You are on page 1of 8

HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.

2017-0155
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 9, pp. 98-105
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

VẬN DỤNG MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY VIẾT VĂN BẢN THÔNG TIN
CỦA SÁCH GIÁO KHOA LITERATURE (MCDOUGAL LITTELL - HOA KÌ)
VÀO DẠY VIẾT VĂN THUYẾT MINH CHO HỌC SINH LỚP 8 (VIỆT NAM)
1
Trịnh Thị Lan, 2 Nguyễn Thu Thủy
1 Khoa
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 Trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt. Từ trước đến nay, những nghiên cứu tại Việt Nam về việc rèn luyện kĩ năng viết
văn bản thông tin cho học sinh còn chưa nhiều hoặc chưa được trình bày một cách có hệ
thống và đầy đủ. Trong bài viết này, trên cơ sở tìm hiểu sách giáo khoa Literature (Văn
học) của McDougal Littell (Hoa Kì), phần dạy viết cho học sinh lớp 6, chúng tôi nghiên
cứu cách vận dụng hai kĩ thuật viết báo cáo nghiên cứu là sử dụng sơ đồ và thiết kế thẻ
thông tin vào dạy viết văn thuyết minh cho học sinh lớp 8 ở nhà trường Việt Nam.
Từ khóa: Văn bản thông tin, văn thuyết minh, kĩ thuật viết, dạy viết, Ngữ văn.

1. Mở đầu
Văn bản thông tin (VBTT) (Informational text) là khái niệm được sử dụng trong tương quan
với khái niệm văn bản văn chương (Literary text). VBTT “là những văn bản mà mục đích chủ
yếu của nó là cung cấp thông tin.” [1; 106]. VBTT “rất quan trọng trong xã hội và có giá trị về
mặt nội dung thông tin, như một kho tri thức và những giá trị của nó như một phần của cuộc
sống hàng ngày.” [1; 106] Tại Hoa Kì, theo Khung Đọc năm 2009 trong Tiến trình đánh giá Giáo
dục Quốc gia năm 2009 (Reading framework for the 2009 National Assessment of Educational
Progress), số lượng VBTT cân bằng với số lượng văn bản văn học ở những cấp học thấp, và ngày
càng tăng ở những lớp cao hơn. Bên cạnh đó, với bài viết Văn bản thông tin và trẻ em: Khi nào,
tại sao, cái gì, ở đâu và như thế nào, trên cơ sở mục đích và các đặc điểm riêng, nhà nghiên cứu
Nell K.Duke (Hoa Kì) chia VBTT gồm các loại sau: văn bản giải thích (Expository Text), văn
bản thuyết phục (Persuasive Text), văn bản quy trình (Procedural Text) và tường thuật phi hư cấu
(Nonfiction Narrative) [2]. Ở Singapore, Đề cương chương trình Ngôn ngữ Anh 2010 (English
Language Syllabus 2010 - Primary (Foundation) & Secondary (Normal [Technical]) khẳng định
VBTT là loại văn bản đa dạng mà học sinh (HS) chắc chắn sẽ tiếp xúc nhiều trong quá trình học tập
[4]. Tại Úc, theo Khung chương trình Tiếng Anh (The Australian Curriculum – English), VBTT là
một trong ba loại văn bản chủ yếu HS được tìm hiểu, bên cạnh văn bản hư cấu (Imaginative texts)
và văn bản thuyết phục (Persuasive texts) [1]. Qua các tài liệu, có thể nhận thấy, ở nhiều nước trên
thế giới, VBTT được sử dụng phổ biến và có vai trò quan trọng trong hệ thống văn bản của chương
trình dạy học.

