Professional Documents
Culture Documents
Số 4,
3, 20
30 tháng 01
10 năm 2019
2018
Top 10 Văn
Atwood đãhọc
dạydịch
tôi2018
làm đàn bà như thế nào
Hiện diện của Faulkner trong văn học Mỹ latinh
Trích dịch Người đưa sữa (Man Booker 2018)
Trích dịch 2666 của Roberto Bolaño
Trích dịch Ru
Truyện ngắn “Con gà bị chặt đầu” của Horacio Quiroga
Bohumil Hrabal: Tiếng cười cận kề cái chết
Truyện ngắn “Nghệ thuật làm ông lớn” của Joaquim Maria
28: Giữadechó
Machado và người
Assis
Anh chẳng
Lối viết vàbiết quáinói
tiếng gì về
nữtáctrong
phẩm của tôi: Đọc Bernhard ở
New York
Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ
Đọc Lưng rồng, Bóng đè và những truyện mới... theo công thức
toán!
Zzz REVIEW
Số 4, 20 tháng 01 năm 2019
Nhóm chủ trương: Zét Nguyễn, Y Lán
Phụ trách hình ảnh: Bơ
Thiết kế: Ụt Ịt
Biên tập: Liên Trịnh
Website: www.zzzreview.com
Liên hệ: zandzpublishing@gmail.com
2 Z Z Z REVIEW
Số 4
LỜI NGỎ
ĐIỂM SÁCH
19 Đọc Lưng rồng - Bóng đè và những truyện mới... theo công thức toán!
40 Đốn hạ: Buổi hoàng hôn của những thần tượng
129 Top 20 Văn học dịch 2018
142 Văn học Việt Nam 2018: Dấu ấn, hay ấn mãi không ra dấu?
FIC&POE
6 Machado de Assis, “Nghệ thuật làm ông lớn”
25 Juan Rulfo, Pedro Páramo (trích dịch)
36 Jorge Luis Borges, “Tấm gương và Chiếc mặt nạ”
44 Horacio Quiroga, “Con gà bị chặt đầu”
52 César Aira, “Bộ não phát nhạc”
98 Roberto Bolaño, “Điếm giết người”
89 Roberto Bolaño, 2666 (trích dịch)
110 Phan Ta Di, “Vagina Dentata: a tribute”
116 Amoz Oz, Chuyện kể về tình yêu và bóng tối (trích dịch)
151 Clarice Lispector, Giờ khắc của vì sao ấy (trích dịch)
Khi mở lời mời góp chữ, số này đi theo một theme kép: Tống cựu nghinh tân,
và Mỹ La tinh, không chỉ là García Márquez. Đây cũng là một sự đại liều.
Ngoài chuyện bản thân mình kiến văn nông nổi, viết về những đại sư Nam Mỹ
4 Z Z Z REVIEW
thì chẳng khác gì đánh trống qua cửa nhà sấm, chúng tôi còn hết sức nghi
ngại rằng văn học Mỹ La tinh mặc dù có rất nhiều fan cuồng trong giới elite,
mặc dù Trăm năm cô đơn là cuốn sách quốc dân sánh vai với Bố già và Nhà
giả kim, nhưng xét trên tổng thể hẳn là lời mời phát ra cũng chỉ heo hút như
tiếng kêu đồng vắng mà thôi. Ai ngờ.
13 bài viết/trích về văn học Mỹ La tinh trong số này chỉ là một sự cưỡi
ngựa xem hoa, nhưng thế nào đó mà cũng quy tụ anh hào nhiều thế hệ: từ
Machado de Assis tác giả vĩ đại nhất thế kỷ 19, đến Horacio Quiroga tác giả vĩ
đại đầu thế kỷ 20, đến Juan Rulfo đã trở thành bậc thầy của các thế hệ sau,
đến Borges bậc thầy của cả một thời kỳ văn chương thế giới, rồi bác Ricardo
Eliécer Neftalí Reyes Basoalto tức Neruda vừa cộng sản vừa Nobel, rồi nhảy
cóc qua giai đoạn Boom có García Márquez tới Roberto Bolaño đỉnh cao văn
chương đương đại (đọc phê bình của nhà nghiên cứu uyên thâm nào cũng thấy
gọi mỗi nhà văn Mỹ La tinh bằng cụ, chúng tôi cũng không dám nói trái).
Và chúng tôi cũng rất biết ơn sự đóng góp bài của những quái nhân đã
từ lâu khét tiếng dịch đàn như Cao Đăng, Quân Khuê, Nguyễn Huy Hoàng,
Nguyễn Trí Dũng, cùng rất nhiều người bạn mới đến với chúng tôi lần đầu
và hy vọng sẽ còn nhiều lần sau. Còn rất nhiều bài gửi tới do lý do thời gian
(là chủ yếu) mà phải chờ đến một số sau, chắc chắn sẽ có số sau, vì văn học
Mỹ La tinh là một đại dương mông mênh mà Việt Nam dù đã dịch nhiều hơn
chúng ta có thể tưởng rất nhiều(1), nhưng vẫn mới chỉ là dùng gàu tát bể.
Đến đây là nơi chúng tôi lại ngỏ lời cảm ơn bạn hữu đã tin tưởng gửi bài
và rộng lòng làm việc theo thời gian biểu quá quắt của nhà Z, cũng như người
thân, bạn bè và đồng nghiệp đã thể tất cho những lần khó ở, biến mất, xù tiến
độ... của chúng tôi. Và tất nhiên là các bạn, những người vẫn tiếp tục đọc, ủng
hộ hay chê bai nhà Z, và vỗ béo cho chú Ruồi Mía thêm trùng trục :) Số này
ngắn, để có thể tranh thủ đọc giữa bánh chưng mứt tết (LƯU Ý hầu hết các
bài đều không nên đọc trước khi đi ngủ); hy vọng số sau nếu có sẽ dài hơn,
sâu hơn và giới thiệu được nhiều tác giả mới toanh hơn. Số tiếp theo sẽ về văn
học Đông Á, mời các bạn góp bài, hoặc chữ, hoặc hình, hoặc manga đều được.
Z&Z
20-01-2019
1. http://tiasang.com.vn/-van-hoa/van-hoc-my-latin-o-viet-nam-6342?fbclid=IwAR1Ct-HDlyBqJ4fVuZHNwZaxYBM
5xkeyqLNCP7VgRV-BJFeyeI5YDVPzA_g
1. Nguyên tác tiếng Bồ Đào Nha Theoria do Medalhão (1881). Dịch từ bản tiếng Anh How to Be a Bigwig của Margaret
Jull Costa & Robin Patterson trong tập The Collected Stories of Machado de Assis (Liveright Book 2018). [Chú thích
của người dịch.]
6 Z Z Z REVIEW
Susan Sontag coi Machado de Assis (1839-1908) là cây viết vĩ đại nhất của
văn học Mỹ Latinh; Harold Bloom liệt ông đứng vào hàng ngũ 100 thiên
tài văn chương, cùng với những Dante, Shakespeare, Cervantes; và hẳn
nhiên ông được coi là nhà văn xuất sắc nhất của văn học Brazil. Machado
sở hữu khối lượng trước tác đồ sộ và đa dạng, từ truyện ngắn, truyện vừa
tới tiểu thuyết. Phong cách viết độc lạ và táo bạo của ông khiến các nhà phê
bình cho đến tận ngày nay vẫn tiếp tục tranh cãi khi muốn xếp ông vào một
trường phái nhất định. - Zét Nguyễn
1. Tác giả muốn nói đến William Pitt (1759-1806) người trở thành Thủ tướng nước Anh trẻ nhất năm 1783 lúc 24 tuổi.
Ông thôi giữ chức vụ này năm 1801, nhưng từ 1804 lại làm Thủ tướng cho đến khi qua đời. Ông thường được gọi là
William Pitt the Younger để phân biệt với người cha cùng tên (William Pitt the Elder) cũng là thủ tướng nước Anh
trước đó.
8 Z Z Z REVIEW
- Nhưng ai đã nói là...
- Con ơi, nếu cha không lầm thì con trai cha đã được trời phú cho một mức độ sự
trống rỗng tinh thần hoàn hảo rất cần thiết cho cái nghề nghiệp cao quý này. Cha không
nói đến chuyện con toàn lặp lại y hệt trong phòng khách những ý kiến con đã nghe ngoài
góc phố, hay ngược lại, bởi vì chuyện này, dù có bộc lộ phần nào sự thiếu suy nghĩ độc đáo,
nhưng có thể cũng chỉ là do nhất thời không nhớ ra được mà thôi. Không, cha nói đến cái
thái độ tủn mủn câu nệ kiểu lãnh tụ của con khi con nêu ý kiến, khen hay chê, về một kiểu
cắt may áo vest, kích cỡ cái mũ, hay tiếng cọt kẹt (hoặc không cọt kẹt) của đôi giày mới.
Phải, đó mới là biểu hiện nói lên bao điều, mới đúng là dấu hiệu hứa hẹn. Dù vậy, cũng
không có gì khó hiểu khi, theo tuổi tác, con có thể bị khổ sở vì những ý tưởng nào đó của
riêng con, cho nên điều quan trọng là phải trang bị cho cái đầu những cách phòng thủ vững
chắc. Ý tưởng thì ngay trong bản chất của nó vốn đã tự phát và đột ngột, cho dù ta có cố
gắng cách mấy thì ý tưởng cũng ào ra và tấn công ta. Đó đúng là điều giúp cho thiên hạ, vốn
rất giỏi đánh hơi ra kiểu ý tưởng này, phân biệt được chính xác ngay ai là ông lớn đích thực
và ai là ông lớn giả mạo.
- Hẳn rồi, chắc chắn là không thể tránh khỏi.
- Không đúng. Vẫn có cách. Con phải dốc sức ép mình tuân theo một chế độ như hình
phạt là hãy đọc các sách cẩm nang về phép tu từ, và nghe những bài diễn thuyết chính trị,
và các thứ tương tự. Những trò chơi phòng khách như đánh bài và chơi cờ domino là các
cách chữa trị hiệu nghiệm. Đánh bài còn có lợi thế đặc biệt là khiến người ta quen với sự
im lặng, và im lặng là hình thức tột bậc nhất của sự thận trọng. Cha không nói như vậy với
những hoạt động thể chất như bơi lội, cưỡi ngựa, hay các môn điền kinh, nhưng chính vì
những trò đó làm đầu óc thư thái nên lại khiến cho đầu óc phục hồi sức mạnh tinh thần.
Mặt khác, chơi bi-da thì tuyệt hay.
- Nhưng tại sao vậy? Chẳng lẽ bi-da không phải là hoạt động thể chất sao cha?
- Cha đâu có nói là không, nhưng có nhiều trường hợp mà thực tế quan sát được lại
chiến thắng lý thuyết. Cha khuyến khích con chơi bi-da chỉ vì nhiều thống kê được tổng
hợp tỉ mỉ đã cho thấy rằng những người thường chơi bi-da thì quan điểm của họ cũng suôn
đuột như cây cơ thọc bi. Tản bộ buổi chiều, nhất là ở những chỗ vui chơi giải trí và trưng
bày công cộng, cũng rất nên đi, miễn là con đừng có đi dạo một mình nghe. Bởi vì sự cô độc
chính là cái nhà máy sản xuất ý tưởng, và nếu bỏ mặc tinh thần cho nó muốn làm gì thì làm,
cho dù là ở giữa đám đông đi nữa, thì nó lại hay hoạt động lung tung vô lý.
- Nhưng nếu con không có sẵn người bạn nào chịu đi hay có thể đi cùng con thì sao?
- Đừng lo; lúc nào cũng có những chỗ tụ tập quen thuộc của những người ăn không
ngồi rồi, nơi thổi bay hết mọi hạt bụi cô đơn. Các hiệu sách, có lẽ là do bầu không khí sách
vở của nó, hay vì lý do nào đó cha không hiểu, không phải là chỗ thích hợp cho mục đích
1. Nguyệt san văn học, văn hoá và chính trị bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Paris từ năm 1829.
10 Z Z Z REVIEW
chỉ là trò thêm thắt vặt vãnh, tốt hơn hết thảy những thứ đó chính là những lời sáo rỗng
và những tục ngữ dân gian đã lưu truyền qua bao đời, đã in sâu vào trí nhớ của từng người
và cả thiên hạ. Những câu này có lợi thế là không buộc người nghe phải gắng sức một
cách không cần thiết để hiểu. Lúc này cha không liệt kê ra hết được, nhưng sau này cha sẽ
ghi ra giấy sẵn cho. Ngoài ra, nghề nghiệp mới mẻ này của con dần dần chính nó sẽ dạy
cho con biết cái nghệ thuật khó khăn là chỉ suy nghĩ những điều đã được người ta suy
nghĩ ra trước rồi. Còn sự hữu dụng của một phương pháp như thế thì hãy tưởng tượng
một trường hợp giả định. Một đạo luật được thông qua, đưa ra thực thi, nhưng không
hiệu quả; tai hoạ còn nguyên. Ở đây có sẵn đề tài để kích thích những bộ óc hiếu kỳ ngồi
không, xúi giục những chất vấn nhức đầu, rồi thu thập chi li các tài liệu với nhận xét, rồi
phân tích các nguyên nhân khả năng, khả dĩ, và khả nghi, rồi nghiên cứu vô tận năng lực
của cá nhân cần phải sửa đổi, bản chất của tai hoạ, rồi đưa ra cách khắc phục, rồi xét tới
hoàn cảnh có thể áp dụng. Nói tóm lại, đủ chất liệu cho nguyên cả một lâu đài từ ngữ,
ý kiến, và những lời lảm nhảm vô nghĩa. Nhưng con sẽ giúp bạn đồng loại với con thoát
được nỗi khổ phải nghe diễn thuyết dông dài chỉ bằng cách nói một câu đơn giản: “Cải
cách chứ không phải cách mạng!” Và cái câu ngắn gọn, trong sáng, rõ ràng này, móc từ
cái túi khôn dân gian ra, sẽ giải quyết vấn đề ngay tức khắc, và khiến mọi người lên tinh
thần như một tia nắng bất ngờ.
- Qua điều này thì, thưa cha, con thấy cha lên án việc áp dụng mọi phương pháp luận
hiện đại.
- Để cha nói cho thật rõ ràng. Đúng là cha lên án việc áp dụng chúng, nhưng cha hết
lòng khen ngợi chính cái cụm từ “phương pháp luận” đó. Cha cũng sẽ nói y như vậy về mọi
thuật ngữ khoa học tân thời, tất cả những từ ngữ đó con phải học thuộc lòng. Mặc dù đặc
điểm nổi bật của một ông lớn rất có thể là một thái độ kiên định bất di bất dịch, trong khi
các môn khoa học là sản phẩm của nỗ lực hằng ngày của con người, nếu con về sau rồi sẽ
thành ông lớn trong đời, con phải trang bị cho mình những thứ vũ khí hiện đại nhất. Bởi
vì một trong hai điều này sẽ xảy ra: hoặc là các từ ngữ khoa học này sẽ cũ mòn vì dùng quá
nhiều qua ba mươi năm, hoặc chúng vẫn còn nguyên sự tươi mới. Trong trường hợp đầu,
chúng sẽ vừa vặn với con như đôi găng cũ; trong trường hợp thứ hai, con có thể đeo chúng
trước ngực áo để khoe rằng cả con nữa, cũng am hiểu đâu ra đó như ai. Từ những cuộc
chuyện trò vụn vặt, cuối cùng con sẽ dần dần biết được là tất cả những thuật ngữ này cái
nào tương ứng với quy luật nào, tình huống nào, và hiện tượng nào; bởi vì cái phương pháp
nghiên cứu khoa học khác - từ sách vở và luận án của chính các chuyên gia - không những
vừa chán ngắt vừa mệt nhọc mà còn kèm theo nguy cơ tiêm nhiễm cho con những ý tưởng
mới, và như vậy là sai về cơ bản. Hơn nữa, nếu con bao giờ thật sự nắm được tinh thần của
những quy luật và công thức đó, gần như chắc chắn là con sẽ thích vận dụng chúng ở một
Và chắc chắn là một ông lớn mà hành xử như thế là hết sức phi khoa học.
- Trời, nghề này khó quá!
- Chưa hết đâu con.
- Ồ, vậy thì ta cứ tiếp tục.
- Cha chưa nói với con về lợi ích của sự quảng cáo. Quảng cáo là một cô nàng quyến rũ
và kiêu kỳ, và con phải ve vãn cô ả bằng những món quà nhỏ, kẹo hạnh nhân, túi ướp hoa
thơm, và các thứ bé nhỏ khác để thể hiện tình cảm không thay đổi của con chứ không phải
tham vọng táo bạo của con. Mong cô ả ban phát ái tình bằng cách làm những trò anh hùng
và hy sinh là chuyện tốt nhất nên để cho Don Quixote với mấy thằng điên khác làm. Ông
lớn đích thực sử dụng phương pháp khác. Thay vì bỏ công biên soạn một chuyên luận khoa
học về ngành chăn nuôi cừu, y sẽ mua một con cừu làm tiệc mời bạn bè đến chè chén, tin
này không thể không khiến dân chúng quanh đó chú ý. Chuyện này dẫn tới chuyện khác,
và con chưa kịp nhận ra thì đã thấy tên con đăng báo chí năm, mười, hay thậm chí hai mươi
lần. Các uỷ ban và phái đoàn đi chúc mừng anh hùng chiến trận, công dân ưu tú, hay người
nước ngoài là tình huống hết sức có ích, cũng như các tổ chức tôn giáo và đủ thứ câu lạc
bộ với hội đoàn, bất kể nó chuyên về thần thoại học, săn bắn, hay là múa ba-lê đều tốt cả.
Thậm chí cũng có thể kể luôn những sự việc nhỏ nhặt khác, miễn là chúng khiến thiên hạ
chú ý đến con. Để cha giải thích. Giả sử con mà té từ trên xe ngựa xuống, chẳng đau đớn
gì ngoài một chút sửng sốt bực mình, chuyện đó cũng đủ đánh trống thổi kèn la làng cho
thiên hạ biết rồi. Không phải vì bản thân sự việc đó, chuyện đó nghĩa lý gì đâu, nhưng mục
đích là để nhắc nhớ lại tình cảm của công chúng dành cho một cái tên thân thiết đối với
họ. Con hiểu chưa?
- Dạ, con hiểu.
- Đó là cách quảng cáo bình thường, dễ làm và ít tốn, nhưng còn nhiều cách khác.
Cho dù lý thuyết nghệ thuật có nói gì về đề tài này đi nữa, điều chắc chắn là tình cảm gia
đình, tình thân bạn bè, và uy tín với thiên hạ tất cả đều cổ vũ cho việc tái hiện bằng nghệ
thuật cái diện mạo của một người nổi tiếng hay được yêu mến quá. Chẳng có gì ngăn cản
con không được làm một đối tượng lỗi lạc như thế, nhất là khi đám bạn bè sáng suốt của
con không cảm thấy sự miễn cưỡng ở con. Trong trường hợp đó, không những phép lịch
sự thông thường bắt buộc con phải nhận lời đề nghị vẽ chân dung hay nặn tượng, mà con
12 Z Z Z REVIEW
lại càng không nên ngăn cản bạn bè con tổ chức triển lãm công cộng bức chân dung đó.
Bằng cách này tên tuổi của của con sẽ gắn chặt với con người con; những ai đã đọc bài diễn
văn mới đây của con, chẳng hạn, nhân đại hội thành lập Liên đoàn Thợ hớt tóc Quốc gia
sẽ nhận ra ngay qua những đặc điểm thô kệch của con, rằng con chính là tác giả của một
đoạn kết hùng hồn đanh thép như thế, trong đó “những đòn bẩy của tiến bộ” và “mồ hôi
trên vầng trán” sẽ chiến thắng “những vực sâu chực chờ” của đói nghèo. Trong trường hợp
có phái đoàn mang bức chân dung đó đến nhà con, con phải cảm ơn lòng tốt của họ bằng
một bài đáp từ cảm tạ và một bữa tiệc - một phong tục đáng quý, hợp lẽ, và chân thật. Tất
nhiên con cũng sẽ mời những bạn bè thân nhất, các họ hàng của con, và nếu có thể, một vài
nhân vật nổi tiếng. Ngoài ra, do cái ngày đó là ngày vẻ vang và vui mừng, cha thấy không lý
nào lại lịch sự cự tuyệt mấy phóng viên báo chí một chỗ ngồi trong bàn. Trong trường hợp
rủi ro là các quý ngài báo chí ấy vì bổn phận ngăn trở mà không dự được, con có thể giúp
họ bằng cách tự thảo một bản tin tường thuật những dịp vui mừng này. Và nếu con, vì lý do
thận trọng nào đó hoàn toàn dễ hiểu, không muốn tự mình dùng đến những tính từ chói
sáng cần thiết, thì hãy nhờ bạn hay họ hàng nào đó thêm thắt vào.
- Mấy chuyện này đâu có dễ, cha ơi.
- Con nói hoàn toàn đúng, con trai. Khó và sẽ mất thời gian, rất nhiều thời gian,
thực tế là nhiều năm kiên trì và khổ ải, nhưng hạnh phúc thay kẻ nào đến được Đất Hứa!
Những kẻ nào thất bại sẽ bị sự quên lãng nuốt chửng. Còn những kẻ chiến thắng thì
không! Hãy tin cha đi, con sẽ chiến thắng. Con sẽ thấy tường thành Jericho sụp đổ trong
tiếng kèn thần thánh(1). Chỉ khi đó con mới có thể nói là con đã thành đạt. Vào ngày đó
con sẽ trở thành một vật trang sức không thể thiếu, sự hiện diện bắt buộc phải có, một
địa vị cố định trong xã hội. Sẽ không cần gì phải đi lùng sục các cơ hội, uỷ ban, hội đoàn,
và câu lạc bộ nữa; chúng sẽ tự tìm đến con với cái vẻ tẻ nhạt, thô thiển của những danh từ
đã bị tước mất tính từ, và con sẽ là tính từ cho những bài diễn thuyết nặng nề của họ, đem
thơm ngát cho bông hoa của họ, đem tím ngắt cho bầu trời của họ, đem cao quý cho những
công dân của họ, đem đanh thép và súc tích cho những bản tin của họ. Và đó là điều quan
trọng hơn hết, bởi tính từ chính là linh hồn của ngôn ngữ, thành phần siêu hình và duy
tâm của ngôn ngữ. Còn danh từ là thực tế bị lột truồng và sống sượng; nó là chủ nghĩa tự
nhiên của từ vựng.
- Và tất cả những điều này, theo cha, chỉ là để dự phòng khi mọi việc khác đều thất bại
sao?
1. Theo sách Joshua trong Cựu ước, các bức tường của thành Jericho sụp đổ trong lúc quân Israel vừa diễu binh
quanh thành vừa thổi kèn.
14 Z Z Z REVIEW
thiết là con bắt buộc phải u sầu. Người nghiêm trang cũng có những phút vô tư lự chứ. Chỉ
có điều... và đây là điểm cốt yếu...
- Cha cứ nói đi.
- Con không bao giờ được châm biếm - cái kiểu thoáng nhếch mép đầy bí hiểm do mấy
tên Hy Lạp suy đồi nào đó nghĩ ra, được Lucian chớp lấy, truyền lại cho Swift với Voltaire,
và thành nét tiêu biểu của mọi kẻ hoài nghi và những kẻ tự do tư tưởng đầy trâng tráo.
Không. Tốt hơn nên kể chuyện tiếu lâm khiếm nhã, đó mới là bạn chí cốt, những chuyện
tiếu lâm tròn trịa, xấc láo, và khiếm nhã rành rành, không cần che đậy hay giả vờ e lệ, loại
chuyện đấm thẳng vào mặt ta, nhói đau như bị đạp vào lưng, khiến máu ta sôi lên, và khiến
ta cười muốn tuột quần đó. Gì thế?
- Nửa đêm rồi.
- Nửa đêm? À, thế thì chàng trai, con đã bắt đầu tuổi hăm hai rồi đó; con đã trưởng
thành hẳn hoi. Ta sửa soạn đi ngủ đi; khuya rồi. hãy ngẫm nghĩ những gì cha vừa nói đó,
con trai. Xét cho cùng, cuộc trò chuyện của cha con mình tối nay cũng giá trị chẳng kém
cuốn Quân vương của Machiavelli đâu. Giờ đi ngủ thôi.
Trích từ chương “Thơ ca là nghề nghiệp”, trong tập hồi ký Confieso que
he vivido (Tôi thú nhận mình đã sống, di cảo xuất bản năm 1974). Dịch
từ bản tiếng Nga: Hồi ký - Thi ca Признаюсь: я жил. Воспоминания -
Поэзия, Издательство: Nhà xuất bản Sách Chính trị (Издательство
политической литературы), Moskva, 1978. Zét Nguyễn biên tập từ
bản tiếng Anh của Hardie St. Martin, Penguin Books, 1978.
16 Z Z Z REVIEW
... Có biết bao nhiêu là tác phẩm nghệ thuật trên đời... Thế giới của chúng ta không còn đủ
chỗ cho chúng... Đến phải treo chúng ra ngoài mất thôi... Có biết bao nhiêu là sách to sách
nhỏ... Ai là người có thể đọc hết được tất cả đây?... Ôi, cứ cho là chúng ăn được đi chăng
nữa... Cứ cho là khi rơi vào cơn đói khủng khiếp, chúng ta có thể đem chúng làm món salat,
xắt chúng ra, nêm gia vị, tra tiêu ớt... Thế nhưng không tài nào thêm được nữa... Chúng ta
đã no ứ đến tận cổ rồi... Thế giới đang chìm ngập trong con triều cường sách vở... Reverdy(1)
có lần đã nói với tôi: “Tôi đã báo trước với bưu điện, để họ không gửi sách về nhà cho tôi
nữa. Không còn lấy đâu ra sức để mở xem những cuốn sách mới nữa. Chẳng còn chỗ để
nữa. ... Đâu đâu cũng toàn sách là sách, chúng bò lên khắp cả bốn bức tường rồi, tôi sợ rằng,
chẳng mấy nỗi, vô phúc mà chúng đổ ập xuống đầu tôi”... Mọi người ai cũng biết Eliot...
Khi còn chưa là hoạ sĩ và đạo diễn, còn chưa bắt đầu viết những bài báo tuyệt vời, ông đã
đọc thơ của tôi... Tôi vui sướng biết bao nhiêu... Hiếm có ai hiểu thơ tôi đến thế... Nhưng
có một lần, ông ấy đọc cho tôi nghe một bài thơ của ông, và tôi, như một kẻ ích kỷ nhất
hạng, bỏ chạy và gào lên: “Thôi đi, thôi đủ rồi đấy!...” Tôi chạy vào buồng tắm và chốt cửa
lại, nhưng Eliot vẫn cứ đứng ngoài cửa, đọc cho đến hết mới thôi... Tôi cảm thấy rất buồn
lòng... Nhà thơ Scotland Fraser lúc ấy cũng có mặt... Ông ấy đã trách tôi: “Tại sao ông lại
đối xử với Eliot như thế?...” Tôi trả lời: “Tôi rất sợ mất một người bạn đọc của mình. Tôi
chăm mãi mới được đấy. Ông ấy thuộc đến từng nếp thơ của tôi... Mà Eliot đến là lắm tài...
Ông ấy biết vẽ này... Lại viết tiểu luận này... Nhưng tôi muốn nâng niu, gìn giữ ông ấy với tư
cách là một bạn đọc, chăm nom ông ấy như chăm một giống cây quý hiếm... Ông hiểu tôi
mà, Fraser...” Thực lòng mà nói, nếu mọi chuyện vẫn cứ mãi như thế này, các nhà thơ sẽ chỉ
viết cho các nhà thơ... Nhà thơ nào cũng sẽ dấm dúi bỏ vào túi nhà thơ khác sáng tác của
mình... bài thơ của mình... hay lén đặt nó vào đĩa của người khác... Quevedo(2) có lần đã lén
đặt một bài thơ vào đĩa phủ khăn ăn của nhà vua... Nhưng việc đó thực sự có ý nghĩa cơ...
1. Pierre Reverdy (1889-1960), nhà thơ Pháp, là người có ảnh hưởng lớn tới các trường phái nghệ thuật như Siêu thực,
Đa Đa, Lập thể. Ông là bạn của Pablo Neruda.
2. Ở đây Neruda muốn nói đến câu chuyện kể về việc nhà thơ Tây Ban Nha vĩ đại Francisco de Quevedo (1580-1645)
đã lén đặt bài thơ tố cáo một triều thần được sủng ái của nhà vua Felipe IV, và sau đó ông đã bị tù bốn năm và chết
trong tù.
18 Z Z Z REVIEW
Đọc Lưng rồng
- Bóng đè và
những truyện
mới... theo công
thức toán!
Trạch Nam
20 Z Z Z REVIEW
có thể dễ dàng đối chiếu giữa Bóng đè với Lưng rồng và những truyện mới (sau đây viết tắt là
Lưng rồng), nhất là khi chúng không được sắp xếp theo một thứ tự lịch đại.
Thật vậy, Lưng rồng hay Lam Vỹ, Hầm mộ thực chất chỉ tiếp nối chủ đề lớn mà Đỗ
Hoàng Diệu đã ấp ủ, thai nghén để viết nên Bóng đè: thân phận của người đàn bà trong
một xã hội nam quyền chật đầy những giáo điều. Trong cái xã hội nam quyền ấy, những
người phụ nữ bị ràng buộc trong những quy định khắt khe ngụy trang dưới lớp vỏ là những
chuẩn mực đạo đức, truyền thống gia đình, lòng yêu nước, sự sùng đạo v.v... mà thực chất
chỉ là các biến dị quái đản từ Nho giáo và suy rộng ra là một thứ Văn hóa Trung Hoa nửa
mùa và khuyết tật. Dưới ngòi bút của Diệu, Văn hóa Trung Hoa nam quyền chưa bao giờ
ngừng “hãm hiếp” nền văn hóa bản địa Việt Nam mang thiên tính nữ với nạn nhân cụ thể
là những thân phận đàn bà. Những toan tính “hãm hiếp” từ phương Bắc được biểu hiện
trực diện và quy mô bằng xung đột, chiến tranh giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa từ
nhiều đời nay mà dư âm gần gũi nhất chính là “cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc
1979”. Không chỉ vậy, người đàn ông Việt dù “yêu nước nồng nàn, kính trọng dân tộc mình
như bố mẹ ông bà tổ tiên” [Lưng rồng, tr10] có đẩy lùi được quân xâm lược phương Bắc,
nhưng vẫn bị hấp dẫn, tiêm nhiễm, đồng hóa từ các hệ thống giáo lý Trung Hoa. Chúng
biến họ thành những người đàn ông gia trưởng, đa nghi, tham lam và bội bạc, sẵn sàng coi
con gái ruột, người vợ, người yêu, người tình như những món hàng hóa không hơn, không
kém để đạt được những phồn vinh gia tộc giả tạo cho đến ham muốn xác thịt tầm thường.
Giữa “mình và họ”(1) - hai diễn ngôn nam quyền của phương Bắc và phương Nam dường
như cũng không thể phân biệt được trong truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu. Song nếu
chỉ có thế thì tại sao phải viết đến 5 truyện ngắn mới khi người ta đã bội thực với thứ văn
chương lan man, “minh họa” cho những người đàn bà bị “hãm hiếp” mãi không chừa vậy?
Những biểu tượng giật gân, bối cảnh rùng rợn đồng thời cũng là nhan đề nhiều truyện
ngắn của Diệu như “Lưng rồng”, “Bóng đè”, “Lửa đạo”, “Những sợi tóc màu tang lễ”, “Dòng
sông hủi” v.v. có lẽ khiến nhiều nhà báo, nhà phê bình và bạn văn của Diệu thích thú. Tôi
đoán vậy qua làn sóng bài viết ngợi ca Diệu thu được từ kết quả tìm kiếm về “Lưng rồng”.
Có lẽ, Lưng rồng và những truyện ngắn mới sẽ còn nhận được nhiều đánh giá tích cực
hơn nữa, nếu không dung chứa “Bóng đè”. Tôi mạnh dạn đoán xét như thế qua việc xem
điểm số đánh giá mà độc giả dành cho ba tác phẩm đã xuất bản của Đỗ Hoàng Diệu trên
Goodreads: Bóng đè đạt 1.75 điểm, Lưng rồng đạt 3 điểm, Lam Vỹ đạt 3.3 điểm. Theo tôi
đó là tín hiệu đáng mừng cho sự trở lại của một nhà văn sau hơn một thập niên tuyệt tích.
Càng mừng hơn nữa là sự trở lại ấy cũng không mất công sức đầu tư nhiều lắm khi tác giả
1. Từ dùng và cũng nhan đề một cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương.
22 Z Z Z REVIEW
người yêu của tôi, anh chỉ nên biết thế thôi. Và đĩ, thì ai ai cũng đĩ, chỉ khác có một đằng
đĩ với một người và một đằng đĩ với nhiều người.” “Lưng rồng” là câu chuyện về một cô gái
điếm đi xăm hình để chiều lòng người chồng mới cưới, nhưng rồi biến thành “Mị Châu cả
tin và dâm đãng”. “Bóng đè” là câu chuyện chiếm đoạt thân xác của những linh hồn nam
trong dòng họ của gã chồng tên Thụ với người vợ mới cưới. “Tình chuột” viết về Vy - một
cô gái vì muốn lấy anh chồng Việt Kiều mà bị lừa gạt, trở thành món hàng trao tay của
những gã đàn ông tham lam sắc dục. “Cổ thụ” viết về Huệ - một cô gái đi làm điếm sau cuộc
hôn nhân không tình yêu với Toàn. Những cô gái trong truyện của Diệu thường rơi vào
cảnh “làm đĩ” dù ngẫu nhiên hay cố ý.
