Professional Documents
Culture Documents
ĐHUE.lý Sinh Học - Đoàn Suy Nghĩ - Lê Văn Trọng, 167 Trang
ĐHUE.lý Sinh Học - Đoàn Suy Nghĩ - Lê Văn Trọng, 167 Trang
LÝ SINH HỌC
Đoàn Suy Nghĩ (chủ biên)
Lê Văn Trọng
2005
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ở Việt Nam và trên thế giới Lý sinh (biophysics) là môn học cơ sở được dạy trong các
trường đại học Khoa học, đai học Y - Dược, đại học Nông nghiệp, đại học Sư phạm, đại
học Thuỷ sản v.v... Hiểu được Lý sinh, cùng với một số môn khoa học cơ bản khác sẽ
hiểu được các nguyên lí của các quá trình sinh học, đặc biệt là cơ chế hoá lí và bản chất
vật lý của các hiện tượng sống. Để viết được giáo trình Lý sinh vừa bao hàm những kiến
thức cơ bản vừa cập nhật những thông tin mới, thật là một công việc hết sức khó khăn.
Nhưng với mong muốn phục vụ kịp thời kiến thức cơ bản về Lý sinh trong khuôn khổ
của dự án Giáo dục đại học mức B, chúng tôi đã mạnh dạn viết giáo trình này. Giáo trình
Lý sinh không chỉ phục vụ cho các sinh viên của các trường thuộc Đại học Huế mà còn là
tài liệu cần thiết cho những ai quan tâm đến chuyên ngành Lý sinh. Phân công nội dung:
- Mở đầu, chương 1, 2, 3, 7, 8, 9 do Tiến sỹ Đoàn Suy Nghĩ biên soạn.
- Chương 4, 5, 6 do Tiến sỹ Lê Văn Trọng biên soạn.
Để viết được giáo trình này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban dự án Giáo dục đại
học của Đại học Huế, GS. TS. Nguyễn Thị Kim Ngân và GS. TSKH. Lê Doãn Diên đã
đọc và đóng góp những ý kiến quí báu cho giáo trình này.
Để giáo trình ngày càng hoàn thiện, chúng tôi mong nhận được sự góp ý của người đọc
gần xa.
Chủ biên
Tiến sỹ: Đoàn Suy Nghĩ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
MỞ ĐẦU
Sự áp dụng kiến thức vật lý vào nghiên cứu sinh học đã được thực hiện vào cuối thế kỷ
XVIII. Năm 1780 hai nhà khoa học Pháp là Lavoadie và Laplace đã tiến hành thí nghiệm
để khảo sát tính đúng đắn của định luật I nhiệt động học khi áp dụng vào hệ thống sống.
Năm 1791, Galvani, giáo sư giải phẫu trường đại học Bolon (Italia) đã công bố kết quả
nghiên cứu trong quyển sách "Bàn về các lực điện động vật trong co cơ", khẳng định có
tồn tại dòng điện sinh vật. Năm 1859, Raymond đã phát hiện phần trước và phần sau cầu
mắt động vật có xương sống tồn tại một hiệu điện thế và đo được giá trị từ 10 đến 38mV,
gọi là điện thế tĩnh (hay điện thế nghỉ ngơi). Năm 1865, Holgreen phát hiện được giá trị
hiệu điện thế giữa phần trước và phần sau cầu mắt động vật có xương sống sẽ tăng lên
khi mắt được chiếu sáng. Sau này các nhà khoa học xác định, đó chính là điện thế hoạt
động (hay điện thế hưng phấn). Năm 1875, Calton khẳng định khi mắt được chiếu sáng,
không những điện cầu mắt tăng lên như Holgreen đã phát hiện mà điện ở vùng thị giác
trên bán cầu đại não cũng tăng lên. Sau này các nhà khoa học xác định đó chính là dòng
điện hưng phấn xuất hiện khi mắt được chiếu sáng, đã lan truyền theo dây thần kinh thị
giác tới vùng thị giác trên bán cầu đại não, dẫn tới hiệu ứng sinh học là cảm nhận được
ánh sáng. Năm 1922, Erlanger và Gasser dùng dao động ký âm cực để đo dòng điện hưng
phấn xuất hiện trong dây thần kinh. Năm 1922,Viện Lý sinh ở Liên Xô cũ được thành
lập.
Năm 1929, Berger ghi được điện não đồ của động vật. Lịch sử hình thành Lý sinh đã
được Taruxop, giáo sư trường Đai học tổng hợp Lomonoxop khẳng định: "Lý sinh được
xem như là một khoa học bắt đầu được hình thành từ thế kỷ XIX".
Thế kỷ XX là thế kỷ phát triển mạnh mẽ những nghiên cứu khoa học về Lý sinh trong
các lĩnh vực: Nhiệt động học, động học của các quá trình sinh vật, vận chuyển chất qua
màng tế bào, quang sinh học và phóng xạ sinh học v.v...
Thời kỳ đầu Lý Sinh được xác định như là một ngành khoa học nghiên cứu các hiện
tượng vật lý trong hệ thống sống. Sau đó Lý sinh được xác định như là một ngành khoa
học nghiên cứu các cơ chế vật lí, đặc biệt là cơ chế hoá lý của các quá trình xảy ra trong
hệ thống sống ở mức độ phân tử, tế bào, mô và cơ thể.
Bước sang thế kỷ XXI, hàng loạt vấn đề đang được đặt ra cho các nhà Lý sinh cần phải
nghiên cứu. Đó là năng lượng sinh học, sự chuyển hoá năng lượng và sử dụng năng
lượng của hệ thống sống? Bản chất và cơ chế hình thành điện thế sinh vật? Hiện tượng
phân cực ở trong hệ thống sống xảy ra như thế nào và có gì khác so với ở hệ vật lý ? Bản
chất của quá trình hưng phấn là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu.
Các chỉ số đặc trưng về vật lý và hoá lý đối với tế bào, mô, cơ quan, cơ thể có mối liên
quan như thế nào trong hệ thống tiến hoá ? Vấn đề tự điều chỉnh các quá trình sinh học
của cơ thể sống trước những thay đổi của yếu tố môi trường cũng đang được các nhà Lý
sinh quan tâm nghiên cứu. Sinh học phóng xạ hiện đang thu hút nhiều nhà khoa học đi
sâu nghiên cứu nhằm phục vụ cho công tác chọn giống mới, bảo quản lương thực, thực
phẩm, công cuộc chinh phục vũ trụ, sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
và không loại trừ khả năng có cuộc chạy đua vũ trang trong việc nắm giữ "đòn hạt nhân
đầu tiên" với tham vọng bá quyền thế giới ?
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 1
NHIỆT ĐỘNG HỌC HỆ SINH VẬT
I. Nhiệt động học hệ sinh vật và hướng nghiên cứu
Nhiệt động học hệ sinh vật là lĩnh vực nghiên cứu hiệu ứng năng lượng, sự chuyển hoá
giữa các dạng năng lượng, khả năng tiến triển, chiều hướng và giới hạn tự diễn biến của
các quá trình xảy ra trong hệ thống sống.
Cơ thể sống trong quá trình sinh trưởng và phát triển đều có sử dụng năng lượng vì vậy
nhiệt động học hệ sinh vật là lĩnh vực cần được nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của
nhiệt động học hệ sinh vật là cơ thể sống, đó là một hệ mở do luôn xảy ra sự trao đổi vật
chất và năng lượng với môi trường xung quanh, có khả năng tự điều chỉnh, tự sinh sản...
nên khác với hệ vật lí như chất rắn, chất lỏng hay chất khí... Hiện nay nhiệt động học hệ
sinh vật có các hướng nghiên cứu chủ yếu sau:
- Nghiên cứu sự chuyển biến năng lượng ở mức độ phân tử, tế bào, mô, cơ quan hay toàn
bộ cơ thể khi ở trạng thái sinh lý bình thường và trạng thái đang hoạt động. Xác định hiệu
suất sử dụng năng lượng của các quá trình sinh vật và năng lượng liên kết trong các liên
kết của các cao phân tử sinh học.
- Nghiên cứu tính chất nhiệt động của các quá trình diễn ra trong cơ thể sống như quá
trình khuyếch tán, thẩm thấu, vận chuyển tích cực...
- Nghiên cứu cơ chế tác động của sự thay đổi các yếu tố môi trường lên quá trình chuyển
hoá năng lượng và sự trao đổi năng lượng giữa cơ thể sống với môi trường.
II. Một số khái niệm và đại lượng cơ bản
- Hệ: Hệ là một vật thể hay một nhóm vật thể được dùng làm đối tượng để nghiên cứu.
Ví dụ khi chọn cá thể để nghiên cứu thì cá thể là một hệ còn khi chọn quần thể để nghiên
cứu thì quần thể là một hệ.
- Hệ cô lập: Là hệ không có sự trao đổi vật chất và năng lượng giữa hệ với môi trường
xung quanh. Trên thực tế khó xác định được một hệ cô lập hoàn toàn nhưng ở qui mô thí
nghiệm các nhà khoa học có thể thiết kế được hệ cô lập như bom nhiệt lượng dùng để
nghiên cứu hiệu ứng nhiệt của các phản ứng oxy hóa.
- Hệ kín: Là hệ không trao đổi vật chất với môi trường xung quanh nhưng có trao đổi
năng lượng với môi trường xung quanh.
- Hệ mở: Là hệ có trao đổi cả vật chất và năng lượng với môi trường xung quanh. Ví dụ:
cơ thể sống là một hệ mở.
- Tham số trạng thái: Là các đại lượng đặc trưng cho trạng thái của một hệ, ví dụ như
nhiệt độ, áp suất, thể tích, nội năng, entropi...
- Trạng thái cân bằng: Là trạng thái trong đó các tham số trạng thái đạt một giá trị nhất
định và không đổi theo thời gian.
- Quá trình cân bằng: Là quá trình trong đó các tham số trạng thái thay đổi với tốc độ
chậm tới mức sao cho tại mỗi thời điểm có thể xem như trạng thái của hệ là trạng thái cân
bằng.
- Quá trình đẳng nhiệt, đẳng áp, đẳng tích là quá trình diễn ra trong đó nhiệt độ, áp suất
và thể tích luôn không đổi trong suốt quá trình diễn ra.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
- Quá trình thuận nghịch: Là quá trình biến đổi mà khi trở về trạng thái ban đầu không
kèm theo bất cứ một sự biến đổi nào của môi trường xung quanh.
- Quá trình bất thuận nghịch: Là quá trình biến đổi mà khi trở về trạng thái ban đầu làm
thay đổi môi trường xung quanh.
- Hàm trạng thái: Một đại lượng được xem là một hàm trạng thái, đặc trưng cho trạng
thái của hệ, khi sự biến thiên giá trị của nó trong bất cứ quá trình nào cũng chỉ phụ thuộc
vào giá trị đầu và giá trị cuối mà không phụ thuộc vào con đường chuyển biến. Nội năng
(U), năng lượng tự do (F), thế nhiệt động (Z hay G), entanpi (H), entropi (S) là những
hàm trạng thái.
- Năng lượng: Năng lượng là đại lượng có thể đo được, có thể biến đổi một cách định
lượng luôn theo cùng một tỉ lệ thành nhiệt lượng. Năng lượng phản ánh khả năng sinh
công của một hệ. Đơn vị dùng để đo năng lượng là Calo (Cal) hay Joule (J).
- Công và nhiệt: Đó là hai hình thức truyền năng lượng từ hệ này sang hệ khác. Nếu như
sự truyền năng lượng từ hệ này sang hệ khác gắn liền với sự di chuyển vị trí của hệ thì sự
truyền đó được thực hiện dưới dạng công. Ví dụ khi chạy 100 mét thì năng lượng tiêu tốn
đã được dùng vào thực hiện công để di chuyển vị trí. Nếu sự truyền năng lượng từ hệ này
sang hệ khác làm tăng tốc độ chuyển động của phân tử ở hệ nhận năng lượng thì sự
truyền đó được thực hiện dưới dạng nhiệt.
Công và nhiệt là hàm số của quá trình vì chúng đều phụ thuộc vào cách chuyển biến.
- Nội năng: Nội năng của một vật thể bao gồm động năng của các phân tử chuyển động
và thế năng tương tác do sự hút và đẩy lẫn nhau giữa các phân tử cùng với năng lượng
của hạt nhân nguyên tử và năng lượng của các điện tử.
III. Định luật I nhiệt động học và những hệ quả của nó
Định luật I nhiệt động học được hình thành qua các công trình nghiên cứu của các tác
giả như M. V. Lomonoxob (1744), G. I. Heccer (1836), R. Majo (1842), Helmholtz
(1849), Joule (1877)... Định luật I nhiệt động học được phát biểu như sau:
"Trong một quá trình nếu năng lượng ở dạng này biến đi thì năng lượng ở dạng khác sẽ
xuất hiện với lượng hoàn toàn tương đương với giá trị của năng lượng dạng ban đầu".
Định luật I nhiệt động học bao gồm hai phần:
- Phần định tính khẳng định năng lượng không mất đi mà nó chỉ chuyển từ dạng này sang
dạng khác.
- Phần định lượng khẳng định giá trị năng lượng vẫn được bảo toàn (tức giữ nguyên giá
trị khi qui đổi thành nhiệt lượng) khi chuyển từ dạng năng lượng này sang dạng năng
lượng khác. Giá trị năng lượng chỉ được bảo toàn khi quá trình xảy ra là quá trình thuận
nghịch và hiệu suất của quá trình đạt 100%. Đối với quá trình bất thuận nghịch, hiệu suất
của quá trình nhỏ hơn 100% thì ngoài phần năng lượng truyền cho hệ phải cộng thêm
phần năng lượng đã toả ra môi trường xung quanh.
Biểu thức toán học của định luật I nhiệt động học: Một hệ cô lập ở trạng thái ban đầu có
nội năng U1, nếu cung cấp cho hệ một nhiệt lượng Q thì một phần nhiệt lượng hệ sử dụng
để thực hiện công A, phần còn lại làm thay đổi trạng thái của hệ từ trạng thái ban đầu có
nội năng U1 sang trạng thái mới có nội năng U2 (U2>U1). Từ nhận xét trên ta có biểu
thức:
Q = ΔU + A (1.1)
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Trong đó ΔU = U2 - U1
Công thức (1.1) có thể viết dưới dạng:
ΔU = U1 - U1 = Q - A (1.2)
Đối với quá trình biến đổi vô cùng nhỏ, phương trình (1.2) có thể viết dưới dạng:
dU = δQ - δA (1.3)
dU: Chỉ sự biến đổi nội năng, là hàm số trạng thái
δQ và δA: Chỉ sự biến đổi nhiệt và công, là hàm số của quá trình.
Từ biểu thức (1.2), định luật I nhiệt động học có thể phát biểu như sau:
"Sự biến thiên nội năng của hệ bằng nhiệt lượng do hệ nhận được trừ đi công do hệ đã
thực hiện".
Từ định luật I nhiệt động học dẫn đến các hệ quả sau đây:
- Nếu hệ biến đổi theo một chu trình kín (có trạng thái đầu và trạng thái cuối trùng nhau)
thì nội năng của hệ sẽ không thay đổi (U2 = U1→ΔU = 0).
- Khi cung cấp cho hệ một nhiệt lượng, nếu hệ không thực hiện công thì toàn bộ nhiệt
lượng mà hệ nhận được sẽ làm tăng nội năng của hệ.
Theo (1.2) ΔU = U2 - U1 = Q - A, nếu A = 0 → U2 - U1 = Q. Hệ nhận nhiệt nên Q > 0 →
U2 - U1 = Q > 0 → U2 > U1.
- Khi không cung cấp nhiệt lượng cho hệ mà hệ muốn thực hiện công thì chỉ có cách là
làm giảm nội năng của hệ.
Theo (1.2) ΔU = U2 - U1 = Q - A, nếu Q = 0 → U2 - U1 = -A
→ A = U1 - U2. Hệ muốn thực hiện công, tức A > 0
→ U1 - U2 > 0 → U1 > U2. Sau khi thực hiện công (tức A > 0), nội năng của hệ đã giảm
từ U1 xuống U2 nhỏ hơn.
- Hệ thực hiện theo chu trình kín, nếu không cung cấp nhiệt lượng cho hệ thì hệ sẽ không
có khả năng sinh công.
Theo (1.2) ΔU = Q - A, nếu hệ thực hiện theo chu trình kín, theo hệ quả 1 thì ΔU = 0 →
Q-A=0→Q=A
Do vậy, nếu Q = 0, tức không cung cấp nhiệt lượng cho hệ thì hệ cũng không có khả
năng sinh công, tức A = 0. Hệ quả này, có thể phát biểu dưới dạng: "Không thể chế tạo
được động cơ vĩnh cửu loại một, là loại động cơ không cần cung cấp năng lượng nhưng
vẫn có khả năng sinh công".
IV. Định luật Heccer
Được Heccer tìm ra năm 1836, sau này được các nhà khoa học xếp thuộc vào hệ quả của
định luật I nhiệt động học. Định luật Heccer phát biểu như sau: "Hiệu ứng nhiệt của các
phản ứng hoá học chỉ phụ thuộc vào dạng và trạng thái của chất đầu và chất cuối mà
không phụ thuộc vào cách chuyển biến".
Ví dụ: Phản ứng tạo khí CO2 từ than nguyên chất là cacbon (C) có thể tiến hành theo 2
cách sau:
Cách 1: Đốt trực tiếp than nguyên chất thành khí CO2 sẽ giải phóng nhiệt lượng là Q1.
Phản ứng xảy ra:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
C + O2 → CO2 + Q1
Cách 2: Chuyển than nguyên chất thành CO theo phản ứng:
1
C+ O2 → CO + Q2
2
Từ CO chuyển tiếp thành CO2 theo phản ứng:
1
CO + O2 → CO2 + Q3
2
Sơ đồ minh hoạ:
Q1
C CO2
Q2 Q3
CO
Theo định luật Heccer, chất đầu tham gia phản ứng (C) và sản phẩm của phản ứng (CO2)
giống nhau nên có hiệu ứng nhiệt giống nhau:
Q1 = Q2 + Q3
Trong thực nghiệm, hiệu ứng nhiệt của quá trình đốt than thành CO không thể đo trực
tiếp được vì khi than cháy không bao giờ chỉ cho CO mà còn cho một ít CO2. Nhưng thực
nghiệm lại đo trực tiếp được
Q1 = 97 KCal/M và Q3 = 68 KCal/M.
Từ đó dễ dàng suy ra giá trị
Q2 = Q1 - Q3 = 97 KCal - 68 KCal
Q2 = 29 KCal/M.
Định luật Heccer có ý nghĩa rất quan trọng đối với hệ sinh vật. Trong hệ sinh vật diễn ra
nhiều phản ứng phức tạp, cho đến nay vẫn còn nhiều phản ứng trung gian chưa có thể đo
trực tiếp được hiệu ứng nhiệt. Dựa vào định luật Heccer có thể giải quyết được khó khăn
này.
V. Định luật I nhiệt động học áp dụng vào hệ sinh vật
Người đầu tiên tiến hành thí nghiệm để chứng minh tính đúng đắn của định luật I nhiệt
động học khi áp dụng vào hệ thống sống là hai nhà khoa học Pháp Lavoisier và Laplace
vào năm 1780. Đối tượng thí nghiệm là chuột khoang. Thí nghiệm cách ly cơ thể khỏi
môi trường bên ngoài bằng cách nuôi chuột trong nhiệt lượng kế ở nhiệt độ 0oC. Dùng
một lượng thức ăn đã xác định trước để nuôi chuột thí nghiệm.
Trong cơ thể chuột sẽ diễn ra các phản ứng phân huỷ thức ăn tới sản phẩm cuối cùng là
khí CO2 và H2O, đồng thời giải phóng ra nhiệt lượng Q1. Nếu coi ở điều kiện 0oC, chuột
đứng yên, không thực hiện công mà chỉ sử dụng nhiệt lượng giải phóng ra do oxy hoá
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
thức ăn để cung cấp nhiệt lượng cho cơ thể và tỏa nhiệt ra môi trường, qua nhiệt kế đo
được sự tăng nhiệt độ, theo công thức sẽ tính được nhiệt lượng Q1. Đồng thời lấy một
lượng thức ăn tương đương với lượng thức ăn đã cho chuột ăn trước khi thí nghiệm đem
đốt cháy trong bom nhiệt lượng kế cũng tới khí CO2 và H2O, giải phóng ra nhiệt lượng
Q2. So sánh hai kết quả thí nghiệm thấy giá trị Q1 tương đương với Q2. Điều này chứng tỏ
nhiệt lượng giải phóng ra từ các phản ứng hoá sinh diễn ra trong cơ thể sống hoàn toàn
tương đương với nhiệt lượng giải phóng ra từ các phản ứng ôxy hoá diễn ra ở ngoài cơ
thể sống. Nói cách khác, hiệu ứng nhiệt của quá trình ôxy hoá chất diễn ra ở trong cơ thể
sống và hiệu ứng nhiệt của quá trình ôxy hoá chất diễn ra ở ngoài cơ thể sống là hoàn
toàn tương đương.
Để tăng độ chính xác của thí nghiệm, sau này có nhiều mô hình thí nghiệm của nhiều
nhà nghiên cứu được tiến hành nhưng đáng chú ý nhất là của Atwater và Rosa vào năm
1904.
Đối tượng thí nghiệm là người và thời gian thí nghiệm là một ngày đêm (24 giờ). Trong
thời gian thí nghiệm, cho người tiêu thụ một lượng thức ăn nhất định, thông qua đo lượng
khí ôxy hít vào (hay khí CO2 thở ra), nhiệt thải ra từ phân và nước tiểu... sẽ tính được
hiệu ứng nhiệt của các phản ứng phân huỷ thức ăn diễn ra ở cơ thể người trong 24 giờ.
Đồng thời đốt lượng thức ăn tương đương với lượng thức ăn mà người đã tiêu thụ ở trong
bom nhiệt lượng kế sẽ đo được nhiệt lượng toả ra. Kết quả thí nghiệm:
Hiệu ứng nhiệt của các phản ứng diễn ra ở cơ thể người trong 24 giờ:
Nhiệt lượng toả ra xung quanh : 1374 KCal
Nhiệt lượng toả ra do thở ra : 181 KCal
Nhiệt lượng toả ra do bốc hơi qua da: 227 KCal
Nhiệt do khí thải ra : 43 KCal
Nhiệt toả ra từ phân và nước tiểu : 23 KCal
Hiệu đính (do sai số) : 31 KCal
Tổng cộng nhiệt lượng thải ra : 1879 KCal
Nhiệt lượng do thức ăn cung cấp:
56,8 gam Protein : 237 KCal
79,9 gam Gluxit : 335 KCal
140,0 gam Lipit : 1307 KCal
Tổng cộng : 1879 KCal
Lưu ý: Khi ôxy hoá 1 gam Protein ở trong bom nhiệt lượng kế tới khí CO2 và H2O, giải
phóng ra 5,4 KCal còn trong cơ thể sống phân giải 1 gam Protein tới urê chỉ giải phóng
khoảng 4,2 KCal. Khi oxy hoá hoàn toàn 1 gam Gluxit, giải phóng khoảng 4,2 KCal còn
ôxy hoá hoàn toàn 1 gam Lipit giải phóng từ 9,3 đến 9,5 KCal.
Kết quả thí nghiệm của Atwater và Rosa khẳng định năng lượng chứa trong thức ăn sau
khi cơ thể tiêu thụ đã chuyển thành năng lượng giải phóng thông qua quá trình phân giải
bởi các phản ứng hoá sinh diễn ra trong cơ thể sống. Năng lượng chứa trong thức ăn và
năng lượng giải phóng ra sau khi cơ thể phân giải thức ăn là hoàn toàn tương đương.
Nhiệt lượng trong cơ thể người được chia làm hai loại là nhiệt lượng cơ bản (hay nhiệt
lượng sơ cấp) và nhiệt lượng tích cực (hay nhiệt lượng thứ cấp). Nhiệt lượng cơ bản xuất
hiện ngay sau khi cơ thể hấp thụ thức ăn và tiêu thụ ôxy để thực hiện phản ứng ôxy hoá
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
đồng thời giải phóng ra nhiệt lượng. Ví dụ khi cơ thể hấp thụ 1 phân tử gam (tức 1M)
glucose, lập tức xảy ra phản ứng ôxy hoá đường và giải phóng ra 678 KCal (nhiệt lượng
cơ bản). Cơ thể sẽ sử dụng nhiệt lượng cơ bản vào các hoạt động sống, nếu còn dư sẽ
được tích luỹ vào ATP. Phần nhiệt lượng tích luỹ vào các hợp chất cao năng gọi là nhiệt
lượng tích cực. Trong cơ thể sống, nhiệt lượng cơ bản và nhiệt lượng tích cực có liên
quan với nhau. Nếu nhiệt lượng cơ bản nhiều mà cơ thể sử dụng ít thì nhiệt lượng tích
cực sẽ tăng lên. Nếu nhiệt lượng cơ bản không có thì không những nhiệt lượng tích cực
bằng không mà cơ thể phải phân giải ATP, giải phóng ra năng lượng để cung cấp cho các
hoạt động sống. Ở trạng thái sinh lý bình thường, cơ thể sống sẽ duy trì mối tương quan
nhất định giữa nhiệt lượng cơ bản và nhiệt lượng tích cực. Ở mức độ tế bào, có khoảng
50% năng lượng của chất dinh dưỡng được tích luỹ vào ATP.
VI. Phương pháp nhiệt lượng kế gián tiếp và nguyên tắc hoạt động của cơ thể
sống
Phương pháp đo nhiệt lượng của Lavoadie và Laplace dùng trong thí nghiệm chứng
minh tính đúng đắn của định luật I nhiệt động học khi áp dụng vào hệ sinh vật, gọi là
phương pháp nhiệt lượng kế gián tiếp. Cơ sở của phương pháp này là dựa vào lượng khí
ôxy tiêu thụ hoặc lượng khí CO2 do cơ thể thải ra ở động vật máu nóng (động vật có vú
và người), có liên quan chặt chẽ với nhiệt lượng chứa trong thức ăn.
Ví dụ: Quá trình ôxy hóa glucose, phản ứng diễn ra như sau:
C6H12O6 + 6O2 = 6CO2 + 6H2O + 678 KCal
(180gam) (134,4l) (134,4l)
Từ phản ứng trên cho thấy cứ ôxy hoá hoàn toàn 1 phân tử gam glucose thì cần phải
tiêu thụ 6 phân tử gam ôxy đồng thời thải ra 6 phân tử gam khí CO2 và giải phóng ra
678 KCal. Ở điều kiện tiêu chuẩn, mỗi phân tử gam chất khí đều chứa 22,4 lít. Do vậy 6
phân tử gam ôxy hoặc CO2 đều chứa: 6 x 22,4 lít = 134,4 lít.
Từ đó suy ra, cơ thể cứ tiêu thụ 1 lít O2 để ôxy hoá hoàn toàn một phân tử gam glucose
đồng thời thải ra 1 lít CO2 thì kèm theo giải phóng một nhiệt lượng là: 678 KCal:
134,4 lít = 5,047 KCal/lít và gọi là đương lượng nhiệt của ôxy. Dựa vào phương pháp
nhiệt lượng kế gián tiếp, có thể xác định được sự thải nhiệt của bất kì động vật máu nóng
nào thông qua số lít ôxy tiêu thụ (hoặc số lít CO2 thải ra). Từ phản ứng ôxy hóa glucose ở
trên và sau này áp dụng chung cho Gluxit khi ôxy hoá hoàn toàn sẽ giải phóng ra nhiệt
lượng được tính theo công thức:
Q(KCal) = số lít O2 ( hoặc số lít CO2) x 5,047 (1.4)
Khi ôxy hóa Protein, nhiệt lượng giải phóng ra được tính theo công thức:
Q(KCal) = số lít O2 x 4,46 (1.5)
Khi ôxy hoá Lipit, nhiệt lượng giải phóng ra được tính theo công thức:
Q(KCal) = số lít O2 x 4,74 (1.6)
Mối quan hệ giữa thức ăn, số lít O2 tiêu thụ và số lít CO2 thải ra cùng đương lượng nhiệt
của ôxy được thể hiện qua bảng 1.1.
Bảng 1.1: Đương lượng nhiệt của ôxy đối với các loại thức ăn.
Số lít O2 cần để số lít CO2 thải ra Đương lượng
Thức ăn ôxy hoá 1 gam sau khi ôxy hoá nhiệt của ôxy
thức ăn 1g thức ăn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Đối với thức ăn hỗn hợp gồm cả Gluxit, Protein và Lipit khi bị ôxy hoá, nhiệt lượng giải
phóng ra được tính theo công thức:
Q(KCal) = số lít O2 x 4,825 (1.7)
Phương pháp nhiệt lượng kế gián tiếp còn có thể xác định được nhiệt lượng giải phóng ra
khi ôxy hoá thức ăn thông qua:
Thương số hô hấp là tỉ lệ khí CO2 trên khí O2.
Thương số hô hấp cũng thay đổi tuỳ thuộc vào loại thức ăn được ôxy hoá.
- Đối với phản ứng ôxy hoá glucose
C6H12O6 + 6O2 = 6CO2 + 6H2O
Số lít khí CO2 6 x 22,4 lít
= =1
Thương số hô hấp = Số lít O2 6 x 22,4 lít
Thương số hô hấp của glucose được sử dụng cho cả Gluxit.
- Đối với phản ứng ôxy hóa Lipit có thương số hô hấp bằng 0,7, đối với Protein bằng 0,8
còn với thức ăn hỗn hợp có giá trị nằm trong khoảng từ 0,85 đến 0,9.
Thương số hô hấp có liên quan với đương lượng nhiệt của ôxy, thể hiện qua bảng 1.2.
Bảng 1.2: Thương số hô hấp (TS hô hấp) và đương lượng nhiệt của ôxy (ĐLN của ôxy)
TS hô hấp 0,7 0,75 0,8 0,85 0,9 0,95 1
ĐLN của ôxy 4,686 4,739 4,801 4,862 4,924 4,985 5,05
Khi ôxy hoá thức ăn, bằng cách đo lượng khí O2 tiêu thụ và lượng khí CO2 thải ra (đơn vị
là lít), tính được thương số hô hấp. Dựa vào bảng 1.2, lấy giá trị đương lượng nhiệt của
ôxy tương ứng với thương số hô hấp nhân với số lít O2 tiêu thụ sẽ biết được nhiệt lượng
giải phóng (còn gọi là lượng nhiệt trao đổi hay trị số trao đổi năng lượng).
Ví dụ: Nếu thương số hô hấp là 0,85 thì có đương lượng nhiệt của ôxy là 4,862 và biết cơ
thể tiêu thụ 20 lít O2 thì trị số trao đổi năng lượng sẽ là:
4,862 x 20 lít O2 = 97,24 KCal
VII. Phân biệt nguyên tắc hoạt động của cơ thể sống với máy nhiệt
Máy nhiệt là động cơ dùng nhiên liệu đốt như dầu Diedel, xăng để sinh công như máy
nổ ôtô, xe máy, máy bơm nước... Trong cơ học, hiệu suất sử dụng năng lượng của một
cái máy nhiệt, được tính theo công thức:
T −T
η= 2 1 (1.8)
T2
η: Hiệu suất của máy nhiệt (%)
T1: Nhiệt độ Kelvin ở trạng thái đầu (oK)
T2: Nhiệt độ Kelvin ở trạng thái cuối (oK)
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Công thức chuyển đổi giữa nhiệt độ Kelvin và nhiệt độ bách phân (oC):
T(oK) = t(oC) + 273 (1.9)
Giả sử hiệu suất sử dụng năng lượng của một máy nhiệt đạt trung bình là
33% = 33/100 ≈ 1/3
Nếu ta cũng giả sử cơ thể sống hoạt động giống như một máy nhiệt, tức là cũng có hiệu
suất sử dụng năng lượng là 33% ?
Nhiệt độ ban đầu của cơ thể người là 37oC, theo công thức (1.9) tính ra:
T1 = 37 + 273 = 310oK
1
Thay η = 33% ≈ và T1 = 310oK vào công thức (1.8) sẽ được:
3
1 T2 − 310 o K
= → 3.(T2 - 310oK)=T2
3 T2
2T2 = 930oK → T2 = 465oK
Áp dụng công thức (1.9) ta có:
465 = t2(oC) + 273 → t2 = 465 - 273 = 192oC
Kết quả trên cho thấy cơ thể sống hoạt động không giống như một máy nhiệt. Đối với cơ
thể sống, Protein bị biến tính ngay ở nhiệt độ từ 40oC đến 60oC còn ở 192oC thì không có
một sinh vật nhân chuẩn nào có thể sống được. Điều đó khẳng định cơ thể sống hoạt
động không giống như một máy nhiệt mà hoạt động theo nguyên lý của các quá trình sinh
học.
VIII. Định luật II nhiệt động học
Định luật I nhiệt động học chỉ cho biết về sự biến đổi giữa các dạng năng lượng khác
nhau, cho phép xác định biểu thức chỉ rõ sự liên quan về lượng giữa các dạng năng lượng
khác nhau khi xuất hiện trong một quá trình cho trước. Song định luật I nhiệt động học
không cho biết quá trình khi nào có thể xảy ra hoặc không xảy ra và chiều hướng diễn
biến của quá trình nếu xảy ra thì theo chiều hướng nào? Định luật II nhiệt động học xác
định được chiều hướng tự diễn biến của một quá trình cũng như cho biết quá trình tự diễn
biến đến khi nào thì dừng lại và cho phép đánh giá khả năng sinh công của các hệ nhiệt
động khác nhau.
Định luật II nhiệt động học có ba cách phát biểu.
Cách phát biểu thứ nhất còn gọi là tiên đề Clausius đưa ra 1850: "Nhiệt không thể tự
động truyền từ vật lạnh sang vật nóng". Từ đó suy ra rằng nhiệt nói riêng còn những quá
trình nhiệt động nói chung chỉ có thể tự diễn ra nếu xảy ra sự truyền năng lượng từ mức
độ cao đến mức độ thấp, tức là theo chiều gradien. Gradien của một thông số đặc trưng
cho một tính chất nào đó về trạng thái của hệ (như nồng độ) được xác định bằng hiệu số
giá trị của thông số đó ở tại hai điểm chia cho khoảng cách giữa hai điểm đó.
Ví dụ: Giả sử tại vị trí 1 có nồng độ là C1 còn ở vị trí 2 có nồng độ là C2 và C1 > C2 thì
hiệu số nồng độ sẽ là C1 - C2 còn hiệu số khoảng cách là x2 - x1. Đặt ΔC = C1 - C2 và Δx
= x2 - x1 thì gradien nồng độ được xác định:
ΔC C1 − C 2 C1 > C2
= (1.10)
Δx x 2 − x1
• •
x1B x2
B
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Gradien là một đại lượng vectơ, có giá trị về hướng và giá trị độ lớn.
Khi so sánh một tế bào sống với một vật vô sinh như một hạt cát ta thấy rõ ngay rằng
trong tế bào sống duy trì nhiều loại gradien khác nhau. Gradien màng để duy trì điện thế
tĩnh và điện thế hoạt động, gradien nồng độ để duy trì nồng độ, gradien áp suất thẩm thấu
để duy trì lượng nước trong tế bào... Nếu tế bào chết thì các loại gradien cũng bị triệt tiêu.
Nếu xét ở mức độ gradien thì sự sống của tế bào luôn kèm theo sự tồn tại của các loại
gradien.
Cách phát biểu thứ hai do Thomson phát triển tiên đề của Clausius "Không thể có một
quá trình biến đổi chuyển toàn bộ nhiệt lượng thành công".
Theo cách phát biểu của Thomson thì hiệu suất hữu ích của quá trình bao giờ cũng nhỏ
hơn 1 (tức η < 1). Điều này có nghĩa trong tự nhiên không có một quá trình nào có thể
chuyển toàn bộ nhiệt lượng được cung cấp thành công hữu ích. Đối với các quá trình diễn
ra trong hệ thống sống có tuân theo cách phát biểu của Thomson hay không? Vấn đề này
sẽ đề cập đến ở phần sau.
Cách phát biểu thứ ba trên cơ sở ý kiến của Planck, cho rằng Entropi là một tiêu chuẩn
đầy đủ và cần thiết để xác định tính thuận nghịch và không thuận nghịch của bất cứ quá
trình vật lí nào diễn ra trong thiên nhiên. Định luật II nhiệt động học phát biểu như sau:
"Đối với hệ cô lập, mọi quá trình trong tự nhiên đều diễn biến theo chiều tăng của
entropi". Vậy entropi là gì? Để hiểu rõ đại lượng này ta xét ví dụ về nguyên lý hoạt động
của máy nhiệt.
Theo hình 1.1, nguyên lý hoạt động của máy nổ như sau:
Máy chỉ có khả năng sinh công A (tức bánh đã quay)
khi được cung cấp năng lượng là xăng. Khi xăng bị đốt
Nguồn cung cấp nhiệt T1
cháy có nhiệt độ là T1 và giải phóng nhiệt lượng là Q1.
Một phần của nhiệt lượng Q1 dùng để sinh công, phần Q
1
còn lại đã truyền cho nguồn nước làm lạnh máy là Q2,
dẫn đến làm tăng nhiệt độ của nước là T2. Ở đây Q1>Q2
và T1>T2 Máy sinh
công
Theo (1.8) thì hiệu suất hữu ích của quá trình thuận
nghịch được xác định theo công thức: Q2
A Q1 − Q 2 T1 − T2
η= = = (1.11)
Q1 Q1 T1 Nguồn thu nhiệt T2
Cân bằng phương trình ta có:
T1(Q1-Q2)=Q1(T1-T2) → T1Q1-T1Q2=Q1T1-Q1T2 Hình 1.1: Nguyên lý
hoạt động của máy nổ
Q1 Q 2
Giản ước ta được: T1Q2=Q1T2 hay = (1.12)
T1 T2
Từ vật lý học cho biết sự thay đổi entropi của một hệ được xác định theo công thức:
Q
ΔS = (1.13)
T
ΔS: sự thay đổi entropi của hệ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Vật thể
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Q
nhận nhiệt là dSB= (dấu trừ chỉ entropi của vật
TB
B
A bị giảm).
Sự thay đổi entropi của toàn hệ được xác định:
Q Q Q(TA − TB )
dS=dSA+dSB= − =
TB TA TA .TB
B
3 4
Thành ngăn
5 6
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Sau khi bỏ thành ngăn do chuyển động nhiệt của các phân tử nên các phân tử sẽ chuyển
động trong toàn bộ thể tích của bình tạo nên tất cả có 26 = 64
- Kiểu phân bố 5 phân tử ở bên trái bình còn 1 phân tử ở bên phải bình (có 6 kiểu phân
bố).
2 1 1 2 1 2
3 4 3 4 4 3
5 6 5 6 5 6
1 2 1 2 1 2
3 4 3 4 3 4
5 6 6 5 5 6
Kiểu 4 Kiểu 5 Kiểu 6
Xác suất phân bố của phân tử trong bình được trình bày ở bảng 1.3. Xác suất nhiệt động
là số kiểu có thể xảy ra của mỗi kiểu phân bố cho nên xác suất nhiệt động luôn luôn lớn
hơn 1 hoặc nhỏ nhất là bằng 1.
Xác suất toán học (kí hiệu là w) bao giờ cũng nhỏ hơn một và bằng 1 là lớn nhất. Xác suất toán
học là khả năng xảy ra số kiểu trên toàn bộ số kiểu phân bố.
Bảng 1.3: Sự phân bố của các phân tử giữa hai phần bình và xác suất phân bố của chúng.
Số phân tử Xác suất Xác suất
Bên trái bình Bên phải bình nhiệt động W toán học w
6 0 1 1/64
5 1 6 6/64
4 2 15 15/64
3 3 20 20/64
2 4 15 15/64
1 5 6 6/64
0 6 1 1/64
Kết quả ở bảng 1.3 cho thấy sự phân bố cân bằng mỗi bên có 3 phân tử là có xác suất
nhiệt động lớn nhất, tức W=20 nên theo công thức (1.19) thì entropi cũng có giá trị lớn
nhất. Như vậy, trạng thái cân bằng là trạng thái có xác suất nhiệt động lớn nhất đồng thời
cũng có entropi lớn nhất nên là trạng thái dễ xảy ra nhất. Trong 64 kiểu phân bố chỉ có 20
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
kiểu tuân theo định luật II nhiệt động học, tiến triển theo chiều hướng tăng của entropi và
đạt tới entropi lớn nhất còn 42 kiểu (gồm 6+15+15+6) cũng tiến triển theo chiều tăng của
entropi nhưng chưa đạt tới giá trị entropi lớn nhất. Đặc biệt chiều hướng tiến triển có 6
phân tử ở cùng một phía của bình có xác suất nhiệt động và entropi giống với trạng thái
ban đầu (tức entropi không tăng lên). Điều này không đúng với định luật II nhiệt động
học là quá trình luôn diễn ra theo chiều tăng của entropi. Khi số phân tử trong bình càng
tăng lên, ví dụ là 50 phân tử thì tổng số kiểu phân bố sẽ là 250, là 1 con số cực kỳ lớn. Khi
đó khả năng tiến triển có cả 50 phân tử ở một phía của bình cũng chỉ chiếm 1 khả năng
(tức W=1) so với 250 khả năng và như vậy trường hợp xảy ra không đúng với định luật II
⎛ 1 ⎞
nhiệt động học sẽ càng ít đi ⎜ 50 ⎟
. Đó chính là tính thống kê của định luật II nhiệt động
⎝2 ⎠
học, tức là khi số phân tử trong hệ càng lớn thì tính đúng đắn của định luật II nhiệt động
học sẽ càng cao.
X. Định luật II nhiệt động học áp dụng vào hệ sinh vật
Hệ thống sống là một hệ thống mở, luôn xảy ra quá trình trao đổi vật chất và năng lượng
với môi trường ngoài. Theo cách phát biểu của Thomson: "Không thể chế tạo được động
cơ vĩnh cửu loại hai" là động cơ có hiệu suất hữu ích là 100%, khi áp dụng vào hệ thống
sống là hoàn toàn đúng đắn. Thực nghiệm đã xác định mọi quá trình diễn ra trong hệ
thống sống đều có hiệu suất hữu ích nhỏ hơn 100% (xem bảng 1.4).
Bảng 1.4: Hiệu suất của một số quá trình sinh vật
TT Quá trình sinh vật Hiệu suất (η)
1 Quá trình glicoliz (tiêu glucoza) 36%
2 Quá trình co cơ 30%
3 Quá trình oxy hóa photphorin hóa 55%
4 Quá trình quang hợp 75%
5 Quá trình phát quang của vi khuẩn 90%
Quá trình quang hợp của thực vật có hiệu suất 75% có nghĩa là cây xanh cứ hấp thụ
100calo từ năng lượng ánh sáng mặt trời thì có 75 calo được sử dụng vào tổng hợp chất
(phần năng lượng có ích) còn 25 calo tỏa nhiệt sởi ấm cơ thể hay phát tán nhiệt ra môi
trường xung quanh (phần năng lượng vô ích).