Ngày nhận bài: 7/5/2017. Ngày nhận đăng: 12/8/2017


Liên hệ: Trịnh Thị Lan, e-mail: lantrinh@hnue.edu.vn

98
Vận dụng một số kĩ thuật dạy viết văn bản thông tin của sách giáo khoa Literature...

Ở Việt Nam, trong chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2000 tồn tại khái
niệm “văn bản thuyết minh”. Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản được sử dụng phổ biến trong
mọi lĩnh vực đời sống “nhằm cung cấp tri thức (kiến thức) về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân. . .
của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải
thích.” [11; 117] Có thể nói, mặc dù khái niệm văn bản thuyết minh trong chương trình Ngữ văn
Việt Nam và khái niệm VBTT trong chương trình giáo dục của Hoa Kì, Singapore và Úc không
đồng nhất nhưng vẫn có điểm giao thoa ở chức năng biểu đạt và cung cấp thông tin, ở nội dung là
những vấn đề hiện thực, không sử dụng những yếu tố hư cấu, tưởng tượng. Trong phạm vi bài viết
này, chúng tôi sử dụng khái niệm văn thuyết minh (VTM) như là một dạng của VBTT.
Trong thời đại thông tin bùng nổ như hiện nay, để viết một bài VTM, người viết phải đồng
thời giải quyết nhiều vấn đề. Trước tiên, VTM đòi hỏi lượng thông tin lớn, người viết VTM cần
có tri thức đầy đủ về đối tượng thuyết minh. Đó cần phải là những tri thức khách quan, xác thực
và hữu ích, được trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn. Người viết cần thu thập và sắp
xếp, xử lí tất cả những thông tin đó theo một lô gic phù hợp. Nghĩa là những thông tin được đưa ra
trong bài VTM phải vừa đầy đủ, vừa chất lượng. Nhưng không chỉ ở vấn đề thông tin, người viết
còn phải làm chủ một kĩ năng viết mang tính tổng hợp [9].
Mặt khác, theo tinh thần dạy học lấy người học là trung tâm, hướng tới người học chủ động,
tích cực, sáng tạo, trong các hoạt động học tập, HS cần được trực tiếp hoạt động để tự tìm kiếm
kiến thức và kĩ năng cần thiết. Người học cần biết cách vận dụng những kiến thức và kĩ năng của
mình vào thực tiễn cuộc sống, phân tích thông tin, lên những ý tưởng mới, giao tiếp, hợp tác, giải
quyết vấn đề và tự đưa ra kết luận. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học VTM, vẫn còn nhiều HS chưa
biết cách học, chưa có phương pháp ghi nhớ kiến thức, xử lí và vận dụng kiến thức vào hoạt động
viết. Điều này đặt ra yêu cầu cần có những tài liệu và cách thức hướng dẫn HS sử dụng các kĩ thuật
viết để nâng cao hiệu quả học tập VTM nói riêng và VBTT nói chung.
Sách giáo khoa (SGK) Văn học của McDougal Littell (Hoa Kì) khi dạy học sinh lớp 6 viết
báo cáo nghiên cứu (research report) - một dạng VBTT - đã trình bày một số những kĩ thuật viết
nhằm giúp HS sắp xếp và xử lí được các thông tin từ những nguồn tài liệu khác nhau. Chúng tôi
nhận thấy những kĩ thuật này có thể áp dụng hiệu quả vào dạy học giúp người học VTM tạo lập
văn bản đạt hiệu quả cao hơn.
Chúng tôi tập trung giới thiệu hai kĩ thuật dạy viết VBTT là kĩ thuật sử dụng sơ đồ và kĩ
thuật thiết kế thẻ thông tin cùng cách thức vận dụng vào dạy học sinh lớp 8 ở Việt Nam viết VTM.

2. Nội dung nghiên cứu


2.1. Vận dụng kĩ thuật Sử dụng sơ đồ
Từ điển Oxford Learner’s Dictionary định nghĩa “sơ đồ” (graph) như sau: một bản vẽ được
lên kế hoạch, bao gồm một hay nhiều đường thẳng, thể hiện cách hai hoặc nhiều tập hợp con số
có liên quan với nhau” [6, 676]. Vì vậy, có thể hiểu sơ đồ là hình thức ghi chép thông tin kiến thức
nhằm hệ thống hóa một chủ đề hoặc một mạch kiến thức, . . . bằng cách kết hợp đồng thời hình
ảnh, màu sắc, đường nét, hình khối. . .
Sử dụng sơ đồ là một biện pháp giúp người học tóm tắt, khái quát và sắp xếp những thông
tin mà bản thân đã phát hiện được trong quá trình tìm tài liệu, đặc biệt là với những đối tượng
thuyết minh phức tạp, bao gồm nhiều phương diện, khía cạnh. Người viết có thể sử dụng sơ đồ
trước hoặc trong khi tạo lập văn bản. Khi bản thân tự xây dựng được sơ đồ, người viết sử dụng
ngôn ngữ, kí hiệu riêng, phù hợp với mục đích sử dụng sơ đồ trong quá trình tạo lập văn bản. Ưu

