You are on page 1of 6

Giá o viên biên soạ n: Chu Thị Hồ ng

Đề: Phân tích (cảm nhận) bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh.
A. Mở bài (Gợi ý 2 mở bài sau)
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh
(MB 1) - Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ
cứu nước. Hình ảnh quê hương cùng những kinh nghiệm của một người lính từng trải đọng
lại trong những vần thơ lắng sâu cảm xúc. Ông viết nhiều, viết hay về con người, cuộc sống
ở làng quê, về mùa thu.
- Tiêu biểu là bài thơ Sang thu. Sang thu không chỉ đẹp bởi những hình ảnh thiên
nhiên lúc sang thu giàu sức biểu cảm mà còn đẹp bởi những trải nghiệm cùng suy ngẫm
mang tính triết lí qua rung động tinh tế của tâm hồn thi sĩ.
(MB 2) Mùa thu là mùa của thi ca. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng thốt lên Thu đến – nơi
nơi động tiếng huyền ... (Thơ Duyên). Có rất nhiều những vần thơ hay thấm đượm sắc vàng
của thu. Tuy nhiên, có một người con của vùng đồng bằng Bắc Bộ không đợi thu chín vàng
để mê đắm mà trong lòng ông đã bâng khuâng, ngây ngất với cái khoảnh khắc giao mùa
nhẹ nhàng và tinh tế. Đó là nhà thơ Hữu Thỉnh cùng bài thơ Sang thu. Bài thơ  chính là cảm
nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.
B. THÂN BÀI
Hạ qua-thu đến, đó là quy luật khách quan không thể nào thay đổi. Trong khoảnh khắc giao
mùa tuyệt vời, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Nét đẹp chuyển thu
thật  tinh tế, dịu dàng. “Sang thu” ở đây là chớm thu. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu đã
bắt đầu tới với những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm
lắm mới có thể cảm nhận được. Ngay từ những câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện sự tinh tế đó
của mình qua dấu hiệu của mùa thu. Không như những nhà thơ khác cảm nhận mùa thu qua
sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá khô xào xạc: “Con nai vàng ngơ
ngác – Đạp trên lá vàng khô”(Lưu Trọng Lư). Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu từ những dấu
hiệu đời thường, gần gũi.Và trong biết bao hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh
giật mình thảng thốt, nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và gần gũi. Mùa thu trong
thơ ông chính là "hương ổi", là thứ hương đặc trưng của vùng quê Bắc Bộ -Việt Nam mỗi
khi thu về .  Đó là thứ hương vị thật dễ dàng để nhận ra ở chốn làng quê thôn dã. Nhưng có
phải bởi quen thuộc quá nên đôi khi ta lãng quên? Để đến khi nhận ra thì không khỏi bất
TRƯỜNG THCS HUỲNH THÚC KHÁNG - THANH KHÊ - ĐÀ NẴNG Page 1
Giá o viên biên soạ n: Chu Thị Hồ ng

ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi”. Cụm từ "bỗng nhận ra" giống như một phát hiện mới, diễn
tả trạng thái ngỡ ngàng ,một sự ngạc nhiên đầy thú vị khi khám phá ra điều gì đó mới mẻ.
Mùa thu về, từ bao giờ nhỉ? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà cũng đột ngột quá, thu về
với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây
ngỡ ngàng, nhà thơ chợt nhận ra hương thơm nồng nàn, hương vị chua chua, ngòn ngọt của
những quả ổi chín vàng ươm ấy lan vào không gian. Mùi hương ấy không hòa vào quyện
vào mà “phả” vào trong gió se nhẹ nhàng. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng.
Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại
vườn tược quê nhà,những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức,
thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại.
Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút hơi
lạnh, còn gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào
lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm
nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín
hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cũng nhờ hương ổi, bức tranh giao mùa có một sức
sống mạnh mẽ đến kì lạ, mà cũng bất ngờ cho lòng người. Hương ổi từ đó mà lan tỏa mãi
trong không gian và rồi vấn vương trong gió se - cơn gió heo may đầu mùa.
Mùa thu tới không chỉ có gió, có hương ổi mà còn có cả làn sương. Không gian thu lãng
đãng hơi sương, tạo cho khung cảnh thu thêm lãng mạn:
“Sương chùng chình qua ngõ”
Không phải là những hạt sương, cũng không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong
câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương” mà
là “Sương chùng chình qua ngõ”. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp từ láy gợi hình “chùng
chình” đã gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng  mắc khắp đường thôn ngõ xóm
làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình
yên. "Chùng chình" là sự cố ý muốn làm chậm lại, rung rinh, lay động. Nó mang dáng vẻ
thong thả, nhẹ nhàng như thiễu nữ đôi mươi. Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa vì thế
càng trở nên duyên dáng, nhẹ nhàng. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ khiến cho màn sương
thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai…Ngõ
ở đây vừa là ngõ thực của thôn làng, ngõ xóm …lại vừa là ngõ cửa của thời gian như chao
nghiêng ranh giới giữa hai mùa, mùa hạ thì chưa qua mà mùa thu thì chưa tới hẳn. Sương
như cố ý chậm lại, lưu luyến, muốn tận hưởng khoảnh khắc giao mùa tuyệt đẹp, điều đó
cũng gợi hình ảnh về bước đi của thời gian chậm rãi trong thời khắc giao mùa cuối hạ đầu
thu.