* Vai trò của entropi
Đối với hệ cô lập, định luật II nhiệt động học đã khẳng định mọi quá trình diễn biến đều
diễn ra theo chiều tăng của entropi và đạt giá trị cực đại khi đạt đến trạng thái cân bằng
nhiệt động thì dừng hẳn. Cơ thể sống là một hệ mở cho nên không thể áp dụng định luật
II nhiệt động học trực tiếp lên cơ thể sống. Định luật II nhiệt động học chỉ có thể áp dụng
vào hệ sinh vật nếu xem hệ bao gồm cả cơ thể sống và môi trường sống. Ta hãy xét sự
dS
thay đổi entropi của hệ (kí hiệu là ) có liên quan tới sự thay đổi entropi của cơ thể
dt
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
dS C dSm
sống (kí hiệu là ) và sự thay đổi entropi của môi trường (kí hiệu là ) như thế
dt dt
nào? Entropi là một hàm trạng thái và có tính chất cộng tính (tức là entropi của hệ bằng
tổng entropi của các thành phần nằm trong hệ) nên sự thay đổi entropi của hệ sẽ được xác
định theo công thức:
dS dSC dS m
= + (1.20)
dt dt dt
dSC
Thành phần = 0 khi các quá trình diễn ra trong cơ thể sống đều là quá trình thuận
dt
nghịch. Song trên thực tế phần lớn các quá trình diễn ra ở cơ thể sống là những quá trình
dSC
bất thuận nghịch, do vậy >0
dt
dS m
Thành phần = 0 khi giữa cơ thể sống và môi trường không xảy ra quá trình trao đổi
dt
vật chất và năng lượng. Điều này không xảy ra vì trái với thực tế. Quá trình trao đổi vật
chất và năng lượng giữa cơ thể sống với môi trường là quá trình bất thuận nghịch (nhất là
dS m dSC dSm dS
quá trình trao đổi nhiệt) do vậy >0. Như vậy, khi >0 và >0 thì >0.
dt dt dt dt
Điều này là phù hợp với định luật II nhiệt động học.
Trong cơ thể sống xảy ra trường hợp khi quá trình đồng hóa diễn ra với cường độ mạnh
dSC
hơn so với quá trình dị hóa thì <0. Trường hợp này gặp ở quá trình quang hợp của
dt
dSC
thực vật, khi đó có <0. Bù lại, quá trình trao đổi chất giữa thực vật với môi trường
dt
nước, không khí và nhất là sự hấp thu năng lượng từ ánh sáng mặt trời đã làm tăng
entropi của môi trường lên rất cao nhất là ở trung tâm mặt trời đã xảy ra các phản ứng hạt
nhân để giải phóng năng lượng ánh sáng chiếu xuống trái đất. Các phản ứng hạt nhân bao
dSm
giờ cũng có entropi vô cùng lớn. Do vậy, giá trị sẽ lớn hơn không rất nhiều nên sự
dt
dS
thay đổi entropi của hệ là vẫn lớn hơn không, phù hợp với định luật II nhiệt động
dt
học.
Tóm lại khi áp dụng định luật II nhiệt động học vào hệ thống sống thì ta không nên tách
rời cơ thể sống ra khỏi môi trường sống mà phải xem cơ thể sống và môi trường sống là
cùng nằm trong một hệ.
Về mối liên quan giữa entropi và độ trật tự cấu trúc của cơ thể sống, Schrodinger cho
rằng: "Sự sống là sự hấp thụ entropi âm". Giải thích quan điểm này, theo tác giả là cơ thể
sống luôn luôn duy trì độ trật tự cao của mình bằng cách hấp thụ chất dinh dưỡng có độ
trật tự cao như protit, Gluxit, Lipit qua thức ăn. Thực ra, khi tiêu thụ chất dinh dưỡng, cơ
thể sống không sử dụng chúng như một nguồn trật tự (để nguyên và dùng làm nguyên
liệu để xây dựng nên cơ thể sống) mà chất dinh dưỡng sau khi hấp thụ được phân giải
thành chất để tế bào có thể hấp thu được. Chẳng hạn Protein của thịt gà có độ trật tự cao
(tức entropi thấp) khi được cơ thể hấp thụ nó sẽ bị phân giải thành các axit amin nên có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
độ trật tự kém hơn (tức entropi cao). Do vậy, quan điểm của Schrodinger là hoàn toàn
không phản ánh đúng bản chất của quá trình tiêu hóa và hấp thu của cơ thể sống. Độ trật
tự cấu trúc và độ trật tự của các quá trình sinh học diễn ra trong cơ thể sống không phải
do entropi quyết định mà do cơ thể sử dụng nguồn năng lượng tự do từ nguồn thức ăn để
duy trì sự tồn tại và phát triển của cơ thể sống. Trong quá trình phát sinh và hình thành sự
sống trên trái đất, trải qua thời gian tiến hóa với sự chọn lọc của tự nhiên đã hình thành
nên các loài sinh vật có sự thích nghi cao với từng loại môi trường sống. Do các nguyên
lí của các quá trình sinh học quyết định đã làm cho cơ thể sống thích nghi cả về mặt cấu
trúc cũng như thích nghi về mặt chức năng chứ không phải hoàn toàn do entropi quyết
định như trong hệ lý hóa.
Tuy nhiên mọi quá trình sinh lý, sinh hóa diễn ra trong cơ thể sống đều kèm theo sự thay
đổi của entropi.
Khi xét entropi riêng của một cơ thể sống mà không gắn với entropi của môi trường
sống thì khi cơ thể ở trạng thái cân bằng dừng, entropi có một giá trị xác định nhưng
không phải là cực đại và không đổi. Khi cơ thể sống nhiễm phóng xạ, nhiễm chất độc
hại, nhiễm virut thì entropi sẽ tăng và có giá trị lớn hơn so với entropi khi ở trạng thái cân
bằng dừng. Khi cơ thể sống có quá trình sinh tổng hợp chất (như quá trình quang hợp ở
thực vật) diễn ra mạnh hơn so với quá trình phân hủy chất thì entropi sẽ giảm và có giá trị
nhỏ hơn so với entropi khi ở trạng thái cân bằng dừng là trạng thái có tốc độ phản ứng
tổng hợp cân bằng với tốc độ phản ứng phân hủy. Sự thay đổi entropi diễn ra trong cơ thể
sống không vi phạm định luật II nhiệt động học vì cơ thể sống là một hệ mở chứ không
phải là một hệ cô lập.
XI. Năng lượng tự do
Từ định luật I nhiệt động học đã thiết lập được công thức (1.3) là:
dU = δQ- δA
Từ định luật II nhiệt động học đã thiết lập được công thức (1.14) là:
δQ
dS = → δQ = T.dS
T
Thay δQ = T . dS vào công thức (1.3) ta được:
dU = T . dS - δA → -δA = dU - T . dS (1.21)
Đối với quá trình đẳng nhiệt (là quá trình diễn ra ở nhiệt độ luôn không đổi) ta có thể
viết:
-δA = d(U - T.S) (1.22)
Người ta đặt F = U - T.S và gọi F là năng lượng tự do. Năng lượng tự do là một hàm
trạng thái .
Thay F vào (1. 22) ta được: - dF = δA (1.23)
Dấu trừ thể hiện quá trình sử dụng năng lượng tự do để thực hiện công. Đối với quá trình
thuận nghịch, năng lượng tự do, được chuyển toàn bộ thành công. Từ vật lí đã xác định
được đối với quá trình đẳng áp (là quá trình diễn ra ở áp suất luôn không đổi) nếu công
sinh ra chỉ để chống lại áp suất bên ngoài thì công được tính theo công thức:
δA = P . dV (1.24)
δA: Công thực hiện
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
P: Áp suất
dV: Sự thay đổi thể tích
Thay (1.24) vào (1.3) ta có:
dU = δQ - P . dV → δQ = dU + P . dV (1.25)
Đối với quá trình đẳng áp (P=hằng số), công thức (1.25) có thể viết:
δQ = d(U + P . V) (1.26)
Người ta đặt H = U + P . V và gọi H là hàm entanpi. Entanpi là một hàm trạng thái. Công
thức (1.26) có thể viết lại như sau:
δQ = dH (1.27)
Đối với quá trình diễn ra ở điều kiện nhiệt độ và áp suất không thay đổi, người ta đưa vào
hàm thế nhiệt động, kí hiệu là Z và được tính theo công thức:
dZ = dH - T . dS (1.28)
Hàm thế nhiệt động của phản ứng được tính theo công thức:
ΔZ = ΔZo + R.T.lnK (1.29)
ΔZo: Thế nhiệt động chuẩn khi phản ứng diễn ra ở nhiệt độ là 25oC.
R: Hằng số khí
T: Nhiệt độ Kelvin (oK)
K: Hệ số cân bằng của phản ứng
Dựa trên nghiên cứu sự phụ thuộc hệ số cân bằng của phản ứng vào nhiệt độ sẽ xác định
được sự thay đổi của entanpi theo công thức:
k ln K δQ
= (1.30)
dT RT 2
d ln K
→ δQ = R .T 2 . (1.31)
dT
Xác định được δQ, dựa vào công thức (1.27) sẽ tính ra dH.
1. Quá trình hình thành năng lượng tự do trong cơ thể sống
Năng lượng tự do được hình thành trong cơ thể sống là do quá trình phân hủy các chất
dinh dưỡng. Theo Crebs và Gonberg quá trình hình thành năng lượng tự do chia làm 3
giai đoạn chính sau đây:
- Phân hủy các cao phân tử sinh học tới monome (đơn phân tử), như từ Protein tới axit
amin, từ Gluxit tới glucose, từ Lipit tới glixerin và axit béo. Năng lượng tự do được giải
phóng ra ở giai đoạn này chỉ chiếm từ 0,1% đến 0,5% năng lượng dự trữ có trong cao
phân tử.
- Sự chuyển hóa của các monome kể trên tới axit Piruvic và axetyl coenzim A (là axit
Axetic đã hoạt hóa) và một số hợp chất nằm trong chu trình Crebs đã giải phóng ra năng
lượng tự do đạt từ 15% đến 30% năng lượng dự trữ có trong monome.
- Quá trình oxy hóa axetyl coenzim A tới khí CO2 và H2O trong chu trình Crebs, năng
lượng tự do được giải phóng ra đạt từ 70% đến 80% năng lượng dự trữ có trong axetyl
coenzim A. Hay quá trình oxy hóa axit palmatic, năng lượng tự do được giải phóng ra
chiếm 60%.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 2
ĐỘNG HỌC CỦA CÁC PHẢN ỨNG SINH VẬT
Động học của các phản ứng sinh vật là nghiên cứu những cơ chế và các
qui luật tiến triển theo thời gian của các phản ứng hóa sinh diễn ra trong
cơ thể sống.
Trong cơ thể sống thường xuyên diễn ra các phản ứng của quá trình trao
đổi chất. Phản ứng diễn ra có thể là phản ứng bậc không, bậc một, bậc 2...,
phản ứng tự xúc tác, phản ứng nối tiếp, phản ứng song song, phản ứng
vòng, phản ứng dây chuyền...Tùy điều kiện ban đầu và với sự tham gia
của chất xúc tác hay chất ức chế mà các phản ứng hóa sinh xảy ra với tốc
độ khác nhau và bằng các con đường khác nhau.
I. Bậc phản ứng và tốc độ phản ứng
Bậc phản ứng: Bậc của phản ứng bằng số lượng các loại phân tử (hay
nguyên tử) tham gia trong một đơn vị cơ bản của chuyển biến hoá học mà
nồng độ hay áp suất của chúng quyết định tốc độ phản ứng. Theo Gunberd
và Vaag thì tốc độc của phản ứng: A = M+ N
Được xác định bằng công thức:
dC
v=− =k.C
dt
v: Tốc độ phản ứng
k: Hằng số tốc độ phản ứng
C: Nồng độ chất A
Dấu trừ thể hiện sự giảm nồng độ chất A theo thời gian diễn ra phản ứng.
Với phản ứng tổng quát: aA + bB = mM + nN
Tốc độ phản ứng được xác định theo công thức:
v = k. [A]aB]b (2.1)
[A] và [B] là nồng độ chất A và nồng độ chất B còn a và b là các hệ số
của chất A và của chất B còn k là hằng số tốc độ phản ứng.
Bậc của phản ứng (n) là tổng các số mũ của nồng độ các chất ở trong biểu
thức tính tốc độ phản ứng (2.1), tức là n = a + b
Dựa vào đó, người ta chia ra phản ứng bậc một, phản ứng bậc hai, phản
ứng bậc ba.
Ví dụ 1: Phản ứng:N2O = N2 + 1/2 O2 có v = k [N2O]là phản ứng bậc một.
2
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
C C
ln =-k.t → =e-kt
Co Co
C = Co e-kt (2.3)
Phương trình (2.3) biểu diễn
dưới dạng đồ thị: (hình 2.1) t
O
Từ đồ thị thể hiện nồng độ Thời gian
chất A giảm theo thời gian Hình 2.1: Sự thay đổi nồng độ chất A
sau khi phản ứng xảy ra và theo thời gian của phản ứng bậc 1.
giảm theo qui luật hàm số
mũ.
3
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
1 (a − x )
→ k.t = . ln +C (2.6)
(a − b ) (b − x )
Để tìm hằng số C, dựa vào điều kiện khi to=0 thì x = 0
Thay vào (2.6) sẽ được:
1 a a b
k.0 = . ln +C → C = -ln → C = ln
(a − b ) b b a
Thay hằng số C vào phương trình (2.6) sẽ xác định được hằng số tốc độ
phản ứng:
1 b(a - x)
k= . ln (2.7)
(a − b).t a(b - x)
IV. Phản ứng bậc ba
Phản ứng bậc 3 là phản ứng:
k
A + B + C ⎯⎯→ P
Theo định nghĩa, tốc độ phản ứng bậc 3 được xác định theo công thức:
dC dP
v=− = = k.Ca.Cb.Cc (2.8)
dt dt
4
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Giả thiết ở thời điểm ban đầu trước khi phản ứng diễn ra là to=0, ứng với
nồng độ chất A là a, nồng độ B là b, nồng độ chất C là c. Sau một thời
gian t phản ứng xảy ra, tạo thành sản phẩm có nồng độ là x, thì tốc độ
phản ứng có thể viết dưới dạng sau:
dx
v = = k(a-x) (b-x) (c-x) (2.9)
dt
dx
hoặc: = k.dt
(a − x ) ( b − x ) (c − x )
Để giải phương trình trên, xét trường hợp đơn giản: a = b = c
Phương trình khi đó sẽ có dạng:
dx
k.dt =
(a − x ) 3
Lấy tích phân hai vế phương trình trên sẽ được:
t x
dx
∫ k.dt = ∫ (a − x)3
o o
1⎡ 1 1⎤
→ k.t = ⎢ 2
− 2 ⎥+C (2.10)
2 ⎣ (a − x ) a ⎦
Để tìm hằng số C, dựa vào điều kiện khi to=0 thì x=0
Thay vào (2.10):
1⎡ 1 1⎤
k.0 = − +C → C=0
2 ⎢⎣ a 2 a 2 ⎥⎦
Vậy hằng số tốc độ của phản ứng bậc 3 khi nồng độ các chất tham gia vào
phản ứng bằng nhau, được xác định theo công thức:
1 ⎡ 1 1⎤
k= ⎢ 2
− 2⎥ (2.11)
2.t ⎣ (a − x ) a ⎦
V. Phản ứng thuận nghịch
k
⎯⎯→
1
Giả thiết ở thời điểm bắt đầu xảy ra phản ứng to=0, chất A có nồng độ là a,
sau thời gian t phản ứng xảy ra, tạo sản phẩm P có nồng độ là x, khi đó
nồng độ chất A sẽ là (a-x).
Tốc độ phản ứng thuận nghịch được xác định theo phương trình:
dC dx
v=− = = k1 (a − x) − k 2 .x = v1 − v2 (2.12)
dt dt
v1=k1(a-x) là tốc độ phản ứng thuận
v2=k2.x là tốc độ phản ứng nghịch
Khi tốc độ phản ứng thuận bằng tốc độ phản ứng nghịch (v1=v2) thì tốc độ
của quá trình sẽ bằng không (v=0) và hệ ở trạng thái cân bằng. Khi hệ ở
trạng thái cân bằng, phương trình (2.12) được viết như sau:
k1(a*-x*)-k2x*=0 (2.13)
*
a : Nồng độ chất A khi hệ ở trạng thái cân bằng
x*: Nồng độ chất P khi hệ ở trạng thái cân bằng
Từ (2.13) suy ra:
k 1 (a * − x * )
k2 = (2.14)
x*
Thay k2 vào phương trình (2.12) sẽ được:
dx ( a* − x* )
= k1 (a − x) − k1 .x
dt x*
dx (ax * − a * x ) x *dx
= .k1 → k1 .dt = (2.15)
dt x* (ax * − a * x )
Lấy tích phân hai vế phương trình (2.15) ta có:
t x
dx
∫ k1dt = ∫ x
*
o o (ax * -a * x )
x* x
k 1 .t = − *
ln(ax * − a * x ) o + C →
a
k1.t =
x*
a*
[ ]
ln ax * − ln(ax * − a * x ) + C (2.16)
Để tìm hằng số C, dựa vào điều kiện khi to=0 thì x=0.
Thay vào phương trình (2.16) tính được C=0
6
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Khi đó hằng số tốc độ phản ứng thuận được xác định theo công thức:
x* ax *
k1 = ln (2.17)
a * t (ax * − a * x )
Thay k1 vào phương trình (2.14) sẽ tính được hằng số tốc độ của phản ứng
nghịch:
(a * − x * ) x * ax *
k2 = . * ln
x* a t (ax * − a * x)
(a * − x * ) ax *
k2 = ln (2.18)
a *t (ax * − a * x )
VI. Phản ứng song song
Trong cơ thể sống có nhiều chất tham gia vào các phản ứng song song.
Thí dụ như glucose có thể bị oxy hóa theo con đường oxy hóa khử của chu
trình Crebs hoặc theo chu trình hecxozamonophotphat. Phản ứng song
song đơn giản có dạng:
B
k1
A
k2
C
Giả thiết ở thời điểm bắt đầu xảy ra phản ứng to=0, chất A có nồng độ là
ao, sau thời gian t phản ứng xảy ra tạo ra sản phẩm B có nồng độ là b và
sản phẩm C có nồng độ là c còn nồng độ chất A khi đó là a. Tốc độ phản
ứng được xác định theo phương trình:
db dc
v1 = = k1a và v 2 = = k 2a (2.19)
dt dt
v1: Tốc độ phản ứng chất A chuyển thành chất B
v2: Tốc độ phản ứng chất A chuyển thành chất C
Tốc độ của cả quá trình:
da db dc
v=− = + = k1.a + k 2 .a = (k1 + k 2 ).a (2.20)
dt dt dt
Lấy tích phân 2 vế ta có:
7
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
a t
da
∫a a = − ∫o (k1 + k 2 ).dt
o
a
ln = −(k 1 + k 2 ).t → a = a o .e −( k1 + k 2 ).t (2.21)
ao
Thay a vào phương trình (2.19) ta được:
db
v1 = = k 1 .a o .e −( k1 + k 2 ).t .dt
dt
db = k1. a o .e −( k1 + k 2 ).t .dt
Lấy tích phân hai vế ta có:
b t
∫ db = k1.a o ∫ e
−(k1 −k 2).t
.dt →
o o
b=
k 1 .a o
(k1 + k 2 )
[
. 1 − e − ( k1 + k 2 ) t ] (2.22)
Thay giá trị b từ phương trình (2.22) vào (2.24) tính được nồng độ chất C
k
k1
k k .a
c = 2 .b = 2 . 1 o . 1 − e −( k1 + k 2 ).t
k1 (k1 + k 2 )
[ ]
c=
k 2 .a o
(k1 + k 2 )
[
. 1 − e −( k1 + k 2 ).t ] (2.25)
Từ phương trình (2.23) cho biết trong phản ứng song song, nếu hai phản
ứng bậc 1 xảy ra cùng một lúc thì tỉ số hằng số tốc độ phản ứng sẽ bằng tỉ
số nồng độ sản phẩm được tạo nên. Trường hợp nếu có 1 trong 2 phản ứng
là phản ứng bậc không (là phản ứng có tốc độ phản ứng không phụ thuộc
vào nồng độ chất tham gia vào phản ứng) thì phản ứng bậc 1 sẽ có ý nghĩa
quyết định đến tốc độ giảm nồng độ chất A theo thời gian.
8
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Trên cơ sở đó Hinshenvut rút ra một kết luận quan trọng: "Đối với cơ thể
sống khi nồng độ cơ chất có nồng độ thấp thì phản ứng do men xúc tác sẽ
xảy ra theo phản ứng bậc 1 còn khi nồng độ cơ chất bão hòa thì một số
phản ứng do men xúc tác tiến triển theo phản ứng bậc không còn một số
phản ứng do men xúc tác vẫn tiến triển theo phản ứng bậc 1 và chính phản
ứng bậc 1 sẽ xác định tốc độ của toàn bộ quá trình".
Thí dụ: Trong cơ thể thường xảy ra phản ứng song song.
Axit hipyric
Glicocol
Axit benzoic k1
k2
Glucuronic
Glucuronit
Khi nồng độ axit benzoic nhỏ thì cả hai phản ứng đều tiến triển theo
phản ứng bậc một. Song trên thực tế k1>k2 nên phản ứng chủ yếu xảy ra
theo hướng axit benzoic kết hợp với glicocol để tạo thành axit hipuric, cho
nên trong nước tiểu chỉ phát hiện được axit hipuric. Khi nồng độ axit
hipuric lớn thì phản ứng chuyển axit benzoic thành axit hipuric là phản
ứng bậc không. Do vậy phần lớn axit benzoic kết hợp với axit glucuronic
để tạo thành glucuronit, nên xét nghiệm thấy nồng độ axit hipuric không
tăng còn nồng độ glucuronit tăng lên rất nhanh.
VII. Phản ứng nối tiếp
Phản ứng nối tiếp có dạng:
k1 k2
A ⎯⎯→ B ⎯⎯→ C
Tốc độ của phản ứng từ chất A tạo thành chất B được xác định theo
phương trình của phản ứng bậc nhất:
dCa
v=− = k1Ca (2.26)
dt
Giải phương trình này đã thu được kết quả ở phần phương trình bậc nhất:
Ca = Co. e − k1.t (2.27)
Co: Nồng độ chất A tại thời điểm ban đầu (to=0)
Ca: Nồng độ chất A tại thời điểm t
Tốc độ sự tạo thành chất B sẽ bằng hiệu số giữa tốc độ hình thành chất B
từ chất A và tốc độ phân hủy chất B thành chất C, xác định theo phương
trình:
9
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
dC b
v= = k1.C a − k 2 .C b (2.28)
dt
Cb: Nồng độ chất B ở thời điểm t
Để giải phương trình trên cần dựa vào điều kiện biên:
Khi to=0 thì nồng độ chất A là Co còn chất B chưa được tạo thành nên
Cb=0. Nghiệm của phương trình (2.28) theo cách giải từ phương trình vi
phân được tìm dưới dạng:
Cb= α1.e − k1.t + α 2 .e − k 2 .t (2.29)
Trong đó α1, α2 là những hệ số cần phải xác định.
Lấy đạo hàm nghiệm Cb theo thời gian t ta có:
dC b
= −α1.k1.e −k1.t − α 2 .k 2 .e −k 2 .t (2.30)
dt
dC b
Thay Ca=Co. e − k1.t , Cb từ (2.29) và từ (2.30) vào phương trình (2.28)
dt
ta được:
( ) (
− α1.k1e − k1.t − α 2 .k 2 e − k 2 .t = k1 C o .e − k1.t − k 2 α1.e − k1.t + α 2 .e − k 2 .t )
Giản ước còn lại:
k1.Co
− k1.α1 = k1.Co − k2α1 → α1 =
k2 − k1
Thay giá trị α1 vào phương trình (2.29) sẽ thu được:
kC
C b = 1 o .e −k1 .t + α 2 e − k 2 .t
k 2 − k1
k1C o
Khi to = 0 thì Cb = 0 → α 2 = − → α1 = − α 2
k 2 − k1
Khi biết α1 và α2, thay vào (2.29) sẽ thu được kết quả nồng độ chất B tại
thời điểm t.
kC
(
C b = 1 o e −k1t − e −k 2t
k 2 − k1
(2.31) )
Tốc độ hình thành chất C sẽ được xác định qua nồng độ chất B và hằng số
k2 theo phương trình:
dC
v = − b = k 2Cb
dt
10
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
dC c
hay v= = k 2Cb (2.32)
dt
Cc: nồng độ chất C ở thời điểm t
Thay giá trị Cb ở phương trình (2.31) vào phương trình (2.32) ta được:
dCc k1 .k 2 .Co − k1t
= .(e − e −k2t )
dt k 2 − k1
k 1k 2 C o − k I t kk C
dC c = e dt − 1 2 o e −k 2t dt
k 2 − k1 k 2 − k1
Lấy tích phân 2 vế ta được:
Cc t t
k1k 2 C o −k1t kk C
∫ dC c = ∫
k 2 − k1 o
e dt − 1 2 o ∫ e −k 2t dt
k 2 − k1 o
o
t
∫e
− k 1t
dt = −
k1
(
1 − k 1t
e −1 )
o
( )
t
1 −k 2t
∫e
−k 2 t
dt = − e −1
o
k2
Kết quả nồng độ chất C tại thời điểm t sẽ được xác định:
Cc =
Co
k 2 − k1
[ ( ) (
k 2 1 − e −k1t − k1 1 − e −k 2 t )]
(2.33)
0
t
Hình 2.2: Sự thay đổi nồng độ chất A, B, C theo thời gian
được xác định bằng tốc độ của giai đoạn hai vì là giai đoạn tiến triển chậm
nhất.
- Nếu k1 nhỏ hơn rất nhiều so với k2 thì chất B được tạo thành sẽ không
bền và bị phân giải nhanh để hình thành nên chất C (tức k2 lớn). Theo qui
định của phản ứng nối tiếp, phản ứng nào có tốc độ chậm nhất sẽ quyết
định tốc độ của toàn bộ quá trình. Trong trường hợp này thì k1 sẽ quyết
định tốc độ của phản ứng nối tiếp.
VIII. Phản ứng vòng
Phản ứng vòng là một chuỗi các phản ứng diễn ra theo chu trình như chu
trình Crebs, chu trình Glioxilic, chu trình Ocnitin... giữ một vai trò quan
trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể sống. Tốc độ của chu trình
phụ thuộc vào nồng độ tương đối của các chất tham gia vào từng giai đoạn
của chu trình. Cơ thể có khả năng điều chỉnh nồng độ của các chất tham
gia vào chu trình nhờ vào cơ chế điều hòa tốc độ phản ứng. Dạng đơn giản
nhất của phản ứng vòng là phản ứng men - cơ chất (hình 2.3).
M: Men M
C: Cơ chất P C
MC: Phức chất men - cơ chất
P: Sản phẩm của phản ứng MC
Hình 2.3. Phản ứng men - cơ chất
IX. Phản ứng bậc không
Phản ứng bậc không là phản ứng có tốc độ không thay đổi và tốc độ phản
ứng không phụ thuộc vào nồng độ chất tham gia vào phản ứng. Tốc độ
phản ứng bậc không được xác định theo phương trình:
dC
v=− = k o (2.34)
dt
Phản ứng bậc không điển hình là phản ứng men tiến triển trong điều kiện
thừa cơ chất. Trong điều kiện đó, tất cả các phân tử men đều ở dạng liên
kết với cơ chất và tốc độ phản ứng được xác định bởi tốc độ của phản ứng
phân hủy phức hợp men - cơ chất để tạo thành sản phẩm P. Như vậy, tốc
độ hình thành sản phẩm P sẽ không phụ thuộc vào nồng độ cơ chất mà phụ
thuộc vào nồng độ men tham gia xúc tác cho phản ứng.
Phản ứng bậc không là một hệ thống gồm nhiều phản ứng. Trong cơ thể
nếu có xảy ra phản ứng bậc không thì phản ứng tạo sản phẩm phải xảy ra
ít nhất qua hai giai đoạn như kiểu phản ứng men - cơ chất, đã xét ở trên.
12
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
lượng gốc tự do vẫn giữ nguyên cho tới khi xảy ra sự đứt mạch. Sự đứt
mạch đồng nghĩa với phản ứng dây chuyền chấm dứt và sẽ không còn khả
năng tạo ra gốc tự do mới. Có hai nguyên nhân chính dẫn tới sự đứt mạch.
Nguyên nhân thứ nhất là do gốc tự do bị thành bình phản ứng hấp thụ
hoặc gốc tự do tương tác với tạp chất làm chúng không có khả năng tạo ra
gốc tự do mới. Nguyên nhân thứ hai là khi nồng độ gốc tự do cao, chúng
sẽ tương tác với nhau nên dẫn tới sự đứt mạch. Phản ứng tạo HCl là phản
ứng dây chuyền không nảy nhánh:
Clo+H2→HCl+Ho
Ho+Cl→HCl+Clo v.v...
Hai phản ứng trên là một mắt xích của phản ứng dây chuyền. Số mắt xích
được tạo ra do một gốc tự do ban đầu được gọi là chiều dài của mạch. Nếu
gọi β là xác suất đứt mạch, thì xác suất tiếp tục mạch sẽ là 1-β. Xác suất
mạch có n mắt xích được tính theo công thức:
Pn=(1-β)n.β (2.36)
Chiều dài trung bình của mạch sẽ bằng:
1− β
l= (2.37)
β
Chiều dài của mạch phụ thuộc vào bản chất của phản ứng dây chuyền,
điều kiện tiến triển của phản ứng như bình phản ứng, nhiệt độ, áp suất...
Tốc độ của phản ứng dây chuyền không nảy nhánh được xác định theo
công thức:
dn
=no-g.n (2.38)
dt
no: Số trung tâm hoạt động được tạo thành
g: Tốc độ đứt mạch
n: Nồng độ gốc tự do
Nếu tốc độ tạo mạch là wo thì tốc độ phản ứng dây chuyền không nảy
nhánh cũng được xác định theo công thức:
w = wo.l (2.39)
l: Chiều dài trung bình của mạch.
Qua các công thức trên cho thấy tốc độ phản ứng dây chuyền không nảy
nhánh chủ yếu phụ thuộc vào lượng trung tâm hoạt động được tạo thành
(tức nồng độ gốc tự do). Nếu các yếu tố bên ngoài làm tăng lượng gốc tự
do như các chất bị chiếu sáng hay bị chiếu xạ sẽ làm tăng lượng gốc tự do
dẫn tới tăng tốc độ của phản ứng dây chuyền. Ngược lại, các yếu tố làm
14
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
giảm lượng gốc tự do như các chất ức chế sự hình thành gốc tự do sẽ làm
giảm tốc độ phản ứng dây chuyền.
* Phản ứng dây chuyền nảy nhánh
Phản ứng dây chuyền nảy nhánh là phản ứng ở mỗi mạch của phản ứng
khi một gốc tự do tham gia vào phản ứng có thể tạo ra hai hay nhiều gốc
tự do mới. Phản ứng ôxy hóa hydro là một phản ứng dây chuyền nảy
nhánh:
H2 + O2→ Ho + H O o2 (tạo mạch)
Ho + O2→ OHo + Oo (nảy nhánh)
Oo + H2→ OHo + Ho (tiếp tục mạch phản ứng)
OHo + H2→ H2O + Ho (tiếp tục mạch phản ứng)
Gốc tự do Ho tương tác với thành bình sẽ làm ngắt mạch phản ứng.
Một số trường hợp quá trình tạo trung tâm hoạt động có thể không phải do
các gốc tự do ban đầu trực tiếp gây nên mà do sản phẩm của phản ứng dây
chuyền tạo nên.
Ví dụ: Ro+O2→ROOo
ROOo+RH→ROOH+Ro
ROOH→ROo+OHo
Độ tăng lượng gốc tự do ở phản ứng dây chuyền nảy nhánh được xác định
qua phương trình:
dn
=wo+ϕ.n (2.40)
dt
n: Nồng độ gốc tự do
wo: Tốc độ tạo trung tâm hoạt động.
ϕ=f-g, trong đó f là tốc độ nảy nhánh còn g là tốc độ đứt mạch.
Nếu f>g thì nồng độ gốc tự do sẽ được xác định theo công thức:
w
n= o (2.41)
g−f
Giải phương trình (2.40) sẽ thu được nghiệm:
w
( )
n = o e ϕt −1 (2.42)
ϕ
Nếu tích số ϕ.t rất lớn hơn 1 thì nghiệm được tính theo công thức:
15
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
w o ϕt
n= e (2.43)
ϕ
* Đặc điểm của phản ứng dây chuyền
Phản ứng dây chuyền có các đặc điểm sau:
- Phản ứng dây chuyền có thời gian tiềm ẩn. Trong thời gian này chủ yếu
tạo trung tâm hoạt động đầu tiên.
- Phản ứng dây chuyền có hai giới hạn nồng độ. Ở giới hạn nồng độ gốc tự
do thấp thì gốc tự do dễ tương tác với thành bình hay với phân tử chất ức
chế nên phản ứng không tiến triển được. Ở giới hạn nồng độ gốc tự do quá
cao thì các gốc tự do dễ tương tác với nhau gây ra hiện tượng đứt mạch
nên làm cho tốc độ phản ứng tiến triển chậm lại.
- Tốc độ phản ứng dây chuyền nảy nhánh không tuân theo định luật
Arrhenius. Khi nhiệt độ tăng thì tốc độ phản ứng dây chuyền nảy nhánh
tăng gấp bội so với định luật Arrenius.
Taruxop theo cơ chế của phản ứng dây chuyền nảy nhánh đã giải thích
sự tác dụng của tia phóng xạ lên cơ thể sống. Khi chiếu xạ, nếu xét về mặt
năng lượng thì có giá trị rất thấp nhưng lại gây ra hiệu ứng sinh học cao
(gọi là hiệu ứng nghịch lý năng lượng). Điều này được giải thích là do tia
bức xạ đã gây ra hiện tượng ion hóa, tạo ra các trung tâm hoạt động là
những gốc tự do và chính các gốc tự do đã gây ra phản ứng dây chuyền
nảy nhánh, dẫn tới hiệu ứng tổn thương ở sinh vật bị chiếu xạ. Taruxop
cũng cho rằng các chất có tác dụng hạn chế tổn thương do tia xạ gây ra
(gọi là các chất bảo vệ phóng xạ) là do nó ngăn chặn được phản ứng dây
chuyền nảy nhánh. Phản ứng miễn dịch ở người khi tiêm kháng nguyên,
sau thời gian ủ bệnh (thường từ 3 đến 21 ngày) kháng thể chưa xuất hiện
trong máu, sau đó là giai đoạn nồng độ kháng thể tăng theo hàm số mũ,
không tỷ lệ thuận với lượng kháng nguyên đưa vào cơ thể. Theo
E. Manuel, phản ứng tạo kháng thể diễn ra theo kiểu phản ứng dây chuyền
nảy nhánh. Ví dụ khi tiêm vaccine phòng bệnh bạch cầu, đưa vào cơ thể
người chỉ 0,36mg nhưng sau thời gian ủ bệnh, lượng kháng thể trong máu
đã suất hiện lớn gấp 1 triệu lần so với lượng kháng nguyên. E. Manuel
cũng cho rằng cơ thể khi bị nhiễm các độc tố như nọc độc của rắn, bò cạp,
iperit, rixin... thì phản ứng tạo kháng thể xảy ra theo kiểu phản ứng dây
chuyền nảy nhánh.
XII. Nhiệt độ và tốc độ phản ứng
Theo lý thuyết động học của các quá trình hoá học thì tốc độ phản ứng
bao giờ cũng phụ thuộc vào nồng độ chất tham gia vào phản ứng và phụ
thuộc vào nhiệt độ. Khi nhiệt độ tăng thì tốc độ phản ứng cũng tăng. Ban
16
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
đầu được giải thích do tăng số lần va chạm của các nguyên tử hay phân tử
tham gia vào phản ứng hoá học. Trên cơ sở tính toán xác suất va chạm,
nếu va chạm nào giữa các nguyên tử hay phân tử cũng dẫn tới phản ứng
thì tốc độ phản ứng sẽ tăng lên từ 102 đến 106 lần so với tốc độ thực tế đo
được nếu ta tăng nhiệt độ trong khoảng từ 0oC đến 100oC. Từ đó các nhà
nghiên cứu cho rằng chỉ một phần trong số các va chạm đó mới có khả
năng tạo phản ứng hoá học. Phản ứng chỉ có thể xảy ra khi các nguyên tử
hay phân tử đạt được một giá trị năng lượng nhất định gọi là năng lượng
hoạt hóa. Năng lượng hoạt hóa là giá trị năng lượng nhỏ nhất mà nguyên
tử hay phân tử cần phải đạt được mới có thể tham gia vào phản ứng.
Các nhà nghiên cứu đã áp dụng hàm phân bố Maxwell - Boltzmann để
giải thích mối liên quan giữa tốc độ phản ứng và năng lượng hoạt hóa.
Maxwell - Boltzmann đã thiết lập được công thức :
E
−
*
N =N. e (2.44)
RT
*
N : Số phân tử đạt giá trị năng lượng bằng hoặc lớn hơn năng lượng hoạt
hóa.
N: Tổng số phân tử ban đầu trong một đơn vị thể tích.
E: Năng lượng hoạt hóa của phân tử và R là hằng số khí
T: Nhiệt độ tuyệt đối (nhiệt độ Kelvin)
Công thức (2.44) biểu diễn trên đồ thị (hình 2.4) gọi là hàm phân bố
mv 2
Boltzmann. Đồ thị biểu diễn số phân tử N theo vận tốc v (E= ).
2
N N
T1 < T2
0 E0
Ehh Ehh E
a) b)
Hình 2.4: Sự phân bố của các phân tử theo năng lượng
Qua đồ thị (hình 2.4a) cho thấy chỉ có một số phân tử có năng lượng
bằng hoặc lớn hơn giá trị năng lượng hoạt hóa (Eh) thì mới có khả năng
tham gia vào phản ứng. Khi nhiệt độ tăng lên (T2>T1) thì đường cong phân
17
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
lnK
α
O
1/T
⎛1⎞
Hình 2.5: Sự phụ thuộc của lnK vào nhiệt độ ⎜ ⎟
⎝T⎠
Năng lượng hoạt hóa là đại lượng để đánh giá khả năng tham gia vào phản
ứng của các chất. Để đánh giá sự phụ thuộc của tốc độ phản ứng vào nhiệt
độ, đại lượng đặc trưng cho sự tăng (hoặc giảm) tốc độ phản ứng khi tăng
(hoặc giảm) nhiệt độ là hệ số VantHoff (còn gọi là hệ số nhiệt phản ứng)
ký hiệu là Q10.
K
Q10= 2 (2.48)
K1
K2: Tốc độ phản ứng ở nhiệt độ T±10
K1: Tốc độ phản ứng ở nhiệt độ T
Giữa năng lượng hoạt hóa và hệ số Q10 có mối liên quan với nhau. Theo
Eh Eh
− −
R .T2 R .T1
phương trình Arrenius (2.45), thay K2=p.z. e và K1=pz. e vào
phương trình (2.48) ta được:
Eh Eh
− −
R .T2 R .T1
Q10=pz. e / pz. e
Eh Eh E h ⎛⎜ 1 1 ⎞⎟
− −
R .T1 R .T2 R ⎜ T1 T2 ⎟
⎝ ⎠
Q10= e .e =e
E h ⎛ T2 −T1 ⎞
⎜ ⎟
R ⎜⎝ T1 .T2 ⎟⎠
Q10 = e thay T2 - T1 = 10 ta được:
19
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
E h .10
10E h
Q10 = e RT1 .T2
→ lnQ10 =
RT1 .T2
Eh = 0,1 RT1T2. lnQ10 (2.49)
Thay R=1,987KCal/M.độ và đổi logarit cơ số e (ln) thành logarit cơ số 10
(lg) ta được:
Eh=0,46 T1 T2 lg Q10 (2.50)
Đơn vị tính năng lượng hoạt hóa là KCal/M.
Những phản ứng có bản chất khác nhau thường có năng lượng hoạt hóa
khác nhau và như vậy hệ số Q10 cũng khác nhau. Các phản ứng hoá học
có năng lượng hoạt hóa khoảng vài chục KCal/M, thường có Q10 bằng
2 đến 3. Năng lượng hoạt hóa của các phản ứng men khoảng từ 4 đến
12KCal/M, Q10 thường nhỏ hơn 2. Quá trình khuyếch tán năng lượng hoạt
hóa thấp, Q10 xấp xỉ bằng 1. Đặc trưng của phản ứng men là có năng
lượng hoạt hóa thấp nên các phân tử dễ dàng tham gia vào phản ứng.
Nguyên nhân là do các phân tử men có vai trò làm giảm năng lượng hoạt
hóa của các phân tử tham gia vào phản ứng khi men kết hợp với phân tử
tạo phức chất trung gian, làm cho quá trình phân hủy phức chất diễn ra
nhanh hơn. Ví dụ phản ứng phân hủy đường saccharose bởi axit có năng
lượng hoạt hóa bằng 25,6KCal/M nhưng nếu thủy phân đường saccharose
có sự xúc tác của men amilase thì năng lượng hoạt hóa giảm xuống còn
11 KCal/M.
Năng lượng hoạt hóa của đa số các quá trình diễn ra trong hệ sinh vật
thường có giá trị thuộc vào một trong ba giá trị là 8; 12; 18 KCal/M. Tuy
vậy, năng lượng hoạt hóa của các quá trình biến tính lại có năng lượng
hoạt hóa rất cao. Ví dụ như phản ứng đông tụ hemoglobin có năng lượng
hoạt hóa tới 60 KCal/M hay phản ứng tan huyết dưới tác dụng của nước
nóng có năng lượng hoạt hóa là 64 KCal/M v.v...
Đối với các quá trình sinh vật, ngoài giá trị năng lượng hoạt hóa, hệ số
nhiệt Q10 còn được đặc trưng bởi giá trị nhiệt độ thích ứng. Theo Klein,
nhiệt độ thích ứng là nhiệt độ quá trình xảy ra với tốc độ lớn nhất. Cần
phân biệt nhiệt độ thích ứng với khoảng nhiệt độ thích ứng. Khoảng nhiệt
độ thích ứng là khoảng nhiệt độ mà giá trị Q10 có giá trị không đổi. Trong
hệ sinh vật, khoảng nhiệt độ thích ứng rộng hay hẹp là tùy thuộc vào loài.
Trong hệ sinh vật, động vật ổn nhiệt có nhiệt độ thích ứng khác nhau. Ví
dụ: người là 37oC, chó là 39,2oC, gà vịt là 42,5oC, bồ câu 44oC v.v...
Đối với các phản ứng có sự xúc tác của men thì đường cong phụ thuộc của
tốc độ phản ứng vào nhiệt độ có dạng như trên hình 2.6.
20
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
0 T
Tu
Hình 2.6: Sự phụ thuộc của tốc độ phản ứng có men xúc tác vào nhiệt độ
Đường cong trên hình 2.6 là kết quả của phản ứng trao đổi hoá học và
phản ứng phân hủy cấu trúc. Trong khoảng nhiệt độ (0<T<Tu) khi nhiệt độ
tăng thì tốc độ phản ứng tăng là do phân tử men vẫn còn giữ được hoạt
tính xúc tác.