99
Trịnh Thị Lan, Nguyễn Thu Thủy

điểm của việc thiết kế sơ đồ chính là phát huy tối đa năng lực tự học, năng lực sáng tạo của học
sinh khi người học có thể tự xây dựng sơ đồ để thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của
bản thân [13]. Việc vận dụng sơ đồ trong dạy học tạo lập văn bản thuyết minh sẽ hình thành cho
học sinh tư duy mạch lạc, ý thức tìm tòi, khám phá vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề
một cách khoa học, có hệ thống.
Tuy nhiên, thiết kế sơ đồ cũng là một thử thách đối với người học. Bởi lẽ, việc xây dựng sơ
đồ còn phụ thuộc vào những đặc điểm của sơ đồ, nội dung tri thức cần được tái hiện trong sơ đồ
và tri thức nền cùng khả năng tiếp nhận của người đọc.
SGK Văn học lớp 6 của McDougal Littell đã hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ khi thực
hành viết một báo cáo nghiên cứu “Bạn có thể tóm gọn hoặc thể hiện thông tin bằng cách tạo ra
một đồ thị và đưa nó vào trong báo cáo của bạn. Ví dụ, bạn có thể đưa vào một biểu đồ được ghi
nhãn, một biểu đồ nguyên nhân – kết quả, một đồ thị, hay một tiến trình. Chắc chắn cần bao gồm
một đường nguồn thể hiện nơi bạn tìm được những thông tin trong đồ thị của bạn.” [3; 961]. Dưới
đây là ví dụ về sơ đồ được sử dụng trong bài nghiên cứu “Loài mèo ở Ai Cập cổ đại” (“Cats in
Ancient Egypt”).

Nguồn: “Ai Cập”; Trumble 39-40; Bisno [3;956]

Sử dụng sơ đồ là một biện pháp hiệu quả khi người viết muốn trình bày một cách làm hay
quy trình, như vậy, có thể cung cấp thông tin và hướng dẫn người đọc một cách khoa học và dễ
hiểu. Với dạng bài Thuyết minh về một phương pháp (cách làm) ở SGK Ngữ văn 8 (tập 1), việc sử
dụng sơ đồ để miêu tả một tiến trình là hoàn toàn phù hợp. Ví dụ: Giáo viên có thể hướng dẫn HS
tự xây dựng sơ đồ theo bảng trò chơi (board game) phục vụ cho việc viết bài thuyết minh về cách
làm món bún thang:

2.2. Vận dụng kĩ thuật Thiết kế thẻ thông tin


Thiết kế thẻ thông tin được vận dụng trước khi tạo lập văn bản, bao gồm hai bước: Làm thẻ
thông tin về nguồn tư liệu và làm thẻ ghi chú về các thông tin thu thập được.
2.2.1. Làm thẻ nguồn tư liệu
Việc làm thẻ nguồn tư liệu là một trong những biện pháp giúp học sinh có thể quản lí được
những thông tin đã thu nhận trong quá trình tìm hiểu. Thẻ nguồn tư liệu giúp người học nhận biết
nguồn của các trích dẫn và ý kiến muốn sử dụng trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, với những
đối tượng thuyết minh phức tạp, thẻ nguồn tư liệu hỗ trợ người học lưu giữ nguồn của các thông
tin để tránh nhầm lẫn và thất lạc. Trong quá trình tạo lập văn bản, người viết có thể tìm lại tài liệu
một cách dễ dàng và khoa học.
SGK Văn học của McDougal Littell (Hoa Kì) đã hướng dẫn HS làm thẻ nguồn tư liệu như
sau:
“Viết những thông tin dưới đây vào mỗi tấm thẻ. Sau đó đánh số từng tấm thẻ vào góc trên

