Professional Documents
Culture Documents
Ý thức được cái hữu dũng vô mưu của mình, nói cách khác chính là cái sức mạnh của một con vật
trong con người Musashi, hắn buông xả lòng mình xin nhà sư cứu mạng. Ngay khi hắn không còn toan
tính để sống còn mà chấp nhận sợ những cái đáng sợ, thì nữ bồ tát Quán Thế Âm hóa thân Otsu hiện ra
cứu hắn. Và không chỉ có Otsu, ở ngoại ô thành Himeji, lúc đứng trên cầu Hanada để tìm Otsu, hắn
không ngờ bị Takuan kéo đi như thể bị thôi miên. Thật vậy, chỉ khi nào con người buông xả, chấp nhận
để cho tồn thể của mình trôi theo dòng nghiệp lực, thì khi đó hắn sẽ được cứu thoát. Trái lại, dù có cố
gằng vùng vẫy bơi ngược dòng, hắn cũng chẳng thể nào xoay chuyển được dòng nghiệp lực mà từ vô
lượng kiếp hắn đã vay trả trả vay. Ân oán phân minh, hận thù minh bạch, hắn buộc phải chấp nhận để
rồi từ đó vượt thoát biển tử sinh.
Theo Takuan về lâu đài Ikeda Terumasa, Takezo chấp nhận đổi tên thành Miyamoto Mushasi. Trong đó,
Miyamoto là nơi Takezo sinh ra và Mushasi chính là Takezo phiên âm ra tiếng Hán. Chi tiết đổi tên này
chỉ được diễn giảng vài dòng, nhưng nó có ý nghĩa vô cùng to lớn của một kiếp người. Đổi tên có nghĩa
là tái sinh thành một con người mới và từ đó con người vô minh sẽ bước đi trong chánh đạo. Từ trước
đến nay Takezo chỉ biết chém người khác thì việc đổi tên này chính là nhát kiếm đầu tiên mà hắn chém
vào mình.
Với người Á Đông, tên họ dù không nói hết tính cách của một người nhưng lại là một trong những yếu
tố quan trọng nhất để xác định tính cách của một cá nhân. Kim Định viết : “Người thái cổ coi việc đặt
tên là một điều tối quan trọng, đến nỗi tên của một người được coi là quyết định vận mạng của người
đó…” (Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên, nxb An Tiêm, 1970, tr. 343). Ông giải thích nguyên nhân là vì
mãnh lực ma thuật hoặc là vì họ thành tín bắt mỗi tiếng nói, mỗi danh từ phải diễn tả đúng cái bản chất
đích thực của nó. Họ còn có cả một phái triết học gọi là Danh gia. Câu chuyện cổ tích Cây thì là cho ta
thấy chỉ có Thượng Đế mới có đủ khả năng gọi tên sự vật. Cho nên ai gọi tên cái gì là có thể chinh
phục được cái đó. Còn Nguyễn Công Trứ thì nói : “Hễ có thân thì phải có danh, thân đã có ắt danh âu
phải có.” Có kẻ còn lưu danh hậu thế bằng cách đốt lâu đài rồi ra giữa chợ mà hô lên : Chính tao đã đốt
lâu đài.
Thêm vào đó, trong các tôn giáo, người ta cũng thay đổi danh tính khi có ai đó muốn gia nhập. Với
Kitô giáo, người ta đặt tên thánh như Giuse, Maria, Phêrô cho người gia nhập trong nghi thức lãnh bí
tích rửa tội. Còn với Phật giáo, tất cả những ai đi tu đều đổi họ mình thành họ Thích, thay tên mình
bằng một đặc tính nào đó mà hành giả muốn đạt đến như Chí Thiện, Nhất Hạnh... Như thế, thay tên đổi
họ là một bước ngoặc quan trọng trong hành trình trở về Quê hương Cố quận, nơi thiên thu vạn kiếp
trong ngần, nơi suối nguồn cơn mưa bát nhã, thấm vào tinh thể xương da, dẫn tàn hương khói lịch hành
từ bi.
Trong chuyện Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân đã khéo léo vẽ lên chi tiết Hầu vương tôn Bồ Đề tổ sư làm
thầy và được thầy đặt cho một cái tên mới là Tôn Hành Giả và pháp danh là Ngộ Không. Trong đó, Tôn
tiếng Hán là 搎 (chiết tự ra là : khuyển 犭, tử 子 và hệ 系) và nếu ta bỏ con thú đi, tức chữ Khuyển, còn
lại là Tử và Hệ thì Tử là con trai và Hệ là sợi tơ nhỏ (Theo từ điển Hán Việt Đào Duy Anh). Như thế
chữ Tôn nghĩa là thằng nhỏ, Tôn Hành Giả là người lên đường trở thành thằng nhỏ. (Xem thêm Lê Anh
Dũng, Giải Mã Truyện Tây Du, nxb Thanh Niên, 2006). Điều này rất phù hợp với đường lối của các
tôn giáo như trong Kitô giáo, Đức Giêsu nói : “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì
Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước
Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” (Mc 10, 14-15. Bản dịch Nhóm Các Giờ
Kinh Phụng Vụ, 1994). Với Lão giáo, Lão Tử nói : “Phục quy ư anh nhi.” (Trở về trẻ thơ), (Lão Tử,
Đạo Đức Kinh, dg Thu Giang Nguyễn Duy Cần, tr 148) hay còn gọi là Anh nhi chi tâm, xích tử chi
tâm. Còn với Phật giáo thì chính là Khổ ải vô biên, Hồi đầu thị ngạn (quay đầu là bờ). Như thế, tất cả
các tôn giáo đều muốn tín đồ luôn quay lại mình, nhớ mình, đừng chạy theo cảnh. Nếu nhớ mình là
tỉnh, thì chạy theo cảnh là mê. Con đường về bến giác không có gì khó, mà khó ở chỗ tại chúng ta quên
mình. Giờ đây tỉnh lại, biết quay về mình, đó là xoay về bờ giác.
Trong các tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung, chúng ta đều thấy một mô típ chung của sự trở về này.
Anh hùng của Kim Dung không phải là kẻ đánh đâu thắng đó, cứ hễ xuất chiêu là máu chảy đầu rơi;
mà là kẻ không cha không mẹ, không quê không quán, lại còn bị giang hồ thị phi đẩy vào đường cùng
hang sói, khiến cho kẻ anh hùng thất điên bát đảo, chẳng biết đâu thị phi phải trái, đâu là việc nên làm
hay không nên làm. Quách Tĩnh trong Anh Hùng Xạ Điêu cũng là kẻ mồ côi cha từ nhỏ, hai mẹ con
phải lang thang phiêu bạt ở thảo nguyên của Thành Cát Tư Hãn. Dương Quá thì bị mất cha ngay từ khi
còn trong bụng của Mục Niệm Từ và khi chào đời thì người mẹ cũng thành công dân của thế giới bên
kia. Đã thế, cha của Dương Quá lại là một kẻ tham phú phụ bần đến nỗi làm những việc trời không
dung đất không tha.
Đến Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Cô Gái Đồ Long) thì ta thấy rõ cái đặc tính phản bổn hoàn nguyên, quy căn
viết tĩnh, hồi đầu thị ngạn của Kim Dung. Mở đầu là cảnh một Minh Giáo chia năm xẻ bảy, mạnh ai
nấy sống mạnh ai nấy làm sau cái chết của Giáo Chủ. Nhưng đến cuối bộ phim, tác giả đã tái tạo xây
dựng lại toàn bộ bộ sậu của Minh giáo gồm : Giáo chủ, Quang Minh sứ giả (tả và hữu), Tứ Đại Pháp
Vương, Ngũ tảng nhân, Ngũ Hành Kỳ chủ, Giáo chúng.
Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ cũng là kẻ mồ côi được vợ chồng Nhạc Bất Quần đem về
nuôi dưỡng.
Rõ ràng nhất trong tất cả tác phẩm của Kim Dung về sự trở về tìm kiếm Quê hương cố quận của mình
chính là Thiên Long Bát bộ. Với ba nhân vật chính là Tiêu Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc thì chẳng ai có
được một tuổi thơ êm đềm. Bước vào giang hồ gió tanh mưa máu, thị phi lẫn lộn, Tiêu Phong là người
thiệt thòi nhất vì mang dòng máu Liêu lại lớn khôn ở Hán mà chính chàng cũng không biết. Còn Hư
Trúc lại là kết cả một mối tình thầm kín giữa phương trượng Thiếu Lâm danh trấn giang hồ và Diệp
Nhị Nương, một trong Tứ đại ác nhân. Tưởng chỉ có mỗi Đoàn Dự là may phước có cha có mẹ thì đến
cuối chuyện, chàng mới biết Đoàn Chính Thuần không phải là cha ruột mà chính Đoàn Diên Khánh,
lão đại ma đầu ác nhân mới là cha ruột của chàng.
Trở lại việc đổi tên của Takezo, có lẽ tác giả cũng muốn cho độc giả thấy rằng việc Takezo đổi tên
thành Miyamoto Musashi cũng không đi ra ngoài ý tưởng hồi đầu thị ngạn, phản bổn hoàn nguyên, quy
căn viết tĩnh, anh nhi chi tâm của đạo học và huyền nghĩa đi tìm nguồn cội của các anh hùng trong
truyện Kim Dung. Miyamoto chính là quê hương của hắn, còn Musashi mặc dù không có nghĩa chiết tự
như Tôn Hành Giả nhưng nếu cưỡng từ đoạt lý mà đọc theo âm Hán Việt thì sẽ thành ra là Vũ Tàng.
‘Tàng’ ở đây lại có nghĩa là thoái tàng ư mật, trở về cái tâm tĩnh lặng rỗng không của mình. Hơn nữa,
hắn còn được đưa vào lâu đài bỏ hoang của dòng họ hắn để tồn tâm dưỡng tánh. Trở về nhà còn hàm
nghĩa là trở về cái bổn lai diện mục, cái anh nhi chi tâm của mình để từ đó đủ sức vươn lên khỏi bóng
tối vô minh bấy lâu che phủ khắp máu xương da thịt.
Như thế, chỉ một chi tiết nhỏ qua việc đặt tên,Yoshikawa đã nói lên được cả truyền thống đạo học của
Đông phương. Cái truyền thống đó đã làm cho nền đạo học của Đông Phương sinh ra những vị thánh
tăng siêu thoát chói sáng khắp cả sáu cõi lục địa. Osho cho rằng : Tôn giáo ở Đông phương là một ông
già, còn ở Tây phương tôn giáo chỉ là đứa trẻ con. Từ đây, Musashi phải chấp nhận một cuộc tái sinh,
lòng mẹ sinh thể xác hắn, thạch thất này sinh ra tâm hồn hắn. Takuan nói với hắn : “Ngươi hãy coi căn
thạch thất này như bụng mẹ và hãy chuẩn bị tái sinh. Nếu ngươi coi nó bằng mắt thì đây chỉ là một căn
phòng tầm thường, trống rỗng, tối tăm ; nhưng nếu ngươi coi nó bằng trí óc rồi để tâm phán đoán, suy
xét thì phòng này chính là con thuyền đại giác đưa ngươi tới ánh chân quang.”
4. Hành trình trở về chính mình
Takezo bắt đầu cuộc hành trình đi tìm cái mình đã biết, tức cái bổn lai diện mục thoái tàng ư mật mà từ
vô lượng kiếp trôi lăn trong biển tử sinh, hắn không nhận chân được gốc gác, suối nguồn của nó. Trên
con đường này, những kẻ yếu đuối cả về thể xác lẫn tinh thần khó có thể về đến đích và bắt buộc hành
giả phải độc hành, không bè không bạn, không thầy không sư, không kinh không sách. Con đường đó
là con đường vô lối, vô phương, vô hướng. Cái mà muốn đạt được lại là cái không tên không tuổi,
không có số nhà, tên phường, thành phố, quốc gia. Cái ấy nó không ở dưới biển sâu, không ở trên mặt
đất và cũng chẳng ở trên trời cao. Nói ở trong lòng mình cũng là cách nói cưỡng bức bạo hành. Bắt cái
vô hình phải tượng hình, bắt cái vô thanh phải tượng thanh chỉ khiến cho cái vô hình vô thanh điêu linh
hoang phế. Càng lên kế hoạch chi tiết như tấm bản đồ, hành giả càng đi xa cái bất khả tư nghì.
