You are on page 1of 46

Nhân vật MỊ.

ĐỀ 1 (**): Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó. nhận xét về tấm
lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài:
“ Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có
thể ăn lá ngón tự tự nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con
trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà
khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng
chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại
làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi
nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước
thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó
còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín
mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra,
đến bao giờ chết thì thôi.”

BÀI LÀM:
1. Mở bài:

“Phải phí tổn cả ngàn cân quặng chữ


Để thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy đã làm rung động
Triệu trái tim trong triệu năm dài”
Mỗi một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, và phải
được tạo nên bởi cả tấm lòng người nghệ sĩ. Qua mỗi tác phẩm, người nghệ sĩ muốn mang lại
những bài học nhận thức và chiều sâu tư tưởng của mình, vươn tới những giá trị vĩnh cửu. “Vợ
chồng A Phủ” của Tô Hoài là một tác phẩm như vậy. Qua truyện ngắn, người đọc đã thấy được
bức chân dung về sự tàn ác của bọn chúa đất miền núi đã khiến người nông dân nghèo lâm vào
khổ cực. Điều ấy được thể hiện rõ nhất qua nhân vật Mị. Đoạn trích trên đã miêu tả chân thực số
phận bất hạnh ấy của Mị dưới cái bóng của chúng, làm người đọc không khỏi xót xa:
“Lần lần mấy năm qua [...] bao giờ chết thì thôi”
2. Thân bài:
a. Giới thuyết chung:
_ Tác giả: Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục
nhờ sức viết sáng tạo và dồi dào.Văn phong của ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật sinh động
và giàu ý nghĩa. Ông am hiểu về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên Tổ quốc. Thành
công nhất của Tô Hoài phải kể tới những trang văn viết về vùng núi Tây Bắc. Trong số đó, truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu hơn cả.

_ Tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến tham dự chiến dịch giải phóng
Tây Bắc trong vòng 8 tháng của Tô Hoài. Ông đã “cùng ăn, cùng làm, cùng ở với người dân nơi đây”.
Chính vì vậy mà nó giúp Tô Hoài thêm hiểu biết về dân tộc nơi đây, khơi nguồn cảm hứng cho các
sáng tác nghệ thuật.Tô Hoài từng tâm sự “Đất nước và con người nơi đây đã để thương để nhớ cho tôi
nhiều không thể bao giờ quên”. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một lời cảm ơn đối với đồng bào nơi
đây. Truyện sau được in trong tập Truyện Tây Bắc, xuất bản năm 1952.
a. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này):
Tác phẩm là bức tranh chân thực về tội ác và sự tàn bạo của bọn chúa đất miền nùi đã đẩy người
nông dân nghèo miền núi lâm vào số phận khổ cực. Điều này được thể hiện rõ rệt nhất ở nhân vật
Mị. Mị đã từng là một cô gái đẹp người, đẹp nết, tự do và yêu đời. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của
cha mẹ mà Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Kể từ ấy, dần dần Mị đã mất dần hy vọng
và khát vọng sống, trở thành một con người chai sạn, vô cảm. Đoạn trích trên nằm ở phần đầu của
truyện ngắn, đã thể hiện sâu sắc điều này.
b. Cảm nhận đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả
cái chết Mị còn chẳng màng nghĩ tới nữa, bởi cuộc sống của Mị bây giờ chẳng khác gì kiếp nô lệ,
súc vật:
a. Mị với sự vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả cái chết Mị còn chẳng màng nghĩ tới nữa:
_Ngay từ câu văn đầu tiên, Tô Hoài đã lột tả số phận khổ cực của người dân lao động “Lần lần
mấy
năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết” :
+ Từ “lần lần” kết hợp với các cụm từ “mấy năm qua, mấy năm sau” chỉ khoảng thời gian kéo
dài triền miền từ năm này qua năm khác và xảy ra một cách từ từ, dai dẳng, mòn mỏi.
+ Trong sự chảy trôi ấy của thời gian hiện lên cái chết của con người “bố Mị chết”: Sự chảy trôi
dai dẳng ấy của thời gian như kéo dài cái khổ, cái cực của những người lao động nghèo miền núi.
Họ phải cam chịu và sống dưới cái trướng của bọn chúa đất miền núi ngày này qua tháng khác.
Cuối cùng, cái khổ ấy kết thúc thành cái chết.
=> Chỉ với một câu văn ngắn, Tô Hoài đã dấy lên niềm đồng cảm của người đọc về cuộc đời bất
hạnh của những người lao động nghèo miền núi. Quả thực, nói như Nguyễn Minh Châu: “Nhà văn
không tô đen hay bôi hồng cuộc sống mà nhà văn chỉ làm rõ bộ mặt thật của nó”.
_ Ở những câu văn tiếp theo, một lần nữa hình ảnh nắm lá ngón xuất hiện “Nhưng Mị cũng không
còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa”:
+ Lần thứ nhất, khi Mị trốn về nhà và khóc nức nở với bố, “Mị ném nắm lá ngón xuống đất Mị
không đành lòng chết”. Mị làm vậy bởi lúc ấy, Mị còn có sự ràng buộc là phải sống để trả nợ cho bố.
+ Bây giờ, “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa”. Lí giải cho trạng thái này
là bởi “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
=> Câu văn đánh dấu sự thay đổi trong tính cách và tâm trạng của Mị. Như vậy, do tác động của
sự bóc lột mà bố con Pá Tra gây ra mà giờ Mị đã mất đi ngọn lửa sống và chẳng còn màng nghĩ tới
sống chết nữa. (Tài liệu của Lê Minh) Ba chữ “Mị quen khổ rồi” như chất chứa bao xót xa và phẩn uất.
=> Hoàn cảnh tạo nên tính cách và tính cách tạo nên số phận. Từ một người con gái tự do và yêu
đời, cánh tay đen ngòm của cái khổ và cái ác đã tóm lấy Mị và hút hết bao nhiêu là cái tốt, cái
đẹp rồi nhả ra là một con người nhỏ bé, trơ lì và chai sạn. Đọc những câu văn này, ta càng cảm thấy
thương và đồng cảm với số phận bất hạnh của Mị.
b. Lí giải cho cảm giác “quen khổ rồi “ của Mị là bởi cuộc sống của Mị chẳng khác gì
kiếp nô lệ, súc vật:

_ Mị đã tự đẩy cuộc sống của mình ngang hàng với súc vật “ Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con
trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà
khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”
+ Mị tự so sánh mình với con trâu, con ngựa. Hình ảnh này cho thấy sự bất lực và tủi cực của Mị.
+ Mị như một kẻ nô lệ không công, một cỗ máy lao động cho nhà thống lí Pá Tra. Mị phải sống phụ
thuộc vào chúng “con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác” và chỉ còn
biết “ăn cỏ, đi làm.”
=> Thủ pháp vật hóa đã làm cuộc đời và thân phận của Mị hiện lên bi đát và chẳng con ra con
người nữa. Bởi vậy, Mị chán sống, chán chết cũng là một điều dễ hiểu và dễ cảm thông.
LĐ2: Tâm lí chán chường ấy đã hình thành nên một cô Mị với hình ảnh vô thức, bị động, lặp
đi lặp lại trong guồng quay bất biến của kiếp nô lệ:
a. Trước hết là ở guồng quay bất biến trong công việc:
_ Cái khổ dồn nén lâu ngày nên “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Cái cúi mặt của Mị phải chăng là

sự gián tiếp chấp nhận và thỏa hiệp với kiếp nô lệ này chăng ?
_ Tô Hoài tiếp tục sử dụng các cụm từ chỉ sự bất biến “nhớ đi nhớ lại, mỗi năm mỗi mùa, mỗi
tháng lại làm đi làm lại”:
+ Trong tâm trí hiện tại của Mị bây giờ đã bị lấn át bởi các hành động “giống nhau, tiếp nhau vẽ ra
trước mặt: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương
bẻ bắp”.
+ Đặc biệt, hình ảnh “dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để
tước thành sợi” để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc. Bản thân các hành động hái củi, bung ngô đã là
các việc làm lặp đi lặp lại đến vô thức, trong cái nhàm chán ấy lại có một cái vô thức nữa là gài một
bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Có lẽ, Mị bây giờ như đã lâm vào cơn mê sảng và khó tỉnh
táo, lí trí, nếu không có một nguồn sức mạnh nào kéo Mị ra khỏi hố sâu số phận ấy thì chắc Mị sẽ
“suốt năm suốt đời như thế”. Thậm chí là khi “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, nhai cỏ”, còn Mị thì “vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”.
=> Tuy nhiên, ẩn đằng sau những câu văn này không chỉ đơn thuần là miêu tả trạng thái hiện tại
của Mị. Sự xuất hiện của Mị là tiếng búa đinh óc, là lời tố cáo đanh thép của Tô Hoài về tội ác của
bọn chúa đất khiến con người ta lâm vào “cùng đường tuyệt lộ”. Kim Lân từng quan niệm “Nhà văn
phải viết như chơi, viết bằng cả tấm lòng của mình, nhưng phải hướng vào cái đẹp và cái thật. Khi
nhà văn phát hiện ra cái gì không thật và không đẹp phải biết bất bình và lên tiếng”. Quả thật là
vậy, có lẽ khi viết những dòng văn này, Tô Hoài cũng không khỏi xót xa và căm phẫn thay cho nhân
vật của mình. Từ ấy, nhà văn như muốn người đọc cùng buồn, cùng thương cho Mị. Suy cho cùng,
“con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú. Nhưng tiêu
điểm mà con người hướng đến vẫn là con người” (Đặng Thai Mai).
b. Tiếp theo là guồng quay bất biến trong thói quen sinh hoạt:
_ Sự chai sạn của Mị như ngày càng nặng nề hơn trong dòng chảy của thời gian. Mỗi ngày trôi qua
là lớp tro tàn trong Mị lại dày đặc hơn, lí trí và con tim Mị cứ như vậy mà nguội lạnh và đóng băng
“Mị không nói, lùi lùi như một con rùa nuôi trong xó cửa”:

+ Mị không nói, hay Mị cũng chẳng buồn và chẳng muốn nói, bởi cuộc sống hiện tại của Mị đâu còn
niềm vui hay điều gì đáng để quan tâm !
+ Một lần nữa, thủ pháp vật hóa lại được Tô Hoài sử dụng. Từ láy lùi lũi là một từ láy gợi hình, gợi
tả dáng vẻ bần thần, lặng lẽ cô đơn của Mị. Ta càng thấy quặn lòng và thương cho Mị hơn bao giờ
hết. (Tài liệu của Lê Minh) Nhà văn Tô Hoài đã khơi lên ở độc giả niềm trắc ẩn, khát vọng khôi
phục và bảo vệ cái cao cả, cái tốt đẹp của cuộc đời.
_ Không chỉ hiện lên với sự vô thức trong công việc mà ngay cả ở trong thói quen sinh hoạt cũng
như thế. Mị lầm lũi xung quanh căn buồng của Mị, nơi mà “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông
bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”:
+ Căn phòng hiện lên với sự u ám , tối tăm, ánh sáng như bị triệt tiêu. Ở trong ấy, con người dường
như bị cuống vào trạng thái luẩn quẩn, vô vọng.
+ Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục thất tinh thần giam hãm cuộc sống và khóa chặt
tuổi xuân của Mị. Ta liên tưởng đến nàng Kiều khi xưa cũng bị giam hãm số phận tại lầu Ngưng Bích:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”
Chỉ có điều, nếu Thúy Kiều còn được cảm nhận cái “ bốn bề bát ngát xa trông” thoáng đãng của
không gian thì Mị lại bị giam hãm trong căn phòng chật hẹp và tù túng. Ở trong ấy, Mị chẳng khác
nào một tù nhân phải chịu án tù chung thân. Nhà thống lí Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương
tri và tình người.

