trắc trở đột ngột. Sức mạnh ở của Tử
Vi hóa Quyền có thể chịu đựng trắc trở, nhưng nội tâm lại đau khổ. Vì vậy mệnh tạo càng có biểu
hiện cực kỳ xung động, thường gây ra nhưng biến động thay đổi khiến người ta phải bất ngờ.

Ở đại hạn hoặc lưu niên còn cần lưu ý, trong vận hạn không được sống độc lập một cách quá
đáng, hoặc quá lộ sự sắc xảo, nếu không sẽ xảy ra trắc trở.

Tinh hệ "Tử Vi Thất Sát" thủ Mệnh mà Tử Vi hóa Quyền ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, có Lộc Tồn đồng
độ hoặc vậy chiếu. Tam phương hội hợp có "Liêm Trinh Phá Quân" ở cung Quan, và "Vũ Khúc
Tham Lang" có Vũ Khúc hóa Kỵ ở cung Tài.

"Tử Vi Thất Sát" vốn đã có ý vị quyền lực, sau khi Tử Vi hóa Quyền thì tính chất quyền lực càng
nặng. Nhưng ở cung Tài do Vũ Khúc hóa Kỵ khiến cho quyền lực bị khống chế, cung Quan lại
thường hay đổi ý bất nhất, may mà đối cung là Thiên di có Thiên Phủ hóa Khoa có thể điều hòa.

Do đó có thể biết, nhóm tinh hệ này đầy sắc thái mâu thuẫn, hành động thuộc Hậu thiên có ảnh
hưởng rất lớn đối với mệnh tạo. Nếu có các sao Cát hội hợp, thì có thể làm những ngành nghề
có thể bộc lộ sự sắc sảo để dễ có cảm giác thỏa mãn. Còn nếu các sao không hợp không cát
tường, có thể phát triển thành "cọp mà ăn thức ăn của mèo" hoặc thậm chí tủ tiền trống rỗng.

Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường là cơ hội chuyển biến, nhưng
không được triển khai cục diện lớn quá.

Cự Môn hóa Quyền thủ Mệnh – Can Quý


Cự Môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ có Lộc Tồn đồng độ hoặc
vây chiếu, đối cung là Thiên Cơ, tam phương tương hội có Thái Dương độc tọa ở cung Quan, và
mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" để nhập cung Tài.

Nhóm tinh hệ này đã cấu tạo thành cách "Thạch trung ẩn ngọc", nhất là khi Cự Môn ở cung Tý
được Lộc Tồn đồng độ, có Thái Dương ở cung Vượng hội hợp. Vì vậy tốt hơn Cự Môn ở cung
Ngọ. Ở cung Ngọ thường thường chủ về nên rời xa quê hương, phát phúc ở tha hương. Liên quan
đến tính chất của tinh hệ này, đã thuật nhiều ở các mục nói về "Thạch trung ẩn ngọc cách", ở
đây cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, phàm là cách "Thạch trung ẩn ngọc", thì trong đời
người không nên ngồi ở vị trí cao.

Lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về có cơ hội để thể hiện bản thân, mà
còn được người ta dễ tiếp nhận, nhưng không được vì quá thỏa mãn mà dương dương đắc ý.

Tinh hệ "Thiên Đồng Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự Môn hóa Quyền, tam
phương hội cung có Thiên Cơ độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thái Dương Thiên Lương" nhập
cung Tài để hội hợp. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình Dương, hoặc có Kình Dương Đà là hội chiếu.

Nhóm tinh hệ này, chủ về tay trắng làm nên, phải trải qua gian khổ mới có thành tựu, mức độ
thành công cũng tùy thuộc vào mực độ biểu hiện của bản thân mệnh tạo. Vì vậy, đang âm thầm
lặng lẽ đột nhiên phát lộ ánh sáng rực rỡ, là đặc điểm của tinh hệ này.

Cần chú ý "Thiên Đồng Cự Môn" ở cung Sửu, thì cung Bào là Tham Lang hóa Kỵ, còn bị Kình Đà
giáp cung, dó đó còn chủ sau khi phát vượt lên, ắt sẽ chuốc lấy đố kị, dẫn đến bất hòa với đồng
sự hoặc người hợp tác.

Nữ mệnh gặp nhóm sao này dễ bị người khác đoạt tình, nên cần phải lưu ý đến sinh hoạt hôn
nhân.

Tinh hệ "Thái Dương Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Cự Môn hóa Quyền, tam
phương hội cung mượn "Thiên Đồng Thái Âm" nhập cung mà Thái Âm ắt hóa Khoa ở cung Quan,
và mượn "Thiên Cơ Thiên Lương" nhập cung Tài, có kèm Lộc Tồn đến hội chiếu.

Nhóm kết cấu tinh hệ này đặc biệt lợi về phát huy tài ăn nói. Nữ mệnh vốn bất lợi về hôn nhân,
nhưng nhờ lực của Cự Môn hóa Quyền khiến hôn nhân trở thành tốt đẹp, còn giảm bớt rắc rối về
tình cảm, nhưng vẫn chủ về kết hôn muộn, không nên chọn lầm đối tượng lúc còn quá trẻ.

Nếu nam mệnh cung Phối gặp Văn Xương Văn Khúc và Lộc Tồn, sẽ chủ về nhờ vợ mà có tiền
của, hoặc được nhạc gia nâng đỡ mà phát triển sự nghiệp.

"Thái Dương Cự Môn" trong nhóm tinh hệ này, ý nghĩa cơ bản là tài ăn nói, còn là người ngoại
quốc (hay người ở phương xa). Tính chất của tinh hệ biến hóa rất lớn, nên rất thích hợp công
việc ngoại giao, nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể thích hợp với nghệ thuật biểu diễn, gặp các
sao khoa văn thì thích hợp làm việc trong giới quảng bá.

Tinh hệ "Thiên Cơ Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Quyền ắt sẽ
gặp Kình Dương hoặc Đà La. Tam phương hội hợp mượn "Thái Dương Thái Âm" nhập cung Quan
mà Thái Âm hóa Khoa, và Thiên Đồng độc tọa ở cung Tài.

Nhóm tinh hệ có kết cấu đặc biệt lợi về thăng chức và cạnh tranh. Sau khi hóa Quyền, thậm chí
có thể lấy cách "Dương Lương Xương Lộc" để so sánh, hoàn toàn thiếu bản chất nghiên cứu
thâm trầm, vì vậy cũng không có ý vị cạnh tranh học thuật.
Cự Môn hóa Quyền ở cung độ này, đối với nữ mệnh, cũng có thể khiến cho hôn nhân trở thành
ổn định, nhưng vẫn bất lợi nếu kết hôn sớm.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường nhờ "ám lực" (lực ngầm) mà
chuyển biến theo hướng tốt lành, vì vậy không nên truy cầu địa vị cao, nếu không sẽ không được
lâu dài.

Cự Môn độc tọa lạc hãm thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Cự Môn ở cung Thìn gặp Lộc
Tồn), có Thiên Đồng ở đối cung, tam phương hội hợp Thái Dương độc tọa ở cung Tài, và mượn
"Thiên Cơ Thái Âm" có Thái Âm hóa Khoa để nhập cung Quan.

Cự Môn rất kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thường thường bản thân vất vả mà lại ít có người trợ
lực. Sau khi hóa Quyền, có thể cải thiện tính chất lạc hãm ở "thiên la địa võng". Vì vậy sau khi trải
qua gian khổ thì có thành tựu, mà vãn còn cần phải nỗ lực. Nếu chỉ trông chờ cơ hội phát đột
ngột, thì cảnh tốt cũng không được lâu dài.

Điều đáng chú ý là "Thiên Cơ Cự Môn" đồng độ ở cung Phối mà Thái Âm hóa Khoa, có thể thành
cách "Đan trì Quế trì", tức là trong cung gặp Văn Xương Văn Khúc, chủ về được nhạc gia nâng
đỡ.

Cự Môn độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối nhau với Thái Dương, tam phương hội
hợp Thiên Cơ độc tọa ở cung Tài và Thiên Đồng độc tọa ở cung Quan. Cung Mệnh ắt sẽ gặp
Kình Đà, hoặc Đà La cùng bay đến.

Kết cấu sao dạng này cũng chủ về phát huy tài ăn nói, nhưng không tốt bằng Cự Nhật đồng
cung. Cự Môn hóa Quyền chỉ cải thiện tính chất bất lợi đối với cha, khiến lúc nhỏ phần nhiều đều
có đường đời gập gềnh, có lúc lại biểu trưng cho sinh ly tử biệt đối với cha, nhưng vẫn được tài
sản của cha nuôi dưỡng.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Cự Môn hóa Quyền ở cung Tỵ hoặc Hợi, thì không có cát lợi đặc
biệt gì, có lúc chỉ là cơ hội biểu hiện bản thân.

Vũ Khúc hóa Khoa thủ Mệnh – Can Giáp


Tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ Khúc hóa Khoa, đối cung
là Thất Sát, tam phương hội hợp với Liêm Trinh độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và "Tử Vi Thiên
Tướng" ở cung Quan. "Vũ Khúc Thiên Phủ" ở cung Ngọ còn gặp Lộc Tồn, nên ở cung Ngọ có lợi
hơn ở cung Tý.

Nhóm tinh hệ này rất ưa gặp sao Lộc, được "Khoa Lộc" là kết cấu tinh hệ tốt lành. Trong các tình
hình thông thường, chủ về xử lý công việc thuận lợi, thích hợp với ngành nghề kinh tế tài chính,
dễ được ngân hàng tín nhiệm, còn có biểu hiện tốt trong nghề nghiệp.

Do Liêm Trinh hóa Lộc hội chiếu, nếu gặp các sao đào hoa, cũng chủ về dễ chuốc rắc rối khó xử
về tình cảm.
Tinh hệ "Vũ Khúc Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ Khúc hóa Khoa, đồng
thời còn gặp Kình Dương Đà La hoặc có Kình Dương đồng độ. Tam phương hội hợp có "Liêm
Trinh Phá Quân" ở cung Tài chia ra một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền, và hội cung Quan có
"Tử Vi Thất Sát" là kết cấu sao quyền lực.

Tinh hệ có kết cấu sao kiểu này, có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ thì mới phát huy được đặc tính
của "Vũ Khúc Tham Lang" có thể phát đột ngột. Nếu không thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh
Tham", thì đây là cách "Lộc Quyền Khoa hội" chủ về phát vượt lên nhưng không có ý vị phát đột
ngột, mà là phát lâu dài.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm sao này, cũng là vận tốt, nhưng nên tránh bất hòa với
thượng cấp và bậc trưởng bối, thường làm cho thượng cấp đố kị tài năng.

Tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ Khúc hóa Khoa ắt
có Lộc Tồn hội hợp hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp có "Liêm Trinh Thiên Phủ" mà Liêm
Trinh hóa Lộc ở cung Tài, và Tử Vi độc tọa ở cung Quan, đối cung Thiên Di có Phá Quân hóa
Quyền.

Nhóm sao này cũng là kết cấu "Lộc Khoa Quyền hội cách", do Tử Vi ở cung Quan nên rất dễ ở
địa vị lãnh đạo và có danh tiếng, cũng thích hợp tự mình phát triển kinh doanh. Có điều lúc đồng
độ với Lộc Tồn, ắt sẽ bị Kình Dương và Đà La giáp cung, do đó không nên phát triển riêng một
cách độc lập quá sớm, nếu không sẽ dễ bị phá tán, thất bại.

Nhóm sao này thường thường cũng thành kết cấu thích hợp làm việc trong chính giới, lúc đó càn
phải gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng lại không nên ở địa vị lãnh đạo. Ảnh hưởng của Phá
Quân hóa Quyền ở đối cung Thiên Di, chỉ chủ về có thể nắm thực quyền.

Đại hạn hoặc lưu niên rất ưa gặp nhóm tinh hệ này, chủ về bỏ cũ đổi mới, gặp cơ hội tốt.

Tinh hệ "Vũ Khúc Thất Sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ Khúc hóa Khoa tuy sẽ
gặp Kình Dương Đà La hoặc đồng độ với Kình Dương, nhưng đồng thời cũng sẽ hội với "Tử Vi
Phá Quân" mà Phá Quân hóa Quyền ở cung Quan, và "Liêm Trinh Tham Lang" mà Liêm Trinh hóa
Lộc ở cung Tài. Không những thành kết cấu "Lộc Quyền Hoa hội" tốt lành, mà còn là cách
"cương nhu" phối hợp thích đáng.