TRƯỜNG THCS HUỲNH THÚC KHÁNG - THANH KHÊ - ĐÀ NẴNG Page 2


Giá o viên biên soạ n: Chu Thị Hồ ng

Cảm quan tinh tế cùa nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên đó để rồi xao
xuyến:
"Hình như thu đã về"
Lời reo vui cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước
đi của mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm
nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”.
Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao
lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời
điểm chuyển giao. Thu đến đột ngột, bất ngờ, không báo trước, thiên nhiên vẫn còn lưu
luyến bịn rịn. Nhà thơ đã cảm nhận phút giao mùa sang thu bằng sự ngỡ ngàng. Do ngỡ
ngàng nên cả khứu giác, cả xúc giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể
tin, chưa dám chắc. Từ “hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng,
ngạc nhiên trong cái cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Đằng sau không gian làng
quê sang thu ấy ta cảm nhận tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình
yêu tha thiết của người con xứ Kinh bắc.
Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra
trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu
hình trong thiên nhiên và tạo vật. Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất,
đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Sông lúc sang thu không còn cuộn chảy dữ dội như
những ngày hè mưa lũ, mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm xuống. Từ láy
“dềnh dàng” đã gợi lên được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả lững lờ, mà mềm mại và
duyên dáng của con sông mùa thu quê hương ăm ắp nước, ngỡ như nó được nghỉ ngơi thoải
mái khi mùa hạ với những dòng nước lũ cuồn cuộn, ào ạt đã đi qua. Cái “dềnh dàng” của
dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy
tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải
nghiệm trong cuộc đời.
Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn
bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi thì chẳng mấy
chốc mùa đông cũng tới. Từ láy “vội vã” gợi ra sự gấp gáp, khẩn trương, nhanh chóng của
hình ảnh đàn chim bay .Những cánh chim đã bắt đầu vội vã bởi vì mùa thu đã về, nó phải
gấp gáp làm tổ, tha mồi chuẩn bị cho mùa đông rét mướt hoặc bay về phương Nam tránh
TRƯỜNG THCS HUỲNH THÚC KHÁNG - THANH KHÊ - ĐÀ NẴNG Page 3
Giá o viên biên soạ n: Chu Thị Hồ ng

rét. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.
Từ “bắt đầu” trong ý thơ được dùng rất độc đáo ,“bắt đầu vội vã” chứ không phải là “đang
vội vã”. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu
trong những cánh chim bay.
Như vậy, mùa thu của Hữu Thỉnh không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã,
gấp gáp. Sông dưới mật đất, chim ở trên trời; sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội
vã” lo lắng,... Hai hình ảnh xinh xắn đó được đặt cạnh nhau để khái quát không gian
mặt đất và bầu trời có sự vận động, thay đổi và cả đối lập nhau khi thu về . Ý thơ đồng
thời còn gợi cho người đọc một liên tưởng khác:Sự chuyển động của dòng sông, của cánh
chim phải chăng còn là sự chuyển mình của đất nước. Cả đất nước ta vừa trải qua chiến
tranh tàn khốc mới có được hòabình, và giờ đây mới được sống một cuộc sống yên bình,
êm ả. Nhưng rồi mỗingười dân Việt Nam cũng lại bắt đầu hối hả nhịp sống mới để xây
dựng đất nước trong niềm vui rộn ràng.
Đất trời mùa thu như đang rùng mình để thay áo mới. Cả bầu trời mùa thu cũng có
sự thay đổi:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Với việc sử dụng phép nhân hóa, động từ “vắt” để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám
mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao
rộng. Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn
thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng
thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Mùa hạ, mùa thu là hai đầu bến và đám mây là nhịp cầu
ô thước vắt qua. Nhịp cầu duyên dáng nối hai bờ thời gian. Đây là một hình ảnh thơ đầy
sáng tạo và thú vị của Hữu Thỉnh. Nhà thơ đã lấy không gian để miêu tả thời gian. Người ta
thường nói: khăn vắt vai, con đường mòn vắt ngang sườn núi….Hữu Thỉnh điểm vào bức
tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai
mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp
của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời
khắc giao mùa này.
Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên
hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn
vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao
(chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng sông). Bức tranh mùa thu được cảm nhận
bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt.

