You are on page 1of 76

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ HẢO


MSSV:6116178

ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT


TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG
CỦA DAZAI OSAMU

Luận văn tốt nghiệp


Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hƣớng dẫn: Ths.GV. TRẦN VŨ THỊ GIANG LAM

Cần Thơ, 2014

1
ĐỀ CƢƠNG TỔNG QUÁT

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG.


CHƢƠNG 1. MỐT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1. Một số vấn đề chung về tiểu thuyết
1.1.1. Đặc điểm nội dung
1.1.2. Đặc điểm nghệ thuật
1.2. Vài nét về lịch sử xã hội và văn học Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai
1.2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội
1.2.2. Tình hình văn học
1.3. Nhà văn Dazai Osamu và tiểu thuyết Tà dƣơng
1.3.1. Dazai Osamu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.3.2. Tiểu thuyết Tà dương

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG


2.1.Vẻ đẹp truyền thống và vẻ đẹp của tầng lớp quý tộc Nhật Bản
2.2. Bi kịch nhân sinh của xã hội hậu chiến
2.3. Khát vọng vƣợt thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn để tồn tại.
2.4. Tình yêu trong tiểu thuyết Tà dƣơng
2.5. Tình cảm gia đình trong tiểu thuyết Tà dƣơng

2
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG
3.1. Kết cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3.2.1. Xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình và hành động
3.2.2. Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật
3.3. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3.4. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
3.4.1. Không gian thời gian thực
3.4.2. Không gian thời gian của chiều sâu tâm lí

PHẦN KẾT LUẬN.


TÀI LIỆU THAM KHẢO.

3
PHẦN MỞ ĐẦU

4
1. Lí do chọn đề tài.

Nhật Bản là một cường quốc kinh tế thế giới, có một lịch sử lâu đời, một nền
văn hóa phong phú và một nền văn học độc đáo. Nhật Bản không chỉ là đất nước xinh
đẹp của Kimono, hoa anh đào của ngọn núi lừng danh Phú Sĩ với vẻ đẹp lộng lẫy và
huyền ảo nơi hun đúc nên bao tâm hồn văn nhân Nhật Bản mà Nhật Bản có lẽ còn ấn
tượng hơn bởi một hiện tượng thần kì, từ một đất nước đổ nát sau chiến tranh, đã vươn
lên thành một siêu cường quốc trên thế giới, sự phát triển đó khiến nhân loại ngưỡng
vọng và khâm phục về ý chí nghị lực của dân tộc này, một dân tộc dám sống cho niềm
tin và sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng của mình.

Văn học Nhật trải dài theo tiến trình phát triển hàng nghìn năm của đất nước,
đây là nền văn học có thể sánh ngang với các nền văn học lớn trên thế giới không chỉ
vì bề dày lịch sử mà còn về tính chất phong phú và độc đáo, khối lượng thông tin đồ sộ
và hấp dẫn. Văn học hiện đại Nhật Bản cũng hòa mình vào việc khẳng định vị thế
vững vàng của văn học dân tộc trên văn đàn thế giới, những tài năng văn chương như:
Akutagawa Ryunosuke, Kawabata Yasunari, Kenzaburo Oe, Mori Ogai… từ lâu đã trở
nên quen thuộc với bạn đọc năm châu, và sẽ là thiếu sót khi tìm hiểu về văn học Nhật
Bản, đặc biệt là văn học hiện đại mà lại không nhắc đến tác giả Dazai Osamu.

Dazai Osamu là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Nhật Bản thời kì vừa chấm dứt
Đại chiến thế giới thứ hai, trên nền cảnh của một xã hội Nhật điêu tàn và sự vỡ mộng
cay đắng của niềm tự tôn dân tộc chủ nghĩa mang tên Nippon. Văn nghiệp của Dazai
không đồ sộ như nhiều nhà văn Nhật Bản khác nhưng ông lại có những tác phẩm để
đời, Tà dƣơng là một tác phẩm như thế.

Tà dƣơng, một trong những cuốn “tiểu thuyết Nhật Bản bán chạy nhất thời
hậu chiến”[6; tr.7] đã đưa Dazai lên hàng tác gia nổi tiếng nhất thời bấy giờ, góp phần
khai sinh một từ ngữ mới cho tiếng Nhật vẫn còn được sử dụng cho đến ngày hôm
nay: Tà dƣơng tộc. Tác phẩm nói đến tâm thức tan hoang của toàn Nhật Bản thời hậu
chiến thông qua sự sa sút của một gia đình quý tộc phải sống cuộc đời thường dân,
Tà dƣơng thực sự đã vươn tới những vấn đề mang tính nhân loại sâu sắc, đặc biệt là
cuộc vật lộn của con người trong hành trình cuộc đời để tìm thấy bản ngã đích thực
5
của mình, những khát khao cháy bỏng, những giá trị truyền thống tốt đẹp và cả những
ý nghĩa đích thực của cuộc sống, nhà văn Dazai đã chạm vào nơi sâu thẳm nhất trong
tâm hồn con người, khiến mỗi lần đọc xong tác phẩm của ông, người đọc không khỏi
giật mình ngỡ ngàng vì bắt gặp chính bản thân trong đó.

Tà dƣơng là một tiểu thuyết đặc sắc, có nhiều vấn đề để nghiên cứu. Vì thế,
người viết đã chọn thực hiện đề tài Đặc điểm nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết Tà
dương của Dazai Osamu với mong muốn đóng góp một phần vào việc tìm hiểu và
phát hiện thêm những điều kỳ diệu, độc đáo trong văn chương Dazai Osamu, đồng thời
góp phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu văn học nước ngoài trong bối cảnh mở cửa thân
thiện, học hỏi và giao lưu văn hóa hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Dazai Osamu là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Nhật Bản sau
Thế chiến, tiếc là cho đến nay việc dịch thuật các tác phẩm, việc nghiên cứu về nghệ
thuật tiểu thuyết cũng như những đóng góp của ông đối với văn học chưa được chú
trọng ở Việt Nam. Tà dƣơng là một trong những cuốn tiểu thuyết tạo nên tên tuổi của
nhà văn, nhưng chưa có một công trình lớn nào nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu về
tác phẩm này, chủ yếu chỉ dừng lại ở việc lặp lại thông tin tiểu sử, đưa ra tóm tắt, nhận
xét sơ lược hoặc chỉ ra đặc sắc của tác phẩm ở khía cạnh nhỏ mà chưa có tính chất bao
quát.

Một số bài nghiên cứu về cuộc đời tác giả, đặc điểm cơ bản về nội dung và
nghệ của tiểu thuyết như: Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản (Nguyễn Nam Trân),
Dazai Osamu tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản (Phạm Vũ Thịnh), Tà dƣơng, sống
hay không sống (Hoài Nam), Hơn cả cái chết (Đặng Khánh Ly) và bài viết Cảm
nhận về Tà dƣơng của nhà phê bình hiện đại Nhật Bản Kakuta Mitsuyo đã được dịch
giả Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, in thay cho lời kết của tiểu thuyết Tà
Dƣơng …

Công trình Tổng quan Lịch sử văn học Nhật Bản, tác giả Nguyễn Nam Trân
trong phần viết về Buraiha và tiểu thuyết thông tục mới của chương Đoạn đường vượt
thoát hậu chiến, trên cơ sở nêu ra những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và những
sáng tác tiêu biểu của nhà văn, Nguyễn Nam Trân đã chỉ ra những điều kiện ảnh
6
hưởng đến con người, phong cách văn chương và mối quan hệ của nhà văn với các tác
giả đương thời. Tác giả của công trình này cũng phác hoạ những nét cơ bản nội dung
mà Tà dƣơng chứa đựng và cho rằng đây là tiểu thuyết mà “Tác giả Dazai Osamu đã
gửi gắm tâm sự của mình…trình bày tình cảm tuyệt vọng trước xã hội mới cũng như
đưa ra tín điều luân lý của ông”[13]

Tác giả Phạm Vũ Thịnh trong bài viết Dazai Osamu – Tiểu thuyết gia hiện đại
Nhật Bản không chỉ nêu những nét tiêu biểu trong cuộc đời nhà văn mà còn cho thấy
sợi dây liên hệ giữa con người tiểu thuyết gia này với các nhân vật trong tác phẩm của
ông “tác phẩm của Dazai Osamu hàm chứa một nỗi bi quan sâu đậm, điều không có gì
lạ ở một người đã nhiều lần muốn tự tử chấm dứt đời mình. Các nhân vật tiểu thuyết
của ông cũng quan niệm chuyện tự tử như phương cách duy nhất có thể thay thế cho
đời sống địa ngục của họ”[10] sau đó tác giả này đã chứng minh cho luận điểm của
mình bằng cách chỉ ra tâm lí khinh bạc với cuộc sống của Yoko và Naoji những nhân
vật chính trong hai tiểu thuyết tiêu biểu của Dazai Osamu là Thất lạc cõi ngƣời và Tà
dƣơng.

Tà dƣơng sống hay không sống của tác giả Hoài Nam đề cập tới tác phẩm
bằng cách nêu đặc điểm của các nhân vật trung tâm “ba số phận cuộc đời nhuốm màu
của tà dương theo những cách khác nhau, nhưng đều để lại dư vị đắng chát trong
người đọc khi cuốn sách đã gấp lại”[9]. Trong đó, nhân vật Kazuko đại diện cho khả
năng sống, tưởng như mong manh, dễ vỡ nhưng đằng sau và bên trong đó là cả một
khối sống mạnh mẽ, cậu em trai Naoji đại diện cho khả năng không sống là mẫu hình
nhân vật văn học “Người xa lạ” kiểu Nhật Bản hoang mang mất định hướng. Tà
dƣơng phản ánh tâm trạng vỡ mộng và bế tắc đến cùng cực của một bộ phận nào đó
người Nhật thời hậu chiến, nhưng sống hay không sống trong Tà dƣơng còn là sự nhận
thức về một nỗi đau trong đời sống tinh thần của thời hiện đại đó là cái tầm thường
đang dần bức tử cái cao nhã. Đây có thể coi là bài viết có cái nhìn sâu sắc đối với tác
phẩm Tà dƣơng và nhà văn Dazai Osamu.

Đặng Khánh Ly trong bài viết Hơn cả cái chết đã thể hiện sự ngưỡng mộ tác
giả tiểu thuyết trong việc nắm bắt tâm lí nhân vật, đặc biệt là tâm lí phụ nữ, Đặng
Khánh Ly đã nêu ra những chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm để chứng minh cho nhận
định của mình, như lời lẽ trong thư gửi Uehara, sự chuyển biến tâm lí của nhân vật
7
Kazuko, nét tinh tế của người mẹ qua cử chỉ hành động, sự mẫn cảm của cậu em trai
Naoji với ý thức về sự lạc loài của bản thân trước thế gian. Ngoài ra, tác giả còn phát
hiện ra nét bút tài hoa của Dazai Osamu trong việc xây dựng các hình ảnh trong
truyện, hình ảnh con rắn và Kazuko, hình ảnh hoa quỳnh và Naoji, hình ảnh người mẹ
và một quá khứ đẹp đẽ vĩnh viễn mất đi... Dưới dạng một bài viết cảm nhận chủ quan
nhưng Đặng Khánh Ly đã mang lại những cảm xúc mới mẻ, tạo ra một cái nhìn khá
đầy đủ về tác phẩm.

Bài viết Cảm nhận về Tà dƣơng của nhà phê bình hiện đại Nhật Bản Kakuta
Mitsuyo là bài viết khá đặc biệt, nói về quá trình mà nhà phê bình này hiểu Tà dƣơng.
Mười tuổi, mặc dù yêu thích nhưng Kakuta chỉ có thể kết luận mình không hiểu lắm
khi đọc tác phẩm lần đầu tiên, ngoài 20 tuổi là cảm giác phiền phức, ngại ngùng và
phải cho mãi đến 30 tuổi tác giả mới thẩm thấu được tiểu thuyết Tà dƣơng, mới hiểu
được những điều mà nhà văn Dazai Osamu gửi gắm. Ngoài ra, Kakuta Mitsuyo còn
thể hiện sự ngưỡng mộ của mình khi nhận ra sự tươi mới hiện đại của ngôn từ được
tiểu thuyết gia sử dụng trong tác phẩm “ngôn ngữ thật mới mẻ tân kì đến mức dường
như đã vượt qua khoảng cách giữa thời đại được viết và thời đại được đọc”[6; tr.187]
bài viết này cũng như là một minh chứng cho nhận định của Hoàng Long khi dịch giả
này cho rằng “tác phẩm của Dazai được nhiều người nữ yêu thích đến tận hôm nay vì
ông rất hiểu tâm lí phụ nữ và đưa vào trong tác phẩm của mình một cách chân
thành”[6; tr.10]

Các nhận định cũng như bài viết của những người nghiên cứu đi trước dù ít ỏi
nhưng là những công trình quý báu cho việc giới thiệu nhà văn Dazai Osamu đến với
độc giả Việt Nam góp phần khẳng định vị trí, làm sáng tỏ tài năng, sự sáng tạo và
những đóng góp của Dazai với nền văn học Nhật Bản, và cũng là nền tảng cho người
viết trong việc tìm hiểu, thực hiện đề tài của mình.

3. Mục đích nghiên cứu.


Qua quá trình tiếp cận với tác phẩm người viết mong muốn đạt được những
mục đích sau: Trước hết, làm sáng tỏ cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật của
tiểu thuyết Tà dƣơng, để góp phần lý giải nguyên nhân khiến nó trở thành tác phẩm
quan trọng gây tiếng vang và mang Dazai Osamu đến gần hơn với người đọc. Bên
8
cạnh đó, thực hiện đề tài này là cơ hội để tích lũy thêm những kiến thức mới về văn
học, đất nước và con người Nhật nói chung, cũng như về nhà văn Dazai Osamu một
tiểu thuyết gia, tiếng nói văn học Nhật Bản tiêu biểu của thời kỳ vừa chấm dứt Thế
chiến thứ hai - một con người sống và viết cùng một nghĩa như nhau, thành thực mà bi
đát.

4. Phạm vi nghiên cứu.

Để thực hiện đề tài này, người viết đã khảo sát văn bản trên cuốn Tà dƣơng
Dazai Osamu do Hoàng Long dịch của NXB Hội Nhà văn phối hợp Phương Nam
Book giới thiệu năm 2012, từ đó rút ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của
tiểu thuyết. Ngoài ra người viết cũng tham khảo các tác phẩm cùng tác giả và một số
tài liệu có liên quan để phân tích, liên hệ so sánh nhằm giúp đề tài được sáng tỏ và
hoàn thiện hơn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Sử dụng đúng và có hiệu quả các phương pháp luận nghiên cứu khoa học sẽ
tạo cho người viết những bước đi đúng hướng. Những phương pháp được vận dụng
trong quá trình nghiên cứu bao gồm:

Phương pháp lịch sử_xã hội: Nội dung và nghệ thuật ít nhiều chịu sự chi phối
của nền văn học và hoàn cảnh thời đại mà người cầm bút đang sống, vì vậy nghiên cứu
tiến trình lịch sử và hoàn cảnh xã hội giúp người nghiên cứu có cái nhìn đúng đắn hơn
về đối tượng đang khảo sát.

Phương pháp phân tích - tổng hợp: là một trong những phương pháp được vận
dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu đề tài. Dựa vào một số nhận xét, đánh giá
của các nhà phê bình, nghiên cứu và sự phân tích dựa trên văn bản tác phẩm mà người
viết đưa ra những nhận xét, đánh giá của mình để bài viết mang tính khoa học và
thuyết phục hơn.

Phương pháp tiểu sử: Tìm hiểu mối quan hệ giữa cuộc đời đối với sự nghiệp
sáng tác của nhà văn, tìm ra sự ảnh hưởng để lý giải vấn đề trọng tâm.

9
Phương pháp so sánh - đối chiếu: là một phương pháp không thể thiếu. Bằng
phương pháp so sánh đối chiếu các tác phẩm giúp ta có thể đi sâu hơn từng khía cạnh
và làm sáng tỏ vấn đề.

10
PHẦN NỘI DUNG

11
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1. Một số vấn đề chung về tiểu thuyết.
So với các thể loại khác, tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn, nó là một thể loại văn
chương đang biến chuyển và còn chưa định hình, nghiên cứu về tiểu thuyết cũng như
xác lập hệ thống quan niệm về thể loại văn học này trong lý luận văn học là một vấn
đề có tính thời sự cao, đòi hỏi bề dày tâm huyết của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu,
phê bình, dịch thuật…
Định nghĩa về tiểu thuyết, công trình 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên
Ân khẳng định, tiểu thuyết là “tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số
phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây
được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ
cấu của nhân cách” [2; tr.325]

Trong công trình Lí luận văn học tác giả Phương Lựu (chủ biên), tiểu thuyết
được coi “là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại.
Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng
lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể
các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [5; tr.387].

Ngoài ra còn có rất nhiều nhận định khác về thể loại tiểu thuyết, nhưng dù cho
sơ khai hay hiện đại thì chúng cũng giao nhau ở một số điểm nhất định, có thể hiểu
tiểu thuyết là một thể loại của văn học dưới hình thức tự sự, có dung lượng lớn, có khả
năng tái hiện hiện thực cuộc sống cũng như miêu tả số phận con người trong các mối
quan hệ xã hội một cách sâu rộng.

1.1.1. Đặc điểm nội dung


Trên cơ sở so sánh với một số thể loại văn học khác, Phương Lựu và các tác
giả trong công trình Lí luận văn học đã đưa ra sáu đặc điểm cơ bản về nội dung của
tiểu thuyết như sau:

Đặc điểm đầu tiên làm tiểu thuyết khác với sử thi (anh hùng ca) và ngụ ngôn,
tiểu thuyết nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư, yếu tố đời tư được xem là chất tiểu thuyết,
là đặc trưng nổi bật của thể loại. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống hiện tại không ngừng
biến đổi, phản ánh sâu rộng số phận con người trong các mối quan hệ xã hội. Ý thức
12
về số phận con người là nhân tố quyết định sự hình thành thể loại và là hạt nhân của
nghệ thuật sáng tạo tiểu thuyết. Tuỳ theo thời kì phát triển cái nhìn đời tư có thể kết
hợp với vấn đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc.

Nét tiêu biểu thứ hai của tiểu thuyết là chất văn xuôi, miêu tả cuộc sống như
một thực tại cùng thời đang sinh thành, tức là một sự tái hiện không thi vị hoá, lãng
mạn hoá, lí tưởng hoá. Tiểu thuyết có sự pha trộn, chuyển hoá lẫn nhau của nhiều màu
sắc thẩm mĩ, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn của
cuộc đời, bao gồm cả cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và
hài, cái lớn và cái nhỏ... Chính chất văn xuôi đã mở ra một vùng tiếp xúc tối đa với
thời hiện tại đang sinh thành làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn trong nội dung
phản ánh, phơi bày sự phức tạp muôn màu của cuộc sống, mọi vấn đề hiện lên với đầy
đủ những góc cạnh từ sự hài hoà đẹp đẽ đến cái gai góc xù xì. Tiểu thuyết tái hiện hiện
thức cuộc sống một cách chân thực và đa diện nhất.

Thứ ba, nhân vật tiểu thuyết là con người nếm trải, nhân vật xuất hiện như là
con người nếm trải tư duy, chịu khổ đau, dằn vặt ở đời. Tiểu thuyết miêu tả con người
trong hoàn cảnh, không tách nó khỏi hoàn cảnh, không cô lập nó cũng như không
cường điệu sức mạnh của nó. Nếu nhân vật kịch là con người hành động, nhân vật trữ
tình của thơ ca thiên về cảm xúc, nhân vật truyện ngắn xuất hiện như một lát cắt của
một cuộc đời thì nhân vật tiểu thuyết hiện lên đầy đủ và toàn diện trong một quãng đời
dài với sự miêu tả tỉ mỉ, trong quãng đời ấy, số phận con người được khai thác đầy đủ
chi tiết trong các mối quan hệ phức tạp của xã hội. Miêu tả thế giới bên trong, phân
tích tâm lí nhân vật là một phương diện không thể bỏ qua của bất kì loại hình văn học
nào nhưng đây là lợi thế tối ưu đặc trưng của tiểu thuyết, tiểu thuyết có thể phân tích
tâm lí bên trong của nhân vật một cách cặn kẽ và sâu sắc nhất.

Thứ tư, tiểu thuyết chứa đựng các yếu tố nằm ngoài cốt truyện, được gọi là yếu
tố thừa. Đó là các suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, sự phân tích cặn kẽ
các diễn biến tình cảm, sự trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về
quan hệ giữa người và người, về đồ vật, môi trường... về toàn bộ tồn tại của con người,
đây là cái chính yếu trong thành phần của thể loại tiểu thuyết. Yếu tố thừa phơi bày ra
toàn bộ sự đầy đặn của tồn tại như một trạng thái và quá trình, tạo nên giọng điệu cho
tiểu thuyết đồng thời thể hiện tư tưởng của tác giả và nó được xem như phần trữ tình
13
ngoại đề trong tác phẩm. Yếu tố thừa tạo nên chất tiểu thuyết và là thành phần không
thể thiếu của thể loại văn học này.

Thứ năm, tiểu thuyết hướng về miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời
của người trần thuật, xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần
thuật, tiểu thuyết cho phép người trần thuật tiếp xúc, nhìn nhận các nhân vật một cách
gần gũi, có thể hiểu họ bằng kinh nghiệm của mình. Chính khoảng cách gần gũi này
làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ, nó cho phép người người trần thuật
có sự gần gũi với nhân vật của mình từ đó nhìn hiện tượng từ nhiều chiều. Tiểu thuyết
hấp thu mọi loại lời nói khác nhau của đời sống san bằng ngăn cách lời trong văn học
và ngoài văn học, tạo nên sự đối thoại giữa các giọng khác nhau.

Cuối cùng, với các đặc điểm nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng
tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các loại văn học khác, khả năng tổng
hợp làm cho bản thân thể loại tiểu thuyết vận động không ngừng, tiểu thuyết là “thể
loại duy nhất đang hình thành và chưa xong xuôi” (Bakhtin). Yếu tố dung lượng là thế
mạnh của tiểu thuyết trong việc chứa đựng về nội dung cũng như khả năng tổng hợp
nghệ thuật. Tiểu thuyết có khả năng tổng hợp tính hiện thực của kí, chất trữ tình của
thơ, tính lịch sử, chính trị của sử thi,… để tạo nên một chỉnh thể toàn diện ngoài ra tiểu
thuyết không chỉ tổng hợp thi pháp của các loại hình văn học khác mà còn tiếp thu
những thủ pháp của các loại hình ngoại biên khác như hội hoạ, âm nhạc hay điêu
khắc… khả năng này giúp người viết thể hiện kiến thức của mình và người đọc tiếp
nhận nhiều miền kiến thức khác nhau.

Tóm lại, tiểu thuyết là thể loại tự sự dân chủ, năng động và giàu khả năng phản
ánh đời sống nhiều mặt bậc nhất trong các thể loại văn học.

1.1.2. Đặc điểm nghệ thuật


Tiểu thuyết là một thể loại không ngừng vận động nên các yếu tố đặc trưng cơ
bản như nhân vật, cốt truyện, hoàn cảnh, chi tiết, kết cấu,… đều phát triển phong phú
và không ngừng biến đổi. Tiểu thuyết là thể loại văn học chủ yếu của phương thức tự
sự, phương thức phản ánh hiện thực tường tận, tỉ mỉ như chính cuộc sống thực dạng tự
xuất hiện và diễn biến trước mặt người đọc.

14
Theo quan niệm cổ điển truyền thống, nhân vật tiểu thuyết là nhân vật của hư
cấu và tưởng tượng, là nhân vật có tính chất điển hình được xây dựng theo quan niệm
nghệ thuật của nhà văn, nhân vật tiểu thuyết được miêu tả nhiều mặt, chi tiết như con
người sống từ tính cách đến số phận, từ hành động đến tâm lí, ngôn ngữ... các thuộc
tính của nhân vật được miêu tả trong quá trình, trong tổng hòa các bình diện. Do
không hạn chế về không gian và thời gian, tiểu thuyết cho phép người viết thể hiện
trong tác phẩm của mình một dung lượng cuộc sống hết sức rộng lớn, đặc điểm này
giúp nhà văn có thể khắc hoạ nhân vật, những kiểu mẫu, những điển hình sâu sắc cả về
nội tâm cũng như ngoại hình, về cuộc sống lí tưởng cũng như cuộc sống hiện thực của
nhân vật. Tiểu thuyết không chỉ viết về một người mà còn viết về cả gia tộc, cả thế hệ,
thậm chí nhiều thế hệ, số lượng nhân vật là không giới hạn. Cách tiếp cận nhân vật
cũng hết sức đa dạng, qua hành động, tâm lí hay cũng có thể miêu tả thuần túy qua hồi
ức hay dòng ý thức của nhân vật.

Cốt truyện của tiểu thuyết tương đối phức tạp, có thể đơn tuyến hay đa tuyến,
đan bện nhiều quãng thời gian, có thể giàu kịch tính nhưng cũng có thể pha loãng để
thể hiện tính chất triết lí hoặc chất trữ tình. Cách trần thuật của tiểu thuyết cũng đa
dạng, sử dụng nhiều loại điểm nhìn để khắc họa nhân vật từ nhiều góc độ. Theo Phan
Cự Đệ, cốt truyện có ba nhiệm vụ cơ bản: “Thứ nhất, cốt truyện bộc lộ tính cách nhân
vật. Thứ hai, cốt truyện phản ánh những mâu thuẫn và xung đột điển hình của hoàn
cảnh xã hội. Thứ ba, cốt truyện bộc lộ tư tưởng chủ đề và nội dung nghệ thuật”[14]
Cốt truyện luôn là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, thông qua cốt truyện, nhà văn
vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn, tình cảm và sự đánh giá
chủ quan của họ đối với cuộc sống

Hoàn cảnh trong tiểu thuyết được khắc họa, phân tích rất chi tiết. Đó có thể là
hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh tự nhiên, môi trường phong tục, văn hóa thậm chí là hoàn
cảnh tưởng tượng. Hoàn cảnh trong tiểu thuyết cung cấp không gian cho nhân vật hoạt
đông, thúc đẩy nhân vật hoạt động làm phương diện bộc lộ tính cách, phân tích tâm lí,
tạo không khí chung của tác phẩm.