_ Ở trong ngục tù ấy, “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ
chết thì thôi”:
+ Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn
bên trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm.
+ Mị “trông ra đến bao giờ chết thì thôi ” dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có
ánh sáng le lói, yếu ớt với mong muốn vượt ngục hay chăng ? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự
sống và cái chết mà con người ta muốn giải thoát lại không thể thoát giải, đành phải bất lực và vô
vọng. Sự trông ra và ngóng vọng của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí người đọc. Liệu
rằng số phận của Mị sẽ mãi như vậy, hay một lúc nào đó Mị sẽ trỗi dậy tháo cũi sổ lồng để giải
thoát cho bản thân mình? Đoạn trích khép lại mà mở ra bao nhiêu suy ngẫm và trăn trở trong lòng
người đọc.
Nói “Văn học là nhân học “ như M.Gorki, quả không sai
Đánh giá nâng cao đoạn trích:
- Sê-khốp quan niệm “Nhà văn phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Tô Hoài là một người nghệ sĩ
như vậy. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã mạnh mẽ tố cáo và lên án tội ác của bọn chúa đất miền
núi đã khiến người nông dân nghèo lâm vào cảnh khổ cực, sống cũng không bằng chết. Đồng thời,
nhà văn còn bày tỏ niềm cảm thông, xót xa và thương cảm cho số phận của họ. Đó chính là tấm
lòng nhân đạo của Tô Hoài, nói như Elsa Triobet “Nhà văn là người cho máu”.

Đánh giá nghệ thuật:

Nếu coi một tác phẩm văn học là một cây đại thụ lâu đời thì Nội dung là phần rễ, còn Nghệ thuật
là những tán lá xanh tốt. Đoạn trích trên nói riêng và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nói chung thành
công bởi một phần không nhỏ về giá trị nghệ thuật:
_ NT Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, đặt nhân vật vào kịch tính để bộc lộ những tính
cách điển hình.
_ NT Xây dựng nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ đan xen xây dựng nét tính cách ổn định,
phong phú, vừa bất ngờ vừa tất yếu.
_ NT miêu tả tâm lí nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”.
_ NT dựng cảnh và tả cảnh sinh động, chân thực, đặc sắc, đặc biệt là cảnh thiên nhiên.
_ NT kể chuyện linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm nhìn trần thuật: bên ngoài và bên trong,
Những câu văn giàu cảm xúc, giàu chất thơ, đậm chất miền núi,.

3.Kết bài:

Văn học là cuộc đời.....Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học. Người nghệ
sĩ chân chính là nhận thức được mối liên kết chặt chẽ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Qua tác phẩm
Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, tác giả không chỉ tố cáo tội ác của bọn chúa đất mà còn hướng vào
con người, bênh vực con người và làm nổi bật lên phẩm chất của họ, thể hiện tư tưởng nhân đạo
sâu sắc của mình. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sẽ mãi tồn tại theo dòng thời gian và dòng lịch sử
văn học nước nhà, để khi nhắc tới Tô Hoài, ta sẽ nghĩ ngay tới một người nghệ sĩ chân chính, viết
vì con người:
“ Qua giọng hát anh nhận ra người hát
Qua nét khắc, anh nhận ra người thợ
bạc”.
ĐỀ 2 (***): Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét sự tinh
tế của Tô Hoài khi miêu tả sự hồi sinh trong tâm hồn của nhân vật:
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt
ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi
sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi
sáo đi theo Mị .
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình
giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường. Mị từ từ bước vào buồng. Chẳng
năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ
trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.
Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng
sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường

BÀI LÀM
1. Mở bài:
Sáng tác văn học cũng giống như công việc chèo thuyền của người lái đò. Nước chảy thuyền trôi. Dòng
sông ấy, lúc nước chảy lững lờ, cũng có lúc nước chảy xiết. Tuy nhiên, cuối cùng con thuyền ấy vẫn trôi
qua bao bến bờ của thời gian, không gian để đến được bờ, trao đến độc giả những “món hàng” vô giá.
Đó là những bài học nhận thức, chiều sâu tư tưởng được gói ghém bằng cả tấm lòng của tác giả. Truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một tác phẩm như vậy. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh
chân thực về số phận của người lao động nghèo miền núi trong xã hội cũ mà còn là bài ca về khát
vọng sống và sức sống mãnh liệt của họ. Điều ấy được thể hiện rõ nhất qua nhân vật Mị. Đoạn
trích sau đã khắc họa một cách chân thực và thành công sự trỗi dậy sau bao mùa xuân câm lặng của cô
gái ấy:
“Ngày Tết, Mị cũng uống rượu [...] quả pao rơi rồi...”
2. Thân bài:
a. Giới thuyết chung:
_ Tác giả: Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục
nhờ sức viết sáng tạo và dồi dào.Văn phong của ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật sinh động
và giàu ý nghĩa. Ông am hiểu về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên Tổ quốc. Thành
công nhất của Tô Hoài phải kể tới những trang văn viết về vùng núi Tây Bắc. Trong số đó, truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu hơn cả.
_ Tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến tham dự chiến dịch giải phóng
Tây Bắc trong vòng 8 tháng của Tô Hoài. Ông đã “cùng ăn, cùng làm, cùng ở với người dân nơi đây”.
Chính vì vậy mà nó giúp Tô Hoài thêm hiểu biết về dân tộc nơi đây, khơi nguồn cảm hứng cho các
sáng tác nghệ thuật.Tô Hoài từng tâm sự “Đất nước và con người nơi đây đã để thương để nhớ cho tôi
nhiều không thể bao giờ quên”. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một lời cảm ơn đối với đồng bào nơi
đây. Truyện sau được in trong tập Truyện Tây Bắc, xuất bản năm 1952.
b. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này):
Vẻ đẹp trong tâm hồn nhân vật được thể hiện rõ rệt nhất là ở nhân vật Mị. Mị đã từng là một cô
gái đẹp người, đẹp nết, tự do và yêu đời. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị phải
làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Kể từ ấy, dần dần Mị đã mất dần hy vọng và khát vọng
sống, trở thành một con người chai sạn, vô cảm. Tuy nhiên, Tô Hoài đã để cho Mị được sống lại là
chính mình trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Dưới tác động của một không gian ăm ắp sự
sống, biêng biếc sắc màu: Cảnh Hồng Ngài bắt đầu vào xuân- cỏ gianh vàng ửng, gió rét dữ dội…;
Cảnh các làng Mèo đỏ với những chiếc váy hoa đem phơi ở các mỏm đá, tiếng trẻ con nô đùa
trước sân. Đặc biệt là âm thanh tiếng sáo ở đầu núi rủ bạn đi chơi, Mị đã dần được hồi sinh sức
sống trở lại. Đoạn trích trên thuộc phần đầu của tác phẩm, đã thể hiện rõ rệt điều ấy.
c. Phân tích đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, hiện lên trong đoạn trích, tâm trạng của Mị có sự đồng vọng và đan xen giữa
kí ức của quá khứ và thực tại dưới tác động của tiếng sáo và hơi nồng men rượu:
a. Đầu tiên, Mị hiện lên với hành động uống rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy
hũ rượu, cứ uống ực từng bát”:
_ Câu văn mở đầu của đoạn trích như một lời thông báo ngắn gọn về trạng thái và hành động bây
giờ của Mị.
_ Đối với đồng bào dân tộc vùng núi cao, uống rượu là một thói quen và là một nét đẹp văn hóa
lâu đời, gắn liền với các dịp lễ. Cho nên uống rượu là một hành động bình thường, quen thuộc.
_ Mị không ngoại lệ, Mị cũng tìm đến với rượu trong ngày Tết, tuy nhiên, cách Mị uống rượu lại
không hề bình thường chút nào “uống ực từng bát”:
+ Uống ực là uống nhanh, uống từng ngụm lớn.
+ Uống như là để cho đỡ khát rượu, như là đang “tận hưởng” thứ đồ uống đặc sản.
+ Suy ngẫm sâu xa, uống như vậy như là đang nuốt đắng cay, tủi hờn vào trong lòng. Uống rượu
mà như uống những cay đắng của phần đời đã qua và những khát khao của phần đời chưa tới.
=>Cách uống rượu cho thấy hoàn cảnh đáng thương của Mị. Phải chăng Mị tìm đến vói rượu
không chỉ đơn thuần là để cho giải khát mà còn để giải khuây, để trút đi bao gánh nặng đề lên đôi
vai gầy của người con gái ấy. Có lẽ, không còn giải pháp nào khác để trút sầu nên Mị đành bất lực
tìm đến với hơi say của rượu.
a. Tiếp theo, Mị say và nhớ về quá khứ, sau đó quay trở lại với thực tại:
_ Hơi nồng của men rượu làm Mị chìm vào cơn say “Mị lịm mặt ngồi đấy”. Dường như, trong sự lâng
lâng và bay bổng của men rượu, Mị đã thoát li khỏi thực tại, nơi mà rộn ràng âm thanh của “người
nhảy đồng, người hát” , để thả hồn mình vào kí ức của quá khứ - một thời tự do và tươi đẹp của Mị
“nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước”. Giải thích cho trạng thái tâm lí như vậy một cách logic
nhất là bởi “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” cộng hưởng với tác động của men rượu
trong Mị:
+ Từ láy “văng vẳng” gợi âm thanh từ xa vọng lại, như đang vang lên đâu đó quanh tai.
+ Tiếng sáo tự tìm đến với Mị, hay chính bởi trong tâm trí Mị bây giờ ngập tràn là tiếng sáo nên
mỗi lúc, Mị lại tự cảm nhận nó một cách rõ rệt hơn ?
_ Tô Hoài đã quay ngược cuốn phim cuộc đời để cho ta nhìn lại một thời thanh xuân tươi đẹp mà đã
quá vãng của Mị “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”:
+ Như vậy, hóa ra, tiếng sáo từ lâu đã gắn liền với thanh xuân của Mị. Điều này giải thích cho lí
do trước đó khi nghe tiếng sáo gọi bạn từ đầu núi lấp ló, Mị lại nhẩm thầm theo lời bài hát của
người đang thổi.
+ Tiếng sáo đánh thức kỉ niệm xưa trong Mị, là hiện thân cho quá khứ khó quên và hiện thân
cho tâm hồn Mị. Âm thanh ấy song hành và luôn tồn tại đâu đó trong tâm trí của Mị, bởi Mị nhẩm
thầm đồng nghĩa với việc Mị còn nhớ tới tiếng sáo.
+ Tiếng sáo còn là tiếng gọi của sự tự do, bay bổng và khát vọng sống vẫy gọi Mị. Chính Tô Hoài
từng tâm sự: “Tiếng sáo là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao
khát tự do”.
+ Tiếng sáo đã nâng đỡ tâm hồn Mị, chắp thêm đôi cánh giúp Mị bay lên trên thực tại và hoàn
cảnh tù túng. Quả thực, Nhiệm vụ của nhà văn là để nâng bước cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ,
để bênh vực cho những kẻ không còn ai để bênh vực (Nguyễn Minh Châu).
=> Như vậy, chính tiếng sáo là tác nhân mạnh mẽ nhất đã khơi dậy khát vọng sống vốn âm ỉ và
tiềm tàng trong Mị, bởi “Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt “
(Tô Hoài). Tiếng sáo ấy như mạch nước ngọt rỉ thấm vào thớ đất khô cằn vì nắng hạ, một thớ đất
tâm hồn vốn màu mỡ nhưng lại bị sói mòn bởi cái xấu và cái ác của bọn chúa đất miền núi. Đây
chính là chi tiết đắt giá, là hạt bụi vàng của tác phẩm.
_ Từ quá khứ, Mị quay trở lại với thực tại “Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo”
+ Hành động uống rượu và thổi sáo bây giờ của Mị là khát khao “níu kéo quá khứ - bù đắp thực
tại” của Mị.

