3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngoại hình và hành động Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, có thể nói việc xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình là một thủ pháp cơ bản. Ngoại hình chỉ toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân vật, đó chính là những nét về diện mạo, hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong của nhân vật được thể hiện trong tác phẩm. Chỉ bằng vài nét bút thoáng qua có tính chất chấm phá nhưng tác giả đã tái hiện, dựng lên chân các nhân vật trước mắt người đọc. Chẳng hạn như đối với nhân vật Uehara – thầy của Naoji. Ông được miêu tả là người “nhỏ thó, sắc mặt tối tăm, u ám, lạnh lùng” (Chương 3). Lần đầu tiên gặp mặt, cái ấn tượng đầu tiên của Kazuko về ông là rất kì dị, như một con thú lạ, trông vừa trẻ lại vừa già, ông ta nói bằng giọng mũi hơi ngắt quãng trong một bộ hakama kẻ sọc. Và ngoại hình của Uehara sau sáu năm gặp lại, nó dường như vẫn là con thú lạ đó nhưng có phần già hơn: “Mái tóc dối bù ngày xưa vẫn vậy nhưng có phần xơ xác và thưa hơn trước, mặt xệ ra và vàng vọt hơn, mắt đỏ quạnh, răng cửa bị rụng đi mấy cái, miệng cứ nhai trệu trạo không ngừng. Tôi có cảm giác như mình nhìn thấy một con khỉ già lưng còng đang ngồi trong góc phòng vậy” (Chương 6) Hay đối với ngoại hình của người vợ Uehara là một người phụ nữ hiền lành, tốt bụng và hay cười với khuôn mặt “gầy gò”, lớn hơn Kazuko “chừng ba bốn tuổi, mỉm cười”. Bà chủ quán rượu hay qua lại với Uehara mặt trắng xanh “như người có bệnh”, có giọng nói đầy chân tình, từ tốn tự tay rót rượu vào chén uống trà của mình, người phục vụ tên Kinu tuổi trên ba mươi, mặc kimono có hoa văn nhã nhặn, lão hoạ sĩ Fukui là một ông già người “nhỏ thó, đầu hói trụi, tuổi chừng trên năm mươi mặc một bộ quần áo ngủ sặc sỡ, miệng cười nhăn nhở”... Miêu tả ngoại hình đối với nhà văn Dazai Osamu không chỉ đơn giản chỉ là sao chụp máy móc chân dung các nhân vật mà lại độc lạ hơn khi chỉ phác họa tái hiện lại bằng một vài nét thoáng qua có tính chất chấm phá nhưng người đọc có thể nhìn thấy một cách sinh động tính cách nhân vật. Ngoài việc xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình, tác giả còn sử dụng tới phần hành động để góp phần làm rõ hình tượng nhân vật trong tác phẩm hơn. Hành động là những việc làm cụ thể của các nhân vật trong những tình huống khác nhau của cuộc sống cũng như trong các mối quan hệ ứng xử với các cá nhân hay nhân vật khác, là một trong những công cụ để nhân vật của nhà văn được nói lên những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái bên trong của họ. Hình ảnh người mẹ được Dazai Osamu xây dựng rất đẹp đẽ, mẹ là người phụ nữ quý tộc thực sự, là người luôn toát lên vẻ cao sang cùng với khí chất không phải ai cũng có được: “Mẹ nghiêng mặt về phía cửa sổ nhà bếp, nhìn ra những cành hoa anh đào