Chính vì thế mà Musashi không chịu đầu quân cho Ikeda Terumasa, nhưng chàng quyết định chọn con
đường đao kiếm để về nẻo giác. Con đường này đòi hỏi phải cô đơn cho đến tận cùng, phải tỉnh thức
trong từng sát na niệm tưởng, bởi nếu không tỉnh thức, hành giả có thể bỏ mạng và đánh mất cơ may
giác ngộ trong kiếp người hiếm hoi này. Cuộc sống của kiếm sĩ là một kiếp sống giang hồ phiêu bạt,
ban ngày thì đầu đội trời chân đạp đất, ban đêm thì đất làm chiếu và bầu trời đầy sao làm mùng. Suốt
đời suốt kiếp chỉ có cây kiếm làm bạn, đến nỗi ăn cũng kiếm, ngủ cũng kiếm, đái cũng kiếm, ỉa cũng
kiếm và chết cũng kiếm.
Thế nhưng, đã trở về rồi sao còn lại phải ra đi? Quay đầu là bờ rồi, bến giác đã nằm gọn trong âm ba
tinh thể máu xương phiêu bồng, còn gắng gượng ra đi làm chi răng rứa, rửa tay gác kiếm, xuất thế tiêu
diêu, thưởng hoa ngoại cảnh có phải hơn không? Không thể thế được, con đường tâm linh là con đường
vô phương vô hướng vô giới hạn, có khi phải trải qua vô lượng kiếp, hành giả mới có thể chứng đắc
được cái Bát Nhã, cái Tính Không. Ngay như Đức Phật, vị tôn sư của sáu cõi và của muôn loài, Ngài
cũng còn phải trải qua nhiều tìm kiếm mới đạt được chánh đẳng chánh giác, huống hồ phàm nhân
chúng ta.
Hơn thế nữa, sự trở về chỉ thực sự là trở về khi trở về cả sự trở về, cho đến khi nào không còn một sát
na niệm tưởng của sự trở về thì khi đó sự trở về mới mở phơi chân lý. Chính vì vậy, Musashi phải tiếp
tục ra đi, ra đi cho đến khi nào ra đi luôn cả sự ra đi, thì lúc ấy sự ra đi chính là sự trở về và sự trở về
hóa thân thành sự ra đi. Nhà thiền nói : trước khi học thiền thì thấy sông là sông, núi là núi ; đến khi
mới học thiền thì thấy sông không còn là sông, núi không còn là núi ; và khi giác ngộ thì sông lại chỉ là
sông và núi lại chỉ là núi. Đó cũng chính là cái bình thường tâm Nam Tuyền Phổ Nguyện đáp lại câu
hỏi của Triệu Châu : Thế nào là đạo (như hà thị đạo). Nói cho cùng, trở về và ra đi cũng chỉ là lông rùa
sừng thỏ, là mộng huyễn bào ảnh, là mây trắng lang thang, là chuồn chuồn gãy cánh, là trùng sinh nhập
diệu, là hoàng hôn bên nớ và là triêu dương bên ni. Ấy chính là sự ra đi vào hố thẳm, sự ra đi bất khả tư
nghì, ra đi sự ra đi trong cả sự ra đi…
Kẻ lữ thứ từ đây đã chọn cho mình con đường Kiếm đạo để ra đi vượt qua chiếc cầu sinh tử. Chiếc cầu
ấy chỉ được làm bằng một sợi tóc bắc ngang qua không biết cơ man nào là núi cao, biển rộng, sông sâu,
vực thẳm, sa mạc, cô đơn, lạnh lẽo thấm vào tận cùng máu huyết luân lưu dịch chuyển bất tận. Muốn đi
trên chiếc cầu đó, hành giả còn mỗi cách nhảy bằng một chân, biểu tượng của Bất Nhị, tựa như chiếc
hài độc nhất của tổ Bồ Đề Đạt Ma hành trình về phía Hy Mã Lạp Sơn sau khi được chôn cất ở Trung
Hoa. Như thế, chỉ cần một sát na vọng động, cành hư vô sẽ mọc đầy trái đắng, kẻ đăng trình hóa mộ địa
điêu linh, ảo tưởng mình nhập lưu dòng Bất Nhị, bão vô minh phỉ nhổ vào máu xương, in hằn vào thăm
thẳm vực linh hồn, nọc độc của những con rắn lục là tâm ý thức nhị nguyên sẽ tiêm chích vào tinh thể
làm chai lỳ, bạc nhược, ung thối tinh thần tinh tấn giải thoát của hành giả. Và từ khô cằn sỏi đá, Chân
Như không còn biết nương theo khe nứt mà nở giữa dòng đời đầy phiền não một Đóa Vô Ưu.
Chính vì thế mà Takuan đã cảnh báo trước lúc hai người chia tay : “Miyamoto Musashi ! Đường con đi
không phải là không có trở ngại. Phải cẩn thận mới được!” Tuy nhiên, Musashi đã tự nhủ lòng mình :
“Ta sẽ tuân theo kỷ luật, coi thanh kiếm này như chính hồn ta, tu tỉnh thành người khôn ngoan và
lương thiện. Takuan theo thiền đạo, còn ta theo kiếm đạo, chưa chắc ai đã hơn ai. Ta còn trẻ, đâu đã
lấy gì làm trễ !”
Trong khuôn khổ bài này, người viết chỉ đề cập đến hai vực thẳm mà Musashi phải vượt qua. Cái thứ
nhất là Đàn bà, sự trói buộc hay giải thoát và cái thứ hai là Kiếm thiền nhất như.
Sau ba năm sống cách biệt với cõi trần, Musashi cảm thấy rất ngỡ ngàng trước cuộc sống thăng trầm
biến dịch. Đang còn phân vân chưa biết phải làm gì trước trên con đường đao kiếm giang hồ thì Otsu
hiện ra lộng lẫy như một vị bồ tát. Nàng đã nói là chờ đợi chàng ở cây cầu Hanada này cho đến hết kiếp
mới thôi và nàng đã giữ lời. Suốt ba năm qua, nàng đã tìm công việc ở gần đây để ngày nào cũng
ngóng đợi chàng. Giờ gặp mặt nàng mừng xiết bao. Nhưng niềm vui hội chưa trọn thì Musashi đã từ
chối không cho nàng cúc cung phụng sự chàng. Điều ấy khiến Otsu tan nát con tim. Có lẽ đây là một
trong những chướng ngại khó khăn nhất trên con đường giải thoát. Hơn nữa, Otsu lại là một đóa hoa tài
sắc vẹn toàn, công dung ngôn hạnh, cõi lòng từ bi hỉ xả của nàng có thể dung nhiếp khắp cả càn khôn
đại địa. Sở hữu được nàng là ước mơ của không biết bao nhiêu đàn ông trên thế gian này. Thế mà
Musashi vẫn một mực từ chối không cho nàng theo chỉ vì lý do gian lao khổ cực dày đây mai đó trên
con đường của chàng.
Lý giải cho quyết định này không phải là việc dễ dàng gì khi mà Freud đã cho rằng con người đều bị
chi phối bởi dục tính. Nhưng tựu chung, chúng ta cũng có thể hiểu được rằng khi một ai đó đam mê bất
tận vào một mục đích nào đó, tự nhiên nhu cầu giới tính của họ không còn cần tới. Hay nói cách khác
là năng lượng tiêu hao cho nhu cầu tính dục giờ được hoán chuyển vào mục đích nghệ thuật hay tâm
linh. Truyền thuyết Ấn Độ kể lại rằng có một nhà huyền môn đã lấy vợ, nhưng suốt 20 năm trời, ông ta
hoàn toàn không ý thức được sự hiện diện của vợ mình. Nhưng trong suốt thời gian đó, người vợ vẫn
cúc cung tận tụy, sớm tối hầu hạ cho chồng từng miếng ăn từng giấc ngủ. Đến khi ông ta viết xong
quyển sách mà bao nhiêu năm ông thai nghén, ông mới nhận ra có người trong nhà mình. Ông ta nói :
“Cô là ai?” Bà trả lời : “Em là vợ anh mà bấy lâu nay anh không biết sao?” “Ồ! thật thế sao! Bao nhiêu
năm qua sao em không nói?”
Về số phận của phụ nữ, có thể nói rằng từ khi loài người có tôn giáo tổ chức, số phận của họ trở nên
mong manh như sợi tóc. Osho nói : “Tất cả mọi thứ tôn giáo đều e sợ đàn bà vì tất cả tôn giáo đều sợ
tình dục.” (Osho, Đàn Bà Tình Yêu Và Tự Do, tr 81). Một tôn giáo tôn thờ Thiên Chúa vô cùng yêu
thương nhân loại như Kitô giáo thì lại cho đàn bà là kẻ không có linh hồn chỉ vì đàn bà đã nghe lời xúi
dục của Satan trong vườn Địa đàng. Xa hơn nữa, Thiên Chúa của Kitô giáo là giống đực, nên Ngài
cũng có đủ đầy thành kiến của một người đàn ông. Có lẽ vì thế mà Ngài đã tạo dựng người đàn ông
trước rồi mới lấy cái xương sườn của hắn mà tạo ra đàn bà. Óc kỳ thị phụ nữ đó ám ảnh nhiều đến nỗi
ngay trong quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi (Trinité), không có ngôi nào là giống cái, tất cả ba ngôi
đều là đàn ông, ăn nằm với nhau rồi sinh ra nhau. Chúa Cha yêu Chúa con đến nỗi nhiệm xuất ra Chúa
Thánh Thần. Nên Chúa Thánh Thần là biểu tượng của tình yêu. Đó là cách diễn tả về Ba Ngôi của Kitô
giáo. Osho nói : Việc đó giống y hệt như một câu lạc bộ đồng tính.
Trở về trời đông, phụ nữ ở Trung Hoa cũng không thoát khỏi số phận. Ảnh hưởng của Hán Nho đã
khiến phụ nữ trở thành một trong những món hàng có thể mang đấu giá để gả bán. Chế độ đa thê đã
biến phụ nữ thành một cái máy đẻ, một món đồ thoả mãn dục tính cho đàn ông. Vì thế mà ngày xưa,
không có luật nào cấm người chồng giết vợ. Tục cưới vợ cho Hà Bá để ngài khỏi dâng nước sông
Chương Hà lên gây lụt lội cho thấy phụ nữ chỉ là một con thú vật cho bọn đàn ông lợi dụng từ bao đời
bao kiếp. Ôi khốn thay cho thân phận nhi nữ thường tình, đầu thai lỡ kiếp tóc dài đa đoan.
Tín đồ đạo Jain thì tin rằng không có người nào được giải thoát lại mang thân xác đàn bà, chỉ có đàn
ông mới được vào cảnh giới tối cao (moksha). Phụ nữ nào muốn tu tập giải thoát, thì buộc phải tái sinh
thành đàn ông. Còn Kinh Côran thì cho phép nam tín đồ của mình lấy 4 vợ, nhưng ngược lại đàn bà thì
không được làm thế. Họ không được vào đền thờ Hồi giáo mà phải cầu kinh ở bên ngoài. Ngay như
Đức Phật, lúc đầu Ngài không nhận nữ giới vào tăng đoàn. Nhưng vì tôn giả Anan cầu khẩn mãi, Đức
Phật mới cho họ thành lập ni chúng.