Về kết cấu, tiểu thuyết tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung tác
phẩm (tính cách và hoàn cảnh, hành động và biến cố trong cốt truyện) và các yếu tố
khác thuộc hình thức (bố cục, hệ thống ngôn ngữ, nhịp điệu v.v...). Kết cấu phải xử lý
15
mối liên hệ giữa tuyến sự kiện và tuyến nhân vật, đảm bảo sự thống nhất, nhà văn phải
quan tâm đến tất cả các bộ phận và mối liên hệ giữa chúng trong một chỉnh thể nghệ
thuật. Nguyên tắc của kết cấu là làm sao cho tư tưởng chủ đề thấm sâu vào từng bộ
phận của tác phẩm. Kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức mạnh nghệ
thuật của tác phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc.

Bên cạnh đó, ngôn từ trong tiểu thuyết cũng là một hiện tượng rất phong phú,
là đối tượng miêu tả của nhà văn, nhà văn miêu tả ngôn từ nhân vật như những sản
phẩm cá thể hóa cao độ, phù hợp với đặc điểm cá nhân của từng nhân vật, ứng với nhu
cầu miêu tả cá tính của nhân vật.

Các đặc điểm trên làm cho tiểu thuyết đạt được trình độ phát triển cao so với
các thể loại văn học tự sự khác. Nhìn lại lịch sử hình thành có thể thấy ở một số nền
văn học, có những giai đoạn, tiểu thuyết không được coi trọng, bị coi là thứ văn xuôi
thứ cấp, phụ phẩm thì theo sàng lọc thời gian cùng với những ưu điểm vượt trội tiểu
thuyết đã dần khẳng định vị trí của mình so với các loại hình văn học khác và trở thành
hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ, chẳng những đáp ứng nhu cầu đọc của công
chúng mà còn là nguồn tài liệu quan trọng cung ứng cho việc chuyển thể sang sân
khấu, điện ảnh, truyền hình.

1.2. Vài nét về lịch sử xã hội và văn học Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai
1.2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Năm 1945, việc Mỹ thả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và
Nagasaki cùng với sự tham chiến của Liên Xô đã làm cho chính phủ lẫn quân đội Nhật
chấn động tận gốc rễ. Ngày 15/08 Thiên hoàng tuyên bố chấp nhận sự thất trận. Sau
khi Nhật Bản kí vào Tuyên ngôn Postdam và đầu hàng vô điều kiện, quân Đồng Mình
đổ bộ lên đất nước mặt trời mọc, tiếng là quân Đồng Minh nhưng trên thực tế phải nói
là chỉ có người Mĩ cai trị trị Nhật Bản.

Theo Nguyễn Nam Trân trong Giáo trình Lịch sử Nhật Bản, cuối mùa hè năm
1945, Nhật Bản chỉ còn trơ trụi và điêu tàn, gần 200 vạn đồng bào mà một phần ba là
dân sự đã chết trong cuộc chiến tranh, những đống gạch vụn bao trùm 40% diện tích
các thành phố và dân số thành thị đã hao đi một nửa. Kỹ nghệ trở lại điểm xuất phát
đầu tiên. Nông nghiệp thiếu tất cả từ dụng cụ, thiết bị, phân bón đến nhân lực. Nhật

16
Bản vì chạy theo giấc mộng của các nhà lãnh đạo đã dồn hết tâm lực cho cuộc chiến
nên đã trắng tay. Người người bơ thờ, ngơ ngác, lần đầu tiên trong lịch sử của mình họ
bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Sau chiến tranh, đất nước bị mất hết vị thế. Tháng
01/1946, Thiên hoàng Showa đã đưa ra Nhân gian tuyên ngôn xác nhận rằng mình chỉ
là con người bình thường chứ không phải là một vị thần sống bất khả xâm phạm như
cách người ta vẫn tôn vinh, nó đưa đến hệ quả là chính phủ không còn quản đốc, chi
viện cho Thần đạo cũng như các Thần xã vốn có vai trò tượng trưng cho chế độ quân
Phiệt, liên hệ giữa quốc gia và Thần đạo sẽ được phân biệt một cách minh bạch, vị trí
tối cao của Thiên hoàng không còn khi chế độ quân chủ nghị viện được thiết lập.
Trong tình trạng kinh tế bị tàn phá, thất nghiệp trầm trọng, thiếu thốn thực phẩm, hàng
hoá, lạm phát nặng nề... Nhật Bản còn phải giải quyết vấn đề binh lính từ các chiến
trường được giải ngũ trở về, những người thường dân di trú ở Mãn Châu quốc và các
vùng khác nay cũng trên đường hồi hương, tổng cộng có đến 600 vạn người ùa về
nước trong cùng một lúc, khó khăn chồng chất khó khăn.

Trong thời gian chiếm đóng, Mĩ đã thi hành những chính sách để thực hiện hai
mục đích của mình là phi quân sự hoá và dân chủ hoá Nhật Bản, triệt tiêu sức mạnh
quân sự, đồng thời thay đổi từ căn bản cấu trúc xã hội của nước này để tạo ra một quốc
gia dân chủ, quốc gia này trong tương lai sẽ không còn có những hành động đi ngược
lại đường lối của Mĩ.

Khi Nội các mới lên nắm quyền, chủ trương dân chủ được từng bước thực
hiện. Trước tiên, đó là việc dân chủ hoá guồng máy kinh tế, hàng loạt tập đoàn tài
chính lớn phải giải thể, cổ phần của các nhà tài phiệt bị phân tán hòng phá vỡ sự tập
trung và độc chiếm. Đối với giáo dục, những nội dung không thích hợp vì tỏ ra sùng
bái Thiên hoàng và ca tụng chính thể quân Phiệt, chứa đựng tư tưởng tận trung báo
quốc, mang màu sắc thần quyền tôn vương theo cách thức chế độ cũ đều bị đình chỉ.
Tháng 12/1945, đạo luật về tổ chức công đoàn đã được ban bố tạo cho người lao động
quyền lập hội, quyền thương lượng với chủ và quyền đình công. Trong những cải cách
lớn này thì có một cải cách liên hệ đến việc giải phóng phụ nữ, bộ luật về tuyển cử cho
phép mọi công dân bất luận nam nữ, trên 20 tuổi đều có quyền đi bầu cử và cuộc bầu
cử đầu tiên sau chiến tranh (1946) đã có 39 phụ nữ trở thành thượng nghị sĩ mới,

17
chuyện trọng nam khinh nữ đã dần có sự thay đổi, đánh dấu một bước chuyển lớn của
thời đại.

Tháng 05/1947, Hiến pháp Nhật Bản chính thức có hiệu lực, đây là tư liệu quý
báu để hiểu về những đổi mới trong xã hội Nhật thời hậu chiến, trong đó ba điểm
chính đáng nhớ là chủ quyền tại dân, tôn trọng các quyền làm người cơ bản, chủ
trương gìn giữ hoà bình, đặc biệt Điều 9 của Hiến pháp mà người Nhật hầu như không
ai không biết: Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh, đây là một Hiến pháp hoà bình
đánh dấu sự chuyển biến lớn của thời đại. Địa vị Thiên hoàng trước chiến tranh được
xem như là quyền uy tuyệt đối thì với Hiến pháp, chức vị này vẫn còn được minh định,
tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất so với trước là Thiên hoàng chỉ còn có tính cách tượng
trưng cho sự thống nhất toàn thể quốc dân. Hiến pháp cũng nhìn nhận Quốc hội do
dân chúng trực tiếp bầu ra là cơ quan tối cao nắm giữ quyền lực quốc gia. Xã hội Nhật
Bản về cơ bản đã được dân chủ hoá.

Tháng 09/1951, Hiệp ước hoà bình San Fancisco được kí kết, phục hồi chủ
quyền như quốc gia độc lập của Nhật sau 6 năm bị Mĩ chiếm đóng.

Đối với người dân Nhật Bản, hậu chiến có nghĩa là những khu nhà cửa cháy
sém đổ nát, vật giá leo thang, lạm phát thiếu thốn thế nhưng cũng trong những năm
đen tối ấy, xã hội Nhật đã bắt đầu nhìn thấy le lói những tia hi vọng của sự hồi sinh.
Năm 1947, tuyển thủ bơi lội Furuhashi Konoshin lập được kỉ lục thế giới 400 m tự do.
Năm 1949, giáo sư Yukawa Hideki đoạt giải Nobel vật lí. Kurosawa Akira đã đạt giải
thưởng của Đại hội điện ảnh Venise với tác phẩm Cổng Rashomon (1951) khẳng định
đẳng cấp quốc tế của phim Nhật. Năm 1968, nhà văn Kawabata Yasunari cũng được
trao tặng Giải Nobel Văn học.

Cho đến năm 1960, có nhiều biến chuyển rõ rệt về mọi mặt, điểm thứ nhất là
sự trung hoà về chính trị, tuy có sự khác nhau giữa cánh tả và cánh hữu nhưng không
có sự chống đối rõ rệt giữa hai phái nữa khi nền kinh tế đã ổn định. Thứ hai, đó là
những biến chuyển rõ nét về giá trị trong xã hội, người Nhật có ý thức về quyền lợi
và tự do cá nhân, tuy nhiên cái tôi của họ không phải là cái tôi Tây Phương mà là cái
tôi tập đoàn. Người Nhật vẫn sống trong một xã hội mà gia đình là đơn vị cơ bản.
Những năm 1940, người Nhật còn lo cái ăn, những năm 1950 mối lo của họ là nhà ở

18
nhưng bước qua thập niên 1960, với sự đô thị hóa và những giấc mơ vật chất của xã
hội tiêu dùng, an ninh và tiện nghi cá nhân mới chính là những cái thiết thân của con
người thời buổi ấy. Con người tìm cách tìm về nguồn gốc văn hóa của mình, tìm đặc
sắc của văn hóa nội địa như một phản ứng chống lại Âu Mỹ. Người Nhật lúc đó có nhu
cầu ngược dòng lịch sử tái khám phá ca ngợi vẻ đẹp muôn thủa của đất nước. Các
phương tiện truyền thông như báo chí, phim ảnh, truyền thanh và truyền hình phát
triển nhanh chóng ảnh hưởng to lớn đến con người và xã hội. Trước những biến cố của
lịch sử, văn học cũng như các loại hình khác thay đổi mình để phản ánh xã hội.

1.2.2. Tình hình văn học


Đối với văn học, nếu đầu thế kỷ XX những sáng tác theo khuynh hướng tự
nhiên chiếm ưu thế, thời Thế chiến với sự đụng độ của hai dòng văn học chính là văn
học vô sản vị nhân sinh và trường phái tân cảm giác vị nghệ thuật thì sau chiến tranh,
sự thất bại của nước Nhật đã ảnh hưởng sâu sắc đến đại bộ phận văn học. Vết thương
chiến tranh vẫn còn hằn sâu trong lòng người nhưng văn học Nhật Bản đã hồi phục
ngay như đón nhận được một luồng sinh khí mới. Những người tìm trở lại văn đàn
sớm nhất là những tác gia lão thành, thứ đến là các nhà văn hệ phái văn học vô sản, họ
bắt đầu tìm được không khí thích hợp để tiếp tục hoạt động. Những nhà bình luận lại
tiếp tục công việc lý luận văn học, rồi trường phái thơ văn hậu chiến bắt đầu sáng tác...
Tất cả những tư trào văn học ấy, được sự hỗ trợ của báo chí đã phát triển ngày càng
rộng lớn, các tạp chí nối tiếp nhau ra đời hoặc được tục bản, giúp cho các nhà văn thế
hệ hậu chiến có chỗ đăng tải bài vở. Nguồn sinh lực bị đè nén trong thời chiến tranh
nay được bùng lên.

Đó là sự hồi sinh của các nhà văn thành danh: Shiga Naoya với Trăng Xám.
Nagai Kafuu viết Người vũ công, Huân Chương. Tanizaki Junichirô hoàn thành Mong
manh hoa tuyết, cho ra đời Người mẹ của tướng Shigemoto. Kawabata Yasunari viết
Tiếng núi rền, Ngàn cánh hạc, Người đẹp say ngủ tiếp tục cuộc hành trình trên đường
đi tìm nét đẹp Nhật Bản.

Sự ảnh hưởng của Buraiha (vô lại phái) và tiểu thuyết thông tục mới. Buraiha
là tập hợp những nhà văn sáng tác theo khuynh hướng chống lại quan niệm văn học có
màu sắc luân lý, được hình thành sau thời chiến. Họ viết văn với tình cảm tự dằn vặt,
thái độ sa đọa. Buraiha hay Shingesaku-ha (Tân hí tác phái) (Burai có hai nghĩa: kẻ
19
không coi phép tắc hay kẻ cầu bơ cầu bất, không nơi nương tựa. Ở đây, có thể hiểu
như Buraiha là “kẻ bất cần đời”). Ishikawa Jun đã dùng từ tiếng Pháp libertins
(những kẻ phóng đãng) để nói về nhóm người viết văn cùng chung khuynh hướng này.
Trường phái Buraiha có những nhà văn tiếu biểu, Ishikawa Jun (1899-1987) nhà văn
năng nổ, dịch thuật và sáng tác dồi dào, chịu ảnh hưởng văn học Pháp nhất là trường
phái tượng trưng, các tác phẩm tiêu biểu của ông là Phổ hiền, Truyền thuyết hoàng kim
nói về sự đối lập giữa cái thánh thiện và cái trần tục trong cuộc đời, những cảnh tượng
tan hoang của thời hậu chiến. Tác giả Oda Sakunosuke (1913-1947) có truyện Người
đàn bà ngày thứ bảy và tập bình luận Loại văn chương có hiệu năng với chủ trương
chống đối đường lối viết văn hiện có. Sakaguchi Ango viết Bạch tri, Đi tìm tình yêu,
tập bình luận Bàn về sa đọa nói lên tinh thần phản kháng đối với những lề lối thường
tình đang chi phối xã hội. Dazai Osamu có Tà dƣơng, Thất lạc cõi ngƣời bày tỏ thái
độ chống đối lối sinh hoạt của xã hội hậu chiến, ông bị coi như là một tâm hồn yếu
đuối đứng trước sức ép của xã hội và thời thế. Hầu hết các nhà văn thuộc trường phái
này đều chết trẻ, hoặc vì mệt mỏi, hoặc vì dùng thuốc kích thích hay tự sát. Điểm
chung giữa họ là đứng dậy từ đống tro tàn của thời hậu chiến, có thể nói trên đống
gạch vụn, đổ nát và sự hoang phế của lòng người, văn học hậu chiến Nhật Bản đã
đứng dậy với nhóm Buraiha. Sự góp mặt của tiểu thuyết đại chúng là một đặc điểm
của văn học sau chiến tranh, tiểu thuyết mang tên đại chúng ghi chép lại chuyển biến
trong thế thái nhân tình từ khi xã hội bước vào thời hậu chiến. Nhóm Buraiha có
khuynh hướng sáng tác chống lại quan niệm văn dĩ tải đạo đầy dụng ý luân lý, và có
đời sống sa đoạ đi đến tự hủy. Xã hội Nhật Bản ngay sau chiến bại với những băng
hoại về luân lý và giá trị quan truyền thống khi đối đầu với bản năng tranh sống trong
hoàn cảnh khắc nghiệt của đổ nát và túng thiếu, đã cung cấp cho nhóm tác gia Buraiha
những điển hình văn học đặc biệt hậu chiến.

Ngoài những nhà văn tiểu thuyết đại chúng, những nhà văn khuynh hướng vô
sản là những nhà văn xông xáo nhất thời hậu chiến. Năm 1945, họ cùng nhau thành
lập tổ chức Hội Văn học Nhật Bản mới với ba nhân vật giữ vai trò chủ yếu là
Miyamoto Yuriko, Nakano Shigeharu và Kurahara Korehito, mục tiêu của họ là phát
triển văn học dân chủ chủ nghĩa; tác phẩm của học phải kể đến Năm be rượu nhỏ,
Mình ơi! Hãy ngủ, tập lý luận văn học Chủ nghĩa hiện thực vô sản...

20
Vào năm 1946, một số nhà văn cùng chí hướng đã qui tụ chung quanh tờ Cận
đại Văn học đó là Yamamuro Shizuka, Hirano Ken, Honda Shuugo, Haniya Yutaka,
Ara Masahito, Sasaki Kiichi, Odagiri Hideo, họ tập trung vào bình luận hơn sáng tác,
chủ trương rằng chính là con người chứ không phải chính trị mới là cái đích nhắm của
nhà văn. Những cây viết tụ họp chung quanh tờ Kindai Bungaku và trào lưu bắt nguồn
từ khuynh hướng văn học này đã được mệnh danh là trường phái hậu chiến. Phái hậu
chiến đợt I có các nhà văn tiêu biểu như Hara Tamiki, Ibuse Masuji với dòng văn học
chống bom nguyên tử miêu tả thảm trạng gây ra bởi bom nguyên tử trên thành phố và
trên thân xác những nạn nhân, cũng như bày tỏ sự phẫn nộ đối với quân phiệt Nhật,
chính phủ Mỹ…. và niềm khao khát hòa bình của họ. Phái hậu chiến đợt II với các
nhà văn Ooka Shohei, Takeda Taijun đỉnh cao là Đời tù binh, Phong môi hoa viết về
nỗi ám ảnh chiến tranh - một tổng thể của lo sợ, kinh hãi, phẫn nộ và bấn loạn, xảy ra
từng phút từng giây chứ không phải bình lặng như trong tranh ảnh và con người như
con vật hy sinh của chủ nghĩa tư bản bành trướng Nhật Bản... Lớp nhà văn mới thứ ba
xuất hiện trên văn đàn khoảng 1952- 1955, họ mượn hình thức tiểu thuyết tự thuật theo
kiểu cũ nhưng để nói về cái trống rỗng của cuộc sống hiện tại với các nhà văn:
Yasuoka Shotaro, Yoshiyuki Junnosuke, Endo Shuusaku, Kojima Nobuo...

Nhìn chung, văn học sau chiến tranh ở Nhật Bản có hai khuynh hướng chính,
một mặt gìn giữ một truyền thống đã có từ nhiều thế kỷ, một mặt đoạn tuyệt để xóa
sạch tàn tích của thời quân Phiệt, xây dựng một nền văn học thích nghi cho xã hội
mới, các tác phẩm thoát thai và trưởng thành trong thời kỳ hậu chiến khốc liệt mang
nhiều khủng hoảng và đổ vỡ, nhưng ẩn sâu đó vẫn thấy có một điểm tựa để con người
không sa vào bế tắc tuyệt đối, mà luôn có ý chí vùng vẫy để thoát ra - bằng hành động
của chính mình. Điểm tựa ấy chính là bản thân con người, bản thân cuộc sống.

1.3. Nhà văn Dazai Osamu và tiểu thuyết Tà dƣơng


1.3.1. Dazai Osamu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
Nhà văn Dazai Osamu (1909 - 1948) tên thật là Tsushima Shuji, là con thứ tám
trong một gia đình mười một người con ở Kanagi, Aomori, phía bắc đảo Honshu. Vì
cha làm chính trị, thường xuyên xa nhà và mẹ bị bệnh kinh niên sau khi sinh đến mười
một người con nên ông được một người cô nuôi nấng.

21
Theo tác giả Phạm Vũ Thịnh trong bài giới thiệu về Dazai Osaum – Tiểu
thuyết gia hiện đại Nhật Bản, thủa nhỏ, nhà văn từng học học ở trường trung học
Aomori và tốt nghiệp trường phổ thông Hirosaki. Ông là một học sinh xuất sắc với khả
năng viết tốt được phát hiện rất sớm lúc bấy giờ, ông tham gia chỉnh sửa và phát hành
những tập san sách báo dành cho học sinh, sinh viên. Cuộc đời của ông chỉ thay đổi
khi thần tượng văn học của ông lúc đó là nhà văn Akutagawa Ryunosuke tự tử năm
1927, ông bắt đầu lơ là việc học, phung phí chi tiêu của mình vào áo quần, rượu chè và
gái mại dâm, ông còn tiếp cận với phe cánh tả đang bị chính quyền đàn áp lúc đó. Năm
1929, đêm trước kỳ thi tốt nghiệp mà ông không hi vọng qua được, ông tự tử bằng
cách uống thuốc ngủ quá liều nhưng được cứu sống và tốt nghiệp năm sau đó. Dazai
Osamu ghi danh vào đại học Tokyo, chuyên ngành Văn chương Pháp, sau đó ông chạy
trốn cùng kỹ nữ Oyama Hatsuyo, tại thời điểm này, ông đã chính thức bị đuổi khỏi
nhà. Không mấy ngày sau khi bị từ, ông tự tự với một cô gái khác là Tanabe Shimeko,
Shimeko chết, nhưng Dazai được cứu bởi một chiếc thuyền đánh cá, việc này đã để lại
trong nhà văn một ám ảnh mạnh mẽ của tội lỗi. Sau sự kiện náo động này, gia đình đã
can thiệp để làm dịu đi tình hình, gia đình ông đồng ý để ông kết hôn với Hatsuyo.
Năm 1936, Dazai li hôn với Hatsuyo và đã nhanh chóng tái hôn với một giáo viên tiểu
học tên là Michiko Ishihara..

Tháng 12/1941, Nhật Bản tham gia Chiến tranh Thái Bình Dương, nhưng nhà
văn được miễn đi lính do được chẩn đoán là mắc bệnh lao, căn bệnh tưởng chừng sẽ
ngăn ông tiếp tục văn nghiệp của mình, nhưng ông đã xoay xở để có thể xuất bản thêm
vài câu chuyện khác và trở thành một trong những nhà văn hiếm hoi còn chút hứng thú
trong sự nghiệp văn chương lúc bấy giờ. Nhà của ông bị dội bom hai lần nhưng gia
đình ông may mắn thoát chết với con trai một Masaki và con gái thứ ba Satoko, sau
này trở thành nhà văn nổi tiếng với bút danh Yuko Tsushima.

Sau này, Dazai Osamu qua lại với Shizuko Ota và có một cô con gái tên là
Haruko, vốn ưa uống rượu, ông trở nên nghiện và sức khỏe giảm sút dần.

Sau chiến tranh, nhà văn đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp viết văn của mình,
tinh thần phản xã hội của ông còn mạnh hơn trước. Ông viết vở kịch Pháo bông mùa
đông, Ngƣời vợ của Villon, Anh đào đứng trên lập trường phê phán quan niệm đạo
đức đã an bài. Tháng 07/1947, ông xuất bản tác phẩm Tà dƣơng, tác phẩm đưa ông lên

22
hàng tác gia danh tiếng nhất đương thời. Sau này, Dazai gặp Tomie Yamazaki là một
chuyên viên làm đẹp ông bỏ vợ con theo cô và viết tiểu thuyết tự thuật Thất lạc cõi
ngƣời nói về nỗi sợ sệt đứng trước con người và lòng tin đã đánh mất đối với họ. Sau
đó, ông tự sát ở hồ chưa nước ngọt của sông Tamagawa, gần Tokyo.

Ngoài hai tác phẩm nổi tiếng là Tà dƣơng và Thất lạc cõi ngƣời, nhà văn
Dazai Osamu còn có những tác phẩm tiêu biểu như Nữ sinh (1939), Một trăm cảnh
núi Phú Sĩ (1939), Melos ơi! chạy nhanh lên (1940), Yêu cầu khẩn thiết (1940),
Chính nghĩa và nụ cƣời (1942), Hữu đại thần Sanetomo (1943), Chiếc hộp Pandora
(1945), Chuyện kể dân gian (1945),…

Dazai Osamu bị coi như là một tâm hồn yếu đuối đứng trước sức ép của xã hội
và thời thế, ông nhiều lần tự tử hụt trước khi toại nguyện, thế nhưng ông lại rất được
hâm mộ từ sau 1945 vì ông nói lên được nỗi tuyệt vọng và hổ thẹn của người Nhật
chiến bại. Hổ thẹn có hai mặt trái ngược, một là vì không đáp lại được lòng mong mỏi
của giới lãnh đạo chiến tranh, hai vì đã đi lầm đường. Nhà văn để lại di cảo đang viết
nửa chừng có nhan đề là Goodbye. Và trong Thất lạc cõi ngƣời, tác phẩm cuối cùng
được ra mắt, ông đã đặt vào miệng nhân vật chính câu nói như "Đời tôi là một chuỗi
hổ thẹn!"[9] Đó là kết luận về đời văn và đời người của chính Dazai.

Ðời viết văn chuyên nghiệp của Dazai chỉ có 15 năm, từ năm 1933 đến 1948,
nhưng tác phẩm của ông còn được yêu thích mãi về sau, nhất là trong giới độc giả trẻ,
họ không chỉ cảm thông với ông nỗi khắc khoải tìm kiếm ý nghĩa của nhân sinh và sự
thật trong quan hệ giữa người đời, mà còn bởi cuộc đời pha lẫn bi kịch và sa đoạ, cùng
với ý thức tự hủy và nổi loạn của ông.