Chỉ có một khuyết điểm bất lợi về Cha, chủ về không được "phụ ấm" (cha che trở), hoặc chủ về
hai cha con gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, nhưng cũng chính vì vậy mà "kích phát" năng
lực khai sáng sự nghiệp. Thích hợp với những ngành nghề như kinh tế tài chính, giải trí, vui chơi,
nghệ thuật,.v.v... nhất là những ngành nghề giầu tính cạnh tranh.

Đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về có tính sáng tạo, càng có cạnh tranh
càng có lợi.
Vũ Khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tham Lang ở đối cung, tam
phương hội hợp có "Tử Vi Thiên Phủ" ở cung Quan, và "Liêm Trinh Thiên Tướng" mà Liêm Trinh
hóa Lộc ở cung Tài, Vũ Khúc ở cung Tuất còn được gặp Lộc Tồn.

Nhóm tinh hệ này cũng là kết cấu "Khoa Lộc" tương hội, nhưng trừ phi thành cách "Hỏa Tham"
hay "Linh Tham", nếu không sẽ rất ngại bản thân "Tử Vi Thiên Phủ" ở cung Sự nghiệp có mâu
thuẫn, cung Tài "Liêm Trinh Thiên Tướng" có ý vị bị động, tuy nhờ Vũ Khúc hóa Khoa cũng chỉ
chủ về được người ta trọng dụng nhất thời, mà không có trợ lực thực tế.

Nếu Vũ Khúc hóa Khoa có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ cũng chủ về phát đột ngột, nhưng không
lớn bằng "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", mà còn dễ bị phá tán thất bại.

Tinh hệ "Vũ Khúc Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, có Vũ Khúc hóa Khoa mà Phá
Quân đồng thời hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Phá Quân hóa Quyền".

Tử Vi hóa Khoa thủ Mệnh – Can Ất


Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình Dương hoặc Đà La, có
Tham Lang ở đối cung, tam phương hội cung có "Liêm Trinh Thiên Phủ" ở cung Quan, và hội
cung Tài với tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Tướng".

Tử Vi độc tọa vốn đã mang ý vị độc lập, chỉ có hóa Khoa, mà không có sao Cát hóa khác hội
chiếu, còn không gặp Lộc Tồn, nên chỉ chủ về có năng lực suy nghĩ độc lập, mà lại còn khéo
phát huy phong cách cá nhân. Nói về cảnh ngộ đời người, dễ được người khác ủng hộ (ở cung
Ngọ ưu hơn cung Tý, vì ngại Thái Âm hóa Kỵ ở cung Tỵ là cung Nô), nhưng vẫn là tổ hợp chủ về
"danh lớn hơn lợi" chẳng túng thiếu, nhưng cũng không dư giả.

So đặc tính của hai cung Tý hoặc Ngọ, người ở cung Tý thì "tinh" (chuyên sâu), còn người ở cung
Ngọ thì "bác" (uyên bác).

Ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có tính chất đã thuật ở trên, nhưng lại thường là điềm tượng
có cơ hội thể hiện bản thân.

Tinh hệ "Tử Vi Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử Vi hóa Khoa, đối cung là
Thiên Tướng, tam phương hội cung có "Vũ Khúc Thất Sát" ở cung Tài ắt sẽ có Lộc Tồn đồng độ
hoặc vây chiếu, và hội cung Quan là tinh hệ "Liêm Trinh Tham Lang".

Tử Vi hóa Khoa của nhóm tinh hệ này chủ yếu làm mạnh thêm thanh thế của Phá Quân, đồng
thời còn có ý vị, vì tuy là cầu danh tiếng mà chủ động thay đổi. Nếu có Cát tinh hội hợp thì vì
Danh mà thay đổi, sau khi thay đổi thì danh tiếng càng lớn, do đó lại cầu thay đổi tiếp. Thế là
đương số không ngừng theo đuổi, không ngừng biến đổi, đời người tuy khó tránh vất vả, khổ lụy,
nhưng bản thân đương số lại cảm thấy vẻ vang và thỏa mãn.

Nếu trong lúc đang thay đổi, bỗng nhiên họ dừng bước, thì trái lại, sẽ dễ vì phản ứng sai lầm, tiến
thoái không hợp thời cơ mà dẫn đến tổn thất phá tán, thất bại. Cũng do không ngừng cầu thay
đổi, nên quan hệ giao tế cũng thay đổi luôn, cho nên khi Tử Vi hóa Khoa cũng không thể cải
thiện tính chất "vô tình vô nghĩa" của nó.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về có biểu hiện vẻ vang rực rỡ và thay đổi.

Tinh hệ "Tử Vi Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử Vi hóa Khoa, đối cung là
Thất Sát, tam phương hội cung là Vũ Khúc độc tọa ở cung Tài và "Liêm Trinh Thiên Tướng" ở
cung Quan. "Tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Tử Vi và Thiên Phủ vốn có tính mẫu thuẫn, vừa chủ động lại vừa bị động, vừa tiến công lại vừa
phòng thủ. Sau khi Tử Vi hóa Khoa thì Tử Vi được tăng thêm sức mạnh, nhờ vậy mà giải quyết
được tình trạng mẫu thuẫn của "Tử Vi Thiên Phủ". Một khi mẫu thuẫn được giải quyết, xung
chiếu Thất Sát, thì tính chất hóa thành quyền lực được phát huy. Cho nên tinh hệ này khi Tử Vi
hóa Khoa trở thành có trí tiến thủ, và năng lực quyết đoán cao được phát huy, đây là điều mà
tinh hệ "Tử Vi Thiên Phủ" vốn không có.

Như tinh hệ này lại có đặc điểm là ưa lộ sự sắc xảo, luôn muốn khoe tài năng, vì vậy mà thường
bị người ta công kích. Còn cần đặc biệt lưu ý khi đến đại hạn hoặc lưu niên "Liêm Trinh Thiên
Tướng" đừng cố xuất đầu lộ diện mà mang họa vào thân.

Nhóm tinh hệ này khi gặp ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có bản chất này (?), chỉ chủ về bộc
lộ những biểu hiện cá nhân, mà cần lưu ý không được nóng nảy.

Tinh hệ "Tử Vi Tham Lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử Vi hóa Khoa ắt sẽ có Lộc
Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội cung với "Vũ Khúc Phá Quân" ở cung Tài, và "Liêm
Trinh Thất Sát" ở cung Quan.

Tinh hệ này vốn có sắc thái không ổn định, nhưng Tử Vi hóa Khoa chỉ có tính chất nhờ thay đổi
cải cách mà người ta biết tiếng, thậm chí ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

Tinh hệ "Tử Vi Thiên Tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử Vi hóa Khoa, ắt sẽ
đồng thời gặp Kình Dương đồng độ, hoặc Kình Đà giao hội, có Phá Quân độc tọa ở đối cung, tam
phương hội cung có "Vũ Khúc Thiên Phủ" ở cung Tài và Liêm Trinh độc tọa ở cung Sự nghiệp.

Nhóm tinh hệ này Tử Vi rất ưa được hóa Khoa, vì Thiên Tướng đồng độ với Tử Vi nên Thiên Cơ
hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền tất sẽ giáp cung, chủ về người có tài năng đặc biệt. Ngoại
trừ trường hợp Tử Vi độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đây cũng là nhóm tinh hệ lợi về nghiên
cứu học thuật.

Liên quan đến khuynh hướng của tài năng, phải xem xét các sao hội hợp có tính chất mạnh yếu
như thế nào mà định. Nếu "Vũ Khúc Thiên Phủ" có lực mạnh thì giỏi quản lý tài chính, nếu Liêm
Trinh có lực mạnh thì có tài năng văn nghệ, nhưng có lúc cũng chủ về làm việc trong chính giới,
lấy thỏa hiệp làm sở trường, chưa chắc đã có lập trường nhất định.
Tinh hệ "Tử Vi Thất Sát" thủ Mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, mà Tử Vi hóa Khoa, đối cung là Thiên
Phủ, tam phương hội cung có "Liêm Trinh Phá Quân" ở cung Sự nghiệp, và "Vũ Khúc Tham Lang"
ở cung Tài.

Tử Vi và Thất Sát đồng độ đã có sắc thái quyền lực, khi Tử Vi hóa Khoa khiến cho quyền lực và
danh dự đều được vẻ vang, rực rỡ, do đó đây cũng là kết cấu tinh hệ có tính chất tốt lành.

Khi quyền lực và danh dự vẻ vang rực rỡ, thì lại có khuyết điểm là: lý tưởng của đời người đặt ở vị
thế quá cao, thế là theo đuổi lý tưởng không ngừng nghỉ, đời người khó tránh vất vả và khổ lụy. Ở
tuổi vãn niên có lúc bỗng cảm thấy cuộc đời là hư ảo, rồi sinh buồn rầu, thích bàn luận triết lý.

Ngoài ra tinh hệ này cũng chủ về tình cảm vợ chồng thường có tì vết, nhưng mệnh tạo lại thích
che dấu, không cho người ngoài biết.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tính hệ này, thường thường chủ về biến đổi quyền lực,
thông thường là ở vận tốt.

Văn Xương hóa Khoa thủ Mệnh – Can Bính


Văn Xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường
về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải cái được là hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung
lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ
được hư danh.

Văn Xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng
cho sức cạnh tranh trong thi cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu
gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi
cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi
Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn Xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối
hợp.

Thiên Cơ hóa Khoa thủ Mệnh – Can Đinh


Thiên Cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây
chiếu, đối cung là Cự Môn sẽ đồng thời hóa Kỵ. Tam phương hội cung có Thái Âm độc tọa cũng
hóa Lộc ở cung Sự nghiệp, và "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền ở cung Tài.
Đây là kết cấu tinh hệ hội tụ đủ tứ hóa diệu.

Do ảnh hưởng của Cự Môn hóa Kỵ, cho nên tính chất của "Lộc Quyền Khoa hội cách" sẽ phát huy
biến thành cách "dùng lời nói để kiếm tiền". Cự Môn ở cung Ngọ thì Thái Dương ở cung Tuất
không có năng lực giải "ám". Cự Môn ở cung Tý thì Thái Dương ở cung Thìn, lại có năng lực giải
"ám" khá tốt. Do đó có thể nói Thiên Cơ hóa Khoa ở cung Tý chuốc nhiều thị phi hơn ở cung Ngọ.
Nhưng ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" thì ở hai cung đều như nhau.
Phàm là Thiên Cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, cần phải quan sát nhóm sao "Thiên Đồng
Thiên Lương" ở cung Tài bạch, xem chúng có năng lực sáng tạo hay không?, hay có sắc thái lưu
lạc, rời xa người thân hay không?. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất của Thiên Cơ hóa
Khoa ở cung Mệnh.

Thiên Cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên Lương, có
Kình Dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Tam phương hội hợp là Cự Môn hóa Kỵ ở cung
Sự nghiệp, và Thiên Đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch.

Do ảnh hưởng của Cự Môn hóa Kỵ ở cung Sự nghiệp và hội với Sát tinh, Thiên Cơ hóa Khoa ở hai
cung này chỉ thích hợp với những ngành nghề như công nghệ, quảng bá. kế, thiết kế. Có điều là
dù trước hay sau, thì vẫn thiếu khí khái của người "một mình đảm trách công việc".

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, có lúc chỉ là biểu hiện khi được xu nịnh ắt sẽ trổ tài
vặt. Thiên Cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ cũng có tính chất này, nhưng biểu hiện khá tốt,
hơn nữa còn có nhiều điểm mang lại lợi ích thực tế, còn Thiên Cơ hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc
Mùi thì không được như vậy.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thái Âm" thủ Mệnh ở hau cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Cơ hóa Khoa thì
Thái Âm ắt sẽ đồng thời hóa Lộc. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái Âm hóa Lộc".

Tinh hệ "Thiên Cơ Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên Cơ hóa Khoa thì Cự
Môn đồng thời hóa Kỵ, lại còn gặp Sát tinh. Tam phương hội hợp có Thiên Đồng hóa Quyền ở
cung Tài bạch, và phải vay mượn mượn tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" để nhập cung Sự nghiệp,
có Thái Âm hóa Lộc.

Tinh hệ kết cấu dạng này cũng tụ lập đủ tứ hóa diệu, nhưng do Thiên Cơ và Cự Môn đồng độ, có
Hóa Khoa và Hóa Kỵ cùng bay đến, do đó có khác với Thiên Cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc
Ngọ. Ngoại trừ việc phải nhấn mạnh tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền" ra, thì vẫn rất khó tránh
khỏi thị phi, hao tâm tổn thần, phải vất vả nói năng cũng là đặc trưng của nó.

Tinh hệ này cũng có sắc thái trôi nổi, không thiết thực, cho nên nhất là phái nữ không nên có
mệnh cục này thủ Mệnh.

Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tổ hợp sao này, cần phải đề phòng điều tiếng thị phi, "khoa trương"
và "điều tiếng" sẽ cùng đến, nhất là "khoa trương" có tính chất xu phụ thường bị người ta chỉ
trích.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ hóa Khoa,
tam phương tương hội "Thiên Đồng Thái Âm" ở cung Tài bạch, trong đó chia nhau một hóa
Quyền một hóa Lộc, và phải bị vay mượn "Thái Dương Cự Môn" để nhập cung Sự nghiệp, mà Cự
Môn lại hóa Kỵ.

Nhóm tinh hệ này cũng hội đủ tứ hóa diệu, nhưng do cung Sự nghiệp bị buộc phải vay mượn
"Thái Dương Cự Môn" có Cự Môn hóa Kỵ, cho nên ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" càng mang
đậm sắc thái này, khi theo những ngành nghề luật sư, pháp luật, pháp lý, tư pháp,.v.v... thì trái lại
sẽ chủ về có danh vọng. Nếu theo nghiên cứu chuyên về học thuật, thì chỉ nên theo những
ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ, đối với các ngành chuyên nghiệp mang tính chuyên sâu
cao sẽ rất khó thâm nhập.

Do Thiên Cơ hóa Khoa, cũng có thể làm công tác kế hoạch, lập chương trình, vẫn phù hợp với
sắc thái "miệng lưỡi", như lập chương trình quảng bá, quan hệ công cộng, nghệ thuật biểu
diễn,.v.v...

Tinh hệ này bất lợi về hôn nhân, thường chủ về thông hôn với người ở nơi xa (do phải đi việc ở
nơi xa mà nảy sinh tìm cảm) hay với người ngoại quốc, hoặc chủ về gia thế của người phối ngẫu
không tương xứng, mà người phối ngẫu cũng có sắc thái "dùng lời nói để kiếm tiền" tương hợp.

Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cần phải chú ý cung "Thái Dương Cự Môn" đồng độ,
xem có gặp các sao Hình Hao hay không? nếu có, thì có thể vì kế hoạch sai lầm mà chuốc điều
tiếng thị phi rất nghiêm trọng.

Thiên Cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa khoa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ắt sẽ đồng thời có Đà La đồng độ
hoặc Kình Dương Đà La giao hội, đối cung là Thái Âm hóa Lộc. Tam phương hội cung có "Thiên
Đồng Cự Môn" ở cung Tài bạch, phân ra một sao hóa Quyền một sao hóa Kỵ, và vay mượn "Thái
Dương Thiên Lương" để nhập cung Sự nghiệp.

Nhóm tinh hệ này có cách cục cao hay thấp, là do tính chất của Thái Dương và Thiên Lương
đồng độ quyết định, ở cung Mão thì tốt hơn ở cung Dậu, sẽ gây ảnh hưởng đến Thiên Cơ hóa
Khoa, ở cung Tỵ cũng tốt hơn cung Hợi.

So sánh hai cung độ, thì cung Hợi chỉ chủ về hư danh, cung Tỵ được thiết thực hơn. Tam phương
hội "Thiên Đồng Cự Môn", nên không chủ về "dùng lời nói để kiếm tiền", mà chỉ chủ về "có điều
thầm kín khó nói về tình cảm" ràng buộc rất sâu đậm.

Tinh hệ này biểu trưng cho hiện tượng "chậm phát", nhất là ở cung Hợi thì càng nghiệm. Then
chốt chủ yếu là ở vận trình Phá Quân nhập cung Mệnh của vận hạn. Do vì Thiên Cơ có tính chất
hiếu động, trôi nổi, còn Phá Quân thì chủ về khai sáng, có thể khai sáng thành công hay không?
phải xem các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp mà định.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thông thường chủ về danh dự và tài lộc song thu,
nhưng phải không gặp các sao Sát - Hình thì mới đúng.

Thái Dương hóa Khoa thủ Mệnh – Can Mậu


Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình Dương đồng độ hoặc
vây chiếu, đối cung là Thiên Lương xung chiếu, tam phương tương hội Cự Môn độc tọa ở cung
Sự nghiệp, và phải mượn "Thiên Cơ Thái Âm" nhập cung Tài bạch để hội hợp, mà Thiên Cơ hóa
Kỵ và Thái Âm hóa Quyền.
Thái Dương sau khi hóa Khoa, sẽ làm mạnh thêm năng lực giải "ám" của Cự Môn và bản chất
"cô độc và hình khắc" của Thiên Lương, đồng thời còn mang lại danh tiếng. Nhưng những tác
dụng này, lại có sự khác nhau giữa hai cung Tý và Ngọ.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Tý, tác dụng lớn nhất chỉ là giảm bớt tính "thị phi" của Cự Môn và
giảm bớt tính "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương. Ví dụ như tính chất bất lợi ban đầu đối với
người cha có thể là "tử biệt", thì sau khi Thái Dương hóa Khoa sẽ biến thành "sinh ly", còn tác
dụng mang lại tiếng tăm thì chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Ngọ, cũng có thể giảm bớt tính "thị phi" và tính "cô độc và hình
khắc" của Cự Môn và Thiên Lương, nhưng tác dụng lớn nhất mang lại đó là danh tiếng có tính
chất quảng đại công chúng. Có điều, lúc nổi tiếng sẽ làm cho sự nghiệp có vẻ lớn lao, nhưng
thực ra bên trong lại trống rỗng. Đây chính là khuyết điểm của Thái Dương hướng ngoại một
cách thái quá.

Tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà có Thái Dương hóa Khoa
thì Thái Âm ắt sẽ hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái Âm hóa quyền".

Tinh hệ "Thái Dương Cự Môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Dương hóa Khoa,
tam phương tương hội mượn "Thái Âm Thiên Đồng" có Thái Âm hóa Quyền để nhập cung Sự
nghiệp, và mượn "Thiên Cơ Thiên Lương" để nhập cung Tài bạch có Thiên Cơ hóa Kỵ. Tổ hợp
tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Thái Dương hóa Khoa ở hai cung này, tác dụng chủ yếu chỉ làm tăng mạnh sức thuyết phục của
ngôn từ, và khiến cho Hóa Kỵ của tinh hệ "Thiên Cơ Thiên Lương" ở cung Tài bạch chủ về lao
tâm tổn thần, mà không chủ về "thị phi" hoặc phạm sai lầm, do đó cũng làm mạnh thêm tính
chất "dùng lời nói để kiếm tiền".

Tinh hệ này có lúc còn biểu trưng cho "thiên tài về ngôn ngữ", chủ về học nói tiếng nước ngoài và
tiếng địa phương khác rất dễ dàng (nhưng chỉ về "nghe nói", chứ không phải "đọc viết" tiếng
nước ngoài).

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tinh hệ này, cần chú ý đến cơ hội khi thuyết phục người khác, và
thường thường nhờ vào đó mà gặp được hoàn cảnh thuận lợi.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái Dương hóa
Khoa (Mệnh ở cung Dậu có thể gặp Lộc Tồn ở cung Tỵ). Tam phương tương hội với Thái Âm hóa
Quyền ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên Đồng Cự Môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

Kết cấu tinh hệ này chỉ chủ về làm tăng độ danh tiếng, và khiến cho phạm vi nổi tiếng mở rộng.
Ví dụ như một vị Giáo sư, danh tiếng của ông vốn chỉ được biết đến trong nội bộ, nhiều lắm cũng
chỉ được biết đến trong giới học thuật. Nhưng khi gặp Thái Dương hóa Khoa lại có thể khiến cho
danh tiếng của ông lan tỏa rộng ra xã hội, cho dù không phải là người trong nghề, thậm chí
không ở trong giới học thuật, cũng biết có vị giáo sư này. Đây là tác dụng của Thái Dương hóa
Khoa.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Mệnh tương hội Thái Âm hóa Quyền, thì Thái Âm không còn chủ về
"tài khí", mà chỉ chủ về lợi ích do danh tiếng mang lại, còn Hóa Quyền chỉ làm tăng tính ổn định
của nó.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường có lợi về thi cử, hoặc có lợi khi
cạnh tranh, nhờ vào đó mà mang lại lợi ích (ví như đoạt giải thưởng).

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà La đồng độ hoặc Kình
Dương Đà La giao hội, đối cung là Thái Âm hóa Quyền, tam phương tương hội với Cự Môn độc
tọa ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" để nhập cung Sự nghiệp.

Hai cung Thìn và Tuất vốn là "Thiên la Địa võng", khi Thái Dương hóa Khoa thì không cần đột
phá, đối với ánh sáng chói lọi của Thái Dương thì "thiên la địa võng" cũng không thể làm lu mờ.
Vì vậy thường thường có cơ hội thoát ra khỏi những cảnh ngộ không hay.

Thái Dương ở cung Thìn là mặt trời mọc, lúc Hóa Khoa thì càng thêm chói lọi, cho nên những
biểu hiện mong muốn bộc lộ ra bên ngoài được thuật lợi và dễ dàng hơn, nhưng cũng dễ chuốc
lấy đố kị. Thái Dương ở cung Tuất là mặt trời lặn về Tây, dù có Hóa Khoa, thì muốn biểu hiện
cũng chỉ được cái nhỏ, hơn nữa những cái mong muốn biểu hiện này, cũng chỉ thuộc về hư
danh. Vì vậy cũng chỉ có thể lợi dụng vào hư danh để mưu cầu phát triển.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chỉ chủ về có những biểu hiện được bộc lộ ra bên
ngoài và nhờ vào đó mang lại lợi ích.

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc Tồn đồng cung
hoặc vây chiếu, đối cung là Cự Môn. Tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa hóa Quyền ở
cung Quan, và hội hợp với Thiên Lương độc tọa ở cung Tài bạch.

Do đối nhau với Cự Môn, nên Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về "thiên tài ngôn ngữ", nhưng lại
không chủ về ngôn từ có sức thuyết phục, chỉ biểu hiện là giỏi biện luận. Nếu gặp các sao đào
hoa, thì có thể phát triển thành tài ăn nói ở các phương diện như ca xướng, người điều khiển dẫn
chương trình, nghệ thuận biểu diễn,.v.v...

Thái Dương hóa Khoa ở cung Tỵ thì thanh danh khá thực tế, hóa Khoa ở cung Hợi thì chỉ có hư
danh (ví dụ như giáo sư thâm niên, thanh danh vốn chỉ nhờ lâu năm, chứ không phải nhờ có biểu
hiện đặc biệt).

Cự Môn đồng thời còn mang lại điều tiếng thị phi, khi Thái Dương hóa Khoa ở cung Tỵ cũng
được hóa giải một cách dễ dàng hơn.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, cũng chủ về có biểu hiện lý tưởng, và nhờ vào đó
mà thu được lợi ích.
Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh – Can Kỷ
Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Thái Dương vây chiếu, tam
phương tương hội có Thiên Đồng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và "Thiên Cơ Thái Âm" ở cung Tài
bạch. Thiên Lương ắt sẽ có Lộc Tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, vì vậy có thể thành cách "Dương
Lương Xương Lộc".

Người thành cách "Dương Lương Xương Lộc", do Thiên Lương hóa Khoa sẽ làm mạnh thêm bản
chất "Dương Lương Xương Lộc". Cho nên có lợi về thi cử, có lợi về cạnh tranh. Dù không gặp Văn
Xương Văn Khúc mà không thành Cách, thì vẫn có lợi về thi cử và cạnh tranh, nhưng mức độ thì
không bằng người thành cách "Dương Lương Xương Lộc".

Tinh hệ này cũng thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh
vốn đã có bản chất phục vụ, một khi có địa vị xã hội cao tất nhiên sẽ rất quý danh dự, chỉ ngại
nhất khi xử sự trong quan hệ giao tế, lại thường sử lý quá nguyên tắc một cách không cần thiết.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên Cơ, tam
phương tương hội với Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch, và Thái Dương độc tọa ở cung Sự
nghiệp. Cung độ của Thiên Lương ắt sẽ gặp Kình Dương.

Thiên Lương bị ảnh hưởng của Thiên Cơ ở đối cung, tâm trạng vốn không ổn định, sau khi hóa
Khoa tâm trạng sẽ biến thành ổn định.

Do Thái Dương và Thái Âm cùng chiếu, có lúc sẽ khiến Thiên Lương biến thành hay do dự hoặc
ở trong tình cảnh phải lưỡng lự.

Nhưng vì ảnh hưởng của Kình Dương, khi Thiên Lương hóa Khoa nhiều khi sẽ biến thành không
câu nệ vào nguyên tắc, cho nên không tốt bằng Thiên Lương hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ.