núi đang độ mãn khai. Cứ nghiêng mặt như thế mẹ lại đưa một thìa súp lên miệng, cho vào khoảng hẹp hia môi nhẹ nhàng trút xuống”. (Chương 1) “…mỗi khi ăn một miếng thịt gà có xương, trong khi chúng tôi khổ sở tách xương ra cố không gây tiếng động nào nơi đĩa thì mẹ tôi lại nhẹ nhàng dùng đầu ngón tay cầm chỗ xương ấy đưa lên miệng rồi tách phần thịt và xương. Cái hành động thô lậu ấy khi mẹ tôi trình diễn lại vô cùng dễ thương, thậm chí còn có đôi chút gợi tình nữa. Đúng là quý tộc tinh hoa có khác.” (Chương 1) Những kiểu ăn uống này dù không được quy định chính thức trong lễ nghi nhưng trong mắt những đứa con, nó lại vô cùng khả ái, cho dù là người mẹ không có tước vị gì cả. Ngược lại, những kẻ mang tước vị như Iwashima và Yanai lại có những hành động vô cùng đê hèn và ấu trĩ. Sau cuộc chiến, mẹ đã chấp nhận cuộc đời, đã buông bỏ vũ khí, chấp nhận số phận và lờ đi cái đời sống thực. Người mẹ đúng là một “quý tộc thật sự. Có gì đó cao sang nơi bà mà chúng tôi không thể nào sánh nổi.” (Chương 1) Dù sau cuộc chiến, người mẹ đã chấp nhận cuộc đời, đã buông bỏ vũ khí, chấp nhận số phận và lờ đi cái đời sống thực, nhưng đó chỉ một hình thức lừa mình dối người, trong lòng người mẹ vẫn luôn đau đáu và âm ỉ nỗi nhớ về Tokyo, về cuộc sống quý tộc trước đây của gia đình. “Mẹ cũng cam chịu chấp nhận việc chuyển tới Izu. Mẹ dùng dằng muốn nán lại căn nhà lâu hơn chút nữa vì không muốn phải rời đi nhưng cuối cùng, với sắc mặt xanh xám, mẹ cũng miễn cưỡng mặc áo khoác và nói lời từ biệt với mọi người. Trong chuyến xe lửa vắng vẻ, cơn lạnh làm mẹ co ro và chỉ biết ủ rũ gục đầu.” (Chương 1) “Mẹ chán nản khi phải chuyển nhà đến Izu, lúc lên xe điện, mẹ nhận ra lòng mình đã chết đi một nửa và dù loáng thoáng tâm trạng mẹ có tốt lên nhưng đến khi chập choạng tốt, mẹ như kiệt sức vì da diết nhớ Tokyo.” (Chương 1) Có thể thấy, hình tượng nhân vật người mẹ hiện lên đậm tính nữ Phù Tang và toát lên vẻ đẹp phẩm chất quý tộc qua những hành động mang nét tính cách: nhẹ nhàng, nhân hậu và bao dung. Đối với Naoji, cuộc sống cũng là một chuỗi bất định. Anh luôn hoài nghi về cuộc sống của mình. Sau cái chết của người mẹ, Naoji dường như thực sự mất đi niềm xác tín của mình, dù anh đã nói rằng: “Em muốn trở nên đê tiện. Em muốn trở nên mạnh mẽ, không, trở nên cường bạo. Em nghĩ đó là con đường duy nhất để có thể trở thành bạn bè của những người thường dân kia… Em phải quên đi nhà mình. Phải phản kháng lại dòng máu của cha. Phải cự tuyệt sự dịu dàng của mẹ. Phải lạnh lùng với chị. Em nghĩ nếu mình không làm thế sẽ không kiếm được chiếc vé để bước vào phòng của những người thường dân kia” Nhưng đó chỉ là cái vẻ bề ngoài vụng về và giả dối, nó khiến Naoji ngày càng thù ghét chính bản thân và dần xa cách với chị gái, với thế giới loài người. Anh dần chìm đắm trong men rượu, tệ nạn và sau chuỗi gần mười ngày lang thang