Trong văn chương của Diệu, không tồn tại những phụ nữ xấu, các vẻ đẹp thanh tân
hay những người phụ nữ quá tuổi. Tất cả các nhân vật nữ chính trong tác phẩm của Diệu
đều đang ở độ chín của thanh xuân với nhan sắc mà cánh đàn ông phải thèm muốn. Vẻ đẹp
của người thiếu nữ trong “Lưng rồng” được nhận định chỉ bằng một câu thoại: “Đằng ấy
là tiên”. “Lửa đạo” mô tả nhân vật nữ là “một cô gái trẻ, sáng sủa, thông minh, lớn lên trong
sự nuôi dạy tử tế và tình thương yêu vô hạn của hai đấng sinh thành nhân hậu”. Vẻ đẹp của
Dực trong “Những sợi tóc màu tang lễ” khiến “bác bảo vệ cơ quan luôn nhìn khoảng trống
phía dưới cằm Dực và nuốt nước bọt vào bảy giờ”. Cô gái trong “Vu quy” thậm chí còn
tự nhận ra vẻ đẹp của mình bằng một lời xác quyết tự tin “tôi là thiên thần”. Chính vì họ
đẹp như “con cháu của Thúy Kiều” (tôi cũng không hiểu vì sao Diệu lại so sánh vẻ đẹp của
người con gái Việt Nam với một người đàn bà Tàu!), cuộc đời của họ phải trải qua bao sự
truân chuyên như... tất cả phụ nữ đẹp trên đời dường như đều có chung một bi kịch. Ta vẫn
thường gọi cái bi kịch đó bằng một cái tên rất chung chung, sến súa và vô nghĩa “Bi kịch
của cái đẹp”. Nếu muốn thoát khỏi bi kịch, họ chỉ có lựa chọn khả dĩ duy nhất là chết. Tất
nhiên, còn giải pháp khác là đi tu nhưng xem ra những người đàn bà trong truyện ngắn của
Diệu không được cửa phật và nhà chung ưu ái lắm.
Ở chiều ngược lại, tôi suy ra được công thức thứ 3 trong toàn bộ các truyện ngắn của
Diệu. Kẻ thù của đàn bà đẹp trong truyện ngắn của Diệu, nói như Tạ Biên Cương, đương
nhiên là đàn ông, không loại trừ bất kỳ ai, từ Tây sang Đông, từ Trung Quốc đến Việt Nam,
từ già đến trẻ, từ nhà văn, họa sĩ đến những kẻ vũ phu, từ người thành phố đến kẻ nông
thôn. Truyện ngắn của Diệu đã viết như thế. Trong 10 truyện ngắn đã công bố của Diệu,
những nhân vật đàn ông dù đến từ đâu đều có chung bảy mối tội đầu: ngạo mạn, tham lam,
dâm dục, phẫn nộ, phàm ăn, đố kỵ, lười biếng (thực ra phàm ăn là tôi bịa ra cho đủ bảy
tội). Nếu không mắc phải những tội ác ấy, những kẻ đó phải chịu một lời nguyền là hóa
điên. Đó là người họa sĩ già trong truyện ngắn “Mộng du”. Đó là 5 gã đàn ông trong truyện
ngắn “Cổ thụ” sau đêm bị mất đời trai với cô gái mại dâm tên Huệ. Người Thượng trong
“Dòng sông hủi” có thể là người bình thường duy nhất trong truyện ngắn của Diệu nếu
24 Z Z Z REVIEW
PedroPáramo (1)
(trích dịch)
Juan Rulfo
Nguyễn Trung Đức dịch
1. Tác phẩm đã được Phanbook mua bản quyền dịch và dự kiến phát hành bản dịch cuối tháng 1 năm 2019.
* * *
Lúc ấy đang trong tiết đại thử, gió tháng Tám, hôi mùi cỏ xà phòng ẩm mục thổi nóng ràn
rạt.
Con đường dốc bò lên hoặc trườn xuống: “Bò lên hay trườn xuống hoàn toàn phụ thuộc
vào người đang đi trên nó. Đối với người đi ra khỏi làng thì con đường bò lên. Đối với người
đang đi vào làng thì con đường trườn xuống”.
- Cái làng ở phía dưới kia gọi là gì, anh bạn có thể cho biết được không?
- Comala, thưa ngài.
- Anh bạn chắc chắn đây đã là làng Comala chứ?
- Đúng thế, thưa ngài.
- Vì sao nó lại có vẻ buồn thế kia?
- Vì nó dãi dầu với nhật nguyệt, thưa ngài.
Tôi mường tượng ra cái làng ấy qua những hồi ức của mẹ tôi, qua nỗi nhớ của bà giữa
những tiếng thở dài của bà. Bà thường sống não lòng vì làng Comala, mong ngày về làng
nhưng không bao giờ về. Giờ đây tôi trở lại làng thay bà. Tôi nhìn những sự vật này qua lăng
kính của bà vì bà đã cho đôi mắt của mình để tôi nhìn: “Khi qua ngọn đèo của những người
Colimotes thì ở đó hiện ra quang cảnh ngoạn mục của một bình nguyên xanh với những cánh
26 Z Z Z REVIEW
đồng ngô chín vàng. Rồi từ đó con sẽ thấy làng Comala trắng tuyền màu đất, sáng lung linh
trong đêm mờ!” Tiếng nói của bà bí hiểm, gần như thầm thì như thể bà đang nói với chính
mình... Mẹ tôi...!
- Ngài đến Comala có việc gì, nếu như ngài có thể nói cho tôi biết được? - Tôi nghe
thấy người ta hỏi mình.
- Tôi đến thăm ông cụ nhà tôi, - tôi trả lời.
- À! - Ông ta nói.
Rồi cả hai chúng tôi cùng im lặng.
Chúng tôi đi xuống, vừa đi vừa nghe thấy tiếng chân lừa rộn ràng nện trên mặt đất.
Trong cái oi nóng của tháng Tám, những con mắt mệt mỏi vì cơn buồn ngủ như muốn nổ
tung ra.
- Sẽ có cuộc vui để mừng ngài, - tôi lại nghe thấy tiếng nói của người đi cạnh mình.
- Sau nhiều năm không một ai qua đây, dân chúng sẽ mừng rỡ khi nhìn thấy có người đến
làng.
Sau đó y nói thêm:
- Dù ngài là ai đi nữa, dân chúng sẽ mừng rỡ khi trông thấy ngài.
Trong ánh nắng phản chiếu, bình nguyên hiện ra tựa như một cái hồ trong suốt xua
tan hơi nước để làm nổi bật đường chân trời xám màu ghi. Phía sau đó là một dải núi. Xa
hơn nữa, cõi mông lung muôn thuở.
- Ông cụ thân sinh ngài có đặc điểm gì, nếu như tôi có thể được biết?
- Tôi không được rõ lắm, - tôi trả lời. - Tôi chỉ biết cụ tên là Pedro Páramo.
- À, thế à!
- Vâng, người ta bảo rằng cụ tên là thế đấy.
Tôi lại nghe rõ một tiếng à của người dắt lừa.
Tôi gặp y ở Los Encuentros, một ngã tư đường. Ở đây tôi đang đứng chờ cho tới khi
xuất hiện con người này.
- Ông bạn đi đâu đấy? - Tôi hỏi.
- Tôi đi xuống, thưa ngài.
- Ông bạn có biết làng Comala không?
- Tôi đi về đấy đây.
Rồi tôi theo y. Tôi lẽo đẽo theo sau y, định bụng cố nhanh chân để đi ngang hàng với
y, cho tới khi y nhận ra tôi đang theo y và thế là y đi chậm lại. Sau đó chúng tôi đi rất gần
nhau, gần như là kề vai, sóng vai nhau:
- Tôi cũng là con của cụ Pedro Páramo, - y nói với tôi.
Trên bầu trời trống trải, một đàn quạ bay, kêu “quạ, quạ, quạ”.
Sau khi vượt qua các ngọn núi, chúng tôi ngày một đi sâu xuống. Chúng tôi đã để lại
28 Z Z Z REVIEW
- Đúng thế, tôi cũng tin là như vậy. Cái gì xảy ra ở đây vậy!
- Một con correcaminos(1), thưa ngài. Ở đây người ta gọi tên những con chim ấy như
thế.
- Không, tôi có hỏi thế đâu. Tôi muốn được biết về làng này, mà sao nom nó cô quạnh
thế, dường như hoang vắng không một bóng người.
- Không phải chỉ là dường như mà trên thực tế là như vậy. Ở đây không có ai sinh sống.
- Thế còn ngài Pedro Páramo thì sao?
- Ngài Pedro Páramo đã chết từ lâu rồi.
1. Kẻ lang thang.
1. Dịch từ tập tiểu luận Where the Stress Falls của Susan Sontag, NXB Picador, 2001. Tiêu đề do người dịch đặt.
30 Z Z Z REVIEW
Nhưng đoạn mở đầu sáng sủa, rõ ràng này chỉ là nước đi đầu tiên của cuốn sách. Trên
thực tế, Pedro Páramo là một tác phẩm phức tạp hơn nhiều so với cái ta có thể hình dung từ
những câu đầu tiên. Tiền đề của nó - một người mẹ qua đời cử con mình đi ra thế giới, cuộc
tìm kiếm người cha của đứa con trai - biến đổi thành một hành trình trong địa ngục qua
nhiều giọng kể. Câu chuyện diễn ra ở hai thế giới: Comala của hiện tại, mà Juan Preciado,
nhân vật “tôi” trong những câu đầu tiên, đang đi đến; và Comala của quá khứ, ngôi làng
trong ký ức người mẹ và tuổi trẻ của Pedro Páramo. Tác phẩm đổi đi đổi lại giữa giọng kể
ngôi thứ nhất và thứ ba, giữa hiện tại và quá khứ. (Những câu chuyện lớn không chỉ được
kể bằng thì quá khứ, chúng kể về quá khứ.) Comala quá khứ là ngôi làng của người sống.
Comala hiện tại là chỗ của cái chết, và những cuộc gặp gỡ sẽ đến với Juan Preciado khi cậu
ta đến được Comala đều là với các bóng ma. Páramo trong tiếng Tây Ban Nha chỉ một vùng
đất bỏ hoang, cằn cỗi. Không chỉ mình người cha cậu tìm kiếm đã chết, mà tất cả mọi người
trong làng đều đã qua đời. Chết rồi, họ không còn gì để bộc lộ ngoại trừ những gì là cốt yếu.
“Cuộc đời tôi mang theo rất nhiều im lặng,” Rulfo từng nói. “Cả trong văn của tôi
cũng vậy.”
Rulfo nói ông đã mang theo Pedro Páramo bên trong mình trong nhiều năm trời rồi
mới biết phải viết nó thế nào. Đúng hơn, ông viết ra hàng trăm trang để rồi vứt đi - ông từng
gọi tiểu thuyết là một bài tập lược bỏ. “Việc viết các truyện ngắn đã rèn giũa cho tôi,” ông
nói, “và làm tôi thấy được sự cần thiết của việc biến mất và để cho các nhân vật tự do muốn
nói gì thì nói, khiến cho tác phẩm xem ra thì thiếu cấu trúc. Nhưng trong Pedro Páramo có
cấu trúc, một cấu trúc đi ra từ im lặng, những manh mối lơ lửng, những cảnh bị cắt đi, nơi
mọi thứ diễn ra trong một thời gian đồng thời, tức là phi-thời gian.”
Pedro Páramo là một tác phẩm huyền thoại được viết bởi một nhà văn cũng đã trở
thành huyền thoại trong thời ông sống. Ông sinh năm 1918, tại một ngôi làng ở Jalisco,
chuyển lên thủ đô Mexico năm mười lăm tuổi, học luật tại trường đại học rồi bắt đầu viết,
nhưng không xuất bản, vào cuối thập niên 30. Các truyện ngắn đầu tiên của ông được đăng
trên tạp chí vào thập niên 40 và đến năm 1953 thì một tập truyện ngắn được xuất bản
với tên gọi El llano en llamas (tạm dịch: Bình nguyên trong lửa). Hai năm sau đấy, Pedro
Páramo xuất hiện. Hai cuốn sách đã xác lập vị thế của ông trong văn học Mexico, một giọng
văn nguyên bản chưa từng có. Lặng lẽ (hay ít nói), nhã nhặn, tỉ mỉ, uyên bác, và tuyệt không
hề có những sự vờ vĩnh, Rulfo là kiểu một con người vô hình kiếm sống bằng những cách
thức hoàn toàn không liên quan gì đến văn chương (nhiều năm trời ông làm nghề bán lốp
xe), một người có vợ và con cái, và cả đời ông, các buổi tối đa phần được dành cho việc đọc
và nghe nhạc. Ông cũng cực kỳ nổi tiếng, được tôn sùng bởi các bạn viết. Rất ít nhà văn cho
ra đời các tác phẩm đầu tay khi đã ngoài bốn mươi, càng hi hữu hơn khi các tác phẩm này
32 Z Z Z REVIEW
Susan Sontag
(Ảnh của Lynn Gilbert. Giấy phép: CC BY-SA 4.0)
13 tháng 6, 1996
New York
1. Dịch từ tập tiểu luận Where The Stress Falls của Susan Sontag, NXB Picador, 2001.
34 Z Z Z REVIEW
buồn phiền, kể cả khi ta nhìn rõ và không ảo tưởng về sự tồi tệ của mọi việc. Ở đâu đó ông
đã nói: một nhà văn - và thêm vào một cách tinh tế: mọi người - phải coi mọi chuyện xảy
đến cho mình như một cái vốn (lúc đó ông đang nói về sự mù lòa của bản thân).
Ông đã là một cái vốn lớn lao cho những người viết khác. Năm 1982 - tức là bốn năm
trước khi ông mất - tôi có nói trong một cuộc phỏng vấn: “Không nhà văn nào còn đang
sống mà có ảnh hưởng hơn Borges đối với các nhà văn khác. Nhiều người sẽ nói ông là nhà
văn vĩ đại nhất đang sống... Số nhà văn ngày nay chưa từng học hỏi từ ông hay mô phỏng
ông là ít vô cùng.” Giờ đây điều đó vẫn đúng. Chúng tôi vẫn học từ ông. Chúng tôi vẫn mô
phỏng ông. Ông chỉ cho người ta những cách tưởng tượng mới, trong khi vẫn phát biểu
nhiều lần về sự mang nợ của chúng ta với quá khứ, mà trên hết là với văn học. Ông đã nói
rằng chúng ta mang nợ văn học hoàn toàn vì những gì chúng ta đã và đang là. Nếu sách biến
mất, lịch sử cũng biến mất và loài người cũng thế. Sách vở không phải chỉ là đống tích cóp
tùy tiện những mơ ước và ký ức của chúng ta. Chúng còn cho chúng ta một hình mẫu để
vượt ra khỏi chính mình. Nhiều người cho đọc sách chỉ là một cách trốn thoát: trốn thoát
khỏi cái thế giới “thật” hằng ngày vào trong một thế giới tưởng tượng, thế giới sách vở. Sách
vở còn làm nhiều hơn thế. Chúng là một cách làm người cho đúng nghĩa làm người.
Tôi rất đau lòng phải cho ông hay rằng thời nay sách vở đang trở thành một chủng loại
bị đe dọa. Khi nói sách vở, tôi muốn nói đến cả những điều kiện của sự đọc đã tạo ra văn
học và những ảnh hưởng tâm hồn từ nó. Chẳng bao lâu nữa, chúng tôi nghe nói, chúng tôi
sẽ mở ra trên “màn hình sách” bất kỳ “văn bản” nào mình muốn, và sẽ có thể thay đổi cách
trình bày của chúng, đặt cho chúng câu hỏi, “tương tác” với chúng. Khi sách vở trở thành
“văn bản” cho chúng ta “tương tác” theo những tiêu chí vị lợi, chữ nghĩa đã trở thành một
góc nữa của cái thực tế chạy theo truyền thông và nuôi bằng quảng cáo. Đấy chính là cái
tương lai sáng chói đang được xây dựng, và hứa hẹn với chúng tôi, như một thứ có tính “dân
chủ” hơn. Dĩ nhiên, cái đó đồng nghĩa với cái chết của sự hướng nội, và của sách vở, không
hơn không kém.
Tới thời nay, không còn cần gì đến những đám cháy lớn nữa. Bọn man rợ không phải
mất công đốt sách. Con hổ đang ở ngay trong thư viện. Borges yêu dấu, hãy hiểu rằng tôi
không vui thú gì khi phải than phiền. Nhưng sự than phiền về số phận của sách vở - nói
đúng ra là của chính sự đọc - còn gửi đến ai thích hợp hơn là ông? (Borges, năm nay thế là
đã 10 năm!) Tôi chỉ muốn nói là chúng tôi nhớ ông. Tôi nhớ ông. Ông vẫn tiếp tục tạo ra
sự khác biệt. Thời đại trước mắt chúng tôi, thế kỷ 21, sẽ thử thách tâm hồn theo những cách
mới. Nhưng, ông cứ tin chắc, một số chúng tôi sẽ không từ bỏ Thư Viện Lớn. Còn ông sẽ
tiếp tục là bậc thầy và anh hùng của chúng tôi.
Susan
Jorge Luis Borges (1899-1986) là một nhà văn chuyên viết truyện
ngắn và nhà thơ người Argentina, một nhân vật chủ chốt trong nền
văn chương tiếng Tây Ban Nha với những tác phẩm đã trở thành điển
phạm của châu Mỹ Latin trong thế kỷ XX. Sách của ông bắt đầu được
dịch và xuất bản rộng rãi ở Mỹ và châu Âu sau khi ông được trao giải
Prix International cùng Samuel Beckett năm 1961. Danh tiếng quốc tế
của ông cũng được củng cố bởi các giải Miguel de Cervantes năm 1969
và giải Jerusalem năm 1971, bên cạnh sự bùng nổ của các nhà văn Mỹ
Latin thuộc thế hệ sau trong những năm 1960 và 1970.
“El espejo y la máscara” (“Tấm gương và chiếc mặt nạ”) là truyện ngắn
thứ bảy trong tập El libro de arena (Sách cát) do nhà Emecé xuất bản
lần đầu năm 1975 ở Buenos Aires.
- Nguyễn Huy Hoàng
36 Z Z Z REVIEW
Sau trận Clontarf, nơi người Na Uy bị làm nhục, Quốc vương Ái Nhĩ Lan vời quế quán
thi nhân của ông ta đến và bảo: “Những chiến công kỳ vĩ nhất cũng bớt phần xán lạn nếu
không được rèn giũa trong từ ngữ. Trẫm muốn khanh ngâm chiến thắng của trẫm và khúc
ca ngợi trẫm. Trẫm sẽ là Aeneas; khanh sẽ là Virgil của trẫm. Khanh nghĩ mình có thể gánh
vác trọng trách này không, biến hai ta thành bất tử?”
“Vi thần tuân lệnh, thưa bệ hạ,” nhà thơ nói. “Thần là Ollan. Suốt mười hai mùa đông
thần đã khổ luyện về vận luật. Thần nằm lòng ba trăm sáu mươi truyền thuyết là nền tảng
của thi ca đích thực. Những truyền thuyết Ulster và Munster nằm trên dây đàn hạc của
thần. Luật pháp cho phép thần tùy nghi vận dụng những từ ngữ cổ xưa nhất và những ẩn
dụ phức tạp nhất của ngôn ngữ. Thần đã thuần thục bí mật của sự viết, là thứ bảo vệ nghệ
thuật của chúng ta khỏi con mắt phàm phu của kẻ tục tử. Thần có thể ca ngợi tình yêu,
những anh hùng trộm gia súc, những cuộc viễn hành, những trận chiến. Thần rành rẽ phả
hệ thần thoại của mọi vương tộc Ái Nhĩ Lan. Thần có những hiểu biết về thảo dược học,
chiêm tinh học, toán học và giáo luật. Thần đã đánh bại mọi địch thủ trong cuộc tỉ thí
công khai. Thần đã rèn thuật châm biếm, là thứ gây ra những bệnh về da, trong đó có bệnh
phong. Thần biết cách dùng kiếm, như đã chứng tỏ trong trận chiến của người. Chỉ một
điều thần không biết: làm sao để cảm tạ món quà người ban.”
Nhà vua, vốn dễ mệt mỏi trước lối văn tự dài dòng của người khác, nói một cách nhẹ
nhõm: “Trẫm biết rõ những điều đó. Trẫm mới hay chim sơn ca đã hót ở Anh. Khi mưa và
tuyết qua đi, khi sơn ca trở về từ vùng đất phương Nam, khanh sẽ ngâm những khúc tụng
ca trước triều và trước hội tao đàn. Trẫm cho khanh trọn một năm. Khanh hãy đánh bóng
từng từ và từng chữ. Phần thưởng, như khanh đã biết, không thể không xứng đáng với điển
lệ hoàng gia của trẫm hay những đêm cảm hứng không ngủ của khanh.”
“Tâu bệ hạ, phần thưởng lớn nhất là được thấy long nhan của người,” nhà thơ, cũng
là một triều thần, nói.
Y cáo lui, đã thấp thoáng vài câu trong đầu.
Thời hạn đã đến, đó là thời gian của bệnh dịch và những cuộc nổi loạn, y trình bày
khúc tán tụng của mình. Y đọc từ tốn và chắc chắn, không liếc nhìn bản thảo lấy một lần.
Nhà vua gật gù ưng thuận. Tất cả đều bắt chước cử chỉ của nhà vua, thậm chí cả những
người chen chúc ở điện môn, dù không hiểu nổi một từ. Cuối cùng nhà vua cất tiếng.
38 Z Z Z REVIEW
Nhà vua nói tiếp: “Như một biểu tượng cho sự chấp thuận của chúng ta, hãy nhận lấy
chiếc mặt nạ vàng.”
“Đa tạ long ân, vi thần đã hiểu,” nhà thơ nói.
Một năm nữa trôi qua. Các lính canh cung điện nhận thấy nhà thơ không mang theo
bản thảo. Không khỏi ngạc nhiên, nhà vua nhìn y, đã gần như là một người khác. Cái gì đó,
không phải thời gian, đã cày xới và biến đổi những đường nét của y. Mắt y như nhìn vào xa
xăm hoặc đã bị mù. Nhà thơ xin phép được tâu vài lời với nhà vua. Đám nô nhân rời khỏi
điện.
“Khanh chưa viết khúc tụng ca sao?” nhà vua hỏi.
“Thần đã viết,” nhà thơ buồn bã nói. “Nhưng giá Kitô Chúa tể của chúng ta đã ngăn
cản thần.”
“Khanh đọc lại đi?”
“Vi thần không dám.”
“Trẫm sẽ cho khanh lòng can đảm khanh cần,” nhà vua tuyên bố.
Nhà thơ đọc bài thơ. Nó chỉ có một dòng. Không dám đọc to nó lên, nhà thơ và vị vua
của y nhấm nháp nó, như thể đó là một lời cầu nguyện bí ẩn hay một sự báng bổ. Nhà vua
cũng không kém phần sững sờ và rúm ró so với nhà thơ. Hai người nhìn nhau, trắng bệch.
“Ngày trẻ,” nhà vua nói, “trẫm đã giong buồm về phía hoàng hôn. Trên một hòn đảo
trẫm đã thấy đàn chó săn bạc cắn chết những con lợn rừng vàng. Trên một hòn đảo khác
trẫm đã ăn hương thơm của những quả táo thần. Trên hòn đảo thứ ba trẫm đã thấy những
bức tường lửa. Trên hòn đảo xa xôi nhất trong tất cả có một dòng sông vắt qua bầu trời và
trong dòng nước đầy tôm cá với thuyền bè. Đó là những điều kỳ diệu, nhưng không so được
với bài thơ của khanh, nó bằng cách nào đó đã ôm trọn tất cả. Thần thông nào đã trao nó
cho khanh?”
“Lúc bình minh,” nhà thơ nói, “thần tỉnh dậy nói những lời ban đầu thần không hiểu.
Những lời ấy là một bài thơ. Thần cảm thấy như mình đã phải tội, có lẽ là tội lỗi mà Chúa
Thánh Linh sẽ không tha thứ.”
“Tội lỗi mà chúng ta giờ đã cùng phạm phải,” nhà vua nói thầm. “Tội lỗi vì đã biết đến
Cái đẹp, một món quà con người bị cấm đoán. Bây giờ chúng ta phải chuộc tội. Trẫm đã
ban cho khanh một tấm gương và một chiếc mặt nạ vàng; đây là món thứ ba, cũng là món
quà cuối.”
Ông đặt một con dao vào tay phải nhà thơ.
Về nhà thơ, chúng ta biết rằng y đã tự sát sau khi rời cung điện; về nhà vua, ông ta giờ
là một gã ăn mày lang thang trên những con đường xứ Ái Nhĩ Lan, nơi một thời là vương
quốc của ông ta, và ông ta chưa một lần nhắc lại bài thơ nọ.
40 Z Z Z REVIEW
Đọc Bernhard luôn có liên tưởng về một người sơn nền nhà. Người đó lê chổi sơn tới tất
cả mọi hóc hẻm trong căn phòng, và đến cuối cùng, tự nguyện nhốt chính mình vào một
góc phòng, hai chân đứng trên diện tích tối thiểu sơn chưa quét tới, và để rốt ráo, tự quét
sơn lên chính mình, chấp nhận mọi sự khó chịu nhất để hạ nhục bản thân. Dường như tất
cả những hằn học nhằm vào người khác chỉ là nền để sỉ vả bản thân, rằng: anh thậm tệ ghê
tởm cùng cực nhưng tôi còn buồn nôn hơn cả anh.
Trong một bài viết trước đây cũng ở trên Zzz Review, tôi từng nói mình yêu thích
Linda Lê thế nào. Ở chị thỏa mãn nhiều thứ tôi vẫn chờ đợi bấy lâu: một dạng văn chương
triền miên, dằn vặt không xuống dòng và hạn chế hội thoại hết mức, mang cho ta cảm giác
yên thân. Thế nên phải biết tôi sung sướng ra sao khi gặp Thomas Bernhard, đỉnh cao mà
chị vươn tới.
Tuy nhiên, đọc Bernhard luôn có những lúc phải quẳng sách vì ngán tận cổ. Đốn hạ là
cuốn thứ hai của Bernhard mà tôi đọc, sau Diệt vong - cuốn cũng làm tôi mất thời gian vì
phải bỏ mứa mấy lần. Ở Đốn hạ, với lối viết nhai đi nhai lại đặc trưng của văn học hậu hiện
đại, nửa đầu cuốn sách tôi đã bao lần phải cười sặc và quả quyết sách nên đổi tên thành:
“Ngồi trên ghế bành tôi nghĩ bụng”. Rất may, sau đó mọi sự thay đổi.
Thành thực mà nói ngay từ Diệt vong, tôi đã không có quá nhiều ấn tượng. Tất nhiên
tôi thích lối hành văn của Bernhard, hâm mộ cách ông không ngại va chạm, nhưng ở nó
dường như vẫn thiếu một thứ mơ hồ mà người ta gọi là tư tưởng, hay chính xác hơn, một
tư tưởng rõ rệt, thứ có vẻ nên là viên kim cương trên vương miện của Bernhard bởi văn của
ông không thuộc loại “ân phước thẩm mỹ”, như Nabokov nói.
Nhìn thoáng qua (trong con mắt của cá nhân tôi), Diệt vong có vẻ lại hơn luôn Đốn
hạ. Đầu tiên, dễ thấy là ở vẻ ngoài đồ sộ hơn. Sau nữa, Diệt vong đánh tới khu vực nhạy cảm
nhất, là gia đình, tức bố mẹ đẻ ra mình, anh em lớn lên cùng mình, lại ngay giữa tang gia;
trong khi đó, Đốn hạ đơn giản là nhắc tới những người bạn trong giới nghệ thuật. Và quả
thật, đọc hết phần “ngồi trên ghế bành tôi nghĩ bụng”, tôi vẫn thấy Đốn hạ không có gì quá
bất ngờ, dù vẫn luôn thú vị (kèm những lúc chán không buồn chết). Rồi đột ngột, nhân vật
thức tỉnh và văn chương thăng hoa theo! Một người quẫy đạp trong hang nước đột nhiên
tìm thấy một điểm sáng để ngoi lên. Từ viên kim cương sáng chói này, ta bỗng nhìn lại toàn
bộ cái vương miện và thấy Bernhard đã dày công dựng nền móng cho nó như thế nào, để
cuối cùng, hoàn thiện làm ta lóa mắt. Chính từ đây, tôi đánh giá Đốn hạ là cuốn sách của
năm của tôi, thay vì những kiệt tác mọi thời đại của Dostoevsky, những bất ngờ thời đại
của Thomas Pynchon hay Joseph Heller, thuyết giống nòi của Carl Jung hay tinh thần “khổ
dâm” kiểu Nietzsche... dù tất nhiên, so sánh ở đây là điều khập khiễng.
Đốn hạ xuất bản lần đầu năm 1984 ở Đức. Đây là cuốn thứ hai trong bộ ba về nghệ
thuật của Bernhard (trước đó là Kẻ thua cuộc (Der Untergeher, tạm dịch) về âm nhạc và sau
42 Z Z Z REVIEW
ra không phải vậy. Với Đốn hạ, Bernhard không chỉ sơn chính mình và bạn bè, mà cơ bản,
bôi tro trát trấu lên tất cả những ai đọc cuốn sách, cười khả ố lên tất cả những độc giả bị ông
ta lỡm rơi vào cảnh bẽ bàng. Cuốn sách khiến tôi bần thần một hồi. Ra thế, giả tạo, giả tạo
từ cấp độ cao nhất tới những hành động nhỏ nhất như đăng status mà cứ tưởng mình hiện
sinh lắm. Mà giả tạo chính là thứ kìm hãm sự phát triển của bản thân theo thiên hướng cá
nhân. Ta đã bị bao bọc quá kỹ trước những quan điểm giả tạo của xã hội và vì lười biếng, tự
ru ngủ mình. Thật chán đời khi ta là diễn viên hàng đầu của nhà hát kịch hàng đầu châu Âu
khi mà mơ ước của ta chỉ là được yên thân sống trong rừng. Tất nhiên, những người đang
đọc những dòng này, cũng đa phần là phế phẩm, giả dối và ru ngủ bản thân, bất chấp từng
kêu gọi đời sống hiện sinh. Và tất nhiên, những lời tôi viết lúc này cũng vẫn chỉ là sáo rỗng,
lý thuyết. Cái mọi người cần đọc để hiểu là Đốn hạ.
Ở đoạn cuối, đang đà thăng hoa, Bernhard còn đưa ra hàng loạt quan điểm rất hay
ho như về tuổi trẻ và tuổi già, bằng lối viết rõ ràng của kẻ đang cười sằng sặc vào mặt cả
thế gian. Rất tiếc, ông luôn làm độc giả thất vọng vào trang cuối cùng. Sách bắt đầu bằng
lời trích dẫn rất hay: “Âu cũng vì ta không đủ tài làm con người khôn ngoan hơn, mà ta ưa
được sung sướng khi ở xa họ” của Voltaire. Thế nhưng, ở trang cuối, như mọi khi, Bernhard
lại rất sến và thỏa hiệp, yêu thương tất cả những gì ông chửi trước đó trong cả cuốn sách.
Tại sao lại như vậy? Thất vọng quá sức. Hay đây là đòn cuối cùng của Bernhard để thể hiện
mình ghê tởm và giả tạo hơn tất cả những người khác thế nào? Dù sao thì, rất thú vị và
không thể đòi hỏi cái tuyệt đối ở đây.
Trên đây là một vài suy nghĩ sau khi đọc Đốn hạ. Tất nhiên không spoil chút nào vì dù
Bernhard không phải “ân phước thẩm mỹ” nhưng nghệ thuật đưa đẩy của ông mới là lý do
ta đọc cuốn này. Thêm một điều nữa cứ day dứt tôi sau khi đọc cuốn sách này, đó là tại sao
ở Việt Nam không tìm được gì của Montaigne, người được rất nhiều người hay ho nhắc tới
đầy mến mộ? Đó có vẻ là một nhân vật rất đáng đọc.
Horacio Quiroga
(Hình ảnh thuộc phạm vi công cộng.)
44 Z Z Z REVIEW
Horacio Quiroga (1878-1937) là bậc thầy truyện ngắn nổi tiếng thế giới
người Uruguay. Truyện ngắn của ông thường được coi là mẫu mực cho
thể loại này trong văn học Mỹ Latinh. Là người đọc và chịu ảnh hưởng
lớn của Edgar Allan Poe, các câu chuyện của ông thường tập trung vào
những yếu tố siêu nhiên, thần bí, và luôn pha trộn một nồng độ đậm
đặc yếu tố kinh dị và điên rồ. Ông gây ảnh hưởng lớn trường phái hiện
thực kỳ ảo mà đại diện là Gabriel García Márquez. - Zét Nguyễn
Bốn đứa con trai đần độn của vợ chồng Mazzini-Ferraz ngồi trên băng ghế ngoài hiên suốt
cả ngày. Lưỡi thè lè, mắt đờ đẫn và miệng há hốc mỗi khi quay đầu.
Nền hiên làm bằng đất nén, ngăn cách với phía tây bằng một bức tường gạch. Băng
ghế được đặt song song cách bức tường khoảng mét rưỡi, và bốn đứa cứ ngồi yên đấy, ánh
mắt dán chặt lên những viên gạch. Khi mặt trời dần khuất bóng và biến mất đằng sau bức
tường, chúng mới thường cảm thấy vui sướng. Ánh sáng chói mắt luôn là thứ đầu tiên thu
hút sự chú ý của chúng, mắt chúng sáng lên từng chút một, và cuối cùng, chúng cất tiếng
cười điên dại, đứa nào cũng như bị nhiễm cùng cái cảm giác vui mừng phấn khích đó khi
nhìn chằm chằm vào mặt trời xế chiều với niềm vui như con thú nhìn thấy con mồi, như
thể mặt trời là một món ngon hấp dẫn.
Những khi khác, vẫn ngồi thành hàng trên băng ghế, chúng ngâm nga lầm rầm không
dứt trong hàng tiếng đồng hồ, bắt chước âm thanh của chiếc xe đẩy. Cũng có khi những
tiếng ồn ào khiến chúng giật mình bừng tỉnh và rồi chạy vòng quanh hàng hiên, tự cắn lưỡi
mình rồi gào lên như mèo. Nhưng hầu hết thời gian chúng chỉ ngồi đó đờ đẫn cả ngày trời,
đôi chân bất động và dãi dớt nhỏ ướt hết quần.
Đứa lớn nhất mười hai tuổi và đứa nhỏ nhất lên tám. Bộ dạng nhếch nhác và bẩn thỉu
của chúng là minh chứng rõ ràng cho việc thiếu bàn tay chăm sóc của người mẹ.
Tuy vậy, bốn đứa trẻ đần độn này đã từng là nguồn vui của bố mẹ chúng. Sau khi kết
hôn được ba tháng, Mazzini và Berta đã hướng thứ tình yêu nam nữ ích kỷ của hai vợ chồng
tới một tương lai quan trọng hơn: một đứa con trai. Đối với hai con người đang yêu, còn
hạnh phúc nào lớn hơn sự thánh hóa thiêng liêng ở một thứ tình cảm đã được giải phóng
khỏi tính ích kỷ đê hèn của tình yêu vô mục đích và - với tình yêu thì còn gì tệ hơn - một
tình yêu không chút mảy may hy vọng tái sinh?
