Professional Documents
Culture Documents
Gương mặt chính là sự phản chiếu của suy nghĩ, của tâm hồn. Suy nghĩ cam chịu, tâm hồn cô
cảm đã khiến cho vẻ mặt của Mị mới buồn bã làm sao: "Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa."
Trên khuôn mặt lúc nào cũng chỉ biết cúi xuống ấy, làm sao thấy được một nét vui tươi? Trên
khuôn mặt không bộc lộ một chút cảm xúc, nghĩ suy ấy, làm sao nhận ra một tia hạnh phúc?
Chỉ có những người không thể vui, không thể hạnh phúc, mới có vẻ mặt đó. Đó là khuôn mặt
nói lên sự lạnh lẽo, vô cảm của đời sống tâm hồn. Khuôn mặt héo hắt của một tâm hồn lay
lắt.
Khi sống không còn cảm xúc, con người ta khác gì một cỗ máy lặp đi lặp lại theo quy trình?
Hoàn cảnh sống khắc nghiệt thực sự đã biến Mị thành cỗ máy. Nên không phải ngẫu nhiên
mà nhà văn lại miêu tả Mị với những suy nghĩ và hành động lặp đi lặp lại: "Lúc nào cũng chỉ
nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi
tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay,
đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay
trong cánh tay để tước thành sợi." Vậy là Mị chỉ nhớ về công việc, những công việc giống
nhau, chẳng có gì mới mẻ, chẳng có gì đáng để suy nghĩ, bận tâm thêm. Mị chẳng muốn nghĩ
thêm hay chẳng thể nghĩ thêm? Dù thế nào thì những suy nghĩ lặp lại ấy đã nói lên sự vô cảm
của đời sống tâm hồn. Người ta có thể nghèo về vật chất, nhưng nghèo đến cả suy nghĩ, cảm
xúc nữa thì khốn khổ biết bao!
Tuy nhiên, ẩn đằng sau những câu văn này không chỉ đơn thuần là miêu tả trạng thái hiện tại
của Mị. Sự xuất hiện của Mị là tiếng búa đinh óc, là lời tố cáo đanh thép của Tô Hoài về tội
ác của bọn chúa đất khiến con người ta lâm vào "cùng đường tuyệt lộ". Kim Lân từng quan
niệm "Nhà văn phải viết như chơi, viết bằng cả tấm lòng của mình, nhưng phải hướng vào cái
đẹp và cái thật. Khi nhà văn phát hiện ra cái gì không thật và không đẹp phải biết bất bình và
lên tiếng". Quả thật là vậy, có lẽ khi viết những dòng văn này, Tô Hoài cũng không khỏi xót
xa và căm phẫn thay cho nhân vật của mình. Từ ấy, nhà văn như muốn người đọc cùng buồn,
cùng thương cho Mị.
Chưa hết, bị bóc lột sức lao động thôi chưa đủ, Mị còn bị chà đạp về quyền sống khi Mị sống
"không bằng con trâu con ngựa" :
Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận "trâu ngựa". Con trâu con ngựa suốt tháng suốt
năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng
thế, từ ngày về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương "bẻ bắp",
"hái củi", "bung ngô", lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Con
ngựa đôi khi còn được "đứng gãi chân, nhai cỏ", còn Mị phải vùi vào làm việc "cả đêm, cả
ngày". Vậy có khác nào con ngựa, con trâu? Thậm chí còn không bằng con ngựa, con trâu.
Mị hiện lên như một công cụ lao động sống lặng lẽ, cam chịu bị bóc lột, đọa đày về thân xác.
Ko chỉ bị vắt kiệt sức lao động, quyền sống là con người cũng không có, Mị còn bị hủy diệt
về tinh thần:
Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị - một cô gái xinh đẹp, yêu đời mấy năm về
trước bỗng trở thành một người đàn bà lầm lũi, vô cảm. Lúc nào Mị cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi. "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị suốt đời
câm lặng, chịu đựng bị đè nén, bị áp bức như con rùa. Đằng sau sự so sánh này là niềm
thương cảm thấm thía của nhà văn về một kiếp người hóa thành kiếp vật.
Ở trong ngục tù ấy, "Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến
bao giờ chết thì thôi". Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây
Bắc, là sự tự do; còn bên trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm. Mị "trông ra đến bao giờ
chết thì thôi" dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với
mong muốn vượt ngục hay chăng? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà
con người ta muốn giải thoát lại không thể thoát giải, đành phải bất lực và vô vọng. Sự trông
ra và ngóng vọng của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí người đọc. Liệu rằng số
phận của Mị sẽ mãi như vậy, hay một lúc nào đó Mị sẽ trỗi dậy tháo cũi sổ lồng để giải thoát
cho bản thân mình? Đoạn trích khép lại mà mở ra bao nhiêu suy ngẫm và trăn trở trong lòng
người đọc..
Bằng việc sử dụng nghệ thuật trần thuật lôi cuốn, hấp dẫn kết hợp việc vận dụng nhuần
nhuyễn các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, cùng những chi tiết vô cùng đặc sắc.. Tô Hoài
đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị với nỗi thống khổ trong kiếp nô lệ nhà thống
Pá Tra: Bị bóc lột sức lao động, bị chà đạp về quyền sống, bị hủy diệt về tinh thần.
Qua những chi tiết chân thực về cuộc đời Mị, Tô Hoài đã tái hiện lại bức tranh cuộc sống đầy
khốn khổ của người dân miền núi Tây Bắc trước sự đầy đọa chà đạp của chế độ phong kiến
miền núi. Tô Hoài đã khéo léo khắc họa nhân vật Mị với sự thay đổi tâm lý đầy tinh tế đặc
sắc. Cùng việc sử dụng ngôn ngữ mộc mạc giàu chất thơ, miêu tả thiên nhiên cách sinh hoạt
và phong tục của người dân miền núi. Nhân vật Mị đã hiện lên thật chân thực xót xa thể hiện
tấm lòng đồng cảm thương xót của nhà văn đối với nhân vật.