You are on page 1of 3

Nam Cao (1915 – 1951) là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi

hiện đại Việt Nam. Sáng tác


của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian
càng lùi xa, những tác phẩm của ông càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ
đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945. Trong số các nhà văn hiện
thực, ông là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và
triệt để tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là thứ “ánh trăng lừa dối”,
đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được
nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than (Giăng sáng).

Giăng Sáng là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người trí thức Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám, tác phẩm đã vẽ nên cảnh đời chung của các tiểu tư sản nghèo lúc bấy giờ, mặc dù mang trong
mình nhiều hoài bão và ước mơ nhưng họ vẫn bị vùi dập bởi nỗi lo toan về cơm áo, gạo tiền
Giăng Sáng ra đời vào năm 1943, là chuyện kể về nhà giáo thất nghiệp tên Điền. Những đêm trăng sáng, anh
thường đem những chiếc ghế mây mà nhà trường trả thay cho tiền lương dạy học ra sân để ngắm trăng và thả
hồn theo giấc mộng văn chương. Điền khát khao viết nên thứ văn chương huyền ảo, mơ màng như ánh trăng
với quan niệm rằng văn chương phải giống như ánh trăng kia, phải “làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ
tầm thường, xấu xa”. Điền chán chường, mệt mỏi với cảnh vợ suốt ngày gắt gỏng bực dọc do cảnh nhà túng
thiếu, con cái ốm đau.
theo thứ văn chương thoát ly chỉ dành cho bọn trưởng giả. Anh thấu hiểu sâu sắc rằng: “Nghệ thuật
không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”.
Vẫn với ngòi bút phân tích tâm lý sắc sảo, những truyện dường như không có chuyện, trong Giăng Sáng,
Nam Cao một lần nữa tuyên ngôn về con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh” mà ông theo đuổi.
Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì 1930 – 1945. Nghệ thuật xây dựng
nhân vật chính là điểm đặc sắc trong các sáng tác của Nam Cao, giúp ông khắc họa sinh động hiện thực cuộc
sống của những con người cùng khổ. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Giăng sáng”.
Về cách lựa chọn đối tượng để xây dựng nhân vật, “Giăng sáng” viết về tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Trước
khi trở thành đại diện tiêu biểu cho văn học hiện thực phê phán, Nam Cao từng một thời thử sức mình với văn
học lãng mạn. Nhưng với tấm lòng nhân đạo sâu sắc, ông nhận ra trước mắt mình là biết bao con người đang
sống trong cảnh lầm than, đói khổ. Đoạn tuyệt với thứ văn chương mơ mộng mà giả dối, Nam Cao hướng
ngòi bút của mình đến tầng lớp nông dân bần cùng và tầng lớp trí thức nghèo.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” được thể hiện cụ thể ở nhiều khía cạnh như nghệ thuật
miêu tả tâm lí nhân vật, ngôi kể, điểm nhìn trần thuật,…
Trước hết, nhà văn tập trung miêu tả những bi kịch tinh thần, quá trình giằng xé trong nội tâm nhân vật Điền
để làm nổi bật nỗi thống khổ của những kiếp người “muốn cất cánh bay cao nhưng bị áo cơm ghì sát đất”.
Nam Cao quan tâm đến những nét tâm lí nhỏ nhặt cùng các sự vật hoặc sự việc có tính chất đời thường. Từ
những điều nhỏ bé ấy, ông đưa ra những triết lí mang tính phổ quát về thân phận con người, hoàn cảnh xã hội.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Điền và bốn cái ghế mây – thứ duy nhất có giá trị trong nhà Điền. Giọng văn
lạnh lùng đến dửng dưng của Nam Cao khiến người đọc tò mò: “Ðiền có bốn cái ghế mây. Tất cả đồ đạc
trong nhà, chỉ có bốn cái ghế mây này là có giá. Không phải Ðiền mua. Tính Ðiền rất ghét mua”. Chỉ xoay
quanh bốn cái ghế ấy, Nam Cao đã hé lộ biết bao nỗi niềm của nhân vật. Là một người có học, Ðiền từng làm
một ông giáo trường tư trong ngót ba năm. Với một người ôm mộng văn chương, muốn sáng tạo những áng
văn bất hủ để đời như Điền thì công việc dạy học cũng có phần đáng chán. Vì hai chục bạc lương mà Điền cố
gắng. Ngày trường dẹp, ông hiệu trưởng còn nợ của Điền nửa tháng lương. Ông ta đành ngượng nghịu bảo
Điền cầm bộ ghế mây về. Lúc này tâm trạng Điền diễn ra những trạng thái đặc biệt. Điền dồn nén cảm xúc để
cái mặt không xị xuống. Bao nhiêu phân vân, tính toán dở khóc dở cười xuất hiện trong đầu óc anh. “Chao ôi!
Cũng mang tiếng là ghế mây!... Cái thì xộc xệch, cái thì bốn chân rúm lại, và chẳng cái nào là nước sơn
không róc cả ra như là da thằng hủi. Trông đủ thảm.”. Câu văn cho thấy tâm trạng xót xa, khổ tâm hết sức
của Điền. Điền ngại đèo bòng mấy chiếc ghế mây, sợ tốn thêm tiền tàu xe mà cũng không dám từ chối ông
hiệu trưởng bởi“Họ bị tủi vì người ngoài đã lắm. Chẳng nên để người nọ bị tủi vì người kia”. Điền suy đi,
tính lại rồi ưng thuận. Không chỉ Điền mà nhân vật ông hiệu trưởng cũng có những chi tiết phân vân tương tự.
Từ đó, nhà văn cho thấy bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội đương thời khi bị cơm áo gạo
tiền bóp nghẹt đến mức phải sống tằn tiện, nghèo khổ, thảm hại. “Ðiền tự an ủi: Có tiền rồi sẽ viết. Nhưng
Ðiền biết: chẳng bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Ðiền cũng không có tiền...”
Diễn biến tâm lý của nhân vật trong “Giăng sáng” thực chất là quá trình đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau
của những đối cực trong nội tâm con người. Xung đột chủ yếu trong những sáng tác của Nam Cao là xung đột
của thế giới nội tâm nhân vật. Kể cả trong “Chí Phèo”, căng thẳng nội tâm cũng diễn ra trước và được nhà
văn miêu tả kĩ hơn là phút hành động cuối cùng. Nhân vật của Nam Cao luôn ở trong tâm thế chông chênh
giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện thực nghèo túng. Và hơn hết, họ chẳng thể nào thanh thản
để chọn lấy một con đường. Điền yêu trăng, coi trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp sang trọng của nghệ thuật.
Những tối có trăng, Điền khuân mấy cái ghế ra sân ngồi cùng vợ con. Những phút thảnh thơi hiếm hoi ấy xoa
dịu lòng Điền. Nhờ có tâm hồn đẫm văn thơ mà Điền thấy người vợ mới cằn cỗi làm sao! Lúc nào thị cũng
tính toán, luôn luôn tính toán. Điền cho rằng điều ấy nhỏ nhen và tầm thường. Thế nhưng, chính Điền cũng vô
thức trở thành kẻ tính toán lúc nào không hay. Khi chứng kiến cảnh nheo nhóc của gia đình, bỗng nhiên Điền
nảy sinh nỗi đau quằn quại. Đấu tranh nội tâm gay gắt đang tra tấn Điền. “Còn sống trong cái gia đình này
mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao
ước có ngày lại khơi...”. Chỉ có những người đàn bà đẹp mới biết yêu văn chương của Điền và ý nghĩ này làm
chính anh ta thấy xấu hổ. Nam Cao đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm trạng con người để vén bức màn
đang che giấu những khát khao thầm kín. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở nên rõ rệt, cơn ốm cùng tiếng rên
đau đớn của đứa con, sự tức giận đến khổ sở của người vợ làm Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách
nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Khi phản ánh mâu thuẫn giữa hiện thực và sự mơ mộng, nhà văn thẳng
thắn chỉ ra khuyết điểm của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ rời xa tầng lớp lao động cần lao để sống với ảo
tưởng. Bi kịch của Điền đến từ sự ngộ nhận, chọn lựa sai lý tưởng sống. Miêu tả những mâu thuẫn âm thầm
mà căng thẳng trong nội tâm nhân vật, Nam Cao đã đưa ra tuyên ngôn đúng đắn về nghệ thuật. Nhà văn phải
“đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.