Mazzini và Berta đã nghĩ như vậy, và rồi sau mười bốn tháng kết hôn, con trai đầu lòng
46 Z Z Z REVIEW
của họ sẽ bù đắp tất cả. Một cặp sinh đôi chào đời, và từng bước từng bước, quá khứ của hai
người anh trai lại lặp lại với chúng.
Nhưng dù cho có như vậy, vượt lên trên sự cay đắng tột cùng, Mazzini và Berta vẫn
dành tình yêu thương lớn lao cho bốn cậu con trai. Những đứa trẻ phải vùng vẫy và vật lộn
để không bị mất đi phần “con” nhất, phần bản năng nhất, chứ không phải phần hồn, phần
“người” nữa, vì thứ đó đã thật sự mất rồi. Chúng không biết nuốt, đi lại hay thậm chí là cả
ngồi dậy. Đến khi rốt cuộc cũng biết đi, chúng lại luôn đâm phải đồ đạc vì không có chút
nhận biết nào đối với chướng ngại vật. Khi được tắm rửa, chúng sẽ kêu meo meo hoặc gừ
gừ cho tới khi mặt đỏ ửng. Chúng chỉ có chút sinh khí khi có thức ăn, khi nhìn thấy những
màu tươi sáng hoặc khi nghe tiếng sấm. Khi chúng cười, tiếng cười vang vọng với chút lạnh
lùng của loài thú, lưỡi thè lè và nước miếng phun ra thành sông. Bù lại, chúng cũng có khả
năng bắt chước ở một mức độ nhất định, nhưng chỉ vậy không hơn.
Những tưởng cặp sinh đôi sẽ là điểm cuối cho thế hệ hậu duệ kinh khủng đó. Vậy nhưng sau
ba năm, Mazzini và Berta một lần nữa lại khát khao có thêm một đứa con, tin rằng quãng
thời gian nghỉ dài như vậy đã đủ để làm nguôi đi số mệnh của họ.
Nhưng niềm hy vọng đã không thành hiện thực. Mong đợi rồi tức giận ghê gớm vì
số phận trêu ngươi, người chồng và người vợ ngày càng thấy cay đắng và gay gắt với nhau.
Cho tới lúc này, cả hai đều đã nhận trách nhiệm phần mình trong sự khốn khổ mà những
đứa con gây ra. Nhưng mặc cảm tội lỗi vì sinh ra bốn đứa con tật nguyền khiến họ khát
khao chuộc tội đến tuyệt vọng, cuối cùng, sinh ra một thứ nhu cầu mạnh mẽ là buộc tội đối
phương mang thứ gen di truyền thấp kém.
Mọi chuyện bắt đầu với việc thay đổi cách sở hữu: các con của anh, các con của cô. Và
vì họ vốn định gài bẫy nhau, cũng như xúc phạm nhau, bầu không khí bắt đầu thay đổi.
“Anh thấy,” Mazzini vừa mới bước vào và đang rửa tay, nói với Berta, “em nên giữ cho
các con sạch sẽ hơn mới phải.”
Cứ như không nghe thấy chồng nói gì, Berta tiếp tục đọc sách, sau một hồi mới đáp
lại.
“Đây là lần đầu tiên em thấy anh quan tâm đến tình trạng của các con anh đấy.”
Maz quay lại và mỉm cười miễn cưỡng, “Anh nghĩ là con của chúng ta chứ.”
“Được rồi, con của chúng ta. Đấy là cách nói anh thích chứ gì?” cô trợn mắt.
Lần này Mazzini nói thẳng thừng.
“Chắc em không định nói lỗi là tại anh chứ, phải không?”
“Không, không!” Berta tự cười mình, mặt tái xanh. “Nhưng cũng không phải tại em,
em đoán vậy! Đấy là tất cả những gì em cần...” cô lẩm bẩm.
48 Z Z Z REVIEW
như chong chóng của Mazzini đã châm ngòi cho cuộc tranh cãi.
“Trời ạ! Anh không đi chậm lại được à? Đã bao nhiêu lần...”
“Được rồi, anh quên. Anh dừng lại đây. Anh có cố tình làm thế đâu.”
Cô cười, khinh khỉnh.
“Không, không, tất nhiên em không nghĩ anh như thế!”
“Và anh cũng chưa từng nghĩ em như thế... Ghê tởm!”
“Cái gì? Anh vừa nói cái gì?”
“Chẳng có gì cả!”
“Không, có đấy, tôi đã nghe anh nói gì đấy! Nghe cho rõ đây, tôi không biết anh nói
cái gì, nhưng tôi thề tôi mà là anh thì không bao giờ tôi mong có một ông bố như ông bố
của anh!”
50 Z Z Z REVIEW
Cái nhìn của lũ đần độn bỗng như sống dậy, ánh mắt quyết liệt hiện rõ trong tám con
ngươi. Mắt chúng không rời khỏi đứa em gái trong khi cảm giác thèm khát đầy ác độc dần
khiến khuôn mặt chúng biến dạng. Chầm chậm, chúng tiến về phía bức tường. Cô bé vừa
mới tìm được chỗ để chân, đang định giạng chân kia sang bên kia bức tường và thể nào cũng
sẽ ngã về bên đó, bỗng thấy một chân mình bị chụp lấy. Bên dưới, tám con mắt đang nhìn
chằm chằm khiến con bé sợ hãi.
“Buông ra! Thả em ra!” con bé hét lên, lắc chân thật mạnh nhưng nó đã bị tóm.
“Mẹ! Mẹ ơi! Mẹ ơi! Bố ơi!” con bé gào thét vùng vẫy. Nó cố ngồi yên và bám lấy thành
tường nhưng bị kéo xuống và ngã nhào.
“Mẹ ơi, mẹ...” Con bé không thể kêu nữa. Một trong bốn thằng bé đã kẹp cổ nó, túm
lấy những lọn tóc xoăn của nó như thể chúng là những chiếc lông gà, và ba thằng còn lại
cầm một chân nó lôi về phía nhà bếp, nơi sáng nay con gà đã bị cắt tiết. Con bé bị kẹp chặt
cổ, hơi thở mỗi lúc yếu dần yếu dần.
Mazzini, đang ở nhà hàng xóm bên kia đường, nghĩ hình như mình nghe thấy tiếng
con gái đang gọi.
“Anh nghĩ con đang gọi em đấy,” anh nói với Berta.
Họ căng thẳng lắng nghe nhưng chẳng nghe thấy gì thêm nữa. Dù vậy, họ vẫn chào
tạm biệt hàng xóm ngay sau đó, và, trong khi Berta vào nhà cất mũ, Mazzini đi ra hiên.
“Bertita!”
Không ai trả lời.
“Bertita!” Anh gọi lại bằng thứ giọng đã hơi run run.
Sự im lặng quá tang tóc với trái tim vốn luôn sợ hãi của anh. Một linh cảm khủng
khiếp khiến anh lạnh xương sống.
“Con gái tôi! Con gái tôi!” Anh chạy như điên ra phía sau ngôi nhà, nhưng khi đi qua
nhà bếp, anh đã thấy một biển máu lênh láng trên sàn. Anh đẩy mạnh cánh cửa đang nửa
đóng nửa mở và hét lên một tiếng kinh hoàng.
Berta, khi nghe tiếng gọi con đầy bất an của chồng cũng đã bắt đầu chạy tới, hét gọi.
Khi cô định nhào vào nhà bếp, Mazzini như đang nổi cơn điên, đứng chắn ở ngưỡng cửa
và ngăn cô lại.
“Đừng vào! Đừng vào!”
Nhưng Berta đã thấy sàn nhà lênh láng máu. Cô chỉ kịp hét lên một tiếng thất thanh,
đưa cánh tay lên ôm lấy đầu, dựa vào chồng và cả người trượt dần xuống sàn.
Sự ra đời của Thư viện Công cộng Pringles được biểu trưng bởi một
hình ảnh hết sức kỳ lạ: một quả trứng khổng lồ bên trên đặt một cuốn
sách. Và đằng sau đấy là những sự việc còn kỳ lạ hơn thế. Một bộ não
phát nhạc chơi nhạc không kể ngày đêm. Sự biến mất bí hiểm đến đáng
sợ của ba người lùn diễn xiếc. Và bản thân quả trứng kia cũng được đẻ
ra bởi một con quái vật.
Bộ Não Phát Nhạc là một truyện ngắn độc đáo mang màu sắc siêu
nhiên của một tác giả đương đại tiêu biểu hiện nay.
1. Nguyên tác tiếng Tây Ban Nha “El cerebro musical” (2004). Dịch từ bản tiếng Anh “The Musical Brain” của Chris
Andrews trong tập The Musical Brain And Other Stories (New Directions 2015).
52 Z Z Z REVIEW
Lúc đó, tôi là một đứa trẻ - có lẽ là bốn hay năm tuổi. Chuyện xảy ra ở quê nhà của tôi,
Coronel Pringles, vào nửa đầu thập kỷ 1950. Một đêm nọ, chắc hẳn phải là thứ Bảy, chúng
tôi dùng bữa tại khách sạn; chúng tôi chẳng ăn ngoài thường xuyên lắm, không phải vì
chúng tôi nghèo khổ gì cho cam, dù thật sự chúng tôi có một cuộc sống có vẻ giống vậy vì
những thói quen khắc khổ của bố tôi cùng với sự nghi hoặc bất di bất dịch của mẹ tôi với
những món ăn mà bà không tự tay chuẩn bị. Một vài tình thế bí ẩn đã đưa đẩy chúng tôi
đến nhà hàng sang trọng của khách sạn vào tối hôm đó, đặt chúng tôi ngồi, căng thẳng và
không thoải mái, xung quanh một chiếc bàn ăn trải khăn trắng và bày biện la liệt những bộ
dao nĩa bằng bạc, những ly rượu vang cao kều, và cả những bộ chén đĩa bằng sứ viền vàng.
Chúng tôi ăn mặc thơm tho lịch sự, như những thực khách khác. Quy tắc ăn mặc vào thời
đó tương đối nghiêm khắc.
Tôi vẫn nhớ dòng người lũ lượt đứng lên bê những thùng đầy sách đến chiếc bàn nhỏ
giống như bệ thờ ở góc xa căn phòng. Hầu hết là hộp carton, mặc dù cũng có cả hộp gỗ,
thậm chí vài chiếc còn được sơn màu hay đánh véc ni. Ngồi đằng sau chiếc bàn là một người
phụ nữ nhỏ nhắn đeo chuỗi ngọc trai trên người mặc bộ váy màu xanh dương lấp lánh, mặt
đánh bự phấn và mái tóc bạc trắng được tạo hình giống như một quả trứng tua tủa lông.
Đó là Sarita Subercaseaux, người sau này trở thành hiệu trưởng trường trung học của thị
trấn trong suốt thời gian tôi ở đây. Bà tiếp nhận những chiếc hộp, xem xét bên trong, và
ghi chú vào một cuốn sổ. Tôi theo dõi hoạt động này với một sự chú ý sát sao nhất. Một
số hộp đầy ặp sách đến mức không thể đóng nắp lại được, một số hộp khác trống đến nửa,
bên trong chỉ có mấy cuốn văng qua văng lại, tạo thành những âm thanh đáng sợ. Nhưng
số lượng sách không quyết định nhiều lắm đến giá trị của những chiếc hộp này, dù thật sự
thì số lượng cũng khá quan trọng, cũng như sự đa dạng của các đầu sách. Một chiếc hộp lý
tưởng sẽ có toàn bộ các đầu sách đều khác nhau; loại tệ nhất (và cũng thường xảy ra nhất)
là kiểu bên trong chẳng có gì ngoài những bản sao của cùng một cuốn sách. Giờ tôi không
nhớ ai đã giải thích nguyên tắc này cho mình, có lẽ nó là sản phẩm từ những suy luận và
tưởng tượng của chính bản thân tôi. Nếu là thế thì cũng điển hình thôi: tôi luôn luôn sáng
tạo ra những câu chuyện hoặc kế hoạch để hợp lý hóa những gì tôi không hiểu rõ, và tôi hầu
như chẳng hiểu rõ cái gì bao giờ. Dù sao thì lời giải thích ấy liệu có thể đến từ đâu được nữa
đây? Bố mẹ tôi không cởi mở lắm, tôi thì chẳng biết đọc, thời đó lại chưa có ti vi, còn đám
bạn hàng xóm thì cũng ngu dốt hệt như tôi vậy.
54 Z Z Z REVIEW
đầu kia của căn phòng, họ dừng lại ở những bàn khác trên đường đi để chào hỏi và tán gẫu
với người quen. Những người quen này giữ ý tứ nên không nói quá nhiều, lịch sự giả định
rằng những người dừng lại chỗ bàn họ đang phải bê những chiếc hộp không nhẹ nhàng
gì cho cam (kể cả khi trên thực tế bên trong chỉ có nhõn vài ba cuốn). Khiến cho những
người tay đang bê hộp lại vì lịch sự mà cứ thế tiếp tục tán gẫu, tỏ rõ cho người kia thấy rằng
niềm vui từ cuộc nói chuyện hoàn toàn bù đắp được cho công họ bê nặng. Những trao đổi
nho nhỏ này, mang đậm tấm chân tình muốn biết về cuộc sống của người kia, là cái thường
thấy ở tất cả cư dân của Pringles, hoá ra lại chứa đựng kha khá thông tin, và cũng qua đó mà
chúng tôi biết được Bộ Não Phát Nhạc đang được triển lãm ở ngay bên cạnh, trong sảnh
chờ của Nhà hát Tây Ban Nha. Không phải vì thế thì chúng tôi đã chẳng hề biết gì và sẽ cứ
thế mà về nhà đi ngủ. Tin này đã cho chúng tôi cớ để kết thúc cái bữa ăn tối mà tất cả chúng
tôi đều thấy là vô cùng nhạt nhẽo.
Bộ Não Phát Nhạc đã xuất hiện ở thị trấn vào một khoảng thời gian trước đó, và một
hội không chính thức các cư dân đã vào cuộc để quản lý nó. Kế hoạch ban đầu là cho các
hộ gia đình mượn nó trong một khoảng thời gian ngắn, dựa theo một quy trình thủ tục
đã được sử dụng với nhiều bức họa kỳ diệu của Đức Mẹ Đồng Trinh. Người muốn mượn
những bức họa này thường là nhà có người mắc bệnh hoặc gặp những vấn đề về gia đình,
trong khi lý do để mượn cái cỗ máy mới mẻ thần kỳ này chỉ đơn thuần là tò mò (mặc dù
có lẽ tồn tại cả một chút mê tín nữa). Vì cái hội này không có khung tôn giáo, không có
cấp quản lý nào để sắp đặt việc xoay vòng, nên tuân theo kế hoạch là điều bất khả thi. Mặt
khác, có những người muốn trả quách Bộ Não lại ngay sau đêm đầu tiên, với lý do là tiếng
nhạc làm họ khó ngủ; mặt khác, có người lại cho xây dựng những hốc tường và bệ tượng
tinh xảo, và cố gắng viện cớ chi phí xây dựng để kéo dài mãi mãi thời hạn cho mượn. Vậy là
chẳng mấy chốc cái hội kia đã mất dấu không biết Bộ Não đang ở đâu, và có nhiều người,
như chúng tôi, chưa bao giờ được thấy nó và đâm ngờ rằng tất cả mọi việc đều chỉ là một
trò xỏ lá. Đó là lý do tại sao chúng tôi lại sốt sình sịch lên khi biết được rằng nó đang được
trưng bày ở ngay tòa nhà bên cạnh.
Bố gọi tính tiền, khi hoá đơn được đưa ra thì ông thò tay vào túi lấy ra cái ví nổi tiếng
của mình, là vật thể thú vị nhất trên thế giới đối với tôi. Nó to cồ cộ, làm từ loại da màu
xanh lục, với những hoa văn phức tạp được chạm nổi, và cả hai mặt trước sau đều có gắn hạt
cườm thủy tinh, phác hoạ nên những cảnh tượng đầy màu sắc. Nó từng thuộc về Pushkin,
và có một huyền thoại là ông ta mang theo cái ví này trong người vào cái ngày mà ông bị sát
hại. Một trong những ông bác của bố tôi từng làm đại sứ ở Nga hồi đầu thế kỷ và đã mua
đem về rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đồ cổ, cả những vật dụng kỳ quái, và tất cả đã được
người vợ góa của ông phân phát cho đám cháu ruột sau khi ông qua đời, vì cặp vợ chồng
này không có con.
56 Z Z Z REVIEW
khiếm nhã đã từng được đem đi lưu diễn quanh năm suốt tháng ở các tỉnh; người ta chưa
bao giờ mất đi hứng thú với nó. Cái thứ âm nhạc run rẩy, bí mật được cho là tỏa ra từ Bộ
Não này khó có thể đọ nổi với từng ấy tràng cười hô hố và tiếng dậm chân.
Mẹ tôi, con dòng cháu giống của những con người với đôi tai tinh tế, những nhà ngâm
thơ, diễn kịch, không ưa gì các sản phẩm đại chúng mà Leonor Rinaldi là điển hình. Nói
cho đúng hơn là bà hăng hái vận động chống lại chúng. Nhà hát đối với bà là một lãnh thổ
tranh chấp, hay một chiến trường, vì nó là nơi mà các tầng lớp khác nhau của Pringles phát
động những cuộc chiến tranh văn hóa. Anh bà đứng đầu một câu lạc bộ kịch nghiệp dư tên
là Hai Mặt Nạ chuyên tập trung vào thể loại chính kịch; câu lạc bộ còn lại của thị trấn thì
được Isolina Mariani cầm trịch, tập trung vào hài kịch châm biếm. Con nhang đệ tử của
Isolina Mariani hẳn đã ngồi trên hàng ghế khán giả vào tối hôm đó, say sưa học hỏi và thán
phục thứ kịch cọt đầy tính mị dân của Leonor Rinaldi, ngấu nghiến phong cách diễn của
bà ta như một thứ sirô tăng lực.
Ác cảm của mẹ cực đoan tới mức trong một vài dịp, khi một trong những đoàn kịch
nổi tiếng ấy đến thị trấn, bà bắt chúng tôi ăn tối sớm, sau đó lái xe đưa chúng tôi đến nhà
hát ngay trước khi vở kịch bắt đầu và đậu xe tải ở một chỗ gần cổng vào (nhưng không quá
gần, và khuất trong bóng tối), để bà có thể xem xem những ai sẽ đến. Thường thì sẽ không
có gì bất ngờ: khán giả hầu hết là những người nghèo đến từ ngoại ô, “một lũ trùm dơ bẩn”
như cái cách mẹ tôi gọi họ, những người không đáng gì để nhận được một nhận xét khinh
miệt kiểu như “Các con có thể kỳ vọng gì hơn ở những kẻ ngu ngốc dốt nát như thế?”
Nhưng thi thoảng thì cũng có một ai đó “đáng kính trọng” trong số họ, khi ấy bà sẽ
hăng hái lắm. Bà cảm thấy rằng chuyến do thám của mình có ý nghĩa, từ bây giờ bà đã “nhận
thức được vấn đề” và đã biết phải đối xử thế nào với một số nhất định những kẻ rởm đời
thích cao giọng. Một lần, bà còn đi xa đến mức phóng ra khỏi xe tải và trách mắng một vị
nha sĩ có học thức đang leo lên những bậc thang đi vào rạp hát cùng với các con gái. Bà nói
với ông ta rằng bà thất vọng đến thế nào khi thấy ông ta ở đây. Ông ta không thấy xấu hổ khi
lại đi ủng hộ cái thứ thô thiển này? Và còn đem theo các con gái nữa chứ! Ông ta định dạy
con mình cái kiểu đấy đó à? May mắn là, ông ta không quá xem nặng lời bà nói. Ông ta đáp,
với một nụ cười, rằng với ông sân khấu là chốn linh thiêng, kể cả là ở những hình hài thấp
hèn nhất, và mục tiêu hàng đầu của ông là cho các con gái tiếp xúc với văn hóa đại chúng
dưới dạng thô ráp nhất của nó để chúng có được nhiều góc nhìn. Không cần phải nói, luận
điểm của ông ta chẳng gây được ấn tượng gì cho mẹ tôi.
Nào. Hãy quay lại buổi tối đáng nhớ hôm chúng tôi được diện kiến Bộ Não Phát
Nhạc. Chúng tôi leo lên xe tải và xe lăn bánh chạy đi. Chúng tôi có một chiếc Ika màu vàng.
Mặc dù cả bốn chúng tôi có thể chui lọt người trong cabin đằng trước, nhưng tôi thường
ngồi ở phía sau, dưới bầu trời lồng lộng, một phần bởi vì tôi thích như thế, một phần để giữ
58 Z Z Z REVIEW
vào ngày hôm sau. Tôi nhìn chằm chằm, hoàn toàn bị mê hoặc. Những chấm và đường kẻ
ánh sáng in bóng qua tấm bạt của lều xiếc, to lớn như một ngọn núi, và cả cái lều sáng lên
với ánh sáng toả ra từ bên trong. Một tiết mục đang được biểu diễn: chúng tôi có thể nghe
thấy tiếng nhạc ầm ĩ và những tiếng hò reo của khán giả. Mùi những con vật khác đã làm
Geniol bồn chồn. Đằng sau cái lều này, trong bóng tối, tôi nghĩ mình có thể thấy được bóng
những con voi và lạc đà đang di chuyển giữa những cỗ xe kéo.
Nhiều năm về sau, tôi rời bỏ Pringles, như những người trẻ tuổi có thiên hướng nghệ
sĩ hay văn chương thường rời bỏ những thị trấn nhỏ, khao khát những món ăn văn hóa mà
thủ đô hoa lệ hứa hẹn. Và bây giờ, nhiều năm sau chuyến di cư, một ý nghĩ nhói lên rằng
có lẽ tôi đã bị ảo vọng làm mờ mắt, vì những đêm tuổi thơ ở Pringles quay trở lại với tôi,
cái nào cái nấy đều sống động và muôn hình muôn trạng, đến nỗi tôi không thể không tự
vấn liệu có phải tôi đã đánh đổi sự giàu có để lấy sự nghèo nàn hay không. Cái đêm mà tôi
đang dựng lại là một ví dụ điển hình: một cuộc quyên góp sách, một buổi biểu diễn tại nhà
hát, và một rạp xiếc, tất cả cùng diễn ra một lúc. Có quá nhiều thứ để cho ta chọn, và ta
buộc phải lựa. Nhưng đâu cũng chật kín người ngồi. Rạp xiếc cũng không phải là ngoại lệ.
Khi lái xe ngang qua cổng vào, chúng tôi có thể thoáng nhìn thấy các gia đình đang ngồi
chật ních bên trong và những hàng ghế đang rên xiết dưới sức nặng của đám đông khán giả.
Trong vũ đài, những chú hề đã sắp đội hình thành một kim tự tháp bằng người, nó đổ nhào
xuống, khiến người ta cười ầm lên. Hầu như tất cả mọi người đều ở rạp xiếc. Những cư dân
Pringles hẳn đã nghĩ rằng đây là nơi an toàn nhất.
Đến đây thì tôi cần có một lời giải thích. Rạp xiếc này đến thị trấn vào ba ngày trước,
và gần như ngay tức khắc cả đoàn đã phải kinh qua một cuộc scandal chấn động. Một trong
những bảo bối của nó là ba người lùn. Hai trong số đó là đàn ông: họ là anh em sinh đôi.
Người thứ ba là một phụ nữ đã kết hôn với một trong hai người song sinh. Và hiển nhiên
bộ tam đặc biệt này có một vấn đề làm cho nó khó có thể ổn định, và dẫn đến cuộc khủng
hoảng đã xảy ra ở Pringles. Người phụ nữ và em rể của mình là tình nhân, và vì một lý do
nào đó bọn họ lại chọn thị trấn chúng tôi làm nơi cao chạy xa bay cùng với số tiền tiết kiệm
của anh chồng bị cắm sừng. Chúng tôi đáng lẽ đã không bao giờ biết được âm mưu thú vị
này nếu không có sự kiện kéo theo sau đó: sau khi cặp tình nhân biến mất một vài giờ, thì
người chồng cũng bốc hơi, cùng với khẩu súng chín li và hộp đạn của chủ rạp xiếc. Mục đích
của anh ta chẳng thể rõ ràng hơn. Cảnh sát được thông báo ngay lập tức với hy vọng rằng
họ sẽ ngăn chặn được tấn bi kịch. Tất cả nhân chứng (các anh hề, nghệ sĩ đu dây, huấn luyện
viên xiếc thú) đều đồng tình với nhau về mức độ giận dữ của người chồng khi anh ta phát
hiện sự việc, và quyết tâm của anh ta trong việc thực hiện một vụ trả thù đẫm máu. Người
ta không thể xem nhẹ lời anh chàng này, vì anh ta là một gã nhỏ thó có thiên hướng bạo lực
và nổi tiếng với cơn thịnh nộ có khả năng hủy diệt. Cái thứ vũ khí anh ta đánh cắp có tính
60 Z Z Z REVIEW
cặp đôi thông dâm bé tí khó tìm kia của người chồng. Cùng cái sự thu nhỏ đầy ảo diệu, là lý
do người ta gán cho sự thất bại của cuộc truy tìm, đã khiến mọi người ngờ rằng có bắn kiểu
gì thì chắc chắn cũng trật mục tiêu thôi. Bằng cách nào hắn có thể bắn trúng một, hay hai,
nguyên tử đang ẩn mình được chứ? Bất cứ ai, hay những người yêu dấu của họ, cũng có thể
bị hạ gục bởi những tràng đạn lạc, ở bất cứ thời điểm nào và ở bất cứ nơi đâu.
Lại hai mươi bốn tiếng nữa trôi qua, hai nỗi sợ hãi đã bắt đầu quấn quyện lấy nhau,
và thị trấn đã rơi vào cơn mê sảng cấp tính của nỗi lo sợ bị xử tử. Không một ai cảm thấy
an toàn ở nhà, và thậm chí ở ngoài đường thì càng tệ hơn. Nhưng những đám đông lại làm
người ta thấy yên lòng, càng đông càng tốt: những người khác có thể làm bia đỡ đạn cho
họ, và bởi những nỗi băn khoăn vị tha sẽ bay ra khỏi cửa sổ khi đe doạ lơ lửng trên đầu ta,
không ai màng đến những con người mà thân thể họ rồi găm chi chít đạn. Đó hẳn đã là lý
do tại sao chúng tôi ra ngoài ăn tối, một việc mà hầu như chúng tôi không bao giờ làm. Và ở
một cấp độ khác của động cơ, trong địa hạt mê tín, đó hẳn cũng là lý do bố mang theo chiếc
ví nổi tiếng của Pushkin, thứ mà ông chỉ dành cho những dịp đặc biệt. Chắc có lẽ bạn cũng
nhớ rằng, Pushkin bị giết bởi một phát súng xuyên tim.
Và đến đây tôi sẽ đóng lại phần giải thích để trở lại câu chuyện chính. Nhưng cùng lúc
làm vậy, tôi nhận ra mình đã phạm một sai lầm. Hành động vẫn tiếp diễn trong sảnh nhà
hát, và điều đó có nghĩa rằng cuốc xe trên đại lộ băng qua rạp xiếc đã diễn ra trước đó, khi
chúng tôi đang trên đường đến khách sạn. Và quả thật, khi tôi ngẫm lại cho kỹ, có vẻ như
là bầu trời đằng sau tòa thị chính và bên trên rạp xiếc không hoàn toàn tối đen: nó có màu
xanh sẫm, sắc hồng chạng vạng vẫn vương lại đây đó, và dọc đường chân trời phía Tây là
một lớp ánh sáng trắng lân quang. Bầu trời đầy sao hẳn là một chi tiết thêm thắt, đem lại
bởi những sự kiện dựng tóc gáy xảy ra sau đó, trên mái của nhà hát. Sự lẫn lộn của tôi một
phần đến từ sự kỳ dị đặc thù của câu chuyện này: mặc dù có một sự logic hết sức hợp lý cho
cái thứ tự mà các sự kiện nối tiếp nhau diễn ra, chúng lại cũng tồn tại một cách độc lập, như
những vì sao trên bầu trời, nhân chứng duy nhất cho cái hành động cuối cùng, vì vậy mà
những bóng dáng chúng tạo thành có vẻ xuất phát từ trí tưởng tượng hơn là thực tế.
Chuyện diễn ra đại loại như sau: Khi đã thỏa mãn nỗi tò mò về Bộ Não Phát Nhạc, bố
mẹ tôi đi ra đường, một phần bởi vì chẳng còn gì để xem và một phần vì muốn ra về trước
khi những khán giả trong nhà hát bắt đầu ùa ra ngoài. Vở diễn hẳn đã kết thúc; tràng pháo
tay vẫn chưa dừng lại hẳn, nhưng chắc cũng chẳng thể tiếp tục được lâu, và mẹ không muốn
người khác thấy mình rời ra khỏi đây cùng với đám “trùm dơ bẩn”. Những người không biết
gì sẽ có thể nghĩ rằng bà đã tụt dốc về mặt văn hoá, xuống ngang bằng với những người đi
theo Tổng thống Peron.
Bà quay người bước đi với một phong thái dứt khoát đến nỗi tôi cảm nhận được thời
khắc vàng đã đến: giờ thì đã đủ an toàn cho tôi thỏa mãn khao khát được chạm vào cái vật
62 Z Z Z REVIEW
hơn là liên tục ngưng lại. Thế nhưng lại cũng có kha khá chuyển động: một cơn lốc, một
vực thẳm những nguyên tử phi lý.
Mẹ, một người rất dễ bị kích động, bắt đầu hét lớn, nhưng tiếng hét của bà chìm lẫn
trong tiếng ầm ĩ thình lình dội ra từ trong nhà hát. Một điều gì đó bất ngờ đã xảy ra. Leonor
Rinaldi vĩ đại đã được tán thưởng xong, và dàn diễn viên đã được gọi trở lại trước sân khấu
đến bảy lần. Các diễn viên đang dợm đi ra cánh gà sau loạt cúi đầu cảm tạ cuối cùng thì
những khán giả đứng hẳn dậy từ trên ghế ngồi. Vào khoảnh khắc ấy, lúc các nhân vật đã dần
phai đi trên da các diễn viên, đang đứng cùng nhau thành một hàng dài trên sân khấu, mỗi
khuôn mặt hay thân hình vẫn còn mang chút dáng dấp từ vở hài kịch, nhưng là một vở hài
kịch mà lúc này cốt truyện, cùng với những bất ngờ và sai sót của nó, đã trộn lẫn lên hết cả
trong cái hàng dài những dáng hình đang cúi đầu chào và mỉm cười, như thể giờ là phận sự
của những vị khán giả, trong khi họ vỗ tay và quét mắt qua hàng người, cái phận sự tự sắp
soạn lại câu chuyện trong đầu và chào tạm biệt nó, như một câu chuyện hư cấu mà nó vốn
là, cùng với cái phòng khách kiêm phòng ăn giả vờ, bộ xô pha, cái cầu thang làm nhái; các
ô cửa sổ sơn màu, những cánh cửa mở ra và đóng lại trong một cơn lũ những nút thắt khôi
hài, và toàn bộ phần còn lại của sân khấu... thì đúng lúc đó, khi bầu không khí tưng bừng
sắp khép lại, bức tượng thạch cao cỡ lớn của Juan Pascual Pringles, được sử dụng để trang
hoàng cho mái vòm nhà hát, vỡ tung ra. Những đường nét trên khuôn mặt cha già dân tộc
nổ tung như một vì sao đá phấn, và thế vào vị trí của chúng, các khán giả, lúc này đương
sững sờ, trông thấy cái tạo vật kỳ dị nhất mà một deus ex machina từng tạo ra: chính là ả
người lùn. Đó là nơi ả đã ẩn trốn, và không một ai có thể tìm ra. Sự kiện này có vẻ là tình cờ:
có lẽ rung động từ những tràng pháo tay hay những tiếng hét “Bravo!” đã làm rã rời những
phân tử già cả trên cái đầu thạch cao của vị chiến binh anh hùng; nhưng giả thuyết này sớm
bị bác bỏ, khi người ta biết ra cú nổ của bức tượng gây ra bởi một nguyên nhân nội tại - cụ
thể là việc kích cỡ của người lùn tăng lên. Khi đã được thụ thai, cái kén sát thủ này đã rút
vào một nơi trú ẩn an toàn để cho tự nhiên (sau tất cả thì những con quái vật cũng là một
phần của tự nhiên) làm công việc của mình. Và, tình cờ thay, quá trình này đã hoàn thành
ngay đúng lúc các diễn viên chuẩn bị rời sân khấu; nếu xảy ra chỉ một vài phút sau thì sinh
vật đó sẽ nhô ra giữa một nhà hát trống vắng và tối tăm.
Khi diễn ra, nó đã trở thành một màn diễn phụ mà trước đấy hay kể từ đấy chưa ai
được chứng kiến. Hai ngàn cặp mắt trông thấy một cái đầu lớn trồi lên từ trong hốc thạch
cao, một cái đầu không có mắt, mũi, miệng nhưng lại phủ một mái tóc xoăn vàng óng, sau
đó là hai cánh tay múp míp có móng vuốt, và một bộ ngực hồng đồ sộ với hai con mắt ở
ngay đúng chỗ lẽ ra là núm vú. Sinh vật này tiếp tục nhô lên cao nữa, theo chiều ngang,
gần chỗ mái nhà hát, như một bức tượng quỷ trên máng xối... cho đến lúc, cả người rung
lên giần giật, nó giương cao hai cánh, một cánh ra trước và cánh còn lại theo sau - hai cái
64 Z Z Z REVIEW
rợn, nhập hội với đoàn diễn viên của Leonor Rinaldi, cả Tomás Simari và chính Rinaldi, tất
cả đứng lẫn lộn với khán giả của nhà hát với rạp xiếc, lúc này cũng đang đứng lẫn lộn vào
nhau, chưa kể đến những người hiếu kỳ, hàng xóm ở quanh đấy, và đủ các loại cú đêm. Chưa
bao giờ có một cảnh tượng như thế này, kể cả là vào dịp carnival.