Trở lại chi tiết Mushashi từ chối lời van xin của Otsu, chúng ta thử xem Mushashi có phải là người
‘lệnh ông át cồng bà’, là kẻ trọng nam khinh nữ theo chủ nghĩa bái vật Hà vu hay các tôn giáo kể trên
không?
Trước hết, ta thấy chiến tích suốt thời thơ ấu Mushashi là quậy phá, lì lợm, đánh nhau, đấu kiếm và đã
đôi ba lần thượng đài hạ gục đấu sĩ Samurai. Mãi đến khi thất trận và lẩn trốn quan binh truy lùng,
Mushashi mới được tiếp xúc với đàn bà. Lần đó góa phụ Oko lả lơi ham muốn tư tình với chàng, nhưng
bị chàng cự tuyệt dữ dội. Chàng sợ hãi đến nỗi tim đập loạn xạ. Yoshikawa đã mô tả như sau : “Hai
hàm răng đánh vào nhau lập cập, chân mềm như bún, Takezo kinh sợ quá chừng ! Chưa bao giờ hắn
gặp một địch thủ ghê gớm đến thế ! Cả lúc nhìn đoàn người ngựa chạy rầm rầm trên bãi hoang còn
tanh mùi máu ở Sekigahara, tim hắn cũng không đập loạn đến thế !”
Lần thứ hai, Mushashi phải đối diện với nữ bồ tát Otsu, lần này không phải là mùi hương nồng ấm tỏa
ra từ mái tóc hay bàn tay vuốt ve âu yếm, nhưng lại là lời cầu xin chân tình tha thiết của một thiếu nữ
vừa là một trang tuyệt sắc mang một tâm hồn trinh khiết nguyên sơ, vừa là đại ân nhân cứu mạng mình
khỏi sự trừng phạt của dân làng. Lời cầu xin đó oái ăm thay không phải là lời xin đặc ân cho riêng
nàng, mà lại là lời nguyện cầu được mang đặc ân đến hầu hạ chàng dù phải trải qua trăm ngàn đắng cay
gian khổ. Người xưa đã từng nói : Anh hùng mấy ai qua được ải mỹ nhân. Ấy là chưa kể mỹ nhân ấy đã
tự nguyện hiến dâng trọn vẹn tinh thể máu xương cho mình. Đúng là phúc bất trùng lai họa vô đơn chí.
Gặp cảnh này, dù đã tu luyện ba năm trời, nhưng chàng không biết xử trí ra sao.
Thật vậy, nếu bỏ đi thì quả thật chàng là một kẻ nhẫn tâm, bởi Otsu khi nhỏ đã chịu cảnh côi cút, không
cha không mẹ, lớn lên, vị hôn phu bỏ đi, bây giờ lại gặp cảnh này, nàng uất hận nấc lên tức tưởi; nhưng
nếu mang theo Otsu thì chẳng khác gì thằng bé bám váy mẹ. Mushashi chân thành thổ lộ : “Ta vừa trở
nên một người khác. Đã ba năm nay bị giam trong thạch thất tối tăm, chỉ đọc sách, ta đã khóc cho thân
thế, đã hối hận biết bao nhiêu nhưng cũng đã tìm thấy ánh sáng. Ta mang họ mới: Miyamoto, tên là
Musashi mà chưa đạt nên phải cố. Ta muốn dành tất cả thì giờ trong đời để tập nên người toàn thiện,
không màng lạc thú gì khác. Nếu nàng theo ta, nàng sẽ không bao giờ có hạnh phúc, chỉ có thử thách
và khổ đau. Rồi cùng với thời gian, tuổi tác, khổ đau càng thêm chồng chất ...”
Thế nhưng Otsu vẫn một mực xin theo. Tấm lòng của nương tử Otsu đằm thắm, dịu dàng và chung
thủy hết mực giữa vòng ma nghiệt quỷ khốc thần sầu của tồn hoạt bể dâu khiến cho chàng chỉ còn biết
câm lặng tan chảy con tim dũng mãnh theo dòng nước lơ thơ dưới chân cầu Hanada. Yoshikawa đã mô
tả tâm trạng của Mushashi lúc đó như sau : “Bây giờ là lúc hắn có thể bỏ đi dễ dàng, nhưng sao chân
hắn vẫn dính chặt xuống đất, lưu luyến như bị đôi má lúm đồng tiền và giọng nói van lơn giữ lại. Con
người mới duyên dáng và dễ mến làm sao !” Chẳng còn cách nào khác, chàng phải lưu lại tuyệt bút
trên thành cầu và câm lặng ra đi : “Tha lỗi cho ta, tha lỗi cho ta !”
Sau lần chia tay đó, Otsu vẫn một buồng riêng riêng những sụt sùi, hoa đời có nát có vùi bể dâu, má
hồng hoang lạnh đêm thâu, nguyện mong trọn kiếp bạc đầu thủy chung. Chẳng hiểu Yoshikawa khéo
bày hay Con Tạo trớ trêu, định mệnh ngang trái bày đặt mắc giăng, khiến cho nương tử má hồng, nghìn
dặm quan san mỏi ngóng trông, tương phùng hội ngộ trong hư huyễn, hoang vu thị hiện khắp càn khôn.
Cứ mỗi lần tưởng gặp được chàng, là mỗi lần ngàn trùng cách xa, để rồi mãi đến 10 năm sau, trước trận
đấu sinh tử sống còn với Kojiro, nàng mới được hạnh ngộ với chàng. Phút hạnh ngộ triền miên bất
tuyệt, cọ mài bên bờ mép tinh anh, buổi sơ nguyên quy hồi tuyết nguyệt, là biền biệt mai này xa xăm.
Lần thứ ba, Mushashi phải đối diện với một nghịch cảnh mà người đương thời, kể cả quan quyền lẫn
thứ dân, đều mơ được một lần, lần khân bên nương tử, sắc tài ngút ngàn thu. Đó chính là cuộc hội ngộ
tại tư dinh của danh kỹ đất thần kinh Yoshino. Việc được nàng mời riêng về tư thất là một việc xưa nay
chưa từng có cho dù đó là công hầu khanh tướng, võng lọng cao sang. Và việc ngỡ ngàng hơn nữa khi
chính nàng nằng nặc đòi giữ một mình Mushashi ở lại. Ngay cả hai người danh gia vọng tộc là Haiya
Shoyu và Mitsuhiro cũng cười ghen tị với chàng : “Musashi ! Ngươi là người có diễm phúc nhất Kyoto
này đấy !”
Cái đêm chỉ có hai người đó, ngoài trời tuyết lạnh đông cứng, vạn vật rét cóng tê chân, thì trong nhà,
mặc dầu ngọn lửa cất cao, chàng vẫn ngồi yên như khúc gỗ, bất kể những lời mời mọc lại gần lò sưởi
ấm của nàng Yoshino. Cái đêm đó cũng là đêm chàng vừa mới hạ Denshichiro, một đại cao thủ của
phái Yoshioka và tạo nên một mối thù sinh tử truyền kiếp với toàn bộ đồ chúng của môn phái Yoshioka.
Vì thế, Mushashi căng thẳng tột cùng, đến nỗi từng mảng tuyết trên mái nhà rơi xuống làm chàng cứ
ngỡ là bước chân của kẻ định đang tập kích tấn công mình. “Mỗi lần có tiếng động như thế, thần kinh
hắn lại căng thẳng, các chân tóc dựng đứng.”
Thấy thái độ căng thẳng quá mức của chàng, Yoshino mượn cái tâm cây đàn là miếng gỗ cong và hai
đầu để lơi cho rung động tự do để giúp chàng ý thức được thực tế mà chàng đang phải đối diện. Trong
những lúc nguy hiểm luôn rình rập quanh mình, không phải lúc nào cũng chăm chú căng thẳng vào đối
phương mới có thể thoát chết. Nhưng cái tâm nên được thư giãn sau mỗi lần tập trung quá độ. Nàng nói
: “Tâm trí con người cũng thế, phải mềm dẻo thích nghi. Sau mỗi khi căng thẳng, hãy để cho lòng thoải
mái. Cứng quá thì gãy.” Lời nói của Yoshino tựa như câu nói của Hoài Nhượng khai ngộ cho Mã Tổ.
Câu nói ấy chính là : “Ngồi thiền làm sao thành phật được?” Cũng thế, để giết được địch thủ, căng
thẳng quá mức không phải là tuyệt chiêu, thậm chí nó còn phản tác dụng. Cương không thể thiếu nhu,
nhu rất cần đến cương, đó là nguyên lý tối hậu, nhưng nếu không biết khôn ngoan áp dụng, ta sẽ chẳng
bao giờ đạt được cực ý của cuộc đời.
Tóm lại, con đường kiếm đạo còn dài, chàng tự nhủ phải khổ hạnh, phải dẹp bỏ mọi thứ, nhất là phụ nữ
hóa thân thành Otsu thì trong giờ khắc sinh tử này, nhờ một người phụ nữ mà chàng đã học tập và áp
dụng được nguyên lý Âm Dương. Cái nguyên lý đó bàng bạc khắp cả vũ trụ càn khôn, nhưng không
phải ai cũng có đủ sáng suốt để thực hành. Giây đàn căng quá sẽ đứt, tinh thần căng quá sẽ khủng
hoảng, bất cứ cái gì cũng phải có hai nhịp đi về, đầu cuối, sáng tối, trời đất… Nếu không biết kết hợp
nhuần nhuyễn, con người sẽ suốt đời ngụp lặn trong bóng tối vô minh. Nhờ bài học này mà tấm lòng
Musashi không còn khô khan lạnh lẽo vị kỷ như hồi còn ở cầu Hanada nữa, tâm chàng giờ đây mẫn
cảm hơn, nhiệt tình hơn và ham muốn hơn, và trong nhiều đêm dài trằn trọc, cô đơn ở thạch thất cũng
như ở những ven đồi hoang vắng, Miyamoto Musashi đã phải nén lòng mình, chôn vùi mối tình nồng
nhiệt sau bộ mặt lạnh lùng khô khan.
Khi gặp được nàng, chứng kiến tấm lòng chung thủy của nàng, sẵn sàng chết nếu chàng có mệnh hệ gì
làm cho chàng hổ thẹn với lòng. Lòng tự tin và quyết tâm ấy khiến Miyamoto Musashi ngạc nhiên và
thẹn với mình, vì đã lâu nay, sống chết làm hắn phân vân và hoang mang lắm. Bao nhiêu suy tư vẫn
chưa mang lại cho hắn một quyết định dứt khoát nào cả. Trên đường hành đạo, trong nhiều trường hợp,
hắn không phân định được lúc nào phải chết và lúc nào đáng chết. Trong khi ấy, một thiếu nữ yếu đuối
như Otsu, không được huấn luyện và không có công phu hàm dưỡng gì đặc biệt, lại có thể sẵn sàng
chấp nhận cái chết để được toại ý, bình thản và không do dự. Musashi không ngờ người thiếu nữ yếu
đuối kia có sức mạnh tinh thần đáng sợ đến thế ! Một bài học nữa khiến chàng chỉ còn biết cúi đầu hổ
thẹn với lương tâm. Người mà chàng cho rằng đi theo chàng chỉ làm rộn chàng thì lại là người dạy cho
chàng biết lúc nào đáng chết và lúc nào cần sống.
Từ sự chống đối, sợ hãi, ghê tởm, trốn tránh phụ nữ, Mushashi dần chuyển sang tình cảm chấp nhận,
yêu thương, nhớ nhung, tôn trọng và cuối cùng hôn phối với Otsu biểu tượng của lòng từ bi hỷ xả sẵn
sàng chung thủy hy sinh cả mạng sống mình cho người mình yêu. Chấp nhận hôn phối với một người
nữ là chấp nhận trở thành đứa trẻ bú mớm trong vòng tay mẹ. Chấp nhận hôn phối với người nữ còn có
nghĩa là chấp nhận từ bỏ cái bản ngã của mình biến thành đứa con ngủ yên trong vòng tay âu yếm của
mẫu thân mình. Bởi xét cho cùng, đàn bà là âm so với đàn ông là dương; đất là âm so với trời là dương.