Tu là nhiệt độ tối ưu. Phản ứng diễn ra ở nhiệt độ tối ưu có tốc độ phản
ứng lớn nhất. Khi nhiệt độ tăng cao hơn giá trị nhiệt độ tối ưu thì các phân
tử men bị phá hủy cấu trúc nên mất hoạt tính xúc tác, dẫn tới tốc độ phản
ứng giảm.
XIV. Phương pháp phức hoạt hóa
Phương pháp phức hoạt hóa là phương pháp lý thuyết để xác định tốc độ
của phản ứng hóa sinh đơn giản, dựa trên tính chất của các nguyên tử hay
phân tử tham gia vào phản ứng và các tham số nhiệt động như sự thay đổi
của entropi, của entanpi... Cơ sở của phương pháp phức hoạt hóa là dựa
trên quan niệm về sự tồn tại của một phức chất hoạt hóa (còn gọi là ở
trạng thái hoạt hóa) và phản ứng chỉ có thể xảy ra khi các phân tử ở trạng
thái hoạt hóa va chạm với nhau. Trong phản ứng, sự thay đổi thế năng của
các chất tham gia trước và sau khi phản ứng diễn ra được biểu diễn trên
hình 2.7.
Các nguyên tử hay phân tử muốn tham gia vào phản ứng phải đạt mức
năng lượng bằng hoặc lớn hơn giá trị năng lượng hoạt hóa (hay nguyên tử
hoặc phân tử đã được hoạt hóa). Phân tử chất ban đầu (chất A) có giá trị
năng lượng Eo, nếu xảy ra va chạm sẽ không dẫn tới phản ứng. Phân tử
chất A muốn tham gia vào phản ứng thì phải được hoạt hóa, tức là cung
cấp thêm cho nó giá trị năng lượng E1≥Eh. Năng lượng E1 dùng để làm
giảm thế năng tương tác (tức làm giảm lực hút) giữa các nguyên tử hay
nhóm nguyên tử trong phân tử để làm giảm năng lượng liên kết bên trong
phân tử. Nếu phản ứng xảy ra theo chiều thuận thì Eo là giá trị năng lượng
của chất ban đầu, E1 là năng lượng hoạt hóa của phản ứng thuận và E1>Eo.
21
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
A*
E1
E2
Eo
A
P
Hình 2.7: Sự thay đổi năng lượng của các chất tham gia vào phản ứng
Khi các phân tử chất A đã được hoạt hóa (A*) va chạm với nhau sẽ dẫn
tới phản ứng tạo sản phẩm P có giá trị năng lượng là E2. Đối với phản ứng
thuận E1<E2 nên E1-E2<0. Do vậy, đây là phản ứng tỏa nhiệt. Nếu phản
ứng diễn ra theo chiều nghịch thì chất P ban đầu phải có giá trị năng lượng
hoạt hóa bằng E2 mới dẫn tới phản ứng tạo thành sản phẩm A có giá trị
năng lượng là E1. Ở đây E2>E1 nên E2-E1>0 và phản ứng nghịch là phản
ứng thu nhiệt.
Các nhà nghiên cứu cho rằng giữa các phân tử tham gia vào phản ứng
(chất A) và các phân tử ở trạng thái hoạt hóa (A*) luôn có sự cân bằng.
Phản ứng xảy ra như sau:
A A* → P (sản phẩm)
K*
hoặc: A (A+E) → P (sản phẩm)
E là enzyme còn (A+E) là phức hợp enzym với cơ chất A.thái và được xác
định bằng tỉ số nồng độ phân tử ở trạng thái hoạt hóa trên nồng độ phân tử
ở trạng thái ban đầu.
K* =
[A ] *
hoặc K* =
[A + E] (2.51)
[A] [A][. E]
[A]: Nồng độ chất A trước phản ứng
[A*]: Nồng độ chất A ở trạng thái hoạt hóa
22
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
⎛ R.T ΔS ⎞
Thành phần (p.z) tương đương với thành phần ⎜ .e R ⎟ và sự thay đổi
⎜ N.h ⎟
⎝ ⎠
entanpi (ΔH) tương đương với giá trị năng lượng hoạt hóa (Eh).
Trong cơ thể sống, phần lớn các phản ứng hóa sinh xảy ra đều có sự tham
gia của enzyme, tức là đều trải qua giai đoạn tạo phức chất hoạt hóa nên
có thể áp dụng phương pháp phức hoạt hóa.
23
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Thuyết phức hoạt hóa có thể giải thích được phản ứng biến tính hay phân
hủy của Protein. Ví dụ nếu đun nóng dung dịch Protein hay cho vào dung
dịch Protein các chất như urê, cồn, axit... sẽ làm biến tính hay phân hủy
phân tử Protein. Khi đó biểu hiện rõ nhất là độ hòa tan của Protein bị giảm
xuống còn độ nhớt lại tăng lên. Phản ứng biến tính hay phân hủy Protein
bình thường không xảy ra vì có năng lượng hoạt hóa rất cao. Một nguyên
tử hay phân tử muốn tham gia vào phản ứng thì chúng phải được hoạt hóa.
Năng lượng hoạt hóa phần lớn được dùng vào làm thay đổi trật tự và cấu
trúc phân tử (tức liên quan tới yếu tố thay đổi entropi) còn phần nhỏ được
dùng vào để phá vỡ các liên kết trong phân tử (tức liên quan tới yếu tố
thay đổi entanpi).
Ví dụ: Trong phản ứng phân hủy pepxin có 45.000KCal/M dùng để thay
đổi trật tự và cấu trúc phân tử pepxin còn 18.300KCal/M được dùng vào
phá vỡ các liên kết của phân tử pepxin.
XV. Sự điều hòa tốc độ phản ứng trong cơ thể sống
Quá trình đồng hóa thức ăn từ môi trường là một quá trình phức tạp, phải
trải qua nhiều giai đoạn biến đổi và mỗi giai đoạn lại được đặc trưng bởi
các phản ứng sinh hóa. Quá trình biến đổi từ chất A thành chất K để cho tế
bào có thể đồng hóa được, gọi là quá trình chuyển hóa. Ví dụ: Quá trình
chuyển hóa từ Protein thành axit amin, từ Lipit thành axit béo và glixerin,
từ Gluxit thành glucose v.v... Trong cơ thể sống, quá trình chuyển hóa
không diễn ra một cách đơn lẻ mà giữa các chất tham gia vào quá trình
chuyển hóa chúng còn có mối liên hệ với nhau, thể hiện trên hai mặt cơ
bản là: nguyên liệu và năng lượng. Mối liên quan về mặt nguyên liệu là
khả năng chuyển hóa một chất này thành chất kia thông qua một số sản
phẩm trung gian chung. Ví dụ saccharide dễ dàng chuyển thành Lipit
(lipide) thông qua hợp chất trung gian là axetil Coenzym A. Mối liên quan
về mặt năng lượng thể hiện khi phân giải một hợp chất nào đó, giải phóng
ra năng lượng và được tích lũy vào ATP. Nguồn ATP được dùng để hoạt
hóa phân tử (đối với phản ứng thu năng lượng), các quá trình sinh tổng
hợp các chất trong cơ thể như sự hoạt hóa các axit amin trong tổng hợp
Protein và thực hiện công như quá trình co cơ v.v... Cơ chế điều hòa giữa
quá trình oxy hóa (giải phóng ra năng lượng) và quá trình photphorin hóa
(tích lũy năng lượng) được xác định qua tỉ số nồng độ ADP và photpho vô
cơ trên nồng độ ATP.
K=
[ADP] + [P] (2.56)
[ATP]
24
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Trong cơ thể sống, không có một chất nào là không tham gia vào mạng
lưới của các phản ứng hóa sinh. Cơ thể sống là một hệ mở nên mạng lưới
các phản ứng hóa sinh cũng là một hệ thống mở, luôn có sự xâm nhập của
các chất từ môi trường bên ngoài vào qua con đường thức ăn, tiếp đến là
quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng và sản phẩm cuối cùng của quá
trình trao đổi chất sẽ được thải hồi ra môi trường bên ngoài. Trong cơ thể,
sự chuyển hóa của một chất nào đó có thể được thực hiện bằng nhiều con
đường khác nhau. Hinhenvut đã đưa ra nguyên lí: "Trong cùng một điều
kiện, con đường chuyển hóa nào có tốc độ phản ứng lớn hơn thì con
đường đó có ý nghĩa quan trọng hơn".
Ví dụ: glucose-6-photphat chuyển thành 3 photpho-glyxerin aldehit có thể
được thực hiện qua con đường glicoliz hoặc qua chu trình pentozo
photphat, tùy thuộc vào hiệu suất của quá trình chuyển hóa. Con đường
nào ít tiêu tốn năng lượng và có tốc độ phản ứng diễn ra nhanh hơn sẽ
quyết định hướng chuyển hóa của vật chất. Đối với hệ kín, quá trình diễn
ra theo một chuỗi các phản ứng nối tiếp:
K1
A ⎯⎯→ B ⎯K⎯→2
C... ⎯K⎯→
n
P
Phản ứng nào có tốc độ chậm nhất sẽ quyết định tốc độ của toàn bộ quá
trình chuyển hóa.
Đối với hệ thống sống (hệ mở), quá trình chuyển hóa sẽ không phụ thuộc
vào tốc độ phản ứng của một giai đoạn nào mà phụ thuộc vào sự tương
quan giữa các hằng số tốc độ phản ứng. Một đặc tính quan trọng của cơ
thể sống là khả năng duy trì trạng thái cân bằng dừng. Khi cơ thể ở trạng
thái cân bằng dừng thì tất cả các quá trình thẩm thấu, chuyển hóa và thải
hồi sẽ bổ chính cho nhau để duy trì nồng độ chất không đổi theo thời gian.
Sau đây là mô hình đơn giản đặc trưng cho hệ mở nói chung và hệ thống
sống nói riêng:
Môi trường Màng Tế bào Màng Môi trường
K1
S ⎯⎯→ A ⎯⎯→
K2
K ⎯⎯→K3
Z
←⎯⎯⎯
Nguồn ←⎯
⎯
K −1
⎯ K −3
Sản phẩm dị hóa
dinh dưỡng
Khi tế bào ở trạng thái cân bằng dừng thì nồng độ chất A (Ca) và chất
K(Ck) sẽ không đổi. Do vậy, nồng độ chất A và chất K phải thỏa mãn
phương trình:
dC a dC k
= 0 và =0 (2.57)
dt dt
25
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Dưới tác động của yếu tố môi trường (chẳng hạn khi tăng nhiệt độ) sẽ
làm cho hằng số tốc độ phản ứng K2 tăng lên dẫn tới nồng độ chất A giảm
xuống còn nồng độ chất K tăng lên. Để duy trì nồng độ chất A và chất K
không đổi thì quá trình vận chuyển chất A vào trong tế bào phải tăng lên
(tức K1 tăng) và quá trình thải hồi chất K ra khỏi tế bào cũng phải tăng lên
(tức K3 tăng). Khi chấm dứt tăng nhiệt độ thì tế bào không chuyển ngay về
nhiệt độ ban đầu mà quá trình hạ nhiệt diễn ra từ từ nên các hằng số tốc độ
phản ứng K1, K2, K3 cũng giảm từ từ. Do vậy, nồng độ chất A vẫn còn cao
và nồng độ chất K vẫn còn thấp hơn so với ở trạng thái dừng ban đầu. Để
chuyển nhanh về trạng thái cân bằng dừng, bắt buộc quá trình vận chuyển
chất A ra khỏi tế bào và quá trình vận chuyển chất K vào trong tế bào phải
tăng lên (tức cả K-1 và K-3 đều phải tăng). Để duy trì trạng thái cân bằng
dừng (tức duy trì Ca và Ck không đổi) thì quá trình vận chuyển chất A vào
trong tế bào và vận chuyển chất A ra khỏi tế bào cũng như quá trình vận
chuyển chất K vào trong tế bào và vận chuyển chất K ra khỏi tế bào phải
bổ chính cho nhau như đã giải thích ở trên. Mô hình trên thuộc phạm vi
nguyên lí Lostalie, đặc trưng cho hệ mở: "Khi một hệ đang ở trạng thái
cân bằng, nếu ta thay đổi một trong ba yếu tố (nồng độ; áp suất; thể tích)
thì cân bằng sẽ chuyển dịch theo chiều có tác dụng ngược lại sự thay đổi
đó".
Trong ví dụ trên, khi tăng nhiệt độ tức là đã thay đổi yếu tố nồng độ A và
chất K. Nếu nồng độ chất A giảm xuống thì sự vận chuyển chất A vào
trong tế bào phải tăng lên, nhằm duy trì nồng độ chất A ổn định còn nồng
độ chất K tăng lên thì sự thải hồi chất K ra khỏi tế bào phải tăng lên cũng
nhằm duy trì nồng độ chất K ổn định. Một ví dụ điển hình về sự duy trì
nồng độ glucose trong máu ở cơ thể người sẽ minh chứng cho nguyên lí
Lostalie. Cơ thể người khỏe mạnh (tức duy trì trạng thái cân bằng dừng)
thì hàm lượng glucose trong máu luôn có một giá trị ổn định. Nếu cơ thể
thực hiện công (như chạy điền kinh) hay bị đói thì hàm lượng glucose
trong máu sẽ giảm xuống. Để duy trì trạng thái dừng, lập tức glucogen tích
lũy ở gan sẽ chuyển hóa thành glucoza-1-photphat ⎯enzym ⎯⎯→ glucoza - 6 -
enzym
photphat ⎯⎯⎯→ glucose và thấm vào trong máu để bù vào lượng
glucose đã sử dụng. Hoặc cơ thể thực hiện công nhưng không sử dụng
glucose trong máu mà sử dụng glucogen. Nhờ enzym photphorilaza xúc
tác mà glucogen chuyển thành glucoza - 6 - photphat và tiếp tục bị oxy
hóa ở điều kiện yếm khí để giải phóng ra năng lượng, cung cấp cho cơ thể
thực hiện công. Ngược lại, nếu cơ thể ít thực hiện công hay dùng nhiều
đường dẫn tới làm tăng hàm lượng đường trong máu thì lập tức xảy ra các
phản ứng: glucose → glucoza - 6 - photphat → glucoza - 1 - photphat, sau
26
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
đó trùng hợp thành glucogen và được tích lũy ở gan. Ở đây nồng độ
glucoza - 6 - photphat giữ vai trò điều khiển tốc độ của quá trình chuyển
hóa thành glucogen để tích lũy ở gan hay thành glucose để thấm vào trong
máu. Quá trình chuyển từ trạng thái cân bằng dừng này sang trạng thái cân
bằng dừng khác là một quá trình bất thuận nghịch. Đó là sự già. Không ai
chống lại được sự già. Sự phát triển của cơ thể chỉ diễn ra theo chiều thuận
từ trẻ → già mà không diễn ra theo chiều nghịch từ già → trẻ. Một số
thông số trạng thái của cơ thể như nhiệt độ, độ pH của máu, hàm lượng
đường, muối khoáng trong máu thì hầu như không thay đổi trong suốt thời
gian sống. Người ta gọi đó là tính chất cân bằng nội tĩnh của cơ thể sống
(hay gọi là cân bằng dừng bền).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 3
và đào thải chất đó ra khỏi tế bào. Ví dụ như các nhà khoa học đã sử dụng coban
phóng xạ (27 Co) thay cho Coban bình thường (5927Co) để tổng hợp nên Vitamin B12,
58
sau đó nghiên cứu quá trình hấp thụ B12 của cơ thể sống trong khoảng thời gian xác định.
II. Màng tế bào và vai trò của màng tế bào
Màng tế bào đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động trao đổi chất của tế
bào. Theo Frank: “có thể nói một cách chắc chắn rằng, các chức năng quan trọng nhất của
tê bào không những bị chi phối mà còn chỉ có thể thực hiện được nhờ chức năng đa dạng
của các loại màng”.
Màng tế bào phải có cấu trúc đáp ứng được yêu cầu của quá trình trao đổi vật chất và
năng lượng giữa tế bào với môi trường, đảm bảo thực hiện các chức năng sống của tế
bào. Đã có nhiều mô hình cấu trúc màng tế bào được đưa ra như mô hình Dawson-
Danielli (1935), mô hình Robertson (1959), mô hình Singer-Nicolson (1972). Mô hình
Singer-Nicolson vẫn kế thừa mô hình cấu trúc màng 3 lớp: Protein - lớp kép Lipit -
Protein do Rorbetson đưa ra nhưng dựa trên các kết quả nghiên cứu sau này hai ông đã
đưa ra mô hình màng khảm lỏng (hình 3.1)
Theo các tác giả, màng tế bào là một lớp lipit kép ở trạng thái lỏng còn các phân tử
protein được nhúng (khảm) vào lớp lipit với mức độ nông hoặc sâu khác nhau. Do ở
trạng thái lỏng nên các phân tử lipit và protein có thể di chuyển theo cả chiều dọc lẫn
chiều ngang. Tính lỏng của màng tế bào phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ giữa 3 thành phần
cơ bản tham gia vào cấu trúc màng là photpholipit, cholesteron, protein.
Hình 3.1: Mô hình cấu trúc màng tế bào do Singer-Nicolson đưa ra năm 1972
Các nhà khoa học cho rằng duy trì trạng thái bán lỏng của lớp lipit kép thuộc màng tế bào
sẽ có những ý nghĩa sinh học như:
-Khả năng thích nghi của tế bào đối với nhiệt độ cao hay thấp.
-Tạo sự di động dễ dàng của các phức hợp hoócmôn - thụ quan ở bên trong màng tế bào
trong việc tiếp nhận thông tin.
-Tăng cường sự hoạt động của một số enzyme vận chuyển các chất qua màng tế bào.
-Giải thích được cơ chế vận chuyển các ion qua màng tế bào, đặc biệt là Na+, K+ trong sự
hình thành điện thế tĩnh và điện thế hoạt động.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
-Giải thích được sự biến mất của màng nhân ở trung kỳ và sự xuất hiện màng nhân ở mạt
kỳ trong phân bào nguyên nhiễm và giảm nhiễm.
Màng tế bào có những chức năng cơ bản sau đây:
-Ngăn cách giữa các tế bào với nhau, giữa tế bào với môi trường bên ngoài và giữ vai trò
bảo vệ tế bào.
-Thực hiện quá trình trao đổi vật chất và năng lượng giữa tế bào với môi trường, góp
phần thực hiện các chức năng sống của tế bào.
-Bài tiết các chất thải hoặc chất được tổng hợp ở bên trong tế bào ra môi trường bên
ngoài.
-Thực hiện sự nhận diện tế bào. Theo giả thiết của Ehrlich Tylerweiss thì trên bề mặt
màng tế bào có những thụ quan nhận biết tế bào theo kiểu giống như sự nhận biết kháng
thể với kháng nguyên.
-Thực hiện sự kết dính tế bào. Chất kết dính có bản chất glucoProtein được tổng hợp ở
bên trong tế bào và được tiết ra môi trường bên ngoài dưới dạng hoà tan làm nhiệm vụ
kết dính tế bào như kiểu trứng cầu gai tiết ra chất hoà tan trong nước biển có tác dụng
vừa dẫn dụ vừa tạo sự kết dính giữa tinh trùng với trứng.
-Thực hiện dễ dàng sự di chuyển của tế bào. Ví dụ như Amip có thể tạo chân giả để di
chuyển theo phương nằm ngang ở cả bốn hướng để bắt mồi.
-Thực hiện sự sinh sản của tế bào. Bình thường tế bào có chỉ số tỷ lệ giữa thể tích nhân
và thể tích tế bào chất (bằng thể tích của tế bào trừ đi thể tích nhân) đạt một giá trị hằng
định thì tế bào không phân chia. Khi chỉ số này giảm do thể tích tế bào chất tăng lên thì tế
bào phải thực hiện quá trình gián phân.
-Màng tế bào còn là nơi “cư trú” của các enzyme nhất là các enzyme tham gia vào quá
trình vận chuyển hay xúc tác cho các phản ứng phân giải chất độc làm tăng tính đề kháng
của tế bào.
-Màng tế bào có tính bán thấm nên có vai trò duy trì sự bất đối xứng ion giữa bên ngoài
và bên trong tế bào, hình thành nên điện thế tĩnh.
-Màng tế bào còn có tính chất vật lý như tính lưỡng chiết quang, sức căng mặt ngoài nhỏ,
điện trở lớn và có cấu trúc không đồng nhất...
III.Quy luật chung về sự xâm nhập của vật chất vào trong tế bào
Các chất xâm nhập vào trong tế bào theo 2 con đường chính sau đây:
-Các chất xâm nhập vào trong tế bào qua siêu lỗ. Trên màng tế bào có những lỗ nhỏ (siêu
lỗ) có đường kính từ 3,5 A0 - 8 A0. Bên trong siêu lỗ thường chứa nước còn bề mặt có thể
chứa một số nhóm phân cực. Con đường này dành cho các chất hoà tan trong nước như
đường, axit amin, ion... Các chất này muốn xuyên qua màng qua siêu lỗ thì phải vượt qua
được các trở ngại như phải tách ra khỏi các lớp vỏ hydrat hoá (nếu là ion hay phân tử có
chứa các nhóm phân cực), phải lách qua được lớp phân tử rất chặt chẽ trên bề mặt màng
tế bào, phải thắng được lực tương tác tĩnh điện (lực hút nếu là ion khác dấu và lực đẩy trở
lại nếu là ion cùng dấu điện tích với các nhóm phân cực nằm trên bề mặt của siêu lỗ),
phải vượt qua được hàng rào điện thế (ở đây là điện thế màng tế bào). Do vậy, các chất
muốn xâm nhập vào bên trong tế bào thì phải có một giá trị năng lượng nhất định để
thắng được bốn lực cản trên. Nếu năng lượng cần thiết để thắng được bốn lực cản trên
càng lớn thì càng có ít chất xâm nhập được vào bên trong tế bào.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
-Các chất xâm nhập được vào bên trong tế bào qua con đường hoà tan trong lipit: Con
đường này dành cho các chất không hoà tan trong nước nhưng hoà tan tốt trong lipit.
Năm 1899, Overton khi nghiên cứu tính thấm của tế bào và mô đối với các chất gây mê
đã phát hiện thấy mối liên quan thuận là tốc độ thấm của các chất này càng cao khi khả
năng hoà tan của chúng trong lipit càng lớn. Sau này gọi là hiệu ứng Overton. Jacobs đã
giải thích hiệu ứng Overton theo cấu trúc điện của các phân tử. Theo Jacobs các hợp chất
hoá học được phân thành 2 nhóm chính theo tính chất phân cực của chúng. Nhóm thứ nhất
là những phân tử có chứa các nhóm phân cực như NH2, COOH, OH... nên gọi là các phân
tử có cực. Nhóm này hoà tan trong lipit kém nên khả năng thấm vào trong tế bào ít. Nhóm
thứ hai là những phân tử chứa các nhóm không phân cực như metyl, etyl, phenyl (CH3,
C2H5, C6H5) nên gọi là các phân tử không phân cực. Nhóm này hoà tan tốt trong lipit nên
khả năng thấm vào bên trong tế bào rất nhanh.
Song cũng có trường hợp ngoại lệ như urê và glucose hoà tan kém trong lipit và có kích
thước lớn hơn siêu lỗ nhưng lại thấm vào trong tế bào rất nhanh. Ngược lại, Citrat
trimetyl hoà tan tốt trong Lipit nhưng lại rất khó thấm vào bên trong tế bào. Điều này
được giải thích do urê và glucose là hai chất có mặt trong quá trình trao đổi chất của tế
bào nên trên màng tế bào đã có chất vận chuyển trung gian còn Citrat trimetyl thì không .
IV. Quá trình vận chuyển thụ động
Vận chuyển thụ động là quá trình xâm nhập của các chất theo tổng đại số véctơ của các
loại gradien và không hao tốn năng lượng của quá trình trao đổi chất. Vận chuyển thụ
động diễn ra là do sự tồn tại của các loại gradien sau:
-Gradien nồng độ: Là sự chênh lệch về nồng độ giữa bên trong và bên ngoài màng tế bào.
-Gradien áp suất thẩm thấu: Là sự chênh lệch về áp suất thẩm thấu, đặc biệt là áp suất
thẩm thấu keo do các phân tử protein gây nên, giữa bên trong và bên ngoài màng tế bào.
-Gradien màng: Xuất hiện do tính bán thấm của màng. Đó là do màng chỉ thấm các chất
có kích thước nhỏ như ion, các chất vô cơ còn các phân tử có kích thước lớn như protein,
lipit, gluxit thì hoàn toàn không thấm. Do vậy giữa hai phía của màng có sự chênh lệch
về nồng độ đã tạo nên gradien màng.
-Gradien độ hoà tan: Xuất hiện trên ranh giới giữa hai pha không trộn lẫn như pha nước
và pha lipit khi khả năng hoà tan của các chất ở trong hai pha ấy là khác nhau, dẫn đến sự
chênh lệch về nồng độ đã tạo nên gradien độ hoà tan.
-Gradien điện thế: Xuất hiện do sự chênh lệch về điện thế giữa bên trong và bên ngoài
màng tế bào.
Trong 5 loại gradien kể trên thì gradien nào có giá trị tuyệt đối lớn hơn cả sẽ quyết định
hướng vận chuyển của dòng vật chất. Ví dụ ở tế bào hồng cầu, cơ, dây thần kinh, tồn tại
gradien màng có giá trị tuyệt đối lớn hơn cả cho nên lượng ion kali ở trong tế bào luôn
cao gấp từ 30 đến 50 lần so với ở bên ngoài. Đặc biệt ở một số loài tảo biển, nồng độ iốt
ở trong tế bào cao gấp hơn hai triệu lần so với nước biển là do gradien màng.
Các gradien kể trên đều là hàm số của sinh lý tế bào và chúng có liên quan với nhau.
Trong quá trình hoạt động sống của tế bào không những độ lớn của các gradien bị thay
đổi mà có khi cả hướng của chúng cũng bị thay đổi. Các gradien giữ vai trò quan trọng
trong việc điều khiển tốc độ vận chuyển thụ động các chất vào trong tế bào hoặc đi ra
khỏi tế bào.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Bên cạnh vai trò của 5 gradien kể trên thì hướng vận chuyển của dòng vật chất còn phụ
thuộc vào cường độ trao đổi chất của tế bào. Khi tương quan giữa các quá trình tổng hợp
và phân huỷ ở trong tế bào thay đổi thì hướng vận chuyển của dòng vật chất cũng bị thay
đổi. Ví dụ ở những tế bào hồng cầu non thường xảy ra quá trình tích lũy các chất nên ion
kali và photphat thường thấm vào trong tế bào với cường độ lớn. Ở những tế bào hồng
cầu già thì nhu cầu tích luỹ các chất ít còn quá trình phân hủy các nucleotide diễn ra
mạnh nên ion kali và photphat lại thải ra môi trường ngoài với cường độ lớn mặc dù vẫn
tồn tại gradien màng hồng cầu.
Cuối cùng còn phải kể đến vai trò của các chất kích thích hoặc gây thương tổn đối với tế
bào. Lý thuyết hưng phấn chỉ ra rằng tại những vùng màng sợi trục noron, khi có sóng
hưng phấn truyền qua thì tính thấm của màng đối với ion tăng lên. Khi dùng thuốc để phá
hủy các tế bào ung thư thì giải phóng gốc photphat.
V. Quá trình khuyếch tán và định luật Fich
Cơ chế vận chuyển chủ yếu của các chất hoà tan trong nước qua màng là quá trình
khuyếch tán. Nếu vật chất chuyển động cùng với dòng dung môi theo hướng tổng gradien,
gọi là quá trình khuyếch tán thuận. Trong trường hợp chỉ tồn tại gradien nồng độ thì vật
chất vận chuyển theo hướng gradien nồng độ, gọi là quá trình khuyếch tán.
Năm 1856, Fich đã tìm ra định luật khuyếch tán của vật chất. Tốc độ khuyếch tán của vật
chất trong một đơn vị thời gian tỷ lệ thuận với gradien nồng độ và diện tích màng nơi vật
chất thấm qua. Biểu thức toán học của định luật Fich:
dm dC
= −D.S. (3.1)
dt dx
dm
: tốc độ khuyếch tán của vật chất (gam/giây).
dt
D : hệ số khuyếch tán. Đối với mỗi chất nó là một hằng số. Ví dụ với đường mía thì
D=0,384, với đường Mantoza thì D=0,373. Đơn vị của hệ số khuyếch tán là Cm-1. s-1.
S: Diện tích bề mặt màng tế bào nơi vật chất thấm qua (cm2).
dC
: gradien nồng độ.
dx
Dấu trừ ở vế phải của phương trình (3.1) thể hiện sự khuyếch tán của vật chất theo chiều
từ nơi có nồng độ cao tới nơi có nồng độ thấp làm cho sự chênh lệch về nồng độ sẽ giảm
dần.
Định luật Fich có thể được trình bày qua dòng khuyếch tán ik, là lượng vật chất thấm qua
một đơn vị diện tích trong một đơn vị thời gian.
dm
ik = (3.2)
S.dt
So sánh phương trình (3.2) với phương trình (3.1) rút ra:
dC
i k = −D (3.3)
dx
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
dC
Từ (3.3) suy ra, nếu gradien nồng độ không thay đổi theo thời gian thì dòng khuyếch
dx
tán vật chất ik cũng không thay đổi theo thời gian, khi đó tế bào ở trạng thái cân bằng
dừng.
Từ phương trình (3.1) cho thấy với một chất xác định thì tốc độ khuyếch tán trong một
dC
đơn vị thời gian chỉ còn phụ thuộc vào gradien nồng độ . Trên thực tế xác định độ
dx
dày của màng tế bào là dx gặp rất nhiều khó khăn vì độ dày màng thường thay đổi theo
o
sinh lý tế bào như hồng cầu độ dày của màng thay đổi từ 30 A đến vài trăm Angstron
o
( A ). Bởi vậy, hai tác giả là Berlien và Colender đã đưa ra phương trình :
dm
= P.S(C1 − C 2 ) (3.4)
dt
C1, C2 là nồng độ chất ở hai phía của màng tế bào.
P: Hằng số thấm phụ thuộc vào bản chất của các chất thấm, được xác định bằng tỉ số giữa
lượng vật chất thấm ra bên ngoài và lượng vật chất có trong tế bào. Với ion Natri ( Na+ )
thì P = [Na+] thấm ra ngoài / [ Na+] trong tế bào ([Na+] là nồng độ ion Natri).
Khuyếch tán là quá trình vận chuyển thụ động của các chất hoà tan trong nuớc nên nếu
xảy ra cơ chế khuyếch tán liên hợp tức là sự vận chuyển đồng thời hai chất cùng một lúc
nên hằng số thấm không chỉ liên quan tới một chất mà còn liên quan tới chất khuyếch tán
liên hợp. Ví dụ sự khuyếch tán của Na+ có liên quan tới sự khuyếch tán của K+ nên hằng
số thấm phụ thuộc cả vào Na+ lẫn K+.
Ngoài quá trình khuyếch tán thường, sự xâm nhập của vật chất vào trong tế bào còn được
thực hiện theo cơ chế khuyếch tán trao đổi và khuyếch tán liên hợp.
-Khuyếch tán trao đổi : bằng phương pháp đồng vị phóng xạ đánh dấu, các nhà khoa học
phát hiện ra rằng Na+ và các ion khác ở hồng cầu thường được thay thế bởi chính ion đó
ở môi trường bên ngoài. Theo Uxing, quá trình trao đổi Na+ ở bên trong và bên ngoài
màng có sự tham gia của chất mang ( hay chất chuyển ). Đầu tiên chất mang liên kết với
Na+ ở trong nội bào sau đó vận chuyển ra bên ngoài màng. Ở bên ngoài, Na+ ở trong tế
bào được giải phóng còn Na+ có sẵn ở môi trường bên ngoài lại liên kết với chất mang và
được vận chuyển vào trong nội bào. Ở trong tế bào, Na+ có nguồn gốc từ môi trường lại
được giải phóng còn chất mang lập lại quá trình trao đổi ion tiếp theo. Quá trình khuyếch
tán trao đổi Na+ vẫn đảm bảo nồng độ Na+ ở hai phía của màng không thay đổi.
-Khuyếch tán liên hợp : là quá trình vận chuyển của chất này có liên quan tới quá trình vận
chuyển của chất khác hoặc là tạo phức chất với một chất khác. Ví dụ sự vận chuyển của
Na+ ra bên ngoài tế bào có liên quan tới sự vận chuyển của K+ vào trong tế bào. Nếu dùng
tác nhân ngoài ức chế dòng vận chuyển ra của Na+ thì dòng vận chuyển vào của K+ cũng bị
ức chế theo. Khuyếch tán liên hợp theo kiểu tạo phức chất được đưa ra để giải thích sự xâm
nhập của glucose, glixerin, axit amin và một số chất khác vào trong tế bào. Glucose hầu
như không tan trong lipit và có kích thước lớn hơn kích thước siêu lỗ nhưng glucose lại
thấm qua màng rất nhanh. Cơ chế thấm của glucose được giải thích do phân tử glucose (kí
hiệu là G) kết hợp với chất mang (kí hiệu là M) tạo thành phức chất (kí hiệu là GM) và
phức chất này lại hoà tan tốt trong lipit nên thấm vào tế bào rất nhanh. Ở trong tế bào
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
glucose được giải phóng còn chất mang ở trạng thái tự do sẽ quay lại định vị trên màng tế
bào, tham gia vào vận chuyển phân tử glucose tiếp theo.
VI. Quá trình vận chuyển tích cực
Vận chuyển tích cực là quá trình vận chuyển các chất ngược hướng tổng gradien và có
tiêu tốn năng lượng của quá trình trao đổi chất. Ở trạng thái sinh lí bình thường do màng
tế bào có tính bán thấm nên dẫn tới sự phân bố không đồng đều của một số ion giữa bên
trong và bên ngoài màng. Điều này được thể hiện qua bảng 3.1.
Bảng 3.1: Nồng độ ion trong tế bào cơ và dịch gian bào
Nồng độ ion (đơn vị là mili phân tử gam) Na+ K+ Cl- HCO3-
Dịch gian bào 145 4 120 27
Trong tế bào 12 115 3.8 8
Kết quả từ bảng 3.1 cho thấy nồng độ Na+ ở bên ngoài cao hơn trong tế bào trên 10 lần,
nồng độ K+ trong tế bào lại cao hơn bên ngoài gần 30 lần còn nồng độ Cl - ở bên ngoài
cao hơn trong tế bào cũng gần 30 lần. Sự phân bố không đồng đều của một số ion giữa
bên trong và bên ngoài màng tế bào ở những đối tượng sinh vật khác nhau thì khác nhau.
Trong hoạt động sống của tế bào, do nhu cầu quá trình trao đổi chất đòi hỏi phải vận
chuyển ion và một số chất ngược hướng tổng gradien nên phải cần tới quá trình vận
chuyển tích cực mới đáp ứng được. Ví dụ : đối với những hồng cầu non do nhu cầu tích
luỹ các chất cao nên K+ được thấm vào trong tế bào với cường độ lớn mặc dù phải vận
chuyển ngược gradien nồng độ. Song khi hồng cầu đã trở thành một tế bào hoàn chỉnh thì
sự vận chuyển tích cực của K+ vào trong tế bào sẽ chấm dứt. Quá trình vận chuyển tích
cực đòi hỏi phải hao tốn năng lượng của quá trình trao đổi chất. Maidel và Haris đã
chứng minh rằng ở nhiệt độ bình thường của cơ thể khi trong môi trường có chất gluxit
thì các ion dương có thể vận chuyển ngược gradien nồng độ. Nếu dùng thêm axit monoiôt
axêtic hoặc floritnatri thì sự vận chuyển tích cực các ion dương sẽ giảm đi rõ rệt. Điều
này được giải thích do quá trình glicoliz đã phân giải gluxit thành axit lactic và giải
phóng ra năng lượng được tích luỹ vào 2 phân tử ATP (phân giải yếm khí) còn phân giải
hiếu khí sẽ giải phóng ra năng lượng cao gấp 20 lần phân giải yếm khí. Đây chính là
nguồn năng lượng để cung cấp cho sự vận chuyển tích cực các ion dương. Khi thêm axit
monoiôt axêtic hay florit natri, hai chất này đã phá huỷ quá trình glicoliz nên không còn
năng lượng để cung cấp, vì vậy sự vận chuyển tích cực các ion dương bị giảm đi. Quá
trình vận chuyển tích cực bao giờ cũng là sự vận chuyển có tính chọn lọc và chỉ diễn ra
khi có nhu cầu của tế bào.
* Quá trình vận chuyển chủ động các ion dương
Giả thuyết đầu tiên đưa ra để giải thích cơ chế vận chuyển các ion dương là của Hacxley
và Convay, đã được đa số các nhà nghiên cứu ủng hộ . Hai ông cho rằng trên màng phải
có một bộ máy gọi là “bơm Natri”. Khi tế bào ở trạng thái tĩnh, “bơm Natri” có khả năng
“bơm” Na+ từ nội bào ra môi trường ngược gradien nồng độ. “Bơm Natri” hoạt động
thông qua hệ thống enzyme và sử dụng năng lượng của quá trình trao đổi chất. “Bơm
Natri” thực chất là một chất mang có sẵn trong màng hay được hình thành do sự tương
tác của Na+ với một thành phần nào đó của màng. Khi đó phức chất “chất mang gắn Na+"
sẽ xuyên qua màng ra môi trường ngoài và dưới tác dụng của enzyme thì Na+ được giải
phóng còn chất mang ở trạng thái tự do lại trở về định vị trên màng tế bào để thực hiện
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
chu trình vận chuyển Na+ tiếp theo. Sau này Hodgkin, Katz và Scou (1954) đều thống
nhất cho rằng màng có một bộ máy gọi là “bơm Natri - Kali”. Bơm này có khả năng
“bơm” K+ từ môi trường vào nội bào và “bơm” Na+ từ nội bào ra môi trường, khi tế bào ở
trạng thái tĩnh. Nguồn năng lượng cung cấp trực tiếp cho "bơm Natri - Kali” hoạt động
được lấy từ ATP. Các tác giả cho rằng “bơm Natri - Kali" thực chất là một chất chuyển
trung gian có sẵn trong màng hay được tạo thành do nhu cầu của sự vận chuyển tích cực
của ion. Chất chuyển trung gian có khả năng liên kết với Na+ ở mặt trong của màng , sau
đó chuyển Na+ ra mặt ngoài của màng tế bào. Ở môi trường ngoài, Na+ được tách ra còn
K+ lại liên kết với chất chuyển và được đưa vào mặt trong của màng tế bào. Ở trong tế
bào, K+ được giải phóng còn chất chuyển ở trạng thái tự do lại thực hiện chu trình vận
chuyển ion Na+ và K+ tiếp theo. Hodgkin tính toán lí thuyết cho rằng năng lượng thủy
phân 1mol ATP đủ để vận chuyển 1mol ion dương (cation) qua màng ngược gradien điện
thế có giá trị khoảng 400mV. Thực nghiệm mới chỉ xác định tính toán của Hodgkin phù
hợp với sự vận chuyển H+ qua màng dạ dày có gradien điện thế lớn khoảng 400mV. Ở
noron thần kinh có gradien điện thế gần bằng 120 mV nên năng lượng thuỷ phân 1ATP
đủ để vận chuyển từ 2 đến 3Na+, ngược gradien điện thế.
Thực nghiệm đã xác định “bơm Natri – Kali” chính là chất chuyển trung gian, định vị
trên màng tế bào (xem hình 3.2). Để thực hiện sự vận chuyển chủ động Na+ và K+ thì
chính hai ion này đã hoạt hoá enzyme ATPase để xúc tác cho phản ứng thuỷ phân ATP,
giải phóng ra năng lượng cung cấp cho quá trình vận chuyển Na+ ra bên ngoài đồng thời
vận chuyển K+ vào trong tế bào qua chất chuyển trung gian.
Kết quả nghiên cứu trên noron thần kinh và tế bào thận đã xác định do nhu cầu cần có sự
vận chuyển ion chủ động, trong màng xuất hiện (hoặc đã có trước) chất chuyển trung
gian có bản chất là lipoProtein hoặc photphoProtein. Quá trình vận chuyển chủ động Na+
và K+ trải qua 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Xảy ra phản ứng photphoril hóa (tức chuyển gốc photphat cho chất chuyển
trung gian). Phản ứng chỉ có thể xảy ra khi enzyme ATPase được hoạt hóa bởi Na+ đã
xúc tác cho phản ứng thủy phân ATPđể giải phóng năng lượng và chuyển gốc photphat.
Kết quả là Na+ và gốc photphat đã được gắn vào chất chuyển trung gian và phản ứng xảy
ra ở bên trong tế bào:
ATP + photphoprotein + Na+ ⎯⎯ ⎯→ Na+ - photphoprotein - P+ADP.
ATPase
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
- Giai đoạn 2: Phức chất Na+ - photphoprotein - P xuyên qua màng tế bào ra môi trường
ngoài. Ở bên ngoài, xảy ra phản ứng trao đổi ion:
Na+ - photphoprotein - P + K+ → K+ - photphoprotein - P + Na+
- Giai đoạn 3: Phức chất K+ - photphoprotein - P lại xuyên qua màng vào trong nội bào.
Ở trong tế bào, xảy ra phản ứng dephotphat (loại bỏ gốc photphat) và giải phóng K+.
K+ - photphoprotein - P → K+ + photphoprotein + P
Phân tử photphoprotein ở trạng thái tự do lại tiếp tục tham gia vào quá trình vận chuyển
chủ động Na+ và K+ khác. Để giải thích vì sao chất chuyển trung gian lại có thể khi thì
gắn với Na+, khi lại gắn với K+, các nhà khoa học đã dựa vào thuyết Eidenman. Thuyết
này cho rằng chất chuyển trung gian có điện tích âm, khi nó thay đổi các nhóm mang
điện tích âm sẽ thay đổi lực hút tĩnh điện. Do vậy, chất chuyển trung gian có khả năng
khi thì "hút" Na+, khi lại "hút" K+.
- Giả thuyết Opit và Trernoc: Hai ông cho rằng "bơm Natri - Kali" thực chất là một
protein xuyên màng, là thành phần cấu trúc của màng tế bào.
Protein xuyên màng có hai miền A và B, trong đó miền A có ái lực (lực hút tĩnh điện) đối
với Na+ còn miền B lại có ái lực đối với K+. Khi tế bào có nhu cầu vận chuyển chủ động
ion thì ATP tương tác với protein xuyên màng dẫn tới có sự gắn Na+ vào miền A đồng
thời khi chuyển gốc photphat từ ATP sang protein xuyên màng đã làm cho phân tử
protein xuyên màng thay đổi hình thù (hoặc quay 180o). Bây giờ cả miền A và miền B
đã quay ra phía ngoài màng và Na+ được giải phóng ra môi trường ngoại bào còn K+ lại
được gắn vào miền B của protein xuyên màng. Tiếp đó xảy ra phản ứng dephotphat (loại
bỏ gốc photphat) và phân tử protein xuyên màng trở về vị trí lúc ban đầu (hoặc quay
180o). Bây giờ miền B lại quay về phía trong màng và K+ lại được giải phóng ra tế bào
chất còn phân tử protein xuyên màng lại tiếp tục vòng vận chuyển chủ động ion Na+ và
K+ khác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Còn theo Bruce Alberts et all (xem hình 3.3) thì protein xuyên màng là ATPase cũng có
miền nhận Na+ và miền nhận K+. Nhờ phản ứng thủy phân ATP mà gốc photphat từ
ATP đã được chuyển sang protein xuyên màng, làm cho phân tử protein xuyên màng thay
đổi hình thù (tức mặt trong của nó mở ra) để cho Na+ gắn vào miền A. Sau đó mặt trong
đóng lại còn mặt ngoài lại mở ra để giải phóng Na+ đồng thời K+ lại được gắn vào
miền B. Tiếp theo ATPase loại bỏ gốc photphat để trở về hình thù ban đầu (tức mặt ngoài
đóng lại còn mặt trong mở ra) để giải phóng K+ vào trong tế bào. Phân tử ATPase ở trạng
thái tự do lại tham gia vào quá trình vận chuyển ion tiếp theo.