Cuộc lục soát đầu tiên quanh nhà hát được thực hiện bởi toán cảnh sát tay cầm súng
đã lên sẵn nòng và được lãnh đạo bởi Cereseto (chỉ có ông là nắm rõ đường ngang ngõ tắt
trong chốn này) đã chẳng thu được manh mối gì. Sinh vật đó đã biến mất một lần nữa, cánh
kiếc mất dấu cả. Có tin đồn rằng nó đã tìm được đường ra ngoài và bay đi xa. Giả thuyết này
đúng ra sẽ làm tình thế dịu đi một chút, nhưng mọi người lại đâm ra thất vọng. Cho đến lúc
này, ai cũng đang chờ đợi một sô diễn, họ tụ tập ở đó để chờ xem thêm. Niềm hy vọng sống
lại với một sự kiện bất ngờ: từ cái khối to lù lù là nhà hát, vô số dơi và bồ câu bỗng túa ra
bay theo đủ mọi hướng. Vì bồ câu thường không bay vào ban đêm, chúng khiến chuyến di
cư này có một diễn biến mới lạ thường. Những sinh vật bé nhỏ này hẳn đã cảm nhận được
cái bóng ma gớm guốc nên mới ùa đi chạy trốn như thế.
Một khoảnh khắc sững sờ kéo đến, rồi sau đó là một tiếng thét, và một bàn tay chĩa
lên. Mọi cái đầu ngửa lên, mọi con mắt đổ về những cái lỗ tường theo phong cách giả
Gothic trên mặt tiền nhà hát. Ở đó, ngồi xổm giữa hai tháp canh chính là con quái vật, với
đôi cánh sải rộng và một thân thể đang run lên bần bật mà từ đằng xa cũng có thể trông thấy
rõ. Ánh đèn pha chói gắt của xe cứu hỏa rọi vào nó. Ở dưới đường, hai trong số những anh
hề, trên người mặc bộ đồ sặc sỡ và gương mặt vẽ màu, trèo lên nóc xe con và vẫy hai cái thi
thể người lùn bẹp dúm trên đầu mình như thể đang vẫy banner.
Mặc dù những cư dân của Pringles chưa bao giờ thấy một dị nhân kiểu này, họ hầu hết
đều là những con người đồng quê đã quen thuộc với quy luật sinh sản. Dù những đứa con
của tự nhiên có hình dạng kỳ lạ đến đâu, họ cũng đã nắm rõ những cơ chế căn bản của sự
sống. Bởi vậy, đám đông sớm nhận ra rằng ả người lùn chuẩn bị “đẻ”. Tất cả mọi dấu hiệu
đều chỉ điểm đến quá trình sinh sản: vụ ngoại tình, khoảng thời gian ẩn mình để cho sự
chuyển hóa diễn ra, cái túi khổng lồ ở bụng, việc lựa chọn một chỗ khó tiếp cận, và bây giờ
là cái tư thế khom người, cái vẻ tập trung và sự rùng mình. Cái mà không ai có thể biết được
là nó sẽ đẻ một hay hai quả trứng, hay vài quả, hay cả triệu quả. Giả thuyết cuối cùng có vẻ
là hợp lý nhất, bởi vì hình dạng của nó có lẽ tương đồng hơn cả với giới côn trùng. Nhưng
khi lớp lông tơ trên cái túi bắt đầu vỡ ra, những gì xuất hiện chỉ là một cái trứng màu trắng
một đầu nhọn và to bằng quả dưa hấu. Một tiếng “Ồ” ngạc nhiên lan qua đám đông. Có lẽ
bởi tất cả các ánh mắt đều dán vào cái quá trình xuất hiện chậm chạp của viên ngọc kỳ thú
đó, sự ngạc nhiên càng tăng lên khi có một cái bóng khác xuất hiện bên cạnh ả người lùn
có cánh: cái bóng tiến dần vào vùng ánh sáng, và chỉ hiện rõ ra hoàn toàn khi quả trứng đã
được đặt cân đối trên cái mái đua cao đến chóng mặt. Đó là Sarita Subercaseaux, với mái
66 Z Z Z REVIEW
Hiện diện
của Faulkner
trong văn chương
Mỹ Latinh (1)
Antonio C. Marquez
Nguyễn Tùng Thúy dịch
1. Bài đăng trên tạp chí REDEN: revista española de estudios norteamericanos, ISSN 1131-9674, Nº 5, 1992, págs.
11-25.
William Faulkner là một nhà văn khác có ảnh hưởng tới Thành phố và Lũ Chó. Ông
có ảnh hưởng lớn tới văn học Mỹ Latinh và tôi đã biết đến các tác phẩm của ông khi
học những năm cuối đại học. Tôi nhớ Faulkner là nhà văn đầu tiên tôi đọc với cả giấy
bút trong tay, cố gắng giải mã cấu trúc, sáng tạo về hình thái trong các tiểu thuyết của
ông. Nhờ đọc Faulkner, tôi học được rằng hình thái có thể là một nhân vật trong tiểu
thuyết, và đôi khi còn là nhân vật quan trọng nhất - nghĩa là việc tổ chức các góc nhìn
tường thuật, sử dụng các ngôi tường thuật khác nhau, giữ lại một vài thông tin không
cho người đọc biết để tạo sự mơ hồ. Tôi rất hứng thú với cách sử dụng cấu trúc tuyệt vời
này trong một tác phẩm hư cấu. Có lẽ điều này cũng hiện diện trong tiểu thuyết đầu tay
của tôi. Cách tổ chức câu chuyện phản ánh phần nào sự thích thú của tôi với những khả
năng của dạng thức trần thuật, khám phá mà tôi tìm được từ Faulkner.(1)
Thực tế thì những gì học được từ Faulkner hiển hiện trong tiểu thuyết đầu tay của
Vargas Llosa và lòng biết ơn được bày tỏ rõ của ông cũng đặt ra vấn đề về tầm ảnh hưởng
của Faulkner với nhiều nhà văn Mỹ Latinh khác. Vargas Llosa cũng lên tiếng thay cho một
thế hệ các cây bút Mỹ Latinh, dùng giọng nói của số đông, ông chỉ ra ảnh hưởng to lớn của
Faulkner và sự ngưỡng mộ của những người cùng thời với ông. Vargas Llosa cũng nhấn
mạnh mối liên hệ và nét tương đồng đặc biệt khiến một số nhà văn, như Carlos Fuentes và
Gabriel García Márquez, nói rằng Faulkner là uno de los nuestros (“một trong số chúng tôi”)
và là một phần di sản văn hóa của họ:
Tất nhiên có nhiều lý do khiến một nhà văn Mỹ Latinh bị ảnh hưởng bởi Faulkner. Đầu
tiên là bởi tầm quan trọng các tác phẩm của Faulkner; ông có lẽ là tiểu thuyết gia quan
trọng nhất, nguyên bản nhất, giàu giá trị nhất của thời đại chúng ta. Ông tạo ra thế giới
phong phú và tinh xảo như những thế giới tự sự phong phú và tinh xảo nhất của thế kỉ
19. Nhưng còn nhiều lý do cụ thể khiến Faulkner hấp dẫn như vậy ở Mỹ Latinh. Thế
68 Z Z Z REVIEW
giới mà từ đó ông tạo ra thế giới của riêng mình khá giống với thế giới Mỹ Latinh. Ở
vùng Thâm Nam Hoa Kỳ, cũng như ở Mỹ Latinh, hai nền văn hóa, hai truyền thống
lịch sử khác nhau, hai chủng tộc khác nhau song song tồn tại - tạo nên một sự đồng
hiện rất khó khăn, đầy định kiến và bạo lực. Quá khứ rất đỗi quan trọng cũng luôn hiện
diện trong cuộc sống đương đại... Từ những điều này, Faulkner đã tạo ra một thế giới
riêng bằng nhiều kỹ thuật và hình thái. Cũng dễ hiểu khi một nhà văn Mỹ Latinh với
những nguồn tư liệu tương tự sẽ thấy hấp dẫn với các kỹ thuật và sáng tạo về hình thái
của Faulkner.(1)
Sức hấp dẫn trong khám phá đa diện của Faulkner về lịch sử và văn hóa, góc nhìn bi
kịch và tài nghệ tiểu thuyết bậc thầy của ông có ảnh hưởng rất sâu rộng. Tuy vậy, tầm ảnh
hưởng của Faulkner và sự hiện diện của ông trong văn học hư cấu Mỹ Latinh vẫn chưa được
đo lường một cách đúng đắn. Mới đây, vào năm 1989, trong cuốn Journeys Through the
Labyrinth: Latin American Fiction in the Twentieth Century, Gerald Martin nói rằng “câu
chuyện về mối liên hệ giữa Faulkner với cả tiểu thuyết mới (Nouveau Roman) của Pháp và
tiểu thuyết mới (Nueva Novela) của Mỹ Latinh vẫn còn nhiều điều để nói”. Để sang một
Từ 1937 tới 1939, Borges đã viết bình luận về các tác phẩm The Unvanquished, Absalom,
Absalom! và Cọ hoang (The Wild Palms). Về The Unvanquished, ông viết: “Có những cuốn
sách chạm tới chúng ta như thể biển cả đang ở gần hay buổi sớm ban mai. Với tôi, cuốn
sách này là một trong số đó.” Đánh giá về cuốn Absalom, Absalom!, Borges đã so sánh rất
chính xác hai tiểu thuyết lớn của Faulkner: “Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh
và cuồng nộ (The Sound and the Fury). Tôi không biết khen ngợi sao hơn nữa.” Và trong
bình luận về The Wild Palms, ông đưa ra kết luận rất kêu: “William Faulkner là tiểu thuyết
gia hàng đầu trong thời đại chúng ta là một lời khẳng định có thể hiểu được.”(2) Bình luận
cuối là lời khen ngợi rất lớn, nhất là khi nó đến từ một nhà văn đã sáng tác tuyệt phẩm
Ficciones, một trong những kiệt tác của văn học hư cấu thế kỉ 20. Dù Cọ hoang không phải
một trong các công trình chính của Faulkner, tác phẩm vẫn có một vị trí đặc biệt; bản dịch
của Borges (Las palmeras salvajes, 1941) là bước ngoặt trong ngã ba văn chương liên Mỹ.
Emir Rodgriguez Monegal, người viết tiểu sử của Borges đã đánh dấu thời khắc lịch sử này:
Tầm quan trọng của bản dịch này với tiểu thuyết Mỹ Latinh mới là rất đáng kể... Bản
dịch của Borges không chỉ trung thành với bản gốc tiếng Anh mà còn tạo ra văn phong
mới trong tiếng Tây Ban Nha tương ứng với bản gốc. Với nhiều tiểu thuyết gia Mỹ
Latinh trẻ vốn tiếng Anh chưa đủ để đọc bản gốc thì bản dịch của Borges cũng là một
khám phá mới về văn tường thuật. Ở Borges, họ có thể tìm thấy người dẫn đường tốt
nhất vào thế giới tăm tối và căng thẳng của Faulkner. (3)
1. Gerald Martin, Journeys Through the Labyrinth: Latin American Fiction in the Twentieth Century (London: Verso,
1989), 172.
2. William Faulkner: “Three Reviews,” Borges. A Reader. Emir Rodríguez Monegal và Alastir Reid chủ
biên (New York: E.P. Outton, 1981), 92-94.
3. Emir Rodríguez Monegal, Jorge Luis Borges: A Literary Biography (New York: E.P. Dutton, 1978), 372.
70 Z Z Z REVIEW
Mới nhìn qua, có lẽ hơi lạ khi Borges, nhà “điêu khắc” và “pha chế” của những câu
chuyện siêu hình bí ẩn, lại cổ xúy lối kể chuyện cô đọng và thường là không rõ ràng của
Faulkner. Nhưng khi nhìn vào các bài điểm sách ca ngợi Joyce, Kafka và Woolf của ông,
thì việc Borges tiếp nhận Faulkner với lòng nhiệt thành cũng là điều dễ hiểu. Borges
ngưỡng mộ cách dùng ngôn ngữ tài tình, thử nghiệm gan dạ và bước đi táo bạo của
những nhà văn hiện đại chủ nghĩa. Ở Faulkner, ông thấy một nhà văn liều lĩnh, dám
thử nghiệm với cấu trúc tường thuật và một lòng cống hiến cho nghệ thuật văn chương
hư cấu. Dù khác biệt về văn phong và chủ đề, Borges và Faulkner đều là những nghệ
sĩ nguyên bản và cương quyết, không chỉ ảnh hưởng tới văn học của quê hương họ mà
còn để lại di sản cho mọi nhà văn trong giới văn chương. Borges hoan nghênh chào đón
Faulkner và bày tỏ niềm ngưỡng mộ cũng như nhiều tiểu thuyết gia và các nhân vật
chủ chốt khác cùng thế hệ ở Mỹ Latinh như Juan Carlos Onetti, Carlos Fuentes, Mario
Vargas Llosa và Gabriel García Márquez.
Borges không phải là người đầu tiên giới thiệu các tác phẩm của Faulkner; vinh dự
này thuộc về một người ít tiếng tăm hơn. Bản dịch đầu tiên và tiểu luận phân tích đầu
tiên về Faulkner lại là của nhà văn và nhà phê bình Cuba, Lino Novás Calvo. Novás Calvo
cũng là nhà phê bình Mỹ gốc Tây Ban Nha đầu tiên so sánh Hemingway và Faulkner
(trong bài “Dos escritores norteamericanos”, 1933) để phản ánh sự chia nhánh trong
văn xuôi Mỹ hiện đại và tạo nên hai luồng ảnh hưởng: những người ngưỡng mộ lối văn
xuôi khúc chiết của Hemingway, những người ngưỡng mộ thứ ngôn ngữ và những kỹ
thuật rối rắm khó hiểu của Faulkner và những người ngưỡng mộ (như Novás Calvo)
cả hai tác gia vì những lý do khác nhau. Tuy vậy, hầu hết đều cho rằng Faulkner có ảnh
hưởng lớn lên Novás Calvo. Vào năm 1951 (trước khi Carlos Fuentes và Gabriel García
Márquez xuất hiện), Salvador Bueno nói rằng Novás Calvo là nhà văn Mỹ Latinh bị ảnh
hưởng bởi William Faulkner nhiều nhất. Đáp lại bình luận của Bueno, Novás Calvo
nói rằng “Faulkner nằm trong máu tôi rồi”.(1) Đặt những bình luận có phần phóng
đại như vậy qua một bên, hiển nhiên là bài “El demonio de Faulkner” (1993) (Con
quỷ Faulkner) của Novás Calvo đã khơi nguồn cho các nghiên cứu về Faulkner tại Mỹ
Latinh. Dù Novás Calvo bảo vệ Faulkner trước cáo buộc “bệnh hoạn loạn thần kinh”
và nói rằng góc nhìn bi kịch của Faulkner thường bị hiểu sai: “Những gì người ta gọi
là loạn thần kinh trong sáng tác của Faulkner, thực ra là phẩm chất siêu phàm và khác
thường của ông: sức căng thẩm mỹ uyên thâm và bền bỉ được truyền tải tới người đọc
Một năm sau khi bài “El demonio de Faulkner” được xuất bản, bản dịch tác phẩm
Thánh địa tội ác (Santuario) của Novás Calvo ra đời. Cũng dễ hiểu khi việc dịch Thánh địa
tội ác đòi hỏi rất nhiều cố gắng dẫn tới việc đề cao ngôn ngữ và sự phức tạp trong văn phong
của Faulkner. La influencia de William Faulkner en cuatro narradores hispanoamericanos của
James East Irby, nghiên cứu so sánh xuất sắc nhất về Faulkner và Novás Calvo đã coi La luna
nona y otros cuentos (1842) là sản phẩm khởi đầu các thử nghiệm của Novás Calvo với những
kỹ thuật của Faulkner. Cụ thể, Novás Calvo sử dụng người tường thuật “nhân chứng” mà
Faulkner sử dụng trong “Bông hồng cho Emily” (A Rose for Emily). Việc Novás Calvo đánh
giá cao “Bông hồng cho Emily” cũng là một dấu chỉ mốc. “Bông hồng cho Emily” là truyện
ngắn nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất của Faulkner; ảnh hưởng tới cả tiểu thuyết gothic Nàng
Aura của Fuentes và các truyện ngắn trong Los funerales de la Mamá Grande của García
Márquez. Irby kết luận phân tích của mình rằng Novás Calvo là một trong những độc giả
nhiệt tình và am tường nhất của Faulkner; đó là điểm hội lưu mang lại kết quả tích cực:
“Phân tích tác phẩm của ông cho thấy rõ ràng rằng ảnh hưởng của Faulkner, cũng như mọi
ảnh hưởng đích thực khác, tạo ra sự tương đồng ngầm và thực hiện một chức năng tích cực,
đóng góp thêm giá trị và sức mạnh cho các tác phẩm của Novas Calvo”.(2)
Ngược lại, tác phẩm đầu tay của Juan Carlos Onetti thì lại thường được cho là ví dụ
tiêu cực nhất về ảnh hưởng của Faulkner. Một nhà phê bình từng viết: “Ở mức độ văn
phong, sự phức tạp của Onetti không phải là nguyên bản. Nó bắt nguồn từ ảnh hưởng của
các nhà văn khác, đặc biệt là Faulkner.”(3) Luis Harss và Barbara Dohmann trong Into the
Mainstream: Conversations with Latin American Writers cũng có lời nhận xét không kém
phần chua cay:
Onetti là tiếng vọng của người thầy có ảnh hưởng to lớn lên ông: Faulkner. Ảnh hưởng
này là hoàn toàn chủ động và có dụng ý, Onetti không thấy lý do gì phải xin lỗi vì điều
1. Lino Novás Calvo, “El demonio de Faulkner,” Revista de Occidente. 39 (1933): 98 - 102.
2. James East Irby, “La influencia de Wiliam Faulkner en cuatro narradores hispanoamericanos.” Thesís: Universiad
Nacional Autónoma de México, 1956, 16.
3. M. lan Adams, Three Authors of Alienation (Austin: U P of Texas, 1975), 39.
72 Z Z Z REVIEW
đó. Nhưng đôi khi nó khiến độc giả khó chịu. Un sueño realizado được tạo nên bởi
những câu văn Faulknerian chảy dài lê thê, góp phần tạo nên bầu không khí biệt lập
của cuốn sách nhưng vì dùng quá nhiều văn phong đi mượn - những phó từ phức tạp,
mệnh đề phụ thừa thãi, mở rộng tính từ một cách không cần thiết - nên đôi khi cũng
bị ảnh hưởng”.(1)
Niềm ngưỡng mộ sâu sắc của Onetti với Faulkner là không thể chối cãi. Ông đã trìu
mến tóm tắt sự kính trọng của mình trong “Requiem por Faulkner” (1962). Trách móc
những bài lược sử về người quá cố của báo giới là thiếu tôn trọng, Onetti ca tụng Faulkner
là “một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế kỉ” và so sánh tài năng sử dụng tiếng Anh
của Faulkner ngang với Shakespeare. Onetti cũng nhân dịp này nghĩ về câu hỏi: “Ai là
tiểu thuyết gia Bắc Mỹ quan trọng nhất của thời đại chúng ta?” và nêu ra vấn đề lựa chọn
Hemingway hay Faulkner. Cũng có thể dự đoán được rằng Onetti chọn Faulkner. Nhắc lại
bao năm trời các tác phẩm của Faulkner bị lãng quên và việc ông đã chịu đựng sự ghẻ lạnh
ô nhục ấy thế nào, Onetti tuyên bố rằng Faulkner, với tư cách là một người đàn ông và một
nhà văn, là có một không hai. Onetti kết thúc bài điếu văn của mình với lời cảm ơn “gracias”
đơn giản và đây được coi là một trong những lời bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất của
một nhà văn với một nhà văn khác.(2)
Không nghi ngờ gì, nhà văn sớm nắng chiều mưa người Uruguay nhận ra ở Faulkner
một tâm hồn đồng điệu và có chung góc nhìn bi kịch về con người với tác gia người Mỹ.
Rodriguez Monegal nhận xét rằng “Faulkner ảnh hưởng lớn tới Onetti ở cái mà chúng ta
gọi là tầm nhìn về thế giới tiểu thuyết, cách nhìn về mối quan hệ giữa các nhân vật và thế
giới quanh họ”.(3) Cùng quan điểm về tầm nhìn tiểu thuyết này, họ có chung mối quan tâm
về việc sáng tạo tác phẩm hư cấu, với nhiều cách tạo hình và kể chuyện. Nghiên cứu so sánh
của Corina Mathieu-Higginbotham về “Bông hồng cho Emily” của Faulkner và “La novia
robada” của Onetti đã phát hiện ra rằng mối tương đồng bắt nguồn từ sự giống nhau về tài
trí giữa hai nhà văn liên quan tới nhận thức về thực tại và việc sử dụng kỹ thuật như nhau
để tạo nên tác phẩm nghệ thuật.(4)
Lạ là Onetti sau này cũng là một phần trong tranh cãi về ảnh hưởng của Faulkner.
1. Luis Harss và Barbara Dohmann, Into the Mainstream: Conversations with Latin American Writers (New York:
Harper & Row, 1969), 193.
2. Juan Carlos Onetti, “Requiem por Faulkner”, Requiem para Faulkner y otros articulos (Montevideo: Arca Editorial,
1975). 164-167.
3. Irby, “La influencia de William Faulkner en cuatro narradores hispanoamericanos”, 79.
4. Corina Mathieu-Higginbotham, “Faulkner y Onetti: Una visión de la realidad a través de Jefferson y Santa María”,
Hispanofila. 61 (1977): 51-60.
1. Luis Mario Schneider, “Revive la polémica sobre José Revueltas”, Conversaciones con José Revueltas, Jorge
Ruffinelli chủ biên (Xalapa, Mexico: Universidad Veracruzana, 1977), 96-97.
2. George R. McMurray, Spanish American Writing Since 1941 (New York: Ungar, 1987), 31-32.
74 Z Z Z REVIEW
Vì Yáñez chưa bao giờ thừa nhận từng đọc hay chịu ảnh hưởng của Faulkner, các
nhà phê bình chỉ có thể dự đoán: “... điểm tương tác văn chương chính xác giữa Yáñez
và Faulkner là không thể chắc chắn, nhưng có lẽ Yáñez đã học hỏi Faulkner từ tác phẩm
Revista de Occidente, và mối liên hệ với các tiểu thuyết sau này là qua hiệu sách Librería Font
mà Yáñez và các nhà văn trẻ rất hay ghé.”(1) Liều lĩnh hơn nữa, “Analisis comparativo de las
obras de Agustín Yáñez y William Faulkner” của Magali Fernandez, nghiên cứu so sánh về
Al filo del agua và Khi tôi nằm chết, là bản phân tích cấu trúc khá sát, biện hộ cho quan điểm
rằng Manhattan Transfer không phải là hình mẫu và nguồn cảm hứng duy nhất của Yáñez.(2)
Vào năm 1947, Joyce, Woolf, Faulkner và những nhà thực hành kỹ thuật dòng ý thức khác
trong văn học hư cấu đã khá nổi danh trong giới văn chương Mỹ Latinh. Dù trực tiếp hay
gián tiếp, bước tiến tiên phong Joycean và Faulknerian đã chạm tới Yáñez và ông đã đáp lại
bằng một lối viết độc đáo. Tiểu thuyết lớn của Yáñez mang nét “Faulknerian” trong việc sử
dụng dòng ý thức của những con người bị bao vây trong trật tự xã hội đang hấp hối nhưng
vẫn bám chặt vào quá khứ khi bị ném vào vòng xoáy của thế kỉ 20.
1. Joan Lloyd (Hernandez, “The Influence of William Faulkner in Four Latin American Novelists,” luận văn thạc sĩ,
Louisiana State U, 1978, 48.
2. Magali Fernández, “Analisis comparativo de las obras de Agustín Yáñez y William Faulkner,” Homenaje a Agustín
Yáñez. Helmy R. Giacoman chủ biên (Madrid: Las Américas, 1973), 296-317.
Vì thế mà tác phẩm của Faulkner rất gần gũi với người Mỹ Latinh chúng tôi; chỉ
Faulkner, từ văn chương Mỹ, chỉ Faulkner, từ thế giới lạc quan và thành công chật hẹp
đó, mới mang đến cho chúng tôi hình dung về sự tương đồng giữa Mỹ và Mỹ Latinh:
hình ảnh của sự thất bại, chia cách, nghi ngờ và bi kịch. (2)
Fuentes nhắc lại điểm quan trọng này trong tác phẩm phê bình lớn của mình: La
nueva novela hispanoamericana (1969): “Trong Faulkner, qua hành trình tìm kiếm những
1. Carlos Fuentes, “Situación del escritor en América Latina,” Mundo Nuevo. 1 (1966): 5-21.
2. Carlos Fuentes, “La novela como tragedia: William Faulkner,” Casa con dos puertas (Mexico: Editorial Joaquín
Mortiz, 1970), 52-78.
76 Z Z Z REVIEW
điều chưa được nói (trên những trang văn bất khả) đầy bi kịch đã sản sinh huyền thoại về
loài người không gục ngã trước thất bại, bạo lực và nỗi thống khổ.”(1)
Điều thú vị nhất trong đánh giá của Fuentes là nỗ lực nói tất cả mọi điều của Faulkner,
ngay cả những điều bất khả. Đề cập tới nhiều tác phẩm (Thánh địa tội ác, Absalom, Absalom!,
Nắng tháng Tám (Light in August)) và cho thấy cách đọc rất chú tâm của mình, Fuentes
phân tích ngôn từ hoa mỹ và phong cách sử dụng tu từ dày đặc của ông. Ông biến “Dixie
Gongorism” (một câu nói mỉa mai của Allen Tate về phong cách của Faulkner) thành một
điều có lợi. Fuentes cho rằng được so sánh với Góngora là một vinh dự và hài lòng bởi nét
baroque kết nối nhà thơ Tây Ban Nha vĩ đại nhất thế kỉ 17 với nhà văn Mỹ vĩ đại nhất thế
kỉ 20. Mười lăm năm sau, Fuentes xác nhận lại điều này và cho rằng Faulkner là một phần
của văn hóa Hispanic: “Faulkner là một trong số chúng tôi, ông ấy thuộc về di sản văn hóa
của chúng tôi... Ngôn ngữ của Faulkner là ngôn ngữ của phong cách baroque, di sản văn
hóa mà chúng tôi cùng chung với ông.”(2)
Fuentes cũng phân tích ngắn gọn các thử nghiệm của Faulkner với thời gian trần
thuật và rất tinh khi nhận ra một trong những thành công lớn nhất của Faulkner. Ông
nhấn mạnh rằng lịch sử chưa bao giờ dành cho Faulkner; trong tiểu thuyết của ông, mọi
thứ đều hiện diện, mọi thứ đều là hiện tại. Fuentes nói lại theo một cách khác những gì
chính Faulkner nói về lịch sử và lối trần thuật tuyến tính: “Chẳng có thứ gì là từng cả. Với
tôi, chẳng con người nào là chính mình mà anh ta là tổng hòa quá khứ của mình. Chẳng có
thứ gì là từng vì quá khứ vẫn đang hiện diện. Nó là một phần của mỗi người đàn ông, mỗi
người phụ nữ và mỗi khoảnh khắc. Gốc gác, nguồn cội của anh ta/cô ta đều là một phần
của họ trong bất kì khoảnh khắc nào.”(3) Trong tác phẩm khác, Fuentes cũng vang vọng ý
tứ cách ngôn của Faulkner: “Quá khứ chết thì không có hiện tại. Quá khứ sống thì luôn có
một ngôn ngữ sống trong hiện tại.” (4)
Đáng chú ý, Fuentes viết “Entre el dolor y la nada” khi đang viết La muerte de Artemio
Cruz (The Death of Artemio Cruz, 1964), tác phẩm khiến ông trở thành một phần của
“Boom” và được quốc tế công nhận. La muerte de Artemio Cruz cho thấy Fuentes đã học
được lối viết Faulknerian về thời gian trần thuật và trình tự xuất hiện. Cũng như Yáñez,
Fuentes kể lại câu chuyện của Cách mạng Mexico và lịch sử bi thương của Mexico hiện đại
trong từng mảnh nhỏ, theo kiểu dòng ý thức. Thử nghiệm mới lạ nhất của Fuentes là đặt
1. Carlos Fuentes, La nueva novela hispanoamericana (Mexico: Editorial Joaquín Mrtiz, 1969).
2. “Dialogo con Carlos Fuentes,” Simposio Carlos Fuentes, Isaac Jack Levy và Juan Loveluck chủ biên (U of South
Carolina, 1978), 215-229.
3. Faulkner in the University. Frederick L. Gwynn và Joseph L. Blotner chủ biên (New York: Random House, 1959),
84.
4. “Discourso inaugural de Carlos Fuentes,” Simposio Carlos Fuentes. 13.
Tôi cũng đọc Faulkner và cách ông dùng ngôi số nhiều như “chúng tôi”. Ví dụ như
“Bông hồng cho Emily” được tường thuật bằng ngôi “chúng tôi”. Thực tế, tôi nghĩ tất
cả các tiểu thuyết của Faulkner đều được tường thuật bởi một giọng nói tập thể. Với
tôi, “tu” rất quan trọng trong việc nhận diện các chủ thể khác, như một phương thức
để nhận diện, có lẽ đó chính là người Mexico - giọng nói tập thể - đã nói với Artemio
Cruz “tu, tu, tu”. (1)
Giọng nói tập thể không phải đặc điểm duy nhất mang nét Faulknerian trong La
muerte de Artemio Cruz. Các đoạn văn theo dòng ý thức - những câu văn tưởng như không
liên quan, nhiều giọng kể nối tiếp nhau trong dòng trần thuật, sự hợp nhất giữa hiện tại
và nhiều tầng quá khứ, nỗ lực của nhân vật đi tìm ý nghĩa hoặc điều vô nghĩa trong những
mảnh vỡ của loài người trong lịch sử - đều khá giống với các đoạn độc thoại của Quentin
Compson trong Âm thanh và cuồng nộ và Absalom, Absalom! Thực tế, có bằng chứng rất rõ
ràng rằng Fuentes rất chú ý tới các bài học của người thầy này, học cách hòa trộn lịch sử và
huyễn hoặc, thời gian và ý thức con người, diễn giải quy trình này qua những ký ức đau đớn.
Thành công và nỗ lực muốn đột phá của Fuentes trong tiểu thuyết Mexico không được
công nhận trên toàn thế giới, những người chê bai quả quyết rằng La muerte de Artemio
Cruz quá cưỡng ép, chỉ là thử nghiệm có chủ đích và mang dấu ấn của Joyce-Faulker quá
rõ. Thực tế, giá trị của La muerte de Artemio Cruz còn phải xem xét, vấn đề ở đây là trong
cuộc tìm kiếm “các kỹ thuật mới và phù hợp”, Fuentes đã tìm thấy những phương thức giá
trị ở Faulkner.
Có một nhà văn khác cùng thế hệ với Fuentes cũng phải vật lộn với “el demonio de
Faulkner”. Ông là người thứ tư đến từ Mỹ Latinh nhận được giải Nobel và là nhà văn Mỹ
Latinh đương đại được ca tụng và được đọc nhiều nhất. Gabriel García Márquez cũng là
nhà văn có mối liên hệ gần gũi nhất với Faulkner và là chủ đề của nhiều nghiên cứu so sánh.
78 Z Z Z REVIEW
Trăm năm cô đơn (Cien años de soledad) (1967) và việc được vinh danh sau đó đã dấy lên làn
sóng nghiên cứu về García Márquez. Giới phê bình vẫn tranh luận không mệt mỏi. Phần
thư mục rất hữu ích và tóm tắt các ý kiến bình luận của George McMurry có thể tìm thấy
trong Critical Essays on Gabriel García Márquez (1987). Tới nay, The Presence of Faulkner
in the Writings of García Márquez (1980) của Haryley D. Oberhelman vẫn là nghiên cứu
so sánh tham vọng và lập luận chặt chẽ nhất.
Từ năm 1950, khi García Márquez viết cho tờ El Heraldo (Barranquilla, Colombia)
và hờn mát băn khoăn liệu Faulkner có chịu chung số phận bị từ chối giải Nobel như Joyce
hay Woolf hay không, García Márquez đã có mối thâm tình văn chương dài lâu và đầy sóng
gió với Faulkner. Hai trong số rất nhiều bài phỏng vấn cho thấy hai khía cạnh này của mối
quan hệ đó. Khía cạnh đầu tiên được thể hiện trong bài phỏng vấn García Márquez về ảnh
hưởng của Faulkner lên văn học Mỹ Latinh; khía cạnh thứ hai thể hiện trong việc ông buộc
phải thoát khỏi ảnh hưởng của Faulkner. Cuộc nói chuyện giữa García Márquez và Mario
Vargas Llosa thực hiện vài tháng trước khi phát hành Trăm năm cô đơn rất đáng chú ý vì
một vài lý do. Có một lưu ý thường trực rằng người đọc nên tiếp nhận những bình luận
của García Márquez trong các bài phỏng vấn với sự hoài nghi nhất định. Ông vẫn thường
mâu thuẫn với chính mình, rút lại những lời đã nói và có thể rất gian xảo khéo léo trong
các bài phỏng vấn cũng như giới truyền thông nói chung. Tuy vậy, Vargas Llosa lại là ngoại
lệ. Cuốn tiểu sử rất quan trọng của ông, Gabriel García Márquez: Historia de un deicidio
(1971) là tài liệu cơ bản khi nghiên cứu các tác phẩm của García Márquez, và chúng ta có
thể chắc chắn rằng García Márquez rất tôn trọng các câu hỏi đầy sức hấp dẫn của Vargas
Llosa.
Vargas Llosa: Từ góc nhìn về hình thái và kỹ thuật, ông có cho rằng các nhà văn Mỹ
Latinh đương đại nợ các nhà văn châu Âu và Bắc Mỹ nhiều hơn nợ những nhà văn Mỹ
Latinh trước đây không?
García Márquez: Tôi cho rằng món nợ lớn nhất của các tiểu thuyết gia Mỹ Latinh là
với Faulkner... Faulkner là một phần của hoạt động viết tiểu thuyết ở Mỹ Latinh... Tôi
nghĩ khác biệt lớn giữa cha ông và chúng ta, đặc tính duy nhất phân biệt họ và chúng
ta, chính là Faulkner; đó là điều duy nhất xảy ra giữa hai thế hệ.