Tinh hệ "Thiên Đồng Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Lương hóa
Khoa, tam phương hội Thiên Cơ độc tọa ở cung Sự nghiệp, và Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch.
Đây là cách thuần túy "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Ở cung Dần được hội Lộc Tồn.

Do Thiên Lương đồng độ với Thiên Đồng, khiến cho Thiên Lương hóa Khoa tăng thêm phong
cách cá nhân, hoặc có phong thái tiêu sái của bậc danh sỹ, cho nên rất thích hợp làm cố vấn, có
địa vị mà không cần phải làm hay phụ trách công tác thực tế, hoặc thích hợp với những nghề
nghiệp tự do có tính chuyên nghiệp.

Nếu gặp Văn Khúc hóa Kỵ cùng bay đến, có thể là văn sỹ giang hồ hay "hào môn thanh khách"
(kẻ làm khách của nhà giầu thời xưa).

Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên Lương hóa
Khoa, tam phương hội có Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch, mượn "Thiên Đồng Cự Môn" để
nhập cung Sự nghiệp. Kết cấu này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh, không cần thành
cách "Dương Lương Xương Lộc" đã có tính chất cạnh tranh, đồng thời do Thiên Lương sau khi
hóa Khoa đã giảm bớt tính "cô độc và hình khắc", vì vậy sức mạnh của Thái Dương càng được
phát huy, giúp cho sự tăng thanh danh và biểu hiện bản thân.

Tinh hệ này thích hợp cho giới nghiên cứu học thuật, bởi vì bản thân "Thái Dương Thiên Lương"
đã có sắc thái giữ nguyên tắc, mà nghiên cứu học thuật là xác lập nguyên tắc hoặc xác lập định
nghĩa. Cho nên "Thái Dương Thiên Lương" không thiên về văn nghệ, dù gặp Văn Xương cũng chỉ
nâng cao năng lực lý giải và khảo cứu.

Nếu có Văn Khúc hóa Kỵ đồng độ, thì nên nghiên cứu học thuật một cách khách quan, nếu
không ắt sẽ nảy sinh nhiều tranh luận.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thiên Lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Lương hóa Khoa
(ở cung Tuất được hội Lộc Tồn), tam phương tương hội "Thiên Đồng Thái Âm" ở cung Tài bạch,
vay mượn "Thái Dương Cự Môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

Do đồng độ với Thiên Cơ, với tính chất do dự và không ổn định, cho nên tinh hệ này trái ngược
với tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" chủ về hướng ngoại mà không hướng nội. Vì vậy thích hợp
với ngành nghề như quảng bá, quan hệ công cộng, ngoại vụ,.v.v... Hóa Khoa chủ về "danh khí",
giúp cho biểu hiện về công việc.

Nếu theo những ngành nghê như nội vụ, quản lý, thiết kế,.v.v... thì cần phải phát huy phong cách
cá nhân một cách đầy đủ, thì mới có thành tựu.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối cung với Thiên Đồng, tam
phương hội "Thái Dương Thái Âm" ở cung Tài bạch, mượn "Thiên Cơ Cự Môn" nhập cung Sự
nghiệp để hội hợp. Cung Mệnh ắt dẽ gặp Đà La.

Tinh hệ này có kết cấu phức tạp, cho nên sắc thái quảng bá và văn nghệ giảm nhiều, tính chất
của Thiên Lương nhuyễn hóa thành mạo hiểm. Hóa Khoa chỉ làm tăng danh vọng trong nội bộ,
không nên dương danh ở bên ngoài, nếu không ắt sẽ mang lại tai nạn và nguy hiểm.

Nhưng do Thiên Lương hóa Khoa, nên cho dù có tai ách cũng dễ chịu đựng, còn có thể chuyển
"nguy" thành "an".

Văn Khúc hóa Khoa thủ Mệnh – Can Tân


Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông
minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều
hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn Khúc hóa Khoa hơi giống Văn Xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm
tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn Khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà
không trổ bông.

Các tính chất còn lại tham khảo ở mục "Văn Xương hóa Khoa"
Thiên Phủ hóa Khoa thủ Mệnh – Can Nhâm
Tinh hệ "Vũ Khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên Phủ hóa Khoa thì Vũ
Khúc ắt sẽ hóa Kỵ, còn đồng độ với Kình Dương hoặc có Đà La hội chiếu, đối cung là Thất Sát,
tam phương tương hội là Liêm Trinh độc tọa ở cung Tài bạch, và "Tử Vi Thiên Tướng" ở cung Sự
nghiệp mà Tử Vi hóa Quyền.

Thông thường tổ hợp tinh hệ này không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Vũ Khúc hóa Kỵ chủ về
"nhập xuất" tài chính gặp khó khăn và nhiều nan giải, còn Thiên Phủ hóa Khoa chủ về được
người ta tín nhiệm, do đó kinh doanh làm ăn dễ bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, biến
thành mối quan hệ tài chính có hệ số rủi ro rất cao. Lúc Thiên Phủ hóa Khoa chỉ thích hợp làm
việc trong ngành tín dụng hoặc chính giới, chủ về dễ được thượng cấp tin tưởng đề bạt. Có điều
không nên ở vị trí cao nhất, nếu không sẽ dễ thất bại. Ngoài ra mệnh tạo cũng thích thực thi
công việc có tính liều lĩnh, mạo hiểm có hệ số nguy hiểm cao.

Đối với nữ mệnh, phần nhiều đều bất lợi về hôn nhân, thường ít có lạc thú phòng the đối với
chồng (nhưng vẫn thích lạc thú phòng the đối với nhân tình).

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là "Liêm Trinh Thất
Sát", tam phương tương hội là Thiên Tướng ở cung Sự nghiệp, và mượn "Tử Vi Tham Lang" nhập
cung Tài bạch để hội cung mà Tử Vi hóa Quyền.

Do Thiên Phủ hóa Khoa nên tinh hệ này vẫn chủ về tốt, vì ảnh hưởng của "Tử Vi Tham Lang" ở
cung Phúc nên có lúc xảy ra mâu thuẫn. Có trí tiến thủ, chịu tiêu xài thích đáng trong giao tế,
nhưng vẫn giữ tác phong rất bảo thủ, nhất là quá xem trong chữ "tín".

Thiên Phủ hóa Khoa của tinh hệ này cũng chỉ có lợi khi ở địa vị " cấp phó". Thích hợp với những
nghề mang tính chuyên nghiệp, trong lúc làm việc thường để lại uy tín và có thể còn được nhiều
trợ lực.

Trọn lựa quyết định về địa vị đối với nhóm tinh hệ này là rất quan trọng, thường thường sẽ biểu
hiện khi đến các cung hạn như "Từ vi Tham Lang", "Vũ Khúc Phá Quân", "Liêm Trinh Thất Sát",
những hành động thuộc hậu thiên ở vào thời điểm này, có thể ảnh hưởng đến tình huống diễn
biến thực tế.

Nhưng về phương diện hôn nhân tinh hệ này cũng có khuyết điểm, nhất là nữ mệnh, hoặc người
phối ngẫu có những khiếm khuyết đáng tiếc, nên dốc tâm vào việc giáo dục con cái.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có những bản chất đã thuật ở trên, nhưng
nên lưu ý đến cơ hội thăng chức, hoặc nguồn tiền tài thay đổi theo hướng tốt, cũng chủ về là vận
thế thuận lợi toại ý nhưng vẫn rất bảo thủ.

Tinh hệ "Tử Vi Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Phủ hóa Khoa thì Tử Vi
ắt sẽ hóa Quyền, có Lộc Tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, đối cung là Thất Sát, tam phương hội cung
với Vũ Khúc hóa Kỵ độc tọa ở cung Tài bạch, và "Liêm Trinh Thiên Tướng" ở cung Sự nghiệp.
Khi Tử Vi và Thiên Phủ đồng độ, thì sức mạnh của Thiên Phủ thường khó phát huy, có lúc biến
thành gây liên lụy phản tác dụng. Nhưng trong kết cấu tinh hệ này, lực của Thiên Phủ khá mạnh,
tức có sao Lộc mà còn Hóa Khoa, sẽ ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và chí tiến thủ của Tử
Vi tuy bị giảm thấp, nhưng lại có thể tiến bộ trong sự phát triển ổn định. Tinh hệ này có sở
trường thích bàn luận về chính trị, binh pháp.

Nhưng tinh hệ này cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về không hợp tính cách với người phối ngẫu,
nhìn bề ngoài vẫn duy trì mối quan hệ hôn nhân, nhưng bên trong cấu thành nỗi đau khổ thầm
kín.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chủ về được tăng quyền lực một cách thầm
kín, lợi ích cũng nhờ đó mà tăng lên.

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Sát tinh, đối cung là "Vũ
Khúc Thất Sát" mà Vũ Khúc hóa Kỵ, tam phương tương hội là Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự
nghiệp, và mượn "Liêm Trinh Tham Lang" để nhập cung Tài bạch. Thiên Phủ ở cung Mão được
gặp Lộc Tồn.

Tinh hệ này tuy bất lợi khi đi xa, nhưng "Liêm Trinh Tham Lang" ở cung Phúc đức thường thường
lại khiến mệnh tạo phải rời xa quê hương mới phát triển tốt, dễ gặp vận trình tốt có tính phát đột
ngột. Nếu cố thủ ở nơi sinh ra, thì uy tín chỉ đạt được trong phạm vi hạn chế, sự nghiệp phát triển
nhỏ hơn, có thể vì danh tiếng trong địa phương quá nhỏ hẹp, nên thường ở vào tình cảnh bị ép
phải tham gia những cuộc thù tạc giao tế mà bản thân không thích, thậm chí còn phải hao tổn,
do đó tạo thành những phiền phức khó xử trong lòng.

Cung Thiên Di có "Vũ Khúc Thất Sát" mà Thiên Phủ hóa Khoa tương hội, cho nên sau khi trải qua
gian khổ ở xứ người, thì có thể tạo dựng được sự nghiệp và được tin tưởng, cho nên có thể xoay
chuyển được tình thế công việc đúng lúc cần thiết nhất, đây là đặc điểm của tinh hệ này khi
Thiên Phủ hóa Khoa. Ngoài ý vị thích hợp với những ngành nghề mang tính mạo hiểm có mức
độ nguy hiểm cao, nếu mệnh tạo an phận thủ thường, ở lại quê nhà thì không nên tự kinh doanh
làm ăn, chỉ thích hợp làm nhân viên hưởng lương.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, không nên mở rộng việc kinh doanh làm ăn,
chỉ chủ về vận trình tăng thêm vẻ vang.

Tinh hệ "Liêm Trinh Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Phủ hóa Khoa,
đối cung là Thất Sát, (ở cung Thìn mệnh tạo được Lộc Tồn hội chiếu), tam phương hội cung có
Tử Vi độc tọa ở cung Tài bạch, và "Vũ Khúc Thiên Tướng" ở cung Sự nghiệp mà Vũ Khúc hóa Kỵ.
Cung Mệnh gặp Sát tinh đồng độ hoặc vây chiếu.

Tinh hệ này, về sự nghiệp và hôn nhân đều có khuyết điểm.


Ở phương diện sự nghiệp, không nên tự sáng lập sự nghiệp, bất lợi nhất là các công việc hay
nghề nghiệp có liên quan đến tiền tệ, nghiệp vụ ngân hàng, không được đầu cơ vì có đầu cơ thì
cũng thất bại, nếu làm việc hưởng lương thì cũng không được quản lý tiền bạc.

Về phương diện hôn nhân, thường chủ về tái hôn, mà cũng dễ "ngó đứt mà tơ vương".

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, người kinh doanh làm ăn phải đề phòng vấn
đề xoay chuyển tiền bạc khó khăn, trắc trở về sự nghiệp.

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây
chiếu, đối cung là "Tử Vi Thất Sát" mà Tử Vi hóa Quyền, tam phương tương hội với Thiên Tướng
độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Vũ Khúc Tham Lang" nhập cung Tài bạch có Vũ Khúc hóa
Kỵ.

Tinh hệ dạng này chủ về đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng phần nhiều đều có thanh thế lớn
bề ngoài, mà bên trong chi ra quá nhiều, may mà có tín dụng chống đỡ, nên vẫn có thể vững
bước phát triển sự nghiệp.

Thiên Phủ hóa Khoa thì không sợ thiếu nguồn tiền tài, nhưng khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ
này là dễ xác định sai kế hoạch. Đạo "xu cát Tỵ hung" là cần phải kinh doanh thiết thực và sống
có tiết chế một cách thích đáng.

Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, cũng phải lưu ý khuyết điểm đã thuật ở trên.