TRƯỜNG THCS HUỲNH THÚC KHÁNG - THANH KHÊ - ĐÀ NẴNG Page 4


Giá o viên biên soạ n: Chu Thị Hồ ng

Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim
vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Như thế,thiên nhiên đã được quan sát ở một không
gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như
“hương ổi” “gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể
với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh
có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.  Bức
tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động, giàu sắc gợi cảm. Đó là một bức tranh
thiên nhiên vào thu thật đẹp, nhẹ nhàng, trong trẻo và tinh tế.
Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian
và thời gian,sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về
con người, về cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần trong mưa”
Nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Trong
khổ cuối Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa ,nắng hàng ngày một sự hụt vơi – dấu hiệu của
sự chuyển mùa từ hạ sang thu. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, là sấm như mùa hạ nhưng mức độ
đã khác rồi. Mùa thu đến nhưng mùa hạ chưa đi nên vẫn còn nhiều nắng. Cái nắng cuối hạ
vẫn còn nồng, còn sáng nhưng cũng đã bắt đầu nhạt dần .Nắng thu trong trẻo và dịu dàng
hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. Và trong thời điểm giao mùa này, những cơn
mưa rào mùa hạ thường hay ào ạt, tới bất ngờ giờ cũng vơi dần đi. Vơi dần” không chỉ là ít
mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Dường như mưa cũng thưa dần và nhẹ nhàng hơn. Lúc
này sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội. Nó không còn đột ngột, đùng đoàng rền vang cùng với
những tia sáng chớp lòe như xé rách bầu trời trong những trận mưa bão tháng sáu, tháng
bảy nữa. Những thi liệu như "nắng, sấm, mưa" là những hình ảnh đặc trưng của mùa hạ
nhưng độ gay gắt của mùa hạ đang chuyển hóa thành dịu êm. Đây là dấu hiệu của mùa thu
và sự phân hóa giữa hai bờ ranh giới hạ - thu cũng thật là mong manh. Các từ “vẫn còn,
bao nhiêu, đã vơi” gợi cảm giác như nhà thơ đang cân, đo, đong, đếm nắng mưa của
đất trời. Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc
nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi là bớt, là ít đi nhưng vơi bớt
đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượngmà thôi, không có gì
là chừng mực cố định cả. Đất trời sang thu, nắng, mưa, sấm vẫn còn nhưng không
mạnh mẽ, dữ dội như trong hạ. Hẳn nhà thơ phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp
với thiên nhiên , bằng sự nhạy cảm của giác quan mới cảm nhận thấy điều đó.
Âm điệu khổ thơ trở nên trầm lắng suy tư. Có “đầy” thì có “vơi”, có “còn” thì có “hết”, có
“nắng” thì có “mưa”. Đó là quy luật của tự nhiên, của cuộc đời. Chính vì thế con người phải
TRƯỜNG THCS HUỲNH THÚC KHÁNG - THANH KHÊ - ĐÀ NẴNG Page 5
Giá o viên biên soạ n: Chu Thị Hồ ng

tiếp nhận một cách an nhiên. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Ở đây hình ảnh hàng cây đứng tuổi giống như một chứng nhân đang quan sát và lắng nghe
sự chuyển mình của vạn vật xung quanh và hình ảnh này cũng là những suy ngẫm mà tác
giả muốn gởi gắm trong bài thơ. Hàng cây đứng tuổi” phải chăng là hàng cây lâu năm, cây
cổ thụ đã đi qua bao cuộc chuyển mùa nên nó cứng cáp, khỏe mạnh chứ không còn non
yếu, nó đã quen với nắng, mưa, sấm sét nên không còn giật mình, sợ hãi mà bình tĩnh, điềm
nhiên trước ngoại cảnh, trước tiếng sấm khi cuối hạ đầu thu. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu
thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm
nghiệm. Cụm từ “hàng cây đứng tuổi” còn gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người
như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây
chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa ẩn
dụ, biểu tượng. Vẻ chín chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang
thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa
thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra
một mùa mới, một không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi “sang
thu”, con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường của ngoại cảnh,
của cuộc đời mà sẵn sàng đón nhận bằng tâm thế bình thản. . Có đặt hai câu thơ trong
hoàn cảnh đất nước ta những năm đầy khó khăn thử thách thì mới thấy hết được ý nghĩa của
hai câu kết. Nó khẳng định bản lĩnh cứng cỏi sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử
thách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. 
KẾT BÀI
Tóm lại, bằng các hình ảnh giàu sức biểu cảm và sự cảm nhận tinh tế, sáng tạo trong
việc sử dụng từ ngữ, phép nhân hóa, phép ẩn dụ, bài thơ "Sang thu" đã miêu tả thành công
sự biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu và qua hình ảnh
thiên nhiên nhà thơ đã gửi gắm những suy ngẫm của mình về cuộc đời. Bài thơ "Sang thu"
đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước quê hương trong tiết trời thu và khiến cho ta thêm yêu quý
đất trời quê hương mình. 

TRƯỜNG THCS HUỲNH THÚC KHÁNG - THANH KHÊ - ĐÀ NẴNG Page 6

You might also like