Vargas Llosa: Theo ông, ảnh hưởng của Faulkner là do đâu? Có phải vì ông ấy là tiểu
thuyết gia quan trọng nhất trong thời đại chúng ta hay chỉ đơn giản vì ông ấy có phong
cách riêng rất khác biệt, vì thế rất dễ bắt chước?
García Márquez: Tôi nghĩ đó chính là phương pháp. Phương pháp “Faulknerian”
rất phù hợp để kể về thực tại của Mỹ Latinh. Chúng ta đã vô thức khám phá ra điều
El olor de la guayaba (1982) là chuỗi các buổi trò chuyện rất trung thực, thẳng thắn
của García Márquez với Plinio Apuleyo Mendoza, người cộng sự và cũng là người bạn của
García Márquez. García Márquez tỏ ra rất bực tức vì giới phê bình cứ nói mãi về ảnh hưởng
của Faulkner tới các tác phẩm của ông, nhưng ông cũng nói rằng không thấy phiền gì vì
Faulkner là “một trong những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất mọi thời đại”. Mendoza hỏi: “Khi
chối bỏ ảnh hưởng của Faulkner, chẳng phải ông đã tự buộc mình tội giết cha hay sao?”.
García Márquez phản pháo bằng bình luận cay nghiệt nhất của ông về Faulkner: “Có lẽ vậy.
Vì thế mà tôi đã nói rằng vấn đề lớn nhất của tôi không phải là bắt chước Faulkner thế nào,
mà là hủy hoại ông ta thế nào. Ảnh hưởng của ông ta làm tôi phát điên.”(2)
Quá trình trưởng thành của García Márquez với tư cách là nhà văn rõ ràng có sự giải thoát
khỏi ảnh hưởng của Faulkner. Không như Onetti hay Fuentes, García Márquez không quá
bị lôi cuốn bởi góc nhìn bi kịch của Faulkner; giai đoạn học theo được đánh dấu bởi sự
hứng thú của ông với “phương pháp Faulknerian”. Nghiên cứu chi tiết của Obehelman cho
rằng García Márquez có “nhiều nét Faulknerian ở thời điểm ông bắt đầu viết La hojarasca.”(3)
Giới phê bình đều cho rằng La hojarasca (1955) là tác phẩm mang nét Faulknerian nhất
của García Márquez. Được dịch sang tên Leaf Storm (1976), tiểu thuyết đầu tiên của
García Márquez đã khởi đầu thời đại Macondo (địa điểm hư cấu thường được so sánh với
Yoknapatawpha của Faulkner), và ông đã sử dụng nhiều giọng trần thuật để kể lại những sự
kiện thay đổi thường xuyên trong câu chuyện. Giới phê bình nhất trí rằng cấu trúc tường
thuật của La hojarasca - một người kể chuyện ngôi thứ ba “chúng tôi” và ba người kể chuyện
ngôi thứ nhất - mượn từ Khi tôi nằm chết và nhanh chóng chỉ ra rằng nó cũng kể câu chuyện
1. Gabriel García Márquez y Mario Vargas Llosa, La novela en América Latina: Dialogo (Lina: Carlos Milla Batres
Ediciones, 1968), 51-53.
2. Gabriel García Márquez, El olor de la guayaba: Conversaciones con Plinio Apuleyo Mendoza (Buenos Aires:
Editorial Sudamericana, 1982), 66-67.
3. Harley D. Oberhelman, The Presence of Faulkner in the Writings of García Márquez (Lubbock: Texas Tech U P,
1980), 23.
80 Z Z Z REVIEW
phức tạp về một cuộc mai táng. Không ngạc nhiên khi nó bị cho là một tác phẩm bắt chước
và là tiểu thuyết thất bại đầu tiên: “La horajasca là tác phẩm của một nhà văn chưa vững
tay... Đây là tác phẩm của kẻ mới vào nghề, viết dưới sự ảnh hưởng của những phong cách
và các tiểu thuyết gia khác. Một trong số đó, và cũng là có tầm ảnh hưởng nhất, chính là của
William Faulkner.”(1) Trong đánh giá rộng hơn, Has và Dohmann nhận định rằng García
Márquez đã choáng ngợp trước khám phá của mình và không đủ khả năng điều khiển các
kỹ thuật của Faulkner:
Nếu La hojarasca là một thất bại thì phần nhiều là bởi nó được viết bằng khuôn mẫu
đi mượn chẳng bao giờ có thể trở thành tiếng nói riêng. Cốt truyện và tình huống phụ
chồng chéo, các mốc thời gian rối rắm, tất cả đều ít nhiều được sử dụng qua loa, phá
hỏng mục đích mà đáng ra nó có thể đạt được.(2)
Trớ trêu thay, tiểu thuyết đầu tay của García Márquez bị chê bai lại gợi nhớ đến lời đáp
của Faulkner dành cho những chỉ trích cuốn Mosquitoes rằng đây là cuốn tiểu thuyết thời kì
đầu dở tệ: “Tôi không hề xấu hổ vì nó, bởi nó là gỗ vụn, là những tấm gỗ thô kệch mà người
thợ mộc tạo ra trong lúc học hỏi để để trở thành người thợ mộc tài ba.”(3) La hojarasca bị
coi như những tấm ván sù sì, nhưng nó là bài học cho những ngày đầu của García Márquez
và là bước đi cần thiết để xua đuổi sự hiện diện của Faulkner.
Tiểu thuyết tiếp theo của García Márquez, Ngài đại tá chờ thư (El coronel no tiene
quien le escriba) (1961), là thời điểm chuyển hướng; ông bỏ hết tư trang hoa mỹ mượn
từ Faulkner và bắt đầu hướng đi mới cho mình. Lúc này, quá trình học hỏi của ông được
một người thầy khác dẫn dắt. Những người nghiên cứu sáng tác thời kì đầu của García
Márquez luôn nhắc tới sự chuyển mình sang phong cách Hemingwayesque: “Ngài đại tá
chờ thư được trần thuật theo thời gian tuyến tính, bởi một giọng trần thuật khách quan,
biết tất cả mọi việc và sử dụng văn phong đơn giản gợi nhớ đến Hemingway.”(4) Các văn
bản tiểu sử cũng chứng thực cho đối trọng Faulkner-Hemingway. Vargas Llosa nhắc lại
cách García Márquez đọc Hemingway siêng năng thế nào trong giữa những năm viết La
hojarasca và Ngài đại tá chờ thư, và cuối cùng cũng đơm hoa kết trái: “Phong cách văn xuôi
của La hojarasca đã trải qua thời kì gọt giũa để trở nên tối giản và kỹ thuật được đơn giản
1. Michael Palencia-Roth, Gabriel García Márquez: La linea, el círculo y las metamorfosis de mito (Madrid: Editorial
Gredos, 1987), 33.
2. Harss và Dohmann, Into the Mainstream. 323.
3. Faulkner in the University. 257.
4. George R. McMurray, “The Threat of ‘La Violencia’,’ Critical Essays on Gabriel García Márquez, George R.
McMurray chủ biên (Boston: G.K. Hall, 1987), 80.
Trái lại, Hemingway, cảm hứng, đam mê và sự điên rồ ít hơn nhưng với sự mộc mạc
sáng ngời, khiến cho những đinh vít hiển lộ rõ ràng, như thể chúng ở trên những toa
tàu chở hàng không mui. Có lẽ vì thế mà Faulkner là nhà văn gắn bó với tâm hồn tôi,
nhưng Hemingway lại là người dạy tôi cách sáng tác nhiều nhất - không chỉ vì những
cuốn sách của ông, mà vì cả kiến thức uyên thâm về nghệ thuật sáng tác.(2)
Tất nhiên, điều này về sau ông mới nhận ra và không hề phản bác lời ca tụng hồi đầu
của García Márquez: “Lần đầu đọc Faulkner, tôi nghĩ rằng: mình phải trở thành nhà văn.”(3)
Thời kì đi theo Faulkner và Hemingway đều rất ngắn ngủi, sau đó García Márquez tạo nên
thứ văn phong không thể bắt chước được trong tuyệt phẩm Trăm năm cô đơn. Trong những
ngày thanh bình khi ông sống ở Barranquilla, García Márquez và các nhà văn trẻ khác vẫn
1. Mario Vargas Llosa, “García Márquez de Aracataca a Macondo,” Nueve asedios a García Márquez. Mario Benedetti
y otros (Santiago, Chile: Editorial Universitaria, 1971), 126-146.
2. Gabriel García Márquez, “Gabriel García Márquez Meets Ernest Hemingway,” The New York Times Book Review
(26 tháng 7, 1981), 1, 16-17.
3. Harss và Dohmann, Into the Mainstream. 322.
82 Z Z Z REVIEW
kính trọng gọi Faulkner là el viejo (“người cha già”).(1) García Márquez giờ cũng là el viejo;
ông cũng có ảnh hưởng lên một thế hệ các nhà văn và được nhiều người bắt chước. Danh
tiếng của García Márquez nói riêng và sự chú ý dành cho văn chương Mỹ Latinh nói chung
mà ông đã giúp đẩy mạnh là sự công nhận rằng Faulkner đã truyền cảm hứng, khơi gợi và
ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của văn học hư cấu Mỹ Latinh đương đại.
Sự chú ý dành cho những gương mặt lớn như Yáñez, Onetti, Fuentes, Vargas Llosa
và García Márquez, những cây bút đã thay đổi hành trình của văn học hư cấu Mỹ Latinh
và đưa nó tới tiền tiêu của văn chương thế giới đương đại. Tuy vậy, các nhà văn ít được
biết đến hơn, dù bởi các tác phẩm của họ không được dịch và phổ biến ở Bắc Mỹ và châu
Âu hay bởi họ bị lu mờ trước cái bóng quá lớn của những cây bút bậc thầy trong thời kì
“Boom”, ở nhiều mức độ, họ cũng chịu ảnh hưởng của Faulkner. Dấu ấn của Faulkner có
thể thấy trong những truyện ngắn đầu tay của Pedro Juan Soto và tiểu thuyết đầu tay của
nhà văn Puerto Rican, Usmaíl (1959), kết hợp cả chủ đề và văn phong trong cuốn Nắng
tháng Tám của Faulkner. Cuốn Usmaíl: The Puerto Rican Joe Christmas (1973) của Phyliss
Z. Boring nhấn mạnh điểm quan trọng rằng “Tác phẩm của Soto không phải chỉ bắt chước
Faulkner nông cạn, hời hợt... Nó là ví dụ của thứ văn chương hay được Faulkner khơi nguồn
cảm hứng.”(2) Cùng với sự xuất sắc của García Márquez, La casa grande (1962) của Alvaro
Cepeda Samudio, Respirando el verano (1962) của Héctor Rojas đã giúp củng cố đánh giá
của John Brushwood rằng Faulkner có “ảnh hưởng bao trùm” lên tiểu thuyết Colombia.(3)
Ở một tác phẩm khác, Mercedes M. Robles đã biện luận rất thuyết phục trường hợp tiểu
thuyết gia người Chile Manuel Rojas đã đọc và nghiên cứu bản dịch Cọ hoang của Borges
rồi khám phá ra trong tiểu thuyết của Faulkner một kỹ thuật mà sau đó ông đã sử dụng để
đặt những câu chuyện song song bên nhau trong cuốn Punta de rieles (1960).(4) Cuối cùng
là nhà văn người Cuba Reinaldo Arenas, xác nhận ảnh hưởng to lớn của cuốn tiểu thuyết
bất hủ của Faulkner, Âm thanh và cuồng nộ; tiểu thuyết đầu tay của Arena, Celestino antes
del alba (1967) có sử dụng kỹ thuật trần thuật của Faulkner, trong đó có việc sử dụng người
mất trí làm nhân vật tường thuật.
Từ những bờ sông Rio Grande tới Patagonia, từ những vùng nội địa tới các đô thị lớn,
1. “Barranquilla” là nhóm các nhà báo và nhà văn trẻ hay gặp gỡ tại các quán rượu, bàn luận về văn chương và chuyền
tay nhau những bản dịch Faulkner và Hemingway mới nhất. Nhóm này gồm có García Márquez, Alvaro Cepeda
Samudio, Germán Vargas và Alfonso Fuenmayor. Họ được hư cấu thành những người bạn của Aureliano Buendía
trong những trang cuối của tiểu thuyết Trăm năm cô đơn.
2. Phyllis Z. Boring, “Usmaíl: The Puerto Rican Joe Christmas,” College Language Association Journal. 16 (1973):
324-332.
3. John S. Brushwood, The Spanish American Novel: A Twentieth Century Survey (Austin: U P of Texas, 1975). 334.
4. Mercedes M. Robles, “La presencia de ‘The Wild Palms’, de William Faulkner, en ‘Punta de rieles’, de Manuel
Rojas,” Revista Iberoamericana. 45 (1979): 563-571.
1. Mario Vargas Llosa, “García Márquez de Aracataca a Macondo,” Nueve asedios a García Márquez. Mario Benedetti
y otros (Santiago, Chile: Editorial Universitaria, 1971), 126-146.
84 Z Z Z REVIEW
NHÂN SỰ KIỆN DIỆT VONG ĐƯỢC GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC DỊCH
CỦA HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI 2018
Có hàng mớ lí do tại sao Thomas Bernhard lại được một kiểu trí thức văn chương trẻ Mỹ
nhất định ngày càng mê. Một trong số đó là chúng ta không bao giờ phải gặp gỡ cái khía
cạnh con người ncl của ông ấy; chúng ta thiếu bối cảnh văn hóa của vụ lùm xùm về vở kịch
Heldenplatz; những vấn đề kiện tụng dài về tội phỉ báng và gia đình Bernhard; và những
lời cáo buộc rồi cáo buộc ngược lại thường xuyên về vai trò Nestbeschmutzer (kẻ bôi nhọ
làm nhục gia đình/quốc thể) của ông. (Điều này - thực tế rằng chúng ta chưa bao giờ phải
thấy Bernhard trên tivi hay đọc về ông trên báo chí diễn vai một gã văn nhân hư hỏng khốn
86 Z Z Z REVIEW
nạn - có lẽ cũng góp phần vào, chẳng hạn, việc Bret Easton Ellis được tung hô nhiệt liệt ở
Châu Âu hơn ở quê nhà). Lý do khác đó là tác phẩm của Bernhard, đặc biệt là từ 1975, làm
mờ các ranh giới giữa thực tế và hư cấu, hồi ký và tiểu thuyết, theo một cách rất hợp thời
với những người đọc tiếng Anh. (Chuyện này cũng tương tự như việc danh tiếng của W. G.
Sebald bên này bên kia Đại Tây Dương trái ngược nhau, hay của nhà báo Ba Lan Ryszard
Kapuściński vậy.)
Nhưng tôi ngờ rằng nguyên nhân chính chúng ta đã bắt đầu thích Bernhard theo kiểu
khiến dân nói tiếng Đức ngạc nhiên là từ lâu rồi chúng ta đã dần quen với những khoái
lạc lớn mà nhà văn Anh Geoff Dyer đã gọi là “thứ văn chương của sự suy nhược thần kinh,
lo âu, cáu kỉnh, than phiền.” Dân New York rất có khả năng coi nó thuộc truyền thống đi
từ Groucho Marx tới Woody Allen tới những ả đĩ như Fran Drescher, nhưng chính Dyer
- nhờ mồm loa mép giải gào lên, chẳng hạn như, thật đau đớn làm sao khi phải nhịn loại
bánh rán ông thích, đã dạy cho thế hệ chúng ta cách đọc Bernhard - thấy đó cũng thuộc về
cái truyền thống Anh chẳng kém gì, qua Philip Larkin và John Osborne ngược về lại tới tận
D. H. Lawrence.
Thế nên, cả dân London và New York đều đặc biệt thấy Bernhard vui nhộn theo một
cách mà độc giả Đức không thấy được. Không phải tất cả những gì của Bernhard đều buồn
cười - những cuốn sách thời kỳ đầu, không kể đoạn độc thoại điên rồ của Hoàng thân
Saurau ở cuối cuốn Verstörung, đều quá nặng nợ những kẻ loạn thần kinh như Georg Trakl
đến mức không thể gây cười được - nhưng những cuốn hao hao tiểu thuyết ở giai đoạn
chín muồi mà người Mỹ có xu hướng đọc nhiều nhất thì hài kinh khủng; bộ tứ bốc phét
Wittgensteins Neffe, Der Untergeher, Holzfällen: Eine Erregung (Đốn hạ), và Alte Meister
đều là những trận lảm nhảm hài hước mà chúng ta đều có thể ngay lập tức thấy những
người dẫn chuyện đầy giận dữ trong đó là bản sao của những Lenny Bruce và Larry David.
Đương nhiên những diễn viên hài Mỹ này tuổi gì mà sánh nổi với với sự hằn học của những
người dẫn chuyện của Bernhard, nhưng cũng phải nói thêm Larry David cũng chưa từng
phải sống ở một đất nước đã bầu cho Kurt Waldheim làm tổng thống bao giờ.
Đặt sang một bên mặt cực kỳ độc địa, thì những nhân vật của Bernhard mê mẩn trò
nhai đi nhai lại cay độc của họ. Người dẫn chuyện của Der Untergeher dành hơn một đoạn
văn liệt tên các thành phố của Thụy Sĩ, và lần lượt gọi chúng là “nhà thổ” trước khi nhắc đến
vùng quê, nơi hắn chẳng thích thú gì hơn. “Bọn về quê để đi dạo là bọn đi thẳng vào đám
tang của chính mình ở vùng quê mà chí ít thì bọn nó cũng trải qua một đời tồn tại kệch
cỡm, đầu tiên là sống ngu, sau đó là chết xuẩn.” Hay trong khi ngồi trên một cái ghế bành ở
cái “gọi là dạ tiệc nghệ sĩ” mà Đốn hạ lấy làm bối cảnh, người dẫn chuyện của Bernhard nghĩ
về cây viết Jeannie Billroth, chủ trì của một tạp chí, “một thứ tạp chí vô giá trị, đần độn,
nhàm chán từ trong ra ngoài, tuy được cái nhà nước đáng ghét, đáng tởm và cực kỳ lẩn thẩn
1. Đốn hạ, Hoàng Đăng Lãnh dịch, Tao Đàn xuất bản, 2018, trang 49.
2. Đốn hạ, trang 257-8.
88 Z Z Z REVIEW
2666 (1)
(trích dịch)
Roberto Bolaño
Quân Khuê dịch
1. Tác phẩm đã được Nhã Nam mua bản quyền dịch, bản dịch của Quân Khuê và Nguyệt Vô Ảnh dự kiến được phát
hành trong năm 2019.
* * *
Đến khi ấy Pelletier đã có thể hồi tưởng về ngày anh đọc Archimboldi lần đầu tiên, và anh
nhìn thấy mình, trẻ trung và nghèo kiết, sống trong một căn phòng trên gác xép, dùng
chung bồn để rửa mặt đánh răng với mười lăm người khác cùng chia căn gác tối tăm, đi ỉa
90 Z Z Z REVIEW
trong một cái toa lét kinh tởm và bẩn thỉu giống như hố tiêu hay hầm phân hơn, cũng dùng
chung với mười lăm cư dân của căn gác, vài người trong bọn đã quay về tỉnh, với mảnh bằng
đại học trong tay, hay đã chuyển tới những chỗ tiện nghi hơn chút đỉnh ở ngay Paris, hay
vẫn còn ở lại đó - chỉ ít người trong bọn - sống mòn hay chết dần vì kinh tởm.
Anh thấy mình, như ta đã nói, khổ hạnh còng lưng bên những cuốn từ điển tiếng Đức
dưới cái bóng đèn duy nhất nhờ nhờ sáng, gầy gò và bền bỉ, như thể anh chỉ là ý chí thuần
khiết làm thành xương, thịt và cơ mà không có lấy một gam mỡ nào, đầy đam mê và quyết
chí để thành công. Một hình ảnh khá bình thường của sinh viên ở thủ đô, nhưng có tác
dụng với anh như thuốc, một loại thuốc khiến anh ứa nước mắt, một loại thuốc (như một
nhà thơ Hà Lan trữ tình thế kỷ mười chín đã nói) mở toang những cánh cửa chặn cơn lũ
cảm xúc, cũng như cánh cửa chặn lại một điều gì đó thoạt trông giống hệt tủi thân nhưng
không phải (nó là cái gì? thịnh nộ ư? rất có thể), khiến trong đầu anh trở đi trở lại, không
phải bằng từ ngữ mà bằng những hình ảnh đau đớn, quãng thời gian tập sự thời trẻ, và sau
có lẽ là một đêm dài vô vị anh buộc phải đi tới hai kết luận: thứ nhất, cuộc đời mà anh đã
sống đến giây phút này đã qua rồi; thứ hai, một sự nghiệp rỡ ràng đang mở ra trước mặt
anh, và để duy trì ánh hào quang của nó anh phải kiên định trong quyết tâm của mình, thề
có căn gác xép. Điều này có vẻ tương đối dễ.
* * *
Jean-Claude Pelletier sinh năm 1961 và tới năm 1986 anh đã là giáo sư tiếng Đức ở Paris.
Piero Morini sinh năm 1956, ở một thị trấn gần Naples, và mặc dù lần đầu anh đọc Benno
von Archimboldi là năm 1976, trước Pelletier bốn năm, mãi tới năm 1988 anh mới dịch
tiểu thuyết đầu tiên của tác giả Đức này, Bifurcaria Bifurcata, cuốn sách ra đời và hầu như
chìm lỉm trong các tiệm sách nước Ý.
Phải nói rằng tình hình Archimboldi ở Ý rất khác so với Pháp. Vì một lẽ, Morini
không phải là dịch giả đầu tiên của ông. Chuyện là, tiểu thuyết đầu tiên rơi vào tay Morini
là bản dịch của cuốn Chiếc mặt nạ da do một người tên là Colossimo dịch cho nhà Einaudi
năm 1969. Ở Ý, theo sau Chiếc mặt nạ da là cuốn Những dòng sông châu Âu năm 1971, Di
sản năm 1973, và Sự hoàn hảo đường tàu năm 1975; trước đó, năm 1964, một nhà xuất bản
ở Rome đã cho ra đời một tuyển tập hầu hết là các truyện ngắn về chiến tranh, nhan đề Thế
giới ngầm Berlin. Vậy có thể nói Archimboldi không hoàn toàn xa lạ ở Ý, mặc dù khó có
thể cho rằng ông thành công, hay tương đối thành công, hay thậm chí thành công chút ít.
Thực tế, ông là một thất bại tuyệt đối, một tác giả của những cuốn sách mòn mỏi nằm trên
những giá kệ bụi bặm nhất trong các nhà sách, hoặc còn tồn hay bị lãng quên trong nhà kho
các nhà xuất bản trước khi bị đem đi nghiền.
* * *
Manuel Espinoza đến với Archimboldi bằng một con đường khác. Trẻ tuổi hơn Morini và
Pelletier, Espinoza nghiên cứu văn chương Tây Ban Nha, không phải văn chương Đức, ít
nhất trong hai năm đầu đại học, bởi vì, bên cạnh những nguyên nhân buồn bã khác, anh
mộng trở thành nhà văn. Các tác giả Đức mà anh có (chút ít) quen thuộc là ba con người
vĩ đại: Hölderlin, vì lúc mười sáu tuổi anh nghĩ định mệnh sắp đặt cho anh trở thành thi
sĩ và anh đã ngấu nghiến mọi tập thơ tìm được; Goethe, vì năm cuối cấp hai một giáo viên
có tính hài hước giới thiệu anh đọc Nỗi đau của chàng Werther, mà anh sẽ tìm thấy trong
nhân vật chính một tinh thần gần gũi; và Schiller, bởi vì anh đã đọc một trong những vở
kịch của ông. Sau này anh phát hiện ra tác phẩm của một tác giả hiện đại, Jünger, anh đã
làm quen với ông bằng cách thẩm thấu hơn mọi cách nào khác, vì các nhà văn Madrid mà
anh ngưỡng mộ (và trong sâu xa ghét cay ghét đắng) không ngớt nói về Jünger. Vậy có thể
nói rằng Espinoza chỉ quen thuộc với mỗi một tác giả Đức và người đó là Jünger. Đầu tiên
anh nghĩ tác phẩm của Jünger thật tuyệt diệu, và vì nhiều đầu sách của tác giả này đã được
dịch sang tiếng Tây Ban Nha, Espinoza tìm và đọc tất không khó khăn gì. Anh đã mong nó
bớt dễ dàng hơn một chút. Trong khi đó, nhiều người anh quen không chỉ là người hâm
mộ Jünger; một vài người còn là dịch giả của Jünger nữa, tuy nhiên Espinoza không quan
tâm mấy đến chuyện đó, vì vinh quang mà anh thèm muốn là vinh quang của tác giả, không
phải của dịch giả.
Năm tháng trôi qua, lặng lẽ và tàn nhẫn như thường lệ, Espinoza vấp phải vài sự không
92 Z Z Z REVIEW
may khiến anh thay đổi cách suy nghĩ. Ví dụ như, chẳng lâu la gì, anh đã phát hiện ra nhóm
hâm mộ Jünger chẳng hâm mộ Jünger như anh từng nghĩ, thay vào đó, như mọi nhóm văn
chương, họ ngả nghiêng theo mùa. Thu, đúng, họ ái mộ Jünger, nhưng đông tới họ thình
lình chuyển sang mê Baroj và xuân về chuyển sang cuồng Ortega, và vào mùa hè thậm chí
họ rời khỏi điểm hẹn ở quán bar để đổ ra đường ngâm nga những vần thơ đồng quê vinh
danh Camilo José Cela, một điều mà chàng Espinoza trẻ tuổi, về căn bản yêu nước, hẳn sẽ
sẵn sàng đón nhận vô điều kiện nếu những biểu hiện đó được khởi đầu trên một tinh thần
ham vui, hội hè, nhưng lại không tài nào có thể coi chuyện đó là hoàn toàn nghiêm túc
được như kiểu các nhà hâm mộ Jünger giả hiệu.
Tồi tệ hơn, anh khám phá ra các thành viên trong nhóm nghĩ gì về những thử sức
của anh đối với mảng tiểu thuyết. Ý kiến của họ tiêu cực đến nỗi có những lúc - ví dụ như
những đêm không ngủ được - anh bắt đầu hết sức nghiêm túc nghi ngại liệu có phải họ
đang đóng trò vờ vịt để gạt anh ra, để anh ngừng quấy rầy họ, không bao giờ thò mặt ra nữa.
Thậm chí tồi tệ hơn nữa là khi Jünger xuất hiện bằng xương bằng thịt ở Madrid và
hội ái mộ Jünger tổ chức một chuyến đi đến El Escorial cho ông ấy (một ý thích lạ lùng của
bậc thầy, viếng thăm El Escorial), và khi Espinoza cố tham gia chuyến tham quan, bằng bất
cứ tư cách nào cũng được, anh bị khước từ vinh dự đó, như thể các nhà hâm mộ Jünger
xem anh không đáng làm một phần của nhóm bảo vệ tác giả người Đức, hoặc họ sợ anh,
Espinoza, có thể làm họ xấu hổ vì một bình luận ngây ngô, kỳ cục nào đó, mặc dù cách giải
thích chính thức được đưa ra (có lẽ vì động cơ khoan dung chăng) là anh không nói được
tiếng Đức trong khi mọi người khác đi dã ngoại với Jünger đều nói được.
* * *
Đó là đoạn kết mọi mối quan hệ giữa Espinoza với hội Jünger. Và đó cũng là khởi đầu của
sự cô đơn và một dòng (hay trận lũ) bền bỉ của những quyết định, thường xuyên trái ngược
nhau và bất khả thực hiện. Thời gian ấy chẳng phải là những đêm thoải mái, mà kém dễ
chịu hơn nhiều, nhưng Espinoza khám phá ra hai thứ giúp anh vô cùng nhiều trong những
ngày chập chững ấy: anh sẽ không bao giờ trở thành nhà văn, và, theo cách riêng của mình,
anh dũng cảm.
Anh cũng khám phá ra rằng mình là kẻ cay đắng và đầy oán giận, rằng từ anh rỉ ra niềm
oán giận, và rằng anh có thể dễ dàng hạ sát ai đó, bất kỳ ai, nếu điều ấy mang đến cho anh
một lối thoát khỏi sự cô đơn cũng như khỏi mưa và cái lạnh của Madrid, nhưng đây cũng
là một khám phá mà anh thà giấu kín. Thay vào đó, anh tập trung vào nhận thức rằng mình
sẽ không bao giờ trở thành một nhà văn và vào việc làm mọi thứ có thể dựa trên lòng dũng
cảm mới khơi lộ của mình.
* * *
Ngoài Archimboldi, có một điểm nữa mà Morini, Pelletier và Espinoza cùng chia sẻ. Cả ba
đều có ý chí sắt đá. Thật ra, họ còn một điểm chung nữa, nhưng ta sẽ nói chuyện đó sau.
Liz Norton, mặt khác, không phải kiểu mà người ta thường gọi là một phụ nữ nhiều
động cơ, ý là cô không vạch ra những kế hoạch dài hạn hay trung hạn và toàn tâm toàn ý
thực hiện những kế hoạch đó. Cô không có phẩm chất nào của một người tham vọng. Khi
đau khổ, nỗi đau của cô hiển hiện rõ ràng, và khi hạnh phúc, niềm hạnh phúc cô cảm nhận
cũng lây lan. Cô không có khả năng đặt ra cho mình một mục tiêu và nỗ lực đều đặn hướng
tới mục tiêu ấy. Ít nhất, chẳng mục tiêu nào hấp dẫn hay cuốn hút đủ cho cô theo đuổi nó
tới cùng. Dùng theo nghĩa cá nhân, cụm từ “đạt một mục đích” với cô dường như là một
cạm bẫy hẹp hòi. Cô ưa từ đời sống, và, trong những dịp hiếm hoi, từ hạnh phúc. Nếu tự do ý
chí bị ràng buộc vào những mệnh lệnh xã hội, như William James tin tưởng, và do đó tham
chiến còn dễ hơn bỏ thuốc lá, người ta có thể nói rằng Liz Norton là dạng phụ nữ thấy bỏ
thuốc dễ hơn là tham chiến.
Cô từng nghe nói chuyện này hồi còn là sinh viên, và cô yêu thích điều ấy, mặc dù nó
chưa bao giờ khiến cô đọc William James. Với cô, việc đọc sách kết nối trực tiếp tới niềm
lạc thú, chứ không phải tới kiến thức, những bí ẩn, các cấu trúc hay mê cung ngôn từ, như
Morini, Espinoza và Pelletier tin phải là thế.
Việc khám phá ra Archimboldi của cô là ít chấn động nhất, kém thi vị nhất so với mọi
người. Năm 1988, trong thời gian ba tháng sống ở Berlin, khi ấy cô hai mươi tuổi, một
người bạn Đức cho cô mượn một tiểu thuyết của một tác giả cô chưa bao giờ nghe tới. Cái
tên làm cô thắc mắc. Sao có thể thế được, cô hỏi người bạn, rằng lại có một nhà văn Đức
94 Z Z Z REVIEW
mang họ Ý, nhưng có chữ von đứng trước, thể hiện ít nhiều tính quý tộc? Người bạn Đức
của cô không có câu trả lời. Đó có thể là bút danh, anh nói. Và để khiến sự việc thậm chí lạ
lùng hơn, anh nói thêm, ở Đức tên đàn ông kết thúc bằng nguyên âm không phổ biến. Khá
nhiều tên phụ nữ kết thúc như thế. Nhưng chắc chắn không phải tên đàn ông. Cuốn tiểu
thuyết tên là Người đàn bà mù, cô thích nó, nhưng không nhiều đến mức khiến cô lao ra
đường mua tất cả thứ khác mà Benno von Archimboldi từng viết.
* * *
Năm tháng sau, quay lại Anh, Liz Norton nhận được qua đường bưu điện một món quà
từ người bạn Đức của mình. Như mọi người có thể đoán ra, đó là một tiểu thuyết khác
của Archimboldi. Cô đọc, thích cuốn sách, nên đến thư viện trường tìm thêm sách của tác
giả người Đức có tên Ý này, và tìm được hai cuốn: một là cuốn cô đã đọc ở Berlin, và cuốn
kia là Ngài Bitzius. Việc đọc cuốn sau thực sự khiến cô lao ra đường. Mưa đang trút xuống
khoảnh sân, và bầu trời trong sân trông như vẻ chau mày của một con robot hay một vị thần
hình dạng giống chúng ta. Những giọt mưa chênh chếch trượt xuống những lá cỏ trong
công viên, nhưng nếu nó có trượt ngược lên thì cũng không có gì khác biệt. Rồi những
(giọt) chênh chếch biến thành (giọt) tròn trịa, bị mặt đất bên dưới bãi cỏ nuốt chửng, rồi
bãi cỏ và mặt đất dường như trò chuyện với nhau, không, không phải trò chuyện, mà cãi cọ,
những từ ngữ không thể hiểu được của chúng như những mạng nhện kết tinh hay những
bãi nôn kết tinh lại trong thoáng chốc, tiếng xao xác gần như không nghe được, như thể
thay vì chiều hôm đó uống trà, Norton đã uống một cốc peyote(1) bốc hơi nghi ngút.
Nhưng sự thật là cô chỉ có mỗi trà để uống và cô cảm thấy mình bị ngập chìm, như thể
ong ong trong tai cô một giọng nói lặp đi lặp lại một lời cầu nguyện kinh khủng, mà ngôn
từ của lời cầu nguyện ấy nhòe dần khi cô cuốc bộ ra khỏi trường, mưa làm ướt chiếc váy
xám, ướt đôi đầu gối xương xẩu, mắt cá chân xinh xắn và tất tật, bởi trước khi Liz Norton
chạy vào công viên, cô đã quên mang theo dù.
* * *
Lần đầu tiên Pelletier, Morini, Espinoza và Norton gặp nhau là ở một hội nghị văn học
Đức đương đại tổ chức ở Bremen năm 1994. Pelletier và Morini từng gặp nhau trước đó, tại
hội thảo văn học Đức tổ chức ở Leipzig năm 1989, khi Cộng hòa Dân chủ Đức đang ngắc
1.. Peyote: Một loại xương rồng Nam Mỹ, chiết xuất của nó có tác dụng gây ảo giác.
96 Z Z Z REVIEW
ngữ vang lên từ Pelletier (nói ra như từ bên trong một lâu đài cổ hay một căn hầm nhốt tù
đào bên dưới đường hào của một lâu đài cổ) nghe có vẻ như lời đe dọa trong cái quán ăn
nhỏ thanh bình trên đường Galande, giục giã kết cục của một buổi tối vốn khởi đầu trong
không khí thân ái và chan hòa.