Thái Âm hóa Khoa thủ Mệnh – Can Quý


Tinh hệ "Thiên Đồng Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ có
Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu; tam phương tương hội với "Thiên Cơ Thiên Lương" ở cung Sự
nghiệp, và mượn "Thái Dương Cự Môn" để nhập cung Tài bạch có Cự Môn hóa Quyền.

Trong tinh hệ này, Thái Âm hóa Khoa có sao Lộc là kết cấu tốt lành, nếu lại được Văn Xương,
Văn Khúc hội chiếu, thì đây là cách "Lộc Văn củng mệnh", chủ về có vợ đẹp, khoa cử công danh
thuận lợi. Ở thời hiện đại thì thích hợp nghiên cứu học thuật.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, nam chủ về phong thái nho nhã, nữ chủ về thích trang điểm làm
đẹp. Cho nên đều tạo được "hảo cảm" với người khác, nếu có tinh thần sung mãn thì toàn mỹ.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chủ về tài lộc thuận lợi toại ý, nhưng không biểu
trưng cho việc sáng lập sự nghiệp.

Tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ
đồng độ với Đà La, hoặc hội với Kình Dương Đà La; tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa
ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên Cơ Cự Môn" để nhập cung Tài bạch có Cự Môn hóa Quyền.

Do Thái Âm đồng độ với Thái Dương, nên lực của Hóa Khoa có biểu hiện kém hơn, không hiển
hách bằng Thái Dương hóa Khoa, vì vậy chỉ có hư danh về mặt danh nghĩa, mà không có lợi ích
thực tế.
Thái Dương ở cung Sửu có sức ảnh hưởng nhỏ, do đó Thái Âm hóa Khoa ở cung Sửu tốt hơn ở
cung Mùi, ở cung Sửu khi Thái Âm hóa Khoa sẽ được thực tiễn hơn. Mượn "Thiên Cơ Cự Môn"
để hội hợp mà Cự Môn hóa Quyền, cho nên thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền", có thể phát huy
năng lực phục vụ của tài nói chuyện.

Nhưng nữ mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này thì bất lợi về hôn nhân, đối với nam mệnh có thể
mượn lực của Thái Âm hóa Khoa để bổ khuyết.

Tinh hệ "Thiên Cơ Thái Âm" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Âm hóa Khoa (ở cung
Thân còn hội Lộc Tồn). Tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên
Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp.

Trong tổ hợp này, nếu Thái Âm không Hóa Khoa, thì đây là mệnh rời xa quê hương, sau khi Hóa
Khoa sẽ khiến cho bản chất vốn hiếu động trôi nổi của hai sao Thiên Cơ và Thái Âm trở thành ổn
định, có thể phát triển ở bản địa, mà còn tạo lập được danh tiếng. Có điều, nguồn tiền tài vẫn
gặp nhiều sóng gió, trắc trở, ở cung Thân thì tốt hơn.

Thái Âm hóa Khoa làm mạnh thêm sắc thái thích hợp về công việc nội vụ, vì vậy nên làm về
ngạch hành chính.

Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, Thái Âm sau khi Hóa Khoa đều có thể cải thiện tính chất vốn
bất lợi ở cung Phối. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về được người ta
tán thưởng những biểu hiện của bản thân mệnh tạo, quan trọng nhất là nắm bắt được cơ hội để
phát vượt lên.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thiên Đồng; tam
phương tương hội với Thái Dương độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự
nghiệp. Kết cấu tinh hệ này, "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Thái Âm hóa Khoa ở cung Mão không bằng ở cung Dậu, vì ở cung Mão thì lạc hãm, và không
thành cục "phản bối" (không gặp sao Lộc, Thái Dương ở cung Hợi lại đồng độ với Đà La). Cho
nên Thái Âm hóa Khoa ở cung Dậu dễ được người ta trọng dụng, còn ở cung Mão thì trở thành
tự sùng bái cá nhân mình.

Tinh hệ có một ưu điểm, bất kể ở cung Mão hay ở cung Dậu, đều chủ về làm tăng phong thái của
mệnh tạo, có phong cách cá nhân đặc biệt. Nhưng ở thời hiện đại, nhóm sao này, lại thường có
khuynh hướng "đồng tính luyến ái", khi Thái Âm hóa Khoa sẽ làm tăng lực hấp dẫn càng mạnh
thêm.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về tâm tình vui vẻ.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn gặp Lộc Tồn),
gặp Thái Dương ở đối cung độc tọa; tam phương tương hội với Thiên Cơ độc tọa ở cung Tài
bạch, và "Thiên Đồng Thiên Lương" ở cung Sự nghiệp.
Thái Âm nếu không hóa Khoa, thì ở cung Tuất ưu hơn ở cung Thìn. Nhưng sau khi Hóa Khoa có
thể chủ về nắm quyền về hình pháp, quân đội hay cảnh sát, ở cung Tuất vẫn tốt hơn.

Thái Âm hóa Khoa ở cung Tuất thì cung Di là Thái Dương ở cung Thìn, hội Lộc Tồn và chia ra
một sao Hóa Quyền một sao Hóa Khoa, kết cấu này vận trình sáng sủa hơn xa Thái Âm ở cung
Thìn, vì vậy nên rời xa quê hương để phát triển chủ về dễ được quý hiển. Đây là sự khác biệt rất
quan trọng giữa hai cung Thìn và Tuất.

Nhưng bất kể trong tình huống nào, Thái Âm ở "thiên la địa võng" đều ưa Hóa Khoa, có thể đột
phá "thiên la địa võng" mà tỏa ánh sáng, dẫn tới đời người ắt sẽ có biểu hiện tốt, hơn nữa còn có
thể cải thiện sự bất lợi về hôn nhân.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, có Đà La đồng độ hoặc hội Kình
Dương Đà La; đối cung với Thiên Cơ, tam phương hội hợp với "Thái Dương Thiên Lương" ở cung
Sự nghiệp, và mượn "Thiên Đồng Cự Môn" nhập cung Tài bạch có Cự Môn đồng thời hóa Quyền.

So sánh hai cung, ở cung Tỵ không bằng ở cung Hợi, Hóa Khoa chỉ hơi cải thiện khuyết điểm lúc
lạc hãm. Ở cung Hợi có thể theo ngành nghề chuyên về kế hoạch, vạch kế sách, thiết kế, phần
nhiều đều có biểu hiện tốt, cũng thích hợp với kế hoạch tài vụ, có thể thành danh.

Nhưng Thái Âm ở hai cung này đều rất dễ xảy ra đau khổ vì tình, nhất là nữ mệnh gặp Thái Âm
thủ Mệnh ở cung Tỵ, thường thường nỗi đau khổ trong lòng suốt đời sẽ không thể quên

Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, ở cung Hợi thì có lợi ích thực tế, ở cung Tỵ thì chỉ
được hư danh.

Thái Dương hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Giáp


Thái Dương hóa Kỵ ở cung Tý là lạc hãm, hóa Kỵ có tính chất không tốt, nên giấu bớt tài năng,
chọn sách lược thủ thành, hơi lộ sự sắc xảo lập tức bị trắc trở. Lúc chưa gặp thời cơ nên tự
ngầm tu dưỡng (như tự bồi dưỡng trình độ để có cơ hội thăng chức, chuyển nghề). Về sức khỏe
nên đề phòng bật tật ở mắt, đầu choáng mắt hoa, tuổi già đề phòng bệnh phủ tạng.

Tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" đồng độ ở cung Sửu, khi gặp Thái Dương hóa Kỵ thì đời người lên
xuống vô thường, tuổi trẻ ít có duyên với Cha, ít được thượng cấp quan tâm và đề bạt. Còn ngại
có Đà La đồng độ, dễ biến thành tiêu cực, hoặc chần trừ lần nữa mà làm mất cơ hội. Nếu cung
Phụ mẫu gặp Cát tinh, thì nên đề phòng vì đối với cha mẹ nuông chiều mà thành ỷ lại.

Tinh hệ "Thái Dương Cự Môn" đồng độ ở cung Dần, có Lộc Tồn đồng cung, lúc Thái Dương hóa
Kỵ chủ về đời người gặp nhiều điều tiếng thị phi, thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm
tiền", cũng là Đạo "xu cát Tỵ hung" vậy. Cuộc đời sau khi trải quan nhiều trắc trở mới ổn định,
hơn nữa còn bị một trận tai nạn nghiêm trọng, và không có duyên với cha mẹ.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" ở cung Mão, có Kình Dương đồng độ, lúc Thái Dương hóa Kỵ
là "biến cảnh", chủ về tuổi trẻ phải trải qua gian nan trắc trở mới thành hữu dụng, nhưng vẫn
không có duyên với cha mẹ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp "biến cảnh" lại có lợi về cạnh tranh,
có thể thắng lợi vào lúc cuối.

Thái Dương hóa thành sao Kị ở cung Thìn, là rơi vào "Thiên la Địa võng", chủ về có khoảng ngăn
cách giữa hai đời rất sau nặng, mà mệnh tạo còn phải tự lập không được Cha Mẹ che trở. Lúc
trẻ còn gặp thêm Văn Xương Văn Khúc hóa thành sao Kị ở lưu niên hay đại hạn, thường thường
chủ về bỏ dở việc học hành.

Thái Dương hóa Kỵ ở cung Tỵ, gặp Đà La, cũng chủ về dùng "lời nói để kiếm tiền".

Thái Dương hóa Kỵ ở cung Ngọ, bất lợi đối với Cha, phần nhiều là "sinh ly" hay "tử biệt", còn khó
được cấp trên tin tưởng đề bạt. Ngoài ra còn chủ về nội tâm tróng rỗng, dễ đau khổ về tình cảm.
Sự nghiệp lớn lao nhưng trống rỗng. Theo đạo "tìm cát tránh hung" là phải phát triển một cách
thiết thực, không được khoa trương, nhất là lúc đến đại hạn hoặc lưu niên có Thái Dương song
hóa Kỵ, thường dễ bị thất bại. Về sức khỏe thì nên đề phòng bệnh tật ở mắt, huyết áp cao, tắc
nghẽn mạch máu (vascular thrombosis), trúng phong.

Tinh hệ "Thái Dương Thái Âm" đồng độ ở cung Mùi, có Kình Dương Đà La giao hội, mà Thái Âm
lạc hãm còn Thái Dương thì lại hóa Kỵ, kết cấu này ít duyên phận với cha mẹ, gặp thêm Hỏa tinh
Linh tinh thì dễ bị cha mẹ bỏ rơi. Nữ mệnh chủ về trưởng tử yểu mạng, hoặc sinh không đủ
tháng, vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Thái Dương hóa Kỵ ở cung này, còn chủ về quan
hệ giao tế phần nhiều không được như ý, cần phải tự tìm lối đi, không được sinh tâm lý ỷ lại.

Tinh hệ "Thái Dương Cự Môn" đồng độ ở cung Thân, có Lộc Tồn vây chiếu, mà Thái Dương hóa
Kỵ, chủ về hôn nhân bất lợi, cũng bất lợi về đời sống tình cảm. Nữ mệnh càng dễ bị đàn ông gây
phiền lụy, nên kết hôn với người ở nơi xa hay người ngoại quốc. Về phương diện sự nghiệp có
oán trách rất lớn, cho dù theo những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền" cũng gặp nhiều thị phi rắc
rối không thể tự giải quyết, mức độ ảnh mang tính cộng đồng xã hội.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" ở cung Dậu, mà Thái Dương hóa Kỵ, chủ về rất chủ quan và
thiếu nguyên tắc, tuy có Thiên Lương hóa giải, cũng dễ vì tính chủ quan mà gây nên rắc rối rất
phiền phức. Theo đạo "tìm cát tránh hung" thì nên theo nghiên cứu học thuật đối với bộ môn ít
được chú ý, hoặc những nghề mà ít người làm, thì có thể thuận lợi toại ý hơn.

Thái Dương hóa Kỵ ở cung Tuất là cung độ rất yếu, lúc còn nhỏ có thể "sinh ly" hay "tử biệt" với
cha, đường đời nhiều gập gềnh, thường hay bất đắc trí. Về sức khỏe nên phòng bệnh tiểu đường,
bệnh tim mạch, bệnh về mắt.

Thái Dương hóa Kỵ ở cung Hợi chủ về không có duyên với cha mẹ, trước 30 tuổi cuộc đời nhiều
chìm nổi, sau 30 tuổi mới phát vượt lên, thường thường có thể tay trắng làm lên. Về sức khỏe dễ
mắc bệnh ở mắt và ở khoang miệng. Nữ mệnh không nên lấy chồng trong giới kinh doanh làm
ăn, nếu không chồng dễ thay đổi tình cảm.
Thái Âm hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Ất
Thái Âm hóa thành sao Kị ở cung Tý, đồng độ với Thiên Đồng. Đối với nữ mệnh thì rất ưa trang
điểm, chải chuốt, làm đẹp, nhưng tính cách điệu nghệ thuật không cao, thường dễ bị người ta
phê bình cách thức trang điểm của bản thân đương số.

Đối với nam mệnh thì có nội tài, dễ được người khác giới để mắt, nhưng lại thiếu duyên phận. Về
hôn nhân, nam mệnh và nữ mệnh đều nên nhờ người giới thiệu, và nên kết hôn muộn, nếu không
sẽ chủ về duyên phận không đủ.

Khi gặp hoặc Văn Xương, hoặc Văn Khúc, thì thường là văn sỹ nghèo nàn, thất chí, nhưng cũng
có chút thanh danh.

Về sức khỏe phần nhiều chủ về bệnh ở mắt, như bệnh nốt ruồi bay, nếu có thêm các sao Sát
Hình nặng, thì có thể bị mù.

Thái Âm hóa Kỵ ở cung Sửu, là Thái Âm và Thái Dương đồng cung. Vì Thái Âm hóa Kỵ nên gây
lụy cho Thái Dương, khiến tăng thêm vất vả khổ lụy, và không có duyên với cha mẹ.

Cuộc đời và sự nghiệp có tính lưu động khá lớn, dễ thay đổi nghề, mà nghề thường thường cũng
là loại "lao tâm tổn thần", cũng chủ về có lúc cuộc sống dễ chịu thì lại không có tinh thần làm
việc, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp.

Thái Âm hóa Kỵ ở cung Dần, là "Thiên Cơ Thái Âm" đồng độ với Đà La, Thiên Cơ đồng thời hóa
Lộc. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì tình hình tiền bạc trong tương lai khá nghiêm trọng.
Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên Cơ hóa Lộc".

Thái Âm hóa Kỵ ở cung Mão, khá bất lợi về hôn nhân, tình hình dễ xuất hiện nhất là vợ chồng gặp
nhau ít mà xa nhau nhiều, nhất là đối với nữ mệnh, nên kết hôn muộn. Nam mệnh thì phần nhiều
sự nghiệp chìm nổi thất thường, chỉ thích hợp làm công hưởng lương, không thích hợp tự kinh
doanh làm ăn, tự kinh doanh làm ăn sẽ dễ xảy ra trắc trở và thất bại.

Thái Âm rất ngại hóa Kỵ ở cung Thìn, hội Sát tinh, cần phải rời xa quê hương để phát triển, nếu ở
bản địa sẽ gặp nhiều áp lực. Nếu có các sao Sát - Hình đồng độ, thì có lợi khi rời xa quê hương
có thể làm những ngành nghê thủ công để mưu sinh, ở thời hiện đại có thể làm những nghề về
khoa học kỹ thuật. Nam mệnh và nữ mệnh, hôn nhân đều bất lợi, nên kết hôn muộn.

Thái Âm hóa Kỵ ở cung Tỵ, cũng nên chủ động rời khỏi quê hương để phát triển. Cung Di là Thiên
Cơ hóa Lộc hội Thiên mã, là cách "Lộc Mã giao trì", nếu xuất ngoại ắt sẽ sáng sủa phát đạt.

Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, an Mệnh tại cung Tỵ này đều bất lợi đối với người thân phái nữ.
Cho nên nam mệnh hôn nhân không tốt đẹp, thường thường phải tái hôn mới sống đến bạc đầu.

Tinh hệ "Thái Âm Thiên Đồng" đồng độ ở cung Ngọ, mà Thái Âm hóa Kỵ, cần phải xem xét tình
hình của tinh hệ hội hợp mà định. Nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, sẽ chủ về rời xa quê
hương, hoặc chủ về "song trùng phụ mẫu".
Thái Âm hóa thành sao Kị ở bản cung, thường thường bị ảnh hưởng về sự nghiệp, chủ về có biên
độ lên xuống thất thường rất lớn, vì vậy nên làm những công việc có tính thiết thực, cũng chủ về
có khuynh hướng "đồng tính luyến ái" như Thái Âm hóa Kỵ ở cung Tý.

"Thái Âm đồng cung với Thái Dương" ở cung Mùi, mà Thái Âm hóa Kỵ, còn Thái Dương cũng bắt
đầu ngả về chiều, cho nên bất lợi đối với cha mẹ, bất lợi nhất là người thân phái nữ. Nếu Sát tinh
quá nặng, cũng chủ về Mẹ sống cảnh góa bụa.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, thường thường đều có tính bên
ngoài thì "cương" mà bên trong thì "nhu", cho nên phần nhiều đều gặp trắc trở về sự nghiệp và
tình cảm (ngược lại: ngoại nhu nội cương?).

"Thái Âm Thiên Cơ" đồng độ ở cung Thân, mà Thái Âm hóa Kỵ, cũng có tình hình "cọp mà ăn
thức ăn của mèo". Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên Cơ hóa Lộc".

Thái Âm hóa Kỵ ở cung Dậu, nữ mệnh rất bất lợi về tình cảm, thường chủ về làm "nhị phòng" hay
"kế thất", nếu không khó có thể sống với nhau đến bạc đầu. Đối với nam mệnh chủ về lang bạt
tha hương rồi mới tay trắng làm nên, nhưng vẫn chủ về "danh" lớn hơn "lợi", mức độ thu nhập
tăng theo địa vị xã hội, và không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Dễ được phái nữ yêu thích, nên
cũng gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm, do vậy lãng phí rất nhiều thời gian của đời người.

Thái Âm hóa Kỵ ở cung Tuất, không có ảnh hưởng xấu, Thái Dương ở Thìn đối cung là ánh sáng
đang hiển lộ, Thái Âm đối nhau ở xa xa, là cách ưu mỹ. Nên Thái Âm hóa Kỵ chỉ chủ về thiếu
phúc ấm của cha mẹ, nhưng lại biểu trưng cho "tay trắng làm nên".

Thái Âm rất ưa hóa Kỵ ở cung Hợi, là "biến cảnh". Thái Âm lúc này tỏa sáng, khi Hóa Kỵ chỉ chủ
về đời người phải trải qua một giai đoạn đau khổ, nhờ vào đó mà thành tựu được sự nghiệp.

Nhưng "tam phương tứ chính" có các sao hội hợp phần nhiều có tính "lưu động", cho nên bất kể
là nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về dễ gặp rắc rối khó xử về tình cảm, thường vì có khuynh
hướng yêu đương lãng mạn (nên gia đình khó tránh khỏi sứt mẻ hay đổ vỡ).

Liêm Trinh hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Bính


"Liêm Trinh Thiên Tướng" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kỵ, đồng độ với
Kình Dương, hoặc hội với Kình Dương Đà La, đối cung là Phá Quân, tam phương tương hội với
"Tử Vi Thiên Phủ" và Vũ Khúc độc tọa.

Liêm Trinh hóa thành sao Kị ở tinh hệ này chủ về trắc trở và bị người ta kiềm chế, tuyệt đối
không nên cố tự xuất đầu lộ diện, nếu không ắt sẽ tổn thất hoặc phá tán, thất bại. Rất ngại có
Hỏa tinh đồng độ, chủ về tình cảm bị trắc trở nghiêm trọng mà nảy sinh ý định tự sát. Có lúc
cũng vì bản thân sai lầm mà gây hậu quả trọng đại. Đặc biệt không nên hợp tác với người khác.

Nhưng tinh hệ này lại chủ về có được nguồn tiền tài toại ý. Đại khái là, không những có thể kiếm
tiền mà còn có thể tích lũy. Cho nên, người gặp tinh hệ này, rất nên chọn sách lược thủ thành,
không thể quá gấp cầu thành công, đồng thời cần phải biết mức độ nặng nhẹ nhiều ít của cá tính
"tự ái", thì mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được. Có thể vì tính "tự ái" không đúng lúc đúng
chỗ, mà biến thành "hợp lực" đạp đổ kết quả thành tựu đã đạt được.

"Liêm Trinh Thất Sát" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu gặp Lộc Tồn), mà Liêm
Trinh hóa Kỵ, tứ chính đối nhau với Thiên Phủ, tam phương hội hợp với "Tử Vi Tham Lang" và "Vũ
Khúc Phá Quân".

Do Liêm Trinh hóa thành sao Kị, nên "Liêm Trinh Thất Sát" ở cung Mùi không thành cách "Hùng
tú Kiền nguyên", vì vậy ở cung Sửu là tốt hơn, đời người khá thuận lợi toại ý.

Cũng do Liêm Trinh hóa Kỵ, nên "Liêm Trinh Thất Sát" ở hai cung độ này không thích hợp theo võ
nghiệp, nếu theo võ nghiệp e rằng bất trắc. Tinh hệ này rất kị các sao Sát - Hình, chủ về đời
người gặp nhiều gian khổ, rất thích hợp trong lĩnh vực sản xuất, làm việc hưởng lương, nếu tự
kinh doanh làm ăn thì sẽ sinh phá tán thất bại.

Tinh hệ này cũng chủ về tính "giao du thù tạc", thường chịu lãng phí tiêu tiền và lãng phí thời gian
về phương diện này, nhưng sự lãng phí này không mang lại hiệu quả gì như dự liệu. Phần nhiều
tốn tiền chỉ do ưa thích, ví dụ như mua sắp quần áo thời trang không cần thiết, đây là đặc điểm
của tinh hệ này.

Liêm Trinh độc tọa, Hóa Kỵ ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Kình Dương hoặc Đà La, tứ chính là
Tham Lang ở đối cung, tam phương hội hợp là "Vũ Khúc Thiên Phủ" và "Tử Vi Thiên Tướng".

Do Liêm Trinh hóa Kỵ, nên Liêm Trinh của cung Thân cũng không thành cách "Hùng tú Kiền
nguyên".

Tinh hệ của bản cung có sắc thái "ưu uất", nhưng trưng diện khá sa hoa, thường ứng xử vui vẻ
lấy tiền bạc giúp bạn bè, mà không xem trọng việc tích lũy tiền bạc cho gia đình, vì vậy bị người
phối ngẫu oán trách.

Bất lợi về hôn nhân, tính cách của người phối ngẫu không hợp với bản thân mệnh tạo, trong cuộc
đời dễ nảy sinh tình yêu đối với người đã có gia thất bất kể là nam hay nữ, có tình mà không có
duyên là đặc điểm của tinh hệ này.

"Liêm Trinh Phá Quân" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu gặp Lộc Tồn), mà Liêm
Trinh hóa Kỵ, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Tử Vi Thất Sát" và "Vũ Khúc
Tham Lang".

Tinh hệ này có tính chất suy sụp nhanh chóng, ở cung Mão nghiêm trọng hơn ở cung Dậu. Cho
nên đạo "tìm cát tránh hung" là phải xem xét Lưu niên để tiến thoái hợp thời cơ.

"Liêm Trinh Phá Quân" ở cung Dậu có Thiên Hình đồng độ, thì nên đề phòng sự cố giao thông,
cũng chủ về gông cùm, hay thú dữ cắn. Cung Thiên Di mà gặp tinh hệ này lúc đi xa nên phòng
xảy ra bất trắc. Xem xét các sao của Lưu niên để định tình hình cụ thể, mức độ nặng nhẹ.
Tinh hệ này còn có một sắc thái đặc biệt khác, đó là cuộc đời ắt có một thời kỳ tiền bạc qua tay
rất nhiều, nhưng khi vận thế qua rồi thì lại buồn rầu lo lắng vì túng thiếu. Do đó nhân sinh quan
có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh.

"Liêm Trinh Thiên Phủ" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Liêm Trinh hóa Kỵ ắt sẽ có Đà La
đồng độ, hoặc Kình Dương Đà La hội chiếu, đối cung là Thất Sát, tam phương tương hội với Tử
Vi độc tọa và "Vũ Khúc Thiên Tướng".

Liêm Trinh hóa Kỵ ở 12 cung, hai cung Thìn và Tuất là khá tốt, vì Hóa Kỵ trong "Thiên là Địa
võng" sẽ chủ về làm tăng ý chí phấn đấu, tuy cuộc đời thành bại bất nhất, nhưng tâm cảnh vẫn
giữ được sự cởi mở, tốt nhất là ở cung Tuất, thường dễ vượt hơn nhiều người.

Do đối cung là Thất Sát, nên cũng phải đề phòng sự cố giao thông.

Tinh hệ này bất lợi về tình cảm, vợ chồng tính cách không hợp nhau, nên phần nhiều có ngoại
tình, nhưng không dễ vợ chồng nói lời chia tay.

"Liêm Trinh Tham Lang" đồng độ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, Liêm Trinh hóa Kỵ ắt sẽ có Lộc Tồn
đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tương hội "Tử Vi Phá Quân" và "Vũ Khúc Thất Sát".

