You are on page 1of 9

5. 1.7.

Tình hình nghiên cứu về chọn tạo giống dưa chuột trên Thế giới và ở Việt
Nam
Công tác nghiên cứu về chọn tạo giống dưa chuột đã và đang được nhiều nhà
nghiên cứu, nhà chọn tạo giống dưa chuột trên Thế giới quan tâm. Chọn giống là
tạo ra sự tiến hóa có định hướng là thay đổi các vật liệu có sẵn trong tự nhiên, hình
thành nên kiểu di truyền mới theo ý muốn của con người nhằm đáp ứng nhu cầu sản
xuất và xuất khẩu, đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.7.1. Tình hình nghiên cứu về chọn tạo giống dưa chuột trên Thế giới
Những năm 60, tại Học viện Nông nghiệp Timiriazev đã thu thập được 8000
mẫu giống dưa chuột đưa vào nghiên cứu và bảo tồn. Ngoài ra, tại viện nghiên cứu
rau (VIR) cũng bảo tồn một số lượng giống dưa chuột khổng lồ (hơn 8000 mẫu) của
toàn thế giới (Trần Khắc Thi, 1985) [9], Alexanyan (1994) [11]
Tại Mỹ, công tác thu thập nguồn gen được thực hiện từ những năm 1880,
với các đặc điểm quan tâm chính là hình dạng quả, màu sắc quả cũng như sự
thích nghi với điều kiện gieo trồng. Đặc biệt sự bảo trợ của nhà nước, từ năm
1936 công tác thu thập nguồn gen có hệ thống đã được tiến hành. Từ các kết quả
nghiên cứu đánh giá tập đoàn quỹ gen, nghiên cứu về di truyền giới tính, sinh lý
học tính chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, sâu bệnh hại và miễn dịch học cũng
đã được khai thác từ nguồn gen này. Staub và cộng sự (2000) [11] cho biết, việc
nghiên cứu 1345 mẫu dưa chuột tại hệ thống ngân hàng gen cây trồng Quốc gia Liên
bang (NPGS) bằng việc sử dụng isozyme để xác định cấu trúc quần thể của tập
đoàn và trên cơ sở đánh giá so sánh với 118 giống thương mại. Hiện tại, ngân hàng
gen dưa chuột được nghiên cứu, bảo tồn ở Colorado – phòng bảo quản hạt giống
quốc gia Fort Collins và tập đoàn công tác giống dưa chuột đã nhận được các mẫu
giống dưa chuột từ 58 quốc gia trên toàn thế giới. (Staub et al., 2000). [24]. Tại Mỹ
và Anh, các nhà chọn giống đã chọn tạo thành công giống dưa chuột. Năm 1939,
giống “Maine N0.2” là giống dưa chuột đầu tiên chống chịu được bệnh nứt quả ra
đời. Sau đó, Walker (1961) đã tiến hành tổ hợp giữa gen chống chịu bệnh nứt quả với
gen chống chịu bệnh virus CMV tạo thành giống “Wisconsin SMR 18”, đây là giống
dưa chuột muối chua quan trọng trong thời gian đó (Staub và cs., 1993) [23]

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1414
Tại viện nghiên cứu rau thuộc Viện hàn lâm Khoa học nông nghiệp Gansu –
Trung Quốc đã chọn được giống dưa chuột ưu thế lai Ganfeng3 có tính kháng bệnh
sương mai và bệnh đốm lá vi khuẩn, quả chín cực sớm, chất lượng quả tốt, năng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1515
suất ổn định khi trồng ở nhiều vùng sản xuất và đặc biệt là dễ bảo quản và vận
chuyển (Guiying, et al.,1995). Khi trồng giống Ganfeng3 vào vụ xuân, trong nhà có
mái che năng suất có thể đạt 124,5 tấn/ha.
Từ năm 1872, ở Mỹ và Anh các nhà chọn tạo giống dưa chuột đã chọn tạo
thành công giống dưa chuột lai F1. Năm 1939, giống “Maine No2” là giống dưa
chuột đầu tiên chống chịu được bệnh nứt quả ra đời. Sau đó, Walker (1961) đã tiến
hành tổ hợp giữa gen chống chịu bệnh nứt quả với gen chống chịu bệnh virus CMV
tạo thành giống “Winsconsin SMR 18”, đây là giống dưa chuột muối chua quan
trọng trong thời gian đó. Các nhà chọn tạo giống dưa chuột tiếp tục tổng hợp nhiều
gen chống chịu bệnh khác nhau và đã tạo ra giống “Sumter” chống chịu được 7
bệnh và giống “WI2757” chống được 9 loại bệnh (Staub, et al.,1993).
