You are on page 1of 4

Vợ Chồng A Phủ

* Đoạn 2: “Lần lần mấy năm…chết thì thôi”


Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói rằng: "Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm
công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận
đen đủi dồn đến chân tường… Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con ngườikhông có ai
để bênh vực". Quả thực, Tô Hoài đã trở thành "kẻ nâng giấc"cho những số phận khổ đau thê thảm ấy.
Điều đó được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" linh hồn của truyện ngắn được
két tinh trong nhân vật Mị. Tác phẩm là kết tinh của tình yêu, niềm cảm thông sâu sắc, khát vọng tự do
cho con người… Điều đó đã được Tô Hoài khắc họa một cách chân thực và cảm động, đặc biệt là qua
hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích: “lần lần mấy năm qau…chết thì thôi”

Nhà văn Nguyễn Khải đã có những chia sẻ đầy tâm huyết: “Giá trị của một tác phẩm nghệ
thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc tình
cảm chứ không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Có thể nói, tình cảm của người viết là
khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm như thế nào. Người đọc đã
cảm nhận được những tình cảm ấy của Tô Hoài khi viết “ Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm được sáng tác
năm 1952, in trong tập "Truyện Tây Bắc". Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải
phóng Tây Bắc. Tác phẩm là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc ko cam chịu
bọn thực dân áp bức, giam hãm trg cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do.
Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, miêu tả chân thực số phận bất hạnh của Mị dưới cái bóng
của chế độ thực dân phong kiến chúa đất.
Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa,hiếu thảo. Bởi
vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêmtình mùa xuân, trai bản đến
“đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Bao nhiêu chàng trai đã đitheo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi
khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đờihứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha
mẹ không trả nổi tiền cho nhàthống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu
nhà giàunhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ.Bao
nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làmdâu, có đến hàng
tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngóntự tử. Đây có thể xem là sự
phản kháng của Mị trước thần quyền và cường quyền, không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi
vì cha mà cô không đành lòng chết.
Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả cái chết
Mị còn chẳng màng nghĩ tới nữa, bởi cuộc sống của Mị bây giờ chẳng khác gì kiếp nô lệ, súc vật: Ngay
từ câu văn đầu tiên, nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí:"
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau ", chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Nếu đó là những năm
tháng hạnh phúc thì đâu có gì để nói, nhưng đây lại là những năm tháng Mị phải kéo lê cuộc sống của
mình trong đau khổ, trong sự xói mòn, mất mát dần của cảm xúc tâm hồn. Điều đáng ngạc nhiên là đến
chính Mị cũng chẳng còn nhớ cuộc sống trong trốn địa ngục trần gian ấy đã diễn ra trong bao nhiêu
năm nữa" Mị cũng không nhớ nữa"– phải chăng, cô đã mất hết nhận thức về thời gian, không gian? Cái
khoảng thời gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà gợi lên biết bao
thương xót, ngậm ngùi. Trong sự chảy trôi ấy của thời gian hiện lên cái chết của con người" bố Mị chết
": Sự chảy trôi dai dẳng ấy của thời gian như kéo dài cái khổ, cái cực của những người lao động nghèo
miền núi. Họ phải cam chịu và sống dưới cái trướngcủa bọn chúa đất miền núi ngày này qua tháng
khác. Cuối cùng, cái khổ ấy kếtthúc thành cái chết. Chỉ với một câu văn ngắn, Tô Hoài đã dấy lên niềm
đồng cảm của ngườiđọc về cuộc đời bất hạnh của những người lao động nghèo miền núi. Quả thực, nói
như Nguyễn Minh Châu:" Nhà văn không tô đen hay bôi hồng cuộc sống mà nhà văn chỉ làm rõ bộ mặt
thật của nó ".