VII. Quá trình vận chuyển các chất hữu cơ
Quá trình vận chuyển chủ động các chất hữu cơ (đặc biệt là đường và axit amin) nó phụ
thuộc vào cấu trúc màng tế bào và cấu trúc phân tử chất hữu cơ. Ví dụ tế bào cơ ếch chỉ
thấm các loại đường glucose, galactose, dạng L-azabinose còn không thấm đối với dạng
D-azabinose (có nhóm OH nằm phía bên phải nguyên tử cacbon đứng liền sau nhóm
COOH). Tế bào gan lại thấm đường hecxose, pentose rất nhanh còn đường mantose lại
thấm rất ít. Quá trình vận chuyển chủ động các axit amin cũng xảy ra theo cơ chế tương
tự như đối với đường. Ví dụ màng thể riboxom thấm glixin, dạng D-alanin (nhóm NH2
nhằm phía bên phải nguyên tử cacbon đứng liền sau nhóm COOH) và dạng L-valin dễ
dàng, trong khi đó lại hoàn toàn không thấm đối với dạng L-alanin.
* Cơ chế vận chuyển chủ động đối với đường: Các nhà khoa học cũng cho rằng để vận
chuyển đường ngược gradien nồng độ cũng cần có sự tham gia của chất chuyển đặc
trưng, enzyme và ATP. Điều này đã được Heliman và Ianoy chứng minh bằng thực
nghiệm vào năm 1971. Hai ông thấy rằng màng tế bào bêta của tuyến tụy ở động vật có
vú có khả năng thấm dạng D-glucose ngược gradien nồng độ còn hoàn toàn không thấm
dạng L-glucose. Nhưng nếu thêm vào môi trường nuôi cấy ít chất floritzin (là một độc tố)
thì khả năng thấm của tế bào bêta tuyến tụy đối với dạng D-glucose cũng bị mất đi. Điều
này chỉ có thể giải thích do floritzin đã ngăn cản phản ứng thủy phân ATP để cung cấp
năng lượng hay ức chế enzyme xúc tác cho phản ứng liên kết giữa chất chuyển đặc trưng
với D-glucose hoặc ngăn cản cả hai phản ứng trên. Bằng chứng tiếp theo là kết quả
nghiên cứu của Udas theo dõi sự vận chuyển glucose qua màng nhau thai cừu. Udas thấy
rằng nếu nồng độ glucose ở môi trường ngoài nhỏ hơn giá trị nồng độ giới hạn, nếu tăng
nồng độ glucose lên thì quá trình vận chuyển glucose qua màng nhau thai cừu cũng tăng
theo. Song nếu nồng độ glucose ở môi trường ngoài tiếp tục tăng khi lớn hơn giá trị nồng
độ giới hạn thì sự vận chuyển glucose qua màng nhau thai cừu không tăng thêm nữa. Từ
đó Udas cho rằng phải có một chất chuyển đặc trưng đối với đường glucose. Khi nồng độ
glucose ở môi trường nhỏ hơn nồng độ giới hạn nếu tăng lên thì vẫn đủ chất chuyển đặc
trưng (với quan niệm một chất chuyển gắn với một phân tử đường) nên sự vận chuyển
glucose qua màng nhau thai cừu cũng tăng theo. Khi nồng độ glucose ở môi trường ngoài
tăng cao vượt quá nồng độ giới hạn do nồng độ chất chuyển đặc trưng không tăng thêm
nữa nên sự vận chuyển glucose qua màng nhau thai cừu sẽ không tăng.
Quá trình vận chuyển chủ động của đường còn theo cơ chế khuyếch tán liên hợp. Đường
hòa tan tốt trong nước nhưng không hòa tan trong lipit và có kích thước lớn hơn đường
kính siêu lỗ nên không thể thấm trực tiếp qua màng tế bào. Khi đó phân tử đường sẽ tạo
phức với chất chuyển đặc trưng (phần lớn tạo phức với enzyme). Phức chất này khi đó lại
hòa tan tốt trong lipit nên khuyếch tán qua màng tế bào một cách dễ dàng. Ở trong tế bào,
phức chất bị enzyme phân giải thành chất chuyển đặc trưng và phân tử đường. Như vậy,
phân tử đường đã được vận chuyển vào trong tế bào còn chất chuyển đặc trưng lại quay
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
trở lại màng tế bào để tiếp tục quá trình vận chuyển mới. Đường cũng có thể được vận
chuyển chủ động nhờ vào hệ thống enzyme với sự tham gia của ATP. Ví dụ đường
glucose bình thường không thể thấm ngược gradien nồng độ. Nhờ enzyme hexokinase
xúc tác đã dẫn tới phản ứng:
Glucose + ATP ⎯hexokinase
⎯ ⎯⎯→ glucozo - 6 - P + ADP
Khi đó nồng độ glucozo - 6 - P ở bên ngoài lại cao hơn bên trong tế bào và hòa tan trong
Lipit nên dễ dàng thấm vào trong tế bào. Ở trong tế bào, với sự xúc tác của enzyme
glucozo - 6 -photphatase đã dẫn tới phản ứng:
−6−photphatase
Glucozo - 6 - P ⎯G⎯ ⎯ ⎯ ⎯⎯→ glucose
Như vậy, nhờ hai enzyme với sự tham gia của ATP mà glucose đã được vận chuyển
ngược gradien nồng độ vào trong tế bào.
Quá trình vận chuyển đường còn phụ thuộc vào độ pH và nhiệt độ môi trường. Theo các
tác giả Arnost, Ausiello, Denis (1970), sự hấp thụ đường xảy ra mạnh ở độ pH từ 6,2 đến
8,2.
Tốc độ thấm các loại đường qua màng liên quan tới nhiệt độ được giải thích bằng
phương trình do Michalis và Menthen đưa ra dùng để giải thích sự phụ thuộc của tốc độ
phản ứng men vào nhiệt độ. Đó là:
v .[ S ]
v = max (3.5)
[S ] + Km
v: Tốc độ phản ứng
vmax: tốc độ phản ứng cực đại ở nhiệt độ thích ứng
[S]: Nồng độ cơ chất
Km: Hằng số Michalis có giá trị từ 10-1 đến 10-6
Áp dụng đối với đường:
v .C
v = max n (3.6)
Cn + K
v: Tốc độ thấm của đường qua màng
vmax: Tốc độ thấm cực đại của đường ở nhiệt độ thích ứng
Cn: Nồng độ đường ở môi trường ngoài
K: Hằng số liên quan tới khả năng liên kết giữa phân tử đường với chất chuyển đặc
trưng. Ở mỗi đối tượng nghiên cứu, hằng số K có một giá trị xác định. Ví dụ ở chuột
đồng, với đường glucose thì K=9mM còn với đường galactose thì K=35mM.
* Cơ chế vận chuyển chủ động đối với axit amin: Cũng giống như con đường vận
chuyển chủ động đối với đường, sự vận chuyển chủ động các axit amin cũng có sự tham
gia của chất chuyển đặc trưng, ATP và enzyme. Ví dụ quá trình tái hấp thu axit amin của
tế bào biểu mô ống lượn của thận, nhờ xúc tác bởi enzyme gamaglutamyltransferase mà
xảy ra phản ứng chuyển nhóm glutamyl của glutathion cho axit amin diễn ra như sau:
transferase
axit amin + glutathion → gamaglutamyltransferase - a.amin + xystenylglixin
Sau đó gamaglutamyl - a.amin và xystenylglixxin đều thấm vào bào tương. Trong bào
tương axit amin được tách ra còn gamaglutamyl lại kết hợp với xystenylglixin tạo thành
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
glutathion. Các phản ứng chuyển nhóm, tách nhóm và kết hợp có sự cung cấp năng lượng
từ 3ATP. Glutathion sau khi được tái lập lại tiếp tục vòng vận chuyển axit amin khác.
Quá trình thấm các axit amin phụ thuộc vào độ pH. Theo Lidonald (1971), trừ glixin và
alanin còn phần lớn các axit amin sự hấp thu ở độ pH=7 diễn ra mạnh hơn nhiều so với ở
độ pH=5 hoặc pH=6. Quá trình vận chuyển các chất hữu cơ có liên quan tới một số ion,
chẳng hạn như Na+. Thực nghiệm đã chứng minh xtrophantin là chất ức chế sự vận
chuyển Na+ đồng thời xtrophantin cũng ức chế sự vận chuyển các loại đường, nucleotide,
peptide, axit amin.
VIII. Tính thấm của tế bào đối với nước
Quá trình thấm nước của tế bào được thực hiện nhờ các yếu tố sau:
- Do sự chênh lệch về áp suất thẩm thấu, đặc biệt là áp suất thẩm thấu keo do các đại
phân tử sinh học gây nên (protein, lipit...)
- Do sự chênh lệch về áp suất thủy tĩnh.
- Do sự chênh lệch về điện thế.
- Do sự thay đổi cấu hình phân tử protein. Cơ chế này đặc trưng cho các loài sinh vật tiến
hóa thấp có cơ quan điều hòa nước là những không bào co bóp do sự thay đổi cấu hình
của các phân tử protein.
Quá trình thấm nước vào trong tế bào được thực hiện theo những con đường chủ yếu sau:
- Sự thẩm thấu: Màng tế bào có tính chất bán thấm, chỉ cho một số chất đi qua như ion,
nước, muối khoáng, đường, axit amin... còn các cao phân tử sinh học thì hoàn toàn không
thấm qua. Các chất hòa tan trong nước đã tạo nên áp suất thẩm thấu. Theo định luật
VantHoff, áp suất thẩm thấu P của dung dịch tỷ lệ thuận với nồng độ chất tan C (mol) và
nhiệt độ tuyệt đối T (oK) theo công thức:
P=α.C.R.T (3.7)
α: Hệ số phân ly (đối với chất không phân ly thì α=1)
R: Hằng số khí bằng 0,082lít.atmôtphe /M. độ
Khi nồng độ chất tan càng cao thì áp suất thẩm thấu cũng càng lớn nhưng do màng tế bào
có tính bán thấm nên các phân tử chất tan không thể khuyếch tán từ nơi có nồng độ chất
tan cao đến nơi có nồng độ chất tan thấp. Do vậy, để hạ bớt nồng độ chất tan chỉ có các
phân tử nước sẽ thẩm thấu từ nơi có áp suất thẩm thấu thấp (tức có nồng độ chất tan thấp)
sang nơi có áp suất thẩm thấu cao (tức có nồng độ chất tan cao). Như vậy, sự thẩm thấu
của nước thực chất là quá trình khuyếch tán nên có thể áp dụng định luật Fich để xác định
tốc độ khuyếch tán của nước qua một đơn vị diện tích màng, trong một đơn vị thời gian.
Từ phương trình (3.1) của định luật Fich cho biết tốc độ khuyếch tán của nước tỷ lệ thuận
với tiết diện S, tức là tỷ lệ thuận với bình phương bán kính siêu lỗ.
- Quá trình siêu lọc của nước: Ngoài cơ chế khuyếch tán, sự vận chuyển của nước còn
được thực hiện theo cơ chế siêu lọc, do sự chênh lệch của áp suất thủy tĩnh. Tốc độ vận
chuyển của nước theo cơ chế siêu lọc tuân theo định luật Puazeli giống như chuyển động
của chất lỏng qua mao quản thủy tinh do áp lực từ sự chênh lệch của áp suất thủy tĩnh.
dv πr 4 .( P1 − P2 )
= (3.8)
dt 8η.l
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
dv
: Tốc độ chuyển động của nước qua mao quản (cm3/giây)
dt
r: Bán kính mao quản (cm)
P: Áp suất thủy tĩnh (P1>P2)
η: Độ nhớt của nước (Centipuazơ: Cp)
l: Chiều dài mao quản (cm)
Kích thước siêu lỗ có ảnh hưởng đến sự vận chuyển của nước theo cả cơ chế khuyếch tán
lẫn siêu lọc. Tùy thuộc vào kích thước siêu lỗ mà cơ chế nào chiếm ưu thế hơn. Theo
o
Renkin và Papenhanner (1957), nếu bán kính siêu lỗ bằng 5 A thì cơ chế khuyến tán và
o
siêu lọc là tương đương nhau. Khi bán kính siêu lỗ lớn hơn 5 A , quá trình siêu lọc sẽ lớn
o
hơn quá trình khuyếch tán còn khi bán kính siêu lỗ nhỏ hơn 5 A thì quá trình siêu lọc lại
nhỏ hơn quá trình khuyếch tán.
Ví dụ điển hình về mối tương quan giữa tính thấm khuyếch tán và siêu lọc là thí nghiệm
về sự vận chuyển nước qua da ếch. Trước thí nghiệm, nước khuyếch tán qua da ếch
chiếm gần 356ml/cm2/giờ còn thấm siêu lọc chiếm 9,2ml/cm2/giờ. Sau khi phun hoóc
môn tuyến yên là pituitrin lên da ếch thì nước khuyếch tán qua da ếch chỉ tăng lên từ 12%
đến 13% trong khi đó cơ chế thấm siêu lọc tăng lên hơn hai lần. Kết quả cho thấy hoóc
môn tuyến yên đã làm tăng đường kính của siêu lỗ trên da ếch.
Sự thẩm thấu và siêu lọc có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình trao đổi nước giữa máu
và mô. Áp suất thẩm thấu của máu người và động vật có vú do các chất tan là vô cơ và
hữu cơ tạo nên, có giá trị từ 7,8 đến 8 atmotphe (at). Song chỉ có áp suất thẩm
thấu keo do các phân tử Protein tạo nên là giữ vai trò đối với sự trao đổi nước giữa máu
và mô. Áp suất thẩm thấu keo của máu người bằng 30mmHg còn áp suất thẩm thấu keo
của dịch mô và bạch huyết bằng 10mmHg. Nhờ đó nước sẽ thẩm thấu từ dịch mô và bạch
huyết (nơi có áp suất thẩm thấu keo thấp) vào máu (nơi có áp suất thẩm thấu keo cao). Sự
trao đổi nước giữa máu và bạch huyết còn liên quan tới áp suất thủy tĩnh. Áp suất thủy
tĩnh được tạo ra từ sự co bóp của tim. Ở cuối động mạch, áp suất thủy tĩnh lớn hơn áp
suất thẩm thấu keo, do đó nước được siêu lọc từ máu (nơi có áp suất thủy tĩnh cao) vào
bạch huyết và mô liên kết (nơi có áp suất thủy tĩnh thấp). Ngược lại, ở cuối tĩnh mạch, áp
suất thủy tĩnh giảm nên nhỏ hơn áp suất thẩm thấu keo, do đó nước lại được thẩm thấu từ
mô liên kết và bạch huyết (nơi có áp suất thẩm thấu keo nhỏ) vào máu (nơi có áp suất
thẩm thấu keo lớn). Ở phần giữa của động mạch và tĩnh mạch có áp suất thẩm thấu keo
và áp suất thủy tĩnh bằng nhau.
Khi cơ thể khỏe mạnh, sự trao đổi nước diễn ra bình thường thì nước được vận chuyển từ
bạch huyết vào máu ở cuối tĩnh mạch và từ máu vào bạch huyết ở cuối động mạch sẽ cân
bằng nhau nên đảm bảo lượng nước trong cơ thể ổn định. Theo quan điểm nhiệt động học
thì cơ thể khỏe mạnh sẽ luôn duy trì trạng thái cân bằng dừng. Khi cơ thể bị bệnh cao
huyết áp thì cân bằng giữa áp suất thẩm thấu keo và áp suất thủy tĩnh sẽ bị phá vỡ. Ở
bệnh nhân cao huyết áp sẽ có số nhịp đập của tim tăng lên, do vậy áp suất thủy tĩnh tăng
cao. Ở bệnh nhân hạ huyết áp do mất máu nhiều, bị nhiễm phóng xạ, bị đói kéo dài... sẽ
làm áp suất thẩm thấu keo của máu giảm mạnh. Do vậy, ở bệnh nhân cao huyết áp và hạ
huyết áp đều dẫn tới sự trao đổi nước của cơ thể bị rối loạn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Trong hệ sinh vật, do điều kiện môi trường sống mà cơ thể có cơ quan điều hòa áp suất
thẩm thấu. Ở sinh vật bậc thấp như các loài tiêm mao nước ngọt có không bào thường co
bóp để tiết ra dịch nhược trương để duy trì áp suất thẩm thấu cho tế bào. Do vậy, nước ở
bên ngoài sẽ không thẩm thấu vào trong tế bào làm cho tế bào không bị trương lên. Ở
các loài tôm nước ngọt có tuyến dưới râu là cơ quan điều hòa áp suất thẩm thấu và cũng
tiết ra dịch nhược trương (có nồng độ muối rất nhỏ hoặc bằng không) để cân bằng với áp
suất thẩm thấu ở môi trường ngoài. Ở cá nước ngọt cũng như cá biển, cơ quan điều hòa
áp suất thẩm thấu là mang. Mang cá nước ngọt thì tiết ra dịch nhược trương (giống ở tôm
nước ngọt) còn mang cá nước mặn lại tiết ra dịch ưu trương (có nồng độ muối cao) để
cân bằng với áp suất thẩm thấu của nước biển, giữ cho cá khỏi bị mất nước. Ở người và
động vật có vú thì cơ quan điều hòa áp suất thẩm thấu là thận. Thận thải ra nước tiểu
nhược trương so với máu khi cơ thể ăn thức ăn lỏng (cơ thể thừa nước) còn thận thải ra
nước tiểu ưu trương khi cơ thể ăn thức ăn khô (cơ thể thiếu nước).
IX. Tính thấm của tế bào và mô đối với axit và kiềm
* Đối với axit mạnh và kiềm mạnh: Trong dung dịch axit mạnh được đặc trưng bởi
nồng độ H+ cao còn kiềm mạnh đặc trưng bởi nồng độ OH- cao. Mặc dù kích thước của
ion nhỏ hơn kích thước siêu lỗ nhưng các ion không thể đi qua siêu lỗ. Điều này được
giải thích do trong dung dịch các ion bao giờ cũng bị hydrat hóa hay bị các ion khác dấu
bao bọc xung quanh. Ion có kích thước càng nhỏ thì lớp vỏ hydrat càng dày. Ví dụ K+ có
o o
đường kính 2,6 A chỉ có 4 phân tử nước bao quanh còn Na+ có đường kính 1,9 A lại có
tới 8 phân tử nước bao quanh. Do vậy, kích thước thực tế của ion trong dung dịch lớn hơn
rất nhiều so với kích thước của siêu lỗ. Mặt khác, các ion do bị lớp vỏ hydrat bao bọc nên
hạn chế khả năng tương tác tĩnh điện với các ion trên thành siêu lỗ. Điều đặc biệt là các
ion H+ và OH- đều có khả năng tham gia vào các phản ứng hoá học rất cao cho nên chúng
dễ bị các phân tử trên bề mặt màng hấp phụ. Chính vì vậy tế bào và mô không bị tổn
thương bởi axit hay kiểm thì chúng cũng hoàn toàn không thấm axit mạnh và kiềm mạnh.
Axit mạnh và kiềm mạnh chỉ thấm vào trong tế bào khi tế bào đã bị tổn thương do tác
nhân vật lí hay hoá học. Trakhochin đã tiến hành thí nghiệm trên trứng cầu gai. Ông đã
tiêm vital không màu (một chất chỉ thị gặp axit sẽ cho màu đỏ) vào trứng cầu gai và sau
đó thả trứng vào nước biển có nồng độ H2SO4 thấp. Vì H2SO4 là axit mạnh nên trứng cầu
gai hoàn toàn không thấm nên trứng vẫn có màu như trứng bình thường. Song nếu dùng
tia tử ngoại để chiếu lên trứng cầu gai thì trứng sẽ bị tổn thương nên H2SO4 dễ dàng đi
vào tế bào làm trứng cầu gai sẽ có màu đỏ (do vital phản ứng với H2SO4 cho hợp chất có
màu đỏ).
* Đối với axit yếu và kiềm yếu: Các axit yếu và kiềm yếu có thể thấm qua màng tế bào
một cách dễ dàng vì chúng hòa tan tốt trong Lipit. Khi đã ở trong tế bào các axit yếu và
kiềm yếu có thể bị phân ly thành các ion ít khuyếch tán và lại bị hydrat hóa nên chúng
không thoát ra ngoài môi trường được. Đó là nguyên nhân dẫn đến làm cho các chất điện
phân yếu thường có nồng độ cao ở trong tế bào. Hiện tượng trên gọi là tính thấm một
chiều. Tính thấm của tế bào đối với axit yếu và kiềm yếu phụ thuộc vào độ pH và thành
phần hóa học của môi trường. Nếu độ pH của môi trường dịch chuyển về phía axit (tức
giàu H+) thì độ phân ly của axit yếu sẽ giảm xuống nên dễ xâm nhập vào trong tế bào.
Nếu độ pH của môi trường dịch chuyển về phía kiềm (tức giàu OH-) thì độ phân ly của
các bazơ yếu sẽ giảm xuống nên cũng dễ xâm nhập vào trong tế bào. Vấn đề này đã được
Overton thí nghiệm trên nòng nọc ếch. Nòng nọc sống trong nước ngọt, nếu thêm vào
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
nước một ít chất nitratstricnin nồng độ 0,01% thì nòng nọc vẫn sống bình thường mặc dù
ion stricnin rất độc nhưng nó hoàn toàn không thấm qua da nòng nọc được. Nếu ta tiếp
tục thêm vào một ít chất cacbonat natri thì nòng nọc sẽ chết ngay. Nguyên nhân do ion
stricnin đã kết hợp với ion cacbonat tạo thành axit yếu là stricnin cacbonat và dễ dàng
thấm qua da nòng nọc nên làm cho nòng nọc bị chết nhanh.
Axit yếu và kiềm yếu có tính thấm một chiều theo hướng từ môi trường vào trong tế bào.
Bản chất của hiện tượng tính thấm một chiều theo Rubinstein là do sự khác nhau về giá
trị của các tham số hóa lý ở môi trường và trong nội bào, do đó sẽ gây nên sự thay đổi
trạng thái hóa lý của các chất thấm qua màng tế bào. Thí dụ ở môi trường bên ngoài phân
tử ở dạng không phân ly, khuyếch tán mạnh (ví dụ như H2CO3) nhưng khi thấm vào trong
tế bào, phân tử lại phân ly (H2CO3 → H+ + HCO3-) và khuyếch tán yếu. Khi ở dạng các
ion, chúng sẽ bị lớp vỏ hidrat bao bọc nên không thể thấm ra môi trường ngoài được.
X. Thực bào và uống bào
Ngoài hai cơ chế vận chuyển thụ động và vận chuyển chủ động, sự xâm nhập của vật
chất vào trong tế bào còn theo cơ chế thực bào và uống bào. Để phân hủy các hạt chất rắn
hay giọt chất lỏng khi chúng bị thực bào hay uống bào, trong tế bào có bào quan đóng vai
trò như một bào quan tiêu hóa. Đó chính là lizoxom, một bào quan bên trong có chứa
nhiều enzyme có thể phân giải nhiều chất khi được tế bào hấp thu.
* Thực bào: Đa số tế bào ở trạng thái tự do như sinh vật đơn bào (tảo) hay nằm trong
thành phần của mô như sinh vật đa bào (mô cơ, mô gan, mô ruột non...) đều có thể thực
bào. Thực bào là hiện tượng tế bào có khả năng hấp thụ các hạt như vi khuẩn, virus...
Quá trình thực bào thường xảy ra hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là tế bào hấp phụ hạt
và giữ chặt hạt trên bề mặt màng tế bào. Giai đoạn thứ hai là màng tế bào uốn lõm vào
phía trong tế bào chất để bọc lấy hạt cần đưa vào nội bào. Giai đoạn hấp phụ hạt chủ yếu
liên quan tới các yếu tố hóa lý như điện tích bề mặt hoặc do tương tác hoá học. Giai đoạn
hai chủ yếu liên quan đến màng tế bào.
Cơ chế thực bào để hấp phụ chất dinh dưỡng hay gặp ở những loài sinh vật tiến hóa thấp
như vi sinh vật, tảo, động vật nguyên sinh (amip). Ở sinh vật tiến hóa cao như động vật
có vú và người, sự thực bào có ý nghĩa chính là để bảo vệ cơ thể. Ở động vật có vú thì
bạch cầu hạt, tế bào Kuffer có hoạt động thực bào thường xuyên như tiêu diệt vi khuẩn,
virus khi cơ thể bị nhiễm cũng như tiêu diệt tế bào hồng cầu già, mảnh xác tế bào bị
thương tổn...
* Uống bào: Là hiện tượng tế bào có khả năng hút những giọt chất lỏng như giọt mỡ vào
trong nội bào. Hiện tượng uống bào đã được Maxt và Doil tiến hành thí nghiệm và quan
sát trên đối tượng amip vào năm 1934. Hai ông sử dụng phương pháp đánh dấu phân tử
protein bằng chất phát quang để nhỏ vào môi trường gần con amip. Chỉ sau thời gian
ngắn đã quan sát được có một lượng lớn protein đã được con amip hấp thụ theo cơ chế
uống bào. Quá trình uống bào cũng diễn ra theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là giai
đoạn hấp phụ giọt chất lỏng lên bề mặt màng tế bào. Giai đoạn thứ hai là màng tế bào
uốn lõm vào phía trong tế bào chất để bọc lấy giọt chất lỏng, tạo không bào để đưa vào
nội bào. Thí dụ điển hình về uống bào là hoạt động của các tế bào tủy xương. Trong vùng
tủy tạo hồng cầu, có loại tế bào ngoại biên chứa đầy các phân tử pheritin. Quan sát dưới
kính hiển vi thấy rõ các phân tử pheritin thoát ra khỏi tế bào ngoại vi sau đó được hấp
phụ lên bề mặt của nguyên hồng cầu. Tiếp theo bề mặt của nguyên hồng cầu uốn lõm vào
phía trong tế bào chất để tạo nên một giọt nhỏ bọc lấy phân tử pheritin và đưa vào trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
tế bào. Ở trong tế bào, màng bao bọc phân tử pheritin bị hòa tan còn phân tử pheritin
được sử dụng để tổng hợp nên phân tử hemoglobin.
Kết quả nghiên cứu về sự thấm hút mỡ ở tế bào biểu mô ruột non qua kính hiển vi điện tử
cho thấy thực chất của quá trình này là hiện tượng siêu uống bào. Nếu cho động vật ăn
mỡ ngô thì chỉ sau ít phút đã quan sát thấy những giọt mỡ ngô cực nhỏ nằm giữa các siêu
nhung mao của tế bào biểu mô ruột non và một số giọt mỡ (lipit) đã nằm gọn trong vùng
uốn cong vào của màng siêu nhung mao. Thời gian càng về sau thì số lượng các giọt mỡ
bị hấp thụ bởi tế bào biểu mô ruột non càng nhiều.
Quá trình thực bào và uống bào cũng là quá trình hấp thụ chất một cách tích cực, đòi hỏi
phải sử dụng năng lượng song có tính chọn lọc không cao. Do vậy, trong một số trường
hợp tế bào hấp thụ lên bề mặt cả những chất độc, có hại đối với nó.
73
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 4
Ngay từ thế đầu kỷ thứ XIX, các nhà khoa học đã biết cách chọn
phương pháp nghiên cứu đúng theo hình thức đo điện. Bằng cách dễ dàng
74
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
nhất đó là đo điện trở cũng như xác định độ dẫn điện của máu, tế bào, mô
sống, cơ, sợi thần kinh. Đồng thời cũng có thể đưa ra được nhiều thông số
liên quan mà nhiều công trình nghiên cứu sau này đã đề cập đến. Đó là các
đề tài nghiên cứu về điện trở, điện dẫn, tính dẫn điện trên các động vật,
hoặc ngay cả trên các tế bào thực vật ...
Nhiều kết quả thực nghiệm trước đây đã chứng minh cho ta thấy
rằng: Với các tế bào động vật hoặc thực vật cũng như đối với các mô sống,
dưới tác động của dòng một chiều thì điện trở suất có giá trị trung bình
vào khoảng 106 ÷ 107 Ω/cm. Nên dưới tác dụng của dòng điện một chiều
cho thấy, độ dẫn điện của các đối tượng sinh vật gần giống như tính dẫn
của một chất bán dẫn điện. Còn dưới tác dụng của dòng điện xoay chiều
thì giá trị điện dẫn đo được có giá trị nhỏ hơn rất nhiều.
Để xác định được thông số về điện trở thuần, điện trở kháng của
các hệ thống sống là một việc làm không đơn giản. Thông thường, ta gặp
phải những khó khăn và phức tạp trong khi đo vì:
- Đối tượng sống là một hệ đa pha và tổ chức không đồng nhất về
cấu trúc.
- Thể tích tế bào không cố định mà có thể biến đổi tuỳ theo trạng
thái sinh lý của đối tượng khi khảo sát.
- Bề mặt tế bào có một lớp vỏ protéin bao bọc, lớp màng bảo vệ tế
bào có độ điện dẫn rất lớn.
- Ngoài ra, dòng điện đi vào mô chủ yếu chạy qua lớp gian bào có
độ dẫn điện tôt vì bản thân nó chứa nhiều loại ion với nồng độ rất
cao.
- Các vi điện cực làm tổn thương màng.
Những số liệu đáng tin cậy là đo điện trở của các tế bào có kích
thước nhỏ với hình dạng dễ tính toán và ở thể huyền phù. Để phù hợp với
kết quả nghiên cứu từ thực nghiệm, khi đó sử dụng công thức Maxwell để
đo thông số điện trở. Phương trình này có dạng như sau:
r1 r1
−1 −1
r r2 (4.1)
=β
r1 r1
+2 +2
r r2
Trong đó,
r : điện trở suất của dung dịch.
r1 : điện trở suất của môi trường.
75
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ngày nay từ các kết quả nghiên cứu được, người ta đã đưa ra nhiều
phương pháp khác nhau để xác định các thông số điện của đối tượng khảo
sát tuỳ theo yêu cầu. Việc ứng dụng trong lâm sàng cũng có một ý nghĩa
hết sức to lớn. Ngoài ra, cơ sở lý thuyết cũng được xây dựng một cách
hoàn chỉnh, cũng như giải thích được cho nhiều cơ chế hình thành một
cách hợp lý việc ứng dụng hiện tượng điện trong nghiên cứu y-sinh học.
II. Điện trở của tế bào và mô dưới ảnh hưởng dòng điện
một chiều.
Để xác định giá trị về điện trở thuần trên cơ thể người và động vật,
ta có thể tiến hành theo một số phương pháp đơn giản. Đo điện trở bằng
cách dùng điện cực đặt tại hai vị trí khác nhau trên đối tượng nghiên cứu,
được mô phỏng như (hình 4.1) dưới đây:
G A
- +
Hình 4.1: Đo điện trở tại hai vị trí xác định của cơ thể.
76
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Kết quả thực nghiệm cho ta thấy rằng: Với các tế bào, mô sống
khác nhau thì giá trị ghi nhận được cũng khác nhau. Thật vậy, khi cho
dòng điện một chiều đi qua các đối tượng nghiên cứu trên thì cường độ
dòng điện đo được không phải là một hằng số. Giá trị đo được giảm một
cách liên tục theo thời gian đến một giá trị xác định nào đó, mặc dù hiệu
điện thế của nguồn cung cấp là không đổi.
Theo định luật Ohm, cường độ dòng điện (I) sẽ biến đổi một cách
tuyến tính theo hiệu số điện thế áp đặt vào mạch đo. Với nguồn điện một
chiều thì cường độ dòng (I) là không đổi, nhưng ở đây kết quả ghi nhận
được thì hoàn toàn có sự khác biệt. Thật vậy, kết quả thực nghiệm cho ta
thấy rằng dòng điện ghi đo được trên đối tượng sống không phải là hằng
số mà giá trị của nó bị thay đổi nhiều theo thời gian. Cường độ dòng điện
là một hàm số biến đổi theo thời gian như (hình 4.2):
I
I =
Const.
I = f
(t)
Hình 4.2: Sự phụ thuộc cường độ dòng điện (I) theo thời gian (t).
Nguyên nhân có sự giảm dòng điện như đã nêu trên là do hiện
tượng phân cực xảy ra trong đối tượng nghiên cứu. Khi cho dòng điện một
chiều đi qua, thì ngay trên bản thân hệ thống sống đã xuất hiện một suất
điện động (E). Hiện tượng phân cực P(t) tăng đến một giá trị xác định nào
đó và phát triển theo chiều hướng ngược lại so với sự phân cực ban đầu.
Sự phân cực toàn phần này làm hiệu điện thế toàn mạch giảm, do đó dòng
điện ngoài cũng giảm theo. Áp dụng định luật OHM cho một mạch kín,
trong trường hợp này ta có:
U − P(t )
I= (4.2)
R
77
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Trong đó:
U: là hiệu điện thế áp đặt vào đối tượng khảo sát
I : là cường độ dòng điện qua đoạn mạch
R : là điện trở của tế bào, mô sống mà ta nghiên cứu.
Tương tự như vậy, trong hệ thống sống vì có sự phân cực khi cho
dòng điện chạy qua, nên ta cũng có thể xác định được giá trị điện dung C
tương ứng theo hằng số điện môi của các đối tượng nghiên cứu bằng biểu
thức:
εS
C= (4.3)
4πd
Với:
ε : hằng số điện môi
S : diện tích bề mặt bản cực
d : khoảng cách giữa 2 bản cực.
Trong tế bào gồm điện dung tỉnh và điện dung phân cực (Cp) của
các loại tế bào, mô sống, cơ ...dưới tác dụng của dòng điện:
t
(4.4)
∫ Idt
Cp = 0
R(I 0 − I t )
Trong đó:
I0, It : Cường độ dòng điện tại điểm t = 0 và tại thời điểm t
bất kỳ
I : Cường độ dòng điện của đoạn mạch.
Ở hệ thống sống, trong trạng thái bình thường thì điện dung phân
cực có giá trị lớn, còn khi đối tượng này bị tổn thương hay hoại tử thì kết
quả đo được về điện dung lại có giá trị nhỏ hơn nhiều.
Điện dung phân cực của các đối tượng sinh vật nói chung có giá trị
trung bình vào khoảng từ 0,1 μF/cm2 đến 10 μF/cm2 , còn đối với các sợi
cơ thì điện dung của nó có thể lên đến khoảng 40 μF/cm2.
78
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
III. Sự biến đổi điện trở theo tần số dòng xoay chiều.
Dưới tác dụng của dòng điện xoay chiều thì trở kháng của tế bào,
mô sống phụ thuộc nhiều vào tần số (ω) của nguồn phát. Do đó, thành
phần điện kháng của đối tượng sinh vật như cảm kháng, dung kháng và
tổng trở mạch sẽ phụ thuộc nhiều vào tần số của nguồn.
Khi ở một trạng thái sinh lý nào đó, ứng với một tần số nhất định
của nguồn xoay chiều thì điện trở của tế bào và mô sống có giá trị không
đổi.
Từ năm 1920, nhiều công trình nghiên cứu khảo sát sự biến đổi
của điện trở dưới tác dụng của nguồn xoay chiều cho thấy: Điện trở của
hầu hết các loại mô, cơ, tế bào sống sẽ bị thay đỗi dưới các tần số khác
nhau. Đặc tuyến biến đổi của điện trở theo tần số (ω) có dạng như (hình
4.3) dưới đây:
ω1 ω2 ω
Hình 4.3: Sự biến đổi điện trở của tế bào mô theo tần số.
Đa số các mô sống, điện trở cực tiểu hay trị số độ dẫn điện cao ứng
với tần số khoảng 106 Hz, còn đối với sợi thần kinh thì giá trị này tương
ứng với tần số vào khoảng 109 Hz.
Từ thực nghiệm cho thấy, độ dẫn điện của tế bào và mô thay đổi
chủ yếu ở tần số thấp. Ở tần số cao tính chất này ít thay đổi hơn vì ở tần số
thấp hiện tượng phân cực diễn ra chậm chạp và rõ rệt hơn nhiều.
Sự phụ thuộc độ dẫn điện vào tần số là đại lượng đặc trưng biểu
diễn cho đối tượng là tế bào hoặc mô sống. Đối với các tế bào, mô bị tổn
thương tuỳ theo mức độ, tính chất này cũng giảm dần theo, đến khi tế bào
chết thì tính chất đó cũng không còn nữa. Nghĩa là điện trở của tế bào khi
bị tổn thương không còn phụ thuộc nhiều vào tần số.
Để hiểu rõ điều đó, ta khảo sát điện trở của một số mô thực vật ở
trạng thái sinh lý bình thường và bị tổn thương với các mức độ khác nhau
dưới tác dụng nhiệt, như (h.4.4):
R
(1
) (2
)
(3
(1)
(4
)
ω
Hình 4.4: Biến đổi điện trở mô thực vật theo tần số ở trạng thái sinh lý
bình thường và khi bị tổn thương.
(1): Trạng thái bình thường.
(2): Đun ở 500C trong 2 phút
(3): Đun ở 500C trong 4 phút
(4): Đun ở 1000C trong 20 phút.
Từ đặc trưng biến đổi của tổng trở theo tần số của dòng điện xoay
chiều ở trên, ta thấy tại nhiệt độ cao nếu thời gian tác dụng càng dài thì
mức độ tổn thương càng lớn, đồng thời sự phụ thuộc của điện trở theo tần
số ít hơn.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu về các thông số điện có thể dễ dàng xác
định, đánh giá cũng như để mô tả đối tượng theo các chỉ số sinh học của
80
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
một tổ chức sống ở trạng thái sinh lý bình thường hay bị bệnh lý. Ngày
nay người ta thường biểu diễn chỉ số sinh học qua đặc trưng biến đổi của
điện trở theo tần số R(ω) cho các loại tế bào, mô sống cũng như để xác
định cho nhiều đối tượng nghiên cứu sinh vật khác.
R10 4
K= (2.6)
R109
Giá trị K càng lớn sự phụ thuộc của điện trở vào tần số này càng
mạnh và ngược lại giá trị này nhỏ khi tế bào, mô đã bị chết.
Trong các tế bào và mô bình thường, hệ số K phụ thuộc vào vị trí
của đối tượng theo bậc thang tiến hoá của sự sống.
Ví dụ:
Hệ số K của gan động vật có vú khoảng 9 ÷ 10
Hệ số K của gan động vật máu lạnh khoảng 2 ÷ 3
Còn trong cơ thể người hoặc động vật, hệ số K phụ thuộc vào
cường độ trao đổi chất của từng loại mô.
- Ở các mô sống có cường độ trao đổi chất mạnh mẽ như gan,
lách thì hệ số K có giá trị lớn.
- Còn ở một số cơ quan có cường độ trao đổi chất thấp hơn (cơ)
thì hệ số K lại có giá trị nhỏ.
Các giá trị Rω1, Rω2 được tiến hành trong cùng nhiệt độ, điều kiện
thí nghiệm như nhau, và thời gian rất gần nhau. Nên tỷ số đo được tương
đối ổn định khi mô và tế bào ở trạng thái sinh lý bình thường (ở tần số cao
điện trở của cơ ít thay đổi trong một thời gian dài, trong khi đó điện trở ở
vùng tần số nguồn điện thấp bị thay đổi nhiều hơn)
81
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Sự thay đổi điện trở làm cho tính dẫn điện của tế bào và mô bị thay
đổi theo, nguồn gốc chính là do khả năng xảy ra hiện tượng phân cực của
chúng. Do đó hệ số K còn được gọi là hệ số phân cực
Ở giai đoạn đầu trong quá trình viêm, các thành phần và nhất là
cấu trúc tế bào chưa có sự thay đổi đáng kể. Thể tích tế bào biến đổi
không đáng kể, nên giá trị điện dung của nó chưa có sự thay đổi nhiều.
Hiển nhiên rằng: Khi tăng giá trị điện trở mà điện dung vẫn giữ
nguyên không thay đổi thì đó là dấu hiệu của sự trương tế bào, ngược lại
nếu giảm điện trở mà vẫn giữ nguyên giá trị điện dung thì đó là dấu hiệu
của sự giảm thể tích của tế bào.
Ở giai đoạn sau trong qúa trình viêm nhiễm, ta thấy có sự thay đổi
về cấu trúc tế bào một cách rõ rệt, hiện tượng viêm làm tăng độ thấm qua
màng tế bào. Vì vậy làm thay đổi tính dẫn điện của tế bào và mô sống,
dẫn đến sự giảm giá trị điện dung và điện trở.
Ngày nay hiện tượng điện sinh học được ứng dụng nhiều cho việc
chẩn đoán, điều trị ứng dụng trong y học dựa vào các tham số trên. Chẳng
hạn, áp dụng phương pháp đo điện trở để xác định nhãn áp, đo độ chênh
82
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
lệch điện trở giữa nữa mặt bên phải và bên trái, đo điện ốc tai, khảo sát
phản ứng cơ bằng cách đo suất Galvanic. Xác định mức độ tổn thương tế
bào dưới các tác nhân thông qua các giá trị đo độ điện dẫn, đo giá trị điện
trở thuần và trở kháng của da...
Bằng nhiều kết quả thực nghiệm khác nhau, ta dễ dàng thấy rằng
sự phân cực trong tế bào không chỉ xuất hiện trên bề mặt của màng mà
còn xảy ra trong toàn bộ thể tích của tế bào. Thật vậy, do hiện tượng điện
hưởng các vật dẫn dưới tác dụng của điện trường ngoài, đã làm cho các
điện tích tự do dịch chuyển. Các phần tử tích điện tương ứng có sự phân
bố điện tích trở lại trên phía đối diện trong các tế bào, nên các lớp bên
trong tế bào cũng có sự tích điện với dấu điện tích phù hợp.
83
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
P
(t)
Hình 4.5: Sự hình thành sức điện động phân cực.
Tế bào sinh vật được xem như là một hệ đa pha, mỗi pha có tính
chất hoá lý khác nhau, do đó điện trở và điện dẫn của nó cũng khác nhau.
Đồng thời các chất khi thâm nhập vào tế bào sống cũng tồn tại ở các pha
hoà tan hoàn toàn khác nhau.
Sự phân cực xảy ra trong toàn bộ thể tích của tế bào, ngay trên bề
mặt và kể cả các thành phần bên trong tổ chức sống. Đặc biệt sự phân cực
trong nội bào đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Đa số các dịch sinh vật trong hệ thống sống là các dung dịch điện
ly, chứa các ion và các đại phân tử tích điện. Do đó, cơ chế phân cực trong
hệ thống sống có liên quan với tính chất của một dịch đa điện phân trong
dung dịch điện ly của đại đa số các phân tử sinh vật.