* * *
Những điều này không làm suy suyển đến quan hệ của Pelletier và Espinoza với Morini.
Ba người gặp lại nhau tại một hội thảo văn học Đức tổ chức ở Bologna năm 1993. Và
cả ba đều góp mặt trên số 46 Tạp chí Nghiên cứu Văn học của Berlin, một số chuyên đề dành
cho tác phẩm của Archimboldi. Đó không phải lần đầu họ góp bài cho tạp chí này. Trên số
44, đã có một bài của Espinoza về ý niệm Thượng đế trong tác phẩm của Archimboldi và
Unamuno. Trên số 38, Morini đã đăng một bài về tình trạng giảng dạy văn học Đức ở Ý. Và
trên số 37, Pelletier đã trình bày tổng quan về các nhà văn Đức quan trọng nhất thế kỷ hai
mươi ở Pháp và châu Âu, một công trình ngẫu nhiên khơi ngòi không chỉ một bài phản đối
mà thậm chí cả vài lời mắng nhiếc.
Nhưng chính số 46 này mới quan trọng đối với chúng ta, không chỉ vì nó đánh dấu
việc hình thành hai nhóm các nhà nghiên cứu Archimboldi đối lập - Pelletier, Morini và
Espinoza đối đầu với Schwarz, Borchmeyer, và Pohl - mà số này còn có một bài của Liz
Norton, xuất sắc đến mức khó tin, theo Pelletier, lập luận tốt, theo Espinoza, thú vị, theo
Morini, một bài tự nó hài hòa (mà không theo yêu cầu của bất cứ ai) với các tiểu luận của
ba người bạn, bài báo trích dẫn họ ở nhiều chỗ, thể hiện một kiến thức hoàn chỉnh về các
nghiên cứu của họ cũng như các chuyên đề do các tạp chí chuyên ngành hay các nhà xuất
bản nhỏ ấn hành.
Pelletier đã định viết cho cô một lá thư, nhưng rốt cuộc lại thôi. Espinoza gọi Pelletier
hỏi liệu liên lạc với cô có phải là ý tưởng hay không. Do không chắc lắm, họ quyết định hỏi
Morini. Morini không bình luận gì. Tất cả những gì họ biết về Liz Norton là cô dạy văn
học Đức tại một trường đại học ở Anh. Và, không giống như họ, cô không phải là giáo sư
thực thụ./.
Roberto Bolano.
(Hình của: Rodrigo Fernández. Giấy phép: CC BY-SA 4.0)
1. Nguyên tác tiếng Tây Ban Nha “Putas asesinadas”. Dịch từ bản tiếng Anh “Murdering Whores” của Chris Andrews
trong tập The Return (New Directions 2012).
98 Z Z Z REVIEW
“Tôi thấy anh trên tivi, Max ạ, và tôi nghĩ: Đó là anh chàng của tôi.”
(Anh chàng bướng bỉnh giật giật đầu, cố hít một hơi sâu, nhưng không thể.)
“Tôi thấy anh cùng với nhóm của anh. Anh gọi nó là nhóm phải không? Có thể anh
nói là băng, là đội, nhưng không. Tôi nghĩ anh gọi là nhóm: nó là một từ đơn giản và anh
là một người đơn giản. Các anh đã cởi áo pull ra và các anh để ngực trần, phô bày tấm thân
trai trẻ: những cơ ngực những bắp tay mạnh mẽ, mặc dù tất cả các anh đều thích có ngực
không lông, vâm váp, hầu hết thế, nhưng thật ra tôi chẳng chú ý tới những bộ ngực hay
thân hình khác lắm, chỉ chú ý tới ngực và thân hình của anh thôi, có gì đó ở anh khiến tôi
không thể dứt ra, mặt anh, mắt anh đăm đắm nhìn về phía máy quay (dù chắc anh không
nhận ra mình đang bị quay và phát hình vào phòng khách nhà chúng tôi), cái nhìn không
đáy trong mắt anh, không giống như cái vẻ của chúng bây giờ, khác vô bờ với kiểu rồi chúng
sẽ nhìn, đôi mắt dán chặt vào vinh quang và hạnh phúc, dục vọng được thỏa và chiến thắng,
những gì chỉ có thể hiện hữu trong vương quốc của tương lai, những gì mà tốt nhất đừng
hy vọng bởi chúng không bao giờ tới.”
(Anh chàng giật đầu từ trái sang phải, vẫn cố sức thở và toát mồ hôi hột.)
“Thật tình, nhìn thấy anh trên ti vi cũng giống như một lời mời gọi. Hãy tưởng tượng
trong giây lát rằng tôi là một nàng công chúa, đang chờ. Một công chúa đầy nôn nóng.
Một đêm kia tôi thấy anh, và lý do tôi thấy anh là bởi theo nghĩa nào đó tôi đang tìm kiếm,
không phải tìm đích thân anh mà tìm trang hoàng tử vốn là anh, tìm những gì chàng hoàng
tử này đại diện. Anh và các bạn anh đang nhảy, áo pull buộc quanh cổ hoặc thắt lưng. Buộc
hay cuộn lại, một từ mà đám già khó chiều thích soi mói dùng để chỉ cánh buồm khi chúng
được cuộn lại và buộc vào trục hay sào, nhưng theo cái kiểu trẻ và khó chiều của mình, tôi
dùng để chỉ những cái áo cái quần cuộn lại quấn quanh cổ hay ngực hay quanh eo. Đám
già và tôi không đi chung một đường, như giờ anh hẳn đã đoán ra. Nhưng thôi ta đừng
lan man ra khỏi cái ta quan tâm. Anh và nhóm của anh đều trẻ, và tất cả các anh đang dâng
tụng ca cho đêm: vài người trong các anh, những thủ lĩnh, đang phất cờ. Người dẫn chương
trình, thằng cha tội nghiệp, thấy vũ điệu bộ lạc mà các anh đang tham gia thì lấy làm ấn
tượng lắm. Thằng cha chỉ cho tay đưa tin còn lại. Kìa họ múa kìa, thằng cha nói, bằng cái
giọng lỗ mãng, làm như chúng tôi, những người ngồi ở nhà xem, trước ti vi, chúng tôi
chẳng nhận ra. Vâng, xem chừng họ đang vui lắm, tay còn lại nói. Lại một tên lỗ mãng khác.
Ít ra thì có vẻ họ thích xem vũ điệu của các anh. Thực ra chỉ là nhảy conga. Ở hàng trước là
tám chín người. Hàng thứ hai có mười người. Hàng thứ ba có bảy tám người. Hàng thứ tư
100 Z Z Z REVIEW
“Cuối cùng, cho dù tôi chẳng có thì giờ soi mình trong gương đặng kiểm tra xem quần
áo của mình đã chắc chắn ổn chưa, và quả thật chắc tôi cũng chẳng muốn thấy ảnh chiếu
của mình kể cả nếu có thì giờ (bởi cái mà anh và tôi đang làm là bí mật), tôi ra ngoài, chỉ
để mở đèn ngoài hàng hiên, trèo lên xe máy chạy qua những con phố nơi những con người
xa lạ hơn anh hay tôi đang khởi hành để đi tận hưởng tối thứ Bảy, một thứ Bảy sẽ xứng với
trông mong của họ, nói cách khác là một thứ Bảy buồn, một thứ Bảy sẽ chẳng bao giờ trao
sự sống cho những gì họ đã mơ và đã lên kế hoạch chi li, một thứ Bảy như bao thứ Bảy, hăng
tiết và dễ chịu, nặng trịch và nhẹ nhõm, nghịch dị và buồn. Những tính từ kinh khủng vốn
hoàn toàn không phải là phong cách của tôi, chúng khiến tôi ngần ngại, nhưng rồi, như
mọi khi, rốt cuộc tôi để nguyên chúng đó, như một cử chỉ giã biệt. Xe của tôi và tôi lăn
bánh giữa những ánh sáng đó, những sửa soạn của đám Ki tô hữu đó, những mong đợi vô
căn cứ đó, và xe cùng tôi nhô ra trước sân vận động, trên Đại lộ Lớn, vốn vẫn đang vắng vẻ,
và xe cùng tôi dừng bên dưới những vòm cong của cây cầu dẫn tới cổng vào, và đây là phần
thực sự kỳ lạ: khi xe với tôi dừng, tôi cảm thấy trong hai chân mình rằng thế giới vẫn đang
chuyển động, chắc anh biết rằng đúng như thế, trái đất đang chuyển động dưới chân tôi,
dưới bánh xe tôi, và trong một thoáng, trong một phần nhỏ của giây, chuyện tôi có tìm ra
được anh hay không chẳng còn quan trọng nữa, anh có thể ra về cùng các bạn anh, anh có
thể đi uống một chầu hoặc đón xe buýt, từ thành phố nào tới thì về lại đó. Nhưng cái cảm
giác bơ vơ ê chề, như thể mình đang bị một thiên thần làm tình mà không vào trong mình,
hoặc thật ra, không, là vào trong tận cốt tủy mình, cảm giác đó ngắn ngủi lắm, và ngay khi
tôi, trong ngỡ ngàng, bắt đầu ngờ vực hoặc phân tích nó thì cổng mở và thiên hạ bắt đầu từ
trong sân vận động tràn ra: một bầy kền kền, một bầy quạ.”
(Anh chàng ngẩng đầu dậy. Ngước đầu lên. Mắt anh cố mỉm cười. Các cơ mặt anh bị
hãm trong một cơn co giật hoặc một loạt cơn co giật vốn có thể hàm nhiều nghĩa: Chúng
ta sinh ra là để cho nhau, Hãy nghĩ tới tương lai, Đời đẹp lắm, Đừng làm gì ngu dại, Tôi vô
tội, Luật Tây Ban Nha.)
“Tìm cho ra anh là một sự khó. Liệu ở cách vài mét thì anh có giống hệt như trên ti vi
không? Chiều cao của anh là một sự khó: tôi không biết anh vóc cao hay trung bình (anh
không thấp, điều đó tôi biết). Quần áo của anh là một sự khó: bây giờ trời đang bắt đầu trở
lạnh, và thân trên của anh, thân trên của các bạn anh một lần nữa được bọc trong áo pull
hoặc thậm chí jacket; vài người ra khỏi sân vận động với khăn được cuộn lại trên cổ (như
những cánh buồm), vài người thậm chí còn dùng khăn che miệng che má. Bước chân của
tôi trên xi măng được soi sáng nhờ ánh trăng thẳng đứng. Tôi nhẫn nại tìm anh, song đồng
thời tôi lo âu giống như nàng công chúa ngắm cái khung trống nơi nụ cười của chàng hoàng
tử đáng lẽ phải đang tỏa sáng. Các bạn anh là một sự khó nhân bội lên: họ là một cám dỗ.
Tôi thấy họ và họ thấy tôi, họ muốn tôi, tôi biết họ sẽ tụt quần jean của tôi ra mà không cần
102 Z Z Z REVIEW
“Và thế là chúng ta về đến nhà tôi ở ngoại ô thành phố, bình an vô sự. Anh cởi mũ bảo
hiểm của mình, anh sờ bi của mình, anh quàng tay qua vai tôi. Cử chỉ đó để lộ một mức
độ rụt rè và dịu dàng đáng ngạc nhiên. Nhưng mắt anh vẫn không đủ dịu dàng không đủ
rụt rè. Anh thích nhà của tôi. Anh thích những bức tranh của tôi. Anh hỏi tôi về những
nhân vật trong tranh. Hoàng tử và Công chúa, tôi đáp. Họ nhìn cứ như hai vị Quân chủ
Công giáo ấy, anh nói. Phải, đôi lúc tôi cũng nảy ra ý nghĩ đó, hai vị Quân chủ Công giáo
bị giam trong vương quốc của mình, hai vị Quân chủ Công giáo rình mò nhau trong một
cơn kinh loạn không ngừng; một uy nghiêm không ngừng, nhưng với tôi, với con người
mà tôi là ít nhất mười lăm tiếng một ngày, họ là hoàng tử và công chúa, một cặp cô dâu
chú rể cùng nhau đi qua năm tháng, và trúng thương, bị tên đâm, mất ngựa trong khi bị
săn đuổi, hoặc thậm chí chưa bao giờ có ngựa và phải chạy bộ mà đào thoát; chẳng được
gì dẫn dắt ngoài đôi mắt họ, và ngoài một ý chí ngu độn, mà một số người gọi là tử tế còn
người khác thì kêu là bản chất thiện, làm như người ta có thể định tính cho bản chất, tốt
hay xấu, hoang hay thuần, bản chất là bản chất, Max ạ, đó là một sự thật mà anh phải đối
mặt, và nó sẽ luôn luôn có đó, như một bí ẩn khôn giải, mà không phải tôi đang nói đến
chuyện rừng bắt lửa đâu, tôi đang nói tới các nơ ron thần kinh và bán cầu não phải bán
cầu não trái bắt lửa bùng cháy từ thế kỷ sang thế kỷ. Nhưng, anh đúng thật đồ quỷ sứ, anh
nghĩ nhà tôi ở thật dễ thương, thậm chí anh còn hỏi tôi sống một mình phải không rồi
anh ngạc nhiên khi tôi cười khanh khách. Nếu tôi không sống một mình thì anh có nghĩ
rằng tôi sẽ mời anh tới đây không? Anh có nghĩ rằng tôi sẽ chạy mô tô băng qua cả thành
phố, anh ngồi sau áp chặt vào tôi, như con hàu bám vào tảng đá, trong khi đầu tôi (hoặc
hình chạm nơi đầu mũi của tôi - tôi như một con tàu) băng băng lao qua thời gian, nhằm
mục đích duy nhất là mang anh bình an vô sự về chốn ẩn náu này, cái tảng đá thật, cái tảng
đá dựng lên thật diệu kỳ từ trong nền đá và làm nứt cả bề mặt, anh có nghĩ rằng tôi sẽ làm
từng ấy chuyện không nếu tôi không ở một mình? Và ở cấp độ thực tiễn, liệu anh có cho
rằng tôi sẽ cầm thêm một mũ bảo hiểm nữa, một cái mũ để bảo vệ khuôn mặt anh khỏi
những cái nhìn soi mói, nếu như ý định của tôi không phải là mang anh về đây, vào trong
cõi cô đơn tinh khiết của tôi?”
(Anh chàng ngẩng lên gật đầu, mắt anh nhìn khắp các tường phòng, cho đến tận kẽ
nứt mảnh nhất. Mồ hôi anh lại tuôn ra như một dòng sông thất thường - hay là có một chỗ
xoắn trong thời gian? - và giọt giọt mồ hôi tụ lại nơi cặp mày anh, trĩu trên mắt anh một
cách đầy hung gở.)
“Anh chả biết gì về hội họa, Max ạ, nhưng tôi có cảm giác anh biết nhiều về nỗi cô
đơn. Anh thích hai vị Quân chủ Công giáo của tôi, anh thích bia, anh thích đất nước anh,
anh thích sự tôn trọng, anh thích đội bóng của anh, anh thích các bạn bè hay chiến hữu
hay cánh hẩu của anh, đội hay nhóm hay băng của anh, cái đám đã thấy anh nán lại đằng
104 Z Z Z REVIEW
của tôi (bức Hoàng tử và Công chúa), uống bia và cởi áo quần, và tôi sẽ lại cảm thấy hai tay
anh vụng về ve vuốt lưng tôi, mông tôi, háng tôi, có lẽ tìm âm vật của tôi, nhưng không biết
đích xác nó nằm ở đâu, tôi sẽ lại cởi áo quần anh, túm lấy dương vật anh trong cả hai tay mà
nói: Anh bự quá, khi mà trên thực tế anh chẳng bự như vậy, Max à, đó là một điều mà đến
lúc này anh hẳn phải biết, và tôi sẽ lại cho nó vào trong miệng tôi, tôi sẽ bú anh, và tôi cá là
xưa nay anh chưa từng được bú cho như vậy bao giờ, thế rồi tôi sẽ cởi hết quần áo anh ra và
để anh cởi quần áo tôi, một tay anh bận rộn với mấy cúc áo của tôi, tay kia cầm ly whisky,
và tôi sẽ nhìn vào trong mắt anh, hai con mắt tôi đã thấy trên truyền hình (và sẽ còn thấy
lại trong những giấc mơ), hai con mắt đã khiến tôi chọn anh, và một lần nữa tôi sẽ nói với
anh, tôi sẽ nói với cái trí nhớ điện toán khiến người ta muốn bệnh của anh rằng chả có gì cá
nhân hết, và kể cả khi đó tôi vẫn sẽ hoài nghi, tôi vẫn sẽ thấy lạnh như bây giờ thấy lạnh, tôi
sẽ cố nhớ lại từng từ anh nói, kể cả từ bâng quơ nhất, nhưng chẳng từ nào trong số chúng
sẽ là niềm an ủi.”
(Anh chàng lại giật giật đầu, gật. Anh đang cố nói gì vậy? Không thể biết. Cơ thể anh,
hay đúng hơn là cặp chân anh, đang hứng chịu một hiện tượng kỳ khôi: đôi khi cặp chân
anh đầm đìa mồ hôi chẳng khác gì mồ hôi trên trán anh, nhất là ở má trong, đôi khi da lại
tuồng như lạnh, từ háng xuống đầu gối, và có cái vẻ gờn gợn, nếu không phải sờ vào thấy
thế thì ít nhất nhìn như thế.)
“Lời anh nói đều tử tế, tôi phải thừa nhận. Tuy nhiên, tôi sợ rằng anh không nghĩ tới
nơi tới chốn về những gì anh nói. Và càng ít nghĩ hơn về những gì tôi nói. Anh cần luôn
luôn cẩn trọng lắng nghe những gì phụ nữ nói trong khi đang chơi họ, Max ạ. Nếu họ chẳng
nói gì, tốt, chẳng có gì phải nghe, và chắc anh sẽ chẳng có gì để nghĩ, nhưng nếu họ có nói,
kể cả dù chỉ lẩm ba lẩm bẩm, hãy lắng nghe lời họ và nghĩ về những lời đó, nghĩ về ý nghĩa
của chúng, nghĩ đến những gì chúng biểu đạt và bỏ qua không biểu đạt, cố hiểu những gì
là nghĩa thực của chúng. Phụ nữ là những ả điếm giết người, Max ạ, họ là những con khỉ
cứng đờ vì lạnh ngồi trên một cái cây bệnh nhìn chân trời, họ là những nàng công chúa
khóc tìm anh trong bóng tối, săm soi những lời họ sẽ không bao giờ có thể nói ra. Với các
bạn của anh, Max ạ, trong cái sân vận động mà giờ đang thu nhỏ dần trong ký ức của anh
như một biểu tượng của cơn ác mộng, tôi chỉ là một ả điếm kỳ quặc, một màn kỳ thú sau vở
kỳ thú, dành riêng cho một dúm khán giả cởi áo pull cuộn lại quanh cổ hoặc quanh eo mà
múa điệu conga. Nhưng với anh tôi là một công chúa trên Đại lộ Lớn, bị gió và nỗi sợ dập
vùi tơi tả (vậy là trong tâm trí anh con đại lộ đã thành ra một đường hầm thời gian), chiến
phẩm dành riêng cho anh sau một đêm của phép màu tập thể. Với cảnh sát tôi sẽ là một
trang giấy trắng. Không ai có bao giờ hiểu những lời yêu thương của tôi. Và anh, Max, anh
có nhớ được cái gì tôi nói giữa khi anh đang chịch tôi không?”
(Anh chàng ngọ nguậy đầu, rõ là hàm ý có, và cặp mắt ướt của anh, đôi vai căng thẳng
106 Z Z Z REVIEW
vì sao, và khi tao ra tới hành lang, thoát khỏi cái nhìn của ả và dục vọng của ả rồi, thì thay vì
mở cửa buồng tắm, tao lẻn ra cửa trước băng qua vườn, vừa đi vừa thầm khấn nguyện, rồi
nhảy phóc qua tường và bắt đầu chạy dọc con phố giống như người chạy cuối cùng trong
cuộc Marathon, mang theo tin tức không phải về chiến thắng mà về chiến bại, người chạy
mà sẽ chẳng ai lắng nghe hay khen ngợi hay chào đón bằng một bát nước, nhưng hắn vẫn
còn sống mà về được đến nơi, tụi mày ạ, và học được bài học này: Chớ vào trong lâu đài đó.
Chớ theo đường đó. Đừng liều mạng dấn vào lãnh địa đó. Kể cả dù mày được chọn riêng
ra. Kể cả dù mọi thứ chống lại mày.”
(Anh chàng gật đầu. Rõ là anh muốn tỏ ra anh đồng ý. Nỗ lực này khiến mặt anh đỏ
lên thấy rõ; các mạch máu anh phồng lên, mắt anh lồi ra.)
“Nhưng anh chẳng lắng nghe lời tôi nói, anh không thể phân biệt lời tôi nói với tiếng
tôi rên, những lời cuối đó, mà lẽ ra đã có thể cứu anh. Tôi chọn anh là phải lắm. Truyền
hình không nói dối, đó là phẩm hạnh duy nhất của nó (của nó và của những bộ phim xưa
mà người ta hay chiếu lúc sáng tinh mơ), và cảnh khuôn mặt anh, trên nền hàng rào kẽm
gai, sau điệu conga mà ai nấy đều tán thưởng, nó cho thấy trước (và đẩy nhanh hơn) cái
kết cục không thể tránh. Tôi cưỡi mô tô mang anh về nhà, tôi cởi quần áo anh, tôi làm anh
mê man chẳng còn biết gì, tôi trói tay chân anh vào một cái ghế cũ, tôi dán băng dính lên
miệng anh, không phải vì tôi sợ tiếng hét của anh sẽ khiến ai đó cảnh giác, mà vì tôi không
muốn nghe anh van xin, tôi không muốn nghe những lời xin lỗi lắp ba lắp bắp thảm hại
của anh, không muốn nghe anh yếu ớt cam đoan rằng anh không phải vậy, rằng tất cả chỉ
là một trò chơi, rằng tôi đã hiểu sai hết cả. Có thể tôi đã hiểu sai hết cả. Có thể tất cả chỉ
là một trò chơi. Có thể anh không phải vậy. Nhưng vấn đề là chẳng ai như vậy hết, Max ạ.
Tôi cũng không như vậy. Tôi sẽ không nói với anh về nỗi đau của tôi, chẳng phải vì anh đã
gây ra nó; ngược lại, anh đã làm tôi cực sướng. Anh là chàng hoàng tử thất lạc đã cho tôi
cực sướng; anh có thể tự hào về mình. Và tôi đã cho anh cơ hội thoát, nhưng anh cũng là
hoàng tử điếc. Giờ thì quá muộn rồi; trời đang sáng dần; hai chân anh chắc đã tê bại co cơ
hết cả; hai cổ tay anh chắc đã sưng vù; đáng lẽ anh không nên vùng vẫy nhiều như vậy, khi
chúng ta bắt đầu là tôi đã cảnh báo anh rồi, Max ạ, chuyện này ắt phải xảy ra. Anh phải tát
nước theo mưa thôi. Giờ không phải lúc để khóc lóc, hay để nhớ những bước nhảy conga,
những lời đe dọa, những trận đòn; đây là lúc để nhìn vào bên trong anh mà hiểu rằng đôi
khi, một cách bất ngờ, người ta cứ vậy bỏ đi. Anh trần truồng trong căn buồng rùng rợn
của tôi, Max ạ, và mắt anh đang dõi theo con dao của tôi vung lên, như thể nó là con lắc của
một chiếc đồng hồ cúc cu. Nhắm mắt lại, Max, chẳng cần nhìn tiếp nữa đâu; nghĩ tới cái gì
đó dễ thương đi, nghĩ càng dữ càng tốt...”
(Mắt anh chàng, thay vì nhắm lại, mở to trân trối, và tất cả các cơ của anh xoắn vặn
trong nỗ lực sau cùng đầy tuyệt vọng: cú sốc lớn đến nỗi chiếc ghế anh bị trói đổ kềnh ra.
108 Z Z Z REVIEW
hồ cúc cu dong buồm bơi qua không gian ngăn giữa môi hoàng tử và môi công chúa. Đôi
khi mọi thứ quay ngược lại thành giống như trước đã từng. Lâu đài tối, mênh mông, lạnh,
và anh chỉ một mình. Nhưng anh biết có một người khác nấp ở đâu đó, anh cảm thấy nước
mắt, anh cảm thấy sự trần truồng. Bình an và ấm áp đang đợi anh trong đôi tay người đó,
thế nên anh bước tiếp, được niềm hy vọng kéo đi theo, bước qua những cái hộp đầy những
ký ức mà sẽ không ai còn nhìn lại nữa, những va li đầy quần áo cũ mà ai đó đã quên hoặc
không muốn quẳng đi, và chốc chốc anh gọi nàng, công chúa của anh – nàng ở đâu? – cơ
thể anh cứng đờ vì lạnh, răng anh lập cập gõ nhau, ngay chính giữa đường hầm, mỉm cười
trong bóng tối, có lẽ lần đầu tiên không còn biết sợ, và chẳng hề có ý định khơi lên nỗi sợ,
đầy hứng khởi, hân hoan, đầy sức sống, sờ soạng tìm đường qua những cánh cửa tối lần lượt
mở, theo những hành lang đưa anh đến gần với nước mắt hơn, trong bóng tối, được dẫn dắt
duy chỉ bằng nhu cầu của cơ thể anh cần một cơ thể khác, ngã xuống rồi lại dậy, và cuối cùng
anh đến căn buồng ngay chính giữa, và cuối cùng anh trông thấy tôi và kêu lên. Tôi vẫn im
lặng và không thể biết tiếng kêu của anh là thế nào. Tôi chỉ biết mỗi một điều rằng rốt cuộc
chúng ta đã đến bên nhau, rằng anh là hoàng tử mê cuồng còn tôi là công chúa không biết
thế nào là thương hại.”
Đảo quốc nọ, hoàng thái tử từ thuở nhỏ đã được cho vời các
bậc đại trí khắp nước về dạy dỗ. Tới năm 13 tuổi lên ngôi ngài
đã nằm lòng nghệ thuật cai trị mà không hành động, chắc có
họ hàng xa với thuyết vô vi của Lão quân, tới 15 ngài đã mang
lại hòa bình cho vương quốc. Nhờ sự thông thái của mình, nhà
vua thường xuyên đàm đạo với chư thần phù hộ cho đất nước
và được biết trong vòng trăm năm tới, đảo quốc sẽ sống trong
cảnh thái bình an lạc, chỉ thỉnh thoảng đây đó nảy ra nổi loạn
tí con, nhưng cũng đấy cũng thuộc vào trật tự - bởi trật tự sẽ
không thể là trật tự nếu không trong thế quân bình với hỗn
mang. Thật ra thì kết thúc một trăm năm đó, quân xâm lược
ngoại bang sẽ đi tàu chiến chở trọng pháo tới tàn phá xứ sở này,
nhưng viễn kiến của nhà vua còn chưa vươn tới mốc đó. Năm
19 tuổi, nhà vua trẻ đã lên tới tột cùng đỉnh núi tri thức, hái
bông hoa trí huệ, nắm được câu trả lời tối thượng về sự sống,
vũ trụ và vạn vật (mở ngoặc, tuyệt đối không phải là 42), và
tới đó ngài không biết phải làm gì nữa. Ngài nghĩ hay là chết,
nhưng các triều thần ngăn cản, vì với tình hình hiện tại đào tạo
thêm một nhà vua-triết gia nữa thì quốc khố không cân nổi.
110 Z Z Z REVIEW
Một đêm trong đền, chư thần của vương quốc khuyên ngài hãy xuống khỏi đỉnh núi, thử
la cà nơi sườn núi mà thưởng thức những bông hoa tuy kém sắc nhưng vẫn có duyên riêng.
Người ta cho xây một thư viện, chở đến tất tần tật mọi cuốn sách từng viết ra trên đảo,
nhưng nhà vua đọc vèo một tháng là hết. Các bậc thầy bách nghệ được mời đến dạy, nhưng
sáu tháng sau vua đã tự tay xây nên một ngôi nhà biết nói và trồng xung quanh những cái
cây chưa từng thấy trên đời. Vua lại bắt đầu phàn nàn về nỗi không có gì làm. Các đại thần
lại chụm đầu bàn bạc. “Chỉ có tình ái là không bao giờ cạn,” họ kết luận. Để khỏi xúi bẩy
nhà vua đi mèo mỡ khắp giường các thần dân trong nước, chư thần phái xuống một nàng
tiên có một không hai trên đời. Không chỉ biến hình tùy ý, nàng còn thay đổi chính bản
chất của mình; nhà vua yêu cầu loại người gì nàng sẽ biến ngay thành người ấy, hoặc cô gái
đồng trinh mãi mãi ngây thơ trinh trắng, hoặc ả hồ ly tối nào cũng chấm điểm cho vua trên
bảng xếp hạng các tình nhân của nàng ta. Nhà vua sưu tập các dạng tình yêu, xứ sở vui cảnh
thái bình, thỉnh thoảng đâu đó nổi lên làm phản rồi chết ngóm.
Một hôm nhà vua vừa ngáp vừa phán, nàng hãy trở thành một người không bao giờ
đáp ứng nhưng chẳng bao giờ cạn kiệt. Nàng tiên núng nính đi tới, da dẻ đen xì, một mắt
vàng, một mắt xanh, hàm trên trống hoác. Nhà vua vừa nhìn thấy đã ọe khan. Nàng tiên
bảo: “Tôi đã biến hóa ra đúng như nhà vua muốn.”
“Chư thần hỡi, ít ra nàng cũng lắp đủ bộ nhai vào chứ.”
“Có chứ, một hàm răng tuyệt đẹp ẩn sau cặp môi huyền thoại của tôi.”
Nhà vua trố mắt nhìn nàng, kinh ngạc. “Đã vậy nàng đến đây thì được cái gì?”
“Tôi đến kể chuyện hầu vua.”
Đêm đó tắt đèn, nàng bắt đầu kể chuyện. Nàng tiên, mà chúng ta sẽ gọi là Scheherazade
vì đằng nào liên văn bản cũng huỵch toẹt ra rồi, có giọng nói hết sức kỳ diệu, không du
dương mà đều đều như tụng kinh, nhưng cách nào đó vẫn gọi lên những tình cảm cực
kỳ tinh tế trong lòng người nghe. Nàng cất giọng, nhà vua tưởng như trước mắt mình là
những chấm bướm nối nhau thành những đường quấn quýt bay qua mặt hồ phẳng lặng,
soi xuống hồ thành những ảnh tượng, lâu đài, đồng xanh, đại dương sóng cồn và tóc thề
thiếu nữ.
Nàng kể cho vua,
về người thợ hát của trời đã ngân dài một nốt từ thuở thế giới ra đời, không bao giờ ngưng
thở lấy hơi vì sợ khoảnh khắc ấy đất trời sụp đổ,
Tối tối nhà vua bước vào căn buồng tắt điện bừng bừng dục vọng, hứa với nàng sẽ chờ tới
khi kể chuyện xong, rồi tới khi trời sáng lại lộn mửa đuổi nàng đi, nhờ đó tránh được cái
chết tức thời và tức tưởi.
“Thế còn ta thì sao?” một lần ngài ngắt giữa chừng câu chuyện về người đàn ông đã gửi
thư cầu hôn rồi khi nhận được, để nguyên trên bàn không mở qua hàng năm ròng. “Ta cứ
phải chờ đến vô cùng chỉ vì sự kém cỏi của đám thầy phụ khoa hay sao?”
Nàng tiên buồn bã nhìn nhà vua. “Thì ngài cho gọi tôi mà.”
Nhà vua ngày càng ủ ê gắt gỏng. Cả ngày chỉ nằm trên giường, như trong cơn sốt vô
hình. Đại thần đến báo cáo về tình hình đất nước, nhưng ngài nghe vài câu lại sốt ruột đuổi
họ đi. Có nhiều kẻ hiếu sự thì thầm về nguy cơ bạo loạn, nhưng triết lý vô vi nhi trị đã được
áp dụng quá thành công đến nỗi có ai ho he cũng chẳng nên cơm cháo gì hết.
Triều thần sốt ruột giục vua ra ngoài chơi đi, thăm thú đất nước đi, để khỏi ngồi
không cả ngày. Kết quả khiến họ khiếp vía. Nhìn thấy cô gái nào nhà vua cũng ngỡ là nàng
112 Z Z Z REVIEW
tiên. Để khỏi làm gì manh động, ngài tế ngựa vào những vùng đồng ruộng rộng lớn không
người. Đằng xa xa ngài thấy một bóng người mặc váy đứng một mình giữa ruộng. Ngài
thúc ngựa, chạy vọt tới cắp lấy cô ta chạy vào rừng. Nhưng khi vật cô xuống đất, ngài nhận
ra đấy chỉ là một con bù nhìn.
Nhà vua hóa điên rồi, người ta rì rầm. Còn sợ làm phản gì nữa. Nhà vua đã thành bạo
chúa rồi.
“Tại nàng hết cả đấy,” vua bảo.
“Thì ngài cho gọi tôi mà,” nàng tiên đáp, nhưng lần này giọng nói có mùi tội nghiệp.
Nhà vua rầu rĩ vuốt chân nàng. Ngài không dám nhìn lên mặt nàng.
“Hay là gọi người khác đi? Hồi đó ngài đâu có giữ ai lâu quá một tuần.”
“Hồi đó ta còn đang sưu tập. Nhưng giờ thì ta muốn ở lại đây, chừng nào còn chịu
nổi.”
“Nhưng người khác thì sẽ làm được việc tôi không làm được.”
“Thế người ấy có biết kể chuyện không?”
“Ngài yêu cầu thì người ta sẽ làm được thôi.”
“Thế người ấy có một mắt vàng một mắt xanh không?”
“Thì chắc là có.”
“Thế người ấy có răng ở dưới không?”
“Giờ thì ngài nói linh tinh rồi đấy.”
“Người ấy có phải là Schehezarade không?”
“Người ấy vẫn là tôi thôi.”
“Người ấy sẽ không phải là nàng.”
Nàng tiên lặng thinh.
“Ta muốn chết,” nhà vua rên rỉ.
“Nhà vua hãy nghĩ cho đất nước. Nếu ngài chết người ta sẽ dựng lên một vua mới kém
cỏi lắm.”