Các nghiên cứu về giống dưa chuột lai ngày càng được các nhà khoa học,
nhà chọn giống quan tâm hơn nữa sau khi sự thể hiện giới tính toàn hoa cái ở giống
dưa chuột của Hàn Quốc được phát hiện. Tính toàn cái được quy định bởi gen trội,
do vậy các gống lai F1 đơn tính cái thường có tỷ lệ đậu quả cao, năng suất chất
lượng tốt. Các giống này có đặc điểm chín tập trung, rất nhiều quả, quả đơn, phù
hợp thu hoạch bằng máy một lần. Năm 1962, giống dưa chuột lai “Spartan Dawn”
được
giới thiệu, đây là giống lai đơn tính cái đầu tiên. Ngày nay hầu hết các giống dưa
chuột của Mỹ là đơn tính cái. (Robinson, et al., 1999).
Giống dưa chuột lai “Polan” phục vụ chế biến đã được các nhà khoa học tại
Ba Lan nghiên cứu tạo ra, với đặc điểm giống 100% hoa cái và không yêu cầu thụ
phấn, quả ngọt, giòn, năng suất cao, chống chịu tốt bệnh vảy nến nên giống Polan
đã được phát triển tại viện nghiên cứu rau và đưa vào sản xuất năm 1972.
Từ những năm 1950, công tác điều tra thu thập, đánh giá và sử dụng nguồn
gen dưa chuột đã được phát triển tại Trung Quốc. Ban đầu các nhà chọn giống chỉ
lựa chọn các giống địa phương thụ phấn tự do, giống có đặc tính chống chịu bệnh
đặc biệt là bệnh sương mai và bệnh phấn trắng, những bệnh khá phổ biến ở cây dưa
chuột để nghiên cứu. Từ năm 1980, khi dưa chuột trở thành cây rau ăn quả bổ
dưỡng được người tiêu dùng ưa chuộng và mang nhiều lợi ích cho nhà sản xuất thì
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1515
công tác nghiên cứu chọn tạo giống ưu thế lai ở Trung Quốc càng được quan tâm.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1616
Loài dưa chuột hoang dại Cucumis hystrix đã được các nhà chọn giống Jin- feng
Chen và cộng sự tìm thấy ở tỉnh Vân Nam, miền nam Trung Quốc. Các tác giả tiến
hành lai loài dưa chuột dại Cucumis hystrix với loài trồng trọt Cucumis sativus, kết
quả lai tạo ra loài Cucumis hytivus (2n=2x=14). Sau đó, các tác giả đã sử dụng
giống lai Cucumis hytivus làm nguồn vật liệu công tác chọn tạo giống. (Chen and
Kirkbride, 2000). Bằng phương pháp tái tổ hợp các mẫu giống trong nước và nhập
nội đã tạo ra được các giống cho năng suất cao, chất lượng tốt và chống chịu sâu
bệnh, nổi bật là giống Jinchun No4 (Feng, Shuzhen, Dehua, 2000).
Năm 1991, Lower và cộng sự nghiên cứu tạo dòng tự phối theo phương pháp
chuẩn, chọn lọc cá thể kết hợp với thụ phấn cưỡng bức. Kết quả nghiên cứu đã tạo
được dòng dưa chuột tự phối Gy4 (Gynoecious). Sau đó dòng tự phối Gy4 đã được
sử dụng để lai và tạo giống dưa chuột F1 mang gen quy định tính tạo quả không hạt
Raleigh (parthenocarpy). Giống dưa chuột F1 Raleigh dùng để muối chua đóng hộp
phục vụ công nghiệp chế biến thực phẩm. (Lower, Wehner, and Jenkins, 1991).
Các nhà chọn giống tại trường đại học Kasetsart– Thái Lan đã xác định
được hai tổ hợp lai C5 x C4 và C11 x C5 có triển vọng trong số 12 tổ hợp lai được
đánh giá. Tổ hợp lai C5 x C4 có ưu thế lai về số hoa cái trên cây, chiều dài quả,
đường kính quả, độ dày thịt quả, khối lượng trung bình quả và tính chín sớm. Trong
khi đó, tổ hợp lai C11 x C5 cho ưu thế lai khối lượng quả và chiều dài quả. (Kasem
Piluek, 1991).