1.3.2. Tiểu thuyết Tà dƣơng


Tà dƣơng là cuốn tiểu thuyết được xuất bản năm 1947 – một năm trước khi
Dazai Osamu tự sát, chính từ cuốn tiểu thuyết này mà trong từ điển tiếng Nhật đã xuất
hiện thêm một từ, bây giờ vẫn lưu hành: Tà dƣơng tộc dùng để chỉ sự sa sút của giai
cấp thượng lưu vì một biến chuyển gấp gáp của xã hội [6; tr.7]

Ở nước ta, việc giới thiệu văn học Nhật Bản diễn ra chậm hơn so với văn học
một số nước khác. Điều này không chỉ bị hạn chế bởi hàng rào ngôn ngữ (những dịch
giả thông thạo tiếng Nhật còn ít) mà do nước ta phải trải qua những năm tháng chiến
tranh, chia cắt lâu dài. Thời kì đầu chúng ta tiếp nhận văn học Nhật Bản thông qua các
23
bản dịch từ tiếng Hán, Trung Quốc, Nga, Pháp, Anh các bản dịch từ nhiều ngôn ngữ
khác nhau nên rất phong phú và đa dạng. Điều đặc biệt của tiểu thuyết Tà dƣơng vừa
ra mắt độc giả Việt Nam vào đầu tháng 07/2012 là tác phẩm này được dịch giả Hoàng
Long “một trong số ít dịch giả có khả năng và tư duy chuyên nghiệp về mảng văn
chương Nhật”[11] dịch trực tiếp từ nguyên tác Nhật ngữ. Tà dƣơng là tiểu thuyết thứ
hai sau Thất lạc cõi ngƣời của Dazai Osamu được Hoàng Long chuyển ngữ nằm trong
Tủ sách tinh hoa văn học của Nhà xuất bản Hội nhà văn.

Tiểu thuyết gồm có 8 chương hình thành trên nhật kí, những bức thư gửi nhà
văn Uehara của nhân vật Kazuko và di chúc của Naoji, cho ta cảm nhận về sự đối mặt
của con người trước hiện thực cuộc sống sau chiến tranh. “Tà dƣơng” thứ ánh sáng
heo hắt trong khoảnh khắc suy tàn của một ngày để rồi bóng tối ập xuống ngay sau đó,
là hình ảnh biểu đạt chính xác tình cảnh của gia đình tiểu thư Kazuko, nhân vật người
kể chuyện xưng “Tôi” trong tiểu thuyết, cũng là tình cảnh xuống dốc nhanh dần đều
của tầng lớp quý tộc Nhật Bản ngay sau khi nước Nhật thất trận…

Gia đình Kazuko gồm ba người: bà mẹ, Kazuko, và cậu em trai Naoji. Ba nhân
vật tiểu thuyết, ba số phận cuộc đời nhuốm màu của tà dương theo những cách khác
nhau. Sau chiến tranh, hai mẹ con Kazuko phải rời bỏ ngôi nhà ở khu phố Nishikata để
dọn về một sơn trang hẻo lánh nơi miền quê. Naoji đi lính trở về sa đọa, nghiện ngập,
tan nát tâm hồn, không thể chịu đựng một sự giả dối nào, bế tắc cuối cùng tự sát.
Người mẹ sống nốt những ngày cuối cùng của cuộc chiến như một người quý tộc cuối
cùng, hiền dịu, nhẹ nhàng, khắc khoải trong nhớ nhung về một thời vàng son đã qua,
mang theo mình cái đẹp bi thiết của tà dương để cuối cùng chết mòn vì bệnh lao phổi.
Kazuko 29 tuổi, sau cuộc hôn nhân tan vỡ quay về sống với mẹ, không thể chịu đựng
nổi cuộc sống tẻ nhạt, cô quyết đứng lên đấu tranh, vượt qua mọi ràng buộc của đạo
đức - cô có con một mình, trút bỏ con người cũ để trở thành một con người hành động
của thời kì mới và bước đầu hoàn thiện cuộc cách mạng đạo đức của mình. Tự do, cô
cưu mang sự sống, đối mặt với những tan nát phũ phàng dẫu biết là bất định, sống như
mình muốn cho một ngày mới.

Ngoài nội dung đặc sắc, tác phẩm còn thể hiện tài năng bậc thầy của nhà văn
trong việc nắm bắt tâm lí nhân vật, tinh tế và nhạy cảm trong việc sắp xếp cốt truyện,
cách viết chân thành và thản nhiên đến kì lạ của một con người với một cuộc đời 39

24
năm ngắn ngủi mà tự sát đến năm lần, khinh bạc thế gian, chết không được nên khinh
thường cả cái chết, sống lay lắt qua qua ngày, Tà dƣơng và nhà văn Dazai Osamu đã
tạo ra những ám ảnh trăn trở, níu bám không dễ dàng buông bỏ trong lòng người đọc
ngay cả khi tác phẩm đã khép lại.

25
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG

2.1. Vẻ đẹp truyền thống và vẻ đẹp của tầng lớp quý tộc Nhật Bản
Tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần của nghệ sĩ, cá nhân người nghệ sĩ lại thuộc
về một cộng đồng, một dân tộc nhất định vì vậy mỗi tác phẩm ít nhiều đều mang dấu
ấn riêng về văn hóa, phong tục tập quán hay tâm lí, tính cách đặc trưng của dân tộc
mình. Tính dân tộc có thể được xem như là một thuộc tính xã hội, thuộc tính tất yếu
của việc sáng tạo văn học. Trong cái nhìn của một người từng chứng kiến, trải qua giai
đoạn khó khăn của đất nước Tà dƣơng khai thác từ sâu trong lòng xã hội những gì cốt
lõi nhất, nhà văn Dazai Osamu đã thấm đẫm tư tưởng và tinh thần nghệ thuật của thời
đại ông, một thời đại mà giá trị của mỗi dân tộc phải chịu sự kiểm nghiệm qua cuộc cọ
sát với những giá trị toàn nhân loại.

Vẻ đẹp văn hoá truyền thống Nhật Bản thể hiện rõ nét trong tiểu thuyết Tà
Dương thông qua hình ảnh người mẹ, một phụ nữ quý tộc chân chính cuối cùng của
lớp vàng son truyền thống, ở bà mang vẻ đẹp cao sang, tâm hồn nhạy cảm và tinh tế
mà không phải ai cũng có được. Đầu tiên là từ việc ăn uống, cách ăn súp “…dùng các
ngón của bàn tay tì nhẹ lên mép bàn, thẳng người, ngẩng mặt lên, đưa muỗng múc súp
mà hầu như không nhìn vào đĩa. Rồi bà nhẹ nhàng và thinh khoái đưa đầu muỗng súp
vào giữa hai môi theo một góc vuông khiến ta có thể hình dung tư thế ấy như một con
chim én vậy. Rồi vừa như vô tình nhìn xung quanh, bà vừa nhẹ nhàng đưa muỗng súp
lên xuống như vẫy đôi cánh nhỏ, không bao giờ để rơi một giọt súp cũng không bao
giờ phát ra tiếng động nào khi chạm vào đĩa lẫn khi đưa lên miệng…”[6; tr.13] cách
ăn bít tết “…nhanh chóng dùng dao và nĩa cắt thịt ra từng miễng nhỏ rồi bỏ dao đi,
chuyển cái nĩa sang tay phải rồi cứ thế xiên từng miếng một khoan thai đưa lên
thưởng thức…”[6; tr.13] đến khi thưởng thức một miếng thịt gà có xương “…nhẹ
nhàng dùng đầu ngón tay cầm chỗ xương ấy đưa lên miệng rồi tách phần thịt và
xương. Cái hành động thô lậu ấy khi mẹ tôi trình diễn lại vô cùng dễ thương thậm chí
còn có đôi chút gợi tình nữa…”[6; tr.14] tất cả đều thinh khoái và thuần khiết, cái tính
từ thanh tao dùng trong trường hợp của bà không hề khoa trương chút nào, điều đặc
biệt, đó không phải là kiểu cách ăn uống được quy định chính thức lễ nghi, hầu hết
chúng đều đi lệch ra ngoài khuôn khổ nhưng lại vô cùng khả ái, và cho dù Kazuko và
Naoij có nhiều lần chật vật bắt chước bà thì cảm thấy tệ hại và vô cùng tuyệt vọng.
26
Nhật Bản luôn làm cả thế giới ngạc nhiên và thán phục về óc thẩm mỹ, từ cách
trang trí nhà cửa, sắp xếp đồ đạc trong gia đình hay cách bài trí bữa cơm đều khiến cho
mọi người có cảm giác tiếp cận một sự tinh tế, nhưng óc thẩm mỹ của người Nhật
không chỉ biểu hiện qua các hiện tượng bên ngoài mà còn qua lối suy nghĩ và cung
cách làm việc của họ hàng ngày, hay nói rộng ra là nhân sinh quan của họ. Từ nhỏ mẹ
đã là người chăm chút cho Kazuko một cách chu đáo, khi chọn màu sắc trang phục, bà
cố tình chọn đan chiếc khăn màu hồng để Kazuko mang trong thời tiết mùa đông, để
màu len hồng nhạt đan lẫn với bầu trời mưa xam xám tạo thành một màu đẹp mềm mại
dịu dàng, và sự tinh tế này phải đến 20 năm sau Kazuko mới hiểu thấu được.

Không chỉ ở cách ăn uống, cách nhìn, tinh hoa quý tộc nơi mẹ còn thể hiện ở
những việc tưởng chừng thô lậu, việc đi tiểu của bà làm Kazuko hiểu lầm với việc hái
hoa, mẹ như những quý phu nhân vương triều Louis ngây thơ, đáng yêu và cao sang
quý phái vô cùng. Với Kazuko và Naoji, mẹ là phu nhân quý tộc chân chính cuối cùng
còn lại, vẻ đẹp hiền lành và dịu dàng ấy được cảm nhận khắp mọi nơi, dưới ánh chiều
tà, “mắt mẹ sáng lấp lánh gần như một màu xanh, gương mặt dường như mang một
chút gì giận dữ đẹp vô cùng, khiến người khác phải động lòng”[6; tr.22] ngay cả khi
ho lao đã hành hạ “gương mặt đang yên ngủ của mẹ cũng chẳng có vẻ gì là bệnh nhân.
Hai mắt mẹ vẫn ngời sáng đẹp đẽ, sắc mặt hồng nhuận vô cùng… mẹ vẫn ngủ, không
thể hiện ra bất kì sự khổ sở nào”[6; tr.120] và cả đến những giây phút cuối cùng của
cuộc đời, mẹ vẫn đẹp “Gương mặt mẹ khi mất hầu như không có gì thay đổi. Lúc cha
lâm chung, sắc mặt ông đột nhiên biến đổi còn mẹ vẫn y như khi còn sống, chỉ có điều
không thở nữa mà thôi. Mẹ ngưng thở khi nào tôi cũng không biết nữa. Chỗ sưng trên
mặt mẹ đã xẹp xuống từ ngày hôm trước. Hai gò má trơn mịn như sáp ong. Đôi môi
nhợt nhạt hơi cong như đang mỉm cười. Trông mẹ còn đẹp đẽ hơn cả khi còn sống. Tôi
thoáng nghĩ đến đức mẹ Maria từ bi”[6; tr.124].

Vẻ đẹp hiền hậu, đáng quý của người phụ nữ trong tác phẩm còn được cảm
nhận qua cái nhìn của Naoji về phu nhân Suga - người phụ nữ mà anh thầm yêu tha
thiết, bà là vợ của của một hoạ sĩ trung niên nổi tiếng sau chiến tranh, một vị phu nhân
lúc nào cũng bình thản, mỉm cười dịu dàng “Có thể gọi là quý phái cũng được chăng?
Trong những kẻ quý tộc xung quanh mình, em đoán chắc ngoài mẹ và người có đôi
mắt biểu cảm chính trực không chút đề phòng đó thì không có người thứ ba đâu” vẻ

27
đẹp tinh tế giao hoà với không gian và thời gian được cảm nhận trong một buổi chiều
Tokyo xanh ngắt “nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương
mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời,
đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng…nàng ngồi đó và nhìn về phía xa
xăm”[6; tr.158] Naoji tìm thấy ở người phụ nữ vẻ đẹp của sự tử tế, sự tử tế không có
chút sắc khí, chút tình dục nào, nàng đã hành động gần như vô thức như lòng cảm
thông đương nhiên của con người, vẻ đẹp mà “Trong những bức tranh của vị hoạ sĩ,
nếu có ít nhiều thể hiện ra một vẻ cao quý của nghệ thuật thì đó chỉ là phản chiếu cái
tâm dịu dàng của người vợ mình thôi”[6; tr.159]

Chuyển đến Izu, Kazuko đã gây ra một vụ cháy, sau những nỗ lực dập tắt ngọn
lửa, những lo lắng kinh hoàng, cảm giác hổ thẹn, bộ dạng nhếch nhác thê thảm nặng
nề khiến Kazuko vô cùng bối rối khi phải đối mặt với mẹ nhưng khi cô “rón rén bước
chân vào phòng khách xem thử thì thấy mẹ đã thức dậy... mẹ mỉm cười… lên tiếng: -
Đâu có chuyện gì đúng không? Chỉ là thanh củi bắt lửa thôi mà…”[6; tr.39]. Lời nói
đúng lúc như quả táo vàng trên đĩa bạc thật là được lời như cởi tấc lòng, câu nói của
mẹ thật cảm động, cô thấy lòng nhẹ nhõm như có ai đã đỡ giùm một gánh nặng, bà tế
nhị, không nóng giận, hoàn toàn cảm thông trước những lỗi lầm vì sự sơ ý, vô tình của
con gái. Lời nói của người mẹ dịu hiền ấy làm Kazuko nhẹ cả người, nhận được sức
mạnh từ tình yêu thương của mẹ cô có thể đi khắp mọi nhà để xin lỗi về việc hoả hoạn
mà không cảm thấy tủi hổ, và bà đã không nói thêm lời nào về đám cháy nhưng sau
này, trong đêm bà thường hay nói mớ, những đêm gió lớn cho dù khuya khoắt cỡ nào
mẹ cũng ra khỏi giường, giả vờ đi vệ sinh để dạo quanh nhà xem xét.

Muốn đề cập đến chuyện gì với con, bà thường chọn khi Kazuko thoải mái và
vui vẻ nhất “Mẹ định kể cho con nghe chuyện này từ trước rồi nhưng đợi đến khi cả
hai chúng ta đều có tâm trạng vui vẻ mới nói”[6; tr.49] đó là chuyện quay trở về của
Naoji, là tình trạng khó khăn của gia đình, chú Wada đề nghị nên tìm chỗ nào đó gả
Kazuko. Mẹ hiểu những gì Kazuko phải làm cho gia đình là quá bất công với cô -
trước phản ứng của Kazuko mẹ run lên vì giận dữ nhưng chỉ im lặng. Tiểu thuyết Tà
Dƣơng đang nói tới nét văn hoá giao tiếp tuyệt vời của người Nhật, người Nhật biết
tạo ra những nốt trầm im lặng khi nói chuyện và đặc biệt họ biết khi nào cần tới những
nốt trầm ấy, khi nào sự im lặng có giá trị nhiều hơn, đây là một loại văn hóa kỳ diệu

28
nhưng không dễ thực hiện. Im lặng là một nghệ thuật và là cách thể hiện văn hóa cao
cấp, là cách cư xử khôn ngoan của những người làm chủ được cảm xúc của mình. Mẹ
đợi đến khi bản thân và Kazuko cùng "hạ nhiệt" mới gợi lại chuyện, “mẹ nhẹ nhàng
lên tầng hai, mở đèn, bước đến bên giường và gọi tên tôi thật dịu dàng”[6; tr.54] là
những việc làm nho nhỏ nhưng thực sự ý nghĩa của nó lẫn cái tầm của người Nhật
không hề nhỏ, họ sống với cộng đồng, tránh không mất lòng nhau, luôn cố tạo cho đối
phương một cảm giác dễ chịu nhất. Thời kì hậu chiến Nhật Bản tiếp thu sự du nhập
của văn hoá phương Tây, tuy vậy đất nước Phù Tang nằm trong Châu Á và vẫn bền bỉ
duy trì những truyền thống văn hóa của mình.

Khi bà mẹ bệnh, theo như sắp xếp của chú Wada, bác sĩ Miyake trước đây vốn
là y sĩ cung đình dẫn theo y tá xuống chẩn bệnh, ông vui vẻ kể chuyện trên trời dưới
đất. Còn mẹ, vừa nhìn lên trần nhà vừa lắng nghe...Trước mặt mẹ vị bác sĩ già nhẹ
nhàng nói như không có gì xảy ra: Cái gì chứ, không sao cả đâu. Nhưng sau đó bác sĩ
Miyake đứng bật dậy và đi vào căn phòng bài trí kiểu Trung Hoa. Tôi thấy hình như
có sự tình gì đó nên lặng lẽ đi theo sau. Vị bác sĩ già đi đến bức bình phong của căn
phòng của căn phòng thì dừng lại: - Bác nghe có tiếng lào xào…cả hai bên lá phổi
luôn cháu à…”[6; tr.104]. Đó là cách ông bác sĩ thông báo với Kazuko về bệnh ho lao
của mẹ, rất khéo léo và tế nhị, với khả năng nghề nghiệp, ông cố gắng xoa dịu phần
nào nỗi đau đớn, tạo cho người bệnh tâm lí thoải mái nhất, bệnh nhân không đơn độc
trong nỗi đau khổ của mình mà luôn có sự đồng hành và chia sẻ bởi những người thân
bên cạnh. Cuộc sống con người thật vô thường, thay đổi, hối hả, gánh nặng trách
nhiệm, chợt ngoảnh lại thấy mình úa tàn, thời gian trôi mau đời người thật ngắn ngủi
vì vậy được sống thanh thản hưởng chọn niềm yêu thương là điều vô cùng quý giá.

Tiểu thuyết Tà dƣơng còn đề cập đến văn hoá xin lỗi của người Nhật, lời xin
lỗi đối với người Nhật không chỉ đơn giản là một câu nói suông, mà là cách để thể hiện
thiện chí, tấm lòng và tinh thần trách nhiệm. Sau chiến tranh, giấy là một vật phẩm rất
xa xỉ nhưng để thể hiện tấm lòng của mình Kazuko đã dùng giấy Mino để gói những tờ
tiền trên đó viết chữ “tạ lỗi”, Kazuko tìm đến cơ quan công vụ, đến nhà của trưởng
ban phòng vệ, đến nhà trưởng khu phố, nhà của anh cảnh sát tuần tra và đi quanh một
vòng các nhà hàng xóm để nói lời xin lỗi “Tối hôm qua tôi đã làm chuyện đáng trách.
Từ nay về sau tôi sẽ cẩn thận. Hãy tha thứ cho tôi”[6; tr.40]. Và Kazuko sẵn sàng

29
nhận trách nhiệm, lắng nghe sự giận dữ một cách chân thành, với người Nhật, để đối
phương nói ra hết suy nghĩ, bực bội oán giận và rồi mọi thứ sẽ sớm được giải quyết.
Lời xin lỗi quả cảm đáng khâm phục, những giọt nước mắt ân hận của Kazuko buộc ta
suy nghĩ nghiêm túc về sự xin lỗi chân thành và đúng lúc của người Nhật. Hình ảnh
người Nhật gập mình cúi đầu xin lỗi luôn gây ấn tượng tốt đẹp đối với thế giới, đây
không chỉ là thói quen văn hoá tuyệt vời, mà hình ảnh ấy còn cho thấy một phẩm cách
rất đáng trọng - sự cao thượng. Một khi họ gập mình cúi đầu xin lỗi hình ảnh của họ
được tôn cao lên, sự cao thượng được toả sáng, nhún nhường làm tăng thêm sự nể
trọng của người đối diện. Người Nhật biết rằng khi nhận lỗi và xin lỗi, nhất thời họ có
thể bị mang tiếng xấu và thiệt hại quyền lợi riêng tư nhưng về lâu dài, và đây là vấn đề
cốt lõi, chính họ sẽ luôn nhận lại được sự cảm mến và tin tưởng của mọi người, bài
học thật giản đơn nhưng vô cùng đắt giá.

Trong sinh hoạt hằng ngày, dù phải đối mặt với nhiều vấn đề hậu chiến, nhưng
con người vẫn không quên duy trì thói quen sinh hoạt dân tộc như tắm phòng tắm
ofuro thể hiện sự quan trọng trên hết của gia đình, ăn cơm nắm cuộn rong biển, ngủ
chiếu tatami, uống rượu sake, ngâm nga kịch No một trong những loại hình đại diện
cho nền mỹ học truyền thống Nhật Bản... đặc biệt họ luôn ý thức giữ gìn trong suy
nghĩ nề nếp, giữ thế giới tinh thần nề nếp, có bản lĩnh, bản sắc riêng, không lẫn vào
đâu được.

Càng đọc, càng tìm hiểu càng thấy sức mạnh của nước Nhật thật sự bắt nguồn
từ văn hóa, nhưng càng hiểu càng học càng thấy khó áp dụng, bởi lẽ không ai khác có
thể cúi đầu đúng hơn người Nhật, cũng không thể cứ mặc Kimono thì sẽ thành người
Nhật... Phải chăng điểm cốt lõi của nền văn hóa Nhật Bản chính là lòng chân thành,
hay nói cách khác, không bao giờ có chỗ cho sự giả dối trong văn hóa, những nét đẹp
văn hóa không chỉ thâm nhập vào quốc kế dân sinh, mà còn tỏa sáng trên mọi lĩnh vực
đời sống thường ngày như trong giao tiếp ứng xử và xuyên suốt tất cả là văn hóa trong
ý thức cá nhân và ý thức cộng đồng trước mọi tình huống cuộc sống. Vẻ đẹp đất nước
là vẻ đẹp của sự kết hợp hài hòa giữa một bên là dáng vẻ hùng dũng của ngọn núi Phú
Sĩ, tinh thần quả cảm của các Samurai, vẻ đẹp thanh nhã, mong manh của những cánh
hoa anh đào với một bên là sự cổ kính vẹn nguyên từ nếp sống đến ý thức mỗi người,
sự tôn nghiêm truyền đời của bản sắc văn hoá dân tộc. Chiến tranh đi qua, tàn phá

30
nhiều thứ vật chất nhưng không tàn phá được bản sắc và ý thức giữ gìn bản sắc dân
tộc, nét cổ kính của con người ở đất nước Phù Tang ấy không thể bị phai mờ.

2.2. Bi kịch nhân sinh của xã hội hậu chiến


Trong quỹ đạo chung của sự biến đổi, chiến tranh tác động trực tiếp đến đất
nước Nhật trên mọi lĩnh vực của đời sống, không chỉ ở những cuộc khủng hoảng kinh
tế, chính trị, xã hội mà còn đậm nét trên cả tinh thần. Chiến tranh và hậu quả của nó
làm con người hoang mang trước số phận cuộc đời mình, họ không hiểu cuộc đời sẽ đi
về đâu và họ sẽ là gì trong cái vòng xoáy dữ dội thời đại với những biến thiên diễn ra
triền miên, dai dẳng.

Tiểu thuyết Tà dƣơng được xây dựng trên nhật kí của Kazuko, thư gửi Uehara
và di chúc của Naoji, cho ta cái nhìn nhiều chiều về sự cảm nhận và sự đối mặt của
con người với hiện thực sau chiến tranh.

Chân dung tinh thần của nhân vật Naoji thể hiện qua những trang nhật kí hoa
quỳnh và bức thư Naoji viết cho chị gái Kazuko trước khi anh tự sát. Sau khi nhập ngũ
trở về, Naoji chìm trong sa đoạ rượu chè, chán nản, mất niềm tin và mục đích sống,
anh tượng trưng cho tâm thức vỡ mộng của Nhật Bản, không còn tìm thấy con đường
sống, bắt buộc phải chết trong sự tự huỷ. Niềm tự hào sụp đổ, anh thất vọng và xa lánh
xã hội, cô lập với người thân và bạn bè, lao vào ăn chơi như một sự giải thoát khỏi bế
tăc, bức bối.

Bức thư tuyệt mệnh của Naoji cho thấy từ sống đến cái chết của anh không hề
là một hành trình nhận thức đơn giản một chiều, thực chất đó là một quá trình đau khổ.
Bi kịch của Naoji chính là ở việc không được thừa nhận, về cơ bản anh vẫn không
ngừng tôn thờ phẩm chất, nhân cách đáng ngưỡng vọng của quý tộc tính, không ngừng
ý thức về nguồn gốc của mình nhưng mặt khác Naoji muốn xoá bỏ căn cước giai cấp
và niềm tin quý tộc ấy để trở nên đê tiện, anh giao du với người như Uehara và đám
bạn bè của ông ta, lăn lóc trong những tửu quán sa đoạ, dấn thân trong giả dối, vụng về
một cách đáng thương… chính sự mâu thuẫn này khiến anh ngày một thêm căm ghét
bản thân và ngày càng xa cách với nhân gian.

Naoji khủng hoảng lòng tin, hoài nghi về mọi thứ, trong anh ươm mầm sự bất
tín đối với mọi tư tưởng, hoang mang cùng cực khi tan vỡ những kì vọng “Tư tưởng
31
à? Láo toét cả. Chủ nghĩa ư? Lí tưởng ư? Dối trá thôi. Trật tự ư? Chân lí ư? Sự thuần
tuý ư? Tất cả là vờ vịt…Lí luận cuối cùng cũng chỉ là thứ tình yêu hướng về lí luận,
không phải là tình yêu hướng về con người đang sống. Tiền và gái, lí luận ngượng
ngùng vội vã lủi thủi đi mất…[6; tr.68]. Niềm tin là hoóc môn, là điều kiện cần thiết để
sống đích thực, niềm tin giống như tờ giấy một khi đã làm nhàu thì cho dù có cố vuốt
mạnh đến mấy cũng sẽ không bao giờ phẳng một cách hoàn hảo, mất niềm tin, Naoji
sống một cách tối thiểu, rời rạc với mọi người và tối thiểu với chính mình. Nhân vật
như những chiến binh Samurai với nhận thức mạnh mẽ về nhân phẩm, danh dự đã
dũng cảm đặt sức mạnh tinh thần và lòng tòng phục lãnh đạo tuyệt đối để vung thanh
kiếm của mình, nhưng chiến tranh Nhật Bản vốn dĩ là một sự mù quáng - một sự liều
lĩnh tuyệt vọng, niềm tin tôn thờ vỡ tan khi họ nhận ra cái gọi là sức mạnh chỉ là
những kế hoạch đầy ảo tưởng, duy ý chí và người lính đã phải trả cái giá quá đắt cho
lòng tin của mình. Naoji thù ghét cái vẻ nghiêm túc dối trá của những tên chỉ huy,
những kẻ đại ngôn khoác lác “Chính nghĩa à? Bản chất của cái gọi là đấu tranh giai
cấp nằm ở chỗ đó. Nhân đạo à? Đừng nói đùa nữa. Tôi biết cả rồi. Đó là đánh đổ kẻ
khác vì hạnh phúc của mình…”[6; tr.71]. Chiến tranh đi qua, kẻ thắng, người bại đều
trở về nhà, nhưng cuộc chiến không kết thúc vào lúc ngừng tiếng súng, nó vẫn còn tiếp
diễn với những người lính thấm đẫm ý thức về danh dự như Naoji, nỗi ám ảnh, sự vỡ
mộng tan hoang làm cho vết thương tâm hồn ngày càng trầm trọng. Chiến tranh chà
đạp lên số phận, tạo ra những vết sẹo lõm sâu trong tâm hồn không dễ phủ bỏ, nhà văn
đã cất lên tiếng nói đau đớn cho thân phận con người, lên án chiến tranh và những
chuyển biến liên hồi của cuộc sống. Dấu hỏi lớn về số phận dường như là không có lời
đáp và nỗi đau chiến tranh mang lại không bao giờ là quá khứ.