100
Vận dụng một số kĩ thuật dạy viết văn bản thông tin của sách giáo khoa Literature...

Nguồn: http://vaobepnauan.com/cach-nau-bun-thang-ngon-tai-nha-theo-cong-thuc-gia-truyen/

bên phải.
Bộ sách giáo khoa trên mạng
- Tác giả (nếu được cung cấp) và nhan đề của bài báo
- Ngày mà thông tin được xuất bản (nếu được cung cấp)
- Tên nhà xuất bản
- Ngày bạn tiếp cận với bài báo
- Địa chỉ đầy đủ trang mạng, còn được gọi là URL
Bản in hoặc bộ sách giáo khoa CD-ROM
- Tác giả (nếu được cung cấp) và nhan đề của bài báo
- Tên và năm của bộ sách giáo khoa - Nếu một CD-ROM, khái niệm “CD-ROM,” cộng với
nhà xuất bản và nơi xuất bản
Trang mạng
- Tác giả (nếu được cung cấp) và nhan đề của trang hay bài báo
- Ngày trang mạng (nếu được cung cấp)
- Tên của tổ chức đã tài trợ hoặc tạo ra trang mạng (nếu được cung cấp)
- Ngày bạn tiếp cận với bài báo
- Địa chỉ đầy đủ trang mạng

101
Trịnh Thị Lan, Nguyễn Thu Thủy

- Nếu trang mạng từ một xuất bản phẩm in, liệt kê nhà xuất bản, nơi xuất bản và năm xuất
bản
Sách
- Tác giả hoặc biên tập
- Nhan đề
- Nhà xuất bản, nơi xuất bản và năm xuất bản
- Số điện thoại của thư viện” [3;960]
HS lớp 8 có thể áp dụng để thiết kế các thẻ nguồn tư liệu khi tiếp xúc với nhiều nguồn tài
liệu khác nhau về món bún thang:

Mẫu thẻ nguồn tư liệu dành cho bài báo mạng

Mẫu thẻ nguồn tư liệu dành cho sách

Thẻ nguồn tư liệu được thiết kế với nhiều thông tin cụ thể, từ đó, học sinh sẽ dễ dàng tìm
kiếm các tài liệu đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Thẻ nguồn tư liệu đòi hỏi ở người
học sự cẩn thận để ghi lại chi tiết những thông tin về tài liệu đã tìm kiếm được, như vậy, HS cũng
đã tự mình xây dựng một cơ sở dữ liệu để phục vụ quá trình tạo dựng văn bản.