Trong cơ thể, đa số các tổ chức đều có các màng ngăn cách giữa
các cơ phận với nhau hoặc các tổ chức riêng biệt. Theo thực tế cơ thể có
cấu trúc phức tạp, giống như bản thân chúng được chia ra thành nhiều
ngăn độc lập. Sự dịch chuyển của các ion qua các vách ngăn vì thế cũng
không còn tự do dưới tác dụng của điện trường ngoài. Các ion tích tụ trên
tế bào, mô sống, trong các tổ chức sinh vật tạo ra một quá trình phân cực
điện dưới tác dụng của điện trường ngoài như (hình 4.6) dưới đây:
84
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Năm 1937, Tiselius là người đầu tiên đã đưa ra phương pháp điện
di trong môi trường tự do để khảo sát sự hiện diện của protein trong huyết
thanh. Sau Tiselius, Cremer ta thấy có nhiều nhà khoa học khác như
Durrum đã xây dựng lý thuyết hoàn chỉnh về hiện tượng này một cách
tường minh và phát hiện thêm nhiều chỉ tiêu đo đạt khác trong các thiết bị
mới của mình. Năm 1950, các nhà sản xuất đã đưa ra một loại thiết bị mới
hơn, đó là sự phân tích dựa trên phương pháp “điện di hiển thị” và khảo
sát thông tin bệnh lý bằng cách ghi lại các đặc tuyến biến đổi của nó trên
“băng giấy chỉ thị”.
Ngày nay có nhiều công trình nghiên cứu y-sinh học đã áp dụng
phương pháp điện di, dựa trên nguyên tắc dịch chuyển ion để tách chiết và
phân tích nhiều thành phần khác nhau của dịch sinh vật. Các hướng
nghiên cứu bằng phương pháp điện di thường tập trung trong ba loại chủ
yếu là:
- Phát hiện sự dịch chuyển của các phân tử bằng cách khảo sát
dưới kính hiển vi (điện di tế bào).
- Điện di trong dung dịch tự do (xác định theo độ linh động của
các hạt nhiễm điện trong dung dịch).
- Điện di trên các chất giá (phương pháp điện di khảo sát trên băng
giấy).
86
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 5
ĐIỆN SINH HỌC
I. Mở đầu:
Từ lâu ở châu Âu, người ta đã tiến hành những thí nghiệm lý thú
để khám phá về các khả năng làm xuất hiện dòng điện trên cơ thể động
vật. Từ đó khái niệm về điện động vật mới xuất hiện và đã được chứng
minh sự tồn tại của nó.
Một số loài cá sinh sống ở sông và biển có bộ phận bảo vệ đặc biệt
để phát điện như cá trê điện, cá đuối điện, chình điện...Ngược dòng lịch sử
về sự phát hiện ra các dòng điện từ sinh vật trên cho thấy, từ rất lâu người
Ai Cập đã gặp phải và làm quen với những hiện tượng điện này.
Một tính chất đặc trưng của tế bào động vật là giữa chúng và môi
trường bên ngoài luôn luôn tồn tại một sự chênh lệch điện thế. Đo hiệu
điện thế trên các loại tế bào khác nhau thì sự chênh lệch này vào khoảng
0,1 V. Đặc biệt có một số loài cá điện có thể sinh ra các xung điện rất cao
đến khoảng 600V, với dòng điện cở hàng trăm mA.
Tính chất điện sinh học đã được Dr. Louis De Galvanie khám phá.
Sau đó, đề tài này đã thu hút nhiều nhà khoa học khác quan tâm và đầu tư
vào việc nghiên cứu một cách lý thú.
Tuy nhiên sau hơn 100 năm, kể từ những phát hiện đầu tiên dưới
sự ghi nhận của các nhà khoa học, con người vẫn chưa giải thích được cơ
chế hình thành hiện tượng điện sinh vật một cách rõ ràng. Các kết quả
thực nghiệm vẫn còn đóng khung trong việc mô tả hiện tượng. Trong vài
thập kỉ gần đây, nhờ các phương tiện ghi đo có độ nhạy cao, chính xác,
cũng như các thiết bị điện tử hiện đại...người ta mới khám phá được nhiều
qui luật hình thành dòng điện của tế bào. Từ kết quả thực nghiệm đo được
bằng các phương pháp khác nhau như đồng vị phóng xạ, động học phân
tử, hiển vi điện tử, hoá tế bào..., các nhà khoa học đã cho thấy bản chất của
dòng điện sinh học.
Việc xây dựng cơ sở lý thuyết và giải thích cơ chế của việc hình
thành dòng điện sinh học còn có nhiều hạn chế. Sỡ dĩ như vậy là vì khi
nghiên cứu hiện tượng điện sinh vật thường gặp phải một số giới hạn sau:
- Tốc độ biến đổi tín hiệu trên đối tượng nghiên cứu thay đổi quá
nhanh, trong khi các giá trị đo được thường rất nhỏ, nên yêu
cầu về thiết bị nghiên cứu phải là các dụng cụ ghi đo thật nhạy
và có độ chính xác thật cao.
87
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
- Đối tượng nghiên cứu thường có kích thước hết sức nhỏ (vào
cở kích thước tế bào).
- Điều kiện nghiên cứu, phải được tiến hành với phương pháp
như thế nào để không làm ảnh hưởng đến trạng thái sinh lý của
đối tượng khảo sát.
Trước khi tìm hiểu về các loại điện thế sinh vật, ta lưu ý rằng các
dịch thể ở hai phía trong và ngoài màng tế bào là các dung dịch điện phân
(electrolytic solutions). Nồng độ trung bình của các anion có giá trị
khoảng 155 mEq/l, đông thời có xuất hiện một nồng độ tương ứng của các
loại cation phát triển theo phía ngược lại.
Theo cơ chế vận chuyển vật chất qua màng sinh học ta thấy có sự
phân bố trở lại của các anion và cation ở hai phía màng. Đồng thời với quá
trình vận chuyển tích cực, thì có cả sự khuyếch tán của các ion với các độ
thấm khác nhau. Kết quả cuối cùng là trong toàn bộ quá trình hệ có sự
chênh lệch nồng độ ion ở hai phía màng, do đó làm xuất hiện một hiệu số
điện thế màng (membranne potential).
Hai yếu tố cơ bản có liên quan đến sự hình thành hiệu thế màng
sinh học có ý nghĩa quyết định đó là:
- Sự khuyếch tán những ion qua màng do sự chênh lệch nồng độ
của các loại ion ở hai phía màng.
- Sự vận chuyển tích cực của những ion qua màng khi chuyển dịch
từ pha (phase) này sang pha khác, tạo thành một cân bằng mới đó
là sự cân bằng đặc biệt của các ion.
Với một số đặc điểm nêu trên thì mục đích và yêu cầu khi nghiên
cứu hiện tượng điện sinh vật đó là:
Hiểu được bản chất của các loại điện thế sinh vật cơ bản như
loại điện thế nghỉ, điện thế tổn thương, điện thế hoạt
động...Ngoài ra cần nắm vững về cách ghi đo, điều kiện thí
nghiệm, các giai đoạn xuất hiện.
Xây dựng lý thuyết phù hợp để giải thích sự hình thành các
loại điện thế trên. Giải thích về các kết quả ghi nhận được, kể
cả các mối quan hệ giữa chúng.
Tìm hiểu một số ứng dụng điện sinh học của các công trình
nghiên cứu trong Y-Sinh học. Đưa ra một số ứng dụng hiện
tượng điện trong công tác chẩn đoán, thăm dò chức năng, cũng
như các ứng dụng để điều trị bệnh trong Y học.
Việc nghiên cứu các hiện tượng điện sinh vật và kỹ thuật ghi đo
các thông số liên quan có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Đặc biệt, ngày
nay với các thiết bị khoa học hiện đại, việc ứng dụng hiện tượng điện
88
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
trong Y học, xét nghiệm trên cận lâm sàng được sử dụng khá phổ biến. Do
đó ta cần phải nắm kỷ phương pháp ghi đo, hiểu rõ bản chất của các loại
điện thế sinh vật cơ bản.
Hình 5.1: Ảnh hưởng của gradien điện thế và gradien nồng độ
Ví dụ: Có thể lấy ví dụ bằng cách khảo sát trường hợp hiệu thế này
khi sử dụng điện cực bạc (Ag) trong dung dịch nitrat bạc (AgNO3).
Nếu gọi: μiđc là thế hoá học ion kim loại trong điện cực
μidd là thế hoá học của ion trong dung dịch.
Ta thấy:
- Nếu μiđc < μidd , dưới ảnh hưởng của gradient thế hoá học làm
các ion bạc (Ag+) chuyển dịch vào kim loại làm thanh kim loại tích điện
dương. Chuyển động của các ion này dừng lại khi hệ thống ở trạng thái
cân bằng điện hoá.
Thanh kim loại tích điện dương và xung quanh sẽ có một lớp ion
NO3- bao bọc tạo thành lớp điện kép.
Ở trạng thái cân bằng điện hoá, sự chênh lệch điện thế hoá học
giữa điện cực (đc) và dung dịch (dd) sẽ có giá trị bằng hiệu số điện thế
điện hoá của lớp điện tích kép này. Ta được:
ZFψ = μidd - μiđc (5.1)
Trong đó:
ψ : Điện thế của điện cực đối với dung dịch
Z : Hoá trụ của các ion tự do
F : Hằng số Faraday
Trong đó
A: là công thẩm thấu
R: Hằng số khí lý tưởng.
T: Nhiệt độ tuyệt đối của môi trường.
Ngoài ra, công của lực điện trong quá trình chuyển hoá đã làm thay
đổi nồng độ ion trong dung dịch. Công này được xác định trong trường thế
năng tĩ nh điện là:
A = UF (5.3)
Công của quá trình điện hoá và công thẩm thấu trong mỗi quá trình
cân bằng nhau, nên từ (5.2) và (5.3) ta được:
P2 (5.4)
RT ln= UF
P1
RT P2 (5.5)
U = ln
F P1
Theo phương trình Vant’ Hoff thì áp suất thẩm thấu tỉ lệ thuận với
nồng độ nên:
RT C 2 (5.6)
U= ln
F C1
Trong thí nghiêm trên thì C1, C2 chính là nồng độ ion trong dung
dịch (Cdd) và trong điện cực (Cđc). Với Z là hoá trị của ion kim loại, nên
tổng quát ta có thể viết lại hiệu đ iện thế ion như sau:
RT C (5.7)
U i = ln âc
ZF C dd
Với Ui là hiệu điện thế xuất hiện do sự chênh lệch điện thế của các
ion tạo thành. Đây chính là phương trình Nernst để xác định giá trị hiệu số
điện thế điện hoá (electrochemical potential different) của các dung dịch
điện ly.
lớn của nó sẽ tỷ lệ với tỷ số nồng độ các ion kim loại trong điện cực và
trong dung dịch .
Vì nồng độ ion kim loại trong hai dung dịch là khác nhau nên giá
trị điện thế xuất hiện trên mỗi điện cực cũng khác nhau, giữa chúng tồn tại
một hiệu điện thế Uc gọi là hiệu điện thế nồng độ.
(5.8)
U c = U c1 − U c2
(5.9)
RT C âc RT C âc
Uc = ln − ln
ZF C1 ZF C 2
RT C2 (5.10)
Uc = ln
ZF C1
Với C1, C2 là các nồng độ ion kim loại trong dung dịch. Do đó, khi
nghiên cứu trên thân nhiệt người bình thường, để nhanh chóng cho việc
tính toán người ta thay vào các giá trị hằng định, công thức được xác định
lại là:
61 C (5.11)
UC = log 2
Z C1
Như trên ta thấy dưới ảnh hưởng của gradient nồng độ và gradient
điện thế mà các ion khuyếch tán qua màng với tốc độ khác nhau. Nói cách
khác mỗi loại ion có d? linh động khác nhau. Do sự khuyếch tán của mỗi
loại ion khác nhau, nên giữa hai lớp dung dịch có nồng độ khác nhau thì
lớp điện tích kép xuất hiện cũng có giá trị khác nhau. Hiệu điện thế hình
thành nên do sự khyếch tán của từng loại ion, đã tạo thành các pha hoà tan
trong mỗi dung dịch. Hiệu điện thế này được gọi là hiệu điện thế pha
khuyếch tán (UKT) được xác định :
RT ν + − ν − C 2 (5.12)
U KT = ln
ZF ν + + ν − C1
với ν+ , ν- là độ linh động của các ion dương và ion âm
Hiệu điện thế pha (khuyếch tán) tồn tại trong một thời gian rất
ngắn cho đến khi có sự phân bố đồng đều trở lại các ion âm và ion dương
92
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
trong toàn bộ thể tích dung dịch. Đối với dịch sinh vật có dạng là một hệ
điện ly rất phức tạp, nên việc ứng dụng công thức này vào hệ thống sống
cũng gặp phải rất nhiều khó khăn vì tồn tại nhiều đại phân tử ion hoá khác
nhau.
Để hiểu rõ bản chất sự phân bố các loại ion trong cân bằng trên, ta
khảo sát thí nghiệm dưới đây:
Dung dịch Protein cho vào bình thứ nhất RCl, đ ược ion R+ là các
proteine mang điện tích dương có kích thước lớn không qua được màng
ngăn cách giữa hai bình. Bình thứ 2 chứa dung dịch muối NaCl, các ion
Na+ và Cl- có thể dễ dàng qua màng. Bình thứ nhất có nồng độ C1, bình
thứ hai có nồng độ C2. Ở trạng thái ban đầu các ion được phân bố trong
mỗi bình như sau:
[R+]1 = [Cl-]1 = C1
[Na+]2 = [Cl-]2 = C2 (5.13)
Có thể biểu diễn sự phân bố các loại ion ở hai bình (1) và (2) chứa
dung dịch RCl và NaCl có nồng độ ban đầu là (C1) và (C2) . Hai bình (1)
và (2) ngăn cách nhau bằng một màng ở giữa như mô hình dưới đây:
93
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
(RCl)
(NaCl)
R+ (C1)
Na+ (C2)
Cl- (C1)
Cl- (C2)
(1)
Hình 5.2 : Sơ đồ phân bố ion ở hai phía màng trong trạng thái ban đầu.
Giả sử sau một thời gian ngắn, sẽ có một lượng ion Na+ và Cl- đi
qua màng với nồng độ X. Như vậy đã có sự di chuyển của Na+ và Cl- từ
bình (2) sang bình (1). Bây giờ ta thấy nồng độ của mỗi loại ion ở hai phía
màng được phân bố trở lại trong quá trình cân bằng mới ở trạng thái tiếp
theo, được mô tả như sơ đồ dưới đây:
(RCl)
(NaCl)
R+ (C1)
Na+ (X)
Na+ (C2-X)
Cl- (C1+X) Cl-
(C2-X)
(1)
Hình 5.3 : Sơ đồ phân bố ion ở hai phía màng ở trạng thái cân
bằng mới
Để tránh tình trạng tích tụ điện tích dương về một phía, nên sự di
chuyển thường xảy ra một cách đồng thời với cả hai loại ion Na+ và Cl- .
Sự dịch chuyển của các ion chỉ tạm dừng lại khi tiến đến trạng thái cân
bằng :
[Na+]1 [Cl-]1 = [Na+]2 [Cl-]2 (5.14)
94
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Cân bằng mới này được gọi là trạng thái cân bằng Donnan
(Donnan equilibrium). Đặc điểm của trạng thái này là khi cân bằng diễn
ra, trong mỗi ngăn đều có sự trung hoà về điện:
Ở trạng thái sau là trạng thái mà hệ tiến tới sự cân bằng động. Khi
trạng thái cân bằng xảy ra, nếu thay các giá trị (5.15) vào phương trình
(5.14) ta được:
(C2 - X )2 = (C1 + X ) X
C 22 (5.16)
X =
C1 + 2C 2
Khảo sát trong các trường hợp đặc biệt, từ phương trình trên ta
thấy:
*Nếu nồng độ ion R+ hay Cl- lúc đầu rất bé (C1 << C2 ), thì có thể
xem như nồng độ C1 rất loãng so với C2 (C1 ≈ 0), nên cơ chất đã vận
chuyển qua màng trong trường hợp này là:
X = C2 / 2 (5.17)
*Nếu ion R+ hay Cl- ở môi trường bên trong rất lớn (C1 >>C2 )
so với môi trường bên ngoài, thì cơ chất khuyếch tán qua màng xem như
không đáng kể:
X ≈0 (5.18)
*Nếu nồng độ dung dịch hoà tan giữa hai môi trường cân bằng
nhau (C1 = C2 ) thì :
X = C2 / 3 (5.19)
Từ các trường hợp trên ta có nhận xét là: Khi tế bào tiếp xúc với
dung dịch chất điện ly có cùng loại và với gốc proteine là đại phân tử ion
chính của tế bào, thì trong tất cả các trường hợp đều có một lượng chất
nhất định đi vào tế bào. Dưới ảnh hưởng của quá trình vận chuyển đã làm
cho áp suất thẩm thấu phía bên trong của tế bào luôn luôn có giá trị lớn
hơn so với môi trường xung quanh.
phân bố không đồng đều các ion ở trạng thái cân bằng Donnan. Hiệu điện
thế đó được gọi là hiệu điện thế màng (Um).
Theo thí dụ trên ta thấy, khi cân bằng diễn ra thì phương trình cân
bằng Gibbs -Donnan cho ta:
[Na+]1 [Cl-]1 = [Na+]2 [Cl-]2
Lúc đó, phương trình hiệu số điện thế điện hoá của Nernst được
viết lại cho hiệu điện thế màng là:
RT [ Na + ] 2 RT [Cl − ]1
Um = ln = ln (5.21)
ZF [ Na + ]1 ZF [Cl − ] 2
Điện thế tĩnh hay còn gọi là điện thế nghỉ. Đó là điện thế đặc trưng
cho trạng thái sinh lý bình thường của đối tượng sinh vật. Nói cách khác,
điện thế này cũng đặc trưng cho tính chất điện của hệ thống sống ở trạng
thái trao đổi chất bình thường.
Điện thế tĩnh chính là hiệu điện thế bình thường tồn tại ở hai phía
màng, được xác định bằng cách ghi đo sự chênh lệch hiệu thế giữa tế bào
chất và dịch ngoại bào. Có thể tiến hành thí nghiệm như dưới đây.
1. Thí nghiệm.
Để khảo sát sự biến đổi dòng điện và đo hiệu điện thế màng của
một tế bào (mô sống hay một sợi thần kinh...) nào đó, thông thường ta hay
sử dụng phương pháp ghi đo vi điện cực nội bào.
Thí nghiệm được tiến hành như hình 5.4 (a,b,c) dưới đây:
96
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
( ( (
a b c
Hình 5.4: Ghi đo điện thế nghỉ.
a) Đặt hai điện cực phía ngoài màng sinh học.
b) Đặt một điện cực bên ngoài và một vi điện cực xuyên
qua màng.
c) Cắm hai vi điện cực xuyên qua màng.
Ghi đo bằng cách đặt hai điện cực trên bề mặt sợi thần kinh, ta
thấy kim điện kế ở đồng hồ đo dòng điện không lệch khỏi điểm không.
Điều đó chứng tỏ không có sự chênh lệch điện thế giữa chúng (hình 5.4a).
Nếu đặt một điện cực ở phía bên ngoài màng và một vi điện cực
cắm xuyên qua màng, ta thấy giữa hai điện cực này có xuất hiện một hiệu
điện thế (hình 5.4b).
Còn khi chọc cả hai vi điện cực xuyên qua màng thì ta cũng thấy
kim điện kế vẫn chỉ giá trị không. Điều đó chứng tỏ giữa hai điện cực
không có một sự chênh lệch điện thế nào. (Hình 5.4c).
Kết quả thí nghiệm trên cho thấy:
Giữa mặt ngoài tế bào không bị tổn thương và môi trường bên
ngoài không có sự chênh lệch điện thế. Ngược lại giữa phần bên trong tế
bào và môi trường bên ngoài luôn luôn tồn tại một hiệu điện thế nào đó.
Sự chênh lệch điện thế này được gọi là điện thế nghỉ hay điện thế tĩnh của
màng (Resting membrane potential).
2. Đặc điểm.
Điện thế nghỉ có hai đặc điểm như sau:
- Mặt trong tế bào sống luôn luôn có giá trị điện thế âm so với mặt
bên ngoài. Nói cách khác chiều điện thế nghỉ là không đổi.
- Bình thường điện thế nghỉ có giá trị điện thế biến đổi rất chậm
theo thời gian.
Bằng các phương pháp và kỷ thuật ghi đo tốt, ta có thể duy trì
dòng điện này trong một thời gian dài. Độ lớn điện thế giảm chậm theo
thời gian. Giá trị này chỉ giảm đi khi chức năng của tế bào, hay của sợi cơ
bắt đầu xuất hiện.
97
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ở các loại tế bào khác nhau thì điện thế nghỉ cũng có giá trị khác
nhau. Giá trị này thay đổi trong khoảng từ -10mV đến -100mV. Sự chênh
lệch điện thế tồn tại giữa các phần khác nhau trong một hệ sinh vật cũng là
một trong những yếu tố đặc trưng cho cơ thể sống.
chênh lệch nào về điện thế. Nói cách khác, ở trạng thái sinh lý bình
thường ta thấy có sự phân bố điện tích ban đầu ở hai phía màng sinh học.
Nếu khi các tế bào (mô) bị tổn thương, sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình
vận chuyển chất, mà cụ thể là sự trao đổi các chất qua màng tế bào. Nói
tóm lại, sự tổn thương đối tượng sống mà cụ thể như tế bào (mô, cơ,..) đã
làm thay đổi trạng thái chức năng của tế bào hay sẽ làm thay đổi trạng thái
sinh lý bình thường của các đối tượng nghiên cứu.
của tác nhân kích thích nào đó, tế bào sẽ dễ dàng bị thay đổi tính chất hoá
lý của màng.
Khi có sóng hưng phấn truyền đến, dấu hiệu điện tích ở hai phía
màng tế bào bị đảo ngược hẳn lại so với giá trị điện thế nghỉ lúc ban đầu.
Hiệu điện thế này xuất hiện là do có sự chênh lệch về giá trị điện thế giữa
hai phía của màng. Lúc này giá trị của điện thế ở mặt bên ngoài sẽ âm hơn
so với điện thế mặt bên trong của nó. Để xác định điện thế hoạt động,
thông thường ta sử dụng các kỹ thuật ghi đo vi điện cực nội bào. Có thể
tiến hành khảo sát sự xuất hiện điện thế hoạt động bằng hai phương pháp
như dưới đây:
1. Phương pháp 2 pha.
Có thể tiến hành khảo sát trên sợi thần kinh được kích thích tại ví
trí (1), hai điện cực đặt tại hai vị trí (2) và (3) trên mặt sợi thần kinh. Theo
dõi sự biến đổi giá trị điện thế của chúng qua một điện kế G nhạy nối giữa
hai điện cực như hình (5.5):
U = U =
0 60V
(a) (b)
Nếu dùng một tác nhân nào đó kích thích sợi thần kinh tại vị trí
(1); thì theo quan niệm cổ điển sẽ có một sóng hưng phấn mang điện tích
âm truyền dọc theo sợi thần kinh.
- Khi sóng kích thích lan truyền đến vị trí (2) thì giữa hai điện cưc
đặt tại vị trí (2) và (3) sẽ xuất hiện một giá trị hiệu điện thế U nào đó,
khoảng 60 mV (hình 5.5b)
- Sóng kích thích lan dần về vị trí (3) thì hiệu điện thế này giảm
dần và tiến gần đến giá trị điện áp bằng không (U = O mV) khi sóng hưng
phấn ở trong vùng giữa vị trí (2) và (3). Khi sóng kích thích tiến tới vị trí
(3) thì hiệu điện thế giữa hai cực biến đổi về phía điện thế âm (hình 5.5c).
- Khi sóng kích thích truyền đến vị trí (3) thì điện thế âm này đạt
giá trị điện áp tới hạn (Uth) (Uth = -60 mV) như hình 5.5d.
- Khi sóng rời khỏi vị trí (3) thì hiệu điện thế giữa hai điện cực trở
về lại giá trị U bằng không như ban đầu. Theo dõi đặc tuyến biến đổi theo
thời gian ta được dạng điện thế hoạt động như (hình 5.6):
Ub
0 t
Ud
Hình 5.6: Đặc tuyến biến đổi của điện thế hoạt động hai pha
theo thời gian
U = - U =
60V 0
(a) (b)
Hình 5.7: Sơ đồ ghi đo điện thế hoạt động một pha trên sợi thần kinh.
a) Kích thích tại vị trí (1).
b) Sóng kích thích truyền đến vị trí (2).
c) Sóng kích thích truyền đến vị trí (3).
- Khi chưa kích thích, giữa điện cực (2) và vi điện cực (3), có xuất
hiện một sự chênh lệch điện thế, đó là điện thế nghỉ của sợi thần kinh.
Điện thế này có giá trị khoảng - 60mV đến - 100mV.
- Khi kích thích tại vị trí (1), sóng hưng phấn lan truyền đến vị trí
(2) thì hiệu điện thế này tăng dần lên từ giá trị điện thế âm đến giá trị
không. Hiệu thế này tăng nhanh và đạt tới giá trị cao nhất tại điện thế
không (U = 0) khi sóng hưng phấn đến vị trí (2) (hình 5.7b).
- Khi sóng hưng phấn truyền từ vị trí (2) đến (3) thì hiệu điện thế
hoạt động một pha giảm trở lại về điện thế nghỉ như lúc đầu (-80mV)
Vậy điện thế hoạt động một pha chính là sự biến đổi nhanh chóng
của điện thế ngh ỉ dưới tác dụng của một tác nhân kích thích nào đó.
Dạng điện thế hoạt động một pha biến đổi theo thời gian trong thí
nghiệm trên một sợi thần kinh, được biểu diễn như (hình 5.8):
102
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
U(mV
)
0
-
40
-
80 t
a b c
Hình 5.8: Đặc tuyến biến đổi của điện thế hoạt động một pha
theo thời gian.
40
20 Càõm vi
âiãûn cæûc
O
A B
’ ’
-
20
-
40
- C D
60 A
-
Hình 5.9:80
Các giai đoạn biến đổi của điện thế hoạt động
103
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Điện thế hoạt động có các giai đoạn biến đổi là:
+ Giai đoạn khử cực (Depolarization), đoạn AA’. Lúc này hiệu
điện thế ở hai phía màng biến đổi từ giá trị điện thế nghỉ (U nghỉ) đến
điểm có điện thế bằng không (U = 0 mV)
+ Giai đoạn quá khử cực, đoạn A’BB’. Trong giai đoạn này hiệu
điện thế ở hai phía màng vượt quá giá trị điện thế không, tiếp tục biến đổi
về phía có điện thế dương.
+ Giai đoạn phân cực lại (Repolarization), đoạn B’C. Đó là giai
đoạn mà hiệu điện thế ở hai phía màng giảm trở lại về giá trị điện thế nghỉ.
+ Giai đoạn quá phân cực, đoạn CD. Giai đoạn này ứng với lúc
hiệu điện thế ở hai phía màng có giá trị âm hơn điện thế nghỉ.
Nếu kích thích có cường độ đủ lớn ta nhận thấy rằng:
- Trong thời gian xuất hiện pha lên (nhánh lên) điện thế màng vượt
quá giá trị điện thế không, ta thấy có sự đảo cực của điện thế màng.
- Trong pha xuống (nhánh xuống), màng có sự phân cực lại. Điện
thế hoạt động ở pha này phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai điện cực và
phụ thuộc nhiều vào tốc độ dẫn truyền hưng phấn.
Các nghiên cứu của Erlange và Gatse đã chứng minh rằng: -Điện
thế hoạt động ghi được từ một thần kinh là tổng các điện thế lan truyền
trên các sợi tơ cơ cấu tạo nên sợi trục thần kinh đó (hình 5.10)
U
(mV)
10
0
50
0 0, 1, t
2,
4 2 4 (ms)
Hình 5.10: Điện thế hoạt động của tơ cơ và sợi thần kinh.
Từ đặc tuyến trên, tác giả đã giải thích cho ta thấy rằng:-Có sự tương
ứng giữa giá trị điện thế hoạt động ghi đo được trên sợi của thần kinh của
104
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
mèo (nét đứt) và điện thế hoạt động xuất hiện ghi đo được trên từng sọi tơ
thần kinh tổng hợp nên sợi trục thần kinh đó (nét liền).
VI. Bản chất của điện thế tĩnh và điện thế tổn thương.
Để giải thích về cơ chế, bản chất và nguồn gốc của các loại điện
thế sinh vật, ta dựa vào một số giả thuyết, các lý thuyết ion cũng như một
số cách lý giải khác của các nhà khoa học:
Có nhiều quan điểm khác nhau để giải thích về sự hình thành điện
thế sinh học. Tuy nhiên lý thuyết mà đang được nhiều nhà khoa học chấp
nhận và có cơ sở vững chắc hơn cả, đó là “Lý thuyết ion màng”.
Theo thuyết này, trong quá trình hình thành điện thế sinh vật thì
các ion (đặc biệt là các ion Na+, K+, Cl-) ở trong dịch nội bào và bên ngoài
tế bào đóng vai trò quyết định. Cho đến nay lý thuyết này vẫn chiếm nhiều
ưu thế trong việc giải thích hiện tượng điện sinh vật. Dựa vào lý thuyết
trên, ta có thể giải thích về sự hình thành các loại điện thế sinh vật cơ bản.
Trước khi giải thích cơ chế hình thành điện thế nghỉ và điện thế tổn
thương, ta khảo sát sự phân bố các loại ion chính ảnh hưởng đến hiệu thế
màng. Ở trạng thái bình thường, có thể xác định được giá trị điện thế tĩnh
tương ứng với sự phân bố nồng độ ion ở hai phía màng. Chẳng hạn như sự
phân bố ion trong tế bào “cơ Mamalian” như (bảng 5.1):
Anion Anion
Cl- 120 Cl- 4 30 -90
HCO3- 27 HCO3- 8 3,7 -32
.. .. .. .. .. ..
Ion khác 7 A- 155
1. Nhận xét:
Khảo sát các thành phần tương tự như trên ở nhiều đối tượng
nghiên cứu khác nhau, như thần kinh ếch, tim chuột cống, cơ xương chó ..
.., ta thấy có sự phân bố không đồng đều của các loại ion ở hai phía màng.
Đặc biệt, đối với các loại ion Na+, K+, Cl- cho thấy tỷ lệ giữa các ion này
thường là:
- Ion K+ trong tế bào lớn hơn bên ngoài khoảng vài chục lần.
- Ion Na+ ở bên ngoài lớn hơn bên trong rất nhiều.
- Ion Cl- ở bên ngoài lớn hơn bên trong khoảng 30 lần.
Khi cân bằng Donnan điện thế tĩnh của màng tế bào động vật có
thể xác định bởi công thức:
RT [ K + ]0 RT [Cl − ]i (5.22)
US = ln = ln
ZF [ K + ]i ZF [Cl − ]0
Trong đó:
[K+]0 và [Cl-]0 là các nồng độ ion ở môi trường bên ngoài tế bào.
[K+]i và [Cl-]i là các nồng độ ion ở phía bên trong tế bào.
¾ Goldmann đã đưa ra giả thuyết là:
- Màng tế bào có tính đồng nhất về cấu trúc và điện trường tác
dụng lên màng tại mọi vị trí là không đổi.
- Dung dịch điện ly của các dịch sinh vật được coi như là dung
dịch lý tưởng.
- Màng có tính chất bán thấm nhưng không phải hoàn toàn tuyệt
đối, nghĩa là có thể cho ion này qua còn ion khác thì không thể
qua được. Để đặc trưng cho khả năng dịch chuyển của các ion
qua được màng nhiều hay ít, ta dùng đại lượng hệ số thấm (P)
cho từng loại ion.
- Các ion Natri cũng có tham gia vào quá trình hình thành nên
điện thế tĩnh này.
Do đó công thức về điện thế tĩnh được Goldmann xác định lại như
sau:
RT PK [ K + ] 0 + PNa [ Na + ] 0 + PCl [Cl − ] i
US = ln (5.23)
F PK [ K + ] i + PNa [ Na + ] i + PCl [Cl − ] 0
Trong đó: PK, PNa, PCl, là hệ số thấm đối với các ion Kali, Natri và
Clo. Những nghiên cứu gần đây đã xác định về sự hiện diện của ion Natri
tham gia vào quá trình hình thành điện thế màng. Bằng phương pháp đồng
vị phóng xạ đánh dấu đã cho ta kết quả như sau:
-Màng tế bào thấm tốt đối với ion K+ , Cl- và ít thấm đối với ion
Na+ (tốc độ dòng ion Natri vào khoảng 14. 10-12 mol/ cm2 /sec).
thể dễ dàng giải thích trên nhiều đối tượng khi mà điều kiện thí nghiệm
khá phức tạp.
Thật vậy lý thuyết ion màng cho rằng, các ion đều khuyếch tán qua
màng dưới ảnh hưởng của Gradient. Tuy nhiên khi nghiên cứu trên một số
động vật thì các ion Kali không phải hoàn toàn ở trạng thái tự do mà có
thể còn liên kết với các chất bên trong tế bào. Kết quả lý thuyết và thực
nghiệm khi khảo sát trên cơ ếch theo ba phương pháp được xác định như
(hình 5.13).
UM (mV)
0
Kãút quaí thæûc
-20 nghiãûm
Tênh theo
Goldmann
-40 Tênh theo Nernst
-60
-80
-
100 mM/ l
-
120 0, 1 5 10 50 100
5 [K+]O
Hình 5.13: Giá trị điên thế tĩnh của cơ ếch theo các phép đo
Nếu làm thay đổi nồng độ ion Kali ở môi trường bên ngoài cơ ếch
thì điện thế tĩnh đo được có sự sai khác nhau ít nhiều so với các kết quả
tính toán từ lý thuyết.
Tuy nhiên thuật ngữ “tế bào dễ hưng phấn” thông thường hay
được sử dụng đối với các loại tế bào thần kinh, cơ.. ..nghĩa là các đối
tượng này có khả năng đáp ứng ngay dưới tác dụng của nguồn kích thích.
Đáp ứng thay đổi do kích thích thường được biểu hiện bằng sự xuất hiện
108
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
một điện thế hoạt động. Về bản chất và cơ chế hình thành điện thế khá
phức tạp, dựa vào lý thuyết ion màng ta mới có thể giải thích một cách
hợp lý nhất.
a) Trạng thái nghỉ b)Trạng thái khử cực c)Trạng thái phân cực lại
- Ngay lập tức sau khi có sự khử cực khoảng một phần trăm giây
(milisecond), màng hầu như thấm hoàn toàn đối với các ion Na+.
Do mất cân bằng ion thì bơm Na+ và K+ xuất hiện đưa ion Na+
quay trở lại. Vì vậy tạo thành đã tạo sự cân bằng mới của các ion
giữa hai phía màng. Sự phân cực lúc đó của màng giống như sự
phân bố ion lúc ban đầu, nên giai đoạn này được gọi là giai đoạn
phân cực lại (hình 5.14c).
109
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
* Khảo sát đồ thị biểu diễn độ dẫn điện của ion Na+ và ion K+ ,
tương ứng như khi khảo sát đặc trưng tính thấm của màng, ta được kết quả
như (hình 5.15).
Ta thấy mọi sự khử cực màng đều làm tăng tính thấm của màng
đối với ion Na+ . Khi sự khử cực đạt tới một giá trị nào đó (ngưỡng khử
cực) thì tính thấm của màng đối với ion Na+ đột nhiên tăng vọt lên. Tương
ứng khi đó độ dẫn điện của màng đối với các ion Na+ cũng tăng lên hàng
ngàn lần. Sự gia tăng này chỉ tạm thời trong suốt thời gian rất ngắn,
khoảng một phần nhỏ của mili giây (ms).
Còn đối với ion K+ ta thấy lúc màng ở trạng thái nghỉ, độ dẫn điện
của ion K+ lớn gấp khoảng 100 lần đối với ion Na+. Nhưng trong giai đoạn
đầu hình thành điện thế hoạt động, độ dẫn ion K+ chỉ tăng lên khoảng 30
lần đến 40 lần trong khi độ dẫn đối với ion Na+ lại tăng lên hàng ngàn lần.
Vì tính thấm ion K+ xảy ra trễ hơn và kéo dài trong một thời gian
lâu hơn so với sự gia tăng của ion Na+. Các giai đoạn biến đổi trong điện
thế hoạt động thường không đồng bộ nhau, nên ta phải khảo sát điện thế
hoạt động dựa trên sự thay đổi về tỉ số độ thấm giữa chúng, nghĩa là dựa
vào giá trị:
PNa / PK
Hoặc tương ứng với sự thay đổi về tính thấm, ta cũng có thể khảo
sát sự biến đổi phụ thuộc theo tỉ số độ dẫn điện:
δNa / δK
110
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
60
40
Âiãûn
thãú 20
10 0
0
Âiãûn thãú hoaût -
âäüng 20
10
-
40
-
1 60
-
80
0, -
1 100
Tyí säú âäü
dáùn
0,0
1
0,00
1
10
0 PNa
10
PK
0,
1
0,0
1
0,00
1 ms
0 0, 1 1,
5 độ dẫn Na+, K+ màng
Hình 5.15: Biến đổi 5 tế bào tương ứng với sự
hình thành điện thế hoạt động (theo Hodgkim và Huxley).
111
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
+ Sự phát triển của giai đoạn khử cực: Trong giai đoạn này, thì độ
dẫn của ion Na+ tăng lên hàng ngàn lần, đồng thời khi đó độ dẫn của ion
K+ thay đổi không đáng kể. Kết quả đo được cho thấy có sự phân cực
ngược trở lại so với ban đầu. Lúc này độ dẫn của ion Na+ lớn hơn độ dẫn
của ion K+ khoảng 30 lần. Nói cách khác tính thấm của màng đối với ion
Na+ bây giờ lớn hơn nhiều so với ion K+.
Vì vậy điện thế màng trong giai đoạn này được xác định gần như
hoàn toàn bởi sự khuyếch tán của ion Na+ hơn là do bởi các ion K+.
Dựa vào công thức tính điện thế ion, ta được.
RT [ Na + ] 0 (3.24)
U Na = ln
ZF [ Na + ]i
Vậy khi tế bào ở trạng thái hưng phấn, màng tế bào bị khử đi dẫn
đến làm điện thế nghỉ giảm. Sự giảm điện thế nghỉ làm cho các ion Na+
chuyển động theo hướng gradient nồng độ vào tế bào một cách mạnh mẽ
hơn trước. Dòng điện do các ion này tạo ra càng bị khử cực mạnh, đó
chính là giai đoạn quá khử cực của màng (hình 5.14b).
ban đầu. Màng càng có giá trị điện thế âm hơn nhiều. Đồng thời với sự
phát triển của ion K+ lúc này khuyếch tán qua màng một cách hoàn toàn,
làm cho màng có sự phân cực nhiều hơn. Do đó điện thế phía trong màng
lúc này có giá trị âm hơn điện thế nghỉ bình thường. Giai đoạn hình thành
của điện thế hoạt động này chính là giai đoạn quá phân cực của màng tế
bào.
112
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Dựa vào công thức Nernst để xác định giá trị điện thế hình thành
trong giai đoạn phân cực lại (chủ yếu do K+ tạo nên), ta được:
RT [ K + ] 0
UK = ln (3.25)
ZF [ K + ] i
bệnh thần kinh, mạch máu, rối loạn chuyển hoá...Trong lâm
sàng, người ta còn sử dụng nguồn tác nhân kích thích để tạo các
kích thích điện, sốc điện (electric shock). Để thăm dò chức năng
hoạt động của cơ, thần kinh, trong nghiên cứu y học người ta
thường đưa ra các thông số như thời trị (Chronaxy), thời gian đáp
ứng hoặc để xác định về ngưỡng kích thích (Rhéobase) của các
đối tượng nghiên cứu.
- Dựa trên hiện tượng điện động để làm thay đổi tính chất hoá lý
của các tế bào, thay đổi quá trình trao đổi ion cũng như trao đổi
chất trong hệ thống sống. Tóm lại, ngày nay việc ứng dụng về
hiện tượng điện động trong Y-Sinh được sử dụng khá phổ biến
và đóng vai trò thiết yếu không thể thiếu trong việc chẩn đoán,
thăm dò và điều trị bệnh.
114
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 6
1. Điện thẩm.
Là sự chuyển động của các môi trường phân tán tới phía điện
cực cùng dấu với diện tích bề mặt của pha phân tán. Dựa vào sự dịch
chuyển của các ion trong điện trường ta dễ dàng phân tích một hỗn
hợp polime sinh vật bằng hiện tượng điện thẩm hay điện chuyển trên
băng ghi. Dịch sinh vật là các dung dịch điện ly có nhiều thành phần,
với độ hoà tan khác nhau. Do đó dưới tác dụng của điện trường
ngoài, các dung dịch loãng và các đại phân tử ion hoá có tốc độ dịch
chuyển khác nhau. Hiện tượng điện thẩm dễ dàng phân biệt được đó
là sự chuyển động của dòng chất lỏng, trong khi đó dòng chuyển
động của các hạt (phân tử và các đại phân tử ion hoá) là do hiện
tượng điện di tạo nên. Qúa trình điện thẩm có thể xảy ra trong nhiều
trường hợp và qua các tổ chức sinh học khác nhau, chẳng hạn như da
ếch, màng tế bào, thành động mạch, mao quản, vách mao mạch...
115
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Dựa vào giá trị hiệu số điện thế điện hoá của lớp điện tích kép
( ξ ), Smolukhovski đã đưa ra công thức để xác định tốc độ chuyển
động tương đối của các hạt giữa hai lớp là:
ξε (6.1)
v= E
4πη
Để thấy rõ điều này, ta tiến hành thí nghiệm như sau: -Dùng
một bình thuỷ tinh hai ngăn chứa dung dịch sinh lý, ngăn cách nhau
bằng một màng da ếch. Ở đây dung dịch sinh vật là các môi trường
phân tán, còn màng da ếch đóng vai trò để tạo ra các pha phân tán.
Hiện tượng xảy ra được biểu diễn như (hình 6.1) dưới đây:
Hình 6.1: Điện thế chảy xuất hiện qua các lỗ màng.
Nếu tăng áp suất ở nữa bình phía bên trái thì chất lỏng sẽ
chuyển động về bên phải bình, đồng thời giữa hai phía của bình sẽ
xuất hiện một hiệu điện thế. Điện thế mới hình thành đó chính là giá
trị của điện thế chảy. Sự chênh lệch điện thế ở hai bình là hiệu điện
116
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
thế đo được ở hai phía của màng ngăn cách hai dung dịch. Nguyên
nhân xuất hiện hiệu điện thế trên là do trạng thái cân bằng tĩnh điện bị
phá vỡ. Điện thế chảy cũng dễ dàng khảo sát được khi tiến hành thí
nghiệm với các dịch sinh vật và cho chuyển động qua các màng xốp
hay các màng bán thấm. Do đó, dựa vào hiện tượng đã trình bày trên,
thông thường người ta hay sử dụng các màng lọc để đo độ xốp của
các đối tượng nghiên cứu là các tổ chức sinh vật.