Ở những câu văn tiếp theo, một lần nữa hình ảnh nắm lá ngón xuất hiện" Nhưng Mị cũng không
còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa ". Lần thứ nhất, khi Mị trốn về nhà và khóc nức nở với
bố," Mị ném nắm lá ngón xuống đất.. Mị không đành lòng chết ". Mị làm vậy bởi lúc ấy, Mị còn có sự
ràng buộc là phải sống để trả nợ cho bố. Bây giờ," Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón
tự tự nữa ". Phải chăng, Mị đã cam tâm sống kiếp nô lệ? Phải chăng, ý thức phản kháng trong Mị đã bị
tê liệt? Thật chua xót làm sao, hóa ra, cái môi trường độc địa kia đã ngấm vào trong Mị, đau khổ đã
đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần với nó, chấp nhận nó như một phần trong cuộc sống của mình" Ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi ". Người đời thì quen ăn mặc sung sướng, Mị thì" quen khổ ", chua xót
làm sao? Và càng chua xót hơn, khi cái sự" quen "trong vô thức ấy, nó đã làm thui chột luôn cả ý thức
đấu tranh trong Mị. Ngay cả đến sự phản kháng yếu ớt cũng không còn. Còn đâu một cô Mị của lòng
ham sống yêu đời? Nào đâu còn cô Mị sẵn sàng ăn lá ngón để tự tử, để chấm dứt kiếp đời nhục nhã?
Câu văn đánh dấu sự thay đổi trong tính cách và tâm trạng của Mị. Như vậy, do tác động của sự bóc lột
mà bố con Pá Tra gây ra mà giờ Mị đã mất đi ngọn lửa sống và chẳng còn màng nghĩ tới sống chết nữa.
Ba chữ" Mị quen khổ rồi "như chất chứa bao xót xa và phẫn uất. Hoàn cảnh tạo nên tính cách và tính
cách tạo nên số phận. Từ một người con gái tự do và yêuđời, cánh tay đen ngòm của cái khổ và cái ác
đã tóm lấy Mị và hút hết bao nhiêu là cái tốt, cái đẹp rồi nhả ra là một con người nhỏ bé, trơ lì và chai
sạn. Đọc những câu văn này, ta càngcảm thấy thương và đồng cảm với số phận bất hạnh của Mị
Không những vậy, ở nhà thống lí Pá Tra, Mị còn bị bóc lột, vắt kiệt sức lao động, không khác gì
súc vật. Đó cũng là lí do tại sao Mị lại “quen khổ rồi”: Mị đã tự đẩy cuộc sống của mình ngang hàng
với súc vật" Bây giờ thì Mị tưởngmình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở
cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi ". Nhà
văn như nhập thân vào nhân vật để nói lên suy nghĩ của Mị. Và suy nghĩ đã ăn sâu trong Mị mấy năm
nay, chính là Mị nghĩ mình cũng như một con vật nuôi trong nhà thống lí. Con vật phải chịu kiếp đọa
đày dưới đòn roi của chủ, phải làm việc khổ sai và không thể phản kháng, kêu ca. Mị cũng thế. Phải
khổ, phải cam chịu đến thế nào, Mị mới nghĩ mình chỉ như loài vật như thế? Câu văn chất chứa biết
bao nỗi xót xa, thương cảm mà Tô Hoài dành cho nhân vật của mình. Gương mặt chính là sự phản
chiếu của suy nghĩ, của tâm hồn. Suy nghĩ cam chịu, tâm hồn cô cảm đã khiến cho vẻ mặt của Mị mới
buồn bã làm sao:" Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. "Trên khuôn mặt lúc nào cũng chỉ biết cúi xuống
ấy, làm sao thấy được một nét vui tươi? Trên khuôn mặt không bộc lộ một chút cảm xúc, nghĩ suy ấy,
làm sao nhận ra một tia hạnh phúc? Chỉ có những người không thể vui, không thể hạnh phúc, mới có
vẻ mặt đó. Đó là khuôn mặt nói lên sự lạnh lẽo, vô cảm của đời sống tâm hồn. Khuôn mặt héo hắt của
một tâm hồn lay lắt.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại miêu tả Mị với những suy nghĩ và hành động lặp đi lặp
lại:" Lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi
mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay,
đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong
cánh tay để tước thành sợi”. Vậy là mị chỉ nhớ về công việc, những công việc giống nhau, chẳng có gì
mới mẻ, chẳng có gì đáng để suy nghĩ, bận tâm thêm. Mị chẳng muốn nghĩ thêm hay chẳng thể nghĩ
thêm? Dù thế nào thì những suy nghĩ lặp lại ấy đã nói lên sự vô cảm của đời sống tâm hồn. Người ta có
thể nghèo về vật chất, nhưng nghèo đến cả suy nghĩ, cảm xúc nữa thì khốn khổ biết bao! Tuy nhiên, ẩn
đằng sau những câu văn này không chỉ đơn thuần là miêu tả trạng thái hiện tại của Mị. Sự xuất hiện
của Mị là tiếng búa đinh óc, là lời tố cáo đanh thép của Tô Hoài về tội ác của bọn chúa đất khiến con
người ta lâm vào "cùng đường tuyệt lộ". Kim Lân từng quan niệm "Nhà văn phải viết như chơi, viết