Điểm xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao còn nằm ở việc nhà văn đưa ra nguyên
nhân cho những nét tâm trạng ấy. Sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, hoàn cảnh sống luôn chi phối quyết
định con người. Nam Cao không chỉ phơi bày mà còn lí giải. Được học hành, có tài văn chương, mong muốn
dùng văn chương để cải tạo cuộc đời nhưng thời thế, hoàn cảnh đã bạc đãi Điền. Ai trên đời cũng muốn tài
năng của mình trở nên hữu ích. Hoàn cảnh nghèo khó khiến Điền cảm thấy mình ích kỉ khi những đứa em bơ
vơ, nheo nhóc. Khi tạm gác văn chương để kiếm tiền, mẹ lại bắt Điền lấy vợ. Gia đình to rồi đến gia đình nhỏ,
anh kiệt sức, trở thành kẻ ăn bám thừa mứa và lại khao khát thoát li thực tại. Cái vòng quanh quẩn, tăm tối này
cứ lặp đi lặp lại khiến nhân vật sống trong vòng xoáy bất hạnh.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ trần thuật cũng là yếu tố góp phần làm nên thành công
cho nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ngôi kể thứ ba luôn tạo dựng được tính chân thật, khách
quan cho câu chuyện. Nhưng cũng có khi, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép
vào nhau, thể hiện trực tiếp cảm xúc của nhân vật và cho thấy thái độ của nhà văn: “Chao ôi! Trăng đẹp lắm!
Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề
ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết
bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Ðiền không thể nào mơ
mộng được”. Nam Cao thường sử dụng nhiều câu hỏi tựa như lời tự vấn: “Ðiền muốn tránh sự thực, nhưng
trốn tránh làm sao được?”, “Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình ảnh lả lơi ấy?”. Điểm nhìn trần thuật
cũng vì thế mà trở nên linh hoạt, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc.
Với “Giăng sáng”, Nam Cao không khắc họa nhân vật bằng ngoại hình. Những hành động bên ngoài của
nhân vật cũng ít khi được nhà văn đề cập đến. Nhân vật Điền hiện lên chủ yếu qua quá trình diễn biến tâm lí
phức tạp. Sự thay đổi trong nhận thức dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn, cách cảm nhận thế giới xung
quanh. Trong“Chí Phèo”, nhờ có bát cháo hành của Thị Nở mà Chí cảm thấy khung cảnh buổi sáng hôm sau
đẹp lạ thường. Ở đây, cảm nhận của Điền về ánh trăng trước và sau cũng có rất nhiều thay đổi.
Như vậy, với cách chọn lựa đối tượng nhân vật phù hợp, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ
trần thuật cùng điểm nhìn linh hoạt, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Điền – hình ảnh đại diện cho
tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng. Tác phẩm là truyện ngắn mang đậm tinh thần hiện thực phê
phán, tiêu biểu cho phong cách Nam Cao và xứng đáng trở thành tuyên ngôn nghệ thuật cao cả của nhà văn.

You might also like