Hình 6.2: Điện thế lắng trong quá trình lắng máu
Quá trình chuyển động làm xuất hiện điện thế lắng của máu
có thể giải thích như sau: Hiện tượng lắng máu làm các ion dương
tách ra khỏi sự chuyển động của các thành phần hữu hình. Kết quả
thực nghiệm cho ta thấy rõ điều đó, các lớp dưới của dung dịch có
điện thế âm vì mang điện lượng âm, còn các lớp trên mang điện thế
dương vì có nhiều điện tích dương.
117
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Tất cả các hiện tượng điện động đều liên quan đến sự xuất
hiện hiệu điện thế giữa pha phân tán và môi trường phân tán.
Điện thế này còn được gọi là điện thế điện động hoặc Zeta
điện thế (ξ - điện thế). Thế điện động chỉ xuất hiện do quá trình
chuyển động của các pha trong hệ dị thể. Hiệu điện thế này được hình
thành trên ranh giới giữa màng dung môi cực mỏng (gọi là lớp hấp
phụ) trên bề mặt của hạt và toàn bộ phần chất lỏng còn lại của dung
dịch.
4. Điện di.
Điện di là phương pháp phân tích dựa trên sự dịch chuyển các
điện tích, phân tử nhiễm điện dưới tác dụng của trường lực điện
không đổi. Thông thường, ta sử dụng phương pháp điện di để tách
chiết các thành phần albumin, globulin trong huyết thanh; điện di
protéin (phức chất lipid với protéin); điện di glucoprotéin (xác định
các thành phần của protéin và glucid trong huyết thanh).
Năm 1937, Tiselius là người đầu tiên đã đưa ra phương pháp
điện di trong môi trường tự do để khảo sát sự hiện diện của protéin
trong huyết thanh. Sau Tiselius, Cremer ta thấy có nhiều nhà khoa
học khác như Durrum đã xây dựng lý thuyết về hiện tượng này một
cách tường minh. Trong hệ thống sống, các dịch sinh vật là các dung
dịch điện ly, thông thường là sự phân ly không tuyệt đối hoàn toàn.
Nếu gọi α là hệ số phân ly, với quá trình sinh vật thuận nghịch thì
phản ứng sẽ diễn ra như sau:
Thí dụ: Khảo sát sự hoà tan của Axit Acetic trong nước. Nếu
dung dịch có nồng độ C mol Axit Axetic khi hoà tan trong một lít
nước, ta có:
CH3 - COOH CH3COO- + H+
Và nồng độ phân tử gam là: C(1- α ) Cα Cα
Với α là hệ số phân ly.
Cα .Cα (6.2)
= Const.
C (1 − α )
α 2C
=K (6.3)
1−α
Với K là hằng số ion.
118
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Tốc độ của các loại ion là khác nhau, nên nếu gọi ν+ và ν- là
độ linh động của các ion dương và âm thì mật độ dòng điện là:
i (6.4)
= ne (ν + + ν − )
S
Với i là dòng điện bên ngoài,
S là tiết diện của vật.
Khi hạt mang điện có điện lượng q là các đại phân tử Protéin,
các hạt keo hay hạt mixen thì dưới tác dụng của điện trường E, chúng
sẽ dịch chuyển với vận tốc v. Còn khi lực điện trường (fe) mà cân
bằng với lực ma sát (fms) thì hạt sẽ chuyển động đều:
qE = k v (6.5)
v = qE/ k (6.6)
Trong đó k là hệ số ma sát phụ thuộc vào hình dạng, kích
thước phân tử hoà tan và độ nhớt của dung dịch.
Theo định luật Stock, ta có lực nội ma sát được xác định là:
Fms = 6πηrv (6.7)
Do hiện tượng nội ma sát xảy ra, khi quả cầu có bán kính r,
chuyển động tịnh tiến trong khối chất lưu, thì quả cầu sẽ kéo lớp chất
lưu ở gần mặt tiếp xúc với nó chuyển động theo. Vận tốc biến đổi
theo hướng chuyển động, được biểu diễn như (hình 6.3) dưới đây:
2/3
r
v
Hình 6.3: Lực tác dụng lên quả cầu bán kính r
chuyển động trong chất lưu
119
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Nếu đặt U là độ linh động điện di, thì theo định nghĩa:
U =ν/E =q/k
Khi điện trường E có giá trị bằng một đơn vị cường độ điện
trường thì:
U = ν.
ξε = q / r (6.10)
ν = ξε E / 6 πη (6.11)
Hay:
6 πη (6.12)
ξ = v
εE
Các tế bào động vật, các tổ chức sinh học trong hệ thống sống
là các đại phân tử phức tạp, đó là các hệ keo. Trong sinh vật ta thấy
có các polime cao phân tử như:
- Protéin tạo thành từ các mạch peptid của các axit amin
- Polisacarit là các polime của glucopirano
- Axit nucleid là các polime của nucléotid.
Thông thường, trên ranh giới giữa hai pha của hệ trong dịch
sinh vật có thể xuất hiện một hiệu điện thế do các lớp điện tích bề
mặt. Các điện tích tự do xuất hiện dưới sự phân ly ion trong các
nhóm chức của các đại phân tử.
NH2 NH3+
R R
Trong môi trường axit, các phân tử protéin đóng vai trò của
một ion dương:
NH3+ NH3+
R R
+ HCl + Cl-
Trong dung dịch kiềm, thì đại phân tử Protéin lại đóng vai trò
của một dạng ion âm:
NH2 NH2
R R
+ NaOH +Na+ +H2O
Tóm lại, các điện tích tự do tồn tại trên bề mặt các hạt có liên
quan đến pha phân tán. Sự xuất hiện điện tích trên bề mặt của các đối
tượng sinh vật có thể do hai cơ chế:
Trong một số các loại ion, ta thấy có sự xuất hiện của ion H+
hay OH-. Do cơ chế hấp phụ khác nhau mà điện tích bề mặt của các
đại phân tử sinh học có điện lượng khác nhau nhiều. Nói cách khác,
điện tích mặt ngoài có thể xác định được qua sự biến đổi độ pH của
dung dịch.
Trong thí dụ ở trên ta thấy, đối với môi trường toan (axit
mạnh) thì đại phân tử sinh học mang điện tích dương, ngược lại trong
môi trường kiềm (độ pH cao) thì đại phân tử sinh học lại mang điện
tích âm. Như vậy do hiện tượng điện chuyển mà dấu của điện tích
của các đại phân tử phụ thuộc vào độ pH của môi trường.
Do sự phân bố lại các điện tích ở hai pha phân tán trong dịch
sinh vật đã làm xuất hiện một thế điện động do lớp điện tích kép tạo
thành. Do quá trình ion hoá các nhóm chức trong phân tử mà một số
ion sẽ đi vào môi trường phân tán, những ion này gọi là những ion
nghịch.
Một số ion còn lại trong môi trường trên sẽ cố định trên các
hạt pha phân tán, chúng sẽ xác định dấu của điện tích bề mặt gọi là
ion tạo thế.
+ + +
+ + + + +
+ + + +
+ + Âaûi
+ phán +
+ + t+ í SH + + + + + + +
+ + + + + + +
+ + +
+ + +
+ + +
+ (a)Â (b)
+ +
+ +
Hình 6.4: Lớp điện tích kép trên bề mặt đại phân tử sinh học (a)
và trên màng tế bào (b).
Hai lớp điện tích kép trên cách nhau một khoảng d. Theo
Debye và Huxkey, ta có thể xác định được bề dày d của lớp điện kép
tại nhiệt độ 250C là:
3 ,. 5 (6.13)
d = (A0)
μ
Với μ là lực ion.
Theo lý thuyết này, lực ion có giá trị được xác định bằng nửa
tổng số các nồng độ (gam/lit) ion có mặt, còn nồng độ các thành phần
thì được tính bằng cách nhân với bình phương hoá trị nguyên tố
tương ứng.
Dưới tác dụng của điện trường ngoài E thì các đại phân tử
chịu tác dụng của lực tĩnh điện là:
123
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
F = qE (6.15)
Tác dụng của lực điện trường làm cho các đại phân tử dịch
chuyển với vận tốc v. Giả sử khi ion ở môi trường (lớp ngoài) không
chuyển động và ( là hệ số nhớt của môi trường thì độ lớn của lực điện
trường được xác định là:
v
Eq = η (6.16)
d
Từ (6.14) và (6.16), ta có:
ηv ε (6.17)
qd = = ξ
E 4π
Cấu tạo lớp điện tích kép cũng có thể biểu diễn theo sơ đồ
như (hình 6.5). Trong dung dịch điện ly, các ion tạo thế nằm trên bề
mặt hạt keo, còn các ion trái dấu thì được phân thành hai trường hợp
sau:
- Trường hợp thứ nhất là các hạt mang điện nằm gần bề mặt
hạt keo (cỡ kích thước phân tử) được giữ chặt cạnh bề mặt
hạt nhờ vào lực hấp phụ và được gọi là lớp hấp phụ.
- Trường hợp thứ hai là các hạt mang điện chuyển động tự do
dưới tác dụng nhiệt trong môi trường phân tán tạo thành lớp
khuyếch tán.
AB: là bề dày lớp phân tử, lớp này có bề dày d còn được
gọi là lớp hấp phụ
BC: là mặt phẳng riêng khi các phân tử, đại phân tử sắp
xếp trong điện trường.
124
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
A B C
+ - + + + - +
(a - + - +
- + - + - +
) - + - - -
- - - + + +
+ - + - +
- + + + -
- - + - +
- + - + - +
- + - -
- - + + + +
- -
(b
)
d
ξ
x
ra giữa lớp hấp phụ và lớp khuyếch tán. Hiệu điện thế giữa hai lớp
này được gọi là thế điện động hay ξ - điện thế. Do vậy trong sinh vật,
thế điện động bao giờ cũng có giá trị nhỏ hơn thế nhiệt động.
Tính chất môi trường ảnh hưởng nhiều đến giá trị của ξ - điện
thế. Chẳng hạn như khi thay đổi nồng độ ion trong môi trường phân
tán, nhiệt độ môi trường đã làm thay đổi khả năng hấp phụ ion. Do đó
thay đổi lớp điện tích kép làm cho giá trị ξ - điện thế thay đổi theo.
Đại lượng ξ - điện thế là một chỉ số vật lý đặc trưng cho hệ thống
sống. Dựa vào hệ số này có thể đánh giá trạng thái bệnh lý của các
đối tượng sinh vật.
Chẳng hạn như ở trạng thái bình thường, tế bào hồng cầu máu
người có giá trị khoảng 16,3 mv còn nếu có sự sai khác thì đó là dấu
hiệu của bệnh lý hoặc rối loạn về trạng thái chức năng.
Thật vậy đối với hồng cầu, ta thấy điện thế ξ phụ thuộc vào
điện tích tự do trên bề mặt tế bào. Các điện tích bề mặt hồng cầu lại
bị chi phối bởi mức độ ion hóa của các nhóm phân ly trong phân tử
photpholipit.
Nghiên cứu trên một số động vật, các số liệu ghi nhận được
cho thấy rằng: Các động vật khác nhau sẽ có thế điện động khác nhau
như bảng (6.1).
Bảng 6.1: Thế điện động của hồng cầu động vật trong dung
dịch đệm photphat pH=7.4 (đẳng trương).
(Theo: Nguyễn Thị Kim Ngân-Lý sinh học-ĐHQG Hà nội-2001)
Mèo 17.8
Chuột bạch 18.6
Chó 21.1
Các loài vi sinh vật thường có khả năng hấp phụ cao đối với
phân tử protéin cũng như các chất hữu cơ. Thật vậy trong dịch sinh
vật có các loại albumin, gelatin hoặc các sản phẩm phân huỷ từ tế
bào, sự hấp phụ trên bề mặt màng cũng khác nhau, do đó thế điện
động xuất hiện cũng có giá trị tương ứng. Ngoài ra sự hấp phụ bề mặt
còn phụ thuộc vào đối tượng, thành phần cũng như đặc điểm cấu trúc
bề mặt của chúng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 7
CƠ SỞ HÓA LÝ CỦA SỰ HƯNG PHẤN
I. Khái niệm hưng phấn và ngưỡng hưng phấn
* Khái niệm hưng phấn
Hưng phấn là sự chuyển từ trạng thái nghỉ ngơi sang trạng thái hoạt động. Hưng phấn bao
gồm hai cơ chế: Cơ chế tiếp nhận kích thích bởi các thụ quan và cơ chế chuyển tín hiệu
kích thích thành tín hiệu điện, truyền về não để xử lý thông tin và phát tín hiệu thực hiện
phản ứng trả lời. Tín hiệu kích thích rất đa dạng nhưng chủ yếu là tín hiệu vật lý (nhiệt, ánh
sáng, áp suất...) và tín hiệu hóa học (hoócmôn, mùi, vị...). Chức năng chuyển tín hiệu kích
thích thành tín hiệu điện (tức sóng hưng phấn) và dẫn truyền sóng hưng phấn do noron thực
hiện. Thực hiện phản ứng trả lời có thể là cơ quan, mô, tế bào và cả ở mức độ phân tử.
Trong hệ sinh vật, từ sinh vật đơn bào tới sinh vật đa bào tuy có mức độ tiến hóa khác xa
nhau nhưng đều tồn tại tính hưng phấn để thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống.
* Khái niệm ngưỡng hưng phấn
Cường độ
2 Reobaz G D
B
1 Reobaz A
O
C Thời gian
Thời trị
Thời gian có ích
Hình 7.1: Tương quan giữa cường độ và thời gian kích thích
Ngưỡng hưng phấn được xác định bằng cường độ nhỏ nhất và thời gian kích thích ngắn
nhất để có thể tạo nên sự hưng phấn. Cường độ nhỏ nhất kích thích để tạo ra được phản
ứng trả lời gọi là 1 reobaz. Thời gian ngắn nhất khi kích thích 1 reobaz để tạo ra được
phản ứng trả lời là thời gian có ích (xem hình 7.1). Trong thực nghiệm xác định thời gian
có ích rất khó nên Lapicque lấy thời gian ứng với 2 reobaz để đo ngưỡng thời gian kích
thích, gọi là thời trị. Đường biểu diễn tương quan giữa cường độ và thời gian kích thích là
đường hipecbol, ứng với phương trình do Weiss đưa ra năm 1901:
a
i= +b (7.1)
t
i: Cường độ ngưỡng
t: Thời gian ngưỡng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
a: Hằng số ứng với đường thẳng thời gian chạy song song với trục tung
b: Hằng số ứng với đường thẳng cường độ chạy song song với trục hoành
Nếu cường độ i = 2b, nghĩa là bằng 2 reobaz thì phương trình (7.1) sẽ có dạng:
a a a
2b = +b (7.2) → b= → t=
t t b
Thời trị thay đổi tùy theo mô. Ví dụ ở người thời trị của cơ duỗi dài gấp từ 1,5 đến 2 lần
so với cơ gập.
Cũng như thuyết đông tụ, thuyết phá hủy cấu trúc đưa ra chỉ là để giải thích về sự thay
đổi tính chất hóa lý của nguyên sinh chất, mới giải thích hiện tượng của quá trình hưng
phấn mà chưa giải thích được bản chất của quá trình hưng phấn.
tần số luôn là một hằng số. Các công thức trên do Nernst đưa ra chỉ đúng trong phạm vi
tần số 100 Hz đến 3 kHz.
Kết quả thực nghiệm cho thấy nếu kích thích cường độ dưới ngưỡng và kích thích lâu
hoặc kích thích cường độ lớn với thời gian kích thích ngắn thì đều không gây ra hưng
phấn. Ở mỗi đối tượng nghiên cứu khi kích thích cường độ dòng điện là 1 reobaz thì có
một thời gian kích thích cần thiết (thời gian hữu ích).
Bảng 7.1: Thời gian hữu ích của một số đối tượng nghiên cứu
thực nghiệm khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết Bernstein, tính bán thấm của màng
là nguyên nhân dẫn đến sự phân bố không đồng đều của các ion giữa bên trong và bên
ngoài màng tế bào nên đã tạo thành điện thế tĩnh. Sau này, năm 1942, Cuatite và Cole lại
chứng minh rằng K+ đóng vai trò chính trong việc duy trì điện thế tĩnh. Hai ông đã tăng
nồng độ K+ ở ngoại bào lên (tức làm giảm sự chênh lệch nồng độ K+ giữa bên trong và
bên ngoài màng tế bào) thì giá trị điện thế tĩnh cũng giảm dần. Khi nồng độ K+ ở bên
ngoài bằng nồng độ K+ ở bên trong tế bào thì điện thế tĩnh sẽ bằng không. Khi giảm dần
nồng độ K+ ở bên ngoài về giá trị như lúc ban đầu thì điện thế tĩnh lại được khôi phục.
Song nếu tăng nồng độ Na+ ở trong tế bào lên thì điện thế tĩnh vẫn không thay đổi. Khi bị
kích thích, tế bào đã chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái hưng phấn và tế bào bị đổi
cực, tức là bên trong tế bào có điện tích dương còn bên ngoài có điện tích âm. Khi tế bào
hưng phấn, Bernstein cho rằng màng tế bào đã mất tính bán thấm nên không còn phân
biệt tính thấm giữa K+ với Na+ và cho cả các anion hữu cơ thấm ra bên ngoài. Chính do
các anion hữu cơ thấm ra ngoài và các Na+ thấm vào trong dễ dàng hơn so với K+ thấm ra
ngoài đã làm cho tế bào bị đổi cực. Sau này thực nghiệm đo được giá trị tuyệt đối của
điện thế hoạt động lớn hơn giá trị tuyệt đối của điện thế tĩnh nhưng theo giả thuyết của
Bernstein thì không giải thích được bản chất của hiện tượng này. Ví dụ noron thần kinh
lúc nghỉ ngơi có điện thế tĩnh là -90mV còn khi hưng phấn có điện thế hoạt động từ 120
đến 130mV. Năm 1949, Hodgkin và Katz đã làm thí nghiệm chứng minh rằng khi noron
hưng phấn tính thấm của màng đối với Na+ vào trong tế bào tăng lên 500 lần so với khi
noron nghỉ ngơi. Ngược lại, khi noron nghỉ ngơi màng tế bào cho K+ thấm ra ngoài lại
nhanh gấp 76 lần so với Na+ thấm vào trong tế bào.
Sau này Goldman đưa ra công thức để tính điện thế tĩnh và điện thế hoạt động. Mỗi ion
có một hệ số thấm đặc trưng. Khi noron nghỉ ngơi, nếu lấy tính thấm của màng đối với
K+ làm đơn vị so sánh và qui ước PK+ =1 thì tính thấm của màng đối với Na+ là PNa+ =
0,013 còn tính thấm của màng đối với Cl- là PCl-_= 0,045. Cùng với việc xác định nồng độ
K+, Na+, Cl- ở bên ngoài và bên trong noron lúc nghỉ ngơi, thay các giá trị đã biết vào
công thức Gondman sẽ tính được điện thế tĩnh bằng -89mV. Khi noron hưng phấn nếu
vẫn lấy PK+ = 1 làm đơn vị để so sánh thì PNa+ = 20, PCl- = 0,045. Cũng xác định nồng độ
K+, Na+, Cl- ở bên trong và bên ngoài noron lúc hưng phấn, thay các giá trị đã biết vào
công thức Goldman sẽ tính được điện thế hoạt động bằng 38mV. Khi noron hưng phấn,
điện màng đã chuyển từ -89mV lên 38mV, do vậy giá trị tuyệt đối của điện thế hoạt động
phải là |-89mV|+38mV=127mV. Như vậy, bản chất của hiện tượng điện thế hoạt động có
giá trị tuyệt đối lớn hơn giá trị tuyệt đối của điện thế tĩnh. Khi ngừng kích thích, màng
noron sẽ khôi phục lại tính bán thấm để duy trì sự chênh lệch về nồng độ ion giống như
lúc ban đầu, tức là duy trì điện thế tĩnh.
Lý thuyết màng của Bernstein chưa đề cập đến vai trò của các ion hóa trị hai như Ca++,
Mg++... Nhiều kết quả thực nghiệm đã xác định vai trò của Ca++ trong quá trình hình
thành điện thế sinh vật. Một số nhà khoa học giả thiết rằng, ở trên màng tế bào có các
kênh dẫn "nhanh" và "chậm" đối với các ion. Khi tế bào hưng phấn, các kênh dẫn
"nhanh" cho dòng Na+ vào trong tế bào để khử cực tế bào (tức đổi dấu điện tích âm sang
dương). Sau đó các kênh dẫn "chậm" tiếp tục cho Na+ và Ca++ vào trong tế bào để kết
thúc quá trình khử cực (tức là xuất hiện điện thế hoạt động).
Lý thuyết màng của Bernstein, mặc dù đã được các nhà khoa học bổ sung nhưng vẫn
chưa đầy đủ. Do vậy, vấn đề này vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
VI. Lý thuyết hưng phấn của Laxarev
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Năm 1887, Ringer là người đầu tiên phát hiện dung dịch đẳng trương NaCl có cho thêm
KCl và CaCl2 theo một tỷ lệ nhất định, giữ cho cơ ếch có phản xạ co cơ giống như trong
cơ thể còn nguyên vẹn trong thời gian lâu hơn nhiều so với cơ ếch chỉ ngâm trong dung
dịch đẳng trương NaCl. Sau này Zac và Lob tiến hành thí nghiệm trên trứng cá Fundulus
thấy rằng: Trứng không nở trong dung dịch chỉ có NaCl. Nếu dùng dung dịch CaSO4 có
nồng độ xác định để thêm vào dung dịch NaCl với một tỷ lệ thích hợp, tạo ra sự tương
quan tối ưu giữa các ion thì trứng cá Fundulus sẽ đạt tỷ lệ tạo thành phôi cao nhất là 75%.
Sau này tiếp tục có nhiều số liệu thực nghiệm chứng minh rằng noron thần kinh chỉ có
thể hưng phấn khi trong bào tương của sợi trục có cả ion hóa trị một và ion hóa trị hai.
Từ những kết quả nghiên cứu trên, Laxarev đã đưa ra lý thuyết ion về sự tương thích
hoặc đối kháng giữa một số ion. Ông cho rằng, khi tế bào ở trạng thái nghỉ ngơi sẽ duy trì
tỷ lệ giữa ion hóa trị một và ion hóa trị hai ở một giá trị xác định và không thay đổi:
C1
= hằng số (7.6)
C2
C1: Nồng độ ion hóa trị 1
C2: Nồng độ ion hóa trị 2
Khi kích thích, tỷ số này bị thay đổi dẫn đến sự hưng phấn nếu tỷ số này tăng hoặc dẫn
tới sự ức chế hưng phấn nếu tỷ số này giảm.
Lý thuyết hưng phấn của Laxarev giải thích được kết quả thí nghiệm của Flygn. Đó là
hiện tượng kích thích bằng dòng điện một chiều, khi đóng mạch thì hưng phấn xuất hiện
ở cực âm còn cực dương thì bị ức chế. Ngược lại khi ngắt mạch, hưng phấn lại xuất hiện
ở cực dương còn cực âm lại bị ức chế. Laxarev giải thích như sau: Khi đóng mạch, các
ion dương sẽ rời khỏi cực dương về phía cực âm theo hướng của điện trường. Ion dương
hóa trị một linh động hơn so với ion dương hóa trị hai cho nên tập trung ở cực âm nhiều
hơn. Do vậy, ở cực âm tỷ lệ giữa ion hóa trị một trên ion hóa trị hai tăng lên, dẫn đến
hưng phấn xuất hiện ở cực âm. Ngược lại ở cực dương, các ion dương hóa trị hai rời
chậm nên có nồng độ cao hơn so với ion dương hóa trị một đã rời nhanh làm cho tỷ lệ ion
hóa trị một trên ion hóa trị hai giảm xuống gây ra sự ức chế hưng phấn ở cực dương. Khi
ngắt mạch, không còn dòng điện kích thích, các ion sẽ trở về trạng thái phân bố như lúc
ban đầu (lúc chưa kích thích). Các ion dương lại di chuyển từ cực âm về phía cực dương.
Ion dương hóa trị một bị ít phân tử nước bao quanh so với ion dương hóa trị hai nên ion
dương hóa trị một dễ dàng thoát ra khỏi các phân tử nước bao quanh hơn ion hóa trị hai.
Tại cực dương, tỷ lệ ion dương hóa trị một trên ion dương hóa trị hai tăng lên, dẫn đến
hưng phấn lại xuất hiện ở cực dương. Ngược lại, ở cực âm, các ion dương hóa trị hai rời
chậm nên lại có nồng độ cao hơn so với ion dương hóa trị một đã rời nhanh làm cho tỷ lệ
ion hóa trị một trên ion hóa trị hai giảm xuống, gây ra sự ức chế hưng phấn tại cực âm.
Lý thuyết hưng phấn của Laxarev chưa đưa ra cụ thể ngưỡng về tỷ lệ giữa ion hóa trị một
và ion hóa trị hai khi tế bào ở trạng thái nghỉ ngơi bằng bao nhiêu? Để từ đó biết được khi
có kích thích dẫn đến tỷ lệ ion hóa trị một trên ion hóa trị hai đạt giá trị vượt ngưỡng sẽ
gây ra hưng phấn còn bằng hoặc nhỏ hơn ngưỡng sẽ không gây ra sự hưng phấn. Vấn đề
này các nhà khoa học đang tiếp tục nghiên cứu nhất là về vai trò cụ thể của ion hóa trị hai
để bổ sung cho quan điểm của Laxarev.
VII. Cơ chế dẫn truyền sóng hưng phấn trong dây thần kinh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Thí nghiệm của Hodgkin và Katz đã chứng minh dòng điện hưng phấn xuất hiện trong
dây thần kinh khi bị kích thích có bản chất ion. Hodgkin và Katz cũng chỉ rõ K+ có vai
trò chính trong việc duy trì điện thế tĩnh còn Na+ lại có vai trò chính trong việc hình
thành nên điện thế hoạt động (tức sóng hưng phấn). Tùy thuộc vào bản chất của dây thần
kinh như có mielin bao bọc hay không, đường kính sợi trục, chức năng của noron mà có
tốc độ dẫn truyền sóng hưng phấn khác nhau (xem bảng 7.2).
Bảng 7. 2: Kiểu sợi thần kinh và tốc độ dẫn truyền sóng hưng phấn trong dây thần kinh
Đường Tốc độ truyền (m/s)
Kiểu sợi kính sợi Biến nhiệt Đồng nhiệt Chức năng
(μ) (20oC) (37oC)
Anpha 10-20 20-40 60-120 Sợi vận động cơ
Beta 7 - 15 15-30 40 - 90 Sợi thụ cảm (sờ mó)
Gamma 4-8 8 - 15 30 - 45 Sợi hướng tâm từ cơ
Denta 2,5-5 5-9 15 - 25 Sợi thụ cảm da (nóng, lạnh)
B 1-3 2-6 3-5 Sợi tiền hạch dinh dưỡng
C 0,3-1,5 0,3 - 0,8 0,5 - 2 Sợi hậu hạch giao cảm
Kết quả ở bảng 7.2 cho thấy động vật đồng nhiệt (chim, thú, người) có tốc độ dẫn truyền
sóng hưng phấn trong dây thần kinh nhanh hơn so với động vật biến nhiệt (ếch, cá, lưỡng
thê). Các sợi thần kinh dẫn truyền cảm giác đau đớn có tốc độ dẫn truyền chậm nhất (0,7-
1,3m/s), các sợi hướng tâm dẫn truyền cảm giác sờ mó, có tốc độ cao hơn đạt 50m/s còn
các sợi vận động có tốc độ dẫn truyền nhanh nhất đạt tới 160m/s.
Sợi trục thần kinh cũng là một dây dẫn điện và nếu là sợi trần (không có mielin bao bọc)
thì dịch bào tương bên trong sợi trục có điện trở là Rt còn màng noron có điện trở là Rm.
Đối với dây thần kinh có mielin bao bọc và do mielin là một chất cách điện rất tốt nên
noron chỉ tiếp xúc với môi trường ngoài qua eo Ranvie. Khi đó noron chỉ tiếp nhận kích
thích qua eo Ranvie và dòng điện hưng phấn cũng chỉ bị suy giảm do truyền điện ra bên
ngoài qua eo Ranvie. Khi bị kích thích sẽ xuất hiện xung điện thế hoạt động tại điện cực
kích thích (cực âm) và được ký hiệu là Vo. Do bị tiêu hao một phần năng lượng điện để
thắng điện trở trong của bào tương sợi trục và bị rò điện qua màng noron nên giá trị của
điện thế hoạt động bị giảm dần. Điện trở trong của bào tương càng nhỏ thì điện thế hoạt
động bị giảm càng ít và điện trở màng noron càng lớn thì điện thế hoạt động cũng bị giảm
càng ít. Ngược lại điện trở trong của bào tương lớn thì điện thế hoạt động bị giảm nhiều
và điện trở màng noron nhỏ thì điện thế hoạt động bị giảm càng nhiều. Các nhà khoa học
đã xác định được giá trị điện thế hoạt động sau khi phát sinh là Vo, truyền theo sợi trục
thần kinh quãng đường là x có giá trị là Vx được tính theo công thức:
−x
Rm
Rt
Vx=Vo. e (7.7)
Rm: Điện trở màng noron tỷ lệ thuận với điện trở riêng của 1cm2 màng (kí hiệu là rm) và
tỷ lệ nghịch với bán kính sợi trục thần kinh (kí hiệu là r).
rm
Rm = (7.8)
2πr
Rt : Điện trở trong của bào tương cũng tỷ lệ thuận với điện trở riêng của 1cm3 bào tương
(kì hiệu là rt) và tỷ lệ nghịch với bình phương bán kính sợi trục (r).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
rt
Rt = (7.9)
πr 2
Các nhà khoa học đã tính được ở động vật thuộc lớp thú, sợi trục dây thần kinh có
mielin bao bọc có bán kính r =15μm, rm = 5000Ω/cm2 và rt =50Ω/cm3, điện thế
hoạt động Vo truyền được 1mm (là khoảng cách giữa 2 eo Ranvie) còn lại giá trị Vx được
tính theo công thức:
Vx = Vo.0,5 (7.10)
Nếu điện cực kích thích đặt ở eo Ranvie thứ nhất (gọi là Ranvie 1) làm phát sinh điện thế
hoạt động là Vo=100mV khi truyền đến eo Ranvie thứ hai (gọi là Ranvie 2) theo công
thức (7.10) sẽ còn 50mV. Thực nghiệm xác định eo Ranvie có ngưỡng kích thích điện là
20mV. Do đó, dòng điện hưng phấn, tức điện thế hoạt động phát sinh ở eo Ranvie 1 có
giá trị là 100mV khi truyền đến eo Ranvie 2 còn 50mV đã kích thích eo Ranvie 2 phát
sinh điện thế hoạt động cũng có giá trị 100mV. Cứ lặp lại như vậy, dòng điện hưng phấn
hay các xung điện thế hoạt động có độ lớn 100mV được truyền đi theo noron cảm giác về
hệ thần kinh trung ương để phát tín hiệu truyền theo noron vận động đến mô hay cơ quan
thực hiện phản ứng trả lời.
Đối với dây thần kinh không có mielin bao bọc, khi kích thích một vùng nào đó thì tại
vùng đó màng mất phân cực rồi đảo cực nên có điện tích trái dấu với vùng xung quanh
còn đang ở trạng thái tĩnh (xem hình 7.1). Tại vùng hưng phấn xuất hiện dòng điện hưng
phấn nó lại kích thích vùng lân cận và lại tạo ra dòng điện hưng phấn mới giống như
dòng điện hưng phấn phát sinh tại vùng bị kích thích. Sự xuất hiện của dòng điện hưng
phấn sau khi bị kích thích cứ lan truyền như vậy trên suốt chiều dài của dây thần kinh
một cách liên tục. Vì vậy, tốc độ dẫn truyền của dòng điện hưng phấn trong dây thần kinh
không có mielin bao bọc thường chậm và tiêu hao nhiều năng lượng.
A
B
1 C
+ 3
-
+
-
+ 2
-
-
Hình 7.1: Dẫn truyền hưng phấn trong dây thần kinh không có mielin bao bọc
A và C: Vùng noron ở trạng thái tĩnh (trong âm, ngoài dương)
B: Vùng noron ở trạng thái hưng phấn (trong dương, ngoài âm)
c: Sợi trục noron
2 : Dòng điện hưng phấn
3 : Hướng truyền của dòng điện hưng phấn về hệ thần kinh trung ương
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Đối với dây thần kinh có mielin bao bọc, do mielin là một chất cách điện tốt nên màng
noron chỉ tiếp nhận kích thích ở eo Ranvie và màng noron cũng chỉ mất phân cực và đảo
cực (tức phát sinh điện thế hoạt động) ở tại eo Ranvie (xem hình 7.2).
R1
R2 R3
+2
1
- 3 + 4
- -
+ 2 3 -
+ -
+ -
tĩnh + hưng phấn + tĩnh
Hình 7.2: Dẫn truyền hưng phấn trong dây thần kinh có mielin bao bọc
Theo hình 7.2, khi kích thích ở eo Ranvie 2 thì màng noron hưng phấn dẫn tới bị đảo cực
(trong có điện tích dương (+), ngoài có điện tích âm (-)), có điện tích trái dấu với eo
Ranvie 1 và eo Ranvie 3 đang ở trạng thái tĩnh (trong có điện tích âm (-), ngoài có điện
tích dương (+)). Tại eo Ranvie 2 sẽ xuất hiện điện thế hoạt động (tức dòng điện hưng
phấn) và dòng điện hưng phấn này khi truyền đến eo Ranvie 3 tuy đã giảm đi khoảng một
nửa nhưng vẫn lớn hơn ngưỡng gây kích thích nên đã tạo ra hưng phấn ở eo Ranvie 3, tức
là lại tạo ra điện thế hoạt động mới có độ lớn giống như điện thế hoạt động phát sinh lúc
ban đầu ở eo Ranvie 2. Dòng điện hưng phấn cứ lan truyền theo kiểu "nhảy" từ eo Ranvie
này đến eo Ranvie lân cận với khoảng cách bước nhảy là 1 milimét, theo hướng về hệ
thần kinh trung ương nên có tốc độ truyền nhanh hơn và ít tiêu hao năng lượng hơn so
với dây thần kinh không có mielin bao bọc. Như ở hình (7.1) dòng điện hưng phấn truyền
theo hướng từ vùng B đến vùng C còn ở hình 7.2, dòng điện hưng phấn "nhảy" từ eo
Ranvie 2 sang eo Ranvie 3 theo hướng về hệ thần kinh trung ương (hoặc tủy sống) đối
với dây thần kinh hướng tâm còn theo hướng từ tủy sống hay hệ thần kinh trung ương tới
mô hay cơ quan để thực hiện phản ứng trả lời với dây thần kinh ly tâm. Mặc dù vậy, với
dây thần kinh trần, phía ngoài màng noron có dòng điện truyền từ vùng C về vùng B
(hình 7.1), từ eo Ranvie 3 về eo Ranvie 2 (hình 7.2) nhưng đều không gây ra hưng phấn
vì khi đó màng noron trơ tuyệt đối nếu đang ở pha mất phân cực và đảo cực (khoảng 1
miligiây (ms)) hoặc trơ tương đối nếu đang ở pha tái phân cực (khoảng 3 ms) nên không
tiếp nhận kích thích. Như vậy, khi kích thích vùng B xuất hiện dòng điện hưng phấn
truyền đến kích thích vùng phía trước là C thì hưng phấn lại xuất hiện dễ dàng còn nếu đã
truyền đến vùng C lại quay về vùng B thì màng noron không tiếp nhận sự kích thích. Đối
với dây thần kinh động vật máu nóng, thời gian trơ tuyệt đối kéo dài khoảng 0,002 giây -
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
0,0004 giây. Từ bảng 7.1, nếu ta lấy vận tốc dẫn truyền trung bình của dây thần kinh
nhóm A là 60m/s, khi truyền từ eo Ranvie 2 sang eo Ranvie 3 rồi quay trở về eo Ranvie
2, quãng đường là 2mm, tính ra thời gian chỉ mất có 0,3ms, nhỏ hơn 1ms nên eo Ranvie 2
đang trơ tuyệt đối nên không tiếp nhận bất kỳ kích thích nào. Do vậy, dòng điện hưng
phấn truyền trong dây thần kinh chỉ theo một chiều xác định.
Do màng noron có tính trơ nên màng noron không thể phát sinh các xung điện thế hoạt
động một cách liên tục được. Thời gian trơ càng dài thì số lượng tối đa các xung điện thế
hoạt động được màng noron phát sinh trong một đơn vị thời gian càng ít và ngược lại.
Vedenski đã đưa ra khái niệm tính linh hoạt chức năng để biểu thị khả năng hưng phấn
của các tổ chức sống. Noron có tính linh hoạt chức năng càng cao khi có khả năng truyền
được số lượng tối đa các xung điện thế hoạt động trong một đơn vị thời gian càng nhiều.
Ngược lại, số lượng tối đa các xung điện thế hoạt động được truyền đi trong một đơn vị
thời gian càng ít thì tính linh hoạt chức năng của noron càng thấp. Ví dụ, các noron vận
động có thời gian trơ là 2%o giây thì tối đa chúng chỉ truyền được 500 xung điện thế hoạt
động trong một giây. Các noron trung gian có thời gian trơ nhỏ hơn 1%o giây nên chúng
có thể truyền tối đa 1000 xung điện thế hoạt động trong một giây. Rõ ràng các noron
trung gian có tính linh hoạt chức năng cao hơn so với các noron vận động.
VIII. Cơ chế bàn giao hưng phấn qua xinap
1. Cấu tạo xinap
Các vị trí tận cùng sợi trục của một noron tiếp xúc với các noron khác và với các tế bào
cơ được gọi là các xinap. Cấu trúc một xinap thể hiện trên hình 7.3 gồm màng trước
xinap, khe xinap và màng sau xinap. Cúc xinap là phần phình to của mút các nhánh của
sợi trục noron trước. Trong cúc xinap chứa thành phần quan trọng nhất, đó là các bóng
xinap. Bên trong các bóng xinap chứa chất môi giới. Giữa màng trước xinap và màng sau
xinap là khe xinap, rộng khoảng 150A0 đối với xinap noron - noron, còn rộng khoảng
500A0 ở xinap noron - cơ. Màng sau xinap có những thụ quan (receptor) chuyên biệt để
nhận biết chất môi giới.
2. Bàn giao hưng phấn qua xinap theo cơ chế vật lý
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Dòng điện hưng phấn muốn truyền từ noron trước sang noron sau phải vượt qua màng
trước xinap, khe xinap và màng sau xinap. Cả ba thành phần này đều có điện trở. Theo
Katz, sau khi dòng điện hưng phấn vượt qua ba điện trở thuộc cấu trúc của xinap thì điện
thế hoạt động từ giá trị ban đầu khoảng 120mV, khi đến màng sau xinap chỉ còn khoảng
0,01mV . Thực nghiệm đã xác định, ngưỡng kích thích màng sau xinap để gây ra hưng
phấn là từ 20mV đến 40mV. Số liệu do Katz đưa ra là không phù hợp với thực nghiệm.
Để giải thích cơ chế truyền xung điện thế hoạt động qua xinap theo cơ chế vật lý, các nhà
khoa học cho rằng màng trước, màng sau và khe xinap có cấu trúc đặc biệt nên có điện
trở rất bé. Do vậy, xung điện thế hoạt động dễ dàng vượt qua ba thành phần điện trở trên
nên khi đến màng sau xinap giá trị điện thế hoạt động tuy có bị giảm nhưng vẫn lớn hơn
40mV. Với giá trị vượt ngưỡng gây hưng phấn, nó đã kích thích màng sau xinap làm cho
màng sau xinap mất phân cực rồi đảo cực nên lại phát sinh xung điện thế hoạt động cũng
có giá trị 120mV và tiếp tục được truyền đi theo sợi trục của noron sau.
Tuy nhiên, giả thiết về ba thành phần cấu trúc của xinap có điện trở nhỏ, thực nghiệm
còn chưa xác định được.
3. Bàn giao hưng phấn qua xinap theo cơ chế hoá học
Năm 1912 và 1921, Levi tiến hành thí nghiệm buộc hai tim cô lập vào ống thông tim
trong có chứa dung dịch sinh lý để hai tim thông với nhau. Khi kích thích dây mê tẩu của
tim một thì tim một đập chậm và yếu, có khi ngừng đập. Đồng thời tim hai cũng đập
chậm và yếu, có khi ngừng đập giống như tim một. Nếu kích thích dây giao cảm của tim
một thì làm cho cả tim một và tim hai đều đập nhanh và đập mạnh. Levi đã xác định dây
mê tẩu khi bị kích thích đã phát sinh chất axetincolin có tác dụng kìm hãm còn dây giao
cảm khi kích thích sẽ phát sinh chất adrenalin ở ếch còn noradrenalin ở người có tác dụng
thúc đẩy tăng nhịp đập của tim. Thí nghiệm của Levi khẳng định khi kích thích, hưng
phấn xuất hiện với sự tham gia của chất môi giới, đã truyền từ tim một sang tim hai. Cúc
xinap, khi noron ở trạng thái tĩnh, có sự tổng hợp axetincolin từ axetat và colin. Lúc đầu
axetat kết hợp với coenzym A, tạo thành axetin KoA. Nhờ xúc tác của enzyme
colinaxetilase, xảy ra phản ứng giữa axetin KoA với colin tạo thành axetincolin và
coenzymA (KoA). Axetincolin sau khi tổng hợp sẽ được tích lũy lại trong các bóng xinap
có đường kính 0,02 - 0,03μm, nằm rải rác ở bào chất của cúc xinap. Khi dòng điện hưng
phấn truyền đến cúc xinap đã gây tác dụng kích thích làm cho các bóng xinap phóng
thích axetincolin vào khe hở xinap. Ở chuột, mỗi xung điện thế hoạt động khi truyền đến
cúc xinap noron - cơ đã kích thích bóng xinap giải phóng vài triệu phân tử axetincolin
vào khe hở xinap. Các phân tử axetincolin vượt qua khe hở xinap mất khoảng 0,5ms.
Axetincolin làm thay đổi tính thấm của màng sau xinap vì màng sau xinap rất nhạy cảm
trước tác động của axetincolin. Từ sự thay đổi tính thấm của màng sau xinap đã dẫn đến
sự mất phân cực và đảo cực, phát sinh điện thế hoạt động có độ lớn giống như xung điện
thế hoạt động đã truyền đến màng trước xinap. Nếu là xinap noron - noron thì xung điện
thế hoạt động phát sinh ở màng sau xinap, tiếp tục được truyền đi theo sợi trục của noron
sau. Đồng thời màng sau xinap cũng giải phóng enzyme axetincolinesterase để xúc tác
cho phản ứng:
Axetincolin + H2O → Axetat + colin
Một phân tử enzyme axetincolinesterase ở 25oC, trong 1 giây, có thể thủy phân được 300
ngàn phân tử axetincolin. Như vậy, mỗi phân tử enzyme chỉ cần 1/300.000 giây là phân
hủy xong 1 phân tử axetincolin nên mới giải phóng toàn bộ chất axetincolin cũ ở khe
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
xinap, trước khi có một xung điện thế hoạt động mới truyền tới, lại có một đợt
axetincolin mới đi vào khe xinap. Ngưỡng gây kích thích màng sau xinap của axetincolin
chỉ cần ở nồng độ vô cùng nhỏ từ 10-16 đến 10-15M. Các xinap giải phóng chất môi giới là
axetincolin là các xinap kích thích vì kích thích màng sau xinap làm phát sinh xung điện
thế hoạt động mới giống như xung điện thế hoạt động đã truyền đến màng trước ninap.