bằng cả tấm lòng của mình, nhưng phải hướng vào cái đẹp và cái thật. Khi nhà văn phát hiện ra cái gì
không thật và không đẹp phải biết bất bình và lên tiếng". Quả thật là vậy, có lẽ khi viết những dòng văn
này, Tô Hoài cũng không khỏi xót xa và căm phẫn thay cho nhân vật của mình. Từ ấy, nhà văn như
muốn người đọc cùng buồn, cùng thương cho Mị. Suy cho cùng, "con người đến với cuộc sống từ
nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú. Nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn
là con người”.
Chưa hết, bị bóc lột sức lao động thôi chưa đủ, Mị còn bị chà đạp về quyền sống khi Mị sống"
không bằng con trâu con ngựa ": Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận" trâu ngựa ". Con trâu
con ngựa suốt tháng suốtnăm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn
ngủi. Mị cũngthế, từ ngày về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ
bắp”, “hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Con ngựa
đôi khi còn được" đứng gãi chân, nhai cỏ ", còn Mị phải vùi vào làm việc" cả đêm, cả ngày ". Vậy có
khác nào con ngựa, con trâu? Thậm chí còn không bằng con ngựa, con trâu. Mị hiện lên như một công
cụ lao động sống lặng lẽ, cam chịu bị bóc lột, đọa đày về thân xác
Còn nữa, không chỉ bị vắt kiệt sức lao động, quyền sống là con người cũng không có, Mị còn bị
hủy diệt về tinh thần: Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị - một cô gái xinh đẹp, yêu đời mấy
năm về trước bỗng trở thành một người đàn bà lầm lũi, vô cảm. Lúc nào Mị cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi." Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Mị suốt đờicâm lặng,
chịu đựng bị đè nén, bị áp bức như con rùa. Đằng sau sự so sánh này là niềm thương cảm thấm thía của
nhà văn về một kiếp người hóa thành kiếp vật. Ở nhà Pá Tra, Mị thực sự là một tù nhân. Căn buồng âm
u tăm tối với cái ô cửa số bé bằng bàn tay lúc nào “trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là
sương hay là nắng”. Thực sự là hình ảnh của một nhà ngục. Nó đã giam hãm tâm hồn và tuổi xuân của
Mị. Nó đã làm tê liệt ý thức con người trong Mị, chỉ còn nơi Mị cái suy nghĩ tội nghiệp, đáng thương.
Ở trong ngục tù ấy," Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết
thì thôi ". Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn
bên trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm. Mị" trông ra đến bao giờ chết thì thôi "dường như là Mị
đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với mong muốn vượt ngục hay chăng? Câu
văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con người ta muốn giảithoát lại không thể thoát
giải, đành phải bất lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng của Mị như để lại một khoảng lặng trong
tâm trí người đọc. Liệu rằng số phận của Mị sẽ mãi như vậy, hay một lúc nào đó Mị sẽ trỗi dậy tháo cũi
sổ lồngđể giải thoát cho bản thân mình? Đoạn trích khép lại mà mở ra bao nhiêu suyngẫm và trăn trở
trong lòng người đọc. Nói" Văn học là nhân học "như M. Gorki, quả không sai.
Bằng việc sử dụng nghệ thuật trần thuật lôi cuốn, hấp dẫn kết hợp việc vận dụng nhuần nhuyễn
các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, cùng những chi tiết vô cùng đặc sắc.. Tô Hoài đã xây dựng thành
công hình tượng nhân vật Mị với nỗi thống khổ trong kiếp nô lệ nhà thống Pá Tra: Bị bóc lột sức lao
động, bị chà đạp về quyền sống, bị hủy diệt về tinh thần.
Văn chương không chỉ đơn giản là thú vui bình sinh lúc an nhàn mà còn là“điểm tựa” cho con
người mỗi phút giây yếu lòng. Nó đem lại cho ta niềm tin yêu cuộcsống và vững tin vào chính mình để
thay đổi. Trong sáng tác văn chương "nhà văn cóthể viết về bóng tối nhưng từ bóng tối phải hướng đến
ánh sáng". Phải chăng, cũng vìlẽ đó mà “Vợ chồng A Phủ” đã được Tô Hoài viết lên để gửi gắm những
giá trị nhân văncao cả. Tác phẩm là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc
khôngcam chịu áp bức và vùng lên phản kháng, tìm cuộc sống tự do. Sự “đổi đời” của các nhânvật
trong tác phẩm không phải nhờ có phép màu của ông Bụt, bà Tiên mà từ chính sứcmạnh, tiềm lực bên
trong của họ.

You might also like