+ Không có cây sáo, Mị biến chiếc lá từ một hình ảnh bình thường thành một hình ảnh biểu tượng
của nghệ thuật, đã vậy còn vô cùng khéo léo “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi
sáo”. Đó chính là tài năng âm nhạc và nét đẹp trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo tha thiết và lôi cuốn ấy
khiến “biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
=> Hình ảnh tiếng sáo tiếp tục được hiện lên ở câu văn này. Cứ mỗi lần hình ảnh tiếng sáo hiện
lên, ta lại càng thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn Mị. Suy cho cùng, tiếng sáo chính là tiếng hát và
tiếng lòng của Mị. Nói như Nadim Hickmet “Tiếng hát của con người còn đẹp hơn cả chính con
người”, bởi nó là kết tinh của khát vọng sống và khát vọng tự do. Đồng thời, chất thơ của truyện
ngắn cũng từ ấy mà toát lên, làm cho những câu văn của Tô Hoài thấm vào hồn người êm ái và dịu
dàng hơn bao giờ hết. Đúng như Puskin từng nói “Văn xuôi chân chính bao giờ cũng thấm đượm
chất thơ như chất nước ngọt ngào thấm trong trái táo”.
LĐ2: Ở những câu văn tiếp theo, trong hơi nồng men rượu, Mị hiện lên với trạng thái tâm
lí không tỉnh táo, bần thần và lặng lẽ theo quán tính:
_ Hiện lên giữa không gian “ Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả” là hình ảnh con
người không tỉnh táo “Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”:
+ Rượu đã làm Mị lâng lâng và không làm chủ được tiềm thức, như lâm vào cơn mê sảng.
+ Mị ngồi trơ một mình giữa nhà như một kẻ vô hồn, bần thần và lặng lẽ chẳng khác gì một cái
bóng câm lặng, lủi thủi một mình.
_ Mị rơi vào vòng quay vô thức, quán tính, tuần hoàn với thói quen “Mị từ từ bước vào buồng”:
+ Từ láy “từ từ” gợi dáng vẻ lặng lẽ, bước chân chậm chạp của Mị.
+ Đây là một hành động lặp đi lặp lại như một thói quen vô thức, bị động, tự động mà không hề
tự chủ. Tài liệu của Lê Minh
=> Lí giải cho hành động này là bởi “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết”. Đến ngay cả
mong muốn đi chơi rất nhân bản mà Mị còn không thể thực hiện được. Thử hỏi như vậy có thật sự
là Mị đang “tồn tại” , hay chỉ là đang “sống”, đang kéo dài những ngày chưa chết mà thôi. Cha con
thống lí Pá Tra có thể tước đi mạng sống của Mị bất cứ lúc nào. Căn nhà của chúng đúng là không
có chỗ cho sự lương tri và tình người.
_Quá quen và hiểu hoàn cảnh của mình, Mị đành chấp nhận số phận bằng hành động “Bấy giờ Mị
ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”: Tài liệu của Lê Minh
+ Căn phòng nơi Mị ngồi hiện lên với sự u ám , tối tăm, ánh sáng như bị triệt tiêu. Ở trong ấy, con
người dường như bị cuống vào trạng thái luẩn quẩn, vô vọng.
+ Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục thất tinh thần giam hãm cuộc sống và khóa chặt
tuổi xuân của Mị. Ta liên tưởng đến nàng Kiều khi xưa cũng bị giam hãm số phận tại Lầu Ngưng
Bích:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”
Chỉ có điều, nếu Thúy Kiều còn được cảm nhận cái “ bốn bề bát ngát xa trông” thoáng đãng của
không gian thì Mị lại bị giam hãm trong không gian tù túng “mờ mờ trăng trắng”. Ở trong ấy, Mị
chẳng khác nào một tù nhân phải chịu án tù chung thân.

+ Mị “trông ra” dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với mong
muốn vượt ngục hay chăng ? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con người ta
muốn giải thoát lại không thể thoát giải, đành phải bất lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng
ấy của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí và ám ảnh người đọc.
LĐ3: Ở những câu văn tiếp theo, tâm trạng của Mị có sự thay đổi và chuyển biến rõ rệt. Từ
vô thức, Mị bỗng đột khởi cảm giác phấn chấn và nhận thức được giá trị bản thân :
a. Đầu tiên, Mị đột khởi cảm giác phấn chấn:
_ Vậy là sau bao mùa câm lặng và mất đi cảm giác được vui, được hạnh phúc, được tự do, bây giờ Mị
đã tìm lại được xúc cảm ấy “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như
những đêm Tết ngày trước”:
+ Các tính từ “phơi phới, vui sướng” kết hợp với các từ “đã từ nãy, đột nhiên” cùng hình ảnh so
sánh “như những đêm Tết ngày trước” làm nhịp văn trở nên dồn dập, mạnh mẽ như nhịp tim, nhịp
tâm hồn Mị.
+ Câu văn cho thấy cảm giác rạo rực sức sống, tràn ngập hứng khởi trong Mị.
+ Đây chính là tín hiệu đầu tiên cho sự hồi sinh sức sống trong Mị, là tiền đề cho các hành động
nổi loạn của Mị sau này. Đúng như Lỗ Tấn từng nói “Một tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một
đám cháy ngày mai”.
b. Tiếp theo, Mị nhận thức được giá trị bản thân :
_ Nối tiếp cảm giác phấn khởi ấy, Mị chợt nhận ra giá trị của bản thân “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.
Mị muốn đi chơi”:
+ Điệp từ “trẻ” và các điệp cấu trúc câu ““Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ” là cách nhấn mạnh một
sự thật, đó là Mị vẫn còn trẻ, vẫn còn thanh xuân và nhiều hứa hẹn. Câu văn đầu tiên là sự nhận
thức, câu văn thứ hai là lời khẳng định mạnh mẽ cho tính đúng đắn của câu văn trước.
+ “Mị muốn đi chơi” (Tài liệu của Lê Minh) nghĩa là Mị đang khao khát được tự do, được thả hồn
mình vào mùa xuân đẹp đẽ, ăm ắp sự sống, biêng biếc sắc màu ở Hồng Ngài.
=> Khi một người phụ nữ tự ý thức được về tuổi xuân của mình là họ đang ý thức được về sự sống và
quyền sống của mình. Hóa ra, ẩn đằng sau lớp tro tàn trong Mị, ngọn lửa ham sống vẫn luôn âm ỉ
cháy. Mị như một cây rừng héo úa tàn rụi, nhưng sâu trong mao mạch của thân, nhựa sống vẫn chảy
âm thầm. Nhà văn Nguyễn Khải từng quan niệm “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có
những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua ranh giới ấy”. Tuy chỉ là những
dòng suy nghĩ, nhưng Mị đã tự vượt ra khỏi giới hạn của bản thân để tìm lại sự tự do cho mình. Điều
đó càng làm nổi bật lên vẻ đẹp trong sâu thẳm của người con gái ấy. Đúng như Nguyễn Minh
Châu từng quan niệm “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một
đời người cũng chưa đủ nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
LĐ4: Tâm trạng nhân vật Mị được Tô Hoài miêu tả vô cùng phong phú và phức tạp.
Ngoài cái năng nổ, khát khao, náo nức về sự tái sinh thì bên cạnh đó, Mị vẫn còn lo lắng, day
dứt, tủi hờn về thân phận:
_ Sự vượt khỏi hoàn cảnh của Mị diễn ra không hề đơn điệu, dễ dàng. Tô Hoài đã rất tinh khi đặt
nhân vật Mị vào sự giao tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, một bên là ý thức về thân phận.
Mị nghĩ “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với
nhau mà vẫn phải ở với nhau!”:
+ So sánh với mọi người, Mị nghĩ tới thân phận của mình.
+ Đó là thân phận của một người con gái có cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không tự
nguyện. Hai chữ “vợ chồng” kia chỉ là danh nghĩa, còn thực tế Mị và A Sử chẳng hề “có lòng với
nhau”, chẳng có chút tình cảm vợ chồng nào cả.
_ Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy bao nhiêu thì Mị lại phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau
khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch khiến Mị suy nghĩ “ Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”:
+ Một lần nữa, hình ảnh nắm lá ngón xuất hiện. Đó là hình ảnh tượng trưng cho cái chết.
+ Mị suy nghĩ tiêu cực “sẽ ăn cho chết ngay”. Đó là bởi bây giờ Mị đã nhận thức được thực tại,
nhận ra được giá trị của sự sống cá thể. Và khi số phận bị đặt vào trong hoàn cảnh tù túng, ngột
ngạt, đau khổ thì ắt con người ta sẽ phản kháng và không chấp nhận, không cam chịu và chán ghét
cuộc sống kìm hãm ấy, đến nỗi. Bởi vậy, việc Mị chán sống là điều dễ hiểu và dễ cảm thông.
=> Đây chính là điểm ấn tượng của nhân vật Mị. Những lúc thèm sống nhất, Mị chỉ muốn
chết; khi không tưởng đến cái chết nữa chính là lúc Mị chán sống cùng cực. Cấu trúc nghịch lí này
với những chuyển hóa tinh vi của nó chính là logic độc đáo của tính cách Mị. Qua đó, người đọc
thấy được sự am hiểu sâu sắc về thế giới nội tâm người phụ nữ của tác giả Tô Hoài.
=> Suy cho cùng, Mị chán sống âu cũng là biểu hiện của sự khát sống trong Mị. Bởi chỉ khi
người ta yêu cuộc sống thì mới căm ghét và phẫn uất trước sự bất công đè nặng lên số phận của họ
như vậy.
=> Viết những câu văn như vậy, ngòi bút của Tô Hoài như hóa thân vào nhân vật, để nâng
niu, để trân trọng những giấc mơ tình tứ của con người, đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan khi
phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín của tâm linh con người. Nhờ vậy mà những dòng tâm
trạng, suy nghĩ của Mị hiện lên một cách rất thật, thật đến cốt, đến lõi, làm khơi dậy lên niềm đồng
cảm trong lòng người đọc. Văn học có chức năng nhân đạo hóa con người là bởi vậy.
_ Sức sống ấy trong Mị liệu rằng có trỗi dậy mãnh mẽ hơn hay không ? Liệu rằng tiếng sáo ấy có
tiếp thêm sức mạnh trong Mị, giúp Mị tháo cũi sổ lồng ? Gấp lại trang sách mà bao suy tưởng,
trăn trở cứ vẩn vương trong lòng độc giả. Song song với đó, âm thanh của tiếng sáo - tiếng thơ vẫn
văng vẳng đâu đó trong tâm trí của ta:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi...”
d. Đánh giá nâng cao:
_ Đoạn văn miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân thể hiện sức sống
tiềm ẩn trong Mị và tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Thông qua đây, nhà văn khám
phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu, hạnh phúc của con người, thể hiện niềm tin vào
sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên
cuộc sống con người. Chính điều đó đã đem đến cho Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài những giá trị
nhân đạo sâu sắc. Tài liệu của Lê Minh
_ Về nghệ thuật: Diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân của Mị được nhà
văn khéo léo thể hiện bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, ngôn ngữ biểu cảm, đặc biệt;
là nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật...Tất cả đã làm nổi bật vẻ đẹp của sức sống tiềm
tàng mãnh liệt của Mị.
e. Nhận xét sự tinh tế của Tô Hoài khi miêu tả sự hồi sinh trong tâm hồn của nhân vật:
_ Không miêu tả sự hồi sinh trực tiếp mà gián tiếp thông qua các tác nhân như mùa xuân, tiếng sáo
gọi bạn tình, hơi nồng men rượu,... để làm nổi bật sự âm ỉ và tiềm tàng trong Mị.
_ Sự hồi sinh được diễn tả chân thực qua hành động và ngôn ngữ độc thoại nội tâm, lúc đứng ngoài
quan sát, lúc nhập tâm và hóa thân vào nhân vật.
_ Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được thể hiện tinh tế nhờ sử dụng thủ pháp đồng hiện và
tương phản, đối lập; kết hợp với cấu trích nghịch lí độc đáo:
+ Đồng hiện, tương phản giữa quá khứ và thực tại (quá khứ càng đẹp đẽ bao nhiêu thì thực tại
càng
đối lập bấy nhiêu).
+ Đối lập giữa tính cách bên trong và bên ngoài (bên ngoài dửng dưng, bần thần nhưng bên trong
tiềm tàng, mãnh liệt).
+ Cấu trúc nghịch lí: Lúc khát vọng sống bùng lên mãnh liệt lại là lúc Mị chán sống.
_ Sự hồi sinh trong Mị được khắc họa sâu sắc bằng việc diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những
biến thái thăng trầm, gấp khúc tuần tự; xây dựng nhân vật theo hướng cá thể hóa cao độ theo quá
trình tiệm tiến (phát triển từng bước) và đột biến (thay đổi triệt để).
=> Nét tinh tế khi miêu tả sự hồi sinh trong Mị góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà
văn Tô Hoài, sự già dặn trong ngòi bút của ông và sự am hiểu về thế giới nội tâm con người, đặc
biệt là người phụ nữ.
3.Kết bài:
“Văn học xét đến cùng là câu chuyện của trái tim”. Đặc biệt ở truyện ngắn, những câu chuyện
được xây dựng bằng tấm lòng nhân đạo, giàu trắc ẩn của tác giả luôn có sức lay động to lớn đến
người đọc. Với nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự mang đến cho chúng ta hình
ảnh về sức sống và khát vọng sống vẫn luôn âm ỉ trong những con người nô lệ, bất hạnh. Tác phẩm
sẽ tồn tại mãi theo dòng chảy của thời gian và dòng lịch sử văn học nước nhà, bởi “Một tác phẩm
nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng” (Aimatốp).