Tan hoang trong nhận thức và tâm tưởng Naoji lao vào tự huỷ như là một cách
phản ứng với xã hội. “Tôi không muốn nghe bất cứ ai nói về suy nghĩ của mình. Tôi
không có tư tưởng. Tôi chưa bao giờ hành động dựa trên một tư tưởng hay triết lí
nào...”[6; tr.97] Naoji vạ vật, rượu chè bê tha, nghiện ma túy, thất cách, không còn một
chút ý chí nào, từ mất niềm tin đến không có niềm tin để mất - một kiểu tâm thức rõ
rệt đã hình thành bén lửa tạo ra khối nổi loạn chống lại nền tảng, đập tan mọi lề thói,
phá vỡ quy chuẩn khuôn mẫu. Đâu rồi hình ảnh kiếm sĩ Samurai can trường, thà tự sát
quyết không chịu nhục? Dường như người đọc nghe đâu đó tiếng trầm buồn của Thiên
Hoàng trong một ngày cuối thu vàng úa chấp nhận đầu hàng quân Đồng Minh. Một
32
huyền thoại đã sụp đổ. Nỗi đam mê cháy bỏng trở thành người hùng, những Samourai
gan dạ, những Ninja không biết đến cái chết trước khi đạt được mục đích giờ đây là
những tâm hồn yếu ớt, những hình hài mỏng manh, như những con vật bị đồng loại
vượt qua trong cuộc cạnh tranh sinh tồn khắc nghiệt, cất tiếng kêu bi thương trước khi
chịu làm mồi cho thú dữ trong cuộc hiến tế bi hùng. Phải chăng đó là một phần của
nước Nhật, là cái giá phải trả cho bề nổi kiêu hùng, của một dân tộc kiêu hãnh, nơi mặt
trời bừng tỉnh sau buổi hoàng hôn của trời Tây.

Naoji cũng cố gắng sống như những con người bình thường, làm những gì một
con người bình thường có thể làm, nhưng anh không hiểu được người khác, không thể
hoà nhập “Không biết chúng ta có tội tình gì chứ? Sinh ra trong gia đình quý tộc là tội
lỗi của chúng ta à? Tự nhiên vĩnh viễn chúng ta phải sống trong sợ hãi, phải vạ tội và
hổ thẹn như Jura bán Chúa hay sao?”[6; tr.154]. Nhân vật đã trở nên đê tiện nhưng
chỉ là bề ngoài, gồng mình lên để rồi trở thành một gã kệch cỡm ngạo mạn, làm bộ làm
tịch trong mắt kẻ khác. Khi tiếp xúc với những người được nuôi dạy trong một giai cấp
hoàn toàn khác, Naoji bị ép trước những người bạn cỏ dại mạnh mẽ và để không bị bỏ
lại anh đã chơi ma tuý, sử dụng á phiện như là phương cách cuối cùng để sống còn, lao
vào tối tăm cuồng loạn để quên đi truyền thống gia đình, phản kháng lại dòng máu của
cha, cự tuyệt sự dịu dàng của mẹ. Tất cả là sự bất lực khi biết chắc không còn làm gì
để thay đổi được, cảm giác như kẻ xa lạ đứng bên lề đời sống mà không thể bước vào,
tác giả Tà dƣơng không nói rằng Naoji đã sung sướng trong những cuộc vui trác táng,
đã thỏa thuê tận hưởng cuộc sống, và nhân vật cũng không tìm thấy được hạnh phúc
và niềm tin trong đời sống của mình, tất cả thực chất là sự chán chường, tự đày đọa
bản thân hơn là sự hưởng thụ…

Tâm thức con người sau chiến tranh được nhà văn phản ánh sống động, chân
thực với đầy đủ vẻ gai góc của nó, những góc khuất đen tối, đau thương của hiện thực
bắt đầu được phơi bày. Tà dƣơng cắm rễ vào thực tại và cái cụ thể, tác phẩm của ông
hiện lên những con người bất lực, đau đớn và chán ghét đến ghê tởm cái tình trạng
hoang mang khủng khiếp, nỗi cô đơn, nỗi khốn khổ của đời sống không có sự đồng
cảm thấu hiểu “khi tôi giả vờ nghiêm chỉnh đĩnh đạc, người ta truyền tai nhau rằng tôi
là người chín chắn, khi tôi giả bộ lười biếng, người ta nói tôi là kẻ lười chảy thây…khi
tôi giả vờ nói dối người ta bảo tôi là người nói dối đấy…khi tôi làm bộ lãnh đạm,

33
người ta bảo tôi là kẻ lạnh lùng. Nhưng khi tôi đau khổ thật sự bất giác buông lời đau
khổ, người ta lại bảo tôi đang làm bộ làm bộ tịch khổ đau…”[6; tr.71]. Naoji ý thức
được mình “Khi nghĩ đến việc mình chỉ còn cách tự sát để chấm dứt đau khổ giày vò,
tôi đã gào khóc…”[6; tr.72] nhưng anh không thể thay đổi được gì, cuộc sống cứ bị cắt
đứt hoàn toàn với mọi mục đích, sứ mạng xã hội. Trong cái sự tha hóa về tinh thần, cái
chết dường như là lựa chọn để giải thoát cho những bi kịch quằn quại với nỗi đau cùng
cực. Tuyệt vọng, nhân vật quẫy đạp, cố vùng thoát ra lớp sương mù bao quanh, chạy
trốn nỗi sợ hãi từ trong bản thể, cố tìm sự đồng cảm yêu thương, khát khao hướng
thiện trong thế giới đầy người nhưng cô độc “Thật tình, em không hiểu nổi tại sao
mình phải sống. Chỉ những người muốn sống thì mới sống được thôi…những người
muốn sống họ có thể làm bất cứ chuyện gì để sống còn. Điều đó là tuyệt hảo và vinh
quang của kiếp người chắc nằm ở chỗ đó. Nhưng em nghĩ chết cũng không phải là tội
lỗi”[5; tr.149]. Nhà văn Dazai Osamu tạo trong lòng người đọc những tìm tòi, suy
ngẫm sâu sắc, khám phá trong chiều sâu trái tim mình một nỗi đau u hoài mà bấy lâu
nay không thể nào diễn tả bằng lời, ở tinh thần hoài nghi cái chính thống, thái độ hoài
nghi đối với chân lí, qua Tà dƣơng ông muốn gửi gắm tới độc giả thông điệp về tâm
trạng của thế hệ người Nhật sau chiến tranh với nhiều đổ vỡ và mất mát, rơi tự do
trong trạng thái bi đát và buông bỏ, vấn đề sinh tồn của con người trong xã hội, sự hiện
tồn của con người trong tác phẩm của ông trở thành một vấn đề nhức nhối.

Cái chết không hề đáng sợ, cuộc sống mà không có một ý nghĩa gì mới thực sự
đáng sợ. Đất nước Nhật Bản bước vào thời kì hậu chiến với những biến đổi lớn lao,
con người bị đẩy vào guồng quay cuả những biến đổi điên cuồng… Uehara là một nhà
văn sống cuộc đời phóng đãng, tượng trưng cho tinh thần vỡ mộng tuyệt vọng và đồi
phế của tâm thức Nhật Bản “mỗi tối đều đi uống rượu, viết ra toàn những tác phẩm vô
đạoc đức bị thế gian xa lánh và ghét bỏ”[6; tr.99]. Trong vòng xoáy điên loạn, Uehara
và những người trẻ, có cả thân sĩ, diễn viên kịch, những cô gái trẻ chấp nhận những
thói xấu, sự hư hỏng mỗi ngày gặm nhấm, tàn phá thể xác, sự lạc lối, cô đơn của thế hệ
trẻ Nhật được diễn đạt đầy ngụ ý. Mỗi nhân vật độc lập nhưng đều mang trong mình
sự u ám với đầy những thương tổn về tinh thần, phản chiếu sự bế tắc, hẫng hụt, hoang
mang cực độ của xã hội Nhật thời đó“…trong phòng khói thuốc mịt mù, khoảng mười
người đang ngồi quanh một cái bàn lớn, uống rượu mạnh, quậy phá tưng bừng…phì
phèo thuốc lá…hết người này đến người kia ca cái bài hát vô nghĩa không đầu không
34
đuôi…rồi cụng li như thể đó là một nhịp điệu để lấy đà nốc rượu vào cổ họng…”[6;
tr.132] và tinh thần “như bọn chúng ta đây xem việc truy cầu những mĩ đức như thành
thực và đôn hậu chỉ là thứ ngáng chân vướng cổ mà thôi. Đôn hậu à? Thành thực à?
Vứt, vứt hết. Chúng ta có thế sống bằng mấy thứ đó được không? Bây giờ nếu không
thể chào nhau một tiếng nhẹ nhàng nữa thì chỉ còn có ba con đường. Một là về quê
làm ruộng, hai là tự sát, ba là bám váy đàn bà thôi…”[6;tr.139]. Họ rơi vào trạng thái
bế tắc, hẫng hụt trong một xã hội mà mọi giá trị bị đảo ngược và bị từ chối, họ không
chịu đựng nổi sự vấp váp, những tổn thương do đời sống thay đổi mang lại. Sự thu
mình vào bên trong như một cách đối phó, với mong muốn vết thương tinh thần phải
được nhanh chóng chữa lành nhưng dường như mọi thứ lại biến chuyển ngược lại,
trong sự thu mình đó họ lại gặm nhấm sự lạc lối, mọi sự vốn trước kia nề nếp thì bây
giờ trở nên rối loạn điên đảo và hư đốn. Trong cơn lốc ấy, những con người yêu
thương trân trọng với nề nếp truyền thống trở thành lạc lõng, chẳng khác nào tiếng
đàn Shamisen thỉnh thoảng chỉ còn được cất lên như sự gợi nhắc cái quá khứ một thời,
cái khung đã trở thành quá chật chội, đằng sau sự chi phối nội dung, đời sống rộng lớn
vẫn cứ trào ra, vô cùng mạnh mẽ đòi có tiếng nói riêng của nó.

Hình ảnh người mẹ, một phụ nữ quý tộc cuối cùng của Nhật Bản cùng cái chết
của bà có thể coi là sự cáo chung của giai đoạn lịch sử vàng son không bao giờ còn lặp
lại, với mẹ, biết đâu bây giờ lại là hạnh phúc “cái cảm giác hạnh phúc phải chăng
giống như mảnh bụi vàng lấp lánh dưới đáy sông tuyệt vọng? Nếu cái tâm trạng sáng
sủa không thể ngờ khi vượt qua đáy sâu của nỗi buồn là hạnh phúc thì Thiên Hoàng,
mẹ và cả tôi nữa chắc chắn đang hạnh phúc”[6; tr.120] có lẽ mẹ là người cuối cùng có
thể sống được một cuộc đời đẹp đẽ và buồn bã, không ganh đua, không thù ghét sân
hận, từ bây giờ chắc chẳng ai có thể sống được như vậy. Dường như nhà văn Dazai
Osamu mang âm hưởng đời mình vào trong tác phẩm để tạo ra một lớp thảm hư vô,
những bờ vực thẳm mà con người bị treo chơi vơi và lơ lửng“…tất cả những gì tôi viết
đều có vẻ nhảm nhí, chỉ có một nỗi buồn vô phương cứu vãn. Buổi hoàng hôn của định
mệnh. Hoàng hôn của nghệ thuật. Hoàng hôn của nhân loại. Ngay cả điều đó, cũng
tầm thường thôi…”[6; tr.140]. Tác phẩm diễn tả cuộc sống con người, trong tính hiện
thực của nó, niềm vui luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn xen lẫn bóng tối, những
xung đột, có khi đầy bi kịch giữa vẻ đẹp quý tộc cao sang, tao nhã và cái giả dối, ồ ạt,
giữa ước muốn và thực tại, cao thượng và cái thấp hèn.
35
Tuy nhiên những người trẻ trong sáng tác của Dazai Osamu không phải là
những người trẻ tuổi lạc lối giữa cuộc đời, tìm đến lối sống truy lạc, sa đọa, sống một
đời vô nghĩa lý, bi quan và đáng khinh như cách đơn thuần có thể hời hợt phê phán mà
trên hết, bằng những trang văn sống động và sâu sắc, giọng điệu tự nhiên, thẳng thắn,
chân thành tác giả đã thể hiện được bi kịch của những con người mãi trăn trở, ưu tư về
đời sống “…Cuộc sống này buồn quá. Không phải dư thừa nỗi cô đơn, hay nghèo hèn
đâu mà là nỗi buồn đấy. Khi cứ phải nghe tiếng thở dài u uất vọng từ bốn bức tường
thì chắc chắn làm gì có hạnh phúc cho mình đúng không? Khi hiểu được hạnh phúc và
vinh quang của mình chắc chắn không thể có được lúc còn sống thì người ta sẽ cảm
thấy như thế nào đây? Nỗ lực ư? Cái thứ đó chỉ là miếng mồi cho những con dã thú
đói khát thôi. Có quá nhiều những con người bi thảm…”[6; tr.146]. Tà dƣơng phải
chăng chính là kết quả của sự thao thức, khổ đau, hi sinh, trăn trở của tác giả, bởi ông,
những nhân vật của ông và cả những người xung quanh, bằng cách này hay cách khác
lao vào kiếm tìm ý nghĩa đích thực nhưng kết quả là trượt dài bên lề đời, đều cũng chỉ
là những nạn nhân đang bị cuốn trong guồng quay xuống dốc không phanh của xã hội.
Có thể nói, dưới ngòi bút của Dazai Osamu, con người hiện đại bị bóc trần, hiện lên
thảm hại, trống rỗng, họ chịu đựng từng giây phút như chịu từng nỗi đau đớn có thể
cảm thấy được một cách sâu sắc nhất. Đọc tác phẩm, người đọc không chỉ giật mình,
không chỉ hướng về chia sẻ, mà còn phải nhìn lại chính những giá trị tự thân của đời
sống chúng ta, giá trị nhân bản của Tà dƣơng có lẽ chính là ở chỗ đó.

2.3. Khát vọng vƣợt thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn để tồn tại.
Sống trong thời kì đất nước có nhiều biến động về chính trị, kinh tế và xã hội,
trải qua cuộc chiến tranh thế giới thứ hai với từng bước vươn lên của đất nước và con
người, nhà văn dường như thẫm đẫm những nỗi niềm về con người, dường như đâu đó
là sự hi vọng cho sự vươn vai, vượt thoát mạnh mẽ để tồn tại.

Kazuko một cô gái xuất thân gia đình quý tộc, được đào luyện trong môi
trường giáo dục nghiêm cẩn và đậm chất quý phái, nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên,
bật khóc bất cứ lúc nào trước những nghịch cảnh và nỗi đau khổ… cô có vẻ là một tồn
tại mong manh dễ vỡ, nhưng ở đằng sau vẻ mong manh dễ vỡ ấy là một khối sống
mạnh mẽ. Trong thời chiến, theo lệnh tổng động viên Kazuko có thể đào đất, vác đá,
làm mọi việc nặng nhọc như bao người khác. Sau thời chiến, gia đình sa sút, cô gái ấy

36
cũng sẵn sàng làm mọi chuyện đồng áng như mọi nông phu khác,… Từ một quý tộc,
từ một tiểu thư khuê các, đã dũng cảm đi làm một cuộc cách mạng của chính mình,
bằng cách tìm đến với Uehara, một nhà văn, một trí thức thất cách, như hình ảnh của
chính Dazai Osamu, để có một đứa con với ông ta. Kazuko tượng trưng cho sự vượt
thoát lên trên hoang tàn đổ và đổ vỡ, vứt bỏ con người cũ của thủa vàng son để trở
thành một người hành động của thế kỉ mới và hoàn thiện cuộc cách mạng đạo đức của
mình. Với cô, có thể làm chuyện mình thích thì đó mới là cuộc sống thực sự. Cô chọn
tình yêu là đích sống, khát vọng giải phóng, khát khao bung bức khỏi sự trì trệ bế tắc,
nỗ lực để sinh tồn “…Tôi như nghẹt thở với cái ngột ngạt của bến cảng. Tôi muốn
căng buồm ra khơi dù cho ngoài kia đầy bão tố. Những cánh buồm xếp xó luôn bám
đầy bụi bặm. Những kẻ nhạo báng tôi tất cả đều là những cánh buồm xếp xó chẳng
làm được tích sự gì…thật là vô lí khi những kẻ bàng quan, không hề khổ sở chút nào
về chuyện của tôi lại lên tiếng bình phẩm, trong khi cánh buồm của họ lại rũ rượi nằm
đó…”[6; tr.97] ý thức trỗi dậy, bung bỏ, bứt phá tự giải phóng mạnh mẽ trong cô,
quyết tâm vượt qua những định kiến để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc, thực sự sống với
cuộc đời của mình. Sống dũng cảm không phải là cứ phải hi sinh cái gì đó, mà sống
dũng cảm là biết thừa nhận, đối diện với khó khăn, sống có trách nhiệm và biết hành
động để giữ lấy hạnh phúc của mình, dù biết sẽ đầy bão tố, Kazuko cũng muốn đi một
lối riêng, không chấp nhận đi theo lối mòn, dũng cảm vượt qua tất cả để tự do ngụp lặn
trong niềm yêu thích của riêng mình. Kazuko không chỉ nhận thức được rằng đời sống
chính là cuộc chiến sinh tồn, nàng còn thấu hiểu được ý nghĩa của cuộc chiến ấy, cái
vẻ đẹp của lý tưởng đằng sau cách mạng và tình yêu, những điều lâu nay được người
ta gán cho những ý nghĩa cao siêu mà bỏ qua bản chất cuối cùng của nó là sự đổi thay
và tựu thành “Tôi cho rằng, vì tình yêu và cách mạng thực sự là hai điều đẹp đẽ, tuyệt
vời nhất của cuộc đời này nên những kẻ thế gian mới ác ý nói dối chúng tôi rằng đó là
những trái nho xanh. Tôi muốn xác thực điều này. Con người được sinh ra vì tình yêu
và cách mạng”[6; tr.112]. Với một đất nước vừa thất trận nặng nề, cuộc cách mạng
cho một cô gái quý tộc bần hàn như Kazuko là cách mạng trong tình yêu cá nhân, sống
để tuyên chiến với thứ đạo đức cổ hủ, trói buộc con người, dìm con người sâu hơn vào
những luân lí cổ điển phi lí, nhưng thế gian vẫn mặc lòng chấp nhận bởi người ta sợ
cách mạng, sợ sự đổi thay, sợ gian khổ, Kazuko đã tuyên chiến với với nó, chấp nhận
cuộc đấu tranh lâu dài, trước hết là sống và không chỉ là sống mà còn có đứa con ngoài

37
giá thú với người mình yêu. Cuộc sống giữa những biến cố của một thể chế suy vong,
một gia tộc sa sút, khi những người thân yêu nhất lần lượt ra đi, thì để tồn tại và khẳng
định thì nhất thiết phải có một cuộc cách mạng, và đứa con của Kazuko phải chăng
chính là một tựu thành cuả cuộc cách mạng ấy. Sự sống nảy mầm trong bụng Kazuko,
là tiếng thét mãnh liệt vào cuộc sống ngục tù, tăm tối, trụy lạc, phóng đãng… là phản
kháng mãnh liệt cái ủy mị trước cuộc đời của những con người trượt sâu vào những
thất vọng tan hoang để vùng lên đòi sống. Cả một thể chế suy vọng, gia tộc sa sút và
vô số gia đình tan nát, thể chế ấy không cứu vãn nổi cho chính nó nhưng vẫn dựng lên
như một biểu tượng cho hy vọng, cho một niềm tin khắc khoải đeo đẳng, rồi một ngày
nào đó sẽ hồi sinh, và con người đứng trước cái chết vẫn còn hy vọng đó.

Bất chấp sự khả tri hay bất khả tri trước cuộc đời, bất chấp cả mọi thứ đang dần
đi vào bế tắc, diệt vong, Kazuko vượt qua cái khoảng trống nhận thức đó, vùng vẫy
quyết liệt để sống – một cuộc đời dù có tanh mùi máu và xấu xa, nhơ nhuốc “Người
chết đi thật là đẹp. Nhưng còn cuộc sống. Sự sống còn”

Nếu mười hai năm trước đây, Kazuko mơ màng, mộng mị, ngơ ngác như cô
gái trong nhật kí Sarashina chưa từng làm cách mạng cũng chẳng biết đến yêu thương,
nghĩ rằng tình yêu và cách mạng là hai thứ đáng sợ và ghê tởm nhất thì bây giờ cô bắt
đầu thấy thích thú lạ kì với Kinh tế học nhập môn của Rosa rồi Tuyển tập Lenin hay
Cách mạng xã hội chào đón làn gió mới mẻ trong tâm hồn và nhận thức, thích thú với
“…sự liều lĩnh và dũng khí phá huỷ hết tư tưởng xưa nay từ gốc đến ngọn, không có
chút tự do nào. Và tôi chợt nghĩ đến hình ảnh một người đàn bà chạy trong giá lạnh
đến nhà người mình yêu cho dù điều đó vi phạm đạo đức đến thế nào đi nữa. Tư tưởng
phá hoại. Sự phá hoại là điều buồn bã, bi ai nhưng đẹp đẽ. Một giấc mơ về sự phá
huỷ, tái thiết và tựu thành. Mặc dù sau khi phá hoại, ngày tựu thành có lẽ sẽ không
bao giờ đến nhưng vì tình yêu ta phải phá huỷ, ta phải làm một cuộc cách mạng…”[6;
tr.110] và vì lẽ đó, nước Nhật phải trường tồn, những giá trị tinh hoa của dòng dõi
Thái Dương thần nữ phải sống, để bay lên từ đống tro tàn. Người dân Nhật Bản sau
chiến tranh đã mất tất cả nhưng hiện thực chỉ là nhất thời “Không, em thích những
cành cây như thế này. Không hoa không lá, không chồi gì cả. Tuy vậy mà chúng vẫn
đang sống, khác hẳn những cành cây khô”[6; tr.141] và họ phải đứng dậy từ đống đổ
nát mang trong mình niềm hy vọng và giấc mơ to lớn của tinh thần võ sĩ đạo, vốn

38
được kế thừa từ niềm tự hào mãnh liệt bởi các võ sĩ Samurai trong quá khứ. Phải
chăng đó là tâm sự mà Dazai cố lưu lại. Thuật ngữ Tà Dương Tộc đã đi vào văn học
Nhật như một minh chứng cho sự tiếp biến sinh lực này. Cái cũ mất đi, và nó phải mất
đi, không khóc than làm gì, để cái mới được hồi sinh và phát triển, trong một tâm thế
khác, nước Nhật phải vươn lên hàng đầu.

Dazai Osamu là nhà văn có ý thức về cái tôi và sự thể hiện cái tôi trong sáng
tác của mình, ông có khuynh hướng thể hiện yếu tố tự truyện trong tác phẩm, sáng tác
là một cách để nhà văn hoàn thành sự tồn tại của mình trong cuộc nhân sinh. Nhà văn
cũng để lại một vệt sắc nét trong nỗ lực trả lời câu hỏi lớn: trước cuộc đời, thái độ của
con người là gì? Phong cách viết của ông khởi nguồn từ những vấn đề cá nhân, sau đó
gắn kết chúng với xã hội, với cuộc đời, ông là người đến với sân khấu văn học sau
cuộc chiến tranh cuối cùng, bị cuộc chiến làm tổn thương nặng nề song vẫn tràn trề hy
vọng về một cuộc hồi sinh cố gắng hồi sinh vượt lên trên những đau thương mất mát
lớn lao. Lý tưởng dân chủ và quyết tâm không gây ra thêm bất cứ cuộc chiến nào nữa
là cơ sở đạo lý cho niềm ao uớc hồi sinh này những người dân Nhật. Tại đáy cùng
nghèo đói thời hậu chiến, họ có được sức dẻo dai để chịu đựng, để không mất đi hy
vọng vào sự phục hồi.

2.4. Tình yêu trong tiểu thuyết Tà dƣơng


Tiểu thuyết Tà dƣơng tái hiện được nhiều vấn đề thời đại phức tạp và ở nơi
phức tạp, bộn bề ấy vẫn hiện lên tình yêu với vẻ đẹp đúng nghĩa của nó. Đặc biệt tình
yêu ấy còn phải có sức mạnh hơn bao giờ hết để đối mặt với những lớp định kiến xa
xưa ăn sâu vào từng hơi thở xã hội, phải trở thành động lực, là điểm tựa, tiếp thêm sức
mạnh cho con người trong hành trình vượt thoát gian khổ.