102
Vận dụng một số kĩ thuật dạy viết văn bản thông tin của sách giáo khoa Literature...

2.2.2. Làm thẻ ghi chú


Thiết kế thẻ ghi chú là bước tiếp theo sau khi làm thẻ nguồn tư liệu. Những thông tin trên
thẻ ghi chú cần được trình bày ngắn gọn thành những từ, cụm từ cốt lõi, làm nổi bật nội dung thông
tin người viết đã thu thập, sắp xếp và xử lí từ nhiều nguồn dữ liệu. Việc thiết kế thẻ ghi chú sẽ giúp
HS tập trung vào khám phá, tìm hiểu về vấn đề cần nghiên cứu. Thẻ ghi chú có vai trò quan trọng
khi đọc tài liệu bởi nó giúp người học tập trung và hiểu những thông tin đã tiếp thu được từ các
nguồn tài liệu bằng cách tóm tắt những ý chính trong các văn bản. Không chỉ vậy, trong thời gian
làm thẻ ghi chú, HS sẽ đồng thời ghi nhớ được phần nào những thông tin đã thu thập. Hơn nữa,
khi thiết kế thẻ, HS tự sắp xếp lại những ý kiến, những thông tin từ các nguồn tài liệu và tự viết lại
bằng chính từ ngữ của bản thân, từ đó, giúp quá trình tạo lập văn bản diễn ra hiệu quả hơn. Hơn
nữa, thay vì là người tiếp nhận thông tin một cách thụ động, một chiều, việc làm thẻ ghi chú sẽ
giúp người viết trở nên chủ động hơn khi có thể tự đưa ra ý kiến của cá nhân.
Với việc làm thẻ ghi chú, người viết có thể tổng hợp và thống kê được các tri thức khác nhau
trong các tài liệu. Bởi lẽ, mỗi nhà nghiên cứu hay mỗi tác giả lại có những quan điểm khác nhau
về cùng một vấn đề. Vì vậy, việc làm thẻ ghi chú không dừng lại ở thao tác tổng hợp và thống kê,
tiếp thu tri thức của những nghiên cứu trước. Quan trọng hơn, khi thiết kế thẻ ghi chú, người viết
phần nào có cái nhìn đa chiều, từ đó, có ý thức lựa chọn cách hiểu bản thân cho là phù hợp, hoặc
tự xây dựng cách hiểu riêng và trình bày cách hiểu đó bằng chính ngôn ngữ của mình.
Khi ghi chú, người viết cần phân biệt những sự thật (đã được chứng minh qua nghiên cứu
hoặc cần có bằng chứng), những ý kiến cá nhân và ví dụ. Nếu người viết đã hiểu những thông tin
chính của tư liệu, người viết không cần ghi chú lại những ví dụ mà tác giả đã đưa ra. Trong quá
trình đọc tài liệu, người viết cần xử lí thông tin và không nên viết lại nguyên vẹn tất cả những từ
ngữ trong văn bản.
Trong SGK Văn học của McDougal Littell (Hoa Kì), việc làm thẻ ghi chú được hướng dẫn
như sau:
“Thẻ ghi chú giúp bạn theo dõi được các thông tin bạn thu nhận được từ các nguồn. Từng
thẻ ghi chú nên bao gồm:
- Số nguồn (Cái này giống với số bạn viết trên thẻ nguồn của bạn)
- Một đề mục nhỏ chính xác
- Sự thật, ý kiến hay trích dẫn mà bạn muốn trình bày trong báo cáo
- Số trang, nếu có” [3;961]
Sau đây là ví dụ về thẻ ghi chú trong SGK Văn học của McDougal Littell (Hoa Kì) [3;961]

Từ ví dụ trên, HS có thể thiết kế thẻ ghi chú khi nghiên cứu về món bún thang. Trước khi
thiết kế thẻ, HS cần xác định những nội dung trong bài viết để tập trung tìm kiếm các thông tin
liên quan đến nội dung đó. Ví dụ, với đề bài “Thuyết minh về món bún thang”, người viết có thể
dự kiến đưa ra một số nội dung cần trình bày như lịch sử, nguồn gốc của món ăn, các nguyên liệu,

103
Trịnh Thị Lan, Nguyễn Thu Thủy

cách chế biến món ăn. . . Sau khi tìm hiểu những tư liệu khác nhau, người viết thiết kế thẻ ghi chú
với tiêu đề là những nội dung chính cần triển khai trong bài viết, sau đó lựa chọn, sắp xếp các
thông tin theo tiêu đề đó. Dưới đây là một số mẫu thẻ ghi chú:

Mẫu thẻ ghi chú dành cho tài liệu trên mạng

Mẫu thẻ ghi chú dành cho tài liệu sách

3. Kết luận
Có thể nhận thấy, việc vận dụng hai kĩ thuật viết VBTT trên khá đơn giản và vừa sức đối
với HS lớp 8 để các em có thể tự thiết kế và sử dụng dữ liệu trong viết VTM. Những kĩ thuật này
giúp người viết thu thập và xử lí các thông tin cụ thể ở nhiều nguồn tài liệu, tránh bị nhầm lẫn các
thông tin với nhau. Với ưu điểm lưu được tài liệu một cách khoa học và linh hoạt trong sử dụng,
hai kĩ thuật sử dụng sơ đồ và thiết kế thẻ ghi chú giúp cho việc tạo lập văn bản trở nên hiệu quả
hơn. Khi vận dụng hai kĩ thuật trên vào dạy viết VTM cho HS lớp 8, những thông tin người học
thu thập sẽ được hệ thống hóa trước khi tạo lập văn bản. Việc sử dụng hai kĩ thuật viết này thực sự
có ý nghĩa khả dụng, góp phần phát triển năng lực tự học và năng lực giải quyết vấn đề cho HS.
Thực tiễn dạy viết ở Việt Nam hiện nay mới chỉ quan tâm đến sản phẩm cuối cùng của quá
trình dạy viết là văn bản hoàn chỉnh, chú trọng nhiều đến các yếu tố ngôn ngữ; SGK chỉ có một
số bài học luyện các thao tác viết trực tiếp. Điều này hạn chế khả năng huy động các nguồn tài
nguyên khác nhau của HS vào việc viết, hạn chế sự phát triển năng lực toàn diện của người học.
Khả năng sử dụng những kĩ thuật dạy viết VBTT trong SGK Literature của McDougal Littell -
Hoa Kì vào dạy viết VTM cho học sinh lớp 8 như đã trình bày ở trên cũng được xem là đề xuất của
chúng tôi về việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn cần gắn kết chặt chẽ
hơn với những nguồn lực hiện có trong thực tiễn, về việc sử dụng văn bản đa phương thức trong