CHÚ Ý:
 Chú ý: Chi tiết tiếng sáo gồm những ý cơ bản sau, có thể linh hoạt cắt bớt để tiết kiệm
thời gian:
+ Tiếng sáo đánh thức kỉ niệm xưa trong Mị, là hiện thân cho quá khứ khó quên và hiện thân
cho tâm hồn Mị. Âm thanh ấy song hành và luôn tồn tại đâu đó trong tâm trí của Mị, bởi Mị nhẩm
thầm đồng nghĩa với việc Mị còn nhớ tới tiếng sáo.
+ Tiếng sáo còn là tiếng gọi của sự tự do, bay bổng và khát vọng sống vẫy gọi Mị. Chính Tô Hoài
từng tâm sự: “Tiếng sáo là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao
khát tự do”.
+ Tiếng sáo đã nâng đỡ tâm hồn Mị, chắp thêm đôi cánh giúp Mị bay lên trên thực tại và hoàn
cảnh tù túng. Quả thực, Nhiệm vụ của nhà văn là để nâng bước cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ,
để bênh vực cho những kẻ không còn ai để bênh vực (Nguyễn Minh Châu).
=> Như vậy, chính tiếng sáo là tác nhân mạnh mẽ nhất đã khơi dậy khát vọng sống vốn âm ỉ và
tiềm tàng trong Mị, bởi “Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt “
(Tô Hoài). Tiếng sáo ấy như mạch nước ngọt rỉ thấm vào thớ đất khô cằn vì nắng hạ, một thớ đất
tâm hồn vốn màu mỡ nhưng lại bị sói mòn bởi cái xấu và cái ác của bọn chúa đất miền núi. Đây
chính là chi tiết đắt giá, là hạt bụi vàng của tác phẩm.

+ Tiếng sáo chính là tiếng hát và tiếng lòng của Mị. Nói như Nadim Hickmet “Tiếng hát của
con người còn đẹp hơn cả chính con người”, bởi nó là kết tinh của khát vọng sống và khát vọng
tự do. Đồng thời, chất thơ của truyện ngắn cũng từ ấy mà toát lên, làm cho những câu văn của

ĐỀ 3 (**): Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét về tấm
lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài:
“Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại
tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ.
Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à ?
Mị không nói. A Sử cùng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai
tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn
tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt
lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”.

BÀI LÀM:
1. Mở bài:
Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những phong
cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng,
những con người nơi đây từng khổ cực trăm bề. Số phận của họ vô cùng cơ cực, cùng sức nặng cường quyền và
thần quyền đè nặng lên đôi vai bé nhỏ của họ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Nhà
văn Tô Hoài đã phản ánh chân thực những điều ấy qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ,
cụ thể qua đoạn trích sau:
“Bây giờ, Mị cũng không nói [. ] đi ra, khép cửa buồng lại”
2. Thân bài:
a. Giới thuyết chung:
_ Tác giả: Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục nhờ sức viết
sáng tạo và dồi dào.Văn phong của ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật sinh động và giàu ý nghĩa. Ông am
hiểu về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên Tổ quốc. Thành công nhất của Tô Hoài phải kể tới
những trang văn viết về vùng núi Tây Bắc. Trong số đó, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu
hơn cả.
_ Tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc
trong vòng 8 tháng của Tô Hoài. Ông đã “cùng ăn, cùng làm, cùng ở với người dân nơi đây”. Chính vì vậy mà nó
giúp Tô Hoài thêm hiểu biết về dân tộc nơi đây, khơi nguồn cảm hứng cho các sáng tác nghệ thuật.Tô Hoài từng
tâm sự “Đất nước và con người nơi đây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều không thể bao giờ quên”. Tác phẩm
“Vợ chồng A Phủ” là một lời cảm ơn đối với đồng bào nơi đây. Truyện sau được in trong tập Truyện Tây Bắc,
xuất bản năm 1952.
b. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này) :
Nổi bật nhất trong truyện ngắn là ở nhân vật Mị. Mị đã từng là một cô gái đẹp người, đẹp nết, tự do
và yêu đời. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Kể từ ấy,
dần dần Mị đã mất dần hy vọng và khát vọng sống, trở thành một con người chai sạn, vô cảm. Tuy nhiên, Tô
Hoài đã để cho Mị được sống lại là chính mình trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Dưới tác động của một
không gian ăm ắp sự sống, biêng biếc sắc màu, đặc biệt là do tác động âm thanh tiếng sáo ở đầu núi rủ bạn đi
chơi và men rượu, Mị đã dần được hồi sinh sức sống trở lại. Từ những suy nghĩ uất ức về thân phận và muốn
chết, Mị chuyển hóa thành những hành động mạnh mẽ khi ngọn lửa ham sống đang bùng cháy dữ dội. Đoạn
trích trên thuộc phần đầu của tác phẩm, đã thể hiện sự nổi loạn của Mị, đồng thời là lời xót thương cho số
phận bất hạnh của cô gái ấy.
a. Cảm nhận đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người có sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mãnh liệt
khi thể hiện thái độ và các hành động “nổi loạn”:
*Câu dẫn: Lỗ Tấn từng quan niệm Một tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một đám cháy ngày mai. Từ những
“tỉa lửa nhỏ” là những dòng suy nghĩ mãnh liệt của Mị khi ý thức được giá trị sự sống cá thể “Mị trẻ lắm. Mị vẫn
còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, người con gái giàu sức sống ấy đã chuyển hóa thành “đám cháy” bằng một loạt các
hành động nổi loạn để tự giải cứu bản thân. Có thể nói, ngọn lửa ham sống trong Mị bây giờ đã đạt đến đỉnh
điểm.
a. Đoạn trích mở đầu với thái độ dứt khoát, kiên quyết của Mị trước thế lực cường quyền
và cường quyền:
_ Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua hình ảnh “Bây giờ Mị cũng không nói”:
+ Đây là một câu viết theo lối trần thuật, ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa.
+ Hình ảnh “Mị không nói” cho thấy sự gan góc, kiên quyết, dũng cảm của Mị trước A Sử - hiện thân cho thế
lực cường quyền và thần quyền dã man, tàn bạo trong xã hội cũ.
+ Mị không nói, hay dường như cũng chính là Mị không muốn nói, hay không thèm nói. Để ý rằng, trong
truyện ngắn, Tô Hoài rất ít khi để Mị cất lên tiếng nói của mình. Ở những chi tiết trước trong truyện, tác giả để
Mị im lặng là làm nổi bật số phận nhỏ bé, bất hạnh, phụ thuộc, không có tiếng nói và chỉ biết cam chịu, chấp
nhận của Mị. Còn ở chi tiết này, sự im lặng của Mị không phải là sự bất lực trước số phận nữa mà nó chuyển
hóa thành động lực đấu tranh. Mị không còn phải chịu gánh nặng của bọn chúa đất miền núi nữa, sức sống
trong Mị bây giờ lớn hơn tất cả và lấn át đi nỗi sợ hãi. A Sử với Mị bây giờ dường như chỉ còn là một cái bóng
mà thôi. Đúng như Tô Hoài từng tâm sự “cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp
sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp cho buồn nguội lạnh ấy
thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình”.
b. Từ thái độ kiên quyết, Mị thực hiện một loạt các hành động nổi loạn để giải cứu chính mình:
_ Mị đã thực hiện một cuộc vượt ngục tinh thần bằng các hành động táo báo. Thứ nhất, “Mị đến góc nhà, lấy ống
mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”:
+ Mị thắp sáng lên ngọn đèn trong phòng là Mị đang muốn xua tan đi sự u ám, ê trề, tối tăm và hiu
quạnh của bóng tối. Đây là hành động thể hiện khát khao đổi thay không gian sống sáng sủa hơn.
+ Thăp sáng thêm đèn không chỉ làm sáng thêm ánh sáng vật lí mà còn làm sáng lên cả ánh sáng của lòng
Mị. Thứ ánh sáng ấy đẹp đẽ và mãnh liệt hơn tất cả. Ánh sáng đó được nhen lên bằng ngọn

lửa của tâm hồn, của cảm xúc. Ngọn lửa ấy vốn vẫn luôn âm ỉ và tiềm tàng, nay được thêm dầu bằng sự ấm
nóng, sục sôi của khát vọng sống đang đột khởi.
=> Ngọn lửa ấy quá mạnh mẽ, mãnh liệt đến nỗi đọc câu văn này, độc giả cũng như được nhen lên một ngọn
lửa. Tô Hoài đã truyền lửa vào lòng người đọc, đó là ngọn lửa của niềm tin vào sự trỗi dậy, vào một viễn cảnh tươi
sáng, tự do sẽ mở ra cho Mị. Quả thực,“ Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình nâng cao niềm tin vào
bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng vươn tới chân lý” (M.Gorki).
_ Khi mà “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”, Mị như được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục các
hành động nổi loạn :
+ Sự sống mãnh liệt trỗi dậy làm Mị hướng tới khát vọng tự do “Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi”.
+ Đặc biệt, Mị đã được sống là chính mình, sống lại tuổi con gái, tuổi thanh xuân khi “ Mị quấn lại tóc, Mị với
tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Đây là hành động thể hiện sức sống trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong Mị. Mị
muốn mình trở nên nữ tính, gọn gàng hơn. Khi một người phụ nữ tự ý thức được về nhan sắc, tuổi xuân của mình
là họ đang nhận ra giá trị của sự sống và quyền sống. Như vậy, Mị đã biết trân trọng bản thân mình, khác hẳn với
trước đó, khi mà Mị luôn bất lực, chán nản, tự coi mình là “con trâu, con ngựa”.
TIỂU KẾT:
=> Suy cho cùng, sự trỗi dậy của Mị là kết quả của quá trính “cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu”, tức
một khi sự việc đã đạt đến đỉnh điểm thì sẽ tiếp tục phát triển theo chiều hướng vận động tích cực và đạt tới cực đại.
Đúng như Heghen từng quan niệm “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra”.
=> Ngòi bút của Tô Hoài như hóa thân vào nhân vật, để nâng niu, để trân trọng những giấc mơ tình tứ của
con người, đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín của tâm linh con
người. Đó chính là sự am hiểu sâu sắc về thế giới nội tâm người phụ nữ của Tô Hoài. Thái độ như thế nào đối với
người phụ nữ và vấn đề phụ nữ là thước đo hết sức quan trọng của tính nhân dân, tính nhân đạo của các tác
phẩm văn học.
LĐ2: Tuy khát vọng sống của Mị đang trỗi dậy mãnh liệt nhưng Tô Hoài không để Mị tự giải thoát mình dễ
dàng như vậy. Thế lực cường quyền và thần quyền chặn đứng sức sống trong Mị lại. Mị quay trở lại là một người
đáng thương, có số phận nô lệ, đau khổ khi phải chịu đòn roi của chúng:
_ Cứ tưởng như ngọn lửa sục sôi trong Mị sẽ giúp Mị giải cứu được chính mình, nhưng không, A Sử đã dập tắt
ngọn lửa ấy trong Mị, buộc Mị phải quay trở lại kiếp nô lệ với sự trói buộc và giam hãm. Phải chăng đây là một dụng
ý của Tô Hoài ?
_ Nguyễn Minh Châu từng quan niệm “Nhà văn không bôi đen hay tô hồng cuộc sống mà chỉ làm rõ bộ mặt thật
của nó”. Thật vậy, Tô Hoài đã miêu tả rất thật, thật đến cốt đến lõi tội ác mà A Sử gây ra với Mị:
+ Hình ảnh “Mị không nói” tiếp tục xuất hiện. Tuy nhiên, sự im lặng ấy bây giờ không còn dẫn đến hành động
nổi loạn nữa mà thay vào đó, nó phải trả giá bằng đòn roi.