chơi bời với ông nhà văn Uehara, dường như Naoji đã bị cái vòng xoáy điên loạn của Tokyo nuốt chửng, để rồi sau cùng lại “lếch thếch quay về Izu với khuôn mặt xanh xao vàng vọt như một kẻ bệnh tật, anh lăn ra ngủ li bì.” (Chương 6) Qua những hành động mâu thuẫn của nhân vật Naoji đã cho thấy đây là một nhân vật đại diện cho lớp người quý tộc không đủ dũng khí, mạnh mẽ để từ bỏ quá khứ quý tộc của gia đình mình ở xã hội Nhật Bản thời hậu chiến lúc bấy giờ. Và đối với Kazuko, cô là một cô gái nhạy cảm. Sự nhạy cảm này được thể hiện rõ qua hành động cô dán những bức tranh được Renoir “tặng vào từng hộp diêm trong nhà bếp hay làm khăn tay cho búp bê, rồi trò chuyện về hoa hồng trong vườn như thể nói về một sinh linh nào đấy” (Chương 3). Kazuko cũng là người hay khóc. Cô có thể khóc khi bản thân cảm thấy quá thất vọng: “chỉ nói được chừng ấy, quá đau xót, nước mắt tôi trào ra, rồi cứ đứng gục đầu im lặng” (Chương 2). Khi cảm động: “…thấy mẹ lo lắng cho Kazuko còn hơn lo lắng cho sức khoẻ của mình nữa, tôi lại càng buồn hơn, đứng dậy chạy vào phòng tắm và khóc lóc không ngừng” (Chương 5) Khi ấm ức: “Tôi hét lên và khóc tức tưởi…nói xong tôi chạy vô phòng tắm, vừa khóc thổn thức vừa rửa tay chân mặt mũi. Sau đó thì lên phòng thay đồ và lại khóc tức tưởi. Tôi cứ khóc, tiếp tục khóc. Tôi chạy lên tầng hai nằm vùi trên giường, lấy chăn chùm kín đầu và khóc đến rạc cả người” (Chương 2) Và Kazuko là một nhân vật đại diện cho “khối sống” mạnh mẽ trong xã hội Nhật Bản lúc đó. Trái ngược với em trai Naoji của mình, tuy cô chưa bao giờ quên nguồn gốc quý tộc của mình nhưng cô đã xóa bỏ được cái căn cước giai cấp và thực sự hòa nhập được vào cuộc sống “thường dân”: “Lao động chân tay, đối với tôi công việc sử dụng sức lực này không phải là lần đầu tiên. Hồi còn chiến tranh, tôi bị trưng dụng để đi đào công sự. Bây giờ đôi tất mà tôi mang đi làm vườn cũng là thứ mà quân đội cấp cho hồi đó. Lần đầu tiên trong đời xỏ chân vào đôi bít tất dã chiến, tôi thấy vô cùng sửng sốt vì sự êm ái của nó. Khi tôi mang đôi vớ nãy đi dạo quanh vườn, ngực tôi râm ran niềm vui và có cảm giác như mình có thể hiểu được sự khinh khoái của chim và thú khi chúng dạo bước trên mặt đất bằng đôi chân trần. Đó là cái ký ức vui vẻ nhất trong thời chiến tranh. Bây giờ nghĩ lại, chiến tranh thật là cái thứ vớ vẩn”. (Chương 2) Kazuko đã không để cái cao nhã của mình bị bức tử như mẹ và em trai mà cô đã bảo vệ nó theo cách riêng của mình. Có thể thấy, qua những hành động trong những trải nghiệm qua từng bậc cảm xúc thì hình tượng nhân vật Kazuko hiện lên là một nhân vật luôn giàu sức chịu đựng, bằng một cách nào đó, cô đang ở gần nơi mình muốn đến hơn rất nhiều bơi từ chối đối mặt với một điều gì đó không bao giờ có thể thay đổi được hoàn cảnh và không thể học được từ thất bại hay sai lầm nếu từ chối đối mặt nó. 3.1.2. Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật Một phương diện quan trọng, thậm chí đóng vai trò chủ chốt trong việc khắc hoạ nhân vật, đó chính là khía cạnh xây dựng, khai thác tâm lí các nhân vật trong tác phẩm của những kẻ lữ hành trên chuyến tàu văn chương. Đối với tác phẩm “Tà Dương”, có thể thấy, nhà văn Dazai Osamu đã có một sự chú trọng nhất định đến việc khắc họa tâm lí nhân vật để tạo dựng nên những con người hoàn chỉnh và thực sự “sống” trong tác phẩm. Muốn kiến tạo được một nhân vật trong văn chương, điều trước hết là buộc phải nắm bắt được tâm lý của nhân vật. Đây cũng chính là một thách thức đối với nhà văn, bởi, mỗi cá nhân là một cá tính và mỗi cá tính lại mang một tâm lí, một nội tâm riêng biệt, khó nắm bắt. Ở đây, nhà văn Dazai Osamu đã khéo léo và tinh tế khi chọn cách sáng tác tác phẩm dưới hình thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, qua lời kể của nhân vật tôi – Kazuko. Vì chính như vậy mới đúng là cách để nhân vật sống thật với lòng mình nhất. Điều này có thể thấy rõ ở nhân vật Kazuko. Dazai Osamu dường như đã dành cho Kazuko một sự ưu ái đặc biệt khi tâm lí của nhân vật này được nhà văn nắm bắt rõ và miêu tả rất chi tiết, đến mức ta có thể bắt gặp chúng khi chỉ vô tình mở ra một trang truyện bất kì. Chẳng hạn như đối với quá trình trưởng thành của Kazuko, Dazai Osamu đã miêu tả rất thành công hình ảnh từ cô gái mười chín ngơ ngác ngây thơ có thể bình thản mà nghĩ về cuộc sống của phụ nữ tuổi ba mươi với từng thứ quần áo, trang sức, đai lưng, dây chuyền…Đặc biệt hơn cả, nhà văn còn tận dụng những bức thư tình của Kazuko để làm công cụ nhằm khắc họa rõ nét tâm lí cũng như những chuyển biến tâm lí của nhân vật này. Có thể nói, đây là một sáng tạo độc đáo góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Mỗi bức thư là một cột mốc đánh dấu sự chuyển biến tâm lí của cô gái, với những sắc thái tăng tiến cảm xúc rõ ràng. Bức thư đầu tiên là sự e dè, hoài nghi, phân vân, tạo cảm giác mơ hồ thông qua sự khéo léo và tế nhị trong việc xưng hô để chính người đọc tự mang đến cho bản thân một cảm giác mơ ảo về đối tượng thực sự muốn nói đến trong bức thư tình đó của Kazuko: “Tôi là chị của Naoji. Có lẽ ngài quên rồi chăng? Nếu quên xin hãy nhớ lại… Tôi rất xin lỗi vì Naoji gần đây đã làm phiền và gây cản trở cho ngài quá nhiều…Anh M.C cũng giống như ngài đã có vợ con rồi. Và hình như anh ấy còn có những người bạn gái trẻ trung và xinh đẹp hơn tôi nữa… Xin ngài hãy hỏi thử anh ấy xem sao! Vào một ngày cách đây sáu năm, có một chiếc cầu vồng nhỏ bé mờ nhạt hiện ra trong ngực tôi...cho đến bây giờ, tôi chưa bao giờ thấy nó biến mất... Vì vậy xin ngài hãy hỏi ý kiến anh ấy giùm tôi. Liệu anh ấy nghĩ như thế nào về tôi? Và tình cảm của anh ấy có phải là chiếc cầu vồng trên bầu trời sau cơn mưa, vẫn còn đó hay đã tan biến rồi” (Chương 4). Đến bức thư thứ hai, lời lẽ từ hoài nghi, e dè chuyển sang khẳng định, quả quyết và Kazuko từ một người tình tự xưng đến lời vô lí của một phụ nữ trung niên, tưởng tượng ra viễn cảnh tương lai và yêu cầu lời hồi đáp, cô chủ động kể về chuyện hôn ước và vị tiên sinh láng giềng ở khu Nishikata dường như để kích lòng cạnh tranh ở Uehara: “Dù lời hồi đáp có thể đáng sợ, có thể là ngài yêu hay không yêu, hay chẳng có gì với tôi cả nhưng tôi vẫn phải hỏi ngài…Nhất định ngài phải trả lời cho tôi nhé!... Tôi muốn sinh đứa con mang giọt máu của ngài. Dù có chuyện gì đi nữa, tôi cũng không muốn mang thai con của người khác đâu… Hãy báo cho tôi biết rõ ràng về cảm giác của ngài” (Chương 4). Và bức thư thứ ba, Kazuko mạnh dạn tỏ ý mời Uehara đến nhà chơi mặc cho có Naoji kể lại và nhiều người nói rằng Uehara là kẻ đê tiện, ghê tởm, tồi tệ, đầy hận thù: “Tôi đứng về phía những kẻ trác táng, những kẻ bị gắn nhãn hiệu bất lương. Tôi nghĩ nếu mình chết đi trên cây thập tự thì cũng được thôi. Dù cho vạn người chỉ trích, tôi vẫn có thể nói thẳng vào mặt họ rằng: Các ngươi, những kẻ không gắn nhãn mác mới chính là những kẻ bất lương” (Chương 4). Việc sử dụng ngôi kể thứ nhất để dẫn dắt câu truyện không chỉ dừng lại ở chỗ để nhân vật có thể sống thật với chính mình, mà từ cái sống thật ấy, nó sinh ra cái gọi là nội tâm – thứ giúp cho độc giả có thể bước vào thế giới bên trong và cả bên ngoài của nhân vật một cách dễ dàng hơn. Những nội tâm ấy tuy phức tạp và có phần mâu thuẫn, đối lập nhưng thực chất chúng lại vô cùng logic và sâu sắc. Bức tranh hiện thực cuộc sống thiếu thốn của đất nước Nhật Bản, đặc biệt là sự suy tàn của tầng lớp quý tộc bởi phải chịu sự ảnh hưởng nặng nề từ sau Thế Chiến II, được hiện lên một cách rõ nét qua lăng kính nội tâm của nhân vật “tôi” – Kazuko. Đó là một sự thiếu thốn tột cùng, như một tấn nặng đối với mọi người dân Nhật Bản lúc bấy giờ, kể cả những gia đình quý tộc. Nó khinh khủng tới mức khiến cho Kazuko – một tiểu thư thuộc tầng lớp quý tộc phải có những suy nghĩ rằng: “…cái chuyện không có tiền đúng là một địa ngục đáng sợ và thê thảm vô vọng nhất mà tôi lần đầu tiên từ lúc sinh ra tới giờ mới nhận thấy. Ngực tôi nghẹn thắt lại, muốn khóc nhưng không thể nào khóc được. Không biết cảm giác này có phải là thứ nhân gian thường hay nói là “sự nghiêm túc của cuộc đời” hay không? Tôi cứ ngửa mặt nhìn lên trần nhà, cảm thấy người mình như một tảng đá, không tài nào nhúc nhích nổi” (Chương 1). “Tôi thấy thất vọng đến mức không thiết sống nữa. Cái cảm giác bất an như những con sóng khổ đau cứ dội vào lồng ngực tôi từng đợt, giống như những cụm mây trắng liên tục đuổi bắt nhau trên bầu trời chiều. Nó siết chặt trái tim tôi rồi thả lỏng ra, mạch máu nghẽn lại, hơi thở yếu ớt như tơ, mặt mũi tối tăm, lực toàn thân thoát ra khỏi đầu ngón tay khiến tôi hông thể tiếp tục công việc đan áo” (Chương 3). Chính hiện