Nên đất là biểu tượng của người đàn bà, và chính vì thế mà người đông phương gọi đất là Mẹ Đất, hay
muốn diễn tả cái chết thì họ nói ‘trở về lòng đất mẹ.’ Cho nên, trở về lòng mẹ hay trở thành trẻ thơ,
thành cái anh nhi chi tâm chính là yêu sách tuyệt đối của mỗi con người.
Như thế, Mushashi không xem thường, cũng không quá xem trọng phụ nữ. Trong suốt cuộc lữ miên
trường, Mushashi cũng đã có lần ngửi thấy mùi hương từ mái tóc của người thiếu nữ phảng phất lẫn với
mùi da thịt nồng ấm khi hai người nằm cách nhau tấm vách mỏng. Và nhất là lần ở dưới chân ngọn
thác Phu Phụ hùng vĩ trên đường đi Edo, lúc đó chỉ có hai người, chàng cảm thấy nhộn nhạo khác
thường, đến khi Otsu ôm lấy cổ, chàng không còn tự chủ trước mùi hương nồng nàn của thiếu nữ và đã
đè Otsu xuống cỏ. Nhưng Otsu chống cự vì không muốn Musashi bị ràng buộc vào những việc khác
ngoài con đường kiếm đạo. Đây chính là tâm trạng của chàng : “Miyamoto Musashi phục xuống cỏ.
Hắn tự nhủ chưa làm điều gì xâm phạm nhưng sao lương tâm hắn vẫn không an ổn. Mùi đất ẩm xông
lên, Miyamoto Musashi dần dần lấy lại được bình tĩnh. Khi đứng dậy, mắt hắn không còn ngọn lửa
đam mê nữa mà nguội lạnh như tiền. Dường như hắn vừa nghe tiếng gọi, tiếng gọi của sông rộng núi
cao, của lý tưởng hắn đã nguyện phục vụ.”
Trước kẻ thù vô hình chính là dục vọng của mình, lưỡi gươm của chàng trở nên bất lực. Nó không hình
không tướng, không thân không thể, làm sao mà mổ ruột moi gan nó được. Ngọn lửa dục vọng ấy
chính là nội lực giúp chàng thi triển những tuyệt chiêu của bí kiếm, nhưng nếu không được chế ngự và
điều phục đúng cách, nó sẽ biến thành sự hung bạo, cuồng dâm, hiếu sát của loài thú. Cho nên Lão Tử
mới nói : “Thánh nhân thì biến tinh thành khí, còn tiểu nhân thì biến khí thành tinh.” Theo phương
pháp đó mà Đạo Cao Đài mới có pháp môn tu mật là Tinh – Khí – Thần, tức là biến tinh thành khí và
biến khí thành thần. Trong tác phẩm Minh triết trong đời sống, Darshani Deane nói : “Sức mạnh của
tình dục chứa đựng một mãnh lực huyền bí mà rất ít người biết đến. Khi sức mạnh của nó không phát
lộ ra ngoài thì nó biến đổi thành tinh chất Ojas, một yếu tố cần thiết để đạt đến tâm thức đại đồng.
Chính Ojas sinh ra khí lực, sức mạnh và sự hấp dẫn, không những để đạt đến các trạng thái cao
thượng của con người mà còn để thành công trong mọi lãnh vực, đặc biệt nhất là lãnh vực sáng tạo.”
(Darshani Deane, Minh Triết Trong Đời Sống, dg Nguyên Phong, NXB Văn Nghệ, 1992, tr 94).
Để vượt qua, trút bỏ được những nhu cầu vật chất, tiền bạc, danh vọng, vợ đẹp con ngoan, nếp nhà đầm
ấm… Mushashi cũng phải chiến đấu hết mình. Con đường nếu chỉ dừng lại ở đây, hành giả sẽ trở thành
là gỗ đá vô tri. Đoạn cuối, đỉnh dốc cheo leo của con đường cuối cùng này chính là giai đoạn khó khăn
nhất, khốc liệt nhất của mỗi hành giả. Đó chính là làm sao để cho Kiếm đạo với Thiền đạo trở nên một
tổng thể hòa quyện vào tất cả máu xương tinh thể, làn da thớ thịt, rồi từ đó phun trào ra tất cả càn khôn
đại địa làm chấn động hư không tựa nhưng con sư tử ngàn năm cất tiếng hống một lần. Làm sao để sử
kiếm như cầm đôi đũa gắp thức ăn chính cùng đích của mọi kẻ học kiếm đạo. Ta thử xem, Mushashi
hành động như thế nào để đạt được cùng đích đó.
Sau ba năm ẩn cư trong lâu đài đọc sách thánh hiền, cộng thêm một năm luyện kiếm giữa núi rừng
hoang vu, Mushashi bắt đầu lên đường hành hiệp giang hồ. Nếu muốn là một Samurai thực thụ thì hắn
buộc phải lang thang trên bước đường giang hồ rèn luyện kiếm thuật và tinh thần bất thối chuyển trước
sự sống còn của kiếp người. Đó là một quy luật bất thành văn. Chàng lang thang khắp nơi khắp chốn từ
thành thị đến nông thôn, từ rừng sâu nước độc núi non hiểm trở đến đô thành lộng lẫy xa hoa. Tự ép
mình gian khổ truân chuyên, bắt nhục thân đương đầu nguy hiểm, cho máu nóng chảy tràn tứ đại, lấy
da xương cọ mài kiếm báu, mắt trừng quang chói lóa trời đêm. Ngày chàng đi, đi không có chủ định,
chân đưa đến đâu thì ý hiện đến đấy. Đêm chàng ngủ bờ ngủ bụi, may mắn thì ngủ nhờ trước một cổng
chùa nào đó hay đặt mình trong một căn miếu hoang. Không may thì lấy đất làm chiếu, lấy bầu trời
trăng sao làm màn, lúc nào cũng ôm chặt thanh kiếm bên mình như tân lang ôm tân nương đêm động
phòng hoa chúc. Và để trau dồi võ nghệ, chàng cũng như bao kẻ giang hồ khác, một khi đã nghe tin ở
đâu có kiếm khách tuyệt luân là tìm đến tỉ thí. Đây chính là nhân dạng của chàng : “Trông dáng điệu và
y phục, đúng là loại kiếm sĩ lang bạt không nơi nương tựa, thấy nhan nhản ở khắp thôn quê cũng như
thành thị thời ấy. Miyamoto Musashi trông còn có vẻ tệ hơn: hình như hắn không lưu tâm gì đến
chuyện phục sức bề ngoài, chỉ chú ý vào việc luyện võ. Mắt hắn sắc như dao, dáng đi ngang tàng, nên
tuy quần áo rách rưới, tên gia nhân cũng giật mình lui bước.”
Một trong những võ đường nổi tiếng thời đó là phái Yoshioka, nơi mà chàng thăm viếng đầu tiên để thử
xem trình độ võ học của mình như thế nào. Vì tự học kiếm trong nhiều năm, không môn phái, không sư
thầy, nhất là suốt một năm ẩn cư trong rừng để luyện kiếm với cây cỏ thú rừng, nên chàng quyết tâm
thử xem, những chiêu kiếm do mình sáng tạo, nó uy lực đến cỡ nào. Không ngờ, chàng hạ được cả một
đám lâu la nhất tề xông vào để hạ gục chàng. Tác giả đã tả quang cảnh đó như sau : “Mọi người sửng
sốt, hét lên phẫn nộ, cùng rút kiếm ra khỏi vỏ. Tình hình không còn là một cuộc so tài thử sức nữa mà
là một cuộc nhất tề xông tới lấy số đông áp đảo giết cho được Musashi. Nhưng hắn như con cọp dữ,
đâu có để cho dễ bắt. Hắn chém đông, gạt tây, đâm, phát; kiếm quang loang loáng dưới ánh chiều
xuyên qua cửa sổ. Musashi hét lên những tiếng ghê rợn, mỗi nhát kiếm lia tới đâu là có người ngã tới
đó, không chết thì cũng thương tích trầm trọng.”
Trong giới kiếm sĩ, danh dự bao giờ cũng quý hơn sinh mạng. Sự kiện chỉ có một tay kiếm vô danh đến
khuấy động cả môn phái Yoshioka danh trấn giang hồ là một điều vô cùng sỉ nhục và không thể chấp
nhận được. Cả phái họp lại tìm đủ mọi cách giết cho bằng được Musashi, nhưng chàng đã chạy thoát
khỏi những mưu mẹo toan tính đê tiện hèn hạ của bọn tiểu nhân chỉ biết sống tầm gửi, chuyên núp
bóng danh hiệu người khác mà tác oai tác quái lên mặt dạy đời thiên hạ.
Sau khi thoát khỏi sự hèn mạt của phái Yoshioka, chàng tiếp tục đến thăm các phái ở Kyoto, nhưng chỗ
nào chàng cũng toàn thắng. Nhìn lại những chiến tích ban đầu đó, kẻ thường nhân dễ sinh lòng kiêu
mạn coi thường kẻ khác. Thậm chí còn an phận thủ thường, vẽ rắn thêm chân để tô điểm cho hào quang
của mình thêm rạng rỡ. Trái lại, Musashi lại tự vấn lương tâm không biết sở học của mình là cao hay
kiếm phái của họ thấp kém. Và đã có lúc, chàng cũng cảm thấy hãnh diện với những chiến công của
mình. Nhưng ngay lập tức, chàng nghĩ đến câu nói : “Không gì giết chết tài năng nhanh chóng bằng
lòng kiêu ngạo !” Nếu quả thật kiếm pháp của họ chỉ hữu danh vô thực thì dù có thắng họ, kiếm pháp
của chàng cũng chẳng có gì là cao siêu. Cần phải gặp những tay cao thủ thực thụ so tài, ta mới biết thế
nào là sức mạnh của ta. Chẳng thứ gì có thể thử được vàng ròng ngoại trừ ngọn lửa hừng hực bốc cao.
Nghĩ thế, chàng lâm râm khấn vái thần linh hộ phù trợ giúp cho chàng đủ nghị lực bước đi trên cuộc lữ
miên trường về với Chân Như.
Ý thức được sở học của mình, Musashi tiếp tục bước đường giang hồ mưa nắng thất thường, đường dài
vô định, sinh mệnh lênh đênh. Chàng tiếp tục đến đền Hozoin để học hỏi về món tuyệt kỹ trường
thương và những thế mâu, bổng đã từng làm chấn động giang hồ không ai địch nổi. Dịp này, Musashi
trực kiến được một sức mạnh vô hình toát ra từ tia mắt của một lão già râu tóc bạc phơ đang ngồi cào
cỏ khiến hắn giật mình nhảy tránh sang bên. Tia mắt bất ngờ có uy lực dũng mãnh tựa tiếng sấm chẻ
ngang bầu trời trong đêm giông bão tối đen. Chàng cảm thấy ngột ngạt khó thở, toàn thân nóng ran như
vừa thoát khỏi một ngọn lửa táp tới hay như vừa tránh kịp một thế kiếm giết người phạt ngang hạ chỉ.