+ A Sử - hiện thân cho bọn chúa đất miền núi, đã vô cùng tàn nhẫn khi tra tấn Mị, chẳng khác gì cách tra tấn thời
Trung Cổ: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào
cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”.
=> Bằng thủ pháp liệt kê, cùng việc sử dụng các hình ảnh chân thực hiện ra liên tục, giọng văn gấp gáp, Tô
Hoài đã lột tả hàng loạt các hành động dã man, vô nhân đạo của A Sử. Mị như bông hoa hướng dương đang hướng
về phía ánh sáng của sự sống thì ngay lập tức bị lấn át bởi bóng tối của thế lực thống trị. Từ đỉnh cao của sự
thăng hoa trong cảm xúc, Mị như bị đẩy xuống địa ngục đen tối; từ hi vọng trở thành tuyệt vọng, từ con
đường số phận rộng mở biến thành con đường cụt. Cánh tay đen ngòm của cái xấu, cái ác, của sự tù túng và
giam hãm đã tóm chặt lấy Mị, vùi Mị xuống hố sâu. Đọc những câu văn này, ta không thể không xót xa cho Mị !
_ Trái tim độc giả càng quặn đau hơn khi đọc tới những câu văn tiếp theo: “Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt
lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”:
+ A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài là hắn đang chuẩn bị bắt những người con gái khác về làm vợ. Không
chỉ riêng Mị, những người con gái khác rồi cùng sẽ lâm vào cảnh khốn cùng, đau khổ dưới cái trướng của chúng mà
thôi ! Nhà thống lí Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương tri và tình người. Tài liệu của Lê Minh
+ A Sử không những trói buộc Mị về thể xác mà còn giam hãm Mị cả về tinh thần. Ngọn đèn Mị vừa xắn thêm
mỡ để cho sáng hơn cũng bị dập tắt, Mị bị trả lại với bóng tối chơi vơi, hiu quạnh trong căn buồng “lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục
thất tinh thần giam hãm cuộc sống và khóa chặt tuổi xuân của Mị. Ở trong ấy, Mị chẳng khác nào một tù nhân
phải chịu án tù chung thân. Bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do;
còn bên trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm. Nếu không có tác động nào thì dù sớm hay muộn Mị cũng sẽ bị
hút hết sức sống và tiếp tục quay trở về con người chai sạn và vô cảm mà thôi !
=> Nguyễn Minh Châu từng quan niệm “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc như kẻ
nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường để bênh vực
cho những con người không còn có ai để bênh vực”. Thật vậy, những dòng văn trên vừa là tiếng búa đinh óc cho
hiện thực khốc liệt, tố cáo tội ác của thế lực thống trị trong xã hội cũ; lại vừa là những lời xót xa và bênh vực cho
Mị. Có lẽ khi viết những câu văn ấy, trái tim của Tô Hoài cũng vô cùng đau đớn như bị bóp nghẹn lại, từ ấy mà tác
giả mới rỏ nước mắt thành trang văn. Tô Hoài như muốn người đọc cùng buồn, cùng vui, cùng khóc , cùng đồng
cảm với Mị. Đoạn trích khép lại với hình ảnh A Sử khép cửa buồng, nhưng cánh cửa tâm hồn của độc giả như được
mở rộng ra. Những hình ảnh về một cô Mị giàu sức sống, day dứt hơn là số phận bất hạnh của Mị cứ vẩn
vương trong tâm trí của ta. Tô Hoài thật sự đã chạm được đến trái tim của bạn đọc. Nói Văn học là sợi dây liên
kết vô hình khiến con người “xích” lại gần nhau hơn, quả không sai.
d. Đánh giá về đêm tình mùa xuân:
Tóm lại, đêm tình mùa xuân là một đêm quan trọng và có ý nghĩa đối với Mị. Mị đã được hồi sinh và được
sống cho chính mình, là chính mình. Tuy sự trỗi dậy của Mị không thành công nhưng điều ấy phần nào củng cố
thêm niềm tin rằng ngọn lửa ham sống vẫn luôn cháy và luôn âm ỉ, tiềm tàng trong Mị. Hơn thế nữa, đó còn là
tiền đề, bệ phóng cho sự trỗi dậy mạnh mẽ hơn của Mị ở những chi tiết tiếp theo, như Lỗ Tấn từng nói : “Một
tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một đám cháy ngày mai”.
e. Nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài:
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng quan niệm : “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với
những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của con người thì
cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm”. Đoạn trích trên đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài. Tác
giả đã tố cáo đanh thép trước những tội ác mà thế lực thống trị đè nặng lên vai người dân nghèo. Qua đó, nhà văn
bày tỏ sự cảm thông, xót xa những số phận bất hạnh như Mị và A Phủ. Không chỉ vậy, Tô Hoài còn phát hiện, ca
ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người Tây Bắc. Tô Hoài quả là một nhà văn chân chính, nhà văn vì con người . Đánh
giá nghệ thuật:

Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, đặt nhân vật vào kịch tính để bộc lộ những tính cách
điển hình. Tô Hoài đã xây dựng nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ đan xen xây dựng nét tính cách ổn định,
phong phú, vừa bất ngờ vừa tất yếu. Đặc biệt, cách miêu tả tâm lí nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng
tâm hồn”. Ngoài ra, Cách kể chuyện linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm nhìn trần thuật: bên ngoài và bên
trong, những câu văn giàu cảm xúc, đậm chất miền núi,góp phần không nhỏ vào thành công của truyện ngắn.
3. Kết bài:
Không có gì khác, chính các tác phẩm văn học và nghệ thuật sẽ soi sáng và bồi đắp cho tâm hồn ta thêm
trong sạch, cao rộng. Ta biết cách nhìn người, biết thấu hiểu, biết hướng tới chân, thiện, mĩ. Vợ chồng A Phủ
của Tô Hoài là một tác phẩm như vậy. Tác phẩm sẽ luôn tồn tại cùng dòng chảy của thời gian và của lịch sử văn
học. Đúng như Xankutop Sedrin từng quả quyết: Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó là
không thừa nhận cái chết.

CHÚ Ý:

 Chú ý : Chi tiết căn buồng của Mị có những ý cơ bản sau, có thể linh hoạt cắt bớt hay thêm
vào để tiết kiệm thời gian:
+ Căn phòng hiện lên với sự u ám , tối tăm, ánh sáng như bị triệt tiêu. Ở trong ấy, con người dường như bị cuống
vào trạng thái luẩn quẩn, vô vọng.
+ Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục thất tinh thần giam hãm cuộc sống và khóa chặt tuổi xuân của
Mị. Ta liên tưởng đến nàng Kiều khi xưa cũng bị giam hãm số phận tại Lầu Ngưng Bích (Trước lầu. dặm kia).
Chỉ có điều, nếu Thúy Kiều còn được cảm nhận cái “bốn bề bát ngát xa trông”
thoáng đãng của không gian thì Mị lại bị giam hãm trong căn phòng chật hẹp và tù túng. Ở trong ấy, Mị chẳng
khác nào một tù nhân phải chịu án tù chung thân. Nhà thống lí Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương tri và
tình người.
+ Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn bên trong là sự
tù túng, chật hẹp và giam hãm. Nếu không có tác động nào thì dù sớm hay muộn Mị cũng sẽ bị hút hết sức sống
và tiếp tục quay trở về con người chai sạn và vô cảm mà thôi !
+ Mị “trông ra đến bao giờ chết thì thôi ” dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói,
yếu ớt với mong muốn vượt ngục hay chăng ? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con
người ta muốn giải thoát lại không thể thoát giải, đành phải bất lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng của
Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí người đọc.
ĐỀ 4 (**): Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét về
nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến
chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà
mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa
suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng
lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như
thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị
vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị
ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị
lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng
phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.
Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn
bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết,
chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ
như vậy.

BÀI LÀM:
1. Mở bài:
Nếu phải chọn một loài hoa đẹp nhất, tôi sẽ chọn lấy một cành hồng còn e ấp trong sương đêm.
Nếu phải chọn một thanh âm cao nhất, tôi sẽ chọn lấy tiếng hót thiết tha của loài chim họa mi. Nếu
phải chọn một bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Tiếng ca từ văn chương bao giờ
cũng vui tươi và rạo rực, giai điệu của văn chương bao giờ cũng đằm thắm và ngọt ngào. Khi những
cung bậc cảm xúc ấy được cất lên, chúng giống như một nốt nhạc du dương va chạm với tâm hồn
người đọc. Từ đó, các tác phẩm văn học sẽ giúp con người có những nhận thức và cảm nhận sâu sắc
hơn về cuộc đời, con người trong từng trang sách. Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài là một tác phẩm
như vậy. Qua tác phẩm, người đọc thấy được số phận và phẩm chất của những người dân nghèo
miền núi, tuy bất hạnh nhưng vẫn thật cao cả. Điều ấy được thể hiện rõ nét qua nhân vật Mị, cụ thể
qua những diễn biến tâm trạng của Mị trong đoạn trích sau:

“Những đêm mùa đông trên núi [.. .] Mị phảng phất nghĩ như vậy”
2. Thân bài:
a. Giới thuyết chung:
_ Tác giả: Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục
nhờ sức viết sáng tạo và dồi dào.Văn phong của ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật sinh động
và giàu ý nghĩa. Ông am hiểu về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên Tổ quốc. Thành
công nhất của Tô Hoài phải kể tới những trang văn viết về vùng núi Tây Bắc. Trong số đó, truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu hơn cả. Tài liệu của Lê Minh

_ Tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc
trong vòng 8 tháng của Tô Hoài. Ông đã “cùng ăn, cùng làm, cùng ở với người dân nơi đây”. Chính vì vậy
mà nó giúp Tô Hoài thêm hiểu biết về dân tộc nơi đây, khơi nguồn cảm hứng cho các sáng tác nghệ
thuật.Tô Hoài từng tâm sự “Đất nước và con người nơi đây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều không
thể bao giờ quên”. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một lời cảm ơn đối với đồng bào nơi đây. Truyện
sau được in trong tập Truyện Tây Bắc, xuất bản năm 1952.
a. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này) :
Nổi bật nhất trong truyện ngắn là ở nhân vật Mị. Mị đã từng là một cô gái đẹp người, đẹp nết, tự
do và yêu đời. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống
lí Pá Tra. Kể từ ấy, dần dần Mị đã mất dần hy vọng và khát vọng sống, trở thành một con người
chai sạn, vô cảm. Tuy nhiên, Tô Hoài đã để cho Mị được hồi sinh trở lại trong hai lần. Trong đêm
tình mùa xuân ở Hồng Ngài, dưới tác động của cảnh vật, đặc biệt là do tác động âm thanh tiếng
sáo ở đầu núi rủ bạn đi chơi và men rượu, Mị đã bước đầu trỗi dậy, tuy nhiên lại thất bại. Đến với
đêm mùa đông, Tô Hoài mới để cho Mị vực dậy mạnh mẽ nhất và được giải thoát hoàn toàn. Đoạn
trích trên thuộc phần cuối của tác phẩm, đã thể hiện sự chuyển biến tâm trạng của Mị đối với A
Phủ, là tiền đề cho việc giải cứu A Phủ, cũng là giải cứu chính Mị sau này.
b. Cảm nhận đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích với trạng thái vô thức và đơn điệu trong hành
động sưởi lửa:
_ Câu văn mở đầu đã vẽ ra một không gian bao la, rộng lớn “Những đêm mùa đông trên núi cao dài
và buồn”:
+ Không những gợi ra một không gian mênh mông, câu văn còn gợi thời gian “những đêm mùa
đông”. Đây là khoảng thời gian lạnh lẽo, đặc biệt còn ở miền núi Tây Bắc nên càng lạnh hơn, lạnh
đến cắt da cắt thịt.
+ Ba tính từ “cao, dài, buồn” được đặt cạnh nhau liên tiếp gợi ra vẻ hoang vu, hiu quạnh, tĩnh lặng
của cảnh vật. Dường như cái “buồn” của cảnh vật cũng chính là nỗi buồn của lòng người, cụ thể ở
đây là nhân vật Mị.
_ Sau sự trỗi dậy không thành công ở đêm tình mùa xuân, Mị lại quay trở về với vòng luẩn quẩn
của số phận, tiếp tục là một con người chai sạn tâm hồn và vô cảm. Đến tận bây giờ, khi chưa có
tác nhân nào kéo Mị vực dậy khỏi hố sâu tuyệt vọng, con người đơn điệu ấy trong Mị vẫn còn tồn
tại. Mị hiện lên trong guồng quay vô thức qua các hình ảnh sưởi lửa “Mỗi đêm, Mị đã dậy thổi lửa
hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần; chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt
đêm”:
+ Đây là hành động lặp đi lặp lại đến đơn điệu, nhàm chán. Mị thực hiện hành động này trong
sự điều khiển của lí trí - nhưng lại không “tỉnh táo” mà vô thức, bị động, tự động mà không hề tự
chủ.
+ Mị chỉ có ngọn lửa làm bầu bạn, đó là thứ ánh sáng duy nhất giúp Mị vượt qua khỏi đêm đông
lạnh thấu xương tủy “nếu không có bếp lửa thì Mị cũng đến chết héo”. Hơi ấm của ngọn lửa cũng là
thứ duy nhất duy trì niềm tin và sức sống trong Mị. Mị soi mình vào ngọn lửa. Tuy nhiên, bếp lửa ấy
vừa là thứ cứu vớt Mị, lại vừa là thứ cuốn Mị đi.
=> Mị hiện lên thật đáng thương và khiến người đọc vô cùng xót xa. Nếu không có nguồn sức
mạnh nào kéo Mị ra khỏi vòng quay bất biến ấy, có lẽ Mị sẽ mãi ở trong trạng thái chai sạn và trơ
trọi đó mà thôi !
LĐ2: Với sự chai sạn và trơ lì đã ăn sâu vào tiềm thức, Mị trở nên vô cảm, mặc kệ mạng
sống của người khác và dửng dưng với chính mình. Mị dường như đã bị mất đi hoàn toàn tình
thương người và lòng trắc ẩn:

Sự tù túng và giam hãm đã hút hết phẩm chất tốt đẹp trong Mị và giờ nhả ra một con người
nhỏ bé, mất đi tình hữu ái giai cấp, tình thương người. Điều ấy được thể hiện rõ nhất qua thái độ
và hành động của Mị đối với A Phủ.
a. Thứ nhất, Mị trở nên vô cảm, mặc kệ mạng sống của người khác, cụ thể là A Phủ “Mỗi
đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị
cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống”:
_ Hai từ “mỗi đêm” cho thấy khoảng thời gian tuần hoàn, lặp lại. Vậy là A Phủ và Mị cùng hiện diện
với nhau từ lâu, nhưng dường như Mị không để ý và chỉ coi A Phủ là một cái bóng, bởi Mị “thấy mắt
A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống”. Từ láy “trừng trừng” gợi ánh mắt nhìn đăm đăm, như
đang cầu cứu. Đó là ánh mắt của một kẻ bất lực khi biết sự sống và cái chết của mình đang mong
manh như sợi tóc.
_ Đáp lại ánh mắt cầu cứu ấy của A Phủ, không những không động lòng mà Mị “ thản nhiên ngồi thổi
lửa hơ tay”. Từ “thản nhiên” cho thấy Mị không hề tỏ ra thương xót hay nghĩ tới A Phủ. Như vậy,
hình ảnh bếp lửa mà Mị sưởi một mặt giúp Mị vượt qua khỏi cái lạnh cắt da cắt thịt, nhưng mặt
khác nó lại cuốn Mị vào guồng quay của sự vô thức, thậm chí là vô cảm.
_ Đỉnh điểm của việc mất đi tình người trong Mị là khi Mị tưởng tượng ra viễn cảnh “A Phủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi”:
+ Mị thản nhiên tưởng tượng ra viễn cảnh A Phủ chết và buông ra câu nói “cũng thế thôi”. Đến
ngay cả mạng sống của con người Mị còn không có cảm xúc, thậm chí là còn coi thường nó. Ba từ
“cũng thế thôi” như cứa vào tận tâm can của người đọc. Mị lạnh lùng buông bỏ, mặc kệ cho A Phủ
sống hay chết. Thử hỏi một khi con người ta đã mất đi hoàn toàn tình thương người thì sống còn có ý
nghĩa chăng ?
+ Hình ảnh bếp lửa tiếp tục hiện lên “. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết còn ở với ngọn lửa”. Đến
giờ, đó không còn là hình ảnh tích cực nữa mà trở thành biểu tượng của sự vô cảm trong Mị. Mị thật
đáng trách biết mấy.
b. Thứ hai, Mị dửng dưng với chính nỗi đau của mình: “Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi
đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước”.
_ Có lẽ, những đòn roi của A Sử với Mị bây giờ cũng chẳng đáng sợ gì nữa, bởi Mị đã phải chịu đựng
nó quá nhiều “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị không phản kháng, không chống lại A Sử, mà
âm thầm chịu đựng, chấp nhận, tiếp tục quay trở lại hành động sưởi lửa quen thuộc, ngày này qua
ngày khác “đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước”.
TIỂU KẾT LĐ2:
Như vậy, chính nỗi đau của mình mà Mị còn không hề cảm thấy đau đớn, không cảm nhận và xót
xa cho chính mình thì làm sao Mị có thể động lòng trước số phận của người khác, cụ thể là A Phủ.
Hơn thế nữa, việc trói đứng người khác ở nhà thống lí Pá Tra là một việc thường xuyên, nên với A
Phủ bây giờ Mị không lấy gì làm lạ.
=> Trong truyện ngắn Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đưa ra một triết lí sâu sắc “Một người đau chân có
lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá
thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng,
buồn đau ích kỷ che lấp mất”. Thật vậy, lòng trắc ẩn của Mị giờ đây đã bị đóng băng hoàn toàn, Mị
chẳng còn có thể quan tâm tới ai nữa. Hoàn cảnh tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận, bởi
vậy, Mị như vậy âu cũng là do tác động của hoàn cảnh sống. Vì thế, ta càng xót xa và đồng cảm với
Mị. Mị đáng thương, chứ không đáng trách.

LĐ3: Tâm trạng Mị có những diễn biến phong phú và vô cùng phức tạp. Mị đã có những
thay đổi và chuyển biến rõ rệt sau khi chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ, đánh dấu bước
ngoặt trong nhận thức của Mị:
_ Tô Hoài từng tâm sự “cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức
sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp cho buồn
nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình”. Và
giờ, ngọn gió ấy đã đến, đó chính là hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ “một dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”:
+ Đó là giọt nước mắt của một kẻ đang hấp hối, của một thân phận cận kề bên cái chết.
Giọt nước mắt ấy như là sự căm phẫn, uất ức trước sự bất công đến mức phát khóc, đồng thời
còn như là giọt nước mắt tủi cực, bất lực mong được giải thoát.
+ Giọt nước mắt của A Phủ “lấp lánh” vì sự phản chiếu của “ngọn lửa bập bùng sáng lên”.
Không chỉ vậy, giọt nước mắt ấy lấp lánh là còn bởi sự quí giá của nó ? Nguyễn Minh Châu quan
niệm “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn
con người”. Phải chăng, giọt nước mắt của A Phủ chính là những “hạt ngọc” vô giá ? Bởi chính nó
đã cứu sống chính A Phủ và cứu sống cả Mị, đồng thời làm bộc lộ vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn
Mị. Đây quả là một chi tiết đắt giá, nói như nhà giáo Đỗ Kim Hồi “Nước mắt A Phủ đúng là một
chi tiết nâng tầm Tô Hoài”.
_ Giọt nước mắt của A Phủ đã hồi sinh Mị trở lại, đưa Mị đến những chặng cảm xúc phong phú,
phức tạp:
a. Đầu tiên, giọt nước mắt ấy khiến Mị nhớ lại quá khứ đau thương và nhận ra sự
tương đồng về số phận của mình với A Phủ: “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị
cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết
lau đi được”.
_ Giọt nước mắt đánh thức kí ức hãi hùng và ám ảnh trong Mị, để rồi Mị nhận ra sự giống nhau
giữa mình và A Phủ:
+ Giống nhau về hình phạt thể xác: Họ đều bị ngược đãi, bị trói đứng một cách dã man và tàn
bạo.
+ Giống nhau về tâm trạng: Họ đều khóc, đều cay đắng trước sự bất công của số phận.
=> Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Như vậy, giọt nước mắt đã khơi dậy nỗi niềm đồng cảm giữa
hai thân phận đồng cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Đây
chính là trạng thái tâm lí mở đầu cho những suy nghĩ kế tiếp của Mị.
b. Tiếp theo, Mị bỗng cảm thấy thương thân và chợt thức tỉnh về sự tàn bạo của cha
con thống lí Pá Tra:
_ Nhớ lại tội ác của bọn cha con thống lí Pá Tra khiến Mị sợ hãi “Trời ơi, nó bắt trói đứng người
ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái
nhà này”:
+ Từ cảm thán “trời ơi” như tiếng kêu than thân, hãi hùng, phẫn uất trước thế lực thống trị.
+ Câu văn ngắn nhưng có tới 3 từ “chết” , gợi lên sự rợn ngợp về cảm giác chết chóc, bi
thương. Đồng thời, nhịp văn gấp gáp cho thấy nét tâm trạng rối bời, ngổn ngang, hãi hùng
như nhịp tim đập nhanh của Mị.
+ Sự sợ hãi của Mị càng tăng thêm khi có sự kết nối giữa ba số phận “Người ta - mình - người
đàn bà ngày trước”. Mị là một nhân chứng sống chứng kiến biết bao tội ác tày trời mà biết bao
nhiêu người lỡ sa vào bàn tay dã man phải chịu đựng. Tô Hoài đã thành công khi lột tả được bản
chất vô nhân đạo của chúng rất thật, thật đến cốt, đến lõi, đúng như Nguyễn Minh Châu từng
quan niệm “Nhà văn không tô đen hay bôi hồng cuộc sống mà chỉ làm rõ bộ mặt thật của nó”.
_ Sự hãi hùng và căm phẫn khiến Mị phải thốt lên với lòng mình rằng “Chúng nó thật độc ác”:
+ Năm chữ “chúng nó thật độc ác” cất lên như một lời nguyền rủa, tố cáo hùng hồn và đanh
thép. Mị như đang trút hết nỗi lòng nặng trĩu của mình.
+ Vậy là sau bao nhiêu dồn nén, cam chịu, chấp nhận kiếp sống nô lệ, trâu ngựa, lần đầu tiên
Mị đã thức tỉnh ra và hiểu một cách cặn kẽ về sự dã man tàn bạo của chúng. Không biết, bao
nhiêu người đã bị vùi chôn dưới bàn tay nhuốm máu của chúng !
a. Sau đó, khi đã nhận ra được hiện thực tàn nhẫn và khốc liệt, từ thương mình, Mị
chuyển sang thương người, cụ thể là thương A Phủ:
_ Mị lo lắng cho sự sống của A Phủ “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết
đói, chết rét, phải chết”: Tài liệu của Lê Minh
+ Câu văn tiếp tục xuất hiện dày đặc điệp từ “chết” kết hợp với cách nói tăng tiến “chết
đau,
chết đói, chết rét” gợi bàn tay của tử thần có thể tóm gọn con người đi bất cứ lúc nào.
+ Chết đau vì bị dây trói siết chặt, cứa từng mảnh thịt; chết đói vì bị trừng phạt, bỏ rơi; chết
rét vì cái lạnh cắt da cắt thịt của núi rừng Tây Bắc. Cuối cùng, dù thế nào thì cũng “phải chết”.
_ Mị đặt mình và A Phủ lên bàn cân của số phận “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà
nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…”:
+ Mị nhìn nhận lại bản thân mình và chấp nhận cuộc sống trói buộc này, rằng là thân phận
đàn bà, đã vậy còn bị trình ma rồi nên cuối cùng rồi Mị cũng sẽ phải chết.
+ Trong khi đó, đối với A Phủ, Mị phủ định cái chết của A Phủ và bênh vực cho sự trừng phát
vô lí, bất công A Phủ phải chịu “Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…”.
=> Mị đã nhận ra giá trị sự sống cá thể nên cảm thấy việc A Phủ phải chết là một việc phi lí.
Đó là sự nhận thức mang tính lí trí chứ không phải cảm tính nữa, Mị đã nghiêng hết sự sống về
phía A Phủ. Như vậy, nhờ có giọt nước mắt lấp lánh của A Phủ mà trái tim băng giá của Mị đã
được nung nóng trở lại, đánh thức lòng trắc ẩn, lòng nhân ái và phần người trong Mị. (Tài liệu
của Lê Minh) Cứ tưởng như những phẩm chất ấy đã bị mất đi hoàn toàn, nhưng không, nó vốn
vẫn luôn tồn tại trong con người Mị, chỉ là chưa có nguồn sức mạnh nào khiến nó trỗi dậy mà
thôi. Mị như một cây rừng héo úa nhưng sâu trong mao mạch của cây, nhựa sống vẫn chảy âm
thầm, như Nguyễn Minh Châu từng nói ““Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng nét đẹp đẽ kỳ
diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.