Quan niệm tình yêu của Kazuko thể hiện qua những bức thư cô viết gửi nhà
văn Uehara người thầy của cậu em trai Naoji. Kazuko lập ra đình với Yamaki khi cả
cô và chồng đều còn quá non trẻ, chưa biết tình yêu là gì cũng không hiểu được yêu
thương là như thế nào, những hiểu lầm, nghi ngờ bồng bột đã đẩy cuộc hôn nhân đến
chỗ bế tắc “không ai đề cập đến chuyện li hôn nhưng không biết từ lúc nào, không khí
trong nhà trở nên không thể chịu đựng”[6; tr.79] và Kazuko quay về nhà ở khu
Nishikata với mẹ, kết thúc cuộc sống hôn nhân. Nhà văn Uehara là người đã có gia
đình có vợ con, về cơ bản, đó là tình yêu không được chấp nhận. Tuy nhiên từ điểm
39
xuất phát thấp ấy, tình yêu của họ dần hoàn thiện, lần đầu tiên gặp mặt ấn tượng của
Kazuko là rất kì dị, ông như con thú lạ vừa trẻ lại vừa già nhưng khi Uehara hôn cô
lần đầu tiên trên chiếc cầu thang tối tăm cô đã có bí mật của riêng mình để đợi chờ và
hi vọng.

Nhà văn Uehara là bí mật tình yêu của Kazuko, bằng cách đến với Uehara,
Kazuko đã trút bỏ con người thủa vàng son để trở thành một con người hành động của
thế kỉ mới. Bức thư đầu tiên gửi đi, Kazuko đã xa gần nói đến chuyện tình cảm“…tôi
có yêu một người và tôi rất muốn nói rằng trong tương lai tôi sẽ sống như người tình
của anh ta …mỗi lần có chuyện đau khổ, tôi đều muốn chạy đến nhà anh M.C và ngĩ
rằng mình sẽ chết trong tình yêu của anh ấy...Anh M.C cũng như ngài, đã có vợ con
rồi. Và hình như anh ấy còn có những người bạn gái trẻ trung và xinh đẹp hơn tôi nữa,
nhưng tôi có cảm giác nếu như không đến chỗ anh M.C thì tôi không còn đường sống
nữa…” [6; tr.83] bất chấp tinh thần của quan điểm nữ huấn ca, và biết chắc chắn rằng
mẹ và mọi người sẽ không tán thành ý định này nhưng cô bất chấp tất cả, cô là người
“dám huỷ hoại cả thân xác và linh hồn trong hoả ngục vì tình yêu và cả nỗi muộn
phiền sinh ra từ đó” cô mong ngóng một tiếng nói đồng tình nơi người yêu thương.
Tình yêu của Kazuko như chiếc cầu vồng nhỏ bé mờ nhạt, theo năm tháng trôi qua
tăng dần sắc độ, cầu vồng hiện ra sau cơn mưa thì sẽ biến mất nhưng cầu vồng trong
tim thì không dễ gì biến mất. Hình bóng của Uehara như làn sương mù dần dần thấm
vào trái tim cô, cảm giác của sáu năm về trước ở giữa chiếc cầu thang tăm tối của căn
phòng dưới tầng hầm khi Uehara quay người lại và hôn cô một cái rất nhanh, cái cảm
giác trong suốt rõ ràng, gió từ bờ sông thổi vào gò má cô mát rượi, thế gian này sao
bao la như biển lớn mọi thứ chợt hiện lên sống động và tươi mới trong tâm trí và với
cô đó là chuyện trọng đại có thể quyết định vận mệnh của mình.

Trong bức thư thứ hai gửi Uehara, Kazuko đã bày tỏ quan niệm tình yêu của
mình thông qua việc thuật lại câu chuyện về vị tiên sinh goá vợ, ngoài sáu mươi tuổi.
Với cô hạnh phúc và gia đình không phải chỉ cần có vật chất mà quan trọng hơn hết là
phải có lòng yêu “nếu không có lòng yêu thì không thể cưới xin được”. Nhưng nghịch
lí thay giờ đây dù có lòng yêu, mọi thứ cũng thật xa vời, nếu như trước đây nhà văn
Uehara còn độc thân, cô chưa là con dâu nhà Yamaki họ gặp nhau và kết hôn thì
không sống khổ như bây giờ. Kazuko nghi hoặc và phân vân giữa những ràng buộc

40
truyền thống với khát khao bứt phá. Một mặt chấp nhận làm tì thiếp nhưng cũng hiểu
rằng đến với Uehara là đẩy vợ ông qua một bên, đó là một điều ti tiện, đối diện với
người vợ của Uehara, cô thấy tình yêu của mình tội lỗi. Sự tốt bụng của bà làm cô cảm
thấy nỗi cô đơn ngập tràn cơ thể, mọi thứ chợt trở nên nguội lạnh, dao động dữ dội
nhưng rồi vì yêu thương, khao khát nhớ nhung, vì đó là cách cô đứng lên, đấu tranh
với cuộc sống này nên không còn cách nào khác “Con người được sinh ra vì tình yêu
và cách mạng nên chắc chắn thần linh sẽ không trách phạt tôi đâu”[6; tr.113] cần
mạnh mẽ gạt bỏ. Tất cả có vẻ là một kiểu lí luận khiên cưỡng và kì dị và vô lí của một
phụ nữ ba mươi tuổi nhưng bất chấp tất cả, cuối cùng “Tôi muốn sinh một đứa con
mang giọt máu của ngài. Dù có chuyện gì đi nữa, tôi cũng không mang thai con của
người khác ”[6; tr.91]

Khi bắt đầu yêu một ai đó đậm sâu, tự ta sẽ ý thức với chính mình rằng mình
không bao giờ làm gì sai trái để làm tổn thương người mình yêu, cái ý thức đó, quan
trọng hơn bất kì một lời hứa hẹn và thề thốt nào. Kazuko đã viết ba bức thư gửi Uehara
nhưng không nhận được hồi âm, không thể tìm ra cách sống nào khác nên cô đã đặt
chọn con tim mình vào ba bức thư kia, dù biết đã đi lệch khỏi khuôn thước đạo đức
nhưng cầu vồng tình yêu trong tim cô không chỉ là nỗi nhớ mờ nhạt xa xăm mà là
chiếc cầu lửa, nỗi nhớ thiêu đốt cháy bỏng tim gan với sức lực của mình cô không thể
nào dập tắt nó và cũng không thể lí giải nó. Chẳng có lí do nào cho tình yêu cả.
Kazuko quyết tâm lên Tokyo để gặp bằng được ông Uehara vì cánh buồm đã vươn lên
và tàu đã ra ngoài bến cảng, không thể đứng đó mãi được. Cô gái có thể mạnh mẽ lắm
trước những giông tố cuộc đời, nhưng xin đừng bao giờ bỏ mặc cô ấy chơi vơi với nỗi
cô đơn bởi khi đó là lúc cô ấy cần ở bên hơn bao giờ hết. Kazuko viết thật nhiều cho
Uehara vì cô muốn một cái ôm che chở từ ông, để cô dựa vào mà vươt qua mọi khó
khăn. Tình yêu làm trái tim thức dậy và thổn thức.

Nếu bí mật của Kazuko là nhà văn Uehara thì Naoji cũng có bí mật mà trong
suốt thời gian dài anh đã giấu kín, tình yêu mà anh mang theo ngay cả khi ra chiến
trường anh cũng nghĩ đến người đó, mơ thấy người đó, rồi khi tỉnh dậy Naoji không
nhớ mình đã bao lần khóc thổn thức nếu không nói ra “thì khi chết đi rồi được hoả
táng, con tim em vẫn còn đập, không cháy hết được”[6; tr.156], Kazuko yêu phu nhân
Suga, vợ một hoạ sĩ trung niên hoang đàng và loạn bạo chuyên vẽ tranh Tây phương

41
đột nhiên nổi tiếng sau chiến tranh vì cách biểu hiện mới mẻ, anh yêu khổ sở đôi mắt
của người đó trong lần đầu gặp mặt vào một buổi chiều mùa hạ ghé thăm nhà của hoạ
sĩ. Anh bị nét mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những nét thanh tú của nàng đánh
gục “…em bị lôi kéo bởi sự đẹp đẽ trong tâm hồn vị phu nhân, không, em đã nhớ
nhung và ngưỡng vọng người ta với một tình cảm yêu thương thực sự. Và rồi cuối
cùng, em đến chơi nhà vị hoạ sĩ đó vì chỉ muốn nhìn thấy hình dáng của người em
yêu…”[6; tr.159]. Naoji yêu nàng ngay cả trong giấc mơ nhưng vì nàng anh quyết định
từ bỏ, quên đi, làm tất cả để xa lìa cái huyễn ảnh của nàng nhưng tất cả dường như vô
ích vì Naoji là “cái thằng đàn ông suốt đời chỉ có thể yêu một người phụ nữ duy nhất
em có thể nói rõ rằng, ngoài người ấy ra, em chưa một lần cảm thấy ai đẹp và dịu hiền
trong số những người em đã gặp”, tình yêu với Naoji thiêng liêng, anh trân trọng vẻ
đẹp và con người của nàng “Tên người đó em không thể nói ra được với bất cứ ai. Bây
giờ em sắp chết nên em định nói ra rõ ràng cho chỉ riêng chị biết nhưng quả thật vẫn
thấy sợ không thể nói ra cái tên đó được”[6; tr.156] người anh yêu thương và ngưỡng
vọng.

Nhưng nếu Kazuko chọn tình yêu là phương thuốc cứu chữa tâm hồn, lấy đó là
sức mạnh vướt thoát thì Naoji phản kháng thế gian mà anh bất khả tri kia bằng cái
chết, Naoji không còn lối thoát nào hết trong cuộc đời, lối duy nhất cho chàng là cái
chết, đến tình yêu còn không cứu vãn được con người ta thì trái tim đã vô phương cứu
chữa mất rồi “có lần em mơ nắm tay người phụ nữ ấy và biết được người ấy cũng
thương em từ lâu. Khi tỉnh dậy, tay em vẫn còn vương hơi ấm ngón tay của người đó
và em nghĩ như vậy là đủ rồi, phải từ bỏ thôi”[6; tr.161]. Yêu nhưng Naoji vẫn quyết
định từ bỏ, chuyển ngọn lửa bỏng cháy mang tên tình yêu sang một hướng khác, chơi
bời cuồng loạn với bất cứ cô gái lẳng lơ nào vớ được, chỉ để quên để xa lìa cái huyễn
ảnh của người phụ nữ anh yêu.

Tình yêu trong tiểu thuyết Tà dƣơng là vẻ đẹp cứu rỗi tâm hồn, trong tình
cảnh đau khổ và tuyệt vọng nhất, tình yêu như ánh sáng le lói dẫn dắt con người hướng
về tương lai. Văn học Nhật Bản nổi bật với tinh thần duy mỹ, yêu chuộng cái đẹp được
nâng lên thành tín ngưỡng trong tâm hồn và tâm linh người dân xứ sở họ. Mang trong
mình dòng máu quê hương bằng đôi mắt tinh tế của mình nhà văn đã cảm nhận, phát
hiện, vẻ đẹp sâu thẳm tâm hồn của con người, ý thức tôn vinh tình yêu và cái đẹp của

42
ông không trực tiếp như các nhà văn khác nhưng nó thấm đẫm ngầm ẩn xuyên suốt tác
phẩm. Văn học Nhật Bản đến với Việt Nam có phần muộn màng và không ồn ào, chỉ
lặng lẽ như tính cách người Nhật, nhưng bù lại, văn học Nhật Bản nhanh chóng chiếm
lĩnh trái tim người đọc vì vẻ đẹp ít lời mà sâu thẳm của nó.

2.5. Tình cảm gia đình trong tiểu thuyết Tà dƣơng


Ai cũng có một gia đình, thuộc về một gia đình. Đó là nơi ra đi và cũng là chốn
quay về, với nền văn hoá các nước phương Đông vai trò của gia đình đối với mỗi cá
nhân còn đặc biệt hơn. Gia đình trong Tà dƣơng là gia đình của một quý tộc sa sút
phải sống cuộc đời thường dân, phải đối mặt với những thách thức của xã hội thời hậu
chiến, gia đình trong tác phẩm như biểu tượng thu nhỏ của xã hội Nhật Bản lúc bấy
giờ.

Người mẹ được khắc họa trong tác phẩm tượng trưng cho cấp độ tuyệt vọng
ban đầu, dù đau khổ trước cái chết của chồng, sự sa đọa của đứa con trai, và nỗi bất
hạnh của cô con gái thì bà vẫn cam chịu, đó là sự nín nhịn trước cuộc đời, dìm bỏ cảm
xúc cá nhân, tảng lờ đi đời sống thực không quan tâm đến tiền bạc, đến đời sống, mặc
kệ mọi sự cho chú Wada là em trai và là người thân duy nhất của mẹ lo liệu, niềm tin
mẹ giành cho chú Wada là niềm tin đẹp đẽ tuyệt đối “vậy chú làm sao được thì làm”.
Ngay cả chuyện chuyển nhà, mẹ cũng làm theo yêu cầu của chú “Bởi vì chú Wada nói
đó là một nơi rất tốt. Mẹ cảm thấy chúng ta cứ nhắm mắt mà dọn đến ngôi nhà
đó…”[6; tr.24]

Với bà, gia đình chính là nền tảng, là động lực, bà sống vì những kí ức đẹp đẽ
về chồng, tình yêu những đứa con, là nơi những đứa con dựa vào. Bà là lẽ sống của
Kazuko, khi cô phạm sai lầm, không vội vàng phán xét, bởi bà hiểu rằng ai cũng có lúc
phạm sai lầm và trưởng thành bằng chính những sai lầm đó. Khi biết mình đã sai, con
cái cần một điểm tựa tinh thần và cha mẹ chính là bến bờ để cô trở về và thấy yên bình
nhất, có những lo lắng vẫn ở đó ngay khi ta không còn là một đứa trẻ, có những yêu
thương và trăn trở bao dung đến độ không đổi thay bao giờ, ngay cả khi ta đã lớn.

Ngôi nhà ở khu phố Nishikata là ngôi nhà gắn với truyền thống gia đình, nơi
đó có người cha đã mất, chứa đựng những kỉ niệm đẹp đẽ của thủa vàng son, phải rời
43
bỏ nơi ấy là một việc làm vô cùng khó khăn đối với mẹ, mỗi ngày có phu khuân vác
đến thu xếp hành lí chuyển đi nhưng mẹ không phụ giúp gì dù chỉ là đụng đến một
ngón tay, cứ suốt ngày chôn mình trong phòng thờ thẫn “Vì có Kazuko nên mẹ mới tới
Izu. Chính vì có Kazuko đi cùng mẹ đấy” nếu không có Kazuko thì “Mẹ thà chết đi còn
hơn. Mẹ muốn chết trong ngôi nhà mà cha con đã qua đời”[6; tr.26] Mọi chuyện cứ
xảy đến như một cơn ác mộng, với mẹ ngôi nhà ở Nishikata vô cùng có ý nghĩa, mẹ
chỉ muốn ở thêm dù chỉ một ngày thậm chí nửa ngày, dùng dằng muốn ở lại căn nhà
lâu hơn chút nữa không muốn dời đi, mãi đến khi chú Wada nói hôm nay phải khởi
hành mẹ mới miễn cưỡng nói lời tạm biệt “Mẹ thật tội nghiệp biết bao…chúng tôi
không cần bất cứ thứ gì nữa. Cuộc sống của mẹ con tôi đã kết thúc kể từ khi rời khỏi
ngôi nhà ở Níhikata”[6; tr.29]. Trước đây, mẹ chưa lần nào tỏ ra yếu đuối, cũng chưa
bao giờ Kazuko thấy mẹ khóc đau khổ, cho dù là lúc cha mất, lúc Kazuko bụng mang
dạ chửa quay về nhà, hay lúc cô nằm liệt giường rồi ngay cả khi Naoji quậy phá. Mười
năm kể từ ngày cha mất, mẹ không thay đổi chút nào, vẫn lạc quan và hiền dịu, vì
Naoji và Kazuko mẹ trang trải tiêu pha chẳng tiếc chút gì, phải chi bà là người hẹp
lòng, la mắng con lặng lẽ tiết kiệm cho riêng mình thì dù thời thế có đổi thay đến mức
nào cũng không tới mức cùng quẫn như bây giờ.

Người mẹ hiền dịu ấy, không bao giờ có ý định cưỡng ép con, chỉ im lặng chờ
đợi cho đến khi con thấu hiểu, và cho đến khi Kazuko thấm dần sự cao đẹp của mẹ thì
sự sợ hãi cũng xâm lấn, rằng “cả tôi và Naoji đã hiếp đáp một người mẹ tuyệt vời như
vậy, làm mẹ suy nhược và hao mòn đến độ có thể giết chết mẹ” Kazuko cứ nghĩ quanh
quẩn và sợ hãi trước một tương lai tối tăm, dự tưởng đến những điều không hay. Làm
gì cô cũng nghĩ tới mẹ, tới gia đình, vụ hoả hoạn làm cô ân hận và khổ sở vô cùng, nếu
như có gió lớn thì sự bất cẩn của Kazuko có thể làm cả thôn bị thiêu rụi, lúc đó “chắc
mẹ cũng không sống nổi và tôi còn làm nhơ nhuốc thanh danh của người cha đã mất.
Tuy bây giờ chẳng còn là người của hoàng gia hay quý tộc gì nhưng nếu như phải chết
tôi cũng muốn chết một cách cao đẹp”[6; tr.42] Cảm ơn mẹ, vì đã luôn bên cô dù
chẳng bao giờ nói thành lời, dù đôi khi cô vẫn cố tình ương bướng không chịu nghe lời
để rồi khi vấp ngã mẹ là người bên cạnh lại cùng cô bắt đầu. Cảm ơn mẹ đã sinh ra cô
trong cuộc đời này ban tặng cho con món quà cuộc sống, để cô được làm người và
hưởng trọn vẹn tình mẫu tử thiêng liêng, cám ơn mẹ vì mẹ đã dành cho cô tình yêu vô

44
bờ bến, mẹ luôn ở đó, bên cạnh cô, không chỉ là người bạn thân nhất mà mẹ còn là
người thầy đầu tiên dẫn cô đi trên đường đời.

Naoji khi đang học đại học thì bị triệu tập nhập ngũ đến vùng đảo phía Nam, từ
đó bặt vô âm tín. Chiến tranh kết thúc nhưng vẫn không rõ tung tích và tuy đã chuẩn bị
tinh thần là không thể gặp lại nhưng mẹ chưa một lần chấp nhận suy nghĩ này “- Mẹ
định từ bỏ hi vọng về Naoji nhưng ăn canh súp con nấu ngon quá làm mẹ nhớ em
không chịu nổi. Phải chi mẹ làm được nhiều điều cho em nó hơn”, trước bao nhiêu
việc Naoji đã khiến mẹ buồn phiền, mẹ ngay cả khi ăn súp vẫn nghĩ đến Naoji Mẹ
nghe lời Naoji, trước khi Naoji trở về mẹ bị đau lưỡi nằm ngủ li bì, nhìn bên ngoài thì
không có gì khác lạ nhưng khi cử động thì rất đau, đến bữa chỉ húp được vài thìa cháo
loãng, thuốc Lugol cũng không có hiệu quả gì. Và dù rất ghét nhưng thứ đắp lên mặt
như bông băng hay mắt kính nhưng dường như mẹ tin tất cả những gì Naoji nói và sẵn
sàng nghe theo liệu pháp mĩ học của Naoji nhận lấy khẩu trang, đeo cẩn thận vào hai
bên tai. Naoji sau khi lấy của mẹ hai ngàn yên thì lên Tokyo mất dạng, mười ngày trôi
qua mà chưa trở về để mẹ cứ mang khẩu trang mà chờ đợi trong mòn mỏi.

Naoji vỡ mộng, tan hoang, thất cách, xa lạ và dửng dưng với chính bản thân
mình, cái chết luôn là ám ảnh khôn nguôi, là đích đến cuối cùng, anh không còn lối
thoát trong cuộc đời, nhưng Naoji của Dazai Osamu vẫn còn có ít nhất một điều khiến
anh phải chần chừ trước khi quyết định chấm dứt cuộc sống “Đáng ra em nên chết
sớm hơn. Nhưng có một thứ: tình yêu của mẹ. Mỗi lần nghĩ đến điều đó, em không thể
nào chết đi được. Em nghĩ rằng con người cùng với quyền được sống tự do thì cũng có
quyền chết tuỳ ý nhưng chừng nào mẹ còn sống thì quyền chết này phải bị tạm hoãn
thi hành. Bởi vì nó sẽ cùng lúc dẫn đến tội giết mẹ luôn”[6; tr.154]. Đó là mẹ. Naoji
yêu mẹ, bà đã sinh ra anh, luôn dành cho anh tình yêu thương và sự quan tâm sâu sắc
nhất, anh còn yêu, thậm chí tôn thờ bà, bởi bà là biểu tượng tuyệt hảo của quý tộc tính
cao sang và tao nhã tuyệt đối, một phẩm chất nhân cách đáng ngưỡng vọng. Cuộc sống
ngột ngạt khủng hoảng, cứ trở về nhà, tay mẹ đây... đủ ấm để ôm và làm anh bình yên
hơn, khi mẹ chết - vì ho lao, với Naoji, đó cũng là cái chết của một biểu tượng và anh
chẳng còn lý do gì để mà luyến tiếc cuộc sống.

Có rất nhiều chuyện, trước khi kịp quý trọng thì đã thành chuyện xưa. Có rất
nhiều người, trước khi kịp để tâm thì đã thành người cũ. Nhưng gia đình thì luôn là
45
bến đậu chẳng bao giờ xưa và cũng chẳng thể trở thành cũ, ở đó luôn có một thứ tình
yêu như ngọn không bùng lên dữ dội, cứ âm ỉ nhưng chưa bao giờ tắt, dù bất kì lúc
nào, đó là tình yêu gia đình, gia đình là nơi yên tâm dựa vào và quay về. Gia đình nơi
yêu thương luôn luôn hiện hữu.

Dường như trong một xã hội đảo loạn hậu chiến, con người nạn nhân của thời
kì quá độ đạo đức, những truyền thống vàng son, những giá trị chuẩn mực tốt đẹp,
bỗng bị quên lãng, người ta lao vào sống mới, sống khác, tự vẽ cho mình thứ thời
trang đạo đức loè loẹt, thì gia đình như tấm gương soi để khi nhìn lại còn thấy phản
chiếu những giá trị tuyệt vời để gìn giữ. Gia đình dường như chưa phải đề tài bao trùm
tuyệt đối trong tiểu thuyết Tà dƣơng, nhưng gia đình là điểm tựa quan trọng tạo cho
nhà văn điểm nhìn sắc nét, cột mốc nhìn ra xã hôi, là tượng trưng cho tinh tuý truyền
thống cho nề nếp cao sang chuẩn mực, cũng là bi kịch về sự thất thế của những giá trị
đẹp đẽ có trong xã hội điên đảo, tàn nhẫn, lạnh lùng.

46
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG

3.1. Kết cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng.

Theo Hà Minh Đức trong công trình Những nguyên lí về lí luận văn học, kết
cấu nghệ thuật là “sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục tác phẩm, là sự tổ
chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời
sống khách quan theo một chiều hướng tư tưởng nhất định”[3; tr.143] kết cấu nghệ
thuật là một trong những khía cạnh thể hiện nhận thức, tài năng, phong cách của người
nghệ sĩ, một bình diện quan trọng trong việc đánh giá một tác phẩm văn học.

Nhà văn Dazai Osamu xây dựng kết cấu Tà dƣơng chủ yếu dựa trên sự phát
triển tâm lý của các nhân vật trong tác phẩm, tiểu thuyết là câu chuyện về một gia đình
quý tộc sa sút vì chiến tranh, người mẹ đại diện cho vẻ đẹp truyền thống, hoài niệm về
quá khứ đẹp đẽ đã mãi mãi mất đi, cô con gái Kazuko cam chịu rời bỏ quan niệm
truyền thống để thích ứng với hoàn cảnh mới, gia đình mong chờ người con trai trở về
từ chiến trường nhưng anh trở thành kẻ nghiện ngập. Truyền thống nghi thức vốn được
tôn trọng trong gia đình ấy dần dần bị thải bỏ. Rồi người mẹ chết, Naoji tuyệt vọng
trong thất bại của chính mình và của cả xã hội hậu chiến, đã tự tử. Kazuko quyết tâm
có con với Uehara, người trí thức vỡ mộng vì thời thế, hi vọng đứa con sẽ là điểm tựa
tinh thần và đạo đức cho mình. Bằng khả năng sắp xếp tinh tế, tổ chức lại chất liệu, bỏ
bớt đi cái thừa, phát triển thêm những cái chưa có, nối liền cái xa nhau, những nếp
sống cổ truyền bình lặng và cái quyết liệt của cuộc sống thời hậu chiến với sự sa sút từ
trong nhận thức hiện lên đau đớn khốc liệt trong tác phẩm. Những vết thương như bị
trăn đi trở lại, không ngừng bị dày vò, như thể chưa bao giờ muốn lãng quên, như thể
không bao giờ nguôi ngoai được rồi cả những nỗ lực vượt thoát, tất cả tạo thành chỉnh
thể mang giá trị nghệ thuật có sức sống như một sinh mệnh thực sự cho Tà dƣơng.

Dazai Osamu chọn nhật kí để truyền tải thông điệp của mình, nhật ký là một
thể loại văn học đặc biệt, tự thời xưa, trong văn học Nhật Bản, nhật kí vốn đã được coi
trọng và phát triển với những màu sắc riêng tư, đây là thể loại tự nhiên nhất để bộc lộ
nội tâm, nhật ký thường chân thành và công nhiên trong phát ngôn. Vì trực tiếp ghi lại
những gì đã diễn ra, đã nếm trải của các nhân vật nên nhật kí đưa người đọc đi thẳng
vào thế giới bên trong mà không cần qua trung gian của người kể chuyện, ghi lại cảm

47
xúc một cách đậm nét, bao giờ cũng xoáy sâu, tự phân tích, tự tìm hiểu, để cá nhân
người viết tự phiêu lưu trong tâm hồn của chính mình.