104
Vận dụng một số kĩ thuật dạy viết văn bản thông tin của sách giáo khoa Literature...

SGK Ngữ văn đảm bảo tính cập nhật xã hội. Đây là những cách thức nhưng cũng sẽ là đặc điểm
của việc dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông trước mắt và lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] ACARA, 2011. The Australian Curriculum - English. Version 2.0.


[2] Nell K. Duke, 2009. Informational Text and Young Children: When, Why, What, Where, and
How. National Geographic Learning. http://ngl.cengage.com/assets/downloads/ngsci_pro000
0000028/am_duke_info_txt_yng_child_scl22-0469a.pdf.
[3] McDougal Littell, 2008. Literature. United States of America.
[4] Ministry of Education Singapore, 2010. English Language Syllabus 2010 – Primary &
Secondary (Express/ Normal [Academic]). http://www.moe.gov.sg/education/syllabuses/eng
lish-language-and-literature/files/english-primary-secondary-express-normal-academic.pdf1.
[5] New York State P-12, 2011. Common Core Learning Standards for English Language Arts &
Literacy. United States of America.
[6] Oxford Advanced Learner’s Dictionary, 7th edition (Chief editor: Sally Wehmeier), Oxford
University Press.
[7] Annabel Jackson, Hàm Châu, Vân Chi, 2005. The Cuisine of Việt Nam nourishing a culture.
Nxb Thế giới.
[8] Lý Khắc Cung, Thanh Hào, 2014. Hà Nội văn hóa và phong tục. Nxb Hồng Đức.
[9] Nguyễn Thanh Mai, 2017. Hướng tới cách tiếp cận tổng hợp hơn trong dạy kĩ năng viết bằng
ngôn ngữ thứ hai. Tạp chí Giáo dục, Số Đặc biệt tháng 4, tr. 98-101.
[10] Hà Nguyễn, 2010. Món ngon Hà Nội. Nxb Thông tin và Truyền thông.
[11] Nguyễn Khắc Phi (Tổng Chủ biên), 2007. Ngữ văn 8. Nxb Giáo dục.
[12] Trần Thị Thành, 2012. Rèn kĩ năng làm văn thuyết minh. Nxb Giáo dục Việt Nam.
[13] Lưu Thị Lương Yến, Nguyễn Thị Ngọc Bích, 2016. Phát triển năng lực tự học của học sinh
thông qua việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học phần Hiđrocacbon - Hóa học 11 Trung học
phổ thông. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 61(6A), tr.136-145.

ABSTRACT
Applying some techniques for teaching writing informational texts in literature textbook
(McDougal Littell - USA) to teaching writing demonstrative texts for grade 8 students (Vietnam)
1 Trinh Thi Lan and 2 Nguyen Thu Thuy

1 Faculty of Phylology, Hanoi National University of Education

2 Nguyen Tat Thanh Lower and Upper Secondary School, Hanoi

Up till now, there have not been many researches on improving informational text writing
skill for students in Viet Nam, or they have not been shown logically and sufficiently. In this article,
on the basis of researching the writing section for Grade 6 students in the Literature textbook by
McDougal Littell (USA), we will figure out ways to apply two research report writing techniques,
using concept map and designing information cards, into teaching demonstrative texts for Grade 8
students in Vietnam.
Keywords: Informational text, demonstrative text, writing techniques, teaching writing,
Literature.

105

You might also like