=> Khi viết những câu văn như vậy, Tô Hoài rất tỉnh táo, rất khách quan khi phân tích, mổ xẻ
những ngóc ngách sâu kín của tâm linh con người. Nhà văn như hóa thân vào nhân vật để nói
lên tiếng lòng của mình. (Phần gạch chân chính là Giá trị nhân đạo) Đó là tiếng lòng của
sự cảm thông, xót xa trước số phận đau khổ của người dân nghèo miền núi, cũng là lời ngầm
tố cáo đanh thép trước tội ác của bọn chúa đất miền núi. Không chỉ vậy, nhà văn còn ngợi ca
phẩm chất tốt đẹp luôn ẩn sâu trong tâm hồn họ - những con người nghèo khổ. làm khơi dậy
ở độc giả niềm đồng cảm và mong muốn giải cứu cho nhân vật. Nói “Văn học giúp con người
hiểu được bản thân mình nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người
khát vọng vươn tới chân lý” như M.Gorki quả không sai.
b. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài:
_ Tô Hoài đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị vô cùng chân thực qua hành động và ngôn
ngữ độc thoại nội tâm, lúc đứng ngoài quan sát, lúc nhập tâm và hóa thân vào nhân vật.
_ Hình tượng nhân vật Mị còn được xây dựng và được thể hiện tinh tế nhờ sử dụng thủ pháp
đồng hiện và tương phản, đối lập:
+ Đồng hiện giữa quá khứ và thực tại (quá khứ và thực tại đều đau khổ, cay nghiệt).
+ Đối lập giữa tính cách trước và sau khi chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ (trước đó dửng
dưng, vô cảm nhưng sau đó đồng cảm, thương người mãnh liệt) để làm nổi bật phẩm chất của
Mị.
_ Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị được khắc họa sâu sắc bằng việc diễn tả chiều sâu tâm
hồn cùng những biến thái thăng trầm, gấp khúc tuần tự; xây dựng nhân vật theo hướng cá thể
hóa cao độ theo quá trình tiệm tiến (phát triển từng bước) và đột biến (thay đổi triệt để).
=> Cách xây dựng nhân vật Mị góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà văn Tô
Hoài, sự già dặn trong ngòi bút của ông và sự am hiểu về thế giới nội tâm con người, đặc biệt là
người phụ nữ.
c. Đánh giá về nghệ thuật:
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, đặt nhân vật vào kịch tính để bộc lộ
những tính cách điển hình. Tô Hoài đã xây dựng nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ đan
xen xây dựng nét tính cách ổn định, phong phú, vừa bất ngờ vừa tất yếu. Đặc biệt, cách miêu
tả tâm lí nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”. Ngoài ra, Cách kể chuyện
linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm nhìn trần thuật: bên ngoài và bên trong, những câu văn
giàu cảm xúc, đậm chất miền núi,góp phần không nhỏ vào thành công của truyện ngắn.
3. Kết bài:
Bàn về tác phẩm của mình, Tô Hoài tâm sự: “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong mọi cùng cực
đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục
nhã nhưng Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”. “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài
đã thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt, khát vọng tự do, niềm đồng
cảm sâu sắc trước nỗi khổ đau của con người là nguồn mạch giúp Tô Hoài hoàn thành tác
phẩm. Thông qua diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm mùa đông, Tô Hoài đã làm nên
một bài ca đẹp về sức sống bất diệt của con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đọc xong tác
phẩm, dấu ấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn độc giả chính là bởi ánh sáng tuyệt vời ấy.

ĐỀ 5 (***): Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét về
tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn Tô Hoài:
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng
tượng như có có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo
là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong
tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A
Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè
từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt
hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khụy xuống, không
bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy,
chạy xuống tới lưng dốc. Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.

BÀI LÀM:
1. Mở bài:
Có ai đó đã ví “sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu
vẫn phải gắn bó với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ
sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Quả đúng như vậy, cuộc sống giống
như một nghiên mực mà người nghệ sĩ phải chấm bút vào, nếu không văn chương cũng chỉ là “ánh
trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta liên tưởng đến nhà văn Tô Hoài và mối lương duyên vói
vùng đất Tây Bắc. Chính con người và vùng đất nơi đây đã thổi hồn vào các tác phẩm của ông, để
lại dấu ấn sâu sắc, đặc biệt là ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm là bài ca về sức sống
mãnh liệt, tiềm tàng của những người dân nghèo miền núi. Điều ấy được thể hiện chân thực qua
nhân vật Mị, cụ thể qua đoạn trích sau:
“Đám than đã vạc hẳn lửa [. . .] lao chạy xuống dốc núi”
2. Thân bài:
a. Giới thuyết chung:

_ Tác giả: Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục
nhờ sức viết sáng tạo và dồi dào.Văn phong của ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật sinh động
và giàu ý nghĩa. Ông am hiểu về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên Tổ quốc. Thành
công nhất của Tô Hoài phải kể tới những trang văn viết về vùng núi Tây Bắc. Trong số đó, truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu hơn cả.

_ Tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc
trong vòng 8 tháng của Tô Hoài. Ông đã “cùng ăn, cùng làm, cùng ở với người dân nơi đây”. Chính vì vậy
mà nó giúp Tô Hoài thêm hiểu biết về dân tộc nơi đây, khơi nguồn cảm hứng cho các sáng tác nghệ
thuật.Tô Hoài từng tâm sự “Đất nước và con người nơi đây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều không
thể bao giờ quên”. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một lời cảm ơn đối với đồng bào nơi đây. Truyện
sau được in trong tập Truyện Tây Bắc, xuất bản năm 1952.
a. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này):
Nổi bật nhất trong truyện ngắn là ở nhân vật Mị. Mị đã từng là một cô gái đẹp người, đẹp nết, tự
do và yêu đời. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống
lí Pá Tra. Kể từ ấy, dần dần Mị đã mất dần hy vọng và khát vọng sống, trở thành một con người
chai sạn, vô cảm. Tuy nhiên, Tô Hoài đã để cho Mị được hồi sinh trở lại trong hai lần. Trong đêm
tình mùa xuân ở Hồng Ngài, dưới tác động của cảnh vật, đặc biệt là do tác động âm thanh tiếng
sáo ở đầu núi rủ bạn đi chơi và men rượu, Mị đã bước đầu trỗi dậy, tuy nhiên lại thất bại. Đến với
đêm mùa đông, Tô Hoài mới để Mị vực dậy mạnh mẽ nhất và quyết liệt nhất. Đoạn trích trên
thuộc phần cuối của tác phẩm, đã thể hiện tình thương người và sức sống tiềm tàng trong Mị khi
giải cứu hoàn toàn cho A Phủ và cho chính mình.
b.Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị:
LĐ1: Trước hết, hiện lên trong đoạn trích là hình ảnh Mị trong trạng thái suy nghĩ và nung
nấu ý định giải cứu A Phủ:
_ Câu văn mở đầu đoạn trích như một lời thông báo “Đám than đã vạc hẳn lửa”:
+ Đây là hình ảnh có tác dụng vén màn và chuyển cảnh. Ánh lửa bập bùng của bếp lửa Mị sưởi -
thứ ánh sáng vật lí gắn liền với Mị nay đã nhạt và mập mờ dần, nhường chỗ cho bóng đêm hiu
quạnh.
+ Tuy nhiên, một nguồn sáng khác lại bừng sáng lên. Thứ ánh sáng ấy có lẽ đẹp đẽ và vĩnh cữu hơn
tất cả, đó chính là ngọn lửa của lòng Mị, của tình thương người, lòng nhân ái. Không sớm thì muộn,
Mị chắc chắn sẽ sớm giải cứu cho A Phủ .
_ Trong bóng tối ấy, Mị hiện lên với trạng thái khác thường “Mị không thổi, cũng không đứng lên”:
+ Nếu ở những câu văn trước, Mị gắn liền với hình ảnh sưởi lửa “Mỗi đêm, Mị đã dậy thổi lửa hơ
tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần; chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm”.
Đó là những hành động vô thức, lặp đi lặp lại, bị động, tự động mà không hề tự chủ thì bây giờ Mị đã
thoát khỏi guồng quay vô thức ấy.
+ Mị đã không còn ở trong cơn mê sảng đó nữa mà đã tỉnh táo trở lại để chuẩn bị cho một “cuộc
cách mạng mang tính sống còn”.
_ Bóng tối bao trùm cũng là lúc những suy nghĩ trong Mị mọc lên ngổn ngang. Ngọn lửa của khát
khao giải cứu A Phủ trong Mị như được nhen thêm dầu và được hun nóng bằng những dòng suy nghĩ
mạnh mẽ: Tài liệu của Lê Minh
+ Thoạt tiên, “Mị nhớ lại đời mình”. Phải chăng Mị nhìn lại cuộc đời của mình là để hướng tới cuộc
đời của A Phủ, để tạo động cơ cho hành động giải cứu A Phủ sau này?
+ Sau đó, Mị mường tượng ra viễn cảnh mạng người đổi mạng người đầy gay cấn “Mị lại tưởng
tượng như có có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo
là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong
tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ”.