Công tác nghiên cứu về chọn tạo giống dưa chuột nói riêng và các loại cây
rau khác nói riêng đã và đang được thực hiện ở nhiều trường đại học, viện nghiên
cứu, hay các công ty giống rau ở khắp nơi trên thế giới. Các tập đoàn giống dưa
chuột được sử dụng làm đối tượng nghiên cứu về miễn dịch, ưu thế lai, cơ giới hóa
sản xuất và chế biến thực phẩm. Trong đó, sử dụng ưu thế lai là một trong những
hướng đi thu được nhiều kết quả quan trọng, là một bước tiến mới trong công tác
chọn tạo giống dưa chuột.
1.7.2. Tình hình nghiên cứu về chọn tạo giống dưa chuột ở Việt Nam
Do tập quán canh tác và điều kiện sản xuất nên hiện nay cây dưa chuột ở
nước ta vẫn được trồng ở ngoài đồng ruộng là chủ yếu. Các kết quả nghiên cứu về
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1616
chọn tạo giống dưa chuột trong nước còn rất khiêm tốn. Trước đây, hầu hết các

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1717
nghiên cứu tập trung vào các giống dưa chuột nhập nội và tuyển chọn các giống
thích ứng tốt đưa ra sản xuất. Trong những năm gần đây, công tác chọn tạo giống
ưu thế lai đối với cây dưa chuột phục vụ cho ăn tươi và chế biến công nghiệp theo
hướng năng suất cao, phẩm chất tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh và khả năng
thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau là mục tiêu nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học và bước đầu đã có những thành công được ghi nhận.
Từ năm 1974 đến năm 1980, tại Viện Cây lương thực- Cây thực phẩm, giống
dưa chuột Hữu Nghị đã được lai tạo thành công bởi Trần Khắc Thi. (Trần Khắc Thi,
1981). Ông tiến hành lai giống mẹ có tên Nau Fuximari- nguồn gốc Nhật Bản và
giống bố Quế Võ- giống dưa chuột địa phương ở Việt Nam, con lai thu được lai lại
với giống Nau Fuximari, sau đó chọn lọc cá thể đến đời F8 đã chọn ra giống dưa
chuột Hữu Nghị đáp ứng được nhu cầu sản xuất thời kỳ đó.
Năm 1989, từ cặp lai HN1 x CPL572, Vũ Tuyên Hoàng và Đào Xuân Thảng
đã nghiên cứu, áp dụng phương pháp chọn dòng của Guliaev, kết hợp phương pháp
thụ phấn đồng dạng. Đến năm 1993 đã chọn ra đuợc giống dưa chuột H1 có thời
gian sinh trưởng 90–100 ngày, năng suất 25–30 tấn/ha, đặc điểm giống: quả dài 18-
20cm, đường kính quả 3,5-4,0cm, vỏ quả màu xanh sáng, có thể trồng 2 vụ/năm là
xuân hè và thu đông (Vũ Tuyên Hoàng và cs., 1995).
Tiếp tục tiến hành các nghiên cứu về chọn tạo giống ở cây dưa chuột, nhóm
tác giả Vũ Tuyên Hoàng và cộng sự (1998) đã sử dụng tổ hợp lai TL1 x C95 tạo ra
giống dưa chuột lai F1 CP1, quả nhỏ, khối lượng quả 100-110g, cùi dày 1,2cm,
thích hợp cho chế biến xuất khẩu. Giống PC1 có thể gieo trồng được cả 2 thời vụ
xuân hè và thu đông. (Vũ Tuyên Hoàng, và cs., 1998).