“Đất nước cái ccc!” nhà vua nói, rồi dịu lại. “Hay là ta có thể thoái vị rồi dạy dỗ vua
mới cẩn thận rồi hẵng chết.”
“Nhà vua thoái vị là ngay lập tức chư thần sẽ phù hộ cho vua mới, tôi sẽ không còn
đến đây nữa.”
“Vậy thì xéo luôn cho rồi! Xéo đi, con đàn bà quỷ quyệt đã cướp mất sự thanh thản của
ta! Xéo luôn đi và chớ có bao giờ trở lại!” Và nhà vua quăng gối vào nàng.
Nàng tiên đứng dậy đi ra cửa.
“Này! Nàng đi đâu đấy?”
“Đi luôn.”
“Đêm nay đừng có mà đến muộn đấy!”
114 Z Z Z REVIEW
đảo. Được một tuần đội cung thủ can trường đã chết sạch. Giống dân kỳ lạ kia gào thét
bằng thứ tiếng kỳ lạ kia không rõ là mệnh lệnh hay chửi mắng, bao vây cung điện của nhà
vua. Nhà vua rút vào trong đền, và nhà sử học cung đình, sau này sẽ còn tác nghiệp lâu dài
trong triều đại mới, dâng lên chén thuốc độc.
Uống cạn chén thuốc, nhà vua phóng hỏa đốt bàn thờ. “Xin cho Scheherazade đến
gặp tôi,” ngài khấn.
Nàng xuất hiện, cái miệng không răng tuyệt đẹp mỉm cười với ngài.
“Một trăm năm là quá ngắn để chối từ nàng,” vua thì thầm.
Tiếng kèn lệnh chơi bản quốc thiều ngoại bang bên cửa.
116 Z Z Z REVIEW
Chuyện kể về
tình yêu và
bóng tối(1)
(trích dịch)
Nguyễn An Lý dịch
Amos Oz được thừa hưởng cả hai truyền thống lý tính khai sáng
và lãng mạn thần bí, tạm gọi là từ cha và mẹ. Thuộc về thế hệ đầu
tiên sinh ra trên đất Israel, được chứng kiến giờ phút hình thành
Nhà nước Israel, ông thành danh từ rất trẻ với những truyện ngắn
và tiểu thuyết ngắn hết sức sắc sảo về đời sống ở kibbutz (hợp tác
xã nông nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa) Israel, sau đó liên tục cho ra
đời 20 tiểu thuyết hoặc tập truyện ngắn cùng rất nhiều tiểu luận, xã
luận bàn về chính trị đất nước, ủng hộ giải pháp hai nhà nước cho
cuộc tranh chấp Israel-Palestine. Dù không phải người duy nhất làm
nhân chứng cho cuộc vật vã thoát thai của con người Israel từ thế
lưỡng phân giữa “châu Âu” và “Do Thái”, ông lại là người, khi qua
đời cuối tháng 12 vừa qua, được thương khóc như là “anh hùng văn
hóa”, “lương tâm của Israel”, “trái tim nhân ái của Israel”.
1. Tác phẩm được Nhã Nam mua bản quyền dịch và dự kiến phát hành trong thời gian tới.
CHƯƠNG 1
Tôi sinh ra và lớn lên trong một căn hộ tầng trệt ba mươi mét vuông, trần thấp. Ba mẹ tôi
ngủ trên cái giường kiêm xô pha, tối tối kéo ra thì gần choán hết mặt sàn. Sáng sáng hai
người đẩy cái giường lút sâu vào trong chính nó, rồi đem chăn ga giấu hết trong bóng tối
ngăn kéo dưới chân, rồi úp ngược cái đệm, ấn cho chặt, rồi phủ cái chăn xám che hết đi, rồi
vứt trên cùng dăm ba chiếc gối thêu kiểu phương đông nữa, thế là dấu vết một đêm ngủ đã
biến mất. Căn buồng không chỉ là phòng ngủ, mà còn là phòng viết, phòng đọc sách, phòng
tiếp khách, phòng ăn.
Đối diện với nó là căn buồng màu xanh bé bỏng của tôi, kê cái tủ áo bụng bự choán
gần nửa buồng. Một hành lang thấp và hẹp, lại tối tăm và hơi cong, như đường hầm đào
trốn tù, nối hai buồng với căn bếp chật và nhà vệ sinh. Một bóng đèn giam trong lồng sắt
đổ thứ ánh sáng chập chờn xuống hành lang cả ban ngày. Mặt trước nhà có hai cửa sổ, một
phòng ba mẹ, một phòng tôi, đều bọc rèm lá sách bằng kim loại, đều gắng sức nhìn qua kẽ
rèm ngắm chút phong cảnh phía Đông mà chỉ thấy một cây bách cáu bụi và bức tường thấp
bằng đá thô để trần. Mặt sau bếp và nhà vệ sinh trổ hai ô thông gió bé tí trên cao, ngó xuống
mảnh sân tù bé bằng lỗ mũi, tường cao quây kín, sàn lát xi măng, giữa sân là một cây phong
lữ nhợt nhạt trồng trong hộp ô liu rỉ đang ngày một héo hon vì tuyệt không có lấy một giọt
nắng trời. Bệ hai ô thông gió lúc nào cũng có mấy hũ dưa ướp, cùng một cây xương rồng lì
lợm trồng trong cái lọ nứt dùng làm chậu hoa.
118 Z Z Z REVIEW
Đấy thực ra là một căn hộ tầng hầm, bởi tầng trệt ngôi nhà được khoét vào sườn đồi
đá. Quả đồi là láng giềng sát vách nhà chúng tôi, một ông láng giềng đồ sộ, ủ ê, khép kín,
một quả đồi già buồn rầu với nền nếp sinh hoạt cố định như mọi gã không vợ khác, một
quả đồi mùa đông im lìm gà gật, không bao giờ kéo bàn ghế hay đón tiếp khách khứa,
không bao giờ gây ồn ào hay làm phiền chúng tôi, nhưng giống như một thứ mùi mốc
thoảng nhẹ nhưng dai dẳng, cái im lặng và ẩm ướt lạnh và tối mịt của ông hàng xóm u sầu
ấy vẫn ngày đêm rỉ ra qua bức tường.
Bởi vậy, suốt mùa hè, nhà chúng tôi vẫn phảng phất mùa đông.
Khách đến nhà hay nói: nhà này cả giữa đợt gió nóng vẫn thật là thoải mái, mát mẻ dễ
chịu, se lạnh là khác, nhưng đến mùa đông thì anh chị làm sao? Tường này không bị thấm
ẩm à? Cả nhà không thấy buồn thảm ư?
Khắp nhà chất đầy sách. Ba tôi đọc được mười sáu mười bảy thứ tiếng, nói chuyện được
bằng mười một tiếng (tiếng nào cũng đá giọng Nga). Mẹ tôi nói được bốn hay năm và đọc
bảy tám gì đó. Lúc nào không muốn tôi hiểu thì hai người nói tiếng Nga hay Ba Lan. (Tức
là rất nhiều. Đang nói tiếng Hebrew gần tôi, mẹ nhỡ mồm nhắc đến chuyện ngựa giống, ba
tôi liền gắt lên bằng tiếng Nga: Shto s toboi?! Vidish malchik ryadom s nami! - Em làm sao
thế? Em thấy thằng bé ở ngay đây mà!) Hai người đọc sách tiếng Đức và Anh là chủ yếu, vì
nhu cầu văn hóa, và nằm mơ chắc bằng tiếng Yiddish chăng. Nhưng ngôn ngữ duy nhất tôi
được dạy là tiếng Hebrew. Có thể ba mẹ sợ rằng biết nhiều thứ tiếng sẽ khiến cả tôi nữa, rơi
vào bùa chài của châu Âu, cái lục địa tuyệt diệu, lục địa giết người ấy.
Trên thang giá trị của ba mẹ tôi, càng dịch chuyển về phía Tây thì càng được coi là văn
hóa. Tolstoy và Dostoyevsky có gần gũi với tâm hồn Nga của hai người đến mấy thì tôi cũng
ngờ rằng nước Đức - dù có Hitler - vẫn đứng trên một bậc so với Nga hoặc Ba Lan. Và Pháp
lại trên cơ Đức. Anh còn được đặt ở nấc thang cao hơn Pháp nữa. Còn Mỹ thì, họ chưa có
kết luận rõ ràng: dù sao đấy cũng là xứ sở nơi người ta bắn dân da đỏ, đánh úp tàu chở thư,
chạy theo vàng và săn lùng đàn bà con gái.
Châu Âu với họ là mảnh đất hứa đã vĩnh viễn thành đất cấm, một miền thương nhớ
với những gác chuông và quảng trường lát đá phiến từ thời cổ, những xe điện cùng cầu và
tháp nhọn nhà thờ, những làng quê hẻo lánh, những thị trấn nghỉ dưỡng, những rừng,
những đồng cỏ tuyết giăng.
Những chữ như “nhà tranh”, “đồng cỏ”, “cô bé chăn ngỗng” đã mê hoặc và kích thích tôi
hầu suốt thời thơ ấu. Từ những chữ đó toát ra nồng nực mùi hương của một thế giới ấm cúng
và chân thực, khác xa những mái tôn bẩn bụi, những bãi hoang thành thị đầy đồng nát sắt vụn
lẫn với bông kế, những sườn đồi Jerusalem khô cháy dưới mùa hè nóng ngộp nặng như đá đè.
Sau này tôi dần hiểu rằng trong thời Anh còn
cai trị vào các thập kỷ 1920 đến 1940, Jerusalem
hẳn là một thành phố giàu văn hóa cực kỳ thú
vị. Thành phố có đủ những doanh nhân lớn,
những nhạc sĩ, học giả, nhà văn quan trọng:
Martin Buber, Greshom Scholem, S. Y. Agnon,
cùng một loạt những nhà nghiên cứu và nghệ
sĩ danh tiếng khác. Đôi khi đang đi trên phố
Ben Yehuda hay đường Ben Maimon, ba tôi lại
thì thầm với tôi: “Kia là một học giả lừng danh
Bìa gốc cuốn Chuyện kể về tình yêu và bóng tối,
lấy ảnh Amos Oz thuở nhỏ cùng bố mẹ. thế giới đấy.” Tôi không hiểu thế nghĩa là gì. Tôi
ngỡ lừng danh thế giới là điều có quan hệ thế
nào đó với chân đi lẩy bẩy, vì nhân vật được chỉ ra thường là một ông già chống gậy dò dẫm
tìm đường, vừa đi vừa vấp, mùa hè vẫn mặc bộ vét len nặng trịch.
Thành Jerusalem mà ba mẹ tôi tôn kính nằm rất xa nơi tôi sống: đấy là khu Rehavia
rợp lá, những khoảnh vườn chìm giữa tiếng dương cầm, đấy là ba hay bốn quán cà phê có
đèn chùm dát vàng trên đường Jaffa hay phố Ben Yehuda, trong những đại sảnh của Hiệp
hội thanh niên Cơ đốc YMCA hay khách sạn King David, nơi những người Do Thái và Ả
Rập thèm văn hóa tới chen vai thích cánh cùng những dân Ăng lê phong nhã lịch duyệt,
nơi những nhan sắc mơ huyền bận đầm dạ tiệc vịn tay những bậc hào hoa đóng vét đen, nơi
những khách Anh đầu óc cởi mở dùng bữa bên dân Do Thái có văn hóa hay dân Ả Rập có
giáo dục, nơi mở những vũ hội, những đêm thơ nhạc, những tiệc trà có khiêu vũ, và những
cuộc đàm đạo nghệ thuật phong lưu. Hoặc cũng có thể thành Jerusalem ấy, thành phố của
đèn chùm và tiệc trà khiêu vũ ấy, chẳng hề có thật bên ngoài giấc mơ của những thủ thư,
những thầy giáo, những nhân viên và thợ đóng sách sống ở Kerem Avraham. Giá nào thì nó
cũng không có ở nơi chúng tôi ở. Kerem Avraham, nơi tôi sống, thuộc về Chekhov.
Nhiều năm sau này khi đọc Chekhov (qua bản dịch tiếng Hebrew), tôi đã tin chắc
ông là người trong số chúng tôi: Chú Vanya sống trong căn hộ thẳng trên đầu tôi, bác sĩ
120 Z Z Z REVIEW
Samoylenko từng cúi xuống khám cho tôi bằng đôi bàn tay to mạnh mẽ khi tôi bị sốt và
một lần bị bạch hầu, Laevsky nhức đầu muôn thuở là em họ mẹ tôi, còn Trigorin(1) thì
chúng tôi vẫn thường đi xem, ở hội trường Beit Ha’am các suất chiều thứ Bảy.
Khắp quanh chúng tôi là người Nga, đủ các loại. Nhân vật kiểu Tolstoy có rất nhiều.
Thậm chí nhiều người trông còn hệt như Tolstoy. Khi giở tới tấm ảnh màu nâu trên lưng
cuốn sách của ông, tôi tin chắc mình đã nhiều lần gặp ông trong khu này, hoặc thả bộ trên
phố Malachi, hoặc đi qua phố Ovadyah, đầu trần, chòm râu bạc phơ phất trong gió, ghê
gớm như tổ phụ Abraham, cặp mắt sáng loáng, tay chống cành cây thay gậy, tấm áo nông
dân Nga trùm ra ngoài cái quần thụng thịnh buộc dải rút.
Mấy nhân vật Tolstoy trong khu nhà chúng tôi (mà ba mẹ tôi gọi là Tolstoyshchik)
không từ một ai đều thật tâm ăn chay, ôm mộng cải tổ thế giới, say đắm yêu thiên nhiên,
theo đòi cuộc sống đạo đức, chan chứa tình yêu tha nhân cùng mọi sinh vật trên đời, một
lòng mong mỏi quy khứ lai sống đời lao động chất phác trên đồng cây vườn quả. Nhưng
chăm mấy chậu cảnh cho nên cây họ cũng không làm nổi: khi thì họ tưới nước quá đà làm
cây chết, lúc lại quên tưới cây, nếu không thì cũng là do bọn cầm quyền Anh quốc khốn nạn
bỏ clo vào nước dùng.
Trong số họ có những nhân vật Tolstoy mà lại chẳng khác gì vừa bước ra từ tiểu thuyết
Dostoyevsky: dằn vặt, nhiều lời, một bầu ham muốn đè nén, một kho ý tưởng bừng bừng.
Nhưng dù thuộc về Tolstoy hay Dos, đã vào khu Kerem Avraham nhà chúng tôi đều chỉ
thành con rối trong tay Chekhov.
Phần còn lại của thế giới thì thường gọi là “thế giới rộng lớn”, nhưng cũng có khi đi
kèm những tính ngữ khác: văn minh, ngoài kia, tự do, đạo đức giả. Hiểu biết của tôi về
nó hầu như chỉ bằng con đường sưu tập tem: Danzig, Bohemia, và Moravia, Bosnia và
Herzegovina, Ubangi-Shari, Trinidad và Tobago, Kenya, Uganda, và Tanganyika. Cái thế
giới rộng lớn ấy xa xôi, quyến rũ, phi thường, nhưng với chúng tôi thì lại nguy hiểm và đe
dọa. Thế giới ấy không ưa người Do Thái vì họ khôn, họ nhanh trí, họ thành công, nhưng
cũng vì họ ồn ào lắm đòi hỏi. Thế giới ấy cũng chẳng ưa những gì chúng tôi đang làm ở Đất
Israel, bởi nó hậm hực chẳng muốn cho chúng tôi đến cả cái dải đất bạc bẽo toàn đầm lầy,
đá tảng và sa mạc này. Ngoài kia trong thế giới, mỗi bức tường đều viết kín: “Bọn Yid cút
về Palestine”, vậy là chúng tôi về Palestine, và giờ thì thế giới ngoài kia lại quát “Bọn Yid cút
khỏi Palestine”.
Không chỉ thế giới ngoài kia là thăm thẳm xa; cả Đất Israel, Eretz Israel cũng chẳng lấy
gì làm gần cận. Ở đâu đó, bên kia đồi và xa nữa, một giống người Do Thái mới anh hùng
Những người tiền phong sống rất xa chân trời của chúng tôi, ở Galilee, ở Sharon, ở các
thung lũng. Những chàng trai cứng cỏi và nồng hậu, dù tất nhiên cũng trầm lặng và ưu tư,
cùng những cô gái rắn rỏi, bộc trực, tự chủ, hình như biết tất cả, hiểu tất cả; họ biết ta và
cõi lòng thẹn thò nhiều bối rối của ta, nhưng vẫn đối xử với ta thân tình, nghiêm túc và coi
trọng, đối xử với ta không phải như trẻ nít mà như một người đàn ông, dù là một người
đàn ông hơi còi.
Tôi hình dung họ là những người mạnh bạo, nghiêm nghị, kín lời, có thể ngồi vòng
tròn hát về nỗi mong chờ khắc khoải, mà cũng có thể hát những bài nhạo báng, hay những
bài táo tợn bày tỏ thèm khát nhục cảm, có thể nhảy hăng tới mức như thể không phải bằng
xương thịt. Họ biết cô đơn mà cũng biết tự vấn, biết sống ngoài trời, ngủ trong lều bạt,
làm lụng cực nhọc, vừa làm vừa hát “Luôn luôn sẵn sàng”, “Các chú bé xưa mang lại hòa
bình bằng lưỡi cày, ngày nay sẽ biết lấy hòa bình bằng súng”, “Lệnh bảo đi đâu, chúng ta
đi đấyyyy”; họ biết điều khiển ngựa hoang lẫn máy kéo bánh lớn; họ biết tiếng Ả Rập, họ
rành rẽ từng hang lũng, họ khéo léo sử dụng súng lục lẫn lựu đạn mà lại thuộc làu thơ ca
triết học; họ là những người râu hùm hàm én có trí tuệ mẫn tiệp và xúc cảm kín đáo, biết
trò chuyện thầm thì bên ánh nến trong lều khi tờ mờ sáng, về ý nghĩa cuộc đời, về lựa chọn
nghiệt ngã giữa ái tình và bổn phận, giữa lòng ái quốc và công lý nhân quần.
Đôi khi tôi cùng các bạn đến sân giao hàng của hợp tác xã Tnuva, ngắm họ vừa tới từ
bên kia đồi và xa hơn nữa, trên cỗ xe tải chất đầy nông sản, “áo lấm bụi đường, trĩu vai vũ
khí, ủng nặng dưới chân”, và tôi thường lại gần họ hít lấy cái mùi cỏ khô, cái hương vị mê
122 Z Z Z REVIEW
tơi của những miền viễn xứ: chính nơi họ từ đó tới, tôi nghĩ, là nơi đang xảy ra những việc
lớn lao. Đấy là nơi đất đang được dựng xây và thế giới được cải tạo, một xã hội mới được rèn
thành. Họ đang khắc dấu ấn lên vùng đất và lên lịch sử, họ đang khai phá ruộng và trồng
những vườn nho, họ đang viết nên bài ca mới, họ vớ súng, nhảy lên lưng ngựa, bắn trả quân
cướp Ả Rập: từ đất sét là giống người thảm hại chúng ta, họ nặn thành một dân tộc thiện
chiến.
Tôi bí mật mơ rằng một ngày kia họ sẽ nhận tôi về với họ. Và biến cả tôi thành một dân
tộc anh hùng. Mơ rằng cả cuộc đời tôi cũng sẽ thành một bài ca mới, một cuộc đời thanh
khiết và bộc trực và đơn thuần như cốc nước trong ngày nực.
Bên kia đồi và xa hơn nữa, thành phố Tel Aviv cũng là một nơi hấp dẫn, là nơi đưa đến báo
chí, những lời nhỏ to về sân khấu, opera, ba lê, cabaret, cũng như nghệ thuật hiện đại, chính
trị đảng phái, tiếng vọng từ những cuộc tranh luận nảy lửa, và những mẩu tin đồn tiếng
được tiếng mất. Ở Tel Aviv có những nhà thể thao thượng hạng. Lại còn cả biển, biển đầy
những người Do Thái có nước da đồng hun, họ biết bơi. Ở Jerusalem làm gì có ai biết bơi?
Có ai từng nghe nói người Do Thái mà lại biết bơi? Họ, họ sở hữu bộ gen khác. Họ là đột
biến. “Như sự xuất sinh kỳ diệu khi con bướm thoát thai khỏi con sâu.”
Chỉ riêng cái tên Tel Aviv đã hàm chứa một phép màu đặc biệt. Nghe mấy chữ “telaviv”,
đầu tôi đã tự động vẽ lên một con người cứng cỏi mặc áo phông xanh thẫm, da đồng hun,
vai vạm vỡ, một nhà thơ cách mạng công nhân, một tinh thần không bao gồm nỗi sợ, loại
người mà người ta vẫn gọi là Hevreman, mũ đội lệch cẩu thả và khiêu khích trên mái tóc
xoăn, hút thuốc Matusian, một người đã quen thoải mái trong thế giới: suốt cả ngày anh
đổ mồ hôi với đất đai, hay là vôi vữa, tối đến anh kéo vĩ cầm, rồi đêm đêm nhảy cùng các cô
con gái, hay hát cho các cô nghe những bài ca tha thiết giữa đụn cát dưới ánh trăng rằm, và
tới tờ mờ sáng, anh vớ lấy khẩu súng ngắn hay tiểu liên từ chỗ cất giấu, lẩn vào bóng đêm đi
canh gác ruộng vườn nhà cửa.
Tel Aviv mới xa làm sao! Suốt thời thơ ấu tôi đến đó được năm sáu lần là hết - nhà tôi
thỉnh thoảng đến ở cùng gia đình chị em gái của mẹ tôi, các dịp lễ hội. Không chỉ ánh sáng
ở Tel Aviv khác hẳn ánh sáng ở Jerusalem, khác nhiều hơn ngày nay, mà cả sức hút trái đất
cũng khác. Ở Tel Aviv người ta không đi lại - người ta nhảy từng bước dài, người ta bay lơ
lửng, như Neil Amstrong đi trên mặt trăng.
Ở Jerusalem dân tình lúc nào cũng đi lại kiểu như đang dự lễ tang, hay đi xem hát
bị muộn giờ. Ban đầu, người ta đặt mũi giày xuống trước, ướm thử xem mặt đất có chắc
không. Rồi sau khi hạ cả bàn chân xuống rồi, họ sẽ dềnh dang ở đó: đi đâu mà vội mà vàng,
chúng ta đã đợi tới hai ngàn năm mới đưa được chân vào Jerusalem, nhỡ vừa nhấc chân lên
Mấy năm liền nhà tôi có lịch hẹn định kỳ gọi cho các bác ở Tel Aviv. Chúng tôi gọi ba bốn
tháng một lần, dù nhà tôi lẫn nhà bác đều không mắc điện thoại. Thoạt tiên chúng tôi viết
thư cho hai bác Haya và Tsvi, thông báo rằng chẳng hạn vào ngày mười chín tới - hôm đó
thứ Tư, bác Tsvi được nghỉ ở trạm y tế từ ba giờ - chúng tôi sẽ gọi từ hiệu thuốc chỗ nhà tôi
tới hiệu thuốc chỗ nhà họ lúc năm giờ. Thư gửi đi rất sớm, rồi chúng tôi đợi trả lời. Thư hồi
âm của hai bác Haya và Tsvi cam đoan là thứ Tư ngày mười chín rất tiện, hai bác sẽ chờ ở
hiệu thuốc từ trước năm giờ một chút, nếu không gọi được đúng boong năm giờ thì cũng
đừng lo lắng, hai người không chạy mất đâu.
Tôi không nhớ gia đình tôi có lên đồ khi xuất hành tới hiệu thuốc để gọi đến Tel Aviv
không, nhưng nếu có thì cũng không có gì lạ. Đấy là một dịp long trọng. Từ Chủ nhật tuần
124 Z Z Z REVIEW
trước, ba đã bảo mẹ, Fania, em không quên tuần này mình gọi đến Tel Aviv chứ hả? Sang
thứ Hai mẹ sẽ bảo, Arieh, ngày kia anh đừng về nhà muộn đấy, không lại hỏng việc. Và đến
thứ Tư cả hai người sẽ cùng bảo tôi, Amos, con đừng có làm gì bất ngờ đấy, nghe không, cốt
đừng có ốm, nghe không, con đừng có cảm, đừng có ngã, đến hết chiều mai là được. Và tối
hôm đó hai người sẽ nói với tôi, Đi ngủ sớm đi để lúc gọi điện được tươi tắn khỏe khoắn,
ba mẹ không muốn các bác nghe giọng con lại tưởng không được ăn đủ đâu.
Cứ thế nỗi mong chờ lớn dần. Chúng tôi sống trên phố Amos, hiệu thuốc trên phố
Zephaniah đi bộ mất năm phút, nhưng từ ba giờ ba đã bảo mẹ:
“Em đừng có giở việc gì ra đấy nhé, không chốc lại cuống lên.”
“Em thì tốt rồi, nhưng anh cứ chúi mũi vào sách thế rồi sẽ quên bẵng đi mà xem.”
“Anh mà quên à? Anh cứ vài phút lại nhìn đồng hồ đấy nhé. Mà con nó sẽ nhắc anh
chứ.”
Vậy là tôi, một thằng bé năm sáu tuổi, đã bị giao cho một trọng trách lịch sử. Tôi
không có đồng hồ đeo tay - lấy đâu ra được? - thế là cứ chốc chốc tôi lại chạy vào bếp xem
kim đồng hồ, rồi xướng lên, như đếm ngược giờ phóng tàu vũ trụ: còn hai lăm phút nữa,
còn hai mươi phút, còn mười lăm, mười phút rưỡi - và đến lúc đó cả ba cùng đứng dậy, khóa
cửa trước thật kỹ, rồi lên đường, rẽ trái đi đến hiệu thực phẩm của ông Auster, rồi rẽ phải
vào phố Zechariah, rồi lại trái vào phố Malachi, rồi phải vào Zephaniah, và bước thẳng vào
hiệu thuốc mà xưng danh:
“Chúc bác buổi chiều tốt lành, bác Heinemann. Chúng tôi đến gọi điện đây.”
Tất nhiên ông Heinemann đã biết rõ rằng thứ Tư đó nhà tôi sẽ tới gọi cho họ hàng ở
Tel Aviv, ông cũng biết bác Tsvi làm ở trạm y tế, còn bác Haya làm to lắm ở Hiệp hội phụ
nữ lao động, còn Yigal lớn lên sẽ làm vận động viên đấy, và nhà đó còn chơi thân với Golda
Meyerson (mà sau này sẽ là Golda Meir(1)) cũng như Misha Kolodny, mà về đây thì gọi là
Moshe Kol(2), nhưng chúng tôi vẫn nhắc lại với ông: “Chúng tôi đến gọi cho họ hàng ở Tel
Aviv đây.” Ông Heinemann sẽ đáp, “Vâng vâng, rõ rồi, mời anh chị ngồi.” Rồi ông sẽ kể
cái truyện cười mọi bận. “Một lần Đại hội Phục quốc đang tổ chức ở Zurich thì từ phòng
nhỏ bên cạnh bỗng vọng ra tiếng ầm ầm rất ghê gớm. Berl Locker hỏi Harzfeld có việc gì,
Harzfeld bèn giải thích rằng đấy là đồng chí Rubashov đang nói chuyện với Ben Gurion ở
Jerusalem. ‘Nói chuyện với Jerusalem hả,’ Berl Locker thốt lên, ‘vậy sao ông ấy không dùng
điện thoại đi?’ ”
Ba sẽ nói, “Anh quay số đây.” Và mẹ sẽ đáp, “Arieh, giờ còn sớm. Mấy phút nữa mới
1. Thủ tướng thứ tư của Israel, có biệt danh “bà đầm sắt” và “bà nội của người Israel”.
2. Từng là Bộ trưởng Du lịch và Bộ trưởng Phát triển Israel, một trong những người ký vào Tuyên ngôn độc lập Israel.
126 Z Z Z REVIEW
“Chúng tôi cũng thế. Có gì mới không?”
“Không có gì mới cả. Thế chỗ anh chị thế nào, anh Tsvi? Có tình hình gì mới cho
chúng em biết.”
“Bình thường hết. Không có gì cần kể. Chúng tôi đều ổn.”
“Không có gì tức là tốt đấy. Ở đây cũng không có gì. Cả nhà đều khỏe. Thế sức khỏe
anh chị thế nào?”
“Chúng tôi cũng khỏe.”
“Khỏe thì mừng quá. Giờ Fania nói chuyện với anh nhé.”
Rồi lại lặp lại tất cả từ đầu. Anh thế nào? Có gì mới không? Rồi thì, “Giờ cháu Amos
nói vài câu nhé.”
Và tất cả câu chuyện là như vậy. Có gì mới không? Tốt. Vậy thôi ít nữa lại nói chuyện
nhé. Được nghe tin anh thật vui quá. Được nghe tin chú cũng vui. Chúng em sẽ viết thư
hẹn giờ gọi lần sau nhé. Chúng ta sẽ nói chuyện. Ừ. Chắc chắn rồi. Độ ít nữa thôi. Hẹn gặp
anh. Giữ gìn sức khỏe nhé. Chúc mọi điều tốt lành. Chú cũng vậy.
Nhưng chẳng có gì đáng cười: mạng sống của chúng tôi rất mong manh. Bây giờ tôi hiểu ra
rằng họ không hề tin tưởng mình sẽ thật sự được nói chuyện với nhau lần nữa, đây có thể
là lần cuối, ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, có thể có bạo loạn, tru diệt, tắm máu, dân Ả Rập có
thể vùng lên giết sạch đám chúng tôi, có thể có chiến tranh, thảm họa, dẫu sao thì xe tăng
của Hitler đã suýt chạm cửa nhà chúng tôi từ cả hai phía Bắc Phi và dãy Kavkaz, ai biết còn
gì chờ phía trước? Cuộc nói chuyện vô nghĩa này thực ra không vô nghĩa, chỉ lúng túng mà
thôi.
Giờ đây, điều tôi hiểu được từ những cuộc điện thoại ấy là họ - là tất cả mọi người,
không riêng gì ba mẹ tôi - cảm thấy thật khó khăn khi bộc lộ tình cảm riêng tư. Những
tình cảm tập thể thì họ nói ra hết sức rành rọt - họ vốn là những người giàu cảm xúc, họ
cũng giỏi nói chuyện. Họ nói đến là nhiều! Họ có thể đàm luận hàng giờ không nghỉ, vô
cùng hăng hái, về Nietzsche, về Stalin, Freud, Jabotinsky, quăng cả bầu nhiệt huyết vào đó,
rỏ những giọt nước mắt xúc động, ngân nga như hát về chủ nghĩa thực dân, về thói bài Do
Thái, về công lý, “vấn đề nông nghiệp”, “vấn đề phụ nữ”, “nghệ thuật hay đời sống”, nhưng
cứ khi nào họ muốn phát biểu ra một tình cảm trong lòng, thì lời họ lại căng thẳng, nhạt
nhẽo, thậm chí còn nhát sợ, kết quả của nhiều thế hệ sống trong đè nén và phủ nhận. Phủ
nhận hai lần và đè nén hai tầng, bởi những lề thói trưởng giả châu Âu càng củng cố thêm
những trói buộc trong cộng đồng sùng đạo Do Thái. Hầu như thứ gì cũng “cấm tiệt” hoặc
“không ai làm thế” hoặc “không hay lắm đâu”.
Thêm nữa, vấn đề còn ở chỗ thiếu từ ngữ trầm trọng: cho tới lúc đó tiếng Hebrew vẫn
128 Z Z Z REVIEW
TOP 20 VĂN HỌ C DỊCH 2018
2. Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull - Thomas Mann - Nguyễn Hồng Vân và Trần
Đàm Thành dịch
Felix Krull, tuy xuất hiện khá muộn ở Việt Nam, một bước lên luôn thành tượng đài
và chủ tịch câu lạc bộ những nhân vật nam tếu và đả phá nhất mọi thời đại. Nếu buộc phải
chọn Cuốn Sách Của Năm, thì lòng tôi khổ sở mà thốt lên, đầy day dứt, rằng: Bẫy-22 là
tình yêu từ cái nhìn đầu tiên đến từ hồi đầu năm, còn Krull người từ trăm năm nước về
như bão tố bèn thành cú chốt hạ cuối năm. Thôi thì ông đầu rau, năm nay chúng ta có một
cú đúp.
Hài hước và, tung tẩy, Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là cuốn tự thuật của
132 Z Z Z REVIEW
anh chàng Felix Krull kể lại cuộc đời bảy nổi bảy chìm của nhân vật ba que xỏ lá nhất hạng
này từ lúc còn ấu thơ, lớn lên trong nhung lụa, tới lúc gia đình phá sản, trưởng thành, trốn
nghĩa vụ quân sự, sang Paris làm chân giúp việc trong một khách sạn, phiêu lưu ái tình
không chỉ với một đờn bà, đội lốt, lừa đảo và chu du. Câu chuyện cứ như tiếp diễn mãi mãi,
vì đây là một tác phẩm dang dở của Thomas Mann và vì thế không có đoạn kết. Dẫu vậy,
có thể nói Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là tác phẩm vượt trội hơn cả Núi thần,
và có thể sánh về tầm vóc với Gia đình Buddenbrock, mà ở nhiều trường đoạn, còn đem lại
những khoái cảm đọc lớn hơn.
Được viết trước Chết ở Venice, như chính lời Mann tự thuật: “[Lời thú nhận của tay
lừa đảo Felix Krull] được dựa trên ý tưởng giễu nhại, lấy một yếu tố từ truyền thống thiêng
liêng, từ kiểu thú nhận tự thuật của quý tộc phong cách riêng kiểu Goethe, và biến nó
thành thế giới của những kẻ khôi hài và tội phạm. Cuốn tiểu thuyết này mãi dang dở,
nhưng có nhiều chuyên gia coi những phần đã được xuất bản là tác phẩm xuất sắc nhất và
thành tựu tài tình nhất của tôi. Có lẽ đây là thứ riêng tư nhất tôi từng viết ra, bởi nó trình
bày quan điểm của tôi đối với truyền thống, một thứ vừa đáng yêu vừa hủy hoại và đã chi
phối tôi với tư cách là một người viết.”
Phải nói thêm, bản dịch của Nguyễn Hồng Vân và Trần Đàm Thành xứng đáng chia
nhau Giải thưởng văn học dịch 2018 với một cuốn khác sẽ nhắc dưới đây.