.) Câu văn như vẽ ra hai số phận. Một người tự do còn một người bị giam hãm; một người được
sống còn một người phải chết thay. .) Tuy nhiên, bất chấp điều ấy, Mị “không thấy sợ”. Ba chữ
“không thấy sợ” vang lên một cách mạnh mẽ, như một lời tuyên bố dứt khoát khi chịu trách nhiệm cho
mạng sống của người khác.
=> Đúng như Tô Hoài tâm sự “lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn âm thầm, tiềm tàng,
mãnh liệt”, đối với Mị bây giờ, tình thương người đã lấn át tất cả. Mị sẵn sàng hy sinh mạng sống của
mình để trao sự sống cho một người đàn ông không quen biết. Điều ấy khiến Mị thật đáng cảm
phục và trân trọng. Tài liệu của Lê Minh
LĐ2: Từ những dòng suy nghĩ mạnh mẽ, Mị đã chuyển hóa thành hành động đầy táo bạo là
giải cứu cho A Phủ khi ngọn lửa lòng Mị đang bập bùng:
_ Lỗ Tấn từng quan niệm “Một tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một đám cháy ngày mai”.
Quả thực là như vậy, từ tia lửa nhỏ là những dòng suy nghĩ giờ đã bùng lên thành đám cháy qua
hành động “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”:
+ Mị cắt dây khi “trong nhà đã tối bưng”. Đây là một dụng ý nghệ thuật của Tô Hoài, nhà văn
đã tạo điều kiện thuận cho nhân vật của mình. Phải chăng khi bóng tối bủa vây cũng là lúc việc
giải cứu diễn ra dễ dàng hơn ?
+ Hành động này diễn ra nhanh, gọn, nghe chừng có vẻ rất đơn giản nhưng lại vô cùng nguy
hiểm, có thể trả giá bằng một mạng người.
+ Hành động này là kết quả của những suy nghĩ giăng mắc, ngổn ngang trong Mị. Nhưng đó mới
chỉ là điều kiện cần. Còn điều kiện đủ để thực hiện việc làm động trời ấy chính là tình thương người
và khát vọng tự do đang âm ỉ cháy trong Mị.
+ Mị cắt đi sợi dây trói là cắt đi sợi dây nô lệ, chặt đứt xiềng xích của bọn chúa đất miền núi,
thiêu đốt cũi sắt ràng buộc cuộc đời A Phủ bằng sức nóng của ngọn lửa lòng mình và bằng một
tinh thần thép.
+ Đồng thời, cắt đi sợi dây ấy mà lại tạo ra một sợi dây khác. Đó chính là sợi dây liên kết vô hình
giữa Mị và A Phủ. (Tài liệu của Lê Minh) Từ giờ, cuộc đời của họ liên quan đến nhau, A Phủ là nạn
nhân được Mị giải cứu, còn Mị là ân nhân của A Phủ.
=> Hành động giải cứu này khiến ta liên tưởng đến mô-típ giải cứu trong truyện dân gian. Đó là
chàng Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, chàng Thạch Sanh giết chằn tinh cứu công chúa Nguyệt
Nga,. Đó là kết quả của chân lí cái thiện thắng cái ác. Hành động này của Mị có phần ấn tưởng hơn,
bởi trong truyện dân gian là nhân vật nam giải cứu cho nhân vật nữ, còn Mị thì ngược lại. Bởi vậy,
chi tiết này để lại ấn tượng vô cùng đậm nét trong tâm trí độc giả.
_ Sau khi cắt dây cởi trói, “Mị cũng hốt hoảng”. Như vậy, hành động cởi trói ấy có thể coi là xuất
phát từ bản năng của Mị. Tuy vậy, nó không hề bồng bột hay thiếu suy nghĩ mà lại quan trọng
và tất yếu.
_ Tiếp theo đó, Mị cất tiếng nói “Đi ngay…”:
+ Câu nói này chính là tiếng lòng của Mị, là lời tự quyết dứt khoát, mạnh mẽ với lòng mình vì hành
động táo báo vừa rồi, không thể thay đổi được nữa.
+ Câu nói ấy còn như một mệnh lệnh đối với A Phủ hãy nhanh chớp lấy thời cơ này để có cơ hội
sống trước khi cánh tay đen ngòm của thế lực thống trị tóm anh lại. Tuy chỉ là lời thì thào nhưng nó
lại có âm vang mạnh mẽ đến kì lạ. Nó như tiếp thêm nguồn sức mạnh cho A Phủ, khiến A Phủ tuy
“bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng
lên, chạy”.

=> Trong truyện ngắn Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đưa ra một triết lí sâu sắc “Một người đau chân có
lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì
người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng,
buồn đau ích kỷ che lấp mất”. Tuy vậy, đối với Mị, không những Mị quên đi “cái chân đau” của mình
để nghĩ tới A Phủ mà còn nghiêng hết phần sống về phía người con trai ấy. Nhà văn Nguyễn Khải từng
quan niệm “Ở cuộc đời này không có bước đường cùng mà chỉ có những giới hạn, điều quan trọng là
phải có sức mạnh để vượt qua những giới hạn ấy”. Mị đã vượt ra khỏi bức tường ngột ngạt của thần
quyền và cường quyền để tìm đến ánh sáng của tự do. Đó chính là phẩm chất sáng ngời ẩn đằng sau vẻ
ngoài vô cảm, chai sạn của Mị.
LĐ3: Cuối cùng, khát vọng sống trong Mị đã được đẩy lên cao nhất tới đỉnh điểm bằng
hành
động chạy trốn theo A Phủ:
_ Tuy nhiên, trước khi để Mị tìm đến con đường tự do, Tô Hoài đã đặt Mị trong một tình huống
mang tính thử thách “Mị đứng im lặng trong bóng tối”:
+ Câu văn ngắn, viết theo lối trần thuật, nằm ngổn ngang một mình giữa các con chữ tạo ra một
khoảng lặng trong tình tiết gay cấn của truyện, cũng như một khoảng lặng trong tâm hồn Mị.
+ Tô Hoài để Mị chìm trong những suy tưởng miên man, buộc Mị phải chọn lựa giữa hai lựa chọn:
Ở lại và chết, hay bỏ chạy và được sống.
=> Cuối cùng, cánh cửa của con đường tự do đã mở và tỏa ánh sáng dẫn lối Mị vào. Mị đã nghe
theo lí trí để tự giải cứu chính mình.
_ Sự trỗi dậy ấy của Mị được khắc họa chân thực và chi tiết qua các động từ mạnh “vụt chạy ra,
băng, lăn, chạy, chạy xuống”:
+ Đây là những hình ảnh gợi bước chân mạnh mẽ, dứt khoát của Mị.
+ Đó là bước chân đạp đổ cường quyền và thần quyền, tự giải cứu mình, tự tháo cũi sổ lồng.
_ Thật bất ngờ, sau bao nhiêu mùa câm lặng, Mị đã cất lên tiếng nói “A Phủ cho tôi đi - Ở đây thì
chết mất” :
+ Đây là lời nói của một người đang trỗi dậy sức sống mãnh liệt.
+ Không còn chán sống như những chi tiết trước trong truyện nữa, bây giờ Mị sợ chết. Tuy vậy,
sợ chết không phải là thái độ hèn nhát mà lại thể hiện khát vọng sống và nhu cầu tự do.
*NHẬN XÉT:
=> Ở những chi tiết trước, những lúc chán sống nhất thì Mị lại chẳng buồn nghĩ đến cái chết, còn
những lúc khát vọng sống bùng lên mãnh liệt thì Mị chỉ muốn chết đi thôi. Cấu trúc nghịch lí này
bây giờ đã được chuyển hóa tinh vi từ nghịch lí thành hợp lí. Mị bây giờ không chỉ ham sống, khát
sống mà còn cần phải sống. Đúng là “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều
hình mới vẽ ra” (Heghen).
=> Sự trỗi dậy của Mị là kết quả của quá trính “cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu”, tức
một khi sự việc đã đạt đến đỉnh điểm thì sẽ tiếp tục phát triển theo chiều hướng vận động tích cực
và đạt tới cực đại. Không chỉ vậy, việc Mị chạy trốn theo A Phủ còn là một bản năng tự vệ tích cực,
phản ánh một quy luật, một quá trình tất yếu, đó là Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh.
=> Để ý rằng, các tác phẩm thuộc dòng Văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 thường có cách
kết thúc khép kín bằng cuộc đời nhân vật bi kịch và tăm tối. Với Nguyễn Công Hoan đời là mảnh
ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng vải có lỗ thủng, những vết ố, nhưng
vẫn nguyên vẹn, với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi. Tuy nhiên, Tô Hoài không
nhìn nhận cuộc sống trong bế tắc như vây. Tác giả mở ra ánh sáng cuối con đường cho nhân vật
của mình. Chi tiết kết thúc truyện “Hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” đã gieo
không ít niềm tin vào lòng người đọc về sự đổi thay số phận của họ. Phải chăng khi chạy khỏi Hồng
Ngài vào đêm tối, họ sẽ tìm đến một buổi sớm tự do tại Phiềng Sa “từ thung đau thương ra cánh
đồng vui” ?
c. Nhận xét về tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn Tô Hoài:
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng quan niệm : “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng
cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của
của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm”. Đoạn trích trên đã thể hiện được tư
tưởng nhân đạo của Tô Hoài. Tác giả đã tố cáo đanh thép trước những tội ác mà thế lực thống trị đè
nặng lên vai người dân nghèo. Qua đó, nhà văn bày tỏ sự cảm thông, xót xa những số phận bất hạnh
như Mị và A Phủ. Không chỉ vậy, Tô Hoài còn phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người Tây
Bắc: sức sống tiềm tàng, bất diệt.
=> Điểm mới trong tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài: Gắn tình thương với đấu tranh, cách mạng; nhà
văn mở ra con đường giải phóng cho người dân lao động từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến tự
do.
d. Đánh giá nghệ thuật:
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, đặt nhân vật vào kịch tính để
bộc lộ những tính cách điển hình. Tô Hoài đã xây dựng nhân vật mang tính cá thể hóa
cao độ đan xen xây dựng nét tính cách ổn định, phong phú, vừa bất ngờ vừa tất yếu.
Đặc biệt, cách miêu tả tâm lí nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”.
Ngoài ra, Cách kể chuyện linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm nhìn trần thuật: bên
ngoài và bên trong, những câu văn giàu cảm xúc, đậm chất miền núi,góp phần không
nhỏ vào thành công của truyện ngắn. ài liệu của Lê Minh
3. Kết bài:
“Văn học xét đến cùng là câu chuyện của trái tim”. Đặc biệt ở truyện ngắn, những câu
chuyện được xây dựng bằng tấm lòng nhân đạo, giàu trắc ẩn của tác giả luôn có sức
lay động to lớn đến người đọc. Với nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã
thực sự mang đến cho chúng ta hình ảnh về sức sống và khát vọng sống vẫn luôn âm ỉ
trong những con người nô lệ, bất hạnh. Tác phẩm sẽ tồn tại mãi theo dòng chảy của thời
gian và dòng lịch sử văn học nước nhà, bởi “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không
bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng” (Aimatốp).
22 – Tài liệu của Lê Minh. Instagram: mminminhh03

You might also like