Ngoài ra, Dazai Osamu còn tinh tế trong việc dùng thư từ tạo thành những
chương riêng cho tiểu thuyết, thư được sử dụng với mục đích nhấn mạnh tính xác
thực, thuyết phục, đồng thời thể hiện đời sống tình cảm riêng tư rõ rệt, điểm nhìn bên
trong được nhân lên qua những bức thư. Hình thức và lời lẽ thư từ “Gửi đến ngài
Uehara Jiro…. Mong chờ hồi âm của ngài… P.S: Gần đây tôi đã có da có da có thịt
chút ít…[6; tr.85]”, “Chị à!… Một lần nữa xin vĩnh biệt”[6; tr.163], “Gửi đến M.C. My
Comedian (Gã hề của em)…Ngày 7 tháng 2 năm Chiêu Hoà thứ 22 (1947)”[6; tr.168]
gợi cho người đọc cảm giác của sự gần gũi, tin cậy và chân thành.

Nhật kí và thư từ là môi trường hoà tan các yếu tố nội tại của Tà dƣơng, vì vậy
cái mà người đọc được chiêm nghiệm không chỉ là hiện thực mà cả những trạng thái,
cung bậc, những diễn biến tâm lý phức tạp, khó nắm bắt nhất của nhân vật. Tiểu thuyết
Tà dƣơng kết nối với nhau theo một lộ trình có chủ ý, sự sắp đặt các yếu tố của văn
bản tạo nên cấu trúc riêng biệt, nhà văn đã khéo léo tổ chức làm cho cho chủ đề, tư
tưởng thống nhất và thấm sâu vào từng bộ phận của tác phẩm kể cả những chi tiết nhỏ
nhất.

Sự xuất hiện liên tục của trạng thái tinh thần cho ra hệ quả là hiện tượng trộn
lẫn, nhân vật đang nghĩ cái này cũng có thể chợt nghĩ đến cái khác rồi quay trở lại,
tưởng chừng như mọi ý nghĩ đều dang dở, những câu chuyện kể về mình, về người
khác, hiện ra đậm nhạt, tưởng như kết thúc mà vẫn cứ lửng lơ, dòng tâm tư không có
biến cố trung tâm lại trở thành kho báu vô tận của những cảm giác, dẫn đến hiện thực
đầy ắp được cấu trúc lại theo lối hoàn toàn chủ quan của cái tôi cá nhân. Nhân vật kể
chuyện sống trong một vũ trụ không chia ranh giới, vì thế, sức nặng của câu chữ,
không nằm ở những biến cố, sự kiện, tình tiết mà lắng đọng trong từng chuỗi suy tư,
chiều sâu của chiêm nghiệm.

Khơi gợi từ chính cuộc sống, nhật ký tạo ra một cái tôi không ngừng khám phá,
đổi mới. Ở góc nhìn chủ quan nhất, nhật ký là cuộc tôi luyện cần thiết hướng tới ghi
chép trung thực và thành thật, bởi vì chỉ có trung thực với chính mình, với suy nghĩ và
xúc cảm đời thường, người ta mới dám đặt ra trách nhiệm với những điều được kể lại.

48
Với kết cấu tâm lí, nhà văn không cần gồng gánh những thủ pháp kĩ thuật cầu kì mà
chỉ cần thả xuôi theo dòng chảy của tâm trạng nhân vật từ đó diện mạo tiểu thuyết hiện
ra, và người đọc có dịp khám phá người cầm bút với thế giới nghệ thuật ngôn từ.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3.2.1. Xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình và hành động nhân vật
Để người đọc có thể thấy được rõ nét tính cách của nhân vật nhà văn Dazai
Osamu rất chú ý trong việc mô tả hành động, thể hiện tính cách nhân vật qua miêu tả
hành động là một thủ pháp cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, hành động là
những việc làm cụ thể của nhân vật trong các quan hệ ứng xử với các cá nhân vật khác
nhau và trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Hành động được xem như
là kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức, quá trình tâm lý, quá trình tình cảm, qua
hành động nhà văn muốn để cho nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng,
trạng thái diễn biến bên trong nhân vật.

Dazai Osamu xây dựng người mẹ là hình ảnh đẹp đẽ, mẹ là người phụ nữ quý
tộc thực sự, không cần kiểu cách mà vẫn toát lên vẻ cao sang không thể nào sánh nổi
“Mẹ nghiêng mặt về phía cửa sổ nhà bếp, nhìn ra những cành hoa anh đào núi đang
độ mãn khai. Cứ nghiêng mặt như thế mẹ lại đưa một thìa súp lên miệng, cho vào
khoảng hẹp hia môi nhẹ nhàng trút xuống”[6; tr.11], những kiểu cách ăn uống không
phải được quy định chính thức trong lễ nghi nhưng trong mắt những đứa con nó lại vô
cùng khả ái, dù không có tước vị gì cũng là một quý tộc cao sang như thể trời ban cho
một thiên tước - cốt cách tinh hoa quý phái chân chính. Và những đứa con dù muốn
thực hiện một cách thinh khoái và thuần khiết nhưng “lũ khất thực cao cấp như chúng
tôi nếu bắt chước một cách tệ hại thì chẳng phải đã trở thành một kẻ ăn mày thực sự
hay sao nên tôi đành gắng chịu đựng vậy”[6; tr.14]. Sau chiến tranh, mẹ chấp nhận
cuộc đời, đã từ bỏ vũ khí, buông tay trước số phận, tảng lờ đời sống thực. Chuyển tới
Izu, với mẹ là sự cam chịu chấp nhận, sắc mặt mẹ rất xanh xám, dùng dằng muốn ở lại
căn nhà lâu hơn chút nữa, không muốn rời đi, mẹ miễn cưỡng mặc áo khoác, nói lời
tạm biệt với mọi người. Trong chuyến xe lửa vắng vẻ, mẹ sắc diện rất xấu, ủ rũ gục
đầu và co ro vì lạnh, thấy sơn trang mới mẹ thoáng vui với bầu không khí trong lành,
tinh khiết, cảnh vật yên tĩnh, nhưng mọi chuyện chỉ có vẻ ổn cho đến bữa ăn “mẹ chỉ
cầm đũa chấm mút chút ít và khi trời vừa chạng vạng tối, mẹ cất giọng khe khẽ: Để

49
cho mẹ ngủ một chút ”[6; tr.29]. Mẹ sốt và cứ nằm như thế và chẳng ăn được thứ gì,
cuộc sống dường như chấm dứt khi họ rời khỏi căn nhà với bao nhiêu kỉ niệm, tất cả
như một giấc mơ thôi, lúc mới chuyển đến nhà ở Izu mẹ chán nản, lúc lên xe điện là
lúc mẹ nhận ra lòng mình đã chết đi một nửa và khi đặt chân đến đây, mẹ cảm thấy
tâm trạng vui lên một chút nhưng khi chập choạng tối mẹ như kiệt sức vì da diết nhớ
Tokyo.

Cuộc sống với Naoji cũng là một chuỗi bất định, anh tan hoang, hoài nghi
trong tâm tưởng, giao lưu bù khú với với những người như Uehara và bạn bè của ông
ta, lăn lóc trong men rượu, tệ nạn nhưng kết quả không như mong đợi, sự dấn thân của
Naoji là sự công phu giả dối vụng về, nó khiến anh ngày càng trở nên căm ghét chính
mình và ngày càng trở nên xa cách với nhân gian. Vừa trở về, Naoji đã lấy của mẹ hai
ngàn yên, bảo mình phải gặp bạn bè ở Tokyo, tới gần mười ngày trôi qua mà chưa thấy
trở về, lang thang chơi bời với ông nhà văn Uehara, bị nuốt chửng trong vòng xoáy
điên loạn của Tokyo, rồi sau khi ăn nhậu bê bết thì lếch thếch quay về Izu, mặt xanh
xao vàng vọt như một kẻ bệnh tật nặng và lăn ra ngủ li bì…

Kazuko là một cô gái nhạy cảm, cô từng dán bức tranh của Renoir vào hộp
diêm trong nhà bếp hay làm khăn tay cho búp bê, rồi nói chuyện về hoa hồng trong
vườn như thể nói về một sinh linh nào đấy, Kazuko là cô gái khiến người bên cạnh
luôn dạt dào cảm hứng, từ lúc còn nhỏ, rất nhiều người nói rằng, ở bên cạnh cô sẽ quên
hết mọi muộn phiền. Kazuko cũng là người hay khóc - khi quá thất vọng “chỉ nói được
chừng ấy, quá đau xót, nước mắt tôi trào ra, rồi cứ đứng gục đầu im lặng” [6; tr.37]
khi được mọi người cảm thông “nước mắt ôi trào ra giàn giụa nhem nhuốc cả khuôn
mặt”[6; tr.40] khi ấm ức“nói thế rồi nước mắt trào ra, tôi khóc lớn… Tôi hét lên và
khóc tức tưởi…nói xong tôi chạy vô phòng tắm, vừa khóc thổn thức vừa rửa tay chân
mặt mũi. Sau đó thì lên phòng thay đồ và lại khóc tức tưởi. Tôi cứ khóc, tiếp tục khóc.
Tôi chạy lên tầng hai nằm vùi trên giường, lấy chăn chùm kín đầu và khóc đến rạc cả
người”[6; tr.54], khi cảm động “thấy mẹ lo lắng choKazuko còn hơn lo lắng cho sức
khoẻ của mình nữa, tôi lại càng buồn hơn, đứng dậy chạy vào phòng tắm và khóc lóc
không ngừng”[6; tr.115]. Kazuko giàu sức chịu đựng, tiếp tục bước tiếp, một cách nào
đó, cô gái đang ở gần nơi mình muốn đến hơn rất nhiều bởi từ chối đối mặt với một

50
điều gì đó không bao giờ có thể thay đổi được hoàn cảnh và không thể học được từ
thất bại hay sai lầm nếu từ chối đối mặt nó.

Ngoài ra để khắc hoạ nhân vật, nhà văn còn rất chú trọng đến ngoại hình của
nhân vật. Ngoại hình chỉ toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân
vật, đó chính là những nét về diện mạo, hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong của
nhân vật được biểu hiện trong tác phẩm. Chỉ bằng vài nét bút thoáng qua có tính chất
chấm phá nhưng tác giả đã tái hiện, dựng lên chân các nhân vật trước mắt người đọc.
Ông Uehara là người nhỏ thó, sắc mặt tối tăm, u ám, lạnh lùng, lần đầu tiên gặp mặt,
Uehara đang một mình đọc báo trong nhà, ông mặc bộ hakama kẻ sọc và cái ấn tượng
đầu tiên của Kazuko về ông là rất kì dị, như một con thú lạ, trông vừa trẻ lại vừa già,
ông ta nói bằng giọng mũi hơi ngắt quãng, khi biết Kazuko là chị Naoji thì ông bật
cười làm cô cảm thấy ớn lạnh. Uehara là thầy của Naoji, trong mắt Kazuko, ông có
chút gì tà mà, uống rượu bằng li thuỷ tinh, cụng ly “rượu chảy lan từ khoé miệng ướt
tới cằm, ông lấy lòng bàn tay chùi chùi một cách vội vàng thô tục, sau đó ông liên tục
hắt xì hơi năm sáu cái rõ to”[6; tr.135], Kazuko ban đầu để lấy lòng em trai mới đọc
những tác phẩm của ông, tuy không phải là độc giả nhiệt tâm, có lúc thích thú, có khi
không nhưng kí ức về ông trong sáu năm trời đã ngấm dần vào trái tim cô. Sáu năm
sau gặp lại, ông dường như trở thành con người hoàn toàn khác “Mái tóc dối bù ngày
xưa vẫn vậy nhưng có phần xơ xác và thưa hơn trước, mặt xệ ra và vàng vọt hơn, mắt
đỏ quạnh, răng cửa bị rụng đi mấy cái, miệng cứ nhai trệu trạo không ngừng. Tôi có
cảm giác như mình nhìn thấy một con khỉ già lưng còng đang ngồi trong góc phòng
vậy”, khi thấy Kazuko đến “người ấy vẫn ngồi yên, chỉ rướn cái cổ dài nhìn về phía
tôi, không chút cảm xúc, ông hất cằm ra hiệu cho tôi ngồi xuống”[6; tr.133]. Vợ của
ông là một phụ nữ quê mùa, mặt gầy gò, bà lớn hơn Kazuko chừng ba bốn tuổi, hiền
lành, tốt bụng và hay cười. Cô con gái là khoảng mười hai, “mười ba tuổi có đôi mắt
to, thân hình gầy ốm, có vẻ không chút thân thiện với người lạ một chút nào”
[6; tr.130]. Rồi những con người mà Uehara thường qua lại, bà chủ quán rượu mặt
trắng xanh như người có bệnh, có giọng nói đầy chân tình, từ tốn tự tay rót rượu vào
chén uống trà của mình, người phục vụ tên Kinu tuổi trên ba mươi, mặc kimono có
hoa văn nhã nhặn, lão hoạ sĩ Fukui là một ông già người nhỏ thó, đầu hói trụi, tuổi
chừng trên năm mươi mặc một bộ quần áo ngủ sặc sỡ, miệng cười nhăn nhở... Miêu tả
ngoại hình nhà văn đã không sao chụp máy móc chân dung các nhân vật mà chỉ phác
51
họa tái hiện lại bằng một vài nét thoáng qua có tính chất chấm phá nhưng người đọc có
thể nhìn thấy một cách sinh động tính cách nhân vật.

Khi xây dựng nhân vật, để khắc hoạ rõ nét, sống động cá tính của nhân vật nhà
văn còn rất chú ý đến những lời đối thoại của nhân vật. Qua lời đối thoại, ngoài thông
tin thể hiện ta còn dễ dàng hiểu được cách suy nghĩ và qua đó mà hiểu được tính cách
nhân vật.

“Mẹ vào phòng của tôi, chống tay lên bàn, ngồi xuống với vẻ rã rời và buông một câu.

- Mẹ quyết định rồi.


- Quyết định cái gì vậy mẹ?
- Tất cả.
- Nhưng mà… Nhà cửa như thế nào mẹ còn chưa xem qua mà.

Mẹ tựa khuỷu tay lên bàn, sờ trán và khẽ thở dài:

- Bởi vì chú Wada nói đó là một nơi rất tốt. Mẹ cảm thấy chúng ta cứ nhắm mắt
mà dọn đến ngôi nhà đó thì cũng được chứ sao [6; tr.24]

Ẩn chứa trong đoạn hội thoại yếu ớt với cô con gái là một nỗi buồn vô hạn của
bà mẹ, đại diện cho cấp độ tuyệt vọng ban đầu, căn nhà ở Nishikata là nơi lưu giữ kỉ
niệm, nơi chan chứa không khí ưu nhã ngày xưa nên việc phải chuyển đi, đối với một
người trọng truyền thống gia đình là một việc vô cùng khó khăn. Bà nín nhịn trước
cuộc đời, dìm bỏ cảm xúc cá nhân, lảng lờ với cuộc sống thực, phó mặc tất cả. Trong
khi mọi người bận rộn cho việc chuyển nhà, mỗi ngày đều có phu khuân vác đến thu
xếp hành lí và chuyển đi, chú Wada đến sắp xếp mọi việc, bận rộn nhưng mẹ không
phụ giúp gì dù chỉ là đụng đến một ngón tay, cứ suốt ngày chôn mình trong phòng thờ
thẫn.

Naoji trở về, gia đình sa sút, nếu chỉ sống bằng tiền trợ cấp sinh hoạt thì mọi
thứ sẽ vô cùng khó khăn vì thế chú Wada đề nghị nên tìm chỗ gả Kazuko hay làm gia
sư cho tiểu thư một gia đình quý tộc trước kiến nghị đó, Kazuko đã phản ứng rất
quyết liệt. Sự phản ứng của cô thể hiện tình yêu mẹ tha thiết, mặc dù nghĩ là không
được, không nên làm thế nhưng những lời nói cứ tiếp tục tuôn ra một cách vô thức,
như thể chúng chẳng liên quan gì với thân xác, trong cơn tức giận, Kazuko cứ tuôn ra
52
những điều kinh khủng, Kazuko “chỉ ở bên cạnh mẹ mang đôi tất dân dụng này vào,
chỉ nghĩ làm sao trồng rau cho ngon đem mời mẹ thôi. Vậy mà giờ đây khi nghe tin
Naoji sắp trở về tự nhiên con trở nên vướng víu và mẹ muốn tống khứ con đi làm đầy
tớ cho nhà quý tộc người ta. Thật quá đáng! Mẹ thật quá đáng!”[6; tr.52] cứ thế
Kazuko tiếp tục nói ra những suy nghĩ sai trái, ngu xuẩn khiến mẹ khóc, cô muốn nói
lời xin lỗi, muốn chạy đến ôm mẹ nhưng cảm giác ngượng ngịu đã ngăn cô lại, khiến
cô càng ngang ngược. Bây giờ, nỗi bực bội hờn ghen làm cô không nhận ra cái xấu xa
đang ẩn trong con người mình, cô làm mẹ buồn, làm đau chính bản thân mà không
nhận ra điều đấy, thật ngốc nghếch và đáng trách. Đây chính là kết quả của một quá
trình chuyển biến hết sức tinh vi, phức tạp nhưng cũng rất logic trong tâm trạng
Kazuko. Diễn tả quá trình này, ngòi bút của Dazai Osamu đã đến độ sắc sảo, thấu đáo
và vô cùng chặt chẽ.

Nét bút tài hoa của Dazai Osamu thể hiện qua việc khắc hoạ nhân vật, đặc biệt
là nhân vật Naoji, Naoji từ phương Nam trở về vào một buổi chiều mùa hạ, chẳng báo
trước một lời, bước vào từ cái cổng gỗ phía sau nhà với sắc mặt xanh xám. “Tệ quá!
Nhà gì mà tệ lậu thế này! Chị nên dán tấm biển là Tiệm Lai Lai dây, có bán xíu mại thì
hơn” đó là lời chào đầu tiên của Naoji khi gặp lại chị gái. Naoji trở về khi mẹ bị đau
lưỡi, nhìn bên ngoài, đầu lưỡi không có gì khác lạ nhưng khi cử động thì rất đau nên
đến bữa, mẹ chỉ húp được vài thìa cháo loãng, thuốc Lugol cũng không có hiệu quả.

“Naoji đến ngồi cạnh chiếc gối mẹ nằm, cúi đầu chào và nói “con đã về đây”,
rồi ngay lập tức đứng dậy đi vòng vòng xem xét ngôi nhà. Tôi cũng bước theo sau.

- Sao? Thấy mẹ thế nào? Có gì thay đổi không?


- Có có, thay đổi nhiều. Tiều tuỵ đi. Có lẽ chết sớm thì hay hơn. Người như mẹ làm
sao có thể sống trong cái thế giới này được. Nhìn mẹ bi thảm đến độ không thể nào
chịu nổi.
- Còn chị thì sao ?
- Thô tục đi nhiều. Nhìn cái mặt chị như thể đã qua tay hai ba thằng đàn ông gì đó
rồi vậy. Rượu chứ? Tối nay say một bữa đi nhỉ”[6; tr.63]
Chỉ qua vài đường nét đã thể hiện một con người thật dữ dội, cô đơn đến cô
độc, nhưng lại nhạy cảm đến bất thường, những lời nhận xét của Naoji về mẹ và chị
gái có vẻ lạnh lùng tàn nhẫn nhưng phải có đầu óc quan sát tinh tế, sự mẫn cảm với
53
con người thì mới nhận ra sự thay đổi ấy, Naoji như nhìn thấu tâm can Kazuko, thấy
được sự chuyển biến trong tâm tư chị gái mình, và phải chăng chính sự mẫn cảm ấy
làm cho cuộc đời cậu luôn đau đớn.

3.2.2. Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật


Để khắc hoạ nhân vật nhà văn Dazai Osamu rất chú trọng đến việc miêu tả nội
tâm nhân vật. Nội tâm là những trạng thái, suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, những phản
ứng tâm lý của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ và tình huống mà nhân vật chứng
kiến trên bước đương đời của mình. Muốn khai sinh cho một nhân vật phải nắm bắt
được tâm lý của nhân vật, đây cũng chính là một thử thách đối với nhà văn bởi tâm lý
của con người rất khó nắm bắt, mỗi người có một tính cách riêng, cách suy nghĩ riêng
với những cảm nhận khác nhau về thế giới.

Tiểu thuyết Tà dƣơng được xây dựng từ nhật kí và những bức thư, nhà văn lựa
chọn hình thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, qua nhân vật xưng tôi trong tác phẩm độc
giả chẳng những lĩnh hội được câu chuyện mà còn thấu hiểu cả những trải nghiệm, suy
tư, những cơn sóng tâm hồn, những hoạt động cảm xúc suy nghĩ trong dòng chảy trực
tiếp của nhân vật. Có thể xem đó là những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật, hình
thức trần thuật này cũng khiến cho dòng tâm tư nhân vật hiện lên trên trang sách, để
nhân vật sống thật với lòng mình.

Bức tranh hiện thực cuộc sống thiếu thốn sau chiến tranh hiện ra dưới cảm
nhận của Kazuko, để được sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết ngoài việc vun
trồng hạnh phúc cần có tiền bạc, bởi “cái chuyện khôngcó tiền đúng là một địa ngục
đáng sợ và thê thảm vô vọng nhất mà tôi lần đầu tiên từ lúc sinh ra tới giờ mới nhận
thấy. Ngực tôi nghẹn thắt lại, muốn khóc nhưng không thể nào khóc được. Không biết
cảm giác này có phải là thứ nhân gian thường hay nói là “sự nghiêm túc của cuộc đời”
hay không? Tôi cứ ngửa mặt nhìn lên trần nhà, cảm thấy người mình như một tảng đá,
không tài nào nhúc nhích nổi”[6; tr.26]
“Tôi thấy thất vọng đến mức không thiết sống nữa. Cái cảm giác bất an như
những con sóng khổ đau cứ dội vào lồng ngực tôi từng đợt, giống như những cụm mây
trắng liên tục đuổi bắt nhau trên bầu trời chiều. Nó siết chặt trái tim tôi rồi thả lỏng ra,
mạch máu nghẽn lại, hơi thở yếu ớt như tơ, mặt mũi tối tăm, lực toàn thân thoát ra
khỏi đầu ngón tay khiến tôi không thể tiếp tục công việc đan áo”[6; tr.59]
54
Biết mẹ sẽ không sống được bao lâu, căn bệnh lao sẽ lấy đi mạng sống của mẹ
“Lần đầu tiên trong đời, tôi biết đến cảm giác hiện hữu của rất nhiều bức tường tuyệt
vọng, nơi mà sức người dù gắng đến đâu cũng không thể làm gì được” Để cố gắng tin
vào lời nói dối mình “Hình như chẳng có gì nghiêm trọng. Cũng giống cơn bệnh lần
trước của mẹ ấy mà, con chắc thế. Khi trời mát mẹ sẽ khỏi lại thôi”[6; tr.105]. Cảm
thấy được sự bất thường nơi mẹ, cảm giác cô quạnh xâm chiếm lấy Kazuko, những lúc
không ở bên mẹ thì chỉ biết khóc, khi đi lấy sữa bò vào buổi sáng trời còn sương mù,
khi vuốt tóc soi gương,…lúc nào cô cũng khóc “Những ngày tháng hạnh phúc sống
bên mẹ hiện ra như một bức tranh. Tôi cứ khóc không ngừng. Hoàng hôn rồi tối đến,
tôi ra trước hiên của căn phòng Trung Hoa mà khóc, nước mắt giàn giụa” [6;
tr.115], ngồi đan áo bên mẹ một cách vụng về, bối rối, xấu hổ và nhớ tiếc, nước mắt
cứ ứa ra không nhìn rõ mui len đang đan.
Chiều hướng đi sâu khai thác những trạng thái trong tâm hồn con người không
còn là địa hạt hoàn toàn mới mẻ nhưng với Dazai Osamu nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật tài tình là một nhân tố chính tạo nên thành công của ông. Nhân vật Naoji mất
niềm tin nhưng anh không buông bỏ hời hợt, anh phản kháng trong sự ý thức “Lần nào
đi chơi với ông Uehara em cũng trả phần của mình. Mặc dù ông Uehara rất ghét điều
đó và bảo rằng đúng là cái vẻ kiêu hãnh rẻ tiền của bọn quý tộc nhưng không phải em
trả vì kiêu hãnh mà chỉ vì em rất sợ ăn nhậu, uống rượu và ôm gái bằng tiền của ông
Uehara kiếm được. Có thể nói, vì em tôn trọng việc viết văn của ông Uehara nhưng đó
chỉ là nói dối. Thực sự em không hiểu rõ tại sao mình phải làm vậy. Chỉ là sợ người ta
phải bao mình ăn uống thế thôi. Nhất là được ăn uống bằng tiền công việc viết lách
của người đó càng khiến em khổ tâm không sao chịu nổi”[6; tr.156] Naoji có thể trở
nên đê tiện, có thể sử dụng ngôn ngữ hạ lưu nhưng tất cả chúng dường như chỉ là sự
phỉnh gạt bề ngoài đầy bi ai để che đậy sự xơ xác và cằn cỗi của sự sống bên trong, lại
đang phải gồng mình chống chọi, ngạo mạn một cách kệch cỡm, bộ tịch mà thôi bởi
sâu sa trong tâm hồn anh còn mẹ còn chị, thứ tình cảm ôm ấp tâm hồn anh. “Bây giờ
em có chết thì cũng không có ai buồn thương đến độ dày vò thân xác nữa. Không, em
biết chị à. Khi mất em chị sẽ buồn thương biết bao nhiêu. Khi biết tin em chết, chắc
chắn chị sẽ khóc nhưng xin chị hãy ngưng nỗi cảm thương đi và thử nghĩ về nỗi khổ
đau của em lúc sống và niềm vui của em khi được giải thoát hoàn toàn khỏi cuộc sống
đáng ghét này. Em biết nỗi buồn thương của chị sẽ dịu bớt ngay thôi”[6; tr.154]. Naoji

55
kiếm tìm cảm giác xác thực về tồn tại và hoà nhập. Tôi đang sống đây, trên mặt đất
này giữa những người đồng loại của tôi nhưng có thực sự tôi đang tồn tại? Nhân vật
của Dazai Osamu đã luôn tự đặt ra cho mình những câu hỏi như thế. Họ thiếu một
niềm tin đầy đủ và chắc chắn - một xác tín - về ý nghĩa của sự tồn tại của chính mình
trong tư cách con người giữa xã hội loài người. Xứ sở này dường như không có thể
quên đi chấn thương ấy với những điển hình của sự rối loạn tâm trạng vỡ mộng, chia
cắt và hoang mang. Có lẽ chỉ có thể xoá bỏ tâm trạng này khi người ta dũng cảm
khuấy động vô thức cộng đồng, đối diện với chấn thương lớn của dân tộc, nhận thức
nó bằng tất cả sức mạnh chịu đựng của niềm tự ái bị thương tổn. Nhân vật tìm kiếm
bản thể của con người, những con người này họ đang sống, song dường như họ không
thể xác định mình trong những quy ước thông thường của đời sống, trong cái toạ độ
của các mối quan hệ bình thường “Kẻ phóng đãng ư? Nhưng không như thế thì không
thể nào sống được. Tôi thích những người rủa tôi chết đi hơn là những người phê
phán tôi bằng những lời như vậy. Thật thoải mái. Nhưng người ta hiếm khi nói câu
“chết đi”. Toàn là một lũ đạo đức giả thâm hiểm bần tiện”[6; tr.70] Một nỗi bất an
ngấm ngầm nào đó luôn tồn tại và gây xao xuyến trong họ, đó là sự trái cực của sự
trộn lẫn các yếu tố văn hóa khiến người Nhật trong cuộc sống phải chạy từ cực này
sang cực kia, khiến họ dễ sốc tâm lí, dễ bị mất ổn định. Nước Nhật trong quá khứ kiêu
hãnh đối lập với nước Nhật hiện tại, hoang tàn đổ nát, sự thảm bại trong Đệ nhị thế
chiến như là một nỗi tủi hổ, một chấn thương tâm lí đau đớn đối với người Nhật, có lẽ
là đau đớn nhất trong toàn bộ chiều dài lịch sử của nước Nhật, con người cô đơn trong
nỗi buồn u uất và cô độc trong sự kiêu hãnh của chính bản thân mình.