Theo phản xạ tự nhiên, chàng đặt tay vào đốc kiếm, nhưng nhìn quanh thì chẳng có ai ngoại trừ lão già
vẫn đang cào cỏ hiền khô. Chàng chẳng hiểu tại sao lại có sự việc như thế…
Vào đền Hozoin, chàng thủ thắng Agon một cách dễ dàng. Khi quay ra, Lão tăng ngoài vườn theo tới
bắt chuyện với Mushashi. Sau vài lời xã giao, chàng được Lão tăng Ozoin giải thích sự kiện tia mắt
chấn động của lão như sau: “Trái lại, khi thí chủ cách bần tăng chừng một trượng, chính bần tăng cảm
thấy không khí ngột ngạt, sát khí bừng bừng phát ra từ ánh mắt cũng như dáng đi của thí chủ nên bần
tăng đề phòng. Một nông dân chất phác nào đó đi qua chắc chỉ nhìn bần tăng như một kẻ làm vườn vô
hại, nhưng thí chủ lại khác. Tham vọng cùng với nội lực hết sức sung mãn của thí chủ không kềm chế
tuôn ào ào như thác lũ, gặp bần tăng bị dội lại nên thí chủ tưởng bần tăng sắp động thủ ...”
Nghe xong, chàng vô cùng kinh ngạc về sự hiểu biết của Ozoin và được biết thêm vị thủ tọa đền
Hozoin, Inshun, mới là đại cao thủ. Chàng ngỏ ý muốn lưu lại vài ngày để xin thỉnh giáo với Inshun,
nhưng lão tăng nói rằng đó là việc không cần thiết. Còn nếu thỉnh giáo thì hãy nhìn vào mắt lão tăng.
Khi lão tăng phóng mục quang thì toàn thân Mushashi rúng động, ánh bích quang tỏa ra một ma lực kỳ
lạ thu hút hết ý chí của làm chàng tê dại, không khác gì một con thỏ nằm chơ vơ trước miệng con cọp
sắp nuốt mình. Đến khi rời khỏi chùa, Mushashi mới công nhận, mình chỉ thắng cái chiêu thức bên
ngoài; còn cái cực ý bên trong, chàng hoàn toàn thất bại. Bất chợt chàng than thở : “Ngoài khung trời
này còn có những khung trời khác, cái ta hiểu thật là nông cạn. Ta đã thắng bên ngoài, nhưng bên
trong, phần tâm ý ...”
Về phương diện nội lực, Kim Dung cũng là một trong những tác giả đặt nội lực nên hàng thượng thừa.
Với Kim Dung, chiêu thức dù có tinh vi xảo diệu biến hóa khôn lường đến đâu đi nữa mà không có nội
lực thì sớm muộn gì cũng nhận phần thua. Còn không có nội lực mà luyện những chiêu thức phức tạp
thì rất dễ tẩu hỏa nhập ma. Trái lại, dù chiêu thức đơn giản, quê kệch mà nội lực sung mãn thì ta có thể
nắm chắc phần thắng. Trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Trương Tam Phong lúc còn nhỏ đã chứng kiến
sư phụ mình là Giác Viễn tỉ thí một ván cờ với Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo. Gọi là Tam Thánh vì
Hà Túc Đạo tinh thông cả ba môn cầm, kỳ và kiếm. Hà Túc Đạo muốn chứng tỏ công phu của mình
bèn nhặt một viên đá vạch 38 đường ngang dọc tạo nên bàn cờ. Giác Viễn muốn giữ thể diện cho Thiếu
Lâm nên dùng nội lực của Cửu Dương Chân Kinh dồn xuống sợi dây xích dưới chân để xóa đi những
nét vạch của Hà Túc Đạo. Thấy vậy, Hà Túc Đạo rút kiếm tấn công. Nhưng nhờ nội công thâm hậu nên
Giác Viễn đã tránh né được những đường kiếm tuyệt luân của Hà Túc Đạo trong đường tơ kẽ tóc,
nhưng sức lực có hạn, Giác Viễn dần dần yếu thế. Thấy sư phụ lâm nguy, Trương Tam Phong, lúc bấy
giờ còn là Trương Quân Bảo, đứng gần đó phóng ra một chưởng cấp kỳ để cứu thoát sư phụ, chưởng
đó làm Côn Luân Tam Thánh bật ngửa người ra, và khi đứng lên hắn nhằm Quân Bảo mà đánh tiếp 10
chưởng liên hoàn nữa, nhưng chỉ bằng mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm, Quân Bảo đã
thủ thắng được một Hà Túc Đạo mà đời xưng tụng là kiếm khách.
Như vậy, nội lực là cái gì đó ở bên trong, cái nhân tố quyết định thành bại, được mất, có không trong
mọi lãnh vực của cuộc sống. Cái nội lực đó bình thường thì tán loạn, không tập trung và thường gây ra
những tác hại tiêu cực khiến cho chính chủ thể không hiểu tại sao mình lại hành động xuẩn ngốc đến
thế. Nhưng nếu nội lực phong phú mà được chế ngự, điều khiển và tập trung chúng vào một điểm nhất
định, tựa như chiếc kính lúp thu ánh sáng mặt trời và sau đó vận chuyển nó để khai mở huyệt đạo qua
những kinh mạch thì hành giả sẽ thực hiện được rất nhiều khả năng phi thường. Theo Đông y và Khí
công thì kinh mạch là những con đường vận hành và luân chuyển khí trong cơ thể. Còn huyệt là những
kênh đặc biệt trên cơ thể mà tại đó có thể hấp thụ hay khai phóng chân khí và nhờ thế người ta chữa
được rất nhiều bệnh... Có lẽ Musashi một phần vì không có sư phụ, nên chàng không đủ khách quan để
lượng giá những chiêu thức và nội lực của mình, nhưng thất bại trước lão tăng khiến cho Musashi càng
nghi ngờ về con đường kiếm đạo của mình. Vả lại, chàng cũng đoán ra được rằng mình chưa kiềm chế
được nội lực của mình, bởi ‘cường bất khiển tất nhược.’ nhưng làm sao để kiềm chế thì lại là một vấn
đề hóc búa. Suy tư sách vở kinh viện nhiều khi cũng chẳng tới đâu, nên chàng quyết định tiếp tục lao
vào những cuộc phiêu lưu sinh tử.
Quyết định này cho thấy Mushashi đặt nặng trải nghiệm tế hơn suy luận trí óc thuần túy. Đó cũng chính
là phẩm chất của người Á đông. Trước những nan đề của cuộc sống, họ không chỉ dùng đầu óc suy luận
hợp lý mà còn vận dụng trực giác hầu tìm ra căn nguyên nguồn cội của chúng. Cho nên, người Á đông
nghĩ bằng tâm lòng, chứ không chỉ đơn thuần nghĩ bằng trí óc như người Tây phương. Chính vì thế,
người Á đông không quản ngại nhảy vào, xía vào lòng đời, sẵn sàng làm những chuyện nhỏ nhặt vặt
vãnh như ỉa đái, ăn uống, ngủ nghỉ, đan lát, thêu thùa, trồng tỉa và hài lòng mãn nguyện với tình trạng
văn minh kém mở mang của mình. Từ những trải nghiệm thực tế biến dịch tuần hoàn tưởng như tầm
thường, hỗn độn đó, họ sống và thể nghiệm ra một ý nghĩa ẩn tàng thâm mật hàm chứa nguyên lý thúc
đẩy thành tất cả những hiện tướng đa thù sai biệt trên thế gian. Chân nghĩa chót vời của nó chẳng bao
giờ thị hiện nếu chúng ta không đeo cái vòng Kim Cô vào tâm trí hoặc điều phục cái tâm viên ý mã
không cho nó vọng động, lăng xăng. Osho đã nói : chỉ khi nào hành giả điều khiển được tâm trí mình
như là một bộ phận trong cơ thể, thì lúc đó hành giả mới thực sự giác ngộ. Giống như cái tay là một bộ
phận trong cơ thể, ta biểu nó đưa lên thì nó đưa lên, bắt nó hạ xuống thì nó hạ xuống và bảo nó nằm
yên thì nó nằm yên… thì tâm trí cũng vậy, bảo nó thôi không suy nghĩ thì nó dừng nghỉ, thôi vọng
động, biểu nó suy tư phân biệt thị phi thì nó suy tư phân biệt thị phi. Nói tóm lại, khi nào ta biết ta đang
suy nghĩ gì trong từng sát na biến dịch miên tu bất tận, khi đó ta mới vào được cửa Tánh không.
Từ quyết định nhảy vào dòng đời biến ảo không lường, phù du bất tận đó, Mushashi tiếp tục lãnh hội
được những huyền nghĩa thâm u ẩn tàng bằng trực giác bén nhậy của mình. Một trong những trực giác
đó là nhận thức được cái Cực ý, cái Vô thức, cái Tánh không trong vết cắt nhành mẫu đơn của danh
kiếm Yagyu Muneyoshi. Yagyu là một tay kiếm lừng lẫy giang hồ bốn mươi năm trước đây và hiện trở
thành một trường phái kiếm đạo chính thống trong giang hồ. Theo Yagyu, cùng đích tối thắng của kiếm
đạo là không dùng kiếm. Quan niệm này rất giống với quan niệm vô chiêu thắng hữu chiêu trong kiếm
hiệp của Kim Dung. Theo Kim Dung, “Một thỏi sắt luyện thành một thanh kiếm tốt đã khó. Nhưng khó
hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy người ta có một diệp kiếm; nhỏ hơn,
bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm, nhỏ hơn nữa, bằng hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng
lực của kiếm càng lớn. Tất cả xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao
nhiêu, lại càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hoá ra nước làm thuỷ kiếm, ra hơi
làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm, thì năng lực phát huy được kể như không cùng.” (Đỗ Long
Vân, Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, nxb Trình Bày, 1967).
Tuy nhiên, giả như có năng lực biến thành quang kiếm, thì cái đó vẫn gợi nên cảm giác phụ thuộc, bám
chấp vào tha lực bên ngoài mà không hoàn toàn trụ vững vào cái bên trong. Thượng Hoàng Điều Ngự
Trần Nhân Tông đã khẳng định : “Trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.”
(Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền). Khi trụ vào cái kho báu trong nhà,
tức là cái nội lực lưu tồn bất tuyệt vô thủy vô chung, hành giả đạt được cùng đích tối thắng thượng thừa
của kiếm đạo. Kẻ chiến thắng bao giờ cũng là kẻ trước tiên giữ được cái tĩnh trong lòng mình trước
những xôn xao vọng động của ngoại giới dù ngoại giới có đang rúng động lung lay. Lúc đó, chỉ cần cái
trừng mắt của lão tăng Ozoin, chỉ cần vết cắt trên nhành mẫu đơn, hay chỉ cần một cái phất tay của các
giang hồ lãng tử trong kiếm hiệp Kim Dung, hành giả có thể phá tan cả một ngọn núi, tựa như vụ nổ
Big Bang thời tiền sử. Và tất cả những phương tiện ngoại lai như cung đao thương kiếm hay chiêu thức
hàn lâm sách vở chỉ còn là yếu tố phụ thuộc, trợ đỡ, chứ không phải là cái tâm yếu, cái căn cơ nhờ đó
hành giả tiến thoái, công thủ, sống chết, đi về…
Hơn nữa, đối thủ bây giờ không còn là khách thể xù xì được nhận biết bằng giác quan thông thường mà
đối thủ đó chính là cái bản ngã, cái con người của chính mình. Cái mà một nhà thơ Nhật bản đã nói
rằng : “Hôm qua, một đạo quân, không làm tôi sợ. Chiều nay tôi sợ bóng mình.” Nó vô hình vô ảnh cho
nên nó không thể bị tiêu diệt bằng đao kiếm chiêu thức sách vở hàn lâm. Cho nên, cái vô hình vô thanh
vô ảnh phải dùng cái vô kiếm vô chiêu vô thế mới có thể thủ thắng. Nếu không, hành giả chỉ là một kẻ
vọng tưởng tìm đủ mọi cách bẻ hoa trong gương, mò trăng đáy nước. Henry Miller đã nói : “Nếu chúng
ta không chịu tập nhìn chúng ta như những kẻ khác nhìn chúng ta thì vết thương sẽ không bao giờ
được lành và chúng ta phải đời đời chịu sống phân ly và ngăn cách.” (trích từ Phạm Công Thiện,
Henry Miller, Phạm Hoàng, 1969, tr 104). Gặp những nguy hiểm bên ngoài, người ta vẫn có thể lấy trí
năng, kinh nghiệm để chinh phục, hoá giải. Nhưng chiến đấu với chính mình thì ai cũng biết là chỉ có
một mất và một còn. Một ta thắng, hai ta thua. Cái ván cờ định mệnh này không có chỗ cho bất cứ một
kẽ hở nào. Cả con người mình khi ấy phải ngưng tụ để chống trả. Suy tính, bàn luận, học hỏi chỉ gây
thêm nghi ngờ lưỡng lự. Thi đấu nội lực cũng thế, chỉ cần một chút vọng tâm, kẻ đó sẽ tẩu hỏa nhập ma
ngay lập tức.