thực não lòng ấy cũng là một phần lí do khiến cho căn bệnh lao của người mẹ của Kazuko trở nặng hơn, thậm chí là có khả năng cướp đi mạng sống của mẹ: “Lần đầu tiên trong đời, tôi biết đến cảm giác hiện hữu của rất nhiều bức tường tuyệt vọng, nơi mà sức người dù gắng đến đâu cũng không thể làm gì được” (Chương 5) Và đã nói là nội tâm, ắt bản thân nó sẽ tự sản sinh ra những cái đối lập và vô lí, tưởng chửng như là hai mặt trên cùng một tờ giấy nhưng thực chất nó lại là cái logic, thấu tình đạt lí trong nội tâm của con người nói chung và của Kazuko nói riêng. Cái suy nghĩ “Hình như chẳng có gì nghiêm trọng. Cũng giống cơn bệnh lần trước của mẹ ấy mà, con chắc thế. Khi trời mát mẹ sẽ khỏi lại thôi” (Chương 5) đã có sự phủ định lập tức với cái suy nghĩ ở trên, mâu thuẫn đối lập này sẽ trở thành cái dễ hiểu và đúng đắn khi chúng ta hiểu được điểm xuất phát của nó, đó bắt nguồn từ tình yêu thương của Kazuko dành cho người mẹ; vì lo sợ người mẹ chất chứa nhiều tâm bệnh mà khiến cho căn bệnh thật sự ngày càng trở nặng mà điều đó có thể khiến cô mất đi người mẹ thân yêu của mình. Tình mẫu tử vô cùng thiêng liêng, chính vì vậy mà Kazuko có thể cảm thấy được sự bất thường nơi mẹ mình, cảm giác cô quạnh xung quanh người mẹ dường như dần dà xâm chiếm lấy cả Kazuko, những lúc không ở bên mẹ, Kazuko chỉ biết khóc, khi đi lấy sữa bò vào buổi sáng trời còn sương mù, khi vuốt tóc soi gương, …lúc nào cô cũng khóc “không ngừng”, “Hoàng hôn rồi tối đến, tôi ra trước hiên của căn phòng Trung Hoa mà khóc, nước mắt giàn giụa” (Chương 5). Bên cạnh Kazuko, Naoji cũng là nhân vật có những nội tâm trái chiều có lí của riêng mình. Nhân vật này bị mất niềm tin vào cuộc sống nhưng anh không buông bỏ, không hời hợt mà lại chọn cách phản kháng trong phần ý thức của bản thân: “Lần nào đi chơi với ông Uehara em cũng trả phần của mình. Mặc dù ông Uehara rất ghét điều đó và bảo rằng đúng là cái vẻ kiêu hãnh rẻ tiền của bọn quý tộc nhưng không phải em trả vì kiêu hãnh mà chỉ vì em rất sợ ăn nhậu, uống rượu và ôm gái bằng tiền của ông Uehara kiếm được. Có thể nói, vì em tôn trọng việc viết văn của ông Uehara nhưng đó chỉ là nói dối. Thực sự em không hiểu rõ tại sao mình phải làm vậy. Chỉ là sợ người ta phải bao mình ăn uống thế thôi. Nhất là được ăn uống bằng tiền công việc viết lách của người đó càng khiến em khổ tâm không sao chịu nổi” (Chương 7). Naoji có thể trở nên đê tiện dưới góc nhìn nào đó, có thể sử dụng ngôn ngữ hạ lưu nhưng tất cả chúng dường như chỉ là sự phỉnh gạt bề ngoài đầy bi kịch để che đi sự xơ xác và cằn cỗi của linh hồn bên trong. “Bây giờ em có chết thì cũng không có ai buồn thương đến độ dày vò thân xác nữa. Không, em biết chị à. Khi mất em chị sẽ buồn thương biết bao nhiêu. Khi biết tin em chết, chắc chắn chị sẽ khóc nhưng xin chị hãy ngưng nỗi cảm thương đi và thử nghĩ về nỗi khổ đau của em lúc sống