Trong cơ thể sống còn tồn tại các xinap ức chế giải phóng chất môi giới ức chế vì làm ức
chế màng sau xinap, không làm phát sinh xung điện thế hoạt động mới ở màng sau xinap
(tức không tạo ra sự hưng phấn ở màng sau xinap). Trường hợp này xảy ra ở xinap noron
- cơ tim của ếch đã được Levi phát hiện khi kích thích dây mê tẩu đã dẫn đến giải phóng
chất ức chế là axetincolin có tác dụng ức chế nhịp đập của tim làm cho tim đập chậm và
yếu.
Kết quả nghiên cứu khẳng định hiệu ứng hưng phấn hoặc ức chế ở màng sau xinap không
phải do chất môi giới quyết định mà do bản chất của các thụ quan (receptor) ở màng sau
xinap quyết định. Do vậy, axetincolin kích thích ở xinap noron - cơ nhưng lại ức chế ở
xinap noron - cơ tim. Hiện nay các nhà khoa học đã xác định được một số chất môi giới
và tác dụng của chúng (xem bảng 7.3).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Bảng 7.3: Các chất môi giới và tác dụng của chúng
Chất môi giới Tác dụng
Axetincolin Kích thích hoặc ức chế
Adrenalin Kích thích hoặc ức chế
Noradrenalin Kích thích hoặc ức chế
Dopamin Kích thích hoặc ức chế
Serotonin Kích thích hoặc ức chế
Axit gamma - aminobutylic Ức chế
Glixin Ức chế
Axit glutamic Ức chế
Enxephalin Ức chế
v.v...
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 8
QUANG SINH HỌC
I. Bản chất của ánh sáng
Ánh sáng là bức xạ điện từ trường lan truyền trong không gian với vận tốc vô cùng lớn
(trong chân không vận tốc ánh sáng đạt 300.000km/s). Ánh sáng được chia thành 3 vùng
cơ bản:
• Vùng nhìn thấy (vùng khả kiến) có bước sóng (λ) từ 400 → 700nm
• Vùng tử ngoại có λ = 200nm → 400nm
• Vùng hồng ngoại có λ = 700nm → 1000nm
Trong hệ sinh vật, các loài có vùng khả kiến không giống nhau. Ví dụ với người vùng
khả kiến có λ = 400nm → 700nm nhưng với côn trùng, vùng khả kiến lại có λ = 320nm
→ 500nm.
Ánh sáng vừa có tính sóng (đặc trưng bởi bước sóng và tần số...) vừa có tính chất hạt
(đặc trưng bởi các lượng tử ánh sáng hay còn gọi là photon). Photon có khối lượng nhỏ
hơn khối lượng của điện tử khoảng 1 triệu lần (khối lượng photon bằng 1,785.10-27gam).
Mỗi photon có mang một giá trị năng lượng được tính theo công thức:
E = h.γ
v
Hoặc E = h. (8.1)
λ
E: Năng lượng của photon
γ : Tần số ánh sáng bằng số dao động ánh sáng trong 1 giây
v: Vận tốc ánh sáng bằng 300.000km/s
λ: Bước sóng ánh sáng
h: Hằng số Planck bằng 6,62.10-27erg.s
Đơn vị dùng xác định năng lượng photon là electron vôn (hay điện tử vôn), ký hiệu là eV
hoặc Kcal. Một điện tử vôn là năng lượng cần thiết cung cấp cho 1 điện tử đi qua thế hiệu
một vôn với khoảng cách giữa hai điện cực là 1Cm. Công thức chuyển đổi giữa các đơn
vị đo năng lượng:
1eV=1,602.10-12erg và 1 Kcal=4,2.1010erg
Thay giá trị hằng số Planck và vận tốc ánh sáng vào công thức (8.1) sẽ tính được năng
lượng của photon có bước sóng tính theo:
1244
E= (eV) (8.2)
λ(nm)
Nếu quan niệm một photon tương tác với một phân tử thì để chuyển một phân tử gam vật
chất (1M) chứa 6,023.1023 phân tử lên trạng thái kích thích cần có 6,023.1023 photon, gọi
là cần cung cấp một mol lượng tử (hay một Einstein). Năng lượng của một mol lượng tử
tính theo đơn vị Kcal được tính theo công thức:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
28.650
E= (Kcal/M) (8.3)
λ(nm)
Từ các công thức trên thấy rằng năng lượng của ánh sáng tỷ lệ thuận với tần số ánh sáng
( γ ) còn tỷ lệ nghịch với bước sóng ánh sáng (λ). Năng lượng ánh sáng có bước sóng
ngắn lớn hơn năng lượng ánh sáng có bước sóng dài. Ví dụ năng lượng tia tử ngoại có
bước sóng λ=200nm, có giá trị 143,25Kcal/M còn ánh sáng khả kiến có λ=750nm chỉ đạt
38,2Kcal/M.
II. Qui luật hấp thụ ánh sáng
Sự hấp thụ ánh sáng của vật chất được biểu hiện ở chỗ cường độ ánh sáng bị yếu đi sau
khi xuyên qua lớp vật chất nghiên cứu. Năm 1760, Lambert và sau đó năm 1852, Beer đã
tìm ra qui luật hấp thụ ánh sáng bởi vật chất.
Sự biến đổi cường độ ánh sáng (ký hiệu là Chùm sáng tới Chùm sáng ló
dI) khi đi qua lớp mỏng vật chất (ký hiệu là
dl) sẽ tỷ lệ với cường độ ánh sáng chiếu (ký
C
hiệu là I) và nồng độ (ký hiệu là C) cũng Io I
như hệ số k, đặc trưng cho khả năng hấp thụ
của vật chất. Biểu thức toán học của định
luật Lambert - Beer có thể viết như sau: l
dI Hình 8.1: Ánh sáng truyền qua dung dịch
− = k.I.C (8.4) có nồng độ C và chiều dày l.
dl
Dấu trừ biểu thị sự hấp thụ ánh sáng bởi vật chất. Phương trình (8.4) có thể viết dưới
dạng:
dI
= -k.C.dl (8.5)
I
Lấy tích phân vế trái theo cường độ ánh sáng từ Io đến I và vế phải theo chiều dày từ O
đến l ta được:
I l
dI
∫ = − ∫ k.C.dl
Io I O
I
ln I Io
= − k.C.l
lnI - lnIo = -k.C.l (8.6)
I
ln = −k.C.l (8.7)
Io
I = Io e − kCl (8.8)
Io: Cường độ ánh sáng tới I: Cường độ ánh sáng ló
C: Nồng độ vật chất k: Hệ số hấp thụ
l: Chiều dày vật chất (tính theo Centimet)
Công thức (8.6) có thể viết dưới dạng:
lnIo - lnI = k.C.l
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Io
ln = k.C.l (8.9)
I
I
Đặt D = ln o , gọi là mật độ quang học của dung dịch. Khi đó công thức (8.9) có thể viết
I
như sau:
D = k.C.l (8.10)
Từ công thức (8.10) suy ra rằng: mật độ quang học của dung dịch tỷ lệ thuận với nồng
độ dung dịch và chiều dày của lớp vật chất mà ánh sáng truyền qua. Khi l = 1Cm thì mật
độ quang học (D) tỷ lệ thuận với nồng độ dung dịch (C), thể hiện trên hình 8.2.
D
Khi nồng độ dung dịch C = 1M và l = 1Cm
thì từ (8.10) suy ra D = k. Như vậy, hệ số
D3
hấp thụ chính bằng mật độ quang học của
dung dịch có chiều dày 1Cm và nồng độ
D2
1M.
D1
O C1 C2 C3 C
3. Diễn ra các phản ứng trung gian không cần tới sự chiếu sáng (gọi là phản ứng tối) với
sự tham gia của các sản phẩm quang hóa không bền vững nói trên để tạo thành sản phẩm
quang hóa bền vững (với quá trình quang hợp, đó là hydratcacbon).
4. Hiệu ứng sinh học cuối cùng như các biểu hiện sinh lý cảm nhận màu sắc, sự vật, sự
sinh trưởng và phát triển v.v...
Giai đoạn hấp thụ lượng tử ánh sáng và giai đoạn khử trạng thái kích thích điện tử của
phân tử, đặc trưng chung cho tất cả các phản ứng quang sinh vật (xem hình 8.3).
S2 (Singlet 2)
1
S1 (Singlet 1)
A a b 2 3
T (Triplet)
c 4
So (Singlet)
Hình 8.3: Sơ đồ biểu diễn các mức năng lượng của phân tử
và các bước chuyển giữa các mức năng lượng đó.
- Đường a, A khi phân tử hấp thụ năng lượng ánh sáng để chuyển từ mức năng lượng cơ
bản ban đầu là So lên mức năng lượng cao hơn là S1 hoặc S2.
- Theo cơ học lượng tử thì không có bước chuyển phát xạ (tức phát ra sóng ánh sáng) khi
phân tử chuyển từ mức S2 về mức So và cũng không có bước chuyển thẳng từ mức So lên
mức triplet (gọi là bước cấm).
- Khi phân tử chuyển từ mức S1 về mức cơ bản So sẽ phát huỳnh quang (đường b) hoặc
chuyển từ mức triplet về mức cơ bản So sẽ phát lân quang (đường c).
- Các đường 1, 2, 3, 4, là phân tử thải hồi năng lượng dưới dạng tỏa nhiệt ra môi trường.
Quá trình phân tử hấp thụ năng lượng ánh sáng để chuyển lên trạng thái kích thích và sau
đó trở về trạng thái ban đầu, là một quá trình bất thuận nghịch.
1 2 3 hγ', 4
Chlorophyll) không phụ thuộc vào bước sóng ánh sáng kích thích vì ánh sáng huỳnh
quang được phát ra khi phân tử chuyển từ mức năng lượng S1→So. Khi phân tử hấp thụ
năng lượng ánh sáng để chuyển lên các mức năng lượng cao hơn S1, qua con đường thải
nhiệt để cuối cùng đều chuyển về mức S1 để sau đó phát ánh sáng huỳnh quang. Ví dụ
Chlorophyll có thể hấp thụ cả ánh sáng xanh (λ=440nm) và ánh sáng đỏ (λ=700nm) nên
khi chiếu dung dịch Chlorophyll dù là ánh sáng xanh hay ánh sáng đỏ thì phổ huỳnh
quang của Chlorophyll vẫn không thay đổi.
* Qui luật Levin: Phổ hấp thụ và phổ huỳnh quang đối xứng quanh một bước sóng λo (xem
hình 8.5). Qui luật đúng với phân tử có cấu trúc đơn giản.
D
1
2
λ1 λo λ2 λ
Hình 8.5: Phổ hấp thụ (1) và phổ huỳnh quang (2) đối xứng qua λo
2. Sự phát lân quang
Khi phân tử hấp thụ năng lượng ánh sáng để chuyển từ mức năng lượng cơ bản So lên
mức kích thích S1 và khi trở về trạng thái ban đầu có thể bằng sự thải nhiệt (đường 2,
hình 8.3) hoặc phát huỳnh quang (đường b, hình 8.3), hoặc thải nhiệt để chuyển về mức
triplet (đường 3, hình 8.3), sau đó phân tử chuyển từ mức triplet về mức So và phát ra ánh
sáng lân quang (đường c, hình 8.3). Sự phát lân quang có thể biểu diễn dưới dạng:
T→So+hγ*
⎛ v⎞
γ*: Tần số ánh sáng lân quang ⎜ γ * = * ⎟ .
⎝ λ ⎠
Lân quang cũng được đặc trưng bởi phổ lân quang. Phổ lân quang là đường cong phụ
thuộc của cường độ ánh sáng lân quang vào bước sóng ánh sáng lân quang (λ*). Phổ lân
quang luôn dịch chuyển về phía ánh sáng có bước sóng dài hơn so với phổ hấp thụ và phổ
v v v
huỳnh quang. Nguyên do vì E ht = h. > E 'hq = h. > E lq = h. * suy ra bước sóng ánh
λ λ' λ
sáng hấp thụ (λ) nhỏ hơn bước sóng ánh sáng huỳnh quang và bước sóng ánh sáng huỳnh
quang (λ') lại nhỏ hơn bước sóng ánh sáng lân quang (λ*) (xem hình 8.6). Sự phát lân
quang kéo dài từ 10-4 đến 10-2 giây, tức là lâu hơn so với sự phát huỳnh quang. Do vậy
khi đã tắt ánh sáng chiếu nhưng sự phát lân quang vẫn có thể xảy ra.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
1
2
3
λ λ' λ* λ
Hình 8.6: Phổ hấp thụ (1), phổ huỳnh quang (2) và phổ lân quang (3) (λ<λ'<λ*).
3. Sự vận chuyển năng lượng
Phân tử hấp thụ năng lượng ánh sáng đã chuyển từ mức năng lượng thấp là So lên mức
năng lượng cao là S1. Khi phân tử chuyển từ mức năng lượng S1→So, nó có thể qua con
đường thải nhiệt, phát huỳnh quang hay lân quang, hoặc nó có thể chuyền năng lượng
cho phân tử khác. Giả sử phân tử ở trạng thái kích thích là chất cho năng lượng (ký hiệu
là M1* ) còn chất nhận năng lượng là phân tử ở trạng thái cơ bản (ký hiệu là Mo) thì quá
trình chuyền năng lượng có thể viết dưới dạng:
M1* +Mo→M1+ M *0
M *0 là phân tử ở trạng thái kích thích và có mức năng lượng cao hơn so với năng lượng
của phân tử Mo.
Quá trình chuyền năng lượng là một quá trình vật lý, không kèm theo sự biến đổi hoá học
và không cần M1 va chạm với Mo. Sự chuyền năng lượng có thể xảy ra theo nhiều cơ chế
nhưng ở đây chỉ xét cơ chế chuyền năng lượng theo cộng hưởng cảm ứng. Để có sự
chuyền năng lượng theo cơ chế này cần có một số điều kiện sau:
- Chất cho năng lượng M1* phải có khả năng phát huỳnh quang, đặc trưng bởi cường độ
phát quang là J.
- Phổ huỳnh quang của chất cho M1* phải có vùng chung với phổ hấp thụ của chất nhận
Mo (xem hình 8.7), đặc trưng bởi mật độ quang học là D.J D
- Khoảng cách giữa chất cho M1* và chất nhận năng
lượng Mo phải nhỏ hơn giá trị tới hạn cho phép. Ở một J
số điều kiện khi khoảng cách trung bình giữa chất cho D
và chất nhận năng lượng đạt khoảng cách từ 20 đến
o
100 A thì M1* có thể chuyền toàn bộ năng lượng cho
Mo, tức là hiệu suất chuyển năng lượng bằng một
(ϕ=1). Với hệ có chứa nhiều phân tử có khả năng hấp λ
thụ ánh sáng để chuyển lên trạng thái kích thích thì khả
năng xảy ra sự chuyền năng lượng đối với phân tử Hình 8.7: Phổ phát quang của chất M 1*
protein đạt chỉ vài phần trăm còn axit nucleic đạt 30% là J và phổ hấp thụ của chất Mo là D
có vùng chung (phần gạch ngang)
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
100 đến 1000 photon mới bị mất hoạt tính xúc tác. Sở dĩ hiệu suất quang hóa có giá trị
thấp như vậy là do chỉ có một số ít phân tử sau khi hấp thụ photon đã tham gia vào phản
ứng. Từ đó dẫn tới khái niệm tiết diện quang sinh (δ) và được cho rằng chỉ khi photon
đập trúng tiết diện quang sinh của phân tử mới dẫn tới phân tử tham gia vào phản ứng.
Bây giờ hiệu suất quang hóa được tính theo công thức:
δ
ϕ= (8.19)
S
δ<S→ϕ <1
Phương trình (8.17), thay khái niệm tiết diện bề mặt bị chiếu sáng bằng tiết diện quang
sinh sẽ được viết dưới dạng:
dC
= - δ.C.I (8.20)
dt
Dấu trừ biểu hiện nồng độ phân tử kích thích khi tham gia vào phản ứng quang hóa sẽ
giảm dần theo thời gian. Phương trình (8.20) có thể viết dưới dạng:
dC
= - δ.I.dt (8.21)
C
Nếu lấy thời gian bắt đầu xảy ra phản ứng quang hóa là không giây, ứng với nồng độ ban
đầu của các phân tử tham gia vào phản ứng quang hóa là Co thì sau thời gian là t, số phân
tử kích thích chưa tham gia vào phản ứng là C. Lấy tích phân hai vế (8.21) ta có:
C t
dC C
∫C C = −δ.IO∫ dt → ln
Co
= - δ.I.t
o
C
= e −δ.I.t → C = C o .e −δ.I.t (8.22)
Co
Nồng độ phân tử kích thích tham gia vào phản ứng quang hóa sẽ giảm dần theo thời gian.
Để đánh giá tốc độ phản ứng quang hóa có phụ thuộc vào bước sóng ánh sáng chiếu (λ),
⎛ dC ⎞
người ta đo tốc độ phản ứng quang hóa ⎜ ⎟ ở những bước sóng khác nhau nhưng có
⎝ dt ⎠
cùng một cường độ ánh sáng là I (tức là cùng số lượng tử ánh sáng chiếu vào mẫu vật).
dC
Khi đó giá trị /I sẽ phụ thuộc vào bước sóng ánh sáng chiếu được gọi là đo quang phổ
dt
hoạt động của phản ứng quang hóa.
Quang phổ hoạt động của phản ứng quang hóa có dạng trùng với quang phổ hấp thụ của
các phân tử đã tham gia vào phản ứng quang hóa.
Ví dụ: Trong quang phổ hoạt động của quá trình quang hợp, xuất hiện đỉnh cực đại ở
vùng bước sóng 480nm - 500nm mà carotin cũng có đỉnh hấp thụ cực đại tại vùng bước
sóng này, chứng tỏ carotin có tham gia vào quá trình quang hợp. Hoặc khi chiếu ánh sáng
lên dung dịch men thể hiện phổ hoạt động của phản ứng quang hóa dẫn tới khử hoạt tính
men trùng với phổ hấp thụ của axit amin thơm. Điều này chứng tỏ axit amin thơm trong
thành phần cấu tạo của phân tử men đã tham gia vào phản ứng quang hóa nên dẫn tới làm
cho phân tử men bị mất hoạt tính xúc tác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Nếu chất A hấp thụ năng lượng ánh sáng nhưng tham gia vào phản ứng quang hóa lại là
chất B thì phổ hoạt động và phổ hấp thụ của chất B phải trùng nhau. Như vậy có nghĩa là
chất A đã chuyền năng lượng cho chất B (A+hγ→A*→B→B*) để chất B chuyển lên
trạng thái kích thích (B*) và tham gia vào phản ứng quang hóa. Nếu trong hệ có nhiều
chất, khi chiếu sáng và nghiên cứu phổ hoạt động, sau đó so sánh với phổ hấp thụ của
những chất đã biết sẽ xác định được chất nào đã chuyền năng lượng (nên không có phổ
hoạt động) và chất nào đã tham gia vào phản ứng quang hóa (nên có phổ hoạt động).
VI. Phương pháp đo độ hấp thụ trong vùng ánh sáng trông thấy và tử ngoại
Khi đo độ hấp thụ, các nhà nghiên cứu hay dùng máy quang phổ kế (còn gọi là máy so
màu). Sơ đồ cấu tạo máy quang phổ kế được mô tả trên hình 8.8.
1 2 3 4 5
Hình 8.8: Sơ đồ cấu tạo máy quang phổ kế
1) Nguồn chiếu sáng 2) Kính lọc bước sóng ánh sáng 3) Cốc đựng mẫu (cuvét) 4) Tế bào
quang điện 5) Màn hình thiết bị đo giá trị mật độ quang học (D) hay độ truyền qua (T)
Nguyên tắc đo: Cho dung môi (chất dùng để pha dung dịch nghiên cứu) vào ống thủy
tinh số 3 và chỉnh thiết bị đo số 5, cho kim chỉ số không. Sau đó đổ dung môi ra, tráng
sạch, sấy khô, để nguội rồi đổ dung dịch nghiên cứu vào, trên màn hình thiết bị đo số 5,
kim sẽ chỉ giá trị mật độ quang học D hay độ truyền qua T. Lưu ý cả dung môi và dung
dịch nghiên cứu đều đo ở bước sóng đã được chọn trước. Ví dụ đo mật độ quang học của
dung dịch ADN thì phải chọn bước sóng λ=260nm. Mỗi chất hấp thụ cực đại ở một bước
sóng nhất định (ký hiệu là λmax) và khi chiếu ánh sáng λmax, đối với mỗi chất có một hệ số
hấp thụ xác định (ký hiệu là kmax). Song cũng có những chất hấp thụ cực đại ở một số
bước sóng khác nhau như triptophan, tirozin, phenilalanin và do vậy chúng cũng có các
hệ số hấp thụ tương ứng (xem bảng 8.1).
Bảng 8.1: Độ hấp thụ và hệ số hấp thụ ở bước sóng λmax.
Phương pháp đo quang phổ hấp thụ trong vùng tử ngoại và ánh sáng nhìn thấy được áp
dụng để xác định nồng độ. Vì theo định luật Lambert - Beer thì mật độ quang học (D) tỷ
lệ thuận với nồng độ dung dịch (C). Vì vậy, muốn xác định nồng độ của một chất cần
nghiên cứu thì trước tiên phải có đồ thị chuẩn D = f(λ) của chất nghiên cứu chuẩn (tự làm
hay lấy từ tài liệu tham khảo (xem hình 8.2). Sau đó lấy dung dịch chất cần nghiên cứu
đo được giá trị mật độ quang học là Dx, dựa vào đồ thị chuẩn sẽ suy ra được nồng độ Cx.
Để xác định nồng độ vi khuẩn (Cvk) cách làm D(650nm)
cũng tương tự, chỉ việc thay nồng độ phân tử
D=f(λ)
gam (M) bằng số lượng vi khuẩn trong 1ml và
đo ở bước sóng λ=650nm (xem hình 8.9).
Ví dụ: Từ đồ thị chuẩn D = f(λ=260nm) của
dung dịch ADN chuẩn đã biết được nếu D260
(mật độ quang học đo ở λ=260nm) bằng 1 sẽ
tương ứng với nồng độ ADN là 50 Dx
microgam/ml, nếu D260 bằng 0,5 tương ứng với
nồng độ ADN là 25 microgam/ml, nếu D260
bằng 0,1 tương ứng với nồng độ ADN là 5
microgam/ml. O Cx C
Hình 8.9: Nồng độ vi khuẩn (Cvk)
xác định bằng cách đo mật độ
quang học (D)
Phương pháp đo quang phổ hấp thụ còn có thể cho phép xác định thành phần của phân
tử. Từ bảng 8.1 đã biết hệ số hấp thụ kmax của 4 bazơ Nitơ là Adenin, Timin, Guanin,
Xitozin. Dựa vào bước sóng λmax trong bảng 8.1 sẽ đo được mật độ quang học tương ứng
của mỗi bazơ Nitơ. Áp dụng công thức (8.10) D = k.C.l và khi chọn cuvét có độ dày l =
D
1Cm thì suy ra D = k.C. Khi biết D và k sẽ tính được nồng độ C = .
k
* Phương pháp phân tích hấp thụ nguyên tử
- Phân tích định tính: Sự hấp thụ của nguyên tử vật chất đối với ánh sáng mang tính chất
chọn lọc, nghĩa là mỗi nguyên tử chỉ hấp thụ ở một bước sóng ánh sáng nhất định. Điều
này cho phép nhận dạng được nguyên tố có mặt trong mẫu đem phân tích khi so sánh
quang phổ hấp thụ của mẫu với quang phổ hấp thụ của các nguyên tố hoá học đã biết
trước.
- Phân tích định lượng: Áp dụng định luật Lambert - Beer và sử dụng công thức (8.10) sẽ
xác định được nồng độ của chất nghiên cứu khi đo được mật độ quang học D và hệ số
hấp thụ nguyên tử k ở ánh sáng chiếu có bước sóng xác định (ánh sáng đơn sắc). Phương
pháp phân tích hấp thụ nguyên tử có độ chính xác cao hơn nhiều so với phương pháp
dùng quang phổ kế.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
tối thiểu phải cần từ 4 đến 12 photon. Nếu lấy giá trị trung bình số photon cần thiết cho
quá trình quang hợp là 8 thì hiệu suất trung bình của quá trình quang hợp sẽ là:
3 photon × 42Kcal
η= = 0,375 hay đạt 37,5%
8 photon × 42Kcal
Hiệu suất cực đại của quá trình quang hợp có thể đạt được là:
3 photon × 42Kcal
η= = 0,75 hay đạt 75%
4 photon × 42Kcal
3. Sắc tố cảm quang
Để thực hiện được quá trình quang hợp, các tế bào thực vật, các vi khuẩn phải có các
sắc tố cảm quang để tiếp nhận năng lượng ánh sáng. Có ba nhóm sắc tố chính là:
Porphyrin, Phycobilin và Carotenoid.
- Sắc tố nhóm Porphyrin: Tất cả các loài thực vật và vi khuẩn có quang hợp đều chứa
Chlorophyll ở các dạng khác nhau. Tế bào thực vật chứa Chlorophyll còn vi khuẩn quang
hợp chứa Bacteriochlorophyll. Chlorophyll ở các loài khác nhau không đáng kể về cấu
trúc phân tử nhưng lại khác nhau về quang phổ hấp thụ ở bước sóng λmax. Các cơ thể tiến
hành quang hợp thải oxy như thực vật bậc cao, tảo và vi khuẩn Cyanobacteria hấp thụ
cực đại ở bước sóng 650nm và 680nm. Vi khuẩn xanh lục chủ yếu chứa
Bacteriochlorophyll c, d, e lại hấp thụ cực đại ở bước sóng 725nm; 740nm; 760nm còn vi
khuẩn tía chứa Bacteriochlorophyll a hấp thụ cực đại đến bước sóng 950nm và chứa
Bacteriochlorophyll b hấp thụ cực đại ở bước sóng 1020nm đến 1100nm.
- Phycobiliprotein: Là các sắc tố màu đỏ hoặc xanh lam, có mặt ở vi khuẩn lam, tảo đỏ,
tảo nâu... Nhờ có Phycobiliprotein mà tế bào vi khuẩn lam hấp thụ ánh sáng có bước sóng
vùng 450-700nm. Các sắc tố như Phycoerythrin hấp thụ cực đại ở bước sóng 565nm,
Phycocyanin hấp thụ cực đại ở bước sóng 620nm, Allophycocianin hấp thụ cực đại ở
bước sóng 654nm...
- Carotenoid: Nhóm Carotenoid có thể chia làm ba loại: không vòng, đơn vòng hoặc hai
vòng. Ở thực vật bậc cao có mặt Carotenoid thuộc loại hai vòng, ở vi khuẩn tía có
Carotenoid thuộc loại không vòng còn ở vi khuẩn xanh có đến 80-85% Carotenoid thuộc
loại một vòng. Nhờ có tập hợp các sắc tố quang hợp đa dạng như vậy nên các sinh vật có
quang hợp đã hấp thụ được hầu hết phổ ánh sáng mặt trời chiếu xuống trái đất (bước sóng
từ 350 đến 1100nm). Sự khác nhau về vùng ánh sáng bị hấp thụ ở các nhóm sinh vật khác
nhau đã làm cho chúng không phải cạnh tranh với nhau về nguồn năng lượng chiếu sáng.
4. Sự chuyền năng lượng trong quang hợp
Tập hợp các sắc tố tham gia vào quá trình quang hợp, giữa chúng có xảy ra sự chuyền
năng lượng. Các nhà khoa học đã tính toán trong gran của lục lạp có nồng độ Chlorophyll
rất cao từ 0,1 đến 1M/dm3 và khoảng cách trung bình giữa các phân tử sắc tố chỉ khoảng từ
o
10 đến 20 A . Sự chuyền năng lượng giữa các phân tử sắc tố xảy ra theo cơ chế cộng hưởng
cảm ứng.
Ở thực vật bậc cao và tảo, bằng phương pháp phá vỡ tế bào, tách riêng lấy lục lạp và
dùng phương pháp điện di, sắc ký đã tách được phức hợp sắc tố - protein. Trong thành
phần phức hợp sắc tố - protein có khoảng 50-60% Chlorophyll của tế bào thực vật hay
tảo. Trong phức hợp sắc tố này có hai dạng Chlorophyll phát huỳnh quang cực đại ở bước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
sóng 680nm và 695nm. Vì vậy, người ta cho rằng có hai kênh vận chuyển năng lượng,
bắt đầu từ sự nhận năng lượng ánh sáng bởi Chlorophyll b sau đó vận chuyển năng lượng
cho Chlorophyll a hấp thụ cực đại ở bước sóng 680nm (ký hiệu là Chl.a (680)) và
Chlorophyll a hấp thụ cực đại ở bước sóng 695nm (Chl.a (695)). Chlorophyll có khả năng
hấp thụ ánh sáng chọn lọc, chuyền năng lượng hấp thụ được từ ánh sáng sang cho hệ vận
chuyển điện tử quang hợp để chuyển thành hóa năng. Nhóm sắc tố Carotenoid cũng có
khả năng hấp thụ năng lượng ánh sáng rồi chuyển năng lượng cho hệ Chlorophyll để thực
hiện quá trình quang hợp. Nhóm sắc tố Phycobilin cũng có khả năng hấp thụ năng lượng
ánh sáng ở vùng bước sóng ngắn và chuyển năng lượng cho Chlorophyll để thực hiện quá
trình quang hợp.
Ví dụ: Ở vi khuẩn lam, quá trình vận chuyển năng lượng diễn ra theo chiều hướng sau:
Phycoerythrin → Phycocianin → Allophycocianin →
(565nm) (620nm) (654nm)
Allophycocianin B → Chlorophyll a.
(671nm) (680nm)
Các số ghi trong ngoặc ở dưới là bước sóng hấp thụ cực đại (λmax) của mỗi sắc tố.
5. Cơ chế của quá trình quang hợp
Quá trình quang hợp được chia ra 2 giai đoạn (hay 2 pha, được gọi là pha sáng và pha
tối).
* Pha sáng quang hợp
Đây là pha đầu tiên của quang hợp, có sự tham gia trực tiếp của ánh sáng. Sắc tố quang
hợp là Chlorophyll (Chl) đã hấp thụ năng lượng ánh sáng do photon chuyền cho để
chuyển lên trạng thái kích thích (Chl*) có mức năng lượng cao hơn so với trạng thái ban
đầu (Chl).
E = hγ → Chl → Chl*
Điện tử của phân tử Chlorophyll ở trạng thái kích thích, khi trở về trạng thái ban đầu đã
chuyển năng lượng cho hệ chuyền điện tử định vị trong lục lạp để tổng hợp nên ATP.
Ở pha sáng quang hợp có sự tham gia của phân tử nước. Dưới tác dụng của ánh sáng với
sự tham gia của hệ sắc tố và hệ oxy hóa trong lục lạp mà phân tử nước bị phân li, gọi là
sự quang phân li nước.
Quang phân li nước xảy ra qua nhiều giai đoạn như sau:
hγ
4H2O ⎯Sac
⎯⎯ to
→ 4H+ + 4OH -
4OH - ⎯⎯
⎯→ 4e - + 4OH
Mn + +
4OH ⎯Cl
⎯− → O2 + 2H2O
Kết quả: 2H2O ⎯⎯ ⎯→ 4H+ + 4e - + O2
Oxy được thải vào không khí còn proton (tức H+) và điện tử (e-) sẽ tham gia vào các quá
trình tiếp sau. Điện tử được vận chuyển qua hệ vận chuyển điện tử quang hợp để tổng
hợp nên ATP còn H+ kết hợp với NADP- để tạo nên NADPH2. Tóm tắt phản ứng của pha
sáng như sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
hγ
2H2O + 2ADP + 2H3PO4 + 2NADP ⎯Sac
⎯⎯ to
→ 2ATP + 2NADPH2 + O2↑
Sản phẩm của pha sáng là ATP, NADPH2 sẽ tiếp tục tham gia vào phản ứng tiếp theo của
pha tối để tổng hợp nên chất hữu cơ với sự tham gia của CO2.
* Pha tối quang hợp
Các phản ứng của pha tối diễn ra không có sự tham gia trực tiếp của ánh sáng chiếu mà
có sự tham gia của ATP, NADPH2 và CO2. Sản phẩm đầu tiên của pha tối quang hợp là
tổng hợp nên glucose (C6H12O6). Có 3 con đường tổng hợp glucose từ CO2 ứng với 3
nhóm thực vật khác nhau là thực vật C3, thực vật C4 và thực vật CAM (Crasulacean Acid
Metabolism), được thực hiện theo các chu trình C3, C4, CAM.
VIII. Tia tử ngoại và các hiệu ứng sinh học của nó
1. Tia tử ngoại và hiệu ứng tác dụng của nó ở mức độ tế bào
Trong thiên nhiên nguồn bức xạ tử ngoại là mặt trời. Trên đường đi tới trái đất, phần lớn
năng lượng của tia cực tím bị tầng Ozôn hấp thụ và chỉ còn lại phần ánh sáng có bước
sóng từ 200nm đến 400nm (nanômét) tác dụng lên cơ thể sinh vật. Tia tử ngoại thường
được chia ra 3 vùng chính sau:
- Vùng cực tím sóng dài có λ = 320nm đến 400nm
- Vùng cực tím sóng trung có λ = 280nm đến 320nm
- Vùng cực tím sóng ngắn có λ = 200nm đến 280nm
Khác với tia gamma (γ) và tia Roentgen (X), tia tử ngoại vùng 200nm đến 400nm không
có khả năng gây ra quá trình ion hóa các phân tử sinh học. Tia tử ngoại chỉ gây ra hiện
tượng kích thích làm cho điện tử của các phân tử sinh học từ mức cơ bản chuyển lên mức
kích thích có năng lượng cao hơn, tức là đã hoạt hóa các phân tử đó. Do vậy, các phân tử
sinh học đã được hoạt hóa, chúng dễ dàng tham gia vào các phản ứng hóa sinh dẫn tới
gây kích thích hoặc làm tổn thương cơ thể sinh vật. Mặt khác, khả năng xuyên sâu của tia
tử ngoại kém, chỉ vài milimét, do đó nó chỉ gây nên các hiệu ứng sinh học ở lớp tế bào
ngoài cùng.
Tia tử ngoại có tác dụng làm xạm da, gây phát ban đỏ hoặc gây bỏng da. Tia cực tím
sóng trung kích thích sự tổng hợp vitamin D có tác dụng chống còi xương... Tia cực tím
sóng ngắn có tác dụng làm thay đổi cấu trúc đặc trưng của lipit và protein, có tác dụng
diệt khuẩn. Hầu hết các công trình nghiên cứu trên các đối tượng như vi khuẩn, vi sinh
vật, tế bào thực vật và động vật, đều phát hiện qui luật chung là khả năng gây ra tử vong
nhiều, khi chiếu tia tử ngoại có bước sóng nhỏ hơn 300nm và tử vong nhiều nhất ở bước
sóng 260nm. Điều này có liên quan tới sự tổn thương của phân tử ADN vì nó hấp thụ cực
đại ở bước sóng 260nm. Tia tử ngoại còn gây ra hiệu ứng ức chế sự phân bào hoặc kích
thích sự phân chia tế bào tùy thuộc vào bước sóng ánh sáng chiếu. Ví dụ như Coviadin
khi chiếu tia tử ngoại có bước sóng 256nm lên các tế bào nấm men đã gây ra sự ức chế
phân chia tế bào. Vraigerchi chiếu tia tử ngoại có bước sóng 265nm và 280nm đã dẫn tới
phá hủy quá trình phát triển phôi. Như vậy, sự ức chế quá trình phân chia tế bào có liên
quan tới sự hấp thụ tia tử ngoại của phân tử ADN ở bước sóng 260nm và phân tử protein
ở bước sóng 280nm. Năm 1914, Lep là người đầu tiên phát hiện ra hiệu ứng kích thích
khi chiếu xạ trứng cầu gai với liều lượng thấp. Sau này các nhà nghiên cứu tiếp tục phát
hiện trên các đối tượng vi khuẩn, vi sinh vật, tảo đơn bào, dưới tác dụng của tia tử ngoại
liều lượng thấp thấy tốc độ phân chia tế bào tăng lên từ 110% đến 170%. Theo Kimball,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
hiệu ứng kích thích phân chia tế bào có liên quan tới sự hấp thụ của một số loại protein và
lipit. Pomper và Atvut lại giải thích rằng dưới tác dụng của tia tử ngoại, có một số tế bào
bị tổn thương nặng đã tiết ra một số chất có khả năng kích thích sự phân chia tế bào, làm
cho sự phân chia tế bào diễn ra nhanh hơn.
IX. Tác dụng của tia tử ngoại lên axit nucleic
Nhiều công trình nghiên cứu trên các đối tượng như vi sinh vật, thực vật và động vật
đều đi đến kết luận là dưới tác dụng của tia tử ngoại, tính chất vật lí của phân tử axit
Nucleic bị thay đổi. Khi chiếu tia tử ngoại lên dung dịch ADN, Sugar nhận thấy độ nhớt
của dung dịch giảm còn trọng lượng phân tử ADN không bị thay đổi. Song nếu chiếu liều
tia tử ngoại cao hơn sẽ dẫn tới phá hủy chuỗi Polynucleotide, tạo nên các
Oligonucleotide, giải phóng Timine và phốtphát vô cơ. Khi chiếu tia tử ngoại lên dung
dịch ARN cũng gây ra hiệu ứng tương tự như với dung dịch ADN. Trung tâm hấp thụ tia
tử ngoại của axit Nucleic là các bazơ Nitơ. Khi chiếu tia tử ngoại lên dung dịch axit
Nucleic thường dẫn tới xảy ra các phản ứng như quang oxy hóa, quang thủy phân, quang
nhị hợp. Ví dụ: Phản ứng quang oxy hóa xảy ra với Adenine theo dạng sau:
Adenine Hypoxantin
N = C⎯NH2 N = C⎯OH
⏐ ⏐ hγ
hV ⏐ ⏐
CH C⎯N ⎯+⎯ ⎯
H 2O
→ CH C⎯N +NH3
⏐⏐ ⏐⏐ CH ⏐⏐ ⏐⏐ CH
N⎯ C⎯N N⎯ C⎯NH
Phản ứng quang thủy phân xảy ra với Uraxin theo dạng sau:
Uraxin Uraxin
O O
⏐⏐ ⏐⏐
HN HN CH2
γ
hhV
⎯+⎯ ⎯→
H O
2
CHOH
O NH O NH
Phản ứng quang nhị hợp xảy ra giữa hai phân tử Timine theo dạng sau:
Timine Timine Nhị hợp Timine-Timine (T-T)
O O O O
⏐⏐ ⏐⏐ ⏐⏐ ⏐⏐
CH3 CH3
HN -CH3 H3C- NH hhV γ HN NH
⎯+⎯ ⎯→
H O2
+ O= =O
O NH NH O NH H H NH
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Phản ứng quang nhị hợp có thể xảy ra giữa hai phân tử cùng gốc hoặc có thể xảy ra giữa
hai phân tử khác gốc. Khi chiếu tia tử ngoại lên dung dịch Xitozine và Uraxin sẽ xảy ra
sự kết hợp giữa hai phân tử cùng gốc, tạo nên nhị hợp Timine - Timine (T-T), tạo nên nhị
hợp Uraxin-Uraxin (U-U), hoặc giữa hai phân tử khác gốc, tạo nên nhị hợp Timine-
Uraxin (T-U). Setlau khi chiếu tia tử ngoại lên axit Polydezoxyinozin và axit
Polydezoxyxitidin thấy tỷ lệ tạo nhị hợp T-T chiếm 50%, tạo nhị hợp T-X chiếm 40%
còn nhị hợp X -X chiếm 10%. Phản ứng quang nhị hợp giữa hai phân tử Timine là tác
nhân chính dẫn tới làm tổn thương cấu trúc và phá hủy tính chất sinh học của phân tử
ADN khi bị chiếu tia tử ngoại.
Tóm lại, khi chiếu tia tử ngoại lên ADN đã xảy ra các quá trình nối tiếp nhau như sau:
- Đầu tiên là tháo xoắn hai chuỗi của phân tử ADN ở vùng có Timine (gọi là tổn thương
vùng).
- Xảy ra phản ứng quang nhị hợp giữa hai phân tử Timine và cố định cấu hình biến dạng
tại vùng bị tổn thương của phân tử ADN.
- Hạn chế hoặc phá hủy chức năng của phân tử ADN (như mất khả năng tách chuỗi để
nhân đôi ADN).
X. Tác dụng của tia tử ngoại lên protein
Khi chiếu tia tử ngoại lên dung dịch protein sẽ dẫn tới làm thay đổi độ đục, độ nhớt, độ
lắng... Chứng tỏ đã xảy ra sự thay đổi cấu trúc phân tử protein. Các protein hoặc
polypeptide có hoạt sính sinh học như enzyme, hormone, kháng thể, kháng nguyên... khi
bị chiếu tia tử ngoại sẽ giảm hoạt tính hoặc mất hẳn hoạt tính. Khi chiếu tia tử ngoại lên
protein các nhà nghiên cứu nhận thấy phổ hấp thụ của protein (λmax=280nm) có liên quan
tới phổ hấp thụ của một số axit amin như tirozin, triptophan, xistein. Khi chiếu tia tử
ngoại có bước sóng 260nm đến 280nm lên dung dịch enzyme sẽ dẫn tới khử hoạt tính
enzyme. Với bước sóng chiếu trên thì chỉ có tirozin và triptophan hấp thụ. Vì vậy, người
ta cho rằng chủ yếu do tirozin và triptophan đã hấp thụ tia tử ngoại nên bị phá hủy cấu
trúc, dẫn tới làm mất hoạt tính của enzyme.
Thực nghiệm xác định để ức chế enzyme là tripsin thì cần phải phá hủy một trong bốn
gốc triptophan và một trong sáu gốc xistein còn để khử hoạt tính của pepsin chỉ cần phá
hủy một gốc triptophan. Quá trình hấp thụ tia tử ngoại của axit amin theo dạng sau:
AH ⎯⎯→ hγ
AH* (trạng thái kích thích)
(axit amin)
Tiếp theo xảy ra quá trình quang ion hóa của axit amin đã được hoạt hóa (kích thích):
AH* ⎯⎯→ AH+ + e- ⎯⎯→ A + H+ + e-
A + B ⎯⎯→ A - B
Axit amin do sự quang ion hóa đã mất một proton (H+) và một điện tử (e -) để sau đó kết
hợp với một chất khác (ký hiệu là B) tạo thành phức chất (A-B). Chính phức chất này đã
làm biến đổi cấu hình phân tử protein dẫn tới làm mất hoạt tính enzyme.
Tóm lại, sự tổn thương cấu trúc và sự khử hoạt tính của phân tử protein chủ yếu liên quan
tới sự hấp thụ tia tử ngoại của các axit amin thơm như tirozin, triptophan, phenilalamin.