Với quan niệm đó, Yagyu Muneyoshi đã giác ngộ, thấu triệt được lẽ tương dung hòa quyện của trời đất,
rồi đem ra suy luận thấy nó bàng bạc khắp mọi nơi. Nhờ ngộ được cái Vô tâm, ông thấy những thế
kiếm của mình tự nhiên hơn, nhẹ nhàng và linh động vô cùng, và khi đem dùng vào những công việc
nhỏ mọn hằng ngày đối với thiên nhiên và vạn vật thì thấy dễ dàng đồng điệu, hài hòa. Do đó, chỉ việc
ông cắt một cành mẫu đơn cũng đủ cho Mushashi thấy công lực thượng thừa của bậc kiếm sĩ tài danh.
Chàng đắn đo suy nghĩ : “Hắn rút hoa, so sánh hai vết cắt ở cuống, ngồi thừ người ra suy nghĩ. Hắn
chắc đóa hoa này đã được ngắt không phải bằng dao mà bằng kiếm. Mẫu đơn thân thảo, cuống nó
mềm và dai, phi một tay kiếm tuyệt luân dùng một lưỡi kiếm cực mỏng chém thì không thể nào có được
vết cắt ngọt và gọn như thế ! Bất kỳ ai cắt bông hoa này cũng không phải là người tầm thường.”
Trong câu truyện Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm, tác giả Phạm Xuân Thái cũng đã miêu tả khá sinh động cái
vết cắt trên cành Sơn Huyết Đào, một loại hoa quý hiếm chỉ mọc ở ghềnh đá trên đỉnh những ngọn núi
cao như ngọn Fuji. Thân nó cứng như gỗ Lim, hoa đào chín cánh, mầu đỏ huyết dụ, được gìn giữ bởi
những gai đào tua tủa. Sơn-Huyết-Ðào rất hiếm, cả nước Nhật có lẽ chỉ có khoảng vài cây. Những loài
hoa như thế chỉ có thể bị chinh phục bởi những tay kiếm có nội công thâm hậu có thể làm rung chuyển
cả vũ trụ. Còn nếu như những kẻ tiểu nhân luôn mang mặc cảm bầy đàn sẽ chẳng bao giờ có dịp diện
kiến những đóa hoa tinh khôi, rực rỡ của cành hoa, ấy là chưa nói đến việc cắt hoa mang về.
Thiên hạ đệ nhất kiếm Genshin Yamamoto đã có được nhân duyên đó khi chàng tìm mọi cách tỷ thí với
lão tăng Osawa Takahashi, mặc dù lão tăng tìm mọi cách để từ chối. Khi tối hậu thư được đề ra là : Nếu
trong ba ngày lão tăng không chấp nhận tỷ thí, Yamanoto sẽ làm cỏ chùa Shiga. Đến sáng ngày thứ tư
thì hắn nhận được một cành Sơn Huyết Đào. Nhìn cành hoa, hắn đăm chiêu tư lự, chợt hắn thét lên
kinh hoàng chạy ra trước cổng chùa sụp lạy trăm lạy. Tác giả giải thích như sau : “Ðường kiếm, nội
công, và mức độ chính xác của thanh kiếm do đại lão hoà thượng Osawa Takahashi điều khiển, đã lên
tới mức thượng thừa, Genshin Yamamoto chưa phải là đối thủ: thân Sơn-Huyết-Ðào, cứng như gỗ Lim
đã bị tiện đứt phẳng lì; tất cả gai chung quanh các cánh hoa đều bị cắt đứt, không để lại một dấu xước
cho thân cây; hoa Sơn-Huyết-Ðào, không một cánh bị gẫy bởi sức mạnh hoặc độ rung của thanh kiếm,
vẫn đang khoe sắc thắm và nhẹ rung trong gió. ” Đó cũng chính là ý nghĩa của câu ca dao tục ngữ của
cha ông ta : Dao sắc không bằng chắc kê. ‘Chắc kê’ ấy chính là các nội lực thâm mật ẩn tàng khả dĩ làm
cho vạn sự chuyển động bất tận trong lòng vũ trụ bao la.
Như thế, chỉ cần một vết cắt trên nhành mẫu đơn, bậc cao thủ có thể phân biệt được thắng thua, được
mất. Trong cuộc lữ miên trường, Mushashi đã có thêm một bằng chứng hùng hồn về công lực thượng
thừa của các bậc giác ngộ. Họ hoàn toàn là người tự lực tự cường tinh tấn dũng mãnh, không bao giờ
nương tựa vào ngoại vật hay mong cầu nơi thần thánh. Họ đều là người tự chiến thắng chính mình và
từ chiến thắng đó, họ áp dụng nhuần nhuyễn vào từng công việc nhỏ mọn hằng ngày một cách nhịp
nhàng, trơn tru, thanh thản. Chính vì thế mà Mushashi cảm thấy vô cùng buồn bã khi chàng đạp phải
cây đinh khiến cái chân mưng mủ hành sốt. Chỉ cần một việc nhỏ như thế cũng đủ cho chàng thấy mình
còn xa vô cùng trên con đường kiếm đạo tìm về Chân Thiện Mỹ. Chàng tự trách về sự non kém của
mình như sau : “Theo tiêu chuẩn của hắn thì như vậy là hắn thua cái đinh. Là Samurai, hắn đã không
cảnh giác đến nỗi cái đinh nằm nhô đầu lên rõ ràng như vậy mà không tránh nổi : giác quan của hắn
chưa đủ linh mẫn. Tệ hơn nữa, sự phản ứng lại chậm chạp để đầu đinh xuyên qua dép và sâu trong gan
bàn chân. Đáng lý ra hắn phải nhảy tránh ngay khi cảm thấy mũi đinh chạm vào da mới phải.”
Kể từ khi bước chân vào con đường kiếm đạo, chàng luôn bị ám ảnh bởi sự hoàn thiện. Nhiều lần, nhất
là lần đạp phải cây đinh, đã làm cho lòng tự tin vào chính mình bị lung lay. Và đây có lẽ chính là yếu tố
quan trọng nhất trong tiến trình giải thoát chính mình. Vivekananda đã nói : “Lịch sử thế giới là lịch sử
của một số ít người có lòng tự tin nơi mình.” Lòng tự tin chính là khối nam châm, là cơn lốc xoáy, là
thấu kính hội tụ thâu dồn ngàn muôn đại địa về một mối, rồi tiếp tục điều động, chuyển hóa và cuối
cùng phun trào ra ngàn muôn vạn pháp như hỏa diệm sơn phun trào phún thạch. Tự tin chính là yếu
tính của thiên tài. Vivekananda nói tiếp : “Hãy tin vào bạn trước rồi sau đó mới tin vào Thượng Đế.”
(Believe first in yourself, and then in God). Ấy cũng chỉ là lối nói bạo hành cưỡng bách, bởi Lục Tổ
Huệ Năng đã nói : “Bản lai vô nhất vật” rồi, làm gì có tôi và Thượng Đế để tin vào. Giải đáp những
thắc mắc đó, chàng đã tìm đến những hang núi cao sống đời cô tịch, lấy đá sỏi, rừng cây, muôn thú để
tìm giải đáp cho những suy tư khắc khoải của mình.
Đây có lẽ cũng là phương thế mà hầu hết các tôn giáo dùng để tu dưỡng tinh thần. Kitô giáo thì có
những thời kỳ tĩnh tâm. Còn Phật giáo thì có những kỳ an cư kiết hạ… Nhờ đó mà hành giả được nuôi
dưỡng tín tâm, được nghe pháp, được chánh pháp soi đường dẫn lối vượt qua những chướng ngại gió
quỷ nhà ma liên tục thét gào đòi an nhàn dễ dãi. Hơn nữa, nhờ những tháng ngày sống cô tịch đó,
Musashi đã dần học được cách khám phá những tia sáng phát ra từ cái Chân Tâm Phật tính, cái Bản Lai
Diện Mục của mình hơn là đi tìm ánh sáng chân lý phát ra từ hừng đông, từ thần thánh… Cần phải bị
xua đuổi cho đến tận đỉnh núi cuối cùng, nơi đó chỉ còn một hòn đá vừa đủ cho một bàn chân cheo leo
giữa hai bờ vực của sự sống chết. Cần phải thai nghén tuyệt vọng; cần phải cưu mang trăm ngàn đắng
cay chết chóc, thất bại, tủi nhục, hổ ngươi; cần phải chết đi trong lòng người, thối rữa trong lòng
mình… có như thế ta mới phục sinh, mới tái ngộ, mới quy hồi về cố quận nguyên thôn. Lúc đó, hành
giả sẽ hát ca : “Đầu non mây trắng bay. Nhẹ tênh lòng thế sự. Nghìn năm không trú xứ. Chân như,
cánh hạc gầy.” (Sekishusai)
Chúng ta nên hiểu, sự cô đơn ở không phải là hệ lụy của một tâm hồn bạc nhược, mặc cảm, tự ti sống
trong cái tôi ích kỷ hèn hạ của mình. Chỉ vì không thể nào hòa nhập được với đời thường nên tự mình
khép kín phòng the, tường đông ong bướm đi về mặc ai. Trong tác phẩm Thiền Luận, Suzuki đã mô tả
tỉ mỷ cái nỗi cô đơn của hành giả đi tìm cái Nhất Như như sau : “Trong kinh Lăng già chúng ta có sự
kiện này, gọi là pháp viễn ly (viviktadharma). Kinh nghiệm về pháp đó hình như đánh thức tình cảm về
sự đơn độc vĩnh viễn. Cái đó không có nghĩa rằng chúng ta đều có cảm giác cô liêu và săn đuổi một sự
thể nào đó rộng hơn và mạnh hơn chính mình. Tất cả những tâm hồn của tôn giáo ít nhiều đều có cưu
mang tình cảm này; nhưng điều mà tôi muốn nói ở đây không phải là sự cô liêu theo kiểu đó, nhưng sự
cô liêu của một thể tính tuyệt đối, nó ngự trị trên chúng ta khi một thế giới thiên sai vạn biệt vận hành
dưới những điều kiện không gian, thời gian, và nhân quả bị bỏ lại đàng sau, khi tâm linh lớn cao trong
bầu trời và trôi nổi tự do theo ý muốn như một cụm mây lang bạt.” (D.T. Suzuki, Thiền Luận, Quyển
Hạ, dg Tuệ Sĩ, nxb An Tiêm, 1973, tr 535).