và niềm vui của em khi được giải thoát hoàn toàn khỏi cuộc sống đáng ghét này. Em biết nỗi buồn thương của chị sẽ dịu bớt ngay thôi” (Chương 7). Naoji như một nhân vật đại diện cho nhân dân Nhật Bản đương thời. Một cộng đồng đang thiếu mất đi một niềm tin đầy đủ và chắc chắn về ý nghĩa của sự tồn tại của chính mình trong tư cách con người giữa xứ nhân loại này. Sự thảm bại trong Đệ nhị thế chiến như là một tủi nhục, một chấn thương tâm lí đau đớn đối với dân tộc Nhật, dường như đó là những giọt huyết lệ đau đớn nhất trong chiều dài trang sử của nước Nhật, con người của xứ hoa anh đào lúc bấy giờ là con người chìm đắm trong cô đơn, trong nỗi buồn u uất và cô độc trong chính sự kiêu hãnh của chính bản thân. Tâm trạng tuyệt vọng của Naoji thể hiện qua “Nhật ký hoa quỳnh” và bức thư tuyệt mệnh Naoji gửi cho Kazuko. Naoji đã rất khổ sở: “Hãy trả lời. Xin chị hãy trả lời đi! Và hãy báo tin vui đấy nhé! Em đang một mình rên rỉ khi nghĩ đến những nỗi nhục. Không phải em đang đóng kịch đâu. Tuyệt đối không. Van chị đấy! Em tưởng mình có thể chết đi vì hổ thẹn… Trong đêm khuya, em có thể nghe ra tiếng cười thầm thì vọng từ những bức tường, em trăn trở không yên. Đừng trên trọc em nữa. Chị ơi.” (Chương 3). Thế giới bên trong hay chính nội tâm của Naoji thiếu vắng lí tưởng, thiếu vắng các niềm tin truyền thống dẫn dắt cuộc sống hiện tại, cũng không có mẫu hình tương lai nào có thể làm điểm tựa, khiến cho cái đẹp buộc phải trôi dạt và tự diệt để nhường cái tàn bạo, dung tục lên ngôi. Naoji hoang mang, cô đơn, cố gắng tìm cách, tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời dù chỉ là trong một khắc bằng cái chớp mắt nhưng kết cục vẫn là cô đơn hoàn cô đơn. Bế tắc, buồn chán, nhân vật tìm đến cái chết, đến rượu, đến sự hành xác và lang thang vô hướng, đến sự phá phách, mù quáng, đến thái độ bất cần, bất hợp tác. Nó như một thứ tội lỗi đeo bám lấy nhân vật khiến anh không thể vượt khỏi cái bản ngã quý tộc của mình để hòa nhập với thời thế “xa lạ” mới. Đây cũng chính là hiện tượng đau lòng của tầng lớp quý tộc Nhật Bản khi cuộc sống của họ bị đảo lộn một cách mất kiểm soát sau Thế Chiến II. Tiểu thuyết “Tà dương” là một hiện tượng cho một lối văn hiện đại. Đối với phương diện nghệ thuật này, nhà văn đã cách tân và sáng tạo khi để câu truyện diễn ra dưới góc nhìn thứ nhất của Kazuko và mượn cái tâm lí, nội tâm của nhân vật để khắc họa nên không chỉ là hình tượng nhân vật mà còn là bức tranh hoang tàn, đổ nát của con người và đất nước Nhật Bản lúc bấy giờ. Nói một cách khác, đó chính là, nhà văn Dazai Osamu ở đây đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật một cách tỉ mỉ và tinh tế, có chọn lọc trên dòng chảy đau đáu, khắc khoải bởi bi kịch của những đổ nát trong đời sống tâm hồn, tình cảm con người và khiến cho “Tà dương” để lại
những ám ảnh, day dứt khôn nguôi trong lòng độc giả.