Giống dưa chuột Sao Xanh là con lai F1 của tổ hợp lai DL15 x CP1583, được
tạo ra bởi Vũ Tuyên Hoàng và Đào Xuân Thảng bằng phương pháp sử dụng ưu thế
lai. Giống dưa chuột ưu thế lai F1 có thời gian sinh truởng là 85–90 ngày, cây sinh
trưởng khoẻ, năng suất 45–55 tấn/ha, quả to dài 23–25cm, đường kính quả 3,5-
4,0cm, độ dày thịt quả từ 1,2-1,5cm. Chất lượng quả tốt, giòn, thơm được người tiêu
dùng ưu thích. Ngoài ra, giống Sao Xanh còn có khả năng chống chịu khá với các
bệnh sương mai, phấn trắng, héo rũ và virus. (Tạ Thu Cúc, 2000).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1717
Viện cây lương thực và cây thực phẩm đã chọn tạo thành công giống dưa
chuột lai PC4 được tạo ra từ tổ hợp lai DL7 × TL15, được công nhận giống tạm thời
năm 2004. Giống có thời gian sinh trưởng: 85-90 ngày, thời gian thu quả 40-45
ngày. Quả ăn giòn, có hình dạng đẹp, màu xanh đậm, kích cỡ quả 20-24cm x 2,8 –
3,0cm, độ dày thịt quả 1,22cm, phù hợp cho ăn tươi và chế biến muối mặn xuất
khẩu. Khả năng chống chịu bệnh sương mai và bệnh phấn trắng tốt, giống thích hợp
cho vụ xuân hè và thu đông. Năng suất: 48-50 tấn/ha (vụ xuân hè) và 40-43 tấn/ha
(vụ thu đông). (Nguyễn Tấn Hinh và cs, 2004).
Giai đoạn từ năm 2001–2005, Viện nghiên cứu Rau Quả chọn tạo ra 2 giống
dưa chuột CV5 và CV11, qua nghiên cứu các mô hình thử nghiệm tại Hưng Yên,
Bắc Giang…cho thấy giống dưa chuột sinh trưởng, phát triển khoẻ, tỷ lệ đậu quả
cao, dài 18–20 cm, vỏ quả xanh (CV11), xanh trắng (CV5), không bị đắng, phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng (Trần Khắc Thi và cs., 2005). Dựa trên kết quả nghiên
cứu dòng tự phối dưa chuột, các tác giả Ngô Thị Hạnh và cộng sự đã chọn tạo thành
công giống dưa chuột lai F1 quả dài CV29 từ tổ hợp lai D1/DK1 và 2 giống dưa
chuột quả nhỏ phục vụ chế biến là CV209-1 (ND3-2-5 x NA4-1-2) và CV209-2
(NB1-3-2 x NC5-2-3). Hai giống dưa chuột CV29 và CV209 đã được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận là giống sản xuất thử tháng 3 năm 2010
(Ngô Thị Hạnh và cs., 2009); (Phạm Mỹ Linh, 2009).
Nhằm tạo ra dòng dưa chuột tự phối đơn tính cái có khả năng kết hợp chung
cao làm nguồn vật liệu cho công tác lai tạo giống dưa chuột mới. Năm 2007-2008,
nhóm các tác giả Trần Khắc Thi, Phạm Mỹ Linh và Ngô Thị Hạnh đã tiến hành
nghiên cứu giống dưa chuột lai F1 Marinda– 100% hoa cái; các dòng dưa chuột đơn
tính đã chọn lọc đến thế hệ 17; các tổ hợp lai tạo được do phép lai đỉnh với vật thử
là giống dưa chuột YM15 (tạo ra từ giống Yên Mỹ) và AT73653 (tạo ra từ giống
Tam Dương). Việc sử dụng giống dưa chuột lai F1 Marinda thông qua phương pháp
tạo dòng tự phối đã thu được 5 dòng D1, D2, D8, D13 và D17 đạt mức độ đồng đều
khá về các tính trạng chiều cao cây và số lá/cây. Xác định được 5 dòng này có khả
năng kết hợp chung cao. Các dòng đơn tính cái mới tạo ra có thể sử dụng làm nguồn
vật liệu khởi đầu trong công tác lai tạo giống dưa chuột lai F1 có lượng hoa cái
nhiều, tạo tiềm năng cho năng suất cao. (Phạm Mỹ Linh và cs.).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1818
Cùng với sự tiến bộ vượt bậc của các ngành khoa học kỹ thuật và công
nghệ ứng dụng trong nông nghiệp, các nhà khoa học, nhà chọn tạo giống có
nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học mới đạt hiệu quả cao trong nghiên cứu và
ứng dụng vào sản xuất như: dùng phóng xạ, gây đột biến, biến nạp gen, dung hợp
tế bào trần.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page
1919

You might also like