“Ngươi hãy trở nên con người của chính ngươi” (Deviens ce que tu es) không chỉ là một yêu sách tuyệt
đối mà còn là một ân huệ tối cao. Chính vì thế mà Musashi đã hiện hữu một cách thô kệch, xù xì ; rồi
từ đó chàng dần dần gạt bóng ra khỏi hình, vén màn vô minh, mở phơi chân diện mục ẩn tàng từ vô
lượng kiếp luân hồi trong gió quỷ khí ma và phục hoạt cái Chân như hằng tồn cưu lưu trong tự tánh của
mình. Và cho đến cuối cùng chàng đã phục sinh, sáng tạo ra chính con người của mình. Con đường
sáng tạo đó đòi buộc chàng phải vượt qua tất cả những gai góc, lao nhọc, thống khổ cốt làm sao đạt
được cái Cực ý của kiếm đạo và cũng để cho cái Tiểu ngả huyền đồng cái Đại ngã của vũ trụ. Chàng
nghĩ : “Ta vẫn tự nhủ: nhất định không mong nhờ ai điều gì mà sao vẫn còn hy vọng ở họ lòng thương
yêu ? Thật là ngu xuẩn và dại dột. Ta phải quyết tâm và ghi điều này lên giấy mới được !”
Để chứng tỏ sự quyết tâm không lùi bước, Musashi đã ghi những quyết tâm của mình lên giấy. Lúc đầu
là : “Ta muốn không có điều gì phải hối tiếc”. Nhưng điều đó vẫn mang dấu vết của bản ngã, trong đó
có cái ta đối lập. Ở đây, ta có thể ví nó giống như cảnh giới thứ nhất (Ðoạt Nhân Bất Ðoạt Cảnh) trong
Tứ Liệu Giản của thiền sư Lâm Tế. Trong cảnh giới này, hành giả bị ngoại cảnh thu hút mạnh mẽ đến
nỗi hành giả không còn ý thức về mình. Sự hiện hữu của mình đã bị vong thân bởi ngoại cảnh tác động.
Điều này khiến hành giả rất dễ khổ tâm, ưu phiền, lo lắng trước những giả hợp của thế giới. Muốn đi
tiếp, hành giả phải vượt qua và thể nhập vào cảnh giới thứ hai (Đoạt cảnh bất đoạt Nhân). Vì thế,
Musashi cần tìm một câu ngắn gọn, súc tích mà ý nghĩa thực chứng hơn để có thể nhắc đi nhắc lại hàng
ngày. Chàng bèn sửa: “Ta sẽ không hối tiếc những điều ta làm”. Ở đây, ta thấy, vế thứ hai có chủ từ
‘Ta’, điều đó chứng minh rằng, Musashi đã vượt qua loại hai mà thể nhập vào ngay loại thứ ba (Nhân
Cảnh Lưỡng Câu Ðoạt). Đây chính là giai đoạn hồi quang phản tỉnh, tức là tâm trí tự nhận biết chính
mình, hay tâm trí ý thức rõ ràng mình đang suy nghĩ về điều gì. Nhưng vẫn còn chủ thể khách thể, cần
phải vượt qua cả chủ lẫn khách để chỉ còn là hành động thuần túy, vô vi, làm mà không có chủ thể làm,
không có đối tượng để nhắm tới, và chàng lại sửa lần nữa: “Không làm những gì phải hối tiếc.” Ở đây,
chủ từ ‘Ta’ đã biết mất. Cái tiểu ngã đã hòa quyện vào cái Đại ngã. Nó tương tự với Loại thứ bốn (Nhân
Cảnh Câu Bất Ðoạt), tức là tâm tự trụ tâm, cảnh tự trụ cảnh. Ở cảnh giới này, hành giả thỏng tay vào
chợ, trở lại với thế giới bình thường mà tâm vẫn an nhiên tự tại. Niệm khởi thì tâm biết niệm khởi,
không mảy may phán đoán hay dở tốt xấu, cũng chẳng vọng tưởng mê lầm đuổi theo.
Như thế, ‘Không làm những gì phải hối tiếc’ đã đạt được cái vô vi nhi vô bất vi, tức không làm mà
không có cái gì là không làm của Lão Tử, đồng thời cũng cho thấy cái tinh thần vi đạo nhật tổn, tổn chi
hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Chàng đã bớt đến nỗi ngay cả cái tôi chủ thể của mình, chàng cũng không buồn
nhắc tới. Có thể nói, với câu kệ này, Musashi một khi thực hiện được thì chắc chắn chàng sẽ nhập vào
cảnh giới Ly Tứ Cú, Tuyệt Bách Phi, còn có nghĩa là Chân không vô tướng bất khả đắc. Trong đó, Tứ
cú là "Hữu, vô, diệc hữu diệc vô, phi hữu phi vô" hoặc chỉ "khẳng định, phủ định, bộ phận khẳng định
bộ phận phủ định, cả hai đều phủ định" để phán đoán và nghị luận được mất đúng sai. còn Bách phi chỉ
hàng trăm loại phủ định. Kinh Bắc Bổ Đại Niết Bàn nói rất nhiều phủ định về Niết bàn của Như Lai là
phi hữu, phi vô, phi hữu vi, phi vô vi, phi hữu lậu, phi vô lậu, cho đến phi quá khứ, phi vị lai và cả phi
hiện tại. Nói tóm, ly tứ cú, tuyệt bách phi là pháp môn tối thắng thượng thừa chí cực bất khả tư nghì
của Phật giáo, tức là vượt lên trên tất cả những giả danh, biểu tượng của ngôn từ ngữ nghĩa mà đạt đến
cảnh giới ‘ngôn vong lự tuyệt’.
Chi tiết tiếp theo cho ta thấy tính cách tự lập tự cường của Musashi khi chàng hét lên : “Tự lập ! Ta
phải sống cuộc đời tự lập ngay trong lòng ta !” Đó chính là con đường của kẻ sáng tạo, con đường của
kẻ khai sinh ra mình và thế giới. Kẻ nào không tự lập ngay trong lòng mình, kẻ ấy suốt đời làm dế giun
luồn cúi trong bóng tối vô minh. Kẻ đó sẽ bị cuốn hút, trói buộc vào bánh xe sinh tử luân hồi, dù cho
họ có làm ra vẻ đứng đắn bằng cách gọi nó là cuộc đời bể khổ triền miên, làm sao hết được ưu phiền
lắng lo. Cho nên, cần phải triệt để gỡ mình ra khỏi tất cả những hệ lụy của đền đài thành quách bấy lâu
đã làm rêu phong phủ kín che mờ khuất lấp lối mòn trở về Cố quận nguyên thôn ; cần phải rũ mình ra
khỏi ngay những kinh nghiệm mà mình đã tích lũy trong trường đời gai góc đắng cay, cho dù kinh
nghiệm đó có được mua bằng máu hay nước. Việc này đòi hỏi phải có một nỗ lực tàn bạo, dã man, kinh
khủng mới có thể thi hành được. Cái khó khăn nhất chính là điều mà bất cứ khi nào chúng ta chọc
thủng bức màn vô minh phiền não, thì cũng là lúc cuộc đời phỉ nhổ lên án ta, thậm chí chính chúng ta
cũng dè bỉu khinh thường chúng ta. Thế nhưng, tội lỗi lớn nhất chính là lúc ta để cho kẻ khác, hay
ngoại tại chiếm hữu mình. Và cái tội lớn nhất chính là cái tội để cho Thượng Đế hữu ngã chiếm hữu
mình. Chính vì vậy, Novalis mới nói : “Thủ đắc cái Tôi siêu việt của mình, đồng thời là cái Tôi của cái
Tôi của mình.” Rimbaud cũng không đi ngoài con đường đó khi chàng nói : “Đả đảo lịch sử !” (A bas
l’histoire!). Còn Nietzsche thì gầm rống lên rằng : “Thượng Đế đã chết.” Lúc đó, cả Thượng Đế cũng
buộc phải bỏ đi, dùng kiếm báu mà phanh thây mổ gan Thượng Đế, giống như Đan Hà chẻ tượng Phật
làm củi xua tan tuyết lạnh mùa đông, giống như Tilopa ăn cá vứt xương bừa bãi ngay trong chánh điện
nhà chùa, giống như Eckhart cầu nguyện : “Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi chính ngài.”
Tiếp đến, dù luôn tự nhủ lòng mình phải tự lập, phải tỉnh thức trong từ sát na niệm tưởng, nhưng
Musashi vẫn có những giây phút mê vọng, khinh thường người khác. Chi tiết chàng bất cẩn để cụ
Osugi chém trúng cườm tay và phóng cây trâm cài tóc vào mắt cho thấy Musashi không chỉ khinh địch,
một điều tối kị trong binh thư, mà còn chưa đạt được cái Vô tâm, cái Đại ngã huyền đồng khắp nơi
trong vũ trụ. Một khi thể nhập vào Đại ngã ấy thì mọi chi tiết, dầu cho nhỏ nhặt đến đâu, cũng là một
nhịp trong tiết điệu của bản giao hưởng vũ trụ mênh mông. Khinh thường cái nhỏ bé đồng nghĩa với
việc coi thường và hủy diệt chính mình.
Có thể nói, những chi tiết nhỏ như trên có rất nhiều trong suốt cuộc hành trình đơn độc, gian khổ của
Musashi. Mỗi một chi tiết là một bài học đắt giá trong tiến trình mở phơi cảnh giới mà kinh Hoa
Nghiêm gọi là Châu biên hàm dung, Hỗ tương nhiếp nhập, Nhất đa tương dung hay Viên dung vô ngại.
Tuy nhiên, cơ hội thể nhập cảnh giới vô ngại đó thường diễn ra khi Musashi đối diện với lưỡi gươm
của địch thủ. Giữa một bên là sống và một bên là chết, toàn thể con người chàng từ gót chân cho đến
sợi tóc trên đỉnh đầu đều tập trung vào đôi mắt đổ ánh xung quang. Như người đi dây giữa vực thẳm,
chàng cảm thấy lâng lâng và thân thể nhẹ như bông tuyết lơ lửng giữa không trung. Vũ trụ dường như
là sự nối dài của chính mình và chàng dường như muốn tan vào vũ trụ. Mọi sự chỉ còn rỗng không
trong suốt đến nỗi chàng thấy mình thấu triệt mọi lý lẽ cơ mật huyền vi lạ lùng.
Sau này chính Musashi đã viết lại trải nghiệm của mình lúc lâm trận : “Trong đấu pháp, bạn phải giữ
tâm trạng lúc nào cũng bình thường. Giữa cuộc sống hằng ngày cũng như khi thực hành võ thuật,
chẳng chút thay đổi – với tâm trí phơi mở và trực tiếp, không căng thẳng không nghiêm trọng, bạn tập
trung tâm trí để không mất quân bình. Trầm lặng thư giãn tâm trí và tận hưởng khoảnh khắc ung dung
ấy để sự thư giãn không ngưng lại dù chỉ một chớp mắt.” Trong cái sát na sống chết đó, con người trực
nhận được cái lẽ vô thường của vũ trụ. Nhưng chỉ có một nẻo đường duy nhất vượt thoát được lẽ vô
thường đó là làm sao cho bản ngã của mình hòa điệu, tương dung, hợp nhất với sự biến dịch không
ngừng của vũ trụ một cách như nhiên, tự nhiên, thong dong nhịp nhàng. Chỉ khi nào người cầm kiếm
thể nhập vào cảnh giới không còn địch thủ, không khiếm, không còn chiêu thức và cũng không còn
chính bản thân người cầm kiếm, thì chính cái lúc - mà Kinh Viên Giác miêu tả là : Sanh tử niết bàn do
như tạc mộng - sẽ đưa hành giả vào trạng thái Kiếm thiền Nhất như.
Một khi hành giả không phân biệt sống và chết thành hai trạng thái đối nghịch, nói cách khác là khi tâm
bất động, ở vào trạng thái tịch tĩnh hoàn toàn, thì mọi sự phân biệt năng sở tôi anh đều tự chúng tan
biến, và cũng vì thế mà mọi sự sợ hãi, hư vô, hố thẳm đều hóa giải, dung nhiếp vào thể tánh Nhất Như
bất khả tư nghì. Hơn nữa, tất cả hư vô vực thẳm nhầy nhụa đều có thể hóa thành cực lạc thiên thu.