134 Z Z Z REVIEW
4. Những nhân chứng cuối cùng: Solo cho giọng trẻ em - Svetlana Alexievich - Phan
Xuân Loan dịch
Svetlana Alexievich không còn là một cái tên lạ lẫm với độc giả Việt Nam. Từ lúc bà
được trao giải Nobel, mỗi năm lại đều đặn có bản dịch tác phẩm của bà. Và văn chương của
bà, nếu ta cứ mạnh dạn liệt những truyện tư liệu của bà vào lĩnh vực văn chương, vẫn không
ngừng làm tôi sững sờ và, run rẩy.
Những nhân chứng cuối cùng, với ý tưởng được nảy sinh từ những chuyến đi cho cuốn
sách đầu tiên Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, quả là một cuốn sách cần đọc
song song để được nghe cùng lúc hai giọng, bè cho nhau, mà đồng điệu, không hề lấn át
nhau: một của phụ nữ, một của trẻ em. Không dẫn dụ dông dài, Những nhân chứng cuối
cùng đi thẳng vào trung tâm: để cho lần lượt hơn trăm trẻ em cất tiếng kể, những đứa bé
ở Belarus là nơi đầu tiên của Liên Xô hứng bom đạn, khi Đức đột ngột tấn công vào năm
1941. Những người kể lại giờ đây đã trưởng thành, nhưng ký ức và cảm giác thì vẫn còn
nguyên vẹn, với gần như một nhịp chung của đời sống: ngày hôm ấy, 22-6, mọi thứ vẫn
diễn ra như thường nhật, em bé đi mua bánh mì, hoa thủy tiên nở, thì đột nhiên “bầu trời
tối om và máy bay đen sì”, và thế là chiến tranh nổ ra. Chết chóc ập tới, chia lìa với gia đình,
những cơn đói, máu đổ, chạy giặc tản cư, trại mồ côi, thiếu thốn tình thương và sự chở che
của bố mẹ và những năm tháng khổ sở và khát khao dài dặc: những em bé ấy, ở độ tuổi non
nớt ấy, đã chứng kiến, đã kinh qua, đã sống sót, và giờ đây trên trang giấy họ kể lại: đầy đủ
những cảm giác còn tươi sống: ánh sáng chói lòa, mùi chiến tranh, màu hồng trên tro...
Những nhân chứng cuối cùng có lẽ là cuốn ám ảnh nhất trong ba tác phẩm của bà được
dịch sang tiếng Việt, vì nó lấy trung tâm là lời kể của những chủ thể yếu ớt, dễ bị tổn thương
nhất: trẻ em.
136 Z Z Z REVIEW
lại cố hương khắc họa từ khúc dạo đầu đến lúc rơi vào thảm kịch, của không chỉ Eustacia,
mà còn của Clym, và cả mẹ Clym.
2018 có thể coi là một năm dành cho những kiệt tác kinh điển được dịch sang tiếng
Việt. Và Thomas Hardy, nhà văn tiêu biểu và xuất sắc của văn chương Victoria, xuất hiện
với tác phẩm được giới phê bình đánh giá rất cao Trở lại cố hương - một cuốn tiểu thuyết
chớm bờ hiện đại, thậm chí còn được coi là hiện đại đến táo bạo vì những chủ đề cấm kỵ
vào thời bấy giờ.
138 Z Z Z REVIEW
mặt có vẻ bình thản và khó hiểu của người chồng lại là một quá khứ thời thiếu niên đầy
những rắc rối, với những cơn khó ở, động kinh, luôn cảm thấy vực xoáy dưới chân mình,
với những mối quan hệ bạn bè phức tạp. Tình cờ lạc nhau khi bắt nhầm tàu, cuộc đời
Mihály và Erzsi cũng đổi hướng hoàn toàn từ đó: Mihály lẩn trốn và trôi dạt hết thành phố
này sang thành phố khác của Ý, như một kẻ bị quá khứ đeo đuổi và giờ đây quyết truy tìm
và thỏa mãn những ám ảnh chưa được giải quyết năm xưa.
Những tưởng nội dung đầy tăm tối với những dằn vặt của tuổi trẻ, tình yêu, và dục
vọng, như vậy, Lữ khách và Cõi trăng sẽ là một chuyến đọc nhọc nhằn cho độc giả, nhưng
ngược lại, thấm đẫm yếu tố hài hước và châm biếm, mà đôi chỗ trường đoạn khiến ta bất
ngờ khoái chí, cuốn tiểu thuyết vượt xa một suy nghiệm về tuổi trẻ băn khoăn. Nó còn là
một giễu nhại đích thực.
140 Z Z Z REVIEW
B ONUS NHỮNG CÚ GẠCH ĐẦU D ÒNG ĐẦY SÚC T ÍCH :
MỘT TOP 10 K HÁC
Một lời trần tình: Vì năm nay quá nhiều sách hay, nên tôi có đề thêm một tiêu chí nho nhỏ:
ưu tiên cho những cuốn sách lần đầu được dịch, hơn là những bản dịch mới và những cuốn
được tái bản. Chính vì thế, dẫu Xứ tuyết của Kawabata, lẫn Yêu dấu của Morrison đều nằm
ở hạng 5* sáng chói, đều đành nhường chỗ cho những gương mặt mới mẻ hơn. Một ngoại
lệ duy nhất: Dưới bóng những cô gái đương hoa, với bản dịch tài hoa của Dương Tường.
1. Dưới bóng những cô gái đương hoa - Marcel Proust - Dương Tường dịch
2. Đời du nữ - Ihara Saikaku - Đào Thị Hồ Phương dịch,
Nguyễn Đỗ An Nhiên hiệu đính
3. Sóng ngầm - Linda Lê - Bùi Thu Thủy & Hồ Thanh Vân dịch
4. Chỉ ngu ngơ mới biết cười - Edith Wharton - Lan Hương dịch
5. Mọi thứ được soi tỏ - Jonathan Safran Foer - Nghiêm Quỳnh Trang dịch
6. Đốn hạ - Thomas Bernhard - Hoàng Đăng Lãnh dịch
7. Mattia Pascal quá cố - Luigi Pirandello - Trần Dương Hiệp dịch
8. Mùa thu hoạch xương - Edwidge Danticat - Dương Mạnh Hùng dịch
9. Đừng nói chúng ta không lợi quyền - Madeleine Thien - Trang Nguyễn dịch
10. Phố Cannery Row - John Steinbeck - Phạm Văn dịch
Dấu Ấn,
Hay Ấn Mãi
Không Ra Dấu?
Zét Nguyễn
142 Z Z Z REVIEW
Giữa cơn triều cường văn học dịch cuồn cuộn đổ như xả đập ập vào
mặt năm qua, tôi vẫn miệt mài tìm đọc văn học quê nhà. Dỏng tai, căng
mắt, nghe đâu có nói cuốn nào Được, vội bỏ giỏ, chờ sale, mua ngay.
Cứ gọi là Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin
thắng [của đội tuyển Việt Nam] như trời hạn trông mưa. Quả không
phụ công chim lợn có lòng hóng, năm nay làng nhà ta cũng có chút rộn:
nào Nguyễn Ngọc Tư đoạt giải thưởng văn học LiBeraturpreis và ra tập
truyện mới, nào Tuổi 20 bao năm lưu lạc xứ người của Nguyễn Huy
Thiệp giờ áo gấm vinh quy, nào cuộc thi Văn học tuổi 20 lần thứ 6 khai
quật được một loạt tác giả trẻ viết lạ. Câu hỏi sau rốt khi khép lại cuối
năm, lại chỉ giản dị là: thế có cuốn nào hay, cho anh em ta liền tay hốt?
DẤU ẤN
144 Z Z Z REVIEW
nhưng ngay sau đó, khi đi vào phần các nhân chứng kể lại, thì tôi như đang đọc một cuốn
sách khác: khi không màu mè, chỉ cần lời kể chân thực, là đủ khiến người đọc biết, những
ký ức qua những lời kể ấy, có thể chạm đến gì, có thể mở ra những gì: “Chỉ nhớ lưng cõng
con, chân không, tôi giẫm lên nền chùa đầy máu. Những dòng máu còn nóng. Giống như
ai vừa kho cá, đổ nước kho cá dưới chân.” Điểm yếu của tác phẩm còn nằm ở chỗ: ôm đồm.
Tác giả gộp nhiều lời kể của những người liên quan tới các cuộc chiến khác nữa, và khi đặt
cùng lời kể của những nạn nhân ở Ba Chúc, thì bị lạc quẻ.
Trở lại với hư cấu (thuần túy hay không thì khôn có lẽ không nên hỏi), một dấu ấn
khác là cuốn tiểu thuyết, mang nhiều dáng dấp luận đề (hoặc rõ ràng là không, nếu chỉ coi
nó tập trung quá mạnh vào ý tưởng dẫn dắt): Tôi ngồi đây chờ cơn bão tới của Nguyễn Hải
Nhật Huy, mà ZZZ Review từng có bài điểm ở đây: https://zzzreview.com/2018/07/18/
nhay-hay-khong-nhay-do-la-van-de/, lẫn bài phỏng vấn với tác giả ở đây: https://zzzreview.
com/2018/07/18/viec-viet-ban-than-no-dung-la-mot-nghe-thuat/. Sau một năm đọc lại
(theme của tôi năm nay có lẽ là đọc lần hai), tôi vẫn giữ nguyên nhận định về tác phẩm
trình hiện xã hội bị truyền thông, chủ nghĩa tiêu dùng chi phối này là một dấu ấn đâu ra
đấy: ở khả năng xây dựng cốt truyện và đối thoại, ở sự nghiêm túc của tác giả khi chịu khó
tìm tòi và làm nghiên cứu chuẩn bị cho nội dung, ở ý tưởng và kỹ thuật độc đáo (những
chương viết về nhân vật Q bị chiếm lốt quả là khác biệt). Dĩ nhiên bên cạnh đó thì điểm
yếu vẫn lồ lộ: dài dòng ở quá nhiều đoạn, cái kết thì quá sắp đặt.
MỜ MỜ
Phải đến lần thứ 6 của cuộc thi Văn học tuổi 20, tôi mới bắt đầu đọc. Lý do có lẽ là vì tôi
kỳ thị cái tên chăng? Vì nghe đã thấy nó quảng cáo cho non xanh húng? Và năm nay tôi hài
lòng vì mình đã quyết định đọc, vì có những tác phẩm khiến tôi mở mắt, không phải vì hay,
mà chủ yếu vì lạ, không phải vì xuất sắc, mà vì giúp tôi nhận diện ra một xu hướng viết mới,
dẫu mờ mờ. Mà thu hoạch được thế, là oách rồi.
Đầu tiên phải kể tên, là tác phẩm Wittgenstein của Thiên Đường Đen, đạt giải Nhì, của
Maik Cây. Cuốn truyện dài này gom góp trong nó vài thứ to oạch: sci-fi thế giới tận thế
và hậu tận thế với một cú nổ bom hạt nhân biến thành phố Lê thành nơi chết chóc, nơi
chính phủ Liên Khu tìm cách lấp liếm di tản toàn bộ dân cư, những linh hồn lang bạt đầy
tổn thương trong quá khứ lá lành đùm lá rách ở thiên đường đen trong một không khí sực
đẫm cảm hứng tôn giáo và cái chết nơi con mèo không còn được gọi là mèo mà là Debussy,
nơi nhân vật thoải mái thả những cái tên riêng của ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, văn sĩ, từ không rổn
rảng đến rổn rảng (xin không liệt ra đây cho nó đỡ rổn rảng).
146 Z Z Z REVIEW
Một tác giả khác của cuộc thi Văn học tuổi 20 mà tôi thấy rất có triển vọng, là Hiền
Trang của Giấc mộng lang thang trên đồng cỏ úa, một cái tiêu đề sách nghe đã muốn oặt vì
chất tản văn. Nhưng bất ngờ thay, nó không phải tản văn (ơn giời), mà là những câu chuyện
có nhiều ý tưởng là lạ, rất Kafka, với bối cảnh như bị cắt rễ và cho thả lửng: nhân vật/người
kể chuyện là màu vàng của ngôi nhà của Van Gogh, một cô gái bị cắt cổ trong rạp phim mà
cuối truyện không hề đưa ra thủ phạm, một người băn khoăn cái gì khiến ta là người, thích
trườn, và tiến hành trườn, và thậm chí biến thành rắn, chuyến xe bus tới địa phủ cho những
người muốn chết… Các câu chuyện của Hiền Trang đều có chung chủ đề: người trẻ cô đơn
không kết nối không định vị trong đô thị ám ảnh bởi cái chết. Ý tưởng lạ là thế, nhưng các
truyện nói chung đều nhàn nhạt trong cách triển khai, chúng luôn thiếu bề dày về nội dung
cần đào sâu thêm nữa. Truyện hay nhất trong tập với tôi có lẽ là “Chuyến xe đi tới Địa phủ”,
và một phần trong “Giấc mộng đêm hè” thì cực kỳ xuất sắc ở đoạn nam nhân vật chính chỉ
phút trước phút sau bước lại vào nhà hát và phát hiện ra thấy nó hoang tàn của một trăm
năm sau. Hai chiều thời gian chập lại làm một, lâu lắm rồi tôi mới đọc được một đoạn bất
ngờ té ghế đến vậy.
Một cuốn sách nữa khiến tôi đọc lại trong năm nay là Những vọng âm nằm ngủ của
Huỳnh Trọng Khang: đọc lại không phải vì hay quá phải đọc lại lần nữa, mà vì lần đầu đọc
thấy dở quá, nhưng đến khi đọc một loạt văn học tuổi 20 và những cuốn khác còn dở kinh
hoàng hơn, buộc phải quay lại để có một chút tương quan.
2018, giống như 2017, tiếp tục chứng tỏ một điều rất lớn cho tôi: tác giả rất lớn vẫn có bom
xịt. Một điều hiển nhiên đến thế, vẫn làm tôi ngỡ ngàng: Nguyễn Huy Thiệp với Tuổi 20
yêu dấu và Nguyễn Ngọc Tư với Cố định một đám mây.
148 Z Z Z REVIEW
Tuổi 20 yêu dấu là cuốn sách tiếp theo tôi đọc lại lần hai trong năm nay, để khẳng định
là: đích thực kém. Nó là một cú tham của Nguyễn Huy Thiệp, mà tôi nghĩ bởi không ai
dám khuyên là thôi vứt đi đừng có in làm gì. Nó nhạt nhẽo đến mức tôi xin dâng lên một
bát nước chấm ốc để đổ vào uống cùng cho đỡ. Nó là biểu hiện của triệu chứng ông già
đánh son thâm vì nghĩ là mốt của đám trẻ.
Kể về một cậu bé no cơm ấm cật tên Khuê, con một nhà văn nổi tiếng học ở một
trường cấp ba nổi tiếng (có người rỉ tai tôi đây là loại văn chương ám chỉ, nhưng vì vốn
giang hồ mỏng tựa tờ pô luya tôi mù tịt không biết ai vào ai) bỏ nhà đi bụi, lang bạt kỳ hồ
khắp Hà Nội rồi lên tận Lạng Sơn, hẳn nhiên rơi vào hố ma túy không chỉ hút hít mà còn
đi buôn, kinh qua bao chuyện, xong được tác giả bốc ra đảo hoang để nhờ thiên nhiên mà
lành lặn, cải tạo nhân phẩm giữa những con người đơn sơ chân chất, rồi làm chuyện nghĩa
hiệp, mà sống cái đời lương thiện từ đây.
Văn chương gồng gánh đỏ cả mặt, kể chuyện thì vừa vô duyên vừa lê thê như trình bày
ở phường (lại thêm phần đề từ toàn trích những đao to búa lớn của những người khổng lồ
ở đầu mỗi chương tương phản với phần đi sau của chính tác giả thì lũn cà lũn cũn), cái thu
gặt nhất sau khi đọc Tuổi 20 yêu dấu có lẽ là từ “tuột xích”. Tuy vậy, tượng đài Nguyễn Huy
Thiệp sau cuốn này không sứt mẻ gì, vì tôi chọn để nhớ ông qua những kiệt tác truyện ngắn
khác. Nếu có thể coi, đây là một cú đi hoang giải trí.
Theo chân đại ca sa vào hố dở là tập Cố định một đám mây. Về những số phận cá nhân
nhỏ lẻ, những chuyện nho nhỏ đâu đâu, cả một tập truyện ngắn mới của Nguyễn Ngọc Tư
150 Z Z Z REVIEW
Giờ khắc
của vì sao ấy(1)
(trích dịch)
Clarice Lispector
Ngọc Dao dịch
1. Nguyên tác tiếng Bồ Đào Nha “A Hora da Estrela” (1977). Dịch từ bản tiếng Anh “The Hour of the Star” của
Benjamin Moser (New Directions 2011) và có tham khảo bản dịch của Giovanni Pontiero (Carcarnet Press Limited
1986).
TẤT CẢ LÀ DO TÔI
HAY
GIỜ KHẮC CỦA VÌ SAO ẤY
HAY
ĐỂ CÔ ẤY TỰ LO LẤY
HAY
QUYỀN ĐƯỢC THÉT LÊN
152 Z Z Z REVIEW
Cả thế giới này bắt đầu bằng một từ ừ. Một phân tử nói ừ với một phân tử khác và
cuộc sống ra đời. Nhưng trước thời tiền sử đã có tiền sử của tiền sử, đã có cái chưa bao giờ
và đã có cái ừ. Luôn là như vậy. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi biết chắc vũ trụ này chưa
bao giờ bắt đầu.
Đừng lầm lẫn, tôi phải nỗ lực khủng khiếp mới đơn giản được.
Chừng nào vẫn còn những câu hỏi không có câu trả lời, tôi còn tiếp tục viết. Làm sao
bắt đầu từ mở đầu, nếu sự việc xảy ra từ trước khi chúng xảy ra? Nếu như những con quái
vật tận thế tồn tại từ trước thời tiền-tiền sử? Nếu như câu chuyện này còn chưa tồn tại, nó
sẽ tồn tại. Suy nghĩ là một hành động. Cảm nhận là một thực tế. Gộp hai cái đó lại - tôi là
người viết cái tôi đang viết. Chúa trời là thế giới này. Sự thật luôn là một dạng sức mạnh nội
tại không lời giải thích. Phần chân thật nhất trong đời tôi là một cái khó bề nhận ra, cực kỳ
riêng tư và không từ nào có thể diễn tả. Trái tim tôi đã tự rũ bỏ mọi ham muốn và thu lại
thành nhịp đập cuối cùng, hoặc đầu tiên. Cơn đau răng kéo dài xuyên suốt truyện này làm
cho miệng tôi nhói lên đau điếng. Tôi rú lên một giai điệu chói tai, cao vút và đảo phách -
đó là nỗi đau của riêng tôi, tôi người mang theo thế giới này, nơi chẳng có mấy hạnh phúc.
Hạnh phúc? Tôi chưa bao giờ gặp phải từ nào ngớ ngẩn hơn thế, cái từ bịa ra của tất thảy
những cô gái Đông Bắc Brazil ở ngoài kia.
Tôi nên giải thích rõ rằng câu chuyện này là kết quả của một hình dung không lấy gì
làm chóng vánh - hai năm rưỡi qua tôi đã chậm rãi tìm ra những tại sao. Hình dung đó là
về sự xuất hiện nhãn tiền của. Của cái gì? Có lẽ tôi sẽ tìm ra sau. Cũng giống như tôi đang
viết ngay lúc tôi đang được đọc. Chỉ có điều tôi không bắt đầu với cái kết thúc sẽ biện giải
cho phần mở đầu - bởi cái chết dường như đưa ra lời bình luận về sự sống - vì tôi phải ghi
lại những sự kiện xảy ra trước đó.
Vào lúc này tôi đang viết với đôi chút khiêm nhường lúc trước bởi tôi đang nhảy vồ vào
các vị với một câu chuyện quá đỗi bề ngoài và hiển ngôn. Nhưng từ nó có thể dòng máu hôi
hổi sự sống sẽ chảy ra và lập tức đông đặc lại thành những cục thạch run rẩy. Liệu một ngày
nào đó câu chuyện này có trở thành sự đông đặc của chính tôi? Làm sao tôi biết được. Nếu
có chút sự thật gì trong nó - và tất nhiên câu chuyện này là thật dù được tôi tạo ra - hãy để
mỗi người nhận ra nó trong mình bởi tất cả chúng ta đều là một và ai không rỗng túi thì sẽ
rỗng tinh thần hay khao khát bởi người đó thiếu đi một thứ còn quý hơn vàng - có những
người bị thiếu cái phần cốt yếu mong manh ấy.
Làm sao tôi biết được tất cả những gì sắp đến, những điều bản thân tôi vẫn không
biết vì tôi chưa bao giờ sống qua? Bởi trên một con phố Rio de Janeiro, tôi nhận thấy
trong không trung cảm giác bị đoạ đày trên khuôn mặt một cô gái Đông Bắc. Phải kể
thêm là năm xưa tôi từng lớn lên ở khu Đông Bắc. Ngoài ra tôi biết điều này điều kia
cũng còn bởi tôi đang sống. Những ai đang sống đều biết cả, kể cả khi họ không biết là
154 Z Z Z REVIEW
khỏi bề mặt trái đất thì cũng chẳng ai biết. Chỉ một số kháng cự lại, và theo những gì tôi
được biết, họ chẳng bao giờ phàn nàn bởi không biết phải phàn nàn với ai. Cái người “ai”
ấy liệu có tồn tại không?
Tôi đang làm nóng cơ thể để bắt đầu, chà chà hai tay vào nhau để lên dây cót tinh thần.
Tôi mới nhớ ra có thời để làm nóng tinh thần tôi đã cầu nguyện: chuyển động là tinh thần.
Lời cầu nguyện là một cách để gặp mình trong lặng thinh, khuất khỏi mọi người. Khi cầu
nguyện linh hồn tôi trống rỗng - và cái trống rỗng ấy là tất cả những gì tôi có thể có. Ngoài
nó ra không còn gì khác. Nhưng sự trống rỗng có giá trị và vẻ ngoài của số nhiều. Một cách
để có được là không nhìn, một cách để sở hữu là không hỏi mà chỉ tin rằng sự im lặng tôi
tin đang ở trong mình chính là câu trả lời cho... cho bí ẩn của tôi.
Tôi định, như đã bóng gió nói lúc trước, viết mỗi lúc một đơn giản hơn. Tuy nhiên,
chất liệu tôi có lại quá sơ lược và nghèo nàn, chi tiết về nhân vật thì ít ỏi và không mấy gợi
tả; những chi tiết, tỉ mỉ, triệt để, dội từ tôi đến tôi, đây là thứ công việc thợ mộc.
Phải, nhưng đừng quên rằng muốn viết bất cứ thứ gì chất liệu cơ bản của tôi là từ ngữ.
Thế cho nên câu chuyện này sẽ được tạo ra từ những con chữ gom lại với nhau thành câu và
từ những câu thoát ra một ý nghĩa bí mật, vượt xa khỏi từ hay câu ấy. Lẽ dĩ nhiên, như tất cả
những người cầm bút tôi hay có khuynh hướng dùng một thứ ngôn ngữ căng mọng: tôi biết
những tính từ tuyệt cú, những danh từ nặng trịch, những động từ mảnh mai đến độ chúng
lao mình qua không trung biến thành hành động, bởi từ ngữ là hành động, các vị đồng tình
với tôi chứ? Tôi sẽ không tô điểm cho từ ngữ bởi nếu tôi chạm vào bánh mì của cô gái ấy nó
sẽ biến thành vàng - và cô gái (mười chín tuổi) cô gái ấy sẽ không nhai được bánh mì và chết
vì đói. Thành thử tôi phải nói năng đơn giản để khắc hoạ sự tồn tại nhạt nhoà và mong manh
của cô. Tôi, một cách khiêm nhường, giới hạn cho mình - nhưng cũng không gõ mõ khua
chiêng cái sự khiêm nhường này làm gì bởi như thế không còn là khiêm nhường nữa - tôi giới
hạn cho mình chỉ được kể lại các cuộc phiêu lưu tầm phào của một cô gái sống ở một thành
phố chống lại cô từ A đến Z. Cô, người đáng nhẽ nên tiếp tục ở lại cái xó Alagoas hẻo lánh,
mặc chiếc váy suông và không nên dây vào máy đánh chữ, bởi cô viết chẳng ra hồn và đến
trường đi học được nhõn ba năm. Bởi dốt quá nên cô phải gõ từng chữ từng chữ một. Bà dì
cô đã dạy cho cô một khoá đánh máy cấp tốc. Và cô gái đã có được chút phẩm cách: sau rốt
thì cô cũng đã là một nhân viên đánh máy. Dù hiển nhiên là cô chẳng tán đồng những khi
thấy hai phụ âm được ghép vào nhau và gõ lại từ những chữ viết tay tròn tròn, xinh xinh của
người sếp thân yêu cái từ “bổ nhiệm” như cách cô sẽ nói từ đó: “bổ nihiệm.”
Xin bỏ quá cho tôi, nhưng tôi sẽ tiếp tục nói về mình, dù tôi chẳng biết mình là ai, và
trong khi viết tôi có đôi chút ngạc nhiên bởi tôi phát hiện ra mình có một số phận. Ai mà
chẳng đã có lúc tự hỏi: phải chăng mình là một con quái vật, hay làm người chính là như
thế này đây?
156 Z Z Z REVIEW
là lúc tôi nghĩ đến việc viết về thực tế, bởi thực tế vượt quá tầm của tôi. Bất kể “thực tế” có
nghĩa là gì. Liệu cái tôi sắp kể có mùi mẫn quá không? Có thể đấy, nhưng thế thì ngay bây
giờ đây tôi sẽ vắt kiệt nước đi và rắn lại. Nhưng ít ra thì cái tôi đang viết không xin xỏ ân
huệ hay giúp đỡ: nó chịu đựng nỗi đau, thôi thì dùng tạm từ đó, với phẩm cách như một
nam tước.
Thôi không lan man nữa. Có vẻ như tôi đang đổi cách viết. Nhưng tình thực là tôi chỉ
viết cái tôi muốn, tôi không phải dân chuyên - và tôi phải viết về cái cô gái Đông Bắc này
nếu không tôi sẽ nghẹt thở. Cô ta đang buộc tội tôi và để bảo vệ mình tôi phải viết về cô.
Tôi viết bằng những nét vẽ bạo liệt của người hoạ sĩ. Tôi sẽ đối mặt với những sự thật như
thể chúng là những hòn đá không thể chữa trị nổi tôi nói đến lúc trước. Giá gì có thể nghe
thấy tiếng chuông ngân để cho tôi lên tinh thần mà dò đoán thực tế. Và mong sao thiên
thần vỗ cánh như những con ong bắp cày trong suốt quanh cái đầu bốc hoả của tôi bởi cái
đầu này muốn rốt cuộc hoá thân thành một vật thể, như thế dễ hơn.
Liệu có thể nào hành động thực sự vượt quá tầm từ ngữ?
Nhưng khi tôi viết - thì hãy gọi mọi thứ bằng đúng tên của chúng. Một vật là một từ
và khi không có từ nó sẽ được tạo ra. Này chính là Thượng đế của các vị lệnh cho chúng ta
phải tạo ra.
Tại sao tôi lại viết? Trước tiên bởi tôi nắm bắt được tinh thần của ngôn ngữ và cũng
vì vậy mà đôi khi chính hình thức lại tạo ra nội dung. Thành thử những dòng tôi viết đây
không phải là vì cô gái Đông Bắc mà là bởi cái nguyên nhân nghiêm trọng, “sự bất khả
kháng,” hay nói như từ họ dùng trong các văn bản chính quy, “sự áp chế của pháp luật.”
Phải, sức mạnh của tôi nằm nơi sự một mình. Tôi không sợ mưa trút xuống hay gió ào
ào thổi, vì tôi cũng là bóng tối của đêm đen. Dù cho tôi không chịu nổi tiếng huýt sáo hay
tiếng chân bước trong bóng tối. Bóng tối? Tôi chợt nhớ lại một cô bạn gái: cô trải đời và
trong cơ thể cô là cả một bóng tối. Tôi không bao giờ quên cô: ta không bao giờ quên người
mình ngủ cùng. Sự việc ấy xăm lên da thịt này một vết rực lửa và thoáng thấy cái vết ấy thôi
người khác sẽ hãi hùng bỏ chạy.
Giờ thì tôi muốn nói về cô gái Đông Bắc. Điều tôi định nói là: cô giống như một con
chó hoang không chịu theo ai ngoại trừ chính nó. Cả tôi cũng vậy, thất bại này rồi thất bại
khác đã trả tôi về cho tôi nhưng chí ít tôi cũng muốn tìm gặp thế giới và Thượng đế của nó.
Tôi muốn điểm thêm một chi tiết này về cô gái trẻ ấy và tôi, rằng chúng tôi sống hoàn
toàn trong hiện tại bởi lúc nào cũng vĩnh viễn là ngày hôm nay và ngày mai sẽ lại là một ngày
hôm nay, vĩnh viễn là trạng thái của mọi thứ vào chính lúc này.
Cơn sợ vừa mới trồi lên khi tôi bắt đầu viết về cô gái Đông Bắc. Và câu hỏi đặt ra là:
tôi viết bằng cách nào? Tôi có thể xác nhận tôi viết bằng tai giống như tôi học tiếng Anh
với tiếng Pháp bằng tai. Kinh nghiệm viết lách của tôi? Tôi có nhiều tiền hơn những người
158 Z Z Z REVIEW
Chắc các vị chẳng hiểu gì đâu và tôi, hơi chút tuyệt vọng, nghe thấy các vị cười nhạo bằng
cái tiếng cười gắt, khàn của người già. Và tôi nghe thấy những tiếng chân bước đều đặn
ngoài phố. Tôi run lên vì sợ. May một nỗi là cái tôi sắp viết ra, bằng cách nào đó, đã được
viết sẵn trong tôi. Tôi chỉ việc chép lại từ mình ra, mỏng manh như một cánh bướm trắng.
Ý tưởng cánh bướm trắng này xuất hiện bởi, nếu cô gái kết hôn, cô ấy sẽ kết hôn gầy, nhẹ và,
như một cô trinh nữ, váy trắng phủ đến gót chân. Hoặc cũng có thể cô sẽ không kết hôn?
Sự thật là tôi đang nắm một số phận trong tay nhưng lại không đủ sức mạnh để tự do tạo
dựng: tôi đi theo một con đường không nhìn thấy nhưng tang tóc. Tôi phải tìm kiếm một
sự thật vượt quá khả năng của mình. Tại sao tôi lại đi viết về một cô gái trẻ mang theo cái
nghèo nàn thậm chí chẳng được tô điểm lại? Có lẽ vì cô có chốn nương náu trong mình và
cũng còn bởi trong cái nghèo nàn cơ thể và tinh thần có thể đạt đến sự thánh thiện, và tôi
muốn cảm nhận được hơi thở của cái vượt quá bản thân mình. Để lớn hơn chính mình,
bởi tôi quá bé nhỏ.
Tôi viết vì tôi không có gì khác để làm trên đời này: tôi bị thừa ra trên mảnh đất con
người. Tôi viết bởi tôi cùng quẫn và tôi mệt, tôi không thể chịu nổi sự nhàm chán phải làm
mình và nếu không phải nhờ có viết, cái luôn luôn mới mẻ ấy, tôi sẽ chết mỗi ngày, ấy là
nói biểu tượng thế. Nhưng tôi đã sẵn sàng lẻn đi qua cửa sau. Tôi đã trải nghiệm hồ như
tất thảy, kể cả đam mê và sự khốn cùng của đam mê. Giờ tôi chỉ muốn có cái tôi đã có thể
là mà chưa bao giờ là.
Dường như tôi biết cả những chi tiết nhỏ nhặn nhất về cô gái Đông Bắc, sau rốt thì
tôi sống với cô và bởi tôi đã dò đoán đủ thứ về cô, cô dính chắc trên da tôi như một thứ mật
đường dính dớp hay bùn bẩn. Khi còn bé tôi có đọc truyện về một ông lão sợ không dám
qua sông. Đúng lúc đó một cậu thanh niên xuất hiện, cả cậu cũng đang muốn qua sông.
Ông lão bèn tóm lấy cơ hội ấy mà nói:
- Cậu đem cả tôi sang nhé? Cõng tôi trên vai?
Chàng thanh niên đồng ý và khi đã qua sông, nói với ông lão:
- Đến nơi rồi này, ông xuống đi.
Nhưng ông lão láu cá và khôn ngoan đáp lại:
- Quên đi nhá! Ở trên này thích lắm tôi sẽ không bao giờ bỏ cậu mà đi!
Thì đó, cô đánh máy không muốn rời khỏi vai tôi. Là tôi, chứ không phải ai khác,
người nhận ra sự xấu xí và lăng loàn của cái nghèo nàn. Đó là lý do tôi không biết liệu câu
chuyện của mình có thành ra... thành ra cái gì? Tôi không biết gì hết. Tôi vẫn chưa lên dây
cót tinh thần được để viết. Liệu có chuyện gì diễn ra không? Có chứ. Nhưng là chuyện gì?
Cái đó tôi cũng không biết. Tôi không có ý định khơi lên trong các vị những mong đợi hăm
hở, khốn khổ: tôi thực sự không biết cái gì đang đợi trước mắt, trong tay tôi là một nhân
vật nhấp nha nhấp nhổm cứ gặp ngã rẽ nào là lại trốn biệt khỏi tôi, mong tôi tìm cô đem về.
Vì số lượng chữ quá sức chịu đựng của mắt nên bài
viết đã bị trục xuất khỏi file pdf.
Nếu các bạn quan tâm có thể xem trên WEBSITE.
160 Z Z Z REVIEW
Mời nước mía
Nguyên uỷ nhà Z tính bán tạp chí online với con số rất đáng hãi là 1000 VND/số,
kèm thêm thu giá khi đi qua các trạm BOT vị chi là quãng 12k. Nhưng các bank
Việt Nam đều chối đây đẩy vì sợ rằng giá ấy với mức độ phủ sóng của nhà Z trên
khắp hoàn cầu sẽ làm sập kho dự trữ trong quốc khố chứ đừng nói gì đến họ.
Vì thế nên, trong lúc chờ chúng tôi nghiên cứu làm giàu bằng blockchain 4.0,
bằng hữu ở xa nếu có lòng xin hãy gửi gắm cho chú Ruồi Mía tại nhà Paypal của
chú: https://www.paypal.me/zzzreview/. Bằng hữu ở gần xin ghé thăm nhà Việt
của chú ở đây: https://zzzreview.com/taikhoan/