Tâm trạng tuyệt vọng của Naoji thể hiện qua Nhật kí hoa quỳnh và bức thư
tuyệt mệnh Naoji gửi cho Kazuko. Nghiện á phiện, phải viết những bức thư cầu cứu
chị, Naoji rất khổ sở “Hãy trả lời. Xin chị hãy trả lời đi! Và hãy báo tin vui đấy nhé!
Em đang một mình rên rỉ khi nghĩ đến những nỗi nhục. Không phải em đang đóng kịch
đâu. Tuyệt đối không. Van chị đấy! Em tưởng mình có thể chết đi vì hổ thẹn… Trong
đêm khuya, em có thể nghe ra tiếng cười thầm thì vọng từ những bức tường, em trăn
trở không yên. Đừng trên trọc em nữa. Chị ơi.” Thế giới tâm hồn của Naoji thiếu vắng
lí tưởng, thiếu vắng các niềm tin truyền thống dẫn dắt cuộc sống hiện tại, cũng không
có mẫu hình tương lai nào khả dĩ làm điểm tựa; cái đẹp phải trôi dạt và tự hủy diệt và
cái tàn bạo, dung tục lên ngôi. Naoji hoang mang, cô đơn, cố gắng tìm cách tương
56
thông với người khác mong tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời dù chỉ trong khoảnh khắc
ngắn ngủi nhất nhưng cô đơn vẫn hoàn cô đơn. Bế tắc, buồn chán, nhân vật tìm đến cái
chết, đến rượu, đến sự hành xác và lang thang vô hướng, đến sự phá phách và thây kệ
rất mù quáng, đến thái độ bất cần, bất hợp tác. Nó như một thứ tội lỗi cứ bám riết lấy
nhân vật, thành một khối đặc quánh bao vây dẫu biết rằng cần phải làm khác đi để
thoát khỏi bầu khí quyển đặc quánh ấy nhưng anh đã không thể hoàn toàn vượt
khỏi cái bản ngã quý tộc của mình để hòa nhập với thế giới xa lạ. Tiểu thuyết Tà
dƣơng với một lối văn hiện đại tạo nên một sức mạnh xoáy sâu vào một vùng ký ức
còn tươi rói nỗi đau, mãi mãi tỏa bóng xuống những tháng ngày còn lại, nhân vật khát
được tìm thấy con người đích thực của mình trong một thực tại khác với thực tại nhàm
chán mà họ đang sống.

Tâm lý trong tiểu thuyết Tà dƣơng có tác dụng gợi mở bản chất nhân vật,
thông qua một quá trình vận động những vi mạch tâm hồn của nhân vật được giải mã,
được định dạng trong mối dây liên hệ, ràng buộc với những yếu tố khác như môi
trường sống, các mối quan hệ xuôi - ngược trong sự kiện. Dazai Osamu rất tinh tế
trong việc nắm bắt tâm lí nhân vật, đặc biệt là phụ nữ, những chi tiết rất nhỏ, những
quan sát và thể hiện tinh tế, phụ nữ dù chỉ được khen chút xíu thôi là mãi không quên.
Quá trình trưởng thành của Kazuko, từ cô gái mười chín ngơ ngác ngây thơ có thể bình
thản mà nghĩ về cuộc sống của phụ nữ tuổi ba mươi với từng thứ quần áo, trang sức,
đai lưng, dây chuyền…từng thứ một dần biến mất cùng cái mùi hương thanh tân trên
cơ thể cũng nhạt nhoà dần đến tâm lí của cô gái đang yêu và bí mật về người mình
yêu “Tôi cảm thấy vui sướng quá, cứ như thân thể mình đã tan biến thành khói mà bay
lên tận bầu trời cao xanh kia”[6; tr.94]

Trong Tà dƣơng, những bức thư mà Kazuko gửi cho nhà văn Uehara được xây
dựng khá cụng công, đây là một trong những sáng tạo độc đáo tạo nên thành công cho
tác phẩm, mỗi bức thư là một quá trình chuyển biến tâm lí của cô gái, với những sắc
thái tăng tiến cảm xúc rõ ràng. Bức thư đầu tiên là sự e dè, hoài nghi, phân vân, tạo
cảm giác mơ hồ giữa tình yêu nụ hôn và cầu vồng, thực chất nhân vật M.C người
Kazuko nhắc đến trong bức thư đầu tiên đâu ai khác chính là nhà văn Uehara nhưng cô
gái đã vô cùng khéo léo và tế nhị trong việc xưng hô để người đọc cảm giác cô đang
nói về một nhân vật M.C nào khác “Tôi là chị của Naoji. Có lẽ ngài quên rồi chăng?

57
Nếu quên xin hãy nhớ lại… Tôi rất xin lỗi vì Naoji gần đây đã làm phiền và gây cản
trở cho ngài quá nhiều…Anh M.C cũng giống như ngài đã có vợ con rồi. Và hình như
anh ấy còn có những người bạn gái trẻ trung và xinh đẹp hơn tôi nữa… Xin ngài hãy
hỏi thử anh ấy xem sao! Vào một ngày cách đây sáu năm, có một chiếc cầu vồng nhỏ
bé mờ nhạt hiện ra trong ngực tôi...cho đến bây giờ, tôi chưa bao giờ thấy nó biến
mất... Vì vậy xin ngài hãy hỏi ý kiến anh ấy giùm tôi. Liệu anh ấy nghĩ như thế nào về
tôi? Và tình cảm của anh ấy có phải là chiếc cầu vồng trên bầu trời sau cơn mưa, vẫn
còn đó hay đã tan biến rồi”[6; tr.84].

Sau bức thư đầu tiên gửi đi không nhận được hồi đáp, Kazuko viết bức thư thứ
hai, kể về chuyện hôn ước và vị tiên sinh láng giềng ở khu Nishikata dường như để
kích lòng cạnh tranh, từ một người tình tự xưng đến lời vô lí của một phụ nữ trung
niên, tưởng tượng ra viễn cảnh tương lai và yêu cầu lời hồi đáp, lời lẽ từ hoài nghi, e
dè chuyển sang khẳng định, quả quyết “Dù lời hồi đáp có thể đáng sợ, có thể là ngài
yêu hay không yêu, hay chẳng có gì với tôi cả nhưng tôi vẫn phải hỏi ngài…Nhất định
ngài phải trả lời cho tôi nhé!... Tôi muốn sinh đứa con mang giọt máu của ngài. Dù có
chuyện gì đi nữa, tôi cũng không muốn mang thai con của người khác đâu… Hãy báo
cho tôi biết rõ ràng về cảm giác của ngài”[6; tr.91]

Và bức thư thứ ba, Kazuko tỏ ý mời Uehara đến nhà chơi và mặc dù nghe
Naoji kể lại, có rất nhiều người nói rằng Uehara là kẻ đê tiện, bẩn thỉu, đáng ghê tởm,
tồi tệ, đầy hận thù nhưng điều đó có là gì với người đang yêu, cô tin rằng dần dần ông
sẽ chỉ yêu mình cô, họ sẽ sống chung với nhau mỗi ngày, làm việc một cách vui vẻ bởi
vì “Tôi đứng về phía những kẻ trác táng, những kẻ bị gắn nhãn hiệu bất lương. Tôi
nghĩ nếu mình chết đi trên cây thập tự thì cũng được thôi. Dù cho vạn người chỉ trích,
tôi vẫn có thể nói thẳng vào mặt họ rằng: Các ngươi, những kẻ không gắn nhãn mác
mới chính là những kẻ bất lương”[6; tr.97]

Nhưng mọi thứ dường như thật tệ, mặc cho mỗi ngày Kazuko đều ngồi nhà đợi
mòn mỏi từ sáng tới chiều không dám đi đâu, mong chờ thư tín, từng giây từng phút
đợi chờ trong vô vọng tiếng chân của hạnh phúc bước đến hiên nhà, chỉ muốn gặp mặt
Uehara một lần nữa. Chỉ có vậy. Nhưng thư gửi đi, chờ mãi mà vẫn không thấy trả lời,
tâm trạng cô như đứng trên mỏm đá cao nhảy xuống bờ vực sóng dữ, cô bóng gió hỏi
Naoji tình hình của ông ta thì chẳng có gì lạ, như thể mùi hương của cô chẳng thấm
58
nhiễm một chút nào vào bầu không khí xung quanh người cô yêu “còn hơn cả nỗi hổ
thẹn tôi nhận ra mình như một sinh vật, khác hoàn toàn với cáu thế gian này. Đó là
một cảm giác vô cùng thê lương mà tôi chưa từng nếm trải, như thể đứng trên một
cánh đồng mùa thu cô quạnh, thấy mình bị bỏ rơi, cho dù có gào khóc cũng chẳng ai
đáp lời… nghĩ đến cảnh đứng một mình trơ trọi trên cánh đồng hoang, mặt trời lặn
xuống, sương mù dâng lên, chẳng còn lại gì ngoài cái chết, tôi thấy ngực mình và vai
mình như bị ngàn cơn sóng đánh, gào khóc không nước mắt, tức ngực không thể nào
chịu nổi.”[6; tr.100]
Những bức thư của Kazuko vẫn chưa được hồi âm nhưng Kazuko dường như
cũng đã vượt qua được những thời khắc khó khăn nhất, đang bước những bước nhỏ
đến nơi mình muốn đến. Những bức thư như là sự lớn mạnh về tinh thần, cô chọn cho
mình một lối đi khác chấp nhận và đối mặt, thay đổi đòi hỏi lòng can đảm rất lớn, và
lớn hơn nữa đó là sự dũng cảm dám nhận lấy trách nhiệm cho việc thay đổi, đây là
cuộc đời của cô, và chỉ duy nhất của cô, người khác có thể cùng đi nhưng không ai có
thể đi giùm nó cho cô cả, cuộc sống này không dễ dàng, nhưng suy cho cùng nó rất
đáng để sống.

Chạy đi tìm người yêu trong vô vọng lo lắng, nước mắt chực ứa ra. Đối mặt
với vợ tốt bụng và hiền dịu và thư thả, một người tử tế hiếm thấy và cô con gái của
nhà văn Uehara, tâm trạng của Kazuko dao động dữ dội “chắc chắn một ngày nào đó
hai người này sẽ cho tôi là kẻ thù và căm ghét tôi. Trong thoáng chốc tình yêu của tôi
chợt trở nên nguội lạnh. Thay xong quai guốc, tôi đứng dậy, xoa xoa hai tay phủi bụi
và cảm thấy nỗi cô đơn ngập tràn cơ thể mãnh liệt gần như không chịu nổi. Tôi dao
động dữ dội, muốn chạy lên phòng khách, nắm lấy hai bàn tay người đàn bà mà
khóc”[6; tr.130]. Mới gặp nhau, Kazuko bị người yê bỏ mặc cô“cúi đầu, ngập ngừng
nói, nước mắt như sắp sửa ứa ra…vục mặt vào tô udon nóng hổi, húp xì xụp và nhận
thấy lúc này, mình đang nếm trải sự cô đơn cực hạn của kiếp người”[6; tr.138] Cuộc
sống có gì đó sai lạc, nhưng họ có lẽ cũng như trường hợp tình yêu của Kazuko, không
làm thế thì không tài nào sống được “Nếu như con người được sinh ra trong thế gian
này dù thế nào đi nữa vẫn phải sống thì cái kiểu cách sống của mấy người này cũng
không đáng ghét đâu. Sinh tồn à? Công cuộc sinh tồn, phải chăng đó là một đại
nghiệp, cho dù ta sức cùng lực kiệt vẫn không thể nào hoàn thành?”[6; tr.138]

59
Sau bao phút lặng lẽ với chính mình, Kazuko chấp nhận những phút nhọc nhằn
của cuộc sống, sóng gió thay đổi có ai mà không trải qua, Kazuko đã dám bước những
bước đầu tiên, chính hành động này tạo đà để cô tiếp tục tiến về phía trước, cô không
thể thay đổi hoàn cảnh, nhưng cô đã thay đổi cách mình phản ứng với hoàn cảnh đó,
tiếp tục làm những điều mà trái tim tin rằng nó đúng. Kazuko nuôi dưỡng giấc mơ để
nó lớn áp nỗi sợ hãi, để hành động nói thay những lời sáo rỗng, không thể để bản thân
sống bằng sự may rủi, cô sống bằng những lựa chọn của chính mình, lắng nghe nội
tâm của mình, không phải định kiến của những người xung quanh.

“Gương mặt người đó sát lại gần với sức mạnh như núi lở đá lăn, rồi tôi bị
hôn tơi tả. Nụ hôn mang mùi dục tính. Tôi vừa nhận chịu vừa chảy nước mắt. Những
dòng lệ cay đắng đáng hổ thẹn nhục nhã đầm đìa trên mặt tôi”[6; tr.143]

“Tôi lại không thể nào mà cười được. Tôi cau mày mím môi. Đâu thể nào khác
được… Tôi nhận thấy mình đang lê guốc đi trong nỗi tuyệt vọng mỏi mòn”[6; tr.144]

“Tôi nhìn vào khuôn mặt người đàn ông đang ngủ cạnh tôi. Gương mặt của
một con người sắp chết. Gương mặt của một con người sắp chết. Gương mặt thật mệt
mỏi. Gương mặt của nạn nhân. Một nạn nhân cao quý. Người ấy của tôi. Cầu vồng
của tôi. Con tôi. Con người đáng ghét. Con người tà ma. Khi nghĩ dường như đây là
gương mặt đẹp nhất đời, chợt tình yêu sống dậy tươi mới làm tim tôi thổn thức” [6;
tr.146] Chẳng ai có cuộc đời luôn yêu thương vẹn nguyên mà không một lần xê dịch,
để nhẹ nhàng đi qua cuộc sống, cô gái bắt đầu biết cảm nhận những gì bình dị, nhỏ
nhoi nhất có thể làm trái tim mình ấm áp và hạnh phúc. Không ai có thể vui khi lòng
luôn hờn giận, cũng chẳng ai có thể hạnh phúc khi suy xét nặng nhẹ yêu thương mình
được nhận sau khi đã cho đi, Kazuko đã tuyên chiến với pháo đài bất thủ mang tên đạo
đức, chấp nhận cuộc đấu tranh lâu dài và hoàn toàn đơn thương độc mã với nó, trước
hết là nàng đã sống và không chỉ sống mà còn có đứa con ngoài giá thú với người
mình yêu.

Miêu tả tỉ mỉ, tinh tế tâm lí nhân vật xây dựng các nhân vật thông qua việc thể
hiện những dòng chảy đau đáu, khắc khoải bởi bi kịch của những đổ nát trong đời
sống tâm hồn, tình cảm con người, là một trong những nguyên nhân khiến Tà dƣơng
để lại những ám ảnh, day dứt khôn nguôi trong lòng độc giả.

60
3.3. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
Điểm nhìn trần thuật là yếu tố quan trọng của hàng đầu của nghệ thuật trần
thuật, điểm nhìn chính là quan điểm, thái độ của chủ thể trần thuật. Khi kiến tạo tác
phẩm, nhà văn phải lựa chọn giữa việc tham gia trực tiếp hay đứng ngoài các sự kiện,
biến cố và cốt truyện, chọn điểm nhìn trần thuật là nhà văn đang tạo cho mình chỗ
đứng thích hợp để từ đó câu chuyện được bắt đầu.

Tiểu thuyết Tà dƣơng có cái khung là nhật kí, thư tín của Kazuko nên điểm
nhìn chủ đạo là từ cái tôi của nhân vật này. Từ điểm nhìn bên trong, thế giới nội tâm
của nhân vật được chọn làm điểm tựa đánh giá các sự vật hiện tượng, suy nghĩ và ý
thức của nhân vật trở thành nguồn mạch xuyên suốt, dẫn dắt câu chuyện.

Tác giả không dùng lời dẫn chuyện mà để cho nhân vật trực tiếp đi sâu vào
cảm xúc của mình, tác giả để nhân vật - người kể chuyện xuất hiện trong hành động
đang diễn ra ở hiện tại để kể về mình và những mối quan hệ quanh mình, để nhân vật
tự do đứng vị trí nào đó trong hiện tại để nghĩ - hồi tưởng về quá khứ. Việc trần thuật
theo trường nhìn của nhân vật cho phép nhà văn khai thác tối đa sức mạnh của tinh
thần dân chủ trong tư duy tiểu thuyết. Điểm nhìn bên trong cho phép tái hiện nội tâm
của nhân vật một cách sâu sắc “sau hành động đáng xấu hổ như gây ra hoả hoạn vừa
rồi, tôi có cảm giác như máu trong người bị bầm đen đi và con rắn độc mamushi của
lòng ác ý trong ngực tôi cũng đổi cả màu máu nữa…”[6; tr.42] lời dẫn của nhân vật
tôi hiện diện trong truyện vừa là người dẫn dắt, giới thiệu diễn biến và cũng là người
trực tiếp tham gia vào nội dung chuyện kể. Chọn điểm nhìn trần thuật ở nhân vật tạo
cảm giác cho người đọc có độ tin cậy cao về những sự việc và con người được nói đến
trong truyện .

Trần thuật từ ngôi thứ nhất xưng tôi, là một phương thức biểu đạt độc đáo làm
mập mờ quy về cả tác giả, cả về người kể chuyện và cả về nhân vật, ngoài nhật kí và
thư từ của Kazuko, trong tiểu thuyết Tà dƣơng còn có nhật kí hoa quỳnh và di thư
Naoji gửi cho chị, vì vậy trong truyện tôi không hoàn toàn cố định mà đôi khi được
dịch chuyển, điều đặc biệt này cho phép độ giả cảm nhận và cùng trải nghiệm cuộc
sống với nhiều cái nhìn phong phú và đa dạng. Ngoài ra, phương thức kể từ ngôi thứ
nhất thường tạo độ tin cậy nhất định, đáp ứng được khát vọng giãi bày của nhân vật kể
chuyện (đôi khi cũng là của cái tôi nhà văn) về cuộc sống. Naoji là một sáng tạo đặc
61
biệt của nhà văn, nhân vật thu hút người đọc vì sự bế tắc đậm nét, tác giả để Naoji cảm
nhận sắc nét những thất bại của đời mình, để nhân vật tự bộc lộ nội tâm cũng là cách
để người đọc cảm nhận tinh tế và sâu sắc tính cách nhân vật, nhật kí hoa quỳnh là
những cảm xúc bức bách, không ít ngờ vực và nhiều băn khoăn, chậm chí đau đớn, của
một tâm trạng mấp mé bờ vực “chỉ có năm yên để giải quyết món nợ ngàn yên. Thực
lực của tôi trên đời này chỉ có vậy ... Kẻ phóng đãng ư? Nhưng không như thế thì
không thể nào sống được… Chiến tranh. Chiến tranh Nhật Bản là một sự liều lĩnh
tuyệt vọng. Bị cuốn vào cơn tuyệt vọng đó rồi chết thật là đáng chán! Chẳng thà tự
mình chết còn hơn…Thế giới này thật sai lạc. Kết cuộc, chẳng còn cách nào khác hơn
là tự sát chăng? Khi nghĩ đến việc mình chỉ còn cách tự sát để chấm dứt đau khổ giày
vò, tôi đã gào khóc…Mẹ tốt vô cùng. Nghĩ về mẹ tự nhiên mình muốn khóc. Để gửi lời
xin lỗi đến mẹ thì chỉ còn cách chết đi thôi”[6; tr.72]. Dấn sâu vào tiểu thuyết, giải
phẫu những bức bí, những ngột ngạt trong tâm hồn của một thế hệ, những đổ vỡ, bất
trắc của cuộc sống, người đọc giật mình nhận ra rằng những trang viết mà Naoji trăn
trở kia có phải là tâm sự của chính tác giả tiểu thuyết, nhà văn Dazai Osamu?

Thêm vào đó, khả năng xâm nhập vào các nhân vật khác của nhà văn cũng rất
linh hoạt, ông để cho các nhân vật soi chiếu lẫn nhau thông qua lăng kính chủ quan
của họ. Đến những phút cuối cùng của cuộc đời, bà mẹ thú nhận với Kazuko rằng “Mẹ
chẳng hiểu thế gian là gì nữa…Mẹ cũng không hiểu nữa. Chắc cũng không có ai hiểu
đâu. Cho dù bao nhiêu thời gian trôi qua, tất cả chúng ta đều là trẻ con cả thôi. Chẳng
hiểu được gì hết”[6; tr.121] và cùng một tâm trạng này nhưng ở một nhân vật khác
Uehara cũng nói “Cuộc sống này buồn quá. Không phải dư thừa nỗi cô đơn, hay
nghèo hèn đâu mà là nỗi buồn đấy. Khi cứ phải nghe những tiếng thở dài u uất vọng
từ bốn bức tường thì chắc chắn làm gì có hạnh phúc cho mình đúng không? Khi hiểu
được hạnh phúc và vinh quang của mình chắc chắn không thể có được lúc còn sống
thì người ta sẽ cảm thấy như thế nào đây? Nỗ lực ư? Cái thứ đó chỉ là miếng mồi cho
những con dã thú đói khát thôi. Có quá nhiều những con người bi thảm”[6; tr.146].
Việc đa dạng hóa các điểm nhìn trong trần thuật, Dazai đã tạo cho tiểu thuyết của mình
cái nhìn cuộc sống nhiều chiều đa dạng và phong phú, những bức tranh hiện thực
nhiều ghềnh thác trong thế giới tâm hồn sâu thẳm của nhân vật, trong sâu thẳm tình
yêu, nỗi buồn, sự nhẫn nại, hy sinh, niềm khát khao được giao cảm, nối liền con người
với con người.
62
Phương thức kể từ ngôi thứ nhất thường tạo độ tin cậy nhất định. Người đọc
cũng dễ dàng thâm nhập vào thế giới nội tâm đầy phức tạp và bí ẩn của nhân vật qua
lời kể trung thực, chân thành của chính họ. Trần thuật từ ngôi thứ nhất xưng tôi với
điểm nhìn bên trong là hình thức kể chuyện đáp ứng được “khát vọng giãi bày” của
nhân vật người kể chuyện (một phần nào đó cũng là của cái tôi nhà văn).

Điểm nhìn trần thuật là một yếu tố vô cùng quan trọng trong sáng tạo văn học
nói riêng và nghệ thuật nói chung, nó quy định và chi phối các thành tố khác của kết
cấu tác phẩm. Sẽ không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn bởi nó thể hiện sự
chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Với
những cây bút tài năng, quan điểm trần thuật không chỉ đảm bảo tính hợp lý mà còn
trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo. Việc lựa chọn hợp lí và linh hoạt các
điểm nhìn trần thuật góp phần tạo nên tính sinh động và sự hấp dẫn đặc biệt cho tác
phẩm văn học.

3.4. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật.


Không gian, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm không chỉ là môi trường sống
của nhân vật, là chứng nhân cho sự vận động, diễn tiến của sự kiện mà còn tồn tại với
tư cách như hình tượng nghệ thuật. Trong tiểu thuyết Tà dƣơng, không gian, thời gian
xuất hiện trong những mối liên hệ đa chiều, đan bện quá khứ - hiện tại. Nhà văn kết
hợp và chuyển đổi các cấp độ yếu tố không gian, thời gian theo những phương thức
linh hoạt để tạo ra độ căng, chùng phù hợp với sự vận động của sự kiện cũng như tâm
lý, tính cách nhân vật.