Chính Musashi đã khẳng định : “Dưới lưỡi kiếm đưa cao. Dù gặp địa ngục. Hãy tiến bước. Cực lạc là
đây.” Lúc mà hành giả không còn quá khứ để hồi tưởng, cũng không còn tương lai để mơ mộng viễn
vông, ngay cả hiện tại cũng không còn là đối tượng biến thành có có không không hay để biểu tượng
đặt tên thì cực lạc tiêu diêu sẽ mở phơi thông suốt.
Cuộc chiến với Kojiro đã đưa chàng lần đầu tiên thể nhập vào cảnh giới đó. Lời miêu tả của Yoshikawa
về chi tiết này thật là một áng văn hùng tráng bất hủ. Kẻ chiến thắng thì không kiêu căng tự đắc, còn kẻ
chiến bại thì mỉm nụ cười an nhiên mãn nguyện hài lòng. Cuộc chiến đẫm máu mà không một chút hận
thù oán than. Tất cả diễn ra như một giấc mộng, một cơn mơ, một làn hoa đốm giữa trời không. Kinh
Kim Cương đã nói : “Tất cả pháp hữu vi. Như mộng huyễn bào ảnh. Như sương như điện chớp. Hãy
quán sát như vậy.” Quang cảnh đó vô tình đã nói lên toàn bộ ý nghĩa của Kinh Kim cương. Khi
Musashi bỗng thấy người nhẹ tênh như mây nổi giữa trời, thì cũng chính là lúc chàng thể nhập vào ý
nghĩa tót vời của lời kinh. Thêm vào đó, giống như kẻ xuất thần, chàng không còn cảm thấy mình đứng
trên mặt đất nữa mà như đã huyền đồng với Vô tâm chiếu diệu. Niệm tưởng tới đâu, các bộ phận khác
trong cơ thể vận chuyển theo liền đến đó. Không chậm trễ, không ngượng ngùng, không khó khăn,
không mảy may sai lệch mà tự nhiên như nhiên thông suốt nhịp nhàng. Có vẻ như khối óc chàng phân
thân nằm sẵn trên vai, trên cánh tay, trên bắp chân, ở khắp nơi trong người hắn. Bất kỳ một cử động gì
của địch thủ, dù chỉ là một cái chớp mắt, muôn ngàn kinh mạch và thớ thịt của chàng sẽ phản ứng ngay
tức khắc. Tâm, thân đạt tới mức hoà đồng, phối hợp như vậy quả là trác tuyệt.
Trận đấu cuối cùng này cũng chính là cái mốc điểm quyết định để Musashi không còn sử kiếm như vật
bất ly thân. Thay vào đó, chàng bẻ kiếm và khởi đầu một chặng đường mới gian nan, nguy hiểm và gai
góc hơn nhiều. Chàng không còn để tâm chú ý đến kỹ thuật hay chiêu thức. Nhất là ý muốn chiến thắng
hay chứng tỏ mình cao siêu hơn kẻ khác đã bị chàng hủy diệt không còn một chút mầm mống bám dễ
ăn sâu vào tiềm thức. Người kiếm sĩ Musashi đã đi đến cùng đích của con đường Kiếm đạo, an nhiên tự
tại, không còn bị thế sự ràng buộc. Thanh kiếm của họ giờ đây trở thành vô tâm kiếm, và kỹ thuật chiến
đấu giờ đây trở thành kiếm vô sở trụ tâm pháp.” Từ đây, Musashi mới đi vào huyền nghĩa của câu nói :
“Phùng Phật sát Phật, Phùng Tổ sát Tổ. Phùng ma sát ma.”
Tạm kết
Tổ sư Vương Trùng Dương, khi dạy đạo cho vợ chồng Mã Ngọc và Tôn Huyên Trinh có nói : “Sát
sanh thăng thiên đường, phóng sanh đoạ địa ngục.” Henry Miller đã kể câu truyện tên cướp giết người
thứ 53 mà lòng chẳng còn chấp trước là mình có bị phạt đọa địa ngục hay không thì lại bỗng nhiên đại
ngộ. Trong kinh Bhagavad-Gita, Krishna đã thúc giục Arjuna như sau : “Là một chiến sĩ, bổn phận của
ngươi là chiến đấu. Không có gì cao cả cho bằng chiến đấu vì bổn phận. Trốn tránh bổn phận là một
tội lỗi, là ô danh. Ô danh còn tồi tệ hơn là chết. Hãy sẵn sàng chiến, không đếm xỉa gì tới vui buồn,
được thua sống chết. Arjuna! Hãy đứng lên và thi hành nhiệm vụ.” (Bhagavad-Gita, II, 11-38).
Nietzsche cũng đã nói như thế trong Zarathustra : “Mi đi trên con đường cao cả của mi : bây giờ lòng
can đảm tối hảo của mi là cảm thấy mi chẳng còn con đường nào sau lưng nữa. Ở đây chẳng còn ai
theo mi cả! chính bước chân của mi xóa con đường sau mi và trên con đường của mình có đề biển ‘bất
khả!’.”
Một cách nào đó, Musashi cũng đã ngộ ra được rằng, toàn thể càn khôn đại địa mà con người có thể
quan sát được đều chỉ là huyễn mộng, là giả tưởng, là phù du. Tuy nhiên, đằng sau những giả tưởng đó
chính là cái Đạo, Phật tính, Chân tâm, Tự ngã, Thái cực thì là hằng tồn miên viễn bất diệt. Do đó, lưỡi
gươm dù cho có được rèn bằng ngọc thạch hay kim cương thì cũng chỉ là giả hợp. Cái giả hợp, tạm
thời, vô thường cũng chỉ có thể hủy diệt những thứ có bản tính tương tự với nó mà thôi. Trái lại, chúng
chẳng có thể làm gì gây hại cho cái ẩn tàng mông lung bàng bạc rộng khắp muôn trùng nhân gian. Lo
sợ, thương cảm, ưu tư cho chính thân phận mình, thân phận kẻ khác hay bất cứ một sinh vật nào đều
chỉ là những thứ tình cảm lảm nhảm, ủy mị, cải lương. Bởi những tình cảm như thế chỉ khiến cho ta
bám chấp vào tính vô thường trong từng sát na điệp trùng. Điều đó giống như kẻ qua sông bằng chiếc
đò, khi đến bờ bên kia, thấy mình cần phải trả ơn cho chiếc đò, nên tiếp tục vác chiếc đò lên vai để tỏ
tấm lòng biết ơn của mình cho người đời ngợi ca. Những kẻ như thế, Krishna cảnh báo rằng : “Ngươi
không được tỏ lòng thương hại vì tự ngã không cần lòng thương hại. Các bậc hiền trí không tỏ lòng
thương hại đối với người chết cũng như người sống.” (Bhagavad-Gita, II, 16-17). Chính vì thế mà mỗi
khi lâm trận, Musashi không bao giờ thương hại hay khinh thường địch thủ. ‘Giết’ chính là bổn phận
của chàng. Chàng đã hành động không vì bất cứ một nguyên nhân hay hậu nào của hành động, nên
chàng đã được giải thoát. Krishna nói tiếp : “Kẻ nào hành động không vì hậu quả của hành động thì kẻ
ấy là người thực sự giải thoát.”
Thêm vào đó, Musashi còn là một con người tự lập theo đúng ý nghĩa nguyên thủy của nó. Toàn bộ
cuộc đời của chàng có thể tóm gọn bằng chữ ‘Vô’. Dù chưa bao giờ tham công án ‘Vô’ của Triệu Châu,
nhưng suốt cuộc đời Musashi ăn ngủ, ỉa đái, hít thở chữ ‘Vô’ trong lòng mình. Cho đến lúc chàng bẻ
kiếm lúc 31 tuổi, tài sản quý giá nhất mà chàng mang theo suốt giai đoạn giang hồ binh biến loạn
cuồng, thì chữ ‘Vô’ bất chợt hóa thân thành ‘Hữu’, để rồi 30 năm sau, khi đặt bút viết tác phẩm Ngũ
Luân Thư, thì chữ ‘Vô’ lại trở thành ‘Vô’ và ‘Hữu’ lại hóa thành ‘Hữu’. Bao nhát kiếm oan nghiệt chém
chết bấy nhiêu mạng người giờ bỗng chỉ còn là một hạt cát chứa đựng cả càn khôn đại địa hay chỉ là
nghiệp chướng trùng trùng duyên khởi. Ấy thế mà hạt cát không hề lớn lên và đại địa cũng không hề
nhỏ lại. Tâm bình thường đã được Musashi đại ngộ. Cho nên, dù chưa bao giờ đọc Bát nhã tâm kinh,
nhưng những lời của ông thì tương đồng một cách kỳ lạ với Bát nhã. Đỗ Hữu Tài đã viết về Musashi
trong tác phẩm Như Thị Ngã Văn như sau : “Ông nhận định về thanh kiếm như một ngoại vật vô
thường, có đó nhưng không đó; về người múa kiếm như một tha nhân vô ngã, vừa có thật vừa không
có thật; về kiếm thuật như một nghệ thuật vô hình vô tướng; và về các kiếm phái khác như cõi ta bà
chứa đầy mộng ảo bào ảnh. Cũng trong bốn chương nầy, ông luận về các sách lược đấu kiếm thông
qua hai phạm trù diệu hữu và chân không, cho rằng trong vọng tâm, kiếm và kiếm sĩ đều có thật,
nhưng không thật có vì giả hợp. Cho nên có đấu kiếm mà vẫn không có kiếm đấu.”
Đây cũng chính là tinh thần ưng vô sở trụ của kinh Kim Cương. Có thể nói, từ nhỏ đến năm 30 tuổi,
Musashi tung hoành ngang dọc trong chốn gió tanh mưa máu, biết bao oán hận căm thù chồng chất,
biết bao máu nóng tuôn trào, biết bao xương trắng phơi bày trên thảm cỏ non bỗng chốc trở thành
mộng, mộng về trùng điệp bủa vây, phù du hư huyễn ngập đầy hư không. Chính tinh thần xả ly vô trụ
đó đã giúp Musashi đứng dậy, thanh thoát nhẹ nhàng đưa tay phủi đám bụi hồng, ngẩng đầu gầm rống
giữa rừng cô liêu, cho Tâm tĩnh tịch giữa nhiều, điệp trùng dâu bể trăm chiều đa đoan.
Còn nhiều và rất nhiều cái để nói, để bàn về Musashi, nhưng dẫu có viết thêm hàng ngàn trang sách mà
bản thân người viết không tinh tấn dũng mãnh, không vi nhật tổn, không lìa tứ cú tuyệt bách phi, không
tự nhận là lời quê góp nhặt chỉ để mua vui canh dài, không hủy thể luôn cái hủy thể... thì chẳng những
không được ích gì mà còn tốn kém thời gian người đọc người đăng. Sắc tức thị không, không tức thị
sắc, viết rồi không viết, rồi không còn cái không viết, rồi không còn cái không còn viết, cho đến khi hư
vô tràn về như thác lũ, người viết hóa thành trang giấy tràn đầy chi chít chằng chịt chữ nghĩa, chữ nghĩa
hóa thành song kiếm sử dụng vô chiêu lấy máu bôi xóa, chẳng còn dấu vết của chính nó. Trong cái sát
na đó, giấy và người, người và giấy hóa thành mênh mông trong tiết tháng ba, nghĩ về kiếm sĩ mà lòng
cảm thương, thương cho kiếp sống vô thường, một đêm giao hợp với phường dế giun, máu xương tinh
thể muôn trùng, vác gươm chép Phật mịt mùng bủa vây, mang hình với bóng phân thây, lựa hình bỏ
bóng cho đầy nhục thân, đem hình bỏ dưới đáy quần, của nường vừa mới vào tuần hành kinh, tụng
thầm Bát nhã tâm kinh, có không không có bóng hình hư vô…