Tinh hệ này có sắc thái ưu uất rất nặng, nếu không gặp thêm các sao "văn" nhuyễn hóa trở thành
có tính văn nghệ, thì cuộc đời phần nhiều sẽ tự đi tìm sự phiền phức, nhất là rắc rối về tình cảm,
mệnh tạo thường lấy đau khổ làm niềm vui, thường ảo tưởng bắt chước phong cách của người
phi thường. Có thêm Địa không Địa kiếp thì càng nặng.

Sắc thái đặc biệt của tinh hệ này là không có khả năng quản lý tài chính một cách hiệu quả, do
đó thường có hiện tượng tiền vào tay trái rồi ra bằng tay phải.

Trong số các tinh hệ Liêm Trinh, thì tinh hệ này (Liêm Tham) mang sắc thái bôn ba phiêu bạt
nhất. Cho nên không thích hợp với nữ mệnh, đời người quá nhiều sương gió, không ổn định.

Cự Môn hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Đinh


Cự Môn hóa Kỵ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên Cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc Tồn đồng
độ hoặc vậy chiếu, tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên
Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền.

Cự Môn hóa Kỵ trong tinh hệ này, có một đặc điểm là thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực
"kích phát". Sự cố trắc trở đang trong quá trình phát triển thì bỗng nhiên ngưng lại, nhưng mỗi
lần gặp trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục được hoàn thiện và hoàn mỹ hơn. "Thấy
hung nhưng thực ra là cát" là một đặc điểm của tinh hệ này.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới nhưng tình cảm vẫn duy
trì lâu dài, hoặc lúc tình cảm trở thành sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly.

Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại thành sức mạnh "kích phát".
"Thiên Đồng Cự Môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự Môn hóa Kỵ thì Thiên Đồng ắt sẽ
hóa Quyền. tham khảo ở đoạn thuật "Thiên Đồng hóa Quyền".

"Thái Dương Cự Môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc Tồn), Cự Môn
hóa Kỵ, tam phương mượn "Thiên Cơ Thiên Lương" mà Thiên Cơ hóa Khoa, và mượn "Thái Âm
Thiên Đồng" trong đó một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền.

Tinh hệ này thành cách "Tứ Hóa hội hợp", nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kỵ nên rất bất lợi
về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, cho nên không thích hợp
với nữ mệnh đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách
đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thiếu duyên với Cha, hoặc dễ xung
đột với thượng cấp.

Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", như
luật sư, dạy học,.v.v... nhờ có "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

"Thiên Cơ Cự Môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Kỵ ắt Thiên Cơ hóa
Khoa. tham khảo ở mục "Thiên Cơ hóa Khoa".

Cự Môn độc tọa, Hóa Kỵ ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Tuất ắt sẽ gặp Lộc Tồn), Thiên Đồng
của đối cung hóa Quyền, tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Cơ Thái
Âm" mà Thái Âm hóa Lộc còn Thiên Cơ hóa Khoa.

Cự Môn hóa Kỵ ở "Thiên la Địa võng" lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy hung mà thực ra là cát" rất
rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, rắc rối, thị phi, nhưng kết cục lại khiến cho người ta
bất ngờ, có điều vẫn khó tránh khỏi phải trải qua gian khổ, tâm tư nhiều lo nghĩ.

Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, hoặc Địa không Địa Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời
nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo lại ưa giải quyết khó khăn giúp cho người khác, nên sự
nghiệp tuy ổn định có chiều hướng tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên Tỵnh.

Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự
nghiệp.

Cự Môn độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối nhau với Thái Dương, ắt sẽ gặp Kình Dương
Đà La, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương tương hội với Thiên Đồng độc tọa hóa Quyền và
Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa.

Thông thường tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, khi Cự Môn hóa Kỵ ở cung Hợi
càng nhẹ hơn. Nhưng tình trạng điều tiếng thị phi, sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng.

Nam mệnh ắt lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt lấy được chồng có sự nghiệp tốt. Bàng nhân thiên hạ
nhìn bề ngoài đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng bên trong họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau
trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên.
Thiên Cơ hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Mậu
Thiên Cơ độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý thì bị Kình Dương Đà La chiếu xạ, ở
cung Ngọ thì đồng độ với Kình Dương), tứ chính đối cung là Cự Môn độc tọa, tam phương tương
hội với "Thiên Đồng Thiên Lương" và Thái Âm độc tọa hóa Quyền.

Tổ hợp tinh hệ của hai cung này, chủ về cách suy nghĩ của mệnh tạo khó giải quyết vấn đề, một
sự cố đơn giản có thể biến thành cục diện phức tạp, vì vậy mà kế hoạch sai lầm. Do tính chất
này, còn có thể mở rộng thành tình trạng "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn",
hoặc làm việc không có phương pháp, thiếu mạch lạc, lớp lang.

Thương thường, khi Thiên Cơ hóa Kỵ còn biểu trưng cho là "kinh sợ", hoặc bị uy hiếp, trong
thương trường thì đột nhiên bị cạnh tranh không lành mạnh, trong chính giới thì hai bên công
kích lẫn nhau.

Lúc có các sao Sát - Hình cùng chiếu, chủ về điềm tượng di chứng của bệnh tật, như bán thân
bất toại, tứ chi tổn thương tàn tật. Ở cung Ngọ nặng hơn ở cung Tý.

Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kỵ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu thì gặp Lộc Tồn), đối cung là
Thiên Lương, tam phương hội hợp với Thiên Đồng đọc tọa và Cự Môn độc tọa.

Do đối nhau với Thiên Lương, nên tinh hệ này chủ về tình trạng gặp rắc rối, phiền phức, tuy nhiên
cuối cùng cũng hóa giải được, nhưng phải hao tổn tinh thần rất nhiều.

Liên quan đến sự cố phiền phức đột nhiên xuất hiện, thường thường có liên quan đến việc vạch
kế hoạch sai lầm, vì vậy nội tâm càng nhiều lo lắng.

Tinh hệ này còn chủ về những rắc rối khó xử trong tình cảm và hôn nhân. Nam mệnh thì người
phối ngẫu ưa lộ sự sắc sảo, nữ mệnh thì dễ bất hòa với chồng.

"Thiên Cơ Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Thiên Cơ hóa Kỵ thì Thái Âm hóa Quyền.
Tham khảo ở đoạn thuật "Thái Âm hóa Quyền".

"Thiên Cơ Cự Môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu sẽ gặp Lộc Tồn), tam
phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa, và mượn "Thái Dương Thái Âm" để nhập cung, trong đó
Thái Âm hóa Quyền còn Thái Dương hóa Khoa.

Tinh hệ "Thiên Cơ Cự Môn" đồng độ vốn đã có tính chất "phá phách", khi Thiên Cơ hóa Kỵ sẽ làm
mạnh thêm tính chất "phá phách" này. Do đó chủ về không theo đuổi một ngành nghề nào
chuyên nhất, đứng núi này trông núi nọ, mệnh tạo thường cảm thấy mình có tài mà không gặp
thời.

Tinh hệ này còn chủ về trong quan hệ giao tế, thường hay "nói năng lỡ lời", mà thường thường bị
thất thố vào những lúc quan trọng.

Do "Thiên Cơ Cự Môn" đồng cung, cho nên thích hợp làm công việc có tính chất "nhờ miệng lưỡi
để kiếm tiền".
"Thiên Cơ Thiên Lương" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ hóa Kỵ đồng độ với Đà
La, hoặc bị Kình Dương Đà La hội chiếu, tam phương hội hợp với "Thiên Đồng Thái Âm" mà Thái
Âm hóa Quyền, và mượn "Thái Dương Cự Môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

Do có Thái Âm và Thái Dương hóa thành sao Cát hội chiếu, các Sao hội hợp lại không phải là "vô
lực" (Cơ Lương ở cung Thìn thì càng tốt), cho nên tinh hệ này chủ về Thiên Lương phải hao tổn
sức lực để hóa giải những gì Thiên Cơ hóa Kỵ gây ra. Biểu trưng cụ thể là có sắc thái "rời xa
người thân", "lưu lạc", "tính hiếu động trôi nổi", "do dự không quyết đoán", "xử sự sai lầm gây nên
sóng gió trắc trở",.v.v...

Tinh hệ Cơ Lương vốn có năng lực "dự cảm", nhưng sau khi Thiên Cơ hóa Kỵ, sẽ rất dễ vì quá "dự
cảm" mà biến thành quá lo lắng, dẫn đến quyết đoán sai lầm, nhất là ở cung Tuất thì càng đúng.

Thiên Cơ độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối
cung là Thái Âm hóa Quyền, tam phương hội hợp với "Thiên Đồng Cự Môn", và mượn "Thái
Dương Thiên Lương" nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

Tinh hệ này thường chủ về "cơ quan dùng lầm", bao gồm sự nghiệp và tình cảm. Cho nên hễ tâm
bình thường mà xử sự, thì không xảy ra sóng gió, trắc trở. Nếu tâm không bình thường, thì sẽ nổi
sóng gió ngoài dự liệu của mọi người.

Thiên Cơ độc tọa ở cung Hợi còn chủ về hư danh, về tình cảm rất dễ bị quấy nhiễu gây khó khăn.

Ngoài ra tinh hệ này còn chủ về dễ bị uy hiếp, và bị áp lực vô hình. Nếu Hỏa tinh, Linh tinh đồng
độ với Thiên Cơ hóa Kỵ, thì nên đề phòng lúc vãn niên sẽ bị "trúng phong".

Văn Khúc hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Kỷ


Văn Khúc hóa Kỵ, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn Khúc vì hóa Kỵ mà bị trắc
trở.

Văn Khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kỵ thì nói năng sai lầm.

Văn Khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kỵ thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra
phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn Khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kỵ thì vì vậy gây ra
sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì
biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn Khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kỵ thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn Khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kỵ thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể
nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.
Văn Khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kỵ thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội
hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có
tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kỵ.

Văn Khúc hóa Kỵ, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn Khúc hóa Kỵ, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh
cảm giác có tài mà không gặp thời.

Trên là thuật những nguyên tắc cơ bản, cần xem xét thêm các sao hội hợp mà định tình huống
cụ thể.

Thiên Đồng hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Canh


"Thiên Đồng Thái Âm" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc Tồn), Thiên
Đồng hóa Kỵ, tam phương hội hợp với "Thiên Cơ Thiên Lương", và mượn "Thái Dương Cự Môn"
để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.

Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kỵ quấy rối.

"Thiên Đồng Thái Âm" ở cung Ngọ đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kỵ thường biểu trưng cho
lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến hội chứng "suy nhược thần kinh", lại còn tự
chuốc lấy rắc rối về tình cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần thiết.

Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.

Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi,
có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết, nhưng tài lộc
vẫn không lo bị thiếu.

"Thiên Đồng Cự Môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà La, ở
cung Sửu thì bị Kình Dương Đà La hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kỵ, tam phương hội hợp với Thiên
Cơ độc tọa, và "Thái Dương Thiên Lương" mà Thái Dương hóa Lộc.

Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kỵ rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó
xử trong tình cảm, do đó dẫn đến "điều tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần
kinh, như thoái hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị
"trúng phong", thậm chí có thể "bán thân bất toại".

Do có tinh hệ "Thái Dương Thiên Lương" hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy cũng thích hợp
nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kỵ càng biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc nghiên cứu,
nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.

"Thiên Đồng Thiên Lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Đồng hóa Kỵ ắt sẽ có
Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp với Thái Âm độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.
Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng
kiếm tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên
một nghề, không chuyên nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng
đến sự ổn định của cuộc sống.

Đặc biệt là lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó
xử sự không hòa hợp. Thiên Đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình Dương, ở
cung Mão thì bị Kinh dương Đà La chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam phương hội hợp
với Cự Môn độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.

Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có khuynh hướng "suy nhược thần
kinh". Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh
hệ này.

Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc "đố kị", "điều tiếng thị phi", thường thường là do mệnh tạo cố
tránh "điều tiếng thị phi" mà ra, đúng với câu nói "càng sợ thì càng gặp nhiều". Nhưng Thiên
Đồng ở cung Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc Tồn), đối cung
là Cự Môn, tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa và "Thái Âm Thiên Cơ".

Hai cung Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kỵ sẽ biến thành lực kích phát,
do đó thường là cách "phản bối", có thể không thành cách "phản bối" nhưng cũng chủ về nhờ trải
qua nhiều biến động thay đổi mà thành người hữu dụng.

Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến
động thay đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp
cơ hội phát đạt đột ngột, có ý vị "vô tình cắm liễu, liễu xanh um".

Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội
hợp với "Thiên Cơ Cự Môn", và mượn "Thái Dương Thái Âm" nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.
Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Kình Dương hoặc Đà La.

Thiên Đồng ở hai cung Tỵ hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kỵ chỉ làm tăng "tâm trạng không ổn
định".

Nhưng có lúc "tâm trạng không ổn định" này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người phối
ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng gió trắc trở trong
đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu
không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình cảm.
Văn Xương hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Tân
Văn Xương hóa thành sao Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử,
làm hợp đồng, gửi văn thư,.v.v... đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền
phức không cần thiết. Tóm lại, Văn Xương hóa Kỵ là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn Xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư
thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn
Khúc hóa Kỵ, khi Văn Xương hóa Kỵ là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác,
mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn Khúc hóa Kỵ thì trách nhiệm là do
bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn Xương hóa Kỵ thường dễ
vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn Xương hóa Kỵ, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc
trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học
mà không dùng", Văn Xương hóa Kỵ cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn Xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn Xương hóa Kỵ còn là
điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ,
cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn Xương hóa Kỵ chủ về "lốm đốm", cho
nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

Trên là những ý vị phổ biến và khái quát của Văn Xương hóa Kỵ, cần phải xem xét các sao hội
hợp thực tế mà định tính chất cụ thể.

Vũ Khúc hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Nhâm


"Vũ Khúc Thiên Phủ" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Vũ Khúc hóa Kỵ thì Thiên Phủ ắt sẽ
hóa Khoa. Tham khảo mục Thiên Phủ - can Nhâm hóa Khoa.

"Vũ Khúc Tham Lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì gặp Lộc Tồn), mà Vũ
Khúc hóa Kỵ, tam phương hội hợp với "Liêm Trinh Phá Quân" và "Tử Vi Thất Sát" mà Tử Vi hóa
Quyền.

Tinh hệ này thường chủ về lý tưởng quá cao mà "lực bất tòng tâm" (bao gồm cả năng lực tài
chính), vì vậy xảy ra thất bại. Cho nên có lúc cũng chủ về việc sắp thành lại hỏng.

Nếu có các sao đào hoa đồng độ, thì nên theo ngành nghệ thuật biểu diễn, giải trí, vui chơi, v.v...
thì lại có thể phát huy. Nếu có Sát tinh đồng độ, thì thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ
thuật. Việc theo những ngành nghề này, còn có thể hóa giải đặc tính xấu của Vũ Khúc hóa Kỵ,
nhưng vẫn khó tránh gặp phải rắc rối về tinh cảm.

Nếu có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về sau khi phát lên một cách đột ngột sẽ dễ bị suy sụp
nhanh chóng. Cần phải xem xét các sao Lưu niên để tìm cách "xu cát Tỵ hung".
"Vũ Khúc Thiên Tướng" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Vũ Khúc hóa Kỵ, đối cung là Phá
Quân, tam phương là "Liêm Trinh Thiên Phủ" mà Thiên Phủ hóa Khoa, lại hội Tử Vi hóa Quyền.

Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều hội Sát tinh.

Tinh hệ này có hai điểm bất lợi: Một là, hôn nhân dễ sóng gió, trắc trở trọng đại; Hai là, ưa hợp
tác với người khác để sáng lập sự nghiệp, nhưng thường vì nóng lòng muốn mau thành, mà bị
tổn thất, thất bại.

Đạo "xu cát Tỵ hung" là kết hôn muộn, rất nên thận trọng trong việc lựa trọn bạn đời. Phải suy
tính kỹ lưỡng kế hoạch hợp tác, và định rõ các điều kiện hợp tác một cách tỷ mỹ mới có thể tiến
hành.

Đại khái là, tinh hệ này không nên hợp tác kinh doanh, trái lại có thể nên một mình đảm trách
công việc, nguy cơ thất bại cũng nhỏ hơn.

"Vũ Khúc Thất Sát" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Mão có thể gặp Lộc Tồn), đối
nhau với Thiên Phủ hóa Khoa, tam phương hội với "Liêm Trinh Tham Lang" và "Tử Vi Phá Quân"
mà Tử Vi hóa Quyền.

Tính chất cơ bản của tinh hệ này là "cô độc và hình khắc", cho nên không thích hợp với nữ mệnh,
chồng và con đều dễ ly tán. Cổ nhân cho rằng nên làm nhị phòng hay kế thất, thời hiện đại chủ
về không có hôn lễ chính thức.

Đời người thường gặp sóng gió lớn, đây cũng là đặc điểm của tinh hệ này, cho nên mưu sự
thường rất hao tổn sức lực, tinh thần bị áp lực rất nặng. Ở cung Mão thì đỡ hơn.

Nhiều lực để thư giãn, giảm áp lực, lại chủ về thích tiêu sài, nữ mệnh thì càng nặng. Nếu có Phỉ
Liêm đồng độ, thì mua sắp cuồng nhiệt, nhưng mua rồi lại thường không dùng tới.

Vũ Khúc độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Tham Lang, tam phương hội hợp
với "Liêm Trinh Thiên Tướng", và "Tử Vi Thiên Phủ" mà Tử Vi hóa Quyền và Thiên Phủ hóa Khoa.
Ở cung Thìn thì bị Kình Dương Đà La hội chiếu, ơ cung Tuất thì đồng độ với Đà La.

Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", Vũ Khúc hóa Kỵ ở đây dễ biến thành suy nghĩ nông cạn.
Thường hay nóng lòng muốn đột phá, nhưng khi xử lý sự vụ lại gây thêm phản ứng ngược, dẫn
đến tình hình càng thêm rắc rối khó khăn và phiền thức.

Tinh hệ này còn chủ về khi bị trắc trở thì lại thường có phải ứng sai lầm, tiến thoái không hợp
thời cơ, do đó dễ biến thành thất chí.

Thích lãng phí cũng là khuyết điểm của tinh hệ này. Thường thường tổn hao tiền vì bạn bè, mà
thường không thấy được báo đáp.

Cũng chủ về hai lần kết hôn, nên kết hôn muôn, nhất là nữ mệnh.
"Vũ Khúc Phá Quân" đồng độ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Kỵ, ắt sẽ có Lộc Tồn
đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Liêm Trinh Thất Sát"
và "Tử Vi Tham Lang" mà Tử Vi hóa Quyền.

Tổ hợp các sao cơ bản đã có tính chất đổ vỡ và trắc trở, nhất là khi hợp tác với người khác sẽ có
kết cục xấu.

Vũ Khúc hóa Kỵ ở cung Hợi, thì Kinh dương và Đà La sẽ giáp cung, thành cách "Kình Đà giáp Kị",
tình hình sẽ xấu hơn ở cung Tỵ. Ngoài việc không nên hợp tác với người khác, còn chủ về cuộc
đời phần nhiều đều bị kinh tế áp lực, hễ có hành động thì liền bị kinh tế giới hạn, khiến không thể
đạt được lý tưởng. Nếu có thêm Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, thì đây là hiện tượng sụp đổ, thường
thường việc sắp thành lại hỏng. Gặp Thiên nguyệt, Thiên hư, Âm sát, thì chủ về cơ thể suy
nhược, bệnh hoạn.

Hễ Vũ Khúc hóa Kỵ, thì Tử Vi trong nhóm "Tử Vi Tham Lang" ắt sẽ hóa Quyền, vì vậy tình hình
khó khăn kinh tế thường do ham muốn quyền lực gây ra, biểu hiện ở khuynh hướng "lực bất tòng
tâm" và khuynh hướng lãng phí.

Vũ Khúc hóa Kỵ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, nam mệnh bất lợi về hôn nhân, chủ về vợ lộng quyền.

Tham Lang hóa Kỵ thủ Mệnh – Can Quý


Tham Lang độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc Tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối
cung là Tử Vi độc tọa, tam phương hội hợp với Phá Quân hóa Lộc và Thất Sát độc tọa.

Tham Lang hóa Kỵ ở hai cung này lại chủ về "tài nghệ", nhưng bất lợi về tình cảm. Nhất là nữ
mệnh dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, dù hôn nhân có sự cố thay đổi, nhưng vẫn có khuynh
hướng "ngó đứt mà lòng còn tơ vương", không thể dứt khoát được.

Trong 12 cung Tham Lang hóa Kỵ ở cung Tý là tốt nhất, cung ngọ là kế đó, sự nghiệp và tiền bạc
đều tốt, chỉ tại mệnh tạo luôn cảm thấy không được như lý tưởng mà thôi.

"Vũ Khúc Tham Lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Tham Lang hóa Kỵ ắt sẽ có Kình
Dương đồng độ, hoặc Kình Dương Đà La hội chiếu, tam phương tương hội với "Liêm Trinh Phá
Quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Tử Vi Thất Sát".

Tham Lang hóa Kỵ ở bản cung, chủ về sự nghiệp và tiền bạc không có gì đáng ngại, chỉ chủ về
đời người khó đạt tới lý tưởng, nhưng thông minh tài trí vẫn được phát huy, phần nhiều phát huy
trong nghề nghiệp. Tuy vẫn khó tránh rắc rối về tình cảm, nhưng rốt cuộc vẫn giải quyết được.

Tham Lang hóa Kỵ độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần thì gặp Lộc Tồn), đối cung là
Liêm Trinh, tam phương tương hội với Phá Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

Tham Lang hóa Kỵ ở hai cung này, nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, cũng chủ về có tiền của
bất ngờ. Nhưng nếu hội Kình Dương và Đà La, cổ nhân cho rằng đây là điềm tượng "bị lưu đầy",
thời cổ đại khi "bị lưu đầy" còn bị săm đóng "dấu chữ" lên mặt, do đó ý vị mở rộng là "phá tướng"
hoặc có thẹo, có lúc là giải phẫu thẩm mỹ. Nữ mệnh gặp tổ hợp tinh hệ này chủ về bị người có
gia đình theo đuổi.

"Tử Vi Tham Lang" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, Tham Lang hóa Kỵ, tam phương tương
hội với "Vũ Khúc Phá Quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Liêm Trinh Thất Sát".

Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Tham Lang hóa Kỵ sẽ giảm bớt ý vị "Đào hoa phạm chủ", mà chủ về làm tăng năng lực phát triển
sự nghiệp. Khi gặp hóa Kỵ chỉ là không được như ý tưởng, có lúc cũng chủ về sự nghiệp phát
triển chậm.

Tinh hệ này còn có sắc thái "tham việc" do đó thường kiêm nhiều nghề, hoặc có ý thích cùng
một lúc hai việc, nhưng trên thực tế chỉ làm tăng gian khổ trong đời người.

Nếu so sánh thì tinh hệ này ít có rắc rối về tình cảm.

Tham Lang độc tọa hóa Kỵ ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc Tồn), đối cung là
Vũ Khúc, tam phương tương hội với Pha Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

Tinh hệ này ở cung Thìn thì "Lộc trùng điệp" có thể thành Cách. Ngoại trừ cách "Hỏa Tham" và
"Linh Tham", có không chủ về phát lên một cách đột ngột, mà là điềm tượng dùng tài trí và kỹ
năng của bản thân để tạo dựng sự nghiệp. Ở cung Tuất tuy không có "Lộc trùng điệp", nhưng
cũng có thể thành phúc cách. Nhưng bất kể ở cung nào cũng đều khó tránh vất vả. Về phương
diện tình cảm, nhất là nữ mệnh, thường không lãng phí thời gian, tinh thần chỉ chuyên chú lo cho
sự nghiệp mà thường làm lỡ mất lương duyên.

"Liêm Trinh Tham Lang" đồng độ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi (ở cung Hợi có Đà La đồng độ, ở cung
Tỵ có Kình Đà hội chiếu), Tham Lang hóa Kỵ, tam phương tương hội với "Tử Vi Phá Quân" mà
Phá Quân hóa Lộc, và "Vũ Khúc Thất Sát".

Tham Lang hóa Kỵ ở tinh hệ này, do có Liêm Trinh đồng độ, nên thường biểu trưng cho đau khổ
về tình cảm. Tinh hệ này còn là biểu hiện của nghệ thuật. Tổng hợp hai tính chất này sẽ thành
nỗi thống khổ trong nghệ thuật, hoặc chủ về nghệ nhân gặp nhiều rắc rối về tình cảm.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, phần nhiều đều có tính
xung động trong kinh doanh làm ăn, do đó thường gây ra trắc trở. Lúc đầu tư, thường thường có
khuynh hướng mạo hiểm, dễ thành phá tán thất bại, cần phải chú ý phép "xu cát Tỵ hung".

You might also like