Ngoài ra, proton (H+) được hình thành do sự quang ion hóa axit amin cũng làm đứt liên
kết hydro góp phần thay đổi cấu trúc phân tử protein.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Chương 9
PHÓNG XẠ SINH HỌC
I. Các nguồn tia phóng xạ
Trong tự nhiên, tia phóng xạ được chia thành hai loại sau:
o
- Tia phóng xạ có bản chất là sóng điện từ có bước sóng cực ngắn (λ<10 A ) gồm tia Roentgen
(hay còn gọi là tia X) và tia gamma (γ).
- Tia phóng xạ có bản chất là hạt như hạt anpha (α), proton (p), notron (n), dòng điện tử
(e-), dòng pozitron (e+)...
Nguyên tố hoá học được ký hiệu AZ X , trong X là nguyên tố hoá học, A là số khối bằng
tổng của proton (p) và notron (n) có trong hạt nhân nguyên tử (A=p+n) còn Z là nguyên
tử số bằng số proton và xác định điện tích dương của hạt nhân. Trong bảng tuần hoàn
Mendeleev các hạt nhân có nhiều hơn 126 notron và nguyên tử số lớn hơn 82 thì đều là
những nguyên tố phóng xạ. Có 4 họ phóng xạ là Thôri ( 90 232
Th ), Urani ( 92
238
U ), Urani
( 235
92 )
U , Neptuni ( 237
93 Np . )
1. Tia phóng xạ có bản chất là sóng điện từ
1.1. Tia Roentgen
o
Tia Roentgen có λ<10 A , được hình thành từ ống phóng Roentgen (hình 9.1).
A K
• • •
• • •
1
2
50→100KV
Hình 9.1: Ống phóng Roentgen
A: Anốt (cực dương); K: Katốt (cực âm).
1: Các điện tử; 2: Tia Roentgen được phát ra.
Khi Katốt được đốt nóng và dưới tác dụng của điện trường từ nguồn điện cực lớn
100KV, các điện tử sẽ thoát ra khỏi Katốt và "bay" cực nhanh về hướng cực Anốt. Khi
điện tử đập vào Anốt, nó sẽ bị dừng lại một cách đột ngột và nhường phần lớn năng
lượng cho các điện tử của nguyên tử chất làm cực Anốt. Khi đó các điện tử ở trạng thái
kích thích có mức năng lượng cao (gọi là E2) khi trở về trạng thái ban đầu có mức năng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
E2 − Eo
lượng thấp (gọi là Eo) sẽ phát ra tia Roentgen có tần số: γ = (9.1) (h: hằng số
h
Planck)
Khi đó tia Rơnghen sẽ có năng lượng:
⎛ C⎞
E = h.γ (9.2) ⎜γ = ⎟
⎝ λ⎠
C: Vận tốc ánh sáng và λ là bước sóng ánh sáng.
Khi điện tử đập vào Anốt chỉ có 0,2% năng lượng phát ra tia Roentgen còn 99,8% năng
lượng chuyển thành nhiệt, đốt nóng Anốt. Ống phóng tia Roentgen hoạt động dưới điện
o
áp 400KV, phát ra tia Roentgen có bước sóng ngắn nhất là 0,03 A còn trung bình là
o
0,06 A .
1.2. Tia gamma (γ)
o
Tia gamma có λ<1 A , được phát ra do sự phân rã của hạt nhân nguyên tử Coban thành
nguyên tử Niken theo phản ứng sau:
60
Co→ 60Ni+γ1+γ2
Tia γ1: Có năng lượng 1,17MeV (Mega electron Vôn)
Tia γ2: Có năng lượng 1,33 MeV ( 1 MeV = 106 eV )
2. Tia phóng xạ có bản chất là hạt
2.1. Tia anpha (α)
Tia α được phát ra do sự biến đổi của hạt nhân nguyên tử Radi (Ra) thành nguyên tử
Radon (Rn) và phát ra tia α theo phản ứng:
226 222
88 Ra → 86 Rn + phát ra hạt α
( )
Hạt α chính là hạt nhân nguyên tử Heli 42 He . Thông thường mỗi nguyên tố phóng xạ
phát ra hạt α có một mức năng lượng xác định. Song cũng có trường hợp nguyên tố
phóng xạ phát ra hai loại tia α có năng lượng khác nhau. Như ví dụ trên, sự biến đổi của
226 222
hạt nhân nguyên tử 88 Ra → 86 Rn sẽ phát ra tia α có E=4,77MeV chiếm 94,3% và
E=4,59MeV (Mega electron Vôn) chiếm 5,7%.
Hạt α mang điện tích dương nên có khả năng ion hóa cao nhưng nó lại có khối lượng
tương đối lớn nên khả năng xuyên sâu yếu. Trong không khí, hạt α có năng lượng từ
4→10MeV, quãng đường đi của hạt α chỉ đạt từ 3→5cm. Vận tốc của hạt α có thể đạt tới
3 vạn km/giây.
2.2. Tia bêta (β)
Có hai loại:
- Bêta âm (β-): Khi hạt nhân nguyên tử thừa notron, nó sẽ chuyển về trạng thái ổn định
bằng cách chuyển notron thành proton và phát ra điện tử (goi là bêta âm) và notrino (γ) là
một thể trung hòa điện, có năng lượng rất thấp. Phản ứng xảy ra như sau:
n→p+e-+γ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ví dụ: Sự phân rã của phốtpho ( P ) thành lưu huỳnh ( S) sẽ phát ra tia bêta âm theo
32
15
32
16
phản ứng:
32
15 P
32
→16 S + e−
-
Điện tử (e ) phát ra có năng lượng cực đại Emax=1,7MeV. Trên thực tế để tính năng lượng
()
trong phân rã β- người ta qui ước lấy giá trị năng lượng trung bình E bằng
1
3
năng
1
lượng cực đại. Trong ví dụ trên ta có E = .1,7MeV≈0,57MeV.
3
Điện tử mang điện tích âm và chuyển động với vận tốc 3 vạn km/giây.
- Phân rã bêta dương (β+): Khi hạt nhân nguyên tử thừa proton, nó sẽ chuyển về trạng
thái ổn định bằng cách chuyển proton thành notron và phát ra pozitron (e+), gọi là phân rã
bêta dương kèm theo thể notrino (γ) theo phản ứng:
p→ n + e+ + γ
Ví dụ: Sự phân rã của phốtpho ( P ) thành Silic ( Si) sẽ phát ra tia bêta dương theo
30
15
30
14
phản ứng:
30
15 P →14
30
Si + e + + γ
Pozitron có khối lượng bằng khối lượng điện tử và mang điện tích dương. So với điện tử
thì pozitron rất không bền, nó rất dễ kết hợp với điện tử (gọi là sự hủy cặp) và phát ra hai
lượng tử gamma có năng lượng 0,51MeV.
2.3.Proton (p)
Năm 1919, Rutherford phát hiện ra hiện tượng hạt α đi qua môi trường không khí đã
làm xuất hiện hạt proton theo phản ứng:
α + 14 17
7 N → 8 O + p ( proton )
Proton chính là hạt nhân của nguyên tử hydro (H+), mang điện tích dương.
2.4.Notron (n)
Notron và proton là thành phần cấu trúc nên hạt nhân nguyên tử. Notron là thể trung
hòa điện (tức không mang điện tích) và có khối lượng xấp xỉ bằng khối lượng của proton.
( )
Nguồn notron thu được khi dùng hạt α bắn phá các nguyên tử nhẹ như Bery 94 Be theo
phản ứng:
α + 94 Be →12
6 C + n ( notron )
Các hạt notron có E đạt vài MeV gọi là notron nhanh, E nằm trong khoảng
10KeV→500KeV gọi là notron trung gian, E<10KeV gọi là notron chậm còn E=0,025eV
gọi là notron nhiệt (thường bị hấp thụ).
3. Những đơn vị đo lường cơ bản
- Đơn vị Roentgen (ký hiệu là R): Roentgen là liều chiếu tia Roentgen hay gamma, tạo ra
được 2,08.109 cặp ion trong 1cm3 không khí ở điều kiện tiêu chuẩn (p=1at, to=0oC) hay
tạo ra được 1,61.1012 cặp ion trong 1gam không khí cũng ở điều kiện tiêu chuẩn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ngoài ra còn dùng đơn vị Culông trên kg (C/kg) với công thức qui đổi 1C/kg không khí
= 3876R.
- Liều hấp thụ phóng xạ (Radiation absorbed dose: Ký hiệu là Rad): Rad dùng để tính
liều hấp thụ đối với tất cả các tia phóng xạ. Rad là liều hấp thụ 100ec bởi 1 gam vật chất
khi bị chiếu bởi bất kỳ tia phóng xạ nào.
Công thức qui đổi: 1ec=0,625.1012eV
- Đơn vị Gray (ký hiệu là Gy): Gray là liều hấp thụ 1J/kg môi trường vật chất khi bị
chiếu bất kỳ tia phóng xạ nào.
Công thức qui đổi: 1Gy=100Rad
- Liều tương đương: Cùng một năng lượng hấp thụ như nhau nhưng lại chiếu các tia
phóng xạ có bản chất khác nhau thì sẽ gây ra đối với người và động vật có vú những hiệu
ứng sinh học khác nhau. Nguyên nhân là do các tia phóng xạ có hiệu ứng sinh học tương
đối (HUSHTĐ) như sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
- Kiểu khuyếch tán đàn hồi, chủ yếu xảy ra đối với notron trung gian có
E=1keV→500keV. Trong khuyếch tán đàn hồi, notron truyền một phần năng lượng cho
hạt nhân nguyên tử, sau đó notron bị đổi hướng và năng lượng giảm dần.
- Kiểu khuyếch tán không đàn hồi xảy ra đối với notron nhanh có E=1MeV→10MeV.
Sau khi tương tác với hạt nhân nguyên tử, làm cho hạt nhân nguyên tử bị kích thích còn
bản thân notron cũng bị đổi hướng và năng lượng giảm dần.
- Kiểu thâu đoạt notron xảy ra đối với notron nhiệt có E=0,025eV. Khi hạt nhân thâu đoạt
notron nó sẽ trở thành hạt nhân mới và ở trạng thái kích thích. Sau đó hạt nhân bị vỡ ra
(hay bị phân hạch) thành hai hạt nhân kèm theo sự phát ra hạt notron.
IV. Cơ chế chung về tác dụng của tia phóng xạ lên cơ thể sống
Tác dụng của tia phóng xạ lên cơ thể sống lần lượt phải trải qua hai giai đoạn sau:
- Giai đoạn hóa lý: Giai đoạn này có thời gian tồn tại rất ngắn, từ 10-16 đến 10-6 giây.
Trong giai đoạn này các phân tử sinh học chịu sự tác dụng trực tiếp hoặc tác dụng gián
tiếp của tia phóng xạ. Thuyết tác dụng trực tiếp cho rằng đối tượng bị chiếu xạ (có thể là
cơ thể, mô hay cơ quan, tế bào, phân tử nghiên cứu) sẽ trực tiếp hấp thụ năng lượng của
tia và dẫn đến tổn thương hoặc tử vong. Thuyết tác dụng gián tiếp lại cho rằng đối tượng
bị chiếu xạ không trực tiếp hấp thụ năng lượng của tia mà chúng tương tác với các sản
phẩm của quá trình phân ly phóng xạ nước nên dẫn đến tổn thương hoặc tử vong. Đối với
những thí nghiệm invitro thì quan niệm trên dễ phân biệt còn với thí nghiệm invivo, các
nhà nghiên cứu lại qui ước: Khi bị chiếu xạ nếu là tác dụng trực tiếp thì các phân tử hữu
cơ sẽ trực tiếp hấp thụ năng lượng của tia và bị tổn thương cấu trúc nên dẫn đến tổn
thương chức năng. Nếu là tác dụng gián tiếp thì các phân tử hữu cơ sẽ không trực tiếp
hấp thụ năng lượng của tia mà tương tác với các sản phẩm của quá trình phân ly phóng xạ
nước và bị tổn thương cấu trúc nên dẫn đến tổn thương chức năng.
Trong giai đoạn hóa lý một số phân tử sinh học quan trọng như enzyme, nucleoprotein đã bị
tổn thương, người ta gọi đó là những tổn thương hóa sinh.
- Giai đoạn sinh học: Giai đoạn này thường kéo dài từ vài ngày đến hàng chục năm sau
khi bị chiếu xạ. Trong giai đoạn sinh học những tổn thương hóa sinh không hồi phục
được sẽ kéo theo những tổn thương chuyển hóa, dẫn đến những tổn thương hình thái và
chức năng. Có thể tóm tắt cơ chế chung về tác dụng của tia phóng xạ lên cơ thể sống theo
sơ đồ sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Giai H2O
đoạn
hóa O2
lý
(10 −6 s) Tạo ion và gốc tự do.
Phân tử bị thích thích
Giai
đoạn
sinh Gây ra các hiệu ứng sinh học
học (tổn thương hoặc tử vong)
Hình 9.5: Sơ đồ tổng quát về tác dụngáinh học của tia phóng xạ
Trong cơ thể sống, nước vừa là môi trường vừa tham gia vào thành phần cấu trúc của tế
bào. Ở người, nước chiếm trung bình 65%, cá biệt có mô nước chiếm 85%. Do vậy, khi
chiếu tia phóng xạ lên cơ thể sống sẽ gây ra hiện tượng ion hóa các phân tử nước:
Trong cùng một cơ thể, các tế bào và mô cũng có độ nhạy cảm phóng xạ khác nhau. Sau
đây là độ nhạy cảm phóng xạ của tế bào và mô xếp theo thứ tự từ cao đến thấp: 1. Bạch
cầu lympho; 2. Hồng cầu non và bạch cầu hạt; 3. Tủy bào; 4. Tế bào mô tinh hoàn, mô
ruột non, tế bào trứng, tế bào của các tuyến, tế bào phế nang, tế bào ống dẫn mật; 5. Tế
bào mô liên kết; 6. Tế bào thận; 7. Tế bào xương; 8. Tế bào thần kinh; 9. Tế bào não; 10.
Tế bào cơ.
VII. Các hiệu ứng sinh học liên quan tới sự chiếu xạ
1. Hiệu ứng tích lũy
Các sinh vật khi bị chiếu xạ đều thể hiện hiệu ứng tích lũy. Ví dụ: Liều gây tử vong đối
với động vật có vú là 103R. Nếu chiếu xạ 5 lần, mỗi lần chiếu 200R thì sau khi chiếu lần
thứ 5 động vật đã hấp thụ đủ 103R nên dẫn đến tử vong. Như vậy những tổn thương sau
mỗi lần chiếu xạ sinh vật đã không hồi phục được hoàn toàn mà vẫn còn lưu lại nên sau
mỗi lần chiếu xạ tổn thương càng nặng thêm, cuối cùng vượt quá giới hạn chịu đựng sẽ
dẫn tới tử vong.
2. Hiệu ứng nghịch lý năng lượng
Các tia phóng xạ có khả năng gây ra các hiệu ứng sinh học rất lớn ngay cả khi chiếu xạ
liều không cao (xét về mặt năng lượng thì có giá trị nhỏ).
Ví dụ: Liều gây tử vong cho động vật có vú là 103R, tương đương với 84000ec hay
0,002cal/g, với năng lượng này chỉ đủ tăng nhiệt độ 1 lít nước lên 1oC. Để giải thích hiệu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
ứng nghịch lý năng lượng, các nhà nghiên cứu đều dựa vào thuyết tác dụng trực tiếp hay
thuyết tác dụng gián tiếp.
3. Hiệu ứng pha loãng
Khi chiếu xạ liều lượng xác định lên dung dịch enzyme nó thể hiện: Nếu tia phóng xạ
tác dụng theo cơ chế trực tiếp với quan niệm một hạt (hay 1 photon) "bắn trúng"một phân
tử enzyme sẽ làm cho nó bị mất hoạt tính thì số phân tử enzyme bị mất hoạt tính có liên
quan tới nồng độ enzyme lúc ban đầu. Nếu nồng độ loãng thì số phân tử enzyme bị mất
hoạt tính ít còn nếu nồng độ cao thì số phân tử enzyme bị mất hoạt tính nhiều. Nếu tia
phóng xạ tác dụng theo cơ chế gián tiếp thì số phân tử enzyme bị mất hoạt tính chỉ liên
quan tới số lượng gốc tự do được hình thành trong dung dịch mà không liên quan tới
nồng độ của enzyme (trừ trường hợp nồng độ enzyme quá loãng hoặc quá cao). Các nhà
sinh học phóng xạ đã chiếu xạ vi khuẩn E.Coli ở trạng thái bình thường có nước (đặc
trưng cho cơ chế tác dụng gián tiếp) và ở trạng thái khô (đặc trưng cho cơ chế tác dụng
trực tiếp), kết quả thu được như sau:
Bảng 9.2: Số phân tử sinh học của tế bào E.Coli bị phá hủy khi chiếu xạ.
Phân tử No N1 N2 N1+N2
sinh học
ADN 2,1.104 48 14 62
ARN 4,2.104 96 28 124
Protein 4,7.106 230 370 600
Lipit 4,1.107 182 43 225
No: Số phân tử trong 1 tế bào.
N1: Số phân tử bị phá hủy theo cơ chế gián tiếp.
N2: Số phân tử bị phá hủy theo cơ chế trực tiếp.
Với kết quả này thì cơ chế tác dụng gián tiếp chiếm ưu thế hơn so với cơ chế tác dụng
trực tiếp (tỷ lệ 3 tác dụng gián tiếp: 1 tác dụng trực tiếp).
4. Hiệu ứng oxy
Hiệu ứng oxy thể hiện là trong khi đang chiếu xạ, nếu tăng nồng độ oxy thì độ nhạy
cảm phóng xạ tăng lên còn nếu giảm nồng độ oxy thì độ nhạy cảm phóng xạ lại giảm
xuống. Nếu ta tăng hay giảm nồng độ oxy trước hoặc sau khi chiếu xạ thì độ nhạy cảm
phóng xạ sẽ không thay đổi. Ví dụ: Chiếu xạ chuột bạch liều 1200R ở điều kiện oxy
chiếm 21% thì chuột chết 100%. Ngược lại, ở điều kiện oxy chiếm 5% nếu vẫn chiếu xạ
liều trên thì chuột sống 100%. Ngoài oxy thì oxít Nitơ (NO) cũng làm tăng độ nhạy cảm
phóng xạ. Sự tăng độ nhạy cảm phóng xạ khi tăng nồng độ oxy chỉ trong một giới hạn
nhất định. Nếu nồng độ oxy tăng quá 20% so với nồng độ bình thường thì độ nhạy cảm
phóng xạ không tăng lên nữa. Hiệu ứng oxy thể hiện rõ đối với tia X, tia γ, tia β nhanh
còn không thể hiện đối với tia α, tia proton. Gray giải thích hiệu ứng oxy theo cơ chế tác
dụng gián tiếp của tia phóng xạ. Theo Gay, dưới tác dụng của tia phóng xạ đã hình thành
nên một số lượng lớn các gốc tự do vô cơ (Ho, OHo) và hữu cơ (Ro). Trong điều kiện
chiếu xạ có oxy sẽ hình thành nên các peroxýt vô cơ (H2O2) và hữu cơ (RO2) là những
độc tố đã giết chết tế bào.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Alecxander lại giải thích hiệu ứng oxy theo cơ chế tác dụng trực tiếp. Khi chiếu xạ chính
các phân tử hữu cơ đã trực tiếp hấp thụ năng lượng của tia và hình thành nên các gốc tự
do hữu cơ (Ro). Trong điều kiện chiếu xạ có oxy đã tạo thành peroxýt hữu cơ (RO2) là
một độc tố đã giết chết tế bào.
5. Hiệu ứng bảo vệ phóng xạ
Dayli (1942) tiến hành chiếu tia X lên dung dịch enzyme thấy rằng: Nếu thêm vào dung
dịch chất thiourê hay lưu huỳnh thì số lượng phân tử enzyme bị mất hoạt tính sẽ giảm
xuống. Baron (1949) phát hiện xistein có khả năng hạn chế tử vong nếu tiêm cho chuột
liều từ 950mg→1200mg/kg vào thời điểm 5 phút trước khi chiếu xạ liều 800R. Sau này
các nhà khoa học đã tiếp tục phát hiện ra nhiều chất có khả năng giống như xistein và
được gọi là những chất bảo vệ phóng xạ. Để đánh giá hiệu lực của các chất bảo vệ phóng
xạ (BVPX), các nhà nghiên cứu đã đưa vào yếu tố giảm liều lượng (YTGLL) và được
tính theo công thức:
LD50/30 (lô sử dụng chất BVPX)
YTGLL = (9.3)
LD50/30 (lô không sử dụng chất BVPX)
LD50/30: Liều gây chết 50% động vật có sử dụng chất BVPX (hay không sử dụng chất
BVPX) trong 30 ngày theo dõi sau khi bị chiếu xạ (gọi là liều bán tử vong). Những chất
BVPX bao giờ cũng có YTGLL>1. Chất có ký hiệu WR-2721 do Mỹ sản xuất là chất
BVPX có YTGLL cao nhất, đạt 2,6.
Theo cơ chế tác dụng gián tiếp, các nhà nghiên cứu cho rằng các gốc tự do được hình
thành do chiếu xạ dễ dàng phản ứng với các chất BVPX hơn là các phân tử hữu cơ. Chính
vì vậy đã bảo vệ được các phân tử sinh học, nên hạn chế được sự tử vong.
Theo cơ chế tác dụng trực tiếp, các nhà nghiên cứu lại cho rằng các phân tử sinh học tuy
trực tiếp hấp thụ năng lượng tia nhưng lại truyền cho các chất BVPX để trở lại cấu trúc
ban đầu nên cũng hạn chế được sự tử vong. Hoặc chất BVPX làm giảm nồng độ oxy
trong cơ thể hay giải phóng chất BVPX có sẵn ở trong cơ thể, đều có tác dụng hạn chế sự
tử vong.
VIII. Các thuyết giải thích cơ chế tổn thương do tác dụng của phóng xạ
1. Thuyết "bia"
Thuyết "bia" do Desauer (1922), Crouser (1924) và Lee (1935) đưa ra. Trên cơ sở một
số thí nghiệm chiếu xạ dung dịch enzyme, dung dịch tế bào thấy rằng: Ở nồng độ dung
dịch vừa phải khi thay đổi liều chiếu xạ từ thấp đến cao thì số phân tử enzyme bị mất
hoạt tính cũng tăng lên làm cho đường cong tỷ lệ % sống sót có dạng đường thẳng (hình
9.6). Khi nồng độ dung dịch quá loãng thì các hạt của tia phóng xạ sẽ tương tác với nhau
hoặc khi nồng độ dung dịch quá cao làm cho các hạt của tia phóng xạ sẽ va đập lần 2 hay
lần 3 với phân tử enzyme đã bị mất hoạt tính (hay tế bào đã chết). Khi đó tỷ lệ % sống sót
sẽ có dạng hình chữ S (hình 9.7).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
O O
Liều chiếu Liều chiếu
Hình 9.6: Tỷ lệ % sống sót Hình 9.7: Tỷ lệ % sống sót
dạng đường thẳng dạng chữ S
Các tác giả cho rằng sự tử vong của tế bào hay là sự mất hoạt tính của enzyme xảy ra khi
chiếu xạ là do chỉ cần va chạm một lần giữa hạt của tia phóng xạ với "bia" của tế bào hay
phân tử enzyme. Theo các tác giả thì "bia" chính là nhân tế bào hay trung tâm hoạt động
của phân tử enzyme. Thuyết "bia" chỉ giải thích được cơ chế tác dụng trực tiếp của tia
phóng xạ lên dung dịch enzyme, dung dịch protein, dung dịch ADN... còn không giải
thích được hiệu ứng oxy.
2. Thuyết độc tố
Dựa trên cơ sở động vật khi bị nhiễm hóa chất độc hại sẽ dẫn tới sự tử vong nên các nhà
sinh học phóng xạ cho rằng khi bị chiếu xạ, trong cơ thể đã tạo thành chất độc nào đó và
chính độc tố này là nguyên nhân dẫn tới sự tử vong. Thực nghiệm đã xác định trong cơ
thể bị chiếu xạ có hình thành độc tố là peroxýt nhưng nó không phải tác nhân đầu tiên mà
là sản phẩm của quá trình phân ly phóng xạ nước, được tạo thành ở giai đoạn cuối của
quá trình tổn thương phóng xạ.
3. Thuyết giải phóng enzyme
Trên cơ sở thí nghiệm hoạt tính enzyme ở tế bào sau khi bị chiếu xạ tăng lên rõ rệt nên
Bacq và Alecxander (1952) đã đưa ra thuyết giải phóng enzyme. Khi tế bào ở trạng thái
sinh lý bình thường, nồng độ enzyme ở trong tế bào được kiểm soát theo cơ chế điều hòa
cảm ứng. Khi tế bào bị chiếu xạ thì tổn thương trước tiên là màng tế bào, màng nhân và
màng các bào quan. Ví dụ: ADNase có ở trong ty thể và lạp thể còn ADN có ở trong
nhân nên khi màng nhân và màng ty lạp thể bị tổn thương đã làm tăng phản ứng phân giải
ADN. Sau này Duver cho rằng lizoxom là bào quan chứa đủ loại enzyme, nếu màng
lizoxom bị tổn thương sẽ giải phóng ra các enzyme đủ giết chết tế bào.
Thuyết giải phóng enzyme chưa giải thích được màng tế bào có khả năng chịu đựng được
liều chiếu xạ rất lớn tới 10KR, trong khi đó liều tử vong của động vật có vú chỉ 1KR?
Mặt khác, khi chiếu xạ không phải hoạt tính enzyme nào cũng tăng lên, chẳng hạn
ADNase, ATPase, ARNase hoạt tính tăng không nhiều, thậm chí khi tăng khi giảm.
4. Thuyết phản ứng dây chuyền
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Dựa vào thực nghiệm là các loại mỡ kỹ thuật có thể xảy ra phản ứng dây chuyền và
phản ứng dây chuyền nảy nhánh cũng như tốc độ phản ứng dây chuyền tăng mạnh dưới
tác dụng của tia phóng xạ nên Taruxop (1952) đã đưa ra thuyết phản ứng dây chuyền.
Taruxop cho rằng: Tế bào ở trạng thái sinh lý bình thường có một hệ thống các enzyme
chống oxy hóa nên các thành phần lipit của tế bào không bị oxy hóa theo phản ứng dây
chuyền mà oxy hóa có sự kiểm soát. Khi bị chiếu xạ, hệ thống enzyme chống oxy hóa bị
phá hủy nên xảy ra phản ứng dây chuyền:
RH + hγ → Ro + Ho
Ro + O2 → RO2
RO2 + RH → ROOH + Ro
ROOH → RO + OHo
Ro, Ho, OHo là những trung tâm của phản ứng dây chuyền cùng với độc tố RO2 đã giết
chết tế bào. Thuyết phản ứng dây chuyền giải thích được hiệu ứng nghịch lý năng lượng,
nhưng lại không giải thích được hiện tượng đột biến di truyền có liên quan tới phân tử
ADN?
5. Thuyết cấu trúc chuyển hóa
Trên cơ sở giữa vi cấu trúc và quá trình trao đổi chất của tế bào có mối liên quan mật
thiết với nhau mà Cudin đã đưa ra thuyết cấu trúc chuyển hóa (1972). Thuyết này cho
rằng tia phóng xạ tác động lên cả vi cấu trúc lẫn quá trình trao đổi chất của tế bào. Sự
thay đổi của cả hai quá trình này có ảnh hưởng đến nhau, dẫn đến xảy ra nhiều hiệu ứng
gây tổn thương hoặc giết chết tế bào. Thuyết này giống thuyết "bia" ở chỗ xem tế bào là
một hệ dị thể, có độ nhạy cảm phóng xạ khác nhau ở từng pha (dịch nhân, màng nhân,
các bào quan...). Thuyết này khác thuyết "bia" ở chỗ xem sự xuất hiện tổn thương như là
xác xuất va chạm của tia phóng xạ với các thành phần quan trọng của tế bào. Cudin đặc
biệt nhấn mạnh sự biến đổi tính thấm của màng nhân, đóng vai trò quan trọng trong quá
trình bị tổn thương do tia phóng xạ gây ra. Song thực nghiệm lại xác định màng nhân
không phải là cấu trúc đầu tiên bị tổn thương phóng xạ. Vì thế giả thuyết của Cudin và
những giả thuyết trên vẫn chưa giải thích đầy đủ cơ chế tổn thương phóng xạ đầu tiên
diễn ra ở cơ thể sống.
IX. Tác dụng của tia phóng xạ lên phân tử sinh học
Trong các tế bào sống luôn có các phân tử vô cơ và hữu cơ nhưng quan trọng nhất là
các cao phân tử sinh học như ADN, protein, lipit, gluxít... Tổn thương ở các phân tử hữu
cơ sẽ dẫn đến tổn thương ở mức độ tế bào, mô, cơ thể. Các phân tử hữu cơ có thể nhận
năng lượng của tia phóng xạ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Biểu hiện chung ở các
phân tử bị tổn thương do chiếu xạ là:
- Gây hiện tượng đứt mạch dẫn tới làm giảm trọng lượng của phân tử hoặc khâu mạch sẽ
làm tăng trọng lượng phân tử.
- Làm thay đổi tính chất hóa lý dung dịch bị chiếu xạ như thay đổi độ nhớt, thay đổi hệ số
lắng, thay đổi điểm đẳng điện của phân tử nghiên cứu...
- Gây tổn thương cấu trúc hoặc phá hủy cấu trúc phân tử.
- Làm thay đổi hoặc phá hủy chức năng sinh học của phân tử.
Tổn thương của phân tử ADN dưới tác dụng của tia phóng xạ là sự thay đổi cấu trúc bậc
1, 2, 3, ảnh hưởng đến tính chất di truyền của phân tử. Setlov và Doyle (1954) khi chiếu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
xạ ADN khô trong điều kiện chân không sẽ gây ra sự phá hủy cấu trúc và làm mất khả
năng hòa tan của ADN. Với mẫu ADN khô, khi chiếu xạ thì hiệu ứng oxy thể hiện rất yếu
còn trong mẫu mà lượng oxy bằng lượng nước thì hiệu ứng oxy thể hiện rất rõ. Khi
không có oxy thì chủ yếu xảy ra sự đứt mạch.
Đối với protein, khi bị chiếu xạ thì thường dẫn tới các hiện tượng:
- Phá vỡ liên kết peptit trong mạch chính hoặc phá hủy cầu disunfit, dẫn tới làm giảm
trọng lượng phân tử.
- Xảy ra hiện tượng khâu mạch là sự dính kết giữa các phân tử protein với nhau làm cho
độ nhớt dung dịch protein tăng lên.
- Phá hủy cấu trúc phân tử dẫn tới làm mất chức năng sinh học của nó như đối với
enzyme thì bị mất hoạt tính xúc tác.
Trong nghiên cứu hay dùng enzyme hay vi khuẩn là những đối tượng được xem như ở
mức độ phân tử hay tế bào và dễ đánh giá là còn hay mất hoạt tính sinh học. Khi chiếu xạ
các đối tượng này, các nhà nghiên cứu đã rút ra qui luật logarit của tỉ số sống sót (hoặc
hoạt tính sinh học) sẽ tỷ lệ nghịch với liều chiếu xạ theo công thức:
N
ln = − k.D (9.3)
No
No: Số phân tử ban đầu
N: Số phân tử còn hoạt tính
D: Liều chiếu xạ
k: Hằng số (k đạt một giá trị nhất định đối với một loại phân tử sinh học xác định, bị
chiếu xạ bởi một loại bức xạ và ở trong điều kiện chiếu xạ nhất định).
Công thức (9.3) có thể viết dưới dạng:
N=No.e - kD (9.4)
Khi liều chiếu xạ càng cao thì số phân tử còn hoạt tính sẽ càng giảm.
Để đánh giá khả năng phá hủy phân tử của tia phóng xạ trong nghiên cứu người ta tính trị
số G (gọi là hiệu suất hóa phóng xạ). Đó là số phân tử của chất nghiên cứu bị phá hủy khi
hấp thụ năng lượng 100eV trong quá trình bị chiếu xạ. Trị số G của các bazơ Nitơ trong
phân tử ADN khi bị chiếu xạ tia X hay tia γ được trình bày trong bảng 9.3.
Bảng 9.3: Trị số G của các bazơ Nitơ trong phân tử ADN khi bị chiếu tia X hay γ
Bazơ Nitơ Trị số G
Trong dung dịch có O2 Trong phân tử ADN
Adenin 1,09 0,22
Guanin 1,09 0,17
Timin 1,89 0,40
Xitozin 2,15 0,38
Khi chiếu xạ, số phân tử bị phá hủy chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng số các phân tử
có trong tế bào nhưng cũng đủ gây ra đột biến di truyền, làm tổn thương hình thái và
chức năng, nếu nặng có thể giết chết tế bào.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
X. Tác dụng của tia phóng xạ lên quá trình phân bào
Chu kỳ sống của tế bào gồm 4 giai đoạn phát triển chính:
- Giai đoạn đầu tiên ký hiệu là pha G1 (Gap có nghĩa là pha hay giai đoạn) khi tế bào mới
được hình thành sau quá trình phân bào. Ở pha này tế bào thực hiện sinh tổng hợp protein
và tích lũy các chất cần thiết cho sự tổng hợp ADN ở pha sau đồng thời tế bào tăng về thể
tích. Pha này kéo dài nhất, có khi chiếm gần một nửa chu kỳ sống của tế bào.
- Giai đoạn tiếp theo gọi là pha S (Synthesis nghĩa là tổng hợp) là giai đoạn tổng hợp
ADN. Ở pha này hàm lượng ADN trong nhân tế bào đã tăng lên gấp đôi.
- Giai đoạn thứ ba gọi là pha G2, là pha hậu tổng hợp. Tế bào chủ yếu tổng hợp các chất
chuẩn bị cho quá trình phân bào.
- Giai đoạn thứ tư ký hiệu là pha M (Mitose có nghĩa là phân bào nguyên nhiễm) xảy ra
quá trình phân bào.
Bergone và Tribondeau từ kết quả nghiên cứu đã rút ra định luật, gọi là định luật phóng
xạ: "Độ nhạy cảm của tế bào trước tia bức xạ tỷ lệ thuận với khả năng sinh sản và tỷ lệ
nghịch với mức độ biệt hóa tế bào". Trường hợp ngoại lệ, tế bào lympho đã biệt hóa hoàn
toàn nhưng lại có độ nhạy cảm phóng xạ cao nhất.
Khi chiếu xạ liều thấp, đối với những tế bào chưa bước vào pha phân bào thì bị ngừng
hẳn quá trình phân bào còn tế bào đã bước vào pha phân chia thì sự phân bào sẽ bị chậm
lại hoặc ngừng hẳn quá trình phân bào. Nếu tế bào đã ở pha S tức là ADN đã được nhân
đôi, nếu tế bào ngừng phân chia và tiếp tục phát triển sẽ dẫn tới hiện tượng đa bội thể. Đa
số tế bào động vật và thực vật có liều ức chế tạm thời quá trình phân bào là 50R. Đặc biệt
trứng của một số động vật không xương sống ở biển như trứng cầu gai, liều ức chế phân
bào là 104R. Serclo sử dụng Poloni chiếu lên bào tử cây dương xỉ thấy rằng: Hiện tượng
ức chế quá trình phân bào xảy ra cả khi chỉ chiếu xạ nhân hay chỉ chiếu xạ nguyên sinh
chất. Song liều gây ức chế sự phân bào khi chỉ chiếu xạ nguyên sinh chất cao gấp 20 lần
liều khi chỉ chiếu xạ nhân. Kết quả tương tự cũng thu được khi chiếu xạ lên trứng của ong
hay tằm. Khi chiếu xạ, sự tổn thương của hạt nhân có ý nghĩa quyết định tới sự tổn
thương hay gây chết tế bào. Điều này lại được Axtrakhob (1947) xác định qua thí
nghiệm: Lấy hạt nhân của tế bào bị chiếu xạ đem cấy vào tế bào không chiếu xạ đã bị lấy
mất nhân thì tế bào ghép có nhân bị chiếu xạ còn nguyên sinh chất không chiếu xạ chỉ
sống được 3 ngày. Trong khi đó tế bào ghép có nhân không chiếu xạ và nguyên sinh chất
bị chiếu xạ đã sống được tới 3 tuần. Vai trò của nhân trong hoạt động sống của tế bào,
thực chất là vai trò của phân tử ADN - phân tử lưu giữ thông tin di truyền của tế bào. Do
vậy, khi chiếu xạ, tổn thương ở nhân sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sống của
tế bào.
XII. Một số ứng dụng của nguồn tia phóng xạ ion hóa
* Phương pháp chiếu xạ gây ra biến dị để tạo giống mới
Qua quá trình sử dụng nguồn tia phóng xạ tác dụng lên đối tượng sinh vật, gây ra biến
dị để tạo giống mới, các nhà khoa học đã rút ra những nhận xét sau:
- Kết quả chiếu xạ chịu ảnh hưởng vào các điều kiện của hạt khi chiếu xạ như nhiệt độ,
độ ẩm, oxy, độ pH... Do vậy, với một lô đem chiếu xạ, phải chọn các hạt đồng nhất về
trọng lượng, kích thước, độ ẩm, nhiệt độ, nồng độ oxy, độ pH v.v...
- Liều chiếu xạ gây ra đột biến để tạo giống mới thường sử dụng từ 10KRad đến
100KRad.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
- Suất liều lượng ảnh hưởng đến số lượng đột biến. Liều gây đột biến gấp đôi đột biến
xuất hiện ngẫu nhiên gọi là "liều gấp đôi". Thực tế xác định khoảng từ 15-30 Rad trong
một lần chiếu còn nếu chiếu liều thấp và thời gian chiếu lâu thì "liều gấp đôi" sẽ lên tới
100 Rad.
Khi tổng liều chiếu nhỏ hơn 1 KRad thì sử dụng suất liều là 10-100 Rad/phút còn khi
tổng liều chiếu lớn hơn 1 KRad thì sử dụng suất liều là 500 Rad/phút.
- Sau chiếu xạ, tần số gây ra đột biến có lợi là rất thấp và đa số trường hợp đột biến xuất
hiện đã không di truyền được cho thế hệ sau.
Qui trình chiếu xạ để chọn giống mới, tuần tự theo các bước sau:
1. Chiếu xạ hạt để gây ra đột biến
2. Thử nghiệm để chọn lọc những đột biến có lợi
3. Xác định thuộc tính mới có lợi và mức độ ổn định qua các thế hệ.
4. Nhân giống.
* Ứng dụng phương pháp chiếu xạ để tiêu diệt côn trùng có hại
Có nhiều phương pháp để tiêu diệt côn trùng gây hại nhưng sử dụng phương pháp chiếu
xạ lại rất hiệu quả và không gây ra ô nhiễm môi trường.
Phương pháp sử dụng là chiếu xạ lên côn trùng để tạo ra những thuộc tính bất lợi cho côn
trùng như chết yểu, con đực vô sinh, con cái đẻ ít trứng hay có tỷ lệ sinh con đực cao...
Kết quả đã thu được đối với ruồi gây hại cho ngành chăn nuôi ở phía Nam nước Mỹ và
Mehico bằng cách thả 50 triệu con đực vô sinh, cuối cùng giống ruồi này đã bị tiêu diệt.
* Sử dụng phương pháp chiếu xạ để khử trùng
Phương pháp khử trùng dùng tia bức xạ ion hóa rất hiệu quả và sạch, đặc biệt đối với
những vi khuẩn và nấm mốc, khử trùng bằng nhiệt độ cao đã không tiêu diệt hết được.
Trong công tác khử trùng bằng nhiệt, người ta hay dùng liều tử vong 90% (ký hiệu là
LD90) là liều cần thiết để diệt 90% số vi khuẩn đem chiếu xạ và còn gọi là liều thập phân.
Liều thập phân (LD90) rất thích hợp cho việc tính toán liều khử trùng. Với chủng vi khuẩn
có No là số tế bào ban đầu còn N là số tế bào vi khuẩn còn sống sót sau chiếu xạ liều D
thì liều chiếu được tính theo công thức:
D=LD90.(logNo-logN) (9.5)
Để khử trùng thực phẩm, năm 1960, Smit và Nate đã đề xuất phương pháp xác định trực
tiếp liều LD90 với quần thể ban đầu là 109 bào tử. Cách thực hiện: chọn 20 hộp thịt (hay
nước hoa quả) cần khử trùng, được cấy thêm vào mỗi hộp 1ml hỗn dịch chứa 108 bào tử
Clostridium botilium rồi đóng hộp lại. Sau khi chiếu xạ liều D xác định rồi để các hộp
vào tủ ấm 37oC trong một thời gian (chẳng hạn 1 tháng). Sau 1 tháng, kiểm tra xem có
hộp nào bị hỏng như có độc tố hoặc còn bị nhiễm khuẩn. Trường hợp có độc tố, tách
chiết độc tố và tiêm phúc mạc chuột để thử độc tính.
Gọi M là tổng số bào tử đã tiêm vào cả 20 hộp thịt còn D là liều chiếu xạ và N là số hộp
có chứa độc tố.
Liều thập phân được xác định theo công thức:
D
LD 90 = (9.6)
log M − log N
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Trong thực tế để diệt nấm mốc và vi khuẩn, người ta hay áp dụng liều từ 300KRad đến 1
triệu Rad.
* Sử dụng phương pháp chiếu xạ để bảo quản lương thực, thực phẩm
Phạm vi áp dụng và liều sử dụng như sau:
- Chiếu xạ liều nhỏ hơn 100KRad để chống nảy mầm ở khoai tây, hành, tỏi v.v..., làm trái
cây chậm chín như chuối, cam, quýt..., tiêu diệt côn trùng để bảo quản ngũ cốc như lúa,
ngô, lạc, đậu tương v.v...
- Chiếu xạ liều từ 100KRad → 1 triệu Rad để bảo quản thịt tươi, cá tươi, trứng v.v...
- Chiếu liều từ 1 triệu Rad → 5 triệu Rad để khử trùng các chất phụ gia, gia vị, chế phẩm
enzyme v.v...
* Sử dụng nguồn phóng xạ trong y học hạt nhân
Trong y học hạt nhân thường sử dụng tia gamma (γ), liều dùng từ 100 Rad → 103 Rad để
điều trị bệnh ung thư. Để chẩn đoán bệnh các bác sỹ thường sử dụng các chất đồng vị
phóng xạ để ghi hình cơ quan, từ đó có hướng điều trị. Ví dụ để chẩn đoán bệnh về tuyến
giáp, bác sỹ sẽ cho bệnh nhân sử dụng thuốc có đánh dấu Iốt phóng xạ (I131). Sau một
thời gian, phần lớn Iốt tập trung ở tuyến giáp và phát ra tia γ, dùng máy ghi hình nhấp
nháy sẽ cho hình ảnh của tuyến giáp. Nếu tuyến giáp to sẽ mắc bệnh cường năng tuyến
giáp còn tuyến giáp nhỏ sẽ mắc bệnh thiểu năng tuyến giáp. Cùng với xác định một số chỉ
tiêu sinh hóa, các bác sĩ sẽ có hướng điều trị cụ thể cho bệnh nhân.
--------- ^ ] ---------