3.4.1. Không gian thời gian thực.


Không gian thực trong tiểu thuyết là ngôi nhà nằm bên rìa một ngôi làng nhỏ,
là một sơn trang xây theo kiểu Trung Hoa khá kì công, trước đây là biệt thự của tử
tước Lawada ngôi nhà nằm trên nền cao bằng phẳng, tầm nhìn khoáng đạt và có vườn
rộng chừng một trăm tsubo; vùng này cũng là chốn để ngắm hoa mơ, mùa đông ấm áp,
mùa hè mát mẻ, không khí trong lành, tinh khiết, phong cảnh từ phòng khách nhìn ra
rất đẹp “Căn nhà có một phòng mười chiếu, một phòng sáu chiếu, một phòng khách
kiểu Trung Hoa, hành lang rộng khoảng ba chiếu, phòng tắm cũng khoảng chừng ba
chiếu rồi phòng ăn, phòng sinh hoạt chung, rồi một phòng trên tầng hai thiết kế theo
kiểu Tây bên trong kê một cái giường lớn dành cho khách” Cảnh vật thật yên tĩnh, ánh

63
nắng dường như khác hẳn ở Tokyo những tia nắng trông giống như tơ lụa “khí trời
mùa đông dịu nhẹ lan toả trên bãi cỏ trong vườn. Dưới chân bậc thềm đá nơi bãi cỏ là
một cái ao nhỏ với rất nhiều cây hoa mơ, ở phía cuối vườn là một mảng vườn cam trải
dài, ở đó có con đường làng, theo đó là ruộng lúa nước, xa xa là rừng thông và tít bên
kia rừng thông là biển”[6; tr.28]. Ngoài trời, tuyết nhẹ nhàng rơi rơi từng phiến mỏng
như những cánh hoa mẫu đơn. Ngay trước hành lang phòng khách là vườn hoa hồng
chú Wada đem về từ nước ngoài “Vào tháng hai hoa mơ nở rộ, cả sơn thôn ngập chìm
trong sắc hoa. Tháng ba nhiều ngày bình yên lặng gió nên những cánh hoa mơ độ mãn
khai càng tươi tắn, khoe sắc cho đến cuối tháng. Dù sáng trưa chiều hay tối, những
cánh hoa mơ vẫn đẹp đến nao lòng… Vào cuối tháng ba, buổi chiều thường hay có
gió, khi thưởng thức trà chiều trong phòng ăn những cánh hoa mơ ngoài cửa sổ theo
gió bay vào trong tách trà…”[6; tr.32]

Đôi khi không gian, thời gian được xác định rõ ràng “Buổi sáng mùa thu yên
tĩnh. Khu vườn mùa thu ánh sáng chan hoà…mặt biển sáng lấp lánh”, đôi khi được
gợi mở một cách mơ hồ dạo này, trời cứ mưa mãi, không khí nặng nề, làm cái gì cũng
thấy âu lo có sự tương tác với tâm trạng con người “Cơn gió tây lạnh lẽo như màu tro
xám thổi qua, làn khói bay là đà sát mặt đất”[6; tr.25], Kazuko vô tình ngước lên nhìn
gương mặt của mẹ, thấy thần sắc vô cùng nhợt nhạt.

Không gian thời gian trong Tà dƣơng còn có tính chất dự báo “Ngoài sân bóng
tối đã bao phủ. Mưa ngừng rơi nhưng gió vẫn còn thổi…Càng khuya gió càng thôi. Từ
khoảng 9 giờ đêm, mưa với gió theo nhau vần vũ thành một cơn bão thực sự. Bức
mành trúc ngoài đầu hành lang mà tôi cuốn lên hai ba ngày trước đang va đập lạch
cạch trong gió”[6; tr.109] dự báo về sự chuyển biến rõ rệt trong tâm thức của Kazuko,
sự thay đổi của Kazuko sẽ phải đối mặt với nhiều sóng gió, cô bắt đầu tiếp xúc với
Kinh tế học nhập môn của Rosa Luxemburg, Tuyển tập Leenin, cách mạng xã hội của
Kautsky, những cuộc cách mạng và chấp nhận thất bại như một phần của quá trình tiến
tới thành công, và học hỏi từ chúng rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để
trưởng thành hơn. Dù sao đi nữa, hoặc là sẽ thành công, hoặc sẽ học được một bài học
quý giá nào đó, chính vì vậy, cô lựa chọn hành động, bước ra ngoài đối mặt với thử
thách, và học hỏi từ nó. Ngày Kazuko quyết định tìm gặp Uehara cũng là một ngày gió
thổi dữ dội, trong quán Chidori “Có một cái nền đất và sát bên là một căn phòng rộng

64
chừng sáu chiếu. Trong phòng khói thuốc mịt mù, khoảng mười người đang ngồi
quanh một cái bàn lớn, uống rượu mạnh, quậy phá tưng bừng. Trong đó có ba cô gái
trẻ cũng đang ngồi uống rượu và phì phèo thuốc lá…Hết người này đến người kia ca
cái bài hát vô nghĩa không đầu không đuôi, cứ “này thì máy chém, máy chém đây” rồi
cụng ly như thể đó là nhịp điệu để lấy đà nốc rượu vào cổ họng” [6; tr.135] không
khí nhuốm màu cuộc sống nhếch nhác bợm dãi của Uehara và đám bạn rượu của ông
ta, cho thấy những khó khăn của cuộc cách mạng trong tình yêu cá nhân, phải sống để
tuyên chiến với thứ đạo đức cổ hủ Kazuko, trở thành nạn nhân, thành vật hiến tế cho
cuộc cách mạng của chính mình.

“Bên ngoài trời đã về khuya. Gió đã dịu bớt mấy phần. Bầu trời ngàn sao lấp
lánh. Chúng tôi sánh bước bên nhau…hàng cây hai bên đường. Những cành cây trơ
trụi không còn một chiếc lá, mảnh mai và sắc nhọn đâm thẳng lên bầu trời đêm” [6;
tr.140] Có những lúc cần phải chiến đấu qua những ngày tồi tệ để tiến tới những ngày
tươi sáng, hạnh phúc là một chuỗi những khoảnh khắc đến và đi, chỉ vậy thôi, học cách
chấp nhận và trân trọng những khoảnh khắc hạnh phúc dù là nhỏ bé trong cuộc sống
này để thấy yêu quý cuộc đời.

3.4.2. Không gian thời gian của chiều sâu tâm lí.
Không gian thời gian của chiều sâu tâm lý thể hiện ở sự đồng cảm giữa nhân
vật và tác giả. Nhà văn Dazai đi sâu vào chiều sâu tâm lí của nhân vật, bám sát nỗi tan
hoang, đổ nát, nỗi ám ảnh có khi cả niềm khát khao đổi thay của các nhân vật. Hiện tại
làm mốc để nhìn về, quá khứ có thể vừa mới đây trong nỗi nhớ của nhân vật, có khi nó
lùi về thật xa, thật mơ hồ mơ ảo, nhiều khi được kể một cách rõ ràng, trực tiếp như
đang xảy ra trong hiện tại.

Đang nói chuyện với mẹ “Chợt tôi nhớ lại ngày mà tôi cùng cha lái xe qua
miền Nasumo. Khi dừng xe dọc đường, cảnh sắc mùa thu bừng lên trong tâm trí. Một
cánh đồng ngập tràn hoa cỏ mùa thu. Nào là cỏ hagi, hoa cẩm chướng, long đảm, nữ
lang…đua nhau khoe sắc. Những trái nho dại vẫn còn đang xanh. Sau đó, tôi cùng cha
lên xuồng máy ở hồ Biwa. Tôi nhảy xuống nước, một con cá nhỏ xuống đáy hồ trong
vắt, di chuyển cùng với tôi. Những kỉ niệm này chợt hiện ra rồi biến mất” [6;
tr.56]. Thời gian như dòng sông băng lạnh lùng chảy ngang cuộc đời, lấy đi bao mùa
xuân, tuổi trẻ, tình yêu, nhưng mặt khác, nó chắt lọc và nâng niu những giá trị thuộc về
65
vĩnh cửu, những tia nắng thắp lửa nơi trái tim con người. Kazuko luôn hồi tưởng lại
quá khứ bằng cách đặt nó trong tương quan với thực tại, việc kết hợp và chuyển đổi
các cấp độ yếu tố thời gian theo phương thức trên giúp người đọc cảm giác về độ căng
của thời gian nhiều hơn là độ dài bởi sự xuất hiện dồn dập của các sự kiện cũng như sự
vận động tâm lý của nhân vật.

Việc xây dựng một kết cấu không - thời gian trong đó có sự gặp gỡ giữa quá
khứ và hiện tại, tính chất không - thời gian lồng ghép khiến tác phẩm khiến Tà dƣơng
trở thành kiểu truyện kể không ngừng tự vấn lại chính mình, gặp lại chính mình trên
từng nếp suy nghĩ. Con người không thoát được vòng xoáy luẩn quẩn của không - thời
gian ấy, cho nên thân phận cũng dẫm lên nhau những nỗi đau mòn mỏi.

Đang nói về chuyện những đoá hồng đã nở, Kazuko bất chợt thốt ra những lời
mà chính mình cũng không ngờ “Nói xong, tôi bần thần đùa với mảnh len đan dở đặt
trên đầu gối và nhớ về những kí ức buồn bã.

- Vì em đã hai mươi chín tuổi rồi đấy.

Cái giọng nói trầm trầm của người đàn ông đó nghe như lời nói trên điện
thoại, chợt vang vọng bên tai một cách rõ ràng. Mặt tôi đỏ bừng lên vì then”[6; tr.62]

Quay trở về hiện tại và quá khứ gần hơn “Mẹ không nói gì và tiếp tục đọc sách.
Dạo gần đây mẹ hay mang khẩu trang, có lẽ vì vậy mà quá kiệm lời. Việc này là do mẹ
nghe lời Naoji nói. Khoảng chừng mười ngày trước, Naoji từ phương Nam trở về với
sắc mặt xanh xám. Đó là một buổi chiều mùa hạ, chẳng báo trước một lời...” rồi người
đọc chìm vào cảm xúc của Naoji với nhật kí hoa quỳnh, sau đó lại theo dòng hồi tưởng
của Kazuko “tôi gấp quyển Nhật kí hoa quỳnh bỏ lại cào chiếc hộp gỗ rồi bước đến
bên cửa sổ, mở thật rộng cánh cửa ra, nhìn xuống khu vườn nghi ngút hơi mưa trắng
xoá vừa nghĩ đến chuyện xa xưa. Đã sáu năm kể từ ngày đó”[6; tr.73] Kazuko nhớ về
cuộc hôn nhân của mình, khi mà Naoji nghiện ngập, túng quẫn, Kazuko mới về làm
dâu nhà Kamaki phải đem bán nữ trang và âu phục để lén lút đưa tiền cho em, những
lời thề thốt, những lá thư xin tiền của Naoji, ngược dòng thời gian trở về ngày đầu gặp
Uehara buổi chiều ngày chớm đông. Gió từng cơn lạnh buốt. Thời gian dòng ý thức
gắn liền với nghệ thuật đồng hiện vì những dòng tâm tư của con người không bao giờ
liền mạch. Ký ức thì phai nhạt theo tháng năm, những gì còn lại trong sâu thẳm con
66
người chỉ là những mảnh vỡ. Thời gian trong tác phẩm của Dazai Osamu thường
không phải là thời gian của hành động mà là thời gian hiện tại của sự cảm nhận, không
gian thời gian nội tâm của con người.

Khi Kazuko ngược dòng quá khứ thì hiện tại lu mờ, đúng hơn, quá khứ được
hiện tại hóa và không còn xác thực. Từng lớp sự kiện hiện lên như những thước phim
được cắt dán. không khí câu chuyện là những hồi ức tỏa rộng và đan bện vào nhau.
Thời gian bị tháo khỏi trục của nó, nhảy cóc từ hiện tại về một thời điểm trong qúa
khứ, từ quá khứ gần về quá khứ xa hơn, các sự kiện được tháo rời, đánh mất đường
viền. Những đoạn thoại đan cài vào nhau giữa các nhân vật, Kazuko và cô hầu Oseki,
Kazuko với Uehara, Kazuko với chồng cũ Kamaki, Kazuko với Naoji tất cả xen kẽ lẫn
nhau hỗn độn theo trí nhớ của Kazuko, không theo một trật tự nào, quá khứ và hiện tại
chồng chéo tạo lập quan hệ và xác định các giá trị. Sự đan cài thời gian tạo ra lối di
chuyển bất ngờ từ miền không gian này sang miền không gian khác. Bất cứ giữa hai
đoạn văn kể về những thời điểm khác nhau nào trong tác phẩm, ta cũng dễ dàng tìm ra
mối liên hệ như trên. Rõ ràng, cái nguyên tắc gián đoạn về thời gian mà liền mạch về
trần thuật hầu như là một nguyên tắc nó cho thấy sự buông bắt rất nhịp nhàng của tác
giả.

Trước khi bắt đầu một sự kiện, nhà văn Dazai luôn sắp xếp cho sự kiện của
mình một không gian và thời gian song song đi kèm vô cùng hợp lí, không chỉ của quá
khứ hay hiện tại mà đôi khi có cả không gian cho sự tưởng tượng, mơ ước, dự cảm về
một tương lại gần “cỏ thu hagi ngoài vườn đã nở. Rồi thì hoa nữ lang, hoa địa du, hoa
chuông, cỏ đuôi mèo, hoa lau nữa. khu vườn đã khoác áo mùa thu rồi. Đến tháng
mười chắc chắn mẹ sẽ hạ sốt đấy…Tôi cầu mong như thế. Hay là đến đầu tháng chín
oi bức, khi những cơn nắng cuối cùng của mùa hạ trôi qua cũng được. Và rồi khi hoa
cúc nở, những ngày nắng đẹp ấm áp kéo dài đến cuối thu, chắc chắn mẹ sẽ hạ sốt,
khoẻ lên lại và tôi có thể gặp mặt người ấy” [6; tr.102], khả năng xâm nhập vào nhân
vật cao với sự lưu thông quá khứ, hiện tại, tương lai liên tục như một dòng chảy,
không bị ngăn cách.

Với việc chọn điểm nhìn trần thuật là nhân vật tôi, nhà văn Dazai Osamu
không chỉ để cho sự việc hoàn toàn tự do theo dòng ký ức và hiện tại miên man chủ
quan của nhân vật, mà đôi khi còn tự ý xâm nhập vào những giấc mơ, trong thầm thì
67
của tiềm thức “tuy thực tế tôi chưa bao giờ nhìn thấy quang cảnh đó nhưng trong mơ
lại thường hay gặp…đứng bên bờ hồ trong khu rừng quen thuộc…toàn thể phong cảnh
như bị bao phủ trong một màn sương màu xanh lá cây. Và dưới đáy hồ, một chiếc cầu
nhỏ màu trắng đang chìm sâu… Trong khu vườn sương mù, những bông hoa lớn như
hoa cẩm tú cầu đỏ rực đang rơi, sao tôi buồn đến lạ…khi ý thức mẹ đã mất toàn thân
tôi chìm đắm trong nỗi buồn thương không sao nói thành lời” và khi mở mắt ra, “bóng
hoàng hôn đã phủ ngoài hành lang. Trời đang mưa. Nỗi cô đơn màu xanh lá vẫn còn
phảng phất quanh đây như còn trong giấc mơ”[6; tr.107] việc kết hợp và chuyển đổi
các cấp độ yếu tố không gian thời gian liên tục và đan xen như vậy đã mở ra trường
liên tưởng rộng cho người đọc phá vỡ các chiều kích và giới hạn.

Hết dừng, lại lùi, rồi tiến, nhà văn kết hợp và chuyển đổi các cấp độ yếu tố
không gian, thời gian theo những phương thức rất linh hoạt. Người đọc đã quen với
trật tự tuyến tính của không gian và thời gian trong tiểu thuyết cổ điển thường cảm
thấy khó chịu với lối di chuyển bất ngờ từ miền không gian này sang miền không gian
khác hay việc nhảy cóc từ hiện tại về một thời điểm trong qúa khứ, từ quá khứ gần về
quá khứ xa hơn của tác phẩm, tuy nhiên cách viết này tạo ra kiểu kết cấu mở cho tác
phẩm, thực tại được nhận thức lại, con người phát hiện ra những điều thú vị, mới lạ về
những điều vốn đã quen thuộc. Không gian, thời gian tự nó tạo ra những tầng ý nghĩa.

Không gian, thời gian không là linh hồn, không là cốt tuỷ của tác phẩm nhưng
là sợi dây sâu chuỗi và kết nối các sự kiện, các dòng tâm tưởng, các nhân vật, hành
động trong tính chỉnh thể của tác phẩm. Tà dƣơng có cách xây dựng không gian - thời
gian rất linh hoạt không nhất thiết theo một trật tự cố định tuyến tính, nó hoàn toàn có
thể được đảo lộn quay chiều về quá khứ có thể dồn nén một khoảng thời gian trong
chốc lát hay kéo dài cái chốc lát thành cái vô tận, vừa đan xen nhưng không hề phá vỡ
tính liền mạch của câu chuyện, ngược lại có có tác dụng gia tăng tính nối kết chặt chẽ
của các tình tiết nghệ thuật. Và độ biến chuyển, vận động linh hoạt của yếu tố không
gian - thời gian được coi là một trong những thước định giá tài năng và kỹ thuật thao
tác của người nghệ sĩ.

68
PHẦN KẾT LUẬN

69
Năm 2013, chúng ta vui mừng kỉ niệm 40 năm quan hệ Việt – Nhật
(1973 – 2013). Trong những năm gần đây, tình hữu nghị giữa hai nước có bước phát
triển mới, điều đó không chỉ phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước mà còn
là xu thế phát triển chung của thời đại. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để chúng ta
được tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về văn hóa Nhật - một trong những nền văn hóa
đặc sắc của thế giới.

Trong bối cảnh đó, tiếp cận văn học Nhật Bản qua một trong những nhà văn
tiêu biểu của đất nước này – Dazai Osamu, đã giúp người viết càng hiểu thêm, yêu
thêm về đất nước, con người và những truyền thống văn hóa tốt đẹp nơi đây. Với đề
tài Đặc điểm nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết Tà dƣơng của Dazai Osamu, luận
văn tập trung khai thác ở hai phương diện cơ bản nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
từ đó thấy được những nét đặc sắc, những điểm mới mẻ mà tác phẩm đem lại, khẳng
định giá trị, vị trí vai trò của nó đối với văn nghiệp của tiểu thuyết gia. Qua đây độc
giả còn cảm nhận được tâm hồn Nhật Bản, bối cảnh xã hội và những khát vọng nhân
sinh của nhà văn thể hiện tinh tế trong tác phẩm.

Về nội dung, tiểu thuyết Tà dƣơng và nhà văn Dazai Osamu đã chuyển tải
những vấn đề trong con người và xã hội Nhật Bản đương thời, bên cạnh hiện thực với
những tan nát đổ vỡ vẫn là vẻ đẹp cứu rỗi toát lên từ giá trị truyền thống, là sức mạnh
vượt thoát, là tình yêu là tình cảm gia đình. Từ đời thực đến trang văn, Dazai Osamu
lúc nào cũng bị ám ảnh bởi cái chết, sự tự sát, những quan niệm bi quan về thời thế,
nhưng trong tác phẩm, ông vượt lên định mệnh của đời mình, không chỉ để Kazuko
quyết tâm sống sót với khát khao mãnh liệt được tồn tại trên cõi đời mà còn đẩy nàng
vào cuộc chiến đầy thử thách, đấu tranh với khó khăn, nghịch cảnh bằng hành động trở
về nương náu trong thăm thẳm yêu thương và bao dung nơi nguồn cội, tìm thấy ở đó ý
nghĩa và giá trị đích thực của đời sống. Tà dƣơng cho ta cái nhìn hiện thực trực diện
đến bạo liệt, trần trụi đến thô tháp mà vẫn đầy ắp tính nhân văn trong ý thức tôn vinh
giá trị của tình người, của khát vọng được tồn tại như một con người. Nhà văn có lẽ
cũng đau đáu muốn tìm đáp án cho câu hỏi lớn hàng trăm năm nay vẫn treo tâm thức
nhân loại “sống hay không sống” và Tà dƣơng có lẽ là một kiểu câu trả lời của ông và
của cả một thế hệ nhà văn Nhật Bản đầy tài năng cùng thời với ông: sống hay không

70
sống đều là bi kịch đối với kiếp người, thể hiện tâm trạng vỡ mộng và bế tắc đến cùng
cực của một bộ phận nào đó người Nhật hậu chiến.

Về nghệ thuật, ông thành công trong việc xây dựng nhân vật, đặc biệt là khắc
hoạ tâm lí nhân vật, dưới ngòi bút của ông những day dứt, ám ảnh khôn nguôi, những
nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn được thể hiện một cách tinh tế. Ngoài ra, nghệ thuật
xây dựng kết cấu, nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật, xây dựng không gian – thời
gian trong tác phẩm khéo léo điêu luyện cũng tạo ra sức hút dai dẳng cho tác phẩm.

Tà dƣơng thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, không chấp
nhận thỏa hiệp hay đầu hàng buông xuôi, tự đánh mất mình trước cuộc đời nghiệt ngã.
Cái khát vọng không chỉ có ý nghĩa hồi sinh con người mà còn là động lực, là sức
mạnh thôi thúc họ tiếp tục sống khi sau lưng là bao nhiêu đổ vỡ và phía trước vẫn là
những bất trắc đón chờ. Tất cả những điều ấy là căn nguyên căn bản khiến tác phẩm
của Dazai Osamu bước từ ranh giới của nỗi cô đơn trống rỗng trong tâm hồn trở về
bản nguyên của sự khát thèm sự sống, của niềm tin vào cuộc đời. Bởi vì con người sau
những va đập, những đổ vỡ nảy lửa nhận ra phần còn lại của đời sống mình càng trở
nên quí giá và có ý nghĩa biết chừng nào. Chính cội nguồn văn hoá dân tộc Nhật Bản,
ý chí mạnh mẽ để khẳng định tính cách của bản thân và bản sắc của dân tộc, đã tưới
đẫm tâm hồn nhà văn góp phần hình thành cá tính sáng tạo của Dazai Osamu - một
nhà văn tài năng.

Mong rằng luận văn này đã góp thêm một tiếng nói, dù nhỏ bé góp phần khẳng
định vị trí của nhà văn Dazai Osamu cũng như những giá trị mà tác phẩm Tà dƣơng
mang lại. Đồng thời, cung cấp thêm những kiến thức mới về đất nước và con người
Nhật với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp. Tin chắc rằng những công trình
nghiên cứu về nhà văn Dazai Osamu và những sáng tác của ông sẽ không dừng lại ở
đây, sẽ vẫn còn tiếp tục qua nhiều thế hệ bởi sức hấp dẫn mạnh liệt mà nó mang lại với
bất kì ai đã từng đến với Dazai Osamu nói riêng và văn học Nhật Bản nói chung.

71
TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU SÁCH

1. Eiichi Aoki (2006)– Nhật Bản, đất nƣớc và con ngƣời – NXB Văn học - Hà Nội
2. Lại Nguyên Ân (2003) - 150 thuật ngữ văn học - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội
3. Hà Minh Đức (1962) - Những nguyên lí về lí luận văn học - NXB Giáo dục, Hà Nội
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2011) - Từ điển thuật ngữ văn học -
NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Phương Lựu(chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà,
Thành Thế Thái Bình - Lí luận văn học - NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Dazai Osamu (2012) – Tà dƣơng – NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
TÀI LIỆU MẠNG
7. Đặng Khánh Ly - Hơn cả cái chết -
http://dangkhanhly.wordpress.com/2013/01/12/hon-ca-cai-chet.html
8. Hoài Nam – Tà dƣơng – Sống hay không sống -
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=80&NewsId=266492
9. Dazai Osamu - Thất lạc cõi ngƣời –
http://gacsach.com/doc-online/56130/that-lac-coi-nguoi-chuong-01.html
10. Phạm Vũ Thịnh -Dazai Osamu – Tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản -
http://www.erct.com/2-ThoVan/PV-Thinh/Dazai_Osamu.htm
11. Trần Nhã Thuỵ - Hoàng Long và tinh hoa văn chƣơng Nhật
http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/hoang-long-tinh-hoa-van-chuong-
nhat.html
12. Nguyễn Nam Trân – Giáo trình Lịch sử Nhật Bản
http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/GiaoTrinhLSNhatBan/NNT_GTLichSuNB.ht
m
13. Nguyễn Nam Trân - Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản-
http://maxreading.com/sach-hay/lich-su-van-hoc-nhat-ban/doan-duong-vuot-thoat-
hau-chien-29235.html
14. Nguyễn Văn Tùng - Một cơ sở cho lý luận về Tiểu thuyết Việt Nam hiện
đạihttp://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=1096]
72
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lí do chọn đề tài. .................................................................................................. 5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................... 6

3. Mục đích nghiên cứu. ........................................................................................... 8

4. Phạm vi nghiên cứu. ............................................................................................. 9

5. Phương pháp nghiên cứu. ..................................................................................... 9

PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 11

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT ............................................ 12


1.1. Một số vấn đề chung về tiểu thuyết. ......................................................... 12

1.1.1. Đặc điểm nội dung ………………………………………………….9

1.1.2. Đặc điểm nghệ thuật……………………….………………………11

1.2. Vài nét về lịch sử xã hội và văn học Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai .. 16

1.2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội……………………………………………..13

1.2.2. Tình hình văn học ………………………..………………………..16

1.3. Nhà văn Dazai Osamu và tiểu thuyết Tà dƣơng ....................................... 21

1.3.1. Dazai Osamu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác……………..……….18

1.3.2. Tiểu thuyết Tà dương……………………………………..…….….20

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG..... 26

2.1. Vẻ đẹp truyền thống và vẻ đẹp của tầng lớp quý tộc Nhật Bản ..................... 26

2.2. Bi kịch nhân sinh của xã hội hậu chiến .......................................................... 31

2.3. Khát vọng vượt thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn để tồn tại. ............................ 36

2.4. Tình yêu trong tiểu thuyết Tà dương .............................................................. 39

2.5. Tình cảm gia đình trong tiểu thuyết Tà dương ............................................... 43

73
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG ....... 47

3.1. Kết cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng. ........................................... 47

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Tà dƣơng ....................... 49

3.2.1. Xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình và hành động nhân vật…….47

3.2.2. Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật …………………………………52

3.3. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng.... 61

3.4. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. ....................................... 63

3.4.1. Không gian thời gian thực ……………………………………………62

3.4.2. Không gian thời gian của chiều sâu tâm lí……………………………64

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 71

74
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
............................

75
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ PHẢN BIỆN
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
............................

76

You might also like